Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday, 17 November 2016

TRUYỆN TÙ & VƯỢT BIÊN * SAIGON *

Tuesday, November 15, 2016


ĐÀO HIẾU * VƯỢT BIÊN

VƯỢT BIỂN – truyện dài

VUOT BIEN 

1.

Chủ nhà hé mở cánh cổng sắt. Khách là một người đàn ông cao lớn, trầm lặng, khắc khổ.
-Tôi đi học tập cải tạo mới về và đây là nhà của tôi. Ông có thể cho tôi vào được không?
Khách bước vô, đứng trong sân.
-Hình như ở đây có nhiều người ở?
-Năm hộ. Có phải ông là ông Trường Thịnh không?
-Phải.
-Chắc ông đã biết chuyện không hay xảy ra cho bà nhà và mấy cháu?
-Tôi đã biết. Nhưng tôi không còn chỗ nào khác để trở về nên tôi phải về đây. 
-Tôi hiểu ông. Nhưng biết nói sao với ông bây giờ. Chúng tôi cũng chỉ là những viên chức nghèo được nhà nước cho đến đây ở. Hai chục con người của bốn gia đình. Biết giải quyết thế nào? Sao ông không đến gặp phường xem họ giải quyết ra sao?
Khách cầm lấy cái mũ mềm, sửa lại quai dép râu, phủi con kiến vàng đang chạy trên bàn chân. Trong lúc chờ đợi chủ nhà mở cổng, ông quay lại, ngước nhìn lên lầu một lần nữa, muốn hình dung lại khuôn mặt mấy đứa con vẫn thường hay đùa giỡn nơi cái ban công rộng, nhưng ông chạm phải cả chục cái mặt người xa lạ với rất nhiều cặp mắt đang chòng chọc nhìn ngắm ông đầy vẻ nghi ngờ.
*
Khách bước vô cửa, không chào, không nói, thong thả kéo cái ghế và ngồi xuống trước mặt chủ nhà.
-Tôi từ cõi chết trở về đây. Khách nói.
Lúc ấy chủ, khách mới nhận ra nhau.
Họ ôm lấy nhau.
-Hồi tối này tôi ngủ đằng phường. Nhà tôi người khác ở rồi.
-Tôi biết. Chính tôi đã viết thư cho anh mà. Anh có nhận được cái thư ấy không?
-Có. Cám ơn anh chị rất nhiều mặc dầu cái thư ấy làm tôi đau khổ vô cùng. Bây giờ thì tôi thực sự mất hết. Vợ con, nhà cửa, của cải. Không còn gì cả.
-Nhưng đáng lẽ chính quyền phải trả lại nhà cho anh chớ?
-Ở phường họ nói sẽ thu xếp cho tôi một chỗ ở khác.
Khách lại hỏi:
-Lúc xảy ra án mạng anh có đến nhà tôi không?
-Sáng hôm đó đọc xong bản tin trên tờ báo hàng ngày tôi rụng rời, lấy xe đến ngay nhà anh. Tuy án mạng xảy ra ngày hôm trước nhưng đến giờ ấy công chúng vẫn còn bu quanh, trẻ con đu lên bờ tường dòm vô trong nhà. Tôi cố len vào trong sân nhưng công an đã ngăn lại.
-Dường như người ta đã bắt được thủ phạm rất sớm?
-Chỉ một tuần lễ. Ba tháng sau đem xử bắn ở Thủ Ðức.
Khách hớp một ngụm trà, mắt mở nhưng không nhìn vào cái gì rõ rệt. Chủ nhà bảo vợ đi mua mấy chai bia.
-Ðộ rày anh làm ăn ra sao? Khách hỏi.
-Tôi có cái rẫy ở Gia Kiệm. Nghề bán thuốc Tây bỏ rồi.
Người đàn bà đem bia về. Chủ nhà nói:
-Dẫu sao anh đã về đây là mừng lắm rồi. Uống cạn ly này để mừng anh em mình gặp lại nhau.
Họ nâng ly và uống cạn. Chủ nhà lại hỏi:
-Bây giờ anh tính sao?
-Tôi cũng chưa biết tính sao. Trước hết là đi thăm tất cả bạn bè rồi sau mới tính. Nhà máy cưa của Ðại Hưng thế nào rồi?
-Công tư hợp doanh. Nhưng tay đó lanh. Sống được.
-Còn Ðạt Tín?
Chủ nhà ngẫm nghĩ:
-A, tay đại tá về hưu chớ gì?
-Ừ. Thằng chả là pilote.
-Ði rồi.
Khách với lấy cái túi vải, lục tìm trong các thứ đồ vật lỉnh kỉnh của mình một lúc rồi lôi ra cái tẩu bằng gốc tre lên nước láng bóng. Ông nhồi thuốc rê vào đó và châm lửa.
Ông lật ngửa hai bàn tay to lớn và chai cứng của mình để trên mặt bàn. Chủ nhà nhìn hai bàn tay ấy rồi nhìn lên tóc bạn. Mái tóc đã bạc quá nửa nhưng được cắt gọn ghẽ, chải ngược ra sau.
Chủ nhà nói:
-Trông anh già quá. Anh Thịnh à.
Khách chỉ cười:
-Thôi uống cạn đi, rồi ta đi thăm mấy người bạn nữa. Hồi sáng sớm ngồi uống cà phê góc đường gặp Huỳnh Dũng. Nó mừng quá trời. Nhớ Huỳnh Dũng không, cầu thủ bóng đá.
-Nhớ.
-Ðang quậy cà phê bổng nghe gọi: “Tam Lang 2”. Ðúng biệt hiệu của mình, quay lại thấy nó. Vẫn trẻ măng. Nó ôm hun, rờ rẫm mình mẩy. Cuối cùng nó nói có chuyện phải đi gấp, nó hẹn chiều nay lại nhà chơi, nó sẽ tập họp cả lô bạn cũ.
Chủ nhà đi thay quần áo, dẫn chiếc Cub 70 ra cửa.
-Còn sớm mà. Ðể tôi đưa anh đi vòng vòng coi phố xá. Anh về đây có tụi tui, đừng lo.
Ông Thịnh im lặng. Ông không lo, vì đối với một người đã từng ném tiền qua cửa sổ như ông thì vấn đề đời sống chẳng có gì phải bận tâm. Nhưng ông buồn.
Bạn bè ông vẫn còn nhiều người rất giàu. Họ đón ông bằng những tiếng sâm banh nổ lốp bốp. Ông thì nhếch nhác như một người thợ rừng. Quần áo bằng vải thô bạc màu, chân đi dép râu, da sạm nắng. Giữa cuộc vui với bạn bè thỉnh thoảng ông chựng lại, nỗi chua xót quặn thắt trong tim ông và cái cảm giác cô đơn lại tách ông ra khỏi những tiếng cười nói, những lời chúc tụng.
-Này Tam Lang 2, vẫn chưa quên nghề cầu thủ chớ?
-Quên sao được. Ở trong trại đôi khi cũng có đá bóng. Và tôi đã làm người ta ngạc nhiên lắm.
-Hôm nào anh em mình phải đụng thử một trận để nhớ lại thời vàng son.
-Sẵn sàng. Ông nói và nở một nụ cười nhưng lòng ông nguội lạnh. Có một ngọn lửa nào đó đã tắt ngấm, đã hoang tàn trong tâm hồn ông như đám tro than lạnh tanh giữa hoàng hôn. Ông vẫn không thoát ra khỏi sự ảm đạm, dù rượu cứ nốc liên tục, dù quanh ông hiện giờ có bạn bè đông đủ.
Lúc ở trong trại, công việc và những gian khổ đã làm ông quên đi thảm kịch của mình nhưng bây giờ trở lại thành phố thì sự ám ảnh về cái chết của những đứa con cứ đeo đẳng ông không rời. Ông ngủ chập chờn mà thức cũng chập chờn, lúc ăn lúc nói chuyện, lúc đi ngoài phố cứ lơ lửng, ngơ ngác.
Nhà của người bạn khá rộng, có cái sân sau lát gạch bát tràng chưng đầy cây kiểng và đặt ghế đá rải rác. Ông Thịnh và Huỳnh Dũng ngồi dưới gốc cây hoàng lan.
-Sao tôi vẫn cứ nghi ngờ về cái chết của nhà tôi và mấy đứa con. Họ giết những người ấy để làm gì. Một thằng du đãng giết người để cướp của hay nó có thù oán gì với tôi? Nó là ai vậy? Nó là ai mà gây đau khổ cho cuộc đời tôi đến như thế này?
-Hãy quên những chuyện đó đi. Có như thế mới sống nổi, mới có thể làm lại cuộc đời. Anh mới năm mươi tư, đã già gì đâu.
-Hiện giờ thì tôi chưa có ý định ấy. Tôi không ngờ trở về đây lại buồn như thế này.
Một người bạn khác cầm lon bia từ xa đi lại. Ông ta thảy bao thuốc lên cái bàn đá trước mặt Huỳnh Dũng và ngồi xuống cạnh ông Thịnh, quàng tay qua vai ông.
-Cậu về lúc nào? Ông Thịnh hỏi.
-Trước anh một năm.
-Có đau yếu gì không?
-Hồi ở trong trại cũng có một lần bệnh rất nặng. Mùa đông ở ngoài Bắc thì anh biết rồi. Trời thì rét mà người thì cứ hâm hấp sốt. Ra tới rẫy thì quỵ liền. Cán bộ quản giáo là một anh trung sĩ trẻ, chạy đến xốc tôi dậy, anh ta kêu “Trời ơi, nóng như lửa”. Rồi hỏi: “Ôm cổ nổi không?” Anh ta cõng tôi đi. Dọc đường lại hỏi: “Hồi trước anh làm gì?“. “Giặc lái”. Anh bộ đội nói: “Hồi đó tôi ở Trường Sơn, chắc thế nào cũng đã bị anh bỏ bom”. “Ðâu có”. Tôi nói: “Tôi chỉ bò bom dưới đồng bằng”.Tayđó còn trẻ mà cư xử thiệt có tình.
-Bây giờ cậu làm gì?
-Bán thuốc Tây. Anh cũng phải tính làm cái gì chớ?
-Bây giờ thì chưa tính. Tôi mất hết rồi, không thiết làm cái gì nữa.
Cái tẩu thuốc của ông đã tắt nhưng ông cứ bập hoài. Ðèn trong sân bật sáng. Ðêm cũng đến thật bất ngờ.

2.

Mỗi người bạn tiếp đãi ông một ngày, sau đó họ trở về với những công việc bận rộn của mình, ông Thịnh cũng trở về với sự cô độc của mình.
Người ta đã thu xếp cho ông một căn phòng nhỏ ngay trong ngôi nhà cũ của ông, chung đụng với những hộ tập thể khác. Nhưng khi trở về đó, ngồi một mình giữa bốn bức tường lạnh lẽo, ông mới biết rằng mình không thể nào chịu đựng nổi cái gánh nặng của hoàn cảnh. Góc cầu thang, bể cá, cây mận trong sân… chỗ nào cũng gợi nhớ, cũng nhắc nhở những kỷ niệm, cũng hình dung ra những khuôn mặt yêu dấu, dáng dấp thân thuộc.
Sau đó là hình ảnh cái chết ghê rợn.
Cuối cùng ông quyết định đi thăm một người em họ hiện đang làm rẫy ở Long Khánh.
-Tôi ở đây với chú có được không? Ông Thịnh nói.
-Vậy thì hay quá. Người em nói. Chỉ sợ anh đã có những dự định to tát ở thành phố, anh không chịu sống ở cái xó xỉnh này.
-Bây giờ khác rồi chú ơi. Tôi đi học tập năm năm trời. Làm ruộng làm rẫy đối với tôi có xa lạ gì. Chú coi hai bàn tay tôi đây này. Tôi có còn là ông chủ đồn điền nổi tiếng hào phóng của đất Sài Gòn trước đây nữa đâu.
Người em cho thêm củi khô vào bếp lửa.
Bếp lửa cháy dưới gốc mít, ngọn lửa vàng rực, mạnh mẽ và nồng ấm. Người em nói:
-Em trồng được hai mẫu quít, còn một mẫu đất chưa đụng đến. Anh em mình hiệp lực lại mà làm.
Hai người thả bộ theo con đường mòn nhỏ có trồng đu đủ hai bên. Những cây đu đủ thấp lè tè, trái từng chùm tròn trịa, ngộ nghĩnh.
-Ðất ở đây trồng đu đủ tốt quá. Ông Thịnh nói và rờ rẫm những trái đu đủ.
-Ðất ở đây trồng gì cũng tốt trừ rau muống. Em trồng hoài không được. Tưới cách mấy cũng không lên, cứ còi còi, lá thì quắn lại. Hình như vùng nào đất có lẫn đá ong thì không trồng rau muống được.
Hai người băng qua vườn mít và trở về cái chòi nhỏ. Chim sẻ đậu đầy trên nhánh cây lựu thưa lá, bay vụt lên. Ông Thịnh đứng nhìn đàn gà con chạy loanh qoanh bên những gốc ớt trồng trong sân. Người chủ vườn đem ra một rổ quít. Hai người ngồi trên cái giường tre đặt dưới gốc khế.
-Chú có đọc kỹ những bài báo nói về vụ án không?
Chủ vườn đáp:
-Ở đây không có báo nên em không đọc được. Mấy tháng sau, khi người ta đem bắn kẻ sát nhân thì em mới tình cờ đọc được một mẩu tin về vụ hành quyết đó trong dịp về Nha Trang.
-Thủ phạm là một tên ghiền xì ke phải không?
-Người ta nói vậy.
-Nó tên là gì?
-Phạm Văn Ðặng.
Ông Thịnh giật mình. Người chủ vườn đang bóc vỏ trái quít phải dừng tay.
-Anh biết tên đó à?
-Ðể tôi nhớ coi. Ông Thịnh nói và nhíu mày. Phạm Văn Ðặng. Nghe rất quen. Nhất định là tôi đã từng nghe ai nói về nó và hình như tôi đã gặp nó trong một dịp nào đó.
-Anh xem trong cái đám công nhân xẻ gỗ của anh ngày trước có ai mang tên đó không?
-Không.
-Hay trong đám thuộc hạ của Ðỗ Thuận, quận trưởng quận Năm?
-Chắc là không. Vì tôi với nó có thù hằn gì đâu. Hồi nó về làm quận trưởng quận Năm tôi đã cho nó một chiếc Mecedes hai mươi tám triệu. Nó rất biết ơn tôi. Giao du rất thân mật.
-Nhưng rất có thể có một tay thuộc hạ nào đó thấy anh quá giàu nên thừa lúc anh đi cải tạo nó đã lẻn đến.
-Không đúng. Ông Thịnh nói và vụt đứng dậy.
Ông đi quanh quanh các gốc cây mít trong vườn. Nồi bắp nấu đã sôi sùng sục. Ông khều trong đám than hồng lấy ra một hòn than cháy đỏ, đốt thuốc rê nhồi trong cái tẩu bằng rễ tre. Ngọn lửa cháy trong buổi sáng âm u nên rực rỡ và mạnh mẽ. Phạm Văn Ðặng. Một tên ghiền xì ke. Thôi, chết rồi, đúng là nó rồi!
Ông bước nhanh tới chỗ người chủ vườn, dưới gốc khế.
-Tôi phải đi Sài Gòn.
-Anh tìm ra rồi à?
-Ðúng là nó.
-Nhưng có gì mà gấp gáp như vậy. Bề nào thì nó cũng đã chết rồi.
-Nhưng những người liên quan tới nó thì chưa chết. Tôi phải đem cái chết đến cho chúng.
Rồi ông xăm xăm băng qua vườn quít quên cả việc vào trong lều lấy cái mũ mềm.

3.

Xế chiều, ông Thịnh lẩn quẩn trong một xóm lao động ở Thị Nghè. Ban đầu ông đi vòng vòng xóm nhà lụp xụp sát bờ sông, rồi chọn một quán cóc ngồi uống cà phê và chờ.
Khu xóm tối tăm chật hẹp và khá vắng vẻ. Gió ở ngoài sông có lẫn mùi sình. Ngồi ở góc này ông chợt nhận ra một mảng trời ở trên đầu và rất ngạc nhiên khi biết trời có trăng. Ánh sáng của nó tỏa ra, phủ lên những đám mây mỏng, lấp lánh như bụi trên lá cây, trên những mái tôn lụp xụp, so le.
Gần mười giờ, người đàn bà mà ông đang đợi xuất hiện trong cái ngõ hẻm mờ mịt ấy. Bóng đen lướt qua chỗ ông đang ngồi và biến mất trong căn nhà nhỏ lụp xụp phía bên kia đường.
Ðêm sau ông Thịnh đến quán cà phê sớm hơn.
Chỉ một lúc sau, từ căn nhà nhỏ, một người đàn ông bước ra xăm xăm đi về hướng bờ sông rồi biến mất trong bóng tối. Ông Thịnh bước nhanh tới căn nhà ấy. Ông gõ cửa và đợi. Khi cánh cửa hé ra, ông đẩy mạnh và lọt vào trong.
-Ông là ai? Người đàn bà hỏi.
-Ngọc Thúy, cô không nhận ra tôi à?
Người đàn bà có gương mặt đầy sẹo ấy hoảng hốt ngã vào bức vách phía sau. Ông Thịnh chạy đến đỡ bà, bà ôm chầm lấy ông và dụi mặt vào ngực ông, khóc nức nở.
Ông Thịnh dìu bà lại ghế ngồi rồi nhìn thẳng vào bộ mặt bị tàn phá ghê rợn của bà ta, ông nói:
-Tôi đến đây để hỏi tội cô.
-Tại sao vậy?
Ông Thịnh gạt phăng cái bàn đèn và những lọ thuốc phiện xuống nền nhà:
-Tại vì cô đã giết vợ và bốn đứa con tôi.
-Không. Ông điên rồi. Người đàn bà cài cúc áo một cách khó khăn. Tôi không giết ai cả. Thủ phạm đã bị bắt và bị xử bắn rồi.
-Nhưng nó là thằng Ðặng. Ông Thịnh chộp lấy cổ tay người đàn bà. Nó là thằng Ðặng. Thằng xì ke là em ruột của cô. Cái thằng bị đem xử bắn ấy là em ruột cô mà.
-Không.
-Không à? Nó đã từng lấy chiếcToyotacủa tôi đem bán lấy tiền chích ma túy rồi về báo là bị mất. Nó thì cần tiền còn cô thì cô cần trả thù vợ tôi. Không à?
-Không!
Ông Thịnh vung tay tát thật mạnh vào bộ mặt lồi lõm ấy. Bà Thúy la lên:
-Không! Không!
Rồi khóc. Có tiếng đạp mạnh vào cánh cửa. Gã đàn ông cao lớn xuất hiện.
-Ê! Thằng già kia!
Chưa dứt lời, cú đá của hắn bật vào sườn ông. Trận đòn tiếp theo như mưa như gió, ông chỉ lo đỡ mà không đánh trả. Chừng năm phút sau gã xách cổ ông tống ra đường.
Những ngày sau đó ông Thịnh cứ bị dằn vặt, tự trách mình đã hành động thiếu thận trọng, tính toán vội vàng và không lường trước được những tình huống bất ngờ. Ông đi đi lại lại trong căn phòng chật hẹp của mình như con cọp bị nhốt trong sở thú. Sáng sớm ông đã thức dậy nấu nước pha trà, ngồi uống một mình ngoài ban công. Buồi áng mát dịu, yên tĩnh. Ðã lâu lắm lòng ông mới lại có một chút thanh thản như thế này. Ông nhìn lá mận xanh, quan sát những con kiến vàng chạy lăng xăng trên những nhánh nhỏ, chúng gặp gỡ, trò chuyện cùng nhau rồi lại chạy lăng xăng. Thỉnh thoảng ngững trái mận rụng xuống và đứa bé gái nhỏ chờ sẵn bên dưới chạy tới nhặt, sung sướng, hớn hở. Và ông ngồi cô đơn bên chiếc ấm sành sứt quai, nhâm nhi chén trà đắng, hút thuốc rê trong cái điếu bằng rễ tre già. Những trái mận chín lại rụng lộp độp xuống sân, đứa bé gái lại chạy đến. Ông thấy mình đang ngồi trong một toa tàu chạy qua những cánh rừng, những đồng cỏ, những nương rẫy, những thành phố và những bờ biển xa lạ. Tất cả hiện ra bên ngoài khung cửa toa tàu, hiện ra rồi mất đi, chạy lùi về phía sau, nhỏ dần rồi biệt tăm. Rồi những cây cầu sắt, những người đi đường xa lạ, những đứa trẻ ăn mày, những con chó và những bé gái…. cứ trôi đi, trôi đi bên ngoài toa tàu ấy. Mọi người, mọi thứ giã từ ông mà đi, còn ông thì cứ ngồi lại bên khung cửa nhỏ ấy, hiu quạnh, tan nát. Cho đến một lúc nào đó cả con tàu cũng bỏ đi và ông sẽ ngồi lại với ai trên sân ga?
Có tiếng gõ cửa. Gõ ba tiếng rồi im. Ông quay người lại. Thêm bốn tiếng gõ nữa, rụt rè hơn. Ông đứng dậy, bước lại mở cánh cửa. Bà Ngọc Thúy đứng sững trước mặt ông, mặt toàn đồ đen, tóc xõa che gần kín khuôn mặt.
Người đàn bà lặng lẽ bước vào phòng và ngồi xuống chiếc ghế gỗ thấp. Ông Thịnh đứng tựa lưng vào vách, nói:
-Tôi tưởng cô đã bỏ đi biệt tích rồi chớ.
-Ban đầu em cũng có ý định đó vì em sợ bị trả thù. Nhưng bây giờ thì không sợ nữa. Em muốn anh giết em đi cho rồi.
-Tôi không giết cô nhưng tôi sẽ đưa cô ra tòa và cô sẽ phải thú nhận.
-Em đến đây tức là đã thú nhận. Chính em đã xúi thằng Ðặng giết bà ta.
-Nhưng những đứa nhỏ thì có tội gì? Chúng có biết cô là ai đâu, tại sao cô bảo thằng Ðặng giết chúng?
Ông sấn tới một bước tóm lấy vai áo người đàn bà và lôi bà dậy. Ông nhìn trừng trừng vào gương mặt méo mó kia và hét lên:
-Cô là một con phù thủy độc ác. Những đứa con nhỏ dại của tôi chúng đẹp đẽ dễ thương biết chừng nào. Trong những năm đi cải tạo không lúc nào tôi không nghĩ đến con tôi, không mơ đến ngày gặp lại chúng. Cô có biết là tôi nhớ thương chúng đến thế nào không? Cô có biết là tôi đau đớn nhường nào khi hay tin lũ con tôi bị giết không? Sao cô độc ác thế? Cô chết đi một trăm lần cũng không đáng tội.
-Nhưng tôi không có ý định giêt vợ con anh. Tôi chỉ bảo thằng Ðặng đến rạch mặt bà ta để trả thù. Lúc ấy bà ta đang chơi với bốn đứa nhỏ trên lầu. Thằng Ðặng leo tường vào nhà dùng dao uy hiếp buộc bà ta phải đưa vàng cho nó nhưng bà ta không đưa, nó đâm con dao vào lưng rồi dùng dao rạch mặt bà ta. Lũ nhỏ xúm lại gỡ cho mẹ nó và bị đâm chết luôn. Ðó là những điều tôi đọc trên báo. Tôi không hề chủ mưu vụ tàn sát như thế, nhưng dù sao thì lũ con anh cũng đã chết. Xin anh cứ giết tôi đi! Hãy bóp cổ cho tôi chết đi!
Người đàn bà nói và quỳ mọp xuống.
Nhưng ông Thịnh không bóp cổ, ông đẩy mạnh người đàn bà té xuống sàn nhà. Nổi khổ làm tim ông thắt lại. Bà Thúy bật khóc. Những giọt nước mắt vừa ứa ra đã nhòe đi, tan biến vào những đường rãnh lồi lõm trên gương mặt, làm cho nó đẫm ướt, thảm hại. Lát sau bà ngẩng lên nhìn ông rồi bò lại chỗ ông đứng. Bà ôm lấy chân ông, mặt ngửa lên nhìn ông:
-Anh Thịnh! Bà lay gọi ông. Anh hãy nhìn vào khuôn mặt em đi. Có phải nó giống như một con quỷ không? Tại sao em lại phải chịu tai họa khủng khiếp này? Anh có còn nhớ ngày ấy em là một cô gái xinh đẹp như thế nào không. Cái mắt, cái mũi, cái miệng, hàm răng, cái vầng trán êm đềm mà anh thường hôn lên đó. Anh còn nhớ không? Bây giờ chúng biến đâu cả rồi? Chính bà vợ độc ác của anh đã thuê người rạch nát chúng bằng một con dao cau. Em đau đớn ngất lịm đi mà nó vẫn tiếp tục rạch. Nó cắt mũi em, xẻo môi em, băm vằm hủy diệt một cách man rợ sắc đẹp của em. Mối thù ấy sâu nặng lắm anh ạ. Mối thù ấy lớn như núi, thăm thẳm như biển, rừng rực như cháy rừng. Em không chỉ thù con phù thủy ấy mà thù cả anh, cả những ai có liên quan tới người đàn bà độc ác ấy.
-Thôi im đi! Ông Thịnh vùng ra khỏi người đàn bà rồi ngồi xuống chiếc ghế thấp, ôm mặt.
Bà Thúy vẫn trong thế quỳ gối hai tay đưa lên trời khóc rưng rức.
-Im đi! Ông Thịnh hét lên. Ðừng nói nữa. Trời ơi là lòng ghen tuông của đàn bà!
-Ðó là lòng ghen tuông. Thúy nói. Ðó là sự độc ác. Là con rắn độc. Nhưng tôi có tội tình gì? Anh hãy nhớ lại coi, tôi có quyến rũ anh không hay anh dùng đồng tiền mua tôi cũng như anh đã từng mua hàng chục cô gái khác thời ấy. Anh đã từng nổi tiếng vì cái tủ sắt có một không hai trên thế giới này. Trong đó không đựng vàng bạc hột xoàn mà đựng cả trăm mảnh vải trắng có thấm máu của những cô gái đồng trinh mà anh đã mua qua một đêm rồi bỏ. Ðó là cái nhà băng quái đản của ông vua Nguyễn Trường Thịnh. Vậy thì anh có sá gì cái thân tôi. Tôi cũng chỉ là một kẻ qua đường đối với anh, còn tệ hại hơn nữa là khác vì tôi không còn máu để anh thấm vào chiếc khăn trắng cất trong tủ sắt cùng với dòng chữ thêu tên họ năm sinh, quê quán và ghi cả cái đêm anh phá hoại cuộc đời trinh nữ của họ nữa. Anh nhớ lại đi. Sau khi tôi bị vợ anh rạch mặt, anh đã bỏ không ngó ngàng gì đến tôi. Anh cũng không dám đến bệnh viện thăm tôi lấy một lần. Anh trốn biệt tích. Anh là kẻ bạc bẽo, tàn nhẫn và khốn nạn.
-Không. Thúy ơi! Lúc ấy anh yêu em vô cùng. Em không bao giờ là người qua đường đối với anh. Anh đã mua cho em nhà cửa, xe du lịch và sống với em như vợ chồng. Nào anh có coi em như kẻ qua đường.
-Ðó là khi tôi còn nhan sắc. Là khi thân hình tôi còn nảy lửa, còn làm chết mê chết mệt bọn tướng tá hàng đêm đến với vũ trường. Khi những thứ ấy mất đi thì anh còn gì tình nghĩa với tôi.
-Không phải vậy. Em chưa biết anh đâu. Lúc ấy tiếng tăm của anh, địa vị của anh lừng lẫy tới mức nào. Anh có những cái kẹt của anh.
-Thôi đứng nói nữa. Người đàn bà lau khô nước mắt và ngồi xuống chiếc ghế nhỏ đối diện với ông Thịnh. Hôm nay tôi đến đây để nói với anh rằng chính tôi là kẻ chủ mưu vụ án mạng ấy. Và tôi cũng chẳng thiết sống nữa. Anh đi tố cáo tôi đi.
Ông Thịnh cũng đã lấy lại được bình tĩnh. Hai người ngồi im như thế rất lâu nhưng không khí không còn căng thẳng nữa. Sự thù hận đã bộc phát tơi đỉnh cao của nó và đang lắng xuống.
Khung cửa toa tàu lại hiện ra. Phía ngoài khung cửa là cánh đồng cỏ trơ trụi những thân cây khẳng khiu cháy đen gãy đổ. Những con người xa lạ đứng ngơ ngác trên cánh đồng khô cháy ấy cứ trôi đi rất nhanh qua khỏi cửa sổ toa tàu, lùi dần lùi dần cho đến khi chỉ còn là một chấm nhỏ mờ nhạt phía chân trời. Trên toa tàu rỗng không và nghèo nàn này bây giờ lại có thêm một người đàn bà. Ðó là Ngọc Thúy. Họ cùng nhìn qua khung cửa. Dường như quá khứ vẫn còn lẩn quất đâu đó trong cánh đồng cháy.

4.

Chiếc máy bay DC2 lượn một vòng trên những khu rừng cao su bạt ngàn rồi từ từ đáp xuống bãi cỏ xanh trước ngôi nhà sàn bằng gỗ.
Ðang mùa Xuân, rừng cao su xanh ngắt một màu lá mới, những thân cây thẳng tắp chạy dài sâu hun hút đàng xa như những hàng quân đang đứng nghiêm bồng súng chào. Ông Thịnh đi dọc theo khuôn viên nhà, miệng ngậm pipe, nhả khói một cách lơ đãng.
Viên phi công trẻ cũng bước ra khỏi máy bay, bảo những người xung quanh:
-Khiêng luôn cái bàn mổ xuống.
Buồi sáng nắng nhạt và gió hiu hiu lạnh. Ông Thịnh bước lên cầu thang của ngôi nhà sàn, chống hai tay lên lan can nhìn xuống sân cỏ. Những người làm công của ông đã đem hết đồ đạc vào trong nhà. Ông cũng bước vào phòng khách và ngồi tựa lưng thoải mái trên chiếc ghế bành to lớn. Người phục vụ đem cà phê đến cho ông. Lát sau viên phi công bước lên thang gác, ngồi vào chiếc ghế mây đối diện.
-Bảo chúng nó nhẹ tay.
-Dạ. Viên phi công đáp. Tôi đã kiểm tra các dụng cụ y khoa. Tất cả đều nguyên vẹn.
Ông Thịnh mở hộp xì gà.
-Cậu hút với tôi một điếu.
Họ hút thuốc một cách thảnh thơi và quan sát những bộ lông thú treo trên vách bên cạnh những chiếc ná, chiếc mác nhọn hoắc và những cái gùi đan lát công phu của người Ê-đê. Viên phi công nói:
-Hôm nào bác kiếm cái trực thăng lên trên này săn nai.
-Tôi cũng có ý đó nhưng khi nói chuyện với mấy cha nội ở đây thì mấy ổng không chịu.
-Săn dưới đất cũng không được sao bác?
-Không. Cấm luôn. Nhưng mà đi quanh quanh rừng cao su của mình săn mấy con mểnh, con chồn thì được.
Người phục vụ đem bánh bơ và một ít trái cây đến xếp ngay ngắn trên cái bàn mây rồi lui ra. Một lúc sau lại có người lên báo:
-Mấy ông chiến sĩ rừng xanh đến.
-Có Bảy Ðốc không?
-Dạ có.
-Mời họ lên.
Người phi công đứng dậy, đi vào trong. Tiếng chân bước lên cầu thang nghe dồn dập.
Ông Thịnh bắt tay những người khách của mình.
-Tôi mới lên tức thì.
-Thấy máy bay anh quầng trên đầu là biết rồi.
Ông Thịnh dẫn khách ra phía sau bức bình phong lớn ngăn đôi phòng khách và một phòng rộng khác.
Trừ cái bàn mổ, còn lại tất cả những dụng cụ y khoa được đóng gói cẩn thận. Khách có vẻ rất hài lòng về những thứ này. Họ xem xét tỉ mỉ các thứ, mở từng hộp dụng cụ ra ngắm nghía và khen ngợi. Xem chừng những người lính đội mũ tai bèo này cũng là những người trong nghề y.
-Các anh vừa ý không?
Bảy Ðốc vỗ lưng ông chủ đồn điền cao su:
-Anh cừ lắm, anh Thịnh ạ
Họ kéo nhau trở lại phòng khách. Cà phê nóng, bánh, trái cây và thuốc lá được đem thêm rất nhiều.
-Xin mời. Ông Thịnh nói. Các anh đi có năm người à?
-Một lát nữa quân của tôi sẽ đến thêm để đem các thứ đi.
Mọi người vừa nói chuyện vừa nhâm nhi các thứ một cách vui vẻ, tự nhiên và thân mật. Ðộ mườl lăm phút sau có tiếng động cơ xe jíp từ ngoài bìa rừng vọng lại và phút chốc đã thấy xe lao vào trong khuôn viên ngôi nhà thắng gấp lại. Người lái xe trẻ, mặc đồ jeans bám đầy bụi đỏ hấp tấp chạy lên cầu thang. Ông Thịnh ngửng lên nhìn người vừa đến cúi chào mình.
-Chuyện gì vậy?
-Thưa ông các lò than của mình ở ngã ba Cây Khế đang bị dân vệ bắn quá trời.
-Sao vậy?
-Dạ… Vì ở hai đầu khu vực làm than của mình bị các ông giải phóng đắp mô. Mấy tay dân vệ bắt công nhân tụi cháu ra phá mô. Tụi cháu không dám làm nên họ nổ súng.
Ông Thịnh dụi tắt điếu xì gà trong cái gạt tàn, nói:
-Anh xuống dưới nhà đợi tôi.
Người thanh niên đi. Ông Thịnh nhìn Bảy Ðốc:
-Anh giúp tôi vụ này được không?
-Ðược, Bảy Ðốc nói.
*
Cứu được những lò than, ông Thịnh rất hài lòng. Nhưng để kiểm tra cho chắc, ông ra lệnh cho viên phi công bay dọc theo khu vực lò than của mình để quan sát xem thực sự tình hình đã yên tĩnh chưa. Từ trên máy bay, ở độ cao năm trăm mét ông Thịnh rất hài lòng khi thấy các lò than hầm của mình gần như còn nguyên vẹn và đang tiếp tục âm ỉ thả những sợi khói nhỏ trắng đục vào khoảng không. Những lò than lum lum như mai rùa mọc chi chít giữa một vùng rừng chồi rậm năm hécta. Chỉ một vài lò bị trúng đạn cối 60 ly sập đổ và các công nhân làm than bu quanh đấy dọn dẹp mặt bằng chuẩn bị xây lại. Ông ra lệnh cho viên phi công bốc lên cao, điều chỉnh đường bay về Sài Gòn.
*
-Ở nhà có ai đến tìm anh không?
-Có. Mới hồi sáng này.
-Ai vậy?
-Ðại tá Ðỗ Thuận.
-Hắn đến có việc gì vậy?
-Em có hỏi nhưng ông ta cứ ỡm ờ, sau đó mới nói rằng tướng Lê Kỳ mời anh tối nay đi dự một cuộc đấu giá gì đó. Ðấu giá cái gì vậy?
-Hắn không nói cho em biết à?
-Ông ta làm ra vẻ bí mật lắm. Nhưng em cũng không truy hắn làm gì vì em nghĩ thế nào anh cũng biết.
-Anh có biết gì đâu. Ðể lát nữa anh gọi điện hỏi hắn xem.
Ông Thịnh tắm rửa xong ra nằm nơi cái ghế xích đu ngoài vườn và uống bia. Hoàng hôn đến thật chậm trên những ngọn cây ngọc lan trong vườn. Ông nhìn mặt cỏ xanh sẫm màu, trải rộng ra như một tấm thảm len. Không biết Ðỗ Thuận nói tới vụ đấu giá nào? Ðấu giá cái gì mà có cả tướng Lê Kỳ tham dự?
Ông gọi điện thoại thẳng cho tướng Lê Kỳ:
-A lô! Có gì vui vậy anh?
-Tất nhiên là rất vui. Anh về bao giờ vậy? À này, bảo kiếm cho tôi một khẩu K54 đã có chưa?
-Lính của anh có nhiều đứa nó có đấy. sao anh không bảo nó kiếm cho.
-Nhưng tôi lại thích có một khẩu do chính tay anh tặng.
-Thôi được, để tôi kiếm cho. Bây giờ anh nói về vụ đấu giá quỷ quái gì đó đi.
-Tối nay cứ lại đằng Maxim sẽ biết.
Ông Thịnh cười ha hả:
-Thế thì biết rồi. Ðược, hay đấy. Tôi sẽ tới.
Buồi tối ông Thịnh nói với vợ là đi tới nhà Ðỗ Thuận để hỏi về vụ đấu giá rồi một mình lái xe đến thẳng nhà hàng Maxim. Lúc đó khoảng hơn tám giờ. Ðỗ Thuận đã đến từ trước và đang nói chuyện với đám thương gia Hoa kiều cùng ba bốn ông quận láng giềng. Nửa giờ sau tướng Lê Kỳ đến. Bàn tiệc sôi động lên. Chẳng ai thèm nói đến vụ đấu giá mà lại bàn tán về cái chết của một tay tư sản chuyên nhập cảng xe gắn máy.
Chín giờ, giờ vũ sexy mở màn. Ðây là lúc người ta tập trung vào sân khấu nhiều nhất. Nhưng cả tướng Lê Kỳ, Ðỗ Thuận và ông Thịnh đều chờ đợi một vũ nữ khác.
Cuối cùng Ngọc Thúy xuất hiện.
-Bắt đầu đấu giá. Tướng Lê Kỳ ra lệnh.
-Tôi năm chục ngàn. Ðỗ Thuận nói.
-Bảy chục. Một thương gia nâng lên.
-Một trăm ngàn.
-Trăm rưỡi ngàn.
Ông Thịnh liếc nhìn tướng Lê Kỳ rồi nói:
-Hai trăm ngàn.
Cả bàn tiệc ngồi im. Trên sân khấu vũ nữ Ngọc Thúy đã cởi chiếc soirée mỏng dính, ném xuống khán giả và trên người cô chỉ còn hai món đồ nghề nhỏ xíu che nửa kín nửa hở.
Ông Thịnh nói:
-Tôi đếm đến ba, nếu không ai lên tiếng thì tôi thắng. Nhưng ông vừa dứt lời thì tướng Kỳ giơ một ngón tay ra trước mặt mọi người và nói cộc lốc:
-Ba trăm ngàn.
Ngay lúc ấy chiếc coóc-xê từ trên sân khấu được ném xuống trúng ngay một lão đầu hói làm mọi người cười rộ lên. Ông Thịnh nhìn đăm đăm vào bộ ngực tròn trịa thon thả và trẻ trung của người vũ nữ lúc này chỉ đứng cách ông có ba bước.
-Năm trăm ngàn! Ông Thịnh nói.
Tướng Kỳ ngồi im. Cả bàn tiệc cũng ngồi im. Vật cuối cùng trên thân thể tuyệt vời của người vũ nữ đã rơi xuống. Nhưng ở ngay cái nơi sâu thẳm nhất của người kỹ nữ ấy vẫn còn một mảnh vải đen chỉ lớn bằng chiếc lá nho của bà Eva ngày xưa. Mọi người đã bỏ cuộc và ông Thịnh thong thả đứng lên. Trước hàng chục cặp mắt hiếu kỳ theo dõi, ông chậm rãi bước đến bên người vũ nữ, đưa tay gỡ nhẹ chiếc lá nho ấy cất vào túi áo giữa tiếng vỗ tay vang dậy.
Người ta chỉ kịp nhìn thấy cái tác phẩm nổi tiếng ấy có ba giây đống hồ ngắn ngủi. Sau đó đèn phụt tắt và vũ nữ Ngọc Thúy biến mất. Khi đèn sân khấu bật sáng trở lại thì trên sân khấu đã có sẵn một giàn nhạc. Tiếng kèn trompette vang lên khàn khàn trầm lắng. Dưới anh sáng mờ ảo ấy, ông Thịnh rút trong túi áo ra tập ngân phiếu do Pháp Á ngân hàng phát hành, ghi tên Ngọc Thúy vào đó với dòng chữ: năm trăm ngàn đồng. Xong ông ký tên và xé rời tờ ngân phiếu ra, ém dưới cái gạt tàn thuốc.
*
Lúc nửa đêm ông Thịnh tỉnh dậy và sung sướng thấy mình đang ôm Ngọc Thúy trong lòng. Ðến giờ ấy cô gái trẻ trung xinh đẹp kia vẫn chưa ngủ được. Cô trở mình vuốt nhẹ tóc ông và hỏi:
-Vì sao ông cho em nhiều tiền thế?
-Vì anh không cần tiền. Anh chỉ cần những cuộc vui.
-Chứ không phải vì ông thích em sao?
-Anh rất thích em. Em trẻ trung, mạnh mẽ và xinh đẹp.
-Em có làm ông hài lòng không?
-Ðó là câu anh định hỏi em.
-Vậy thì em nói: Em hài lòng lắm. Em thích ông vô cùng. Ông có biết điều đó không.
-Biết. Nhưng lúc đó anh tưởng em đóng kịch.
-Sao ông lại tưởng như thế. Ông rất tự tin mà.
-Sao em biết anh tự tin?
-Cái cách ông cư xử với em.
-Em cũng là một con người sâu sắc đấy. Ông nói và xoay người ôm Ngọc Thúy vào lòng, hôn nhẹ lên vầng trán êm ả của cô, những sợi tóc mềm vướng vào mặt ông. Ông ngạc nhiên về sự xúc động bất ngờ. Người con gái kêu lên những tiếng bối rối khiến ông có cảm giác như mình đang ôm ấp một cái gì đó rất nồng nàn, rất mới lạ, khác xa cái vẻ sỗ sàng khêu gợi mà chính người con gái này đã phô diễn trên sân khấu trước những cặp mắt háu đói, những giọng cười nham nhở. Người con gái này là ai vậy? Ông tự hỏi và gỡ tay Ngọc Thúy ra, ngồi dậy.
Cô vũ nữ trẻ nằm sấp, xoãi người trên nệm trắng tinh, mái tóc đen nhánh chảy qua một bên vai, đổ xuống nệm để ló một cái gáy trắng tuyệt vời. Chiếc gáy ấy làm sao xuyến lòng ông, khiến ông không thể cưỡng lại ý muốn dụi mặt mình vào đấy. Ngọc Thúy kéo tấm chăn mỏng che nửa người bên dưới của mình và cứ nằm im như thế cho ông hôn.
-Thôi, anh phải về. Ông Thịnh mặc quần áo rất nhanh. Em ngủ ngon nhá.
-Cám ơn ông. Vĩnh biệt.
-Sao lại vĩnh biệt?
-Vì ông sẽ quên em rất nhanh như ông đã quên hàng trăm cô gái khác.
Ông bước mấy bước ra đến cửa và trước khi mở, ông ngoảnh lại nói:
-Thúy ạ, em là một cô vũ nữ khác thường.

5.

Ông thịnh bước vào nhà hàng Maxim lúc hớn chín giờ đêm. Ông chọn một bàn kín đáo nhất và ngồi uống bia một mình nơi cái bàn nhỏ khuất sau chậu hoa. Khi sáng lúc ngồi điểm tâm ở nhà hàng Thanh Bạch tình cờ ông mua được một cuốn sách viết về Hitler, ông đã đọc dở độ mươi trang và bây giờ là lúc ông lấy ra đọc tiếp. Ông không muốn nhìn những gì sắp diễn ra trên sân khấu, cái sân khấu nhỏ, quá thấp khiến cho người ta có cảm tưởng là chỉ cần với tay là đụng vào các diễn viên vì thế lại càng làm tăng thêm cái vẻ sỗ sàng trong các động tác vũ sexy. Người con gái trong cái đêm nồng nàn ấy không phải là người con gái đang nhún nhảy kia, và ông đến đây đêm nay chỉ để tìm gặp người ấy mà thôi. Ông hơi xoay lưng lại phia sân khấu để cho trang sách được sáng hơn một chút.
Trong chiếc áo mưa nhàu nát, chiếc mũ nỉ đội sụp xuống mi mắt, Hitler bất thần bước sang những căn phòng đầy khói thuốc lá của nhà máy Burgebrau Keller, một nhà máy rượu bia nổi tiếng của Munich, để sang căn phòng đặc biệt mà mỗi chiều ông thường gặp gỡ các sĩ quan cao cấp. Với một động tác đột ngột, Hitler đẩy cánh cửa. Lập tức các sĩ quan đang ngồi uống bia vụt đứng dậy như một cái máy. Họ đưa tay lên và hô: Heil! Hitler! Hitler đáp lại: Salut, camarades!”
Sự hấp dẫn của cuốn sách khiến ông quên hẳn mình đang ngồi ở đâu. Cho đến khi đèn phụt tắt thì ông biết là cái trò hề ấy đã kết thúc và ông đứng dậy thảy mấy trăm bạc buộc boa cho bồi bàn rồi đi thẳng ra xe.
Hai mươi phút sau Ngọc Thúy đẩy cánh cửa kính lộng lẫy bước ra đường. Ông Thịnh trờ xe tới.
-Chào ông. Ngọc thúy nói. Em tưởng là ông đã quên em rồi.
-Em lên xe đi.
Và ông nghiêng người đẩy cánh cửa. Ðèn bật sáng, Ngọc Thúy bước lên xe, rực rỡ như một đóa hoa hồng mới nở.
-Ông ghé vào một quán cà phê nào đi. Em khát kắm.
Nhưng ông Thịnh đã mở một cánh cửa nhỏ trong xe lấy lon coca cola đưa cho Ngọc Thúy. Nước ngọt làm tê đầu lưỡi, đem lại cảm giác sảng khoái rất nhanh.
-Anh thích đưa em đi ra ngoại ô, cứ vừa đi vừa nói chuyện.
-Lúc nãy ông có vào nhà hàng không?
-Không.
-Em cũng không muốn ông xem em biểu diễn.
-Tại sao vậy?
Ngọc Thúy bật cười, ném lon Coca rổng không qua cửa xe, lăn trên mặt đường nhựa. Ông Thịnh cho xe tăng tốc khi qua cầu. Gió từ mặt sông thổi lên mát lạnh. Ngọc Thúy kéo cổ áo lên:
-Nhanh nữa đi. Cô nói. Hết ga đi!
-Nhiều người đã chở em chạy nhanh như thế à?
-Không. Nhưng gần ông em lại thích phóng thật nhanh. Em tin cậy ông.
-Tin về cái gì?
-Cứ tin như thế. Không biết về cái gì.
-Thế trong những ngày qua em có nhớ anh không.
-Chẳng nhớ. Ðàn ông họ bu theo em nhiều quá, em chẳng có thì giờ để nhớ.
-Thế trong lúc ngủ?
-Em ngủ mê mệt, thình thoảng còn chìm trong ác mộng.
-Em nằm mơ thấy gì?
-Chó sói. Em xin lỗi ông nhé. Em thấy em bị đàn chó sói rượt chạy trên đồng cỏ và ngã chúi xuống một bụi gai. Ðàn sói vây lấy em và tru. Chúng tru lên.
-Em nghe sói tru ở đâu?
-Trong phim Bác sĩ Zhivago. Ông có còn nhớ cái cảnh đó không? Ðêm giá lạnh. Ông bác sĩ ngồi viết. Bên ngoài khung cửa sổ phía sau lưng ông là khu rừng tuyết phủ trắng xóa. Ánh sáng ngời lên rờn rợn thấp thoáng bóng những con sói. Sao nhà văn lại viết giữa bầy sói thế nhỉ? Chúng tru lên như những hồn ma.
-Em làm anh ngạc nhiên vô cùng.
-Ngạc nhiên về cái gì?
-Về cách diễn đạt. Em nghỉ học năm nào?
-Năm mười bảy tuổi. Em học ở Ðà Lạt. Học rất tồi. Thi tú tài rớt hoài, em buồn theo bạn bè đi chơi lăng nhăng.
-Vì sao em lại theo cái nghề bạc bẽo này?
-Chuyện đó chẳng liên quan gì tới ông.
-Có chứ.
-Vì sao?
-Vì anh yêu em.
-Rất nhiều người đã nói với em như thế. Những người đàn ông thường nói với các cô gái như thế.
-Nhưng em là một người rất đặc biệt.
Ngọc Thúy im lặng quay nhìn ra cánh đồng tối đen bên ngoài. Xe lao vun vút tới. Xa lộ vắng vẻ và im lặng, gió cứ lồng lộng làm tóc cô gái bay lất phất, chạm cả vào mặt ông. Ông cho xe chạy chậm lại.
-Chậm nữa đi. Ngọc Thúy nói.
-Tại sao?
-Vì đàn sói đã đi rồi. Cả một bầy chúng cưỡng hiếp em trên đồi cỏ Ðà Lạt. Em đã bước vào cái nghề vũ nữ khốn nạn này như thế đó.
Chiếc Mercedes thắng lại đột ngột. Trong bóng mờ của trời đêm, hai ngừơi nhìn nhau trân trối. Bổng nhiên ông ôm lấy cô gái nhưng cô rướn người lên, tránh cái hôn của ông. Ông Thịnh bàng hoàng khi nhìn thấy giọt nước mắt long lanh như một giọt sương khuya. Ông ném mẫu thuốc lá ra ngoài đêm và nói:
-Em từ cõi nào lạc vào cuộc đời này vậy?
-Em vẫn ở trong cuộc đời đấy chứ, chỉ có ông là không biết, vì cả đời ông sống trong nhung lụa.
-Không phải thế. Em yêu dấu ạ. Anh đã nhìn thấy em đàng sau thân xác của người kỹ nữ. Em có vui lòng làm vợ anh không?
-Ông đã có gia đình rồi. Ông hỏi câu đó để làm gì?
-Anh sẽ mua cho em một ngôi biệt thự thật xa thành phố.
-Ông suy nghĩ như cậu thanh niên mới lớn.
-Như cái gì cũng được miễn là anh được gần em.
-Không. Thôi ông đưa em về đi. Khuya lắm rồi.
Ông vuốt tóc cô gái và cô cứ ngồi im như thế cho ông vuốt ve. Cuối cùng cô tát nhẹ vào má ông và gượng cười nói:
-Thôi về. Chúng ta còn gặp nhau mà.
-Em giữ lời hứa nhé.
Ông cho xe quay lại. Lần này thì ông chạy chậm, không biết buồn hay vui, lòng cứ nghi hoặc không biết có phải mình đang lừa dối cô gái này, hay đang yêu? Hay đang thương xót?
Ngọc Thúy có vẻ trầm lặng hơn. Cô hút thuốc là và thỉnh thoảng nhìn ra hai bên phố. Anh đèn đường lấp lóa trên gương mặt trẻ trung của cô, ở đó mơ hồ một cái vẻ gì cam chịu lẫn bất cần đời.
-Sắp đến chưa?
-Ông dừng lại trước nhà thờ. Em ở trong hẻm đối diện.
-Anh muốn vào thăm nhà em một lát.
-Thôi. Ông về đi. Xe có vào hẻm được đâu.
-Không sao. Anh đi bộ với em.
-Thôi, ông về đi.
-Anh có linh cảm sẽ không còn gặp lại em nữa. Hãy cho anh đưa em vào nhà.
Ông khóa cửa xe và bước theo cô gái. Căn nhà của Ngọc Thúy cũng không đến nổi tồi tàn.
-Em ở đây có một mình à?
-Gần như vậy.
Ông Thịnh đứng giữa căn phòng nhỏ dùng làm phòng khách gồm có một tủ chè, một bộ xa-lông cũ và một cái độc bình không có hoa.
-Xin lỗi, ông Thịnh nói, anh muốn xem em ăn ở như thế nào ở đây.
Ông Thịnh bước theo cô gái, qua một khoảng tối. Giữa nhà lỉnh kỉnh những gì giống như là đống quần áo cũ, dường như ông thoáng nghe có tiếng thở nhẹ.
-Nhà em có nuôi chó không?
-Không. Ngọc Thúy nói và gọi ông: “vào đây”. Ðây là buồng ngủ của em. Nhỏ như một cái ổ mèo.
-Em không nên tiếp tục ở như thế này nữa.
-Nhưng em lại thấy rất ấm cúng. Ông uống trà nhé?
-Thôi, để anh về. Chúc ngủ ngon.
Ông Thịnh tát nhẹ vào má cô gái rồi bước ra khỏi phòng. Ngọc Thuý dặn với theo:
-Khép dùm em cánh cổng.
Ông bước nhanh qua cái khoảng tối giữa nhà và ông rất ngạc nhiên khi thấy một thanh niên gầy gò, tóc dài phủ đến tận vai đang ngồi chồm hổm dưới đất, nhe hàm răng nám đen khói thuốc ra cười và bảo ông bằng cái giọng thân thiện quái gở:
-Chi đi, anh Hai!
Ông khựng lại, quan sát kẻ đang đứng trước mặt mình
-Cậu ở đâu vào đây?
-Ðây là nhà của chị Hai em. Người nào vô đây, khi ra về đều phải chi chút đỉnh.
Ông Thịnh móc túi lấy một xấp bạc một trăm dúi vào tay nó. Thằng người đưa cả hai tay nắm lấy bàn tay ông lắc lắc mấy cái, miệng nói: Cám ơn, cám ơn, rồi cười khịt khịt như con gà tây. Ông Thịnh rụt tay về, lách mình ra khỏi cửa và bước nhanh ra đường.
Nhà ông vẫn còn đèn sáng.
Ông cho xe vào ga-ra, dặn người gác gian khóa cổng rồi bước lên mấy bực cấp để vào nhà. Trước khi lên phòng, ông đưa tay ra dưới ánh đèn để xem giờ, bổng giật mình vì chiếc đồng hồ Longines một ngàn năm trăm đô-la ông mua trong chuyến đi Ý năm ngoái đã biến mất.

6.

-Em có cho cậu Ðặng biết nhà này không?
-Không. Ngọc Thúy nói. Nhưng em nghĩ trước sau gì nó cũng biết. Nó cứ đi lang thang khắp nơi, vậy mà nhà nào nó cũng tìm được.
Ông Thịnh làm thinh, nhìn quanh phòng khách, bật thử mấy công tắc điện rồi bước vào toa-let.
-Chổ thoát nước tốt không?
Ông hỏi và vặn nước trong lavabo. Thúy đến đứng ngay cửa nhà sau nhìn ra khoảng sân rộng có trồng hoa. Nắng sớm rải vàng trên lá cây và gần như bất động trong cái nhìn của người chủ mới ngôi nhà.
-Sao em có vẻ buồn vậy?
-Tự nhiên em sợ.
-Ðừng sợ. Ông xoay người cô gái, ôm cô vào lòng. Anh chịu trách nhiệm về mọi sự an toàn của em. Ngoài anh và em ra sẽ không một ai biết ngôi nhà này.
-Nhưng em không muốn sống mà phải trốn tránh như vậy.
-Có trốn ai đâu. Em cứ sống tự do theo ý thích của em. Chỉ có anh phải trốn thôi.
Ngọc Thúy vuốt ve ngực ông:
-Anh đừng đến đây bằng xe hơi nhé.
-Anh sẽ không đến đây bằng xe hơi nữa.
-Thôi anh đi làm đi.
-Em có cần gì nữa không?
-Không. Ngọc Thúy đáp, hơi do dự. Nhưng mà…. anh có thể mua cho em một cái máy may. Em vẫn thích có việc gì đó để làm.
-Anh thì lại thích những lúc rảnh rỗi nằm nghe nhạc. A, em dặn anh mua băng Thanh Tuyền phải không?
-Dạ.
Ông Thịnh mở cặp lấy cuộn băng cassette đưa cho Thúy. Rồi đi.
Ngọc Thúy lên lầu một mình nằm nghe Thanh Tuyền hát. Hồi còn học ở Ðà Lạt nhiều bạn bè của Thúy rất thích Thái Thanh hay Khánh Ly nhưng cô chỉ thích Thanh Tuyền vì giọng ca trong và ngây thơ. Ngọc Thúy nằm nghe chưa hết cuốn băng đã có tiếng đập cửa:
-Chị Hai ơi!
Rõ ràng tiếng thằng Ðặng kêu. Thúy làm thinh và tắt máy cassette. Nhưng vì thằng xì ke đã nghe tiếng nhạc nên cứ gọi:
-Mở cửa, chị Hai!
-Không có chị Hai nào ở đây cả. Thúy hét lên. Ði đi!
-Lẹ lên, mở lẹ lên! Mắc cầu quá đây nè.
-Kệ chó mày.
-Làm trước cửa nha.
-Làm đi.
-Nói giỡn chơi. Chị Hai mở cửa cho em vô. Ðói quá chị Hai. Mấy bữa nay đi phất phơ hổng có gì ăn.
-Kệ mày. Tao chịu hết nổi rồi.
-Em cũng đi hết nổi rồi.
-Kệ mày.
Im lặng. Thuý đứng đợi một lát vẫn không nghe động tĩnh, cô nhẹ nhàng xuống lầu và bước ra cửa trước nhìn qua khe hở. Thằng Ðặng chưa bỏ đi. Nó trải cái chiếu rách nằm còng queo trước cửa nhà, trên người chỉ độc một cái quần đùi, da vàng bủng, láng nhờn, mình mẩy tay chân ốm nhom như con cò ma. Thúy nhìn thằng em mà rụng rời. Cô lại ngồi ngay dưới chân cầu thang. Không nghĩ ra được cách gì hay, cô lấy chìa khóa mở cửa sắt.
-Vô đi. Thằng quỷ.
Ðặng lồm cồm ngồi dậy, ôm cái mền rách bước vô nhà.
-Mày đựng cái gì trong mền vậy.
-Có gì đâu.
-Không có sao tao thấy nó rục rịch.
Thúy sấn tới, vạch cái mền rách ra, chạm phải bộ lông mềm nhũn. Một con chó giống Nhựt, lông đen trắng, đuôi xù.
-Mày ăn cắp của ai đấy?
-Mua hai ngàn. Người ta trả năm ngàn em chưa bán. Ðể nuôi chơi.
-Mày nuôi hả.
-Ừ.
-Bộ mày sang lắm sao mà nuôi chó?
-Chị giàu mà. Chị phải nuôi con chó giữ nhà.
-Thôi, chó ăn trộm của người ta, một lát họ tới họ đòi lại bây giờ.
-Ðừng giỡn chị Hai. Em mua hai ngàn đó. Em mua giùm chị đó.
-Tao có nhờ mày mua giùm đâu.
-Em thấy rẻ, em bán cái quần jeans em mua.
-Thôi, cám ơn. Mày làm ơn thảy ra đường cho nó chạy về nhà nó đi, để trong nhà, người ta hô tao ăn cắp bây giờ.
-Bộ ngu sao thảy ra đường.
Ðặng ôm con chó đi thẳng ra nhà sau lục cơm ăn.
Tối đó Thúy rất trông ông Thịnh về nhưng ông lại không về. Cô ngủ trên lầu còn thằng Ðặng thì trải chiếu ngủ dưới gầm cầu thang. Nửa đêm con chó kêu quá trời cô phải xuống dỗ nó mới im được một lúc, đến khi cô bỏ lên lầu thì nó lại kêu nữa. Thúy xuống lầu định đem nó lên thì nghe thằng Ðặng rên hừ hừ. Thúy bật đèn lên nhìn vào gầm cầu thang. Thằng Ðặng trùm mền kín mít mà người nó cứ run bần bật. Thúy chạy đến lay nó, gạt cái mền rách ra một bên. Thằng Ðặng rúm người lại, nó hỏi:
-Có thuốc ngủ không?
-Không. Uống đường nha?
Nó gật lia lịa. Thúy đi pha một ly nước đường thật đậm và đem đến cho nó. Cô phải cố hết sức ghìm giữ đầu nó và giữ chặt cái ly nó mới uống được hết ly nước đường.
-Không có thuốc ngủ hả, chị Hai?
-Không.
-Chị xát dầu nóng dọc xương sống giùm em.
Nó nói xong nằm sấp xuống. Thúy xức dầu nóng cho nó, xát thật mạnh lên những đốt xương sống lởm chởm như những hòn sỏi xếp hàng từ dưới thắt lưng tới cổ. Thằng Ðặng nằm im. Thúy bế con chó lên lầu, cho nó nằm dưới gầm giường của mình. Cô cũng ngủ thêm được chừng hai tiếng đồng hồ thì trời sáng.
Lúc Thúy xuống nhà dưới thì thấy thằng Ðặng đang ngồi bắt bọ chét cho con chó nhỏ. Nó cười rất tươi và hỏi:
-Giò lụa chị mua ở đâu mà ngon quá vậy?
-Mua ở đâu kệ tao. Nhưng không phải mua cho mày đâu.
-Em mới cắt một miếng bằng ngón tay. Cho con chó nó ăn chớ em có ăn đâu.
-Sao mày biết ngon?
Nó cười:
-Sáng nay anh Hai có về không?
-Anh Hai nào?
-Anh Hai chồng chị.
-Nói bậy nghen. Hổng có anh Hai nào ở đây hết.
-Thôi, đừng làm bộ. Anh Hai số dách.
-Nhưng mày hỏi ảnh làm gì?
-Hôm trước anh Hai biểu em đi kiếm cho ảnh con chó Nhựt.
-Thôi im. Ðem gấp đi, không tôi thảy nó ra đường bây giờ.
Ðặng vớ lấy con chó, dùng chân hất cái mền rách vào gầm cầu thang.
-Tui đem bán năm ngàn cho chị coi.
Rồi thong thả, tà tà bước ra khỏi cửa.
Nó đi đến trưa thì trở về, tay xách một giò phong lan. Rồi nó treo bên cửa sổ phòng khách.
-Hết sảy. Nó vừa ngắm nghía vừa cười.
Thúy bỏ ra nhà sau dọn cơm. Tiếng con nít lao xao trước cửa.
-Cái gì đó, Ðặng?
Không có tiếng trả lời. Thúy bưng mâm cơm lên, thấy trẻ con bu đen trước cửa, một người đàn bà rụt rè bước vô.
-Cô nè, bà ta nói, hồi sáng này cậu Ðặng vô chơi với thằng con tôi, lúc cậu về rồi tôi thấy mất giò phong lan. Ðúng là cái giò đang treo ở nơi cửa sổ kia.
Thúy trừng mắt nhìn cậu em.
-Có phải lan của bà này không?
-Thôi cho bả đi. Ðặng nói. Coi như bỏ.
Thúy lấy giò lan trao cho người đàn bà.
-Xin lỗi chị. Lần sau chị đừng cho nó vô nhà nữa.
Thúy đợi người đàn bà đi khuất và lũ nhỏ cũng tan hết mới ngồi lại mâm cơm, nói:
-Ăn lẹ đi. Rồi cút. Anh Hai sắp về rồi đấy. Anh không muốn thấy cái bản mặt của mày trong nhà này đâu.
Ðặng cắm cúi ăn còn Thuý thì ngồi nhìn. Thằng Ðặng ốm dơ xương nhưng nó ăn gần sạch mâm cơm.
-Chị Hai cho xin hai ngàn.
-Tiền mày bán chó đâu?
-Trả nợ hết rồi.
Thúy bưng mâm cơm ra sau bếp rồi lấy hai ngàn đưa cho nó. Nó nói cám ơn rồi tà tà đi ra cửa.
Ðộ nửa giờ sau, ông Thịnh đi xích lô về cùng với một thùng giấy lớn.
-Cái này em vừa may vừa làm khuy được.
Hai người cùng mở thùng giấy và bưng cái đầu máy ra.
-Cái này để trên đi-văng may cũng được.
Họ vừa ăn vừa ngắm nhìn cái máy.
Khi hai người lên lầu vào phòng ngủ. Thúy mở nhạc nho nhỏ. Ông Thịnh ngồi ở mép giường. Thúy mặc đồ ngủ mỏng, quyến rũ một cách kỳ lạ. Nhưng ông Thịnh không hấp tấp. Ông không ôm cô mà chỉ ngồi nghịch mấy lọn tóc. Tiếng hát cũng mềm mại như thế, chảy thành sợi nhỏ. Thân hình Thúy không bốc lửa nhưng ngời lên vẻ đẹp rực rỡ đầm thắm và nồng nàn.
Cái vẻ từ tốn của ông làm Thúy run lên, cô xoay người lại ôm lấy lưng ông mà hôn, lúc ấy ông mới nằm xuống và ôm siết cô vào lòng. Ông hỏi:
-Có phải anh nói đúng không?
-Phải. Bác sĩ cũng nói vậy. Em thấy hai đầu vú cứ căng căng, tê tê, rất kỳ.

7.

Cơn hoảng loạn đã lắng xuống. Họ ngồi bên nhau, hai người trên hai chiếc ghế gỗ thấp, lưng tựa vào tường. Ông Thịnh thì hút thuốc rê trong cái pipe bằng rễ tre còn bà Ngọc Thuý thì lấy khăn thấm nước mắt.
-Bây giờ, con nó ở đâu? Ông Thịnh hỏi.
-Anh hỏi để làm gì? Có khi bây giờ nó đã chết rồi cũng không biết chừng.
-Ðừng nói thế. Em gởi nó ở đâu vậy?
-Sao hồi đó anh không đi tìm nó, bây giờ anh tìm nó làm gì?
-Hồi đó anh đang ở ngoại quốc thì ở nhà người ta rạch mặt em. Khi anh về, cả nhà không ai nói tiếng nào về chuyện đó, đến lúc anh tìm em thì chỉ còn là một cái nhà hoang. Những người xung quanh kể lại hết mọi việc, lúc đó anh mới biết. Họ bảo rằng khi ở bệnh viện ra, em chỉ ghé nhà một buổi tối rồi đi biệt. Anh đã đi tìm em khắp nơi nhưng không gặp.
-Thôi, kể lại làm gì những nỗi cay đắng nhục nhã ấy. Thiên hạ bảo em là kẻ cướp chồng người, bị người ta rạch mặt. Em muốn chết lắm nếu như không có cái thai bốn tháng thì có lẽ xác em đã bị vùi lấp nơi cống rãnh nào đó rồi chớ không còn ngồi đây mà nói chuyện với anh nữa đâu. Nhưng mà bây giờ em sống cũng như đã chết rồi.
Thuý lại khóc thút thít. Rồi bà móc trong túi áo ra một gói giấy nhỏ, mở ra, có chừng một chục viên thuốc nhỏ màu vàng vàng.
-Bao nhiêu đây là rũ sạch nợ trần. Anh cho em xin một ly nước.
Ông Thịnh chộp lấy cái gói giấy.
-Ðừng có nghĩ quẩn. Anh với em sẽ đi tìm con. Nó là con trai phải không?
-Con trai.
-Em gởi nó ở đâu?
-Trong nhà tu kín ở Ðà Lạt. Năm đó nó mới mười tuổi. Anh biết trong khoảng mười năm đó em đã làm cách nào để nuôi con không? Em đã làm đủ thứ nghề: giặt ủi, đi bán vé số, đi ở đợ. Em trốn tránh những người quen, giấu biệt tung tích. Giải phóng được ít lâu em nghe tin anh bị đi cải tạo. Người ta cũng chẳng mướn em nữa, hai mẹ con em đi phất phơ ngoài đường như những kẻ ăn mày. Cuối cùng em quyết định gởi con vào dòng tu kín. Anh còn nhớ cha Minh không, cái ông trẻ trẻ đeo kính cận, thường đánh đô-mi-nô với anh đó.
-Anh nhớ rồi. Ngày mai anh với em đi tìm con.
*
Họ lên Ðà Lạt. Nhà tu ở trên đỉnh một cái dốc đá đầy cỏ mọc, hai bên trồng toàn sứ cùi nở hoa trắng rực rỡ giữa một vùng cây lá xanh xao khuất tịch. Người gác tu viện là một lão già lưng còng mặc toàn đồ đen, đội cái mũ bê rê sờn rách, ngồi hút thuốc lá bên gốc cây sứ.Tayông cầm một sợi dây xích buộc con chó ngao cũng màu đen, cao lớn khác thường. Con chó đánh hơi thấy người lạ, nó chồm lên và kéo lão đứng dậy. Hai chân lão run lập cập, điếu thuốc lá sâu kèn từ trên mép rơi xuống đất khiến lão phải cúi xuống nhặt nhưng con chó thì cứ lôi lão đi. Cuối cùng lão cũng nhặt được điếu thuốc và chạy lúp xúp theo con chó.
-Ông bà đến đây có việc gì?
Ông Thịnh chào và nói:
-Thưa thầy chúng tôi ở Sài Gòn lên đây xin phép được gặp cha bề trên.
-Các ông muốn gặp cha có việc gì?
-Chúng tôi xin thăm cháu….
Con chó lại sủa dữ dội át cả tiếng nói của ông Thịnh.  Ông già đưa bàn tay lên che vành tai để nghe cho rõ. Ðiếu thuốc đã tắt ngấm trên môi. Lão nói:
-Tên gì?
-Dạ Nguyễn Trường Phúc.
-Thầy Phillipe Phúc là con của ông bà. Lão vừa nói vừa đá nhẹ vào bụng con chó để cho nó thôi sủa. Thầy Phúc rất thân với tôi. Mời ông bà vào trong này. Cha bề trên đang đi dạo, ông bà ngồi đợi một lát.
Lúc ấy có một thầy giảng mang kính cận bước ra hỏi:
-Có việc gì đấy?
-Dạ, lão già lên tiếng. Có cha mẹ thầy Phillipe Phúc xin gặp cha bề trên.
Người đeo kính cận bước vào trong nhà rồi biến mất luôn. Con chó ngao đã thôi sủa, nó trở lại nằm vào vị trí cũ của nó dười chân cái băng đá, lão già nói:
-Ðây là lần đầu tiên tôi gặp mặt ông bà. Hình như cậu ấy đến đây từ lúc còn nhỏ lắm.
-Dạ. Mười tuổi. Ngọc Thúy nói.
-Bây giờ gặp mặt chắc là không nhận ra. Cậu ấy lớn lắm, cũng xấp xỉ gần bằng ông.
-Dạ. Cháu mười tám tuổi. Ông Thịnh nói.
Lão già lại bập bập điếu thuốc nhưng nó chỉ ngún lên một chút rồi lại tắt. Lão vê vê điếu thuốc giữa các ngón tay cụt ngủn và hỏi:
-Ở Sài Gòn ông làm gì?
-Dạ, tôi đi học tập cải tạo mới về.
-Lạy chúa. Lão ném điếu thuốc đi. Ông có thuốc lá không?
Ông Thịnh bối rối, nắn túi và lôi cái pipe bằng rễ tre ra.
-Bác làm một cối nhé.
-Ừ… ừ.
Ông Thịnh nhồi thuốc rê vào pipe và đưa cho lão già. Lão ngậm cái dọc tẩu, nghiêng người về phía que diêm ông Thịnh vừa bật lên. Đốm lửa cháy đỏ rực, khói tỏa mù mịt. Lão hít một hơi dài và cười:
-Trời lạnh quá. Ông kiếm đâu ra cái vố ngộ quá. Cho tôi nhé?
Mắt lão già ánh lên vẻ sáng khác thường, hai gò má thì đỏ hỏn trông lão giống một chú lùn thời trung cồ. Ông Thịnh nói:
-Cụ thích lắm à.
-Ừ… ừ. Lạnh quá. Giá mà có khúc dồi nóng ăn với bánh mì thì hay quá. Ông có đem theo đồ ăn chứ?
Người đeo kính cận lúc nãy xuất hiện và ra hiệu cho khách vào. Phòng đợi khá rộng xây bằng đá tảng, âm u và lạnh tanh. Bà Thuý có vẻ xúc động đặt tay lên ngực, ông Thịnh thì trầm tĩnh hơn, đưa mắt nhìn quanh căn phòng.
Ðột nhiên từ một ô cửa nào đó chàng trai xuất hiện, đi thẳng về hướng những người khách đang đợi. Ðó là một thanh niên cao lớn, thanh nhã và trầm tĩnh. Trong chiếc áo chùng đen chàng bước nhanh nhẹn bằng những bước đi dài, đến trước mặt hai người khách, không chào, không cười. Chàng chỉ đứng yên, đẹp đẽ, nghiêm nghị và xa vắng.
-Chào mẹ. Chàng nói sau một lúc lâu nhìn bà Thuý và đưa hai cánh tay trắng trẻo đỡ lấy người đàn bà đang run lên vì xúc động.
-Cám ơn con đã không quên mẹ.
Chàng trai đỡ mẹ ngồi lại trên chiếc ghế dài và đến ngồi bên kia cái bàn đá. Lúc này đôi kính trắng của chàng hướng về phía ông Thịnh.
-Ðây là ba con. Bà Thúy nói.
Chàng trai gật đầu chào, tiếp tục quan sát ông, cái nhìn phảng phất buồn.
-Sự thực là ba con đã không chết. Bà Thúy tiếp. Ba con đi cải tạo mới về.
-Ðội ơn Chúa.
-Cám ơn con. Ông Thịnh xưng hô một cách rụt rè. Ba đã trải qua những bất hạnh quá lớn. Ðến bây giờ ba mới được gặp lại con.
-Thế trước giải phóng khi con còn nhỏ thì ba đi đâu?
-Ba ở nước ngoài.
-Sao lúc đó mẹ bảo rằng ba chết rồi.
-Chuyện dài lắm con ạ. Sẽ có lúc chúng ta ngồi với nhau ôn lại chuyện cũ.
Chàng trai để hai bàn tay lên bàn đá, những ngón tay của chàng thon thả, trắng trẻo và nho nhã khác thường. Chàng là con của Ðức Chúa Trời, chàng thanh thoát, mạnh mẽ và cao quý. Bà Thúy cầm lấy đôi bàn tay của chàng hôn hít và khóc.
-Cuộc đời mẹ đau khổ biết chừng nào. Bà nói. Lúc ấy mẹ gởi con vào đây là vì mẹ đã quá cùng quẫn nhưng bây giờ ba con đã về. Ba mẹ không còn ai trên đời ngoài con. Ba con cũng còn được một số của cải có thể bảo đảm đời sống cho chúng ta.
Chàng trai nhìn mẹ, chàng không rụt hai bàn tay về và cũng không tỏ dấu xúc động. Chàng lặng lẽ quan sát mẹ và nhớ rõ từng nét rạch dọc ngang tàn phá khuôn mặt mẹ. Những vết thẹo ấy ngày xưa chàng đã sờ tay lên và hỏi thì mẹ chàng bảo là bệnh đậu mùa nhưng bây giờ thì chàng biết rằng nó phải do một nguyên nhân nào khác. Tuy vậy khuôn mặt bị tàn phá ấy đối với chàng vẫn vô cùng thân thiết và có nét đẹp riêng của nó. Chàng lặng lẽ ngắm nhìn những giọt nước mắt vỡ tan trên những rãnh sâu chằng chịt, rồi chàng quay sang nhìn người đàn ông đang ngồi bên cạnh bà. Ðó là cha chàng, trầm tĩnh, chờ đợi và khắc khổ. Chàng nói:
-Ba mẹ ạ. Con không thể trở về được đâu. Con đã khấn trọn đời. Con đã mãi mãi thuộc về Chúa.
Ông Thịnh nói:
-Thời buổi bây giờ khác xưa nhiều lắm con ạ. Bây giờ cái thế của tôn giáo không còn nữa. Cả khuynh hướng của thế giới ngày nay cũng thế. Giới trẻ ở phương Tây ngày nay coi tôn giáo như những nghi lễ hội hè, coi những giáo đường như những kiến trúc nghệ thuật, những công trình văn hóa trang điểm cho cuộc sống. Càng ngày đạo Kitô càng mang cái vẻ dáng đẹp của một trường phái nghệ thuật hơn là thần bí, khắc khổ và linh thiêng. Con có thấy điều đó không?
-Con tìm thấy vẻ đẹp trong đức tin và niềm an ủi vô biên trong sự thờ lạy Ðức Chúa Trời. Ba nghĩ rằng con không được hạnh phúc ở đây sao? Ba tội nghiệp cho con vì con đã không nhìn ngắm được những vẻ đẹp bên ngoài cuộc đời sao?
-Không phải thế. Ba chỉ muốn nói rằng thanh niên ngày nay họ tìm thấy trong tôn giáo những vẻ đẹp của nghệ thuật và những niềm vui của hội hè, của những lễ lạt dân gian.
-Tất cả những cảm nhận đó thật ra cũng chỉ là phù phiếm thôi ba ạ. Con khao khát những giá trị vĩnh cữu hơn thế nhiều. Ðó là Ðức Tin. Không có gì thiêng liêng hơn đức tin.
-Nhưng xã hội ngày nay cũng có rất nhiều sự thật và cũng có rất nhiều sự giả. Vì thế ba nghĩ rằng cần có nhiều đức tin tồn tại song song với nhau.
-Những điều ba nói đều thuộc về ý Chúa.
Bà Thúy buông hai bàn tay con ra, bà hướng về phía ông Thịnh:
-Ðừng tranh luận nữa. Hai cha con ông hãy nắm tay nhau đi.
Ông Thịnh đưa tay cho con, chàng trai nắm lấy bàn tay sạm đen chai cứng của cha, mặt hơi cúi xuống. Lúc ấy ông Thịnh mới nhìn thấy cặp mắt, dưới hàng lông mày rậm đen, giống hệt mình. Ông siết chặt bàn tay con và kéo chàng vào lòng mình. Họ ôm nhau chỉ trong giây lát rồi buông ra. Chàng trai sửa lại đôi kính trắng và vuốt nếp áo chùng đen. Bà Thuý gần như hoảng hốt:
-Khoan đã! Con hãy nói quyết định của con cho mẹ biết đi.
-Con đã làm lễ khấn trọn đời rồi mẹ ạ.
-Ðừng con! Trên đời này mẹ không còn ai thân thiết ngoài con.
-Thế còn ba?
-Nếu con không về thì mẹ sẽ không bao giờ sống với ba con.
-Tại sao vậy?
-Tại vì giữa hai người có một sự ngăn cách không thể lấp đầy được. Và mẹ sẽ chết. Mẹ sẽ chết thôi con ạ.
-Ðó là vì mẹ không có đức tin.
-Mẹ không cần đức tin. Mẹ chỉ cần có con thôi.
Chàng trai chợt lùi lại một bước nhưng chàng trấn tĩnh ngay và nói:
-Lạy Chúa. Ðó không phải là lời đã thốt ra từ miệng của người đàn bà khốn khổ đã sinh con ra.
Bà Thúy chạy xô đến ôm chầm lấy chàng trai và khóc.
-Con tha lỗi cho mẹ. Mẹ không định nói như thế. Mẹ lỡ lời. Con hãy dạy cho mẹ lòng tin vào Chúa Trời và mẹ sẽ ở đây làm tôi tớ cho Người.
Chàng đỡ mẹ dậy và chàng nói:
-Ngày kia Chúa và các môn đồ đi vào một ngôi làng. Tất cả đều đói và khát. Bổng nhìn thấy cây vả bên đường,  nhưng khi đến nơi thì cây vả chỉ toàn lá, không có lấy một trái. Chúa bèn phán cùng cây vả rằng: Ngươi sẽ không bao giờ có trái nữa. Trong phút chốc cây vả héo khô. Các môn đồ ngạc nhiên hỏi: Làm thế nào mà chỉ trong phút chốc cây vả đã héo khô. Chúa liền bảo: Thực ra ta nói cùng các ngươi. Nếu các ngươi có đức tin thì không những các ngươi có thể làm cái điều ta vừa làm với cây vả mà các ngươi còn có thể bảo ngọn núi kia: Hãy ném mình xuống biển đi. Tức thì điều ấy sẽ đến.
-Vậy thì mẹ sẽ cầu nguyện cùng Chúa để cho con được mãi mãi ở bên mẹ.
Tiếng chuông nhỏ rung lên báo hiệu giờ gặp mặt đã hết. Bà Thúy buông hai bàn tay con ra và đứng thẳng lên trước mặt con. Bà nói:
-Mẹ sẽ cầu nguyện.
Chàng trai làm dấu thánh cho bà rồi quay gót đi. Chàng bước nhanh như lúc chàng mới xuất hiện và biến mất vào một ô cửa nào đó trong gian phòng đá xám mênh mông lạnh lẽo này.

8.

Họ về tới sài gòn lúc xế chiều. Hành lý của bà Ngọc Thúy chỉ có một cái xách tay nhỏ còn ông Thịnh thì đi hai tay không. Họ bước xuống xe đứng tần ngần bên nhau, không ai nói gì, đến khi bà Thúy đưa tay gọi một chiếc xích lô đạp thì ông Thịnh ngăn lại:
-Vô uống nước đã.
Họ vào một cái quán nhỏ cạnh bến xe.
-Bây giờ bà về đâu?
-Mặc kệ tôi.
-Thôi bà hãy cứ tạm về nhà đi. Hiện giờ thì tôi không thể nào ở gần bà được. Nó sẽ nhắc nhở đến những đứa con tôi đã chết. Tôi sẽ không thể nào chịu đựng nổi.
-Tôi cũng thế. Sự nhục nhã ê chề và những đau khổ trong cuộc đời tôi quá lớn, quá dài. Tôi cũng không muốn nhìn lại mặt ông một lần nào nữa. Bây giờ tôi chỉ còn có con tôi thôi. Nhưng nó đã không về. Tôi chỉ còn có cái chết thôi.
-Bà đừng nghĩ quẫn như thế. Rồi thời gian sẽ an ủi chúng ta.
Ông móc trong túi áo ra một gói giấy nhỏ bằng hai ngón tay:
-Bà cầm lấy cái này. Và đứng làm cái nghề ấy nữa. Tôi van bà. Hãy dùng cái này để làm một việc gì khác.
Nhưng bà Thuý đã quay mặt đi.
-Tôi sẽ không bao giờ nhận cái gì của ông nữa. Nhưng tôi cũng sẽ không làm cái nghề ấy nữa đâu. Ông có nhớ câu chuyện trong Kinh thánh mà con nó kể cho tôi nghe không? Tôi cũng sẽ như cây vả bên đường ấy. Sẽ chết khô. Sẽ chết dần trong lãng quên.
Bà vụt đứng dậy và hấp tấp ra khỏi quán, leo lên một chiếc xích lô vừa trờ tới.
Giữa đám đông người huyên náo ông Thịnh không biết phản ứng thế nào để giữ bà lại, đành phải ngồi im. Người ta ra vô quán tấp nập cười nói la lối ồn ào nhưng ông gần như không nghe thấy gì cả, ông như mê đi trong một cơn sốt và không dậy nồi nữa. Nhưng trong ý thức ông có sự cưỡng lại, nó bảo ông đứng dậy, thế là ông vùng thoát ra khỏi cơn mê.
Ông về đến nhà lúc trời đã chiều và mặc dù suốt một ngày đường mệt mỏi ông cũng không thấy đói. Ông bắc cái ghế dựa ra trước ban-công và theo thói quen ông lục tìm cái tẩu, lúc ấy ông mới nhớ là lão già ở tu viện đã không trả lại. Ông buồn tình bứt một cái lá mận nhai nhai rồi ngủ quên đi.
Những người chủ mới của ngôi nhà đã phá tan hêt những dấu vết của gia đình ông. Ngoài chiếc xe đồ chơi bằng sắt đã hoen rỉ, ông không còn tìm thấy cái gì khác. Trong mơ ông nhìn thấy những trang vở trắng in đầy những nét chữ màu mực tím, những trang vở như bướm bay quanh chỗ ông nằm, những hình vẽ ngô nghê từ trong cuốn tập bước ra. Chị gà mái và lũ gà con, chú chó berger ngồi cạnh chủ đang đọc báo trên ghế dựa. Bốn đứa nhỏ xấp xỉ bằng tuổi nhau chạy lên chạy xuống cầu thang chơi trò cút bắt. Những trang vở trắng lại bay quanh như bướm rồi gom lại thành một đống giấy, rồi trải rộng ra thành sa mạc mênh mông nắng cháy. Những đứa trẻ mờ nhạt như những đám khói bay vất vưởng trong sa mạc và ông chạy theo chúng đến mệt lả. Chúng lại tan biến thành đàn bướm trắng bay quanh ông rồi bốc lên cao dần, xa dần cuối chân trời. Ông thức dậy thấy trời đã tối mịt và muỗi bay đen kịt cả hành lang. Ông bật đèn, moi trong tủ ra một nửa cái bánh mì khô và ngồi ăn một mình. Nước trà đã nguội ngắt và đắng chát, ông uống từng ngụm lớn cho trôi mẩu bánh mì khô khỏi cổ họng.
Sáng hôm sau ông lang thang một mình trên đường Hàm Nghi kiếm mua một con chó con. Ông bế con chó đi bộ một hồi rồi ngồi uống cà phê ở vỉa hè. Ngồi cùng bàn với ông là một lão già đạp xích lô. Lão nhìn con chó nhỏ một cách thích thú rồi vuốt ve nó. Con vật mừng rỡ liếm tay lão. Lão hỏi:
-Ông mua bao nhiêu vậy?
-Hai ngàn.
-Con chó đẹp quá. Nhà ông ở gần đây sao?
-Không. Tôi ở Thị Nghè. Bác có về Thị Nghè không?
-Về. Uống hết ly cà phê tôi đưa ông về.
-Bác không còn con cái gì sao sống cực vậy?
-Tôi có thằng con trai chết trong chiến tranh. Tôi theo đứa con gái, bỏ miền Trung vào đây kiếm sống qua ngày.
Hai người tiếp tục trò chuyện trên đường đi. Ông Thịnh nghe nhiều hơn nói, thực ra ông dấu tung tích của mình. Ông cũng không muốn cho ai biết chỗ ông đang ở vì thế ông bảo người phu xe cho ông xuống giữa chừng. Lúc trả tiền trong túi ông còn hơn bốn mươi ngàn đồng bạc. Ông vốc hết ra đưa cho lão già. Ông cũng không hiểu tại sao mình làm như vậy vì khi nãy trong đầu ông không hề có ý định đó. Lão già ngạc nhiên không dám nhận nhưng ông đã với lấy cái mũ vải của lão và đặt gọn số tiền vào đó, trao lại cái mũ cho lão rồi bỏ đi, lòng buồn mênh mông.
Con chó nhỏ trở thành bạn thân của ông rất nhanh. Bất cứ ông nằm ngồi ở đâu nó cũng đến và nằm phục một bên. Buổi tối khi ông đi ngủ, nó nằm cạnh đôi dép. Sáng sớm ông đi dạo trong vườn, nó chạy giỡn quanh các gốc cây, sục sạo trong những đống lá khô trong những gốc hoa giấy quanh vòng tường rào. Có khi ông cùng nó đuổi theo một con sóc. Con vật này chuyển từ cành cây cao vút ngoài đường xuống những nhánh me trong sân nhà ông và leo lên cây ngọc lan. Ðó là một con sóc nhỏ da sọc dưa, đuôi xù to như cái cờ lau. Con chó nhỏ rượt nó chạy từ gốc cây mận tới mấy bụi lài rồi chuyền sang nhánh cây nhãn lồng trước khi nhảy sang cây me tây cao lớn như cổ thụ mọc sát đường cái. Con chó nhỏ không làm gì được chú sóc nâu xinh xắn bèn đứng sủa gâu gâu. Lát sau nó bắt đầu chán trò chơi ấy và nghĩ ra cách đào bới quanh những gốc hoa giấy sát tường rào.
-Gâu, gâu, gâu.
Nó sủa dữ dội, dường như nó vừa khám phá ra một cái hang chuột. Ông Thịnh chạy đến giúp nó vẹt đám lá um tùm ra. Con chó dùng hai chân trước cào đất lia lịa cuối cùng lòi ra một vật gì màu vàng lợt. Nó dùng răng cắn chặt lấy vật đó lôi tuột ra. Ông Thịnh cầm lên xem. Ðó là một chiếc giày da kiểu Ý. Ðúng là chiếc giày ông đã mua trong chuyến du lịch Châu Âu về tặng đứa con gái duy nhất của ông. Năm ấy bé Hằng lên bảy tuồi. Quà của ông mang về cho con là đôi giày da Italia này, còn quà của bé Hằng gói sẵn chờ ông về là năm viên kẹo chanh bỏ trong một cái hộp nhỏ bọc giấy hoa thắt nơ đỏ với dòng chữ nguệch ngoạc viết bằng mực tím: “Kính Tặng Ba”. Ðã gần mười năm trôi qua rồi. Cái hộp giấy nhỏ với dòng chữ thơ ngây ấy bây giờ ở đâu rồi. Tại sao đôi giày da nhỏ bé xinh đẹp của con lại bị chôn vùi ngoài bờ rào, hả con? Ông cầm chiếc giày đi lại chỗ có vòi nước. Ông vừa rửa chiếc giày vừa khóc. Nước đã cuốn đi những rác rưởi, những đất cát để hiện ra chiếc giày xinh đẹp, để hiện ra trước mắt ông bàn chân non nớt trắng hồng mịn màng của con ông. Ông ngồi khóc như đứa bé, nước bắn tung tóe lên người ông ướt cả ngực áo, ướt cả đôi chân trần to bè sạm đen chai cứng, nước loé lên mặt hòa với nước mắt. Ông cứ mặc cho vòi nước chảy. Ông dùng vạt áo lau chiếc giày. Những giọt nước vừa bắn lên đó được lau khô đã có những giọt nước khác bắn lên, nhưng dường như ông không hề biết đến điều đó. Con chó nhỏ chạy đến liếm nước trên bàn chân ông, ngửi ngửi chiếc giày rồi lại sủa. Lúc ấy, người ướt sũng, ông ôm con chó lẫn chiếc giày đi vào nhà.
Xế chiều ông uống rượu đến say mèm và ngủ quên trên sàn nhà.
*
Ngồi nơi ban-công nhìn xuống đường ông Thịnh thấy một cô gái trẻ đi chiếc Honda vừa dừng trước cổng nhà mình. Một người trong nhà bước ra mở cổng. Hai người nói với nhau mấy câu rồi cánh cổng mở lớn. Cô gái dẫn xe vào trong sân, dựng xe ngay dưới gốc cây mận.
Khi cô gái lạ vào trong nhà rồi ông Thịnh mới lấy cuốn sách viết về Napoléon ra đọc tiếp. Nhưng ông chỉ đọc được có mấy hàng thì có tiếng gõ cửa gấp gáp.
-Bác là bác Thịnh? Cô gái hỏi ngay khi cánh cửa vừa hé mở.
-Vâng. Cô gặp tôi có việc gì?
-Bác thay đồ đi với cháu liền bây giờ.
-Có chuyện gì vậy?
Hai người chở nhau trên chiếc Honda chạy bay đến bệnh viện Chợ Rẫy. Nhưng ở đó người ta không cho ai vào phòng cấp cứu. Ông Thịnh và cô gái trẻ ngồi đợi nơi chiếc ghế dài. Ông hỏi cô gái:
-Bà ấy uống thuốc ngủ phải không?
-Sao bác biết?
-Có lần bà ấy định uống trước mặt tôi. Cô là gì của bà Thúy?
-Cháu là người hàng xóm.
Một người y tá hé mở cánh cửa phòng hồi sức và gọi ông Thịnh cùng cô gái bước vào. Bà Thúy còn nằm mê man trên giường nhưng hơi thở đã trở lại bình thường. Ông đặt một bàn tay lên trán bà, thấy lạnh tanh:
-Thúy ơi!
Nhưng người bệnh vẫn nằm im. Ông Thịnh ngồi xuống giường cầm tay người bệnh. Cô gái trẻ đứng im lặng bên cửa sổ quan sát hai người bằng cái nhìn u buồn. Bà Thúy cựa mình rồi mở mắt.
-Tôi muốn gặp con.
-Anh sẽ đi gọi nó về.
-Anh đi đi. Bà nói rồi nhắm mắt lại.
Người y tá lúc nãy mở cửa vào và báo cho mọi người biết là bác sĩ đến.
Lúc bước ra ngoài ông Thịnh bảo cô gái:
-Bà ấy không có ai săn sóc, làm sao tôi có thể đi Ðà Lạt được bây giờ?
-Bác đi Ðà Lạt làm gì?
-Bà Thúy có một người con ở đó.
-Chuyện đó thì cháu biết.
-Bác ấy kể cho cháu nghe à?
-Cháu đã tìm thấy bức thư trong người của bà và cháu đã đọc hết. Chính nhờ bức thư ấy mà cháu đã biết được địa chỉ của bác. Thôi bác cứ đi Ðà Lạt đi nhưng phải về gấp vì cháu bận việc nhà lắm.
-Cám ơn cháu. Cháu hãy cho tôi biết tên đi.
-Tên cháu là Tuyết. Bác nhớ về sớm nhé. Bây giờ cháu phải đi công việc.
Ông Thịnh tiễn cô gái đến cuối hành lang của bệnh viện rồi trở lại phòng hồi sức. Hình như người bệnh đang ngủ, ông ngồi rất nhẹ xuống cái ghế sắt kế bên cửa sổ và thấy thèm thuốc lá nhưng không biết tìm đâu ra.
*
Bà Thúy mở mắt ra và thấy một người mặc áo dòng đen đang đứng nhìn mình. Bà kêu lên thảng thốt rồi ngồi dậy.
Thầy giảng trẻ Phillipe Phúc cúi người xuống đỡ lưng bà.
-Mẹ nằm nghỉ đi.
-Không. Mẹ khỏe rồi. Mẹ có thể về nhà được rồi.
Ông Thịnh nói:
-Bác sĩ bảo một tuần nữa bà mới có thể xuất viện được. Bây giờ bà nằm xuống đi.
Ông đỡ Bà nằm xuống và ra hiệu cho ông thầy tu trẻ ngồi xuống chiếc ghế đặt gần đầu giường. Phillipe Phúc đặt tay lên trán mẹ và nói nho nhỏ:
-Mẹ ngủ đi. Ngủ đi.
-Nhưng mẹ có buồn ngủ đâu. Con đi đường có mệt không?
-Không.
-Con đã ăn uống gì chưa?
-Có. Ba đã dẫn con đi ăn rồi.
Bà Thúy nắm lấy bàn tay con rồi nhắm mắt lại.
-Con về được bao lâu?
-Ðược một tuần mẹ à.
-Vậy thì con xin bác sĩ cho mẹ về chiều nay đi. Mẹ thấy khỏe lắm rồi.
Sáng hôm sau Bà Thuý được xuất viện. Theo đề nghị của chồng và con trai, bà chịu về nhà ông Thịnh. Ông mua cho bà rất nhiều trái cây, sữa. Phillipe Phúc ít nói, đi đứng chững chạc, biểu lộ tình cảm một cách chừng mực. Chàng rất thích ăn trái sầu riêng nhưng lại chỉ ăn khi được mời. Sáng sớm chàng tắm rửa, chải đầu, mặc áo chùng đi giày tươm tất rồi ngồi lại bàn mang kính trắng và đọc sách, trong lúc mẹ chàng nằm nghỉ trên cái ghế dựa kê gần cửa sổ và cha chàng sửa lò điện.
Ông Thịnh pha trà cho chàng. Hai cha con ngồi uống trà và ăn bánh ngọt ngoài hành lang ngay phía ngoài chỗ mẹ chàng nằm.
-Con thấy đời sống ở đây như thế nào? Cha chàng hỏi.
-Con thấy dễ chịu. Ba nên thuyết phục mẹ về ở đây.
-Ba sẽ cố gắng. Nhưng con cũng phải giúp ba.
-Con đã nói với mẹ nhiều nhưng mẹ cứ nói rằng nếu không có con thì mẹ không thể nào sống với ba được.
-Phải như có con thì hay biết chừng nào. Tại sao con lại không thể quyết định khác đi được. Con vẫn thấy đời xấu xa lắm sao?
-Không thưa ba. Nhưng đời là một cái gì tạm bợ. Còn con thì có khát vọng vĩnh cữu.
-Nhưng trong Ðời cũng có những giá trị vĩnh cữu. Ví dụ như tình mẫu tử, nghệ thuật, lòng nhân đạo.
Ông Thịnh đốt thuốc lá.
Thầy Phillipe Phúc chợt hỏi:
-Con vẫn chưa hiểu vì sao giữa ba và mẹ lại có mối bất hòa sâu sắc như vậy? Tại sao trong lúc ba ở Châu Âu thì mẹ và con lại phải sống cơ cực khốn cùng?
-Ðó là tấn bi kịch lớn lắm con ạ. Và chỉ có con mới có thể hàn gắn được sự tan vỡ bi thảm này thôi.
-Nếu trong chuyện này ba có lỗi thì chính ba phải làm việc hàn gắn đó. Tại sao ba lại không thể làm được chuyện đó.
-Ba biết nói sao với con bây giờ. Thật khủng khiếp! Phải chi ba có thể đi tu như con.
Chàng trai đứng lên, vẻ bồn chồn hiện rõ trên gương mặt. Chàng đi đi lại lại, hai tay nắm chặt để sau lưng, đầu hơi cúi xuống. Chiếc áo chùng đen và đôi kính trắng làm cho chàng có vẻ khắc khổ hơn.
-Dường như ba muốn giấu con chuyện đó. Ba hãy nói đi. Giữa ba và mẹ đã có chuyện gì ghê gớm lắm phải không?
Ông Thịnh ngồi im cúi đầu. Lúc ấy Bà Thúy lên tiếng:
-Có lẽ mẹ phải nói cùng con tất cả mọi sự. Con hãy kéo ghế lại ngồi gần đây.
Chàng đang bước chợt dừng chân. Và khi chàng cúi xuống định lấy cái ghế gỗ nhỏ thì có tiếng gõ cửa.
-Con mở giúp mẹ đi. Bà Thuý nói.
Chàng bước đến trước cánh cửa và xoay cái chốt. Một cô gái hiện ra trong khung cửa. Chàng ngạc nhiên nhìn người khách, quên cả mời vào nhà. Cô gái mỉm cười, nói:
-Chào anh.
-Dạ. Chàng nói và cảm thấy tim mình nhói lên, gần giống như sự sợ hãi.
Cô gái lách người bước vào và vì chàng đứng ngáng ngay lối đi nên khi cô đi qua, tóc của cô chạm nhẹ vào mặt chàng. Chàng bối rối đóng cánh cửa và phải đứng ở đó một lúc để lấy lại bình tĩnh.
Lúc quay vào, chàng lại tỏ ra nghiêm nghị quá mức, chàng nhìn thẳng và bước tới chỗ cha chàng đang ngồi uống trà. Chàng uống hết chút trà cặn còn sót lại trong cái tách của chàng lúc nãy rồi ngồi im nhìn những lá mận xanh. Nhưng chàng lại nghe rất rõ giọng nói của người con gái từ trong phòng vọng ra. Nếu chàng quay lại, nhìn qua cửa sổ chàng sẽ nhìn thấy khuôn mặt cô gái, nhưng nghe giọng nói kia chàng cũng hình dung ra được, hình dung ra cả cái mùi thơm trong tóc. Vậy mà chàng vẫn bồn chồn dù chàng đang ngồi im như tượng. Ông Thịnh gọi cô gái.
-Tuyết ơi! Cháu ra ngoài này uống trà.
Cô gái bước ra hành lang, xách theo cái ghế gỗ nhỏ.
-Bữa nay bác gái khá hơn hôm trước nhiều. Ở đây buồi tối có nóng không bác?
Tuyết ngồi sát ban-công và tự tay rót nước trà cho mình. Ông Thịnh nói:
-Ðây là con trai bác, còn đây là cô Tuyết người đã đưa má con đi cấp cứu.
Tuyết quay nhìn chàng trai và cười với chàng. Cô hỏi:
-Anh đi tu lâu chưa?
-Từ nhỏ.
-Ðời tu chắc là buồn.
-Tôi không buồn.
-Người ta làm những gì ở trong nhà tu vậy?
Chàng quay lại nhìn thẳng vào mắt cô gái:
-Cô không nên hỏi một câu như vậy.
Chàng nói bằng giọng nghiêm nghị nhưng khi nhìn vào đôi mắt kia, chàng thấy nó đẹp quá, nó làm tê dại cả lòng chàng, chàng linh cảm rằng nó sẽ không đem lại cho chàng niềm vui mà là sự ảm đạm bao trùm như bóng tối của rừng đêm.
Cô gái đứng dậy lúc nào chàng cũng không hay. Cô chào cha mẹ chàng, chào chàng rồi mở cửa đi ra khỏi phòng. Cô đến và đi như một giấc mơ nhẹ nhàng, tình cờ và huyền hoặc.
Suốt ngày hôm ấy chàng cố giữ bình thản nhưng vẫn không bình thản được. Ðến bữa ăn chàng không thấy đói, cổ chàng khô cháy và chàng phải uống nước liên tục. Tất cả những hiện tượng ấy làm cho chàng ngấm ngầm lo sợ. Chàng thấy rõ rằng mình đang phải đương đầu với một tai họa vô hình. Dường như chàng đang bị quỷ ám. Giữa khuya, chàng ra đứng ngoài ban-công và cầu nguyện. Những khi ông Thịnh đi ra ngoài và lúc mẹ chàng đang ngủ chàng cũng cầu nguyện hàng giờ. Sau đó khi mẹ chàng thức dậy, chàng trò chuyện cùng bà. Bà kể lại mối tình vụng trộm giữa bà và ông Thịnh nhưng giấu chuyện án mạng. Ðến khi chàng hỏi người vợ cả và những người con của ông Thịnh hiện giờ ở đâu thì bà nói là họ vượt biên sang Mỹ.
-Thế thì có gì ngăn cản ba và mẹ sống chung với nhau?
-Mẹ không thể tha thứ cho cha con về sự ruồng bỏ đó. Con còn nhớ những ngày tháng khủng khiếp ấy mẹ con mình sống như thế nào không?
Chàng nhớ, nhưng tâm hồn chàng tràn ngập mùi thơm của mái tóc cô gái, chàng ngồi nói chuyện với mẹ mà đầu óc để đi đâu, những gì chàng nhớ lại chỉ là mơ hồ, những gì mẹ chàng nói chỉ thoáng qua. Ðã bao lần chàng muốn hỏi về cô gái nhưng không dám.
Sáng ra, chàng sực nhớ đã đến ngày phải trở lại tu viện. Chàng lẩm bẩm một mình trong lúc đánh răng:
-Phải về, phải về càng sớm càng tốt.
Và chàng vội vàng thu xếp đồ đạc. Mẹ chàng hỏi:
-Con không thể ở thêm một vài ngày sao?
-Không mẹ ạ, Ðã hết hạn nghỉ phép rồi.
Chàng hôn tay mẹ, bà khóc. Bà vuốt tóc và hôn hít đôi bàn tay trắng trẻo thon thả của chàng. Bà hỏi:
-Chừng nào con mới lại về thăm mẹ nữa?
-Mỗi năm con chỉ được về một lần.
Nhưng trong đầu, chàng lại nghĩ: không bao giờ, không bao giờ con trở lại nơi này nữa.
Ông Thịnh đưa chàng đến một tu viện trên đường Tôn Ðức Thắng. Ở đó sẽ có xe đưa chàng đi Ðà Lạt. Hai cha con chia tay nhau và chàng cảm thấy nhẹ nhõm dễ chịu.
Ông Thịnh từ giã chàng với vẻ trầm tĩnh thường ngày. Ông chỉ dặn chàng giữ gìn sức khỏe và năng viết thư về nhà. Xong ông lên chiếc xe đạp, lọc cọc đạp về nhà. Dọc đường ông ghé một quán cóc, ngồi uống rượu đế một mình tới chiều.

9.

Một tuần sau khi thầy giảng philippe Phúc trở lại tu viện, bà Ngọc Thúy mới bình phục hẳn. Bà ăn uống rất khá và ngủ cũng tốt. Tuy nhiên bà và ông Thịnh rất ít khi nói chuyện với nhau. Họ chỉ nói mấy câu trong các bữa ăn, thời gian còn lại bà đọc sách báo còn ông thì làm những chuyện lặt vặt trong nhà như đóng lại những chiếc ghế gỗ đang lung lay, sửa xe đạp….
Xế chiều ông có thói quen đạp xe đi loanh quanh trong chợ bán chim, chó, mèo cốt để giải trí chứ không mấy khi ông mua. Bà Thúy ngồi nhà một mình lấy cuốn kinh thánh ra đọc nhưng bà không hiểu gì cả thành ra bà đọc rất chậm.
Khoảng năm giờ chiều có tiếng gõ cửa rụt rè bà tưởng là Tuyết đến vội ra mở cửa. Nhưng khi cánh cửa mở ra bà chợt kêu lên khi nhận ra con trai bà.
Nhưng đó không phải là thầy giảng Phillipe Phúc khoan thai, tươi tắn cách đây một tuần lễ mà là một nhà tu khổ hạnh mắt trõm sâu, hai má hóp lại và râu mọc lởm chởm.
-Con làm sao vậy?
Bà lo lắng hỏi và gần như phải dìu chàng trai vào phòng. Chàng gượng cười, vứt cái túi hành trang xuống sàn nhà rồi ngồi xuống cái ghế thấp, hai tay ôm mặt.
-Có chuyện gì vậy?
Chàng bật khóc và ôm lấy mẹ.
-Con không sống nổi đâu, mẹ ạ.
-Sao vậy con? Người ta đuổi con ra khỏi tu viện à?
-Không. Nhưng chính con bỏ tu viện, trốn về đây. Con leo qua bờ tường giữa đêm khuya để trốn về đây.
-Tại sao con lại phải làm như vậy?
-Nếu con không làm vậy con sẽ chết. Sẽ chết trong vài ngày nữa thôi.
-Vì sao? Nói đi!
-Mẹ không thể hiểu rằng con muốn gặp lại cô Tuyết đến mức nào. Ôi, mẹ ơi, con nhớ cô ấy đến điên cuồng, nhớ đến chết mất thôi mẹ ạ. Mẹ hãy giúp con gặp cô ấy ngay bây giờ.
Bà Thuý ôm cái đầu tóc rối của con trai, hôn lên đó, bà khóc rồi bà cười:
-Mẹ đi tìm cô ấy ngay bây giờ.
Rồi bà đứng dậy, vui vẻ, nhanh nhẹn thay quần áo và đi ra.
Lúc ấy chàng trai hầu như đã kiệt sức. Chàng nằm trên cái giường nhỏ của mẹ chàng và ngủ thiếp đi. Chàng mơ thấy mình gặp lại Tuyết trên đồi Cù Ðà Lạt, chàng quỳ xuống và ôm lấy cô, cô xoa đầu chàng và cùng ngồi với chàng trên vạt cỏ non. Ðến khi chàng tỉnh dậy thì đã thấy Tuyết ngồi sẵn bên giường. Chàng vẫn tưởng mình còn đang trong mơ nên cứ nằm im như thế. Cô gái nhìn chàng bằng cái nhìn dò hỏi và đầy âu lo. Cô hỏi:
-Anh có nhận ra tôi không?
-Có.
-Anh nhớ tôi lắm à?
-Vâng.
-Tại sao anh lại nhớ tôi?
-Tôi đã cầu nguyện cho tôi đừng nhớ Tuyết nữa nhưng tôi không thể nào quên được.
-Thế bây giờ anh còn nhớ tôi không?
-Ðừng bỏ đi.
-Tôi phải về nhà tôi.
-Ðừng về nữa. Hãy ở đây luôn đi. Ba tôi sẽ nuôi Tuyết.
-Nhưng anh còn phải về tu viện mà.
-Không về nữa. Tôi đã bỏ tu viện trốn về đây.
-Trốn bằng cách nào?
-Lúc nửa đêm tôi trèo tường. Mình mẩy tôi xây xát.
Và chàng kéo tay áo chùng đen lên đưa cho Tuyết xem những vết trầy. Chàng hỏi:
-Tuyết ở luôn nhé?
-Thế không làm đám cưới à?
Chàng trai ngẫm nghĩ, lúc này đôi mắt chàng như trẻ hài nhi.
-Ừ. Chàng nói. Ðể hỏi mẹ xem.
Tuyết đứng lên và nói:
-Thôi, bây giờ tôi phải về. Ngủ ngon nhé.
Cô xoa đầu chàng trai và tiến ra phía cửa. Lúc ấy chàng mới hoàn hồn, ngồi bật dậy nhưng cô gái đã biến mất rồi.
Tuyết bước xuống thang lầu và gặp Bà Thúy, ông Thịnh đang ngồi chờ đợi ở phòng khách nhà tập thể.
-Sao hai bác không lên?
Bà Thúy nói:
-Bác sợ nó ngượng không dám nói gì và như thế là nó lại bị dằn vặt đau khổ.
-Nhưng anh ấy rất bình tĩnh. Anh nói chuyện hồn nhiên như trẻ con.
-Nói thế nào?
-Anh ấy bảo con ở luôn đây đừng về nhà nữa. Con nói đùa là muốn thế thì phải làm đám cưới.
-Chết. Sao con lại nói đùa như thế?
-Cháu rất thương anh ấy và không nỡ làm anh ấy buồn.
Ông Thịnh ngồi một bên, lắng nghe hai người phụ nữ nói chuyện. Ông hỏi cô gái:
-Cháu nghĩ gì về tình cảm của con trai bác?
-Cháu nghĩ rằng đó chỉ là sự sôi nổi của tuổi trẻ.
-Không đâu cháu ạ. Ðó là một tình yêu vô cùng dữ dội. Bác mong cháu hãy cứu nó. Không thì nó sẽ chết mất. Bác mong cháu thỉnh thoảng hãy đến đây trò chuyện với nó. Nó cũng không phải là một chàng trai ngốc nghếch đâu. Bây giờ cháu về nhưng hãy hứa cùng bác là sẽ trở lại.
-Thế anh ấy không đi tu nữa sao?
-Bây giờ thì đối với nó không có gì cao cả hơn tình yêu nữa đâu. Bác đã nghĩ tới chuyện kiếm cho nó một việc gì để làm ở thành phố này. Có thể là nó sẽ đi dạy ngoại ngữ. Nếu cần bác sẽ mua cho nó một cái nhà nho nhỏ. Thú thực với cháu là biến cố này xảy ra làm hai bác lo ít mà vui nhiều.

10.

-Tôi mặc quần áo mới trông tức cười lắm phải không?
-Ðẹp chứ. Tuyết nói. Nhưng lẽ ra anh không nên chọn màu đen và ống quần đừng quá rộng.
Phúc xoay bao thuốc Hero trên mặt bàn, nhìn ly bia sủi tăm vẫn còn đầy nguyên. Anh nói:
-Từ trước đến giờ tôi chỉ mặc có một màu đen. Chọn màu khác thấy kỳ lắm không thể được.
-Bác trai không chọn cho anh à?
-Ông dẫn tôi ra tiệm may và nói con cứ lựa tùy thích. Vậy là tôi chọn màu đen. Tuyết thích tôi mặc màu gì?
-Anh to con, trông rất thư sinh, mặc màu sáng đẹp hơn.
-Nhưng tôi đã may đến bốn bộ như thế này.
-Thế còn giày?
Phúc chìa bàn chân ra khỏi gầm bàn. Giầy da đen láng vớ thì trắng.
-Không được. Tuyết nói. Tôi phải mua cho anh mới được. Giày thì ở cửa hàng tôi nhiều loại rất sang, tôi sẽ đem cho anh.
-Nhưng Tuyết đừng quên tôi là một nhà tu, tôi không thể ăn diện như người thành phố được.
-Bây giờ anh không còn là nhà tu nữa. Anh cứ ăn mặc theo ý tôi đi, không thì tôi sẽ chê anh.
Tuyết rút ra một điếu thuốc đưa cho Phúc. Phúc nói:
-Tại sao tôi lại phải hút thuốc và uống bia?
-Vì đi chơi với tôi anh không thể uống sữa hay nước trái cây, hay ăn yaourt.
-Tôi có thể sẽ chẳng ăn uống gì cả. Tôi sẽ mặc áo chùng đen mà ngồi nhìn Tuyết. Tôi cứ mặc áo chùng đen mà đi chơi với Tuyết không được à? Mặc áo chùng tôi thấy rất đẹp.
-Anh bướng quá. Thế mà lúc đầu tôi cứ nghĩ anh là đứa trẻ con. Tóm lại là anh không thích tôi chọn quần áo và giày cho anh phải không? Nếu vậy thì vĩnh biệt nhé.
Chàng trai đứng bật dậy đưa tay ra ngăn:
-Ôi, lạy Chúa!
-Thôi, tôi không đi đâu. Tôi ngồi xuống đây. Anh cũng ngồi coi nào.
Phúc ngồi xuống và nói:
-Xin tha lỗi. Bây giờ mình đi ra chợ nhé.
-Uống hết bia đã. Ðiếu thuốc của anh đâu rồi?
Phúc nhìn quanh quất và cúi xuống nhặt, lúc ngẩng lên vai anh va vào bàn làm ly bia ngã nhào lăn xuống đất vỡ tan tành. Mọi cặp mắt của các thực khách đều quay lại nhìn. Tuyết cả cười còn anh thì mắc cỡ. Người phục vụ bước nhanh đến lau bàn, thu dọn các mảnh thủy tinh vỡ và rót đầy một ly bia khác. Phúc bưng ly lên nốc cạn rồi tự động rót đầy. Lại nốc cạn. Trong khi đó thì Tuyết tựa ngửa vào lưng ghế khoanh tay mà nhìn.
Chàng trai cứ lẳng lặng rót bia vào ly mình và nốc cạn, không nhìn ai. Hai chai bia trên bàn đã hết. Chàng bảo người phục vụ:
-Cho tôi năm chai nữa.
Tuyết cứ để mặc, cứ khoanh tay ngồi nhìn cái trò quái gỡ đang diễn ra trước mắt mình. Chàng trai tránh không nhìn cô nhưng cũng không có gì hấp tấp hay tỏ ra tức giận. Chàng mỉm cười bâng quơ, lơ đãng nhìn ra đường và cứ ngồi uống suông như thế, hết ly này đến ly khác một cách từ tốn chững chạc.
Ðến chai bia cuối cùng chàng mới nhìn cô bạn gái của mình và hỏi:
-Nếu Tuyết thấy rằng tôi đã uống đủ thì nên uống chai này.
Vẫn khoanh tay trước ngực, lưng tựa vào ghế, Tuyết bình thản nói:
-Anh rót cho tôi đi.
Nhưng cô chỉ uống có hơn nữa ly đã thấy hai má phừng phừng, đầu thì choáng váng. Chàng trai lặng lẽ uống hết phần còn lại và bảo cô gái.
-Tôi đưa Tuyết về.
Tuyết cố gắng đi một mình theo chàng trai ra chỗ gởi xe. Phúc vẫn tỉnh như không, chàng cho xe chạy chậm sát lề bên phải. Tuyết càng lúc càng thấy choáng váng, cô phải cố gắng lắm mới khỏi gục vào lưng chàng trai.
*
Buổi sáng biển phẳng lặng nhưng chàng không dám đi đâu xa. Chàng cứ quanh quẩn xung quanh căn phòng của Tuyết và mẹ chàng. Chàng ngồi trên bậc thềm nhìn ra biển và thấy nó giống như một cánh đồng cỏ rộng mênh mông. Ở Ðà Lạt chàng không bao giờ được nhìn thấy một khoảng rộng mênh mông phẳng lặng như thế, chỉ có rừng thông, và rừng thông, nhiều tầng, trùng trùng điệp điệp, đầy gió và đầy tiếng chim. Chàng tưởng tượng biển sẽ dữ dội hơn thế, sẽ nổi sóng cuồng nộ gào thét, nhưng hôm nay chàng lại gặp biển phẳng lặng, êm ả, hiền hòa. Chàng đã thức dậy quá sớm nhưng biển vẫn ánh lên vẻ sáng bạc trầm ngâm của nó. Chàng đi bộ một lúc trên cát, cầu nguyện rồi trở về ngôi nhà nhỏ bên sườn núi. Tuyết và mẹ chàng vẫn chưa thức dậy, chàng ngồi nơi bậc thềm và chờ, cũng như chàng chờ tiếng chim hót trong bụi cây, cái tiếng trong trẻo lạ lùng ấy chiều hôm qua đã vang lên giữa im lặng tĩnh mịch làm chàng giật mình. Ðó là lúc chàng và những người thân của mình vừa đặt hành lý xuống thềm nhà. Con chim đã đón chàng bằng tiếng hót của nó. Nửa đêm chàng nằm thức nghe biển. Biển vừa vỗ về vừa trách móc. Và chàng thức dậy cầu nguyện. Lúc ấy chàng hoàn toàn quên đi hình ảnh Tuyết, chàng tưởng như mình đang ở trong giáo đường hay trong căn phòng đá tảng xám xịt lạnh lẽo. Chàng thấy tim mình thắt lại đau nhói và chàng gục xuống lúc quá nửa đêm.
Nhưng sáng ra thì chàng nhớ Tuyết quay quắt. Chàng đến ngay dưới cửa sổ phòng Tuyết mà ngồi chờ, chàng muốn gọi Tuyết thức dậy và rủ cô đi chơi trên bãi biển vắng vẻ. Chàng nhớ cái miệng cười. Nó như chế giễu chàng mà không có ác ý, mà đấy sự âu yếm. Chàng chưa bao giờ thấy ai có hàm răng đẹp như Tuyết. Chàng sẽ dâng linh hồn mình cho cô để cô xé nó tơi tả ra bằng hàm răng của mình, chàng sẽ chẳng hề kêu khóc. Lúc ấy chàng chỉ còn là một cái bóng nhẹ tênh cứ quanh quẩn bên chân cô. Suốt đời quanh quẩn bên chân cô đã là điều vĩ đại rồi, chẳng cần thiên đường, chẳng cần tiền bạc danh tiếng hay quyền lực. Cái ước muốn lạ lùng ấy cứ ám ảnh chàng mãi và chàng ngồi đợi Tuyết mà nhớ xót xa cái miệng cười. Chàng đi đi lại lại nơi khung cửa nhỏ, huýt sáo và hắng giọng. Bỗng nhiên Tuyết hiện ra nơi ấy, tóc rối, quần áo ngủ nhầu nát.
-Tôi đợi Tuyết đã lâu lắm.
Tuyết cười và đưa bàn tay cho chàng qua cửa sổ. Bàn tay của cô gái mới ngủ dậy ấm áp tròn trịa và dịu dàng. Chàng đang đứng dưới thấp nên kiễng chân mới dụi được mặt mình vào lòng bàn tay cô gái, chàng kêu lên, rụng rời tay chân. Chàng phải đứng tựa vào tường mới khỏi ngã. Lúc ấy Tuyết đã biến mất rồi.
Lát sau Tuyết hiện ra, hoàn toàn khác: Áo tắm hai mảnh, tóc đen mượt. Chàng quay mặt đi như thể đang giận dỗi.
-Anh không thích tôi mặc như thế này à?
-Không.
-Vậy thì ra biển phải mặc như thế nào, chẳng lẽ áo chùng đen?
-Tôi vẫn thường tưởng tượng Tuyết trong chiếc áo chùng đen, nhất là những ngày trở lại tu viện. Ðó là cái tuần lễ khủng khiếp nhất đời tôi. Tôi đứng một mình nhìn rừng thông, nhìn thung lũng, chỗ nào cũng thấy Tuyết mặc áo chùng đen, tóc cũng đen, bay phấp phới cùng với hai ống tay rộng. Tuyết chập chờn trên thung lũng, ẩn hiện trong sương khói. Tôi tưởng như sắp hóa rồ, như đang bị quỷ ám. Tuyết mà mặc áo chùng đen thì trên đời này không có ai sánh bằng. Hãy mặc đi và tôi suốt đời thờ lạy cô.
-Anh không thích nhìn tôi mặc áo tắm chứ gì?
-Hãy đi xuống biển một mình đi.
Khi nghe tiếng chân cô gái bước trên cát, lòng chàng nôn nao. Chàng nhìn những đám mây đang cuồn cuộn phía chân trời. Những đám mây hửng sáng nhưng biển thì vẫn điềm đạm. Tuyết đã mất hút nơi nào. Chàng lặng lẽ tháo giày ném trên kè đá và cứ mặc nguyên bộ quần áo rộng thùng thình đi lần xuống bãi cát ẩm ướt. Những con sóng nhỏ tạt nước lên chân chàng, biển thở mạnh và thổi vào mặt chàng vị nồng của muối. Chàng cảm thấy khỏe mạnh và vui, chàng lội xuống nước. Lúc ấy Tuyết từ ngoài xa bơi vào theo kiểu ếch, đầu cô ngụp lên ngụp xuống theo nhịp chậm.
-Ra đây, đức cha!
Tuyết trồi lên và đưa tay vẫy. Chàng ngạc nhiên thấy cánh tay trần của cô bóng ngời lên một màu da thịt rực rỡ. Tuyết lại giơ tay vẫy gọi:
-Ðức cha, ra đây chơi!
-Không biết bơi.
-Con sẽ cứu cha. Ra đây đi.
-Chết chìm ngay.
-Con rất thích được thấy đức cha chết chìm.
-Thật không?
-Thật.
Thế là chàng xăm xăm đi thẳng ra chỗ cô gái đang bơi.
-Khoan đã. Tuyết la lên. Cởi quần áo ra đi chứ.
Nhưng chàng đã bị ngập đến ngực. Rồi nước lên tới cổ. Lúc ấy chàng nghĩ: ta là con cừu Panurge duy nhất còn sót lại. Chàng biết rằng nếu mình bước thêm một bước nữa thì sẽ bị hụt chân chìm lỉm nhưng chàng không dừng lại. Lập tức chàng chới với và chìm xuống. Trong lúc chàng vùng vẫy cố ngoi lên, chàng nghe thấy tiếng cười khúc khích của cô gái và trong ký ức chàng hiện rất rõ hàm răng ngời bóng. Tuyết chạm mạnh vào lưng chàng và đẩy chàng lên, xô chàng dạt theo ngọn sóng.
-Ðứng xuống đi!
Chàng đặt chân xuống, chân chạm đất. Nhưng chàng lại ho sặc sụa, nước trào ra mũi.
Hai người lên bờ và ngồi nơi kè đá. Nước từ tóc và quần áo chàng chảy ròng ròng. Cô gái hỏi:
-Anh giận tôi không?
-Không bao giờ. Hãy bày ra trò chơi khác đi, tôi sẽ làm theo đến khi nào thực sự chết.
-Hay quá! Nhưng anh đừng mách với hai bác nhé.
-Vâng.
-Anh Phúc này! Anh học bơi đi chứ. Nếu có đi vượt biên thì anh sẽ có nhiều hy vọng sống sót hơn.
-Nhưng tôi vượt biên làm gì?
-Vì người ta sẽ không để anh sống yên ổn đâu.
-Tại sao?
-Vì anh không có hộ khẩu thành phố. Anh sẽ không xin được việc làm, anh muốn mở sản xuất kinh doanh cũng không được. Anh sẽ chỉ có thể sống như một chàng trai tầm thường mà thôi.
-Nhưng tôi chỉ cần có Tuyết thôi. Ngoài ra không cần gì cả. Tôi làm một người hành khất cũng được.
-Nhưng tôi không ưa những người hành khất đâu.
-Thì Tuyết đi làm, tôi ở nhà nấu ăn, rửa chén, giặt quần áo cho Tuyết.
-Ðàn ông ai lại làm thế.
-Mặc kệ đàn ông. Còn tôi chỉ thích như thế.
-Bướng. Anh chẳng có chí khí, chẳng có hoài bão gì sao?
-Hoài bão gì?
-Anh sẽ sang Mỹ hay Úc. Anh giỏi ngoại ngữ, có sức khỏe, anh có thể làm ra tiền và sống thong thả, đầy đủ. Anh không thích như thế à?
-Không. Tôi chỉ thích rửa chân cho em.
-Nhưng sẽ không có chân cho anh rửa đâu.
-Sao vậy?
-Vì tôi sẽ đi. Ði vượt biên. Tôi sẽ đi một mình.
-Cho tôi đi với.
-Anh theo tôi làm gì?
-Làm cái bóng của em.
-Mờ nhạt thế?
-Rất mờ. Khi yêu em tôi muốn xóa nhòa tôi.
-Xóa bằng cái gì?
-Cái nhìn của em. Nó làm tôi rung động, giống như tôi đang ôm em trong tay.
-Sẽ không bao giờ anh ôm được tôi đâu.
Cô nói và phóng xuống biển mất hút dưới làn nước xanh, chàng đứng ngẩn ngơ trên kè đá cho đến khi cô gái ngoi lên và bơi trườn sấp ra ngoài xa. Nắng rực rỡ trên biển, nước xanh và trong vắt. Tuyết lặn sâu xuống, nắng sớm làm cho da thịt cô trắng ngần và ngời sáng. Cô lộn một vòng để ngắm hai đùi mình rồi thở ra thật mạnh cho bong bóng nổi lên như hoa thủy tinh. Tuyết từ từ chìm xuống cho đến khi cô chạm phải một luồng nước lạnh mới búng chân trồi lên. Mặt biển vẫn phẳng lặng đợi cô. Cô nhìn thấy hàng dừa ở tít xa trong bờ, những mái nhà và xe cộ. Chàng trai không còn ngồi trên kè đá nữa, chàng đã lẩn khuất đâu đó hay đã tự xóa nhòa?
 *
Trên nền đỏ tía của chiếc váy rộng có in những cái hoa màu đen, tím than và xám, Tuyết và chàng trai từ bãi cát đi vào chỗ có hàng quán. Cô mặc cái váy ấy trông giống như một bà đầm lộng lẫy. Hai người bước những bước dài vừa đi vừa nói chuyện. Ông Thịnh và Bà Thúy ngồi nhậu nơi một cái bàn kê dưới gốc cây bàng, tiếng sóng át cả tiếng cười nói của đôi bạn trẻ dù họ đã đến sát chỗ hai ông bà ngồi. Phúc có vẻ linh hoạt hơn hôm mới đến rất nhiều, chàng mặc một chiếc sơ mi kẻ sọc rộng và dài trông vừa ngô nghê vừa đáng yêu.
Ông Thịnh mặc quần tắm màu hạt dẻ và mang kính mát. Ông nhìn những sợi lông mọc lưa thưa trên ngực chàng trai khi chàng đến ngồi gần và phanh ngực áo ra cho thoáng. Ông quàng tay qua ôm vai chàng và hỏi:
-Có tiến bộ gì không?
Tuyết nói:
-Hễ cứ ngụp đầu xuống là ảnh phải bịt mũi, không còn tay đâu mà bơi.
Phúc lắc đầu tự chế giễu mình. Chàng cắm cúi ăn món gan bò mà chàng rất thích. Ông Thịnh ngồi nhìn con trai mình ăn và rất hài lòng về sự mạnh bạo trong cách nhai, cách nâng cốc. Còn Bà Thuý thì thấy con trai mình giống hệt hình ảnh ông Thịnh thu nhỏ lại một chút. Phúc uống rượu vang đỏ rất nhiều nhưng chàng chê:
-Không ngon bằng rượu lễ.
-Vì rượu lễ con uống ít nên thấy ngon.
-Không phải đâu ba. Rượu lễ ngon ghê lắm. Từ bên Tòa Thánh Vatican gởi qua, đựng trong thùng gỗ. Ðức cha rất thương con, ngài thường gọi con đánh đô mi nô và cho con uống rượu lễ chiết ra trong chai đựng sâm banh. Cái màu đỏ của nó tuyệt lắm.
Ông Thịnh:
-Hồi ở Pháp ba cũng rất mê vang đỏ. Ở Mantes La Jolie thường ngày ba đi câu cá trên sôngSeine. Ăn cá nướng và uống vang đỏ. Bây giờ ba vẫn nhớ những ngày ấy.
Bà Thúy:
-Vậy thì ông càng nên đi với chúng tôi.
-Tôi già rồi, còn đi đâu nữa.
Tuyết bẻ gập ống hút, thắt thành cái nơ.
Chàng trai liếc nhìn Tuyết rồi cười. Tuyết nói:
-Bác còn nhiều thời gian để suy nghĩ mà. Con đi chơi đây.
Cô xoay người, và cái váy sặc sỡ bung ra, tóc cô cũng bay về phía ấy. Phúc xô ghế đứng dậy:
-Xin phép ba, mẹ.
Và chàng chạy theo cô gái.
Buổi chiều đến rất nhanh trên thành phố. Ðàn yến trắng bay ríu rít trong bóng hoàng hôn đã nhạt và mỏng dần trên mặt biển mù mịt. Mặt trời lặn trên biển, đỏ chót. Phúc lẽo đẽo theo sau cô gái. Gió biển cứ làm cho váy cô tốc lên, cứ phần phật, còn tóc thì chảy mạnh mẽ như suối. Hình ảnh ấy mê hoặc chàng, chàng gọi:
-Tuyết ơi, Tuyết!
Nhưng cô gái đi rất nhanh, đi lẩn trong bóng chiều, trong đêm tối. Chàng đuổi kịp cô gái khi mặt biển bị xóa nhòa trong bóng tối, chỉ còn nhìn thấy những vì sao trên cao và những đốm lửa dưới thấp. Biển đen và sâu thẳm nhưng hơi thở của nó mạnh mẽ tạt vào lồng ngực. Chàng ôm ghì cô gái trong tay và cảm thấy cái nóng của miền nhiệt đới trên cổ cô gái. Biển thổi vào giữa hai người, tóc cô gái đập vào mặt chàng đau rát, môi chàng dính những hạt cát nhỏ. Cô gái gái giãy dụa và cắn chàng:
-Anh đã trở thành người khác rồi.
Nhưng gió đã làm chàng rạo rực khủng khiếp. Chàng quỳ xuống dưới cát mịn vòng tay ôm qua lưng cô gái, áp mặt vào cái bụng mềm mại. Chàng nói:
-Cái hàm răng đẹp của em đâu. Hãy cắn tôi đi. Hãy cắn chết tôi đi. Hãy xé linh hồn tôi cho tả tơi từng mảnh.
-Anh điên rồi à?
-Ừ.
-Tôi rất ghét những kẻ nói lảm nhảm.
-Kệ em. Hãy cắn đi.
Tuyết đành quỳ xuống theo chàng trai và ôm lấy đầu chàng. Phúc say mềm, buông tay nằm ngửa trên cát. Ðêm vuốt ve họ bằng sự im lặng dịu dàng. Chàng trai nói:
-Suốt gần mười năm đi tu anh chỉ trò chuyện với những bức tường đá lạnh lẽo, những bức tường cao xám xịt và thiêng liêng. Anh trò chuyện với Chúa trong cái tĩnh mịch ấy. Trên những mái vòm, trên những cửa kính lúc nào cũng như ửng ánh hào quang của Chúa. Những tường đá cừ thỉnh thoảng vang lên những bước chân, tiếng thở và giọng nói trầm ấm của Chúa chạy lan trong từng gân đá tảng. Những lúc như thế lòng anh tràn ngập niềm vui, trong sạch như pha lê. Ðó là những cảm xúc mà em không thể nào biết được, mà ngoài những người tu kín ra không ai có thể trải qua. Những đồng thời cũng không ai trải qua được nỗi nhớ cuồng dại sau khi anh gặp em và trở về giữa những căn phòng đá xám rộng thênh thang đó. Một sự lạnh lẽo khủng khiếp, nỗi hoang vắng và cô đơn vô bờ bến. Anh nhìn mặt trời cũng thấy ảm đạm, nhìn đóa hoa nở trong vườn thấy trơ trẽn, nhìn rừng, rừng lặng thinh quay mặt đi. Em không thể hiểu được là lúc ấy anh nhớ tới mức nào. Anh đi lang thang mà như lạc trong nghĩa trang, đi giữa mộ bia bỏ quên lâu ngày rêu phủ. Những con dốc giữa trưa anh leo lên mệt lử ngồi nhìn dòng suối khô cạn. Thời gian ấy thật khủng khiếp.
-Ai dạy anh cái thói yêu đương như thế?
-Ba anh bảo thời trai trẻ ông cũng như thế. Liều lắm.
-Nhưng chắc là không có chuyện trèo tường trốn đi giữa đêm khuya như anh.
-Em có biết những bức tường đá ở tu viện như thế nào không? Cao ba mét, xây bằng đá ong sần sùi. Anh phải leo ở đoạn vắng vẻ nhất cách xa chỗ ông già và con chó ngao. Chỗ ấy gai góc mọc chằng chịt, anh luồn trong bụi gai, áo chùng mắc nhì nhằng gỡ hoài không ra, cuối cùng anh đu lên một sợi dây leo rướn người lên cố bấu lấy bờ tường. Lúc ấy con chó sủa dữ dội, nó chạy đến, sục sạo trong lùm gai nhưng khi nhận ra anh thì nó im lặng lảng đi. Anh nằm mọp trên đầu tường, ngực ê ẩm vì bị xây xát. Anh bám dây leo để tuột xuống nhưng nửa chừng thì dây đứt. Trời tối đen như mực, anh rơi xuống như hòn đá không biết lăn vào cái gì mà như bị trăm ngàn mũi kim châm sâu vào da thịt. Lúc hoàn hồn ngồi dậy mới biết kiến bu đầy mặt mũi tay chân, chui rúc cả trong quần áo lót. Anh chạy như bị ma đuổi, băng qua khu rừng thông đến một ngọn suối và nằm gục nơi đó. Thế mà lúc còn nằm thao thức trên giường anh nghĩ mình có thể chạy một mạch về tới Sài Gòn, đến ngay nhà em giữa đêm, bắt cóc em đi.
-Anh có máu điên trong người.
-Không phải. Nhưng anh mê em quá. Mê như điếu đổ. Ừ điếu đổ là gì em có biết không?
-Chẳng biết.
-Anh cũng không biết.
-Không biết sao anh lại nói?
-Vì anh không biết diễn tả cách nào để em hiểu về chuyện anh mê em.
-Em có gì đâu mà anh mê?
-Mê hàm răng.
-Thôi, hàm răng hoài chán lắm.
-Không chán. Không có cái gì của em làm anh chán. Em cứ cho anh một cái gì đi. Chẳng hạn như một cái cúc áo, anh sẽ chơi với nó suốt ngày không chán.
-Nhưng đến ngày thứ hai thì anh chán.
-Không bao giờ. Hay là em cho anh cái áo em đang mặc.
-Ðể làm gì?
-Anh mặc.
-Anh dám mặc em cho liền.
-Mặc ngay.
-Mặc ra đường?
-Ra đường thì anh khoát thêm chiếc áo chùng đen. Chẳng ai biết.
Tuyết quay mặt đi:
-Thôi mệt, không nói nữa.
-Nhưng anh thích nói.
-Thì anh ngồi đây mà nói một mình. Tôi về.
Rồi Tuyết bỏ chạy. Phúc la lên:
-Có cái gì lù lù ngoài biển kìa.
Cô gái cũng vừa nhận ra một con quái vật khổng lồ nhô mình lên khỏi mặt nước, cô rú lên và chạy ngược lại. Phúc đón lấy cô gái ôm siết vào lòng. Tuyết nhắm mắt lại run rẩy hỏi:
-Con gì vậy?
-Chẳng có con gì cả, khi nước rút xuống thì mô đá hiện ra.

11.

Nửa đêm, người ta nói những ngôi mộ sẽ mở ra và những hồn ma trở về dương thế nói cười, khóc lóc hay bay về báo mộng cho người thân. Và những cục lửa xanh đỏ trôi nổi đây đó trên ngọn cây, lẩn khuất trong bụi rậm, trong cỏ dại.
Ông Thịnh đã đến đây nhiều lần vào ban đêm, có khi ông ngủ lại bên phần mộ của vợ con. Nửa đêm ông thức giấc, ngồi hút thuốc lá một mình và nghe ngóng những tiếng giun dế, tiếng loài bò sát trườn đi sột soạt trong lá.
Buổi trưa chỉ còn lại tiếng chim lẻ loi và nắng chói. Những tấm bia đá ánh lên vẻ sửng sốt của người câm. Những bó hoa huệ héo rũ, những đóa hồng tàn tạ bên những mặt người lô nhô sau đám cỏ tranh, sau những bụi hoa mắc cỡ tím nhạt. Ðây đó trồi lên những chòm lá xanh thấp và đơn độc. Nhưng vẻ sáng hồn nhiên ấy cũng xóa đi được sự im lặng hiu quạnh. Ông Thịnh đi chân đất mặc quần kaki bộ đội sờn rách. Ông ngồi trên một tảng đá dưới gốc cây, bàn chân to bè của ông dẫm lên cát sạn. Những viên sạn to như những hạt muối biển màu nâu. Dường như đó là đá ong vỡ ra từ ngàn năm trước, vùi trong bụi đất, trong rác rưởi. Ông nghĩ rằng trong những buổi trưa như thế này những đứa con rất cần có ông bên cạnh để canh cho chúng ngủ. Cũng như ngày xưa chúng đã ngủ vùi trong lòng ông hay nằm co lại trên chiếc giường nhỏ. Ông ngồi ngắm chúng, lấy khăn lau mồ hôi trán cho chúng.
Một con chim khách ở đâu bay đến đậu trên bia đá, nó kêu lên mấy tiếng trong trẻo rồi bay vụt đi. Có ai đó bẻ củi khô phía sau túp lều tranh. Con chim khách lại bay đến, lần này nó đậu trên mái lều. Lão già giữ nghĩa địa hiện ra dưới gốc cây bã đậu, tay ôm bó củi. Con chim khách kêu lên mấy tiếng rồi bay đi. Lúc ấy lão cũng vừa thấy ông Thịnh đang lững thững từ ngoài nghĩa địa đi vào.
-Bác có mua được rượu không? Ông Thịnh hỏi.
-Ông vào đây, ông lão nói và ném bó củi khô vào trong xó bếp cạnh ngọn lửa nhỏ đang cháy.
Hai ông già dọn rượu ra cái bàn tre thấp. Mấy miếng khô cá màu vàng xỉn sần sùi như dăm bào. Lão già bưng chén nước tương đậu nành đen quánh ra đặt bên chai rượu. Ông Thịnh hỏi:
-Bác nấu gì đó?
Và ông ngồi xuống bên bếp lửa, mở vung ra xem, thấy đầy một nồi khoai mì. Ông đậy nắp lại, dùng một que củi nhỏ kều than hồng ra ngoài. Ông nướng những miếng khô cá và thảy lên cái bàn tre. Hai ông già ngồi uống một nửa lít rượu gạo. Lão già nói:
-Tôi không còn bà con thân thích gì cả, tôi sống với những người chết, họ cũng thân như trong gia đình.
-Họ ít lời. Ông Thịnh nói. Trong mười năm ở đây có chuyện gì xảy ra giữa bác và những nấm mồ này không?
-Có một cặp trai trẻ kia yêu nhau ghế gớm lắm, thế rồi cô gái bị xe đụng chết. Chàng trai cứ đến đây khóc lóc thảm thiết. Suốt đêm chàng ta ngủ với nấm mồ. Rồi lân la vào đây xin tôi cho giúp việc.
-Có lẽ mai mốt tôi cũng sẽ bắt chước chàng trai ấy. Bác có nhận tôi không?
-Ông thì tôi nhận. Lão già cười móm mém. Nhưng ông mà đến đây làm gì. Cái cậu thanh niên hôm trước cũng là con ông đó hả?
-Con tôi. Con bà sau.
-Vậy thì ông đến đây làm gì. Tôi biết ông nói chơi. Trước sau gì ông cũng trở lại thành ông chủ như ngày xưa. Bây giờ nhà nước khuyến khích cho tư nhân làm ăn mà.
-Thực ra, nếu muốn thì tôi cũng sẽ trở thành như thế. Nhưng sao tự nhiên tôi thấy buồn quá bác ạ. Tôi không còn thiết gì nữa.
Ông Thịnh uống cạn ly rượu và rót cho lão già. Hai người ngồi uống với nhau đến xế chiều thì có một đàn dê đông đúc đi vô trong sân. Những con dê cái, vú to lòng thòng giương mắt nhìn hai người uống rượu, những con dê đực râu quặp, lang trắng đen, trắng nâu hay đen tuyền đi loanh quanh nhâm nhi lá cây. Thường ngày thì lão già đánh đuổi chúng nhưng bây giờ ngà ngà say nên lão cứ mặc kệ. Người chăn dê đội cái nón cời rách tơi tả từ ngoài bờ rào đi vào, tay cầm cái roi nhỏ. Ông ta chắc, khỏe, tướng đi bệ vệ. Tóc tai ông ta bù xù, râu ria lởm chởm và áo quần thì vá trăm miếng. Ông ngồi nghỉ dưới bóng cây bả đậu và phanh ngực áo, dùng cái nón lá quạt mát, lấy thuốc rê ra vấn hút nhưng dường như cái quẹt đã hết đá nên không mồi lửa được. Ông ta đứng dậy, xăm xăm đi vô chỗ hai ông già đang ngồi uống rượu. Nhưng khi ông ta vừa đặt chân lên ngưỡng cửa thì chựng lại.
Ông Thịnh cười hề hề đưa tay nâng nhẹ chiếc nón lá lên:
-Chào đại tá.
Ðó là Ðỗ Thuận, nguyên quận trưởng quận Năm, người mà ông Thịnh đã tặng cho chiếc xe Mercedes năm nào.
-Anh Thịnh!
Người chăn dê vứt cái nón lá xuống đất.
-Anh về lúc nào vậy?
-Ðược gần năm nay. Sao chú em lại làm nghề này?
-Những con dê này nó đang nuôi tôi đấy. Không có chúng thì chết lâu rồi. Mời ông anh lại nhà chơi. Tôi ở xóm dưới kia.
-Ðược. Ông Thịnh nói. Ðể coi chú mày làm ăn ra sao.
Họ đi quanh trong xóm. Ðường đất đỏ bị nước mưa xói mòn thành từng hầm hố và cỏ thì mọc lan trên lối đi cùng với lá khô.
Cái nhà gạch thô sơ nằm giữa một vườn cây ăn trái, chuồng dê dọc theo hàng rào có mái che và ngăn bằng lưới B40. Trên nền đất vung vãi những vỏ chuối, lá cây và phân dê. Những con dê trong chuồng thấy đàn trở về thì kêu be be inh ỏi. Ðỗ Thuận bắc hai cái ghế mây dưới gốc cây. Ông Thịnh hỏi:
-Sữa dê đâu?
-Ðang hâm lại.
Ðỗ Thuận mở hộp thiếc lấy ra mấy cái phong bì. Những bức thư từ nước ngoài gởi về dán đủ thứ tem khác nhau.
-Này là thiếu tá Lộc hiện là chủ cây xăng ở bang Cali. Này là ông vua nước tương Con Mèo Ðen hiện mở quán rượu ở Texas. Còn đây là đại tá phi công Lê Hùng chủ khách sạn ở Úc.
Thư nào cũng có hình, những thế giới vàng son xa lắc nào đâu tập trung về đây muôn màu muôn vẻ. Ông Thịnh không xa lạ với những khung cảnh đó nhưng vì trong ấy có hình ảnh của những người bạn ông, những người mà ông biết rõ quá khứ, tính nết, sở thích, nên ông cũng thấy bồi hồi.
-Anh đi với tôi không? Ðỗ Thuận đột ngột hỏi.
-Khi nào tôi thích thì tôi đi. Bây giờ thì chưa.
-Nhưng đang có một chuyến rất ngon. chuẩn bị chu đáo. Bến bãi mua hết. Công an nó gác cho mình đi mà.
Người giúp việc đem sữa dê ra. Ông Thịnh nhìn cô gái lạ mặt, hỏi:
-Bà xã đâu?
-Ðang ở Canada hành nghề bác sĩ.
-Mấy nhỏ?
-Ði ba đứa. Tôi còn lại đứa con gái. Chuyến đó tôi bị kẹt. Chần chờ tới bây giờ. Nhưng chuyến này ngon lành. Anh chuẩn bị đi.
-Vậy thì tốt. Chú em cứ đi, để đàn dê lại cho tôi, khi nào thích thì tôi đi sau.
-Anh tưởng dễ có một chuyến ngon lành như thế này à?
-Khi đã quyết tâm đi thì phải có chứ.
-Anh thừa biết rằng dịp may nó không đến hai lần đâu.
Ông Thịnh hớp một miếng sữa dê.
Ðỗ Thuận kéo khách đứng dậy. Hai người đi quanh quanh các gốc cây, vỗ mấy trái mít, ngóng mấy quả khế ngọt, vú sữa, xoài. Ông Thịnh nói:
-Cơ ngơi thế này được quá. Bỏ đi đâu.
-Tôi phải đi thôi anh à. Sống ở cái xó này không chịu được.
Ông Thịnh ăn liền ba trái vú sữa, ném vỏ dưới gốc cây và chùi mép, cởi phăng áo ngoài. Ðỗ Thuận thì cắn xoài chín cây ăn như trẻ con, hàm râu rậm của ông ta lóng lánh những giọt mật. Ông mút ngón tay và le lưỡi liếm quanh môi.
Họ ngồi xuống võng, lá xanh ngắt trên đầu họ. Con chó ngao nhỏ từ trong bếp chạy ra. Ðỗ Thuận vuốt ve nó và hát nho nhỏ trong miệng. Chỉ một lát sau ông ta ngủ, mình trần trùng trục, lông ngực đen lánh. Ông Thịnh khẽ đưa vòng mình lắc lư. Lá cây sáng xanh và trong vắt, ông thấy cả được những gân lá, những con kiếng vàng lăng xăng tận trên cao. Rồi ông cũng ngủ.
*
Philippe Phúc khuấy cho tan đường và lắng nghe tiếng muỗng chạm vào ly cà phê.
-Tại sao con lại quyết định như vậy?
-Vì con không thể sống xa Tuyết. Con đã bỏ đạo để theo cô ấy, giờ thì con tiếc gì cái đất nước khốn khổ này.
-Nhưng ở đây có ba. Chẳng lẽ đối với con ba không là cái gì cả?
-Chẳng phải thế. Nhưng tại sao ba không đi cùng con, cùng mẹ?
Ông Thịnh làm thinh, uống một ngụm cà phê, đặt cái tách xuống bàn và yên lặng ngắm cậu con trai mình. Lát sau ông nói:
-Ðó là điều con chưa thể hiểu.
-Tại sao?
-Vì con không có một quá khứ như ba, không từng trải qua những bi kịch nghiệt ngã như ba, không có một trái tim đã nguội lạnh…
-Nhưng con xin ba đừng đặt con vào hoàn cảnh phải chọn lựa một cách đau lòng.
-Ðó chính là cuộc đời. Cuộc đời, nghĩ cho cùng, cũng chỉ là một chuỗi dài những sự chọn lựa. Làm hay không làm, yêu hay không yêu, đi hay không đi. Khi con người dám chọn lựa thì hắn đã trưởng thành.
-Nhưng con cũng yêu ba như con yêu Tuyết. Con xin ba hãy đi cùng mẹ con. Con thì không thể sống xa Tuyết và Tuyết thì tràn đầy khát vọng về một chân trời rực rỡ nào đó. Con chưa thấy ai tự tin, mạnh mẽ như Tuyết. Con không thể cưỡng lại được cá tính của cô ấy. Con không thể bỏ Tuyết nhưng con cũng không thể bỏ ba được. Chỉ còn một cách là ba phải đi với con thôi. Ba hứa đi. Chỉ còn bốn giờ nữa là lên đường.
-Vậy thì chúc con lên đường bình an.
Chàng trai bước ra cửa nhưng rồi dừng lại.
-Ba không thể thay đổi được sao?
-Ba cũng định hỏi con câu đó. Nhưng thôi, con hãy đi đi, ba hiểu con vô cùng bởi vì hồi còn trẻ ba cũng có một mối tình mãnh liệt như vậy. Rồi cũng có ngày cha con mình gặp lại nhau mà.
Ông Thịnh đóng cánh cửa lại và thấy kiệt sức. Ông ngồi bệt xuống đất. Tiếng chân bước xuống thang gác cứ vang trong đầu ông, ông muốn mở cửa ra và gọi con nhưng có một cái gì đó đang tan vỡ trong ông khiến ông lịm đi trong nỗi cô đơn. Ông ngã người tựa lưng vào tường và nhắm mắt lại. Tiếng bước chân đã mất hút và chỉ còn sự im lặng quạnh quẽ của buổi xế chiều. Ông nằm im như thế rất lâu cho đến khi ông chập chờn thấy mình đang lâm vào một tình thế hiểm nghèo nào đó không rõ rệt, chỉ thấy nỗi hoảng hốt chiếm lĩnh ông và ông vùng dậy, hoàn toàn không biết mình vừa nằm mơ thấy cái gì. Mồ hôi ướt đầm đìa lưng áo và tim ông đập hổn hển…. Rồi chợt nhớ ra tình cảnh của mình, ông bật dậy, vội vàng khóa trái cửa lại và xuống cầu thang.
Trời chiều, thành phố dịu mát trở lại, ông đạp xe như điên giữa phố đông người. Nhưng ông cảm thấy rằng mình vẫn còn quá chậm, rằng có lẽ mình đã trễ mất rồi. Khi ông quẹo vô hẻm thì đèn đường bật sáng. Ông lách bọn trẻ con đang chơi đá banh ngoài đường, vượt qua chúng và đậu lại trước ngôi nhà có cổng sắt sơn màu nâu. Ông bấm chuông và một người đàn bà ăn mặc lòe loẹt ra mở cửa.
-Ði chưa? Ông hỏi.
-Mời bác vào nhà. Người đàn bà khép cảnh cổng sắt lại.
Ông ngồi xuống chiếc ghế mây như một kẻ thất thần. Phillipe Phúc vội vàng đứng lên đến bên cha, cả bà Ngọc Thúy lẫn Tuyết cũng đến bên ông.
-Ðể em đi lấy cho mình một ly cam vắt.

12.

Chiếc xuồng ghé vào bờ lúc ba giờ sáng. trời tối đen không phân biệt được đâu là nhà đâu là chòm cây. Chỗ mọi người bước lên là một lùm tre có con đường mòn. Người dẫn đường kiểm tra lại xem có ai còn sót dưới ghe không rồi ra hiệu cho mọi người theo mình.
Dường như đó là một vườn xoài. Mặt ông Thịnh chạm vào những cái lá to bản, dài và nhọn. Ông bước mà dè chừng những cành xoài thấp, cứ theo cái bóng đen nhỏ thó đằng trước mà đi. Thật kỳ quái, chẳng biết người ta sắp xếp thế nào mà khi lên “tắc-xi” thì ông chỉ có một mình giữa những người xa lạ. Cuộc “du lịch” bắt đầu từ chín giờ đêm tại một bến đò hẻo lánh, đi suốt đêm, qua những nhánh sông, những kinh rạch chằng chịt và cuối cùng đến đây. Vẫn không biết được người thân của ông đã đi đằng nào.
Căn nhà lá khá rộng. Ánh đèn dầu gợi lên vẻ hiu hắt và buồn. Trên hai chiếc ghế dài bằng gỗ thô sơ kê ở đầu chái nhà, những người khách ngồi nhìn nhau xầm xì. Ða số là đàn bà. Họ nhai kẹo cao su và uống nước trong những cái bi đông mang theo. Ông Thịnh ngồi ở mép ghế dài, ông hút thuốc lá và nhìn ra ngoài đêm tối. Người đàn bà trẻ mặc toàn đen ngồi đối diện ông dường như có vẻ muốn làm quen với ông. Bao giờ quay lại ông cũng bắt gặp cái nhìn của bà ta, cái nhìn dịu dàng với nụ cười kín đáo. Ông đón nhận cái nhìn ấy với vẻ mệt mỏi.
-Anh có chuyện gì buồn vậy? Người đàn bà hỏi.
-Không. Ông nói và mỉm cười một cách gượng gạo.
Người đàn bà mặc đồ đen đưa cho ông thỏi kẹo cao su, ông tiếp lấy và nhìn bà ta với vẻ dò hỏi.
Phục vụ khách là một bà lão gầy nhưng nhanh nhẹn và vui tính. Bà dọn cơm trên cái bàn dài ở giữa hai hàng khách. Bà nói:
-Xin các vị đừng lo lắng gì cả. Ở đây đã có chúng tôi phục vụ mọi thứ. Xin mời dùng cơm và nghỉ ngơi, ngày mai chúng ta lại đi tiếp.
Mọi người cắm cúi ăn vì buồi chiều khi nằm bẹp dưới sàn ghe hít thở cái mùi dầu máy và hơi người chẳng ai nghĩ đến chuyện ăn uống gì cả. Người đàn bà đưa cho ông Thịnh một lon coca và ép ông phải uống. Ông nhận và cám ơn.
Mọi người đã tản về chỗ nằm của mình. Người đàn bà áo đen bảo ông Thịnh:
-Em gặp anh một tí.
Rồi bà nắm tay ông dẫn ra cái sạp tre dưới gốc xoài.
-Anh đi chung với em nha anh?
-Cô đi có một mình à?
-Dạ. Ra tới đây tự nhiên em sợ quá.
-Nhưng tôi có giúp gì được cho cô đâu.
-Nhưng em cần anh lắm. Anh đi chung với em nhé?
Người đàn bà xòe cái quạt giấy ra quạt cho ông và bảo ông nằm xuống. Ông cảm thấy dễ chịu vì sự săn sóc ấy nhưng cũng vì người đàn bà thật đẹp. Ông nằm xuống và nhìn cái trán phẳng lặng của người đàn bà. Ông hỏi:
-Ở đây có mấy chàng trai trẻ, sao em không trông cậy vào họ?
-Tự nhiên em tin cậy anh. Không hiểu sao như thế.
-Chồng em làm gì?
-Trước đây anh ấy là một phi công. Sang Mỹ anh làm nhân viên tiếp liệu cho một phi trường ở Cali.
-Thôi được. Có gì tôi sẽ giúp em. Bây giờ em đi ngủ đi.
-Không. Em sẽ ngồi đây quạt cho anh. Anh ngủ đi.
-Em nghe tôi nào. Em đi ngủ đi. Ðường còn dài lắm. Em cần sức khỏe.
Người đàn bà mở cái vì nhỏ đưa cho ông một hộp thiếc nhỏ xíu và nói:
-Sâm đấy. Anh giữ mà xài.
Rồi bà ta đặt hộp sâm lên ngực ông, lẳng lặng bỏ đi trong bóng đêm.
Ông Thịnh mân mê cái hộp nhỏ, đưa lên mũi ngửi rồi nhét vô túi quần. Sự mệt mỏi làm ông thiếp đi rất nhanh, đến lúc tỉnh dậy thì trời đã sáng rõ. Mọi người đang đi đi lại lại quanh gốc cây, đánh răng, rửa chân tay và tập thể dục. Ngôi nhà lá đêm qua bây giờ biến thành một cái quán nước có nhạc xập xình và cái doi đất mà tối qua chiếc xuồng tấp vô lại là một cái xóm nhỏ thưa thớt độ mươi nóc nhà.
Mọi người quây quần quanh những cái bàn nhỏ uống cà phê, hút thuốc và ăn điểm tâm.
Người đàn bà đêm qua đến và mang thuốc lá cho ông Thịnh. Ông cầm gói thuốc lên ngửi và cười.
-Tôi hút ống vố.
Nhưng ông cũng rút một điếu châm lửa. Nỗi lo lắng về cậu con trai đã biến mất. Có lẽ ánh sáng tươi tắn của buổi sáng đã đem lại cho ông niềm vui. Ông ngắm người đàn bà ngồi trước mặt mình, cái vai trần và áo thun sát nách màu đen.
Người đàn bà chợt hỏi:
-Trước đây anh là sĩ quan phải không?
-Tôi làm ruộng.
-Em không tin.
Ông xòe hai bàn tay to lớn ra trước mặt bà ta:
-Em có thấy những cục chai dày cộm không?
Bà cầm lấy bàn tay ông, săm soi rồi nói:
-Nhưng anh không phải là người làm ruộng. Cách ăn nói của anh không phải của một người quê mùa. Anh đi học tập cải tạo mới về phải không?
-Phải. Nhưng tôi không phải là sĩ quan. Người ta gọi tôi là tư sản mại bản.
-Vợ con anh đâu?
-Cũng đi trong chuyến này nhưng không hiểu vì sao người ta lại bố trí cho tôi đi một “tắc-xi” khác. Tôi vẫn chưa gặp được.
-Thế nào khi ra tàu lớn cũng gặp. Em đi chung với gia đình anh, nha?
-Thì đi. Bà già bảo riêng với tôi rằng chín giờ sáng nay khởi hành ra biển.
-Em sẽ nằm cạnh chỗ anh. Ðừng nằm gần buồng máy như hôm qua. Em mửa thốc tháo.
Một người đàn ông đầu hói và một người trạc bốn mươi, râu rậm từ ngoài mé rạch bước tới. Người đàn ông hói đầu chìa tay cho ông Thịnh bắt và hỏi:
-Toa còn nhớ moa không?
Ông Thịnh nheo mắt, nhìn rồi vỗ vai người nọ:
-Ðại úy Lê Oánh, phải không?
Lê Oánh gật đầu rồi day sang người đàn bà:
-Xin lỗi chị nhé. Chúng tôi nói chuyện riêng một chút.
Ba người trao đổi với nhau bằng tiếng Anh độ năm phút. Người đầu hói có vẻ mặt đăm chiêu lo lắng. Tuy nhiên ông Thịnh vẫn tươi cười. Ông mời thuốc lá hai người và hỏi Lê Oánh:
-Tôi nghe nói hôm giải phóng, sư đoàn của anh đụng độ ác liệt lắm phải không?
-Chết như rạ. Họ chết mình cũng chết. Lúc đó tôi đóng quân tại An Khê. Ðoạn đường 19 từ An Khê đi Qui Nhơn là đoạn đường tử thần.
Ông Thịnh hỏi:
-Làm thế nào mà xuống đèo được?
-Lúc đó tôi bàn với tay trung tá chỉ huy trưởng đơn vị là phải cắt rừng đi về phía nam chừng hai mươi cây số rồi đâm thẳng xuống phía đông, qua khỏi đèo sẽ trở lại đường 19. Ban đầu anh ta không nghe. Anh ta có ý định dùng xe tăng chạy xuống đèo An Khê nhưng sao qua đèo được. Ðó là một địa hình vô cùng hiểm trở. Vi xi phục kích hai bên đèo với một hỏa lực mạnh chưa từng có. Máy bay phản lực quần thảo ném bom suốt ngày đêm nhưng không ăn thua. Xe nào đi qua cũng bị thụt B40 cháy rụi. Từ khi đèo bị cắt, không có một xe nào qua lọt. Cuối cùng tay chỉ huy trưởng phải chịu. Anh biết họ phá hủy xe tăng bằng cách nào không?
-Cách nào?
-Rút chốt lựu đạn. Cột chặt mỏ vịt bằng dây thun. Mở bình xăng xe tăng ra. Mỗi bình thảy vào một trái lựu đạn. Chỉ một lát sau dây thun nở dãn ra. Lựu đạn nồ bùng, xe bốc cháy lăn xuống vực. Hàng loạt xe tăng bị phá hủy như thế. Tụi lính ôm mặt khóc ròng. Tôi cũng khóc. Lúc đó không thể không khóc được. Cứ bùng, bùng, bùng. Lựu đạn nổ liên tục. Cột lửa phụt lên, chiếc xe dẫy nẩy lăn xuống vực. Quân lính đeo ba lô súng đạn đầy mình, mặt mày thất sắc. Chúng tôi cắt rừng đi về phía nam suốt hai ngày đêm. Ban ngày thì tương đối yên tĩnh. Khi đêm xuống tụi lính và tụi quân cảnh, tụi cảnh sát thanh toán nhau. Chúng thù hằn nhau từ đời kiếp nào, nhất là lính và quân cảnh. Nửa đêm đang đi nghe đùng một tiếng. Ối trời ơi! Nó giết tôi! Thế là tụi lính đi theo tôi cười. Chúng nói: Ð.m mấy thằng quân cảnh gà chết. Ở thành phố chúng nó bắt nạt bọn lính nhưng vô trận chúng nó lại là những thằng công tử bột. Tụi lính của tôi nó giết gần sạch toán quân cảnh và cảnh sát đi theo lúc ấy. Hai ngày sau chúng tôi bắt đầu đi về hướng đông…..
Câu chuyện mới kể tới đó thì có lệnh xuống ghe. Lúc ấy là chín giờ sáng. Người đàn bà áo đen theo ông Thịnh sát nút, cả hai người bạn mới cũng không rời ông. Họ nằm ở vị trí tương đối xa buồng máy nhưng sự rung chuyển của động cơ cũng làm mọi người choáng váng. Chiếc tắc-xi lướt đi. Và khi những người trong khoang cảm thấy sóng rập rềnh quanh mạn thuyền thì nó đã ra tới biển. Nhiều người nhỏm dậy muốn leo lên trên khoang nhưng Lê Oánh đã ngồi dậy, rút trong mình ra khẩu colt 45 cầm nơi tay.
-Nằm xuống hết! Ông ta ra lệnh. Chưa hết nguy hiểm đâu. Chừng nào có lệnh của tôi mọi người mới được rời vị trí.
Mọi người lại nằm xuống. Thuyền cứ lướt đi rập rềnh trên sóng.
Lúc ấy ở một điểm cách xa chừng mười căy số, một chiếc “tắc-xi” khác cũng vừa ra tới biển. Phillipe Phúc và Bà Thúy say sóng nằm vùi dưới sàn tàu, chỉ có Tuyết là tỉnh táo. Cô cho hai người thân của mình uống hai viên thuốc Nautamine và ngậm sinh tố C. Họ nhắm nghiền mắt và toát mồ hôi. Tuyết mặc một cái áo cánh mỏng, quần xoa Pháp màu đen, tóc búi cao tuy vậy cô vẫn cảm thấy quá nóng bức vì hơi người cứ bốc lên ngùn ngụt. Trong thứ ám khí ấy còn có lẫn mùi phân người và mùi nước tiểu. Tuyết cố ngủ một chút để quên đường dài nhưng không ngủ được, mắt thì nhắm mà đầu óc cứ nghĩ miên man. Tiếng động cơ cứ xình xịch đều đặn khó chịu. Tuyết ngồi dậy ngoi lên chỗ khe hở của ván sàn hít một chút gió biển nhưng thuyền cứ tròng trành và cô bị ngã ngửa ra đè lên người nằm kế bên. Anh ta hoảng hốt mở bừng mắt và hỏi:
-Cái gì vậy?
-Xin lỗi. Tuyết nói và đưa tay xoa bóp bả vai mình.
Người phục vụ đem bữa trưa đến cho từng người và dặn họ không được rời vị trí. Mọi người ăn qua quýt. Tuyết gọi Phúc và bà Thúy dậy nhưng họ cứ nằm mê đi.
Khoảng bốn giờ chiều chiếc “tắc-xi” giảm tốc độ và từ từ dừng lại. Mấy chiếc “tắc-xi” khác cũng vừa trờ tới chạy vòng vòng tìm chổ cặp sát vô mạn tàu lớn. Những người trên tàu lớn buông thang xuống cho khách lên. Ðàn bà và trẻ con lên trước. Cứ tuần tự như thế. Mọi việc diễn ra khá trật tự. Hoàng hôn xuống rất nhanh, chiều tối dần. Mặc dù người ta cố hết sức để hạn chế tiếng động nhưng quang cảnh diễn ra cũng khá huyên náo. Gió thổi mạnh làm chiếc tàu lớn cứ rập rình rập rình.
Khi mọi người đã lên hết trên tàu lớn và sắp nhồ neo thì không biết từ đâu trong bóng tối hai chiếc ghe máy xuất hiện, động cơ gầm rú.
-Cho chúng tôi lên với.
Chủ tàu rọi đèn pin xuống chỗ hai chiếc ghe lạ vừa xuất hiện thấy lố nhố những đầu người đen kịt ông ta hoảng hồn.
-Không được, chủ tàu nói, tàu đã chở quá tải rồi.
Tiếng người dưới ghe lại la lên:
-Không cho, tôi báo động cho công an bây giờ.
-Báo động đi. Ở đây chẳng ai nghe tụi mày đâu.
Nhiều tiếng người dưới ghe nhỏ la hét cùng một lúc:
-Ð.m cho lên không? Trả lời lẹ đi!
-Lên sao được. Các anh đông như vậy chở sao nổi. Bộ muốn chết chìm cả lũ hả?
-Nói láo. Tôi hỏi ông lần cuối: cho lên không?
Liền sau câu nói là một loạt đạn tiểu liên giòn giã.
Chủ tàu quay sang hỏi tài công và những người thân cận của mình:
-Ý các anh thế nào?
-Bắn chết mẹ chúng nó đi. Tài công nói.
-Không được. Chủ tàu nói. Lúc nãy rọi đèn pin xuống tôi thấy súng ống tụi nó nhiều lắm. Có cả B40.
Tài công nhổ toẹt xuống sàn tàu:
-Ð.m quân khốn nạn. Cho nó lên rồi chết chìm cả lũ à.
Chủ tàu tiếp tục thương lượng với bọn dưới ghe:
-Tôi cho các anh lên thì được, nhưng rồi các anh cũng sẽ chết chìm chung với chúng tôi. Các anh suy nghĩ đi.
-Nói láo! Tàu ông còn rộng lắm.
-Không tin mời một người trong các anh lên đây coi. Chật cứng cả rồi. Xếp lớp như cá mòi từ dưới buồng máy trở lên.
Chiếc thang dây được ném xuống và một tên dưới ghe leo lên. Khi thấy tàu đông quá hắn ta có vẻ suy nghĩ. Cuối cùng hắn quyết định:
-Thôi được, ông cho tôi lên một ghe. Ba chục người thôi.
-Mười người. Chủ tàu nói. Mười người đã là liều mạng rồi đó. Anh cãi tôi là chết cả đám.
-Không được. Tôi cần đi ba chục người.
Sự im lặng ghê rợn bao trùm cả một vùng biển mênh mông đen kịt. Chỉ nghe tiếng gió hú như có loài thuồng luồng biển đang động cỡn chạy giỡn nhau quanh đây.
Chủ tàu đứng trầm ngâm trên boong, xuôi tay nhìn những người khách bất đắc dĩ đang lần lượt leo lên tàu mình.
Rõ ràng chúng toàn là một bọn đầu trộm đuôi cướp và du đãng ở đâu tụ họp lại. Không biết vũ khí chúng đánh cắp ở đâu mà cứ đeo lủng lẳng, cứ kè kè bên hông.
Chiếc tàu nặng nề xình xịch quay mình đi.
*
Nếu như đêm hoàn toàn tối đen thì sự sợ hãi có lẽ sẽ âm thầm hơn, đàng này đêm có trăng, trăng mờ đục, cũ kỹ và âm u sau lớp sương mù dày đặc. Tàu cứ lướt đi trong một vùng biển trời xám xịt, mốc thếch và vàng xỉn như thế. Người đàn bà áo đen không biết đã bị xô đẩy vào một góc nào trên tàu, trái lại ông Thịnh đã tìm lại được Bà Thuý, Tuyết và cậu con trai mình. Họ nằm sát cạnh nhau giữa đám người ngổn ngang nằm ngồi vắt vẻo đây đó.
Tất cả mềm đi, thiêm thiếp như những con cá mòi. Kẻ tệ hại nhất bây giờ không phải là ông Thịnh hay Phúc mà là Ngọc Thúy. Bà mửa thốc tháo nhiều lần, mà cơ bụng cứ thắt lại, không còn gì để ói ra nữa. Tuyết là người tỉnh táo nhất, cô quạt cho Bà Thuý đến mỏi rời hai tay. Mùi dầu quyện với hơi người làm cho không khí ngột ngạt. Sự ngột ngạt càng tăng lên khi con tàu lắc lư theo theo những đợt sóng mạnh mẽ dường như càng lúc càng dữ dội hơn theo cơn gió. Dưới gầm tàu, đèn thắp lù mù lác đác khắp nơi. Hành khách nằm ngồi ngổn ngang giống như những phu mỏ nghỉ mệt sau khi đã lao động kiệt sức. Khung cảnh phảng phất mùi địa ngục, nó đen xỉn, nó hôi hám, nó lúc nhúc, nó chật hẹp và nóng như thiêu đốt.
-Mở lỗ thông hơi đi.
-Mở nắp hầm tàu ra!
Nhiều tiếng la phát ra từ những góc tối. ở trên boong tiếng vọng xuống ồm ồm như tiếng quỷ hú trong gió:
-Sóng to không mở nắp hầm được.
Ông Thịnh thăm mạch Bà Thuý thấy quá yếu nên quyết định bế xốc bà lên, đi lại chỗ nắp hầm. Ông đưa bà lên boong, xong đu hai tay nhảy lên và đậy nhanh nắp hầm lại. Lúc này ông mới biết trên boong đã có nhiều người, trong số đó có người bạn đầu hói và Ðỗ Thuận. Bà Thuý tỉnh lại rất nhanh và không khí trong lành của biển làm cho bà dễ chịu. Bà ngồi dậy ôm lấy ông và hỏi:
-Ði đến đâu rồi?
Tàu lắc mạnh một cái khiến ông Thịnh và bà đều ngã ngửa ra. Họ lồm cồm bò dậy. Chủ tàu rọi đèn pin đến trước mặt ông Thịnh:
-Ông là bác sĩ?
-Không phải.
Chủ tàu hét lên:
-Bác sĩ của tôi đâu rồi?
Nhưng không có ai lên tiếng. Viên sĩ quan hành quân của sư đoàn 22 thấy chủ tàu đến vội sấn tới trước mặt y:
-Tàu chở quá tải. Ông có thấy không?
-Nhưng đó không phải là lỗi của tôi.
-Nhưng bây giờ phải làm sao chứ? Cứ để tàu tròng trành như thế này à?
-Ông yên tâm chúng tôi có kinh nghiệm đi biển.
Trên radio thông báo tin khí tượng nghe được khá rõ trong gió mạnh. Viên sĩ quan lại nói với chủ tàu:
-Ông có nghe đài không? Tại sao lại tổ chức đi trong tình hình khí tượng như thế này? Gió cấp sáu đến cấp bảy, biển động đến động mạnh. Ông thấy không? Ông điên rồi à?
Một người đàn ông mảnh khảnh gương mặt khắc khổ đang cặm cụi dưới ánh đèn bên chiếc la bàn, nghe hai người cãi cọ thì ngẩng lên:
-Tôi là đại úy hải quân. Tôi nói để các ông yên tâm. Biển động như thế này là chuyện thường. Xin mọi người hãy bình tĩnh. Nếu hỗn loạn thì tình thế càng khó khăn hơn thôi.
Nhưng tàu lắc càng lúc càng mạnh. Những tiếng răng rắc đầu tiên làm mọi người sợ xanh mặt. Ở dưới hầm tình thế còn tệ hại hơn. Hàng chục người bị ngất xỉu cùng một lúc vì thiếu dưỡng khí. Trẻ con khóc lóc và tiếng kêu la dậy lên khắp nơi:
-Mở nắp hầm ra!
-Mở nắp hầm ra!
Và nhiều người đã tự động chạy đến đẩy nắp hầm tràn lên boong. Cuộc đột biến làm cho tàu lắc dữ dội. Chủ tàu ra lệnh:
-Ðóng nắp hầm lại.
Nhưng vô hiệu. Như một đàn kiến, người ta tranh nhau ngoi lên. Tàu nghiêng hẳn về một bên. Tất cả những người có vũ trang đều ở trên boong. Bọn họ đều lên đạn.
-Bắn đi!
Không biết ai đã hô lên tiếng đó và từng loạt súng nổ chát chúa. Miệng hầm tàu lập tức bị nghẽn lại. Máu loang khắm boong tàu, tung toé lên những vách ván. Trong thứ ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn vàng, máu có màu đen kịt lấp loáng và nhờn nhờn như hắc ín. Cả tàu im thin thít. Chỉ có gió rít lên chung quanh, chỉ có sóng là gào thét. Nhưng trật tự trên tàu đã được lập lại. Tàu đã bớt tròng trành nhưng vẫn còn ỳ ạch trên sóng.
Người ta thi nhau ném những xác chết xuống biển. có những xác chưa chết hẳn khi bị ném tung lên họ kêu thét khủng khiếp. Những tiếng thét ấy mở đầu cho những tiếng khóc nức nở phát ra từ khắp nơi. Tiếng kinh cầu nguyện đã bắt đầu râm ran. Bà Ngọc Thúy thì ngất xỉu trên tay ông Thịnh nhưng ông không biết cách nào để chăm sóc bà nữa, ông đang lo lắng không biết con trai và con dâu có bị bắn lúc nãy không. Ông muốn bỏ Bà Thuý nằm đấy để đi tìm con nhưng người ta đã không cho ai xê dịch dù chỉ một bước.
Lúc này viên sĩ quan hành quân đầu hói mới chậm chạp đến bên viên đại úy hải quân đang dán mắt vào la bàn:
-Quay tàu lại đi thôi. Ông ta nói.
-Ðã ra đến đây thì không thể lùi lại được nữa.
-Nhưng liệu chúng ta có thoát khỏi cơn bão này không?
-Khi nào tôi chết thì ông chết.
Viên cựu sĩ quan sư đoàn 22 thở dài rồi ngồi bệt xuống sàn tàu níu chặt lấy cột gỗ.
Cơn bão vẫn còn hoành hành nhưng tàu đã bớt lắc. tình hình tương đối lắng dịu trong khoảng chừng mười lăm phút. Ðột nhiên có nhiều tiếng đục và tiếng thủy tinh vỡ rải rác khắp nơi.
-Cái gì vậy? Chủ tàu la lên. Ai làm gì vậy?
Nhưng lời của ông ta đã chìm mất trong tiếng sóng gào thét.
Ông chạy lăng xăng tìm xem chuyện gì đã xảy ra nhưng mấy lần ông bị hất ngã suýt rơi xuống biển. Một cơn sóng tràn lên làm ông ướt sũng. Ông lạnh run và cố sức bám vào những sợi dây thừng để tiến về buồng lái.
Dưới gầm tàu tiếng đục đẽo càng lúc càng dữ dội. Sàn ván trên đầu bị phá ra nhiều lỗ hổng nhỏ và người ta chen nhau ùn đến hít khí trời. Tiếng đục đẽo lại khẩn cấp hơn. Thêm nhiều lỗ được phá ra để thở. Tàu tròng trành dữ dội hơn và những cơn sóng lớn ập xuống. Nước biển theo những lỗ thủng vừa được phá ra chảy như thác xuống hầm tàu. Vậy mà sóng cứ bủa liên tục. Nước tiếp tục theo những lỗ trống trút xuống hầm tàu càng lúc càng nhiều, những người đang nằm cũng phải bật dậy. Nước trút xuống đầu họ, mạnh mẽ xô dạt họ qua một bên. Tất cả đều hoảng loạn. Trong phút chốc sàn ván trên đầu bị phá tung thành từng mảng lớn và người ta leo cả lên boong. Những người yếu sức bị chẹt dưới hầm, bẹp dí trong xó. Kêu khóc. La hét. Cầu cứu.
Con tàu gần như đứng nguyên một chỗ mà lắc mà xoay vòng. Nó đã mang một sức nặng vượt quá nhiều lần khả năng của nó. Nước từ từ dâng lên trong buồng máy. Nhưng máy thì vẫn chạy nên nó bắn nước tung toé khắp nơi làm tăng thêm sự hoảng loạn. Nước từ những con sóng lớn trên cao bổ xuống, nước từ buồng máy bắn ra, nước từ gầm tàu dâng lên.
Con người ở giữa hoàn toàn tuyệt vọng.
Người ta quỳ trên boong tàu chấp tay cầu nguyện bằng đủ thứ kinh kệ. Người ta khóc lóc, than thở, người ta ôm nhau lạnh run. Nhiều người đang cầu nguyện bị tàu lắc mạnh bắn tung xuống biển mất tăm trong vực thẳm sâu hút và tối đen bên dưới.
Biển sôi lên những bọt sóng trắng đục, một thứ màu trắng nhợt nhạt như đất cát pha sét và tro than, cái màu trắng quái đản của ánh trăng tàn úa sau sương mù. Mặt trăng thì vẫn trơ trơ nhìn xuống bão tố, nhìn xuống sóng gió và thảm họa. Mặc cho gió bão gào thét, nó cứ lạnh lùng trôi, lửng lơ như cái lưỡi hái của thần chết.
Ông Thịnh vô cùng ngạc nhiên thấy người vợ khốn khổ của mình tỉnh dậy trong vòng tay ông. Bà lại hỏi:
-Sắp đến chưa?
Ông thấy quặn thắt trong lòng vì câu hỏi đó. Ông ôm chặt lấy bà:
-Em ngủ đi. Ngủ đi.
Nhưng lòng ông tràn ngập nỗi buồn, tràn ngập sự chết. Cái chết sẽ đến chỉ trong giây phút nữa thôi. Máy tàu đã ngừng chạy rồi, như thế có nghĩa là buồng máy đã hoàn toàn bị ngập nước. Con tàu bây giờ chỉ còn là một chiếc lá tả tơi giữa biển cả. Một tay ôm vợ một tay níu chặt lấy sợi dây thừng, ông cố bám víu lấy chút hy vọng. Vậy mà nước mắt cứ ràn rụa. Ông không sợ chết nhưng ông thương thằng con trai của ông quá. Không biết nó và người yêu của nó nằm ở xó nào hay đã bị cuốn xuống biển mắt tăm rồi.
Ðèn đóm trên tàu đã tắt hết. Chỉ còn lại trên cao con mắt vàng ệch của tên Cyclope độc ác. Trong ánh sáng ghê rợn của nó, ông thấy có một cặp vợ chồng trẻ người Tàu mà hồi mới lên tàu ông đã có lần nói chuyện. Hai người này ngồi ôm nhau, hôn nhau. Họ không khóc, không than và cũng không hoảng hốt. Ông ngạc nhiên về sự bình thản của họ. Họ ôm chặt lấy nhau thầm thì với nhau rồi lại hôn nhau cho tới khi một cơn sóng lớn ập tới ngay chỗ họ ngồi. Ông Thịnh cắn răng níu chặt lấy thành tàu để giữ cho khỏi bị cuốn đi. Khi cơn sóng tan, nhìn lại, thấy đôi vợ chồng trẻ đã hoàn toàn biến mất. Họ cùng ra đi không một tiếng kêu, không một lời than. Họ bị xóa mất đột ngột trong nháy mắt.
Bây giờ thì tàu không lắc mạnh nữa nhưng nó rùng mình một cái rồi từ từ chìm xuống. Một nỗi sợ hãi tê dại chạy qua tim ông. Ông ôm siết Bà Thúy vào lòng và cất tiếng gọi:
-Phúc ơi!
Nhưng sự hỗn loạn đáp lời ông bằng trăm ngàn thứ tiếng động. Ông bám lấy tàu mà gọi khan, nước ập lên mình ông, quất vào mặt ông những ngọn roi da lạnh buốt, gió xoáy vào da ông và biển sôi sục. Tiếng cầu kinh bốc lên tận mây xanh nhưng bị cơn gió đánh bật xuống. Tiếng cầu kinh của hàng trăm người gào lên một lúc nghe thảm thiết và ghê rợn.
Cứ mỗi lần sóng lớn từ trên cao ập xuống là tiếng cầu kinh lại ngưng bặt, hàng chục người bị cuốn đi, tàu chìm dần, chìm dần. Ông Thịnh cảm thấy như nó đang vỡ tan ra, rời rã giữa cơn thịnh nộ của đất trời. Cái lưỡi hái sáng đục vẫn lơ lửng trên cao. Bọt sóng vây phủ lấy con tàu đang chìm khuất. Biển hả chiếc miệng khổng lồ đầy nước bọt của nó, nuốt chửng chiếc tàu. Tiếng cầu nguyện tắt lịm dần cùng với tiếng khóc. Ông Thịnh lại gọi:
-Phúc ơi!
Và ông nghe “bùng” một tiếng, cánh tay ông rã rời buông lỏng sợi dây cáp. Ông cảm thấy thân thể bà Ngọc Thúy tuột khỏi tay ông và ông bị một bàn tay khồng lồ ném tung lên cao rơi tõm vào cái miệng lớn đen ngòm kia.
Cái ném mạnh của ngọn sóng làm ông chìm xuống thật nhanh nhưng bỗng nhiên có một sức mạnh ghê gớm nào đó tung ông lên cao. Ông ngạc nhiên thấy mình vô cùng tỉnh táo và khỏe mạnh. Ông thấy những cơ bắp của mình rắn chắc và tràn đầy sức lực. Thế là ông tin rằng mình sẽ sống mặc dù quanh ông biển vẫn mênh mông vô bờ bến, biển đen kịt gào thét và trời thì vàng ố giận dữ. Mỗi lần cơn sóng ập đến ông lặn xuống để tránh nó và cố bơi ra ngoài xa. Tàu dần dần biến mất chỉ còn lại một vệt đen mỏng tang, mờ nhạt và đứt quãng trên mặt biển u ám ánh trăng. Một lúc sau cái vệt đen ấy hoàn toàn bị xóa sạch, chỉ còn lại những xác người, những vật dụng lỉnh kỉnh nổi vật vờ trên biển.
Nuốt chửng xong con tàu, biển dường như bớt lồng lộn. Nó hú lên những tiếng dài và cùng với gió, nó chạy quanh trận địa tìm kiếm xác chết.
Mặt trăng sà xuống như con quạ đen kêu lên quang quác và rỉa thịt từng người. Ông bơi nhẹ nhàng để dưỡng sức mặc dù ông không biết nên bơi về hướng nào, không có dấu hiệu gì là có người sống sót. Ngoài tiếng sóng và gió hú, tất cả im lìm lạnh buốt. Ông cảm thấy như chỉ có mình mình còn lại giữa biển mênh mông này và để trấn áp sự sợ hãi, ông lại gọi tên con.
Sóng tạt vào miệng ông khi ông mở miệng. Ông uống một bụng nước và không dám mở miệng kêu nữa tuy nhiên ông vẫn chưa biết phải bơi về hướng nào vì chung quanh không có một đốm sáng, không có một tiêng động nào mang dấu tích con người. Cuối cùng ông quyết định bơi quanh chỗ tàu chìm để tìm những người thân của mình.
Ông vẽ một đường tròn quanh khu vực ấy, vừa bơi vừa nhìn hai bên. Hễ đụng phải xác người là lật lên xem mặt, rồi lại bỏ xuống. Một cái xác trẻ con cong queo trôi dật dờ tới trước mặt ông, ông đưa tay vẹt sang bên, đụng phải những ngón tay cứng đờ của nó khiến ông nổi da gà. Ông bơi tránh qua và vớ được cái can nhựa. Ông bám lên nó để nghỉ mặc cho sóng cuốn đi. Ðột nhiên ông thấy bàn chân đau nhói, ông hoảng hốt rụt chân về. Ông nghĩ ngay đến cá mập và quay ngoắt người lại thủ thế. Nhưng đó chỉ là một miếng ván tàu. Ông cứ để mặc nó rập rềnh như thế và tiếp tục cuộc tìm kiếm của mình. Nhưng những xác chết mà ông lật lên để nhìn đều là những người xa lạ. Kể cả người đàn bà áo đen ông cũng không tìm thấy.
Bây giờ thì ông cũng chẳng cần gì đến mạng sống của mình nữa. Ông chỉ còn một khát vọng duy nhất là tìm thấy đứa con trai yêu dấu của mình dù nó còn sống hay đã chết. Dẫu sao ông cũng vẫn còn tin vào tài bơi lội của Tuyết, ông hy vọng cô dâu tương lai của ông có thể giúp đỡ cho con trai ông sống sót ít ra là cũng đến giờ phút này. Nếu ông gặp hai người ấy có thể ba cha con sẽ cầm cự được đến ngày hôm sau và biết đâu lại chẳng có cơ hội nào đó để sống sót.
Biển dần dần trở lại yên tĩnh. Nhưng khi cơn bão đã đi qua, mặt biển trở nên im lặng một cách dễ sợ. Sự im lặng ấy cũng khủng khiếp không kém gì bão tố.
Trên mặt nước đen kịt mênh mông, ánh trăng đục ngầu phủ mờ mịt bủa vây xung quanh. Mặt trăng ấy đã mọc lên từ một thế giới nào khác. Mặt trăng xa lạ từ cõi ma quái nhô lên, nhìn ngắm những xác chết vật vờ, bập bềnh trên biển. Lúc này là lúc ông có thể quan sát phía chân trời để tìm một đốm sáng nào đó mà bơi tới nhưng cái vẻ thê lương lạnh tanh của biển chợt làm ông run sợ. Xác người lượn lờ quanh ông. Ông có cảm tưởng mỗi mình mình sống sót và đang bơi một cách tuyệt vọng giữa các tử thi.
Ông muốn thoát ra khỏi vùng biển địa ngục này nhưng ông bỏ đi tức là vĩnh biệt đứa con, tức là đã bỏ mặc nó chìm lỉm dưới đáy nước. Ông cảm thấy như mình sẽ làm một cuộc chia ly xé lòng nếu quyết định bơi đi xa rời khỏi khu vực này và vĩnh viễn ông sẽ mất đứa con trai của mình. Thế là ông cứ nấn ná, cứ vật vờ quanh những xác chết.
Biển đã lặng, ông không sợ bị nước tạt vào miệng nữa. Ông gọi:
-Phúc ơi!
Tiếng ông vang đi thật xa, mất biến trong sương mù.
-Phúc ơi! Con ở đâu?
Ông bơi loanh quanh và thấy cơ bắp của mình vẫn còn đầy sức lực, khát vọng sống tràn trề. Ông hoàn toàn không thấy sợ hãi và có lẽ điều đó làm cho cơ thể ông ấm lên dần. Ông ngạc nhiên về hiện tượng lạ kỳ này. Giữa cơn tuyệt vọng thì khát vọng sống ở đâu trổi dậy mạnh mẽ và quyết liệt hơn. Ông bơi lại gần một xác chết và lại lật nó lên. Vẫn là một bộ mặt lạ. Cứ như thế ông lật cả chục xác chết mà vẫn không tìm thấy Phúc. Ðiều đó làm ông hy vọng. Có thể những người thân của ông đã bơi ra khỏi khu vực này rồi. Thế là ông dừng lại, quan sát chung quanh và quyết định rời đi.
Thình lình một con quái vật nhảy xổ vào người ông, vồ lấy ông từ phía sau. Ông Thịnh hoảng hốt buông rơi cái can nhựa và bị con quái vật nhận chìm xuống. Ông cố hết sức vùng vẫy và thoát ra khỏi nanh vuốt của nó. Khi định thần nhìn lại thì đó là một người đàn ông. Anh ta đã cướp mất cái can nhựa của ông và đang cố sức bơi đi.
Ông Thịnh uống liền mấy ngụm nước mặn chát và giận run lên. Một cơn sóng xô tới đẩy cái can nhựa và người nọ đi xa. Ông cố bơi đuổi theo để giành lại cái can, nhưng bóng người ấy đã mất hút trong mặt biển đen kịt.
Kẻ cướp cái can nhựa của ông Thịnh chính là viên sĩ quan đầu hói. Anh ta ôm cứng lấy nó và cứ để mặc cho con nước cuốn đi. Suốt mấy giờ vùng vẫy anh ta đã kiệt sức và không muốn cử động chân tay nữa. Gần như anh ta thiếp đi trong cảm giác bồng bềnh trôi nồi. Nhiều giờ trôi qua như thế, có lúc anh ta tưởng như mình chết và hồn anh ta vật vờ trên một hoang đảo, có lúc anh ta lại thấy mình dạt vào một bãi cát đen và tỉnh dậy sưởi trên ngọn lửa ấm, có lúc anh ta thấy mình đang tháo chạy từ trong rừng sâu để xuống hướng bờ biển Qui Nhơn.
Năm ấy anh ta đã thoát chết như thế. Bây giờ nằm mê man trên biển đen, trong trí anh ta hổn độn những hình ảnh, những tiếng động, những giọng nói ẩn hiện trong tiếng sóng vỗ, tiếng gió vi vút. Gần sáng anh ta lạnh cóng và cảm thấy hai cánh tay mình đã chết rồi, đã khô cứng thành đá. Trong cơn mê, anh ta thấy mình nặng như một cục đá và đang chìm dần xuống. Chiếc can nhựa đã rời ra khỏi cánh tay tê liệt của anh ta và bị sóng cuốn đi. Anh ta chới với trong nước, muốn la cầu cứu mà hàm đã cứng lại không mở được.
*
Tuyết không biết mình đang ở đâu nhưng suốt hai tiếng đống hồ cô đã hướng theo cái đóm sáng nhỏ nhoi ở tít mù đàng xa mà bơi tới. Phúc bám lấy người yêu. Hai người nối nhau bơi nhưng càng lúc Tuyết càng thấy mông và hai chân của mình chìm nghỉm vì sức nặng của cơ thể Phúc đè xuống.
-Nghỉ một lát đi. Phúc nói.
Tuyết ngừng lại và xoay ngửa người lên. Phúc cũng làm như vậy và hai người nắm tay nhau song song trên mặt nước. Tuy nhiên Phúc không thể nằm yên được, hai chân anh vẫn cứ chìm xuống khiến anh phải quẫy đạp nó mới nổi lên được một vài giây rồi lại chìm xuống.
-Ưỡn bụng lên. Ngước mặt nhìn ra đằng trước anh sẽ thấy nó nổi tự nhiên.
Phúc làm theo, quả nhiên thân thể anh nổi tự do và anh nghỉ ngơi được một lát. Anh nắm chặt bàn tay Tuyết và nói:
-Tuyết ơi, anh không bơi được nữa đâu. Hãy để anh chết ở đây. Em tìm cách thoát thân một mình đi.
-Ðừng nói vậy. Mình nghỉ một lát rôì bơi tiếp. Em còn sức, anh cứ bám theo em là được. Bất cứ tình huống nào cũng không được buông em ra. Buông ra là chết.
-Thà như thế còn hơn là hai đứa chết chùm. Sao cứ bơi hoài mà không thấy bờ bến đâu cả.
-Em sẽ đưa anh tới cái điểm sáng đó. Chắc là một cái ghe đáy. Em ước lượng khoảng chừng năm ngàn mét. Em dư sức đưa anh tới đó mà. Thôi hãy tiếp tục đi.
Tuyết lật người lại. Phúc bám lấy hông cô gái. Cái điểm sáng nhỏ nhoi ở phía trước cứ thỉnh thoảng lại bị những ngọn sóng che khuất đi mất dạng rồi khi đợt sóng hạ xuống nó lại lấp lánh ở chân trời. Bơi được chừng mười lăm phút thì Tuyết cảm thấy mông mình bị chìm và người gần như thẳng đứng với mặt nước. Phúc đã quá đuối sức và gần như không thể cử động nổi nữa. Tuyết dừng lại thấy Phúc nổi lập lờ như con cá chết. Cô lật ngửa anh ra và đưa ngón tay lên mũi anh thì vẫn còn thấy hơi ấm.
-Anh không bơi nổi nữa.
Phúc nói và rùng mình, cái lạnh buốt thấu trong xương và làm hai môi anh run lên, giựt giựt từng hồi. Tuyết bơi quanh, nâng đầu anh dậy cho anh thở.
-Cố lên! Chỉ một lát nữa là mình tới nơi thôi.
-Anh kiệt sức rồi. Anh vui lòng chết mà, em bơi một mình đi. Em bơi đi!
-Ðừng bi quan như thế. Anh quyết sống thì sẽ sống.
Tuyết nói và hôn lên vầng trán lạnh giá của người yêu.
-Cố lên đi! Cô nói. Anh chỉ cần cho người nổi lên thôi, em sẽ đưa anh đi.
Một đợt sóng bủa tới xô thẳng vào mặt hai người. Phúc chìm nghỉm. Mất tăm. Cô cố lặn xuống, quạt tay thật mạnh cho những đốm lân tinh nổi lên. Trong thứ ánh sáng lờ mờ của những con đom đóm biển ấy cô nhìn thấy cái vệt đen của Phúc và đội anh lên. Phúc ho sặc sụa và ói ra một búng nước, tuy vậy anh lại thấy khỏe hơn lúc nãy. Họ lại tiếp tục bơi nhưng đột nhiên cái đốm sáng phía chân trời biến đâu mất. Ban đầu Tuyết tưởng những cơn sóng đã che khuất nó nhưng đợi một lúc thật lâu vẫn không thấy nó xuất hiện. Tuyết rất ngạc nhiên và lo sợ. Cô cứ bơi cầm chừng một hồi nhưng vẫn không tìm lại được cái điểm sáng lúc nãy. Ðột nhiên chân trời đen kịt và trong phút chốc những tiếng động rào rào của cơn mưa từ phía trước ập đến. Cái mặt trăng ố vàng kia cũng bị che khuất, những vì sao lẻ loi cũng không còn nữa. Chung quanh tối đen như mực, cô cảm thấy mình đang ở trong một cái vực thẳm vô cùng vô tận.
Mưa xối xả và gió lướt qua sắc lạnh. Phúc kêu lên một tiếng. Tuyết lo sợ hỏi:
-Chuyện gì vậy?
Và cô cảm thấy Phúc đang cố trườn người tới ôm chặt lấy cô bằng đôi bàn tay lạnh buốt của anh.
-Tuyết ơi! Anh chết.
Tuyết cố hết sức mới giữ cho đầu hai người ngoi lên khỏi mặt nước. Ðột nhiên cô bị đẩy mạnh ra và cảm thấy nhẹ hẫng. Tuyết hốt hoảng kêu lên:
-Anh!
Nhưng trong bóng tối đen kịt mênh mông của cái vực thẳm khủng khiếp kia Tuyết hoàn toàn không nhìn thấy gì cả.
-Anh Phúc! Anh Phúc!
Tuyết bật khóc. Cô lao nhanh tới, bơi vòng vòng, huơ tay tìm kiếm nhưng chỉ có nước và nước. Nước đã mênh mông rồi mà vẫn cứ từ trời trút xuống như thác đổ.
-Anh ơi!
Tiếng kêu nghẹn trong cổ, tiếng khóc cũng bị xóa tan trong gió rít. Cô lộn người lặn sâu xuống. Chỉ còn trông chờ vào những đám lân tinh nổi trôi chợt ẩn chợt hiện trong cái chiều dày vô tận của biển đen. Cô quẫy mạnh như con cá kình, lao xuống đáy biển như mũi tên mù lòa. Nhưng cô không thấy gì cả, không thấy cả chính mình, cả những ngón tay mình.
Một nỗi sợ hãi tê dại chạy khắp người cô và cô tưởng như mình cũng tan biến đi rồi. Có một sức ép nào đó nặng như đá đè lên ngực làm cô nghẹn thở. Cô hối hả trồi lên. Gấp rút và hoảng hốt. Trời ơi, cái quãng đường trở ngược lên mặt biển sao mà vô tận. Cô quạt tay bằng hết cả sức lực của mình nhưng vẫn chưa ngoi được lên tới mặt nước. Mặt biển như ở đâu mãi trên cao vời vợi và cô không còn dưỡng khí để sống mà ngoi lên đến nơi. Ðột nhiên cô thấy những giọt mưa lớn tạt vào mặt và cô há miệng ra hít lấy không khí. Cả bằng miệng và bằng mũi. Cô ngã ngửa người ra trên sóng và nhắm mắt lại, rã rời.
*
Ông Thịnh tỉnh tại lúc hừng sáng và không biết mình đang ở đâu. Biển vẫn mênh mông không bờ bến. Dường như có một luồng nước ấm đã đẩy ông đi rất xa suốt đêm qua, chính hơi ấm của nó đã làm ông tỉnh lại. Mặt trời lên dần và nắng lấp lánh trên những đợt sóng lăn tăn, bầu trời trong vắt và xanh thẳm. Nước biển ở ngoài khơi có màu tím dễ sợ mặc dù ánh nắng mai làm ông can đảm hơn rất nhiều. Ông lật sấp người lại, nhìn xung quanh để định hướng. Tình cờ ông nhận ra một vệt đen ở đằng xa, phía bên trái nên ông quyết định bơi đến đó. Ông mất gần mười lăm phút để đến gần sát vật kia. Thì ra đó là một người đang đu trên một cái phao bằng nhựa màu vàng rực rỡ. Ông bơi nhanh và gọi:
-Cho tôi bám với!
Nhưng người kia không trả lời cũng không tỏ dấu hiệu gì. Cuối cùng ông cũng đuổi kịp cái phao và đu lên đấy. Người nọ chỉ là một xác chết cứng đờ. Ông gỡ tay người đó ra một cách khó khăn và ngạc nhiên nhận ra đó chính là đại tá Ðỗ Thuận. Ông chào vĩnh biệt cái xác và nói lời cảm ơn nó.
Vì không biết đất liền ở hướng nào và không có gì làm đích để đi tới nên ông quyết định cứ nằm như thế cho sóng cuốn đi. Dù sao ông cũng đã kiệt sức, cổ khô cháy vì khát nước mà cứ buồn nôn. Ông ói ra được khá nhiều nước biển và ngất đi.
Ðến giữa trưa ông tỉnh lại lần nữa và nhìn thấy một cái bóng đen trước mặt gần giống như một chiếc xuồng độc mộc. ban đầu ông tưởng mình mê sảng, nhưng nhìn kỹ lại thì rõ ràng là một người đang ngồi trên một vật gì đó cồng kềnh nổi bập bềnh trên biển.
-Lại đây!
Rõ ràng người ấy đang gọi ông và ông mừng quá cố quạt nước xích lại gần. Ông kêu lên:
-Trời ơi, em!
Ðó là người đàn bà mặc đồ đen đã đi cùng một chuyến “tắc-xi” với ông. Người đàn bà ngồi trên một cái bao than to, hoàn toàn tỉnh táo, thậm chí quần áo của bà vẫn khô ráo, tóc vẫn mượt mà bay, ánh lên trong nắng trưa chói chang. Ông ngạc nhiên về sự bình tĩnh khác thường của người đàn bà yếu đuối đã từng năn nỉ ông để được đi cùng. Bà cười và hỏi ông:
-Anh mệt lắm hả?
-Tôi bơi suốt đêm, kiệt sức rồi. Em có bị mưa không?
-Có. Ðêm qua em cũng ướt và lạnh cóng nhưng bây giờ thì khô rồi.
-Em có nước không?
-Không. Bây giờ làm sao đây anh?
-Phó cho trời. Có biết đất liền chỗ nào mà bơi. Nhưng tôi cũng không còn sức để bơi nữa.
Người đàn bà lại cười:
-Phải chi mình đừng đi thì đâu đến nỗi này.
-Em không sợ sao?
-Tối qua thì em rất sợ nhưng bây giờ thì em không sợ nữa. Em vẫn nghĩ rằng mình sẽ gặp một chiếc tàu nào đó. Em linh cảm như vậy.
Chiếc phao của ông Thịnh đã cặp sát vào cái bao than và người đàn bà cho ông ngậm viên kẹo sinh tố C. Viên thuốc nhỏ nhoi ấy làm ông hồi tỉnh. Ông ngậm và đợi cho nó tan dần đi.
-Em có cái dây nào không?
-Hình như ở đầu bao than có mối dây.
Quả nhiên ông tìm thấy một sợi dây nylon màu đen. Ông cột phao của mình dính vào đó rồi nằm ngửa trên phao mà thở. Hai người cứ bập bềnh bập bềnh như thế một lúc khá lâu. Trời trong và xanh ngắt không một bóng mây, những con hải âu bay lượn trên không có lúc sà xuống rất thấp ngay trên đầu người đàn bà.
-Hình như chúng muốn kiếm cái gì ăn.
Ông Thịnh mỉm cười với bà. Một con chim bay sát ngang mặt ông, cánh nó quạt mát mặt, nó lại lượn vòng, lần này nó bay sát hơn nữa tưởng chừng cái bụng lông trắng nõn của nó chạm vào mũi ông. Cuối cùng con chim đậu lên bao than. Người đàn bà cười hồn nhiên như đứa trẻ, ngắm nghía nó với vẻ thích thú. Ông Thịnh quan sát người đàn bà và con chim, cả hai đều xinh đẹp trong trắng và hồn nhiên.
Khi con chim bay đi rồi, ông Thịnh hỏi:
-Ðến giờ tôi vẫn chưa biết tên em.
-Em tên là Thanh.
-Này Thanh, em có thể đứng lên được không?
-Ðược. Nhưng em sợ mất thăng bằng.
-Không sao đâu. Người ta nói có chim hải âu là có đất liền đấy.
Người đàn bà dang hai tay để giữ thăng bằng. Bà nhìn khắp xung quanh:
-Ở đâu cũng toàn là nước.
-Một vệt đen ở chân trời cũng không có?
-Không. Chẳng biết mình đã trôi dạt đến xứ nào rồi. Anh có tin là mình sẽ gặp đất liền không?
-Tin. Nhưng khi đó em sẽ làm gì?
-Em sẽ về Nha Trang ở với ba em.
-Em bỏ ông chồng ở bên Mỹ à?
-Thực ra thì chẳng có ông chồng nào ở Mỹ cả. Em đã nói dối anh đó.
-Thế em vượt biên làm gì?
-Chuyện gia đính của em bất hạnh lắm anh ạ. Có lẽ trên đời này chỉ có mỗi mình em lâm vào tình cảnh như vậy.
-Em kể đi.
-Anh có nghe danh họa Lê Tài không?
-Có. Trước giải phóng có lần tôi đã xem tranh của ông ấy triễn lãm ở Alliance Francaise.
-Ðó là chồng em. Không phải vì em thích hội họa mà quen anh ấy. Quen trong một dịp rất buồn cười. Hồi đó có một anh chàng nhà văn rất thương em. Tụi em hẹn gặp nhau mổi tuần một lần tại một quán cà phê vào tối thứ bảy. Anh ngỏ ý xin em một tấm hình. Em đưa hình cho ảnh và ảnh nhờ họa sĩ Lê Tài vẽ. Chẳng ngờ khi nhìn thấy tấm ảnh của em ông họa sĩ liền đi tìm em, sau đó ông mời em đến thăm xưởng vẽ của ông và tặng cho em bức chân dung của em. Lúc ấy em cũng coi anh nhà văn như bạn nên việc em yêu Lê Tài cũng không làm em băn khoăn gì lắm. Tụi em sống với nhau một năm rất hạnh phúc. Mùa hè năm 1980, ba em và cô em gái của em từ Nha Trang vào Sài Gòn thăm vợ chồng em. Chồng em mời hai người ở lại nhà và tiếp đãi rất chu đáo. Ba em hồi trước làm quận trường thời Ngô Ðình Diệm, cô em gái em là sinh viên mới ra trường và dạy học ở Nha Trang được một năm. Hôm đó là mùa hè đầu tiên của nó. Ba cha con và một chàng rể hào hoa đi chơi với nhau rất vui.
Sau đó thì ông về Nha Trang, chỉ có Liên, em gái em thì ở lại vì cô được nghỉ hè ba tháng. Một buồi tối em phải đi trực đêm ở cơ quan nhưng khi đến nơi thì có chị bạn đến yêu cầu đổi phiên trực cho em vào ngày hôm sau. Em nhận lời và trở về nhà. Khi đứng trước cánh cửa đóng em nghe tiếng cười của Liên, cô em gái, rồi tiếng nó bảo:
-Siết mạnh cho em ngộp thở đi.
Em nhìn qua lỗ khóa. Ðiều tệ hại nhất đã diễn ra trong căn phòng ấy. Em lẳng lặng bỏ về Nha Trang, không mang theo một thứ gì cả. Bây giờ hai người ấy vẫn ngang nhiên sống ở Sài Gòn và dường như cũng chẳng bận tâm gì về sự mất tích của em.
Ông Thịnh không biết làm thế nào để an ủi bà. Ông nắm bàn tay của bà và bóp nhẹ. Ðó là một bàn tay mềm mại mà ông chưa từng thấy trên đời.
Hoàng hôn đến lúc nào không biết. Nó đem theo những cơn gió vi vút và mặt biển thì trắng xóa những lớp sóng không dứt.
-Em sợ quá. Người đàn bà nói. Anh lên đây ngồi với em đi.
Bà ta níu lấy tay ông. Chiều khép dần đôi cánh đen của nó. Ðêm tối làm cho con người mù lòa giữa thiên nhiên rộng lớn. Có tiếng một loài chim gì đó kêu riu rít và ông thầm mong nó cứ kêu mãi như thế bên cạnh ông để cho ông đỡ thấy lạc lõng giữa bóng tối vô tận.
Người đàn bà khóc. Thân thể bà ấm dần trên ngực ông và chính cái hơi ấm ấy đã đem lại sức mạnh cho những tế bào tưởng như đã tan rã, đem lại sức sống cho dòng máu tưởng như đã khô kiệt. Ông ôm siết lấy người đàn bà, vuốt tóc, vuốt lưng bà bằng bàn tay khô, chai cứng của mình. Ông nói:
-Thanh ơi, nếu chúng ta sống sót, anh sẽ xin cưới em. Bây giờ thì anh cũng không còn người thân nào trên đời này nữa.
Ông hôn lên đôi môi khô nứt của bà và thấy hai môi mình cũng đau rát vì cái hôn đó, nhưng ông vẫn ghì chặt lấy người đàn bà, những vết nứt trên môi ông vỡ ra rướm máu. Người đàn bà dụi mặt vào cổ ông và nói:
-Nếu không gặp anh chắc em sẽ chết trong đêm nay. Ðêm khủng khiếp quá.
-Hãy cố gắng qua đêm nay nữa, ngày mai chúng ta sẽ gặp tàu, trời không bỏ ta đâu em.
Nhưng càng về khuya gió càng mạnh, không biết gió từ đâu tràn ra biển khiêu khích những ngọn sóng. Sóng lớn quá khiến họ phải rời nhau để bám vào bao than vì nó cứ chao mạnh. Than đựng phía trong kêu lên rào rào như  đang bị nghiền nát. Mặt trăng u ám của đêm qua lại hiện lên sau lớp sương mù dày đặc. Những đợt sóng lớn bắt đầu té nước lên ướt cả hai người. Họ nằm chịu trận hàng chục đợt sóng như thế rồi bỗng nhiên một cơn sóng bạc đầu trùm lên. Cái bao than to lớn tan ra từng mảnh. Ông Thịnh lấy kết sức lực của mình nhoài người tới níu lấy tay người đàn bà, đẩy bà tiến về phía cái phao đang nhấp nhô trước mặt ông.
Thật kỳ lạ, không biết ai đã trả lại sức lực cho ông, cái lạnh tan biến đi. Ông cảm thấy dễ chịu và hoàn toàn yên tâm khi đặt người đàn bà nằm ngửa trên phao. Thật may mắn, ông nhận ra một điểm sáng lấp lánh ở cách ông chừng hai ngàn mét.
-Sống rồi em ơi!
Ông vừa mở miệng đã bị ngay một luồng nước lạnh tạt vào làm ông chới với buông rơi cái phao và ho lên sặc sụa vì uống nước biển nhiều quá. Ông chưa kịp định thần thì một cơn sóng cao ngất, sáng bạc và láng lẫy như bụng một con cá voi từ trên chụp xuống, tiếng nó nổ vang như một cơn giông. Ông bị vùi trong sóng. Ông cố hết sức ngoi lên mặt biển, ngó quanh tìm cái phao nhưng dưới ánh trăng lạnh lẽo và mờ mịt ông chỉ thấy những lớp sóng trắng xóa nối tiếp nhau không dứt.
Ông ngẩng nhìn mặt trăng, nó dửng dưng như một người khách lạ.
Lúc ông quay lại với biển thì nhìn thấy cái phao rập rềnh trước mặt mình. Ông bơi nhanh lại, vồ lấy nó. Nhưng người đàn bà trên phao đã biến mất. Nước sủi bọt chung quanh ông một màu trắng bẩn thỉu ghê sợ.
Ông lặng người đi, sững sờ nhìn đám bọt nước ấy. Ông nghĩ rằng mình cũng sẽ chết, chết âm thầm trong cái đám bọt tàn nhẫn này.
*
Khi mặt trời lên Tuyết mơ hồ nghe có tiếng động cơ của ghe máy lạch bạch trên sóng. Cô đã nằm ngửa thả trôi bồng bềnh như thế không biết bao lâu và hoàn toàn kiệt sức. Nhưng tiếng ghe máy làm cô tỉnh lại.
-Cứu với!
Tiếng kêu cứu ấy xé cổ họng cô. Nhưng chiếc ghe máy cũng đã nghe thấy. Nó đổi hướng, tiến thẳng về phía cô và dừng lại.
Hai người thanh niên lực lưỡng nhảy xuống nước và đưa cô lên thuyền. Họ xốc nước cho cô và làm mấy động tác hô hắp nhân tạo mặc dù cô còn thở.
Khi thay quần áo cho cô, cả hai anh dân chài đều bàng hoàng trước vẻ đẹp rực rỡ của thân hình cô gái. Một trong hai người đàn ông đem mền đắp cho cô còn người kia thì lục tìm trong túi áo, gấu quần, trong thắt lưng, trong cooc-sê, quần lót, trong từng đường kim mũi chỉ. Họ tìm được ba khâu vàng và nhìn nhau cười khoái trá.
Tiếng rên của cô gái chợt làm họ giật mình. Tên trẻ tuổi bước nhanh đến chổ cô gái đang nằm, hắn đặt bàn tay lên trán cô và giật mình khi thấy nó lạnh toát, hắn ngó tên lớn tuổi nhưng tên này vẫn còn đang mải mê lần tìm trong quần lót và nịt vú nên không để ý gì đến cử động của tên trẻ. Tên trẻ giở mền ra định áp tai lên ngực cô gái để nghe tiếng tim đập, nhưng khi thân thể trần truồng của Tuyết hiện ra, hắn nổi da gà, muốn nghẹt thở, tai ù đi và gần như không nghe thấy gì kể cả tiếng sóng biển đập vào mạn thuyền. Nhưng một lúc sau hắn cũng nhận ra nhịp tim đập.
Hắn đè lên người Tuyết. Cô gái mở mắt. Tên nọ chụp lấy cánh tay trần của Tuyết và nói:
-Ðừng sợ. Chính tôi cứu cô mà.
-Nhưng anh định làm gì tôi?
-Làm tí xíu thôi, cô em. Mười lăm phút.
Tuyết giữ chặt hai chéo mền, quay lưng lại, run lập cập, nhưng lúc ấy cặp đùi cô lộ ra quá rõ. Tên nọ rúc đầu vô đó.
Tuyết kêu thét lên:
-Ðừng! Tôi lạy anh. Ðừng….
Tuyết cảm thấy sức mạnh thú vật của gã đang nhận chìm mình xuống làm cô xây xẩm mặt mày.Taychân cô rã rời, những cơ bắp hoàn toàn bất lực. Hắn chiếm lĩnh một cách mạnh mẽ và cuống cuồng. Tuyết thì khóc còn hắn thì hôn lên những giọt nước mắt ràn rụa ấy. Những chân râu lởm chởm của hắn đâm vào má vào cổ cô đau điếng. Cô cảm thấy mình đang bị sóng nhồi liên tục và có lúc bị nó vùi xuống đáy.
Lúc hắn buông cô ra thì tên thứ hai đã chực sẵn một bên. Tuyết không còn sức để chống cự nữa, cô cảm thấy đau nhói khi hắn đè lên người cô và trời đất thì quay cuồng đảo lộn y hệt như có ai ném cô từ trên đỉnh núi xuống vực thẳm. Tuyết hốt hoảng kêu lên và ghì lấy người đàn ông nhưng dường như tay cô không chạm vào cái gì cả. Cô rơi xuống vực thẳm và ngất đi….
*
Chiếc phao mỏng manh đã đưa ông Thịnh đi lang thang trên biển không biết bao nhiêu ngày đêm. Ông hoàn toàn không có ý niệm gì về thời gian. Ngày cũng như đêm. Lúc nào ông cũng thấy có một cái mặt trăng lưỡi liềm méo xệch vàng úa treo trên không, nhìn ông chăm chăm. Ông chìm mất đi trong cơn mê dài rồi tỉnh lại với cái mặt trăng bẩn thỉu ấy, rồi lại thiếp đi, cảm thấy mình như đang tan rã ra từng mảnh và đàn cá đông nghịt bu đến rỉa thịt ông. Có lúc ông lờ mờ thấy mặt trời mọc nhưng lại rơi vào bóng tối, sau đó lại bị phơi nắng giữa sa mạc. Ông chết khô ở đó và không hiểu tại sao lại sống lại, vật vờ như ma trơi trên biển.
Khi nhìn thấy ánh sáng của bầu trời xanh lơ, ông hồi tỉnh. Dường như đang có một luồng nước đưa chiếc phao đi khá nhanh vì ông thấy mình cứ xa dần những đám mây bất động trên cao. Ông ngẩng đầu lên để quan sát chung quanh và ngạc nhiên khi thấy mình đang trôi đến gần cái chòi nhỏ cheo leo giữa biển. Ðó là cái đáy cá. Ông chỉ còn cách nó chừng vài trăm mét. Với tốc độ cuốn đi của luồng nước thì chỉ độ vài phút nữa ông sẽ dạt đến đó. Tự nhiên ông tỉnh táo và khỏe hẳn lên. Ông xoay lại ngâm người xuống nước cho mát và ngụp cả đầu xuống. Ông ngậm một búng nước để cho nó đỡ khô rát và nhìn thấy bóng nắng rập rờn quanh mình.
Buổi trưa nước có màu xanh, có lẽ ông đang ở trong một vùng biển tương đối cạn. Ông quẫy chân để lái phao đi về hướng cái chòi và chỉ một lát sau tay ông đã chạm vào sợi dây viền lưới to bằng ngón chân cái. Ông lần theo sợi dây, tiến dần tới chỗ cái chòi nhưng sợi dây càng lúc càng cao và cuối cùng ông phải buông nó ra, dùng tay quạt nước để đến gần mấy cây cột.
Cột chòi là những cây cừ to đóng sâu dưới đáy biển, nhô lên khỏi mặt nước chừng hai thước. Chòi được ghép bằng những miếng ván thô sơ đóng đinh trên những cây cột ấy. Từ trên chòi thòng xuống một sợi dây cong queo, đung đưa theo những con sóng rập rình. Ông bám vào sợi dây đó nghỉ lấy sức một lát. Lúc bớt mệt, ông mới ngẩng lên quan sát cái chòi, vừa giật dây vừa gọi:
-Có ai không?
Nhưng chẳng có dấu hiệu gì là có người ở. Ông gọi thêm mấy lần nữa nhưng vẫn im lặng. Chòi trống trải, mái lợp vải dầu đã lủng lỗ và ván sàn cũng đã bắt đầu mục nát. Ông nhìn quanh, biển vẫn mênh mông, vẫn đầy những lớp sóng và không biết đâu là bờ bến. Tiếng sóng vổ lách tách vào chân cột làm tăng thêm sự vắng lặng của buổi trưa.
Ông đơn độc, trơ trọi giữa trời biển mênh mông. Nhưng điều đó không làm ông sợ hãi, nó khơi dậy trong ông nỗi nhớ xót xa về những người thân đã chết và nhất là về cái quãng đời xa lắc xa lơ mà ông đã sống. Cái quãng đời ấy thật dài thật nhiều biến đổi, giờ đã tan đi như ảo ảnh, như mây khói, giờ thu lại nơi góc trời đơn độc, vô danh và âm thầm này.
Ông níu sợi dây. Sợi dây này sẽ cứu ông nhưng ông lại thấy nó giống một sợi dây thòng lọng. Chỉ cần thắt một cái gút tròng vào cổ và đạp cho phao trôi đi. Những con ó biển sẽ bu đến, kêu quang quác đầy trời. Những bầy cá nhỏ sẽ tụ lại bên dưới để chờ những gì mà bầy ó biển làm rơi rớt xuống. Sau đó là sự im lặng. Ðoạn thừng bằng sợi gai mềm, chắc chắn, tròn và to như ngón chân cái. Ông cầm nó rất vừa tay, rất êm ái và rất đầm. Ông ướm nó lên cổ, nó thòng xuống như cái khăn quàng màu khói hương. Bàn tay ông vuốt ve nó, những ngón tay thô ráp sần sùi của ông bóp nắn nó nhưng cái gút oan nghiệt ấy chưa thắt được. Ông lại thử sợi dây một lần nữa và nhún mình đu lên. Lập tức cái phao bên dưới bị nước cuốn đi. Ông nhận ra sai lầm của mình thì đã quá trễ. Ông đu lơ lửng trên sợi dây và ngạc nhiên khi thấy sức lực của mình biến đâu mất hết. Hai cánh tay ông hầu như không chịu nổi sức nặng của thân mình, chưa nói đến việc leo lên tới trên chòi. Ông bám hai bàn chân vào dây để giúp cho hai tay chịu đựng nhưng hai bắp thịt ở đùi cứ run giật từng cơn. Sợi dây quay vòng và đu đưa như quả lắc đống hồ. Chỉ một phút sau ông không chịu đựng nổi nữa và buông tay.
Trong lúc rơi ông hoảng hốt chụp lấy cột chòi và rú lên vì thấy đau buốt đến tận xương tủy. Có một trăm lưỡi dao cạo cứa vào bụng vào ngực vào đùi vào mặt ông cùng một lúc. Ông ngã ngửa ra, nổi lập lờ giữa biển. Máu tuôn xối xả ướt đẫm cả mặt mũi tay chân, cả ngực và bụng ông. Trời ơi, những con hà! Chúng bám đầy quanh thân cột và đã xé nát da thịt ông.
Nước biển thấm vào những vết thương làm ông tê dại. Nhưng ông vẫn chưa chết. Ông nằm ngửa nhìn máu mình tuôn ra đầy ngực, loang trên mặt nước xanh ngắt. Thế mà chính lúc ấy ông lại thấy lòng mình nhẹ nhàng hơn bao giờ hết. Ông tưởng như đang nằm nghe một khúc hát ru xa xăm của biển và chiếc nôi của sóng đu đưa ông bằng nhịp điệu êm ái. Ông mở mắt nhìn vào khoảng không xanh cao vô tận phía trên. Nắng mong manh, vàng óng và trong vắt.
Máu của ông cứ loang dần ra trên mặt biển. Những con cá nhỏ bắt đầu bu đến rỉa vào những ngón chân ông. Những cái miệng nhỏ xíu của chúng đớp vào da thịt ông làm đau tê tê. Ông khẽ cử động để đuổi chúng đi. Nhưng càng lúc chúng càng bu đến đông hơn, tuy nhiên ông vẫn tỉnh táo và không hề sợ chết. Ông cảm thấy như mình sẽ không bao giờ chết và sẽ sống vật vờ trên biển như loài sứa. Một luồng hơi nóng bắt đầu nhóm lên phía sau lưng. Từ chỗ hai lá phổi nó lan dần ra, tỏa rộng khắp lưng và lan lên ngực. Ông thấy người ấm lại, hít một hơi thật sâu. Ngay lúc ấy ông nhận ra buổi chiều đến trên những đám mây xám và trên sắc trời hiu hắt.
Gió bắt đầu thổi mạnh hơn. Những vết thương trên người ông đã ngưng rỉ máu. Bản năng tự vệ đã vực ông dậy đưa ông ra khỏi cơn mê. Ông lật sấp người lại và nhìn thấy một tấm ván đang rập rờn bên cạnh mình. Ông vươn tới mấy sải và chụp được nó, trườn người lên, nằm sấp dọc theo chiều dài của nó. Nó vừa vặn với cỡ người ông khiến ông thấy dễ chịu vì được nghỉ ngơi, nhưng chỉ một lúc sau ông bị ngay một cơn sóng tạt nước vào miệng. Ông nhớ lại rất nhanh kinh nghiệm ngày hôm qua: hễ nằm sấp là rất dễ bị uống nước, dù có ngậm miệng nước vẫn theo vào bằng đường mũi vì sóng cứ tạt vào mặt liên tục. Nhưng vì không thể nằm ngửa trên ván được ông đành ôm nó mà chịu trận. Ðến tối ông đã uống khá nhiều nước, bụng căng lên, tức anh ách. Ông cố tránh những ngọn sóng nhưng càng lúc chúng càng bủa tới tấp vào mặt không cách gì tránh khỏi… Ðã có lúc ông nghĩ tới việc bỏ tấm ván đi để nằm ngửa ra như ban trưa nhưng nghĩ lại không được vì sóng bủa tứ phía thì dù ngữa hay sấp vẫn bị uống nước như thường, nhất là trong đêm tối.
Một lát ông cảm thấy đau rần rần ở hậu môn và đột ngột nó mở hoác ra. Nước trong bụng theo đường ấy chảy xối xả. Thế rồi nó tháo nước ra liên tục tưởng như “cánh cửa sau” ấy đã bị cơn lũ phá tan và nước trong bụng cứ tuôn ra.
Người ông lạnh dần và hoàn toàn không điều khiển được hậu môn mình theo ý muốn. Nước không theo đường tiểu mà cứ từ hậu môn tuôn ra. Cơ thể thì cứ lạnh dần, lạnh dần. Ông thực sự cảm thấy nguy ngập, người ông run lên và rùng mình liên tục.
Hồi đi cải tạo, có lần ông cũng lâm vào tình trạng hoang mang như thế. Trưa nắng ông đứng trong một cái sân rộng chói chang. Ðó là sân phơi thóc của trại X5. Ðoàn người vừa gánh thóc từ ruộng về. Nắng tháng sáu gay gắt mà gánh lúa thì trĩu nặng, con đường đất vàng cháy bụi bặm, những bàn chân to bè dẫm đạp lên đó cuốn theo từng đám bụi lớn. Bụi hòa vào mồ hôi chảy đen kịt xuống cổ, xuống tay chân. Về đến trại, đặt gánh thóc xuống, người cứ chao đi như say sóng. Ông thấy mắc tiểu, lại bờ rào vén quần lên. Chưa kịp rặn nước đã chảy ra, nhưng không phải là nước tiểu mà là một thứ chất nhờn đục như nước cơm, sau đó là nước tiểu. Hỏi vài người bạn cùng trại cũng bị như vậy. Họ nói: Tinh dịch đấy. Cứ vậy, mồi lần đi tiểu là tinh xuất ra trước, sau đó là nước tiểu đỏ lòm, người gầy rạc đi mà tinh dịch cứ thoát ra không kiểm soát được. Ông lấy một mảnh ngói bể, vén quần đái lên đấy. Như thường lệ tinh dịch thoát ra, nhiểu lên miếng ngói. Ông lấy ngón tay quệt thử thấy nhờn nhờn. Tự nhiên ông rùng mình hoảng sợ. Nỗi hoảng sợ ấy giống hệt cái lạnh đang lan dần trong cơ thể ông bây giờ.
Sóng vẫn tiếp tục tạt nước vào mặt ông. Ông mệt ngất ngư, gục xuống tấm ván một lúc khá lâu. Trong cơn mê sảng ông mơ hồ nghe tiếng động cơ nổ lạch bạch rất gần. Một ngọn đèn sáng rực dọi thẳng vào mặt ông. Ông đưa tay lên và dồn hết sức bình sinh hét to:
-Cứu tôi!
Tiếng động cơ nhỏ dần. Chiếc ghe to lớn như con cá voi từ từ đậu lại.

13.

Lần này con chim khách lại đến đậu ngay trên tấm bia của ngôi mộ trước sân nhưng ông lão vẫn ngồi uống rượu một mình trong buổi xế chiều. Tóc ông đã bạc trắng và tròng mắt ông ánh lên vẻ sáng màu da cam rực rỡ của hoàng hôn.
Cái màu ấy cũng ánh lên trong chén rượu và phảng phất một chút trên những sợi tóc trắng. Ông lão nhìn con chim khách. Hơi men làm cho nắng phía sau tự nhiên rực rỡ hơn, giống như một đám cháy rừng. Hàng tre, ngọn cây thấp thì đen kịt trong cái nền sáng rực rỡ ấy.
Con chim khách ngó nghiêng vào nhà. Nó đang ngắm ông như đã từng ngắm ông trong nhiều buổi hoàng hôn như thế. Nó hiểu ông không làm gì nó và dường như nó còn hiểu được cả sự cô độc của ông mỗi lần thấy ông ngồi một mình với chai rượu trắng. Chỗ con chim đứng không cao hơn đám cỏ may bao nhiêu, cái đuôi của nó quét trên những bông cỏ may màu tím than gợn lên như sóng.
Khi mặt trời hạ xuống một tí nữa thì cả vạt cỏ may ấy bỗng rực lên như lửa cháy. Không biết trên bông cỏ may có cái gì lấp lánh mà phản chiếu nắng xế một cách rực rỡ.
Ðột nhiên những ngôi mộ xung quanh đó sáng lên. Bông cỏ may cứ lung linh như những ngọn nến chập chờn làm con chim phải quay lại. Dường như mỗi chiều nó đều đến đậu nơi đó để xem lửa cháy trên những bông cỏ cao này, hoặc có thể nó tưởng đó là lúc hoa nở. Còn ông lão thì lại cứ tưởng rằng rượu đã làm cho mình hoa mắt lên. Con chim khách vẫn chưa bay đi, nó xoay trở một lúc rồi kêu lên mấy tiếng.
Ông lão uống hết chén rượu, ngó ra cái lối mòn giữa nghĩa trang có vẻ như chờ một người khách nào đó sẽ đến nhưng vẫn không thấy ai cả. Một con chồn nhỏ từ trong bụi gai chạy ra loanh quanh tìm mồi rồi lại chạy vào bụi gai. Con sóc thì bạo dạn hơn một chút. Nó chuyển từ cành me xuống và leo lên bàn ông cướp mấy hạt đậu phộng, đứng nhâm nhi nơi đó, cũng không đến nỗi hấp tấp lắm. Lão già vẫn thường cho nó ăn những hạt đậu phộng như thế mỗi chiều. Con vật có đôi mắt đen tuyền, có cái đuôi xù đẹp. Nó đứng nơi mép bàn và có lúc nó cũng ngừng nhai để nhìn ông lão. Ánh hoàng hôn trong mắt ông làm nó chú ý, nó nhìn không chớp. Ông ngửa bàn tay thô kệch của mình ra mặt bàn và nói:
-Hãy leo lên đi! Leo lên đi, con!
Nhưng con sóc nhỏ lại lùi một bước, khi ông thảy cho nó hạt đậu nữa thì nó mon men đến. Chợt con chim khách bay vụt lên rất nhanh và mất tăm trong trời chiều.
Lúc đó một người khách vừa đến, ông ta hiện ra như cái bóng đen sẫm to lớn giữa những mộ bia xám xịt. Lão già giữ nghĩa địa chưa biết khách là ai nhưng ông cũng không có gì phải tò mò. Những người khách quen của ông hay đến bất ngờ và lặng lẽ như thế. Những ông già trong xóm thường đến và uống rượu với ông đến tối, có khi còn ngủ lại trên cái chõng tre ọp ẹp, phanh trần ra giữa đêm mùa hè đầy tiếng muỗi kêu vo ve.
Ông lão với tay lấy một cái chén đất nhỏ nữa đặt trước mặt mình, đến khi người khách bước vào nhà và ngồi xuống nơi chiếc ghế gỗ đối diện, ông mới rót rượu ra.
Lúc này nắng xế đã tắt, không còn đỏ rực như đám cháy rừng phía bờ rào, không còn ánh lên trong ly rượu. Mặt ông lão trở nên tối và mặt người khách cũng tối. Nhưng dường như họ đã quen nhau từ lâu rồi.
-Ông Mùi đấy à?
Im lặng.
-Ai đấy?
Cái bóng đen to lớn vẫn lặng thinh. Ông lão lại uống cạn chén rượu của mình và hỏi tiếp:
-Hay là lão chăn dê?
-Lão chăn dê đã chết ngoài biển rồi.
Lão già chồm người về phía trước để nhìn cho rõ người khách lạ nhưng mắt ông đã quáng gà chẳng thấy gì cả trong bóng tối. Ông thử đưa tay ra sờ soạng nhưng dường như tay ông không chạm vào cái gì cả. Ông sờ vào khoảng không. Phải rồi, hồn ma chỉ là một cái bóng mà thôi. Chỉ là một cái bóng…. Ông lão nói càm ràm:
-Ðúng rồi…. đúng rồi…. Hồn ma của nhà tư sản Nguyễn Trường Thịnh đây mà.
-Không phải hồn ma. Người khách nói. Ông không nghe thấy nùi thuốc của tôi sao?
Lão hít hít trong khoảng không:
-Mùi thuốc Cẩm Lệ… Ừ, ừ,… Hãy đưa cho lão xem cái tẩu thuốc. Cái tẩu của ông đâu rồi?
-Không còn gì cả. Ðây, bàn tay của tôi đây. Lão quờ quạng gì thế. Hãy cầm bàn tay của tôi đây. Thấy chưa nào?
Ông lão nắm lấy bàn tay của khách, sờ trên những nốt chai, những kẽ tay rồi sụt sịt khóc.
-Trời ơi, ông còn sống đây a? Sao người ta bảo rằng tàu chìm và tất cả đã chết hết rồi?
-Có lẽ tất cả đã chết hết, trừ tôi ra.
-Trời Phật phù hộ cho ông.
-Nếu trời Phật phù hộ thì đã không để cho tất cả những người thân của tôi đều chết. Có lẽ đây chỉ là trò chơi của Trời. Ông ta muốn thử sức chịu đựng của một con người. Ông ta dồn nó vào đường cùng và quan sát nó phản ứng như thế nào.
Ông lão khóc sụt sịt, mếu máo. Ông hỉ mũi xuống đất và lảo đảo đứng dậy.
-Bác đi đâu vậy?
-Ðể tôi bắc nồi cơm. Ông đi đường xa….
Nhưng ông Thịnh đã giữ tay ông lại.
-Tôi đã ăn rồi. Bác ngồi xuống đi, chúng ta uống với nhau một lát nữa.
Lão già vịn vào vai ông Thịnh và nói:
-Hãy đưa xách đây, tôi đem cất.
Ông Thịnh xách cái ba lô cũ kỹ lên. Ông trao nó cho lão già. Nó trĩu nặng và cộm.
-Cái gì trong đó vậy? Lão già hỏi.
-Chẳng có gì quý giá. Thôi, bác hãy cứ để cho tôi dùng làm gối.
Và ông đặt cái ba lô lên đầu giường.
Hai ông bạn già ngồi uống với nhau tới lúc trăng lên thì lão già giữ nghĩa địa đã say mèm. Ông Thịnh đỡ lão lại giường nằm và cởi chiếc sơ mi của mình đắp cho lão. Ông đi ra ngoài đêm, mặt quay về hướng đông nhìn trăng một lúc rồi thả bộ theo những lối mòn trong nghĩa địa. Trăng ở đây khác hẳn mặt trăng âm u trên biển. Nó tròn đầy, dịu dàng và trong sáng, thanh thản bên những dải mây mỏng, nó in bóng ông xuống lối mòn, xuống những ngôi mộ và bia đá. Ông vừa đi vừa nhìn bóng mình, lắng nghe tiếng giun dế, tiếng những con chồn đi ăn đêm sột soạt trong bụi gai.
Cuối cùng ông đến ngồi bên cạnh những ngôi mộ của vợ và các con ông. Ông lặng thinh nhìn ngắm chúng như nhìn những người thân đang ngủ. Ông muốn ngồi như thế này suốt đêm để quạt cho những đứa con ông ngủ, để ru cho chúng mơ những giấc mơ đẹp. Còn Phillipe Phúc, biển sẽ ru con. Xác thân con đã tan nát nhưng hồn con vẫn vật vờ trên biển, trên những ngọn sóng và những cánh gió cùng với linh hồn của mẹ con.
Nghĩa địa tràn ngập ánh trăng, trải dài những hàng mộ bia im lặng.
Ông theo lối mòn đi vào trong túp lều nơi lão già đang ngủ. Ông lấy cái ba lô con cóc đem ra ngoài sân, cầm theo một cái ghế cao đặt bên dưới cành cây bã đậu.
Ông mở ba lô, lôi ra một cuộn dây thừng to bằng ngón chân cái. Cuộn dây được bện bằng chỉ gai mềm mại, đắm thắm giữa lòng bàn tay. Cuộn dây giống hệt như sợi dây thang nơi cái chòi giữa biển. Ông leo lên chiếc ghế cao, nhón chân vắt sợi dây thừng qua cành cây lớn và cột lại. Ông giựt sợi dây để thử độ chắc của nó. Chỉ cần thắt một cái gút và đạp đổ cái ghế. Ông sẽ lơ lửng trên cành cây. Một chút tinh dịch sẽ thoát ra làm thành một vết hoen trên quần đùi. Ông buông đầu sợi dây thừng và lôi trong túi áo ra một gói thuốc rê, chậm chạp vấn một điếu sâu kèn.
Ông ngồi trên chiếc ghế cao nhìn sợi dây đu đưa, đu đưa.
Tháng 5 năm 1988
ÐÀO HIẾU  

LÂM CHƯƠNG * LÊ THƠM



 LÊ THƠM

Lâm Chương
--------------------------------------------------------------------------------
Lời mở: Tôi ra khỏi trại cải tạo, mười lăm năm rồi. Tôi vẫn nhủ với lòng, hãy quên những ngày khốn khổ ấy đi. Quên để mà sống. Trí nhớ của tôi bây giờ tồi lắm. Tôi quên nhiều chuyện, nhưng chuyện trong tù tôi không sao quên được. Nó hằn sâu trong tâm tôi, như cây đinh đóng vào cột xương sống, làm dấu mốc thời gian. Mỗi lần trí nhớ cục cựa, là mỗi lần đau.
Sau mỗi lần viết về trại tù CS, tôi lại tự nhủ với lòng, đây là bài cuối cùng, không nhắc đến nữa. Nhưng nó như cái bóng đen ám ảnh tôi hoài. Và tôi lại viết về nó. Tôi viết như người kể chuyện, để giải toả nỗi ám ảnh. Giải toả theo kiểu của anh thợ hớt tóc, trong truyện Một Ngàn Lẻ Một Ðêm, phải đào lỗ mà la lớn lên rằng, "Ông vua có lỗ tai lừa!" Tôi không xây dựng thành một cái truyện ngắn của người làm nghệ thuật viết văn. Tôi chỉ kể chuyện về trại tù CS. Nói bao nhiêu cũng thấy thiếu. Còn người đọc thì cảm thấy quá thừa. "Biết rồi. Khổ Lắm. Nói mãi."
Trong cái bị làm bằng bao cát của Lê Thơm mang bên hông, có xác một con chó con. Nó bị bóp cổ chết vào trưa nay. Chuyện này, chỉ hai người biết: Lê Thơm và tôi. Giết một con chó nhỏ không khó, nhưng mạo hiểm mang ra cổng trại là một thử thách lớn dành cho kẻ bạo gan.
Con chó lông trắng đốm đen, đẹp như con chó giả nhồi bông. Nó thân thiện với tất cả mọi người. Ðưa tay, tróc lưỡi vài cái, nó chạy đến quấn quít. Nó ngây thơ trong trắng lắm. Nó không có tội gì cả. Vậy mà nó bị giết. Cái số nó chết yểu, nên trời xui đất khiến nó lân la gần gũi với những con ma đói. Người ta nuôi nó để ăn thịt. Nếu nó không chết bây giờ, thì ngày 2 tháng 9, cũng chết bởi tay thằng chủ của nó. Từ đây tới ngày ấy, đâu còn bao lâu? Chỉ sáu tháng nữa thôi. Sau sáu tháng phù du, rồi cũng bị đem ra tế thần cho mấy ông cán bộ đánh chén say sưa, mừng ngày độc lập. Chết như thế là chết lãng nhách. Thôi thì hy sinh ngay bây giờ, còn được ý nghĩa phục vụ nhân sinh.
Mấy hôm trước, Lê Thơm nói: "Tao có kế hoạch ăn no, với điều kiện mày phải hợp tác."
Tưởng gì chứ được ăn no, tôi hợp tác liền. Miếng ăn bây giờ, là vấn đề quan trọng hàng đầu. Khi đói, bộ nảo tuột xuống nằm trong cái dạ dày. Mọi suy tính đều hướng về miếng ăn, phục vụ cho cái dạ dày. Từ đó, người ta bộc lộ hết bản năng sinh tồn. Mà bản năng sinh tồn, thì người và vật giống nhau.
Tuy thế, tôi vẵn hỏi lại cho rõ: "Kế hoạch thế nào?"

"Mày đấm một cú thật mạnh vào chỗ này." Hắn nghiêng đầu qua một bên, chỉ vào quai hàm.

"Chi vậy? Thằng khùng!"

"Tao muốn dưới mang tai sưng lên, để khai sưng quai bị."

"Và được nghỉ lao động?"

"Nghỉ lao động là cái chắc. Nhưng mục đích chính là kiếm ăn."

"Nói rõ hơn coi?"

Lê Thơm xít lại gần tôi: "Dạo này, sáng trưa chiều, đều sắn. Ngày nào cũng sắn. Trường kỳ sắn. Nhiều thằng ăn sắn, quai hàm bạnh ra. Có thằng ma lanh, lấy tay chà xát đỏ lên, rồi khai sưng quai bị. Y tá tưởng thật, cho nó ra ở nhà cách ly, ngoài hàng rào."

"Ở cách ly, vẫn đói."

"Bên hông nhà cách ly, hàng rào bị phá một khoảng bằng cái lỗ chó chui. Nếu được ở cách ly, ban đêm tao chui lỗ chó, đột nhập nhà kho, trộm nếp."

"Chơi trò mạo hiểm, dễ mất mạng. Mày nhớ vụ thằng Khánh nửa khuya chui rào, ra nương moi khoai lang, bị bắn bể đầu gối, phải cưa chân lên tận háng không?"

"Ðó là nó chui từ trong ra ngoài. Còn tao chui từ ngoài vô trong."

"Ngoài hay trong cũng vậy. Vệ binh đi tuần thấy bóng người lấp ló ban đêm, nó nổ súng không thương tiếc."

Vụ thằng Khánh thế này. Nó là đại uý pilot. Những thằng Không Quân thường to con. Vào tù, càng to con càng bất lợi. Ăn uống cùng một tiêu chuẩn, thằng to con đói nhiều hơn thằng nhỏ con. Vào một đêm đông miền thượng du, trăng sáng lắm. Khánh chui rào, mò vào nương moi khoai lang. Cán bộ đi tuần tra an ninh bắt gặp con ma đói. Cán bộ bảo Khánh đứng nghiêm, rồi chỉa họng súng vào đầu gối của Khánh, bóp cò. Khánh bị bể khớp xương đầu gối, quỵ ngay tại chỗ. Cán bộ vào báo động, tập họp cả trại điểm danh. Anh em tù cải tạo không hiểu chuyện gì. Một lúc sau, vệ binh khiêng Khánh vào, bỏ nằm giữa sân trại. Cấm, không ai được đến gần. Trời đông lạnh buốt. Khánh nằm đau nhức rên la suốt đêm. Sáng ra, Khánh được khiêng lên bệnh xá của đoàn 779. Bệnh xá cũng chỉ có mấy thứ lá cây hái về từ ngoài rừng, sao làm thuốc nam. Hai người tù phục vụ ở bệnh xá, là bác sĩ của chế độ cũ miền Nam, cũng đành bó tay. Phải chuyển Khánh đi nơi khác. Khánh được võng đi cả ngày đường, qua bao nhiêu sơn khê đồi núi mới ra tới bệnh viện Yên Bái. Tám tháng sau, Khánh về lại trại, với cái chân cụt gần tận háng. Anh em ngồi nghe Khánh kể chuyện, đều khiếp vía. Tại bệnh viện Yên Bái, người ta trói tay chân Khánh vào giường, rồi cưa chân mà không có thuốc tê mê gì cả. Danh từ chuyên môn gọi là "giải phẩu sống". Khánh đau quá, ngất đi mấy lần. Giải phẩu sống lần đầu, vết thương nhiễm trùng sưng tấy lên và làm mủ. Giải phẩu sống lần thứ hai, người ta cho Khánh uống rượu đế đến say mèm, rồi mới cưa. Khánh nói, có rượu vào, cảm thấy ít đau.

Nhắc chuyện của thằng Khánh, cũng không làm Lê Thơm nao núng.

"Ðừng doạ tao. Ðấm một cú đi." Lê Thơm nghiêng đầu, đưa quai hàm chờ đợi.

Tôi đẩy ra: "Cú đấm của tao, có thể làm mày tréo bản họng. Mày tự đấm mày đi."

"Tao làm rồi. Nhưng tự đấm mình, tao không dám mạnh tay. Mày giúp tao hoàn thành kế hoạch."

"Kế hoạch của thằng khùng!"

Nói xong, tôi bỏ đi. Lê Thơm cụt hứng, chửi thề.

Hai ngày sau nữa. Ăn trưa xong, anh em vào lán nằm nghỉ ngơi. Lê Thơm, và tôi còn ngồi lại ở nhà ăn. Con chó nhỏ quanh quẩn dưới chân. Nó mới xuất hiện khoảng hơn nửa tháng nay. Từ trên khung, nó hay chạy xuống trại trong giờ ăn.

Nhìn con chó một lúc, Lê Thơm chợt nẫy ý lạ: "Thịt con chó này."

Tôi trợn mắt: "Ðừng đùa. Chó cán bộ trại phó đấy."

Hắn cương quyết: "Chó cán bộ, cũng xơi."

"Làm sao ăn?"

"Tao có cách. Mày dụ nó ở đây. Tao lấy cái bao cát."

Tôi chưa kịp đồng ý hay không. Hắn chạy vụt đi.

Tôi nhìn con chó. Tội nghiệp! Nó không biết gì cả. Tôi đưa tay. Nó liếm. Tôi vuốt đầu. Nó quíu tai lại. Tôi vỗ nhẹ trên lưng. Nó nghểnh cổ, lim dim đôi mắt. Quỷ thần trời đất ơi! Nó dễ thương như vậy, ai nở lòng nào giết cho đành?

Lê Thơm cầm bao cát, hấp tấp chạy lại: "Nhanh lên!"

Tôi lắc đầu.

Hắn mở rộng miệng bao giơ ra, giục: "Nhanh! Bóp cổ, thồn vào."

Không còn suy nghĩ nữa, tôi chụp cổ con chó, siết mạnh. Nó giãy giụa, quào bốn chân trong không khí. Lê Thơm túm chân, tròng vào bao cát.

Hắn nói: "Tiếp tục bóp."

Nếu có kẻ nhìn thấy, hậu quả khốn nạn sẽ không lường nổi.

Tôi kêu lên: "Kinh quá mày ơi! Tha nó đi."

Tôi buông tay. Con chó vừa kêu "ẳng" một tiếng, đã bị Lê Thơm siết cổ lại liền.

Tới giờ xuất trại lao động buổi chiều, cả đội xếp hàng đôi, lần lượt ra cổng. Cán bộ trực trại, và quản giáo đứng ngay cổng kiểm soát. Vệ binh coi tù, mang súng đi sau cùng. Lê Thơm lảnh việc nấu nước cho đội. Hắn quảy cặp thùng, mang bị đựng chó bên hông, thản nhiên đi ra cổng. Tôi vái thầm, cầu trời cho hắn thoát. Và hắn thoát thật. Tôi thở phào, nhẹ cả người.

Ra đến hiện trường lao động, mọi người túa vào rừng chặt nứa. Rừng xanh mênh mông. Ðồi núi chập chùng. Vệ binh mang súng đi qua đi lại ngoài bìa rừng, canh tù làm việc. Lê Thơm chọn thế đất tương đối bằng phẳng. Việc đầu tiên, hắn đào một cái hố nhỏ. Ai cũng tưởng hắn đào bếp lò. Nhưng thật nhanh, hắn cho con chó xuống, và lấp đất lại. Bên trên, hắn đốt một đống lửa, nấu nước. Ðó là chuyện hắn kể sau này.

Trong giờ giải lao. Tôi tới chỗ nấu nước. Lê Thơm múc cho tôi một ca nước sôi. Nhìn quanh, không thấy có dấu hiệu gì chứng tỏ Lê Thơm nướng chó.

Tôi hỏi nhỏ: "Chó đâu?"

Hắn chỉ vào đống lửa.

Tôi lấy cớ mồi lửa đóm hút thuốc lào, dùng cái que cời than lên, vẫn không thấy chó.

Hắn bảo: "Ði khỏi chỗ này ngay. Ðừng làm tụi nó sinh nghi."

Tôi tin tưởng vào tài ứng biến của Lê Thơm. Xưa kia, hắn là thiếu tá, có thời làm quận trưởng quận Chợ Lách, tỉnh Vĩnh Long. Ngày nay vào tù, hắn nhanh chóng thích nghi với hoàn cảnh mới, lanh lợi trong mọi vấn đề. Nhất là cải thiện, hắn nhanh như sóc. Trong đội, không thằng nào qua mặt được Lê Thơm. Thoáng thấy đó, biến đó không ngờ. Hồi hắn còn trong tổ làm vườn. Giờ trưa, mọi người đều nghỉ ngơi. Hắn lúi húi moi khoai lang, đem xuống suối rửa, nhưng mắt vẫn rảo quanh quan sát. Hắn thấy Thu Sứt từ những bụi cây đàng xa, đang rình mò theo dõi hành động của hắn. Tay này mang quân hàm trung uý, có người anh vào Nam làm giải phóng, và bỏ mạng trong trận chiến mùa hè năm 72, ở Bình Long. Bao nhiêu hận thù, Thu Sứt trút lên đầu anh em tù cải tạo. Sở dĩ Thu Sứt có biệt danh này, là do cái môi bẩm sinh bị sứt, phải vá lại. Vì thế cái miệng chum chúm, làm cho cái mặt luôn luôn mang nét quạu quọ như người đang hờn giận. Có lần, Thu Sứt bắt gặp anh Năng đang cải thiện. Thu Sứt gọi về, bắt Năng đứng giữa bốn vệ binh vây quanh. Thu Sứt hạ lệnh cho bốn vệ binh bề hội đồng. Năng bị đấm văng bên này, bị đá giạt bên kia, giống như những cầu thủ giao banh. Cuối cùng, Năng gục xuống ngất xỉu, được khiêng về trại cho anh em tù săn sóc. Sau thành tích ấy, Thu Sứt nổi danh là hung thần ác sát. Trong trại còn một người nữa, cũng nổi danh không kém Thu Sứt. Ðó là chàng trung sĩ vệ binh Nương Mặt Ngạnh. Thật ra, anh ta tên là Lương, nhưng do nói ngọng thành Nương, và do xương quai hàm bạnh ra, nên có biệt danh là Nương Mặt Ngạnh. Khi dẫn tù đi lao động, anh ta cầm theo chiếc gậy bằng cây giang, trông như khúc đoản côn. Ðã nhiều lần anh ta quất thẳng cánh vào anh em tù cải tạo. Ai từng bị đòn của Nương Mặt Ngạnh cũng đều ẹo xương sống. Thành tích của Nương Mặt Ngạnh ở hiện trường lao động rất đáng gờm. Anh ta bắt tù đứng trên triền núi. Thế núi dốc, anh ta đứng phía trên. Sau vài câu đay nghiến, bỗng Nương Mặt Ngạnh đá thốc dép râu vào mặt người tù. Bất ngờ không kịp chống đỡ, người tù ngả vật ra, sặc máu mũi. Trong kỳ cả trại học tập về chính sách khoan hồng nhân đạo của đảng và nhà nước, anh em tù phản ảnh chuyện này lên ông trại trưởng. Ông trại trưởng bảo: "Chính sách của đảng và nhà nước trước sau như một. Nhưng các anh quá quắc, không trừng trị không được." Thế là huề! Ðảng và nhà nước vẫn tiếp tục chủ trương khoan hồng nhân đạo. Anh em tù vẫn tiếp tục bị trừng trị.

Trở lại chuyện Lê Thơm khi bị Thu Sứt theo dõi. Hắn biết nguy tới nơi rồi. Hắn cho tất cả khoai lang vào thùng tưới, đi lên. Ở đằng xa, Thu Sứt nương theo những bụi cây đi tới, quyết bắt tại trận tên tù đang cải thiện. Lê Thơm chờ cho Thu Sứt đi khuất sau chòm cây, hắn trút thùng khoai xuống hố ủ phân bắc. Rồi quay xuống suối như đang tiếp tục xách nước tưới rau. Phân bắc là cứt người, ủ lại để bón rau. Hố phân bắc đầy giòi bọ, và mùi rất khắm.

Thu Sứt xuất hiện, khi Lê Thơm đang múc nước dưới lòng suối.

"Anh kia! Làm gì đấy?"

"Xách nước tưới rau."

"Anh rửa gì dưới suối?"

"Tôi có rửa gì đâu?"

"Láo! Anh vớt tất cả đem lên đây."

"Có gì mà vớt?"

"Khoai lang."

"Làm gì có?"

"Hãy mò xuống, vớt lên."

Lê Thơm mò xuống, vớt lên những sỏi đá."

Tức quá, Thu Sứt xăn quần lội xuống suối. Mò chỗ cạn không thấy, Thu Sứt mò ra sâu hơn, ướt cả quần, vẫn không thấy. Thu Sứt quay lên, mặt hầm hầm bảo Lê Thơm về ngay, trình diện trên khung.

Tại khung, Thu Sứt đưa tờ giấy, bình mực, và cây bút cho Lê Thơm, bảo: "Viết kiểm điểm."

Lê Thơm hỏi lại: "Chừng nào nộp giấy?"

"Chiều nay."

"Không kịp. Tôi còn phải đi lao động."

"Cho anh nghỉ việc buổi chiều. Ở lại lán viết kiểm điểm."

Lê Thơm viết, đại ý rằng từ ngày đi cải tạo, hắn luôn phấn đấu để trở thành người tốt. Cán bộ bảo viết kiểm điểm. Nhưng hắn không biết kiểm điểm về vụ gì? Mong cán bộ chỉ dẫn.

Buổi chiều. Lê Thơm đem giấy lên nộp. Thu Sứt đọc xong, vỗ bàn: "Kiểm điểm về vụ cải thiện khoai lang. Biết chưa?"

"Nhưng tôi đâu có cải thiện khoai lang?"

"Có. Anh phải viết rằng anh có cải thiện khoai lang. Nghe rõ chưa?"

"Vâng. Tôi rõ. Xin cho biết chừng nào nộp giấy?"

"Cho anh nghỉ việc sáng mai, viết kiểm điểm. Trưa hôm sau nộp."

Thu Sứt đưa Lê Thơm tờ giấy khác. Anh ta yên chí sẽ căn cứ vào nội dung tờ kiểm điểm, nện cho Lê Thơm một trận mập mình, và cùm vào nhà kỷ luật.

Lần thứ hai, Lê Thơm viết rằng: Tôi đang đứng dưới suối xách nước tưới rau. Cán bộ nghi ngờ tôi đang rửa khoai lang. Và ra lệnh cho tôi phải viết có cải thiện khoai lang. Tôi tuân lời cán bộ, nhận có cải thiện khoai lang. Nhưng thật sự tôi không dám làm chuyện vi phạm nội quy như thế."

Trưa hôm sau. Thu Sứt đọc kiểm điểm của Lê Thơm xong, xé toạc tờ giấy, giận dữ: "Viết láo lếu thế này, thì sao gọi là tự giác?"

Lê Thơm bình tĩnh: "Tôi viết theo lệnh của cán bộ."

Thu Sứt gầm lên: "Câm họng. Cút ngay! Lần sau, dù có lủi giỏi như chạch cũng không thoát."

Trong tù, Lê Thơm dám "giỡn mặt" cán bộ, quả là lớn gan. Tôi phục hắn. Nói theo Thu Sứt, hắn lủi giỏi như chạch. Hắn đã thoát không phải một lần, mà nhiều lần sau nữa. Chỉ một lần sau cùng, hắn không thoát được. Và lần không thoát được ấy, đưa Lê Thơm đến sự tử vong. Tôi đã nói về trường hợp Lê Thơm bỏ mạng, trong một truyện khác.

Tối hôm thịt con chó, trời vừa nhá nhem, Lê Thơm khều tôi ra ngoài đầu hồi. Hắn mở cái bị, lôi ra con chó cứng đơ, dính đầy đất cát. Hắn lột da, xé miếng thịt đưa tôi. Chưa bao giờ ăn thịt chó, tôi nghe nhờn nhợn trong cổ khi cầm miếng thịt.

Lê Thơm bảo: "Ăn đi. Nguồn protéin bổ dưỡng vô song."

Hắn nhai ngấu nghiến. Tôi bắt chước ăn thử, thấy ngon. Tôi nghĩ, với sự đói khát lâu ngày, bất cứ món gì cho vô miệng cũng thấy ngon. Thằn lằn, rắn mối, cào cào, châu chấu, ốc sên, dế nhủi đều ngon, và cũng là nguồn protéin cần thiết cho cơ thể. Ðặc biệt, có con sâu màu trắng thường rúc trong gỗ mục, toàn thân nó chứa một chất sữa rất béo. Con sâu vô danh này, tù đặt tên là con Magarit. Có thể nói con Magarit là sâm động vật, giá trị không thua sâm thực vật của Ðại Hàn.

Hai chúng tôi ăn đến nửa con chó, thì đụng phần thịt sống. Bởi khi chôn con chó xuống đất, phía trên nóng nhiều làm thịt chín, nhưng không đủ sức chín tới phía dưới.

Lê Thơm nói: "Ăn luôn. Người tiền sử vẫn ăn thịt sống."

Tôi đề nghị: "Cắt ra từng miếng nhỏ, cho vào lon Guigoz nấu."

"Mang ra mang vô cổng trại, nguy lắm."

"Tới phiên tao mạo hiểm. Tao sẽ nấu ngay đêm nay."

Ðêm ấy, tôi lần mò trong bóng tối, vào nhà bếp cời than đặt vào hai chiếc lon Guigoz. Xong, lại quay về lán ngồi đợi thịt chín. Khi lấy lon về, cũng phải ra vào hai bận. Công việc chỉ có thế, nhưng vô cùng nguy hiểm. Vệ binh rình rập đâu đó, thấy bóng người ra khỏi lán mà không cầm theo cây đèn dầu, chúng sẽ bắn, nếu không chết cũng bị thương. Tôi tin con người có số mạng. Dù ở tù, nhưng ngôi sao chiếu mạng của tôi còn sáng lắm. Quỷ thần che chở cho tôi trong mọi trường hợp bất trắc hiểm nguy.

Ngay trong đêm, Lê Thơm và tôi thanh toán sạch luôn hai gon Guigoz thịt. Con chó nhỏ được chôn kín vào nơi không trời không đất. Hoàn toàn mất dấu.

Khi ăn, tôi nói: "Nghĩ tội con chó quá, mày ơi!"

Lê Thơm nói: "Cũng bởi tình cảm tiểu tư sản như thế, mà hôm nay mới vào tù."

Tôi lại nói: "Miếng ăn tưởng chừng rất nhỏ nhoi. Nhưng có lúc người ta dám đem cả sinh mạng mình ra thử thách. Xem thế, đủ biết cái ăn là quan trọng vô cùng."

Lê Thơm gạt ngang: "Ðừng triết lý vặt, ăn mất ngon, con ạ!"


Vài hôm sau, ông đại uý cán bộ trại phó cầm sợi dây cột chó, xuống trại vào giờ ăn trưa. Ông đi quanh quẩn tìm kiếm.

Ông hỏi: "Các anh có thấy con chó của tôi chạy xuống đây không?"

Mọi người im lặng.

Lê Thơm lên tiếng: "Con chó nào, cán bộ?"

"Con chó trắng đốm đen."

"Có phải con chó nhỏ không?"

"Ðúng rồi."

"Ồ... Lúc trước, nó vẫn thường chạy lại đây. Hai ngày nay không thấy."

"Hôm qua, tôi còn cho nó ăn. Mới mất hôm nay thôi."

Lê Thơm sốt sắng: "Tôi sẽ để ý. Nếu thấy, tôi giữ nó lại, báo cho cán bộ."

Ông trại phó lắc đầu thất vọng: "Chắc bị cáo vồ rồi."

Nói xong, ông quay đi.

Lê Thơm thầm thì với tôi: "Mình thịt con chó đã hai ngày. Nó nói hôm qua còn cho chó ăn. Bọn này hễ mở miệng ra là nói láo. Chuyện lớn chuyện nhỏ đều láo."





Last edited by linhgia on Sat Mar 19, 2005 6:18 pm; edited 2 times in total

Sagittarius Gender:Male Cock
HiddenPersonal Gallery of linhgiaView user's profileSend private message

linhgia


Age: 68
Joined: 03 Dec 2004
Posts: 1499

cuba.gif

PostPosted: Sat Mar 19, 2005 6:11 pm  Post subject:  Re: Chuồng Người Reply with quoteBottom of PageBack to top

Chuồng Người

Lâm Chương
--------------------------------------------------------------------------------

Chỉ còn vài ngày nữa là thu hoạch xong vụ mùa. Tôi được miễn đi lao động, vì cái chân đau. Hôm qua lúc chuyển lúa vào bồ, tôi vô ý vấp ngã nơi bậc thềm nhà kho. Mặc dù đã được nắn bóp, sửa trặc, nhưng khớp xương mắc cá chân vẫn sưng đỏ, đau nhức.
Khi các đội đã xuất trại, tôi chống cây gậy ra cửa, đứng nhìn lên sân trại. Giữa sân có đặt ba cái thùng phuy, dùng chứa phân người. Sau một đêm bài tiết của anh em trong trại, phân được xúc từng gánh đem đổ vào thùng. Hàng ngày, người của đội rau xanh sẽ chuyển ba cái thùng này bằng xe cải tiến đến vườn rau. Ðổ phân xuống hố, lấp phủ lên một lớp đất. Ủ phân. Một thời gian sau, phân từ màu vàng như đất sét nhão, biến thành màu xám như bùn, đã tới lúc có thể dùng được, xúc lên làm phân bón rất tốt. Phân được chế biến kiểu này gọi là phân Bắc. Mới đầu, anh em đội rau xanh rất tởm phân Bắc, nhưng thời gian lâu dài, tiếp xúc mãi thành quen, thấy cũng không có gì đáng gớm ghiếc, và khám phá ra cái công dụng tuyệt vời của nó. Chỉ cần rau muống nếm một chút phân Bắc, rau trở nên xanh tốt, tăng trưởng rất nhanh.

Từ trong đội cải tạo hình sự, có hai tên cầm que đi đến thùng phuy. Nó bươi móc thứ gì trong đó. Một trong hai tên này, tôi quen. Hồi mới quen, tôi hỏi nó:

- Mày tên gì?

- Ný!

- Tên ngộ quá! Họ gì?

- Nê !

- Cái gì? Làm gì có họ Nê?

- Có chứ! Rất nhiều!Tên họ của cháu: Nê văn Ný
.
Tôi chợt hiểu, bật cười:

- Mày nói ngọng. Tên họ của mày là Lê văn Lý.

- Người miền Nam của các chú thường nói thế. Ở đây chúng cháu gọi Nê Văn Ný!

Từ đó trở đi, tôi cũng gọi nó là thằng Ný.

Thấy nó bươi móc trong thùng phuy, tôi kêu lớn:

- Ný! Mày làm cái gì đó?

Nó quay lại nhìn tôi, rồi bỏ cái que, đi lại gặp tôi.

- Hôm nay sao chú được nghỉ?

- Tao bị bong gân chân. Còn mày?

- Cháu chờ để trưa gánh đồ ăn thông tầm cho đội!

- Mày tìm gì trong thùng phân?

- Nhà bếp vừa đổ rác trong ấy. Cháu kiếm chút rau cải vụn.

- Ăn uống dơ bẩn, có ngày bỏ mạng con ơi!

- Cháu mang về rửa sạch, cho vào ca cống, đun sôi, vi trùng nào chả chết!

Tôi nhìn thân hình gầy gò, cái mặt hốc hác của nó, và nghĩ đến mình. Tôi có khác nó gì đâu. Cùng một hoàn cảnh khốn khó, người ta không cần tỏ lòng trắc ẩn cho nhau.

Ðứng tần ngần một lúc, nó hỏi:

- Chú có thuốc nào, cho cháu xin một bi!

-Vô đây!

Tôi dẫn nó vào lán, ngắt trong cái bọc nhỏ, cho nó một bi thuốc lào. Rít xong hơi thuốc, nó nói:

- Hôm nay, đội cháu có mấy thằng được chỉ định nên khung, mổ nợn cho cán bộ bồi dưỡng. Cháu không được đi. Tiếc thật!

- Mổ lợn đâu có gì thích mà mày tiếc?

- Thích chứ! Ðược xơi thịt!

- Cán bộ cho ăn hả?

- Không. Làm gì có người tốt thế!

- Vậy ăn bằng cách nào?

- Khi được chỉ định đi mổ nợn, thằng nào cũng phải măc hai nớp quần. Nớp trong được bó sát vào bìu dái như cái quần xì của người miền Nam. Ðến núc xẻ thịt thì xén vài cục, nén dấu vào quần, dưới bìu dái. Trước khi về, cán bộ bắt đứng xếp hàng, mò xét khắp ngườii, nhưng không mò dưới bìu dái. Thế nà thoát!

-Tụi mày tài thật!

- Cách này dùng mãi, bị phát giác. Chúng nó bắt cởi đồ, chỉ còn độc cái quần trong, thò tay sờ vào quần, sờ nắn trong háng, nhột bỏ mẹ. Bắt gặp có dấu thịt, chúng nó dần cho nát đòn và cùm vào nhà kỷ nuật.

- Khó khăn, nguy hiểm như vậy, tụi mày không sợ?

- Trong khó khăn nẩy sinh sáng tạo. Chúng cháu nghĩ ra được cách giấu thịt, chỉ có trời biết.

Nó ngừng lại, chỉ tay vào túi tôi:

- Chú cho cháu thêm bi thuốc!

- Mày có tài thật, đang kể chuyện tới hồi gây cấn là ngừng lại, đòi thứ này, thứ nọ.

Dù cằn nhằn nhưng tôi vẫn ngắt cho nó bi thuốc lào thứ hai. Nó cẩn thận cho bi thuốc vào nõ điếu, châm mồi lửa, rít một hơi dài...Tôi giục:

- Kể tiếp đi. Cái mánh lới giấu thịt của mày!

- Thằng nào được chỉ định đi mổ lợn, khi trở về đội cũng phải nạp cho thằng đội trưởng hai cục thịt bằng ngón chân cái. Không có, nó thụi vào bụng cho thổ huyết!

- Tao không muốn nghe chuyện thằng đội trưởng của tụi mày. Hãy kể phương pháp dấu thịt mà mày cho rằng sáng tạo.

- Vâng! Phương pháp này không cần phải chuẩn bị đồ nghề gì cả. Lúc xẻo thịt, nếu cán bộ không để ý, cứ xén từng cục, cho vào mồm xơi tươi!

- Ăn thịt sống hả?

- Vâng! Xơi thịt sống thì đã có sao?

- Tụi mày ăn uống như người tiền sử!

- Người tiền sử nà người xứ nào mà ăn uống như chúng cháu?

- Chẳng phải xứ nào cả! Ðó là tổ tiên của chúng ta nhiều triệu năm về trước. Khi chưa tìm ra lửa, loài người phải ăn thịt sống.

- Ðấy! Họ vẫn khoþe mạnh, sinh tồn đến ngày nay. Cọp beo cũng thế!

- Hãy nói vấn đề lấy thịt. Tụi mày ăn tại chỗ, nhưng làm sao lấy về cho thằng đội trưởng?

- Chúng cháu xén sẳn vài cục, khi có nệnh về nà cho vào mồm nuốt ngay. Bọn cán bộ dù có con mắt thánh cũng không bắt gặp. Xét xong, chúng cháu vội về đội, móc họng, nôn ra niền, nạp đủ số cho thằng đội trưởng.

- Rồi thằng đội trưởng ăn bằng cách nào?

- Hắn rửa cục thịt sạch chất nhớt, cho vào ca cống, đun lên nà có được bữa ăn ngon.

Nói xong, thằng Ný đứng dậy:

- Cháu phải về gánh cơm cho đội thông tầm. Cái chân chú đau, không nên đi đứng nhiều.

Nó quay lưng, ra khỏi lán.

Nhìn đôi vai gầy guộc của nó rút lại như đôi vai cuþa người bệnh ho lao, tôi gọi: -Ný! Mày trở lại lấy vài bi thuốc laòo, đêm nay hút cho đỡ lạnh!

Vào những ngày cuối năm, trời bỗng dưng trở lạnh. Mưa phùn lất phất trên những vòm cây. Ðồi nương ẩm đục. Ngày hai mưới chín tháng Chạp, được phép trại trưởng, các đội khỏi phaþi xuất trại lao động bên ngoài. Thay vào đó, anh em được giao công tác dọn dẹp và làm vệ sinh trong trại, chuẩn bị đón Tết.

Tôi đang ngồi nhổ coþ dọc theo những chân tường ngăn chia các đội. Thăng Ný đi ra. Hôm nay nó mặc bộ đồ lành lặn, sạch, mặt hiện niềm vui. Tôi nói:

- Chưa Tết mà ngó mày, tao đã thấy mùa xuân!

Nó báo tin: - Cháu được mẹ từ Vĩnh Yên nên thăm. Bộ đồ này cháu mượn của thằng bạn, để mẹ cháu không nhìn thấy cháu rách. Cháu đang chờ cán bộ dẫn ra nhà thăm nuôi.

- Mày ngon rồi! Vừa có đồ ăn của trại, vừa được mẹ tiếp tế thêm. Tết này mày huy hoàng!

- Vâng! Huy hoàng thật! Cháu không ngờ may mắn đến thế!

Khoảng hai giờ chiều, cán bộ dẫn thằng Ný về trại, tay ôm bụng, mặt nhăn nhó, tái nhợt. Ngờ nó bị trúng gió, tôi theo nó vào lán. Nó năm vật lên sạp, lăn lộn, kêu đau bụng và lạnh. Tôi hỏi mượn mấy thằng bạn của nó ve dầu nóng để cạo gió.

Thằng đội trưởng hình sự đứng nhìn một lúc, nói:

- Chả phải trúng gió đâu! Nó bị bội thực đấy! Móc họng nôn ra là khỏi ngay!

Nhiều thằng khác lao nhao:

- Nôn ?đi! Nôn đi!

Thằng Ný trườn về bìa sạp, rướn cổ, thò đầu ra ngoài, cho ngón tay vào miệng. Có thăng la lớn:

- Hãy khoan!

Và nó chạy ra ngoài, đem vô một cái thau bằng nhựa, bưng thau kề sát miệng thằng Ný:

- Hãy nôn vào đây!

Thằng Ný móc họng, ụa mữa. Ðồ ăn lẫn nhớt dãi tuôn trào xuống thau. Thằng bưng thau bóc lên những miếng thịt còn dính lòng thòng nhớt dãi, đưa lên miệng ăn. Một thằng khác đang đói cũng ăn.

Có thằng nhăn mặt: - Gớm quá!

Thằng bưng thau nói:

- Gớm gì? Từ bụng kia sang bụng nọ mà thôi!

Sáng mồng một Tết, mọi người quy tụ ra sân trại coi anh em văn nghệ trình diễn. Có đàn và trống xập xình vui tai. Tôi gặp thằng Ný đang lóng ngóng coi hát. Tôi hỏi:

- Mày khỏe hẳn chưa?

- Hôm sau nà khỏe ngay!

- Mẹ mày thăm nuôi, sao tao thấy mày đi vào tay không?

- Nhà cháu nghèo, không có tiền sắm sửa. Thăm nuôi là thăm cho có nệ thế thôi! Mẹ cháu chỉ mang cho cháu một con gà nuộc, và một cân xôi.

- Sao không đem vô trại, để dành ăn từ từ?

- Nếu đem vô trại, mấy thằng đầu gấu, chúng nó giành giựt cả. Thế cháu mới xơi hết tại chỗ!

Tôi trợn mắt:

- Mày ăn hết một lần hết con gà và cân xôi?

- Vâng! Không còn cách nào khác! Lúc thì dư thừa phải nôn ra, bây giờ thì đói.

Nhìn thằng Ný, tôi thấy nó đang tàn tạ, khô héo dần. Nó không có mùa Xuân.




Sagittarius Gender:Male Cock
HiddenPersonal Gallery of linhgiaView user's profileSend private message

linhgia


Age: 68
Joined: 03 Dec 2004
Posts: 1499

cuba.gif

PostPosted: Sun Mar 20, 2005 3:55 am  Post subject:  Re: Reply with quoteBottom of PageBack to top

Lò Cừ Nung Nấu Sự Ðời

Lâm Chương

--------------------------------------------------------------------------------

Thằng con trai út của tôi tên Lâm Bình, ngoại hiệu Cu Ðen, vừa tròn mười tuổi. Sau khi cắt bánh mừng sinh nhật và hát bài Happy Birthday, nó tuyên bố rằng, từ đây không còn muốn nghe ai gọi tiếng Cu kèm theo tên Ðen nữa. Mấy thằng bạn nhỏ của nó, ngoài những đứa Việt Nam, còn có Mỹ, Tàu, Ðại Hàn, Thái Lan và Phi luật Tân. Những thằng này không biết tiếng Việt. Cu Ðen phải làm thêm một màn thông dịch bằng tiếng Anh.
Nghe xong, chúng trố mắt nhìn nhau, không hiểu lý do.

Một thằng nhỏ Việt Nam, chỉ tay xuống háng: "Cu là cái này."

"Thế còn Ðen?" "Black."

Chừng như chúng hiểu ra cái nghĩa Cu Ðen, nên phá lên cười muốn vỡ nhà.

Cu Ðen trừng mắt: "Tụi mày cười, tao không chơi với tụi mày nữa."

Một thằng Mỹ con, đề nghị: "Bỏ chữ Cu, thêm chữ Ny sau tên Ðen, thành Danny."

Một ý kiến hay, được Cu Ðen chấp nhận, và cả bọn vỗ tay tán thành. Từ đó, thằng con tôi trở thành Danny, một cái tên ngoài giấy tờ khai sinh. Kỷ niệm sinh nhật năm thứ mười, cũng là kỷ niệm ngày đổi tên. Nhưng cái tên mớI này, cũng chỉ có giá trị với những thằng bạn của nó thôi. Còn cả nhà đã quen với tên cũ, không ai chịu gọi nó bằng Danny. Mỗi bên nhượng bộ một chút. Thằng nhỏ hết thấy khó chịu. Và người nhà cũng không ngượng miệng phải gọi một tên mũi tẹt da vàng bằng tên Mỹ. Chỉ gọi là Ðen. Tiếng Cu đã lỗi thời, đi vào quá khứ. Thật ra, cu còn có nghĩa khác, chứ không phải đơn thuần hàm chỉ bộ phận sinh dục của giống đực. Trong trường hợp con tôi, cu có nghĩa là đứa bé trai. Nhưng khi nhạo báng nhau, người ta không chịu hiểu theo cái nghĩa này.

Không phải tùy hứng mà đặt tên con là Cu Ðen, một biệt hiệu ngoài giấy tờ khai sinh. Tất cả đều có nguyên nhân của nó.

Tôi có đứa con gái đầu lòng, đặt tên Khuê. Loay hoay tìm chữ lót. Thị Khuê, thường quá. Ngọc Khuê, có vẻ cải lương. Sao Khuê, tên nghe được, không trùng với ai. Nhưng nếu có người hỏi nghĩa là gì, thì trả lời làm sao? Trên trời có vì sao nào là sao Khuê không? Tôi mở từ điển Hán Việt ra, tra chữ khuê, thì thấy khuê là một vì sao trong nhị thập bát tú. Thế là yên chí, đặt tên con gái là Lâm Sao Khuê.

Năm Sao Khuê chập chững tập đi, thế nước đổi thay. Tôi gặp hồi mạt vận, sa chân xuống hầm tai vạ. Thế mà trước đó một năm, lão thầy bói lừng danh ở Sài Gòn, dám đoan chắc rằng sang năm Ất Mão, đời tôi sẽ lên như diều gặp gió.

Lão lý luận nghe rất phấn khởi: "Cậu đang đi lính, lại thuộc tuổi Ngọ. Vậy cậu là con ngựa thứ dữ. Ngựa chiến, chứ không phải ngựa kéo xe tầm thường. Gặp năm Mão là năm con mèo. Mèo là con vật quanh quẩn xó bếp, dám đâu cự lại ngựa nòi? Ngựa cứ thênh thang đường ngựa, mèo chỉ trơ mắt ngó mà thôi."

Thấy tôi còn đang bồi hồi vì một tương lai rực rỡ, lão bồi thêm cú chót để giữ vững niềm tin. Lão chồm về phía tôi, nói nhỏ như sợ có người nghe thấy: " Nói thật với cậu, ai thuộc tuổi Tí, mà bước sang năm Mão, thì đời thê thảm lắm. Mèo là khắc tinh của chuột. Chuột gặp mèo, nếu không vong mạng, cũng lắm tai ương."

" Người tuổi Tí đến đây coi quẻ, thầy có cho họ biết điều đó không?" Tôi hỏi.

Lão ra vẻ hốt hoảng: "Ấy chết! Mình đâu nỡ báo tin buồn quá sớm. Ðể cho con người ta vui được ngày nào hay ngày ấy."

Trời xui đất khiến, trong tù, tôi gặp lại lão thầy bói. Lão ở tù vì cái tội bày trò mê tín dị đoan.

Tôi nhắc lại chuyện cũ, và nói: "Con ngựa chiến sút móng, không "dzọt" được. Gặp con mèo, đành phải hoán đổi vị trí. Ngựa lui vào nằm co xó bếp, nhìn mèo diệu võ dương oai."

Suy ngẫm một hồi, lão thầy bói nói: "Ngày ấy, cậu không cho tôi biết một chi tiết hệ trọng trong gia đình. Ðứa con gái của cậu tuổi Sửu. Nó ra đời thì cậu thất thế. Con trâu là khắc tinh của con ngựa. Trâu ngựa không thể cùng chuồng. Trâu vào, ngựa phải ra đi. Nếu ngựa ở lại, sớm muộn gì cũng bị trâu chém đổ ruột. Cậu đi tù là xui, nhưng xa con trâu thì tính mạng được bảo toàn, khỏi bị triệt"

Một lần khác, ông lại thủ thỉ với tôi: "Sau nhiều đêm chiêm nghiệm, tôi mớI thấu được lẽ thiên cơ. Nói để cậu yên tâm. Tụi nó không làm gì mình được đâu."

Tôi chán: "Ở tù, bị hành xác, đói gần chết. Óng bảo tụi nó không làm gì được mình?"

"Ối..., chỉ là chuyện nhỏ, không đáng kể. Ðời người, ai lại không có lúc hoạn nạn. Cậu có nghe câu sấm truyền "Mã đề, dương cước, anh hùng tận" không?"

"Có nghe, nhưng mỗi người giải đoán một kiểu. Chẳng đâu vào đâu."

"Này nhé. Nhiều người giải thích, mã đề là chân ngựa, hoặc móng ngựa, đều không hợp với câu sấm. Nói theo Hán tự đàng hoàng, mã đề là ngựa cất lên. Nguyên câu có nghĩa thế này, ngựa cất lên, dê bước tới, anh hùng tận số. Chỉ còn ba năm nữa là tới năm Ngọ, tụi mình sẽ vùng lên. Nhất là tuổi Ngọ của cậu mà lại gặp năm Ngọ, sẽ phất rồng gặp mây. Khởi sự sang năm Mùi, tụi nó sẽ chết không đủ đất chôn."

Tôi ngồi im lặng. Biết những gì lão thầy bói nói là chuyện hão huyền, nhưng vẫn muốn nghe như một an ủi trong những ngày buồn thảm.

"Tụi nó khoác lác huênh hoang tự xưng anh hùng. Ứng với điềm trời, anh hùng tận. Mình mất Miền Nam, nhữngngười không thông đạt ý trời, bỏ chạy ra nước ngoài. Những người còn lại bị tù, nhưng tướng tinh vững như bàn thạch. Chờ vài năm nữa thôi. Ðể rồi cậu coi, tụi nó chạy đâu cho thoát? Ngày quật khởi thành công, những anh tướng anh tá từ ngoại quốc sẽ lục tục quay về, nhưng chỉ được đứng chầu rìa, không cho tham gia vào chức vụ gì cả. Lúc đó, vàng thau đã tỏ rồi."

Bám lấy hy vọng mà sống. Ba năm không thấy gì. Gọng kềm siết mạnh hơn. Bốn năm trôi qua. Ðời càng thê thảm. Lão thầy bói bỏ xác trong tù. MườI năm sau, tôi về quê cũ, lao đao khốn khó. Ðứa con gái đầu lòng, Lâm Sao Khuê mười hai tuổi, xạm mốc, ốm o, gầy mòn. Dù nghèo nàn cơ cực, nhưng tôi vẫn muốn có thêm thằng con trai nối dõi.

Vợ nói: "Khổ quá, còn đẻ làm chi?"

Tôi nói: "Phải đẻ."

"Nếu không được con trai?"

"Tiếp tục đẻ nữa. Chừng nào ra thằng con trai thì thôi."

Năm sau, vợ sinh con trai. Có người bảo tôi tù rạc nhiều năm, tinh lực bị vắt cạn, tưởng không còn đủ sức có con. Tôi nói, hạt giống của tôi rất tốt, chỉ cần gieo xuống mảnh đất mầu mỡ là nẩy mầm ngay. Ðược dịp tán dóc, tôi còn bày cho mọi người cái phương pháp sinh con trai, con gái theo ý muốn. Với điều kiện, khi làm tình phải theo đúng bài bản chỉ dẫn. Kết quả, nhiều đứa bé ra đời. Có người được như ý, có người không như ý. Cũng may, ai sinh con, hễ thấy mặt thì thương. Dù không như ý, nhưng không có đứa bé
nào bị bóp mũi, hoặc thả trôi sông.

Thằng con trai nối dõi tông đường, tôi đặt tên Lâm Khang. Xui cho thằng này. Gặp thời tai kiếp, tôi nghèo quá, phải bồng con đi ở đậu dưới chái hiên, bên hông nhà của một người quen. Chái hiên lợp tôn. Chung quanh chắn gió bằng những mảnh bìa carton. Chỉ chừa cái cửa ra vô, nhỏ như lỗ tò vò. Bên trong, đặt vừa vặn một chiếc giường. Trưa mùa hè, chui vào gian phòng nhỏ này, nóng hừng hực như lò lửa thiêu người. Thằng con tôi khóc hoài, không chịu ngủ. Tôi phải treo chiếc võng cho nó nằm, dưới bóng mát cây xoài. Trưa trưa, vợ ngồi đưa võng, hát những câu ru con buồn não nuột:

Má ơi, dừng gả con xa
Chim kêu vượn hú, biết nhà má đâu?
Chim xa cành còn thương cây nhớ cội
Người xa người tội lắm, ngưới ơi.

Nghe thảm quá, tôi kêu lên: "Em ơi, đừng rên rĩ những câu đứt ruột ấy nữa. Hãy hát nhạc vàng cho nó nghe."

Vợ nói: "Hát nhạc vàng, bị Công An còng đầu."

"Thì hát nhạc đỏ, nhạc cách mạng."

"Anh nghĩ con mình có chịu được với loại nhạc thế này không? Ai nhanh tay vót bằng tay em. Bao mũi chông nhọn hoắt căm hờn..."

Tôi xua tay: "Thôi, thôi. Thằng nhỏ mà nghe nhạc này, lớn lên nó sẽ mọc nanh thành quỷ, hút máu người."

Tôi xin được cái radio cũ, ngày ngày cho nó nghe đờn ca vọng cổ. Lâm Khang được hai tháng tuổi, bi tướt. Mỗi ngày, năm ba lần chảy té re chất nước lợn cợn màu vàng nhạt. Mấy bà già láng giềng bảo nó bị đẹn ỉa, phải lể đẹn mới xong. Thằng nhỏ bị căng họng, kéo lưỡi, lể bằng kim may. Nó giãy giụa, khóc gần đứt hơi tím mặt. Tôi nóng ruột, không cho điều trị theo phương pháp cổ truyền nữa. Hai tháng rưởi. Nó tiếp tục lên cân, nhưng
vẫn còn tướt. Tôi quyết định đem con đi khám ở bệnh viện Nhi Ðồng I. Sau khi nghe tôi nói nó bị ỉa, bác sĩ cho nhập viện ngay, khỏi cần khám.

Chẳng biết khoa con tôi nằm, là khoa gì. Khi nói chuyện với nhau, mọi ngườI gọi là Khoa Ỉa. Cũng có lý. Ðã có Xưởng Ðẻ, thì có Khoa Ỉa là chuyện bình thường. Vào đây, tôi mới thấy hết được cái tính "khó khăn khắc phục" của nền y khoa xứ mình. Phòng lớn, chứa hai mươi giường. Mỗi giường, có hai em bé nằm thoi thóp. Một đứa nằm đầu trên, một đứa nằm đầu dưới. Chưa kể một số khác, trải những manh chiếu nhỏ, nằm dưới sàn. Con tôi may mắn, được nằm trên giường, chỗ của một bé gái vừa "đi đứt". Mặt giường trảI nylon, để các em tiểu tiện không bị thấm xuống nệm. Cái ghê tởm là đứa này ỉa, chảy tràn ướt lưng đứa kia. Khiếp! Sau hai ngày, tôi đem con xuống nằm dưới sàn. Nhường chỗ trên giường cho một người vừa mới ẳm con đến. Người ấy cám ơn tôi. Trong một nơi chốn, người ta bon chen tranh giành từng chút, chịu nhường nhau một tiện nghi nào đó, lòng tốt ắt phải có lý do.

Mỗi buổi sáng. Mọi người phải ẳm con ngồi sắp hàng trước phòng bác sĩ, chờ khám theo thứ tự. Bác sĩ Khoa Ỉa, không bao giờ bước chân vào phòng bệnh nhân. Dụng cụ hành nghề của bác sĩ, võn vẹn một quyển sổ ghi toa thuốc, và một cái ống nghe. Mang ống nghe như một dấu hiệu biểu trưng cho cương vị bác sĩ, chứ không phải để sử dụng. Vì thế, đi vào phòng ăn, hoặc vào quán tạp hoá trong khu vực bệnh viện, bác sĩ cũng đeo ống nghe, để phân biệt vớI người thường. Và một điều đáng nễ khác, khi khám bệnh, bác sĩ không hề đụng tay vào người các em bị ỉa. Có lẽ, am tường môn vi trùng học, nên
tuyệt đối giữ vệ sinh. Ông chỉ liếc sơ qua cái mặt đờ đẫn, là biết được bệnh trạng ra sao. Tay viết lia lịa lên mảnh giấy, rồi xé cái rẹt, trao cho thân nhân người bệnh. Ðây là cái toa thuốc, nhưng tôi không đọc được chữ gì cả. Giống những ký hiệu về âm nhạc. Nếu gộp chung nhiều cái toa, trao cho một nhạc sĩ, có thể đàn được bản nhạc hay.

Mọi người kháo với nhau: "Ông này là bác sĩ ngụy của mình hồi trước, được cách mạng lưu dụng."

"Sao biết?"

"Nhìn cách viết thì biết ngay. Bác sĩ cách mạng, viết chậm như rùa. Bác sĩ mình, viết nhanh như gió."

Tôi tin tưởng "bác sĩ mình". Cầm toa thuốc lên Phòng Y Dược. Chắc cô phát thuốc cũng là "dược sĩ mình" đã quen đọc ký hiệu, nên liếc qua cái toa, biết ngay thuốc gì. Cô mở lọ này, trút chai kia, trao tôi một bụm thuốc.

Thằng con tôi mới hai tháng rưởi, làm sao nuốt nổi một bụm thuốc thế này? Hình như thuốc nội hoá cần lượng hơn phẩm.

Một số người xấu miệng nói, đôi khi chỉ là bột mì, tinh chế thành viên. Dù mỉa mai chế độ, nhưng không phải không có lý. Câu nói hàm chỉ được một phương cách trị bệnh bằng tinh thần. Từ lâu rồi, ngành y khoa đã thừa nhận rằng, kết hợp yếu tố tinh thần, trong việc điều trị bằng thuốc men, cũng đem lại kết quả rất khả quan. Người xưa còn biết, cái tâm ảnh hưởng rất lớn đến cái thân, nên chủ trương lấy tâm làm gốc. Thân tâm không lìa nhau. Hễ tâm bệnh thì thân bệnh.

Tâm vừa máy động, họa phúc liền sinh
Ðiềm đạm hư vô, bệnh nào phát khởi.

Quỷ vương lộng hành thời mạt pháp. Trật tự xã hội xô bồ rối loạn. NgườI người lao đao, cái tâm vọng động không yên, nên sinh lắm bệnh tật. Ra đường, thấy thiên hạ tất tả ngược xuôi, mặt mày lo âu hoảng hốt. Những khuôn mặt ấy, trước sau gì cũng vào bệnh viện. Và vào đây, mới biết thế nào là ý nghĩa của những viên thuốc trị về tâm.

Tôi nhớ lúc còn trong tù, mọi thứ bệnh: nóng lạnh, nhức đầu, đau bụng, ỉa chảy, yếu tim, nám phổi, ho hen..., tất cả đều được cấp phát cùng một loạI thuốc Xuyên Tâm Liên. Vậy, Xuyên Tâm Liên là thuốc về tâm, trị bá bệnh. Ai chịu, thì tiếp tục sống. Ai không chịu, thì chết. Chết vì tâm bệnh, chứ đâu phải vì thuốc? Hiện nay, chưa có một nước văn minh hiện đại nào trên thế giới, chế được loại thuốc trị bá bệnh, như Xuyên Tâm Liên của nước Việt Nam ta.

Ðã nói đến tài ứng biến, và sáng tạo thần sầu của cách mạng, phải nói cho hết, Trong thời gian đi tù, có lần tôi bị chứng bệnh kỳ lạ. Ðầu gối sưng nhức, và đái gắt. Dùng Xuyên Tâm Liên cả tháng trời không khỏi. Có lẽ, tâm bệnh quá trầm trọng. Tôi năn nỉ y tá của trại, cho tôi lên nằm bệnh xá để điều trị.

Y tá nói: "Muốn chuyển lên bệnh xá, phải ghi rõ bệnh gì? Nhưng anh khai lung tung, tôi không đoán ra, làm sao chuyển?"

Tôi cố nài: "Xin cứ ghi bừa vào một chứng gì cũng được, lên đó rồi tính sau."

Suy nghĩ một lúc, y tá hỏi: "Khi còn làm lính ngụy, anh có bị bệnh xã hộI không?"

"Bệnh xã hội là bệnh gì?"

"Chẳng hạn như tiêm la, lậu mủ, giang mai, mồng gà..."

"Có bị vài lần." Tôi nói.

Y tá gục gật đầu: "Anh đái gắt. Tôi ghi là bệnh tiêm la tái phát nhé?"

"Nhưng phải cho tôi biết tiêm la có hiện tượng ra sao, để tôi khai với bệnh xá."

"Cái bệnh này gây đau nhức dương vật, nếu không điều trị kịp thời, con vi trùng sẽ ăn mất cu."

Tôi cầm mảnh giấy lên nộp cho bệnh xá. Rồi sắp hàng, ngồi cùng với những anh em các trại khác quy tụ về đây. Chờ kêu tên. Bác sĩ xướng danh từng người, kèm theo chứng bệnh.

Tới phiên tôi, bác sĩ gọi: "Nâm Chương. Bệnh tiêm na."

Tôi đứng lên. Bao nhiêu con mắt kinh ngạc mở lớn, đổ dồn về phía tôi như dò hỏi. Vào tù cả năm rồi, làm sao thằng này chui ra ngoài được, chơi đĩ đến nỗi mắc bệnh "tiêm na"? Tôi nóng ran cả người vì ngượng.

Bác sĩ hỏi: "Có đau nhiều không?"

Tôi nói: "Chỉ đái gắt, và đầu gối sưng nhức."

"Bậy! Từ dương vật, sao lại chạy xuống đầu gối?" Ông đưa ngón tay chỉ:

"Vào phòng tiêm thuốc cho khoẻ."

Ðúng là lương y như từ mẫu. Ông không hạch hỏi lôi thôi, cũng không hề tỏ ra khó chịu vì căn bệnh xã hội của tôi. Ông chỉ lo cho sức khoẻ bệnh nhân.

Vào phòng tiêm. Tôi thấy nhiều chai nước ngọt hiệu con cọp, và xá xị hiệu con nai, sắp đầy trên những ngăn kệ. Có chai chứa nước màu xanh, có chai chứa nước màu đỏ. Miệng chai được bịt kín bằng miếng nhựa nylon, có quấn dây thun.

Anh y tá hoà hai thứ nước xanh đỏ vào chung trong một cái ly. Ðưa cây kim vô ly, bơm đầy ống tiêm. Mỗi người bệnh, được tiêm một ống như thế. Không biết chất gì, khi tiêm vào da thịt, nghe đau thấu trời.

Tôi hỏi: "Thuốc này trị bệnh gì?"

Y tá đáp gọn: "Bê một, Bê Mười Hai. Tăng cường sinh lực."

Buổi sáng nào, chúng tôi cũng được tiêm một ống B1, B12. Có điểm danh từng người, trốn tiêm cũng không khỏi. Ðặc biệt những người bệnh nặng, còn được truyền nước biển. Y tá túc trực cả ngày, săn sóc và theo dõi bệnh trạng. Lương tâm nghề nghiệp có thừa, nhưng tôi e rằng phần lớn thuốc men ở đây, chỉ có giá trị về mặt tinh thần.

Một hôm mưa to. Anh y tá dầm mưa, đem tấm poncho (loại áo đi mưa của quân đội ngày trước) ra căng giữa trời. Phía dưới, anh đặt cái thau hứng nước. Cái thau lại đặt cao lên, trên một chiếc ghế đẩu, tránh nước dưới đất bắn vào thau. Tôi phụ anh làm công việc này, đồng thời có cớ tắm mưa luôn.

Anh dặn: "Những thau nước hiệp đầu, bỏ đi. Chỉ lấy nước tinh khiết hiệp sau thôi."

Tôi hỏi: "Anh lấy nước uống?"

"Không. Dùng vào việc khác."

"Việc gì?"

Anh nói: "Làm nước truyền. Tiếng Tây, gọi là sê rum. Miền Nam các anh, gọi là nước biển. Chúng tôi, gọi là nước cất." Và anh giải thích. "Muốn điều chế nước cất. Cho nước lả vào nồi, nấu sôi lên. Nước bốc thành hơi. Hơi chạy qua một cái ống thông hơi, ngâm trong hồ nước lạnh. Gặp lạnh, hơi tụ lại thành nước. Nước này gọi là nước cất, rất tinh khiết, dùng truyền cho người bệnh. Nước mưa cũng qua một quá trình như nước cất thôi. Anh có học về sự hình thành của mưa chứ?"

"Vâng. Hồi nhỏ có học."

"Ðấy. Nước ao hồ sông biển, gặp nắng bốc thành hơi. Bay lên thành mây, gặp lạnh thành mưa. Thế thôi."

Do hàng ngày lân la trò chuyện với anh y tá, mà chúng tôi cảm tình nhau. Anh là người hiền lành, chơn chất đáng mến. Tôi nói với anh về hoàn cảnh đất nước phân tranh, về tình trạng gia đình ly tán. Anh thông cảm và thích tôi, dành cho tôi nhiều tiện lợi. Anh nói, bất cứ lúc nào tôi thấy mệt, anh cũng sẵn sàng vô cho tôi một chai nước cất. Tôi ghi nhận lòng tốt của anh, nhưng không bao giờ dám mệt.

Lúc mới vào Khoa Ỉa, con tôi còn lanh lợi tỉnh táo. Mỗi ngày tôi nghiền một bụm thuốc viên, đổ vào họng thằng nhỏ. Bốn ngày sau, nó nằm im thiêm thiếp, ỉa nhiều lần hơn.

Khi ẳm con lên cho bác sĩ "liếc qua" tình trạng bi quan của nó, tôi nói: "Thưa bác sĩ. Bên ngoài bệnh viện có bán thuốc ngoại. Xin làm ơn cho toa thuốc ngoại, để tôi đi mua..."

Giữa chốn đông người, "bác sĩ mình" trừng mắt, điểm ngón tay vào mặt tôi:

"A... a..., đầu óc vọng ngoại, luôn luôn tôn sùng nước ngoài. Cái gì của nước ngoài thì ca tụng, cho rằng tốt đẹp. Cái gì của nước ta, thì chê bai rẻ rúng. Anh không muốn dùng thuốc bào chế của nước ta, thì đem con vào đây làm gì?"

"Thưa bác sĩ. Thằng nhỏ không bớt bệnh, tôi xin đổi thuốc, chứ không có ý gì khác."

"Tôi là bác sĩ, tôi biết cách giải quyết. Không cần anh phải chỉ dẫn. Uống thuốc, phải chờ thuốc thấm, từ từ bớt bệnh. Trị bệnh tiêu chảy, không như đóng một cái vòi nước mà ngừng được ngay. Anh hiểu chứ?"

Thế là tôi lại tiếp tục lảnh một cái toa thuốc, viết toàn bằng ký hiệu âm nhạc. Và tôi cũng biết rằng, giữa tôi và "bác sĩ mình" không còn đứng cùng về một phía nữa. Ông đã giác ngộ tư tưởng cách mạng rồi.

Tôi bàn với vợ, đem con ra khỏi bệnh viện, tìm phương khác chữa trị. Không thể để thằng nhỏ nằm lây lất ở một nơi thiếu điều kiện vệ sinh của Khoa Ỉa. Nhưng ngay đêm đó, nó lên cơn sốt. Thôi, muộn rồi! Nó đã nhiễm trùng. Tôi đau đớn vì đã đem con dìm vào cái ổ vi trùng. Bây giờ, chết sống gì cũng phải nằm lại đây. Tôi vội chạy đi tìm y tá, xin cô báo cho bác sĩ trực hay.

Giữa khuya. Cô đang đọc tiểu thuyết, ngẩng đầu lên, nói: "Trẻ em bị nóng sốt là chuyện thường. Có gì mà ông hốt hoảng thế? Ông tưởng lúc nào cũng có thể làm phiền bác sĩ trực được sao?"

"Mấy hôm trước, nó không sốt. Bây giờ bị nhiễm trùng."

"Mới bị sốt lần đầu, lại càng không đáng lo. Còn chuyện bị nhiễm trùng hả?

Ông có nhìn thấy con vi trùng bu vào con ông không?"

Tôi năn nĩ: "Nó bị sốt cao độ cô à. Xin cô làm ơn xuống nhìn một chút, coi có cách nào giải nhiệt được không?"

"Sao ông biết sốt cao độ? Bộ ông là cái nhiệt lượng kế hả? Tôi có xuống nhìn cũng vậy thôi. Tạm thời, ông lấy cái khăn ướt đắp lên trán đứa bé. Chờ sáng mai, trình với bác sĩ để ổng quyết định."

Tôi còn đang chần chừ chưa đi. Nát lòng không biết tính lẽ nào.

Cô y tá bồi thêm: "Coi kìa. Ðiệu bộ ông giống con gà mắc đẻ. Mười mấy năm trong nghề, tôi gặp quá nhiều người như ông. Chuyện một chút xíu thôi, cũng quýnh quáng la làng, kêu réo giật ngược y tá bác sĩ. Làm như y tá bác sĩ thiếu nợ các người vậy."

Nhìn cái miệng chót chét của cô, tôi nộ khí xung thiên. Trong một lúc bốc đồng, tôi muốn có cây súng đại liên, bắn chết mẹ hết cả lũ y tá bác sĩ của bệnh viện này. Tôi nghiến răng, quay trở lại phòng bệnh, thấy vợ đang ngồI cúi đầu ủ rủ dưới chân con. Tôi hằn học nói với vợ về sự tức giận của mình.

Vợ van: "Tôi lạy anh. Hãy ráng giữ bình tĩnh. Biết được thái độ bất mãn của anh, người ta ghét, người ta sẽ giết con mình."

Sáng nay. Lại bồng con sắp hàng ngồi chờ khám bệnh bệnh. Mỗi ngày, bác sĩ chỉ xuất hiện, ngồi sau bàn làm việc trong vòng một giờ đồng hồ. Còn hai mươi ba giờ khác, đố ai tìm thấy mặt ông. Tất cả, ông đều giao cho y ta, và vài ba sinh viên y khoa thực tập. Mà y tá, thì dữ hơn nhân viên phòng thẩm vấn, chua hơn giấm.

Trong khi chờ đợi, tôi lan man hồi tưởng lại những ngày ở bệnh xá của trạI tù. Bác sĩ y tá ở đây, thuộc đơn vị của bộ đội Miền Bắc. Họ đã thực hiện một ca mổ đặc biệt đến nỗi, nếu không chứng kiến tận mắt, người nghe tưởng như bịa chuyện, khôi hài cho vui. Người bạn tù tên Sang, nằm chung phòng với tôi. Anh đang mạnh khoẻ, bỗng một đêm, ôm bụng kêu đau ầm ĩ. Cơn đau càng lúc càng dữ dội, phải đưa anh lên bệnh xá. Nửa đêm, bác sĩ y tá mở cuộc họp khẩn cấp, và quyết định mổ bụng anh Sang. Cơ sở còn nghèo nàn thiếu thốn, lấy căn phòng học cũ, làm phòng mổ. Không có điện, phảI đốt đèn cầy soi sáng. Không có thuốc gây mê, phải dùng tạm thuốc tê, tiêm vào da bụng. Anh Sang trần truồng nằm ngửa trên chiếc giường, được kê cao lên ngang thắt lưng. Phần hạ bộ, che bằng chiếc khăn lông màu cứt ngựa. Thấy chuyện lạ, những người bệnh chúng tôi bỏ ngủ, lóng ngóng bên ngoài của sổ, nhìn vào. Bác sĩ y tá đứng vây chung quanh giường bệnh. Sau khi lấy bút nguyên tử kẽ một lằn trên bụng bệnh nhân, bác sĩ kẹp lưỡi dao trong hai ngón tay, rạch dài theo nét kẽ. Dao giải phẫu là cái lưỡi lam cạo râu, trời ạ! Ông cẩn thận rạch đi rạch lại nhiều lần, mới banh được cái bụng ra. Bên ngoài, có anh khiếp quá, không dám đứng coi. Hai người y tá đứng hai bên giường, kéo chằng vết mổ mở lớn. Bác sĩ, với bàn tay không đeo găng nhựa, thò vào trong bụng anh Sang, sờ mò tìm kiếm một thứ gì đó.

"Trời ơi!" Anh kêu.

Bác sĩ nói: "Im! Ðể bác sĩ làm tốt."

Trong khi bác sĩ tiếp tục mò tìm, thỉnh thoảng anh Sang đưa tay gãi chỗ này chỗ nọ.

Bác sĩ nói: "Nằm yên! Ðể bác sĩ làm tốt."

"Muỗi cắn."

"Cắn chỗ nào, bảo y tá gãi cho anh."

Anh Sang ngóc đầu lên, nhìn bụng mình. Y tá đè đầu xuống.

Bác sĩ nói: "Ðừng nhìn. Ðể bác sĩ làm tốt."

"Bác sĩ mò cái gì mà đau quá vậy?" Anh hỏi.

Bác sĩ nói: "Ðừng hỏi. Ðể bác sĩ khám phá."

Thỉnh thoảng, anh Sang nói: "Muỗi cắn chân phải."

Y tá gãi chân phải.

Anh Sang lại nói: "Muỗi cắn gò má."

Y tá gãi gò má.

Anh Sang cứ nói muỗi cắn hoài. Không biết muỗi ở đâu kéo đến nhiều thế. Có lẽ nó đánh hơi được mùi máu.

Bác sĩ ngó ra cửa sổ, nói: "Có anh nào đấy, chạy xuống phòng vệ binh, xin hộ cây nhang muỗi."

Một người trong chúng tôi chạy đi. Lúc sau đem đến một bó nhang hơn mườI cây. Y tá thắp nhang, đặt dưới gầm giường mổ. Từ đó trở đi, anh Sang hết kêu muỗi cắn.

Nửa giờ đồng hồ trôi qua. Bác sĩ ngẩng lên, nhè nhẹ lắc đầu thất vọng, trán lấm tấm mồ hôi.

"Chả thấy gì!"

Anh Sang lại ngóc đầu, nhìn bụng. Y tá đè đầu xuống.

"Không thấy gì thì may lại giùm tôi." Anh lo lắng.

Bác sĩ an ủi: "Yên chí. Chúng tôi cố gắng làm tốt cho anh."

Rồi tất cả bác sĩ y tá kéo đến một chiếc bàn cuối góc phòng, ngồi thì thầm thảo luận. Ðể lại một người y tá bên giường với anh Sang. Bụng anh được đậy lại bằng một chiếc khăn lông màu trắng, dính đầy máu đỏ. Anh nằm im lặng. Không biết ngủ hay thức.

Trời đã khuya lắm. Ngoài cửa sổ, vài người lặng lẽ trở về chỗ ngủ. Ðôi ba anh em còn lại, ngồi xuống thềm hiên. Ngó lên khoảng trời mênh mông. Con trăng xế về bên kia mái trường học cũ. Mùa trăng tháng Chạp, lạnh đục màu sương.

Trong phòng. Thảo luận một lúc lâu, Bác sĩ y tá quay lại giường mổ. Loay hoay bơm thuốc vào ống tiêm.

Anh Sang hỏi: "Bây giờ làm gì nữa?"

Bác sĩ nói: "Tiêm thêm thuốc tê. Thuốc cũ sắp hết công hiệu rồi."

Tiêm thuốc xong. Lại cầm lưỡi dao lam.

Anh Sang: "Mổ nữa hả, bác sĩ?"

"Thêm tí nữa thôi. Ðừng sợ." Bác sĩ trả lời.

Ông rạch vết mổ dài ra. Thò tay bụng mò tìm.

"Nhè nhẹ. Ðau quá, bác sĩ ơi." Anh rên lên, và ngóc đầu nhìn.

Bác sĩ nói: "Không được nhìn. Tôi phải che mắt anh."

Một người y tá cầm chiếc khăn nhỏ vắt ngang qua mắt anh Sang.

Mọi người im lặng theo dõi bác sĩ. Ông làm việc chăm chú và tận tâm. Có lúc, ông nghiêng đầu, lim dim đôi mắt như lắng nghe một âm thanh vo ve nào đó, có thể tiếng muỗi, hoặc một tín hiệu khác thường từ những ngón tay truyền đạt. Dù không nhìn thấy bàn tay, nhưng ai cũng biết rằng, những ngón tay của ông đang động đậy, rà mò tìm kiếm trong bụng anh Sang.

Bỗng ông reo lên mừng rỡ: "Ðây rồi. Ðây rồi."

"Cái gì vậy, bác sĩ?" Anh Sang hỏi.

"Khám phá ra rồi. Chính nó."

"Nó là cái gì?"

"Sau này sẽ biết. Mọi chuyện sẽ xong ngay. Yên chí đi."

Bác sĩ ngẩng lên, thở phào, mặt rạng rỡ. Dường như cơn mệt mỏi từ đầu hôm đến giờ, bỗng chốc tiêu tan.

Thấy chúng tôi đang đứng lố nhố ngoài cửa sổ, ông nói: "Các anh không được thức khuya quá. Hãy về chỗ ngủ, để giữ sức khoẻ."

Chúng tôi trở về phòng. Ðồng hồ chỉ đúng ba giờ khuya. Không biết chuyện gì xảy ra sau đó.

Sáng ra. Vài người muốn vào phòng mổ thăm anh Sang.

Y tá không cho: "Anh ấy còn mệt lắm. Phải để anh ấy nghỉ ngơi. Mai thăm cũng không muộn."

Chúng tôi đứng ngoài nhìn vào. Mặt anh Sang tái mét. Hai mắt nhắm nghiền. Anh được đắp bằng chiếc Poncho Light của anh, mang theo từ ngày đầu đi cải tạo.

Hai ngày sau, anh Sang được đưa về nằm chung phòng với chúng tôi. Cả tháng trời, anh chưa ngồi dậy được. Mọi sự đại tiện của anh đều do y tá trực giúp đỡ. Nâng anh lên, đặt anh đặt ngồi vào cái bô kế bên giường. Ðổ và rửa bô cũng do y tá đảm trách. Nhiều lần, chúng tôi ngõ ý muốn phụ với anh y tá trong việc đỡ đần chăm sóc anh Sang, hoặc thay anh làm công việc vệ sinh, đổ cứt rửa bô. Nhưng anh từ chối.

"Các anh đang bệnh, không nên làm việc này. Ðây là nhiệm vụ của tôi."

Hàng ngày, bác sĩ xuống phòng thăm bệnh. Ông ngồi cả buổi bên giường, nói chuyện và an ủi anh Sang. Ông cho biết, anh ăn phải một mảnh kim khí nhỏ, phải mổ dạ dày để lấy ra. Chúng tôi biết mảnh kim khí này từ đâu. Anh em nhà bếp thường dùng bùi nhùi bằng kim khí của một xưởng tiện sắt thép nào đó, để lau chùi chảo nấu ăn. Vì sơ ý, làm sót lại một mảnh vụn lẩn trong cơm. Một sơ ý nhỏ, nhưng đã để lại một tai hoạ lớn cho đời anh Sang.

Trong khi ngồi nói chuyện với chúng tôi, ông thường kể về những ngày gian khổ trên đường Trường Sơn, làm việc trong điều kiện vô cùng thiếu thốn. Từ đó, ông sang qua vấn đề anh em trong bệnh xá.

Ông nói: "Ðứng trên quan điểm cách mạng, các anh là kẻ thù. Nhưng dướI mắt một người thầy thuốc, các anh là những bệnh nhân. Chúng tôi phục vụ bệnh nhân theo lương tâm của người thầy thuốc."

Cái quan điểm và lương tâm của ông, làm chúng tôi ngạc nhiên thực sự.

Còn ở đây, các bác sĩ y tá đều là người của chế độ cũ, được lưu dụng làm việc cho bệnh viện. Không biết họ đứng trên quan điểm nào, và lương tâm gì đối với bệnh nhân?

Thấy tôi cứ mãi đặt những vấn đề vớ vẫn, không thực tế chút nào, vợ nói:

"Anh phải đứng ngoài. Bác sĩ mà nhìn thấy cái mặt nhăn nhó của anh, thì con mình sẽ lâm nguy."

Tôi dặn:" Em phải cho ổng biết, thằng nhỏ bị sốt."

"Ðừng xía vô chuyện này, để em lo."

Tới phiên, vợ tôi ẳm con vào gặp bác sĩ. Tôi đứng ngoài. Nhìn.

"Hôm nay thế nào?" Bác sĩ hỏi.

Vợ nói: "Dạ thưa. Nó lên cơn sốt trong đêm."

"Sao biết?"

"Dạ, sờ thấy nóng."

"Y tá sẽ đo nhiệt độ. Nếu nóng thật, phải truyền nước biển."

Ông liếc nhìn thằng nhỏ trước khi cúi xuống ghi những nốt nhạc.

Vợ ẳm con ra, trao mảnh giấy cho tôi, hỏi: "Anh coi thử, bác sĩ có thay đổI thuốc không?"

Tôi nói: "Có đọc được chữ gì đâu, mà biết hôm qua khác với hôm này?"

Gần trưa, cô y tá (không phải y tá trực trong đêm) vào phòng. Cô cho cái nhiệt lượng kế vô miệng con tôi, rồi đi kiểm soát từng giường bệnh. Cô vừa hướng dẫn cách săn sóc em bé, vừa la lối mọi người về sự ăn ở thiếu vệ sinh. Muốn thực hiện vệ sinh, phải có điều kiện tiện nghi. Nhưng chúng tôi thiếu thốn mọi bề. Chẳng hạn, trong nhà cầu chỉ có duy nhất một vòi nước giặt giũ, mà người giặt thì quá đông. Mỗi người đem đến một đống tã lót. Nhiều người chen nhau. Người trước, kê tấm tã vào sát vòi nước mà vò. Người sau, cũng đang vò một tấm tã phía dưới, hứng nước từ tấm tã phía trên đổ xuống. Con vi trùng ỉa được dịp luân lưu từ em này sang em khác qua những tấm tã.

Ði giáp một vòng thăm bệnh, cô y tá quay lại rút cái nhiệt lượng kế từ miệng thằng nhỏ, đưa lên ánh sáng.

"Nhiệt độ trung bình. Sao ông bảo bị sốt?" Cô trừng mắt nhìn tôi.

Tôi nói: "Hồi hôm, nó sốt. Bây giờ, hạ rồi."

"Hứ! Ðừng có báo cáo ẩu nghen."

Tôi vớt vát: "Thật mà. Hồi hôm, nó sốt."

"Nói lung tung, làm rối điên cái đầu. Ai biết đường nào trị cho con ông? Nó có thế nào, lỗi cũng tại ông đấy!" Cô ngoe nguẩy bước ra khỏi phòng.

Trời ơi! Nếu không vì sự an nguy của đứa con, chắc tôi bóp cổ chết con y tá này.

Cho đến một ngày, tính mệnh thằng con tôi, hắt hiu như ngọn đèn trước gió. Dù không yêu cầu, nhưng bác sĩ cũng cho một cái toa riêng mua thuốc ngoại. Lúc này, trước mặt ông, tôi không dám vọng ngoại, nhưng ông lại bày vẽ cho tôi thực hiện tinh thần vọng ngoại. Ông bảo phải mua thuốc ngoại ở hiệu thuốc này..., địa chỉ này..., để tránh mua lầm thuốc giả. Chao ôi! Thuốc trị bệnh mà cũng có kẻ dám làm giả mạo. Tội này, tương đương với tội sát nhân. Tôi cầm cái toa hớt hãi chạy ra đường. Nhiều con buôn thuốc dạo,
chận lại thăm hỏi mời chào. Chẳng biết tôi còn tỉnh hay điên? Sao nhìn mặt người nào, tôi cũng thấy phảng phất cái vẻ tàn ác của quân bất lương cướp của giết người.

Con tôi được đưa vào phòng cấp cứu, có máy điều hoà không khí. Có lẽ vì muốn chứng tỏ đây là căn phòng đặc biệt, nên người ta điều chỉnh nhiệt độ ở mức khá thấp. Vào phòng, tôi có cảm tưởng vào một mùa đông lạnh giá.

Tôi nói: "Lạnh quá. Làm sao con nít chịu nổi?"

Cô y tá, chứng tỏ là người thành thị, từng quen sử dụng những tiện nghi tân tiến: "Ðiều hoà không khí là phải như vậy. Nếu không lạnh, thì gắn máy lạnh làm gì? Hứ!"

Hình như, khi muốn tỏ thái độ khinh bỉ chê bai, người đàn bà nào cũng dùng tiếng "hứ". Và tôi thấy tôi hiện nguyên hình một gã nhà quê chậm tiến.

Tóc trên đầu thằng con tôi, bị cạo một mảng, để đâm cây kim truyền nước biển. Lỗ mũi nó, thọt vào một cái ống tiếp dưỡng khí. Miệng nó, cũng thọt vào một cái ống để cho sửa và thuốc vô bao tử. Nhìn những trang bị trên người nó, tôi liên tưởng đến một đứa bé từ hành tinh khác lạc xuống địa cầu, phải ăn và thở bằng những dụng cụ đặc biệt, trong một phim dành cho nhi đồng. Trong phòng cấp cứu, đã có sẵn ba đứa khác, đang chờ giờ hiễn linh về nước Chúa, hoặc theo Phật về chốn tiêu diêu miền Cực Lạc.

Tôi đuối sức, sau những ngày thay phiên cùng vợ, thức theo dõi thằng con. Tôi ra ngoài hành lang, nằm ngủ. Nhưng vừa chợp mắt lại thấy ác mộng. Tôi vùng ngồi dậy, lúc lắc cái đầu cho tỉnh.

Vợ bảo: "Ngủ đi."

Tôi nói: "Ở đây, vất vưởng nhiều oan hồn con trẻ. Nó phá tôi."

Vợ chắp tay: "Nam Mô A Di Ðà Phật. Anh đừng nói những điều ghê khiếp."

"Thật đấy. Tôi nghe tiếng con trẻ cười đùa."

"Anh ơi. Anh ơi. Anh sắp điên rồi."

"Không đâu!"

Ðầu tôi váng vất lùng bùng. Tôi thấy chung quanh toàn những gút mắc chông gai. Ác cảm nặng với bác sĩ y tá, vi vu ý tưởng giết người.

Vợ nói: "Trông anh như người bệnh. Mắt lờ đờ nhướng hết lên. Ráng ngủ lấy sức. Anh ngã bệnh lúc này, mình em làm sao lo nổi cho chồng, cho con?"

Buổi chiều. Phòng cấp cứu nhận thêm thằng bé mười hai tuổi, tên Cu Ðen. Nghe hai tiếng Cu Ðen, tự dưng tôi thấy êm đềm gần gũi. Tôi như sống lạI một quãng đời tuổi nhỏ làng quê, với bạn bè có những cái tên hết sức thân yêu, Cu Nồi, Cu Lọ, Cu Ðẹt, Cu Ðực, Cu Tèo, Cu Tý... Lòng tôi dịu lại. Dựa lưng vào bức tường hành lang, tôi mơ màng quay về những mương rạch, bờ ao, con trâu, cái cày... thuở trước. Thiếp đi lúc nào không hay. Khi bừng dậy, tôi nghe tiếng khóc.

Thằng Cu Ðen còn rất tỉnh táo, nhưng sau những thử nghiệm và chẩn đoán, bác sĩ cho biết nó sẽ chết trong vài ngày tới. Má nó gục đầu lên đứa con, nức nở. Nó ôm đầu má, kêu thảm thiết: "Má ơi, đem con về. Con muốn ở vớI má. Ðừng bỏ con, má ơi."

Ðang rầu vì con, nhìn qua giường bên, lại thấy cảnh mũi lòng, vợ tôi cũng khóc rống theo.

Y tá nạt: "Bà này lạ chưa? Mắc mớ gì đến bà mà khóc? Làm như đưa đám ma không bằng. Tôi yêu cầu, bà đi ra ngoài kia mà khóc, để yên cho tôi làm việc."

Má Cu Ðen kể trong nước mắt. Rằng vợ chồng chị đi làm làm ngoài đồng xa. Cu Ðen ở nhà giữ em. Vô ý để em té xuống ao. Người láng giềng vớt em nó lên, doạ: "Mày ham chơi, bỏ em té ao. Ba má mày về đánh chết." Nó sợ đòn, vào buồng lấy chai thuốc rầy, uống. Người láng giềng biềt được, chạy ra đồng gọi vợ chồng chị về. Khi đưa nó vào bệnh viện, thì đã muộn.

Người ta nói "còn nước còn tát", cái câu châm ngôn ấy không áp dụng ở đây. Không ai bỏ công cứu chữa cho một sinh vật, mà người ta nghĩ rằng phí công vô ích. Cu Ðen chỉ được truyền nước biển, như một biểu thị nó còn được sự tận tâm chiếu cố của người thầy thuốc. Nó đâu biết, người ta đã dành sẵn cho nó một mảnh giấy khai tử rồi, chỉ còn chờ giờ điền tên vào, là xong.

Thằng bé thao thức, khóc cả đêm. Nó nói nhớ em, và năn nĩ má nó đưa về nhà. Người mẹ cũng biết, ngoài cái chai nước biển, con chị không còn thêm được một ân huệ nào khác nữa. Mà cái chai nước biển, có tác dụng gì vớI thằng bé uống thuốc rầy? Sáng hôm sau, người mẹ xin cho con xuất viện.

Thương Cu Ðen quá, tôi cầm tay nó: "Thôi, Cu Ðen về nhà với em nhé."

Nó nói: "Dạ. Mai mốt em bé của chú khỏi bệnh, chú ẳm xuống nhà con chơi."

Nó còn nói được một câu như thế, mà sắp chết thật sao? Nó đâu có hiện tượng của kẻ sắp lìa đời? Tôi đưa Cu Ðen ra sân bệnh viện, nơi có chiếc xe Lam đang chờ sẵn. Má nó không còn khóc như lúc mới nghe tin dữ. Trong nỗi đau đớn đến cùng cực, lòng người sẽ trơ ra, mọi sự cảm xúc đều bị tắc nghẽn. Xe lam chuyển bánh. Tôi ngó theo. Vĩnh biệt Cu Ðen.

Từ đó, cái tên thằng bé cứ ám ảnh tôi hoài. Hai tiếng Cu Ðen êm đềm thân thiết biết bao, gợi cho tôi những ngày xưa cũ, cùng những kỷ niệm thời gian mất mát đớn đau. Tôi thầm nghĩ, nếu thằng Khang, con tôi tai qua nạn khỏi, tôi sẽ đặt cho nó một cái tên riêng, tên ngoài giấy tờ: Cu Ðen.

Thằng con tôi lặng lẽ ra đi, rất êm. Từ lúc bác sĩ chấp nhận cái tinh thần vọng ngoại, chịu cho toa mua thuốc ngoại, và đưa nó vào phòng lạnh, tôi biết mọi sự thay đổi của bác sĩ đã trễ tràng. Vợ chồng tôi âm thầm nuốt nước mắt từ mấy ngày trước. Lúc nó ra đi, chúng tôi không còn nước mắt.

Trong đêm khuya. Bệnh viện im lặng đến rợn người. Tôi kề tai sát mũi thằng bé. Không nghe thấy gì.

Vợ thì thầm: "Nó còn thở không?"

Tôi nín thinh.

Vợ luồn tay vào chăn: "Ngực nó còn ấm."

Tôi ngoảnh mặt, ngó ra những ngọn đèn vàng hành lang.

Vợ hỏi: "Bây giờ làm sao?"

Tôi không trả lời.

Vợ rên nhỏ: "Trời ơi! Anh cứ trơ ra, dễ sợ quá." Chừng như vợ muốn khóc ré lên, nhưng ngại làm kinh động những người chung quanh.

Tôi uể oải đứng dậy. Lên phòng y tá trực.

Tôi báo: "Lâm Khang, giường số ba, không còn thở."

Y tá: "Vậy hả? Ðể tôi gọi bác sĩ."

"Không cần thiết nữa."

"Tại sao không? Chỉ có bác sĩ mới có đủ thẩm quyền xác nhận nó chết."

Thì ra tôi đã hiểu lầm. Gọi bác sĩ không phải để cứu chữa, mà là để chứng nhận một người đã chết thật sự.

Cô y tá cầm mảnh giấy, dẫn theo một bác sĩ trẻ vào phòng bệnh. Trên cổ bác sĩ có đeo cái ống nghe. Lần này thì cái ống nghe được sử dụng, chứ không phải chỉ làm một biểu tượng đặc trưng của người thầy thuốc. Ông đặt cái chụp lên ngực thằng nhỏ. Nghe ngóng... Xong. Thu đồ nghề, và chìa tay ra. Cô ta tá trao cho ông mảnh giấy. Ông viết vội những gì đó, và ký tên. Từ lúc bước vào phòng, cho đến lúc đi ra, ông không hề mở miệng nói một tiếng gì. Cái câu "Im lặng là vàng", được ông thể hiện một cách triệt để

Y tá nói: "Tôi điện thoại cho người đem xuống nhà xác."

Tôi ngăn: "Khoan! Chờ sáng mai."

"Không được. Quy định, sau khi bác sĩ xác nhận chết, phải đem đi ngay."

Nửa giờ sau. Một người đàn ông, lù lù xuất hiện trong bộ quần áo công nhân màu xanh đậm. Mặt sần sùi, xạm đen. Ðôi mắt trơ tráo, không có hồn. Ðôi mắt từ cõi âm phủ trở về. Ông ta lăn tròn cái xác thằng nhỏ, cuốn gọn gàng trong tấm nylon. Như loài kên kên quắp cái xác chết, ông nách thằng nhỏ ngang hông, đi ra cửa. Tôi thoáng thấy, miệng ông vừa ló ra hai cái nanh. Tôi có quáng mắt không? Nhìn kỷ lại, thì không thấy nữa. Vợ tôi ngồi bệt xuống sàn, ôm mặt rấm rức. Tôi lặng lẽ theo ông, đưa con tôi đi. Từ lầu ba, đi qua những hành lang, đèn vàng lạnh. Ði xuống những bậc cầu thang hun hút âm u, khuya vắng đến rợn người. Ði xuống, đi xuống, đi xuống hoài rồI cũng tới âm ty.

Người đàn ông mở cánh cửa sắt. Hơi lạnh và mùi tử khí phả ùa vào mặt. Cái mùi thum thủm chuột chết. Tôi dợm bước theo vào phòng chứa xác, nhưng ông ngăn lại. Ông vào, và quay ra thật nhanh. Tôi có cảm tưởng, ông vất thằng con tôi vào đống tử thi, chứ không phải đặt nhẹ nhàng. Rồi ông đưa tôi vào một gian phòng nhỏ, chìa mảnh giấy bảo ký tên. Tôi ký tên mà không biết trong ấy viết những gì. Giọng ông trầm trầm, ra giá với tôi về việc tống táng, sau khi tổng cộng những tiền hòm, tiền đất, tiền chuyên chở... Tôi còn lòng dạ nào mà tính tới tính lui. Bao nhiêu cũng được.

Bận đi lên, chỉ một mình tôi. Trong ánh sáng chập choạng, tôi nhìn thấy rất nhiều đứa bé bám theo hai bên vách thang lầu. Chúng di chuyển như những con thằn lằn hút sát vào tường. Tôi mơ hay tỉnh? Dừng lại, dụi mắt định thần. Hình ảnh ma quái biến mất, nhưng rồi nó dần dần hiện lại từ mờ đến tỏ. Tôi hoảng hồn, chạy ngược về phía nhà xác. Nơi đây chẳng còn ai. NgườI đàn ông nhà xác đâu rồi? Ðành phải đi lên trở lại. Vừa đi, tôi vừa kêu lớn: "Ai ơi... Ai ơi... Ai ơi..." Tiếng kêu vang rền một khu bệnh viện. Âm thanh
làm tôi đỡ sợ.

Một người đàn ông mặc blouse trắng, chạy ra đầu cầu thang: "Có chuyện gì vậy?"

Tôi hớt hãi: "Có ma."

Ông ta quay lưng, lầm bầm ném ra hai tiếng: "Thằng điên!"

Sáng hôm sau. Tôi lên phòng y tá xin giấy khai tử để hoàn tất thủ tục hồ sơ trước khi chôn cất. Trong giấy khai tử ghi, nguyên nhân chết: suy dinh dưỡng. Khốn nạn! Như thế, thằng con tôi chết vì bị tôi bỏ đói. Chứ đâu phải chết vì ỉa chảy. Cuối thế kỷ hai mươi, giữa trái tim Sài Gòn của đất nước, giữa cái nôi của lương tâm thời đại, bác sĩ nào dám xác nhận chết vì bệnh ỉa chảy, người ta sẽ cười thúi đầu!

Ai nói thời gian sẽ làm lành những vết thương? Bao nhiêu năm qua rồi, vết thương tôi vẫn còn nguyên đau nhức. Thời gian chỉ làm cho nỗi đau nhức sắc lại, như sắc thuốc Bắc, ba chén nấu còn tám phân. Ém xuống tận đáy lòng mà sống. Lâu lâu gợi nhớ, bỗng muốn cầm dao đi giữa bầy thú dữ.

Thua keo này, gầy keo khác.

Tôi nói với vợ: "Ðẻ nữa em ơi."

Vợ cự: "Khổ lắm rồi. Không muốn đẻ."

Tôi lý luận: "Về nhà chồng. Không tạo con trai nối dõi cho dòng họ nhà chồng . Người xưa cho thế là lỗi đạo làm dâu."

"Em có đẻ con trai đấy chứ. Tại không giữ được thôi."

"Thì tiếp tục đẻ nữa."

Chìu chồng, vợ tôi lại đẻ. Nhưng đẻ con gái. Tôi để vợ toàn quyền đặt tên đứa con này. Vợ đặt: Sơn Ca. Có người hỏi móc tôi rằng, sao không áp dụng cái phương pháp sinh con trai, con gái theo ý muốn, như tôi đã từng bày vẽ cho nhiều người khác? Tôi chỉ cười trừ. Chứ biết nói sao?

Tôi sang Mỹ, không theo cái nghĩa bi quan của đời người trôi giạt. Tôi đi có định hướng. Năm lần bảy lượt vượt biên. Cuối cùng, tôi đã tới đích. Sống ở đây, tương đối dễ thở. Tiền bạc, có chính phủ cấp. Quần áo, có nhà thờ lo. Con nít được thương yêu chìu chuộng, cưng như trứng mỏng. Mỗi ngày, chịu khó bỏ vài giờ tới trường, học ú a ú ớ vài câu tiếng Mỹ. Thế là xong nhiệm vụ. Thì giờ còn lại, chẳng biết làm gì. Coi TV, không hiểu tiếng nói, nhìn hình hoài cũng chán. Không có bạn bè đấu láo, cũng buồn. Buồn chán dễ làm cho con người mau già cỗi, chết sớm. Những bạn lính của tôi ngày xưa,
hay xâm mình cái câu "khi tôi chết, ai là người xây nấm mộ?". Tôi bây giờ, lẩn thẩn tự hỏi, khi tôi chết ai là người thờ phượng? Con gái lớn lên, theo chồng, nó thờ cha chồng của nó. Còn tôi, không ai khói nhang, linh hồn sẽ bơ vơ lạnh lẽo. Vì thế, tôi muốn có thằng con nối dõi.

Tôi tỏ ý cùng vợ: "Ðẻ nữa. Kiếm thằng con trai, em ơi."

Lần này, vợ phản bác dữ dội: "Cái quan niệm con trai vốn quý, đã lỗi thờI rồi. Ðây là xứ trọng nữ khinh nam. Ðàn bà là mẹ thiên hạ, chiếm đặc quyền ưu tiên. Nhập gia tùy tục, nhập giang tùy khúc. Anh cứ khư khư níu giữ cái quan niệm nối dõi tông đường, là bơi ngược dòng về nơi có bốn ngàn năm văn hiến."

Tôi đấu dịu: "Thôi, không đặt vấn đề nối dõi nữa. Tôi chỉ muốn nhà có đủ con trai con gái, để âm dương được cân bằng trong gia đình."

"Anh định áp dụng cái thuyết, thái cực sinh lưỡng nghi, lưõng nghi sinh tứ tượng... gì ấy hả? Hãy thực tế một chút đi. Nhà nào âm thịnh là có phước."

Mới sang Mỹ, vợ tôi đã chụp bắt ngay được cái quan niệm cường quyền nữ phái của xứ này. Tôi bị lép vế. Khi người đàn ông không còn là rường cột gia đình, thì cũng mất luôn cái quyền chỉ huy. Tôi đành chắc lưỡi buông xuôi, mặc tình nữ kê tác quái.

Vợ tôi uống thuốc ngừa thai. Nhất định không chịu đẻ.

Một hôm, vợ thắc mắc: "Không biết tại sao, trễ kinh cả tháng rồi."

Tôi nói: "Có một trong hai vấn đề xảy ra. Em sắp biến thái thành đàn ông. Hoặc bước vào giai đoạn mãn kinh của tuổi già."

Cả hai vần đề, vợ tôi đều sợ.

Vợ dỗi: "Từ ngày sang Mỹ, anh nói lời gì nghe cũng mỉa mai cay đắng."

"Ðó là tinh túy của ngôn ngữ, kết quả của trầm tư."

Chẳng thèm lời qua tiếng lại, vợ đi bác sĩ khám bệnh. Bác sĩ cho biết có thai.

Về nhà, tôi la lớn: "Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư."

Vợ hỏi: "Nghĩa là sao?"

"Ông Ðặng Dung nói rằng, sách trời đã định như thế rồi. Nó là thằng con trai."

"Sao biết con trai?"

"Náy nhé. Uống thuốc ngừa thai, cũng giống như người ta bật đèn đỏ, treo bảng "Stop", và đặt hàng rào chắn. Nhưng nó vượt đèn đỏ, bất chấp bảng "Stop", xô ngả hàng rào chắn, chui ra khỏi cửa mình, để góp mặt làm ngườI với đời. Anh hùng gan dạ, "khó khăn nào cũng vượt qua" như thế, chỉ có thằng con trai mới làm được."

Tưởng lý luận bò càng cho vui, không ngờ vợ sinh con trai thật. Nó hấp tấp ra đời đến nỗi bất chấp cả định luật thiên nhiên chín tháng mười ngày. Chẳng biết ở trong bụng, nó chòi đạp thôi thúc thế nào, mà vợ tôi phải tống nó ra, trước mấy bữa. Một thằng con trai quá ngon lành!

Khi nó còn nằm trong đống tã lót, bà y tá hỏi tôi, có muốn cắt da qui đầu cho nó hay không?

Tôi lắc đầu, nói tiếng Mỹ: "No. No."

Bà giải thích rằng, theo phương pháp vệ sinh ở Mỹ, nên cắt da qui đầu, để con cu được sạch sẽ. Dĩ nhiên, những lời này phải qua cô thông dịch.

Tôi lại lắc đầu: "I donât like." Biết được tiếng nào, xổ ngay tiếng đó.

Dù đã "I donât like", nhưng tôi vẫn sợ người ta sẽ rình cắt mất da qui đầu con tôi. Tôi nói với cô thông dịch, nếu điều này xảy ra, tôi sẽ kiện. Doạ thế thôi. Mới qua Mỹ, ngôn ngữ không rành, biết gì mà kiện thưa ai chứ?

Trước khi quyết định cho con một cái tên chính thức trong giấy tờ, vợ hỏi:

"Ðặt tên gì?"

Tôi nói: "Lâm Khang."

Vợ giật mình: "Trời đất! Ðó là tên thằng con đã chết, sao lại đem gán cho thằng này?"

"Tôi nghĩ, thằng Khang bị chết oan. Nó đầu thai lại."

"Thôi. em sợ có huông lắm. Ðặt tên khác đi"

"Vậy thì đặt nó là Lâm Bình."

"Sống ở Mỹ, sao không đặt tên Mỹ?"

Ðiều gì tôi có thể nhượng bộ, nhưng đặt tên Mỹ cho con, tôi phản đối tới cùng.

Cái máu độc tài của người đàn ông Việt Nam nổi lên, tôi cảnh cáo vợ: "Ðừng bao giờ đưa ra ý kiến đó với tôi lần nữa nhé!"

Nhắc lại thằng con bỏ mạng trong bệnh viện Nhi Ðồng I, tôi liên tưởng đến thằng Cu Ðen uống thuốc rầy năm nọ. Tôi thương thằng bé. Cái tên của nó gợi lại biết bao kỷ niệm êm đền ngày cũ quê tôi. Tôi quyết định, đặt cho thằng út Lâm Bình, thêm một cái tên ngoài giấy tờ khai sinh: Cu Ðen. Dĩ nhiên, vợ tôi không biết lý do thầm kín của cái tên này.


Lâm Chương




PHẠM BÁ HOĂ * CHUYỆN TRONG TÙ

 
Phạm Bá Hoa

VÀI IMẨU CHUYỆN TRONG TÙ

Ngày 30 Tháng Tư, 1975, cộng sản Việt Nam (CSVN) đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa, tôi cùng các bạn cấp đại tá bị đưa đến trại tập trung Long Giao, tỉnh Long Khánh, do Ðoàn 263 giam giữ. Ngày 23 tháng Mười, 1975, CSVN chuyển chúng tôi đến trại tập trung Tam Hiệp, tỉnh Biên Hòa, do Ðoàn 775 giam giữ. Ngày 16 Tháng Sáu, 1976, hầu hết chúng tôi bị chuyển ra Yên Bái do Ðoàn 776 giam giữ. Cả ba đoàn này thuộc Bộ Quốc Phòng Cộng Sản Việt Nam (CSVN). Tháng Tư, 1978, chúng tôi bị chuyển xuống trại Nam Hà A, tỉnh Hà Nam Ninh, do Công An CSVN giam giữ.

Sự kiện kể lại trong bài này lúc tôi bị giam tại Trại Nam Hà A.

1. Cộng sản nuôi tù.

Bo bo

Trại tập trung này thường xuyên ăn độn, nhưng độn theo lương thực thì từng đợt vài ba tuần hay vài ba tháng. Chẳng hạn như bo-bo thì thời gian dài hơn, khoai mì xắc từng cọng phơi khô thì vài tuần, khoai tây tươi nguyên củ thì theo mùa, bột mì luộc thì tùy theo viện trợ từ ngoại quốc. Nói là độn nhưng thật sự ăn 100% chớ không phải một phần gạo một phần độn đâu. Bo-bo là thức ăn dành cho ngựa ngoại quốc, cọng khoai mì phơi khô là thức ăn dành cho heo trong nước, cả hai loại thực phẩm này nếu văn chương một chút gọi là “thức ăn dành cho gia súc.”

Vì là thức ăn dành cho những động vật không phải con người, nên người ta không cần giữ vệ sinh từ lúc sản xuất, đóng gói, tồn trữ, chuyển vận, đến cung cấp cho bếp trại tập trung, tức là trong tình trạng không sạch sẽ chút nào, vì khi đổ ra sân người ta dùng bàn cào hay chổi để trải ra phơi hoặc gom lại cho vào bao. Hãy hình dung bữa ăn với cọng khoai mì khô đã nấu chín. Mỗi khẩu phần từ 10 đến 12 cọng, nhỏ thì bằng ngón tay út còn lớn thì bằng ngón tay cái, và dài nhất cũng khoảng 12 phân tây (0.12 thước). Bên cạnh những cọng khoai mì nhơn nhớt, là muỗng nước muối với khoảng mười cọng rau mùa Hè (rau muống) hay lát rau mùa Ðông (bắp cải, su hào). Ðấy là một phần ăn.

Trong số những thứ lương thực thay gạo đó, bo-bo là tai hại nhất, vì cái vỏ lụa của nó không tiêu được, nên nó phải “cào” những gì vướng mắc trên đường đi từ cái bao tử ra đến cái thùng gỗ đựng nó, chờ khiêng xuống khu vực trồng rau để “chăm bón.” Cuối cùng, nó quay vòng trở lại để vào bao tử chúng tôi dưới dạng rau. Có bạn dùng cây tăm xỉa răng, ghim từng hột bo bo cho vào miệng. Cách ăn này vừa nhai thật kỹ, vừa đánh lừa cái bao tử làm cho “nó” tưởng là được ăn nhiều!


Năm 1978-1979, tôi với anh Nguyễn Tài Lâm (đại tá Truyền Tin) ăn chung. Tuy bo-bo “nó hung hăng” như vậy, nhưng hai chúng tôi cứ trông đến ngày thứ bảy nhờ anh Sét (trung tá Cảnh Sát) ở buồng giam khác, mua giùm một phần bo-bo với giá một đồng. Hai đứa chia nhau mỗi người một nửa, giúp cái bao tử đỡ phần lỏng lẻo! Theo lời anh Sét thì người bạn của anh muốn có một phần bo-bo bán cho chúng tôi, mỗi chiều anh ấy để lại một muỗng. Ngày thứ hai để lại hai muỗng từ phần bo-bo mới lãnh và gộp muỗng bo-bo của ngày thứ nhất vào phần ăn lúc ấy. Ngày thứ ba để lại ba muỗng và gộp hai muỗng của ngày thứ hai vào phần ăn lúc ấy. Và cứ như thế cho đến ngày thứ bảy là đủ một phần, anh ấy bán cho chúng tôi lấy tiền lén gởi mua thuốc lào hút.

Bây giờ quí vị quí bạn hãy hình dung thời gian tại trại tập trung Nam Hà A vào chiều Ba Mươi Tết Nguyên Ðán đầu năm 1979. Nhà bếp phát cho mỗi người tù chúng tôi một cái bánh chưng, mỗi cạnh 15 phân tây kể cả lớp lá dong thật dầy bên ngoài. Tôi với anh Lâm phác thảo “kế hoạch” ăn hai cái bánh chưng đó. Chiều Ba Mươi ăn cái bánh của tôi, và sáng Mồng Một ăn cái bánh chưng của anh Lâm. Chúng tôi nhẹ nhàng cắt dây, rồi từ từ gỡ từng miếng lá nhỏ cứ như sợ nó văng mất từng hột nếp hay miếng thịt nhỏ xíu bên trong ấy. Trời đất ơi, một nửa cái bánh còn nguyên hột nếp!

Nếu có bạn nào trông thấy hai cái mặt của chúng tôi lúc ấy, cũng không thể nào tưởng tượng cái bao tử của chúng tôi nó thất vọng đến như vậy! Và trong cái hoàn cảnh cần có thức ăn gì đó giúp cái bao tử bớt kêu ca, sau một lúc hai đứa nghiêng qua nghiêng lại ngắm nghía cái bánh chưng, chúng tôi quyết định “sống chín như nhau.” Thế là nhẹ tay cắt làm hai chớ không dám mạnh tay sợ văng hột nếp sống, mỗi đứa có một nửa sống với một nửa chín.

Theo “kế hoạch” thì sáng Mồng Một mới ăn cái bánh chưn của anh Lâm, nhưng chúng tôi không thể chờ đợi được vì thức đêm chờ Giờ Giao Thừa mà bụng thì đói! Thôi thì mang cái bánh ra, lại từ từ cắt làm hai vẫn là nửa chín nửa sống, nhưng cứ xem như cái bánh có đủ phẩm chất của nó thì y như rằng nó vẫn cứ ngon miệng lúc đêm khuya!

Sáng Mồng Một có gì ăn đâu. Bữa ăn trưa, tù chính trị được ăn cơm bằng gạo hẳn hòi, nhưng đây là bữa ăn duy nhất của 365 ngày để rồi sau đó vẫn là bo-bo. Chiều Mồng Một Tết, một bạn trẻ ngay trong buồng giam chúng tôi, mang cái bánh duy nhất của anh ta bán cho chúng tôi giá 1 đồng rưỡi. Tôi với anh Lâm, mỗi đứa có thêm nửa cái bánh chưng, trong khi anh bạn trẻ có thêm thuốc lào hút. Không biết có nên nói là “hai bên cùng có lợi” hay không, vì xem ra sự thể chẳng hay ho gì!

Thật lòng mà thưa với quí vị quí bạn rằng, cái bánh chưng thứ 3 này cho tôi cảm nhận chút hạnh phúc! Nếu quí vị hỏi tôi: “Tại sao là một chút hạnh phúc?” Tôi xin trả lời:

“Thứ nhất, vì chiều hôm qua và hôm nay, chúng tôi mới được ăn cơm thật sự cộng với cái bánh chưng cho dẫu là cái bánh chưng vừa sống lại vừa chín. Ðó là hạnh phúc của người tù chính trị, vì đã lâu lắm rồi anh em chúng tôi mới trông thấy những hột gạo hột nếp như vậy từ cái bếp của trại tù này. Thứ hai, chỉ một chút thôi, vì từ ngày mai -Mồng Hai Tết - cái hạnh phúc đó sẽ tan biến theo chén bo bo lưng lửng mỗi lúc chia khẩu phần! Cái hạnh phúc của chúng tôi nó mong manh như vậy đó quí vị à!

Muối hột

Trong trại tập trung Nam Hà A này, muối hột thuộc loại thực phẩm quí! Bởi vì chúng nó chỉ chúng tôi ăn toàn nước muối, rất ư là khó nuốt. Trong đội nhà bếp mà tù chính trị chúng tôi đã thay thế tù hình sự, có anh Mẫn. Trong năm 1962-1963, anh Mẫn cùng làm trong văn phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân với tôi. Sáng Mồng Một Tết năm 1979, anh Mẫn đến buồng giam số 1 gặp tôi, anh kề tai nói nhỏ:

Tôi nghĩ chắc anh ấy có tin tức gì liên quan đến tù chính trị nên thận trọng như vậy. Tôi theo sau anh vào hành lang nhỏ hẹp của buồng giam 15 và 16. Ðến giữa hành lang anh dừng lại, cho tay vào túi áo bên trong moi ra một gói bằng nắm tay con nít nhét vội vào tay tôi:

“Anh xuống đây với em một chút. Anh cất gói muối này để dành ăn. Muối hột đó. Em đi nghe.”

“Cám ơn nhiều nghe Mẫn.”

Tặng xong là anh nhanh chân về nhà bếp vì sợ có người trông thấy, vì khoảng thời gian ấy nếu bị “cai tù” bắt là họ phạt, hay ít ra cũng bị chúng nó chửi cho một trận.

Âm thanh ba tiếng “muối hột đó” đủ nói lên “giá trị” của hột muối đối với chúng tôi như thế nào rồi. Bởi, ngoài cái chất mặn của nó ra, tôi nghĩ là quí vị quí bạn không cảm nhận điều gì khác, nhưng với chúng tôi thì âm thanh đó gợi lên sự thèm khát cái chất ngọt lạ kỳ của hột muối. Và tôi không thể tưởng tượng được khi cho một hột muối vào miệng - ngậm chớ chưa dám nhai - tôi cảm nhận chất ngọt kỳ diệu trong chất mặn của muối! Ðang mơ màng thưởng thức “chất ngọt của hột muối,” có tiếng anh Lâm:

“Này, anh làm gì mà vui thế?”

Tôi giật mình. Hơi ngượng, vì “bị bắt gặp” thái độ sung sướng một cách kỳ lạ, nhưng tỉnh lại ngay:

“Anh có tin là tôi đang sung sướng vì được ngậm một hột muối không?”

“Tôi cũng tù như anh mà.”

Câu trả lời mang theo âm hưởng một lời than ngắn ngủi của anh Lâm. Vậy là quí vị cảm nhận được mức độ thèm khát “muối hột” của chúng tôi như thế nào rồi chớ!

Ở “những xóm nhà lá” trong xã hội lớn của đất nước, người ta thường bày tỏ tình tương thân tương trợ lẫn nhau khi trái gió trở trời qua câu nói “hột muối cắn làm hai,” được hiểu theo nghĩa bóng hơn là nghĩa đen. Nhưng trong xã hội nhỏ của nhà tù, hột muối không chỉ cắn làm hai mà là làm ba làm bốn hoàn toàn theo nghĩa đen của nó. Sự chia sẻ nhỏ nhoi mà anh Mẫn dành cho tôi là một trong những cách biểu hiện rõ nét về ý nghĩa “hột muối cắn làm hai,” hiểu được cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng!

Bo-bo mà chan nước muối vào thật vô duyên, nhưng ăn với muối hột thì dễ ăn hơn. Tôi nói “dễ ăn” là so sánh khi ăn nó với nước muối, chớ tôi không nói nó dễ ăn so với các món ăn khác, với lại nó cũng không hề thân thiện chút nào với cái bao tử khi nó vào đó.

“Cao lương mỹ vị”

Sau đợt ăn những cọng khoai mì phơi khô là khoai tây tươi. Cũng là ăn 100% chớ không phải độn với gạo. Từng xe vận tải Molotova chở khoai tây vào trại, thứ khoai tây hạng bét vì củ nào lớn nhất cũng chỉ bằng cườm tay con nít vài tuổi là cùng. Mỗi khẩu phần diễn biến từ 12 đến 16 củ còn nguyên vỏ. Anh nào có bơ thực vật hoặc đường hay sữa do gia đình gởi qua đường bưu điện 3 tháng 1 gói 5 kí lô, sau khi lột vỏ một cách cẩn thận để tránh chất bột bị mất tí ti vì dính theo vỏ, rồi cho chút bơ hay sữa hoặc đường vào củ khoai, vừa ăn vừa cảm nhận niềm thương nỗi nhớ mà người Vợ từ ngàn dặm xa xôi đã âm thầm “gói ghém tâm hồn của nàng vào trong những gói đường, hộp bơ, hộp sữa...” gởi đến người Chồng trong trại tập trung, để mà nhớ mà thương...!

Vì thiếu ăn, một số bạn trong số chúng tôi những khi cuốc đất hay làm gì dưới cánh đồng, bất cứ con gì nhúc nhích cũng ăn được cả. Từ con cua, con cá bằng ngón tay hay bằng đầu đũa, con nhái, con lươn, cào cào, châu chấu,v.v... cứ bắt bỏ vào bếp lửa, một lúc khều ra phủi tro phủi bụi là cho vào miệng.

Thậm chí, ngay cả con trùn cũng ăn nữa! “Con trùn hổ” lớn bằng ngón tay út, dưới nắng trưa làm ánh lên những màu sắc trên lớp da nhơn nhớt của nó, rạch một đường theo chiều dài con trùn, cạo bỏ tất cả bên trong chỉ còn lại lớp da bầy nhầy đem rửa sạch phơi khô, cho vào bếp nướng. Các bạn ấy gọi là “long đất nướng” và xem chừng ăn ngon lắm! Trong “bản ghi nhớ” của tôi có ghi tên của hai bạn ấy, nhưng tôi nghĩ không nên ghi vào đây!

Theo qui định mà tên công an “quản giáo” đội nhà bếp cho biết, “tiêu chuẩn mỗi người tù là 15 kí lô gạo một tháng,” nhưng khi họ cho tù ăn những thứ không phải gạo thì họ vẫn tính theo trọng lượng của gạo mà thật ra cũng chính họ cho biết, cứ 2.5 kí lô khoai mì hay khoai tây mới bằng 1 kí lô gạo. Chúng tôi đâu có kêu với ai được, bởi vì họ chia chác với nhau và cùng che chắn cho nhau mà!

Họ cấm nấu nướng, nếu bị bắt, có thể bị họ đưa vào khu biệt giam trong trại Nam Hà B mà chung quanh toàn núi rừng bao bọc. Nếu bị biệt giam thì khẩu phần hằng ngày giảm xuống còn một nửa, khi hết hạn biệt giam sẽ bị cấm thăm nuôi và có thể họ cấm luôn nhận quà thông thường là từ 3 đến 6 tháng. Cứ mỗi 3 tháng vợ tôi gởi cho 1 gói quà mà những món chánh là bơ thực vật, đường cát, sữa bột, và lạp xưởng.

Tôi kể quí vị quí bạn nghe về cách tôi nướng lạp xưởng và sử dụng lon sữa bột. Mỗi lần nướng một cái lạp xưởng, tôi dùng chiếc đũa lùa vào trong để dễ cầm và dùng 3 tờ giấy báo kích thước của tạp chí, cuộn lại theo chiều dài, mượn cái quẹt máy
(bật lửa) cho vào túi.

Ra cửa buồng giam, nhìn qua nhìn lại không thấy tên công an nào là tôi ba chân bốn cẳng chạy ra đằng sau buồng giam và chui vào cầu tiêu. Nói cái cầu tiêu mà không mô tả nó là sự thiếu sót. Từ mặt đất xây lên khoảng 3 tấc làm chỗ ngồi, tấm vách hai bên và phía sau cao đến vai, phải cúi đầu “chào cái cầu tiêu” mới vào được. Phía trước trống trơn, gió nóng mùa Hè hay gió lạnh mùa Ðông “tự do thổi vào” lạnh hay nóng tùy theo mùa quí vị à!

Ngồi quay lưng ra để chắn gió, bấm quẹt máy, châm lửa vào giấy. Tay cầm tờ giấy đang cháy để phía dưới chiếc đũa lạp xưởng. “Năng lượng” của 3 tờ giấy đủ chín cái lạp xưởng, thế là tôi có bữa ăn ngon miệng và cơ thế tiếp nhận được một lượng ca-lô-ri nhỏ nhoi mà người tù rất cần.

Có lần vợ tôi gởi cho một xâu lạp xưởng 12 cặp, phải cho vào hai cái lon guigoze để dành ăn, nhưng nó dài quá phải cắt một đoạn mới đậy nắp được. Tôi mời anh Cao Văn Phước
(đại tá Quân Vận, nằm sát cạnh tôi) ăn chung nhưng không biết nó chín hay sống, vì thư của vợ tôi còn bị công an trực trại giữ để kiểm soát. Lúc ấy chúng tôi bị nhốt vào buồng giam rồi đâu làm sao nướng được. Hai đứa tôi cứ ngắm nghía suy già đoán non, lúc thì đã hấp rồi lúc thì chưa.

Cuối cùng chúng tôi xem như nó đã chín rồi và cứ thế mà ăn hết 24 đoạn cắt ngắn đó. Ngày hôm sau nhóm trực trại trả thư. Xem thư mới biết là lạp xưởng sống, thế nhưng cái bụng tôi rất hiền lành nên không gây khó khăn hay hoạnh hẹ gì tôi, mặc dù nó “bị bắt buộc” phải tiếp nhận và thanh toán hơn mười khúc lạp xưởng sống nhăn! Kể cũng lạ.

Ðến hộp sữa bột. Ðó là sữa bột sản xuất từ nước Nga cộng sản lúc ấy có tên là Liên Xô, chung quanh bằng giấy cứng, màu vàng, cái nắp của nó là miếng kim khí mỏng cũng màu vàng, chỉ bằng một phần ba đường kính cái hộp, vì mặt trên có miếng kim khí mỏng khác phủ kín hai phần ba miệng hộp. Tôi nhìn cái hộp và nghĩ rằng có thể sử dụng được nó dù chưa biết sử dụng vào việc gì.

Thế là tôi “nghiên cứu” cái hộp mà “cái lợi” trên miệng sẽ che kín cái gì đó có thể giấu bên trong. Mãi một lúc là tôi biết cách sử dụng nó. Ðó là viết thư, quấn một vòng tròn cho nhỏ lại rồi lùa vào trong hộp, ém dần cho những trang thư sát vào vách hộp. Nghĩ được là thực hiện được. Sau khi nhận thấy những trang thư nằm “kín đáo” bên trong, tôi cho sữa bột vào hộp, đậy nắp cẩn thận, trông không khác những cái hộp sữa mang từ nhà thăm nuôi vào trại.

Tôi phải trả 2 đồng Việt Nam cộng sản cho chú tù hình sự phụ trách dọn dẹp nhà thăm nuôi, đem ra gởi cho mấy chị bạn của vợ tôi đến thăm chồng nhờ mang về Sài Gòn trao lại vợ tôi. Có khi gởi cho anh bạn ra nhà thăm nuôi gặp vợ và gởi chị ấy mang về giùm. Có lần bị hạch hỏi trước khi họ hướng dẫn ra nhà thăm nuôi, anh bạn trả lời là đem sữa ra đó uống. Thế là thoát.

Ðến cái cảnh đổi áo quần lấy thức ăn mà tôi là trường hợp điển hình. Công an “cai tù” thừa biết tù chính trị chúng tôi có nhiều áo quần dân sự bằng hàng vải ngoại quốc rất tốt, trong khi chúng tôi rất cần chất bột, chất béo, chất ngọt. Thế là đám “cai tù tóc ngắn lẫn cai tù tóc dài” đầu cho vào trại
(bất hợp pháp) các món hàng sữa đặc có đường, sữa bột, đường cát, để gạ chúng tôi đổi lấy áo quần, rồi mang ra trại (cũng bất hợp pháp) đem lên Hà Nội bán.

Cái nghề “khốn nạn” này đã giúp họ phát lên khá nhanh, bởi vì như cái quần tây của tôi bằng vài nhập cảng từ Australia chỉ đổi được có 1 hộp sữa đặc và 1 kí lô sữa bột. Lần khác một cái quần tây chỉ đổi được 1 hộp sữa đặc và thêm 1 đồng bạc. Chính cái tình trạng thiếu ăn này làm cho anh em chúng tôi đến mức không còn cái áo cái quần dân sự nào coi được cả!

Một hôm, khi đổi được hộp sữa đặc trong tay và khi âm thanh ống khóa cửa buồng giam crắc một tiếng, tôi khui hộp sữa, mời anh Bùi Quang Hiền
(đại tá Bộ Binh) với anh Cao Văn Phước nằm cạnh tôi, cả 3 chúng tôi luân phiên “tu” một lúc là hết sạch. Thoạt nghe có vẻ ly kỳ rồi, nhưng chưa thấm thía gì so với anh bạn trẻ Nguyễn Kim Tiếng (thiếu úy Cảnh Sát, sau 1975 tham gia Nhóm Phục Quốc bị bắt).

Sau giờ lam lũ dưới cánh đồng ngập nước, về đến cổng chờ kiểm soát vào trại. Cả đội ngồi chồm hổm, đám công an trực trại lục soát từng người từ trước ra sau. Anh Tiếng có mua hộp sữa đặc đang giấu trong người, khi thấy khó thoát khỏi vì chúng nó xét kỹ quá, anh ta bèn moi cục đá ngay chỗ ngồi rồi ngoáy mãi cũng được hai lỗ trên miệng hộp, thế là anh “tu” hết sữa và liệng cái hộp vào sát vách trại, lúc ấy Thịnh khuỳnh trực trại
(khi đi, hai cùi chỏ hắn khuỳnh ra), tên công an cai tù khét tiếng xét đến anh:

“Cái hộp này của ai?” Hắn quát với vẻ tức tối.

Ai dại gì mà lên tiếng. Hắn lại quát gay gắt hơn:

“Tôi hỏi cái hộp này của ai ném ra đây?”

Cả 3 đội “xếp hàng như bầy vịt” đều nhìn vào cổng trại, cứ như không nghe không thấy không biết việc gì kể cả lời quát của hắn. Hắn càu nhàu một lúc mới cho vào.

Những đội làm ruộng dưới đầm lầy mà họ gọi là “vụ chiêm,” thường có những toán trẻ con lẫn người lớn, lén lút giấu gói đường với vài hộp sữa trong người rồi giả dạng như đi bắt cá để đến gần chúng tôi bán vài món lặt vặt ấy. Do vậy mà anh Tiếng mới có hộp sữa trong người, và thật tài tình khi “tu” trọn hộp sữa trong nháy mắt.

2. Những màn kịch cỡm.

Ðầu năm 1985, hơn 100 anh được ra về. Trước ngày chánh thức có lệnh tha ra trại, nhiều tin đồn vào trại là người này có tên người kia có tên, bắt nguồn từ những công an “tóc dài” có liên lạc buôn bán chui hoặc thường nhờ vả thuốc men của tù chính trị. Anh Huỳnh Văn Châu
(Không Quân) đang trong tổ thợ điện của trại, chạy tìm tôi đang chăm sóc luống rau “mini”:

“Anh ơi! Em có tên về rồi. Con “Hoa điện” vừa cho em hay và em đã hỏi lại thì đúng rồi.” “Hoa điện” là tổ trưởng điện, cán bộ quản giáo của anh Châu.

“Hay quá. Vậy thì anh có thì giờ thu xếp chuyện gia đình cho ổn, chớ tình trạng của anh còn kéo dài, tôi e gãy gánh thiệt đó Châu.”

“Em cũng lo lắm anh.”

“Hãy cố lên. Ðã có được thời gian, anh đừng để vấn đề vuột khỏi tầm tay nghe Châu.”

Anh Ngợi cũng tìm tôi: “Anh ơi! Em cũng có tên về rồi anh. Anh Châu có nói với anh chưa?”

“Có. Châu mới nói với tôi đây. Anh về là nhanh tay lẹ chân tổ chức đám cưới cô bạn gái chờ anh hơn chục năm rồi. Tình yêu như vậy tôi cho là đẹp lắm, vì thời gian thử thách quá dài với lại trong hoàn cảnh nghiệt ngã nữa.”

“Em sẽ cố gắng nhưng phải về mới biết rõ sự việc được anh.”

Phải nhận rằng, anh em tù chính trị chúng tôi xôn xao trong ý nghĩa tốt, có thể nói vui vẻ là khác. Sau khi cửa buồng giam đóng lại, anh Châu với tôi ngồi đối diện hai bên sàn gác. Châu nói:

“Anh ơi! Một trăm mấy anh em mà tụi nó chia làm hai chuyến đi, cách nhau vài ngày, và nghe đâu chuyến thứ nhì có quay phim nữa.”

“Liệu về kịp Tết hông Châu?”

“Con Hoa nó nói em về đến Sài Gòn trước giờ Giao Thừa. Thôi thì miễn về là được rồi anh, sớm muộn cũng không sao.”

Quả thật khi công an đọc danh sách thì những anh được đồn đoán đều đúng, và về Sài Gòn trong hai chuyến cũng đúng luôn. Ngay sau khi họ đọc danh sách ra trại, tổ văn hóa chúng tôi bận tíu tít, vì họ bảo viết đến mấy bản danh sách, cùng lúc gọi các anh đến hội trường làm thủ tục. Anh Khiêm trong tổ văn hóa được về trong đợt này.

Anh em có tên ra về cùng với khá đông anh em không có tên cũng có mặt trong khuôn viên buồng 10
(buồng này trống), về thì vui đã đành nhưng chưa về cũng vui, vì nhắn gởi về gia đình. Tụm năm tụm ba trò chuyện khá ồn ào, pha lẫn trong tiếng của đám công an gọi từng anh vào làm thủ tục. Chuyến thứ nhất lên xe trại ra Phủ Lý để lên Hà Nội, các bạn trong chuyến thứ nhì chuẩn bị cho đoàn quay phim dường như của Thụy Ðiển đang thu hình các đội trồng rau gánh rau về trại.

Cứ mỗi lần có phái đoàn đến thăm trại cho dù là cộng sản hay tư bản thân cộng, Bộ Công An từ Hà Nội cũng xuống hướng dẫn trại trưởng tổ chức những màn kịch để phô trương. Muốn phô trương phải che giấu cái tồi tệ của họ, mà chính vì che giấu lại làm cho màn kịch của họ trở nên tồi tệ hơn. Mời quí vị quí bạn theo dõi 3 màn kịch tồi tệ đó.

Màn kịch thứ nhất

Thật là vô duyên khi hai đội banh tạp nham bị bắt buộc vào sân đá với nhau để phái đoàn quay phim. Theo lời của đám trực trại thì Bộ Công An muốn đoàn quay phim ngoại quốc thấy cảnh sinh hoạt của tù chính trị, nhưng theo chúng tôi nhận xét thì nhóm quay phim chú trọng thu hình những lối ra vào khu vực các buồng giam, vì họ đặt hai máy thu hình ở hai đầu sân thu hình sự đi lại của anh em chúng tôi ra vào các hành lang đó. Không hiểu họ khai thác góc cạnh nào trong sự đi lại của anh em chúng tôi, nhưng rõ ràng là họ chú trọng những hình ảnh đó hơn là trận banh trên sân đá dăm
(chớ hổng phải sân cỏ).

Ðến tổ dịch tài liệu do anh Lại Ðức Chuẩn
(đại tá Bộ Tổng Tham Mưu) phụ trách, được chọn lọc hẳn hòi trong lớp học Lịch Sử chớ không phải toàn tổ đều tham dự trình diễn tại hội trường, trong khi tổ văn nghệ do anh Phạm Kim Qui (đại tá Cảnh Sát) phụ trách trình diễn “nhạc hòa tấu.” Trong màn này có lẽ họ muốn phô trương “sinh hoạt của tù chính trị trí thức” là như vậy đó.

Màn kịch thứ hai

Sau đoạn phim về trận banh tạp nham với hai tổ dịch thuật và văn nghệ, đến đoạn phim tù chính trị ăn cơm chiều với “thực đơn” đặc biệt. Ðám trực trại cho dọn cái gọi là nhà ăn của buồng giam số 1, để ở đó một cái bàn với sáu ghế ngồi.

Cả mấy trăm tù chính trị mà chỉ có một bàn ăn duy nhất, làm sao che giấu cái bản chất dối trá trước phái đoàn truyền thông quốc tế? Vậy mà họ vẫn cứ thực hiện. Sáu anh tù chính trị được chỉ định ngồi vào bàn ăn “kịch cỡm” này, họ bắt phải mặc áo quần mà họ nói là đẹp nhất. Tôi với cụ Hoàng Văn Úy
(đảng Việt Quốc) đến từng anh thuyết phục nên mặc đồ thường thôi, vì hy vọng đoàn quay phim này sẽ có tác dụng thuận lợi cho mình khi họ phổ biến trên hệ thống truyền thông thế giới. Các bạn đồng ý, nhưng cũng cố gắng một chút tươm tất, nếu không sẽ không yên với đám an ninh của trại.

Tôi và anh Ðặng Hoàng Long đứng nhìn nhóm Thụy Ðiển thu hình. Anh chàng chuyên viên chỉ đưa ống kính quét một lượt phần trên bàn, rồi anh ta ngồi bệt trên sàn xi-măng, đưa ống kính vào các ống chân bàn chân của “thực khách” và thu thật chậm nên không sót bàn chân anh nào cả. Ðó là những bàn chân nứt nẻ bị bùn đen bám vào, cộng với nước phèn ngấm vào da, làm cho những bàn chân trở nên sàm sỡ, và người quay phim khai thác một cách rất nghệ thuật về những chứng tích không thể chối cãi trong trại tập trung của CSVN, trong khi chúng nó dàn dựng những màn kịch như là tù chính trị trong trại tập trung chỉ học về lịch sử, cùng với vui chơi giải trí văn nghệ.

Màn kịch thứ ba

Lúc ấy trời tối hẳn, vì mùa Ðông nên thì giờ ban ngày ngắn lại so với thì giờ ban đêm. Họ hoàn toàn thu hình mà không hỏi bất cứ ai về bất cứ điều gì. Nhóm quay phim Thụy Ðiển yêu cầu công an cho mở các phên cửa sổ để có chút ánh sáng thu hình vài sinh hoạt trong buồng giam số 1. Nghe thông dịch xong, tên công an từ Hà Nội xuống ra lệnh cho công an trại:

“Không được. Nói với chúng nó nếu mở tấm phên thì mấy anh này chịu lạnh không nổi.”

Thật ra không phải đám công an Hà Nội sợ tù chính trị chúng tôi lạnh đâu quí vị à, và đây là bằng chứng vẫn do tên công an Hà nội nói:

“Bọn này ghê lắm! Chúng nó quay toàn những cảnh không như bộ đã hướng dẫn chúng nó trước khi vào trại. Không cho chúng nó quay nữa.”

Không thấy tên công an thông dịch cái lệnh đó. Sau cái lệnh không cho mở tấm phên cửa sổ, anh chàng chuyên viên thu hình Thụy Ðiển cao lêu nghêu, lặng lẽ ra chỗ xe của anh ta ngoài sân đem vào cái ống trắng giống ống đèn néon nhưng lớn một chút, dài khoảng 6 hay 7 tấc gì đó. Hóa ra cái ống ấy là đèn điện tử, tỏa một vùng ánh sáng thật dịu nhưng thật mạnh trong khoảng chừng một thước vuông, đủ để họ lần lượt thu hình 3 quang cảnh.

Cảnh 1, anh Ðặng Hoàng Long
(họa sĩ và trước đây là thông dịch viên) cùng với một bạn nữa (dường như là anh Bửu Uy) đang đánh cờ tướng.

Cảnh 2 là anh Nguyễn Hữu Vị
(trung tá, Phủ Ðặc Ủy Trung Ương Tình Báo) có hàm râu dài trắng phếu, đang ngồi vá chiếc áo mùa Ðông, trông thật là buồn! (Vài tháng sau đó, con gái của anh Vị từ Paris gởi về anh Vị tấm ảnh “anh ngồi vá áo” do chụp lại từ trong tivi mà cuộn phim đó trình chiếu trên hệ thống tivi nước Pháp).

Và cảnh 3 là anh Phạm Văn Thuần
(đại tá, Phủ Thủ Tướng) dưới ánh đèn leo lét đang cắm cúi viết “thư tình già” gởi về cho “má bầy trẻ.” Cái gọi là bàn viết của anh Thuần chỉ là cái mền chồng lên cái gối do mấy bộ quần áo tù cuộn lại.

Trưa hôm sau và trước khi rời trại, một anh chàng trong nhóm quay phim của Thụy Ðiển cầm cái micro dài, đứng giữa sân áng chừng 5 phút trong khi anh chàng quay phim thu hình anh ta. Tên Bùi Dênh - trại trưởng - nói với đám công an trực trại đang đứng nhìn:

“Cứ để nó thu, cho nó thấy sự yên tĩnh trong trại. Ðiều đó tốt thôi.”

Hôm sau, các đội xuất trại xong, tên Niệm - phụ trách giáo dục của toàn trại - vào tổ văn hóa:

“Anh Hoa. Anh Vũ Tiến Phúc có đi lao động không?”

“Tôi không biết cán bộ.”

Hắn quay sang tên Lực trực trại: “Ðồng chí Lực, cho người xuống đồng tìm anh Phúc ngay.”

Nửa giờ sau, hắn nói với anh Phúc đang đứng trước mặt:

“Anh đã có tiến bộ về tư tưởng thông qua phóng sự do đài truyền hình Cần Thơ thực hiện hai tháng trước. Ông bộ trưởng
(Công An) xem xong đoạn phim đó ra lệnh thả anh về. Anh tiến hành thủ tục ra trại ngay hôm nay để cùng về với toán kia.”

Về đoạn phim mà tên Niệm gọi là “phóng sự,” thật ra anh em tù chính trị chúng tôi không ai biết về cuộc phỏng vấn của đài truyền hình Cần Thơ tại trại Nam Hà A này cả. Chỉ biết là họ có thu hình anh Vũ Tiến Phúc và anh Lâm Chánh Ngôn
(đại tá, Sư Ðoàn 21 Bộ Binh). Hôm đó là buổi chiều, họ thu hình hai anh đứng cuốc đất trên khoảng đất nhỏ xíu ngay góc cái giếng lớn cạnh cổng chánh của trại.

Khoảng đất “đầu thừa đuôi thẹo” chút xíu xìu xiu này chưa bao giờ trồng trọt gì cả. Còn phỏng vấn lúc nào và ở đâu, chúng tôi hoàn toàn không biết. Nếu cho rằng đài truyền hình Cần Thơ muốn phỏng vấn những cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa từng phục vụ vùng đồng bằng Cửu Long mà đài truyền hình này xem là địa phương, thì đâu phải chỉ có anh Phúc với anh Ngôn, mà có các anh Nguyễn Văn Của
(đại tá Thiết Giáp), Nguyễn Văn May (đại tá Hải Quân), Huỳnh Thanh Sơn (đại tá Bộ Binh), và nhiều nữa.

Phải chăng đó chỉ là cách nói của trại như là lý do ra về của anh Phúc do ông bộ trưởng Bộ Công An “tử tế và rộng lượng quá,” chỉ cần lúc nhàn hạ ngồi xem một đoạn phim là đủ yếu tố để quyết định thả tù, loại tù mà Thủ Tướng CSVN Phạm Văn Ðồng đã tuyên bố là tội ác tày trời không thể tha thứ.

Buổi trưa, tất cả các anh rời trại chuyến thứ hai, cộng thêm anh Vũ Tiến Phúc, tập trung ở khuôn viên buồng 10 chờ lên xe ra Phủ Lý. Ðám trực trại không cho tiếp xúc với anh em còn ở lại. Lệnh là như vậy, nhưng giờ trưa chẳng có tên nào vào trại, thế là anh em chúng tôi tha hồ nhắn gởi về nhà.

Khi tập trung để đám trực trại điểm số, cũng là lúc nhóm quay phim Thụy Ðiển làm công việc thu hình. Nhóm này thu hình khi anh em ra cổng trại đi bộ lên chỗ xe buýt đậu trước nhà tên Lưu Văn Hán, trại trưởng toàn trại Nam Hà. Nghe đám trực trại nói chuyện, mới biết là nhóm quay phim Thụy Ðiển thu hình tại nhà ga Hà Nội, sau đó lên phi cơ vào Sài Gòn để thu hình các anh tại nhà ga Hòa Hưng.

Khoảng hai tháng sau đó, tên Lực trực trại, vào buồng giam số 1 chúng tôi nói chuyện linh tinh. Sau khi uống tách cà phê, hắn nói:

“Mấy thằng Thụy Ðiển đểu lắm. Nó quay phim các anh ở đây nó không hỏi ai điều gì, nhưng khi về bên đó nó thuyết minh ngược lại làm cho Bộ Công An bị phê bình dữ dội.”

“Họ thuyết minh thế nào vậy cán bộ?”

“Khi thu hình đội trồng rau trên đường về trại, ban giám thị bảo bó cuốc xẻng lại và vác về cho nó thấy là cẩn thận, nhưng lời thuyết minh trong phim cho rằng trại bắt các anh vác củi về sau giờ lao động. Nó nói như vậy là vì nó chỉ thu hình từ phía trước, mà phía trước chỉ là những cán cuốc cán xẻng chớ đâu thấy lưỡi cuốc lưỡi xẻng. Còn lúc nó đứng thu âm thanh ở giữa sân, nó thuyết minh là sự khắc nghiệt đến mức mà hằng ngàn tù nhân cũng không dám phát ra một âm thanh nào cả, nghĩa là một không khí im lặng đến nghẹt thở! Ðểu đến thế!”

“Ðúng là chúng nó đểu quá.”

Ðó là lời của cụ Hoàng Văn Úy
(đảng Việt Quốc) nói theo kiểu vuốt đuôi tên Lực, nhưng trong lòng anh em chúng tôi thầm cười “cái đểu rất nghệ thuật của đoàn quay phim với bọn cộng sản quá đểu.” Thế là những màn kịch tồi đã bị nhóm thu hình Thụy Ðiển vạch trần một cách nghệ thuật. Xin cám ơn các bạn Thụy Ðiển trong nhóm quay phim ấy.
 

(Trích trong quyển “Ký Sự Trong Tù” do nhà xuất bản Ngày Nay ấn loát
và nhà sách Tú Quỳnh tổng phát hành hồi Tháng Bảy, năm 2008)


MẠNH QUÂN * VIỆT NAM ĐỎ VÀ ĐEN

Khi “Cán Bộ Đỏ” Và “Xã Hội Đen” Thành Liên Minh Ma Quỉ


August 16, 2014
2014 AUG 15 dam-chet-nguoi 300


Thông tin về việc ông Lê Trung Kiên, Phó trưởng ban Tổ chức Quận uỷ Cầu Giấy, thành phố Hà Nội bị Công an bắt giữ do có liên quan đến việc thuê “xã hội đen” giết người trên đường Phạm Văn Đồng, Hà Nội đang gây xôn xao dư luận. Vụ việc gây ồn ào, không chỉ về mức độ dã man, nghiêm trọng của những kẻ sát nhân, ở địa điểm không xa trụ sở Bộ Công an mà ở chỗ một cán bộ có chức sắc trong cơ quan nhà nước lại có thể tham gia vào một tội ác nghiêm trọng như vậy.



Nguyên nhân, mức độ phạm tội của ông Lê Trung Kiên đến đâu, cơ quan điều tra sẽ làm rõ (bước đầu, đã có thông tin cho biết, ông này đã cung cấp số liên lạc của các đối tượng xã hội đen cho người thuê chúng). Nhưng mức độ ảnh hưởng, gây mất lòng tin ở những người làm việc trong bộ máy, sống bằng ngân sách, tiền thuế của doanh nghiệp, của người dân đóng góp là không phải nhỏ.

Những kẻ sẵn sàng nhận tiền thuê, chỉ vài chục triệu để giết người đã gây nguy hiểm, làm mất sự bình yên cho cuộc sống của người dân, tội đã lớn. Nhưng là người trong cơ quan nhà nước như ông Phó ban tổ chức Quận ủy Cầu Giấy lại còn dính líu, tiếp tay cho chúng thì tác hại của nó không chỉ dừng lại ở vụ án, mà còn làm tổn thất niềm tin đối với chế độ.

Không chỉ có ông Lê Trung Kiên, gần đây, đã xảy ra không ít vụ việc cho thấy, không ít cán bộ, nhân viên trong bộ máy, ở chỗ này, chỗ khác đã biến chất nghiêm trọng với cùng một hành vi: bắt tay với những kẻ lâu nay vẫn được gọi là “xã hội đen” để mưu lợi cá nhân.

Tại một hội nghị về an toàn giao thông hồi đầu tháng này, Bộ trưởng Giao thông vận tải Đinh La Thăng đã thẳng thắn nói rằng: “Có hiện tượng xã hội đen bảo kê dẫn đường cho xe quá tải, móc nối làm luật, dẫn xe quá tải tránh trạm cân. Trong khi đó một bộ phận cảnh sát giao thông và thanh tra giao thông làm nhiệm vụ có hành vi tiếp tay và móc nối tạo ra tiêu cực”.

Mặc dù cũng có ý kiến tranh luận trái chiều từ cơ quan khác, nhưng những bằng chứng bằng hình ảnh, vật chứng… mà người đứng đầu một Bộ lớn của Nhà nước đưa ra rất thuyết phục để khẳng định tình trạng những đoàn xe lớn, quá tải trọng “ung dung đi” trước mặc các cơ quan chính quyền, cảnh sát giao thông… là những hoạt động “nằm ngoài hệ thống pháp luật VN”.

Hay trước đó, đầu tháng 6.2014, cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP.HCM cũng đã khởi tố, bắt giữ 2 cán bộ hải quan TP.HCM vì có hành vi cấu kết với một nhóm buôn lậu, nhập lậu 10 lô hàng lớn… cho thấy, những vụ cán bộ, nhân viên nhà nước bắt tay với giới tội phạm để ăn, chia không còn là hiếm hoi mà nó có thể xảy ra ở nơi này, nơi khác. Một dấu hiệu rất đáng báo động.

Tất cả những vụ việc như vậy, chắc chắn gây mất lòng tin lớn của nhân dân vào hiệu quả, sự chính trực trong công việc của cán bộ nhà nước, của bộ máy nhà nước cho dù, tình trạng tham nhũng, tham nhũng vặt, tiêu cực… lâu nay, thường xuyên xảy ra ở nơi này, nơi khác, chưa ngăn chặn, đầy lùi được đã làm xói mòn đi khá nhiều lòng tin ấy.

Nhưng ở đây, là mức độ nguy hiểm hơn, có những cán bộ, công chức, thậm chí cả nhóm… ăn lương ngân sách lại đi bắt tay với những kẻ trực tiếp, thường xuyên phạm tội, thậm chí là tội ác để kiếm tiền bất chính. Cho nên, niềm tin của người dân vào những tổ chức, bộ máy có những cán bộ, công chức “lưu manh” ấy càng dễ tan vỡ.

Cho nên, biểu hiện gần đây, ở một số nơi, người dân đã có hành động tự xử như thấy kẻ bắt trộm chó thì đánh chết người nghi trộm; bắt được kẻ nghi trộm xe… thì lột trần, đánh “hội đồng”… tuy là những hành động cũng vi phạm pháp luật nhưng phải chăng, nó xuất phát từ sự thiếu tin tưởng của người dân ở những cơ quan công quyền, có những cán bộ thoái hóa, biến chất, không còn đảm bảo cho sự bình yên, an toàn cho cuộc sống của họ?

Cho dù, nói như lời một số lãnh đạo nhà nước, những cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật là những “con sâu”, thậm chí có nơi có cả “bầy sâu”… thì với những cán bộ nhà nước như ông Lê Trung Kiên, những người bắt tay với “xã hội đen” bảo kê cho những đoàn xe vận tải… thì đó thực sự là những “con sâu” đã quá độc, cần sớm sàng lọc, phát hiện để đưa ra khỏi bộ máy. Nếu không, chúng tiếp tục gây hại, làm đổ vỡ lòng tin của nhân dân vào bộ máy công quyền.

Mạnh Quân

GS. NGUYỄN VĂN TUẤN * KHOA HỌC VIỆT NAM

Chuyện Khó Tin Trong Nghiên Cứu Khoa Học ở Việt Nam

2014 AUG 15 KHCN_Congnghesinhhoc.jpg 300


Tôi có may mắn được tiếp xúc với nhiều tập san khoa học, bạn bè và đồng nghiệp trong nước từ Nam chí Bắc. Qua những tiếp xúc đó, tôi biết được vài chuyện (không dám nói tất cả) rất … khó tin. Khó tin nhưng hoàn toàn có thật. Những chuyện này ảnh hưởng đến cái mà tiếng Anh gọi là “credibility” của khoa học nước nhà.


Chuyện thứ nhất là công bố thật nhiều


Hôm cuối năm 2013, tôi được một đồng nghiệp ân cần tặng một số đặc biệt của một tạp chí y học do một trường y xuất bản. Tôi không chú ý lắm, vì thú thật lần nào về cũng có nhiều bạn tặng tạp chí như thế, nhưng lần này thì anh bạn rất ân cần muốn tôi cho ý kiến. Đêm về khách sạn, mở tạp chí ra đọc thấy có một tác giả đăng một mạch 5 bài trong số đặc biệt của tạp chí đó [1]. Tất cả 5 bài tác giả đứng tên duy nhất. Trong số đó, 4 bài là tường thuật những ca lâm sàng, và 1 bài là thuộc dạng clinical audit – giống như đếm các đặc điểm những ca lâm sàng ghi nhận trong một thời gian. Những ca này tôi không dám nói hay hay dở vì không phải là người có cùng chuyên ngành, nhưng tôi có thể nói là quá đơn giản. Tất cả không thể xem là “research” được. Những ca lâm sàng được công bố trên các tập san y khoa quốc tế có uy tín thường rất thú vị, xét nghiệm rất nhiều, và luôn luôn có những thông điệp quan trọng. Có những ca lâm sàng dẫn đến khám phá quan trọng như gen LRP5 trong ngành xương [2]. Nhưng thử tưởng tượng, một tạp chí công bố một loạt 5 bài của một tác giả! Đó là một điều bất bình thường, ngay cả với tạp chí phổ thông dành cho đại chúng [3].


Sau này, anh bạn tôi mới cho biết rằng đó là số đặc biệt dành cho tác giả, người lúc đó đang làm hồ sơ để được phong chức danh giáo sư / phó giáo sư. Không biết kết quả phong chức danh ra sao, nhưng tôi nghĩ cách làm việc như thế rất lạ lùng và nó hoàn toàn không giống một qui tắc nào trong xuất bản khoa học.


Chuyện thứ hai là bán dữ liệu


Trong khoa học, dữ liệu có giá trị như vàng. Nói cho cùng tất cả nỗ lực từ thiết kế đến đo lường và chi tiêu tiền bạc cũng chỉ để thu thập dữ liệu. Khi nói ‘dữ liệu’ tôi không chỉ nói đến số liệu, mà còn là hình ảnh và sinh phẩm, mẫu máu, mẫu DNA,… liên quan đến công trình nghiên cứu. Vì lý do y đức, dữ liệu gốc phải được bảo mật rất kỹ, thường phải để trong tủ sắt và chỉ có người có trách nhiệm mới được tiếp cận. Nhưng dữ liệu có khi được chia sẻ giữa các nhà nghiên cứu khi có đề tài mới. Một nguồn dữ liệu tốt có thể khai thác vài chục năm là chuyện bình thường. Chính vì thế mà dữ liệu được xem là vàng.


Ấy thế mà ở Việt Nam, người ta không quí dữ liệu. Có nhiều người làm xong nghiên cứu, hỏi họ dữ liệu ở đâu, họ nói tỉnh queo rằng đã vứt bỏ rồi! Họ nói như là không có gì xảy ra. Nhưng vứt bỏ dữ liệu sau nghiên cứu có thể xem là ‘tội phạm. Nhưng nghiêm trọng hơn có người còn bán dữ liệu cho người nước ngoài. Họ không thấy dữ liệu là quí hay không biết làm gì với dữ liệu, nên họ … bán (khi có nhu cầu và người mua). Việc bán dữ liệu như thế là vi phạm đạo đức khoa học một cách nghiêm trọng. Người mua cũng vi phạm y đức. Những công trình như thế không nên cho công bố trên các tập san khoa học.


Chuyện thứ ba là giả tạo dữ liệu


Đã lâu lắm rồi, khi tôi còn quan tâm đến vụ chất độc da cam (gọi tắt là AO – Agent Orange), có một số em sinh viên từng tham gia đoàn khảo sát về nhiễm AO ở miền Trung nói cho nghe những chuyện [mà lúc đó] tôi không tin. Các em đó nói rằng tham gia đoàn công tác khảo sát vui lắm, ban ngày chẳng tìm được ai là nạn nhân AO, nên chẳng thu thập được dữ liệu nào cả, thế là đêm về khách sạn các em phịa ra dữ liệu bằng cách điền vào bộ câu hỏi!


Các em kể chuyện một cách vô tư và có phần vui vẻ, làm như là đắc thắng về sáng kiến của mình. Lúc đó tôi nghĩ họ chỉ nói cho vui, chứ không tin có chuyện động trời như thế, nhưng sau này thì có nhiều người xác định đó là điều có thể xảy ra. Sau này càng ngày càng hiểu, tôi biết trường hợp đó chỉ là một trong biết bao trường hợp giả tạo dữ liệu trong khoa học. Bởi vì các em biết mình đi làm với mục đích gì, và để làm vui lòng thầy cô hay cấp trên của thầy cô, các em có thể giả tạo dữ liệu sao cho khi phân tích thì kết quả sẽ rất ‘đẹp’, hiểu theo nghĩa đúng với ý định của thầy cô.


Chuyện thứ tư là những kết quả nghiên cứu ‘đẹp’ một cách bất thường

Trong khoa học thực nghiệm, không bao giờ có những dữ liệu trơn tru hay đúng với giả thuyết của mình, và nếu có thì đó là điều đáng nghi ngờ. Do đó, bất cứ kết quả nào quá đẹp người ta đều nghi ngờ là “too good to be true”. Có lần ngồi nói chuyện với một đồng nghiệp Mỹ cũng quan tâm và có nghiên cứu về AO, anh ta nói (và tôi diễn giải nôm na): “Eh mày, tao rất ngạc nhiên là tất cả các báo cáo nghiên cứu của đồng nghiệp Việt Nam đều cho ra một kết quả nhất quán là AO có hại cho đủ thứ bệnh; tụi tao làm bao nhiêu năm nay và dùng máy Spect đo lường dioxin rất tinh vi, mà trầy trật, lúc phát hiện +ve, lúc phát hiện –ve, lúc chẳng có gì. Tao khâm phục tụi nó”.


Tôi biết và hiểu hắn nói gì, thậm chí còn biết câu thứ hai hắn sắp thốt ra là gì! Tôi suy nghĩ vài giây rồi giải thích: Tao nghĩ chắc vì tụi nó nghiên cứu ở môi trường mà độ phơi nhiễm cao nên dễ phát hiện mối liên quan, còn mày là thằng đi rải độc chất, có phơi nhiễm gì đâu, nên tụi mày khó phát hiện là đúng rồi. Tay đồng nghiệp Mỹ nhìn tôi mỉm cười (như thầm nói gì đó) và nhún vai nói: có lý! Thật ra, tôi chưa chắc tin những gì tôi nói :-), nhưng vì danh dự Việt Nam nên phải giải thích cho vui. Nhưng khi hàng chục nghiên cứu cho ra một kết quả nhất quán thì điều đó có thể là sự thật, nhưng cũng có thể là sai sót gì đó trong phương pháp, hoặc giả tạo dữ liệu.


Chuyện thứ năm là vặn vẹo dữ liệu

Có những trường hợp vặn vẹo dữ liệu sau khi đã thu thập xong. Đó là trường hợp một anh bác sĩ sau khi đã thu thập xong dữ liệu, và tiến hành phân tích. Nhưng khổ thay, kết quả phân tích cho thấy không như người hướng dẫn nghĩ. (Dĩ nhiên, những gì người hướng dẫn nghĩ chưa chắc đã đúng). Thế là người hướng dẫn đề nghị anh bác sĩ ‘sửa vài con số’ để sao cho kết quả giống như anh ta nghĩ trong đầu. Khi ra trình bày thì đồng nghiệp chỉ thấy ấn tượng với những bảng biểu, đồ thị hoành tráng, chứ đâu ai biết sự thật đằng sau. Anh bác sĩ này đáng quí ở chỗ là anh cảm thầy dằn dặt vì chuyện làm bậy, nên anh quyết định bỏ cuộc nghiên cứu. Anh ta trở nên chán chường và nghi ngờ tất cả những dữ liệu nghiên cứu của đồng nghiệp khác.


Chuyện thứ sáu là gây áp lực để đứng tên tác giả bài báo
Trong hoạt động khoa học, đứng tên tác giả bài báo là một trách nhiệm nghiêm chỉnh. Người đứng tên tác giả phải đáp ứng các tiêu chuẩn mà cộng đồng khoa học đã đồng ý và tuân theo. Nói ngắn gọn, người đứng tên tác giả bài báo phải là người có đóng góp tri thức và phương pháp trong công trình nghiên cứu, kể cả soạn bài báo. Bộ tiêu chuẩn tác giả ghi rõ nếu là giám đốc hay đứng đầu nhóm nghiên cứu, hay người có công xin tài trợ, mà không đáp ứng các tiêu chuẩn chính thì vẫn không có tư cách đứng tên tác giả bài báo khoa học. Thế nhưng ở Việt Nam làm sếp lại là tiêu chuẩn quan trọng để đứng tên tác giả, dù đương sự chẳng có đóng góp gì cho bài báo. Có người thậm chí còn không biết bài báo phản ảnh điều gì và công bố ở đâu.


Có lần tôi tiếp nhận lý lịch khoa học của một vị có gần 80 bài báo khoa học, nhưng toàn là đứng tên trong danh sách tác giả như là ‘foot soldier’ (lính đánh bộ), và tôi ngạc nhiên lắm. Nhưng sau này thì rõ ràng là tác giả chỉ là honorary author – tác giả danh dự (vì là giám đốc bệnh viện) chứ không có thực sự làm nghiên cứu. Nhiều nghiên cứu từ bệnh viện này cười nói ai mà không đề tên bác ấy vào danh sách tác giả thì lần sau đừng nghĩ đến chuyện thu thập dữ liệu từ bệnh viện do bác ấy làm giám đốc. Tuy nhiên, theo tôi biết đây là trường hợp thiểu số, vì nhiều giám đốc bệnh viện ở Việt Nam không quan tâm đến việc đứng tên tác giả bài báo.


Chuyện thứ bảy là gian dối trong cách đề tên tác giả

Một lần khác ở Chợ Rẫy, tôi nghe được một câu chuyện mà chẳng biết nói sao. Sau khi tôi nói xong bài nói chuyện, có vài câu hỏi cũng thú vị, rồi đến một anh đứng lên phát biểu chứ không hỏi. Anh nói rằng ở Việt Nam có những người cố tình gian trá về cách ghi tên tác giả trong hồ sơ xét phong chức danh GS/PGS. Bởi vì theo qui định, một bài báo có n tác giả thì số điểm được tính cho ứng viên là k/n điểm (trong đó k là điểm chung cho bài báo). Do đó, để nâng cao điểm cho mình, ứng viên chỉ cần ghi danh sách tác giả bài báo theo công thức ‘ứng viên và cộng sự’ thì điểm sẽ là k/2 [4]. Tôi thật sự không biết nói gì sau khi anh ấy nói xong, vì nói gì thì cũng đụng chạm [có khi là] bạn bè. Thoạt đầu mới nghe qua, tôi thấy khó tin là vì chẳng lẽ hội đồng chức danh không xem xét bài báo gốc để biết bao nhiêu tác giả! Nhưng nhiều người cho biết mánh khoé đó có thật! Câu chuyện nói lên một sự gian dối quá thấp. Biết rằng gian dối là thấp, nhưng gian dối kiểu như thế trước một hội đồng gồm những người có học và còn qua được thì nó cũng nói lên khả năng của hội đồng.


Chuyện thứ tám là chủ nghĩa bình quân trong cách tính điểm bài báo

Thật ra, việc định lượng hay tính điểm bài báo khoa học đã là một việc rất khó làm và theo tôi biết không có đại học nào làm cả. Nhưng ở Việt Nam, các hội đồng chức danh GS/PGS bằng cách nào đó qui định rằng bài báo trên tập san A là 2 điểm, bài báo trên tập san B là 1 điểm,…Nhưng điều còn lạ lùng hơn nữa là họ có qui định rằng bài báo công bố trên tập san nước ngoài có cùng điểm với tập san A ở trong nước! Chúng ta biết rằng đại đa số (có lẽ là 99.9%) các tập san khoa học trong nước không nằm trong danh mục ISI, và không có impact factor. Do đó, đánh đồng một bài báo trong nước với một công trình trên một tập san danh tiếng ở nước ngoài là điều cực kì vô lí. Ngay cả ở nước ngoài, hay cụ thể là ở Úc, không ai điên rồ đến nỗi đánh giá một bài báo trên tập san Medical Journal of Australia tương đương với một bài trên tờ The Lancet! Nhưng trong thực tế thì sự vô lý đó tồn tại qua nhiều năm và vẫn tồn tại: một bài báo trên tạp chí y học của Bộ có điểm y chang như một bài báo trên tập san New England Journal of Medicine!


Chuyện thứ chín là đạo văn

Hai năm trước, khi có dịp ghé thăm và giảng tại một trường y, một đồng nhiệp tặng tôi một số đặc biệt của tạp chí y học của trường. Số này công bố hoàn toàn bằng tiếng Anh, với gần 1000 trang. Nhìn bề ngoài rất “hoành tráng”. Trong lòng thì tôi thật sự mừng vì nghĩ rằng hoá ra có nơi đã ra tập san bằng tiếng Anh, và đó là một dấu hiệu tích cực. Nhưng đêm đó, về khách sạn, tôi đọc qua nhiều bài mình quan tâm, thì thấy có rất nhiều vấn đề về chất lượng. Tiếng Anh cũng còn rất …. Việt Nam, có quá nhiều sai sót. Trong những bài như thế, tôi đặc biệt đến một bài mà đoạn mở đầu (introduction) được viết với văn phong rất smooth (trôi chảy), có chất thơ và cái air báo chí, nhưng đến đoạn phương pháp và kết quả thì có nhiều sai sót về văn phạm, cách dùng từ, cách diễn tả,…Chỉ cần một phút trên mạng, tôi thấy đoạn văn đó được trích từ một website về bệnh mà bài báo quan tâm. Website đó dành cho đại chúng, nên văn phong có cái air báo chí. Tôi có báo cho anh bạn biết, và đề nghị không làm lớn chuyện làm gì, chỉ cần báo cho anh ấy biết và khuyên không nên làm như thế nữa.


Một lần khác (năm ngoái) tôi gặp một trường hợp khá hy hữu. Số là một anh bác sĩ gửi tặng tôi luận án của anh ấy như là một lời cám ơn vì tôi có giúp anh chút việc trong khi học. Tôi đọc đến đoạn mô tả về một hormone (khoảng 1.5 trang) mà tôi thấy giọng văn rất … quen. Quen nhưng nghĩ hoài không ra đã thấy ở đâu. Ngày hôm sau tôi chợt nhớ đó là đoạn văn … của tôi! Đó là bài tôi viết cho báo Tuổi Trẻ. Vì viết cho Tuổi Trẻ nên tôi không dùng những thuật ngữ, và giọng văn có phần bình dân. Kiểm tra lại thì đúng là nguyên đoạn văn từ bài viết đó, và anh ấy đã sao chép nguyên văn. Lúc đó, tôi ở vị thế lúng túng, không biết làm gì cho hợp lý. Tôi chỉ viết email cám ơn anh ấy và có nói nhẹ rằng anh nên cố gắng dùng cách diễn giải của mình và nên viết văn cho khoa học hơn. Nhưng tôi nghĩ anh ấy không hiểu tôi nói gì.


Chuyện thứ mười là qui định lạ lùng về công bố nghiên cứu


Ai cũng biết rằng trước khi bảo vệ luận án, thí sinh thường phải công bố kết quả nghiên cứu. Ở vài nước, đặc biệt là Bắc Âu, luận án tiến sĩ trong thực tế là tập hợp những bài báo đã công bố cộng với hai chương dẫn nhập và bàn luận. Công bố kết quả nghiên cứu trước khi bảo vệ luận án là qui trình chuẩn. Ấy thế mà ở Việt Nam có đại học qui định rằng thí sinh không được công bố kết quả nghiên cứu trước khi bảo vệ luận án! Thoạt đầu nghe qua qui định này tôi không tin, vì nghĩ chắc là có hiểu lầm đâu đó, nhưng sau này có dịp tìm hiểu và đọc được email tôi mới biết là có qui định lạ lùng, nếu không muốn nói là ‘ngược đời’ như thế. Thật không hiểu nổi tại sao ban giám hiệu lại để cho một qui định như thế hiện hữu trong đại học.


Những câu chuyện trên đây (dĩ nhiên là chưa đầy đủ) phản ảnh một ‘văn hoá khoa học’ – nếu có thể dùng cụm từ đó – nhếch nhác. Thật ra, đứng trên quan điểm đạo đức khoa học, những câu chuyện trên đây cũng phản ảnh sự gian dối trong khoa học rất nghiêm trọng. Dĩ nhiên, những gian dối này không chỉ xảy ra ở Việt Nam, mà còn thỉnh thoảng xảy ra ở các nước tiên tiến. Không ai biết qui mô gian lận khoa học ở VN cỡ nào, nhưng những câu chuyện đạo văn đình đám trên báo cho người ta cảm giác vấn đề khá phổ biến. Một số đại học Việt Nam có tham vọng được đứng tên trong danh sách ‘Top 500’ hay ‘Top 200’, hay muốn trở thành đại học đẳng cấp quốc tế. Thậm chí có một doanh nghiệp Nhà nước và một đại học còn kí kết hợp đồng để trường có giải Nobel trong tương lai! Nhưng với sự nhếch nhác như mô tả trên tôi nghĩ giấc mơ đẳng cấp quốc tế sẽ chỉ là giấc mơ dài.


GS Nguyễn Văn Tuấn


[1] Rất hiếm có tập san khoa học nào công bố nhiều bài của cùng một tác giả trong cùng một số. Ở nước ngoài, ít ai có thể công bố 5 bài mỗi năm, vì thời gian viết mỗi bài cũng vài tháng trời, rồi chờ bình duyệt và chỉnh sửa, làm thêm, nên rất khó công bố nhiều được.


[2] Ca này là một tai nạn xe hơi nặng mà không bị gãy xương nào cả, và tôi từng đề cập trước đây.


[3] Ngày xưa khi tạp chí TS đăng 2 bài của tôi trong cùng một số, họ phải đổi tên tôi thành một cái bút danh mà họ phịa ra!


[4] Thật ra, chuyện cho điểm đã là vô lí. Làm sao định lượng điểm cho một bài báo, dựa vào tiêu chí gì, ai đặt ra những tiêu chí đó, v.v. Hàng loạt câu hỏi không có câu trả lời. Việc chia điểm đều cho đồng tác giả càng vô lí, vì làm sao hội đồng biết được ai có công gì trong bài báo. Nói chung, qui trình cho điểm bài báo khoa học là hết sức phản khoa học.


NGUYỄN TIẾN TRUNG * ĐÁNH CHUỘT

Đánh chuột giữ bình hay giữ mình?

  • 8 tháng 10 2014

TBT Nguyễn Phú Trọng đề cao nhu cầu 'giữ ổn định' khi chống tham nhũng

Sáng ngày 6/10/2014 vừa qua, đoàn đại biểu quốc hội thành phố Hà Nội, trong đó có tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tiếp xúc với cử tri các quận Ba Đình, Tây Hồ.
Trong đó, ông Trọng đã phát biểu về vấn đề chống tham nhũng rằng, xử lý trước mắt phải nghĩ lâu dài, giữ cho được ổn định để đất nước phát triển.
"Không phải xới tung lên tất cả, gây mất niềm tin, nghi kỵ lẫn nhau, rối loạn sẽ rất nguy hiểm."
"Phải bình tĩnh tĩnh táo, rất khôn ngoan, có con mắt chiến lược. Bác Hồ dạy rồi, cha ông ta dạy rồi, đánh con chuột đừng để vỡ bình, làm sao diệt được chuột mà bảo vệ được bình hoa. Tức là phải giữ cho được cái ổn định."
Phát biểu trên của ông tổng bí thư đã chống lại hiến pháp do chính Đảng Cộng sản tự soạn thảo và tự ban hành mà không cần thông qua trưng cầu ý dân.
Theo điều 16 hiến pháp 2013, “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Thế nhưng, khi xử lý đảng viên cộng sản cao cấp tham nhũng thì phải “nghĩ lâu dài”, rồi “không phải xới tung lên tất cả”.
Nghĩa là nếu có ai tham nhũng, làm sai, hại dân mà lãnh đạo đảng thấy đụng chạm thì có thể bỏ qua. Vậy còn với dân đen thì sao?
Để so sánh rõ hơn thân phận của dân đen với lãnh đạo cấp cao, ta có thể thấy ngay cuộc tranh luận hiện nay về quyền im lặng trong quá trình tố tụng.
Quyền im lặng là quyền của nghi can để đảm bảo không phải đưa ra bất kỳ bằng chứng gì chống lại chính mình. Đây là một quyền phổ quát trên thế giới để bảo vệ quyền con người và quyền công dân, chống lại việc sử dụng nhục hình, bức cung.
Thế nhưng, vẫn có những quan chức cho rằng “quyền im lặng không phù hợp với thực tiễn văn hóa nước Việt”, hay ngụy biện không nên áp dụng quyền im lặng để “giúp cho công tác phá án nhanh chóng, tránh nguy hiểm cho xã hội”.

'Móc ng̣oặc lợi ích nhóm'


Hiến pháp không quy định quyền và nghĩa vụ của Tổng Bí thư và Bộ Chính trị

Với dân đen thì không cho áp dụng quyền im lặng, còn với đảng viên cao cấp thì có thể im lặng vì thực trạng hiện nay của giới lãnh đạo là “vấn đề lợi ích, cấu kết, móc ngoặc với nhau, lợi ích nhóm, ông mất chân giò, bà thò chai rượu... những quan hệ lằng nhằng với nhau” (Nguyễn Phú Trọng).
Thứ tư duy độc đoán bất công này đã dẫn đến bao nhiêu vụ án oan sai do bị bức cung, mà điển hình như vụ án ông Nguyễn Thanh Chấn gây chấn động dư luận xã hội vừa qua.
Đồng thời cũng dẫn đến rất nhiều vụ bỏ lọt tội phạm tham nhũng vì nể nang, vì “đại cục”.
Từ đó có thể thấy, khi xử dân đen như ông Chấn thì lãnh đạo đảng cộng sản không cần phải “nghĩ lâu dài”, có thể thoải mái dùng nhục hình, bức cung để buộc tội. Còn hiện trạng tham nhũng mà chính các đời tổng bí thư đều cho rằng đó là “giặc nội xâm”, “ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ” thì phải “bình tĩnh tỉnh táo”.
Tinh thần “quyết liệt” chống tham nhũng của lãnh đạo cao nhất của đảng cầm quyền là như vậy?
Nếu thật sự đây là nhà nước pháp quyền và mọi công dân đều bình đẳng thì các cơ quan bảo vệ pháp luật như Công an, Viện kiểm sát, tòa án cứ căn cứ theo pháp luật để xử lý nghi can, bất kể là dân đen hay đảng viên cao cấp. Còn đã lập ra “ban nội chính” để lãnh đạo đảng chỉ đạo xử án thì có còn là pháp quyền nữa hay không?
Ngay cả thời phong kiến, vua chúa cũng phải mị dân rằng “thiên tử phạm tội cũng bị xử như thứ dân”.
Thế nhưng tại Việt Nam ở thế kỷ 21 này, tổng bí thư – người có quyền cao nhất nước lại cho rằng đảng viên cao cấp có thể không bị xử lý vì sợ “vỡ bình”. Vậy những người lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam đã đứng trên luật pháp, dù đó là luật pháp do chính đảng cộng sản làm ra.
Như thế, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chống lại điều 4 Hiến pháp “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Tổng bí thư đã không coi điều 4 hiến pháp ra gì thì có cần giữ lại bản hiến pháp hiện nay hay không?
Hay người dân Việt Nam cần thực hiện quyền làm chủ của mình, bầu ra một quốc hội lập hiến để soạn thảo lại hiến pháp mới, tạo ra một hệ thống pháp luật chuẩn mực đảm bảo tự do và công bằng cho mọi người?
Cũng cần nhắc lại rằng trên thực tế, tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam là người có quyền cao nhất nước, Bộ Chính trị là cơ quan quyền lực tối cao, nhưng trong hiến pháp hiện hành hoàn toàn không có một dòng nào quy định quyền và nghĩa vụ của tổng bí thư, của Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam.
Do không bị khống chế bởi hiến pháp và hệ thống tam quyền phân lập, quyền lực của tổng bí thư và bộ chính trị là vô tận nhưng nghĩa vụ, trách nhiệm với dân thì không có.

'Đánh con chuột đừng để vỡ bình...tức là phải giữ cho được cái ổn định'

Dù lãnh đạo giỏi hay dở, phù hợp với ý dân hay không thì những người lãnh đạo vẫn tiếp tục nắm quyền
Ngược lại, công dân có đủ thứ nghĩa vụ: đóng thuế, đi lính,… nhưng lại không có một chút quyền gì, kể cả các quyền tự do căn bản như quyền tự do ứng cử, bầu cử, ngôn luận, báo chí, lập hội, lập đảng, im lặng khi bị buộc tội,…
Trí thức, thanh niên, sinh viên, học sinh Hong Kong đã xuống đường vì họ biết rằng để mất nền dân chủ thì các quyền tự do cũng sẽ mất theo, vì dân chủ là thể chế hóa của tự do.
Chúng ta cần tự do để sống xứng đáng là con người. Thế thanh niên, sinh viên Việt Nam nghĩ gì?
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của thạc sỹ Nguyễn Tiến Trung, một nhà vận động dân chủ hiện sống tại TPHCM.


TS. NGUYỄN PHÚC LIÊN * KINH TẾ CỘNG SẢN

Định Mệnh Tự Hủy Diệt Của Mô Hình Kinh Tế XHCN

2014 FEB 3 Cobra


Mô hình Kinh tế dựa trên Tập quyền Chỉ huy như ở Trung quốc và Việt Nam, gọi là định hướng XHCN, để lộ cái bệnh hoạn của mình từ những năm 2010-2011 khi mà cuộc Khủng hoảng Tài chánh/Kinh tế Thế giới làm tụt giốc mãi lực của những Thị trường tiêu thụ lớn như Hoa kỳ và Liên Au. Từ đó, cái bệnh hoạn mỗi ngày mỗi trở thành trầm trọng cho đến hiện tình tác hại lên đời sống của quần chúng dân nghèo. Cái bệnh hoạn này tự phát sinh từ chính chủ trương Kinh tế Tập quyền Chỉ huy đã là định mệnh tự hủy diệt mà chính Lý Luận của Karl Marx hé cho thấy.

Thực vậy, Mô hình Kinh tế Tập quyền Chỉ huy đã cáo chung với Nga và Đông Âu. Trung quốc và Việt Nam vẫn bấu víu lấy nội dung của mô hình, mà chỉ thêm cái đuôi “định hướng XHCN“ vào Kinh tế Thị trường để đánh lừa thiên hạ. Nội dung vẫn giữ chủ trương độc tài Chính trị nắm độc quyền Kinh tế mà chúng tôi gọn lại là Mô hình Kinh tế XHCN.

Đã từ cuối năm 2011, Chủ tịch Ngân Hàng Thế giới, Ông Robert ZOELLICK, cũng như Tổng Giám Đốc Quỹ Tiền Tệ Quốc tế, Bà Christine LAGARDE, đều họp báo tại chính Bắc Kinh thôi thúc Trung quốc phải cấp bách Cải tổ từ căn nguyên Mô hình Kinh tế XHCN bởi vì với Khủng hoảng Tài chánh/Kinh tế Thế giới hiện nay, Kinh tế XHCN đã bước xuống một cái giốc mà không thể cưỡng lại và Mô hình Kinh tế ấy đang làm phá sản Kinh tế quốc dân để có thể đi đến bạo loạn Xã hội và lan sang Chính trị .

Tại Trung quốc, chính Thủ tướng On Gia Bảo, từ năm 2010, đã nói trước Quốc Hội, về những bất ổn Chính trị như hậu quả Kinh tế:

“L’inflation, plus une redistribution inéquitable des revenus et la corruption pourraient affecter la stabilité sociale et même la stabilité du gouvernement” (Lạm phát, thêm vào đó là một sự phân phối không đồng đều những thu nhập và tham nhũng có thể tác hại đến sự ổn định xã hội và ngay cả đến sự ổn định nhà nước” (Le Monde 16.03.2010, trang 16).

Bản Tin của AFP, từ Hà Nội ngày 11.12.2012, đã nói về nhận định của Bà Victoria KWAKWA , Giám đốc Ngân Hàng Thế Giới, về việc xuống giốc của Kinh tế XHCN Việt Nam:

“HÀ NỘI, 11.12.2012 (AFP) – Việt nam có nguy cơ rơi vào lâu dài trong “cái bẫy thu nhập rất kém“ nếu nhà nước không cải cách hệ thống ngân hàng và những xí nghiệp nhà nước, vừa không có hiệu quả vừa chất chồng những nợ nần.

Độ phát triển Kinh tế của xứ cộng sản này vào năm 2012 là ở mức độ thấp nhất kể từ năm 1999. đó là lời nhận định của Bà Giám đốc Ngân Hàng Thế giới trong cuộc Họp thường niên cuối năm nay tại Hà Nội.

Kinh tế mất đi nặng nề về tính sinh động và những ràng buộc thuộc Cơ chế càng ngày càng nặng nề gây thụt lùi trầm trọng tính cạnh tranh và độ tăng trưởng, Bà Victoria KWAKWA thẳng thắng nói như vậy trong bản công bố vào chiều tối thứ Hai 10.12.2012.

Việt Nam đã được coi như một quốc gia nhiều hy vọng vào những năm 90. Một số người còn coi đây là con rồng tương lai Á châu. Nhưng tiếc thay, Chế độ đã không bao giờ muốn hay thành công, dù muốn, trong việc cải cách MÔ HÌNH KINH TẾ, nhất là không rời bỏ những phương pháp sản xuất từ thời cũ nát KINH TẾ CHỈ HUY HOẠCH ĐỊNH. (ceb/ltl/dla/abl–AFP 110734 GMT DEC 12)

Bài viết này nhằm cắt nghĩa những lý do đưa đến tụt giốc Kinh tế và tan rã của Mô hình Kinh tế XHCN. Có những lý do thuộc nội tại của Mô hình. Có những lý do từ sự mất tin tưởng và từ sức ép của nền Kinh tế Tự do Thị trường nước ngoài. Những lý do ấy được trình bầy qua những điểm sau đây:

Đối lực làm tan rã mô hình như một định mệnh theo lý luận của Marx
Sự xâu xé giữa những nhóm lợi ích quyền lực trong đảng cầm quyền
Hiện tình suy thoái của Kinh tế Việt Nam và những biện pháp vá víu
Đối lực làm tan rã mô hình như một định mệnh theo lý luận của Marx

Lý luận của Karl Marx: TƯ BẢN tự hủy diệt

Ý thức hệ Cộng sản dựa trên lý luận của Karl Marx về Định mệnh Kinh tế Tư bản (Fatalité Economique Capitaliste). Kinh tế Tư bản đặt Tiền đề là TƯ HỮU. Vì tư hữu (Propríeté Privée) mà phải có Tự do kinh doanh (Liberté d’Entreprise) và rồi Tự do Trao đổi ở Thị trường (Libre Echange au Marché).

Karl Marx lý luận rằng nền Kinh tế Tư bản Tự do và Thị trường gồm những bóc lột của giới Tư bản đối với giới Lao động. Nền Kinh tế ấy vô sản hóa giới Lao động (Prolétarisation des Travailleurs) đến độ giới này chịu không nổi mà phải đứng lên làm Cách Mạng Vô sản đòi lại những Tư sản cho giới vô sản của mình. Dựa trên cách đo lường bằng sức Lao động cho những Giá trị sản phẩm Kinh tế mà nhà đại Kinh tế gia cổ điển Anh, David RICARDO, đã có sáng kiến đặt ra, Karl Marx nói đến việc đấu tranh của giới Lao động. Theo David RICARDO, Giá trị của một sản phẩm Kinh tế được đo lường bằng sức Lao động hội nhập vào sản phẩm. Tư bản vì vậy được coi là sự chiếm hữu sức Lao động từ giới Thợ thuyền để làm sở hữu của giới Tư bản. Giới này quay lại dùng Tư bản để bóc lột thêm giới Thợ thuyền nữa. Karl Marx gọi đây là vông thân Kinh tế (Alíenation Economique), nghĩa là Tư bản thuộc Thợ thuyền, nhưng Thợ thuyền đưa tặng cho giới Tư bản để rồi giới Tư bản quay lại bắt Thợ thuyền làm đầy tớ cho Tư bản.

Lénine lấy Lý luận này của Karl Marx làm ý thức hệ cho Cách Mạng Vô sản và kêu gọi đấu tranh giai cấp: NHỮNG NGƯỜI VÔ SẢN HÃY ĐỨNG LÊN ĐÒI LẠI TƯ BẢN CHO ĐOÀN NGŨ THỢ THUYỀN, dù bằng những biện pháp đẫm máu (Lutte des Classes sanglante). Nhưng giới Vô sản là đám đông, phải có một Nhóm người đứng ra quản trị những Tư sản vừa thu hồi được. Nhóm người này là đảng Cộng sản. Những Tư hữu trở thành Công hữu và do đảng Cộng sản nắm giữ, chỉ huy và làm Kinh tế. Đó là nền Kinh tế Chỉ huy (Economie Dirigiste) với Công hữu (Propríeté Collective) và với những Hoạch định Kinh tế của Nhà Nước (Plans Economiques Etatiques).

Theo dòng Lý luận của Karl Marx,
TƯ BẢN ĐỎ bóc lột cũng theo Dịnh Mệnh tự hủy diệt

Nếu Karl Marx gọi việc Vô sản hóa là một tiến trình tự động (Processus automatique) và việc sụp đổ của nền Kinh tế Tư bản là một Định Mệnh của chính Tư bản (Fatalité d’auto-destruction du Capitalisme), thì Lịch sử sự sụp đổ của Thế giới Cộng sản cũng cho thấy một Định mệnh tự hủy diệt của TƯ BẢN ĐỎ bóc lột giới vô sản, đó là việc tự sụp đổ của Cộng sản do chính giới Vô sản thiếu ăn đến cùng cực (Fatalité d’auto-destruction du Communisme/du Capitalisme rouge).

Thực vậy, trong lúc nền Kinh tế Tư hữu Tự do và Thị trường tiếp tục phát đạt và Tư sản hóa dần dần giới Lao động, thì nền Kinh tế Công hữu và Chỉ huy lại càng vô sản hóa giới Lao động đến cùng cực. Đến lúc mà giới Lao động này quá đói khổ trong một nền Kinh tế do đảng Cộng sản chỉ huy, thì họ đứng lên lật đổ nền Kinh tế chỉ huy này và đảng Cộng sản độc tài chỉ huy.

Nga và các nước Đông Aâu đã bỏ độc tài độc đảng và lấy lại nền Kinh tế tư sản Tự do và Thị trường.

Viet Nam và Trung quốc vẫn cố tình ngụy biện bám víu Ý thức hệ đã sai lầm lịch sử ấy. Dù cố tình ngụy biện vì quyền hành cho độc đảng của mình, nhưng cái Định mệnh tự hủy diệt vẫn lạnh lùng diễn ra.

Sau khi Nga và Đông Âu từ bỏ mô hình Kinh tế Tập quyền Chỉ huy, Trung quốc và Việt Nam khép kính của để cố thủ giữ lấy nội dung mô hình Kinh tế Cộng sản cũ khiến dân chúng đói nghèo đến cùng cực với việc khép kín. Trung Cộng và Việt Nam đành phải tuyên bố MỞ CỬA cho Thế giới Tư bản với nền Kinh tế tư sản Tự do và Thị trường.

Cái Định Mệnh Tự Hủy Diệt (Fatalité d’auto-destruction) cứ lù lù tiến tới và tăng tốc khi giai đoạn MỞ CỬA cho dân thấy sự thành công của Thế giới tư bản. Giai đoạn MỞ CỬA có những phát triển Kinh tế do sự làm ăn với Thế giới tư sản Tự do Thị trường. Đảng cố tình tuyên truyền rằng đó là công của đảng. Nhưng Dân chúng khám phá ra những tham nhũng và lãng phí có hệ thống của đảng, đó là kẻ thù của phát triển. Phải nói rằng sự phát triển hiện nay là do sự nhẫn nại làm ăn của Dân chúng Việt Nam, do nguồn vốn cung cấp hàng năm của khối người Tỵ nạn Cộng sản ở nước ngoài, do tiếp cận hạn hẹp làm ăn với Thế giới Tư bản. Chính đảng Cộng sản làm thất thoát và trì hoãn việc phát triển này mới đúng. MỞ CỬA và HỘI NHẬP với nền Kinh tế Thị trường tư bản, Kinh tế Trung quốc và Việt Nam có những thu nhập, nhưng những thu nhập này lại lọt vào tay những đảng viên cầm quyền khiến hố sâu Giầu—Nghèo mỗi ngày mỗi khơi rộng. Thu nhập Kinh tế nằm trong tay một thiểu số nhóm lợi ích TƯ BẢN ĐỎ, còn quần chúng thì bị bóc lột đến đói nghèo. Quần chúng đói nghèo này trở thành lớp VÔ SẢN mà lý luận của Karl Marx đã coi như giai cấp nồng cốt lật lại giai cấp TƯ BẢN dù XANH trước đây hay ĐỎ hiện nay. Việc đứng lên của giới VÔ SẢN lật lại TƯ BẢN XANH hay ĐỎ là một Định mệnh Tự hủy diệt (Fatalité d’auto-destruction).

Xin nhắc lại là đã từ năm 2010, chính Thủ tướng ÔN GIA BẢO, trước Quốc Hội Trung quốc họp ngày 14.03.2010, đã báo trước về Định mệnh tự hủy diệt này:

“L’inflation, plus une redistribution inéquitable des revenus et la corruption pourraient affecter la stabilité sociale et même la stabilité du gouvernement” (Lạm phát, thêm vào đó là một sự phân phối không đồng đều những thu nhập và tham nhũng có thể tác hại đến sự ổn định xã hội và ngay cả đến sự ổn định nhà nước” (Le Monde 16.03.2010, trang 16).

Sự xâu xé giữa những nhóm lợi ích quyền lực trong đảng cầm quyền

Cái Mô hình chủ trương Độc tài Chính trị nắm Độc quyền Kinh tế làm phát sinh và lan tràn THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ trong hàng ngũ đảng cầm quyền. Nếu cái Định mệnh tự hủy diệt, theo lý luận của Karl Marx, đến từ giới VÔ SẢN do TƯ BẢN XANH hay ĐỎ tạo ra, thì việc làm tan rã Mô hình Kinh tế XHCN hiện hành còn đến từ chính giới Lạnh đạo xâu xé nhau về THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ.

Trong Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản khóa XI được tổ chức tại Hà Nội vào đầu tháng 5 vừa qua, Nguyễn Phú Trọng nói chính yếu về vấn đề tham nhũng. Đó cũng chính là một trong những vấn đề quan trọng nhất được Ban chấp hành Trung ương đảng thảo luận trong suốt cuộc hội nghị kéo dài đến chín ngày. Trước đây, nhiệm vụ Phòng chống Tham nhũng được giao cho Nguyễn Tấn Dũng (Nhà Nước), nay việc đó được chuyển về chính Bộ Chính trị (Đảng). Khi nói đến việc chống Tham nhũng thì cả người trách nhiệm Đảng cũng như Nhà Nước đều lấy “Tinh thần Cách Mạng “ làm phương tiện để diệt Tham nhũng. Nhìn như vậy thì việc chống Tham nhũng không đi vào thực tế của vấn đề. Thực vậy, “Tinh thần Cách Mạng“ đã chết nghoẻo từ lâu rồi. Đảng (Bộ Chính trị) và Nhà nước (Nguyễn Tấn Dũng), từ thằng trên xuống thằng dưới đều THAM NHŨNG, thì làm thế nào đứng giữ trách nhiệm Phòng Chống Tham nhũng được. Đừng nói đùa để bịp bợm. Hãy vào sự thực căn gnuyên của THAM NHŨNG.

Nhân chi sơ, Tính tham lam

Năm 1964, cách đây gần nửa Thế kỷ, tôi bắt đầu hội nhập đời sống Chính trị Sinh viên tại Sài gòn, chống lại HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỨU QUỐC của Bác sĩ Lê Khắc Quyến khởi xướng từ Huế tràn vào Miền Nam. Một Vị lão luyện trong Chính trường đã khuyên tôi: “Khi cậu hoạt động Chính trị, thì phải tránh hai điều: (i) đừng động chạm đến những vấn đề lăng nhăng đàn bà con gái; (ii) đừng liên hệ đến những điều không sáng tỏ về tiền bạc. Khi tránh được hai vấn đề ấy thì quần chúng sẽ tha thứ, cho dù cậu có dốt về Chính trị “.

Ngày nay, suy nghĩ về hai vấn đề này, tôi thấy đây là hai vấn đề thuộc về thể xác từ khi chào đời, nghĩa là thuộc bẩm sinh. Có thể nói là “Nhân chi sơ, tính Dâm dục và Tham lam!”. Cuộc sống thân xác của một con người mang hai tính đó. Freud đã khẳng định rằng mọi hành động của một con người có thể cắt nghĩa từ tính Dâm dục. Tính Dâm dục là sự thỏa mãn thân xác cho xung động ham thích. Còn tính Tham lam của cải vật chất là để trước hết bảo toàn sự sống còn thân xác. Hai tính đó có ngay từ lúc con người mới sinh ra va mang cái xác con người. Khi lớn lên với Giáo dục, từ Văn Hóa đến Tôn Giáo, người ta dậy cho những GIÁ TRỊ thuộc phạm vi Tinh thần nhằm kềm chế hai cái Tính bẩm sinh thuộc Thân xác là Dâm dục và Tham lam vật chất. Vì vậy khi một đảng viên Cộng sản không còn Tinh thần Tôn Giáo, Văn hóa hay Cách Mạng, thì không còn phương tiện kềm chế hai tính bẩm sinh Dâm dục và Tham lam vật chất. Phòng chống Tham nhũng được trách nhiệm bởi Nhà Nước (Nguyễn Tấn Dũng) hay bởi Đảng (Nguyễn Phú Trọng), rồi cả hai lấy “Tinh thần Cách Mạng “ ra để chống, thì đều là chuyện mây gió bịp bợm.

Phải diệt cái Hoàn Cảnh làm Phát sinh và Lan tràn Tính Dâm dục và tính Tham lam

Hai cái Tính Dâm dục và Tham lam vật chất thuộc bẩm sinh con người, thì ở Xã hội nào cũng có giống nhau. Điều hệ trọng là Tổ chức Xã hội khả dĩ ngăn chặn sự phát sinh và triển nở hai cái Tính bẩm sinh ấy. Chúng tôi xin kể ra đây một vài tỉ dụ cho thấy rằng phải diệt cái HOÀN CẢNH làm nẩy sinh và phát triển tính Dân dục và tính Tham lam, chứ không phải diệt hai Tính bẩm sinh ấy.

Tỉ dụ thứ nhất về Tính dâm dục. Chúng tôi còn nhớ lại rằng khi sống tu trì trong Chủng viện, mỗi lần gặp khách đến thăm, nhất là phái nữ, thì phải gặp ở Phòng Khách mở cửa sổ quang đãng, mọi người có thể nhìn thấy. Thực vậy, cho dù một Thánh nhân, đã trải qua nhiều năm “diệt dục“, nhưng khi Thánh nhân bị nhốt trong phòng tối cùng với một mỹ nhân, không ai nhìn thấy, thì có ngày lòng Dục bẩm sinh nổi lên và Thánh nhân có thể hú hí với mỹ nhân.

Tỉ dụ thứ hai về Tính Tham lam vật chất. Một người được giáo dục và thực hành Công lý nhiều năm. Nếu lúc này cho người đó Quyền hành độc đoán sinh sát người khác và đặt bên cạnh người ấy một đống vàng, thì có lúc người đó cũng lượm mấy thỏi vàng vào túi làm của riêng bảo đảm cho cuộc sống thân xác của mình. Nếu ai nghi ngờ, thì người có quyền và đã biển thủ vàng sẽ dùng quyền độc tài mà bịt miệng kẻ khác. Điều quan trọng là đã tạo cho con người biển thủ trên đây cái HOÀN CẢNH vừa có quyền độc tài, vừa ngồi bên cạnh đống vàng. Xin nhắc lại rằng ở thời Mao Trạch Đông, quyền độc tài còn mạnh hơn thời nay, nhưng THAM NHŨNG ít hơn vì thời Mao Trạch Đông, không có đống vàng ở bên cạnh mà biển thủ, chứ không phải thời Mao Trạnh Đông được giáo dục về Công lý kỹ càng hơn.

Dứt bỏ Cơ chế CSVN là diệt HOÀN CẢNH làm nẩy sinh và phát triển THAM NHŨNG

Cơ chế CSVN chủ trương độc tài Chính trị nắm độc quyền Kinh tế. Đó là HOÀN CẢNH làm nẩy sinh tham nhũng, lãng phí. Không cần phải đưa Phòng chống tham nhũng từ Nguyễn Tấn Dũng về cho Nguyễn Phú Trọng. Cả hai đều không chống nổi tính Tham lam bẩm sinh tự con người, mà PHẢI TÁCH RỜI ĐỘC TÀI CHÍNH TRỊ RA KHỎI ĐỘC QUYỀN KINH TẾ thì mới có thể kềm chế được THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ. Nó giống như việc đừng nhốt chung trong Phòng tối một Thánh nhân và một Mỹ nhân, cũng như đừng cho một nhà Độc tài quyền hành Chính trị có toàn quyền về đống Vàng ở bên cạnh.

Chống THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ không phải là diệt tính bẩm sinh THAM LAM VẬT CHẤT của cá nhân, mà là diệt cái HOÀN CẢNH làm phát sinh và tràn lan tinh THAM LAM. Bãi phân là HOÀN CẢNH để nẩy sinh và lan tràn giòi bọ. Giao bãi phân cho Nguyễn Phú Trọng hay Nguyễn Tấn Dũng săn sóc, thì bãi phân vẫn là bãi phân, nghĩa là vẫn một HOÀN CẢNH, mà giòi bọ vẫn nhung nhúc. Phải HỐT ĐI BÃI PHÂN, thì giòi bọ mới hết chỗ (HOÀN CẢNH) nẩy sinh và lan tràn vậy.

Mô hình Kinh tế XHCN tạo ra THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ để tự đánh nhau giữa cấp Lãnh đạo làm suy thoái Kinh tế quốc dân. Phải đập tan cái Mô hình Kinh tế XHCN ấy vậy.

Hiện tình suy thoái của Kinh tế Việt Nam và những Cải tổ không đi vào căn nguyên

Từ cuối năm 2011 và nhất là đầu năm 2012, Ngân Hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Hội những Nhà Đầu tư đều lên tiếng thôi thúc Việt Nam cũng như Trung quốc phải Cải tổ tận căn nguyên mô hình Kinh tế đang tụt giốc trầm trọng đà phát triển của hai nước. Tìm hiểu căn nguyên của tụt giốc Kinh tế, chúng tôi đã viết nhiều bài nói rằng đó chính là THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ phát sinh và lan tràn như giòi bọ trong Cơ chế chủ trương độc tài Chính trị nắm độc quyền Kinh tế. Cải tổ tận căn nguyên, tức là dứt bỏ chủ trương Cơ chế như vậy. Nếu Cơ chế vẫn còn chủ trương độc tài Chính trị nắm độc quyền Kinh tế thì giòi bọ vẫn lan tràn ăn ruỗng Kinh tế. Nếu không dứt bỏ Cơ chế, thì tất cả những biện pháp Chính trị Kinh tế (Politiques Economiques) chỉ là vá váy đụp hời hợt.

Chúng tôi chờ đợi việc cải tổ mô hình Kinh tế Việt Nam xem có đi vào tận căn nguyên hay không. Trong tuần này, chúng tôi đọc được Bản Tin về việc hạ Lãi suất ngân hàng ở Việt Nam như biện pháp Chính trị Kinh tế cứu vãn việc tụt giốc. Theo phân tích tình trạng khủng hoảng Kinh tế không những tại Việt Nam mà còn toàn cầu, chúng tôi thấy rằng việc giảm Lãi suất của Việt Nam không những không phải là biện pháp cứu nguy Kinh tế, mà còn đạp thêm ga để chiếc xe Kinh tế mục nát CSVN đang tụt giốc lao nhanh hơn vào tử huyệt.

Tình trạng mục nát, tụt giốc Kinh tế hiện nay.

Bản Tin của VietBao tuần này tóm tắt tình trạng mục nát, tụt giốc Kinh tế trầm trọng của Việt Nam. Bản Tin viết:

“HANOI — Kinh tế khủng hoảng, dân cạn tiền tới mức nước mắm cũng không mua nổi.

Trang báo chuyên về kinh doanh VEF loan bản tin nêu rõ trên tựa đề: “Kinh doanh sụt giảm: Từ ôtô đến nước mắm.”Bản tin VEF cho biết, hàng tồn kho đang là mối đe dọa lớn nhất đến các DN. Vấn nạn lan tràn từ các ngành công nghiệp lớn như ô tô, xe máy đến những mặt hàng thiết yếu như… nước mắm. Sản xuất kinh doanh đang bế tắc và kinh tế chưa thể sớm thoát khó khăn.

“Trao đổi mới đây, ông Cao Sỹ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội DN nhỏ và vừa nhấn mạnh, vấn đề khó khăn nhất của các DN hiện nay là bí đầu ra. Bây giờ với nhiều mặt hàng thiết yếu người dân cũng không có tiền mua.”

Thê thảm là nước mắm cũng ứ đọng.

Bản tin VEF ghi nhận từ Hiệp hội nước mắm Nha Trang cho biết, các DN sản xuất nước mắm tại Nha Trang cũng đang phải giảm sản xuất. Cho dù phải thắt chặt chi tiêu, người tiêu dùng cũng phải mua nước mắm cho bữa ăn hàng ngày. Vậy mà trên thực tế, mặt hàng này cũng không tránh khỏi tình trạng tiêu thụ giảm sút. Tại Nha Trang, có nhiều DN nước mắm phải sản xuất cầm chừng từ đầu năm đến nay, nguyên nhân không gì khác là sức tiêu thụ chậm, sản phẩm ứ đọng.

Bản tin cho biết, theo bản khảo cứu của Ngân hàng HSBC, kinh tế VN đang cọ cụm, vì chỉ số PMI đã thấp hơn 50 điểm. Con số trên 50 điểm là tăng.

Bản tin viết, Chỉ số PMI (nhà quản trị mua hàng – Purchasing Managers Index) tháng 5/2012 do Ngân hàng HSBC công bố cho thấy điều kiện kinh doanh của ngành sản xuất tại Việt Nam vẫn đang xấu đi. Theo báo cáo này, chỉ số PMI ngành sản xuất đã giảm từ mức 50 điểm vào tháng 3 xuống còn 49,5 điểm vào tháng 4 và tiếp tục giảm xuống còn 48,3 điểm trong tháng 5/2012.

HSBC cho biết, những DN tham gia khảo sát cho rằng, nhu cầu trên thị trường đã giảm khá mạnh do người dân thực hiện tiết kiệm, thắt chặt chi tiêu. Bắt đầu từ các siêu thị, doanh số giảm đi vì người dân giảm sức mua, siêu thị hạn chế nhập hàng, khiến cho các nhà sản xuất hàng tiêu dùng cũng phải giảm năng lực sản xuất, nguồn cung phải giảm nếu không muốn lượng hàng tồn kho tăng lên.

“Hiện nay, tình trạng sản xuất đang giảm được ghi nhận ở hầu hết các ngành hàng từ dệt – may, giấy, da giày, nhựa, ô tô, xe máy, thép điện tử… Ngành dệt may, dù bước vào mùa cao điểm trong năm nhưng phần lớn các DN vẫn đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm đơn hàng. Hiệp hội Dệt may Việt Nam được biết, trước đây khi vào mùa vụ, các DN có thể thoải mái lựa chọn đối tác để làm nhưng nay thì ngược lại. Nhiều DN dệt may lớn, lượng đơn hàng giảm khoảng 5-10% so với cùng kỳ, còn DN nhỏ có thể thiếu hụt trên 10% đơn hàng.

Các ngành sản xuất khác như: xi măng, thép, ô tô, xe máy, thiết bị điện, thiết bị xây dựng… thì sản xuất đã giảm quá mạnh từ đầu năm tới nay. Nhiều ngành hàng giờ chỉ còn sản xuất chừng 50-60% công suất. Những ngành có lượng hàng tồn kho cao là đường ăn, sắt thép, xi măng, ô tô và xe máy… Đến xăng dầu cũng tồn kho là 106.000 tấn, cho dù Nhà máy lọc dầu Dung Quất đã tạm ngừng hoạt động để kiểm tra.

Thực tế đang cực kỳ bi thảm, theo lời một nhà quan sát, rằng đây là lần đầu tiên kể từ thời kỳ đổi mới, dân nghèo tới mức không có tiền mua nước mắm. Nghĩa là thất nghiệp đã trở thành hiện tựơng quan ngại. (VietBao)

Phân tích những lý do tụt giốc

CSVN ngoài lý do căn bản tụt giốc Kinh tế của Cơ chế CSVN hiện hành mà chúng tôi luôn luôn nhấn mạnh trong nhiều bài viết, đó là THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ ăn ruỗng những Tập đoàn Kinh tế quốc doanh, chúng tôi muốn phân tích những lý do đang làm độ phát triển Kinh tế chỉ còn 5.2% và tình trạng tồn đọng hàng hóa sản xuất khiến các xí nghiệp, cả quốc doanh lẫn tư doanh, phải từ từ đóng cửa.

Kinh tế Việt Nam cũng như Trung quốc lệ thuộc vào xuất cảng. Tình trạng co cụm sản xuất và và hàng hóa ứ đọng tồn kho là do luật CUNG và CẦU. Chính phía CẦU là động lực cho sản xuất (CUNG). Phía CẦU lệ thuộc chính yếu vào Mãi lực tiêu thụ. Nhìn như vậy, chúng ta thấy những lý do trực tiếp sau đây làm tụt giốc Kinh tế VN và TQ:

Tình trạng khủng hoảng Kinh tế của hai Thị trường lớn như Hoa kỳ và Liên Aâu làm cho Thất nghiệp tăng vọt. Mãi lực của dân chúng Hoa kỳ và Liên Aâu giảm hẳn xuống. Do đó việc đặt mua hàng Trung quốc và Việt Nam tất nhiên giảm xuống và làm cho hàng hóa TQ và VN không xuất cảng nổi để phải tồn đọng. Thêm vào đó, Nợ công của Hoa kỳ và Liên Aâu khiến hai khối Thị trường này phải đưa ra những biện pháp tiết kiệm, nghĩa là giảm tiêu thụ. Thất nghiệp làm Mãi lực dân chúng giảm và Nợ công khiến các quốc gia phải tiết kiệm. Tất cả trong chiều hướng cắt đi phía CẦU những hàng hóa sản xuất từ Trung quốc và Việt Nam.

Mãi lực dân chúng nội địa của Trung quốc và Việt Nam rất ít ỏi để có thể trợ lực cho phía CẦU nội địa. Trong khi ấy, vì muốn bảo vệ danh dự của Cơ chế, Trung quốc và Việt Nam gồng mình giữ độ phát triển và mức CUNG dồi dào. Mãi lực quốc tế giảm và Mãi lực nội địa không có, thì khó lòng giữ thăng bằng được giữa CUNG và CẦU. Do đó hàng tồn kho là hậu quả.

Các Thị trường lớn Hoa kỳ và Liên Aâu nay đã ý thức rằng tình trạng Thất nghiệp tại nước họ là do hậu quả của việc lan tràn hàng hóa Trung quốc. Chính vì vậy, để bảo vệ cho sản xuất của chính mình, Hoa kỳ, nhất là Liên Aâu đưa ra những Biện pháp Bảo Hộ Mậu dịch. Đây là việc càng làm giảm thiểu đi phía CẦU nhập cảng hàng từ Trung quốc và Việt Nam.

Đặc biệt Việt Nam, ngoài việc giảm CẦU do Mãi lực tiêu thụ quốc tế và quốc nội, Việt Nam còn bị hàng tồn đọng từ Trung quốc tràn xuống để giết chết sản xuất tại sân nhà. Để cứu sản xuất nội địa, các quốc gia phải ngăn cản nhập cảng hàng nước ngoài, trong khi ấy, Việt Nam bị tràn ngập hàng Trung quốc để cạnh tranh với chính hàng sản xuất nội địa.

GS Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 20.02.2014

CHUYỆN KHÔI HÀI

"


Đỉnh cao của trí tuệ..." soạn từ điển...đúng là...." phi ní.. lô.. đỉa "....
Thiếu cái giải nghĩa chữ... ĂN NẰM.... vừa ăn, vừa nằm <!!>

Những định nghĩa “khiếp đảm” trong Từ điển tiếng Việt dành cho học sinh


Theo anh N.Đ.C ( người chia sẻ bức ảnh này trên Internet) thì đây là nội dung cuốn từ điển do tác giả Vũ Chất biên soạn. Thậm chí, chính anh cũng nghi rằng đây có thể là một trò đùa chứ không có thật.
Bức ảnh sau khi được đăng tải khiến nhiều người phải bày tỏ quan điểm không đồng tình bởi nội dung giải thích từ ngữ có phần quá đơn giản, đôi lúc chỉ là việc ghép từ như một cách cơ học, thậm chí nhiều từ ngữ lại sai (thiếu) về bản chất.
Đối tượng hướng đến là cho các em học sinh, tuy nhiên cách giải thích như thế này sẽ khiến các em rất khó để hiểu hơn được, chưa kể hiểu sai về bản chất, hiểu phiến diện một số từ.
Ảnh bìa cuốn từ điển.
Xin đưa ra một số ví dụ trong bức ảnh được đăng tải có nội dung bên trong cuốn từ điển:
Đồn trưởng là trưởng đồn
Lâu đài là lầu và đền đài
Thơ ngây là ngây thơ
Cào cấu: vừa cào vừa cấu
Nắn bóp: nắn và bóp
Bế mạc: hết dứt buổi hát
Bản sắc: màu tự nhiên
Bóng đèn: Bóng làm bằng chai trong có tim đốt được bằng hơi điện.
Bia: tấm đá có khắc tên ngày giờ chết trước mả
Bồ bịch là bạn bè thân thích
Ngồi là đặt đít xuống chỗ nào 



Cụ thể, “Từ điển tiếng Việt dành cho học sinh”, tác giả Vũ Chất, do Nhà xuất bản Trẻ phát hành năm 2001. Và Thư viện quốc gia hiện có 1 cuốn từ điển này, được đánh ký hiệu là VN01.01948. 
Để xác minh việc này, người viết đã liên hệ đến Thư viện Quốc gia Việt Nam tra tìm xem liệu có cuốn sách này trong hệ thống lưu trữ quốc gia hay không? Chỉ sau vài phút tra cứu ở hệ quản trị thư viện điện tử tích hợp với từ khóa “Từ điển tiếng Việt dành cho học sinh” và tác giả “Vũ Chất”, chúng tôi đã có thông tin chi tiết cũng như số lượng của cuốn từ này hiện có tại đây




 DÙNG CUNG TÊN BẮN HẠ MÁY BAY MỸ NGỤY
Tui cũng tức cười té ghế luôn đây nè , may phước là chưa ăn cơm .

Đọc vào nội dung thì càng choáng váng hơn nữa khi bài báo cho biết Mỹ - Ngụy dùng "trực thăng đi bắn trâu, bò, lợn để cướp về ăn"!!!
( trích bài viết cuả Ngọc Nhi Nguyen , Dân Làm Báo , kính mời quý vị đọc )


Đúng như Ngoc Nhi Nguyen nói , bọn Mỹ nó chơi sang , nó dám lấy trực thăng đi săn ... trâu bò về ăn ( nó đói ) ha ha . Còn người sắc tộc Tà Ôi thì có tài làm cung nỏ , bắn ... rớt được máy bay Mỹ ( bài viết đăng trên báo quân đội nhăn răng đảng csVN đàng hoàng )

Thiệt là vc coi thường người dân quá ha ? Không hiểu bài này viết hồi nào , chắc là hồi ngoài bắc còn dùng mấy cái loa kèn méo mó , rỉ sét mà ra rả tuyên truyền rằng Mỹ nó ác , Ngụy nó nghèo , không có cái chén ăn cơm nên đồng bào miền bắc phải cắn hột muối làm hai , hột gạo làm tư mà gởi vào nuôi dân miền nam ! Ha ha , sau ngày 30/4/75 thì mấy chú dép râu vừa há hốc mồm vừa ngồi lê la hàng giờ ngoài chợ trời Saigon , gạ gẫm mua từng món hàng cuả bọn nghèo kiết xác miền nam , cột đùm cột túm đem ra "ngoải " ... khoe với hàng xóm . Hồi ấy " đài , đổng , đạp " rất được mấy chú "đội " chiếu cố . Nhớ không ?


TB : Thưa quý vị , tui mới xem kỹ lại thì thấy bài này đăng ngày 22/09/14 lúc 10:14 GMT+7 . Ông mẹ ơi ! Cái này là quá sức ... khôn rồi nhen , giông giống như hai cái triển lãm ( ế nhệ ) CCRĐ và tướng ( banh ) Giáp vậy . Khi không mà vạch áo cho người ta xem lưng hà . Hay tại cái " Đèn Cù " nó rọi kỹ quá chăng . Nhưng mà ngu dốt như tui cũng thấy được , SỰ THẬT lúc nào cũng là sự thật , dù có lấp liếm , che đậy thế nào thì cây kim trong bọc mà , có ngày cũng lòi chớ .
HY 

Dùng cung nỏ bắn hạ... máy bay 'Mỹ Ngụy'?! 

(Cảnh báo: Khi đọc bài này không nên ăn hay uống, coi chừng chết sặc!!)
Ngoc Nhi Nguyen (Danlambao) - Trong mục Khoa học - Nghệ thuật Quân sự của báo Quân đội nhân dân của đảng CSVN có 1 bài, dưới tiêu đề "Ông cha ta đánh giặc" mà đọc vào cái tựa đã muốn té ngửa "Dùng cung nỏ bắn hạ... máy bay"!!! 
Đọc vào nội dung thì càng choáng váng hơn nữa khi bài báo cho biết Mỹ - Ngụy dùng "trực thăng đi bắn trâu, bò, lợn để cướp về ăn"!!!

Má ơi, công nhận Mỹ Ngụy chơi sang thiệt! Bỏ tiền triệu ra sắm trực thăng, tốn tiền xăng, tốn công, tốn lính bay vào vùng miền núi để "săn" trâu bò về ăn thịt?? Giá 1 con trâu 1 con bò là bao nhiêu so với phí tổn cho 1 chuyến bay như vậy? Hay là "nhân dân ta" lúc ấy toàn nuôi trâu bò Kobe, cho ăn nhân sâm và nghe nhạc giao hưởng nên quý hiếm và mắc tiền đến nỗi Mỹ Ngụy phải tốn ngần ấy tiền và liều mạng vô cướp? 
Chưa kể con trâu, con bò Kobe của họ bao lớn? Bên trong khoang của 1 chiếc trực thăng nhỏ xíu, chỉ ngồi vừa 4 người kể cả phi công, cửa khoang cũng chỉ vừa 1 người chui lọt, chỗ đâu mà nhét cả con trâu vô hả trời??? Đã thế lại còn cần thêm "1 bọn lính" để "khiêng trâu" nữa mới ác!!! 
Đọc tiếp xuống dưới thì xuýt xỉu vì thấy kể "đồng bào ta" dùng cung và nỏ tự chế, bắn trọng thương phi công đang ngồi trong buồng lái khiến "phi công loạng choạng, điều khiển máy bay đâm vào núi, nổ tung..."!!!
Thiên địa quỷ thần ơi! Cung và nỏ tự chế của "nhân dân" làm bằng cái thứ chi mà kinh khủng vậy trời? Bắn theo kịp cả tốc độ trực thăng và xuyên thủng cả kính chống đạn để làm trọng thương phi công??
Đề nghị đảng cho bà con dân tộc Tà Ôi này chế thêm cung nỏ đi, đem ra bắn tàu Trung Quốc xâm lược coi bộ hiệu quả hơn mấy con Kilo với tuần dương hạm á!!
Cái này là bó toàn thân luôn rồi!!



NGUỜI VIỆT LY HƯƠNG *XA HÀ NỘI

Nhớ về 60 năm Ngày chia xa Hà Nội (8/1954 - 8/2014)

Hà Nội -1954. Mùa xuân với khung cảnh ngoạn mục hoa đào, liễu rủ, muôn hoa khoe sắc màu muôn hồng ngàn tía và những thú vui, hội hè tuyệt vời trong những ngày Tết của người dân Hà Nội dần qua khi những búp lá non, nõn nà màu đọt chuối phát triển trưởng thành mang màu xanh đẹp tươi, cùng với những nụ hoa hàm tiếu trên cành báo hiệu mùa hè đang đến.

Học sinh chúng tôi tựu trường sau những ngày nghỉ tết tràn đầy niềm vui để bước vào học kỳ Đệ Nhị Lục Cá Nguyệt, những bài thi thường kỳ trong lớp để rồi chuẩn bị cho kỳ thi tiểu học đang đến. Vào thời gian này, tôi đang học Lớp Nhất, Trường Tiểu Học Mạc Đĩnh Chi, nằm ven bên bờ hồ Trúc Bạch, Hà Nội. Đây là năm thứ hai tôi học ở đây; trước đó, tôi học tại Trường Tiểu Học Nguyễn Công Trứ, Hàng Than, cũng hai năm. Vì sĩ số học sinh Trường Nguyễn Công Trứ quá đông và Trường Mạc Đĩnh Chi mới được thành lập nên một số học sinh khá lớn tuổi từ các trường khác được tuyển chọn chuyển qua trường mới mở.
Bố Mẹ, hai chị, hai em và tôi

Sống với gia đình, ăn học êm đềm, yên ấm ở Hà Nội thật là sung sướng, lý tưởng, nhưng tôi đã khá lớn để hiểu biết chiến tranh Việt Minh-Pháp mỗi ngày thêm ác liệt. Mỗi buổi tối, Bố Mẹ, hai Chị và Anh Em chúng tôi quây quần bên mâm cơm gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Bố tôi thường kể chuyện xã hội, chuyện lịch sử Việt Nam thời cận đại, chuyện Tổ Tiên, chuyện Công Dân Giáo Dục, chuyện Việt Minh là Cộng Sản trá hình; những câu chuyện do Bố tôi kể chính là những bài học vô giá đối với tuổi thơ của tôi.

Một buổi chiều, sau khi từ sở làm trở về nhà, Bố tôi kể cho cả nhà nghe về trận chiến đẫm máu giữa một bên là Việt Minh và bên kia là Quân Đội Pháp tại một cứ điểm do Quân Đội Pháp thiết lập tại khu lòng chảo Điện Biên Phủ, cách xa Hà Nội 300 km về phía Tây. Trận chiến này ngay lập tức thu hút mọi sự chú ý của người dân Việt Nam, đặc biệt là Hà Nội.

Hàng ngày, sau khi tan học về nhà, tắm rửa xong xuôi, tôi ôm tờ nhật báo Giang Sơn do Bác Sĩ Hoàng Cơ Bình làm chủ, đọc say mê tin chiến sự. Kế đó, buổi tối, chúng tôi nghe các đài phát thanh Hà Nội, BBC, Pháp Á loan tin sốt dẻo về trận đánh tại Điện Biên Phủ. Bố tôi cho biết Quân Đội Pháp chuyển quân rầm rộ, liên tục bằng đường hàng không từ các phi trường Bạch Mai, Gia Lâm, Hà Nội; Cát Bi, Hải Phòng lên Cứ Điểm Điện Biên Phủ. Trận đánh Điện Biên Phủ làm lu mờ tình hình chiến sự tại Miền Trung, Cao Nguyên Trung Phần và Nam Phần.

Do theo dõi những trận đánh giữa Việt Minh và Quân Đội Pháp, và Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, trên báo chí, radio, tự nhiên, tôi bỏ hết không đọc tiểu thuyết kiếm hiệp Tàu với những tráng sĩ suốt đời phò nguy cứu khổ, diệt kẻ gian tà như Võ Mộng Giao, Thường Ngộ Không, Thần Hành Vô Ảnh, Phán Quan Bút… múa kiếm như tia chớp, phi hành như chim bay. Tôi thích thú nhìn ngắm Anh Kiểm, người anh láng giềng ở ngôi biệt thự lầu kế bên số 29 Hàng Bún Dưới, Hà Nội. Anh Kiểm là một Hạ sĩ Quan thuộc một đơn vị Nhảy Dù Việt Nam. Mỗi khi Anh về phép, mặc bộ quân phục hoa dù, mũ đỏ, giầy saut trông Anh thật hiên ngang oai hùng không chịu được. Tôi cũng chú ý đến Anh Giao, Trần Hữu Giao, từ Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam-Đà Lạt, hát bài “Người Em Nhỏ” của Anh Nguyễn Hiền, được tiếp âm trên làn sóng đài Phát Thanh Hà Nội; Anh Nguyễn Quang Đính, Tốt Nghiệp Trường VBQGVN, ngành Thông Vận Vinh; Anh Anh Hoa, nhạc sĩ: tất cả là những người Anh Quân Đội, ở Hà Nội. (1)

Đầu tháng 5, tôi đã thi xong kỳ thi tiểu học và nghỉ hè, chuẩn bị cho kỳ thi tuyển vào Trung Học.

Bất ngờ, tin Điện Biên Phủ thất thủ được loan truyền, Tướng Tư Lệnh chỉ huy cứ điểm Điện Phủ, de Castries đầu hàng tại Hầm chỉ huy. Lập tức người dân Hà Nội bị chấn động, bàng hoàng, thất vọng sâu xa. Trong số những người dân ghê sợ Việt Minh có gia đình chúng tôi. Và từ đó, gia đình tôi cũng như bao người dân quốc gia khác sống trong lo lắng bất an.

Trước đó, vào cuối Tháng 4, khi quân Việt Minh-Pháp đang quần thảo với nhau ở Điện Biên Phủ, các cường quốc đã họp tại Genève, Thụy Sĩ để bàn luận về Hòa Bình ở Triều Tiên và Đông Dương. Nhưng đến đầu Tháng 5, hội nghị chỉ bàn về Đông Dương. Ngay khi Điện Biên Phủ thất thủ, Hội Nghị Genève về Đông Dương được khai mạc chỉ một ngày sau. Trong thời gian này, chính phủ Việt Nam do Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lãnh đạo đã chuẩn bị cho một cuộc di cư vĩ đại cho hàng trăm nghìn người dân từ Miền Bắc vào Miền Nam, chưa từng có trong lịch sử Việt Nam.              

Cả thế giới và đặc biệt người dân Việt Nam theo dõi hội nghị Genève, Thụy Sĩ được thảo luận giữa các nước tham gia Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Xô Viết, Trung Cộng, Việt Minh, Quốc Gia Việt Nam, Lào, Campuchia, đến ngày 20/7/1954, Hội nghị Genève bế mạc với một bản hiệp định ra đời. Trong đó có một điều khoản rất quan trọng: Nước Việt Nam tạm thời chia hai, lấy Vĩ Tuyến 17 (Sông Bến Hải) làm giới tuyến quân sự tạm thời. Việt Minh ở Miền Bắc. Quân Đội Liên Hiệp Pháp và Quốc Gia ở Miền Nam. Người dân có quyền lựa chọn, và đến miền nào mình muốn sống. Thời gian thi hành cho người dân hai miền, vào Nam, ra Bắc là 300 ngày.

Mọi chuyện đã trở nên rõ ràng cho kẻ ở, người đi. Bố Mẹ tôi không phải suy nghĩ gì, không có chọn lựa nào khác, quyết định vào Nam sống dưới chính thể quốc gia, tự do.

Đây không phải là lần di cư đầu tiên của gia đình Bố Mẹ tôi trốn chạy và lánh xa Việt Minh. Lần thứ nhất, Tháng 8 năm 1949, sau khi trốn tránh Việt Minh trong 2 năm dài, Bố tôi đã can đảm dẫn Mẹ tôi và chị em chúng tôi ra đi từ tờ mờ sáng ở một ngã ba ven sông gần quê hương của Hai Bà Trưng (Làng Hạ Lôi, Huyện Đông Anh, Tỉnh Phúc Yên) để đến một đồn của Quân Đội Pháp nằm ven Sông Hồng, để xin hồi cư về Hà Nội. Trên chuyến tàu được ghép lại bằng ba chiếc sà lan của QĐ Pháp xuôi giòng Sông Hồng về Hà Nội, gia đình chúng tôi trắng tay. Chỉ chạy lấy người, không vật dụng, tài sản, đồ tế nhuyễn.

Lần này cũng thế, quyết định di cư vào Nam, gia đình tôi không bán tài sản, đồ đạc, vật dụng gì. Âm thầm sống như bình thường, không cho ai hay biết, bất kể thân sơ, trong khi đó, tin di cư đã loan truyền công khai, chẳng ai cần dấu diếm. Những gia đình sẽ di cư mang đồ đạc, thôi thì đủ thứ thượng vàng, hạ cám như tủ chè, sập gụ, giường, bàn ghế, nồi niêu xoong chảo bày la liệt tạo thành chợ trời trên hè phố Hà Nội, thủ đô ngàn năm văn vật Việt Nam. Kẻ bán người mua tấp nập. Có những người thấy đồ đạc đẹp, sang trọng mua về để dùng, những người khác thì mua đi bán lại kiếm tiền. Nhiều gia đình thượng lưu, trí thức quanh hồ Ha Le (hồ 7 mẫu) cũng đem đồ vật, hàng hóa quý giá bày ra la liệt bên bờ hồ. Riêng những gia đình ở Phố Hàng Bún Dưới sống trầm lặng, không tỏ ra dấu hiệu động tĩnh gì về việc đi hay ở. Khu phố Hàng Bún Dưới không có ai mang đồ đạc ra bán ngoài chợ trời.
Chợ trời ở Hà Nội
Bà Nội tôi, một Cụ bà 80 tuổi nghe tin di cư, từ quê nhà Tiên Xá, Tiên Lữ, Hưng Yên lên Hà Nội thăm con, cháu. Bố tôi là con trai út trong ba người con trai, do đó Bố tôi được Ông Bà Nội nuông chiều hơn các Bác. Bà Nội tôi dáng dấp gầy yếu, mặc áo the dài màu đen, tóc chít khăn đen, tay xách một túi xách đựng nhãn, vải Hưng Yên làm quà cho con, cháu. Vừa bước vào nhà, Bà tôi đã khóc, nước mắt của Mẹ già phải xa lìa con cháu vì loạn nước. Không đợi cho Bố Mẹ tôi mở lời, Bà Nội tôi nói chuyến này Bà ra HàNội để thăm các con, các cháu. Bà Nội tôi nói: “Mẹ đã già rồi không thể ra đi với các con và không thể bỏ làng quê ra đi vì phải chăm sóc mồ mả Tổ Tiên.” Bà Nội Tôi, Mẹ tôi cùng khóc. Những giọt nước mắt nhỏ xuống vì tình thiêng liêng máu mủ ruột mềm, vì tình quê hương làm buốt nhói tim tôi và và niềm uất hận Việt Minh suốt đời tôi. Vài ngày sau, Bà Nội chúng tôi về quê. Từ đó, chúng tôi vĩnh viễn mất Bà Nội. Vĩnh viễn không bao giờ gặp nữa!

Môt tuần sau, Cậu tôi, người Em trai duy nhất của Mẹ tôi trong một gia đình có bốn chị em gái và một em trai từ nhà quê ở quê ngoại, Phúc Yên ra Hà Nội thăm gia đình tôi. Trước đây, Cậu tôi là sĩ quan Bảo Chính Đoàn, đồn trú ở Gia Lâm, sau đó giải ngũ về quê.

Trong bữa cơm chiều, Cậu tôi nói: “Thưa Anh Chị, nước nhà đã độc lập, hòa bình, Em ra đón Anh Chị và các cháu về quê xum họp với gia đình. Đừng di cư vào Nam xa xôi cách trở. Thầy cũng đã già quá rồi!”

Bố tôi buồn rầu, yên lặng không nói gì, nhưng Mẹ tôi trả lời: “Cậu về thưa với Thầy, để Anh Chị tính.”

Qua ngày sau, Cậu tôi trở về quê. (2)

Biết bị săn đuổi và Cậu tôi chỉ là một con tin trong tay Việt Minh, Bố tôi lo hồ sơ thu xếp cho gia đình ra đi càng sớm càng tốt. Cầu không vận cho cuộc di cư do QĐ Pháp bắt đầu vào ngày 10/8/1954, thì cuối hạ tuần Tháng 8 gia đình tôi được báo tin lên đường.

Vào một buổi tối khi đường phố đã lên đèn, gia đình chúng tôi âm thầm chuẩn bị ra khỏi nhà. Bố Mẹ, các chị tôi mỗi người xách một tay nải (túi vải) đựng quần áo. Tôi xách theo một cặp táp, đựng 4 cuốn vở, mỗi cuốn là tập vở học của tôi ghi Việt Sử, Địa Lý, Khoa Học Thường Thức và Công Dân Giáo Dục, lớp Nhất, Trường Tiểu Học Mặc Đĩnh Chi. Đấy là tài sản yêu quý của tôi, những kỷ niệm thân ái của tôi. Một hộp giấy các tông, trong có một con chim sáo đen còn non, tôi đã nuôi từ khi nó còn nhỏ; con sáo chưa biết bay, tôi không thể thả cho nó về khung trời thiên nhiên tự do, lại càng không thể cho bạn bè vì Hà Nội đang cơn đại họa.

Tôi ra cổng, đứng trên thềm vỉa hè, giơ tay đón lần lượt 4 chiếc xe xích lô. Ngay lập tức, Bố Mẹ tôi, các Chị và hai Em tôi từ trong nhà ùa ra, lên xe. Bốn chiếc xe xích lô chạy nối đuôi nhau đi ngược phố Hàng Bún Dưới, quẹo trái trên đường Quan Thánh, qua Vườn Hoa Hàng Đậu, qua phía sau chợ Bắc Qua, đi dọc theo bờ Sông Hồng, qua Vườn Hoa Con Cóc, chẳng bao lâu, đến Tòa Thị Chính Hà Nội. Đây là địa điểm tập trung dân Hà Nội di cư vào Nam. Gia đình tôi vào khuôn viên Tòa Thị Chính, vào một phòng tạm nghỉ để chờ sáng mai có xe cam nhông của QĐ chở ra phi trường.

Trời về khuya, không muốn ngủ, tôi xin phép Bố Mẹ ra ngoài chơi. Từ Tòa Thị Chính, tôi lần ra Hồ Gươm. Nơi đây từng là chốn thân mến, quen thuộc của chúng tôi: khi thì đi dạo chơi vào thời gian Tết, khi thì cùng các bạn học cùng trường đi gắn anh-xi quyên tiền cho các nạn nhân bị thiên tai bão lụt, khi thì đi dạo quanh hồ xem người ta câu cá bống ria bờ vào cuối tuần.

Tôi đứng yên dưới chân Tháp Bút, gần đó là Cầu Thê Húc, Đền Ngọc Sơn; Chính giữa là Tháp Rùa, giữa sóng nước trong xanh, trơ gan cùng tuế nguyệt. Phía sau, bên kia đường là rạp ciné Philharmonique, nơi tôi thường xem phim trong những ngày nghỉ lễ, cuối tuần. Phía trước mặt, bên kia bờ hồ là Nhà Thủy Tạ, Quán Mụ Béo, đèn màu sao sa, lấp lánh. Sâu hơn nữa, rạp Ciné Lửa Hồng, nơi tụ họp thân thiết của thanh thiếu niên Hà Nội để xem phim Tarzan, Cow Boy, Zorro, Giác Đấu La Mã thời xưa.

Tôi, một thiếu niên mười bốn tuổi, được đi học rất trễ, vừa học xong bậc tiểu học. Trong một đêm khuya giữa đất trời Hà Nội, đứng đây bên Hồ Gươm lịch sử, trái tim của đất Thăng Long nghìn năm văn vật, cảm thấy tâm hồn mình tan nát, trái tim tôi rướm máu, uất hờn.

Tôi nhớ lại, Tháng 8 năm 1945, tuổi thơ của tôi bị Việt Minh cướp đoạt khi họ nổi lên cướp chính quyền, Bố tôi đã bị chúng bắt, may nhờ có một thanh niên là con một người tá điền của Ông Ngoại tôi cứu thoát.

Hai năm sau, 1947, toàn thị xã Phúc Yên, trong đó có nhà Bố Mẹ tôi bị Việt Minh phá hủy thành bình địa dưới chính sách ‘Tiêu thổ kháng chiến’. Từ đó, tôi mất ngôi nhà thân yêu có cây phi lao reo vui ngoài cổng, có giàn hoa chùm ớt đỏ tươi che nắng từ cổng vào nhà. Tôi mất Phố Đệ Nhị Phúc Yên, mất sân chơi là khuôn viên Dinh Tuần Phủ, nơi Cha Mẹ đỡ đầu tôi làm việc, mất Giòng Sông Tiền Châu hiền hòa, bên kia sông khi mùa vải về, có tiếng chim ‘Tu hú’ kêu vang. Tôi mất ngôi chùa đầu thị xã có sân gạch tàu rộng từng là nơi những người bị nạn đói kéo đến tập trung để được phát cháo trắng qua ngày mà tôi là một cậu bé năm tuổi đi theo Bố tôi đến nấu cháo phát chẩn; mặc dù còn bé, nhưng tôi cảm thấy rất vui khi được mang từng bát cháo trắng cho mỗi người; và tôi biết tôi đã làm được điều gì tốt lắm. Sau đó, tôi đã mất hẳn nơi chôn nhau cắt rốn, ngôi nhà thân yêu của tuổi thơ. Vĩnh viễn!

Để rồi bây giờ năm năm sau, 1954, tôi lại mất Hà Nội.

Hà Nội với muôn nghìn kỷ niệm trong sáng, đẹp tươi đầu đời của một thiếu niên vừa được hồi sinh dưới chính thể quốc gia tự do.

Từ ngôi trường tiểu học Nguyễn Công Trứ ban đầu, tôi được khai tâm, mở trí: tập đọc, tập viết; được nhiều thầy giáo truyền dạy những môn kiến thức phổ thông, vệ sinh thường thức, công dân giáo dục, toán. Tôi yêu thích môn địa lý với lời mở đầu “Nước Việt Nam hình chữ S trải dài từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, có hàng nghìn cây số dọc theo bờ biển Thái Bình Dương với biết bao tài nguyên, khoáng sản quý giá.”

Đặc biệt, môn lịch sử đã hun đúc cho tôi một tình yêu nước vô bờ, một lòng tôn kính Tổ Tiên bất diệt bởi vì trùng trùng những bậc Anh Hùng, Liệt Nữ đã đổ biết bao mồ hôi, tim óc, máu xương để đánh đuổi ngoại xâm, mở mang đất nước. Tâm hồn tôi thắm đượm giòng lịch sử Việt, khởi đi từ huyền sử ‘Con Rồng Cháu Tiên’, với một bọc trăm trứng, trăm con triều đại Hồng Bàng, 18 đời Vua Hùng. Tôi say mê học huyền sử sự tích ‘Thánh Gióng,’ cậu bé đánh Giặc Ân, với dấu tích hàng trăm ao, chuôm mang hình móng ngựa xung quanh vùng Sóc Sơn, nơi Thánh Gióng về Trời. Truyện Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, Truyện Trầu Cau, Bánh Dày, Bánh Chưng đời Vua Hùng. Tôi cũng đã say mê với mối tình lãng mạn, đau thương của Trọng Thủy, Mỵ Châu với lông ngỗng rắc dọc đường bôn tẩu theo vua cha, và giếng ngước oan tình trong thành cổ Cô Loa, nơi quê hương tôi. Trong tâm hồn trẻ thơ, tôi nao nức khi Hai Bà Trưng cùng nghĩa quân đánh đuổi viên Thái Thú Tô Định tham tàn, khai mở nền độc lập tự chủ đầu tiên cho dân tộc Việt sau bao năm nhà Hán cai trị nước ta. Tôi khâm phục hào khí anh hùng của tể Tướng Lữ Gia, chém đầu tên nội gián Cù Thị. Tôi hồi hộp theo dõi những cuộc nổi dậy chống lại giặc ngoại xâm của những anh hùng Lý Bôn, Lý Bí, Phùng Hưng; Bà Triệu với câu nói khẳng khái bất hủ ngàn thu: "Ta muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng-kình ở biển Đông, quét sạch bờ cõi để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu còng lưng làm tì thiếp cho người." Tôi thích thú với chiến thắng quân Hán trên giòng sông Bạch Đằng của Ngô Quyền. Chỉ một trận ra quân, đánh tan chiến thuyền giặc, bắt sống Thái Tử Hoằng Thao, chém đầu để tỏ rõ tinh thần không khiếp sợ của dân tộc; dựng nên triều đại Nhà Ngô, mở ra thời kỳ độc lập, tự chủ cho dân tộc sau hơn 11 thế kỷ bị quân Tàu xâm lược, cai trị. Kế tiếp, Đinh Bộ Lĩnh với Cờ Lau tập trận, dẹp yên 12 Sứ Quân, dựng nên cơ đồ Nhà Đinh; rồi Lê Hoàn, dựng nên Nhà Tiền Lê, phá Tống, phạt Chiêm, chém đầu Hầu Nhân Bảo tướng nhà Tống ở Chi Lăng. Sau đó, Lý Công Uẩn lập ra Nhà Lý, tuyên bố thấy Rồng Vàng ở Thành Đại La, nên nhà vua rời kinh đô cũ ở Hoa Lư về La Thành, đổi tên là Thăng Long, mở ra nền thịnh trị lâu dài với chiến công hiển hách, phá Tống, bình Chiêm. Trong thời đại này, danh tướng Lý Thường Kiệt đã để lại bài thơ bất hủ khi đánh Tống “Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư, Tiệt Nhiên định phận tại Thiên Thư, Như Hà nghịch Lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thử bại hư.” Bài thơ như một bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam với quân thù phương Bắc. Qua đời Nhà Trần với ba lần đại phá Quân Nguyên-Mông, với những danh tướng lẫy lừng thiên cổ như Trần Hưng Đạo, Trần Khánh Dư, Trần Quang Khải… “Đoạt giáo Chương Dương Độ, Cầm Hồ Hàm Tử Quan,” những trận chiến thắng dữ dội trên Sông Bạch Đằng của đạo quân ‘Sát Thát’. Tiếp theo là nhà Hậu Lê với người Anh Hùng áo vải Lê Lợi cùng danh thần Nguyễn Trãi, sau mười năm nằm gai nếm mật, đã đánh thắng quân thù dựng nên nghiệp cả, chỉ một trận ra quân chém bay đầu danh tướng Liễu Thăng, nhà Minh tại Ải Chi Lăng.

Đã hai lần Sông Bạch Đằng là mồ chôn mộng xâm lăng của quân Tàu, cũng đã hai lần những danh tướng Tàu Hầu nhân Bảo, Liễu Thăng bị chém bay đầu tại Ải Chi Lăng, nhưng các nhà quân sự Tàu vẫn không chịu học những bài học thất bại đắng cay, vẫn xua quân vào chỗ chết. Tôi đã ngậm ngùi biết bao khi học lịch sử về Trịnh Nguyễn phân tranh. Vua Lê, Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Những cuộc sát phạt tương tàn giữa Chúa Nguyễn Ánh và người anh hùng áo vải cờ đào Nguyễn Huệ, trải dài từ Nam ra Bắc; để rồi lịch sử Việt Nam chống ngoại xâm lại bùng lên sáng chói với Anh Hùng Nguyễn Huệ, đánh tan thù trong, giặc ngoài. Trong Nam phá tan quân Xiêm La, ở Rạch Gầm, Xoài Mút; ngoài Bắc đánh tan đạo quân Thanh 20 vạn củaTổng Đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị, dưới triều đại lẫy lừng Nhà Thanh của Hoàng Đế Càn Long. Trong trận chiến thần tốc đại quân Nam đã phá tan các tiền đồn Hà Hồi Ngọc Hồi, kế tiếp tướng Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vận tại Gò Đống Đa. Ngày 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu 1789, Hoàng Đế Quang Trung cùng đại quân đã vào thành Thăng Long. Chấm dứt vĩnh viễn tham vọng xâm lược Việt Nam của Nhà Thanh.

Chẳng bao lâu sau, Dưới triều đại Nhà Nguyễn, quân Pháp từ bên kia đại dương đã đánh phá và xâm chiếm Việt Nam, những vị vua Anh hùng Nhà Nguyễn Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân và Phong Trào Cần Vương thất bại, những Anh hùng hào kiệt kháng Pháp trong Nam có Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân; ngoài Bắc có Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Thái Học, Cô Giang, Cô Bắc; miền Trung có Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Trần Quý Cáp, đều thất bại, đền nợ nước; những vị quan Anh hùng Hoàng Diệu, Tổng Đốc Hà Nội; Phan Thanh Giản, tuẫn tiết để tỏ lòng trung quân, ái quốc. Tất cả những vị Anh hùng, Liệt nữ hữu danh hoặc vô danh đều là những tượng đài uy dũng trong lịch sử Việt Nam.

Tháng 8 năm 1945, Việt Minh cướp chính quyền, giòng lịch sử Việt Nam sang trang. Một trang sử khác vô cùng thê thảm và đen tối bắt đầu. Một kỷ nguyên mới của tàn phá, hủy diệt lộ nguyên hình dưới một học thuyết ngoại bang và một chế độ phi nhân đầy tham vọng. Trên bước đường thực hiện tham vọng cầm quyền toàn trị, Việt Minh đã thẳng tay tiêu diệt bất cứ cá nhân hay tổ chức nào không theo chủ nghĩa Mác-Lê của chúng; Việt Minh đã hủy diệt nhà cửa, ruộng vườn, sự sống của người dân dưới chiêu bài đánh Pháp Giành Độc Lập của chúng. Bố tôi, một người dân bình thường cũng suýt nữa trở thành nạn nhân của chúng; thị xã Phúc Yên trở thành bình địa dưới chính sách ‘Tiêu Thổ Kháng Chiến’của chúng; những người dân bị chúng xử tử hình tại Phúc Yên đều đã trở thành những nạn nhân điển hình của sự huỷ diệt của Việt Minh thời đó; đã gieo vào đầu óc non trẻ của tôi một ấn tượng không nhạt phai.

Thực sự, tôi biết Việt Minh là kẻ huỷ diệt từ Tháng 8 năm 1945; một ‘Mùa Thu Chết’ từ dạo đó.

Bây giờ tôi đang đứng bên Hồ Gươm lịch sử với Rùa Thần và thanh bảo kiếm, với người Anh hùng nông dân Lê Lợi, trong một đêm khuya giữa lòng Hà Nội. Chỉ còn vài giờ nữa, khi ánh bình minh chiếu sáng rạng ngời trên mặt nước hồ Gươm trong xanh, là chấm hết một ‘Giấc Mơ Hà Nội’.

Tôi sẽ mất hết không còn gì (chỉ còn trong tâm tưởng) Núi Nùng, Sông Nhị, Hồ Trúc Bạch, Hồ Tây, Hồ Bảy Mẫu, Nghi Tàm, Quảng Bá, Đường Cổ Ngư rợp bóng phượng vĩ nở hoa tươi màu đỏ, tiếng ve reo như một dàn nhạc đại hòa tấu bất hủ trong mùa hè; không còn nghe chuông Chùa Trấn Quốc vang xa; không còn tới lui vui chơi Đền Quan Thánh, Sở Thú, Ao sen với muôn nghìn con cá đuôi cờ Tam Tài Xanh Trắng Đỏ xinh đẹp; Chùa Một Cột có từ thời cuối triều đại nhà Lý; trại Hàng Hoa, Làng Đào Nhật Tân, Trường Viễn Đông Bác Cổ, Chợ Đồng Xuân, Đền Voi Phục, Gò Đống Đa, Ô Cầu Giấy, địa danh nổi tiếng do Quân Việt và Quân Tưởng đánh thắng Quân Pháp hai trận, khiến cho Đại Uý Francis Garnier tử trận đầu tiên và Đại Tá Henri Rivière, tử trận lần thứ hai.

Tôi không còn được nhìn ngắm tường thành Cửa Bắc thành phố Hà Nội được xây dựng bằng những tảng đá xanh to lớn, có chỗ đã thủng một lỗ to do đạn đại bác tấn công, Hà Thành thất thủ, khiến Tổng Đốc Hoàng Diệu tự ải. Tôi không được đi dưới những tàn lá me xanh rợp bóng trên đường Quan Thánh; không được nghe tiếng chuông tàu điện kêu leng keng; không ra chơi ngoài đê Yên Phụ, bãi Phúc Xá ven sông Hồng để nhìn ngắm ngôi thánh đường loang lổ vết đạn dấu tích của cuộc chiến tranh Việt Pháp tại Hà Nội năm 1946 đến nay; không còn đến thăm Quốc Tử Giám và Văn Miếu, chiêm ngưỡng hàng chục bia đá khắc tên và sự nghiệp của các Tiến Sĩ thời xưa và xem những họa sĩ miệt mài vẽ tranh trên khung vải dưới những tàn cây xoài cở thụ cành lá xum xuê; không còn được ngửi mùi thơm thanh khiết của hoa lan Tây bên biệt thự hai tầng số 25 và ngắm hoa nhãn, hoa ngâu bên biệt thự hai tầng số 29 Hàng Bún Dưới; không còn được nghe chim chích chòe, chim vàng anh hót trên chót vót cây bàng lá xanh đổi màu tía khi mùa thu đến và tiếng chim khuyên hót ríu rít líu lo trên cành cây hoa sữa trước cửa nhà các bạn Lê Bá Điệp, Lê Bá Chữ số 20 và nhìn cây hoa Ngọc Lan trổ hoa thơm ngát trong vườn nhà bạn Trường, số 22 cùng phố. (3)

Sau cùng là xa cách các bạn cùng phố: dãy bên số chẵn có các bạn Trương Văn Chinh, Trương Trọng Trác, Lê Bá Điệp, Lê Bá Chữ, Uy, Trường, Tuyên, và các bạn Thông, Tòng, Bách, Bang bên số lẻ. Xa hơn một chút là các em Đinh Thị Kim Oanh, Đinh Thị Kim Yến, Đinh Mạnh Tuấn, Đinh Mạnh Dũng ở Phố Phạm Hồng Thái. Tất cả rất gần mà lại hóa ra nghìn trùng xa cách.

Tôi nghĩ đến Phúc Yên thành phố quê nhàcủa tôi, giờ đã thành bình địa; người Phúc Yên tan tác chia ly từ năm 1947. Bây giờ đến lượt Hà Nội. Hà Nội sẽ không bị san bằng vì chiến tranh đã chấm dứt, nhưng người Hà Nội sẽ ra sao khi Hà Nội đổi chủ. Bọn răng đen mã tấu Việt Minh sẽ ồ ạt về Hà Nội, sẽ có người bị bắt, sẽ có nhà bị tịch thu, cướp đoạt và rồi Hà Nội sẽ điêu tàn, cách này hay cách khác, bởi vì Việt Minh từ bản chất chỉ là kẻ hủy diệt.

Mang tâm trạng buồn bã không nguôi, tôi trở về Tòa Thị Chính. Chẳng mấy chốc trời hừng sáng. Mọi người thức giấc sửa soạn cho một chuyến đi không hẹn ngày về. Khoảng xế trưa, gia đình chúng tôi được đọc danh sách đi tàu bay tại Phi Trường Gia Lâm. Chúng tôi lên xe cam nhông của Quân Đội Pháp, chạy giữa lòng Hà Nội, ra khỏi thành phố, lên cầu Long Biên vượt qua Sông Hồng đến Phi Trường Gia Lâm. Những chuyến tàu bay lần lượt cất cánh chở từng đoàn người di cư. Đến xế chiều, Bố Mẹ tôi được báo đã hết chuyến bay, phải trở về Phi Trường bạch Mai, Hà Nội. Chúng tôi lại lên xe chạy trên Cầu Long Biên trở về Hà Nội, đi qua bao phố phường thân yêu đến Phi Trường Bạch Mai. Chẳng bao lâu, gia đình chúng tôi lên một tàu bay của QĐ Pháp, chiếc C119 hai đuôi để bay vào miền Nam.

Tàu bay rời phi đạo, cất cánh lên cao, bỏ lại Hà Nội phía dưới. Nhìn qua khung cửa sổ nhỏ của tàu bay, Hà Nội chỉ còn là một cái chấm nhỏ, nhỏ dần, mất hút. Tôi không cầm được nước mắt. Thật sự tôi đã mất tất cả.

Hà Nội! Hà Nội! Hà Nội! Một phần đời tôi ở đó.
Giao Châu Phúc Yên
Tacoma, Washington, ngày 25 tháng 8 năm 2014

1.    Nhạc Sĩ Nguyễn Hiền, Anh Trần Hữu Giao, Nguyễn Quang Đính, Nhạc Sĩ Anh Hoa, di cư vào Nam

2.    Sau Tháng 4/1975, người làng cho biết, Ông Ngoại tôi đã bị bức tử trên Lầu Ngắm Trăng của Ông Ngoại tôi và Cậu tôi bị Việt Minh đuổi về sống nơi quê vợ. Toàn bộ nhà đất, ruộng vườn, trâu bò của Ông Ngoại tôi bị chúng tịch thu).

3.    Các bạn Trương Văn Chinh, Trương Trọng Trác, Thông, Tòng, Bách, Bang theo gia đình di cư vào Nam.

.QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM



Du hành trên tuyến tàu xưa Gò Vấp-Sài Gòn
Y Nguyên-Mai Trần



Dành cho Quý Huynh đã một thời sống ở vùng Gia-Định/Gò Vấp/ Dakao/ Sàigòn (không có Chợlớn).


Thàng Cưng, lực lưởng nhanh nhẹn so với số tuổi của nó, khoảng 9, 10 tuổi gì đó mà được lái xe… bò. Mấy thằng bạn đàng em của nó lúc nào cũng tìm cách leo xe bò đi với nó cho vui. Gia đình thằng Cưng cũng thuộc loại khá thời đó, nhà gạch có chái, gian gìữa nhà cũng có bàn thờ tỗ tiên khảm xà cừ đặt sau một bàn gỗ đen với sáu cái ghế và luôn luôn một bình trà đựng trong vỏ trái dừa để giũ' ấm.


Ba nó không biêt làm nghề chuyên chở bằng xe bò từ lúc nào nhưng người trong xóm gọi ông là chú Tư xe bò – Cụ Phó-một nhân vật được mọi người kính nể trong xóm, cụ vào Nam từ Nam Định, nghe nói cụ đã từng giữ chức ông Phó cho hãng tàu đi đại dương của Pháp Charguer Reunis- không hiểu sao lại gọi ông với một danh từ dí dỏm ông Tư “pilot” xe bò. Ba thằng Cưng thỉnh thoảng cho nó lái xe bò ở nhũ'ng khúc đường vắng khi xe không chở gì, chú Tư sống bằng nghề chở vật dụng xây nhà vì đồ nặng không tiện dùng xe ba bánh.


Khi rảnh rối thằng Cưng hay rủ bạn đi tắm sông ở cầu Bình Lợi, trong những nhánh sông nhỏ bao quanh là những rặng dừa nước, nhìn ra phiá xa thì thấy sông Sàigòn. Sông khúc gần cầu Bình Lợi nước chảy xiết, nhiều chỗ nước xoáy, thỉnh thoảng có nghe nguời chết mà người ta gọi là bị ma da kéo. Mấy đám nhỏ thường rủ nhau chơi đá banh ở sân vận động Lê văn Duyệt (giờ không còn nũ'a) thỉnh thoảng lại lén nhà đi tắm sông luôn, phần đông đứa nào cũng biết lội lại dùng bập dừa để nổi nên cũng khá an toàn. Tắm xong chạy về nhà thì quần khô hết nên gia đình không hay biết.





Figure 1 Tuổi thơ trong xóm





Figure 2 Xe bò trên đường Lê Lợi cuối thế kỷ 20


Thằng Cưng thỉnh thoàng theo ba nó “lái xe bò" ra đến Khăn Đen Suối Đờn -một khu xóm đối diện với trường Võ thị Sáu bây gìờ (Lê văn Duyệt cũ), thấy xe “lửa” đậu ở ga Xóm Gà cho người lên xuống là nó ước ao một ngày nào đó nó sẻ lái xe lửa, xe bò chậm quá. Thỉnh thoảng nó đưa má nó ra ga Xóm Gà giúp má nó mang trầu- cây nhà lá vườn” ra chợ Bà Chiểu bán, nhưng thường thì má nó đi xe thổ mộ.


Đường làng 15 (đường Lê Quang Định) lúc bấy gìờ hầu hết chỉ có người đi xe đạp, thỉnh thoảng có vài chiếc mobylette hay xe nhà binh của Pháp chạy qua, lẫn tiếng xe thổ mộ lóc cóc trên đường. Khoảng đầu thập niên 50, phưong tiện di chuyển chính là thổ mộ. Xe thổ mộ (xe làm bằng gỗ có hai bánh cũng bằng gỗ hai bên thùng xe, thường sơn màu nâu đậm rất thịnh hành ở vùng Bà Điểm, Hóc Môn, Chợ Cầu, Gó Vấp, Bà Chiểu, chợ Đất Hộ (Đakao), Tân Định ra tận đến Sài Gòn. Xe nào cũng có 4 cái mốc, mỗi bên hai cái bên hông xe để người đi treo dép hoặc gồng gánh. Ai đi xe thổ mộ củng phái ngồi xếp bằng, co ro trong thùng xe, xe chật dĩ nhiên chuyện cọ sát với nhau là thường, anh nào còn trai tráng thường phải ngồi phía sau, hoặc ngồi phiá trước đối diện với anh lái xe thổ mộ.


Người đi thường là bạn hàng mang hàng xuống từ Hóc Môn, Bà Điểm, chợ Cầu, trái cây, hoa, rau, trầu cau, thuốc rê Gò Vấp.





Thằng Cưng ngoài tắm sông lén, thỉnh thoảng xuống Gò Vấp đi xem “hát bóng” ở rạp Lạc Xuân, rạp này bên hông chợ Gò Vấp, thường hát phim cũ nên thỉnh thoảng bị đứt phim, nhưng tiền vé rẻ. Mùa nóng xem phim mà cứ đợi nối phim, thiên hạ thường la ó. La thì la vậy chớ đi xem vẫn đi vì rẻ cho dân địa phương.


Tru'ó'c khi tới quận lỵ Gò Vấp, có ga xóm Thơm (tên địa phương, nhưng cũng gọi là tên ga Gò Vấp). Ga Gò Vấp là một ga nối vì từ ga này đi ra các tỉnh miền Trung, Nha Trang, đi Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, dĩ nhiên đi ra Sàigòn (ngừng tại ga xe lửa Mỹ (Mỹ Tho, cũng gọi là ga Sàigòn, bây giờ là công viên 23/9 gần chợ Bến Thành)-rồi từ ga Saigon đi Chợ Lớn, Bình Tây hay đi Mỹ Tho. Tuyến đường Gò Vấp Sàigòn được đưa vào xử dụng ngày 7/9/1897, lúc đầu chạy bằng nưó'c sau bằng điện, từ năm 1913.


Cũng từ sau 1913, các tuyến đường khác được xây dựng từ Gò Vấp đi Hóc Môn, Gò Vấp đi Lái Thiêu-Thủ dầu Một. Từ chợ Bình Tây Chợ Lớn đi Phú Nhuận-Đakao-Tân Định.


Figure 3 Ga Xóm Thơm (Gò Vấp Xưa, đầu thế kỷ 20)


Figure 4 Chợ Gò Vấp đầu thế kỷ 20





Figure 5 Chợ Gò Váp cuối thập niên 1950


Tuyến xe đi từ Gò Vấp ra Sàigòn qua Ga Đông Nhì, lúc rạp Đông Nhì (cùng chủ với Đại Đồng Nguyễn văn Học và Đại Đồng Cao thắng, Bàn cờ, cũng là chủ rạp Đại Đồng Hà Nội di cư vào Nam, có tài liệu cho biết Đại Đồng Hà Nội là rạp chiếu bóng đầu tiên của người Việt Nam cho người Việt Nam) Rạp Đông Nhì là rạp bình dân, chiếu toàn phim cũ nhưng mới hơn Lạc Xuân, có đặc điểm hát thường trực, lúc nào mua vé vào xem và xem bao lâu cũng được.


Rời Ga Đông Nhì thì đến ga Xóm Gà, ga này có mái che và xây bằng gạch nằm trưóc tiệm tạp hóa chú Xi . Chú Xi , gia đình ngườì Tàu sang Việt Nam đã lâu nên con cái chú ăn mặc theo kiểu Viêt Nam và các con nói tiếng Nam rành rọt, tiệm chú Xi bán tạp hóa nên cái gì cũng có kể cà nước màu (nước đường nấu lên cho có màu nâu đen dùng để kho thịt hay cá, xin đọc bài viết về Xóm Gà trong Blog http://maivantran.wordpress.com)


Sau khi bỏ khách xuống thì xe điện chạy đến ga Bình Hòa, ga này nằm đối diện với cây xăng Bình Hòa hiện tại vẫn còn, mỗi lần xe lửa chạy là có cây chắn ngang hạ xuống chận lưu thông trên đường Nguyễn Văn Học, xe điện tiếp tục chạy qua khu chợ Ngã Tư Bình Hòa, dọc theo đường làng 15-đường Lê quang Định ra Bà Chiểu.


Trước 1960, nơi đây vẫn còn dấu vết ga Bình hòa trên tuyến đường Gò Vấp-chợ Bến Thành


Chợ Bình Hòa tuy nhỏ nay vẫn còn, nhưng mang lại cho Nguyên biết bao kỷ niệm. Bà của Nguyên có một chỗ bán trầu cau, rất nổi tiếng trong chợ, chỗ bà là chỗ duy nhất, mặc dù thỉnh thoảng vẫn có cạnh tranh, ngưới ta gọi bà là “bà Mười bán trầu cau” bà là ngườì rộng lượng và biết cách chiều đãi khách hàng, người buôn bán với bà rất trung thành với bà, có chuyện, bà nghỉ thì họ vào tận nhà để mua. Bà quê Hóc Môn, sản phẩm “mười tám thôn vườn trầu” nên bà có móc nối mua cau, trầu tươi từ Hóc Môn Bà Điểm, mua thuốc lá từ Gò Vấp và cau khô từ những tiệm đại lý ở Chợ Lớn đem về nhà sàng lọc, sắp xếp rồi đem ra chợ. Nguyên thỉnh thoảng đến thăm bà ngoài chợ, bà hay đưa cho Nguyên đem đồ ăn về nhà và mua bánh trái gần đó cho Nguyên ăn, nhất là những món ăn đặc biệt chỉ có bán hôm đó. Có lần chiếc xe đạp của Nguyên đậu gần bà mà cũng bị mất cắp-Chiếc xe đạp với “ghi đông” cao đầu tiên của Nguyên!


Lúc chợ tan, những người bạn hàng bán không hết đồ gạ bán cho bà, trái cây đủ loại, cá cua, rau cải, có khi họ đem tới nhà để đổi trầu cau! Nhà Nguyên vì thế củng ăn thêm món cua luộc hẩu như 2, 3 lần một tuần.


Bà Nguyên hay nuông chiều cháu trai đầu lòng, nên nếu Nguyên bị ba má rầy la thì bà can ngăn, nhưng Nguyên cũng sợ bà vì bà đánh đau lắm.


Bà Nguyên cả đời hy sinh, trong hoàn cảnh luân lý đạo đức khắc nghiệt ngày xưa, bà ở một mình không tái giá mà chẳng có bồ bịch gì từ năm 21-22 tuổi cho đến lúc mất đi đươc 88 tuổi. Niềm an ủi của bà là ba Nguyên và cô Côi-cô có tên Côi vì khi ông Nội Nguyên chết thì cô còn nằm trong bụng mẹ, cô Côi người có đầu óc phóng khoáng, mạo hiểm rồi cũng sang ở luôn bên Pháp năm 1954. Bà mất trong hoàn cảnh cơ cực của gia đình sau cuộc đổi đời 75 không thấy lại Nguyên cũng như cô Nguyên. Một nén hương lòng và sự khâm phục vô bờ của một người cháu ở phương xa


Từ Ngã tư Bình Hòa, nếu ta đi trên đường Nơ trang Long (Nguyễn văn Học) hướng về Thủ Đức và Bình Dương sẽ phải qua ngã Năm Bình Hoà nơi đây đã xày ra cuộc oanh tạc khốc liệt của máy bay trực thăng năm Mậu Thân 68. Ngã năm là giao điểm của hai đường Nơ Trang Long và Phan văn Trị và một đường đi vào xóm Lò Vôi thẳng ra luôn tới rạch nước mà bây gìờ gọi là rạch Bến Bôi. Từ Ngã Năm đưòng Nơ Trang Long đi thẳng qua cầu Băng Ky đến Cầu Bình Lợi.


Đường Nguyễn Văn Học đoạn gần cầu Bình Lợi trước 75 có hãng Vissan-Việt Nam Kỹ nghệ Súc Sản-” sản xuất sản phẩm gia súc theo đường lối dây chuyền và xưởng kỷ nghệ mền len Sakymen (Sài-gòn Kỹ nghệ Mền Len). Từ Nguyền văn Học quẹo trái về Phan Văn Trị hướng Gò Vấp có công ty lớn may dệt Vinatexco.


Đường Phan văn Trị có hai ngôi chùa với đồng mả bao quanh, chùa Thập Phước (Tập Phước) và chùa Bảo An. Hai chùa này cổ này gìờ vẫn còn tuy nhiên đồng mả bao quanh không còn nũ'a và đất chùa bị thu hẹp rất nhiều. Ngày xưa, ban đêm ít ai đến vùng này vì nghe tiếng nhiều ma. Má tôi kể lại chuỵện ngay cả ban trưa, chú tiểu thường thấy bóng người đưa võng cho mình ngủ mà chùa thì vắng lặng chỉ có một mình.





Figure 6 Xe hơi sắp sang Cầu Bình Lợi.


Đường Nơ trang Long (Nguyển văn Học cũ) đi về hướng trường Vẽ, sau này lại đổi nhiều tên khác như Mỹ nghệ thực hành, Cao Đẳng Mỷ Nghệ, rồi sau 75 là trường cao đẳng Mỹ Thuật nằm ngay cuối đường Nơ Trang Long-trên đường Phan Đăng Lưu (Bạch Đằng). Đường Nguyễn văn Học đầu này này có hàng điệp, phượng vỹ xen lẫn với me. Mùa hè đoạn đường rất đẹp vì Điệp, Phượng nở đỏ.


Trên đường này có sân vận động Lê Văn Duyệt (không còn nữa, tiếc thay!) kế đó khu vực nhà thương Nguyển Văn Học, trước 75, khu bịnh viện được xây dựng lại với Viện Ung Thư và bịnh viện Nguyễn Văn Học, Gia Định. Khoảng năm 64, khu đất kế bên được người Mỹ giúp xây theo mô hình hiện đại làm trung tâm thực tập Y khoa cho Đại học Y khoa Sàigòn, trang bị máy móc tối tân để dạy và trị bệnh, sau đổi thành bệnh viện Gia Định-sau 75 có tên là bệnh viện Nhân dân Gia Định. Viện Ung Thư là cơ quan y tế chuyên về ung thư cho cả nước. Viện Ung Thư nay gọi là Viện Ung Bướu đang trong tình trạng quá tải, nên người dân nói vào cửa trước, ra cửa sau thẳng vào nhà Xác. Thật sự phía sau các bệnh viện này là nhà Xác chung.


Gần sân Vận Động Lê Văn Duyệt, thì có rạp chiếu phim Đại Đồng





Figure 7 Rạp Đại Đồng không còn chiếu phim nữa, bây giờ là nhà in.


Cạnh rạp Đại Đồng có cả một khu hồ bơi, rất nổi tiếng thời này, có nhiều hồ bơi kích thước khác nhau cho đủ mọi hạng người và cả các quán ăn nhỏ. Khu này đúng ra là một địa điểm giải trí khi xưa- hơn cả hồ tắm Chi Lăng, nếu ai còn nhớ.





Figure 8 Khu bơi lội vẩn còn-nhưng đầy nhà cửa





Figure 9 Đại Đồng đường Cao Thắng


Đầu đường Lê Quang Định đối diện với chợ Bà Chiểu, ở góc đường trường Nam Tỉnh lỵ, có lúc tên là trường Trương Tấn Bửu, những ngày đầu mới khai sinh trường nũ' sinh Lê Văn Duyệt tá túc ở trường này và trường Hồ Ngọc Cẩn trước khi chuyển đến vị trí hôm nay-trên đường Đinh tiên Hoàng (trước 1975 là Lê văn Duyệt) với cái tên xa lạ Võ Thị Sáu.





Figure 10 Trường trung học Hồ Ngọc Cẩn, sau 75 trường tiểu học Nguyển Đình Chiểu


Xe lửa chạy dọc Lê Quang Định ra Bà Chiểu rồi ngừng cho khách lên xuống, tấp nập. Kẻ đi Đất hộ (Dakao), Saigon, người xuống chợ Bà Chiểu, đi thăm Lăng Ông, đi xin xâm vì tin rằng Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt hiển linh.





Figure 11 Ga Bà Chiểu năm 1913


Cuối Lê Quang Định, đối diện chợ Bà Chiểu quẹo trái đi vào đường Hàng Xanh (sau là Bạch Đằng) để đi Thị Nghè hoặc Cầu Sơn Bình Qưới. Nếu đi thẳng là đường Bùi Hửu Nghỉa (xưa là đường Nhà Thờ (Rue de L’Eglise))





Figure 12 Xe điện chạy dọc theo đường Bùi Hửu Nghỉa, Gia Định


Rời ga Bà Chiểu xe lửa chạy dọc hông chợ theo đường Bùi Hửu Nghỉa (l’Eglise), qua khu nhà thờ Bà Chiểu qua cầu Sắt tới Đất hộ (Đa kao) thuộc quận nhất.





Figure 13 Toà Bố-Toà Tham Biện- Gia Định khoảng đầu thế kỷ 20 sau Toà Hành Chánh Gia Định


Cuối đường Lê Quang Định quẹo phải đi đến Toà Bố (Uỷ ban ND Quận Bình Thạnh bây giờ) , đối diện với tòa bố là cửa sau Lăng Tả Quân Lê văn Duyệt, kế đó là chợ Bà Chiểu. Đường Chi Lăng (bây giờ là Phan đăng Lưu) đi ngang trường vẽ (Mỹ Nghệ Thực Hành) đi về hướng Phú Nhuận ngày xưa gọi là đường hàng Keo vì đường này có trồng hàng cây keo và cũng nổi tiếng vì bót công an Hàng keo và trường trung học tư thục Đạt Đức.


Đường Bạch Đằng có tên là Hàng Xanh đi ra hướng Thị Nghè, Cầu Sơn. khúc Cầu Sơn, Bình Qưới xưa là đồng ruộng it ngừo'i ở chỉ có hãng sắt kỹ nghệ của ông Vỏ Hồng Nho (một thời bầu gánh cải lương Trăng Mùa Thu với cô đào chánh Bích Sơn, em cô Bích Thuận) thông ra đến sông Sài gòn. Bây giờ mùa mưa, vùng Thanh Đa, Cầu Sơn, Bình quới thường bị ngập là chuyện khó tránh, vì nước không có chỗ thoát.


Trên đường Bạch Đằng có rạp chiếu bóng Cao Đồng Hưng, rạp này sinh sau đẻ muộn so với rạp Huỳnh Long trên đường Châu Văn Tiếp (nay Vũ Tùng), gần cửa chính của Lăng Ông. Rạp Cao Đồng Hưng trang bị toàn ghế bằng sắt có lỗ nhỏ, phía sau gần cửa vào thì có cả vài hàng ghế cây, học trò Hồ ngọc Cẩn rất “thân quen” với rạp này, đối với Nguyên kỷ niệm là rệp cắn, vì lần ấy rạp CĐH được biến đổi để hát cải lương, vì cô tôi quen với bầu đoàn Thủ Đô nên được mời ngồi hàng ghế đầu, suốt buổi em gái tôi cứ cựa quậy, ngồi không yên, một số người ngối gần có vẻ không vui, tôi hỏi em thì em nói tại rệp cắn, vì em mặc “jupe” , em còn nhỏ nên chả biết gì về cải lương nên cứ ngọ ngậy bắt rệp, rồi tôi cũng thấy rệp cắn, thế là anh em tôi xin phép ra về sớm. Lý do cũng dể hiểu vì, không ai ngồi hàng ghế đầu khi xem phim, thế là rệp tha hồ làm ổ, chổ nào đánh hơi có thịt người là… làm luôn.





Figure 14 Rạp Cao Đồng Hưng bây giờ là tiệm sách.


Lăng Ông





Figure 15 Lăng Ông 1954, bên phải trước cổng là cây thốt nốt


Cửa chính vào lăng nằm trên đường Chu Văn Tiếp (nay Vũ Tùng) với đặc điểm có trồng hàng cây thốt nốt





Figure 16 Lăng Tả Quân 1970





Figure 17 Mộ Tả quân Lê Văn Duyệt và Phu Nhân Đỗ Thị Phần


Figure 18 Lăng Ông Tết Tân Mão 2011





Đi xa hơn cổng lăng về hướng chợ Bà Chiểu thì sẽ thấy rạp Huỳnh Long. Đây là một rạp hát bình dân, hay chiếu phim Việt Nam và Ấn Độ. Rạp này lúc chiếu phim Tề Thiên Đại Thánh họ cho đốt nhang ở một góc trước màn chiếu có lẽ vì trong phim có xuất hiện phật bà Quan Âm và Đường Tam Tạng.


Nếu các bạn muốn biết về Lăng Tả Quân xin vui lòng xem video


http://www.youtube.com/watch?v=fhMzSpmqf98&feature=mfu_in_order&list=UL


Phía Lăng Ông hướng về Đakao, trước khi đến Cầu Bông có một khu vực có cái tên rầt huyền hoặc “Khăn đen Suối Đờn”


Đây là khu xóm ngày xưa đối diện với trường Lê văn Duyệt. Khu xóm này kéo dài đến gần Cầu Bông, chiều ngang từ ranh giới đường Lê Văn Duyệt (Đinh Tiên Hoàng) đến đường Bùi Hửu Nghỉa. Cả khu này và khu trường Lê Văn Duyệt nằm trong khu đất ruộng nên có nhiều cầu ván để đi, chính trường Lê Văn Duyệt cũng nằm trên khu dất bồi để giảm thiểu chuyện ngập nước thường xảy ra trong mùa mưa và do thuỷ triều của rạch Thị Nghè- mà người địa phương vẫn gọi là sông Cầu Bông. Người xưa cho biết nơi đây là nơi buôn bán loại khăn đen làm ở Suối Đờn, tên một khu du lịch nổi tiếng thời trước 1945 ở Thủ Dầu Một (Bình Dương). Loại Khăn Đen Suới Đờn này được dân Nam ưa chuộng, họ đến đại lý ở đây mua hàng, lâu dần truyền khẩu thành khu Khăn Đen Suối Đờn, chớ không có điển tích gì đặc biệt cả.





Figure 19 Trường nũ' trung học Lê Văn Duyệt 2011


Trường Lê Văn Duyệt lúc mới xây xong giống nằm trên một hòn đảo vì hầu như xung quanh trường là ruộng nước. Một hai năm đầu trường chưa cất phải tá túc với trường Nam Tỉnh lỵ (rồi Trương Tấn Bửu) và Hồ Ngọc Cẩn.


Tên Cầu Bông bắc ngang rạch Thị Nghè, nhưng đối với dân xưa ai cũng gọi là sông Cầu Bông không biết do đâu mà có, nhưng có thể ngày xa xưa người ta tụ tập ở bến sông buôn bán bông? Ai là người Saìgòn xưa có lẽ còn nhớ bài này, nhại theo bài Trăng Rụng Xuống Cầu, một thời nổi tiếng với đôi danh ca cũng là cặp vợ chồng ngoài đời Ngọc Cẩm-Nguyễn Hũ'u Thiết:


“Ai đang đi trên cầu Bông,


Té xuống sông ướt cái quần ni lông


Vô đây em dù trời khuya anh vẫn đưa em về“ (hay là: "Vô đây em chò' quần khô kêu xích lô em về.")


Cho tới bây gìờ không ai biết xuất xứ của nó và vì sao, chỉ có điều nặng mùi Nam rặt, bình dân giáo dục nhưng hậu ý tốt.


Qua khỏi cầu Bông là vào quận Nhất, khu Đakao.



>


Đất Hộ-Đa kao


Đa Kao còn gọi là Đất Hộ, thuộc quận nhất Sàigòn, Đakao có rất nhiều trường tư thục nổi tiếng như Huỳnh Khuơng Ninh (Đường Huỳnh Khương Ninh) giờ vẩn còn, Huỳnh thị Ngà (đường Trần Nhật Duật), Les Lauriers sau đổi tên Tân Thịnh (đường Đinh Công Tráng), Văn Hiến, Việt Nam Học Đường (đường Đặng Tất), trên đường Phạm Đăng Hưng bây giờ là Mai Thị Lựu ngày xưa có trường chuyên dạy Anh Ngữ Trần Gia Độ, có lẽ mở cùng thời với trường dạy Anh Văn Ziên Hồng của hai anh em Lê Bá Kông, Lê Bá Khanh ở đường Kỳ Đồng.


Xuống dốc cầu Bông trước khi đến Trần quang Khải có tiệm thịt quay, heo, gà vịt vẫn còn mở đến ngày nay, nhìn xuống sông khoảng thập niên 50s có trại cưa Trần Pháp. Quẹo phải vào đường Trần Quang Khải, phía bên trái có đình thờ với hình ông cọp trên tường và cây da bên trong sân, đối diện xéo một chút là bót TQK và đường hẻm đi vô xóm Vạn Chài, phía ngoài đầu hẻm có trường tư thục Văn Hiến (hiệu trưỏ'ng là Phan Ngô). Kế đó là rạp Văn Hoa và tiệm cà phê Văn Hoa rất thanh lịch kế bên. Rạp Văn Hoa sang trọng, có máy lạnh và hệ thống âm thanh tối tân, màn ảnh lớn nhưng gía rẻ hơn Eden hay Rex.


TQK quẹo vào Nguyễn huy Tự là chợ Đakao, gần chợ có con đường nhỏ Trương Hán Siêu nơi đây có đền thờ của cụ Phan Chu Trinh, đi thẳng PCT băng qua Đinh Tiên Hoàng thì gặp bánh cuốn Tây Hồ, thực sự không có gì đặc biệt nhưng giá bình dân, nơi đây có bán dầu cà cuống.


Nối dài Nguyễn Huy Tự là Phạm Đăng Hưng bây giờ là Mạc thị Lựu, trên đường này có một chùa cổ, chùa Đakao hay là chùa Ngọc Hoàng http://vnexplore.net/destination/253





Figure 20 Chùa Đakao -Ngọc Hoàng Xưa





Figure 21 Chùa Ngọc Hoàng 2011





Nguyển Huy Tự quẹo trái sẻ vào đường Bùi Hũu Nghĩa qua cầu Sắt về Bà Chiểu. Quẹo phải sẽ gặp đường Nguyễn văn Giai băng qua Đinh Tiên Hoàng, gần cuối Nguyễn văn Giai là trường Huỳnh Khương Ninh cuối Nguyễn Văn Giai là Phan Liêm, chạy dọc theo nghĩa địa Mạc Đĩnh Chi (bây gìờ là công viên Lê Văn Tám)


Đoạn Đ T Hoàng giới hạn bởi Phan Đình Phùng (Nguyễn Đình Chiểu) và Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ) có nhà hàng Pháp rất nổi tiếng như Chez Albert, La Cigale và hai quán café nổi tiếng Hân và Duyên Anh.


Casino Đakao





Figure 22 Casino Dakao





Figure 23 Casino Saigon không còn nũ'a: bây giờ chỉ là tiệm bán buôn


Chè Hiển Khánh


Trưó'c 75, nếu ai có đến vùng này nhất là đám sinh viên, học sinh lớn ngày xưa chắc đã đến thăm thường Thạch chè Hiển Khánh, tiệm này nằm sát Casino Đakao, chuyên bán thạch sợi nhỏ trắng với đá bào, chè đậu xanh nấu đặc, chè thạch đựng trong chén nhỏ, nên đôi khi phải gọi chè thạch mới đã, bánh xu xê, bánh gai. Mùa nóng đi đâu về ghé đây là tuyệt, chủ người Nam trung niên lịch sự với khách (đã lâu rồi không nhớ tên được.) Sau 75, có tiệm chè thạch Hiển Khánh ra mắt bà con -goị là Thạch chè nhưng nơi đây bán đủ bánh chè và cũng không phải là chủ xưa.


Qua khỏi Casino Đakao về phía đường Hiền Vương (bây giờ Võ thị Sáu) rồi quẹo phải vào Nguyễn phi Khanh, nơi đây có một quán cơm tấm bì chả nổi tiếng, sau có tiệm bán bún thang Như Ý, đặc biệt có dầu cà cuống. Chỉ cần nhỏ môt hai giọt tinh dầu cũng đủ hương vị. Mùi cà cuống khá mạnh nên không được thông dụng. Cà cuống là một trong những nhóm côn trùng có kích thước lớn nhất hiện nay, có cơ thể dẹt, hình lá, màu vàng xỉn hoặc nâu đất, dài trung bình từ 7-8 cm, có con lên đến 10-12 cm.


Khi còn non cà cuống giống như con gián, mình dài khoảng 7-8cm, rộng 3cm, màu nâu xám, có nhiều vạch đen, đầu nhỏ với hai mắt tròn và to, miệng là một ngòi nhọn hút thức ăn. Ngực dài bằng 1/3 thân, có 6 chân dài, khỏe. Bụng vàng nhạt có lông mịn, ở phía trên có một bộ cánh mỏng nửa mềm nửa cứng.


Cà cuống có một bộ máy tiêu hóa dài khoảng 45cm, gồm có một ống đầu trên nhỏ là cuống họng, đầu dưới phình to chứa một thứ nước có mùi hôi. Sát ngay bầu chứa nước nầy là hai ngòi nhọn mà con cà cuống có thể thò ra thụt vào được. Ở dưới ngực, ngay gần phía lưng, có hai ống nhỏ gọi là bọng cà cuống. Mỗi bọng dài khoảng 2-3cm, rộng 2-3cm, màu trắng, trong chứa một chất thơm, đó là tinh dầu cà cuống. Nhưng chỉ có con đực mới có tuyến này phát triển.


Tinh dầu cà cuống nhẹ hơn nước, cho thoảng ra một mùi đặc biệt gần giống như mùi quế.


(theo Wikipedia)





Figure 24 Nguồn : Wikipedia


Nếu ai muốn thử đến tiệm bánh cuốn Tây Hồ trên góc đường Đinh Tiên Hoàng-Huỳnh Khương Ninh. Bánh cuốn nơi đây được làm tại chỗ nên đông khách. Quán Tây Hồ có từ lâu, trước ở trong khuôn viên đền thờ cụ Tây Hồ Phan Chu Trinh, nên người ĐaKao gọi là Bánh cuốn Tây Hồ.


Cũng đặt tên như vậy, tiệm mì nổi tiếng Cây Nhãn, lấy tên cây nhãn được trồng trong sân rộng dùng làm tiệm mì đối diện với khu trường tiểu học Đakao.


Phía đầu đuờng Hiền Vương trước khi đến nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (nay Công Viên Lê Văn Tám) Đa kao có đền đức thánh Trần. Những dịp Tết hay giỗ Ông, người ta đổ xô vào lễ, gây trở ngại lưu thông trên đường huyết mạch dẫn vào Ngã Sáu -Công Trường Dân Chủ- Theo các nhà khảo cổ, Công Trường Dân Chủ là vùng Mả Ngụy- Mồ chôn tập thể của những người theo Lê Văn Khôi 1833-1835 (ref http://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%A3_ng%E1%BB%A5y).





Figure 25 Đền đức Thánh Trần
Ông tên thật là Trần Quốc Tuấn là con trai của An Sinh vương Trần Liễu, cháu gọi vua Trần Thái Tông bằng chú, sinh năm 1231 tại Kiếp Bạc, xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, nguyên quán ở làng Tức Mặc, ­­­­­­­­huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.


Vốn có tài quân sự mà cũng không màng ngôi vua mặc dù được thôi thúc bỏ'i thân sinh Trần Liễu. Ông giúp các vua Trần ba lần đánh tan quân Nguyên – Mông tấn công Đại Việt. Đặc biệt những lần chống Nguyên – Mông Cổ lần thứ 2 và thứ 3, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết chế các đạo quân thủy bộ. Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi quân Nguyên – Mông ra khỏi đất nước.


Sau khi kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ 3 thành công. Đất nước thanh bình Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lui về sống ở Vạn Kiếp. Ông đã dựa vào địa thế vùng Vạn Kiếp mà Kiếp Bạc là trung tâm để lập thành phố, bản doanh làm phòng tuyến chiến lược giữ mặt Đông Bắc của Đại Việt. Ông là một anh hùng đởm lược, được nhân dân trong vùng tôn vinh, qúy mến. Muà thu tháng 8, ngày 20 năm Canh tý, Hưng Long thứ 8, tức ngày 5-9-1300 ông mất. Theo lời dặn, thi hài ông được hoả táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ. Sau khi ông mất triều đình phong tặng là Thái sư Thượng Phụ quốc công Tiết chế Nhân Võ Hưng Đạo Vương. Nhân dân vô cùng thương tiếc người anh hùng dân tộc đã có công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên-Mông bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và độc lập dân tộc nên lập đền thờ Ông trên nền Vương phủ gọi là đền Kiếp Bạc. Dân ta kính trọng vinh danh Ông là Đức thánh Hưng Đạo Đại Vương lập đền thờ Đức Thánh Trần ở nhiều nơi.


Từ đền đức thánh Trần, quẹo trái vào đường Phan Tôn bên hông nghĩa địa Mạc Đĩnh Chi. Đường Mạc Đĩnh Chi ngày xưa có trạm xe đìện





Figure 26 Xe điện trên đường Mạc Đĩnh Chi, nhìn từ nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi trên đường Phan Thanh Giàn (giờ là Điện Biên Phủ)


Hội Việt Mỹ-bây giờ dùng làm trụ sở Mặt trận Tổ quốc





Figure 27 Địa điểm Hội Việt Mỹ xưa, nay Mặt trận Tổ Quốc TPHCM


Trên đường Mạc Đĩnh Chi còn có Hội Việt Mỹ dạy tiếng Anh từ lớp 1 đến lớp 12 để lấy Certificate of Effiency in English. Trụ sở Hội Việt Mỹ bây giờ là Mặt Trận Tổ Quốc thành phố HCM.


Song song với đường Mạc Đĩnh Chi có đường Phùng Khắc Khoan có tư gia tòa Đại Sứ Mỹ. Đây là con đường đẹp với nhiều dinh thự, hai bên đường có hàng me to.


Khu Dakao, trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm có Thảo Cầm Viên và hai trường trung học nối tiếng Võ Trường Toản (nam) và Trưng Vương (nữ).





Figure 28 Trường Trưng Vương





Figure 29 Trường Vỏ Trường Toản


Trên đường Đinh Công Tráng bây gìờ nổi tiếng môn bánh xèo, trước có trường tư thục Tân Thịnh (trước nửa là Les Lauriers), tiệm chụp hình nổi tiếng Văn Minh và Duy Hy (không còn nũ'a)


Xe điện rời ga Đất Hộ (Đakao) chạy dọc theo đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) rồi quẹo vào đường Mạc Đỉnh Chi (rue de Bangkok) ra đường Thống Nhất (Norodom thời Pháp, nay Lê Duẩn) rôí dọc theo Cường Để, Bến Bạch Đằng (nay Tôn Đức Thắng) rồi quẹo vào Hàm Nghi (de la Somme) về chợ Bến Thành.


Ngày xưa dường Phan Đình Phùng nằm cuối khu vực Nguyễn Bỉnh Khiêm (kho đạn cũ, sau lưng đài phát thanh Quân Đội) và kéo dài ra đến đường Lý Thái Tổ (nay Nguyển đình Chiểu) Sô 3 Phan Đình Phùng là đài phát thanh Sàigòn


Đường Đinh Tiên Hoàng bắt đầu từ đường Hồng Thập Tự (bây gìờ là Nguyễn thị Minh Khai + Sô Viết Nghệ Tĩnh) về phiá Đakao có sân vận động Hoa Lư, về phía đường Thống Nhất (Lê Duẩn) có khu đại học trước là thành lính Pháp rôi thành của Lũ' Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống.



>


Figure 30 Lối vào thành lính Pháp 1873 xây trên thành cổ Gia định (xây 1790) trên đường Cường Để-Đinh Tiên Hoàng





Đường thẳng vào cửa chính là Cường Để (thời Pháp Boulevard Luro, sau 75 là Tôn Đức Thắng, phía trước là đường Norodom -Thống Nhất- sau Lê Duẩn, Kiến trúc bên trái sau 1963 xây dựng lại thành Đại Học Dược Khoa, bên trái là Văn khoa, phía sau hai kiến trúc này là Cao Đẳng Nông Lâm Súc có lúc đổi tên là Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp. Nơi đây người ta sẽ tìm thấy sinh họạt chính trị và văn nghệ sôi nổi của một thời sinh viên thập niên 60 và đầu thập niên 70, chúng ta sẻ thấy Khánh Ly, Hoàng oanh, Thanh Lan, Trịnh Công Sơn và các tay lãnh đạo tổng hội Sinh Viên Saigon.





Figure 31 Đại Học Dược Khoa, Cao Đẳng Nông Lâm Súc


Xe điện chạy dọc theo Cường Để qua xưởng Ba Son, xưởng đầu tiên ở Sài Gòn, do Nguyễn Ánh lập ra để đóng chiến thuyền. Xưởng Ba Son nằm trên ngã ba sông, nơi tiếp giáp giữa sông Sài Gòn và rạch Thị Nghè, có diện tích 26 hecta, có đường ven sông 2000m, trong đó có 6 cầu cảng tổng cộng 750m. Ngày xưa nơi đây vùng sình lầy nước đọng nên thường được dùng làm nơi đậu tàu và sửa chữa tàu. Sau khi chiếm được Sài Gòn – Gia Định, năm 1861 Pháp cho làm ụ tàu trên thủy xưởng đã có, tức là mảnh đất Ba Son bây giờ. Ngày 28/4/1863, Pháp chính thức thông qua dự án xây dựng thủy xưởng Ba Son tại Sài Gòn trực thuộc Bộ Hải quân Pháp. Năm 1884, Pháp cho đào và xây ụ lớn bằng đá, chi phí gần 8 vạn quan. Nhiều công nhân người Việt, trong đó có thợ máy Tôn Đức Thắng đã làm việc ở đây. (http://thodia.vn/xuong-ba-son-ho-chi-minh.html)





Figure 32 Xưởng Ba son thời Pháp-sau là Hải Quân Công Xưởng thời VNCH


Xe điện sau khi rời đường Cường Để (Luro thời Pháp, nay Tôn Đức Thắng) đi dọc theo Bến Bạch Đằng, thời Pháp Le Myre de Vilers, nay Tôn Đức Thắng), Công trường Mê Linh, công trường này thời Pháp khoảng 1910 có tượng của Đô đốc Rigault de Genouilly và Doudard de L’Agree). Thờii VNCH có tượng Hai Bà Trưng. Đây là địa điểm hẹn hò, hóng gió mát từ sông Sàigòn của dân trẻ.





Figure 33 Công Trường Mê Linh, thời Pháp Rigault de Genouilly





Figure 34 Công trường Mê Linh khoảng 1910 có tượng của Đô đốc Rigault de Genouilly





Figure 35 tượng Hai bà Trưng thời đệ Nhất Cộng hòa bị phá xập sau 11/1963


Nếu xuống xe điện trạm Mạc Đĩnh Chi bước ra đường Norodom phía rạch Thị Nghè -Thảo Cầm Viên thì gặp Bào Tàng Viện thời Pháp Thuộc nằm trên đường Norodom gần phía đại học Dược khoa trước 75.





Figure 36





Figure 37 Bào Tàng Viện thới Pháp thuộc nằm trên đường Norodom (nay Lê Duẩn)


Con đường lịch sử, tráng lệ và quan trọng nhất miền Nam: Thống Nhất, thời Pháp thuộc gọi là Norodom (nay Lê Duẩn)





Figure 38 Đường Norodom khoảng 1876


Ở hai đầu đường này là Dinh Toàn Quyền và Sở Thú-Thảo Cầm Viên





Figure 39 Dinh Toàn Quyền 1882-xây từ 1868 đến 1875 theo kiểu Baroque thời Napoleon I I I








Figure 40 Đường Norodom hậu cảnh là Dinh Toàn quyền và tượng Gambetta -thống đốc Nam Kỳ 1906





Figure 41 Nơi có tượng Gambette bây giò' là Bồn Hoa sau lưng nhà thờ Đức Bà 2011





Figure 42 Dinh Toàn Quyền 1908





Figure 43 Dinh Toàn Quyền 1942





Figure 44 Dinh Toàn Quyền 1945





Figure 45 Dinh Toàn Quyền 1948





Figure 46 Dinh Độc Lập bị dội bom 1962- Bà Nhu (vợ Ngô Đình Nhu) đang quan sát thiệt hại sau cuộc dội bom của Phạm Phú Quốc và Nguyễn văn Cử





Figure 47 Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ vả chính phủ VNCH xây cất lại 1971





Figure 48 Tấm biển này gắn trên tường của dinh Tổng Thống (nay HT Thống Nhất)


Công Viên Tao Đàn-Vuờn Bồ Rô.


Sau lưng dinh Đôc Lập nay là Hội trường Thống Nhất là công viên Tao Đàn, người xưa gọi là vườn ông Thượng hay là vuờn Bồ-Rô. Ngày xưa cả dinh và vưò'n nằm trong khuôn viên dinh Toàn Quyền. Năm 1869, người Pháp cho xây con đường Miss Clavell (đường Huyền Trân Công Chúa) tách khu vườn khỏi Dinh. Ba mặt còn lại là rue Chasseloup-Laubat (trước 75 là Hồng Thập Tự) về phía bắc, rue Verdun (Trần Cao Vân) về phía tây, và rue Taberd ( Nguyển Du) về phía nam. Người Pháp gọi khu vườn là “Jardin de la Ville” hay Jardin Maurice Long (Toàn quyền Pháp)





Trong khuôn viên vườn có khu Câu lạc bộ Thể thao (Cercle Sportif Saigonais) năm 1902 gồm sân đá banh (túc cầu hay bóng đá), hồ bơi, và sân quần vợt. Sân đá banh đó lúc bấy giờ là sân duy nhất đủ tiêu chuẩn đón những đội banh ngoại quốc đến, người viết đã có dịp xem trận đá đèn giũ'a đội AJS Saigon và đội banh người Áo (Austria), lâu quá không còn nhớ đến kết quả nhưng kỷ niệm này vẫn hằn sâu trong tâm tưởng.


Tiện đây cũng nên biết trường trung học đầu tiên được pháp xây dựng gọi là Chasseloup-Laubat nằm trên đường Chasseloup Laubat (trước 75 Hồng Thập Tự, sau 75 Nguyễn thị Minh Khai) sau đổi thành Jean Jacques Rousseau rời Lê Quý Đôn tới ngày nay.





Figure 49 Trường Chasseloup-Laubat thời Pháp





Figure 50 Trường Lê Quý Đôn năm 2009


Tưởng cũng nên nhắc lại trên đường Phan Đình Phùng (nay Điện Biên Phủ) có trường nữ trung học đầu tiên ở Sàigòn-trường Gia long được xây cất 1913, xưa gọi là trường áo tím, vì nũ' sinh mặc áo dài máu tím đi học. Trường thay đổi nhiều tên chính thức nhưng người Việt luôn gọi là trường Gia Long.





Figure 51 Trường Gia Long đầu thập niên 1920





Figure 52 Trường Nguyễn thị Minh Khai 2011


Đi về phía Đông Nam (phiá đường Lê Lợi) la 2 hai toà nhà lịch sử quan trọng. Pháp Đình Saigòn- còn gọi là toà Thượng thẩm Sàig̀on nằm trên đường Công Lý (nay Nam Kỳ Khởi Nghĩa)





Figure 53 Pháp Đình Sàigòn trên đường Công Lý (nay Nam Kỳ Khởi Nghĩa)


Góc đường Công Lý và Gia long có dinh Gia long, nơi đây là chỗ ở dành cho thượng khách viếng thăm VNCH, trước đó là dinh thự của Thủ Hiến Cochinchina





Figure 54 dinh Gia Long thời Pháp





Figure 55 Trước 75, dinh Gia Long được dùng làm trụ sở Tối Cao Pháp Viện


Thảo Cầm Viên-Sở Thú


Sở Thú nằm trên đường Nguyên Bỉnh Khiêm, cuối đường Thống Nhất (Lê Duẩn) về phía Đông, đối diện với dinh Toàn Quyến,





Figure 56 Bên trong khuôn viên của Thảo Cầm Viên có Viện Bảo Tàng Quốc Gia và đền thờ Hùng Vương





Figure 57 Thảo Cầm Viên cạnh rạch Thị Nghè (Arroyo de l’Avalance)





Figure 58 Chuồng Gấu- Sở Thú thời Pháp thuộc 1912


Figure 59 Voi trong sở thú





Figure 60 Đền Thờ Vua Hùng Vương trong Thảo Cầm Viên thập niên 60





Figure 61 Bảo tàng Viện trong Thảo Cầm Viên thập niên 60


Trên đường -Thống Nhất- Lê Duẩn về phía dinh Độc Lập (nay Hội trường Thống nhất) có nhà thờ Đức Bà được bắt đầu xây dựng năm 1877 và được khánh thành 1880, nhưng mãi đến năm 1895 mới xây thêm hai tháp chuông.


Phía trước nhà thờ Đức Bà người Pháp cho xây tượng đồng Giám Mục Pigneau de Béhaine (Adran) và hoàng tử Cảnh .





Figure 62 Nhà thờ đức Bà





Figure 63 Quang cảnh Nhà thờ đức Bà


Nhà Thờ Đức Bà thập niên 1940- Garage Jean Comte nằm trên đường Norodom sau đối thành Saigon Xe hơi công ty. Ngày nay là tòa nhà thương mãi Diamond Plaza





Figure 64 Saigòn xe hơi công ty trước 75.


Bên hông nhà thờ là Bưu Điện Saigòn thời Pháp.








Figure 65 Phía trước nhà thờ Đức Bà có Tượng Bá Đa Lộc (giám mục D’ Adran) và Hoàng tử Cảnh hướng về đường Tự Do (nay Đồng Khởi) được đặt tại đây 1902, bên tay phải giơ bản hiệp ước Versailles 1787, bảo đảm viện trợ của nước Pháp cho vua Gia Long.


(http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/ba-111a-loc/).


Phiá sau nhà thờ Đức bà có bùng binh và tượng Gambetta





Figure 66 Bùng binh và tượng Gambetta trên đường Norodom


Tượng Gambetta trên đường Norodom, mặt quay về phía sau lưng của nhà thờ Đức bà, phía sau lưng của Gambetta là đường Duy Tân (nay Phạm Ngọc Thạch). Con Đường “Trả lại em yêu” Duy Tân cây dài bóng mát của một thời sinh viên thơ mộng, mơ mộng. Nơi đây có hồ Con Rùa, có Viện Đại Học Saìgon, đại học Luật khoa, nơi Tô Lai Chánh đã từng làm chủ tịch sinh viên Liên khoa trong biến cố đau buồn của lịch sử Việt Nam 1963.





Figure 67 Hồ Con Rùa thời Pháp thuộc đầu thế kỷ 20





Figure 68 Hồ Con Rùa 1968





Figure 69 Hồ con Rùa 2010


Sau khi ghé thăm con đường lịch sử Norodom-Thống Nhất, chúng ta trở lại trạm xe điện trên đường Mạc Đĩnh Chi để ra chợ Bến Thành,


Xe điện chạy dọc theo Cường Để, dọc theo bến Bạch Đằng (nay T ĐT) quẹo phải vào đường Hàm Nghi (De La Somme), chạy ngang trước chợ Bến Thành rồi về ga Saìgòn.





Figure 70 Ga Sài Gòn 1881





Figure 71 Đường xe lửa trước chợ Charner tiền thân của chợ Bến Thành (thập niên 1880) nằm trên đường Nguyễn Huệ (Charner)





Figure 72 Bên trong ga Sàigòn khoảng thập niên 1910





Figure 73 Đường rầy xe điện trước chợ Bến Thành và sở Hỏa Xa Đông Dương






>


Figure 74 Xe lửa chạy trên đường Hàm Nghi (de La Somme) vào trước chợ Bến Thành rồi quẹo trái vào ga Saigon, bây giờ là khu công viên 23/9





Figure 75 Đường xe điện trước chợ Bến Thành





Figure 76 Dấu tích đường xe điện trên đường Trần Hưng Đạo thời đệ Nhất Cộng Hoà trước 1963 (nhìn về phía chợ Bến Thành )





Figure 77 Từ ga Saigon cũng có tuyến đường chạy đến chợ Phú Nhuận, Chợ Tân Định. Đường rầy xe điện trong ảnh đi cạnh tòa nhà Quốc Hội trước 75, chạy từ đường Nguyển Huệ (Charner) Bonnard )


Figure 78 Xe điện quẹo mặt vào đường Nguyển Huệ từ Bến Bạch Đằng (Tôn Đức Thắng)


Từ ga Saigon còn gọi là ga xe lưả Mỹ đi Mỹ Tho) có tuyến đường đi Chợ Lớn –Bình Tây, đi Mỹ Tho





Figure 79 Từ ga Chợ Lớn đi về ga Sàigòn





Figure 80 Đường rầy xe lửa-lớn nhỏ trên đường Hàm Nghi





Figure 81 Một góc cạnh khác của tuyến đường Hàm Nghi, là tramway (xe điện nhỏ) chạy quanh từ chợ Sàigòn dọc Hàm Nghi xuống bến Bạch Đằng qua công trường Mê Linh sau tòa Nhà Quốc Hội (nhà Hát Thành Phố bây giờ) dọc theo đường Lê Lợi (Bonnard).





Figure 82 Đường rầy ở công trường Mê linh





Figure 83 Chạy ngang Nhà Hát Thành Phố





Figure 84 Xe điện chạy từ đường Lê Lợi (Bonard) ra chợ Bến Thành khoảng 1901


Xuống ga Sàigòn đi về đường Lê Lợi, con đường tình sử, con đường xưa em (anh) đi, con đường của những buớc chân chiều chủ nhật và thành ngữ bát phố. Chiếu cuối tuần nào cũng thế là chiều của riêng minh, của học sinh sinh viên, của em hậu phương anh tiền tuyền, của những tà áo như cánh bướm muôn màu, của những bộ đồng phục chải chuốt, của mọi người không phân biệt giai cấp của quán kem Mai Hưong, Bạch Đằng, Pole Nord, của nước miá Viễn Đông hay chỉ một vòng ngắm cảnh.


Trưóc 75, cơ sở nghĩ từ trưa thứ bảy, chiều nào thiên hạ cũng đổ xô ra đường, mỗi người tìm vui trong cái ồn ào náo nhiệt cho riêng mình. Thú vui tùy túi tiền, ngay cả hoà mình vào dòng người bát phố chỉ cần một cây kem hay môt ly nước mia, kẻ vào nhà hàng Thanh Thế, Kim sơn, Thanh Bạc , kẻ giàu sang có máu mặt vào Continental, Caravelle, kẻ ngắm nhìn mẫu hàng mới trong Passage Eden để ước mơ, để ước gì mua được tặng nàng.





Figure 85 thời Pháp Thuộc, địa điểm nhà hàng Caravelle là khách sạn Terrasse





Figure 86 Nhà Hàng Continental thời Pháp Thuộc 1931


Cũng có những người tìm vui trong sách vở với nhà sách Khai Trí, Vĩnh Bảo trên đường Lê Lợi, hay nhà sách Xuân Thu đường Tự Do. Nhà sách này chuyên bán những loại sách đặc biệt, sách ngọại quốc, nhà sách có gắn máy lạnh, giá cao, khách lai vãng thường là người ngoại quốc hoặc dân sang, thời Pháp thuộc nơi đây là tiệm thuốc Tây Pharmacie Normal. Sinh Viên học sinh có chút vốn Anh ngũ' thì vào thư viện Abraham Lincoln ở góc đường Nguyển Huệ và Lê Lợi vừa thoải đọc sách vì thư viện có gắn máy lạnh. Vào thời pháp chổ này là hãng vừa bán và sửa xe hiệu Citroen Bannier (1930)





Figure 87 tiệm thuốc Tây Pharmacie Normal (nay nhà sách Xuân Thu đường Tự Do)








Figure 88 Thư viện Abraham Lincoln góc Nguyễn Huệ-Lê Lợi, trước đó nhà bán và sửa xe Citroen Bannier


Figure 89 Công Ty Bannier trưng bày xe, gần sát bên là rạp Rex truớc 75, bây giờ là khu khách sạn Rex


Cùng phía băng qua đường thì có thương xá GMC, sau là thương Xá TAX





Figure 90 Thương Xá Tax thời Pháp trước 1948





Figure 91 Thương xá TAX khoảng 1966 với tiệm kem có máy lạnh Pole Nord


Đầu đường Nguyễn Huệ (Charner) có dinh Xã Tây-sau 1954 gọi là Tòa Đô Chánh





Figure 92 Dinh Xã Tây khoảng đầu thế kỷ 20.





Figure 93 Dinh Xã Tây 1908





Figure 94 Toà Đô Chánh 1955


Toà Đô Chánh 1955 và ông Trần Văn Hương là vị Đô Trưởng đầu tiên. Cũng nên nhắc lại cụ Trần văn Hương là chính trị gia sanh ở Vĩnh Long nổi tiếng thanh liêm và trong sạch, Trần Văn Hương (19021982) là cựu thủ tướng hai lần (1964–1965 và i 1968–1969), sau đó phó tổng thống (thời tổng thống Nguyển văn Thiệu (1971-1975, và rồi tổng thống 7 ngày 21/4/75 đến 28/4/75. Sau 30/4/75 Ông nhất định ở lại Saigon, không chịu xuất ngoại tỵ nạn chính trị và chết ở Sàigòn năm 1982.





Figure 95 Tòa Đô Chánh (nay Uỷ Ban Nhân Dân TPHCM) 2011


Từ tòa Đô Chánh nhìn ra bồn nước, bên trái có rạp chiếu bóng Eden, bên phải có rạp Rex


Giới sành điệu, ký giả người lịch lãm thì vào Givral ở góc đường Lê Lợi- Tự Do hoặc Brodard trên đường Tự Do (đồng Khởi) hay La pagoda góc đường Tự Do- Lê Thánh Tôn.





Figure 96 Brodard thập niên 60





Figure 97 Nay là cà phê Gloria Jeans 2011;


Quán Brodard trước ở Góc đường Tự Do (nay Đồng Khởi) và Nguyển Văn Thinh (nay Mạc Thị Bưởi), sau này dời vào Mạc thị Bưởi không còn giữ được danh tiếng ngày xưa (bánh không ngon như xưa. Địa điểm ở góc đường bây gìờ là Gloria Jeans )





Figure 98 Pharmacie principale Solirene, nay là Givral 2009


Địa điểm Pharmacie principale Solirene là tiệm thuốc Tây đầu tiên ở Saigon, về sau là nhà hàng Givral, cùng với nhà hàng khách sạn Continental, hai địa điểm nằm ở góc đường Tự Do và Lê Lợi, nổi tiếng trên thế gìới vì đây là nbửng nơi lai vãng của bao nhiêu danh nhân, ký giả, những nguời lịch lãm khắp nơi ghé bến Saigon, thời ấy được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông.





Figure 99 Givral khoảng 2000, nay 2011 đả bị phá hủy để làm trung tâm thương mại


Góc Tự Do –Lam Sơn (Place Garnier) có Khách sạn nổi tiếng Caravelle khánh thành 12/1959, thời Pháp gọi là Terrasse hotel, thập niên 1960 thời VNCH nơi đây là toà Đại sứ Úc, Tân Tây Lan và trụ sở của NBC, ABC và CBS hãng truyền hình Mỹ.





Figure 100 Terrasse hotel thời Pháp nay Caravelle





Figure 101 Khách sạn Caravelle khánh thành 12/1959





Figure 102 Nhà hàng La Pagode góc đường Tự Do Lê Thánh Tôn


Trước mặt Givral là toà nhà hát thành phố thời Pháp xây năm 1900 được VNCH dùng làm Quốc Hội Hạ Viện nơi đã chứng kiến bao cảnh thăng trấm của một chế độ dân chủ phôi thai





Figure 103 Hạ Viện thời VNCH, thời Pháp Opera de ville


Phía trưóc Hạ Viện (nhà hát thành phố) có một vườn hoa (thời Pháp gọi là Place Francis Garnierm công trường Lam Sơn), thời VNCH có bức tượng đài tưởng niệm Thủy Quân Lục Chiến, nhưng bị phá hủy sau 30/4/75





Figure 104 đài tưởng niệm Thủy Quân Lục Chiến


Đi qua khỏi vườn hoa, trở lại đường Nguyển Huệ, ngày xưa đường này là kinh đào có tên là Kinh Lớn chạy từ sông Saigòn đến phía trước cùa dinh Xã Tây





Figure 105 Kinh đào nằm trước Chợ Charner, gọi là Kinh Lớn vận chuyển cung cấp thực phẩm hàng hóa cho Sàigòn được xây năm 1860





Figure 106 Kinh Lớn phía trước chợ Charner, chạy dài đến trước dinh xã Tây góc trên trái





Figure 107 Năm 1887 Kinh Lớn bị lấp đi thành đường Kinh Lấp, sau đó đổi tên thành đuờng Charner





Figure 108 Chợ Charner vào thập niên 1890


Chợ Charner vào thập niên 1890 có đường xe lửa chạy bằng hơi nước đi qua, địa điểm nằm giữa đường Ngô Đức Kế và Hải Triều (ngày xưa người Quảng Đông buôn bán tập trung ở đây đông)


Figure 109 Quang cảnh chợ Mới-chợ Sài Gòn Bến Thành





Thay thế chợ Charner, người Pháp cho xây dựng chợ Bến Thành từ năm 1912-1914 ở địa điểm ngày nay, xưa là một vùng ao xình lầy được lấp, ảnh trên chụp khoảng thập niên 1920. Phía trước là quảng trường Cuniac (tên ngưới Pháp lo chuyện lấp ao lập chợ) nguời Sàigòn thường gọi chợ này là chợ Sàigòn và bùng binh Sàigòn mặc dù cũng gọi chợ Bến Thành nhưng không gọi bùng binh Bến Thành bao giờ.





Figure 110 Chợ Bến Thành 1922




This message has been truncated









TIẾNG HUẾ
Dân Huế chính gốc chưa chắc hiểu hết

Thân mời xem

LT


“Ở nể” đồng nghĩa ở không
Trai hông lí dzợ., không chồng “ế
dôn”...

Ngu ngu thì nói “”khôn khun”
Dại dại mô tả “đù đù” mặt ra

Còn trẻ thì nói chưa “tra”
Tới tuổi già già khú đế là “ôn”
Có cô thiếu nữ lấy “dôn”
Lấy được ông chồng thăng chức “mụ o”


“Răng chừ” đồng nghĩa “”khi mô”
“Khi mô” có nghĩa khi nào đó thôi

“Khi mô” có cặp có đôi

“Răng chừ” hết cảnh tuổi đời bơ vơ

Đơn côi “cái trốt” dật dờ

Là ôm đầu bạc “”cà ngơ” một mình
Lặng yên thì nói “mần thinh”.
Để nghe len lén duyên tình giăng
tơ.

“Mua lửa” thì thật phải lo
Vì là mua chịu ai cho “lửa” hoài
“Mắc lửa” là thiếu nợ dài
“Lửa” chi không thiếu, chẳng phai
“lửa tình”

“Sáng mơi” là lúc bình minh
Của ngày kế tiếp, nong tình đem
phơi
“Bữa tê” em hẹn lại chơi
Quên bẵng cái việc em mời bữa kia

“Bữa tề” mang lịch ra chia
“Bữa tể” là trước bữa kia hai ngày
“Bữa ni” là bữa hôm nay
Là lúc đương nói hàng hai đây nì

“Mần chi” ai hỏi làm chi
Em muốn làm gi`, “răng hoải mần
chi?”
Thế này thì nói “ri nì”
“Rứa tề”, thế đó mần chi đây hè?

Cái cây thì noái cái “que”
Còn ở trước hè lại nói cái “cươi”
Cái “ôn” bản mặt tươi tươi
Ưa đi tán bậy là người “vô duyên”

Lấy chồng răng gọi mụ o ?
Anh trai lấy vợ, mình thành mụ o
Mụ o hiền hậu khỏi lo
Mụ o nhiều chuyện là mụ o “dọn”
mồm


Tối qua thì noái “khi hôm”
Hoàng hôn: “Chạng vạng, nghe run
quá trời
Sớm mơi mang “chủi xuốt cươi”
Sài Gòn nghe thấy thì cười bò lăn

Lỡ ưng rồi, biết mần răng !
Cái giọng trọ trẹ…..cũng muốn ăn
chung một nồi
Con gái chưa noái đã cười
Bị người ta noái là người vô duyên.

-st-




Bay Huynh
The big old goat!



Vấn đề ngôn ngữ:

Phượt
***


Trước đây là Hello!, nay thường dùng Hi!

Trước đây là Goodbye!, nay thường dùng Bye!

Ngôn ngữ cũng là sự vật do con người chế tạo ra làm phương tiện cho cuộc sống. Mà phương tiện của cuộc sống luôn thay đổi để được gọi là văn minh, nên ngôn ngữ tất phải đổi thay. Điều này đúng với mọi nơi trên thế giới loài người. Theo đó mà có nhiều tài liệu, thường là các từ điển, sưu tầm phân biệt cổ ngữ và tân ngữ để người đọc và hiểu những gì mà người xưa và người nay muốn truyền đạt. Tất nhiên những gì hợp lý sẽ tồn tại, còn bất hợp lý sẽ tiêu vong. Tuy nhiên ngôn ngữ “đúng, trong sáng …” cũng chưa chắc tồn tại bởi tâm ý con người.


Hình ảnh của ngôn ngữ cũng giống như hình ảnh của chiếc xe hay chiếc TV. Cái xưa không phải là sai, bởi nó sai thì sao nó có thể hoạt động hữu ích được dạo nào; còn cái nay cũng không phải tuyệt đối đúng, bởi tương lai sẽ còn có những cái hay hơn!?


Thực chất của ngôn ngữ là dùng lời để diễn đạt ý. Do đó đạt ý với nội dung tốt, hữu ích thì có thể xem như đạt yêu cầu cho cuộc sống. Nhiều khi lời còn không đạt ý “Ý tại Ngôn ngoại”, nhưng đành phải cảm thông, bằn
g không thì luôn có tranh cãi dài dài.
 


Dưới đây là từ phượt mà trước đây tui cũng thấy lạ được tổng hợp lại như sau:


- Phượt là nói gọn của Lượt phượt, là từ lóng, có nguồn gốc là từ Trượt. Ví dụ:


Bác đang đi trượt chân, bác mặc kệ cho trượt đến đâu thì đến, lúc đó gọi là phượt.


Bác đi trên đường, thấy cảnh đẹp, chụp vài cái ảnh, quên mất mình đang đi nhầm đường, nhưng mặc kệ, vẫn đi tiếp, chụp ảnh tiếp, cũng gọi là phượt.


- Dân phượt: chỉ người đi chơi mà không cần kế hoạch định trước hoặc chuẩn bị cầu kỳ.


- Diễn đàn phượt: là nơi để những người cùng sở thích thích quan hệ nhau nhằm lượm nhặt, tích lũy những gì mình thích để chia sẻ cùng với mọi người.



Đặc sản Gò Công bánh giá chợ Giồng

Chợ Giồng (Gò Công Tây) là nơi có nghề làm bánh giá rất nổi tiếng. Theo lời truyền miệng của cư dân, nghề này xuất hiện cùng lúc với quá trình khai hoang lập ấp của người Việt ở vùng đất này vào thế kỷ XVII

Đặc sản Gò Công bánh giá chợ Giồng Từ lâu bánh giá chợ Giồng đã trở thành một món ăn nổi tiếng, thu hút thực khách gần xa bởi cái vị béo lẫn với vị ngọt của tôm, thanh mát của giá sống và củ sắn. Đặc biệt vị đậm đà của nước mắm tỏi ớt chính là điểm hấp dẫn biết bao khách du lịch khi đến đây.

banh gia cho giong 1 Đặc sản Gò Công bánh giá chợ Giồng

Nói về tên gọi của bánh, thì nhiều người vẫn thường gọi là bánh giá hay bánh vá. Cả hai cánh gọi đều đúng cả vì gọi là bánh giá vì nguyên liệu chính để làm bánh chính là giá còn gọi là bánh vá vì bánh được chiên trên vá. Vì thế gọi là bánh vá cũng đúng nhưng gọi là bánh giá cũng không sai đâu bạn ạ
Bánh giá là món ăn dân dã, cách chế biến truyền thống và gắn với một câu chuyện dân gian. Muốn làm bánh trước hết, hòa bột gạo, bột năng, trứng gà và nước lại thành một hỗn hợp bột hơi sệt, rồi đánh đều, đánh bột càng lâu bánh càng nở, xốp. Tỉ lệ bột năng và bột gạo tùy thuộc sở thích của từng người. Nhiều bột năng bánh sẽ giòn, nhiều bột gạo bánh sẽ dẻo. Tôm được cắt bỏ râu, gai; lột bỏ vỏ và để nguyên con, cũng có thể xắt mỏng để khi chiên tôm mau chín. Gan lợn được xắt lát mỏng và giá sống được rửa sạch. Sau đó ướp thịt nạc bằm, gan heo, tôm với tỏi, muối, bột ngọt cho thấm.
Công đoạn chiên bánh là một khâu quan trọng. Chiên không khéo thì hình dạng bánh sẽ xấu, nhìn bánh không hấp dẫn. Muốn chiên bánh giá cần có vá chiên. Cho giá sống, gan heo, tôm, thịt và vài hạt đậu phộng rang vào trong vá tùy thích, rồi múc bột cho ngập các loại nguyên liệu này. Nhúng vá vào trong chảo dầu đang sôi một lát để cho bánh dính kết lại rồi từ từ rút vá ra.
banh gia cho giong Đặc sản Gò Công bánh giá chợ Giồng

Để tôm vào vá sau cùng trước khi múc bột, để khi chín, hình con tôm nổi rõ trên mặt bánh, vàng ươm trông thật hấp dẫn. Chiên bánh để lửa nhỏ để bánh chín tới, giòn mà không cháy. Khi bánh chín vàng, lần lượt vớt bánh ra theo thứ tự trước sau, xếp trên vỉ tre hoặc vỉ kẽm gác ngang ở miệng chảo cho ráo dầu. Nếu không có vỉ người ta có thể dùng 2 chiếc đũa,  hoặc que tre dài gác ngang qua chảo và đặt bánh lên.
Bánh giá được ăn kèm với bún, rau sống, rau thơm, nước mắm tỏi ớt. Rau sống, rau thơm các loai được xắt nhỏ cho vào tô, từng con bún được gỡ rời ra để lên trên. Kế đến bánh giá được xé hoặc cắt nhỏ ra xếp lên trên cùng, xong tưới nước mắm tỏi ớt cho vừa ăn. Khi ăn trộn đều bánh giá, bún, rau sống, rau thơm lại cho thấm đều nước mắm.
Nguyên liệu để làm bánh bao gồm thịt heo (lợn) nạc, tôm đất, giá, nấm rơm, nấm mèo (mộc nhĩ), cải Bắc thảo, bột gạo, bột đậu nành, óc heo, dầu thực vật hoặc mỡ heo. Để bánh được ngon, giòn, xốp; người ta trộn chung bột gạo với bột đậu nành theo tỷ lệ 1:1 và óc heo, rồi đem ủ khoảng 2 – 3 giờ, sau đó mới đem chiên. Khi làm bánh, người ta cho dầu thực vật hoặc mỡ nước vào chão, đun lên cho thật sôi. Kế tiếp, cho các nguyên liệu m là vừa chín tới, mang ra ăn nóng kèm với rau thơm, nước mắm tỏi ớt và bún.
Bánh giá Chợ Giồng không chỉ là món ăn bình dân; mà nó còn được hiện diện trang trọng trong các bữa tiệc thịnh soạn (cưới hỏi, tân gia, giỗ chạp, v.v…) ở vùng Gò Công. Nhà văn nổi tiếng Hồ Biểu Chánh thường nhắc đến món này trong các quyển tiểu thuyết của
chuẩn bị sẵn vào vá; và nhúng vá ấy vào chão; đến khi chiếc bánh có màu vàng sậmình.
>

Showing posts with label BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 332. Show all posts

Saturday, October 11, 2014


Saturday, October 11, 2014


VŨ ĐÔNG HÀ * HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ

Ban Tuyên giáo Trung ương chữa cháy nhưng lại đổ dầu thêm vào lửa vào bí mật Hội nghị Thành Đô

Vũ Đông Hà (Danlambao) - Chúng Tôi Muốn Biết đã có những tác động đến tâm lý của nội bộ đảng. Sau khi chiến dịch này được khởi xướng, vào ngày 7 tháng 10, 2014 Ban Tuyên giáo Trung ương của đảng CSVN đã soạn thảo một tài liệu và "đề nghị cấp ủy cơ sở triển khai, tổ chức quán triệt, phổ biến đến các cán bộ, đảng viên và người lao động ở đơn vị". (1)

Có 2 điều cần ghi nhận ngay:
1. Tên gọi của Hội nghị Thành Đô được gọi là "Cuộc gặp cấp cao Việt Nam - Trung Quốc tại Thành Đô" nhằm làm nhẹ bớt tính chất của nghiêm trọng của một hội nghị giữa lãnh đạo hai đảng, hai nước và những ký kết đã xảy ra.
2. Những tài liệu được cho là "kích động, bịa đặt, xuyên tạc sự thật" được chính đảng thú nhận là đã "ảnh hưởng đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân".
Vì thế, Ban Tuyên giáo Trung ương (BTGTU) phải soạn "tài liệu tuyên truyền" để chữa cháy.
Trong tài liệu này, BTGTU đã mở đầu bằng việc trình bày bối cảnh quốc tế và trong nước của "Cuộc gặp cấp cao Việt Nam - Trung Quốc tại Thành Đô". Để hiểu rõ hơn và chính xác hơn về bối cảnh quốc tế trong giai đoạn này, xin đọc "Về Hội Nghị Thành Đô" của 2 tác giả Chu Chi Nam và Vũ Văn Lâm đã đăng trên Danlambao (2) và Hồi ký Trần Quang Cơ (3). 
Điểm cần lưu ý là trong phần này, BTGTU đã viết:
Câu "Trung Quốc sẵn sàng cùng Việt Nam thảo luận vấn đề bình thường hoá quan hệ Trung-Việt" có thể xem là nền tảng cho tài liệu 4 trang nhằm tuyên truyền: Trung Quốc chủ động muốn làm hòa để từ đó phủ nhận chuyện đảng cộng sản Việt Nam cầu hòa và lép vế dẫn đến những ký kết bất lợi cho Việt Nam trong Hội nghị Thành Đô.
Do đó, BTGTU đã tiếp tục "tuyên truyền" rằng các lãnh đạo của "đảng ta" sang Thành Đô là do lãnh đạo đảng Trung cộng mời và tạo ấn tượng phía Bắc Kinh muốn cầu hòa:
Sự thực như thế nào?
Theo Trần Quang Cơ, nguyên Ủy viên BCH Trung ương khóa 6, cựu Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao, trong Hồi ký Trần Quang Cơ:
"...Trung Quốc đáp ứng khá nhanh lời tuyên bố của ngoại trưởng Lào - trong bản tuyên bố của Hội nghị bộ trưởng ngoại giao 3 nước Đông Dương lần thứ 13 (tháng 8.86) - trong khi họ vẫn từ chối đàm phán bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, nhằm chia rẽ ba nước Đông Dương, âm mưu bình thường hóa quan hệ riêng rẽ với Lào, cải thiện quan hệ với Liên Xô và Đông Âu để gây sức ép với ta trong vấn đề Campuchia."
Trong khi đó, về phía đảng CSVN đã tìm mọi cách để làm hòa với Trung cộng. Cũng theo Hồi ký Trần Quang Cơ:
"Ngày 7.3.87, Bộ Chính trị CSVN họp xem xét đề án đấu tranh ngoại giao dẫn đến việc Bộ Ngoại Giao đã ra quyết định thành lập Tổ nghiên cứu nội bộ vào ngày 9.4.87 lấy ký hiệu là CP87 với nhiệm vụ "Nghiên cứu chủ trương giải quyết các vấn đề bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, vấn đề Campuchia và hòa bình ở Đông Nam Á..." (Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ là một thành viên trong Bộ phận thường trực CP87.)
Tức là 3 năm trước khi xảy ra Hội nghị Thành Đô, đảng CSVN đã lên phương án tìm cách làm hòa với Trung cộng.
Nguyện vọng cầu hòa với Bắc Kinh cũng được ông Trần Quang Cơ kể lại và đó là nguyện vọng của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và Bộ trưởng Bộ Quốc Phong Lê Đức Anh lúc bấy giờ:
"Tôi nhớ như in cái giọng ngạo mạn kiểu “sứ giả thiên triều” của Từ trong buổi gặp ngày 13.6.90: “Lần này tôi sang Hà Nội chủ yếu để bàn với các đồng chí Việt Nam về vấn đề Campuchia, đồng thời cũng xem xét nguyện vọng của các đồng chí, chúng tôi đã chuẩn bị ý kiến về quan hệ hai nước Trung Quốc - Việt Nam”. Khi nói “nguyện vọng của các đồng chí” là Từ muốn nói đến những điều mà Anh Linh và Lê Đức Anh đã nói với đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy ngày 5 và 6.6.90." 
Đi vào nội dung của Hội nghị Thành Đô, tài liệu của BTGTU trình bày mục đích của "Cuộc gặp cấp cao Việt Nam - Trung Quốc tại Thành Đô" là:

Từ mục đích trên, theo BTGTU hai bên đã "đạt được một số nhận thức chung trong các vấn đề":
Do đó, BTGTU đã xác nhận nội dung của Hội nghị Thành Đô không chỉ để giải quyết tình hình Cam Bốt mà còn là quan hệ Việt Trung, trong đó có: "thương lượng giải quyết các bất đồng, tranh chấp, đặc biệt các tranh chấp về lãnh thổ trên đất liền và trên biển."
Đặc biệt, BTGTU thú nhận có việc: "bổ sung các hiệp định đã ký kết giữa 2 nước"
Câu hỏi đặt ra: những hiệp định đã ký kết đã được bổ sung những gì?
BTGTU cũng xác nhận có Văn kiện kết thúc Cuộc gặp Cấp cao tại Thành Đô, biên bản làm việc, và các tài liệu khác "khẳng định lập trường của ta ở Cuộc gặp Cấp cao tại Thành Đô, thể hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của đảng ta, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.":
Nếu đúng như thế và với nội dung "tích cực" như BTGTU đã "tuyên truyền" thì không có lý do gì đảng CSVN không công bố toàn bộ nội dung những "Văn kiện kết thúc Cuộc gặp Cấp cao tại Thành Đô", "biên bản làm việc", và "các tài liệu khác" cho nhân dân Việt Nam được biết.
Chỉ có việc công bố mọi văn kiện có chữ ký giữa những người cầm đầu hai nước mới có thể minh xác được điều mà BTGTU viết trong tài liệu gửi đến các cấp trong đảng:
Mở ngoặc ở đây về phần "không hề có vấn đề Trung Quốc gây sức ép với ta về nhân sự":
Theo nguyên Ủy viên BCH Trung ương khóa 6, cựu Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao Trần Quang Cơ: "Sau khi xảy ra va chạm giữa Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch và trưởng đoàn Trung Quốc Từ Đôn Tín, sức ép vào nội bộ ta càng mạnh hơn: suốt nửa cuối 1990 đến 1991, Trung Quốc phớt lờ Bộ Ngoại giao, chỉ làm việc với Ban Đối ngoại; Ngoại trưởng Tiền Kỳ Tham từ chối gặp Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch tại kỳ họp Đại hội Đồng LHQ ở Nữu-ước tháng 9.90. Trước đó, ý đồ Trung Quốc phân hóa nội bộ ta đã bộc lộ rõ: muốn ta phải thay đổi Bộ trưởng Ngoại giao. Không chỉ thế, Trung Quốc còn lợi dụng sự cả tin của lãnh đạo ta để phá hoại uy tín đối ngoại của ta bằng cách dùng thủ đoạn cố ý lộ tin ra với các nước."
Kết quả là Bộ trưởng Ngoại giao lúc bấy giờ là Nguyễn Cơ Thạch bị loại ra khỏi phái đoàn tham dự Hội nghị Thành Đô. Nguyễn Cơ Thạch cũng đã nhận định về thỏa thuận Thành Đô 1990: "Một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã khởi sự."
Kết luận:
1. Tài liệu tuyên truyền của Ban Tuyên giáo Trung ương của đảng CSVN xác nhận Hội nghị Thành Đô năm 1990 có nội dung "thương lượng giải quyết các bất đồng, tranh chấp, đặc biệt các tranh chấp về lãnh thổ trên đất liền và trên biển." và "bổ sung các hiệp định đã ký kết giữa 2 nước"
2. Ban Tuyên giáo Trung ương xác nhận vấn đề Hội nghị Thành Đô có "ảnh hưởng đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân", thông tin "Việt Nam sẽ thành khu tự trị thuộc Trung Quốc, giống như Nội Mông, Tây Tạng, Tân Cương và Quảng Tây vào năm 2020..." gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và trong các tầng lớp nhân dân". Tuy nhiên, BTGTƯ chỉ gửi tài liệu đến nội bộ đảng để TUYÊN TRUYỀN, thay vì công khai trình bày mở rộng trước nhân dân để giải quyết những "ảnh hưởng đến tư tưởng của nhân dân" và những "bức xúc trong tầng lớp nhân dân".  Điều này chứng tỏ rằng đảng CSVN tiếp tục ra sức che giấu sự thật của Hội nghị Thành Đô đối với nhân dân Việt Nam.
3. Phản ứng của đảng CSVN cho thấy chiến dịch Chúng Tôi Muốn Biết đang có những tác động lên tinh thần của các đảng viên và làm cho lãnh đạo đảng lo lắng. Tuy nhiên, bàn tay không thể che được mặt trời, BTGTƯ trong khi cố gắng tuyên truyền chữa cháy cho những điều bưng bít, sai trái của lãnh đạo đảng trong Hội nghị Thành Đô đã đổ dầu thêm vào lửa, đã làm cho những nghi vấn của người dân về Hội nghị có tên "Bán Nước" vào năm 1990 ngày càng gia tăng.

TIN QUỐC TẾ

Báo chí Trung Quốc lên án Mỹ đứng sau các cuộc biểu tình ở Hồng Kông

Những người biểu tình ủng hộ dân chủ tại Mongkok, Hồng Kông, ngày 11/10/2014
Những người biểu tình ủng hộ dân chủ tại Mongkok, Hồng Kông, ngày 11/10/2014
Ðảng Cộng sản Trung Quốc đang lập lại cáo buộc rằng Hoa Kỳ đứng sau các cuộc biểu tình đòi dân chủ đã làm tê liệt nhiều khu vực ở Hồng Kông trong hai tuần qua.
Bài xã luận trên trang nhất của tờ Nhân dân Nhật báo do nhà nước điều hành một phần, số ra hôm thứ Bảy, nói rằng các giới chức Hoa Kỳ, các tổ chức phi chính phủ và truyền thông đang tích cực xúi giục một “cuộc cách mạng màu" trên lãnh thổ bán tự trị này của Trung Quốc.
Bài xã luận nói Hoa Kỳ ra vẻ bênh vực dân chủ và nhân quyền, nhưng thực chất là “bảo vệ cho lợi ích của Mỹ và làm suy yếu các chính phủ mà Mỹ xem là không chịu phục tùng.”
Nhật báo thường phản ánh các ý kiến ủng hộ Ðảng Cộng sản này trích dẫn các “tin tức truyền thông” ngụ ý rằng bà Louisa Greve của tổ chức ủng hộ dân chủ National Endowment for Democracy có trụ sở ở Washington đã gặp gỡ với các sinh viên biểu tình cách đây vài tháng.
Đây được xem là lên án trực tiếp nhất của Bắc Kinh về sự dính líu của Mỹ trong phong trào biểu tình đòi hỏi phải để cho người dân Hồng Kông tự chọn lãnh đạo của họ trong cuộc bầu cử năm 2017.
Hoa Kỳ muốn thấy phổ thông đầu phiếu ở Hồng Kông, nhưng chưa lên tiếng trực tiếp ủng hộ phong trào bất tuân dân sự vốn đang tạo đà lớn mạnh ở Hồng Kông.
Hàng ngàn người Hồng Kông đã xuống đường biểu tình hôm thứ Sáu để lập lại kêu gọi của họ đòi cải cách bầu cử sau khi chính quyền Hồng Kông đột ngột bãi bỏ kế hoạch gặp gỡ với các thủ lãnh biểu tình.
Hôm thứ Sáu, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường nói rằng ông tin tưởng có thể bảo đảm về sự “ổn định xã hội” của Hồng Kông và Trung Quốc sẽ không thay đổi chính sách “một quốc gia, hai chế độ” trên lãnh thổ bán tự trị này.
Trong cuộc họp với Thủ tướng Đức Angela Merkel ở Berlin, ông Lý nói rằng sự ổn định lâu bền của Hồng Kông phải được bảo đảm cho người dân Hồng Kông và cho Hoa lục.
Chiều tối thứ Năm, nhà cầm quyền đã bãi bỏ cuộc nói chuyện với các thủ lãnh biểu tình, và nói rằng các cuộc đối thoại được dự kiến vào ngày thứ Sáu không thể thực hiện được vì các cuộc biểu tình mà họ xem là bất hợp pháp vẫn tiếp diễn.
Chính quyền thân Bắc Kinh đã tức giận bởi những đe dọa của các thủ lãnh sinh viên sẽ gia tăng các cuộc biểu tình nếu đòi hỏi cải cách bầu cử của họ không được đáp ứng.
Những người biểu tình đòi Hành chánh Trưởng quan Hồng Kông Lương Chấn Anh từ chức, và Bắc Kinh phải rút lại quyết định duyệt xét ứng cử viên của lãnh thổ này trong cuộc bầu cử năm 2017.


Trung Quốc phản đối Mỹ bán vũ khí cho Việt Nam

media 
Phi cơ do thám P3C Orion : Một ưu tiên của Việt Nam trong trường hợp Mỹ giảm cấm vận vũ khí.www.military-today.com
Trung Quốc phản đối quyết định của Hoa Kỳ dỡ bỏ một phần lệnh bán vũ khí sát thương cho Việt nam, xem đây là một hành động có tính chất “can thiệp” và “gây mất ổn định”.
Trong một bài báo đề ngày 10/10/2014, tờ Nhân dân Nhật báo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc, cho rằng chính sách của Mỹ về việc bán vũ khí sát thương cho Việt Nam thể hiện rõ rệt sự “can thiệp” của Hoa Kỳ vào thế cân bằng lực lượng ở khu vực châu Á.

Vào đầu tháng này, Bộ Ngoại giao Mỹ đã loan báo dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, vẫn được thi hành từ nhiều thập niên qua. Theo thông cáo của bộ Ngoại giao Mỹ, việc giảm nhẹ cấm vận này là một phần trong chiến lược của Mỹ nhằm giúp các nước ở vùng Biển Đông tăng cường khả năng về an ninh hàng hải. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng nhấn mạnh rằng việc bán các vũ khí cho Việt Nam sẽ được Washington cứu xét theo từng trường hợp.

Tuy nhiên, quyết định nói trên của Mỹ được đưa ra vào lúc căng thẳng gia tăng giữa Hà Nội với Bắc Kinh kể từ khi Trung Quốc vào tháng 5/2014 đặt giàn khoan ở khu vực quần đảo Hoàng Sa mà hai nước đang tranh chấp. Quan hệ giữa hai nước càng xấu đi do việc Trung Quốc xây phi đạo quân sự trên đảo Phú Lâm, Hoàng Sa, một hành động bị phía Việt Nam cực lực phản đối.
Trong bài báo hôm qua, tờ Nhân Dân Nhật Báo viết rằng: “ Trung Quốc và Việt Nam đã ký thỏa thuận giải quyết các vấn đề trên biển còn tồn tại giữa hai nước. Hơn nữa, vào năm 2013, hai bên đã thiết lập nhóm công tác chung để thảo luận về khai thác phát triển biển”. Cho nên đối với Nhân dân Nhật báo, việc Mỹ bán vũ khí cho Việt Nam sẽ phá hỏng sự “đồng thuận” giữa Việt Nam với Trung Quốc, và gây phương hại đến ổn định và làm phức tạp thêm các tranh chấp.

Tờ Nhân dân Nhật báo cũng tỏ vẻ bực tức khi viết rằng, “trong khi đã giảm nhẹ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, Hoa Kỳ vẫn duy trì lệnh cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc, và vẫn hạn chế việc xuất khẩu công nghệ cao cấp cho Trung Quốc”.
Cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc còn cho rằng quyết định của Hoa Kỳ bán vũ khí cho Việt Nam sẽ “cản trở việc phát triển quan hệ Mỹ-Trung”
 

Giới 'Bình Nhưỡng học' tại Seoul : Kim Jong Un bị đảo chánh

media 

Tướng Hwang Pyong So (bên trái, phía dưới), trong quân phục, ngồi cạnh lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong Un (ngồi giữa). Ảnh chụp ngày 10/05/2014, do hãng tin Nhà nước Bắc Triều Tiên KCNA cung cấp.REUTERS/KCNA
Kim Jong Un biến đâu rồi ? Lãnh tụ tối cao của Bắc Triều Tiên đã không xuất hiện nhân lễ kỷ niệm ngày thành lập Đảng Lao động Triều Tiên ngày 10/10/2014, một sự vắng mặt bất thường bắt đầu từ ngày 03/09, trái ngược hoàn toàn với tình hình trước đó, khi bộ máy tuyên truyền phô trương hình ảnh của lãnh đạo Bình Nhưỡng hầu như mỗi ngày, trong một chế độ mà Kim Jong Un, một mình là hiện thân của tất cả quyền lực.
Từ sau chuyến viếng thăm Hàn Quốc rất đặc biệt và bất ngờ ngày 04/10/2014 của một viên tướng được xem là nhân vật số 2 của Bắc Triều Tiên, các suy đoán về số phận Kim Jong Un được nghe thấy ngày càng nhiều, các mối lo ngại cũng gia tăng. Thậm chí, giới gọi là "Bình Nhưỡng học" tại Hàn Quốc cũng gợi lên giả thuyết đảo chính. Từ Seoul, Thông tín viên Frédéric Ojardias đã có tìm đáp án cho câu hỏi : Kim Jong Un bị bệnh hay bị lật ?

Giả thuyết 1 : Sức khỏe không ổn
Kim Jong Un hôm 10/10/2014 đã không đến viếng lăng mộ của người cha Kim Jong Il và người ông Kim Il Sung. Trước đây, từ khi lên nắm quyền tại Bình Nhưỡng, ông chưa bao giờ bỏ lỡ buổi lễ này.
Tại Seoul, khả năng bất ổn ở trên thượng tầng của một chế độ đang trang bị vũ khí hạt nhân đã gây nhiều lo ngại... và suy đoán. Người Bắc Triều Tiên lưu vong tại Hàn Quốc đã nói đến đảo chính, trong lúc báo chí nêu lên vấn đề sức khỏe như bệnh tiểu đường hay khả năng bị vỡ mắt cá chân...
Sự vắng mặt này càng được bình luận sôi nổi vì trước khi bị biệt tăm, ở Bắc Triều Tiên, đâu đâu cũng thấy Kim Jong Un ! Hầu như ngày nào cũng vậy, hình ảnh chính thức đều cho thấy ‘lãnh tụ tối cao’ đến quan sát một bệ phóng hỏa tiễn, thăm một nông trại trồng nấm, viếng một trạm trượt tuyết, một nhà thương .v..v...
Vào tháng 7, đài truyền hình nhà nước cho thấy Kim Jong Un đi khập khiễng. Cuối tháng 9, như để giải thích cho sự vắng mặt, chính quyền Bắc Triều Tiên đã công nhận Kim Jong Un bị ‘mệt’ vì làm việc quá nhiều. Một sự công nhận chưa từng thấy, và từ đó tin đồn sôi nổi hẳn lên.
Truyền thông Hàn Quốc khẳng định là Kim Jong Un bị giải phẫu mắt cá, tin đồn khác cho là lãnh đạo 31 tuổi của Bắc Triều Tiên bị bệnh tiểu đường hay bệnh gút.
Người Bắc Triều Tiên lưu vong ở Hàn Quốc từng khẳng định là quyền hành ở Bình Nhưỡng được tạm thời giao cho người em gái của Kim Jong Un.
Giả thuyết 2 : Bị lật đổ từ sau khi xử tử người dượng Jang Song Taek
Nhưng giả thuyết ngày càng đuợc gợi lên là Kim Jong Un bị lật đổ. Nếu đúng như thế thì ai nắm quyền ở Bình Nhưỡng ?
Jan Jin Sung, một viên chức Bắc Triều Tiên tỵ nạn ở Hàn Quốc, cho rằng là một cơ quan của Đảng, Ban Tổ chức và Định hướng, đã nắm quyền từ năm ngoái, vào lúc ông Jang Song Taek người dượng của Kim Jong Un bị xử tử.
Theo nhân vật này thì cơ quan đảng nói trên duy trì Kim Jong Un như một lãnh đạo mang tính chất biểu tượng, vị Kim Jong Un có tính chính đáng đối với dân chúng : 60 năm tuyên truyền đã tạo nên hình ảnh ‘thánh sống’ cho dòng họ Kim.
Quyền lực thực thụ trong tay Tướng Hwang Pyong So
Nhưng quyền lực thực thụ là ở nơi khác. Ông Jang Jin-sung nhận định là người nắm quyền ở Bình Nhưỡng là tướng Hwang Pyong So, đã thăng chức một cách ngoạn mục từ một năm nay. Đây chính là người đã gây bất ngờ khi đến Seoul ngày 04/10/2014, trong một chuyến viếng thăm ngoại giao.
Jang Jin Sung cũng lưu ý là tướng Hwang có cận vệ đi theo, một đặc quyền trước đây dành cho người lãnh đạo tối cao. Một điểm bất thường khác là ông Hwang vẫn mặc quân phục trong chuyến đi, trong khi trước đây chính quyền Bình Nhưỡng trong những chuyến công tác ngoại giao, thường cử giới dân sự.
Ông Jang Jin Sung còn thấy nhữung điều kỳ lạ, chứng tỏ một sự lộn xộn ở thượng tầng : Hàng loạt hành động hòa dịu và hung hăng như đã diễn ra vào hôm thứ 07/10. Theo ông Jang điều này chứng tỏ một sự ‘rối ren ở thượng tầng’.
Các nhà "Bình Nhưỡng học" xây dựng cả một lý thuyết từ một vài chi tiết cóp nhặt
Nghĩ sao về lập luận nói trên ? Có thể tin được không ? Phân tích này đến từ một người rất am tường về guồng máy của chế độ, có điều là không có bằng chứng xác đáng cụ thể.
Người ta thường gọi một cách diễu cợt những chuyên gia xây dựng cả một lý thuyết từ một vài chi tiết ghi nhận được là các nhà « Bình Nhưỡng học ».
Nhiều nhà phân tích thì lại cho là Kim Jong Un vẫn nắm quyền, và sự vắng mặt của ông có lẽ chỉ do một vấn đề sức khỏe. Tuy nhiên việc Kim Jong Un vắng mặt vào ngày lễ trọng đại 10/10/2014, kỷ niệm 69 năm ngày thành lập Đảng Lao động có khả năng làm dấy lên trở lại các tin đồn.
Cho đến giờ, chính quyền Hàn Quốc tiếp tục bác bỏ các tin kể trên. Bộ trưởng Bộ Thống nhất khẳng định răng Bắc Triều Tiên dường như vẫn được lãnh đạo như bình thường.
Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, nếu sự vắng mặt của Kim Jong Un kéo dài, tác hại tối thiểu của sự cố đó là làm suy yếu phần nào quyền kiểm soát của Kim Jong Un trên giới ưu tú tại Bình Nhưỡng.
 http://vi.rfi.fr/chau-a/20141011-gioi-binh-nhuong-hoc-tai-seoul-kim-jong-un-bi-dao-chanh/

 

Bí ẩn tung tích Chủ tịch Bắc Hàn Kim Jong-Un?

Sự vắng mặt như vậy vẫn từng xảy ra, nhưng lần này gây chú ý. Nhà nghiên cứu về Bắc Hàn của đại học Nam California Mike Chinoy cho biết Kim Jong-Il, người cha, cũng thường vắng bóng giống như Un.
Việt-Long- theo Isaac Stone Fish, Foreign Policy, CNN
2014-10-09

Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
kim-un
Lãnh đạo Bắc Hàn Kim Jong-Un
Courtesy of blog.ilgiornale.it
Hôm thứ bảy tuần trước nữa toán tuyển thủ quốc gia Bắc Hàn thi đấu bóng tròn Á Vân hội Incheon đã hội họp để gọi là " nhớ nhung nung nấu vị lãnh tụ khả kính, Thống Chế Kim Jong-Un"
Thông tấn xã KCNA của Bình Nhưỡng viết :"Tâm hồn của toàn bộ nhân viên phái đoàn và cầu thủ đều hướng về Người, mà họ xa cách đã lâu, dù Người đang thức hay ngủ!"
Ký giả ngoại quốc thì chỉ cho rằng phái đoàn cầu thủ không phải là những người duy nhất đang tự hỏi về lãnh tụ trẻ tuổi: Kim Jong-Un đã vắng mặt trước công chúng từ ngày 3 tháng 9.

Bệnh hoạn hay quản chế?

Sự vắng mặt không phải là chưa từng xảy ra, nhưng lần này gây chú ý. Nhà nghiên cứu về Bắc Hàn của đại học Nam California Mike Chinoy cho rằng Kim Jong-Il, người cha, cũng thường vắng bóng giống như Un.  Từ ngày nắm quyền lực vào tháng 12 năm 2011, Un đã ba lần vắng mặt dài ngày: 21 ngày, 24 ngày và 18 ngày vào tháng 3- 2012, tháng 6- 2012 và tháng 1-2013. Lần này Un vắng bóng đã 26 ngày. Bức màn chính trị kín mít của Bắc Hàn không cho ai thấy Un đi đâu, làm gì.
Lời giải thích đơn giản nhất là ông ta đang dưỡng bệnh. Tin đồn phổ biến nhất là Un bị gout, một chứng bệnh gây cơn đau dữ dội bất ngờ làm sưng đỏ căng quanh khớp xương.
Lúc lên ngôi lãnh tụ Un đã có vẻ quá nặng cân, lại trông có vẻ tăng cân từ đó đến nay. Béo phì làm tăng chứng đau khớp của bệnh gout. (Báo tabloid Daily Mirror của Anh còn hân hoan loan tin không nguồn là ông bệnh vì ăn phô-mai quá nhiều.)
Trong khi đó các chuyên gia tuyên truyền của Bắc Hàn mô tả sự vắng mặt của Un là vì ông đang chịu khổ cho nhân dân. 25 tháng 9, Truyền hình Chosun của Nhà nước chiếu đoạn video tựa đề "Cải tiến cuộc sống nhân dân" với hình ảnh lãnh tụ Kim tham gia lao động chân tay, mồ hôi nhuễ nhoại, dù có tài liệu chính thức cho biết ông đang "khó ở".  Giáo sư Soon Yoon Lee, chuyên gia về Bắc Hàn, cho biết  hôm 23 tháng 9 nhật báo Lao Động đã đề cập đến "cuộc di hành gian khổ của lãnh tụ Kim trong tiết đại thử nóng nhất của mùa hè" – chính là từ ngữ được truyền thông Bắc Hàn dùng sau khi cha của Un, lãnh tụ Kim Jong-Il bị tai biến não bộ hồi tháng 9-2008.
Nếu Un chỉ tĩnh dưỡng thì ông ta đang ở đâu? Nhà nghiên cứu Curits Melvin của viện Mỹ-Hàn thuộc đại học Johns Hopkins cho hay tin chính thức nói rằng ông trải qua phần lớn thời gian ở Wonsan và Kangdong, một thành phố phía đông nam và một huyện nông thôn của Bình Nhưỡng. Khu trại của gia đình họ Kim ở Kangdong là nơi Kim Jong-Il  hồi phục sau cơn tai biến não.
Nhưng nếu Un không đau yếu thì chuyện gì khác đã xảy ra? Quả thật việc gì cũng có thể xảy đến. Phải chăng Un sợ bị ám sát, đang tránh con mắt công chúng? Phải chăng ông đã bị quản chế tại nhà, và một bè đảng tướng lãnh đang cai trị Bắc Hàn? Hay là ông chỉ đi nghỉ mát thôi? Không thể nói được.

Thiếu nữ trên đôi mươi

Đài CNN hôm thứ năm 9 tháng 10 dẫn tin từ một nhóm nghiên cứu gồm các nhà bất đồng chính kiến của Bắc Hàn cho rằng em gái út của nhà Kim là Kim Yo-Jong có thể đang nắm giữ quyền lực.
kimYoJong
Kim Yo-Jong, em gái út của Kim Jong-Un - Courtesy of Channel News Asia
Yo-Jong là em cùng mẹ với Jong-Un trong gia đình 4 người vợ của Kim Jong-Il. Yo-Jong là Phó Chủ tịch đảng Công Nhân, một địa vị đầy quyền lực, nhưng ít được biết tới, và mới bắt đầu xuất hiện trước công chúng từ đầu năm nay.
Nhóm nghiên cứu Bắc Hàn nói ít ra Yo-Jong cũng đang tạm thời nắm quyền. Giới nghiên cứu cũng cho rằng nếu lãnh tụ Un đau bệnh khó khăn thì phải là một người trong gia đình Kim quán xuyến lâu đài quyền lực.
Nhà nghiên cứu Bắc Hàn Victor Cha nói :"Nếu Yo-Jong chỉ mới trên hai mươi đã phải nắm quyền cai trị, dù là tạm thời, thì đó là điều báo động, nghĩa là Jong-Un đang gặp điều gì rất nghiêm trọng, phải gắng điền chỗ trống bằng cô em quá trẻ"
Mọi con mắt theo dõi đều ngóng chờ đến ngày mai, thứ sáu 10 tháng 10, là dịp lể kỷ niệm lần thứ 69 ngày thành lập đảng Công Nhân. Kim Jong-Un dự lễ này  năm ngoái. Nếu Un vắng mặt, mọi đồn đãi về ông sẽ tăng vọt, Nếu ông dự lễ, giới tình báo sẽ hết sức chăm chú vào dáng vẻ của Un, xem cử chỉ dáng điệu có nói lên được điều gì về nhà độc tài trẻ tuổi và tàn khốc này không.
Những sự kiện này gợi ra khung cảnh âm mưu ghê rợn trong các lâu đài u ám xám xịt ở Bình Nhưỡng.
Nhà nghiên cứu theo dõi Bắc Hàn Daniel Pinlston nói với The Guardian :"Các nhà độc tài rất đa nghi về những kẻ thách thức quyền lực của họ, và tất nhiên họ rất dễ bị xâm hại khi ở trong trạng thái phải dùng thuốc an thần"
Ý kiến (6)
 
 

Phạm Chí Dũng: Mỹ sẽ không vồ vập như Việt Nam tưởng tượng

media 
Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry (phải) và người đồng nhiệm Việt Nam Phạm Bình Minh tại Washington ngày 02/10/2014.REUTERS/Yuri Gripas
Cuộc hội kiến đã được chờ đợi từ lâu và có lúc tưởng chừng như không thành, giữa Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh và người đồng nhiệm Hoa Kỳ John Kerry rốt cuộc cũng đã diễn ra tại Washington ngày 02/10/2014.Chuyến viếng thăm chính thức Hoa Kỳ của ông Phạm Bình Minh có ý nghĩa gì, và sắp tới quan hệ Việt-Mỹ liệu có những tiến triển đủ nhanh và đủ mạnh?
Chúng tôi đã đặt câu hỏi này với nhà bình luận Phạm Chí Dũng ở Saigon.
“Về nhà”
RFI : Thân chào anh Phạm Chí Dũng. Cảm nhận của anh sau cuộc gặp giữa hai Ngoại trưởng Phạm Bình Minh - John Kerry ở Washington vào đầu tháng 10 năm nay như thế nào ?
Nhà bình luận Phạm Chí Dũng : Nói thực lòng, tôi có cảm giác ông Phạm Bình Minh như được “về nhà”. Có một bài tường thuật cho biết trong một buổi nói chuyện kèm trả lời phỏng vấn, vào lúc ông Minh đang thao thao về Trung Quốc và cử tọa đang chăm chú nghe, bỗng cái micro đổ xuống bàn, gây một tiếng “ùm” rất to như bom nổ trong loa, làm cả hội trường giật thót mình (trước đó khi nói về kinh tế và tình hình trong nước thì micro chẳng sao cả). Thế nhưng ông Phạm Bình Minh tỏ ra rất nhanh trí và còn nói đùa rằng nói đến Trung Quốc nên “nó” thế đấy, làm hội trường cười ồ và khiến cho “bi kịch” về câu chuyện micro mau chóng trôi qua.
Tôi không nhớ đã có lần nào ông Minh xử trí linh hoạt và thoải mái như vậy trong các cuộc ra mắt công luận quốc tế trước đây. Rõ ràng phải ở trong tâm trạng bình yên, sảng khoái và thành tích, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam mới có được phút xuất thần, thoát khỏi trạng thái căng cứng thường xuyên của ông.
Cũng có một chi tiết khác thể hiện thái độ của giới ngoại giao Việt Nam liên quan đến sự kiện “tái lập bang giao Việt - Mỹ” vào lần này. Khi báo điện tử Vietnamnet phỏng vấn : “Gần đây, Mỹ đưa ra ý tưởng “Đông kết” trong vấn đề tranh chấp ở Biển Đông. Theo quan sát của ông, đề xuất này phản ánh ý đồ của Mỹ như thế nào…”, thì ông Trần Việt Thái - Phó viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược của Học viện ngoại giao lập tức “chỉnh” ngay: “Nếu nói ý đồ của Mỹ thì hơi nặng…”.
Cần chú ý rằng giới ngoại giao Việt Nam, vốn chịu ảnh hưởng sâu xa của nền chính trị lắt léo và thâm hiểm Trung Quốc, thường rất thích cường điệu và chơi chữ sao cho vừa thế hiện tính thông thái nhưng cũng vừa bảo đảm tính “kiên định”. “Ý đồ” là một trong trong những từ đặc thù nhất mà giới lãnh đạo và hệ thống tuyên truyền Việt Nam dành cho người Mỹ trước đây, chẳng hạn như “ý đồ diễn biến hòa bình”, tất nhiên mang hàm ý còn lâu mới tích cực. Nhưng nếu để ý, có thể nhận ra rằng cứ vào mỗi thời điểm quan hệ Việt - Mỹ có dấu hiệu nồng nàn hơn, chẳng hạn như vào năm 2007 khi Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết sang Mỹ gặp Tổng thống George Bush và Việt Nam được gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, hay vào chính thời điểm này, câu chữ của giới ngoại giao Việt Nam lập tức dịu dàng và mơn trớn hơn khá nhiều.
RFI : Làm sao ông Phạm Bình Minh đến được Hoa Kỳ, trong khi cách đây không lâu chuyến đi của ông ấy còn bị hoãn lại chưa biết đến khi nào?
Trạng thái bị đình hoãn lâu ngày như vậy càng khiến người ta tăng cảm xúc “nhớ nhà”. Đáng lý ra, ông Phạm Bình Minh đã được “về nhà” từ tháng 6/2014 khi nhận lời mời trực tiếp của Ngoại trưởng John Kerry, ngay sau vụ giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc tiến chiếm Biển Đông. Tuy vậy suốt từ đó đến gần đây, ông Minh chẳng hề được sang Mỹ, thay vào đó lại phải dự tiếp Dương Khiết Trì là ủy viên Quốc vụ viện Trung Hoa ở Hà Nội, hoặc tiếp xúc căng cứng chán ngắt với Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc là Vương Nghị.
Tôi cho rằng chỉ vào đầu tháng 10/2014, vai trò của ông Phạm Bình Minh mới thực sự phần nào có ý nghĩa, ít ra cũng trên danh nghĩa khi được Bộ Chính trị chấp thuận cho đàm phán song phương với Hoa Kỳ.
Sở dĩ nói như vậy vì gần như cùng lúc với sự có mặt ở Washington của ông Minh, Bộ Chính trị cũng tỏ rõ vai trò đối ngoại, nghĩa là một phái đoàn của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng xuất hiện ở Hàn Quốc, với kết quả đặc biệt nhất sau 21 phát đại bác chào mừng là phía Việt Nam đã đồng thuận với Hàn Quốc trong tuyên bố chung về “không chấp nhận” (có người dịch là “không dung thứ”) việc CHDCND Triều Tiên leo thang vũ khí hạt nhân và đe dọa nền hòa bình quốc tế. Cùng lúc, những tờ báo đảng như Quân Đội Nhân Dân bắt đầu hy vọng về “niềm tin đối tác hợp tác chiến lược” giữa Việt Nam với một quốc gia đồng minh quân sự truyền thống, từng bị Việt Nam chỉ trích là “chư hầu của Mỹ”, là Hàn Quốc. Ngược lại, bình diện ngoại giao Việt Nam - Triều Tiên đang có nguy cơ bị “đảo chính”.
Như vậy, có thể hiểu là chuyến đi Hoa Kỳ của một quan chức cao cấp trong Chính phủ như ông Phạm Bình Minh là do “đảng chỉ đạo” và nằm trong đường hướng cùng lộ trình hòa dịu quan hệ Việt - Mỹ, thậm chí còn mang hơi hướng mong ngóng đến một mối liên minh quân sự Việt - Mỹ trong tương lai, để tránh mũi lao từ Trung Quốc, chứ không hẳn do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng một mình quyết định.
Tuy thế, cũng có thể hiểu là mặc dù không chiếm thế thượng phong, nếu không nói là ngược lại, trong các cuộc tiếp xúc song phương Việt - Mỹ từ tháng 7/2014 đến nay, việc gia tăng quan hệ với Mỹ cũng làm cho những người bên chính phủ cảm thấy hài lòng hơn, tuy có thể còn ít ỏi so với tham vọng “Mỹ tiến” của họ.
“Chỉ muốn nhận không muốn cho”
RFI : Vì sao kết quả cuộc gặp John Kerry và Phạm Bình Minh không thấy nêu ra tiến trình đàm phán cụ thể để “hoàn tất TPP”?
Đây là một vấn đề tế nhị về phía Hoa Kỳ và bi kịch đối với Việt Nam. Vào đúng lúc này, “thời điểm vàng” đã trôi qua, trong khi trước đây Tổng thống và chính phủ Mỹ có khá nhiều quyền hành để quyết định về TPP cho Việt Nam. Thế nhưng phần lớn cơ hội đã bị phía Việt Nam bỏ lỡ. Trong hơn một năm qua từ cuộc viếng thăm Nhà Trắng của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, những cam kết về dân chủ và nhân quyền vẫn bị Hà Nội thực hiện một cách cố tình trì hoãn và quá sức chậm chạp, do vậy không thể khiến cho Quốc hội Mỹ hài lòng.
Hãy xem Việt Nam có bao nhiêu cơ hội? Ít nhất, họ đã đón tiếp John Kerry ở Hà Nội vào tháng 12/2013, rồi đón nữ Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Wendy Sherman vào tháng 3/2014. Sau đó, cơ hội lớn không kém là Ủy viên bộ chính trị Phạm Quang Nghị sang Mỹ để “trút bầu tâm sự”, để sau đó cả Thượng nghị sĩ Cộng hòa John McCain lẫn Chủ tịch Hội đồng Liên quân Mỹ Martin Dempsey đều lập tức có mặt tại Hà Nội để tâm sự nhiều hơn. Chưa kể, Việt Nam còn có đến hai dịp để bày tỏ thiện tâm ở Genève, Thụy Sĩ vào tháng Hai và tháng Sáu năm 2014. Nhưng bi kịch cho Nhà nước Việt Nam chính là ở chỗ họ luôn muốn nhận quá nhiều nhưng lại chẳng cho đi bao nhiêu.
Chúng ta nên để ý là cùng thời gian với cuộc đàm phán cấp cao về TPP tại Hà Nội vào đầu tháng 9/2014, đã không có bất kỳ tù nhân chính trị nào được Nhà nước Việt Nam đặc xá vào dịp Quốc khánh 2/9. Sau đó đến cuối tháng 10/2014, dường như chịu một sự thúc ép ngày càng căng từ quốc tế lẫn trong nội bộ, Bộ Công an mới chịu thả 5 tù nhân lương tâm, nhưng nói xin lỗi, toàn những người “sắp chết” và gần như đã mất “sức lao động dân chủ”, có nghĩa là hầu như không còn “nguy hiểm” gì đối với sự tồn tại của chính quyền. Mà thả như vậy thì chỉ mới là nhỏ giọt và chẳng thể đủ thành tâm trước sự đòi hỏi rốt ráo của cộng đồng quốc tế, do đó vẫn làm cho Quốc hội Hoa Kỳ trở nên quá khó nghĩ trước khi đưa ra một quyết định về Việt Nam có được tham gia vào TPP hay không.
Trong khi đó, càng về sau này, quyền lực càng chuyển dần sang lưỡng viện Hoa Kỳ, trong đó có cơ chế thông qua quyền đàm phán nhanh TPP (fast track). Có nghĩa là vào lúc này, ngay cả Tổng thống Obama cũng không còn được toàn quyền quyết định về TPP, mà phải chờ cuộc bầu cử Quốc hội Mỹ diễn ra vào giữa tháng 11/2014 và sau đó đợi cơ quan này thông qua quyền đàm phán nhanh TPP trong sớm nhất vào đầu năm 2015.
Rất có thể, đó là lý do để dù có muốn, ông John Kerry cũng không thể công bố với ông Phạm Bình Minh về một lộ trình nào đó để “hoàn tất TPP”.
RFI : Đầu năm nay, Tổng thống Obama hy vọng sẽ “kết thúc TPP” vào cuối năm. Có cách nào để đẩy nhanh hy vọng đó?
Cách tốt nhất và nhanh nhất hiện thời là cần phải có một sự chuyển biến mạnh về “tư duy” và cách thức hành xử đối với tù nhân lương tâm, theo phương pháp luận mà Tổng thống Thein Sein của Miến Điện đã tiến hành vào năm 2012.
Tôi tin rằng nếu Nhà nước Việt Nam chấp nhận thả ngay một số tù nhân lương tâm quan trọng trong danh sách vài chục người do phía Mỹ yêu cầu như Linh mục Nguyễn Văn Lý, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Lê Quốc Quân, Tạ Phong Tần…, đồng thời hợp thức hóa quyền lập hội cho xã hội dân sự và công đoàn độc lập cho công nhân ở Việt Nam, thì ngay lập tức, cánh cửa TPP cho Việt Nam sẽ mở toang ở Quốc hội Mỹ. Khi đó, lưỡng viện Mỹ sẽ có thể “gật” với tỉ lệ có lẽ cao không kém con số 98% đại biểu Quốc hội Việt Nam đã “gật” khi thông qua hiến pháp sửa đổi 2013 với nội dung giữ nguyên cơ chế “sở hữu đất đai toàn dân”, “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”“quân đội chỉ trung thành với đảng”.
Nếu Hà Nội “đổi mới tư duy”…
RFI : Triển vọng như anh nói là có cơ sở, vì vào năm ngoái Việt nam đã nhận được gần 100% số phiếu thuận để trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Tức nếu Nhà nước Việt Nam “đổi mới tư duy”, họ hoàn toàn có thể hy vọng không chỉ vào TPP mà còn cả những vấn đề khác?
Khả năng đó là rất lớn. TPP chỉ là một trong những “cứu cánh” đối với giới lãnh đạo Việt Nam, cả “phe bảo thủ” lẫn “phe lợi ích”. Nhưng từ sau vụ giàn khoan Hải Dương 981 ở Biển Đông và ý đồ lấn chiếm Việt Nam không thèm che giấu của Bắc Kinh, chưa bao giờ từ năm 1975 đến nay, Nhà nước Việt Nam lại cần đến “tình bạn” với Hoa Kỳ như bây giờ. Chỉ có một mối quan hệ đồng minh với Mỹ mới có thể cứu vãn tình hình.
Chúng ta để ý là ngay sau khi nổ ra vụ giàn khoan Hải Dương 981, Tư lệnh quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương Locklear, chứ không phải John Kerry, là người đầu tiên nói bóng gió về “đối tác chiến lược”. Sau đó, những chuyến công du Việt Nam của Thuợng nghị sĩ John McCain và Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ Martin Dempsey cũng đề cập đến vấn đề này. Như thế, triển vọng về “đối tác chiến lược” giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là có, giống như “niềm tin đối tác hợp tác chiến lược” với người Hàn, chứ không chỉ dừng ở “đối tác toàn diện” vẫn còn quá “khiêm tốn” như hiện giờ.
Nhưng tôi cũng xin nhắc đến một đặc tính tâm lý của giới lãnh đạo Việt Nam: với họ, “đối tác chiến lược” không bao giờ là đủ. Trong hơn 10 năm qua, họ đã thiết kế chẵn một chục đối tác chiến lược với nhiều quốc gia, kể cả với vài quốc gia chẳng mấy liên quan về an ninh và quốc phòng, đến mức giới quan sát phải thốt lên là “Việt Nam lạm phát đối tác chiến lược”. Nhưng cuối cùng khi vụ giàn khoan Hải Dương 981 nổ ra, ai là người đứng bên cạnh Việt Nam? Không ai hết, trừ “đối tác chiến lược” lớn nhất và “môi răng” nhất là Trung Quốc - thủ phạm gây ra vụ xâm lấn này.
Còn với người Mỹ, mọi chuyện sẽ hoàn toàn khác về quan niệm và tính thực chất. Với người Mỹ, “đối tác chiến lược” là một cơ chế đòi hỏi đức tin cao độ lẫn nhau và phải có “những tiến bộ có thể chứng minh được” - theo cách nói của giới ngoại giao Mỹ. Vì thế Việt Nam muốn có được một “vị trí chiến lược” nào đó trong lòng người Mỹ thì không thể nhanh mà phải cần đến ít ra vài ba năm chuẩn bị.
RFI : Như vậy sau cuộc gặp John Kerry - Phạm Bình Minh, vấn đề nào là ưu tiên trước mắt trong quan hệ Việt - Mỹ?
Trước mắt sẽ là cơ chế nối lại việc bán vũ khí sát thương cho Việt Nam để “bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Đó cũng là tiến bộ gần như duy nhất sau cuộc gặp John Kerry - Phạm Bình Minh vừa qua. Và đó cũng là một định đề cần thiết để Quốc hội Mỹ vào cuối năm nay nhiều khả năng có thể thông qua cơ chế gỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.
Cũng có một chủ đề tuy không mang tính lợi lộc trực tiếp nhưng sẽ rất có ý nghĩa về hình ảnh ngoại giao, đó là liệu Tổng thống Obama có đến Việt Nam vào cuối năm 2015 như một hứa hẹn hay không. Cần nhớ lại là vào cuối năm 2012, ngay sau thắng cử nhiệm kỳ tổng thống thứ hai, ông Obama đã lần đầu tiên đặt chân đến Miến Điện, mở ra lộ trình xóa nợ, giao thương quốc tế và viện trợ không hoàn lại ồ ạt của quốc tế đối với đất nước vừa thoát thai ách quân phiệt này.
Còn bây giờ, nếu đảng và chính quyền Việt Nam muốn dung hòa một kịch bản như Miến Điện mà không phải “đấu tranh này là trận cuối cùng”, chắc hẳn Obama sẽ không ngần ngại đến Hà Nội vào cuối năm sau. Mà nếu điều đó diễn ra, tôi tin là giới lãnh đạo Hà Nội vẫn có cơ sở hy vọng “bao nhiêu lợi quyền tất qua tay mình” - như một câu sắt đá trong Quốc tế ca. Việt Nam vẫn sẽ lôi kéo được đầu tư nước ngoài và cả kiều hối, vẫn có thể kéo dài được sự èo uột cho cơ thể kinh tế đã quá suy nhược. Nhưng trên tất cả và sẽ rất giống với trường hợp Miến Điện, quyền lực của giới cầm quyến vẫn được duy trì gần như không suy xuyển. Cái mà họ “mất” chỉ là trả lại cho dân chúng những quyền cơ bản mà họ tước đoạt trước đây.
"Đức tin cao cả"
RFI : Có thông tin cho biết Việt Nam thường cho rằng Hoa Kỳ cần đến Việt Nam hơn là ngược lại. Anh dự đoán ra sao về thái độ và động thái của người Mỹ trong thời gian tới?
Không, vào lần này tôi không nghĩ là người Mỹ sẽ vồ vập như giới chính khách Việt Nam tưởng tượng. Nhiều người trong giới chính khách Việt vẫn luôn mang trong mình căn bệnh “tự kiêu cộng sản” không thể rũ bỏ được. Họ khoác lác với nhau, báo cáo cấp trên và đinh ninh rằng Mỹ luôn cần đến Việt Nam với một số lý do như Việt Nam có vị trí chiến lược ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam là thị trường đầy tiềm năng, hoặc Việt Nam là nước duy nhất có thể ngăn cản Trung Quốc tiến xuống phía Nam… Một số quan chức Việt còn tự đề cao mình và làm nhiều cách để họ trở thành trung tâm chọn lựa để phía Mỹ “chọn mặt gửi vàng”.
Nhưng một cố vấn cao cấp thuộc Trung tâm Nghiên cứu của Mỹ về Chiến lược Quốc tế (CSIS) là ông Earnest Bower đã nói thẳng: “Chúng tôi không muốn đặt căn cứ ở Việt Nam. Hoa Kỳ không muốn và cũng không cần một liên minh quân sự với Việt Nam”.
Thực ra Mỹ đã có quá đủ bài học từ giai đoạn những năm 2009-2012, sau khi Nhà nước Việt Nam được dỡ bỏ khỏi danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về nhân quyền và tôn giáo và còn được tham gia vào WTO, nhưng đã hầu như không “đổi mới” gì về nhân quyền.
Thời gian qua tôi đã gặp và nhận ra một sự suy tính căng thẳng ở các viên chức chính trị Hoa Kỳ về hiện tại và tương lai nền chính trị ở Việt Nam, liên quan mật thiết đến những gương mặt chính khách trong “bộ tứ” hiện nay và cả những gương mặt chìm ẩn chưa hiện ra. Họ thường suy tư với những câu hỏi: “Kinh tế Việt Nam có bị khủng hoảng không?”, “Chính trị Việt Nam liệu có ổn định không?”, hoặc “Hoa Kỳ và châu Âu nên ứng xử như thế nào với Việt Nam?”, và về một số vấn đề cụ thể của Việt Nam như TPP, đầu tư nước ngoài, khả năng và tình huống lệ thuộc vào Trung Quốc, hoặc những vấn đề nhân quyền.
Có lẽ họ bắt đầu muốn tìm ra một bộ mặt nhân sự có tính bảo đảm cho vị thế và lợi ích của người Mỹ ở Việt Nam và Biển Đông trong dài hạn, trung hạn và trước mắt là ngắn hạn. Đơn giản là người Mỹ không muốn bị “hố” một lần nữa.
Bởi thế hiện nay và sắp tới, tôi cho rằng câu chuyện song phương Mỹ - Việt sẽ diễn ra một cách từ tốn, chậm rãi đến mức có thể và bám sát nguyên tắc “những tiến bộ có thể chứng minh được”.
Nhưng tôi e là Hà Nội vẫn chưa đủ đức tin cao cả để thấm thía nguyên tắc này và cái giá mà họ sẽ phải trả trong tương lai không xa.
RFI : Xin chân thành cảm ơn nhà bình luận Phạm Chí Dũng ở Saigon, đã vui lòng nhận trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ.
Nhà bình luận Phạm Chí Dũng - Saigon

Lãnh đạo Hồng Kông: Cuộc phản kháng 'vượt khỏi tầm kiểm soát'

Sinh viên biểu tình đòi dân chủ tại các khu vực bị chiếm đóng bên ngoài trụ sở chính phủ ở Hồng Kông.
Sinh viên biểu tình đòi dân chủ tại các khu vực bị chiếm đóng bên ngoài trụ sở chính phủ ở Hồng Kông.
Trưởng quan Hành chánh Hồng Kông Lương Chấn Anh cho biết ông sẽ không từ chức trong lúc những người biểu tình tiếp tục đòi cải cách dân chủ.
Phát biểu trên đài truyền hình TVB ngày hôm nay, ông Lương Chấn Anh nói rằng phong trào phản kháng “đã vượt khỏi tầm kiểm soát” và không thể tiếp tục kéo dài.
Ông nói rằng chính phủ sẽ tiếp tục tìm cách thuyết phục người biểu tình rời khỏi những địa điểm mà họ phong tỏa trong vài tuần lễ qua và không loại bỏ khả năng sử dụng “sức mạnh tối thiểu” để dọn sạch khu vực này trong trường hợp cần thiết.
Cuộc phản kháng hôm nay vẫn tiếp diễn với hàng ngàn người ở trong những căn lều được dựng lên giữa đường phố trong đêm vừa qua. Họ đòi ông Lương Chấn Anh từ chức và yêu cầu chính phủ Trung Quốc đảo ngược quyết định là các ứng cử viên trong cuộc bầu cử năm 2017 ở Hồng Kông phải do Bắc Kinh lựa chọn.
Hôm qua, hai tổ chức tranh đấu ở Hồng Kông đã đăng một thư ngỏ trên tờ South China Mrning Post cho Chủ tịch Tập Cận Bình để yêu cầu nhà lãnh đạo Trung Quốc để cho cử tri Hồng Kông được chọn trưởng quan hành chánh của mình. Họ nói rằng ông Lương Chấn Anh và chính phủ Hồng Kông không chịu lắng nghe nguyện vọng của người dân.

Xem trực tiếp biểu tình ở Hong Kong:


KHẢO SÁT LÒNG DÂN

Kết quả nghiên cứu: Tuyệt đại đa số dân VN và TQ chọn con đường tư bản

Tin liên hệ


Nhiệt tình dành cho hệ thống thị trường tự do tại hai nước cộng sản Trung Quốc va Việt Nam cao hơn nhiều so với tại những thành trì của chủ nghĩa tư bản như Hoa Kỳ và Anh quốc, theo một cuộc nghiên cứu do Trung tâm Nghiên cứu Pew thực hiện.

Hãng tin AP hôm thứ Sáu trích dẫn phúc trình của Trung tâm Nghiên cứu Pew, tường thuật rằng 95% đối tượng Việt Nam được thăm dò, một con số cao kỷ lục, nói rằng cuộc sống của người dân sẽ khá hơn trong các nền kinh tế thị trường tự do, 76% người Trung Quốc đồng ý với quan điểm đó.
Cùng lúc, 70% người Mỹ và 65% người Anh bày tỏ sự hậu thuẫn dành cho hệ thống kinh tế thị trường tự do.ự phát triển của thuơng mại toàn cầu đã đẩy nhanh đà tăng truởng tại các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc và Việt Nam, giúp đưa hàng chục triệu người ra khỏi tình trạng nghèo đói. Trong khi đó, đà tăng trưởng của các nền kinh tế tiên tiến hơn ở Hoa Kỳ và Âu châu suy giảm trong mấy năm gần đây, với tỷ lệ thất nghiệp cao, và mức lương bổng dậm chân tại chỗ.

Những trải nghiệm khác biệt đó dường như đã thay đổi quan điểm truyền thống của người dân các nước về các thị trường tự do, và về triển vọng tương lai. 65% những người được thăm dò tại các nước phát triển nói họ dự kiến con cái của họ sẽ gặp khó khăn hơn cha mẹ. Ngược lại, tại các nước có thu nhập thấp và trung bình, ít nhất 50% đối tượng được thăm dò dự kiến con cái của họ sẽ khá giả hơn thế hệ đi trước.

Lạc quan nhất là những người tham gia cuộc thăm dò ở Việt Nam, 94% các đối tượng dự kiến một tương lai tươi sáng hơn cho con cái của họ. Ở Trung Quốc, con số ấy là 85%. Chỉ có 30% người Mỹ, 23% người Anh, 15% người Ý, 14% người Nhật và 13% người Pháp, dự kiến một tương lai sáng lạn hơn cho những đứa trẻ bây giờ.
Trên toàn cầu, 60% người được thăm dò nói khoảng cách giữa giàu và nghèo là một vấn đề lớn tại nước họ. Nhưng một vấn đề lớn hơn nữa là nạn thất nghiệp.
Quan tâm cao nhất về tình trạng bất bình đẳng này là ở Hy Lạp và Libăng. 84% đối tượng ở cả hai nước coi đây là một vấn đề chủ yếu. Thấp nhất là ở Nhật Bản, chỉ có 28% coi khoảng cách giữa giàu nghèo là một vấn đề lớn.


LÊ DIỄN ĐỨC * VIỆT CỘNG THAM NHŨNG

Ném chuột đừng đánh vỡ bình"



Lê Diễn Đức
 
Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) thường hay có những câu phát biểu kỳ lạ trước công luận, vừa hài hước, vừa ngô nghê.
 
Trong cuộc nói chuyện với cử tri quận Tây Hồ ngày 6 tháng 12 năm 2013 ông nói:
 
“Tam nhũng nguy hiểm và khó chịu vì đã thành khá phổ biến. Nó thành đường dây có tổ chức rồi, chứ không còn từng người một người ăn mảnh nữa. Chúng tôi hay nói đó là lợi ích nhóm, cấu kết với nhau nên phải có cơ chế trị tận gốc, việc này rất khó chứ không phải dễ”.
 
 
"Phải bình tĩnh tĩnh táo, rất khôn ngoan, có con mắt chiến lược. Bác Hồ dạy rồi, cha ông ta dạy rồi, đánh con chuột đừng để vỡ bình, làm sao diệt được chuột mà bảo vệ được bình hoa. Tức là phải giữ cho được cái ổn định". "Xử lý trước mắt phải nghĩ lâu dài, giữ cho được ổn định để đất nước phát triển. Không phải xới tung lên tất cả, gây mất niềm tin, nghi kỵ lẫn nhau, rối loạn sẽ rất nguy hiểm".
 
Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International, tham nhũng là lợi dụng quyền hành để gây phiền hà, khó khăn để lấy của dân. Tham ô là hành vi Lợi dụng quyền hành để lấy cắp của công.
 
Như vậy chỉ có quan chức trong bộ máy cầm quyền mới có thể tham ô, tham nhũng. Tham nhũng là vấn nạn chung toàn cầu, quốc gia nào cũng có tham những, chỉ ít hay nhiều mà thôi. Lãnh đạo Việt Nam vẫn thường bám lấy nhận định này để bao biện cho tình trạng tham nhũng tại Việt Nam. Nhưng họ quên mất rằng, ở các nước tự do, dân chủ, nhà nước có cơ chế phong chống tham nhũng hiệu quả, tạo điều kiện cho xã hội kiểm soát hoạt động của chính đảng cầm quyền, thông qua các đảng đối lập trong quốc hội và báo chí tự do. Đặc biệt, khi vụ việc liên quan đền tham nhũng bị phanh phui, sẽ được cơ quan pháp lý xử lý nghiêm minh, bất luận phạm nhân là ai, bởi vì ngành tư pháp trong xã hội dân chủ giữ quyền độc lập, không phải là công cụ của đảng cầm quyền.
 
Tại Việt Nam hiện tại, ĐCSVN độc quyền cai trị, thành viên của quốc hội, lãnh đạo đất nước không do dân chúng bầu chọn qua một cuộc phổ thông đầu phiếu; không có đối lập trong quốc hội; báo chí là phương tiện tuyên truyền do đảng kiểm soát; toà án, công an là công cụ của đảng (còn đảng còn mình). Như thế tức là nhà nước CSVN đã tước đoạt bỏ hết mọi cơ hội kiểm soát của xã hội. Những khẩu hiệu hay các chiến dịch ồn ào phòng chống tham nhũng chỉ là điều chẳng đặng đừng, đành phải làm, mị dân, không thực chất. Tham nhũng chính là lợi lộc của quan chức, một loại ma tuý để họ bám lây chế độ sống cộng sinh.
 
Trong một bài phỏng vấn của Newsweek, nhà báo Richard McGregor đã nói, "Trung Quốc hiện nay là một quốc gia tham nhũng. Tham nhũng cho phép phân phối một phần giàu có trong giới cầm quyền, là một loại keo để kết giữ hệ thống hiện có. Các nhân vật ở đỉnh quyền lực thường có lương thấp, nhưng núi tiền xung quanh họ không thể tưởng tượng nổi, và được vun bồi với vận tốc cực lớn".
 
Việt Nam về mặt cơ cấu nhà nước giống như một mô hình thu nhỏ của Trung Quốc, cũng duy nhất một đảng cầm quyền.
 
Theo Richard McGregor, những người bị bắt vì tham nhũng, về cơ bản thuộc hai loại: hoặc họ là những người thua cuộc trong cuộc tranh giành quyền lực tại địa phương, hoặc lòng tham của họ quá đáng tới mức làm ảnh hưởng tới an toàn của tất cả các đối tượng khác trong hệ thống. Những kẻ tham lam bị bắt giữ nhân danh sự bảo đảm an toàn cho những kẻ tham nhũng khác. Trong cuộc chiến chống tham nhũng, bảo vệ những người ở thượng tầng là mục đích. Nguy cơ của trường hợp quan chức trên thượng tầng bị bắt giữ là tối thiểu.
 
Cho nên ông Nguyễn Phú Trọng thừa nhận "công cuộc chống tham nhũng được lãnh đạo Đảng khẳng định "phức tạp và quá khó", có nhiều việc muốn mà chưa làm ngay được".
 
“Chúng ta đã đẩy lùi được một bước nhưng rõ ràng tham nhũng còn nhức nhối. Nhức nhối có hai cực, một cực là tham nhũng lớn phát hiện chậm, kéo dài, lúc đầu nói to bằng con voi cuối cùng xử bé. Một cực khác phần lớn diễn ra ở bên dưới cơ sở như các cụ, các bác ví giống ngứa ghẻ rất khó chịu. Bởi cứ ra đến xã phường là thấy có chuyện đòi hỏi bôi trơn, đòi hỏi lót tay nếu không thì không được việc. Có khi gợi ý trắng trợn, khó chịu ở chỗ đó”- ông Trọng nói.
 
Cho nên ông mới khuyên "đánh con chuột đừng để vỡ bình, làm sao diệt được chuột mà bảo vệ được bình hoa. Tức là phải giữ cho được cái ổn định".
 
Sự "ổn định" mà ông nhắc tới cũng chính là lời của ông Ủy viên thường trực Ủy ban Tư pháp Đỗ Văn Đương rằng, “tình hình tham nhũng tương đối ổn định”.
 
Sự "ổn định" đó được thấy rõ ràng qua bảng xếp hạng chỉ số tham nhũng (Corruption Index) của Tổ chức Minh Bạch Thế giới (Transparency International), năm 2011 Việt Nam xếp hạng 112 trong 177 quốc gia, sang năm 2012 xếp hạng 123 và năm 2013 hạng 116!
 
Còn "bình hoa" đấy chính toàn bộ hệ thống chính trị độc quyền của ĐCSVN. Những con chuột tham lam và lớn nhất đều ở trong bình hoa ấy cả!
 
© Lê Diễn Đức

TƯỞNG NĂNG TIẾN* LÊ PHÚ KHẢI

Một Tỉ Người Tầu


S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Một Tỉ Người Tầu
TQ là đất nước của một chế độ tuyệt vọng.
 
 
Gần hai năm trước, tôi có một bài báo ngắn được phổ biến trên trang Đàn Chim Việt. Mãi đến cuối tháng rồi, vẫn còn có đôi vị “độc giả” gửi lời bình luận. Xin đơn cử một:
 
47 Phản hồi cho “Nghĩa muội Tạ Phong Tần”
1.    Ông Nội - says:
Nơi đây – Có được mấy con vện vàng 3 khoang , sủa theo bồi bút Tàu gian họ Tưởng này ?
 
Đây là lần gần nhất, chứ không phải là duy nhất – kể từ khi ông Hồ Quang Lợi, Trưởng Ban Tuyên Giáo Thành Ủy Hà Nội, tổ chức nhóm chuyên gia đấu tranh tham gia bút chiến trên internet – tôi bị qúi vị “chuyên gia đấu tranh” buộc tội là ... “Tàu gian!”
 
Sự cáo buộc này, nói nào ngay, không hoàn toàn vô cớ vì tôi nói được tiếng Hoa. Chỉ tiếc là vốn liếng Hoa Ngữ của tôi vô cùng giới hạn, vỏn vẹn chỉ có mỗi một câu thôi: “Bỉ ngộ dách mánh mìn báo.”
 
Đó cũng là câu ngoại ngữ đầu đời tôi học được từ một phụ nữ Trung Hoa. Có hôm, bà rụt rè đến xin mẹ tôi cho được để nhờ trước cửa nhà một cái thúng bán bánh mì vào buổi sáng.
 
Bên trong cái thúng này là một lò than be bé, với xoong xí mại đặt bên trên, cùng với vài chục ổ bánh mì nho nhỏ. Bánh mì xí mại giá̀ hai đồng. Một đồng chỉ có bánh mì không rưới thêm nước thịt, kèm mấy cọng dưa chua làm bằng củ cải trắng và cà rốt đỏ au.
 
Bà cụ không rách rưới nhưng trông rất lôi thôi và tàn tạ: bộ quần áo xẩm lùi xùi, cái nón cói cong vành (hẳn là phải mang từ cố quốc) bao quanh một khuôn mặt già nua, buồn bã và cam chịu.
 
Ảnh: flickr.com
 
Dù mỗi sáng tôi chỉ mua một đồng bánh mì thôi (dách mánh mìn báo) nhưng luôn luôn được bà ưu ái cho (thêm) một viên xí mại, kèm theo một nụ cười hiền ...miễn phí.
 
Thế là mỗi sáng tôi có dư ra được một đồng. Đồng bạc còn lại, tôi mang “nộp” ngay cho bà cai trường – người có một mẹt hàng khiến cho tất cả những đứa trẻ con (con nhà nghèo) như tôi đều phải thèm thuồng: me ngào, cóc và xoài xanh ngâm nước đường, mức dừa, kẹo cau, đậu phụng, bánh qui, quả mác mác, quả sim hay say chín ...
 
Tôi suýt chết cái tên là “Tiến bánh mì xí mại” thì bà cụ đột ngột  qua đời. Từ đó, thỉnh thoảng, trong xóm vẫn còn có tiếng rao (“loong sữa pò, de chai, pao pán hông”) của cụ ông nhưng nghe yếu hẳn ớt và buồn bã hơn nhiều.
Hình ảnh những người khách trú trong trí tưởng ấu thời (xa xôi) của tôi, xem ra, hoàn toàn khác xa với của qúi vị “thương lái” Trung Quốc ngày nay – ở Việt Nam:
 
Từ việc mua đuôi trâu, móng trâu, rễ hồi, ốc bươu vàng tới việc sẵn sàng thu mua phế liệu, đỉa, cá cơm với giá cực cao – những hành động tưởng như vô thưởng vô phạt nhưng lại ẩn chứa những dụng ý sâu xa của lái thương Trung Quốc...
 
Thâm độc hơn, chúng mở chiến dịch thu mua dây đồng vụn với giá cao "trên trời", đẩy từng đoàn "đồng tặc" lùng sục chặt trộm dây đồng từ các đường điện cao thế, băm nát mạng lưới điện quốc gia. Sau đó là thu mua cáp quang phế liệu với mức giá trên trời.
 
Đến khi dân nghèo lặn xuống biển chặt phá mạng cáp quang viễn thông, thì dân chúng mới "ngã ngửa" ra mục đích sâu xa của chúng là phá hoại con đường huyết mạch thông tin của Việt Nam… 
 
Tôi chưa bao giờ có dịp gặp gỡ những vị “thương lái TQ” có ý đồ  “thâm độc” và “phá hoại” như thế nhưng lại có dịp tiếp xúc (qua sách vở) với nhiều người Tầu khác: Lão Tử, Khổng Tử, Lý Bạch, Thôi Hiệu, Mạnh Hạo Nhiên, Kim Thánh Thán, Lỗ Tấn, Ba Kim, Kim Dung, Lâm Ngữ Đường, Mặc Ngôn, Trương Hiền Lượng, Lưu Hiểu Ba, Dương Kế Thằng...
Tam Giáo (Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo) ở Việt Nam có đồng quy hay không là điều mà tôi hoàn toàn không “bảo đảm,” và cũng không dám lạm bàn nhưng tôi biết chắc chắn là cá nhân mình – đôi lúc – có hơi bị quân tử Tầu (chút xíu) là do ảnh hưởng của Khổng Phu Tử và ... Kim Dung!
 
Cũng không ít lúc tôi trở nên ... “thoát tục” (và văng tục: “Đ...má, tao đéo care cái con cặc gì ráo trọi”). Thái độ sống “vô vi” này, không chừng, tôi bị lây từ Lão Tử. Chắc là thằng chả chớ còn ai vô đây nữa?
 
Bởi vậy, thỉnh thoảng, quí vị dư luận viên vẫn gọi tôi là “Tầu Tưởng” (tưởng) cũng không trật chi nhiều – dù tôi chưa đến Trung Hoa bao giờ và vẫn ao ước có dịp được sống ở đất nước này (vài ngày) cho biết.
 
May mắn sao, tháng rồi, tôi vớ được cuốn Đèn Cù của ông Trần Đĩnh. Tác giả có cơ hội đi “du học” ở tuốt bên Tầu, nhiều năm, và chuyện ông  kể về dân tộc này cứ khiến tôi cứ suy nghĩ mãi:
 
Bữa ấy tôi đang đọc báo chữ to gần Da Xan Ting - Đại thiện đình (Nhà ăn lớn). Một sinh viên Trung Quốc đến bên tôi. Trắng, đẹp, kính trắng, mắt hiền.
 
- Xin lỗi, anh là lưu học sinh Việt Nam?
 
- Vâng, còn anh ala Thượng Hải? (ala tiếng Thượng Hải là chúng ta, chúng tôi).
 
- Tôi là… (anh nói tên nhưng tôi không nhớ), muốn nói chuyện một ít với anh, có được không?
 
Anh nhờ tôi chuyển cho sứ quán Việt Nam một thư đề nghị Bắc Việt Nam hãy tôn trọng hiệp định Genève, đình chỉ đưa quân và vũ khí vào trong Nam cũng như rút lực lượng đã phi pháp cài lại từ 1954.
 
- Làm gì có chuyện ấy nhỉ?
 
Hoàn toàn bị xúc phạm, tôi vừa ngớ ra ngạc nhiên vừa khó chịu. Anh đốt đảng anh thôi chứ lại định đốt cả đảng tôi nữa ư?
 
- Có, đài nước ngoài thường xuyên lên án, tố cáo Bắc Việt Nam.
 
- Sao anh tin những thứ ấy?
 
- Đọc các đại tự báo đây anh có tin không?
 
Tôi quay đi và nói:
 
- Tôi không chuyển thư anh được vì bận và vì ý kiến của anh thiếu cơ sở.
 
Nhưng từ hôm ấy, tôi bỗng cứ lởn vởn nghĩ ta có vi phạm hiệp định Genève thật không? Chả lẽ ta chính nghĩa lại bội ước? Chả lẽ bản chất ta hoà bình lại thích chiến tranh?
 
Lúc ấy thật tình tôi không biết đảng có phương án kế hoạch cài cán bộ và quân lính ở lại miền Nam cũng như tiến hành nghiên cứu ngay từ đầu hình thế bờ biển để sau này lập “đội thuyền không số” có cơ sở ở huyện Thuỷ Nguyên. v.v…
 
Tuần sau tình cờ tôi gặp anh “Thượng Hải” ở gần Đại lễ đường. Anh đi với một cô gái trăm phần trăm Shang hai gu niang, Thượng Hải cô nương. Cô gái nhìn tôi như có ý hỏi anh bạn đi bên: “Cha từ chối đưa thư đấy phải không?”
 
Không nghe thấy nhưng tôi cáu - đinh ninh cô gái nói nei jia huo, thằng cha kia. Cùng lúc thấy cô gái rất đẹp. Picasso có lẽ lấy mẫu kiểu tóc đuôi ngựa ở cô gái thanh tú này.
 
Chẳng hiểu sao tôi rẽ ngoắt luôn. Tức. Không, có cả ghen vớ ghen vẩn.
 
Khi chống phái hữu, nhiều giáo sư, sinh viên bị đưa đi, tôi có ý tìm anh “Thượng Hải”. Không thấy nữa. Nghĩ cô gái Thượng Hải nếu không xuống nông thôn lao động cải tạo - để bị người ta cưỡng hiếp, chửa hoang và treo cổ chết - thì chắc phải bỏ học và bỏ cái đuôi ngựa “văn hoá đồi truỵ phương Tây”, tôi bỗng bồn chồn cùng ân hận lạ lùng.
 
Tôi chưa hiểu với tôi những ông thày sống động đầu tiên chỉ ra con đường và cách thức đấu tranh cho dân chủ chính là làn sóng “phái hữu” trong đó có anh sinh viên cùng cô bạn gái xinh đẹp của anh. Sau này trong gian nan phải chịu đựng tôi mới nhận ra hình ảnh của họ càng đậm nét trong tôi.
 
Nhưng tại sao anh sinh viên đeo kính trắng lại chọn tôi để nhờ chuyển thư phản đối ta “phạm pháp” đưa súng ống, binh lính vào Nam? Anh đọc thấy gì ở trên mặt tôi. Một hừng sáng nào đó ư? Một kiểu Nàng Kiều với Đạm Tiên ngày Thanh Minh.
 
Tôi còn một bạn học, người Nam Kinh. Lúc “phái hữu” lên tiếng, anh từng bảo tôi:
 
- Chắc cậu cũng biết truyện “cô gái quàng khăn đỏ?” Chúng ta đấy. Cũng quàng khăn đỏ cả mà. Hỏi bà ơi, tại sao tai bà to thế? Bà nói: Để bà nghe thấu bọn phản động chúng nó thì thào. Thế sao mắt bà sáng thế? À, sáng mới thấy được chỗ chúng nó ẩn nấp. Còn răng? Sao răng bà to thế? Răng bà to để ăn thịt những đứa khoẻ thắc mắc về bà… như cháu. Ăn luôn.
 
Tôi hỏi anh:
 
- Người Trung Quốc nghĩ như cậu có nhiều không?
 
- Zen ma shuo ya? Nói sao nhỉ? Một nửa đi. Nhưng nửa kia có loa ở mồm và có súng trên tay. (Trần Đĩnh. Đèn Cù, Westminster, CA: Người Việt, 2014).
 
Thiên An Môn 1989. Ảnh: wikipedia
 
Đó là “một nửa nước Trung Hoa” khi mới rơi vào tay đám cộng sản Tầu. Cho tới khi xẩy ra biến cố Thiên An Môn thì tôi tin rằng không phải là một nửa mà có đến ba phần tư dân số nước này đã trở nên “phản động.”
Đến sáng nay, 30 tháng 9 năm 2014, South China Morning Post đi tin:
 
“Hàng chục ngàn người đang chiếm lĩnh đường phố, đòi hỏi Bắc Kinh phải cải cách dân chủ.” Bây giờ thì tôi tin rằng bốn phần năm người Tầu cũng đang muốn thoát Trung (cộng) y như tuyệt đại đa số dân Việt hiện nay.
 
Hồng Kông 2014. Ảnh: Dickson Lee. Nguồn: South China Morning Post
 
Nói cách khác là dân Việt có một tỉ người Tầu đồng cảnh nhưng dường như không mấy ai để ý đến điều này – trừ nhà báo Lê Phú Khải. Hôm 26 tháng 5 năm 2014 vừa qua, ông nói chắc (như bắp) thế này đây:
Bắc Kinh sợ nhất cái gì?… Sợ nhất Việt Nam dân chủ.Vì, Bắc Kinh giống hệt Hà Nội: Đang ngồi trên kho thuốc nổ.
Chế độ đảng trị độc tài ở Trung Quốc đã tạo ra những mâu thuẩn đối kháng trong lòng nó và không có cách nào hoá giải được. ...
 
Một Việt Nam cải cách chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền lúc này là tiếng sét ngang tai đối với độc tài đảng trị ở TQ. Việt Nam dân chủ là tiếng gọi mênh mông được vẫy chào từ hàng triệu trái tim TQ bị đè nén bởi bạo quyền bấy lâu nay.
 
Chữ “triệu” trong đoạn văn thượng dẫn được cho in đậm vì tôi tin rằng ông Lê Phú Khải viết lộn nên xin phép được viết lại: “Việt Nam dân chủ là tiếng gọi mênh mông được vẫy chào từ hàng tỉ trái tim TQ bị đè nén bởi bạo quyền bấy lâu nay.”
 
Chúng ta nên ứng xử khôn ngoan hơn với một tỉ đồng minh đang sống kề bên.

No comments:

Post a Comment