Wednesday, April 16, 2014
BÙI VĂN PHÚ * HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG
Hành Trình Biển Đông: những câu chuyện vượt biển
Bùi Văn Phú[Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông, Tuyển tập I. Nhiều tác giả. 483 trang. 2003]
*
Mỗi người Việt rời bỏ quê hương kể từ năm 1975 đều có một câu chuyện
riêng về hành trình tìm tự do của mình. Từ đợt di tản trong cơn sốt
chiến tranh vào tháng 4.1975, rồi những chuyến vượt biển, vượt biên giới
qua các nước Đông Dương trong hơn một thập niên theo sau đó cho đến
những người ra đi theo diện O.D.P., diện H.O., diện con lai, hay diện
thuyền nhân hồi hương (R.O.V.R.) sau này, tất cả đều trải qua nhiều bất
định, qua bao nỗi phập phồng lo sợ không biết giấc mơ được rời khỏi Việt
Nam có sẽ suông sẻ hay không. Chỉ khi đã đến được nơi định cư mới,
thường là Hoa Kỳ, Canada, Úc hay một quốc gia Châu Âu thì hành trình đó
mới coi như kết thúc.
Người Việt đã bỏ nước ra đi bằng nhiều cách, nhưng con đường vượt
biển – với đông người ra đi nhất – và cũng là con đường gặp nhiều gian
truân, khổ cực nhất. Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc ước lượng một phần ba
số người vượt biển, khoảng vài ba trăm nghìn, đã không đến được bến bờ.
Qua nhiều chuyện kể trong Hành Trình Biển Đông, những người
rời bỏ quê hương Việt Nam ra đi tìm tự do bằng đường biển, đường bộ, hay
bằng cả hai cách, đều biết rõ trong quyết định ra đi của mình sự may
mắn sống còn chỉ có một phần ba. Câu nói: “Một là con nuôi má, hai là má
nuôi con, ba là con nuôi cá” được người vượt biển suy ngẫm trước khi ra
đi và chỉ biết cầu xin cho số mệnh được bình yên.
Rất nhiều trong số 46 câu chuyện được kể lại đều là hoàn cảnh khốn
khó của những tàu vượt biển gặp nạn: bị hải tặc cướp bóc, hãm hiếp, giết
người hay bị chết đói, chết khát. Trên đường vượt biển, nếu không may
tàu lạc vào vùng hoành hành của hải tặc thì thuyền nhân không thoát khỏi
cảnh bị cướp, bị hành hạ ít ra cũng vài lần, có tàu bị rơi vào tay hải
tặc đến mười bốn lần.
Câu chuyện của một con tàu ra đi từ vùng Cái Sắn, Rạch Giá vào tháng
3.1977 là câu chuyện hãi hùng hơn cả. Tàu bị hải tặc cướp và hãm hiếp.
Khi gặp hải tặc tấn công lần thứ nhì, đám thanh niên trên tàu đã nhất
quyết chống lại, bọn hải tặc gọi hai tàu đồng bọn tới và chúng đã giết
62 người, chỉ còn một người vì bị những xác chết khác đè lên mà thoát
chết. Cảnh người thuyền nhân duy nhất sống sót giữa đống xác người đầy
máu, tựa như cảnh phóng viên Dith Pran người Cam Bốt lội bùn giữa những
cánh đồng đầy xương và sọ người trên đường trốn thoát tàn sát của Khở Me
Đỏ trong phim Killing Field, hay cảnh người phi công Mỹ bị bắn
rớt máy bay, trên đường trốn thoát đã đi lạc vào một vũng lầy ngổn
ngang xác người ở Bosnia-Kosovo trong phim Behind the Enemy Lines.
Không gặp hải tặc nhưng chẳng may lạc đường, mất phương hướng giữa
biển, cạn thức ăn, hết nước uống nên có người đã phải ăn thịt bạn đồng
hành đã chết để sống qua ngày. Có bà mẹ phải cắt vú mình lấy máu cho con
bú kẻo không đứa bé sẽ chết khát, có người chị cắt thịt mình để lấy máu
nuôi người thân. Trong nhiều chuyến vượt biển, nhiều người đã chết vì
đói khát, người thoi thóp sống lo thủy táng người đã chết và chỉ còn
biết cầu xin người chết phù hộ. Có khi những điều khấn xin cũng đã được
đáp lại bằng những cơn mưa hoặc được cứu vớt.
Ra đi trên biển khơi bao la sóng dữ, đa phần chết nhưng cũng có câu
chuyện một bé trai được sinh ra trong giờ phút thập tử nhất sinh. Tháng
7.1979 có một tàu chở người vượt biển ra khơi, bị sóng gió, mưa bão dập
vùi đánh vỡ tàu ra từng mảng khiến 350 người trên tàu chết gần hết, chỉ
còn 14 người sống sót và đã có một hài nhi ra đời giữa lòng biển khơi
trong khi người mẹ, tuổi chừng 30, đang bám víu lấy mạng sống trên một
chiếc bè trôi nổi mà người đỡ đẻ lại là một nam học sinh ở tuổi 17. Câu
chuyện vượt biển này tưởng như kết thúc ở bến bờ tự do, nhưng 14 người
sống sót lại được tàu đánh cá của Việt Nam vớt, đưa trở về địa điểm khởi
hành. Không biết số mạng của đứa bé trai sinh giữa lòng biển khơi giờ
đây ra sao? Còn sống, năm nay em đã 24 tuổi rồi.
Rủi may trên biển đến nhiều khi chẳng ai ngờ. Tưởng chết thì lại được
cứu. Tưởng tìm được sinh lộ thì lại đi vào cõi thiên thu. Như cái chết
của anh Sáu Hoàng, một cựu sĩ quan hải quân. Sau nhiều ngày lênh đênh,
mất phương hướng vì tàu hỏng máy, anh thấy một bình nhựa trôi trên biển
nên nhảy xuống vớt với hy vọng tìm được nhãn hiệu để biết tàu đang trôi
dạt nơi đâu, có gần bờ bến nào không. Dưới nước anh Hoàng nắm được bình,
nhưng con tàu bỗng trôi nhanh nên anh bơi đuổi không kịp. Nhiều người
trên tàu ném hết mọi thứ có thể nổi để anh bám vào, nhưng chẳng cứu anh
được. Con tàu hỏng máy đã bỏ anh lại giữa đại dương bao la mịt mùng.Trong một chuyện kể khác, cũng là trường hợp tàu hư, lạc đường trên biển vào năm 1981. Sau nhiều ngày đói khát, tàu trôi dạt đến gần một đảo hoang, bốn thanh niên nhảy xuống bơi vào tìm xem có sự sống hay không. Khi họ bơi trở ra thì con tàu lại cứ trôi xa dần khỏi đảo, bỏ lại bốn thanh niên không biết sống chết ra sao.
May mắn thoát được hiểm nguy trên biển, có người đến được đất liền nhưng cũng không tìm được sự sống ở đất tự do. Đó là câu chuyện về chị Nguyệt một mình đến được trại, ở lâu vì không có diện định cư nên phải bán mình nuôi thân, nuôi gia đình còn ở Việt Nam. Chị mua hương bán phấn với lính Thái, mang thai, rồi tự tử chết.
Cuộc sống trong trại tị nạn chỉ là tạm bợ nhưng cũng nhiều buồn vui trong khi chờ đợi được đi định cư ở một nước thứ ba. Có một người thiếu nữ được tàu Mỹ vớt, cho ăn uống. Quần áo được giặt bằng máy trên tàu vì vậy cô bị lạc mất chiếc nịt ngực. Khi được chuyển vào trại, ra đường không có nịt ngực nên cô thường bị nhiều chàng thanh niên dòm ngó, chọc ghẹo khiến cô luôn e thẹn và cảm thấy sự thiếu vắng một vật đã thường mang trên người như đã mất mát hay thiếu thốn một cái gì thân thương lắm.
Khi làn sóng người vượt biển lên cao, chính phủ các nước Đông Nam Á
có lệnh không cho ngư dân của họ cứu vớt thuyền nhân. Nhiều tàu bè quốc
tế cũng đã làm ngơ trước lời cầu cứu của những chiếc thuyền đánh cá bé
nhỏ gặp nạn giữa biển khơi. Bao nhiêu tín hiệu SOS gửi đi nhưng chẳng có
một lời đáp lại. Nhưng không phải tất cả thuyền trưởng đều quay mặt đi
vì đã có những tàu Phi Luật Tân, tàu Nhật, tàu Mỹ cứu vớt thuyền nhân để
họ sống sót mà kể lại. Ngay cả khi hải tặc Thái Lan tạo kinh hoàng cũng
còn có những ngư dân Thái cứu người vượt biển, đem họ vào bến bờ bình
an. Có người thương binh một chân, là cựu đai úy trong quân đội Thái, đã
nhỏ nước mắt khi nhìn thấy một em bé Việt Nam chỉ còn da bọc xương trên
tay người mẹ đang đi tìm sữa cho con. Ông đã cho người mẹ 20 đồng baht
để bà ra chợ mua sữa cho đứa bé.
Hai thập niên trước, thảm trạng của thuyền nhân đã được ghi lại trong tập tài liệu mang tên Hải Tặc Trong Vịnh Thái Lan do nhà văn Nhật Tiến và ký giả Dương Phục kể.
Hai mươi năm sau, những câu chuyện đi tìm tự do được ghi lại trong Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông
(tuyển tập I) do bởi nhiều nhân chứng. Đây không phải là một tác phẩm
văn chương mà là một chứng liệu lịch sử. Nhiều trong số 46 bài viết là
thể loại tự truyện, ghi lại những sự việc đã thực sự xảy ra dưới mắt
người viết, những tác giả không phải là người cầm bút chuyên nghiệp hay
có tài năng văn chương. Họ kể lại bằng lối văn mộc mạc, chân thành. Hầu
hết những chuyện kể trong Hành Trình Biển Đông do chính người trong cuộc ghi lại, chỉ một vài bài do người khác viết theo lời kể của những nhân chứng.
Đọc Hành Trình Biển Đông để biết được những kinh hoàng, dã
man nhiều khi không thể tin được là đã xảy đến cho những thuyền nhân
Việt Nam. Nhưng đó là những câu chuyện có thực. Rất thực.
Trong thế kỷ vừa qua thế giới đã chứng kiến nhiều vụ giết người tập
thể: lò hơi ngạt giết người Do Thái trong các trại tập trung; Khờ Me Đỏ
tàn sát người Cam Bốt; dân bộ lạc ở Rwanda, Châu Phi giết nhau; diệt
chủng ở Bosnia-Kosovo. Ở những nơi này ngày nay còn nhiều chứng tích để
lại như một nhắc nhở cho nhân loại về những tội ác đã xảy ra. Nhưng hàng
trăm ngàn thuyền nhân đã bỏ mình, thân xác họ chìm sâu trong lòng biển
cả, không để lại dấu tích gì. Còn chăng là một số hình ảnh của Cao Ủy Tị
Nạn hay do những tàu cứu vớt thuyền nhân ghi lại được.
Những chuyện kể trong Hành Trình Biển Đông chỉ là một phần
nhỏ của thảm trạng thuyền nhân vì còn rất nhiều những con tàu khác đã
chìm sâu trong lòng đại dương mang theo tất cả, không để lại dấu vết và
cũng không còn ai sống sót mà kể lại.
Mỗi cái chết của người vượt biển đều cần được ghi lại để làm chứng
tích cho thế hệ mai sau. Trong tương lai, người Việt sẽ dựng đài thuyền
nhân để tưởng nhớ vong linh những người đã bỏ mình và để nhắc nhở con
cháu về giá của tự do mà thế hệ cha ông đã phải trả.
© 2003 Buivanphu
___
Năm 2003, nhật báo Viễn Ðông mở cuộc thi viết “Chuyện Người Vợ Tù Cải Tạo”
(CNVTCT), hơn 150 tác giả tham dự cuộc thi này, tuyển tập CNVTCT gồm 3
tập dày trên 1,300 trang được ấn hành trong năm 2004. Sở dĩ dùng chữ
“cải tạo” cho đúng với danh xưng của cộng sản đã gọi nhưng thực tế là
trại tù khắc nghiệt như những trại tù mà văn hào Alexander Solzhenitsyn
mô tả trong các tác phẩm như “Một Ngày Trong Ðời” Ivan Denitsovitch (One
Day in The Life of Ivan Denitsovich), Tầng Ðầu Ðịa Ngục (The First
Circle), Quần Ðảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago)... vào thập niên 50,
60 ở Liên Bang Xô Viết.Nhà văn Bích Huyền - tác giả Lối Cũ Chẳng Sao Quên, vợ của “Người Tù Cải Tạo” chết ở Vĩnh Phú - viết lời tựa trong tuyển tập CNVTCT: “Dĩ vãng, hai tiếng ấy gợi trong lòng người một ý niệm xa xôi về thời gian. Ba mươi năm, có đủ để coi đó như là dĩ vãng? Nhưng có những chuyện bám chặt lấy da thịt người ta nên chẳng thể xem là dĩ vãng, dù đã qua... đã lâu.
... Cuộc thi Chuyện Người Vợ Tù Cải Tạo được mở ra như khơi lại vết thương chẳng thể lành. Hàng trăm người đã để lòng lắng xuống, quay trở về quảng đới đau thương ấy, hưởng việc làm ý nghĩa của nhật báo Viễn Ðông... ghi lại những dấu tích của người phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn lịch sử.
... Nước mất nhà tan, nhưng không có nhà nào đau khổ hơn nhà có người đi cải tạo. Những bữa ăn khoai sắn, bo bo, chan canh bằng nước mắt. Cha mẹ già nua đau ốm, con thơ nhỏ dại... khiến đôi vai người vợ tù cải tạo như oằn xuống. Nhà cửa bị tịch thu, hết lề đường xó chợ đến vùng kinh tế mới sình lầy...
Là người trong ban giám khảo, khi đọc từng mẩu chuyện của người vợ tù, khó cầm được nước mắt, tôi nghĩ tác giả khi hồi tưởng để viết ra cũng vậy... như lời nhà văn Bích Huyền trong ban giám khảo: “Là một người đồng cảnh, không những tôi thông cảm, chia sẻ với câu chuyện... mà còn cảm thấy bàng hoàng tức tưởi nhiều hơn khi thấy nhiều chuyện thương tâm quá, khổ cực quá...” Và độc giả, có thân nhân lâm vào hoàn cảnh đó, khi đọc, lòng chùng xuống với bao nỗi xót xa!
Ðể ghi lại đầy đủ sự kiện lịch sử xảy ra sau chiến tranh Việt Nam, nhật báo Viễn Ðông mở tiếp cuộc thi viết Chuyện Người Tù Cải Tạo. Gần một trăm bài viết xa, gần từ Ontorina, Canada (Trần Bá Ðàm), Alberta, Canada (Nguyễn Văn Ðặng), Hawaii (Ngô Xuân Tâm), Chicago (Thiên Lý), Oregon (Nguyễn Thế Thăng), South Carolina (Nguyễn Ðình Hoài), Florida (Trường Giang), Washington D.C. (Phạm Ngọc Hoàng), Massachusetts (Nguyễn Thanh Ty), Tennessee (Joseph Nguyễn), Pensylvania (Lưu Quang Ðức), Texas (Hoàng Duy Năng), Oklahoma (Lê Xuân Trường), Arizona (Hồ Hoàng Hạ)... đến Bắc, Nam California đã gởi bài về tham dự, ghi lại hình ảnh đau thương, khốn cùng... trong chốn lao tù từ Nam ra Bắc sau Tháng Tư năm 1975 đến cuối năm 1990.
Tuyển tập Chuyện Người Tù Cải Tạo, do nhật báo Viễn Ðông ấn hành vào Tháng Sáu năm 2007 gồm 2 tập, dày trên 850 trang, với 63 bài viết của tác giả là nạn nhân, chứng nhân... trong giai đoạn đen tối của lịch sử đất nước.
Trong ba thập niên qua, có nhiều hồi ký viết lại chốn lao tù với những tác phẩm của Hoàng Liên, Phạm Quang Giai, Hà Thúc Sinh, Tạ Tỵ, Khiết Châu, Nguyễn Huy Hùng, Dương Viết Ðiền... mô tả thân hình ảnh nhà tù mà tác giả trải qua. Với tuyển tập Chuyện Người Tù Cải Tạo được ghi nhận ngắn gọn từng chi tiết, hình ảnh, không gian và thời gian qua mỗi tác giả để nói lên tổng thể của “quần đảo” như tên gọi của văn hào A. Solzhenitsyn, đoạt giải thưởng Văn Chương Nobel năm 1970. Nhờ được giải thưởng Nobel nên độc giả trên thế giới biết được chốn lao tù ở Liên Xô bị bưng bít trong bức màn sắt.
Với nhiều tác giả, không phải là người cầm bút, nhờ cuộc thi viết về chuyện TNCT này để có cơ hội ghi lại tháng ngày đen tối, hình ảnh người đã mất, tấm lòng của người bạn tù trong hoàn cảnh nghiệt ngã, bất hạnh, cảnh tử sinh mà trải qua bao thập niên còn kinh hoàng trong giấc mơ! Với người thật, cảnh thật, nói lên sự thật... cho thế hệ con em biết được thế hệ đi trước đã vùi chôn cuộc đời qua danh xưng “cải tạo”. Nói như Maurice Maéterlinck: “Quá khứ lúc nào cũng hiển hiện” mà người rơi hoàn hoàn cảnh đau thương, khó thể quên được, nó như chiếc bóng canh cánh với cuộc đời.
Bài viết đầu tiên trong tuyển tập: Niềm Ðau của Nguyễn Hữu Của, và hình ảnh tác giả trong xà kim: “Tôi cố chịu đựng, cơn khát kéo dài dằng dặc. Mắt tôi hoa lên, những giọt mồ hôi bắt đầu rịn ra trên trán, thân thể tôi mỏi nhừ, tay chân tôi rũ liệt không còn muốn cử động. Những vết đau nhức do những trận đòn thù thi nhau kéo về hành hạ thể xác vốn đã rã rời vì khát. Tôi lịm đi lúc nào không hay...” Bài viết cuối cùng trong tuyển tập: Cánh Hoa Tan Tác Của Sinh Ly của Hoài Hương, hình ảnh tác giả vừa mới sinh con đã ngậm ngùi chia cắt để vào trại tù: “Ngày về mừng mừng, tủi tủi, gặp lại mẹ già con thơ. Tóc mẹ đã đầy tuyết sương, con tôi nay đã 3 tuổi, chạy nhảy vô tư như không biết gì hết, chồng tôi vẫn nằm trong ngục tù cải tạo”. Vừa đoàn tụ với mẹ con thì nhận được giấy báo lên phường trình diện nhận lệnh đi khẩn hoang vùng kinh tế mới! “Nghe những câu đó, tôi nghẹn ngào không nói lên lời... Ðầu óc tôi quay cuồng...” rồi hai tuần sau khăn gói quả mướp xuống vùng kinh tế mới để biến “sỏi đá thành cơm”. Trong lao tù, ngoài lao tù... toàn bức tranh đen tối, sống còn để viết lại chia sẻ cho nhau, rất trân quý.
Sau 20 năm “lưu đày biệt xứ”, Tháng Năm năm 1994, nhà văn A. Solzhenitsyn trở về cố hương, những tác phẩm của ông bị cấm trước đây được ấn hành và phổ biến rộng rãi. Mong ước, một ngày nào đó, Chuyện Người Vợ Tù Cải Tạo và Chuyện Người Tù Cải Tạo được phổ biến trong nước để thế hệ tương lai suy ngẫm.
Vương Trùng Dương Đăng bởi DienDanDanChu.org ngày Thứ Hai, tháng 6 18, 2007
Posted by
Tôi gặp Dung Hạnh trong một tiệc cưới tại Houston. Tính ra cũng đến
hơn hai mươi năm chúng tôi mới gặp lại nhau và có dịp tâm sự nhiều. Tôi
và Dung Hạnh quen nhau khi còn ở Việt Nam và tình cờ đi chung tàu trong
chuyến vượt biên. Lúc ấy, chị mới hai mươi lăm tuổi, xinh đẹp, duyên
dáng và là một cô gái cứng rắn, có ý chí. Bởi thế, khi còn là sinh viên
đại học Văn khoa Saigon và hơn một năm ở trại tỵ nạn có biết bao chàng
trai si tình đeo đuổi, nhưng Hạnh không đáp lại tình cảm của một ai để
an tâm lo học hành, xây đắp tương lai. Chị nói với tôi, khi qua đến Mỹ
sẽ quyết tâm học hành đến khi thành đạt mới nghĩ đến chuyện lập gia
đình.
Dung Hạnh mời tôi đến nhà vào ngày cuối tuần. Điều làm tôi ngạc nhiên
là trong căn nhà đồ sộ chị đang ở, ngoài chị không có bóng dáng một
người nào khác. Tôi hỏi:
- Có một mình mà chị mua căn nhà to thế này, ở sao cho hết?
- Lúc mới mua nhà, có mẹ tôi và ba đứa em ở chung. Cách đây bốn năm,
các cô cậu lần lượt lập gia đình nên ra riêng. Mẹ tôi thì theo cô út để
giữ cháu ngoại. Cuối cùng, chỉ còn lại mình tôi.
Về đường tình duyên, chị tâm sự với nụ cười thoáng buồn:
- Khi ở Việt Nam, sau năm bảy lăm gia đình tôi hoàn toàn kiệt quệ. Ba
tôi đi tù cải tạo về nhà được một năm thì qua đời sau cơn bệnh trầm
trọng không có tiền chạy chữa. Là con cả trong gia đình, tôi buộc mình
phải có bổn phận thay ba để lo cho mẹ và các em. Hồi đó, tuy không có
tiền, nhưng ba mẹ của một đứa bạn thân là chủ tàu thương tình, nên tôi
được đi cùng họ trong chuyến vượt biên và đến nơi an toàn.
- Sau khi đến Mỹ chị ở đâu?
- Tôi về Lousiana cùng với gia đình nhỏ bạn nhưng không tìm được việc
làm, nên liên lạc với người chị họ và chuyển về Houston. Ở đây, tôi
quyết định tiến thân bằng con đường học vấn. Vừa đi làm, vừa đi học khá
vất vả. Sau khi tốt nghiệp đại học hạng cao, tôi được một hãng lớn tuyển
dụng với mức lương khá cao. Cuộc sống ổn định, tôi bảo lãnh gia đình và
tiếp tục học với quyết tâm phải lấy được bằng tiến sĩ.
- Còn chuyện tình yêu của chị thì sao?
- Thật ra, vì tâm nguyện chưa trọn vẹn, nên tôi không để ý đến ai, dù
có vài người theo đuổi. Cuối cùng, tôi cũng xiêu lòng trước tình yêu
chân thành của người bạn trai cùng lớp nên nhận lời cầu hôn của anh.
Thật ra, tình yêu tôi dành cho anh ấy không đủ lớn để chấp nhận hy sinh
một vài sở thích cá nhân, san bằng những khác biệt, nên hai vợ chồng có
nhiều mâu thuẫn. Tôi rất say mê sự nghiệp, còn anh ấy thì ngược lại. Tôi
nhất quyết không có con cho đến khi hoàn thành ước nguyện, còn anh thì
thèm thuồng tiếng cười trẻ thơ để căn nhà vốn đã vắng vẻ được thêm phần
ấm áp. Sự bất đồng ngày càng lớn và không ai chịu nhường bước, nên chúng
tôi chọn giải pháp ly dị sau ba năm chung sống. Dù hạnh phúc gia đình
tan vỡ, nhưng tôi cũng chẳng lấy đó làm buồn, vì năm ấy tôi lấy được
bằng tiến sĩ và được thăng chức rất cao trong công ty. Song song với
niềm vui ấy tôi được đoàn tụ cùng mẹ và các em. Theo đúng kế hoạch đã
vạch sẵn, vài năm sau tôi mở một cơ sở làm ăn với sự phụ giúp của các em
và đạt được thành công ngoài dự đoán. Khi từng đứa em lần lượt rời khỏi
căn nhà này để tạo dựng một mái ấm cho riêng mình cũng là lúc tôi cảm
nhận được nỗi cô đơn. Thỉnh thoảng đến thăm mấy đứa em, mắt thấy cảnh
vui đùa hồn nhiên của các cháu, tai nghe tiếng anh, em âu yếm ngọt ngào,
tôi mới cảm thấy những gì mình đang có như căn nhà đồ sộ, chiếc xe đắt
tiền và số thu nhập hằng năm cao ngất ngưỡng chẳng mang một ý nghĩa nào
cả khi đêm đêm một mình, một bóng đối diện với bốn bức tường lạnh ngắt. Ở
tuổi năm mươi, kể như tôi đã đạt được niềm mơ ước của thời tuổi trẻ.
Nhưng giờ đây, tôi lại không cảm thấy sung sướng như tôi vẫn nghĩ. Trong
nỗi trống vắng, tôi lại có niềm ước mơ khác. Ước mơ có một người đàn
ông thương yêu tôi chân thành để chung hưởng hạnh phúc. Nhưng thật ra
điều ấy không dễ dàng đối với người phụ nữ có trong tay một sự nghiệp
vững vàng. Những người đứng đắn mà tôi để lòng quý mến thì hầu như đã có
gia đình, hoặc mặc cảm với địa vị và tài sản tôi đang có. Người khác
thì hoặc trẻ tuổi hơn tôi, hoặc tính tình và quan niệm sống không thích
hợp. Tôi không còn cơ hội để chọn lựa, nên vẫn tiếp tục cuộc sống độc
thân. Giá mà trước kia tôi đừng quá say mê sự nghiệp, biết đánh giá đúng
mức tầm quan trọng của một mái ấm gia đình thì có lẽ bây giờ không đến
nỗi ngồi mãi nơi này, giữa sự giàu sang, nhung lụa để mơ hoài một hạnh
phúc còn xa hoặc giả sẽ không bao giờ đến.
* * *
Bạn thân mến,
Đã là con người, ai cũng muốn có sự nghiệp và theo bản năng tự nhiên, ai cũng muốn giàu có để thực hiện những gì mình ao ước và cho đó là hạnh phúc. Nhưng thật
ra trong đời sống, sự nghiệp có phải là nền tảng cho hạnh phúc hay
không là một vấn đề cần xét lại. Ở thời đại hiện nay, không ai phủ nhận
vai trò người phụ nữ không hề thua kém nam giới về mọi mặt. Tại Hoa Kỳ, không thiếu những phụ nữ đạt được thành công rực rỡ trên thương trường cũng như trên nhiều lãnh vực khác. Thế nhưng, theo những nhà nghiên cứu tâm lý học, phần lớn những người nầy đang phải trả một giá rất đắt cho hạnh phúc gia đình.
Trong một cuộc thăm dò được tiến hành trên 1,200 phụ nữ thành đạt, nhóm từ 41 đến 45 tuổi, cho thấy có đến 60% không có chồng hoặc không chọn được người chồng như ý . Một trong những người thực hiện chương trình nghiên cứu nói rằng, nếu bạn là một người đàn ông thành đạt ở tuổi năm mươi vẫn có cả tá các cô gái muốn cùng bạn san sẻ cuộc đời. Nhưng ở tuổi trên ba mươi, một người phụ nữ thành đạt khó tìm được người đàn ông lý tưởng!
Cũng theo kết quả cuộc nghiên cứu, chỉ có 40% phụ nữ thành đạt về học vấn, kinh tế có chồng vào tuổi ba mươi lăm, nhưng trong số nầy không phải ai cũng may mắn trở thành mẹ. Còn ở tuổi bốn mươi, có đến 42% không có con. Trong khi ở cùng một lứa tuổi, một điều kiện, thì đàn ông chỉ có 10% không có con.
Nhiều người quá chú trọng vào sự thành đạt và ỷ lại vào sự tiến bộ về y học trong vấn đề kiểm soát sinh đẻ mà nghĩ rằng, lúc nào muốn sinh con cũng được, không cần có chồng sớm làm gì cho vướng bận. Có chồng rồi lại lạm dụng thuốc ngừa thai để rảnh rang lo làm giàu trước, còn việc sinh con “từ từ cũng không muộn”. Không có gì bảo đảm rằng, chắc chắn bạn muốn có con lúc nào cũng được. Đừng nghĩ, một bà năm mươi hai tuổi vừa sinh nở được mẹ tròn con vuông thì những người ở vào lứa tuổi bốn mươi hai việc sinh con cũng sẽ dễ dàng!
Theo các nhà nghiên cứu, một lời khuyên hữu ích nhất cho phụ nữ để
đừng phải trả giá quá đắt cho sự nghiệp là nên chọn cho mình một nghề
nghiệp phù hợp với sở thích. Đừng quá dốc sức để chạy theo sự nghiệp mà
coi nhẹ sự thành công trong gia đình. Sinh con là một cuộc đầu tư lớn nhất, không phải là chuyện phụ như nhiều người đã nghĩ. Bạn có thể thành đạt ở mọi lứa tuổi nếu biết cố gắng tạo cơ hội và nắm lấy vận may. Không thiếu gì người đã thành đạt sự nghiệp ở lứa tuổi năm mươi cùng lúc với con cái họ trưởng thành, đủ điều kiện để sống những ngày nhàn nhã, hạnh phúc khi bước vào tuổi về hưu. Nhưng có bao nhiêu người phụ nữ có thể sinh con lần đầu dễ dàng ở tuổi năm mươi?
Không phải có sự nghiệp là bảo đảm được hạnh phúc gia đình. Và điều đáng ưu tư đối với những người phụ nữ lớn tuổi, học cao, thành đạt là không dễ gì tìm được người chồng như ý muốn. Thời yêu đương lãng mạn đã qua, ở cái tuổi chín chắn, với bạn, chỉ còn là sự cân nhắc với đầy nghi kỵ, liệu bạn có dễ dàng có được tình yêu chân thật? Hãy dùng tất cả tài năng của
bạn đang có ở bên ngoài xã hội, ở việc kinh doanh để cùng xây dựng gia
đình một cách cân bằng. Đừng xem nhẹ việc lập gia đình và càng không nên
tránh né sinh con. Có thể cơ hội sẽ không đến dễ dàng. Thật đau khổ biết chừng nào, nếu có một ngày – quá muộn – bạn bày tỏ ước mơ của mình bằng câu nói “tôi có thể đổi cả gia tài, sự nghiệp nầy để được một mái gia đình êm ấm”.
Trần Yên Hạ
Soạn giả Nguyễn Phương
Nhạc sĩ Kim Nguyên và tôi được nhạc sĩ Minh Châu đưa đi du ngoạn trên
bải biển San Francisco. Thấy du khách quá đông, chúng tôi mua cà phê và
một bao bắp rang rồi xuống bến tàu, phơi nắng, uống cà phê, hóng gió
biển và nói chuyện tào lao với nhau. Nhạc sĩ trẻ Minh Châu liệng bắp
rang cho đàn chim hải âu đang vây quanh anh ta, nét mặt Minh Châu có vẻ
trầm ngâm, xa vắng.
Kim Nguyên hỏi tôi: Anh Nguyễn Phương không nhớ cháu Minh Châu sao? Minh Châu có đờn cho đoàn Trần Hữu Trang 3.
Tôi lục lạo trong ký ức để cố nhớ Minh Châu là ai? Con của nghệ sĩ nào? Trong giới cải lương, việc chọn nghệ danh có một quy cách bất thành văn: nghệ sĩ trẻ học theo lối ca hát của nghệ sĩ đàn anh nào thì thường dùng chữ đứng đầu của tên nghệ sĩ bậc thầy làm chữ đứng đầu của tên mình. Như Út Trà Ôn thì có đệ tử Út Hậu, Út Hiền; nữ nghệ sĩ Kim Chưởng có các đệ tử Kim Chừng, Kim Nên, Kim Ngọc, Kim Hương, Kim Hiền, Kim Hoa, Kim Nga… ; nam danh ca Thanh Tao có Thanh Cao, Thanh Nhã, Thanh Ngàn, Thanh Hiền, Thanh Tuấn; nghệ sĩ có chữ Minh đứng đầu có Minh Vương, Minh Cảnh, Minh Phụng và các đệ tử như Minh Minh Vương, Minh Minh Cảnh. Trước hơn nữa, đoàn Thanh Minh bầu Nghĩa có danh ca Minh Tấn. Tôi nói: “Không lẽ Minh Châu đây là con của danh ca Minh Tấn đoàn Thanh Minh hồi xưa? Thời đó Minh Tấn chưa có đệ tử…”
Nhạc sĩ Kim Nguyên nói: “Đúng rồi! Đúng rồi! Anh Nguyễn Phương nhớ dai thiệt! Minh Châu là con của anh Minh Tấn đó.”
Minh Châu: “Ba cháu mất lâu rồi…”
Tôi nói: “Trước năm 1975, anh Minh Tấn có nhà ở đầu chợ Bàn Cờ, gần xóm rác, sau lưng tiệm chụp hình Hưng Ký, ngó ra hông chùa Kỳ Viên Tự… Nếu bác nhớ không lầm thì cháu có một người chị một cha khác mẹ với cháu tên là Minh Thư… Anh Minh Tấn gặp con gái là Minh Thư nhưng anh không biết đó chính là con của anh… Tôi và nhiều nghệ sĩ ở đoàn Thanh Minh với nhạc sĩ Út Trong, chúng tôi chứng kiến được cuộc trùng phùng hi hữu của hai cha con anh Minh Tấn – Minh Thư…”
Minh Châu: “Má cháu rất buồn vì chuyện đó, Ba Má cháu gây nhau, giận nhau có đến mấy năm, vì vậy mà cháu không có dịp biết mặt, không có dịp gặp chị Minh Thư của cháu. Bác Phương, xin bác kể cho cháu nghe chuyện liên quan đến chị Minh Thư của cháu…”
Tôi kể chuyện gia đình Minh Tấn cho Kim Nguyên và Minh Châu nghe:
Kim Nguyên hỏi tôi: Anh Nguyễn Phương không nhớ cháu Minh Châu sao? Minh Châu có đờn cho đoàn Trần Hữu Trang 3.
Tôi lục lạo trong ký ức để cố nhớ Minh Châu là ai? Con của nghệ sĩ nào? Trong giới cải lương, việc chọn nghệ danh có một quy cách bất thành văn: nghệ sĩ trẻ học theo lối ca hát của nghệ sĩ đàn anh nào thì thường dùng chữ đứng đầu của tên nghệ sĩ bậc thầy làm chữ đứng đầu của tên mình. Như Út Trà Ôn thì có đệ tử Út Hậu, Út Hiền; nữ nghệ sĩ Kim Chưởng có các đệ tử Kim Chừng, Kim Nên, Kim Ngọc, Kim Hương, Kim Hiền, Kim Hoa, Kim Nga… ; nam danh ca Thanh Tao có Thanh Cao, Thanh Nhã, Thanh Ngàn, Thanh Hiền, Thanh Tuấn; nghệ sĩ có chữ Minh đứng đầu có Minh Vương, Minh Cảnh, Minh Phụng và các đệ tử như Minh Minh Vương, Minh Minh Cảnh. Trước hơn nữa, đoàn Thanh Minh bầu Nghĩa có danh ca Minh Tấn. Tôi nói: “Không lẽ Minh Châu đây là con của danh ca Minh Tấn đoàn Thanh Minh hồi xưa? Thời đó Minh Tấn chưa có đệ tử…”
Nhạc sĩ Kim Nguyên nói: “Đúng rồi! Đúng rồi! Anh Nguyễn Phương nhớ dai thiệt! Minh Châu là con của anh Minh Tấn đó.”
Minh Châu: “Ba cháu mất lâu rồi…”
Tôi nói: “Trước năm 1975, anh Minh Tấn có nhà ở đầu chợ Bàn Cờ, gần xóm rác, sau lưng tiệm chụp hình Hưng Ký, ngó ra hông chùa Kỳ Viên Tự… Nếu bác nhớ không lầm thì cháu có một người chị một cha khác mẹ với cháu tên là Minh Thư… Anh Minh Tấn gặp con gái là Minh Thư nhưng anh không biết đó chính là con của anh… Tôi và nhiều nghệ sĩ ở đoàn Thanh Minh với nhạc sĩ Út Trong, chúng tôi chứng kiến được cuộc trùng phùng hi hữu của hai cha con anh Minh Tấn – Minh Thư…”
Minh Châu: “Má cháu rất buồn vì chuyện đó, Ba Má cháu gây nhau, giận nhau có đến mấy năm, vì vậy mà cháu không có dịp biết mặt, không có dịp gặp chị Minh Thư của cháu. Bác Phương, xin bác kể cho cháu nghe chuyện liên quan đến chị Minh Thư của cháu…”
Tôi kể chuyện gia đình Minh Tấn cho Kim Nguyên và Minh Châu nghe:
Hồi đó…
Hồi năm 1952, bầu Năm Nghĩa mua xác gánh hát Hậu Tấn – Năm Nghĩa thành lập lại đoàn hát mới với bảng hiệu Thanh Minh, ông bầu Nghĩa tăng cường thành phần kép ca gồm có danh ca Quang Phục, Minh Tấn, Sáu Nhỏ, Út Nhị, soạn giả thì có Lâm Tồn, Vinh Sang, Quang Phục và Nguyễn Phương.
Trong số kép ca vừa kể, anh Minh Tấn ca hay nhứt mà cũng được xem là kép đẹp, kép ăn khách nhứt trong dàn đào kép của đoàn hát Thanh Minh. Kép Minh Tấn có hát các tuồng của tôi như Biên Thùy Nổi Sóng, Lửa Hớn, Cánh Buồm Lừa, Hồi Trống Vân Lâu, Cầu Gỗ Hoàng Mai Thôn. Tôi còn giữ hình Minh Tấn trong các suất hát đó.
Đến năm 1955, ông bầu Nghĩa mướn thêm các soạn giả Lê Khanh, Mộc Linh, Thiếu Linh, tăng cường về mặt tuồng tích để hát thường trực tại rạp Thành Xương, đối đầu với gánh hát Kim Chung, hát thường trực rạp hát Aristo ở đường Lê Lai. Ông Năm Nghĩa ký contrat tăng cường danh ca Út Trà Ôn, Văn Chung – Thanh Hương, Việt Hùng – Ngọc Nuôi, Phước Trọng – Thúy Nga, đào ca Kim Anh, Út Bạch Lan. Vì đoàn hát tăng cường thêm nhiều danh ca nên Minh Tấn phải tụt xuống hàng kép nhì, kép ba, tuy nhiên ông bầu Nghĩa vẫn trọng dụng Minh Tấn, vì trước đó vài năm Minh Tấn là người giúp cho Năm Nghĩa giữ vững bảng hiệu Thanh Minh. Do vậy, ông bầu Nghĩa trao cho danh ca Minh Tấn nhiệm vụ rèn luyện các ca sĩ trẻ mới được tuyển vào đoàn hát. Ngoài ra, anh Minh Tấn còn có quyền tuyển chọn ca sĩ ở các địa phương mà đoàn đã hát qua.
Lúc đoàn Thanh Minh hát ở rạp Tân Quang Vũng Tàu, sau khi vãn hát, anh quản lý rạp rũ chúng tôi ra quán rượu của Bầu Quỳ, còn được gọi là Kiosque Sơn Ca, quán chuyên bán rượu hải mã, rượu tắc kè và thức nhắm hải sản ở bãi trước. Danh ca Minh Tấn, Út Nhị, hề Kim Quang, Nguyễn Phương, nhạc sĩ tân nhạc Hoàng Việt, nhạc sĩ Út Trong, chúng tôi ăn cơm hội chung một mâm, nên khi đi ăn nhậu bên ngoài chúng tôi cũng họp thành một nhóm. Rượu ngà ngà say, sương đêm và gió biển thổi lạnh, chúng tôi định về ngủ, anh bầu Quỳ giới thiệu một cô hầu bàn, ca vài câu vọng cổ giúp vui.
Chúng tôi nể mặt bầu Quỳ nên nán lại nghe cô hầu bàn ca vọng cổ chớ thật tình sau một ngày mệt nhọc, buổi sáng tập tuồng, buổi trưa dọn dẹp chỗ ở trong rạp, tối lại mỗi người một phần việc, tận tâm tận sức làm cho đêm hát thành công, chúng tôi đã mệt rã rời, chỉ muốn kiếm một chỗ nào đó để ngả lưng, làm một giấc cho khỏe. Nghe ca vọng cổ mà không có đờn, giữa đêm khuya, gió lộng réo vi vu qua hàng dương trên bãi biển, và trong cái lúc cơ thể rã rời, tôi nghĩ là dù cho anh Út Trà Ôn hay cô Thanh Hương, hai người được mọi người trong giới đánh giá là ca vọng cổ hay nhứt, hai danh ca thượng thặng đó cũng chưa chắc được hoan nghinh trong hoàn cảnh mà tôi vừa kể.
Cô hầu bàn được bầu Quỳ giới thiệu tên là Cẩm Vân, độ 18 tuổi. Phải công nhận là cô Cẩm Vân rất đẹp, môi đỏ tự nhiên như thoa son, nước da trắng mịn, đôi mắt to, tròng đen như hột nhãn, vóc dáng thướt tha, ngực nở, lưng eo, cô Cẩm Vân mặc chiếc áo dài màu tím hoa cà và quần satin trắng làm tăng thêm nét duyên dáng. Cẩm Vân tự giới thiệu: Có một người khách lạ, ghé quán uống cà phê rồi viết bài ca tặng em để làm kỷ niệm. Lâu lắm rồi người khách kia không trở lại, em chỉ còn nhờ bài ca mà nhớ người khách lạ ngày xưa.
Đây là bài: Cô hàng cà phê
Gió thổi tơi bời xác lá bay,
Mưa rơi từng giọt mái hiên ngoài,
Em ngồi lẵng lặng bên khung cửa,
Hướng nẻo chân trời để nhớ ai.
Nhưng qua lớp khói thuốc bay bay sao nụ cười tươi hôm nay không còn trông thấy nữa, mà chỉ thấy đôi mi mờ hoen ngấn lệ hai vai như mang trĩu nặng mối… .
Vọng Cổ
1- Ưu phiền… tôi lặng nhìn cô mà trí não mơ màng, từng giọt cà phê nhẹ rơi tí tách như giọt lệ huyền rơi rụng xuống hồn ai; gió trở chiều rồi mà tôi vẫn ngồi đây để nghe tâm tư trĩu nặng những ưu phiền, một buổi chiều nơi quán nhỏ cô đơn em khóc tình duyên còn tôi sầu dĩ vãng.
2- Cô quán ơi cô buồn chi mà tiếng cười tắt lịm trong một chiều mưa nơi quán lạnh bên đường… ; quán vắng đìu hiu lá úa rụng quanh thềm, tôi như lữ khách trên đường phiêu lãng, dừng bước giang hồ ghé lại quán hàng em, thả mộng hồn theo khói thuốc mông lung để cho lòng ray rức não nùng theo tiếng nhạc, nhìn ly cà phê rơi rơi từng giọt như ngấn lệ sầu thánh thót đọng vào tim.
Thơ:
Chiều xuống lâu rồi, mưa vẫn tuôn,
Ngoài kia phố thị hắc hiu buồn
Tôi nghe rười rượi hồn du tử
Không kẻ mong chờ cũng nhớ thương.
Có phải mái tóc em bay mà dư hương đã quyện lấy hồn tôi trong một chiều lá đổ, tách cà phê rơi rơi từng giọt đắng như lòng ai trĩu nặng mối…
Vọng Cổ
5- U hoài, quán lá xơ rơ gió tạt mái hiên ngoài, tôi khẽ đưa tay lau dòng nước mắt, chẳng biết tại khói tro tàn hay giọt lệ khóc thương ai; tâm sự cô hàng chắc cũng cay đắng như tôi, kẻ lắm gian truân người nhiều cảm lụy, giữa một chiều mưa gặp nhau nơi quán nhỏ rồi chia tay không một tiếng tạ từ.
6- Ngoài kia trời đã ngớt cơn mưa, cô quán vẫn ngồi đó với đôi mi ước lệ, có phải tim ai đó đã bao lần rạn vỡ, không bếp lửa hồng sưởi lạnh giữa hoàng hôn, tôi muốn một lần được nắm lấy tay em để trao gởi nỗi niềm tâm sự, rồi tôi sẽ cất bước dưới bầu trời mưa gió bỏ lại sau lưng ngôi quán nhỏ bên đường; tôi ngậm ngùi nhặt xác lá vàng rơi như nhặt lấy những mảnh hồn tan vỡ,
Chiều nay cuối nẻo đô thành,
Một kẻ phong trần thương một kẻ cô đơn.
Hồi năm 1952, bầu Năm Nghĩa mua xác gánh hát Hậu Tấn – Năm Nghĩa thành lập lại đoàn hát mới với bảng hiệu Thanh Minh, ông bầu Nghĩa tăng cường thành phần kép ca gồm có danh ca Quang Phục, Minh Tấn, Sáu Nhỏ, Út Nhị, soạn giả thì có Lâm Tồn, Vinh Sang, Quang Phục và Nguyễn Phương.
Trong số kép ca vừa kể, anh Minh Tấn ca hay nhứt mà cũng được xem là kép đẹp, kép ăn khách nhứt trong dàn đào kép của đoàn hát Thanh Minh. Kép Minh Tấn có hát các tuồng của tôi như Biên Thùy Nổi Sóng, Lửa Hớn, Cánh Buồm Lừa, Hồi Trống Vân Lâu, Cầu Gỗ Hoàng Mai Thôn. Tôi còn giữ hình Minh Tấn trong các suất hát đó.
Đến năm 1955, ông bầu Nghĩa mướn thêm các soạn giả Lê Khanh, Mộc Linh, Thiếu Linh, tăng cường về mặt tuồng tích để hát thường trực tại rạp Thành Xương, đối đầu với gánh hát Kim Chung, hát thường trực rạp hát Aristo ở đường Lê Lai. Ông Năm Nghĩa ký contrat tăng cường danh ca Út Trà Ôn, Văn Chung – Thanh Hương, Việt Hùng – Ngọc Nuôi, Phước Trọng – Thúy Nga, đào ca Kim Anh, Út Bạch Lan. Vì đoàn hát tăng cường thêm nhiều danh ca nên Minh Tấn phải tụt xuống hàng kép nhì, kép ba, tuy nhiên ông bầu Nghĩa vẫn trọng dụng Minh Tấn, vì trước đó vài năm Minh Tấn là người giúp cho Năm Nghĩa giữ vững bảng hiệu Thanh Minh. Do vậy, ông bầu Nghĩa trao cho danh ca Minh Tấn nhiệm vụ rèn luyện các ca sĩ trẻ mới được tuyển vào đoàn hát. Ngoài ra, anh Minh Tấn còn có quyền tuyển chọn ca sĩ ở các địa phương mà đoàn đã hát qua.
Lúc đoàn Thanh Minh hát ở rạp Tân Quang Vũng Tàu, sau khi vãn hát, anh quản lý rạp rũ chúng tôi ra quán rượu của Bầu Quỳ, còn được gọi là Kiosque Sơn Ca, quán chuyên bán rượu hải mã, rượu tắc kè và thức nhắm hải sản ở bãi trước. Danh ca Minh Tấn, Út Nhị, hề Kim Quang, Nguyễn Phương, nhạc sĩ tân nhạc Hoàng Việt, nhạc sĩ Út Trong, chúng tôi ăn cơm hội chung một mâm, nên khi đi ăn nhậu bên ngoài chúng tôi cũng họp thành một nhóm. Rượu ngà ngà say, sương đêm và gió biển thổi lạnh, chúng tôi định về ngủ, anh bầu Quỳ giới thiệu một cô hầu bàn, ca vài câu vọng cổ giúp vui.
Chúng tôi nể mặt bầu Quỳ nên nán lại nghe cô hầu bàn ca vọng cổ chớ thật tình sau một ngày mệt nhọc, buổi sáng tập tuồng, buổi trưa dọn dẹp chỗ ở trong rạp, tối lại mỗi người một phần việc, tận tâm tận sức làm cho đêm hát thành công, chúng tôi đã mệt rã rời, chỉ muốn kiếm một chỗ nào đó để ngả lưng, làm một giấc cho khỏe. Nghe ca vọng cổ mà không có đờn, giữa đêm khuya, gió lộng réo vi vu qua hàng dương trên bãi biển, và trong cái lúc cơ thể rã rời, tôi nghĩ là dù cho anh Út Trà Ôn hay cô Thanh Hương, hai người được mọi người trong giới đánh giá là ca vọng cổ hay nhứt, hai danh ca thượng thặng đó cũng chưa chắc được hoan nghinh trong hoàn cảnh mà tôi vừa kể.
Cô hầu bàn được bầu Quỳ giới thiệu tên là Cẩm Vân, độ 18 tuổi. Phải công nhận là cô Cẩm Vân rất đẹp, môi đỏ tự nhiên như thoa son, nước da trắng mịn, đôi mắt to, tròng đen như hột nhãn, vóc dáng thướt tha, ngực nở, lưng eo, cô Cẩm Vân mặc chiếc áo dài màu tím hoa cà và quần satin trắng làm tăng thêm nét duyên dáng. Cẩm Vân tự giới thiệu: Có một người khách lạ, ghé quán uống cà phê rồi viết bài ca tặng em để làm kỷ niệm. Lâu lắm rồi người khách kia không trở lại, em chỉ còn nhờ bài ca mà nhớ người khách lạ ngày xưa.
Đây là bài: Cô hàng cà phê
Gió thổi tơi bời xác lá bay,
Mưa rơi từng giọt mái hiên ngoài,
Em ngồi lẵng lặng bên khung cửa,
Hướng nẻo chân trời để nhớ ai.
Nhưng qua lớp khói thuốc bay bay sao nụ cười tươi hôm nay không còn trông thấy nữa, mà chỉ thấy đôi mi mờ hoen ngấn lệ hai vai như mang trĩu nặng mối… .
Vọng Cổ
1- Ưu phiền… tôi lặng nhìn cô mà trí não mơ màng, từng giọt cà phê nhẹ rơi tí tách như giọt lệ huyền rơi rụng xuống hồn ai; gió trở chiều rồi mà tôi vẫn ngồi đây để nghe tâm tư trĩu nặng những ưu phiền, một buổi chiều nơi quán nhỏ cô đơn em khóc tình duyên còn tôi sầu dĩ vãng.
2- Cô quán ơi cô buồn chi mà tiếng cười tắt lịm trong một chiều mưa nơi quán lạnh bên đường… ; quán vắng đìu hiu lá úa rụng quanh thềm, tôi như lữ khách trên đường phiêu lãng, dừng bước giang hồ ghé lại quán hàng em, thả mộng hồn theo khói thuốc mông lung để cho lòng ray rức não nùng theo tiếng nhạc, nhìn ly cà phê rơi rơi từng giọt như ngấn lệ sầu thánh thót đọng vào tim.
Thơ:
Chiều xuống lâu rồi, mưa vẫn tuôn,
Ngoài kia phố thị hắc hiu buồn
Tôi nghe rười rượi hồn du tử
Không kẻ mong chờ cũng nhớ thương.
Có phải mái tóc em bay mà dư hương đã quyện lấy hồn tôi trong một chiều lá đổ, tách cà phê rơi rơi từng giọt đắng như lòng ai trĩu nặng mối…
Vọng Cổ
5- U hoài, quán lá xơ rơ gió tạt mái hiên ngoài, tôi khẽ đưa tay lau dòng nước mắt, chẳng biết tại khói tro tàn hay giọt lệ khóc thương ai; tâm sự cô hàng chắc cũng cay đắng như tôi, kẻ lắm gian truân người nhiều cảm lụy, giữa một chiều mưa gặp nhau nơi quán nhỏ rồi chia tay không một tiếng tạ từ.
6- Ngoài kia trời đã ngớt cơn mưa, cô quán vẫn ngồi đó với đôi mi ước lệ, có phải tim ai đó đã bao lần rạn vỡ, không bếp lửa hồng sưởi lạnh giữa hoàng hôn, tôi muốn một lần được nắm lấy tay em để trao gởi nỗi niềm tâm sự, rồi tôi sẽ cất bước dưới bầu trời mưa gió bỏ lại sau lưng ngôi quán nhỏ bên đường; tôi ngậm ngùi nhặt xác lá vàng rơi như nhặt lấy những mảnh hồn tan vỡ,
Chiều nay cuối nẻo đô thành,
Một kẻ phong trần thương một kẻ cô đơn.
Cẩm Vân ca giọng nghe buồn thê thiết, như tiếng oán tiếng than của
người cô phụ trông chồng. Cô còn trẻ, chỉ yêu đơn phương một người khách
xa lạ, người ta chưa thật sự tỏ tình mà chỉ là một bài ca, một sự gợi
thương gợi nhớ vì hai người đồng cảnh ngộ. Một cuộc tình vu vơ không ước
hẹn nhưng hoàn cảnh cô đơn của Cẩm Vân, ngày ngày nhìn sóng biển muôn
trùng, tưởng như đang lạc lõng giữa ngàn khơi, lòng thầm ước có một mối
tình để mà bám víu như một kẻ đang chìm ghe mong vớ được một chiếc phao…
Chúng tôi lúc đầu vì nể lòng ông bầu Quỳ mà ở lại nghe Cẩm Vân ca, nhưng khi cô bắt đầu ngâm thơ và vô câu vọng cổ thì chúng tôi như bị giọng ca sâu lắng, tỏa men say giữ chúng tôi lại bên quán khuya mà nghe cho trọn bài ca. Tôi thầm nghĩ với vẻ đẹp thanh xuân, với giọng ca ngọt ngào, nếu Cẩm Vân xuất hiện trên sân khấu, nhứt định cô sẽ tỏa sáng như một vì sao chói rạng giữa đêm sâu.
Anh Minh Tấn, nhạc sĩ Út Trong, Hoàng Việt cũng cảm nghĩ như tôi. Minh Tấn nhớ nhiệm vụ của bầu Nghĩa trao cho anh, khi nghe giọng ca và nhìn sắc diện của Cẩm Vân, Minh Tấn như khám phá được một kho tàng vô giá. Anh nói: “Tôi sẽ giới thiệu cô gia nhập đoàn Thanh Minh, tôi bảo đảm không lâu cô sẽ là một cô đào chánh, cô sẽ được ký một cái contrat cả trăm ngàn đồng.”
Bầu Quỳ vội nói: “Đừng giỡn nghe Minh Tấn. Anh muốn bắt người của tôi một cách dễ dàng vậy sao?”
Minh Tấn: “Thì… thì tôi chỉ muốn giúp Cẩm Vân, tôi chỉ muốn sân khấu cải lương có thêm nhiều hương sắc… Cẩm Vân như một viên ngọc quý, anh là một ông bầu cải lương, tuy rời sân khấu về ở ẩn nơi đây, không lẽ anh không muốn cho cải lương có thêm một tài năng mới hay sao?”
Bầu Quỳ cười: “Cái quán của tôi ngày trước được gọi là quán Bầu Quỳ. Bây giờ người ta gọi là quán Sơn Ca. Nếu không có con chim Sơn Ca Cẩm Vân thì cái quán này sẽ rã, du khách và những bạn nhậu thân hữu của quán, những người thích nghe vọng cổ của Vũng Tàu sẽ mất đi một giọng ca vàng. Chỉ khi nào Cẩm Vân tự ý bỏ ra đi thì tôi đành chịu, chớ anh muốn bắt người đi thì không được.”
Đêm đó chúng tôi trở về rạp hát, không ngủ được vì không biết có cách nào để giúp Cẩm Vân.
Mấy đêm sau, vãn hát là chúng tôi kéo nhau xuống quán của Bầu Quỳ, nghe con chin Sơn Ca hót, rồi trở về rạp, bâng khuâng, vô vọng trước ý định không biết làm sao để giúp cho Cẩm Vân theo đoàn hát Thanh Minh.
Minh Tấn bắt đầu đi riêng, anh đến quán ban ngày, có khi ở cả ngày bên quán, nói chuyện tâm sự với Cẩm Vân. Ông bầu Quỳ tin tưởng là cô Cẩm Cân sẽ không bỏ quán, không xa gia đình của ông để mà theo Minh Tấn.
Về sau, chúng tôi mới biết cha mẹ của cô Cẩm Vân bị bom chết khi cô mới được 5 tuổi, lúc đó đoàn hát của Bầu Quỳ hát ở vùng có chiến trận, ông đã cùng các nghệ sĩ trong đoàn hát giúp việc mai táng cho cha mẹ của Cẩm Vân. Ông nhận Cẩm Vân làm con nuôi và ông đã dạy cho Cẩm Vân ca bài bản cổ nhạc. Ông về Vũng Tàu lập quán là chỉ tạm thời, mộng làm Bầu gánh hát của ông vẫn chưa nản nên ông giữ Cẩm Vân để làm đào chánh cho gánh hát tương lai của ông.
Đoàn Thanh Minh sau bến hát ở Vũng Tàu, dọn ra Phước Hải hát một tuần, sau đó hát ở Bà Rịa một tuần rồi trở về Saigon. Minh Tấn ký chồng thêm contrat hai năm với bầu Nghĩa, anh vay thêm tiềng đứng của Út Trong mười ngàn đồng. Sau tuần lễ hát ở Thành Xương thì các bạn cùng ở với Minh Tấn trong đình quận 8, nơi mà ông bầu mướn cho diễn viên của đoàn ở, được báo tin là Minh Tấn đau nằm nhà thương. Sau đó không ai biết Minh Tấn dọn đi ở đâu.
Tuần lễ sau, ông bầu Quỳ ở Vũng Tàu tìm đến đoàn hát Thanh Minh kiếm Minh Tấn và cô Cẩm Vân. Ông nói: “Cẩm Vân để lại cho ông một cái bao thơ với mười ngàn đồng, xin lỗi ông vì cô phải ra đi để tự tìm kiếm một tương lai.”
Bầu Nghĩa cũng bật ngữa: “Thằng Minh Tấn mới ký contrat hai năm với đoàn hát của tôi, nó ẵm hai trăm ngàn đồng rồi trốn mất. Anh chỉ mất cô Cẩm Vân nhưng còn nhận được mười ngàn đồng. Tất nhiên đó không phải là điều anh muốn nhưng tui cũng bị thiệt hại nhiều hơn anh.”
Ông bầu Quỳ ôm hận trở về Vũng Tàu.
Chúng tôi ngày ngày đọc báo kịch trường, theo dõi để xem có đoàn hát nào có một cô đào hát mới, xem coi báo chí có đăng hình của Cẩm Vân không. Và cũng xem coi có đoàn hát nào quảng cáo danh ca Minh Tấn không. Nhưng rồi bặt vô âm tín… nhiều năm trôi qua, chúng tôi quên đi cái chuyện danh ca Minh Tấn và chim Sơn ca Cẩm Vân.
… … …
Cuối năm 1972, tôi phụ trách trưởng Ban cải lương Phương Nam đài phát thanh Saigon nên tôi đến lò cổ nhạc Út Trong để tìm các mầm non ca sĩ, tôi được biết nhạc sĩ Út Trong mướn thêm nhạc sĩ Tám Lắm và Minh Tấn để chia phiên với anh, dạy ca và luyện giọng cho học viên.
18 năm sau khi anh Minh Tấn rời đoàn hát Thanh Minh bầu Nghĩa, bây giờ tôi mới gặp lại. Anh Minh Tấn ốm, xanh xao, trên trán và hai bên gò má nổi lên nhiều mụt u lớn, đỏ bầm. Tôi không biết anh bệnh gì và cũng không tiện hỏi.
Hôm đó, nhạc sĩ Út Trong tuyển lựa ca sĩ để đưa đi dự thi tranh giải Khôi Nguyên Vọng Cổ tổ chức tại rạp Quốc Thanh. Các bài ca vọng cổ được học viên đăng ký ca có nhiều bài hay như Sầu Vương Ý Nhạc, Trái Gùi Bến Cát, Bông Hồng Cài Áo, Tình Anh Bán Chiếu, Cô Hàng Cà Phê, Tần Quỳnh Khóc Bạn…
Vì nhà chật nên ca sĩ dự thi ngồi dưới nhà, khi nào được xướng danh thì sẽ bước lên cầu thang, lên phòng trên lầu ca dự thi. Hôm đó có mặt soạn giả Kiên Giang nên chúng tôi được mời dự thành phần Ban Giám khảo. Tôi xướng danh gọi các thí sinh vào thi. Các thí sinh ca các bài Sầu Vương Ý Nhạc, Trái Gùi Bến Cát, Bông Hồng Cài Áo đều có giọng ca khá, nhịp điệu vững chắc. Khi tôi xướng danh thí sinh Minh Thư ca bài Cô Hàng Cà Phê, tôi có cảm giác như có một cái gì bất bình thường…
Cô Minh Thư độ 15, 16 tuổi, vóc dáng cao ráo, nét mặt có duyên, giọng ca rất êm và truyền cảm. Cô ca bài Cô Hàng Cà Phê, giọng ca đượm nước mắt khiến cho Út Trong, Minh Tấn và tôi nhớ đến chim sơn ca Vũng Tàu mười tám năm về trước.
Đến phần đặt câu hỏi, anh Út Trong hỏi: “Cô cho biết quê quán, gia cảnh và học ca ở đâu. Lò cổ nhạc nào, người dạy ca là ai?”
Minh Thư nói: “Cháu ở quận Châu Thành tỉnh Tây Ninh, theo lời của má nói thì ông ngoại hồi trước là bầu gánh hát, ba cháu là kép hát, má chỉ là người buôn bán thôi nhưng má cũng biết ca. Má cháu dạy cháu ca, chỉ có bài ca vọng cổ Cô Hàng Cà Phê đó thôi, sau cháu theo các bạn học lóm chớ không có đến học ở lò cổ nhạc nào cả.”
Tôi hỏi: “Ông ngoại cô là bầu gánh hát, tên gì? Ba cô là kép hát, tên gì? Má cô, tên gì?”
Minh Thư: “Dạ, má con nói ông ngoại tên bầu Quỳ…”
Minh Tấn, Út Trong và tôi đồng bật lên tiếng: “Hả? Bầu Quỳ…”
Minh Thư: “Dạ phải, ông ngoại tên Bầu Quỳ. Ba tôi tên là Sở Khanh… Má tôi tên nàng Kiều… Má nói vậy đó… Hồi xưa má có bán quán ở Vũng Tàu…”
Minh Tấn nói như bật ra một tiếng thét vừa phá tung lồng ngực của anh: “Trời ơi! Con… Minh Thư! Con là con của Ba… Ba là kép Minh Tấn đây. Má con là Cẩm Vân, đúng ông ngoại nuôi của con là bầu Quỳ…”
Minh Thư hoảng sợ, lui lại: “Không phải, ông không phải là ba của tui… Má nói khi tui lên hai tuổi, ba tui bỏ nhà ra đi, bữa đó trời mưa lớn nên sét đánh chết rồi. Ba tên Sở Khanh, không có để giấy tờ, hình ảnh gì của ba lại hết. Má nói ba làm cái gì ác lắm nên bị trời đánh chết rồi…”
Minh Tấn như bất lực, té ngồi rũ xuống đất, anh ôm mặt khóc: “Phải… Ba đáng bị sét đánh cho chết đi vì ba đã làm hại cuộc đời của má con, ba đã để cho con khổ cực từ lúc còn nhỏ cho đến bây giờ… (anh day qua Út Trong và tôi, nói) Sau khi tôi và Cẩm Vân rời khỏi Vũng Tàu, tôi dẫn Cẩm Vân ra miền Trung, kiếm đoàn hát để đi nhưng việc tôi ký contrat rồi rời bỏ đoàn Thanh Minh bị ông bầu thưa với tòa án. Tòa ra trát tìm bắt nên không gánh hát nào dám chứa tôi và Cẩm Vân. Tôi về Tây Ninh, mua một căn nhà nhỏ gần chợ Long Hoa để cho Cẩm Vân có chỗ ở và mua bán để tạm sống qua ngày. Tôi định trở về chịu lỗi với ông bầu và xin hát trả nợ contrat đã ký nhưng lúc đó Cẩm Vân mang thai, tôi phải ở lại lo cho Cẩm Vân. Tôi sống như một người buôn gánh bán bưng, mua đường thốt nốt trong các phum sóc, đem về bán trong chợ Long Hoa, chờ ngày Cẩm Vân sinh nở. Khi cháu Thư đây được hai tuổi, tôi định về đoàn hát xin hát lại để trả nợ, không ngờ ra bến xe, đến bót Cẩm Giang, tôi bị bắt. Họ nghi tôi là Việt Cộng nằm vùng, họ bắt giam và đưa tôi ra Côn Đảo chờ tái xét. Ở Côn đảo năm năm, đến khi bị bịnh vì ăn thịt con đinh ba, thân thể bị lở lói, họ sợ tôi lây sang nhiều người khác nên phóng thích cho tôi về Saigon. Trong tình trạng bị bịnh lở lói, không công ăn việc làm, tôi không thể nào trở về Tây Ninh tìm gặp Cẩm Vân. Vợ tôi không biết việc của Cẩm Vân, tưởng tôi bị án oan mới ở tù Côn Đảo, bà lo nuôi tôi và tìm thuốc trị bịnh cho tôi.
Đối với vợ tôi, tôi đã dối gạt bà. Đối với Cẩm Vân, tôi tưởng giúp được, không ngờ tôi làm hại cả cuộc đời… Đối với đoàn hát và ông bà bầu là người đã tạo cho tôi tên tuổi, tiền bạc và cuộc sống sung túc, tôi bội phản nên Tổ nghiệp trừng phạt tôi, đã tước đoạt nghề nghiệp của tôi… Cẩm Vân xem tôi như một thằng Sở Khanh, con tôi xem tôi là thằng bị trời đánh! Ông bầu Quỳ, ông bầu Nghĩa, những bạn nghệ sĩ đồng nghiệp xem tôi là một thằng lừa đảo. Năm năm ở Côn Đảo và cuộc đời tôi tan nát chỉ vì một hành động lừa đảo của tôi đối với ông bầu Quỳ, ông bầu Nghĩa, đối với Tổ nghiệp…
Minh Tấn ôm mặt khóc, cô Minh Thư ngỡ ngàng, không biết hành động ra sao. Anh Út Trong hỏi: “Má cháu, cô Cẩm Vân đó, hiện nay như thể nào?”
Minh Thư trả lời: “Má cháu mất rồi. Đã hai năm rồi… Hồi má cháu còn sống, năm nào Tết đến má cũng về Vũng Tàu thăm ông ngoại Quỳ nhưng ông ngoại không cho vô nhà, không tiếp, không tha thứ cho hành động phản bội ông mà bỏ đi theo ông kép hát. Má buồn quá, thức thâu đêm, bị lao phổi, khi má sắp mất, má nói con chim Sơn Ca đã chết rồi, con ráng làm người chớ đừng có làm loài chim tối ngày hót líu lo mà bị người ta bắt, đem nhốt vô chuồng hay họ sẽ đốt lửa nướng mà ăn thịt. Con nghĩ là má đau gần mất nên nói sản vậy thôi.”
Soạn giả Kiên Giang nói chen vào: “Má cháu nói đúng đó! Nghệ sĩ bây giờ khác nào những con chim sơn ca. Khi tiếng hót của nó còn lảnh lót, còn vui tai thì được ở lồng son, được cho ăn cào cào, châu chấu. Ngày nào nó không còn hót được theo lịnh của chủ nó thì người ta sẽ vặt lông cánh của nó, đem nướng trên ngọn lửa hồng, làm mồi nhắm rượu cho những người đã làm lồng son nuôi nó.”
Chúng tôi lúc đầu vì nể lòng ông bầu Quỳ mà ở lại nghe Cẩm Vân ca, nhưng khi cô bắt đầu ngâm thơ và vô câu vọng cổ thì chúng tôi như bị giọng ca sâu lắng, tỏa men say giữ chúng tôi lại bên quán khuya mà nghe cho trọn bài ca. Tôi thầm nghĩ với vẻ đẹp thanh xuân, với giọng ca ngọt ngào, nếu Cẩm Vân xuất hiện trên sân khấu, nhứt định cô sẽ tỏa sáng như một vì sao chói rạng giữa đêm sâu.
Anh Minh Tấn, nhạc sĩ Út Trong, Hoàng Việt cũng cảm nghĩ như tôi. Minh Tấn nhớ nhiệm vụ của bầu Nghĩa trao cho anh, khi nghe giọng ca và nhìn sắc diện của Cẩm Vân, Minh Tấn như khám phá được một kho tàng vô giá. Anh nói: “Tôi sẽ giới thiệu cô gia nhập đoàn Thanh Minh, tôi bảo đảm không lâu cô sẽ là một cô đào chánh, cô sẽ được ký một cái contrat cả trăm ngàn đồng.”
Bầu Quỳ vội nói: “Đừng giỡn nghe Minh Tấn. Anh muốn bắt người của tôi một cách dễ dàng vậy sao?”
Minh Tấn: “Thì… thì tôi chỉ muốn giúp Cẩm Vân, tôi chỉ muốn sân khấu cải lương có thêm nhiều hương sắc… Cẩm Vân như một viên ngọc quý, anh là một ông bầu cải lương, tuy rời sân khấu về ở ẩn nơi đây, không lẽ anh không muốn cho cải lương có thêm một tài năng mới hay sao?”
Bầu Quỳ cười: “Cái quán của tôi ngày trước được gọi là quán Bầu Quỳ. Bây giờ người ta gọi là quán Sơn Ca. Nếu không có con chim Sơn Ca Cẩm Vân thì cái quán này sẽ rã, du khách và những bạn nhậu thân hữu của quán, những người thích nghe vọng cổ của Vũng Tàu sẽ mất đi một giọng ca vàng. Chỉ khi nào Cẩm Vân tự ý bỏ ra đi thì tôi đành chịu, chớ anh muốn bắt người đi thì không được.”
Đêm đó chúng tôi trở về rạp hát, không ngủ được vì không biết có cách nào để giúp Cẩm Vân.
Mấy đêm sau, vãn hát là chúng tôi kéo nhau xuống quán của Bầu Quỳ, nghe con chin Sơn Ca hót, rồi trở về rạp, bâng khuâng, vô vọng trước ý định không biết làm sao để giúp cho Cẩm Vân theo đoàn hát Thanh Minh.
Minh Tấn bắt đầu đi riêng, anh đến quán ban ngày, có khi ở cả ngày bên quán, nói chuyện tâm sự với Cẩm Vân. Ông bầu Quỳ tin tưởng là cô Cẩm Cân sẽ không bỏ quán, không xa gia đình của ông để mà theo Minh Tấn.
Về sau, chúng tôi mới biết cha mẹ của cô Cẩm Vân bị bom chết khi cô mới được 5 tuổi, lúc đó đoàn hát của Bầu Quỳ hát ở vùng có chiến trận, ông đã cùng các nghệ sĩ trong đoàn hát giúp việc mai táng cho cha mẹ của Cẩm Vân. Ông nhận Cẩm Vân làm con nuôi và ông đã dạy cho Cẩm Vân ca bài bản cổ nhạc. Ông về Vũng Tàu lập quán là chỉ tạm thời, mộng làm Bầu gánh hát của ông vẫn chưa nản nên ông giữ Cẩm Vân để làm đào chánh cho gánh hát tương lai của ông.
Đoàn Thanh Minh sau bến hát ở Vũng Tàu, dọn ra Phước Hải hát một tuần, sau đó hát ở Bà Rịa một tuần rồi trở về Saigon. Minh Tấn ký chồng thêm contrat hai năm với bầu Nghĩa, anh vay thêm tiềng đứng của Út Trong mười ngàn đồng. Sau tuần lễ hát ở Thành Xương thì các bạn cùng ở với Minh Tấn trong đình quận 8, nơi mà ông bầu mướn cho diễn viên của đoàn ở, được báo tin là Minh Tấn đau nằm nhà thương. Sau đó không ai biết Minh Tấn dọn đi ở đâu.
Tuần lễ sau, ông bầu Quỳ ở Vũng Tàu tìm đến đoàn hát Thanh Minh kiếm Minh Tấn và cô Cẩm Vân. Ông nói: “Cẩm Vân để lại cho ông một cái bao thơ với mười ngàn đồng, xin lỗi ông vì cô phải ra đi để tự tìm kiếm một tương lai.”
Bầu Nghĩa cũng bật ngữa: “Thằng Minh Tấn mới ký contrat hai năm với đoàn hát của tôi, nó ẵm hai trăm ngàn đồng rồi trốn mất. Anh chỉ mất cô Cẩm Vân nhưng còn nhận được mười ngàn đồng. Tất nhiên đó không phải là điều anh muốn nhưng tui cũng bị thiệt hại nhiều hơn anh.”
Ông bầu Quỳ ôm hận trở về Vũng Tàu.
Chúng tôi ngày ngày đọc báo kịch trường, theo dõi để xem có đoàn hát nào có một cô đào hát mới, xem coi báo chí có đăng hình của Cẩm Vân không. Và cũng xem coi có đoàn hát nào quảng cáo danh ca Minh Tấn không. Nhưng rồi bặt vô âm tín… nhiều năm trôi qua, chúng tôi quên đi cái chuyện danh ca Minh Tấn và chim Sơn ca Cẩm Vân.
… … …
Cuối năm 1972, tôi phụ trách trưởng Ban cải lương Phương Nam đài phát thanh Saigon nên tôi đến lò cổ nhạc Út Trong để tìm các mầm non ca sĩ, tôi được biết nhạc sĩ Út Trong mướn thêm nhạc sĩ Tám Lắm và Minh Tấn để chia phiên với anh, dạy ca và luyện giọng cho học viên.
18 năm sau khi anh Minh Tấn rời đoàn hát Thanh Minh bầu Nghĩa, bây giờ tôi mới gặp lại. Anh Minh Tấn ốm, xanh xao, trên trán và hai bên gò má nổi lên nhiều mụt u lớn, đỏ bầm. Tôi không biết anh bệnh gì và cũng không tiện hỏi.
Hôm đó, nhạc sĩ Út Trong tuyển lựa ca sĩ để đưa đi dự thi tranh giải Khôi Nguyên Vọng Cổ tổ chức tại rạp Quốc Thanh. Các bài ca vọng cổ được học viên đăng ký ca có nhiều bài hay như Sầu Vương Ý Nhạc, Trái Gùi Bến Cát, Bông Hồng Cài Áo, Tình Anh Bán Chiếu, Cô Hàng Cà Phê, Tần Quỳnh Khóc Bạn…
Vì nhà chật nên ca sĩ dự thi ngồi dưới nhà, khi nào được xướng danh thì sẽ bước lên cầu thang, lên phòng trên lầu ca dự thi. Hôm đó có mặt soạn giả Kiên Giang nên chúng tôi được mời dự thành phần Ban Giám khảo. Tôi xướng danh gọi các thí sinh vào thi. Các thí sinh ca các bài Sầu Vương Ý Nhạc, Trái Gùi Bến Cát, Bông Hồng Cài Áo đều có giọng ca khá, nhịp điệu vững chắc. Khi tôi xướng danh thí sinh Minh Thư ca bài Cô Hàng Cà Phê, tôi có cảm giác như có một cái gì bất bình thường…
Cô Minh Thư độ 15, 16 tuổi, vóc dáng cao ráo, nét mặt có duyên, giọng ca rất êm và truyền cảm. Cô ca bài Cô Hàng Cà Phê, giọng ca đượm nước mắt khiến cho Út Trong, Minh Tấn và tôi nhớ đến chim sơn ca Vũng Tàu mười tám năm về trước.
Đến phần đặt câu hỏi, anh Út Trong hỏi: “Cô cho biết quê quán, gia cảnh và học ca ở đâu. Lò cổ nhạc nào, người dạy ca là ai?”
Minh Thư nói: “Cháu ở quận Châu Thành tỉnh Tây Ninh, theo lời của má nói thì ông ngoại hồi trước là bầu gánh hát, ba cháu là kép hát, má chỉ là người buôn bán thôi nhưng má cũng biết ca. Má cháu dạy cháu ca, chỉ có bài ca vọng cổ Cô Hàng Cà Phê đó thôi, sau cháu theo các bạn học lóm chớ không có đến học ở lò cổ nhạc nào cả.”
Tôi hỏi: “Ông ngoại cô là bầu gánh hát, tên gì? Ba cô là kép hát, tên gì? Má cô, tên gì?”
Minh Thư: “Dạ, má con nói ông ngoại tên bầu Quỳ…”
Minh Tấn, Út Trong và tôi đồng bật lên tiếng: “Hả? Bầu Quỳ…”
Minh Thư: “Dạ phải, ông ngoại tên Bầu Quỳ. Ba tôi tên là Sở Khanh… Má tôi tên nàng Kiều… Má nói vậy đó… Hồi xưa má có bán quán ở Vũng Tàu…”
Minh Tấn nói như bật ra một tiếng thét vừa phá tung lồng ngực của anh: “Trời ơi! Con… Minh Thư! Con là con của Ba… Ba là kép Minh Tấn đây. Má con là Cẩm Vân, đúng ông ngoại nuôi của con là bầu Quỳ…”
Minh Thư hoảng sợ, lui lại: “Không phải, ông không phải là ba của tui… Má nói khi tui lên hai tuổi, ba tui bỏ nhà ra đi, bữa đó trời mưa lớn nên sét đánh chết rồi. Ba tên Sở Khanh, không có để giấy tờ, hình ảnh gì của ba lại hết. Má nói ba làm cái gì ác lắm nên bị trời đánh chết rồi…”
Minh Tấn như bất lực, té ngồi rũ xuống đất, anh ôm mặt khóc: “Phải… Ba đáng bị sét đánh cho chết đi vì ba đã làm hại cuộc đời của má con, ba đã để cho con khổ cực từ lúc còn nhỏ cho đến bây giờ… (anh day qua Út Trong và tôi, nói) Sau khi tôi và Cẩm Vân rời khỏi Vũng Tàu, tôi dẫn Cẩm Vân ra miền Trung, kiếm đoàn hát để đi nhưng việc tôi ký contrat rồi rời bỏ đoàn Thanh Minh bị ông bầu thưa với tòa án. Tòa ra trát tìm bắt nên không gánh hát nào dám chứa tôi và Cẩm Vân. Tôi về Tây Ninh, mua một căn nhà nhỏ gần chợ Long Hoa để cho Cẩm Vân có chỗ ở và mua bán để tạm sống qua ngày. Tôi định trở về chịu lỗi với ông bầu và xin hát trả nợ contrat đã ký nhưng lúc đó Cẩm Vân mang thai, tôi phải ở lại lo cho Cẩm Vân. Tôi sống như một người buôn gánh bán bưng, mua đường thốt nốt trong các phum sóc, đem về bán trong chợ Long Hoa, chờ ngày Cẩm Vân sinh nở. Khi cháu Thư đây được hai tuổi, tôi định về đoàn hát xin hát lại để trả nợ, không ngờ ra bến xe, đến bót Cẩm Giang, tôi bị bắt. Họ nghi tôi là Việt Cộng nằm vùng, họ bắt giam và đưa tôi ra Côn Đảo chờ tái xét. Ở Côn đảo năm năm, đến khi bị bịnh vì ăn thịt con đinh ba, thân thể bị lở lói, họ sợ tôi lây sang nhiều người khác nên phóng thích cho tôi về Saigon. Trong tình trạng bị bịnh lở lói, không công ăn việc làm, tôi không thể nào trở về Tây Ninh tìm gặp Cẩm Vân. Vợ tôi không biết việc của Cẩm Vân, tưởng tôi bị án oan mới ở tù Côn Đảo, bà lo nuôi tôi và tìm thuốc trị bịnh cho tôi.
Đối với vợ tôi, tôi đã dối gạt bà. Đối với Cẩm Vân, tôi tưởng giúp được, không ngờ tôi làm hại cả cuộc đời… Đối với đoàn hát và ông bà bầu là người đã tạo cho tôi tên tuổi, tiền bạc và cuộc sống sung túc, tôi bội phản nên Tổ nghiệp trừng phạt tôi, đã tước đoạt nghề nghiệp của tôi… Cẩm Vân xem tôi như một thằng Sở Khanh, con tôi xem tôi là thằng bị trời đánh! Ông bầu Quỳ, ông bầu Nghĩa, những bạn nghệ sĩ đồng nghiệp xem tôi là một thằng lừa đảo. Năm năm ở Côn Đảo và cuộc đời tôi tan nát chỉ vì một hành động lừa đảo của tôi đối với ông bầu Quỳ, ông bầu Nghĩa, đối với Tổ nghiệp…
Minh Tấn ôm mặt khóc, cô Minh Thư ngỡ ngàng, không biết hành động ra sao. Anh Út Trong hỏi: “Má cháu, cô Cẩm Vân đó, hiện nay như thể nào?”
Minh Thư trả lời: “Má cháu mất rồi. Đã hai năm rồi… Hồi má cháu còn sống, năm nào Tết đến má cũng về Vũng Tàu thăm ông ngoại Quỳ nhưng ông ngoại không cho vô nhà, không tiếp, không tha thứ cho hành động phản bội ông mà bỏ đi theo ông kép hát. Má buồn quá, thức thâu đêm, bị lao phổi, khi má sắp mất, má nói con chim Sơn Ca đã chết rồi, con ráng làm người chớ đừng có làm loài chim tối ngày hót líu lo mà bị người ta bắt, đem nhốt vô chuồng hay họ sẽ đốt lửa nướng mà ăn thịt. Con nghĩ là má đau gần mất nên nói sản vậy thôi.”
Soạn giả Kiên Giang nói chen vào: “Má cháu nói đúng đó! Nghệ sĩ bây giờ khác nào những con chim sơn ca. Khi tiếng hót của nó còn lảnh lót, còn vui tai thì được ở lồng son, được cho ăn cào cào, châu chấu. Ngày nào nó không còn hót được theo lịnh của chủ nó thì người ta sẽ vặt lông cánh của nó, đem nướng trên ngọn lửa hồng, làm mồi nhắm rượu cho những người đã làm lồng son nuôi nó.”
Nhớ bạn xưa, nhớ con chim sơn ca miền duyên hải.
Nguyễn Phương 2014
0
50 Views Nguyễn Phương 2014
Ngân Bình
- Bây giờ mày không chở mẹ đi phải không? Hu hu!!! Cực khổ nuôi mày
mấy chục năm, giờ có chuyện nhờ cậy thì mày giả điếc, làm ngơ. Đồ con
bất hiếu, vong ơn. Hu hu!!! tao không cần ai hết, tao lết bộ cũng được
mà. Mày muốn theo phe thằng cha già dịch đó phải không?
Mai không biết nói sao, chỉ đưa mắt nhìn ba cầu cứu. Ông già nhìn thấy, nhưng cứ lờ đi như tự nãy giờ vờ dán mắt vào màn hình TV, không nghe, không thấy những gì đang xảy ra trước mắt. Mai muốn bỏ vào phòng, nhưng không dám, sợ mẹ lại đập vỡ cái màn hình TV như lần trước.
Không hiểu sao dạo này ba mẹ cãi nhau ngày một nhiều. Hồi còn trẻ, mẹ cũng thường dằn mâm, xán chén, ba cũng thường đá ghế, đập bàn. Nhưng Mai nghĩ, có lẽ ba mẹ còn trẻ nên nóng nảy, tự ái, sau này khi lớn tuổi chắc hai ông bà sẽ trầm tính lại và gia đình sẽ êm ấm hơn. Chẳng ngờ, càng về già mức độ chiến tranh càng gia tăng. Nhiều khi chuyện chẳng có gì, chỉ là bất đồng ý kiến về một vấn đề nhỏ nhặt không đáng kể, nhưng hai bên cứ lời qua tiếng lại, nên chẳng mấy chốc trở nên khốc liệt khi cả hai mỗi lúc càng nặng lời với nhau, rồi thì cha mẹ, anh chị em bên nội, bên ngoại đều được đưa lên bàn tranh luận, mổ xẻ tận tình.
Mới hôm qua, lúc nửa khuya, mẹ đùng đùng dọn đồ đạc, bảo Mai chở sang nhà anh Hai. Trời đất! Anh chị Hai sáng còn phải đi làm sớm nữa mà. Tưởng chuyện gì ghê gớm, hóa ra chỉ là cái khăn tắm ướt nhem mà ai đem vào phòng, thảy lên giường, rồi ông đổ cho bà, bà đổ cho ông. Vậy là cuộc chiến bùng nổ. Vậy là bao nhiêu uất ức ấp ủ trong lòng suốt mấy mươi năm mẹ tuôn ra như thác đổ làm ba đỡ không kịp.
Hơn nửa đời người, ba quen được mẹ hầu hạ, phục vụ và ông hưởng thụ “diễm phúc” đó một cách thản nhiên. Thản nhiên đến độ vô tình. Bây giờ, khi có dịp tiếp xúc với những người đàn bà khác -những người may mắn hơn mẹ, được chồng tỏ lòng biết ơn mỗi khi nhận được sự chăm sóc, thương yêu từ người vợ tấm mẵn- mẹ chợt nhận ra những gì mình tận tụy lo lắng cho chồng bằng tất cả tấm lòng đã không được trân trọng. Và khi mẹ bộc lộ ý nghĩ so sánh đó, ba bĩu môi cười khinh khỉnh:
“Hứ! Học đòi theo lối sống của Mỹ từ hồi nào vậy? Bộ bà quên câu ‘tam tòng tứ đức’ của bà ngoại mấy đứa nhỏ dạy dỗ hồi đó rồi sao! Mấy chục năm nay có nghe bà than thở gì đâu, sao bây giờ bày đặt”.
Nhẹ nhàng góp ý không xong, mẹ bèn chơi chiến thuật mới là gọi bạn bè khắp nơi nói xấu ba. Khi chuyện tới tai anh em Mai, bị con cái trách móc, mẹ trợn mắt sừng sộ:
“Tao không nói xấu ai hết mà chỉ nói sự thật”.
Rồi mẹ bốc điện thoại tập họp dâu rể, cháu nội cháu ngoại, tuyên bố:
“Tao sẽ ly dị ba tụi bây”.
Mấy chục con mắt như đứng tròng. Chuyện gì vậy trời? Vợ chồng sống với nhau mấy chục năm, không có được một ngày hạnh phúc ngoài những cãi vã, cắn đắng xảy ra như cơm bữa thì chuyện chia tay đôi khi đành phải chấp nhận. Nhưng đó là lúc còn trẻ, chứ bây giờ, đầu hai thứ tóc mà kéo nhau ra tòa ly dị thì thiệt là… tội nghiệp cho con cháu.
Mai không biết nói sao, chỉ đưa mắt nhìn ba cầu cứu. Ông già nhìn thấy, nhưng cứ lờ đi như tự nãy giờ vờ dán mắt vào màn hình TV, không nghe, không thấy những gì đang xảy ra trước mắt. Mai muốn bỏ vào phòng, nhưng không dám, sợ mẹ lại đập vỡ cái màn hình TV như lần trước.
Không hiểu sao dạo này ba mẹ cãi nhau ngày một nhiều. Hồi còn trẻ, mẹ cũng thường dằn mâm, xán chén, ba cũng thường đá ghế, đập bàn. Nhưng Mai nghĩ, có lẽ ba mẹ còn trẻ nên nóng nảy, tự ái, sau này khi lớn tuổi chắc hai ông bà sẽ trầm tính lại và gia đình sẽ êm ấm hơn. Chẳng ngờ, càng về già mức độ chiến tranh càng gia tăng. Nhiều khi chuyện chẳng có gì, chỉ là bất đồng ý kiến về một vấn đề nhỏ nhặt không đáng kể, nhưng hai bên cứ lời qua tiếng lại, nên chẳng mấy chốc trở nên khốc liệt khi cả hai mỗi lúc càng nặng lời với nhau, rồi thì cha mẹ, anh chị em bên nội, bên ngoại đều được đưa lên bàn tranh luận, mổ xẻ tận tình.
Mới hôm qua, lúc nửa khuya, mẹ đùng đùng dọn đồ đạc, bảo Mai chở sang nhà anh Hai. Trời đất! Anh chị Hai sáng còn phải đi làm sớm nữa mà. Tưởng chuyện gì ghê gớm, hóa ra chỉ là cái khăn tắm ướt nhem mà ai đem vào phòng, thảy lên giường, rồi ông đổ cho bà, bà đổ cho ông. Vậy là cuộc chiến bùng nổ. Vậy là bao nhiêu uất ức ấp ủ trong lòng suốt mấy mươi năm mẹ tuôn ra như thác đổ làm ba đỡ không kịp.
Hơn nửa đời người, ba quen được mẹ hầu hạ, phục vụ và ông hưởng thụ “diễm phúc” đó một cách thản nhiên. Thản nhiên đến độ vô tình. Bây giờ, khi có dịp tiếp xúc với những người đàn bà khác -những người may mắn hơn mẹ, được chồng tỏ lòng biết ơn mỗi khi nhận được sự chăm sóc, thương yêu từ người vợ tấm mẵn- mẹ chợt nhận ra những gì mình tận tụy lo lắng cho chồng bằng tất cả tấm lòng đã không được trân trọng. Và khi mẹ bộc lộ ý nghĩ so sánh đó, ba bĩu môi cười khinh khỉnh:
“Hứ! Học đòi theo lối sống của Mỹ từ hồi nào vậy? Bộ bà quên câu ‘tam tòng tứ đức’ của bà ngoại mấy đứa nhỏ dạy dỗ hồi đó rồi sao! Mấy chục năm nay có nghe bà than thở gì đâu, sao bây giờ bày đặt”.
Nhẹ nhàng góp ý không xong, mẹ bèn chơi chiến thuật mới là gọi bạn bè khắp nơi nói xấu ba. Khi chuyện tới tai anh em Mai, bị con cái trách móc, mẹ trợn mắt sừng sộ:
“Tao không nói xấu ai hết mà chỉ nói sự thật”.
Rồi mẹ bốc điện thoại tập họp dâu rể, cháu nội cháu ngoại, tuyên bố:
“Tao sẽ ly dị ba tụi bây”.
Mấy chục con mắt như đứng tròng. Chuyện gì vậy trời? Vợ chồng sống với nhau mấy chục năm, không có được một ngày hạnh phúc ngoài những cãi vã, cắn đắng xảy ra như cơm bữa thì chuyện chia tay đôi khi đành phải chấp nhận. Nhưng đó là lúc còn trẻ, chứ bây giờ, đầu hai thứ tóc mà kéo nhau ra tòa ly dị thì thiệt là… tội nghiệp cho con cháu.
* * *
Thấy Phúc nhìn mãi chiếc điện thoại đang reo inh ỏi trên tay, Quyên sốt ruột hỏi:
- Ai vậy?
Bỏ máy vào chiếc xách tay sau khi bấm nút tắt, Phúc ngập ngừng một lúc rồi nói:
- Má tôi.
Quyên trợn mắt ngạc nhiên:
- Sao không trả lời. Lỡ nhà có chuyện gì thì sao?
Vuốt nhẹ lọn tóc vừa rơi xuống che khuất vầng trán thấp, Phúc thở dài:
- Có gì… ngoài chuyện má bắt tôi chở đến văn phòng luật sư để nhờ làm thủ tục ly dị.
- Cái gì? Đúng là tin sét đánh ngang mày. Bộ… ông già có bồ nhí hả?
Quyên nhổm người, nôn nóng nói tiếp:
- Trời! Ông già sáu mấy rồi mà. Cầu trời cho điều này đừng xảy ra.
Sau tiếng thở dài thườn thượt, Phúc lắc đầu:
- Nếu điều đó xảy đến thì ít ra cũng có lý do chính đáng. Còn đây chỉ là chuyện…
- Nên nhớ, chuyện gì cũng vậy, dù nhỏ cách mấy nhưng nếu cứ tiếp diễn từ năm này qua năm kia thì nó sẽ trở thành đại họa.
- Có lẽ vậy!
Ba của Phúc quen kiểu gia chủ nên lúc nào cũng lên giọng dạy đời. Chẳng những thế, ông còn xem thường vợ ra mặt. Nhớ lúc hai ông bà cùng đi thi quốc tịch, với dáng vẻ đầy tự tin ông chơi ngay một câu xanh dờn:
“Cỡ tui thì may ra, chứ bà làm sao mà đậu nổi. Thôi đừng đi… mất công”.
Nhưng đúng là lù khù có ông cù độ mạng. Má Phúc không biết tiếng Anh nhiều, nên chăm chỉ học thuộc làu một trăm câu theo bài học được thu băng sẵn. Bà thi đậu quốc tịch Mỹ mà còn bán tín, bán nghi, có thiệt không bây? Còn ông già, cái vẻ hí hửng, tự tin lúc bước ra xe để lên đường “ứng thí” biến mất khi ông trở về nhà với bộ mặt thảm não của người “hỏng thi”. Mấy đứa con rù rì đoán mò:
“Chắc ba nghĩ mình giỏi tiếng Mỹ nên vô đó ‘nổ’ cho ông Mỹ trắng kỳ thị điếc con ráy. Ông ta bèn chơi sát ván bằng cách hỏi cho bí để phết dấu ‘fail’ cho bõ ghét chứ gì!!!”.
Từ đó, má Phúc bắt đầu có cốt cách của người mang quốc tịch Mỹ. Bà phản pháo tối đa mỗi khi bị ông cao giọng bắt bẻ, chê bai chứ không còn thở dài cam chịu như thuở nào. Uy tín bị xuống thấp, ông già hận đời đen bạc nên trở thành người lạnh lùng, khó tính. Cái tính đã khó từ ngày trước bây giờ được nhân lên gấp đôi khiến má Phúc thẳng thừng tuyên bố:
“Thời bây giờ nam nữ bình quyền nên tôi không có bổn phận chiều chuộng ai nữa. Thích thì ở, không thích thì đi chỗ khác chơi”.
Câu nói khiêu khích đó vừa chấm dứt thì má Phúc lãnh trọn cái tát tai như trời giáng. Cái thời “ráng nhịn ổng cho yên nhà, yên cửa” đã qua, bà không nói một lời mà giơ tay bốc điện thoại gọi cảnh sát. Thằng em trai của Phúc hoảng hồn, kéo ông già nhanh chân ra xe rời khỏi nhà trước khi cảnh sát đến. Từ hôm ấy, ngày nào má Phúc cũng rỉ rả kể tội chồng. Tội tình suốt mươi mấy năm dù có mười xe cam nhông chở cũng không hết. Anh em Phúc mỗi người tự tìm chỗ lánh nạn trong nỗi lo âu thấp thỏm “mình phải làm sao nếu chuyện ly dị xảy ra?”
- Ai vậy?
Bỏ máy vào chiếc xách tay sau khi bấm nút tắt, Phúc ngập ngừng một lúc rồi nói:
- Má tôi.
Quyên trợn mắt ngạc nhiên:
- Sao không trả lời. Lỡ nhà có chuyện gì thì sao?
Vuốt nhẹ lọn tóc vừa rơi xuống che khuất vầng trán thấp, Phúc thở dài:
- Có gì… ngoài chuyện má bắt tôi chở đến văn phòng luật sư để nhờ làm thủ tục ly dị.
- Cái gì? Đúng là tin sét đánh ngang mày. Bộ… ông già có bồ nhí hả?
Quyên nhổm người, nôn nóng nói tiếp:
- Trời! Ông già sáu mấy rồi mà. Cầu trời cho điều này đừng xảy ra.
Sau tiếng thở dài thườn thượt, Phúc lắc đầu:
- Nếu điều đó xảy đến thì ít ra cũng có lý do chính đáng. Còn đây chỉ là chuyện…
- Nên nhớ, chuyện gì cũng vậy, dù nhỏ cách mấy nhưng nếu cứ tiếp diễn từ năm này qua năm kia thì nó sẽ trở thành đại họa.
- Có lẽ vậy!
Ba của Phúc quen kiểu gia chủ nên lúc nào cũng lên giọng dạy đời. Chẳng những thế, ông còn xem thường vợ ra mặt. Nhớ lúc hai ông bà cùng đi thi quốc tịch, với dáng vẻ đầy tự tin ông chơi ngay một câu xanh dờn:
“Cỡ tui thì may ra, chứ bà làm sao mà đậu nổi. Thôi đừng đi… mất công”.
Nhưng đúng là lù khù có ông cù độ mạng. Má Phúc không biết tiếng Anh nhiều, nên chăm chỉ học thuộc làu một trăm câu theo bài học được thu băng sẵn. Bà thi đậu quốc tịch Mỹ mà còn bán tín, bán nghi, có thiệt không bây? Còn ông già, cái vẻ hí hửng, tự tin lúc bước ra xe để lên đường “ứng thí” biến mất khi ông trở về nhà với bộ mặt thảm não của người “hỏng thi”. Mấy đứa con rù rì đoán mò:
“Chắc ba nghĩ mình giỏi tiếng Mỹ nên vô đó ‘nổ’ cho ông Mỹ trắng kỳ thị điếc con ráy. Ông ta bèn chơi sát ván bằng cách hỏi cho bí để phết dấu ‘fail’ cho bõ ghét chứ gì!!!”.
Từ đó, má Phúc bắt đầu có cốt cách của người mang quốc tịch Mỹ. Bà phản pháo tối đa mỗi khi bị ông cao giọng bắt bẻ, chê bai chứ không còn thở dài cam chịu như thuở nào. Uy tín bị xuống thấp, ông già hận đời đen bạc nên trở thành người lạnh lùng, khó tính. Cái tính đã khó từ ngày trước bây giờ được nhân lên gấp đôi khiến má Phúc thẳng thừng tuyên bố:
“Thời bây giờ nam nữ bình quyền nên tôi không có bổn phận chiều chuộng ai nữa. Thích thì ở, không thích thì đi chỗ khác chơi”.
Câu nói khiêu khích đó vừa chấm dứt thì má Phúc lãnh trọn cái tát tai như trời giáng. Cái thời “ráng nhịn ổng cho yên nhà, yên cửa” đã qua, bà không nói một lời mà giơ tay bốc điện thoại gọi cảnh sát. Thằng em trai của Phúc hoảng hồn, kéo ông già nhanh chân ra xe rời khỏi nhà trước khi cảnh sát đến. Từ hôm ấy, ngày nào má Phúc cũng rỉ rả kể tội chồng. Tội tình suốt mươi mấy năm dù có mười xe cam nhông chở cũng không hết. Anh em Phúc mỗi người tự tìm chỗ lánh nạn trong nỗi lo âu thấp thỏm “mình phải làm sao nếu chuyện ly dị xảy ra?”
* * *
- Mẹ em thì không đòi ly dị, nhưng quyết không ở chung nhà với “kẻ
thù”. Bà ở với chị Hai. Ông ở với em. Mỗi lần chạm mặt nhau trong các
ngày lễ giỗ bà nội hay ông ngoại thì mỗi người quay một hướng, đôi khi
còn kèm theo tiếng hứ chất chứa căm hờn, nhìn thấy mà phát ớn.
- Nguyên do?
- Nguyên do thật lãng xẹt. Cách đây khoảng hai năm, tự nhiên ba em “muốn” mẹ phải diện đầm mỗi khi đi dự tiệc tùng cùng với ông. Mẹ em lắc đầu từ chối vì không thích. Nói đúng hơn là không dám, vì mẹ mặc cảm mình quê mùa, vóc dáng thô kệch chứ không sang trọng quý phái như người ta, nên chỉ thích hợp với áo dài. Mẹ thường nói:
“Cho dù mặc áo dài có xấu mấy cũng không ai cười, vì đó là quốc phục của mình. Còn bày đặt đầm với đìa, lỡ người ta nhìn mình rồi phán “đồ ra đồ, người ra người” thì không biết giấu mặt ở đâu cho đỡ mắc cở”.
Vậy mà lần đó không biết ba thuyết phục cách nào mà mẹ lại bằng lòng mặc chiếc áo dạ hội do chính ba chọn mua. Thấy ba dìu mẹ ra xe, em thật sự ái ngại khi nhìn cái tướng mẹ khập khễnh trên đôi giày cao gót. Không đầy hai tiếng sau mẹ trở về nhà, một tay cầm giày, một tay kéo lê vạt áo. Chẳng thèm trả lời câu hỏi của em.
“Ủa! mẹ sao vậy? còn ba đâu?”
Mẹ đi thẳng vào phòng đóng cửa cái rầm. Còn ba thì suốt đêm đó không trở về nhà.
Ba mẹ không gây gổ tiếng nào nên em chẳng biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng vài ngày sau thì mỗi người đi một hướng. Cũng phải cả năm em mới biết, hôm đó mẹ té chổng gọng khi vừa bước lên cầu thang để đi vào phòng tiệc. Có lẽ chuyện xảy ra quá bất ngờ, ngoài dự đoán khiến ba bối rối đến nỗi không biết phải làm gì, nên thay vì đỡ mẹ đứng dậy, ba lại xấu hổ bước lui ra cửa khi nghe những tiếng khúc khích từ phía sau lưng với câu nói đùa đầy ác ý:
“Già rồi, đi không vững mà diện chi dữ vậy Ngoại?”.
Quyên không giấu được nụ cười:
- Chắc bây giờ ông già đã nhìn thấy cái “muốn” tai hại của ổng rồi phải không?
- Em không biết vì ba rất kín đáo, nhất là đối với con cái. Nhưng dù sao em cũng rất yêu thương và nể phục ba, vì ba không tìm cái ba “muốn” nơi người đàn bà khác.
Những câu chuyện trao đổi giữa ba cô gái -đang tuổi mơ ước một mối tình thơ mộng- được chấm dứt sau khi Quyên đặt câu hỏi với vẻ tư lự:
“Chẳng lẽ… khi người ta bước vào tuổi già thì tình yêu cũng tàn dần trong buổi hoàng hôn của cuộc đời hay sao?”
Quay sang hai người bạn ngồi bên cạnh, Quyên đặt thêm một câu hỏi. Có thể đó cũng là nỗi băn khoăn của những người con đang sống trong một gia đình thiếu hạnh phúc:
- Không chừng… sống độc thân sướng hơn phải không bạn?
- Nguyên do?
- Nguyên do thật lãng xẹt. Cách đây khoảng hai năm, tự nhiên ba em “muốn” mẹ phải diện đầm mỗi khi đi dự tiệc tùng cùng với ông. Mẹ em lắc đầu từ chối vì không thích. Nói đúng hơn là không dám, vì mẹ mặc cảm mình quê mùa, vóc dáng thô kệch chứ không sang trọng quý phái như người ta, nên chỉ thích hợp với áo dài. Mẹ thường nói:
“Cho dù mặc áo dài có xấu mấy cũng không ai cười, vì đó là quốc phục của mình. Còn bày đặt đầm với đìa, lỡ người ta nhìn mình rồi phán “đồ ra đồ, người ra người” thì không biết giấu mặt ở đâu cho đỡ mắc cở”.
Vậy mà lần đó không biết ba thuyết phục cách nào mà mẹ lại bằng lòng mặc chiếc áo dạ hội do chính ba chọn mua. Thấy ba dìu mẹ ra xe, em thật sự ái ngại khi nhìn cái tướng mẹ khập khễnh trên đôi giày cao gót. Không đầy hai tiếng sau mẹ trở về nhà, một tay cầm giày, một tay kéo lê vạt áo. Chẳng thèm trả lời câu hỏi của em.
“Ủa! mẹ sao vậy? còn ba đâu?”
Mẹ đi thẳng vào phòng đóng cửa cái rầm. Còn ba thì suốt đêm đó không trở về nhà.
Ba mẹ không gây gổ tiếng nào nên em chẳng biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng vài ngày sau thì mỗi người đi một hướng. Cũng phải cả năm em mới biết, hôm đó mẹ té chổng gọng khi vừa bước lên cầu thang để đi vào phòng tiệc. Có lẽ chuyện xảy ra quá bất ngờ, ngoài dự đoán khiến ba bối rối đến nỗi không biết phải làm gì, nên thay vì đỡ mẹ đứng dậy, ba lại xấu hổ bước lui ra cửa khi nghe những tiếng khúc khích từ phía sau lưng với câu nói đùa đầy ác ý:
“Già rồi, đi không vững mà diện chi dữ vậy Ngoại?”.
Quyên không giấu được nụ cười:
- Chắc bây giờ ông già đã nhìn thấy cái “muốn” tai hại của ổng rồi phải không?
- Em không biết vì ba rất kín đáo, nhất là đối với con cái. Nhưng dù sao em cũng rất yêu thương và nể phục ba, vì ba không tìm cái ba “muốn” nơi người đàn bà khác.
Những câu chuyện trao đổi giữa ba cô gái -đang tuổi mơ ước một mối tình thơ mộng- được chấm dứt sau khi Quyên đặt câu hỏi với vẻ tư lự:
“Chẳng lẽ… khi người ta bước vào tuổi già thì tình yêu cũng tàn dần trong buổi hoàng hôn của cuộc đời hay sao?”
Quay sang hai người bạn ngồi bên cạnh, Quyên đặt thêm một câu hỏi. Có thể đó cũng là nỗi băn khoăn của những người con đang sống trong một gia đình thiếu hạnh phúc:
- Không chừng… sống độc thân sướng hơn phải không bạn?
Ngân Bình
(Viết theo chuyện kể của M)
(Viết theo chuyện kể của M)
NGUYỄN BÁ CHỔI * ĐÁNH MỸ
Đánh Mỹ quá đà mới ra nông nỗi
Nguyễn Bá Chổi (Danlambao) -
Tục ngữ Việt Nam có câu “sai một ly đi một dặm”. Kách Mạng đánh Mỹ quá
đà từ Bến Hải tuốt xuống tận Cà Mau khoảng cách hàng tỷ ly, nên mới ra
nông nỗi ngày nay.
Kách Mạng luôn hô hào “cuộc chiến tranh chống Mỹ”, “đánh thắng giặc Mỹ,
tên đế quốc sừng sỏ nhất thế giới”, nhưng chưa bao giờ nói “đánh người
Việt”, nhưng vì lỡ đuổi Mỹ quá đà, Mỹ cút mất tiêu từ năm 1973 mà quân
ta vẫn tiếp tục ùn ùn như thác đổ hùng hổ xông tới oánh luôn người Việt
Miền Nam hai năm sau, làm nên “đại thắng mùa xuân” cực kỳ vẻ vang.
Nhưng than ôi thời “vẻ vang” nay còn đâu. Ba mươi chín năm sau nhìn lại,
Kách Mạng giờ đây chỉ là một mớ bầy hầy, cũng chỉ vì Kách mạng lỡ đuổi
Mỹ quá đà, vượt quá vĩ tuyến 17.
Nếu Kách Mạng cứ ở lại ngoài ấy sau ngày Mỹ cút thì chủ tịch nước
CHXHCNCC lừng danh “Cu ba thức thì bướm má ngủ” (1) đã không phải phí
tiền bạc của dân và bỏ bê nghĩa vụ “bắt sâu”, đánh đường sang nước cựu
thù đã thua chạy tóe khói bên kia nửa vòng trái đất để gặp “anh bảy chà
da đen” Obama hầu ngỏ lời cảm ơn nước Mỹ đã lo ổn định cuộc sống cho mấy
triệu dân Mỹ gốc Việt mà ta gọi là Việt kiều yêu nước... Mỹ.
Nếu Kách Mạng cứ ở lại ngoài ấy thì ngài Thứ trưởng Ngoại giao Sơn mặt
Lợn, nòi CS vô thần, đâu phải xâm mình làm lễ cầu siêu cho hàng trăm
ngàn người Việt chạy mặt Kách Mạng đã bỏ mình trên biển cả “được siêu
thoát trên vùng biển quê nhà...”
Nếu Kách Mạng cứ ở lại ngoài ấy thì làm gì có NQ.36 giao cho một tên Thứ
trưởng Ngoại giao bất lương ăn nói hàm hồ, vu khống, lật lọng, đi ra
nước ngoài để bôi xấu thêm bộ mặt vốn đã chẳng coi được chút nào của một
nhà nước, bị người Việt trong lẫn ngoài nước chửi như chửi cẩu.
Nếu Kách Mạng cứ ở lại ngoài ấy thì đâu có nạn Chủ tịch nước, Thủ tướng,
Tổng Bí Thư Đảng mỗi lần đi ra nước ngoài phải mày la mặt lét sợ gặp
người Việt Nam đòi hỏi Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền cho đồng bào trong
nước; phải chui cửa hậu vào nhà gia chủ; thật không còn gì là tư cách
của một người bình thường, huống chi là hàng quốc khách của người ta.
Nếu Kách Mạng cứ ở ngoài ấy, thì nay làm gì có cảnh đất nước đang bị
“sâu” phá nát, “sâu, không phải dăm ba con nhưng là một bầy”, con sâu
chúa thì nằm chình ình, biết đó mà không dám bắt, thậm chí còn không dám
gọi đúng tên của “sâu chúa”, mà chỉ gọi” đồng chí Ếch”. Cứ ở lại ngoài
ấy vô sản, làm gì có “bã tư bản” cho sâu ăn mà sinh sôi nẩy nở rồi quay
ra dành nhau ăn, “bắt” lẫn nhau.
Nếu Kách Mạng cử ở ngoài ấy, thì làm gì có cảnh con cưng của ông Cù Huy
Cận thuộc hàng “khai quốc công thần” nước CHXHCNCC ngày nay phải nhờ cô
Mỹ cút Jenifer L. Neidhart de Ortiz, đặc trách nhân quyền của Toà Đại sứ
Hoa Kỳ tại Việt Nam sang tận Hà Nội đưa đi Mỹ “chữa bệnh” hai bao cao
su đã qua sử dụng mà Công an Nhân dân sục sạo được trong thùng rác.
TS Cù Huy Hà Vũ và vợ LS Nguyễn Thị
Dương Hà, cùng cô Jenifer L. Neidhart de Ortiz, đặc trách nhân quyền của
Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, đặt chân xuống phi trường Dulles
International Airport, ngày 7 tháng 4, 2014. (Courtesy BPSOS)
Nếu Kách Mạng ở lại ngoài ấy thì ngày nay TBT Đảng như Cả Lú đâu phải
bứt đầu bứt tai mà rằng “không biết Chủ nghĩa Xã hội xây dựng đến hết
thế kỷ 21 này đã xong chưa”, vì các đồng chí lo ra với bã tư bản; không
như “nước đồng chí anh em” Bắc Hàn bám trụ trên vĩ tuyến 38, chỉ một
mình múa gậy vườn hoang, “cách ly” chưa biết mùi Mỹ Ngụy.
Nếu không đuổi Mỹ quá đà để phỏng được Miền Nam, các nhà lãnh đạo Kách
Mạng tệ ra cũng còn hiên ngang như Kim Giun Ủn dám giỡn mặt với Đế quốc
Mỹ lẫn nước đàn anh vĩ đại Tung Cuốc, chứ không “bên sợ bên bợ” như chủ
trương đu dây Kách Mạng đang đeo đuổi bởi lẽ sống còn, bất cập giây đu
mãi rồi cũng có ngày giây đứt, xôi hỏng bỏng không.
Đuổi Mỹ quá đà, Kách Mạng làm khổ mình đã đành, Kách Mạng lại còn làm khổ muôn dân.
Làm khổ dân thì vô vàn kiểu cách, ở đây chỉ xin trưng một thí dụ làm
bằng: chuyện tu sửa nhan của các bà các cô. Nên biết rằng “trình độ”
Miền Nam trước ngày bị phỏng hai hòn nếu không nói là hơn thì cũng tương
đương với Nam Hàn, mà bây giờ Kách Mạng gọi là Hàn Quốc cho đỡ quê
“người anh em” Bắc Hàn cùng là Hàn cả nhưng một bên Bắc theo CS, y chang
Bắc Việt Nam, thì không khá được trong khi Miền Nam theo Tư Bản...
Nếu Kách Mạng cứ ở lại ngoài ấy thì ngày nay Miền Nam tệ ra cũng cỡ
“tầm” Hàn Quốc, các cô các bà muốn “đẹp hóa, trẻ hóa” thì đâu phải đi
Nam Hàn cho tốn kém tiền bạc, nhiêu khê thủ tục. Các cô các bà Mền Nam
tức công dân của nước VNCH cứ thế mà tại chỗ; còn các cô các bà ngoài
Bắc tức nước VNDCCH thì chỉ cần tụt xuống dưới vĩ tuyến 17 là xong ngay,
lại cùng ngôn ngữ, tránh được tai nạn ngôn ngữ bất đồng, bảo cắt mắt
lại bị hiểu là đòi cắt mông…
Đại khái hậu quả nghiêm trọng của Kách Mạng đuổi Mỹ quá đà, nhảy xuống đánh dân Việt Nam ta là chính mới ra nông nỗi như vậy.
Kách Mạng gây ra bao nông nỗi như vậy mà cứ tiếp tục xúi dại bầy trẻ xuống đường đốt pháo bông mừng kỷ niệm, nay sắp đến lần 39.
_______________________________
P/s: Khoỉ bắt chước Nam Hàn mà bắt chước Nam Việt tức VNCH, Cù Huy Hà Vũ có tỵ nạn thì vào MN khỏi phải qua Mỹ
Việc chửi bới nhau giữa người với người trong khi ăn có lẽ xuất
hiện từ khi con người biết … ăn, nghĩa là từ cái thời mò cua bắt ốc săn
thú trong hang động con người đã giành giật miếng ăn để sống. Tính cách
ấy xã hội hôm nay có một từ rất hay là “bầy đàn”. Nó minh họa đầy đủ
cộng đồng của người tiền sử, hợp lại thành bầy đàn để sống còn và cho
tới vài triệu năm sau tính chất bầy đàn ấy được dùng để ám chỉ những
hành vi của thời kỳ hang động và dĩ nhiên không ai chấp nhận trong xã
hội ngày nay.
Ăn để sống được con người thực hành triệt để là quy luật của tạo hóa,
nhưng sống để ăn thì hoàn toàn tùy thuộc vào hoàn cảnh mỗi người, mỗi
cộng động xã hội, thậm chí mỗi nước.
“Sống để ăn” nói lên được cá tính của từng người. Ăn ngon là nhu cầu
cao nhất của con người và nhu cầu ấy không thể bàn cãi. Tuy nhiên nếu
cái “ngon” phải được đánh đổi bằng giá trị cao hơn món ăn, như tiền: khi
quá mắc, như vị trí ăn: quá dơ bẩn, như không gian ăn: tối tăm, ẩm thấp
hay ồn ào quá mức chịu đựng, hay tệ hơn, thái độ phục vụ: phải đánh đổi
bằng cả giá trị con người thì dù ngon cách mấy cũng khó có ai chấp
nhận.
Vậy mà tại Hà Nội, nơi rất nhiều người muốn được gọi là Tràng An, cái
nôi văn hóa của cả nước lại đang có hàng ngàn người chấp nhận những yếu
tố tiêu cực để được ăn ngon. Ngon bất kể lời ăn tiếng nói của người bán
món ăn ấy công khai xem họ là những con lừa, hay tệ hơn, những con heo
thèm ăn bất kể cái chuồng của nó dơ tới mức nào qua miệng lưỡi của người
bán. Gọi họ là heo, họ cười. Gọi họ là nỡm, họ cười miễn sao có ăn,
thỏa mãn tuyến nước bọt đang chực trào ra khi nghe mùi bún chửi, cháo
mắng, ốc lắm mồm…
Thực phẩm là thức ăn nói chung, nhưng cách ăn như vậy phải gọi đích danh là “gia súc”.
Người này ăn bị chửi về kể lại với người khác toàn bộ câu chuyện để
rồi kết thúc bằng một cái lắc đầu tiếc rẻ: “nhưng sao mà món ăn của họ
ngon thế!” Câu tiếc rẻ ấy kéo theo sự tò mò cho người nghe và không
chóng thì chầy người nghe ấy nếu không ý thức được thức ăn ấy chỉ nên
dành cho gia súc cũng tự nguyện làm theo trong một ngày nào đó khi chữ
“ngon” cứ văng vẳng bên tai. Và một cộng đồng nói, nghe, bắt chước, làm
theo hình thành. Hình thành dưới phạm trù “bầy đàn” đúng nghĩa.
Có người cho rằng thói quen này phát xuất từ thời xin cho của hợp tác
xã và nói rộng ra từ thời bao cấp, khi tem phiếu còn thống trị phân nửa
đất nước. Nói thế chỉ đúng một phần và với một số rất ít, chỉ những
người già, trực tiếp sống trong thời kỳ ấy còn người trẻ hơn, sinh ra
sau khi chế độ tem phiếu đã tuyệt chủng thì lập luận này không thể tồn
tại.
Chỉ có thể giải thích: Họ là những người còn nguyên cá tính bầy đàn,
chỗ nào có món ăn được đồn đãi là ngon thì họ tìm đến bất kể giá nào.
Hai nữa, họ muốn chứng tỏ mình biết thưởng thức món ăn để khi có ai
hỏi thì sẽ hãnh diện mà nói rằng tôi đã từng ăn ở đó và cũng không quên
lên án kẻ bắt họ ăn luôn những thứ nhơ bẩn từ mồm của người bán.
Tâm lý ấy phát xuất từ nghèo khó chỉ một bước đổi đời. Thăm thẳm
trong tận cùng ký ức của họ một sự ức chế thiếu ăn nặng nề nằm sâu trong
huyết quản. Họ phải ăn để bù lại tháng ngày trước đó cả gia đình không
được ăn. Ăn để trả thù và ăn để khẳng định đẳng cấp. Bất hạnh một nỗi,
lỗ hổng nhân cách mà xã hội tạo ra trong nhiều chục năm không thể kéo
những người háo ăn ấy về lại bản chất căn bản của con người: sự giận dữ
cần thiết khi ai đó làm mình xấu hỗ.
Để tránh khỏi phải xấu hỗ nhưng vẫn được ăn là một bài báo dạy những
người háo ăn này. Với cái tựa “Bí kíp ăn ngon mà không bị lườm, chửi,
xếp hàng ở Hà Nội”
Không còn một ê chề nào lớn hơn như thế. Nó làm người đàng hoàng thấy
như bị tát vào mặt. Nó tương tự như: Bí kíp tránh bị bắt quả tang khi
hiếp dâm, bí kíp nghe người khác chửi mà vẫn vui vẻ, bí kíp ăn mặn nhưng
không khát nước…những cái gọi là bí kíp ấy đang hô hào cho lớp trẻ tiếp
tục tới những chỗ bún quát, cháo chửi, ốc lắm mồm hóng mõm lên chờ chủ
quán phân phát thực phẩm rất ư là gia súc.
Những bí kíp ấy là gì: đổi sẵn bạc lẻ khi ăn kem Trang Tiền. Khi tới
Ốc lắm mồm Hồ Đắc Di không mở mồm đòi hỏi chi nhiều. Tránh xếp hàng tại
phở Bát Đàn bằng cách ngồi quán cà phê bên cạnh rồi bỏ thêm 5 ngàn để
quán cà phê mua phở giúp.
Những thứ gọi là bí kíp ấy làm người ta thắc mắc sao lại có loại phóng viên như thế nhỉ? Hay là vì quá muốn dân Hà Nội làm người Tràng An nên tờ báo phải huy động một bài viết non nớt và đậm mùi như thế?
Những thứ gọi là bí kíp ấy làm người ta thắc mắc sao lại có loại phóng viên như thế nhỉ? Hay là vì quá muốn dân Hà Nội làm người Tràng An nên tờ báo phải huy động một bài viết non nớt và đậm mùi như thế?
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”
Trời ạ! Câu ca dao này có gì hay mà mọi người cứ lấy ra bơm cho nhau mãi thế?
“Chẳng thơm”: thì ông cha ta đã xác định nó chỉ là hoa giấy, hoa giả
nhưng lại dựa vào hoa nhài để thơm lây, một câu ca dao thấm thía đến mức
lạnh lùng.
“Dẫu không thanh lịch”: đấy, anh chị là dân tứ chiến tụ về, là giai
cấp công nhân nghèo xác xơ, là tiện dân buôn tần bán tảo nhưng anh chị
là người Hà Nội thì cũng chẳng sao, cứ lấy hai chữ Tràng An ra mà che
mặt lại. Che lại cho thơm hai tiếng Tràng An vốn xuất phát từ Tầu.
Viết tới đây tôi lại thấy may cho mình. Trên tấm chứng minh nhân dân
nơi sinh không ghi chữ Tràng An, nếu không chắc lại xin ra khỏi cái quốc
tịch Hà Nội.
VIẾT TỪ SAIGON * GIỖ TỔ
Giỗ tổ và những bi hài
Mon, 04/14/2014 - 14:24 — VietTuSaiGon
1/ Thời thanh niên của Jean Paul Sartre
Khi Jean Paul Sartre được 15 tháng, do người cha qua đời vì bệnh sốt, bà Anne-Marie đã nuôi dạy cậu con trai này cùng với sự dạy bảo của ông ngoại là cụ Charles Schweitzer, một vị giáo sư trung học, dạy môn tiếng Đức. Vì vậy, vào thuở thiếu thời, Sartre đã được ông ngoại dạy cho toán học và hướng dẫn về nền văn chương cổ điển.
Tại tỉnh Meudon từ năm 1906 tới năm 1911, Sartre là một đứa trẻ không cảm thấy hạnh phúc bởi vì sinh sống trong một gia đình trưởng giả kiểu mẫu, cậu bé này đã phải tuân theo kỷ luật một cách nghiêm ngặt, không có các bạn bè cùng lứa tuổi, mỗi người trong gia đình có một vai trò riêng và hoàn cảnh rất "nhân tạo" này khiến cho cậu bé giỏi "đóng kịch", tức là hành động không tự nhiên. Kết quả của lối sống gia đình nghiêm khắc là cậu Sartre đắm mình trong công việc đọc sách, cậu đọc tất cả những gì tìm thấy nhưng cậu ưa thích nhất là các cuốn tiểu thuyết và các truyện ngắn. Về sau, ông ngoại đã khám phá ra thứ lỗi lầm này của đứa cháu bởi vì đối với ông cụ "văn chương không làm cho người ta no bụng".
Cậu Sartre còn gặp vài điều không hạnh phúc: mắt của cậu bị lác (lé)(cross-eyed) và vóc người nhỏ bé, ngoài ra còn phải luôn luôn phấn đấu với bệnh tật, nhiều lần cậu tưởng rằng mình đã qua đời, kể cả lúc mới sinh.
Năm 1911, bà Anne Marie mang cậu Sartre về sinh sống tại thành phố Paris, họ ở trên lầu thứ 5 của tòa nhà số 1, đường Le-Goff, rồi hai năm sau cậu Sartre ghi tên theo học trường trung học Montaigne và vào các năm này, cậu đã đam mê đọc sách và viết văn nhưng dù là một học sinh xuất sắc, cậu Sartre lại rất kém về đánh vần, vì vậy đã bị ông ngoại bắt thôi học, trở về theo một trường công tại Arcachon.
Tháng 7 năm 1914, Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ, tình trạng chiến tranh khiến cho cậu không có sách đọc. Năm sau, ông ngoại đã cho phép cậu theo học trường trung học Henry IV và tại nơi này, cậu quen thân với Paul Nizan.
Vào năm 1917, bà Anne Marie tái giá với ông Joseph Mancy, một kỹ sư và về sau được cử làm giám đốc xưởng hải quân tại La Rochelle. Cậu Jean Paul Sartre đã lớn lên trong một khung cảnh tư sản thành thị, không hề cảm thấy hạnh phúc khi theo học tại trường trung học La Rochelle và luôn cảm thấy cô độc. Về sau trong cuốn tự thuật, J.P. Sartre đã viết: "Tôi lớn lên trong cảnh tối tăm, tôi trở thành một người lớn cô đơn, không cha và không mẹ, không nhà và không cả trái tim, và hầu như không có cả tên gọi" và "cái hệ thống này đã làm tôi kinh hoàng".
Năm 1920, J.P. Sartre trở về trường trung học Henri IV và gặp lại người bạn cũ Paul Nizan rồi hai năm sau, tốt nghiệp bằng Tú Tài (baccalaureat). Trong 2 năm từ 1922 tới 1924, Sartre đã đậu vào trường Louis-Le-Grand rồi sau đó đã theo học trường đại học danh tiếng Ecole Normale Supérieure (trường Đại Học Sư Phạm), đây là cơ sở giáo dục đã từng đào tạo các nhà tư tưởng và các nhà trí thức ưu tú của nước Pháp. Tại trường Đại Học Sư Phạm này, J.P. Sartre đã gặp các người bạn cùng lớp như Simone Weil, Maurice Merleau-Ponty, Jean Hippolyte và Claude Levi-Strauss.
Vào thập niên 1920 và trong thời gian còn là thiếu niên, Sartre đã ham thích môn Triết Học do đọc cuốn sách của Henri Bergson: "Khảo luận về các dữ kiện tức thời của ý thức" (Essay on the Immediate Data of Consciousness). Tại trường Đại Học Sư Phạm, Jean Paul Sartre đã học hỏi rất nhiều về môn Triết Học Tây Phương (Western philosophy), đã thấm nhuần các tư tưởng của Immanuel Kant, Georg Whilhelm Friedrich Hegel và Martin Heidegger.
Qua năm 1929, J. P. Sartre đã gặp một cô bạn cùng lớp: Simone de Beauvoir, người mà sau này cũng trở nên một nhà tư tưởng danh tiếng, một nhà văn và một phụ nữ vận động cho phong trao nam nữ bình quyền, sau này tác phẩm nổi tiếng nhất của bà Beauvoir là cuốn "Giới Tính Thứ Hai" (The Second Sex). Sartre và Beauvoir là đôi bạn thân, đôi tình nhân, trao đổi các mối tình lãnh mạn và cả hai đều không là "những người một vợ một chồng". Cả hai đều coi thường các quy ước văn hóa và xã hội, họ coi đây là những điều thừa nhận mang tính tư sản (bourgeois), theo cả về tư tưởng lẫn lối sống.
Cũng trong năm 1929, J.P. Sartre tốt nghiệp trường Đại Học Sư Phạm với văn bằng Tiến Sĩ Triết Học (Doctorate in Philosophy) rồi sau đó, dạy Triết Học tại các trường trung học thuộc các thành phố Le Havre, Laon và Paris. Chính tại Le Havre, J.P. Sartre bắt đầu viết tác phẩm "Buồn Nôn". Từ năm 1929 tới năm 1931, J.P. Sartre thi hành quân dịch trong quân đội Pháp.
Vào năm 1933, J.P. Sartre được một học bổng để theo học tại Viện Pháp Quốc (The French Institute) tại thành phố Berlin, nước Đức, nơi đây, nhờ sự giúp đỡ của người bạn tên là Raymond Aron, J.P. Sartre đã tìm hiểu "Hiện Tượng Luận" (phenomenology) của nhà triết học danh tiếng Edmund Husserl, đây là nhà tư tưởng đã đóng góp rất nhiều vào công cuộc tổng hợp lý thuyết triết học của chính Sartre. Cũng trong thời gian sinh sống tại Berlin, J.P. Sartre đã đọc các công trình và quen biết cá nhân ông Martin Heidegger, một nhân vật dẫn đầu nền triết học của thế kỷ 20 và cũng là người đã ảnh hưởng tới Sartre rất nhiều.
J.P. Sartre từ năm 1935 bắt đầu chuyển thành một nhà tư tưởng chính trị (a political thinker). Ngày 14/7/1935, ông đã tham gia vào cuộc biểu tình của Mặt Trận Bình Dân (the Popular Front) diễn hành từ Ngục Bastille tới Porte de Vincennes. Trong năm 1936, Sartre định kết hợp cô Beauvoir và cô Olga Kosakiewicz thành một tổ ấm tay ba nhưng liên lạc tình cảm với cô Olga không thành, rồi trong khi tiếng xấu về văn chương (literary notoriety) của ông được mọi người biết tới, thì Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, ông bị động viên vào ngày 2/9/1939, phục vụ trong Sư Đoàn 70 đóng tại Nancy, rồi bị thuyên chuyển tới Brumath và Morsbronn. Trong thời gian ở trong quân ngũ, J.P. Sartre bắt đầu viết cuốn "Thực Thể và Hư Vô" (L' Etre et le Néant).
Khi làm giáo sư phụ giảng tại trường trung học Du Havre (Lycée du Havre), J.P. Sartre cho xuất bản vào năm 1938 cuốn tiểu thuyết triết học "Buồn Nôn" (La Nausée = Nausea) bên trong chứa nhiều ý tưởng và chủ đề của lý thuyết triết học của Husserl. Nhiều người đã coi tác phẩm này là bản "Tuyên Ngôn" của chủ nghĩa Hiện Sinh" (a manifesto of the Existentialism) và đây cũng là một trong các cuốn sách danh tiếng nhất của tác giả. Tác giả J.P. Sartre tin tưởng rằng các ý tưởng của chúng ta là sản phẩm của các kinh nghiệm mang lại do các hoàn cảnh trong đời sống thực và các cuốn tiểu thuyết, các vở kịch... đã mô tả các kinh nghiệm căn bản này nên cũng có giá trị giống như các bài luận đề (essays) nói lan man để giải thích các lý thuyết triết học.
J.P. Sartre đã dùng phương pháp hiện tượng học (phenomenological method) để chứng minh rằng đời sống của con người thì không có mục đích. Nhân vật chính trong tác phẩm "Buồn Nôn" là Antoine Roquintin đã khám phá ra sự quá nhiều ghê tởm (obscene overabundance) của thế giới chung quanh. Anh ta và sự cô đơn của anh đã dẫn tới nhiều kinh nghiệm về buồn nôn tâm lý (psychological nausea). Dần dần anh ta nhận thức được rằng con người là một hiện thực ngẫu nhiên, không có ý nghĩa và giá trị gì cả, không cần thiết và không có cả lý do tồn tại. Như vậy con người là gì? Ý thức là gì? Con người phải sống trung thực, phải sống "trong suốt" với chính mình, với các người khác, với đời...
Cuốn tiểu thuyết kết thúc với hình ảnh Roquintin nghe một đoạn nhạc và bỗng nhiên hiểu rằng "nghệ thuật" là điều tất yếu duy nhất của con người. Như vậy con người đã phải đối diện một cách cô đơn giữa ý thức cá nhân và thân phận làm người, và lối thoát để làm cho thân phận này có giá trị là "làm nghệ thuật".
2/ Jean Paul Sartre vào thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai
Khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, J.P. Sartre lại bị động viên vào quân đội. Ông là một nhân viên khí tượng (meteorologist), bị quân Đức Quốc Xã bắt vào tháng 6 năm 1940 tại Padoux và bị giữ làm tù binh trong 9 tháng. Trong khi ở tù, J.P. Sartre đã đọc lại Heidegger, đã viết và đạo diễn vở kịch "Bariona" bên trong trại tù. Tới tháng 4 năm 1941, ông được thả ra vì mắt kém và sức khỏe suy nhược. Được trở về đời sống dân sự, J.P. Sartre xin dạy học tại trường trung học Pasteur ở ngoại ô thành phố Paris, rồi được chuyển về trường trung học Condorcet để thay thế một giáo sư bị cấm dạy học vì gốc Do Thái. Khi trở về Paris vào tháng 5 năm 1941, J.P. Sartre đã tham gia vào việc thành lập nhóm kháng chiến có tên là "Chủ Nghĩa Xã Hội và Tự Do" (Socialisme et Liberté), cùng với các nhà văn khác như Simone de Beauvoir, Merleau Ponty, Jean-Toussaint và Dominique Desanti, Jean Kanapa và các cựu sinh viên trường Đại Học Sư Phạm.
Vào tháng 8 năm 1941, J.P. Sartre và Simone de Beauvoir đã đi tới vùng Riviera để gặp André Gide và André Malraux, mong được sự ủng hộ của họ về nhóm kháng chiến nhưng cả hai nhân vật kể trên đã không quyết định, vì vậy có lẽ đây là niềm thất vọng và bất mãn của J.P. Sartre.
Nhóm "Chủ Nghĩa Xã Hội và Tự Do" vì thế không thành hình và J.P. Sartre quyết định viết văn thay vì hoạt động kháng chiến tích cực. Kết quả là 3 cuốn sách ra đời: "Thực Thể và Hư Vô", "Các Con Ruồi" (Les Mouches = The Flies) và vở kịch "Xử Kín" (Huis-clos = No Exit). Các tác phẩm này đã không bị quân Đức Quốc Xã kiểm duyệt.
Trước kia, J.P. Sartre đã thảo luận kỹ càng với Simone de Beauvoir về các điều thừa nhận (assumptions) văn hóa và xã hội, các mong đợi của cách giáo dục và huấn luyện của họ, những điều này đã bị cả hai coi là có tính tư sản (bourgeois) cả về tư tưởng lẫn lối sống. Sự xung khắc giữa trạng thái đích thực của thực thể (being) với các tuân thủ xã hội vừa mang tính áp chế, vừa phá hỏng tinh thần và trạng thái "đích thực của thực thể" (authentic state of being), tất cả đã trở thành chủ đề chính của công trình văn chương và triết học của J.P. Sartre và chủ đề này đã thể hiện trong tác phẩm triết học chính của tác giả với tên là "Thực Thể và Hư Vô" (L' Etre et le Néant = Being and Nothingness, 1943). Được xuất bản vào năm 1943, tác phẩm này đã khiến cho nền triết học của J.P. Sartre được đưa lên hàng đầu của các cuộc thảo luận trí thức sau Thế Chiến Thứ Hai.
Trong tác phẩm triết học ban đầu này, J.P. Sartre đã coi con người là các thực thể, họ tạo nên thế giới của riêng họ bằng cách nổi loạn chống lại giới quyền lực (authority) và chấp nhận các trách nhiệm cá nhân vì các hành động của họ, mà không cần sự giúp đỡ của xã hội, của niềm tin tôn giáo hay đạo đức cổ truyền. Tác giả cũng cho rằng sự hiện hữu của con người (human existence) mang đặc tính hư vô (nothingness) do khả năng chối bỏ và nổi loạn. Các tiểu thuyết và các vở kịch của J.P. Sartre đã diễn tả niềm tin theo tác giả, rằng tự do và nhận trách nhiệm cá nhân là các giá trị chính trong đời sống và các cá nhân phải trông vào các khả năng sáng tạo của chính mình hơn là nhờ cậy các chính quyền, xã hội hay tôn giáo.
Vở kịch đầu tiên của Sartre, "Các Con Ruồi" (Les Mouches = The Flies, 1943) đã cứu xét các chủ đề về cam kết (commitment) và trách nhiệm (responsibility). Tác giả đã dùng truyền thuyết cổ Hy Lạp trong đó Orestes đã giết chết các thủ phạm sát hại Agamemnon và như vậy đã giải phóng các người dân của thành phố khỏi gánh nặng tội phạm. Theo quan điểm hiện sinh của Sartre, chỉ người nào chọn trách nhiệm hành động trong một hoàn cảnh đặc biệt như của Orestes, là người đã xử dụng hữu hiệu nền tự do của chính mình.
Trong vở kịch thứ hai, "Xử Kín" (Huis-clos = No Exit, 1944), một người đàn ông chỉ yêu mình (a man loves only himself), một người đàn bà đồng tính luyến ái (a lesbian), một người đàn bà bị chứng cuồng dâm (a nymphomaniac), tất cả sẽ phải bắt buộc sống trong một căn phòng nhỏ sau khi chết, và vào cuối vở kịch, họ còn là các kẻ nô lệ cho các đam mê của họ sau khi nhận thức được rằng "Địa Ngục là các kẻ khác" (L' Enfer, c' est les autres = Hell is other people). Vở kịch này đã được quay thành phim vào năm 1954, thủ vai do các tài tử Michèle Morgan và Gérard Philipe, đạo diễn là Yves Allégret.
J.P. Sartre cũng tham gia vào các tạp chí văn chương hợp pháp và bất hợp pháp rồi sau khi thành phố Paris được giải phóng, ông là một nhà văn đóng góp tích cực cho tờ báo "Chiến Đấu" (Combat). Đây là một tạp chí bắt đầu trong bóng tối để chống lại quân xâm lăng Đức Quốc Xã, do nhà triết học Albert Camus là người có cùng niềm tin như J.P. Sartre. Sartre và Beauvoir đã là bạn thân với Camus cho tới khi Camus ly khai khỏi chủ nghĩa cộng Sản và xuất bản cuốn truyện "Kẻ Nổi Loạn" (The Rebel).
Sau này, một số tác giả đã coi J.P. Sartre là một nhân vật kháng chiến, một triết gia, nhưng nhà kháng chiến Vladimir Jankelevitch đã chỉ trích J.P. Sartre là thiếu sự tham gia tích cực trong thời kỳ quân đội Quốc Xã chiếm đóng và đã coi các hoạt động nỗ lực vì tự do sau này của Sartre là một cách chuộc lỗi.
Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt, J.P. Sartre sáng lập một nguyệt san văn chương và chính trị có tên là "Thời Đại Mới" (Les Temps Modernes = Modern Times). Ông đã viết rất nhiều bài quan điểm và cũng tham gia các hoạt động chính trị khác. Các kinh nghiệm chiến tranh của ông được mô tả trong bộ tiểu thuyết ba tập (trilogy of novels) có tên là "Các Con Đường dẫn tới Tự Do" (Les Chemins de la Liberté = The Roads to Freedom, 1945-49). Tác phẩm này là một tiếp cận ít lý thuyết và nhiều thực tế hơn, giúp cho nhiều người hiểu rõ chủ nghĩa hiện sinh. Chủ nghĩa Hiện Sinh đã thảo luận các chủ đề như sự vô lý thấy rõ (the apparent absurdity), tính phù phiếm của đời người (the futility of life), tính vô tâm của vũ trụ (the indifference of the universe) và sự cần thiết phải dấn thân (engagement) vì một lý do chính đáng.
Trong các năm từ năm 1946 tới năm 1954, J.P. Sartre viết nhiều sách khảo cứu về tiểu sử, trong đó cuốn quan trọng nhất liên quan tới người bạn Jean Genet (1910-1986), một tội phạm và cũng là một nhà văn, đó là cuốn "Thánh Gênet: kịch sĩ và kẻ chết vì đạo" (Saint Genet, comédien et martyr = Saint Genet: Actor and Martyr, 1952).
Từ năm 1964, J.P. Sartre đứng đầu Tổ Chức bảo vệ các Tù Nhân Chính Trị người Iran (Organization to Defend Iranian Political Prisoners), kéo dài tới ngày thành công của cuộc Cách Mạng Hồi Giáo (the Islamic Revolution).
3/ Jean Paul Sartre và Chủ Nghĩa Cộng Sản
Trong cuộc Chiến Tranh Lạnh, trong khi các bạn bè và nhất là Albert Camus, đứng về lập trường ủng hộ Hoa Kỳ và các nước phương tây thì J.P. Sartre lại là một con người tận tụy với xã hội chủ nghĩa và bênh vực Liên Xô. Dù vậy, ông cũng lên án các hành động toàn trị của chủ nghĩa Xô Viết, đặc biệt là cách độc tài và đế quốc và ông tin tưởng rằng giới công nhân dù sao cũng tốt đẹp tại Liên Xô hơn là tại các nước tư bản của phương tây.
J.P. Sartre được mời làm Phó Chủ Tịch của Hội Thân Hữu Pháp-Liên Xô (the France-USSR Association)
Sau khi nhà độc tài Stalin qua đời, J.P. Sartre đã chỉ trích hệ thống cai trị Xô Viết, tố cáo và lên án các trại tập trung cải tạo dù cho ông vẫn còn ủng hộ nước Liên Xô. Năm sau, ông đi thăm Liên Xô và đã phải nằm bệnh viện trong 10 ngày vì kiệt sức. Ông cũng đã liên hệ yêu đương với cô thông dịch người Nga tên là Lena Zonina.
Qua năm 1956, khi quân đội Liên Xô tràn vào xứ Hungary để đè bẹp các cuộc biểu tình chống cộng tại đây, J.P. Sartre đã lên án cuộc xâm lăng này và bênh vực quyền tự do của xứ sở Hungary. Ông đã từ chức khỏi Hội Thân Hữu Pháp-Liên Xô, rồi qua năm 1968, cũng kết án Khối Warsaw đã xâm lăng xứ Tiệp Khắc, vì vậy tại Liên Xô, ông J.P. Sartre đã bị Thủ Tướng Nikita Khrushchev chỉ trích.
J.P. Sartre đã tìm cách liên kết các niềm tin triết học và chính trị. Ông tin tưởng rằng bên trong văn chương và triết học vốn đã có chính trị, theo chức năng, nếu không phải là theo nội dung. Ông mang niềm tin rằng một tác gia hay một nghệ sĩ phải tạo nên hy vọng làm thay đổi trật tự xã hội, vì vậy ông đã dấn thân, viết nhiều để bênh vực cho các cuộc tranh đấu, nhất là chống lại chế độ thuộc địa của nước Pháp tại châu Phi. Trong các thập niên về sau, có lẽ J.P. Sartre nổi danh không phải vì nền triết học "hiện sinh", mà vì niềm tin chính trị khuynh tả nhưng người ta coi ông là một nhà "xã hội chủ nghĩa" độc lập (an independent Socialist).
Khi tham gia vào các hoạt động trí thức và chính trị, J.P. Sartre cho ra đời tác phẩm "Các Bàn Tay Dơ Bẩn" (Les Mains Sales = Dirty Hands, 1948). Vào thời gian này, ông đã ôm ấp chủ nghĩa Cộng Sản nhưng lại không là một đảng viên, không tham gia vào một đảng cộng sản của một nước nào. Ông hoạt động tích cực chống lại chế độ thuộc địa của nước Pháp tại xứ Algeria và là người ủng hộ danh tiếng nhất của cuộc Chiến Tranh Giải Phóng Algeria (the Algerian war of liberation).
Tại nước Pháp, Tổ Chức Đạo Quân Bí Mật O.A.S (Organization de l' Armée Secrete) thường thi hành các hoạt động khủng bố chống lại nền độc lập của xứ Algeria, họ đã cho nổ một trái bom vào năm 1961 tại căn phòng cư ngụ của ông J.P. Sartre trên con đường Bonaparte, rồi năm sau cũng vậy, vì thế ông Sartre đã phải dọn nhà về Bến Louis-Blériot, đối diện với Tháp Eiffel.
J.P. Sartre cũng chống "Chiến Tranh Việt Nam" và vào năm 1967, cùng với nhà văn, nhà tư tưởng Bertrand Russell và với vài danh nhân khác, đã tổ chức "Tòa Án Russell", đây là một pháp đình có ý định phơi bày và xét xử các tội ác chiến tranh (war crimes) của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
J.P. Sartre cũng bỏ ra nhiều thời giờ để làm dung hòa các ý tưởng hiện sinh đối với quyền tự quyết, dung hòa với các nguyên tắc cộng sản và tác phẩm chính trong thời kỳ trước năm 1960 là cuốn "Phê Bình Lý Trí Biện Chứng" (Critique de la raison dialectique = Critique of Dialectical Reason, 1960). Theo Sartre, con người được tự do nhưng phải chịu trách nhiệm về các chọn lựa do mình, chịu trách nhiệm về các đời sống tình cảm. Các điều nhấn mạnh của Sartre về các giá trị nhân bản (humanist values) trong các tác phẩm đầu của Karl Marx đã khiến cho các nhà trí thức Pháp đã phải tranh luận với ông trong thập niên 1960. Nhưng dù cho là một nhà nói chuyện xuất sắc (a superb conversationalist), ông J.P. Sartre đã thua trong một cuộc tranh luận với nhà triết học Louis Althusser, ông Althusser này đã tham gia vào đảng Cộng Sản Pháp từ năm 1948 rồi trong hai thập niên 1960 và 1970, được coi là một tiếng nói có ảnh hưởng nhất của chủ nghĩa Mác Xít Phương Tây (Western Marxism).
Vào năm 1970, J.P. Sartre đã bị nhà cầm quyền Pháp bắt giữ vì bán trên đường phố một tài liệu Mao-ít bị cấm đoán, có tên là "Lý Do của dân tộc" (La cause du people). J.P. Sartre rất hiểu rõ các tư tưởng của Mao Trạch Đông. Ông đã từng qua Trung Hoa với Simone de Beauvoir vào năm 1955 và bà này đã quyết định viết một cuốn sách dày về nước này. Tuy nhiên, vào đầu thập niên 1960, cuộc cách mạng kinh tế và xã hội tại xứ Cuba đã ám ảnh ông J.P. Sartre nhiều hơn. Ông đã từng gặp ông Fidel Castro nhưng về sau đoạn giao với nhà độc tài này.
4/ Jean Paul Sartre và Văn Chương
Nhiều người cho rằng trong các thập niên 1940 và 1950, các tư tưởng của Sartre vẫn còn mơ hồ và chủ nghĩa Hiện Sinh (Existentialism) đã trở nên một thứ triết lý của thế hệ "Beatnik". Đây là nhóm người trẻ của thập niên 1950 đã phản đối xã hội bằng các y phục và hành động không theo các quy ước thông thường. Các cuốn tiểu thuyết và các vở kịch rất biểu tượng trong giai đoạn này đã chuyên chở đường lối triết học của ông và trong vở kịch nổi danh nhất "Xử Kín" (Huis-clos = No Exit), đã có một câu nói danh tiếng nhất, đó là câu "Địa Ngục là các kẻ khác" (L' enfer, c' est les autres = Hell is other people). Năm 1948, Nhà Thờ Cơ Đốc (the Catholic Church) đã xếp tất cả các tác phẩm của J.P. Sartre vào danh sách các sách bị cấm đọc vì ông được coi là một triết gia "vô thần" và các tác phẩm của ông là những cuốn sách khuynh tả.
Vào năm 1964, J.P. Sartre cho xuất bản cuốn "Ngôn Từ" (Les Mots = Words), đồng thời được trao tặng Giải Thưởng Nobel Văn Chương, nhưng ông đã từ chối giải thưởng danh tiếng nhất trên thế giới này, và xác định rằng ông luôn luôn không lãnh nhận các danh dự chính thức, không muốn tự xếp mình vào các định chế (institutions) và cho rằng các giải thưởng giống như Giải Thưởng Nobel đã cứu xét quá nặng về mặt ảnh hưởng của người viết văn.
Trong thập niên 1960, J.P. Sartre đã trở nên một nhân vật nổi danh trên thế giới và đã tạo nên các danh từ mà mọi người đều nói tới, chẳng hạn như hai từ "hiện sinh". Dù thế, ông vẫn là một con người đơn giản, chẳng giàu có, thường tận tâm tranh đấu cho tới cuối đời, chẳng hạn như trong dịp các sinh viên biểu tình và đình công tại Paris vào mùa hè năm 1968.
Sức khỏe của J.P. Sartre suy kém dần. Ông bị hai lần đau tim vào năm 1971 rồi một lần khác 2 năm sau, vì thế ông đã dọn nhà tới Đại Lộ Edgar-Quinet. Về thị giác, ông bị chảy máu mắt nên ở trong tình trạng nửa mù (semi-blind). Để giúp đỡ ông làm việc, J.P. Sartre đã nhờ tới ông Pierre Victor là người đã gặp vào năm 1970 và đã thảo luận với ông về các vấn đề đạo đức học. Ông Victor này thường đọc các sách và các bài viết mà J.P. Sartre muốn nghe.
Năm 1975, khi được hỏi rằng ông muốn người đời tưởng nhớ tới ông như thế nào thì J.P. Sartre cho biết: "Tôi ước muốn được mọi người nhớ tới các tác phẩm "Buồn Nôn", "Xử Kín" và "Con Quỷ và Chúa Tốt Lành" (The Devil and the Good Lord), rồi tới hai tác phẩm triết học của tôi, đặc biệt là cuốn sau: "Phê Phán Lý Trí Biện Chứng" (Critique of Dialectical Reason), sau đó là bài khảo luận của tôi về Genet, Thánh Genet... Nếu những điều này được tưởng nhớ, thì đó đã là một công trình rồi và tôi không còn dám đòi hỏi gì thêm. Là một người, nếu một anh Jean Paul Sartre nào đó được tưởng nhớ, tôi ước muốn rằng người ta sẽ nhớ các nơi và hoàn cảnh lịch sử mà tôi đã sinh sống, tôi đã sống trong đó như thế nào, và các khát vọng (aspirations) mà tôi cố gắng thu lượm trong chính tôi".
Tình trạng sức khỏe của J.P. Sartre suy kém dần, một phần cũng vì ông đã bỏ quá nhiều công sức để viết cuốn "Phê Phán" (The Critique) và một dự án cuối cùng trong đời của ông, đó là cuốn tiểu sử phân tích của Gustave Flaubert: "Kẻ ngu đần của gia đình" (L' idiot de la famille = The Family Idiot), cả hai tác phẩm này đều chưa hoàn thành.
Ngay từ thuở nhỏ, J.P. Sartre đã ưa thích các tác phẩm của Gustave Flaubert cho nên khi về già, ông đã nghiên cứu về Văn Hào này để viết ra một bộ sách 4 cuốn, có tên là "Kẻ ngu đần của gia đình" (L' idiot de la famille = The Family Idiot, 1971-72). Đây là tác phẩm lớn nhất của J. P. Sartre. Khi viết cuốn tiểu sử của Gustave Flaubert này, J.P. Sartre đã dùng tới các cách diễn tả theo Freud (Freudian interpretations) và các yếu tố xã hội và lịch sử theo Mác Xít. J.P. Sartre đã cho thấy Flaubert trở nên một con người do gia đình và xã hội tạo ra và các chọn lựa của Flaubert là từ hoàn cảnh lịch sử của giai cấp của ông ta.
Nhà triết học Jean Paul Sartre qua đời vào ngày 15/4/1980 tại Paris vì phổi bị phù (edema of the lung) và được chôn cất trong Nghĩa Trang Montparnasse thuộc thành phố Paris. Đám tang của ông có hơn 50,000 người tham dự. Sau khi J.P. Sartre qua đời, người nhận di sản văn chương của ông không phải là bà Simone de Beauvoir, mà là cô Arlette Elkaim, cô người tình của tác giả.
Cuộc đời của triết gia Jean Paul Sartre cũng như các giá trị tư tưởng của ông thì đầy nghịch lý, nhưng ông vẫn là một nhân vật có cảm tình với những người bị đàn áp trên thế giới. Giống như Ernest Hemingway và F. Scott Fitzgeral sau Thế Chiến Thứ Nhất, Jean Paul Sartre là nhà trí thức Pháp rất danh tiếng sau Thế Chiến Thứ Hai và ông cũng là nhân vật dẫn đầu đã diễn đạt các quan điểm của thế hệ sau cuộc đại chiến này.
5/ Các tác phẩm văn chương và triết học của Jean Paul Sartre
• Trí Tưởng Tượng (L' imagination = Imagination, 1936), một phê bình tâm lý học.
• Siêu Việt của Bản Ngã (La transcendance de l' égo = The Transcendence of the Ego, 1937).
• Buồn Nôn (La nausée = Nausea, 1938)
• Bức Tường (Le mur = The Wall, 1939).
• Phác thảo về một lý thuyết của cảm xúc (Esquisse d' une théorie des émotions = Sketch for a Theory of the Emotions, 1939.
• Tưởng Tượng (L' imaginaire = The Imaginary, 1940).
• Các Con Ruồi (Les mouches = The Flies, 1943).
• Thực Thể và Hư Vô (L' être et le néant = Being and Nothingness, 1943).
• Suy nghĩ về vấn đề Do Thái (Réflexions sur la question juive = Reflections on the Jewish Question, 1943)
• Xử Kín (Huis-clos = No Exit, 1944).
• Các con đường dẫn tới tự do (Les Chemins de la liberté = The Roads to Freedom), gồm 3 cuốn: - a) Thời đại lý trí (L' âge de raison = The Age of Reason, 1945)
- b) Án Treo (Le sursis = The Reprieve, 1947)
- c) Cảnh chết trong tâm hồn (La mort dans l' Âme = Iron in the Soul, 1949).
• Chết không đất chôn (Morts sans sépulture = Deaths without burial = The Victors, 1946).
• Chủ nghĩa hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản (L' Existentialisme est un humamisme = Existentialism is a Humanism, 1946).
• Con Đĩ đáng kính (La putain respectueuse = The Respectful Prostitute, 1946).
• Văn Chương là gì (Qu' est ce que la littérature? = What is literature? 1947).
• Baudelaire, 1947.
• Các hoàn cảnh (Situations, 1947-65).
• Các bàn tay dơ bẩn (Les mains sales = Dirty hands, 1948).
• Orpheus đen (Orphée Noir = Black Orpheus, 1948).
• Con Quỷ và Chúa tốt lành (Le diable et le bon dieu = The Devil and the Good Lord, 1951).
• Các ván bài đã xong (Les jeux sont faits = The Game is Up, 1952).
• Thánh Genet, kịch sĩ và người chết vì đạo (Saint Genet, comédien et martyr = Saint Genet, Actor and Martyr, 1952).
• Chủ nghĩa hiện sinh và các cảm xúc của con người (Existentialism and Human Emotions, 1957).
• Các kẻ bị kết tội tại Altona (Les séquestrés d' Altona = The Condemmed of Altona, 1959).
• Phê bình lý trí biện chứng (Critique de la raison dialectique = Critique of Dialectical Reason, 1960).
• Ngôn Từ (Les mots = The Words, 1964).
• Kẻ ngu đần của gia đình (L' idiot de la famille = The Family Idiot, 1971-72).
Phạm Văn Tuấn
Một cách ngẫu nhiên nhưng cũng là một cách có sắp xếp, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương luôn gần với ngày 30 tháng Tư.
Cũng có thể, trong tiến trình đó, một quãng thời gian dài con người
mơ hồ về lịch sử, gốc gác của dân tộc mình, vô hình trung, từ vô thức,
sự coi rẻ nguồn gốc và mặc cảm loạn luân, mặc cảm đồng huyết cứ ăn dần,
lậm dần vào huyết quản. Và cuối cùng, thay vì tìm hiểu một cách nghiêm
túc về nguồn gốc Việt tộc để định hình nền văn hóa dân tộc mà đi đến
tương lai, thay vì suy tư về một nguồn gốc có tính khoa học, đúng đắn,
người ta lại rơi vào sung kính giả tượng, mê tín và lên đồng tập thể.
Kết cục của vấn đề này là cả một dân tộc đều mất gốc, vô hướng và hỏng
hóc, không còn đủ khả năng phân định, định danh được mình và đi đến băng
hoại, ngu ngốc… Về lâu về dài, với tình hình như đang thấy, điều này
xãy ra là chắc chắn.
Và một khi dân tộc này trở nên ngu ngốc, tệ hại vì mất gốc, kẻ được lợi nhiều nhất, kẻ ngồi rung đùi hí hửng không còn ai khác ngoài kẻ độc tài. Nhà độc tài chỉ mong mỏi có chừng đó thôi, và khi nào ngày đó đến, đó cũng là thời điểm, khoảnh khắc mà Việt Nam trở thành mảnh đất màu mỡ cho chủ nghĩa Cộng sản độc tài và Cộng sản đàn anh Trung Quốc sẽ tha hồ chém gió về nguồn gốc Việt Nam, Cộng sản quốc tế lại một lần nữa phủ đôi cánh tay tanh máu của nó lên nhân loại, xuất phát điểm từ đất nước hình chữ S này!
Giỗ Tổ Hùng Vương, câu chuyện đã đến hồi cao trào của vở bi hài kịch này!
Và hai ngày này đều mang tính lịch sử, một ngày huyền sử, đặt ra hàng
ngàn câu hỏi khôi hài về giống nòi và một ngày mang dấu ấn tang thương
của một dân tộc mà ở đó, hai chữ “giải phóng” được dán lên trán tất cả
mọi ngõ ngách, dán lên gương mặt đất nước như một lời thách đố, đồng
thời cũng là một lời nguyền hay nói khác đi là nghiệp chướng của dân tộc
đi đến hồi cao trào.
Vì sao lại nói như thế? Vì ở khía cạnh huyền sử, nói thì đâm ra thất
thố chứ không thể nhịn cười được khi nghĩ rằng mình vốn dĩ được sinh ra
từ một sự giao phối dị thường, một con rồng “ấy” một nàng tiên và nàng
tiên này có thai! Kể cũng lạ, về mặt khoa học mà nói thì ngoài việc con
ngựa “ấy” con lừa thì sinh ra con la (nhưng con la không bao giờ sinh ra
được một con la nào khác mặc dù nó có “ấy” với con ngựa, con lừa hay
con la!) thì chưa có những con nào khác giống mà lại phối hợp đẻ ra con
như con… người Việt Nam.
Có điểm đặc biệt thứ hai trong cuộc phối ngẫu này là khi sinh, thay
vì nàng tiên sinh ra con người giống như con người vốn thế, nàng lại
sinh ra một cái bọc chứa một trăm trứng, ngẫm chỗ này thấy giống rắn, vì
rắn nó đẻ trứng và cũng đẻ ra một bọc chừng 100 trứng, sau đó trứng lớn
dần làm rách bọc và đến kì, trứng lại nứt vỏ, rắn con chui ra. Sao tổ
tiên của chúng ta lại sinh ra giống rắn vậy nhễ?! Và khi sống với nhau
một thời gian, chắc là do chán nhau, mà vợ chồng thường ly hôn, bỏ nhau
vì lý do gì? Hoặc là bất công, hoặc là thất vọng đối tác về tình cảm,
tài chính, tài năng và tình dục. Thời đó thì chắc chưa ai có khái niệm
thế nào là công bằng nên khoan bàn đến hai chữ này. Chỉ bàn về khía cạnh
tình dục.
Có lẽ càng lúc, càng chán nhau về tình dục nên rồng bỏ tiên mà đi,
tiên cũng ngán ngẫm rời bỏ rồng, dường như hai bên đã quá chán ngán nhau
nên bỏ nhau nhanh chóng (điều nay lại một lần nữa rất giống tính khí
của rắn, vì khi cần, rắn sẽ quấn quýt không rời nhau, nhưng đến khi
chán, chúng mau chóng rời bỏ nhau, thậm chí ăn thịt nhau!). Nghe đầy vẻ
hời hợt và nông nổi, thích thì ở, không thích thì đi!
Và đáng sợ là trong bài huyền sử này cũng chẳng có chi tiết nào cho
thấy tổ tiên của chúng ta không bị đồng huyết, vì chung một bọc, sau đó
tự phong này phong nọ rồi sinh con đẻ cái, không thấy một nhóm người thứ
ba xuất hiện để phát triển nòi giống. Như vậy, bài học lịch sử này chỉ
chứng mình một điều duy nhất: Người Việt được sinh ra trong bối cảnh cha
mẹ lang chạ bậy bạ giống nòi và đẻ ra một trăm cái trứng nở ra một trăm
đứa con để rồi cha mẹ bỏ nhau sớm, con cái bươn bả kiếm sống rồi tự lấy
nhau mà để ra giống nòi Việt Nam. Vậy đích thị đây là giống nòi đồng
huyết, chẳng có hy vọng gì về trí tuệ cũng như tiền đồ!
Vậy sao lại có chuyện lấy cái câu chuyện tréo ngoe này làm ngày quốc lễ? Chọn như vậy có ý gì?
Có lẽ cũng nên đặt thêm vấn đề về những lễ hội gọi là Giỗ Tổ Hùng
Vương từ những năm đầu tiên cho đến nay, đặc biệt là từ năm 2000 trở
lại. Năm 2010, ở khu du lịch Đại Nam, Bình Dương diễn ra lễ giỗ Tổ khá
lớn. Và đây cũng là năm mà người Việt Nam khủng hoảng khi phải chứng
kiến hàng ngàn người Trung Quốc mặc quần ngắn, áo cánh tay đi nghênh
ngang trước bàn thờ đang cúng kính trang nghiêm, họ là khách du lịch mà,
ai có quyền cấm họ mặc quần ngắn đi chơi, và đây là khu du lịch, không
thể nói được gì họ!
Và nhiều lần như thế, ở Sài Gòn, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Hà Nội,
Hải Phòng, Lào Cai… Người Trung Quốc lại đi nghênh ngang, người Việt
Nam thì đã hoàn toàn đánh mất lòng thành kính (dù rằng đây là lòng thành
kính đã bị đánh tráo), để rồi, trong dịp Giỗ Tổ ở Phú Thọ vừa qua, có
cả một sân khấu múa lửa lắc vòng, thanh niên nam nữ tha hồ nhảy múa giật
gân, nhìn chẳng khác nào một đám lên đồng hoặc một cái bệnh viện tâm
thần trong giờ múa tập thể!
Tại sao lại như vậy? Và làm vậy được gì? Xét về bản chất sâu xa, có
vẻ như nhà cầm quyền hoặc là không hiểu gì về lịch sử, về tính khoa học
của lịch sử, hoặc là họ đã biết, đã hiểu nhưng cố tình làm. Và tiến
trình của sự việc này là đi từ chỗ ngộ nhận, mù mờ về lịch sử đến chỗ
coi rẻ nguồn gốc và thấy khôi hài, vô lý về nguồn gốc để rồi chấp nhận
một thứ lý thuyết khác về lịch sử, mặc nhiên thừa nhận cái gọi là “gốc
gác Trung Hoa” mà nhiều kẻ nhân danh viết sử đã từng bán bổ dân tộc bằng
luận điệu này (?!).
Và một khi dân tộc này trở nên ngu ngốc, tệ hại vì mất gốc, kẻ được lợi nhiều nhất, kẻ ngồi rung đùi hí hửng không còn ai khác ngoài kẻ độc tài. Nhà độc tài chỉ mong mỏi có chừng đó thôi, và khi nào ngày đó đến, đó cũng là thời điểm, khoảnh khắc mà Việt Nam trở thành mảnh đất màu mỡ cho chủ nghĩa Cộng sản độc tài và Cộng sản đàn anh Trung Quốc sẽ tha hồ chém gió về nguồn gốc Việt Nam, Cộng sản quốc tế lại một lần nữa phủ đôi cánh tay tanh máu của nó lên nhân loại, xuất phát điểm từ đất nước hình chữ S này!
Giỗ Tổ Hùng Vương, câu chuyện đã đến hồi cao trào của vở bi hài kịch này!
JEAN-PAUL SARTRE (1905 – 1980)
Nhà triết học Hiện Sinh, nhà viết kịch,
tiểu thuyết và phê bình người Pháp
Jean
Paul Sartre tên thực là Jean-Paul Charles Aymard Sartre, sinh ngày 21
tháng 6 năm 1905 tại thành phố Paris, nước Pháp, là con của ông
Jean-Baptiste Sartre, một vị sĩ quan Hải Quân, và bà Anne-Marie
Schweitzer. Bà Anne là người gốc Đức miền Alsace, là bà con của Bác Sĩ
Pháp Albert Schweitzer (1875-1965), đây là nhân vật lãnh Giải Thưởng
Nobel Hòa Bình năm 1952.Nhà triết học Hiện Sinh, nhà viết kịch,
tiểu thuyết và phê bình người Pháp
1/ Thời thanh niên của Jean Paul Sartre
Khi Jean Paul Sartre được 15 tháng, do người cha qua đời vì bệnh sốt, bà Anne-Marie đã nuôi dạy cậu con trai này cùng với sự dạy bảo của ông ngoại là cụ Charles Schweitzer, một vị giáo sư trung học, dạy môn tiếng Đức. Vì vậy, vào thuở thiếu thời, Sartre đã được ông ngoại dạy cho toán học và hướng dẫn về nền văn chương cổ điển.
Tại tỉnh Meudon từ năm 1906 tới năm 1911, Sartre là một đứa trẻ không cảm thấy hạnh phúc bởi vì sinh sống trong một gia đình trưởng giả kiểu mẫu, cậu bé này đã phải tuân theo kỷ luật một cách nghiêm ngặt, không có các bạn bè cùng lứa tuổi, mỗi người trong gia đình có một vai trò riêng và hoàn cảnh rất "nhân tạo" này khiến cho cậu bé giỏi "đóng kịch", tức là hành động không tự nhiên. Kết quả của lối sống gia đình nghiêm khắc là cậu Sartre đắm mình trong công việc đọc sách, cậu đọc tất cả những gì tìm thấy nhưng cậu ưa thích nhất là các cuốn tiểu thuyết và các truyện ngắn. Về sau, ông ngoại đã khám phá ra thứ lỗi lầm này của đứa cháu bởi vì đối với ông cụ "văn chương không làm cho người ta no bụng".
Cậu Sartre còn gặp vài điều không hạnh phúc: mắt của cậu bị lác (lé)(cross-eyed) và vóc người nhỏ bé, ngoài ra còn phải luôn luôn phấn đấu với bệnh tật, nhiều lần cậu tưởng rằng mình đã qua đời, kể cả lúc mới sinh.
Năm 1911, bà Anne Marie mang cậu Sartre về sinh sống tại thành phố Paris, họ ở trên lầu thứ 5 của tòa nhà số 1, đường Le-Goff, rồi hai năm sau cậu Sartre ghi tên theo học trường trung học Montaigne và vào các năm này, cậu đã đam mê đọc sách và viết văn nhưng dù là một học sinh xuất sắc, cậu Sartre lại rất kém về đánh vần, vì vậy đã bị ông ngoại bắt thôi học, trở về theo một trường công tại Arcachon.
Tháng 7 năm 1914, Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ, tình trạng chiến tranh khiến cho cậu không có sách đọc. Năm sau, ông ngoại đã cho phép cậu theo học trường trung học Henry IV và tại nơi này, cậu quen thân với Paul Nizan.
Vào năm 1917, bà Anne Marie tái giá với ông Joseph Mancy, một kỹ sư và về sau được cử làm giám đốc xưởng hải quân tại La Rochelle. Cậu Jean Paul Sartre đã lớn lên trong một khung cảnh tư sản thành thị, không hề cảm thấy hạnh phúc khi theo học tại trường trung học La Rochelle và luôn cảm thấy cô độc. Về sau trong cuốn tự thuật, J.P. Sartre đã viết: "Tôi lớn lên trong cảnh tối tăm, tôi trở thành một người lớn cô đơn, không cha và không mẹ, không nhà và không cả trái tim, và hầu như không có cả tên gọi" và "cái hệ thống này đã làm tôi kinh hoàng".
Năm 1920, J.P. Sartre trở về trường trung học Henri IV và gặp lại người bạn cũ Paul Nizan rồi hai năm sau, tốt nghiệp bằng Tú Tài (baccalaureat). Trong 2 năm từ 1922 tới 1924, Sartre đã đậu vào trường Louis-Le-Grand rồi sau đó đã theo học trường đại học danh tiếng Ecole Normale Supérieure (trường Đại Học Sư Phạm), đây là cơ sở giáo dục đã từng đào tạo các nhà tư tưởng và các nhà trí thức ưu tú của nước Pháp. Tại trường Đại Học Sư Phạm này, J.P. Sartre đã gặp các người bạn cùng lớp như Simone Weil, Maurice Merleau-Ponty, Jean Hippolyte và Claude Levi-Strauss.
Vào thập niên 1920 và trong thời gian còn là thiếu niên, Sartre đã ham thích môn Triết Học do đọc cuốn sách của Henri Bergson: "Khảo luận về các dữ kiện tức thời của ý thức" (Essay on the Immediate Data of Consciousness). Tại trường Đại Học Sư Phạm, Jean Paul Sartre đã học hỏi rất nhiều về môn Triết Học Tây Phương (Western philosophy), đã thấm nhuần các tư tưởng của Immanuel Kant, Georg Whilhelm Friedrich Hegel và Martin Heidegger.
Qua năm 1929, J. P. Sartre đã gặp một cô bạn cùng lớp: Simone de Beauvoir, người mà sau này cũng trở nên một nhà tư tưởng danh tiếng, một nhà văn và một phụ nữ vận động cho phong trao nam nữ bình quyền, sau này tác phẩm nổi tiếng nhất của bà Beauvoir là cuốn "Giới Tính Thứ Hai" (The Second Sex). Sartre và Beauvoir là đôi bạn thân, đôi tình nhân, trao đổi các mối tình lãnh mạn và cả hai đều không là "những người một vợ một chồng". Cả hai đều coi thường các quy ước văn hóa và xã hội, họ coi đây là những điều thừa nhận mang tính tư sản (bourgeois), theo cả về tư tưởng lẫn lối sống.
Cũng trong năm 1929, J.P. Sartre tốt nghiệp trường Đại Học Sư Phạm với văn bằng Tiến Sĩ Triết Học (Doctorate in Philosophy) rồi sau đó, dạy Triết Học tại các trường trung học thuộc các thành phố Le Havre, Laon và Paris. Chính tại Le Havre, J.P. Sartre bắt đầu viết tác phẩm "Buồn Nôn". Từ năm 1929 tới năm 1931, J.P. Sartre thi hành quân dịch trong quân đội Pháp.
Vào năm 1933, J.P. Sartre được một học bổng để theo học tại Viện Pháp Quốc (The French Institute) tại thành phố Berlin, nước Đức, nơi đây, nhờ sự giúp đỡ của người bạn tên là Raymond Aron, J.P. Sartre đã tìm hiểu "Hiện Tượng Luận" (phenomenology) của nhà triết học danh tiếng Edmund Husserl, đây là nhà tư tưởng đã đóng góp rất nhiều vào công cuộc tổng hợp lý thuyết triết học của chính Sartre. Cũng trong thời gian sinh sống tại Berlin, J.P. Sartre đã đọc các công trình và quen biết cá nhân ông Martin Heidegger, một nhân vật dẫn đầu nền triết học của thế kỷ 20 và cũng là người đã ảnh hưởng tới Sartre rất nhiều.
J.P. Sartre từ năm 1935 bắt đầu chuyển thành một nhà tư tưởng chính trị (a political thinker). Ngày 14/7/1935, ông đã tham gia vào cuộc biểu tình của Mặt Trận Bình Dân (the Popular Front) diễn hành từ Ngục Bastille tới Porte de Vincennes. Trong năm 1936, Sartre định kết hợp cô Beauvoir và cô Olga Kosakiewicz thành một tổ ấm tay ba nhưng liên lạc tình cảm với cô Olga không thành, rồi trong khi tiếng xấu về văn chương (literary notoriety) của ông được mọi người biết tới, thì Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, ông bị động viên vào ngày 2/9/1939, phục vụ trong Sư Đoàn 70 đóng tại Nancy, rồi bị thuyên chuyển tới Brumath và Morsbronn. Trong thời gian ở trong quân ngũ, J.P. Sartre bắt đầu viết cuốn "Thực Thể và Hư Vô" (L' Etre et le Néant).
Khi làm giáo sư phụ giảng tại trường trung học Du Havre (Lycée du Havre), J.P. Sartre cho xuất bản vào năm 1938 cuốn tiểu thuyết triết học "Buồn Nôn" (La Nausée = Nausea) bên trong chứa nhiều ý tưởng và chủ đề của lý thuyết triết học của Husserl. Nhiều người đã coi tác phẩm này là bản "Tuyên Ngôn" của chủ nghĩa Hiện Sinh" (a manifesto of the Existentialism) và đây cũng là một trong các cuốn sách danh tiếng nhất của tác giả. Tác giả J.P. Sartre tin tưởng rằng các ý tưởng của chúng ta là sản phẩm của các kinh nghiệm mang lại do các hoàn cảnh trong đời sống thực và các cuốn tiểu thuyết, các vở kịch... đã mô tả các kinh nghiệm căn bản này nên cũng có giá trị giống như các bài luận đề (essays) nói lan man để giải thích các lý thuyết triết học.
J.P. Sartre đã dùng phương pháp hiện tượng học (phenomenological method) để chứng minh rằng đời sống của con người thì không có mục đích. Nhân vật chính trong tác phẩm "Buồn Nôn" là Antoine Roquintin đã khám phá ra sự quá nhiều ghê tởm (obscene overabundance) của thế giới chung quanh. Anh ta và sự cô đơn của anh đã dẫn tới nhiều kinh nghiệm về buồn nôn tâm lý (psychological nausea). Dần dần anh ta nhận thức được rằng con người là một hiện thực ngẫu nhiên, không có ý nghĩa và giá trị gì cả, không cần thiết và không có cả lý do tồn tại. Như vậy con người là gì? Ý thức là gì? Con người phải sống trung thực, phải sống "trong suốt" với chính mình, với các người khác, với đời...
Cuốn tiểu thuyết kết thúc với hình ảnh Roquintin nghe một đoạn nhạc và bỗng nhiên hiểu rằng "nghệ thuật" là điều tất yếu duy nhất của con người. Như vậy con người đã phải đối diện một cách cô đơn giữa ý thức cá nhân và thân phận làm người, và lối thoát để làm cho thân phận này có giá trị là "làm nghệ thuật".
2/ Jean Paul Sartre vào thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai
Khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, J.P. Sartre lại bị động viên vào quân đội. Ông là một nhân viên khí tượng (meteorologist), bị quân Đức Quốc Xã bắt vào tháng 6 năm 1940 tại Padoux và bị giữ làm tù binh trong 9 tháng. Trong khi ở tù, J.P. Sartre đã đọc lại Heidegger, đã viết và đạo diễn vở kịch "Bariona" bên trong trại tù. Tới tháng 4 năm 1941, ông được thả ra vì mắt kém và sức khỏe suy nhược. Được trở về đời sống dân sự, J.P. Sartre xin dạy học tại trường trung học Pasteur ở ngoại ô thành phố Paris, rồi được chuyển về trường trung học Condorcet để thay thế một giáo sư bị cấm dạy học vì gốc Do Thái. Khi trở về Paris vào tháng 5 năm 1941, J.P. Sartre đã tham gia vào việc thành lập nhóm kháng chiến có tên là "Chủ Nghĩa Xã Hội và Tự Do" (Socialisme et Liberté), cùng với các nhà văn khác như Simone de Beauvoir, Merleau Ponty, Jean-Toussaint và Dominique Desanti, Jean Kanapa và các cựu sinh viên trường Đại Học Sư Phạm.
Vào tháng 8 năm 1941, J.P. Sartre và Simone de Beauvoir đã đi tới vùng Riviera để gặp André Gide và André Malraux, mong được sự ủng hộ của họ về nhóm kháng chiến nhưng cả hai nhân vật kể trên đã không quyết định, vì vậy có lẽ đây là niềm thất vọng và bất mãn của J.P. Sartre.
Nhóm "Chủ Nghĩa Xã Hội và Tự Do" vì thế không thành hình và J.P. Sartre quyết định viết văn thay vì hoạt động kháng chiến tích cực. Kết quả là 3 cuốn sách ra đời: "Thực Thể và Hư Vô", "Các Con Ruồi" (Les Mouches = The Flies) và vở kịch "Xử Kín" (Huis-clos = No Exit). Các tác phẩm này đã không bị quân Đức Quốc Xã kiểm duyệt.
Trước kia, J.P. Sartre đã thảo luận kỹ càng với Simone de Beauvoir về các điều thừa nhận (assumptions) văn hóa và xã hội, các mong đợi của cách giáo dục và huấn luyện của họ, những điều này đã bị cả hai coi là có tính tư sản (bourgeois) cả về tư tưởng lẫn lối sống. Sự xung khắc giữa trạng thái đích thực của thực thể (being) với các tuân thủ xã hội vừa mang tính áp chế, vừa phá hỏng tinh thần và trạng thái "đích thực của thực thể" (authentic state of being), tất cả đã trở thành chủ đề chính của công trình văn chương và triết học của J.P. Sartre và chủ đề này đã thể hiện trong tác phẩm triết học chính của tác giả với tên là "Thực Thể và Hư Vô" (L' Etre et le Néant = Being and Nothingness, 1943). Được xuất bản vào năm 1943, tác phẩm này đã khiến cho nền triết học của J.P. Sartre được đưa lên hàng đầu của các cuộc thảo luận trí thức sau Thế Chiến Thứ Hai.
Trong tác phẩm triết học ban đầu này, J.P. Sartre đã coi con người là các thực thể, họ tạo nên thế giới của riêng họ bằng cách nổi loạn chống lại giới quyền lực (authority) và chấp nhận các trách nhiệm cá nhân vì các hành động của họ, mà không cần sự giúp đỡ của xã hội, của niềm tin tôn giáo hay đạo đức cổ truyền. Tác giả cũng cho rằng sự hiện hữu của con người (human existence) mang đặc tính hư vô (nothingness) do khả năng chối bỏ và nổi loạn. Các tiểu thuyết và các vở kịch của J.P. Sartre đã diễn tả niềm tin theo tác giả, rằng tự do và nhận trách nhiệm cá nhân là các giá trị chính trong đời sống và các cá nhân phải trông vào các khả năng sáng tạo của chính mình hơn là nhờ cậy các chính quyền, xã hội hay tôn giáo.
Vở kịch đầu tiên của Sartre, "Các Con Ruồi" (Les Mouches = The Flies, 1943) đã cứu xét các chủ đề về cam kết (commitment) và trách nhiệm (responsibility). Tác giả đã dùng truyền thuyết cổ Hy Lạp trong đó Orestes đã giết chết các thủ phạm sát hại Agamemnon và như vậy đã giải phóng các người dân của thành phố khỏi gánh nặng tội phạm. Theo quan điểm hiện sinh của Sartre, chỉ người nào chọn trách nhiệm hành động trong một hoàn cảnh đặc biệt như của Orestes, là người đã xử dụng hữu hiệu nền tự do của chính mình.
Trong vở kịch thứ hai, "Xử Kín" (Huis-clos = No Exit, 1944), một người đàn ông chỉ yêu mình (a man loves only himself), một người đàn bà đồng tính luyến ái (a lesbian), một người đàn bà bị chứng cuồng dâm (a nymphomaniac), tất cả sẽ phải bắt buộc sống trong một căn phòng nhỏ sau khi chết, và vào cuối vở kịch, họ còn là các kẻ nô lệ cho các đam mê của họ sau khi nhận thức được rằng "Địa Ngục là các kẻ khác" (L' Enfer, c' est les autres = Hell is other people). Vở kịch này đã được quay thành phim vào năm 1954, thủ vai do các tài tử Michèle Morgan và Gérard Philipe, đạo diễn là Yves Allégret.
J.P. Sartre cũng tham gia vào các tạp chí văn chương hợp pháp và bất hợp pháp rồi sau khi thành phố Paris được giải phóng, ông là một nhà văn đóng góp tích cực cho tờ báo "Chiến Đấu" (Combat). Đây là một tạp chí bắt đầu trong bóng tối để chống lại quân xâm lăng Đức Quốc Xã, do nhà triết học Albert Camus là người có cùng niềm tin như J.P. Sartre. Sartre và Beauvoir đã là bạn thân với Camus cho tới khi Camus ly khai khỏi chủ nghĩa cộng Sản và xuất bản cuốn truyện "Kẻ Nổi Loạn" (The Rebel).
Sau này, một số tác giả đã coi J.P. Sartre là một nhân vật kháng chiến, một triết gia, nhưng nhà kháng chiến Vladimir Jankelevitch đã chỉ trích J.P. Sartre là thiếu sự tham gia tích cực trong thời kỳ quân đội Quốc Xã chiếm đóng và đã coi các hoạt động nỗ lực vì tự do sau này của Sartre là một cách chuộc lỗi.
Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt, J.P. Sartre sáng lập một nguyệt san văn chương và chính trị có tên là "Thời Đại Mới" (Les Temps Modernes = Modern Times). Ông đã viết rất nhiều bài quan điểm và cũng tham gia các hoạt động chính trị khác. Các kinh nghiệm chiến tranh của ông được mô tả trong bộ tiểu thuyết ba tập (trilogy of novels) có tên là "Các Con Đường dẫn tới Tự Do" (Les Chemins de la Liberté = The Roads to Freedom, 1945-49). Tác phẩm này là một tiếp cận ít lý thuyết và nhiều thực tế hơn, giúp cho nhiều người hiểu rõ chủ nghĩa hiện sinh. Chủ nghĩa Hiện Sinh đã thảo luận các chủ đề như sự vô lý thấy rõ (the apparent absurdity), tính phù phiếm của đời người (the futility of life), tính vô tâm của vũ trụ (the indifference of the universe) và sự cần thiết phải dấn thân (engagement) vì một lý do chính đáng.
Trong các năm từ năm 1946 tới năm 1954, J.P. Sartre viết nhiều sách khảo cứu về tiểu sử, trong đó cuốn quan trọng nhất liên quan tới người bạn Jean Genet (1910-1986), một tội phạm và cũng là một nhà văn, đó là cuốn "Thánh Gênet: kịch sĩ và kẻ chết vì đạo" (Saint Genet, comédien et martyr = Saint Genet: Actor and Martyr, 1952).
Từ năm 1964, J.P. Sartre đứng đầu Tổ Chức bảo vệ các Tù Nhân Chính Trị người Iran (Organization to Defend Iranian Political Prisoners), kéo dài tới ngày thành công của cuộc Cách Mạng Hồi Giáo (the Islamic Revolution).
3/ Jean Paul Sartre và Chủ Nghĩa Cộng Sản
Trong cuộc Chiến Tranh Lạnh, trong khi các bạn bè và nhất là Albert Camus, đứng về lập trường ủng hộ Hoa Kỳ và các nước phương tây thì J.P. Sartre lại là một con người tận tụy với xã hội chủ nghĩa và bênh vực Liên Xô. Dù vậy, ông cũng lên án các hành động toàn trị của chủ nghĩa Xô Viết, đặc biệt là cách độc tài và đế quốc và ông tin tưởng rằng giới công nhân dù sao cũng tốt đẹp tại Liên Xô hơn là tại các nước tư bản của phương tây.
J.P. Sartre được mời làm Phó Chủ Tịch của Hội Thân Hữu Pháp-Liên Xô (the France-USSR Association)
Sau khi nhà độc tài Stalin qua đời, J.P. Sartre đã chỉ trích hệ thống cai trị Xô Viết, tố cáo và lên án các trại tập trung cải tạo dù cho ông vẫn còn ủng hộ nước Liên Xô. Năm sau, ông đi thăm Liên Xô và đã phải nằm bệnh viện trong 10 ngày vì kiệt sức. Ông cũng đã liên hệ yêu đương với cô thông dịch người Nga tên là Lena Zonina.
Qua năm 1956, khi quân đội Liên Xô tràn vào xứ Hungary để đè bẹp các cuộc biểu tình chống cộng tại đây, J.P. Sartre đã lên án cuộc xâm lăng này và bênh vực quyền tự do của xứ sở Hungary. Ông đã từ chức khỏi Hội Thân Hữu Pháp-Liên Xô, rồi qua năm 1968, cũng kết án Khối Warsaw đã xâm lăng xứ Tiệp Khắc, vì vậy tại Liên Xô, ông J.P. Sartre đã bị Thủ Tướng Nikita Khrushchev chỉ trích.
J.P. Sartre đã tìm cách liên kết các niềm tin triết học và chính trị. Ông tin tưởng rằng bên trong văn chương và triết học vốn đã có chính trị, theo chức năng, nếu không phải là theo nội dung. Ông mang niềm tin rằng một tác gia hay một nghệ sĩ phải tạo nên hy vọng làm thay đổi trật tự xã hội, vì vậy ông đã dấn thân, viết nhiều để bênh vực cho các cuộc tranh đấu, nhất là chống lại chế độ thuộc địa của nước Pháp tại châu Phi. Trong các thập niên về sau, có lẽ J.P. Sartre nổi danh không phải vì nền triết học "hiện sinh", mà vì niềm tin chính trị khuynh tả nhưng người ta coi ông là một nhà "xã hội chủ nghĩa" độc lập (an independent Socialist).
Khi tham gia vào các hoạt động trí thức và chính trị, J.P. Sartre cho ra đời tác phẩm "Các Bàn Tay Dơ Bẩn" (Les Mains Sales = Dirty Hands, 1948). Vào thời gian này, ông đã ôm ấp chủ nghĩa Cộng Sản nhưng lại không là một đảng viên, không tham gia vào một đảng cộng sản của một nước nào. Ông hoạt động tích cực chống lại chế độ thuộc địa của nước Pháp tại xứ Algeria và là người ủng hộ danh tiếng nhất của cuộc Chiến Tranh Giải Phóng Algeria (the Algerian war of liberation).
Tại nước Pháp, Tổ Chức Đạo Quân Bí Mật O.A.S (Organization de l' Armée Secrete) thường thi hành các hoạt động khủng bố chống lại nền độc lập của xứ Algeria, họ đã cho nổ một trái bom vào năm 1961 tại căn phòng cư ngụ của ông J.P. Sartre trên con đường Bonaparte, rồi năm sau cũng vậy, vì thế ông Sartre đã phải dọn nhà về Bến Louis-Blériot, đối diện với Tháp Eiffel.
J.P. Sartre cũng chống "Chiến Tranh Việt Nam" và vào năm 1967, cùng với nhà văn, nhà tư tưởng Bertrand Russell và với vài danh nhân khác, đã tổ chức "Tòa Án Russell", đây là một pháp đình có ý định phơi bày và xét xử các tội ác chiến tranh (war crimes) của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
J.P. Sartre cũng bỏ ra nhiều thời giờ để làm dung hòa các ý tưởng hiện sinh đối với quyền tự quyết, dung hòa với các nguyên tắc cộng sản và tác phẩm chính trong thời kỳ trước năm 1960 là cuốn "Phê Bình Lý Trí Biện Chứng" (Critique de la raison dialectique = Critique of Dialectical Reason, 1960). Theo Sartre, con người được tự do nhưng phải chịu trách nhiệm về các chọn lựa do mình, chịu trách nhiệm về các đời sống tình cảm. Các điều nhấn mạnh của Sartre về các giá trị nhân bản (humanist values) trong các tác phẩm đầu của Karl Marx đã khiến cho các nhà trí thức Pháp đã phải tranh luận với ông trong thập niên 1960. Nhưng dù cho là một nhà nói chuyện xuất sắc (a superb conversationalist), ông J.P. Sartre đã thua trong một cuộc tranh luận với nhà triết học Louis Althusser, ông Althusser này đã tham gia vào đảng Cộng Sản Pháp từ năm 1948 rồi trong hai thập niên 1960 và 1970, được coi là một tiếng nói có ảnh hưởng nhất của chủ nghĩa Mác Xít Phương Tây (Western Marxism).
Vào năm 1970, J.P. Sartre đã bị nhà cầm quyền Pháp bắt giữ vì bán trên đường phố một tài liệu Mao-ít bị cấm đoán, có tên là "Lý Do của dân tộc" (La cause du people). J.P. Sartre rất hiểu rõ các tư tưởng của Mao Trạch Đông. Ông đã từng qua Trung Hoa với Simone de Beauvoir vào năm 1955 và bà này đã quyết định viết một cuốn sách dày về nước này. Tuy nhiên, vào đầu thập niên 1960, cuộc cách mạng kinh tế và xã hội tại xứ Cuba đã ám ảnh ông J.P. Sartre nhiều hơn. Ông đã từng gặp ông Fidel Castro nhưng về sau đoạn giao với nhà độc tài này.
4/ Jean Paul Sartre và Văn Chương
Nhiều người cho rằng trong các thập niên 1940 và 1950, các tư tưởng của Sartre vẫn còn mơ hồ và chủ nghĩa Hiện Sinh (Existentialism) đã trở nên một thứ triết lý của thế hệ "Beatnik". Đây là nhóm người trẻ của thập niên 1950 đã phản đối xã hội bằng các y phục và hành động không theo các quy ước thông thường. Các cuốn tiểu thuyết và các vở kịch rất biểu tượng trong giai đoạn này đã chuyên chở đường lối triết học của ông và trong vở kịch nổi danh nhất "Xử Kín" (Huis-clos = No Exit), đã có một câu nói danh tiếng nhất, đó là câu "Địa Ngục là các kẻ khác" (L' enfer, c' est les autres = Hell is other people). Năm 1948, Nhà Thờ Cơ Đốc (the Catholic Church) đã xếp tất cả các tác phẩm của J.P. Sartre vào danh sách các sách bị cấm đọc vì ông được coi là một triết gia "vô thần" và các tác phẩm của ông là những cuốn sách khuynh tả.
Vào năm 1964, J.P. Sartre cho xuất bản cuốn "Ngôn Từ" (Les Mots = Words), đồng thời được trao tặng Giải Thưởng Nobel Văn Chương, nhưng ông đã từ chối giải thưởng danh tiếng nhất trên thế giới này, và xác định rằng ông luôn luôn không lãnh nhận các danh dự chính thức, không muốn tự xếp mình vào các định chế (institutions) và cho rằng các giải thưởng giống như Giải Thưởng Nobel đã cứu xét quá nặng về mặt ảnh hưởng của người viết văn.
Trong thập niên 1960, J.P. Sartre đã trở nên một nhân vật nổi danh trên thế giới và đã tạo nên các danh từ mà mọi người đều nói tới, chẳng hạn như hai từ "hiện sinh". Dù thế, ông vẫn là một con người đơn giản, chẳng giàu có, thường tận tâm tranh đấu cho tới cuối đời, chẳng hạn như trong dịp các sinh viên biểu tình và đình công tại Paris vào mùa hè năm 1968.
Sức khỏe của J.P. Sartre suy kém dần. Ông bị hai lần đau tim vào năm 1971 rồi một lần khác 2 năm sau, vì thế ông đã dọn nhà tới Đại Lộ Edgar-Quinet. Về thị giác, ông bị chảy máu mắt nên ở trong tình trạng nửa mù (semi-blind). Để giúp đỡ ông làm việc, J.P. Sartre đã nhờ tới ông Pierre Victor là người đã gặp vào năm 1970 và đã thảo luận với ông về các vấn đề đạo đức học. Ông Victor này thường đọc các sách và các bài viết mà J.P. Sartre muốn nghe.
Năm 1975, khi được hỏi rằng ông muốn người đời tưởng nhớ tới ông như thế nào thì J.P. Sartre cho biết: "Tôi ước muốn được mọi người nhớ tới các tác phẩm "Buồn Nôn", "Xử Kín" và "Con Quỷ và Chúa Tốt Lành" (The Devil and the Good Lord), rồi tới hai tác phẩm triết học của tôi, đặc biệt là cuốn sau: "Phê Phán Lý Trí Biện Chứng" (Critique of Dialectical Reason), sau đó là bài khảo luận của tôi về Genet, Thánh Genet... Nếu những điều này được tưởng nhớ, thì đó đã là một công trình rồi và tôi không còn dám đòi hỏi gì thêm. Là một người, nếu một anh Jean Paul Sartre nào đó được tưởng nhớ, tôi ước muốn rằng người ta sẽ nhớ các nơi và hoàn cảnh lịch sử mà tôi đã sinh sống, tôi đã sống trong đó như thế nào, và các khát vọng (aspirations) mà tôi cố gắng thu lượm trong chính tôi".
Tình trạng sức khỏe của J.P. Sartre suy kém dần, một phần cũng vì ông đã bỏ quá nhiều công sức để viết cuốn "Phê Phán" (The Critique) và một dự án cuối cùng trong đời của ông, đó là cuốn tiểu sử phân tích của Gustave Flaubert: "Kẻ ngu đần của gia đình" (L' idiot de la famille = The Family Idiot), cả hai tác phẩm này đều chưa hoàn thành.
Ngay từ thuở nhỏ, J.P. Sartre đã ưa thích các tác phẩm của Gustave Flaubert cho nên khi về già, ông đã nghiên cứu về Văn Hào này để viết ra một bộ sách 4 cuốn, có tên là "Kẻ ngu đần của gia đình" (L' idiot de la famille = The Family Idiot, 1971-72). Đây là tác phẩm lớn nhất của J. P. Sartre. Khi viết cuốn tiểu sử của Gustave Flaubert này, J.P. Sartre đã dùng tới các cách diễn tả theo Freud (Freudian interpretations) và các yếu tố xã hội và lịch sử theo Mác Xít. J.P. Sartre đã cho thấy Flaubert trở nên một con người do gia đình và xã hội tạo ra và các chọn lựa của Flaubert là từ hoàn cảnh lịch sử của giai cấp của ông ta.
Nhà triết học Jean Paul Sartre qua đời vào ngày 15/4/1980 tại Paris vì phổi bị phù (edema of the lung) và được chôn cất trong Nghĩa Trang Montparnasse thuộc thành phố Paris. Đám tang của ông có hơn 50,000 người tham dự. Sau khi J.P. Sartre qua đời, người nhận di sản văn chương của ông không phải là bà Simone de Beauvoir, mà là cô Arlette Elkaim, cô người tình của tác giả.
Cuộc đời của triết gia Jean Paul Sartre cũng như các giá trị tư tưởng của ông thì đầy nghịch lý, nhưng ông vẫn là một nhân vật có cảm tình với những người bị đàn áp trên thế giới. Giống như Ernest Hemingway và F. Scott Fitzgeral sau Thế Chiến Thứ Nhất, Jean Paul Sartre là nhà trí thức Pháp rất danh tiếng sau Thế Chiến Thứ Hai và ông cũng là nhân vật dẫn đầu đã diễn đạt các quan điểm của thế hệ sau cuộc đại chiến này.
5/ Các tác phẩm văn chương và triết học của Jean Paul Sartre
• Trí Tưởng Tượng (L' imagination = Imagination, 1936), một phê bình tâm lý học.
• Siêu Việt của Bản Ngã (La transcendance de l' égo = The Transcendence of the Ego, 1937).
• Buồn Nôn (La nausée = Nausea, 1938)
• Bức Tường (Le mur = The Wall, 1939).
• Phác thảo về một lý thuyết của cảm xúc (Esquisse d' une théorie des émotions = Sketch for a Theory of the Emotions, 1939.
• Tưởng Tượng (L' imaginaire = The Imaginary, 1940).
• Các Con Ruồi (Les mouches = The Flies, 1943).
• Thực Thể và Hư Vô (L' être et le néant = Being and Nothingness, 1943).
• Suy nghĩ về vấn đề Do Thái (Réflexions sur la question juive = Reflections on the Jewish Question, 1943)
• Xử Kín (Huis-clos = No Exit, 1944).
• Các con đường dẫn tới tự do (Les Chemins de la liberté = The Roads to Freedom), gồm 3 cuốn: - a) Thời đại lý trí (L' âge de raison = The Age of Reason, 1945)
- b) Án Treo (Le sursis = The Reprieve, 1947)
- c) Cảnh chết trong tâm hồn (La mort dans l' Âme = Iron in the Soul, 1949).
• Chết không đất chôn (Morts sans sépulture = Deaths without burial = The Victors, 1946).
• Chủ nghĩa hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản (L' Existentialisme est un humamisme = Existentialism is a Humanism, 1946).
• Con Đĩ đáng kính (La putain respectueuse = The Respectful Prostitute, 1946).
• Văn Chương là gì (Qu' est ce que la littérature? = What is literature? 1947).
• Baudelaire, 1947.
• Các hoàn cảnh (Situations, 1947-65).
• Các bàn tay dơ bẩn (Les mains sales = Dirty hands, 1948).
• Orpheus đen (Orphée Noir = Black Orpheus, 1948).
• Con Quỷ và Chúa tốt lành (Le diable et le bon dieu = The Devil and the Good Lord, 1951).
• Các ván bài đã xong (Les jeux sont faits = The Game is Up, 1952).
• Thánh Genet, kịch sĩ và người chết vì đạo (Saint Genet, comédien et martyr = Saint Genet, Actor and Martyr, 1952).
• Chủ nghĩa hiện sinh và các cảm xúc của con người (Existentialism and Human Emotions, 1957).
• Các kẻ bị kết tội tại Altona (Les séquestrés d' Altona = The Condemmed of Altona, 1959).
• Phê bình lý trí biện chứng (Critique de la raison dialectique = Critique of Dialectical Reason, 1960).
• Ngôn Từ (Les mots = The Words, 1964).
• Kẻ ngu đần của gia đình (L' idiot de la famille = The Family Idiot, 1971-72).
Phạm Văn Tuấn
Monday, April 14, 2014
HUYỀN VIÊM * TÙNG THIỆN VƯƠNG MIÊN THẨM
Tùng Thiện vương tên thật là Nguyễn Phước Miên Thẩm, cháu nội vua Gia Long, con trai thứ mười của vua Minh Mạng nên tục gọi là ông Hoàng Mười, em vua Thiệu Trị và chú vua Tự Đức. Ông sinh ngày 11-12-1819 tại kinh thành Huế, tự là Trọng Uyên và Thận Minh, biệt hiệu Thương Sơn và Bạch Hào Tử. Mẹ ông là Thục tần Nguyễn Thị Bảo rất hiền đức.
Ông nổi
tiếng về văn học, dưới triều Nguyễn được phong tước
Tùng Thiện công, sau khi mất
được truy phong Tùng Thiện quận vương rồi Tùng Thiện
vương. Người đời quen gọi ông theo tước hiệu này. Miên
Thẩm được học hành từ bé và nổi tiếng về thi văn
từ năm 12 tuổi. Thầy học của ông thuở nhỏ là Thân
Văn Quyền và sau này là đại thần Trương Đăng Quế, rồi
ông trở thành con rể của người thầy học này.
Tùng Thiện
vương có người em là Tuy Lý vương Miên Trinh
cũng nổi tiếng về văn học, người đương thời gọi
là Nhị Tô, tức là so sánh hai ông với anh
em Tô Thức (Tô Đông Pha) và Tô Triệt đời Tống bên Tàu. Hai ông cùng với
người em là Tương An quận vương Miên Bửu lập ra “Tùng
Vân thi xã”, cũng gọi là “Mặc Vân thi xã” tập hợp
các danh sĩ ở kinh đô, trong đó có các thi tài nổi tiếng
như Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát, vì thế buổi đương
thời có hai câu thơ truyền tụng mà người ta cho là của
vua Tự Đức:
Văn như
Siêu, Quát vô Tiền Hán
Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường.
Vì cả ba anh em đều
là những nhà thơ nổi tiếng nên người đương
thời xưng tụng là “Tam Đường”. Tùng Thiện vương
còn có ba người em gái cũng nổi tiếng về thi văn là Vĩnh
Trinh (tự Nguyệt Đình, Trọng Khanh), Trinh Thận (tự Mai
Am, Thúc Khanh) và Tĩnh Hòa (tự Huệ Phố,Quí Khanh) nên người
đời thường gọi là “Tam Khanh”.Thật là một gia đình
văn học
***
Thơ
Tùng Thiện vương hàm súc, ngụ ý
sâu xa mà nhẹ nhàng, tươi tắn, tình cảm đậm đà đối
với người và với cảnh thiên nhiên:
柳
去 歲 春 殘 黃 鳥 歸
秋 容 憔 悴 月 明 知
東 風 砟 夜 吹 何 處
更 惹 新 愁 上 曉 眉
LIỄU
Khứ tuế, xuân tàn, hoàng
điểu qui,
Thu dung tiều
tụy, nguyệt minh tri.
Đông phong tạc dạ
xuy hà xứ?
Cánh nhạ
tân sầu thướng hiểu mi.
Ngô Văn
Phú dịch:
Năm ngoái,
xuân tàn, oanh sắp đi,
Hao gầy riêng biết có
trăng khuya.
Gió đông đêm trước
về đâu nhỉ?
Sầu mới dâng đầy một
nét mi.
Cảnh đêm đỗ thuyền
ở bến Nguyệt Biều cũng giúp ông tạo nên những
vần thơ diễm tuyệt:
夜 泊 月 瓢
竹 陰 涼 處 夜 停 船
水 月 江 風 未 忍 眠
隔 岸 鐘 樓 天 姥 寺
聲 聲 敲 破 遠 汀 煙
DẠ BẠC NGUYỆT BIỀU
Trúc
âm lương xứ, dạ đình thuyền,
Thủy nguyệt, giang phong,
vị nhẫn miên.
Cách ngạn chung lâu Thiên
Mụ tự,
Thanh thanh xao phá viễn
đinh yên.
Nguyễn Sĩ
Đại dịch:
ĐÊM ĐỖ THUYỀN Ở BẾN
NGUYỆT BIỀU (1)
Đỗ thuyền
dưới bóng tre xanh,
Trăng
sông, gió nước, nỡ đành ngủ
sao?
Đêm khuya nghe vọng chuông
lầu,
Thanh thanh từng tiếng tan
màu khói sông
(Bài này khiến ta nhớ
đến bài Phong Kiều dạ bạc
của Trương Kế đời Đường).
Tùng Thiện
vương luôn tỏ ra nặng tình với những người dân
cùng khổ và sự tồn vong của đất nước. Dân ta lúc bấy giờ rất khổ
vì cuộc sống thiếu thốn, lầm than. Chẳng những thế,
họ còn bị quan trên áp bức, nhũng nhiễu, bóc lột:
Sớm vừa dâng
“tiền trầu”,
Chiều
“tiền trầu” lại
cúng.
… Trong nhà
quan lớn tiền bỏ nát,
Dân đen bán nhà
lại bán vợ.
Cái xác tuy còn, mất
nhà ở,
Gông cùm may thoát,
vợ còn đâu!
(Bài hành tiền biện trầu cau)
Một trong
những nỗi khổ của dân thời đó là thuế.
Đời sống đã vất vả cực nhọc lại còn lo thuế
thúc bên mình, dù có hạn hán mất mùa cũng không được tha thuế:
Áo rách không
che được ống chân,
Mặt vàng,
da thịt khô héo,
Chỉ cầu đủ nộp
thuế,
Cay đắng thay! Thuế
thường khó nộp đủ
Đành chịu làm tàn tật
tấm thân hèn.
Chẳng những
thế, bấy giờ chiến tranh loạn lạc khắp nơi, nào
những cuộc dấy loạn của giặc Tam Đường,
Lê Duy Cự (Giặc châu chấu), Tạ Văn Phụng, Cai Tổng Vàng,
giặc Khách quấy nhiễu, rồi giặc Pháp đánh Đà Nẵng
khiến dân chúng chết chóc, khổ sở trăm bề:
Xương khô
chồn gặm đứng đầy,
Quạ
tha từng khúc ruột bay thành đàn.
Đồng Đông xiết nỗi lầm
than,
Kẻ về sau buổi
ly hoàn, ai thương?
(Tống lương từ)
Tùng Thiện vương là người luôn nặng
lòng vì đất nước. Thấy cảnh giặc Pháp dày xéo
non sông, ông đau lòng khôn xiết:
Năm kia giặc
Tây đánh Quảng Nam,
Quân ta
thua trận, máu
thành đầm.
…Đêm qua hịch báo về
Cam Tuyền,
Hơn nửa người chết bỏ
thây xác.
(Mại chỉ y)
Bài thơ Tàn tốt của ông
nói lên tấm lòng của người lính bị thương nhưng vẫn
quyết tâm chống giặc:
殘 卒
亂 尸 叢 裡 拔 身
還
一 嶺 單 衣 戰 血 殷
倚 杖 獨 沽 山 店 酒
自 言 生 入 海 雲 關
Tàn tốt
Loạn thi
tùng lý bạt thân hoàn,
Nhất lĩnh
đơn y chiến huyết ân.
Ỷ trượng
độc cô sơn điếm tửu,
Tự
ngôn sinh nhập Hải Vân quan.
Nguyễn Tấn Hưng dịch:
Người lính sống sót
Sa trường, bờ bụi lết về,
Tả
tơi áo chiến, máu me lạnh dồn.
Tìm mua
quán rượu đầu non,
Sống
thề quyết lại nhập đồn Hải Vân.
Trước tình hình ấy, ông đứng hẳn về
phía nhân dân, nhiệt liệt tin tưởng vào lòng yêu nước
và tinh thần đoàn kết chiến đấu của nhân dân chống
Pháp:
Sào múa, gậy giương, thương
nghĩa sĩ,
Vượn
kêu, hạc oán, cảm sinh linh.
Thư
sinh đánh giặc bằng cây bút,
Báo quốc
thế kia thật xót tình.
(Đọc Nguyễn Đình Chiểu)
Nhưng ông chán ngán khi
biết vua và triều đình muốn thỏa hiệp với
giặc Pháp:
Nhà vua
đã muốn hòa cùng giặc,
Còn thuyết
làm chi chuyện phục thù!
(Nhạc Phi)
Phần lớn thơ Tùng
Thiện vương được sáng tác bằng chữ Hán, nội dung
thể hiện lòng yêu nước, thương dân, yêu cảnh thiên
nhiên và hết lòng vì bè bạn. Tiến
sĩ Lao Sùng Quang, sứ thần nhà Thanh, sau khi đọc bài thơ
“Khiển hoài” của ông đã phải dẹp ngay tính kiêu hãnh
để nồng nhiệt ngợi khen:
Độc đáo bạch âu hoàng
diệp cú
Mãn hoài tiêu sắt
đới thu hàn.
(Đọc đến
câu “bạch âu hoàng diệp” của ông
Cả người ớn lạnh với hơi thu).
Cao Bá Quát, người từng
rất tự kiêu, coi thường các nhà thơ khác,
vậy mà đối với thơ Tùng Thiện vương cũng phải
hết lòng nể phục. Ông viết :“…Tôi theo Quốc công chơi
đã lâu. Thơ của Quốc công đâu phải đợi đến ngày
nay mới nói đến. Và cũng đâu phải đợi đến Quát này
mới có thể nói được? Sáng ngày mai, đứng ở ngoài cầu
Đốc Sơ trông về phía Nam… đó chẳng phải là núi Thương
Sơn (hiệu của Tùng Thiện vương) ư? Mua rượu uống rồi,
cởi áo ở nơi bắc trường đình, bồi hồi ngâm vịnh
các bài Hà thượng của Quốc công, lòng khách
càng cảm thấy xa xăm man mác…”
Nhà thơ Tuy Lý
vương Miên Trinh, em ông, thì nhận xét:“Thi văn Tùng Thiện vương
như cỏ hoa giữa núi, như mây mỏng trên trời. Vẻ đẹp
ở tinh thần, mỗi câu có một họa ý, mỗi chữ có một
nhạc âm (cú tất hữu sắc, tự tất hữu thanh)”.
Sách của
ông để lại rất nhiều: Thương Sơn thi tập gồm 54 quyển,
chia làm 8 tập với hơn 2200 bài thơ, Thương Sơn từ
tập, Thương Sơn thi thoại, Thương Sơn ngoại tập, Thương
Sơn văn di, Nạp bị văn tập (19 quyển), Độc ngã
thư sao, Lão sinh thường đàm, Tịnh y ký, Thi tấu hợp biên,
Lịch đại thi tuyển v.v…
Trong đời
Tùng Thiện vương, ngoài cái chết của mẹ khiến
ông rất đau xót, còn có hai nỗi buồn đau
theo ông cho đến cuối đời:
- Vụ
Hồng Bảo: Năm 1847 vua Thiệu Trị băng hà,
hoàng tử thứ hai là Hồng Nhậm, năm ấy mới 19 tuổi,
được truyền ngôi, tức là vua Dực Tông (Tự Đức). Con
trưởng của vua Thiệu Trị là An Phong công Hồng Bảo không
được truyền ngôi vì vua cha cho rằng ông học hành kém
cỏi, tính tình phóng đãng, ham ăn chơi, hạnh kiểm xấu.
Năm 1854 Hồng Bảo liên kết với một số quan lại và thông
đồng với người nước ngoài âm mưu lật đổ Tự Đức
để tranh ngôi vua. Việc bại lộ, Hồng Bảo bị giam vào
ngục. Trong tù, ông tự tử chết trong khi thân còn mang xiềng
xích. Con ông là Ưng Đạo được tha nhưng phải cải sang
họ mẹ là Đinh Đạo.
- Loạn Chày Vôi: Thuở
sinh thời, vua Tự Đức sai quan quân xây Vạn Niên Cơ
(sau đổi thành Khiêm lăng) để làm nơi yên nghỉ sau
cùng. Vì quân dân làm việc vất vả, ăn uống thiếu
thốn, đau ốm không có thuốc men
nên nhiều người chết. Lòng người vô cùng phẫn nộ.
Năm 1866,
con rể của Tùng Thiện vương là Đoàn Hữu Trưng
(chồng của Thể Cúc) lãnh đạo cuộc nổi dậy của
dân phu, dùng chày giã vôi làm vũ khí (nên sử
gọi là Giặc chày vôi) kéo vào cung định giết vua Tự Đức,
lập Đinh Đạo là con Hồng Bảo lên làm vua, nhưng việc
không thành. Ba anh em Đoàn Hữu Trưng bị giết. Đinh Đạo
cũng cùng chung số phận. Tùng Thiện vương tuy không tham
gia, nhưng vì con rể ông, Đoàn Hữu Trưng, là người thủ
xướng nên ông bị các quan trong triều buộc tội nặng
nề. Vua Tự Đức không kết tội ông, chỉ bảo rằng ông
chọn rể không cẩn thận, để mất thanh danh, nên cắt
bổng trong tám năm. Ông làm thơ than thở:
Nỗi phẫn
uất biết cùng ai tỏ,
Lòng lo
buồn khiến lại ngã đau.
Lời xằng
buộc tội thêm sâu,
Nghiêm
minh hợp vạch những câu ngược đời.
(Vận
– Lương An dịch)
Năm 1870
bị bệnh nặng, ông gắng gượng dâng biểu lên vua
với lời lẽ ôn nhu:“
Thần là Miên
Thẩm kính tâu: Thần tự biết không còn thấy được hoàng
thượng nữa nên kính xin hoàng thượng nhớ lấy công sáng
tạo của tổ tiên, lo tạo mối thủ thành. Tài lực của
dân thì xin dùng cho có tiết độ. Còn triều chính, quốc
chính nên tùy thời mà thay đổi cho phù hợp. Thần cám
đội ơn trên, rỏ nước mắt để viết những dòng này,
mong hoàng thượng soi xét”.
Khi bệnh đã quá nặng, ông dặn dò con cháu
nên làm đám tang giản dị cho đỡ tốn kém rồi lấy tay
vạch bài thơ tuyệt mệnh:
Bán sinh học đạo thái hồ đồ,
Thoát tỷ như kim nãi thức đồ.
Tiến Sảng đình (2) ba Thiên
Mụ nguyệt,
Thủy hương, lâm ảnh, hữu
nhân vô?
Nửa đời học đạo thật hoài công,
“Bỏ dép”
(chết) đường dài nay mới thông.
Thiên Mụ, Thúy Vân (3) trăng với sóng,
Hình non, hình
nước, có ai không?
(Bảo Quyến
dịch)
Ông mất ngày 30-4-1870, lúc mới 51 tuổi. Tùng Thiện vương
xứng đáng có một vị trí quan trọng trong nền văn học
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX.
(1) Nguyệt
Biều: một làng ven sông Hương (Huế).
(2) Tiến
Sảng đình: ngôi đình hóng mát trên núi Thúy Vân (mây
biếc).
(3) Thúy
Vân: tức núi Thúy Vân, phía sau chùa Thánh Duyên (chú
thích của Bảo Quyến).
Posted by
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 307
THƠ QUẢNG ĐỘ -THANH THANH
Khổ đau ơi !
thôi đừng hù ta nữa
ta biết mi lắm rồi
ta đã gặp mi trên khắp nẻo đường đời
và mỗi lần gặp mi
ta đều mỉm miệng cười
và nhìn thẳng mặt mi không hề sợ sệt
mi thực sự đáng sợ hơn sự chết
nhưng với ta cũng chẳng là chi hết
đừng mơ tưởng vì sợ mi
ta sẽ đổi dời khí tiết
để cúi đầu trước bạo lực phi nhân
cứ đày đoạ ta đi cho thoả tính hung
thần
ta đã nguyện chẳng tiếc gì chiếc
thân mộng huyễn.
Khổ đau ơi !
mi có nghe giữa dòng đời lưu chuyển
sóng vô thường đang cuồn cuộn thét
vang
đừng tự hào đã đắc thắng vinh quang
trên xác chết của loài người bất
hạnh
vì ngu si
mi chẳng biết gì ngoài sức mạnh
rồi cười vui trên đổ nát điêu tàn
nhạc mi nghe là những tiếng khóc
than
trà mi nhắp là những giọt lệ tràn
và rượu mi say là máu đào tươi thắm
màn trướng mi buông là những vành
khăn trắng
của muôn dân đang quằn quại dưới
chân mi
nghèo đói
theo sau mỗi bước mi đi
gông cùm xiết chặt nơi nào mi tới
ánh bình minh trở thành bóng tối
phủ mịt mù mọi lối tương lai
những
hài nhi vô tội trong thai
mi
bóp chết dưới chiêu bài nhân mãn.
Khổ
đau ơi !
mi có
nghe những tiếng hờn than oán
đang
vang lên từ phố thị làng quê
từ
hải đảo đến sơn khê
và tự
đáy mồ những oan hồn vưởng vất
mi
biết không ?
chẳng
có nơi nào trên mặt đất
trong
hư không hay dưới biển sâu
sẽ
tìm ra chỗ trú ẩn dài lâu
để mi
trốn khi trái sầu đã chín
mà
ngày ấy quyết định rồi sẽ đến
khi
loài người bừng tỉnh khỏi cơn mê.
Vũ Đoài đêm
Phật Đản Nhâm Tuất
THÍCH
QUẢNG ĐỘ
MESSAGE
TO MISERY
from the
Venerable Thích Quảng Độ
Hey! Pain!
Do not menace me again!
I have known you too well! enough!
I have met you on all my life's
roads rough;
and each time I meet you anywhere,
I always smile a smile so fair
and look you straight in the face
without dread.
Although you really are more awesome
than Death,
with me, you are nothing at all.
Do not fancy it, that I fear you, to
befall
so that I should damp my righteous
zest
to lower my head before you, inhuman
pest!
Do continue to persecute me to carry
out your plan:
I have pledged not to regret my
illusionary life span.
Oh, Distress!
Do you hear among the world's moving
stream
the swift waves of impermanence's
scream?
Do not pride yourself being unduly
victorious
on the corpses of humans unfortunate
but meritorious!
For, grossly stupid and coarse,
you know nothing besides your force,
and then you laugh at devastation
and ruin.
The music you listen to is lament,
bewail, chagrin!
the tea you taste teardrops of the
wretch,
the wine you sip fresh blood of your
victims' fetch,
each curtain you hang like many a
mourning headband
of writhing people you trample down
and brand!
Poverty and starvation follow each
of your steps,
chains and shackles where you come
it schleps;
sunshine becomes obscurity
to cover with darkness all paths to
futurity;
the naive fetuses, unborn babies,
cherubs,
get aborted by you using
overpopulation as cover-ups.
Oh, Agony!
Do you hear the complaints against
your savagery
that are resounding from cities to
the countryside,
from islands to mountainous areas
nationwide,
and from graves by souls of victims
of gross injustice?
Are you aware? that on the earth's
surface
there will be nowhere
in the deep sea as well as in the
thin air
for you to find a long-term shelter
thither to scoot
to escape, when is duly ripe every
fruit!
And that day will definitely come as
in a daze
when humanity awakes from this
current maze.
Vũ
Đoài Village, on the Buddha's Birthday
THANH-THANH
CAO THÂM * PHÙNG CUNG
Nhà thơ Phùng Cung qua lời kể của con trai
(Ngày đăng: 30/6/2013 0:22)
Tôi học cùng lớp, sinh hoạt cùng tổ, ở cùng phòng với anh Phùng Châu Hà, con trai cả Nhà thơ Phùng Cung, từ năm 1976 - 1980. Ngày đó, thi thoảng tôi đến nhà anh Hà chơi. Gia đình anh ở trong ngôi biệt thự cổ kính trên phố Mai Hắc Đế (Hà Nội).
Tác giả và Nhà báo Phùng Châu Hà (con trai Nhà thơ Phùng Cung)
Đọc thêm: Nhà văn Phùng Quán kể về việc xuất bản tập thơ “Xem đêm”
HẰNG NGA THỨC DẬY
Thế đấy. Nếu bản thảo thơ Phùng Cung là "Hằng Nga ngủ trong rừng" thì
tấm lòng trợ giúp vô tư của Nguyễn Hữu Đang chính là "Hoàng Tử đẹp trai"
đến đánh thức.
Tác giả bài viết: Cao Thâm
(Ngày đăng: 30/6/2013 0:22)
Tôi học cùng lớp, sinh hoạt cùng tổ, ở cùng phòng với anh Phùng Châu Hà, con trai cả Nhà thơ Phùng Cung, từ năm 1976 - 1980. Ngày đó, thi thoảng tôi đến nhà anh Hà chơi. Gia đình anh ở trong ngôi biệt thự cổ kính trên phố Mai Hắc Đế (Hà Nội).
Tác giả và Nhà báo Phùng Châu Hà (con trai Nhà thơ Phùng Cung)
Bây giờ phố Mai Hắc Đế sầm uất, náo động chứ trước đây nó thật yên tĩnh
và thơ mộng. Đến nhà anh, tôi thường gặp mẹ anh, tên là Thoa, làm ở Đại
học Dược và các em trai anh; còn bố anh, tôi ít khi gặp. Và có gặp, ông
chỉ hỏi qua loa rồi lên gác. Ông cụ người gầy khô, thường đi guốc mộc,
đôi mắt thăm thẳm sau cặp kính dày cộm, da tai tái, nom hiền từ và lịch
lãm. Sống trong ngôi biệt biệt thự cổ kính sang trọng như vậy nhưng đời
sống gia đình anh Hà ngày ấy chẳng khá giả gì. Nhà anh Hà có ba anh em
trai. Anh Hà là cả, anh thứ hai tên là Phùng Hà Phủ và anh thứ ba tên là
Phùng Châu Hề. Mấy anh em nhà anh, có lẽ cũng đói ăn như chúng tôi nên
anh nào cũng gầy gò, da trắng xanh. Anh Hà có cái quần ximili túi chéo,
mặc đến lúc bục đầu gối, anh cắt ống, thành quần soóc, mặc suốt. Thời
bao cấp, nhà ai cũng nghèo, chẳng riêng nhà anh Hà.
Anh Hà cũng có đôi mắt
thăm thẳm như bố anh. Tính cách cũng vậy, lịch lãm, kín đáo. Suốt mấy
năm học với nhau, anh Hà rất ít nói về bố anh, nhưng nhiều người trong
trường đều biết anh là con Nhà thơ Phùng Cung, theo Nhân văn Giai phẩm,
viết chuyện về con ngựa, rồi bị bắt đi cải tạo, mới mãn hạn. Thú thật,
ngày đó, mặc dù rất ham đọc sách nhưng tôi chưa đọc tác phẩm nào của Nhà
thơ Phùng Cung, thậm chí, tôi cũng chẳng biết thêm thông tin nào về
ông, ngoài lời đồn, ông mới đi cải tạo về.
Một hôm, sau khi ăn trưa xong, tôi tót lên giường tầng hai (giường tầng)
nằm. Bực mình vì tôi trốn rửa bát, anh Hà mang chuyện viết lách của tôi
ra diễu cợt. Ngày đó tôi đã viết kịch, làm thơ nhưng dám gửi đi đâu. Bị
xúc phạm, tôi liền to tiếng, trong đó có nhắc đến bố anh. Như con thú
bị trúng đạn, anh Hà gầm lên, mắt long sòng sọc. Rồi chúng tôi vồ vào
nhau. Tôi bị một nắm đấm vào mắt, nổ đom đóm, máu chảy lênh láng, giờ
còn sẹo ở dưới mí mắt trái. Vụ ấy chúng tôi đều bị nhà trường kỷ luật
cảnh cáo, phê vào học bạ.
Sau này đọc cuốn “Cát bụi chân ai” của Nhà văn Tô Hoài (NXB Hội Nhà văn,
1992) và đọc nhiều bài viết về bố anh đăng trên các báo, tôi mới biết
về cuộc đời cơ cực của Nhà thơ Phùng Cung.
Nhà thơ Phùng Cung sinh ngày 18 tháng 7 năm 1928 tại Vĩnh Yên. Năm 1945,
ông tham gia cách mạng và làm Chủ tịch liên xã Hồng Liên Châu. Ông lãnh
đạo nhân dân nổi dậy cướp chính quyền. Năm 1949, địch trấn áp dữ dội
vùng kháng chiến, ông phải rút lên Chiến khu Việt Bắc và tham gia công
tác văn nghệ. Năm 1954, Thủ đô Hà Nội giải phóng, ông về sống tại Hà Nội
và họat động văn nghệ. Do tham gia trong vụ “Nhân văn Giai phẩm” ông bị
kỷ luật, đi cải tạo từ năm 1961 đến năm 1973. Ông mất năm 1997 vì bạo
bệnh. Tác phẩm chính của ông gồm: Dạ Ký (truyện ngắn); Mộ Phách (truyện
ngắn); Kép Nghề (truyện ngắn); Chiếc mũ lông (truyện ngắn); Quản thổi
(truyện ngắn); Xem Đêm (thơ) Phùng Cung - truyện và thơ v.v. Tập thơ
"Xem Đêm" của ông được nhà nước cho phép xuất bản vào năm 1995.
Trong “Cát bụi chân ai” Nhà văn Tô Hoài kể, khi Nhà thơ Phùng Cung mới
đi cải tạo về, đến thăm Tô Hoài “Dáng cù rù, mặt tái ngoét, không phải
Phùng Cung mà cái bóng của Phùng Cung trên tờ giấy tẩy chỉ mờ mờ. - Còn
sống về được à ? - Cũng không hiểu tại sao anh ạ”… Nhà văn Tô Hoài kể,
tan lớp kiểm điểm văn nghệ sĩ ở Thái Hà ít lâu, Phùng Cung bị bắt đi cải
tạo 12 năm không có án, trong đó biệt giam 11 năm. Đã tù biệt giam, lại
bị bệnh lao, thế mà không chết, mới lạ.
Những năm gần đây, thi thoảng tôi được gặp anh Hà trong các buổi họp
lớp, những chuyến công tác. Anh cho biết, sau khi bố anh mất, mẹ anh
chuyển lên ở với gia đình người em út trên đường Bưởi. Bây giờ, mấy anh
em anh đều thành đạt, cuộc sống khá giả; càng thương bố anh. Nhắc lại vụ
đánh nhau với tôi năm ấy, anh Hà tâm sự, đó là thời kỳ gia đình anh vô
cùng khó khăn. Bố anh mới được về đoàn tụ với gia đình nhưng ông cụ
chẳng có việc làm. Ðang lúc túng quẫn, bố anh được người bạn cũ bố trí
cho công việc làm đinh ở xưởng cơ khí nhỏ. Nhưng thời gian làm ở đó cũng
chẳng được bao lâu vì bố anh từ khi ở trại về mang theo nhiều thứ bệnh,
nào là bệnh dạ dày, bệnh lao, mà công việc làm đinh thì nặng nhọc. Cả
nhà, mỗi suất lương mẹ anh nuôi ba anh em lớn ngộc đang tuổi ăn tuổi học
và người chồng đau ốm. Đận ấy gia đình trở nên túng thiếu kịch liệt.
Trong khó khăn thiếu thốn về vật chất, gia đình anh còn chịu tiếng tăm
dị nghị của hàng xóm, bạn bè. Từ khi bố anh được tha về, một số bạn bè
của gia đình xa lánh vì sợ liên lụy.
Từ khi bị kỷ luật, bị đình chỉ công tác rồi bị bắt đi cải tạo cho đến
lúc được về đoàn tụ với gia đình, bố anh không hề được nhận bất cứ khoản
trợ cấp nào. Mãi đến năm 1990, tức là 30 năm sau, bố anh mới có quyết
định phục hồi để làm lại sổ lương. Cùng chung một quyết định với bố anh
là cụ Nguyễn Hữu Đang - người có công trong việc tổ chức ngày lễ Tuyên
ngôn Độc lập, năm 1945.. Mức lương trợ cấp cố định hàng tháng là 35.000
đồng. Với số tiền ấy đủ để đong thêm vài chục cân gạo, giúp gia đình anh
vượt qua đận khó khăn.
Theo anh Hà, tập thơ Xem đêm là tuyển chọn những bài được sáng tác vào
các thời điểm khác nhau, trong đó có cả thời gian Nhà thơ Phùng Cung đi
cải tạo. Dù hoàn cảnh gia đình khó khăn, dù bệnh tật hành hạ, nhưng Nhà
thơ Phùng Cung vẫn ham làm việc. Bố anh thường nói với mẹ anh: "Nếu giời
cho sống thì còn phải làm việc nhiều hơn nữa và còn rất nhiều việc phải
làm". Ông luôn sợ phải bỏ dở công việc của mình. Ngoài mấy trăm bài thơ
và tập truyện viết lại, anh thấy bố anh còn nung nấu viết tập hồi ký.
Tập thơ Xem đêm được in ra có phần cổ vũ, trợ giúp không nhỏ về tài
chính của cụ Nguyễn Hữu Ðang và sự nhiệt tình của Nhà văn Phùng Quán -
người em thân thiết của bố anh. Tập thơ Xem đêm ra đời còn phải kể đến
sự quý trọng và can thiệp trong khâu kiểm duyệt bài của nhà thơ Quang
Huy, Giám đốc NXB Văn hóa Thông tin thời kỳ đó và chính Nhà thơ Quang
Huy đã viết tựa cho cuốn sách này.
* * *
Đọc thêm: Nhà văn Phùng Quán kể về việc xuất bản tập thơ “Xem đêm”
HẰNG NGA THỨC DẬY
Phùng Cung xuất thân là người viết văn xuôi, sở trường truyện ngắn. Anh viết truyện ngắn từ hồi còn ở chiến khu Việt Bắc.
(…) Anh còn một tập truyện ngắn, đâu như tám truyện thì phải, cũng một
dòng "ngựa, voi", chưa kịp ra mắt bạn đọc thì đã bị cái khách quan khắc
nghiệt "bảo lưu" cùng với tài năng của tác giả.
Truyện nào viết xong anh cũng đưa tôi đọc. Truyện nào cũng làm tôi say
mê vì vẻ đẹp của ngôn từ. Cái kho ngôn từ dân dã của anh dường như vô
tận. So với tất cả văn xuôi của tôi đã in ra, tôi có cảm giác mình là
người nước ngoài viết tiếng Việt. Sau mười hai năm cách ly đời thường,
Phùng Cung như xa lạ với môi trường văn nghệ. Được trả tự do. Việc đầu
tiên là anh cùng với vợ sửa lễ "Tạ ơn cao rộng cho được sống để trở về
quê quán". Rồi yên phận hẩm hiu, anh tránh thật xa mùi bút mực. Anh xoay
trần làm nghề đập đinh, phụ với vợ thêm nghề bánh rán, nuôi ba đứa con
trai đang sức ăn, sức lớn. Song hình như mùi dầu nhờn, rỉ sắt, mỡ rán
vẫn không át được mùi bút mực. Những lúc rảnh tay, anh ngồi buồn thiu,
thỉnh thoảng chấm ngón tay vào đáy chén trà cặn, viết một từ gì đó lên
mặt bàn…
Tôi thường đạp xe từ Nghi Tàm lên phố Mai Hắc Đế thăm anh, khi mang cho
con diếc, con trôi vừa câu trộm được, khi mang bó rau muống cấy ở vệ hồ.
Trong khi đó, thật bất ngờ, anh sáng tác thơ. Đọc thơ anh, có bài chỉ
vài ba câu, tôi bỗng thấy thiên nhiên quanh tôi vụt giàu có lên bất ngờ
và trở nên đẹp xao xuyến tận đáy lòng - những vẻ đẹp từ trước đến nay
tôi vẫn nhìn mà không thấy. Mới đây, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam
quyết định trích quỹ sáng tác của Hội làm món quà tặng sáu hội viên
(trong đó có tôi) đã phải chịu nhiều thiệt thòi trong 30 năm qua. Hội in
cho mỗi người một tập thơ bao cấp, tác giả tự chọn những bài thơ vừa ý
trong thơ mình, dày từ hai trăm trang trở lại. Năm anh bạn đang dựng bản
thảo. Tôi cả đời chưa bao giờ được in riêng một tập thơ càng hăm hở
chuẩn bị. Và bản thảo đã chuẩn bị xong, chỉ còn mang đến nộp. Trước khi
nộp tôi đem đến anh Cung để tranh thủ một vài nhận xét. Nhân dịp này tôi
đã dại dột đọc lại tập thơ tích lũy của anh. Đọc xong, lòng hăm hở của
tôi chùng lại. Tôi không còn muốn in thơ nữa. Tôi tự nhủ: in làm gì khi
chưa có cặp mắt biết nhìn như Phùng Cung?
Thoảng mùi ruộng ải
Thóc giống cựa mình
Nắng vắt ngọn tre đuôi én
Đủng đỉnh điệu cu cườm
Lay nhịp gió may.
(Mùa gieo mạ)
Dưới mắt anh, cảnh vật hiện ra sinh động đến thế! Ngòi bút của tôi đâu
còn dám đua chen. Thấy tôi chán nản, anh Cung động viên khéo:
"Thời cơ chế thị trường, dư luận khách hàng mới là khuôn vàng thước ngọc. Hãy cứ cho ra rồi lắng nghe dư luận".
Trái với tình thế của tôi có điều kiện in rồi mà còn đắn đo, tình thế
của anh Cung lại là muốn in mà không có điều kiện. Anh dí dỏm gọi mỉa
mai tập bản thảo thơ anh là "Hằng Nga ngủ trong rừng".
Như mọi người đã thấy, ngày nay ở nước ta xuất bản thơ là việc không mấy
khó khăn lắm. Bạn muốn in thơ? Xin mời! Cứ việc bỏ tiền ra mà in. Nhà
xuất bản chỉ có thể tham gia bằng cách chịu một phần trách nhiệm về nội
dung và đứng ra xin giấy phép xuất bản, với điều kiện bạn trả tiền lệ
phí. Một nhà thơ nghèo như Phùng Cung, năm nay đã sáu mươi nhăm tuổi có
lẽ đến lúc "chọn đất sạch dọn mình vào vĩnh viễn" cũng không hy vọng thơ
mình được người đọc thưởng thức qua những dòng chữ in. Hằng tháng chỉ
với mâm cơm gia đình "bốn mùa rong ruổi chốn rau dưa" cộng thêm vài chục
nghìn tiền điện, dăm nghìn tiền nước, chị Thoa vợ anh cũng đã phải tất
tả chạy "giật nóng" quanh bà con lối xóm. Thơ anh đành nằm chờ…
Nhưng tôi quyết tâm in bằng được thơ anh. Tôi sẽ đi khắp Trung, Nam, Bắc
đọc rong thơ của anh và quyên góp tiền. Tôi ước tính muốn có đủ tiền để
in hai trăm bài thơ ngắn, tôi sẽ phải đọc thơ và quyên tiền đến một
năm, trong khi đó bao nhiêu chuyện có thể xảy ra làm cho công việc thêm
phức tạp.
Quá trình phấn đấu hẳn phải chia thành nhiều đợt đi đi về về. Nhưng tôi
đã gặp một chuyện bất ngờ. Một hôm trong bữa cơm gia đình có anh Nguyễn
Hữu Đang dự, tôi nói:
-Em sắp đi xa, vắng nhà chừng khoảng một năm. Anh nhớ luôn luôn đến nhà em ăn cơm với vợ con em cho vui.
- Chú có công chuyện gì mà phải đi xa nhà lâu thế?
- Em đi dọc thơ rong, quyên góp tiền để in cho anh Phùng Cung tập thơ.
Cả một đời gian khổ vì cái nghiệp bút mực, anh ấy chỉ có một ước vọng
được in một tập thơ để tặng bạn hữu và góp mặt với đời trước khi vĩnh
biệt chúng ta.
- Tôi gặp chú Cung luôn, sao không thấy chú ấy nói chuyện này với tôi?
- Anh Cung không nói, em cho là anh ấy nghĩ có nói anh cũng không giúp được gì, chỉ làm anh thêm bận tâm.
- Tập thơ chú Cung đâu, chú đưa tôi xem.
Anh Đang chăm chú đọc hết tập thơ. Anh khẽ gật đầu có mái tóc ngắn quen thuộc nói:
- Tôi không ngờ thơ chú Cung khá thế. Theo tôi còn khá hơn văn xuôi chú
ấy. Bây giờ thế này chú Quán nhé: chú không phải đi đâu hết. Tôi sẽ cho
chú Cung tiền để in tập thơ. Tôi trợn tròn mắt:
- Thơ không rẻ như bèo đâu anh ơi? In một tập thơ vài trăm trang với
hình thức chỉ xoàng xoàng thôi, anh có biết phải mất bao nhiêu tiền
không? Từ hai triệu đến hai triệu rưỡi đấy!
Tôi tưởng anh tái mặt tưng hửng trước số tiền mà tôi thông báo. Anh vẫn
bình tĩnh lật lật những trang thơ, đọc lại một vài bài vừa rồi chưa đọc
kỹ, rồi chậm rãi nói:
- Tôi sẽ cho chú Cung đủ tiền để in dù có tốn như chú vừa nói.
Không để tôi hỏi anh lấy đâu ra tiền, anh giải thích luôn:
- Tôi cho chú ấy dùng tất cả số tiền tôi dè sẻn từng đồng dành dụm được
trong hai mươi năm qua, nhất là từ bốn năm trở lại đây tôi có lương hưu,
lại được những anh chị em cùng hoạt động hồi Mặt trận Dân chủ, Hội
Truyền bá quốc ngữ, Hội Văn hóa cứu quốc, các đội Tuyên truyền xung
phong chống Pháp, ngành Bình dân học vụ cùng những bạn bè xa gần, biết
tôỉ còn sống và nghèo khổ, kẻ ít người nhiều họ gửi tiền đến giúp đỡ.
Ngoài những khoản chi tiêu cần thiết hằng tháng, còn lại bao nhiêu tôi
gửi tất cả vào quỹ tiết kiệm ngân hàng, phòng xa phải dựng túp lều khi
không còn ai cho ở nhờ, phòng xa lúc ốm nặng kéo dài, phòng xa cả lúc
chết nữa. Nhờ vậy mà số tiền tiết kiệm của tôi cho đến hôm nay đã lên
đến hơn bốn triệu đồng. Sổ tiết kiệm đây…
Anh móc túi áo bộ đội cũ mặc bên trong, lấy ra cuốn sổ bọc trong ba lần
giấy nhựa bóng, chằng ngang, dọc bốn dây cao su. Anh đặt sổ trước mặt
tôi và bảo:
- Chú giữ lấy. Tôi sẽ làm giấy uỷ quyền cho chú rút tiền ra sử dụng. Nếu
số tiền này chưa đủ, tôi sẽ về quê đòi vài tạ thóc cho vay, bán đi rồi
gửi thêm tiền cho chú. Tôi yêu cầu tập thơ phải in thật đẹp, mà đẹp giản
dị, chứ không rườm rà, lòe loẹt như nhiều tập thơ đang bày bán.
Không hiểu sao nghe anh nói tim tôi hồi hộp và cổ tôi như nghẹn ngào.
Tôi được quen biết anh đã gần bốn mươi năm nhưng cho mãi tới hôm ấy tôi
mới thật hiểu anh là người như thế nào. Nguyễn Hữu Đang là người nếu chi
dùng cho bản thân thì một trăm đồng ba quả khế chua để gội đầu (thay
chanh mà anh vẫn sợ đắt) cũng tiếc tiền, bất đắc dĩ mới phải mua, nhưng
đã là việc nghĩa hiệp thì sẵn sàng san sẻ đến đồng tiền cuối cùng.
Tác giả bài viết: Cao Thâm
LÂU ĐÀI ĐIÊN CỦA CON GÁI LÃNH TỤ VÔ SẢN
LÂU ĐÀI ĐIÊN
Được xây
dựng từ năm 1990 trên khuôn viên rộng gần 1.900m2 ở số 3 đường Huỳnh
Thúc Kháng, công trình này ban đầu có tên là biệt thự Hằng Nga, sau đổi
thành “Crazy house” hay “Ngôi nhà kỳ dị”. Nói “ngôi nhà” là chưa thật
chính xác, vì đây là một quần thể kiến trúc lạ mắt.
Đôi mắt diều hâu hau háu nhìn mồi./Khuôn mặt lợn tròn quay đầy nọng thịt.
Với lối kiến trúc phá cách theo trường phái biểu hiện, tòa lâu đài trông tựa như những gốc cây hoặc một phần cơ thể của những con thú hoang dã ẩn hiện trong rừng già. Những ô cửa sổ lồi lõm hình thù kỳ lạ, xếp đặt có vẻ thiếu “ngăn nắp” nhưng nhìn kỹ thì như những con mắt của thú rừng. Du khách có thể ngắm nhìn khu vườn trong biệt thự với một tấm mạng nhện khổng lồ bằng sắt ở ngay lối vào. Biệt thự Hằng Nga nổi tiếng của Đà Lạt do kiến trúc sư Đặng Việt Nga - con gái của cố Tổng bí thư Trường Chinh thiết kế. Bà Nga cũng chính là chủ nhân của tòa nhà độc đáo này.
Với lối kiến trúc phá cách theo trường phái biểu hiện, tòa lâu đài trông tựa như những gốc cây hoặc một phần cơ thể của những con thú hoang dã ẩn hiện trong rừng già. Những ô cửa sổ lồi lõm hình thù kỳ lạ, xếp đặt có vẻ thiếu “ngăn nắp” nhưng nhìn kỹ thì như những con mắt của thú rừng. Du khách có thể ngắm nhìn khu vườn trong biệt thự với một tấm mạng nhện khổng lồ bằng sắt ở ngay lối vào. Biệt thự Hằng Nga nổi tiếng của Đà Lạt do kiến trúc sư Đặng Việt Nga - con gái của cố Tổng bí thư Trường Chinh thiết kế. Bà Nga cũng chính là chủ nhân của tòa nhà độc đáo này.
"Ngôi nhà điên" ở Đà Lạt
ADVERTISEMENT
Kiến trúc sư Đặng Việt Nga tốt nghiệp Đại học Kiến trúc Mátxcơva (1959-1965), sau đó từ 1969-1972 tiếp tục trở lại học và lấy bằng tiến sĩ của Liên Xô. Năm 1983, bà rời Hà Nội đến sống tại Đà Lạt và dựng xây lên biệt thự Hằng Nga hay còn gọi là “Ngôi nhà điên”.
Biệt thự Hằng Nga bao gồm nhiều tòa nhà và nhà khách, quán
cà phê và phòng trưng bày nghệ thuật với phong cách đặc biệt. Các nội thất của tòa
nhà bao gồm hang động, hành lang quanh co, cầu thang quanh co, đồ nội thất kỳ
quặc và những bức tượng động vật với kích cỡ lớn. Không có những đường thẳng và
góc thẳng, không “ngang hàng thẳng lối”. Có thể tạo ấn tượng là không gian,
hành lang, cầu thang, cửa sổ hoặc đồ nội thất - tất cả mọi thứ có vẻ như thể đã
bị nấu tan chảy ở nhiệt độ cao và sau đó đóng băng trong hình dạng kỳ cục.
Giữa các tòa nhà là những mấu cây, rể cây xương xẩu làm bằng
bê tông và mạng nhện khổng lồ làm bằng dây kẽm. Có một phòng trà nhỏ bên trong
một tượng Hươu cao cổ to. Các phòng nghỉ có tên phòng Quả Bầu, Kangaroo, con
gấu, con ong,...
Các phòng đều có thể được đặt chỗ mướn để nghỉ qua đêm bình
thường. Hiện tại, mỗi năm “Ngôi nhà Điên” đón khoảng 100.000 lượt khách tới
tham quan, trong đó phần nhiều là khách nước ngoài.
Từ khi khai trương vào năm 1990, tòa nhà này đã được công
nhận kiến trúc độc đáo, đã được nêu bật trong các sách hướng dẫn du lịch và
được xếp vào nhóm 10 tòa nhà “kỳ lạ” nhất theo bình chọn của Nhân dân Nhật báo
của Trung Quốc .
Khi quyết định xây biệt thự, KTS Việt Nga đã gặp phải sự phản đối gay gắt từ hội kiến trúc, khiến bà phải bí mật đưa
bản dự án của mình trình lên sở Xây dựng thông qua chính quyền cấp phép.
Thế nhưng 6 lần bà trình dự án là 6 lần bị từ chối thẳng thừng, mãi tới
lần thứ bảy bản kiến nghị về việc mở rộng Crazy house mới được thông
qua với nhiều điều khoản khắt khe.
KTS Việt Nga cho biết: “Hành trình đi
xin giấy phép của tôi thật sự khó khăn, tôi phải một mình lặn lội giữa
trời mưa gió suốt mấy tháng liền. Tôi thực sự cảm ơn các du khách nước
ngoài bởi việc công trình tiếp tục được cấp phép nguyên nhân chính là
lượng du khách nước ngoài đổ về đây ngày càng đông, nó tác động trực
tiếp tới cách nhình nhận của lãnh đạo thành phố”.
Đến bây giờ, khi Crazy House được biết đến như một công trình kiến
trúc độc đáo trên thế giới. Là điểm nhấn thu hút khách du lịch hàng đầu
tại Đà Lạt
Tiếp
tục
vượt qua những bậc thang ngoằn ngoèo quấn quanh gốc cây, sẽ lần lượt
khám phá những căn phòng ấm cúng với hình thù đặc trưng của thiên nhiên
như hốc cây, thân tre, quả bầu, cọp, gấu, đại bàng, kangaroo, chim
trĩ…Các căn phòng này được thiết kế gọn trong hai thân cây cổ thụ (bằng
bê
tông), tạo cảm giác như đang lạc vào khu rừng kỳ lạ và bí hiểm. Đêm về,
nếu ngủ trong các căn phòng này, nhìn thẳng lên trần nhà có thể thỏa
thích ngắm nhìn trăng sao… Một du khách nước ngoài ghi vào sổ lưu niệm:
“Đây là tòa lâu đài độc đáo, khác thường và hoang tưởng nhất Việt Nam,
nếu không nói là của vùng Đông Nam Á”.
Tiến sĩ – kiến trúc sư Đặng Việt Nga, chủ nhân “Crazy house”, bộc bạch: “Khi thực hiện công trình này tôi rất trăn trở. Thiên nhiên đang bị tàn phá từng ngày, bằng tiếng nói của kiến trúc tôi muốn kéo con người trở về với thiên nhiên, gần gũi và yêu mến nó chứ không phải hủy diệt…”. Thực tế, khi bắt tay thực hiện “Crazy house” không phải ai cũng đồng tình với chủ nhân. “Có lúc tưởng như phải phá bỏ, tôi chẳng đặng đừng phải viết thư “cầu cứu” một vị lãnh đạo trung ương, nhờ đó ngôi nhà mới tồn tại và năm 2007 đã được UBND tỉnh Lâm Đồng cấp giấy công nhận sở hữu công trình” – tiến sĩ Việt Nga tâm sự.
Năm nay đã bước qua tuổi 70, nhưng bà Việt Nga vẫn quyết tâm theo đuổi những ý tưởng “lập dị” của mình, tiếp tục hoàn thiện các hạng mục dở dang như: nhà rông Tây Nguyên với nhiều màu sắc sặc sỡ dựa theo mô-típ trang phục của phụ nữ các dân tộc, hoàn thiện hệ thống cầu thang dây leo, dãy núi (phía sau) mà bên trong là phòng triển lãm tranh, ảnh, kiến trúc của các nghệ sĩ Lâm Đồng. Bà mong ước mở rộng diện tích quần thể kiến trúc này lên 9.000m2, biến nơi đây thành khu bảo tồn thiên nhiên thực thụ, xen lẫn là những công trình kiến trúc đặc trưng của núi rừng Đà Lạt. Để thực hiện được ý tưởng này, chủ nhân “Crazy house” cho biết cần một số vốn khoảng 100 tỉ đồng. Cùng với biệt thự Hằng Nga, 9 công trình kiến trúc khác được People’s Daily chọn là 10 ngôi nhà kỳ dị nhất thế giới.
Sunday, April 13, 2014
TÔ HẢI * NHẬT KÝ 76
Nhật ký mở lần thứ 76
(mồng 7 Tết Giáp Ngọ)
SẤP ĐƯỢC LÀM CHỦ RỒI! ỚI 90 TRIỆU DÂN TA ƠI!
Một phái đoàn gồm 23 đại diện cho cái bộ máy khổng lồ diệt hết kẻ thù của giai cấp cầm quyền, bỏ tù hết những ai không chịu có chung một ý nghĩ: ”dạ! thưa các ông muôn năm đúng! ”vừa có những lời tuyên bố cực kỳ hay ho trước toàn thể loài người tại Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc
Mặc cho khắp nơi, khắp chốn đều vang lên lời mỉa mai, chửi bới và gán cho chúng đủ mọi thứ tội bẩn thỉu nhất trên đời như: Một “chính phủ nói dối như hát hay”. . , “lấy lừa bịp là quốc sách” hoặc “chính phủ VN nói có thành không nói không thành có”
Mặc cho những lời chất vấn cụ thể về những hành đông vi phạm nhân quyền, với những tên tuổi luật sư, nhà văn nhà báo, trí thức cụ thể, …
Mặc cho nỗi nhục bị hơn 10 đạị biểu các nước kết tội xâm phạm nhân quyền, và nhục nhất là: bị đại biểu Myanmar, nổi tiếng về quân phiệt một thời, chất vấn và khuyên nhủ nên thực thi nhân quyền ở ngay cái xứ, mà ông thủ tướng các ông đã từng khuyên họ nên mở rộng dân chủ ….
Và đây: dù chỉ phát biểu có 65 giây, Đại diện đoàn Hoa Kỳ, đã bắt các vị
trong Vương Triều Việt phải lo sốt vó cả năm tới chứ chẳng chơi đâu!
Đối với riêng mình thì:
1-Đây là lần đầu tiên một bản báo cáo đọc bằng tiếng Anh (dù có người còn cho rằng tiếng Anh hạng bét làm xấu mặt các em học sinh cấp III) do một đại diện chính thức của một chính phủ do Đảng cầm quyền đã xét duyệt kỹ càng trước khi công khai hứa (dù là hứa hão đi) trước Liên Hiệp Quốc. Những điều mà nếu sẽ được thực thi đúng như thế, thì trên cái đất bị cai trị bởi mấy đời vua quan cực quyền này sẽ chẳng mấy chốc được trở thành công dân như mọi nước trên thế giới! Hết cái cảnh thần dân-vua chúa hết cái cảnh nô lệ và chủ chăn!
2-Lời nói lần này gió không thể bay được vì chỉ trong có chốc lát nó đã được ghi âm, ghi hình lan tỏa khắp hoàn cầu và có cả trong tay một blogger 88 tuổi rất i-tờ về internet như mình! .
3-Muốn hay không muốn, rõ ràng các nhà độc tài đảng-quân-tài-phiệt lần này cũng đành vớt vát tí chút chiếu cố của cộng đồng thế giới nên hết mị dân, mị quan nay lại. . . mị đến cả hơn 180 nước không chấp nhận cái tà đạo Mác-Lê của mình!
Chỉ nghe mấy câu mị toàn thế giới này thì đủ biết bàn tay cầm kiếm và lá chắn của họ đã có mòi…run sợ.! Tính chất xấc xược kiêu binh cộng sản lần này đã được cất giấu đi khá là…lộ liễu (y hệt bài chúc Tết đầu năm của Chủ tịch nước:”Tôi kêu gọi đồng bào, đồng chí và chiến sĩ cả nước đoàn kết một lòng, đồng tâm hiệp lực, đem tất cả tinh thần và sức lực, trí tuệ và tài năng, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thực hành dân chủ rộng rãi với tư tưởng pháp quyền tiến bộ, tiếp tục đưa đất nước tiến lên…. Không có một lần nhắc tới bác Hồ, quên luôn xây dựng CNXH mà là “dân chủ pháp quyền tiến bộ” (1 cụm từ mới toanh!)
Chuyện thay đổi “ tông” nay rõ ràng là xuất hiện từ thông điệp đầu năm của quan Tể Tướng, trong các bài phát biểu của các vị đại thần trẻ có, già có …. Tuy đôi lúc còn “ông nói gà bà nói vịt” nhưng nhìn chung là có lợi cho dân lành. Ít người bị “nhập kho” hơn tuy còn một vài “quần chúng tự phát không quân phục” vẫn uýnh người yêu nước không đúng yêu cầu của các Đại Vương của họ đến gẫy xương sườn, hộc máu mồm máu mũi…
Tại lần UPR này trước Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, phái đoàn hùng hậu đủ các thứ Bộ bị, được học tập kỹ càng trước khi lên đường cũng khá là. . . ”mềm dẻo, khôn khéo” khác thường:
Trong bản báo cáo dài 20 trang cái cát-xét số 1, thứ trưởng Bộ Ngoại Giao Hà Kim Ngọc đã đọc một bài học thuộc lòng với tư tưởng chỉ đạo cốt lõi là như sau:
'Ưu tiên hàng đầu của Việt Nam là phát triển kinh tế-xã hội, kiện toàn hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền con người và xây dựng nhà nước pháp quyền'
Ông Hà Kim Ngọc không quên nhấn mạnh, dự thảo hiến pháp đã được gửi đến các cơ quan truyền thông đại chúng trước 10 tháng, và nhận được ''hàng triệu ý kiến góp ý'', ''toàn bộ chương II của Hiến pháp với 36 điều được dành hoàn toàn cho vấn đề nhân quyền, quyền và nghĩa vụ của công dân''.
Cát-xét thứ 2: Đại diện Bộ Tư Pháp: Việt Nam đã giảm một nửa số tội có hình phạt tử hình, từ 44 tội trong Bộ luật hình sự năm 1985, xuống còn 29 tội trong Bộ luật hình sự năm 1999, và trong Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009 giảm xuống còn 22.
Cát-xét thứ 3: Đại diện Bộ Thông tin Truyền thông khẳng định: 'Quyền tự do ngôn luận, thông tin ở Việt Nam trong thời gian qua có sự cải thiện nhờ sự phát triển nhanh của Internet. Hiến pháp nêu rõ công dân có quyền tự do ngôn luận, hội họp. . . Ở Việt Nam hiện nay không có kiểm duyệt báo chí xuất bản, Internet. Các cuộc tranh luận, chất vấn diễn ra thực chất tại Quốc hội và các diễn đàn chính thức khác. Vai trò của Quốc hội được nâng cao. Hơn 3 triệu blogger còn bày tỏ chính kiến trên mạng xã hội.
Liên quan đến vấn đề Internet, chúng tôi khẳng định Nghị định 72 không hạn chế tự do ngôn luận mà nhằm bảo vệ môi trường Internet, đối phó với các rủi ro từ việc sử dụng Internet, tạo môi trường kinh doanh minh bạch cho các doanh nghiệp, tăng cường bảo đảm thông tin trên mạng. . .
Cát-xét thứ tư: Bộ Công an cũng khẳng định: Việt Nam đảm bảo tất cả các quyền tự do ngôn luận, tôn giáo, hội họp, quyền phụ nữ, quyền trẻ em. Các điều khoản về an ninh quốc gia đưa ra những giới hạn cần thiết trên một số lĩnh vực, trong các quyền tự do ngôn luận, báo chí, lập hội, tự do tôn giáo. . . nhằm đảm bảo an ninh quốc gia, đạo đức và trật tự xã hội. Điều này phù hợp với Điều 29 Tuyên ngôn Nhân quyền.
Còn về tình trạng giam giữ người phạm tội: Năm 2011 Việt Nam đã ban hành nghị định bổ sung về chế độ ăn mặc, ở, y tế, dạy nghề cho các phạm nhân. Luật Thi hành án hình sự quy định phạm nhân được phép gặp người thân. . . . .
Cuối cùng ông cát xét thứ nhất hứa: Việt Nam đang gia nhập các công ước khác của Liên Hợp Quốc, ví dụ về cưỡng bức mất tích, tình trạng của người tị nạn, người lao động. Một lần nữa tôi xin nhấn mạnh, Việt Nam cam kết đối thoại
Chúng tôi đang sắp xếp chuyến thăm của Đặc Phái viên về Tự do tôn giáo của Liên Hợp Quốc vào tháng 7 sắp tới, và các Đặc Phái viên về quyền của công nhân nhập cư, buôn bán trẻ em, v. v. vào thời điểm cần thiết.
Việt Nam, với tư cách thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc chia sẻ quan điểm của các nước về làm thế nào để thúc đảy và tăng cường nhân quyền.
Chúng tôi cam kết chủ động xây dựng, duy trì đối thoại, hợp tác và nghiêm túc thực hiện các nghĩa vụ của mình.
Chúng tôi đã hoàn tất ba tiếng rưỡi thảo luận hiệu quả về tăng cường nhân quyền ở VN, trong không khí tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng chủ quyền và các quyền căn bản khác theo Hiến chương LHQ.
Việt Nam sẵn sàng mở cửa cho đối thoại và hợp tác với các nước khác. Chúng tôi đánh giá cao các ý kiến đóng góp xây dựng, các ý kiến tích cực về quá trình cải thiện nhân quyền ở VN trong vòng bốn năm qua.
Nghĩa là trước thế giới, cái đoàn báo cáo về nhân quyền này đã làm được cái chuyện ”Khôn” hay “Dại” tầy trời đây?: Hứa, hứa và hứa tất cả những điều mà nếu không làm thì họ sẽ nhận những hậu quả khôn lường mà trước hết là ĐỪNG MONG THÒ MŨI VÀO PI-TI-TI!
Cho nên, hết chữ để nói về cái bản chất nói láo, nói dối, nói lấy được, nói cho qua của mấy ông vua cai trị xứ này, mình đành phải phát ra cái sáng kiến khác người: buộc chặt họ vào những gì họ đã tuyên bố trước thế giới mà động viên toàn dân ta cứ việc làm những cái gì họ đã nói ở kỳ UPR này!
Cứ tự do lập hội, Cứ tự do biểu tình Cứ tự do viết blog, phây búc thoải mái, bờ lốc bờ liếc đàng hoàng. In thành tờ rơi những gì họ đã hứa trước toàn thế giới…và phổ biến rộng rãi trên khắp đất nước! . .
Toàn dân nô lệ chúng ta, nhất là lớp trẻ hãy: Thuộc lòng mấy câu mà mấy cái cát xét đã phát ra vừa qua để khi có chuyện với công an thì hỏi lại: Các anh không thi hành những gì bố các anh đã hứa ở Giơ - Neo à ?…
Sáng kiến có dở hơi không các phờ-ren?
-------------------------
Hôm sau sẽ giới thiệu tiếp "tập 3 Tuyển Tập Blog Tô Hải", bạn đọc đón theo dõi và download sách!
(mồng 7 Tết Giáp Ngọ)
SẤP ĐƯỢC LÀM CHỦ RỒI! ỚI 90 TRIỆU DÂN TA ƠI!
Một phái đoàn gồm 23 đại diện cho cái bộ máy khổng lồ diệt hết kẻ thù của giai cấp cầm quyền, bỏ tù hết những ai không chịu có chung một ý nghĩ: ”dạ! thưa các ông muôn năm đúng! ”vừa có những lời tuyên bố cực kỳ hay ho trước toàn thể loài người tại Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc
Mặc cho khắp nơi, khắp chốn đều vang lên lời mỉa mai, chửi bới và gán cho chúng đủ mọi thứ tội bẩn thỉu nhất trên đời như: Một “chính phủ nói dối như hát hay”. . , “lấy lừa bịp là quốc sách” hoặc “chính phủ VN nói có thành không nói không thành có”
Mặc cho những lời chất vấn cụ thể về những hành đông vi phạm nhân quyền, với những tên tuổi luật sư, nhà văn nhà báo, trí thức cụ thể, …
Mặc cho nỗi nhục bị hơn 10 đạị biểu các nước kết tội xâm phạm nhân quyền, và nhục nhất là: bị đại biểu Myanmar, nổi tiếng về quân phiệt một thời, chất vấn và khuyên nhủ nên thực thi nhân quyền ở ngay cái xứ, mà ông thủ tướng các ông đã từng khuyên họ nên mở rộng dân chủ ….
Mấy con vẹt được bơm cho nói trước cả tỷ người trên thế giới đấy có biết không? |
Đối với riêng mình thì:
1-Đây là lần đầu tiên một bản báo cáo đọc bằng tiếng Anh (dù có người còn cho rằng tiếng Anh hạng bét làm xấu mặt các em học sinh cấp III) do một đại diện chính thức của một chính phủ do Đảng cầm quyền đã xét duyệt kỹ càng trước khi công khai hứa (dù là hứa hão đi) trước Liên Hiệp Quốc. Những điều mà nếu sẽ được thực thi đúng như thế, thì trên cái đất bị cai trị bởi mấy đời vua quan cực quyền này sẽ chẳng mấy chốc được trở thành công dân như mọi nước trên thế giới! Hết cái cảnh thần dân-vua chúa hết cái cảnh nô lệ và chủ chăn!
2-Lời nói lần này gió không thể bay được vì chỉ trong có chốc lát nó đã được ghi âm, ghi hình lan tỏa khắp hoàn cầu và có cả trong tay một blogger 88 tuổi rất i-tờ về internet như mình! .
3-Muốn hay không muốn, rõ ràng các nhà độc tài đảng-quân-tài-phiệt lần này cũng đành vớt vát tí chút chiếu cố của cộng đồng thế giới nên hết mị dân, mị quan nay lại. . . mị đến cả hơn 180 nước không chấp nhận cái tà đạo Mác-Lê của mình!
Chỉ nghe mấy câu mị toàn thế giới này thì đủ biết bàn tay cầm kiếm và lá chắn của họ đã có mòi…run sợ.! Tính chất xấc xược kiêu binh cộng sản lần này đã được cất giấu đi khá là…lộ liễu (y hệt bài chúc Tết đầu năm của Chủ tịch nước:”Tôi kêu gọi đồng bào, đồng chí và chiến sĩ cả nước đoàn kết một lòng, đồng tâm hiệp lực, đem tất cả tinh thần và sức lực, trí tuệ và tài năng, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thực hành dân chủ rộng rãi với tư tưởng pháp quyền tiến bộ, tiếp tục đưa đất nước tiến lên…. Không có một lần nhắc tới bác Hồ, quên luôn xây dựng CNXH mà là “dân chủ pháp quyền tiến bộ” (1 cụm từ mới toanh!)
Chuyện thay đổi “ tông” nay rõ ràng là xuất hiện từ thông điệp đầu năm của quan Tể Tướng, trong các bài phát biểu của các vị đại thần trẻ có, già có …. Tuy đôi lúc còn “ông nói gà bà nói vịt” nhưng nhìn chung là có lợi cho dân lành. Ít người bị “nhập kho” hơn tuy còn một vài “quần chúng tự phát không quân phục” vẫn uýnh người yêu nước không đúng yêu cầu của các Đại Vương của họ đến gẫy xương sườn, hộc máu mồm máu mũi…
Tại lần UPR này trước Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, phái đoàn hùng hậu đủ các thứ Bộ bị, được học tập kỹ càng trước khi lên đường cũng khá là. . . ”mềm dẻo, khôn khéo” khác thường:
Trong bản báo cáo dài 20 trang cái cát-xét số 1, thứ trưởng Bộ Ngoại Giao Hà Kim Ngọc đã đọc một bài học thuộc lòng với tư tưởng chỉ đạo cốt lõi là như sau:
'Ưu tiên hàng đầu của Việt Nam là phát triển kinh tế-xã hội, kiện toàn hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền con người và xây dựng nhà nước pháp quyền'
Ông Hà Kim Ngọc không quên nhấn mạnh, dự thảo hiến pháp đã được gửi đến các cơ quan truyền thông đại chúng trước 10 tháng, và nhận được ''hàng triệu ý kiến góp ý'', ''toàn bộ chương II của Hiến pháp với 36 điều được dành hoàn toàn cho vấn đề nhân quyền, quyền và nghĩa vụ của công dân''.
Cát-xét thứ 2: Đại diện Bộ Tư Pháp: Việt Nam đã giảm một nửa số tội có hình phạt tử hình, từ 44 tội trong Bộ luật hình sự năm 1985, xuống còn 29 tội trong Bộ luật hình sự năm 1999, và trong Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009 giảm xuống còn 22.
Cát-xét thứ 3: Đại diện Bộ Thông tin Truyền thông khẳng định: 'Quyền tự do ngôn luận, thông tin ở Việt Nam trong thời gian qua có sự cải thiện nhờ sự phát triển nhanh của Internet. Hiến pháp nêu rõ công dân có quyền tự do ngôn luận, hội họp. . . Ở Việt Nam hiện nay không có kiểm duyệt báo chí xuất bản, Internet. Các cuộc tranh luận, chất vấn diễn ra thực chất tại Quốc hội và các diễn đàn chính thức khác. Vai trò của Quốc hội được nâng cao. Hơn 3 triệu blogger còn bày tỏ chính kiến trên mạng xã hội.
Liên quan đến vấn đề Internet, chúng tôi khẳng định Nghị định 72 không hạn chế tự do ngôn luận mà nhằm bảo vệ môi trường Internet, đối phó với các rủi ro từ việc sử dụng Internet, tạo môi trường kinh doanh minh bạch cho các doanh nghiệp, tăng cường bảo đảm thông tin trên mạng. . .
Cát-xét thứ tư: Bộ Công an cũng khẳng định: Việt Nam đảm bảo tất cả các quyền tự do ngôn luận, tôn giáo, hội họp, quyền phụ nữ, quyền trẻ em. Các điều khoản về an ninh quốc gia đưa ra những giới hạn cần thiết trên một số lĩnh vực, trong các quyền tự do ngôn luận, báo chí, lập hội, tự do tôn giáo. . . nhằm đảm bảo an ninh quốc gia, đạo đức và trật tự xã hội. Điều này phù hợp với Điều 29 Tuyên ngôn Nhân quyền.
Còn về tình trạng giam giữ người phạm tội: Năm 2011 Việt Nam đã ban hành nghị định bổ sung về chế độ ăn mặc, ở, y tế, dạy nghề cho các phạm nhân. Luật Thi hành án hình sự quy định phạm nhân được phép gặp người thân. . . . .
Cuối cùng ông cát xét thứ nhất hứa: Việt Nam đang gia nhập các công ước khác của Liên Hợp Quốc, ví dụ về cưỡng bức mất tích, tình trạng của người tị nạn, người lao động. Một lần nữa tôi xin nhấn mạnh, Việt Nam cam kết đối thoại
Chúng tôi đang sắp xếp chuyến thăm của Đặc Phái viên về Tự do tôn giáo của Liên Hợp Quốc vào tháng 7 sắp tới, và các Đặc Phái viên về quyền của công nhân nhập cư, buôn bán trẻ em, v. v. vào thời điểm cần thiết.
Việt Nam, với tư cách thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc chia sẻ quan điểm của các nước về làm thế nào để thúc đảy và tăng cường nhân quyền.
Chúng tôi cam kết chủ động xây dựng, duy trì đối thoại, hợp tác và nghiêm túc thực hiện các nghĩa vụ của mình.
Chúng tôi đã hoàn tất ba tiếng rưỡi thảo luận hiệu quả về tăng cường nhân quyền ở VN, trong không khí tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng chủ quyền và các quyền căn bản khác theo Hiến chương LHQ.
Việt Nam sẵn sàng mở cửa cho đối thoại và hợp tác với các nước khác. Chúng tôi đánh giá cao các ý kiến đóng góp xây dựng, các ý kiến tích cực về quá trình cải thiện nhân quyền ở VN trong vòng bốn năm qua.
Nghĩa là trước thế giới, cái đoàn báo cáo về nhân quyền này đã làm được cái chuyện ”Khôn” hay “Dại” tầy trời đây?: Hứa, hứa và hứa tất cả những điều mà nếu không làm thì họ sẽ nhận những hậu quả khôn lường mà trước hết là ĐỪNG MONG THÒ MŨI VÀO PI-TI-TI!
Cho nên, hết chữ để nói về cái bản chất nói láo, nói dối, nói lấy được, nói cho qua của mấy ông vua cai trị xứ này, mình đành phải phát ra cái sáng kiến khác người: buộc chặt họ vào những gì họ đã tuyên bố trước thế giới mà động viên toàn dân ta cứ việc làm những cái gì họ đã nói ở kỳ UPR này!
Cứ tự do lập hội, Cứ tự do biểu tình Cứ tự do viết blog, phây búc thoải mái, bờ lốc bờ liếc đàng hoàng. In thành tờ rơi những gì họ đã hứa trước toàn thế giới…và phổ biến rộng rãi trên khắp đất nước! . .
Toàn dân nô lệ chúng ta, nhất là lớp trẻ hãy: Thuộc lòng mấy câu mà mấy cái cát xét đã phát ra vừa qua để khi có chuyện với công an thì hỏi lại: Các anh không thi hành những gì bố các anh đã hứa ở Giơ - Neo à ?…
Sáng kiến có dở hơi không các phờ-ren?
-------------------------
Hôm sau sẽ giới thiệu tiếp "tập 3 Tuyển Tập Blog Tô Hải", bạn đọc đón theo dõi và download sách!
TÀU HỎA VIỆT NAM
Cảnh tàu hỏa chạy sát nhà dân ở Hà Nội lên báo Tây
Những bức ảnh về hoạt động của người dân sát
đường tàu ở thủ đô Hà Nội xuất hiện trên một tờ báo Anh. Độc giả của tờ
báo tỏ ra ngạc nhiên và thích thú khi xem ảnh.
Ashit Desai, một nhiếp ảnh gia 54 tuổi từ Ấn Độ, chụp cảnh nhà của người dân ở sát đường tàu khi ông tới Hà Nội để du lịch. Những bức ảnh của ông xuất hiện trên tờ Daily Mail của Anh. |
Người dân giặt, bế trẻ, trò chuyện ngay sát đường ray. |
Đường sắt này xuyên qua những phố chật hẹp để tới cầu Long Biên. |
"Tôi thấy các tiệm cắt tóc, người bán hàng, trẻ em chơi đùa ngay sát đường ray. Mỗi khi tàu sắp tới - vào khoảng 4h và 6h, họ đứng lên, chuyển các ghế ra xa đường ray vài mét. Họ tiếp tục nói chuyện khi tàu chạy qua. Sau đó mọi thứ trở lại vị trí cũ. Đó là một phần trong nhịp sống hàng ngày của họ", Ashit kể. |
Theo Ashit, mỗi ngày tàu chạy qua đường ray hai lần. |
Nhiều người đàn ông lớn tuổi ngồi trên đường ray gần như cả ngày. |
Mọi người luôn rời khỏi đường ray và thu hồi những hàng hóa mà họ trưng bày một cách kịp thời mỗi khi tàu tới. |
Dân địa phương luôn biết chính xác thời điểm tàu sẽ chạy qua trong ngày để thực hiện các biện pháp an toàn. |
Số người chết vì tai nạn tàu hỏa chiếm khoảng 2% tổng số nạn nhân tử vong hàng năm tại Việt Nam. |
Khoảng 5.000 điểm vượt đường sắt trái phép đang tồn tại ở Việt Nam. Nhiều người thiệt mạng khi bước qua những điểm giao cắt không có thanh chắn hay đèn hiệu. |
Freiburg, một độc giả Đức, viết: "Đây là thực trạng của Hàn Quốc trong thập niên 50". |
Mark Ed, một độc giả tại Anh, bình luận: "Bạn có thể gọi nó là dịch vụ tàu hỏa tận nhà". |
VIẾT TỪ SAIGON * XHCNVN
Sống và chết dưới thời CSXHCN
Fri, 04/11/2014 - 02:48 — VietTuSaiGon
Một tù nhân lương tâm bị nhốt hơn nửa cuộc đời trong song sắt,
đến khi ra tù, gọi là được trả tự do cũng là lúc người đó đối diện với
cái chết, sự mù lòa và và nỗi đau cách biệt với thế giới bên ngoài quá
lâu đã khiến người đó không thể nào hòa nhập. Và có nhiều tù nhân lương
tâm như thế tại Việt Nam, dưới thời CSXHCN, họ đã vào tù với thân thể
cường tráng, tràn trề sinh lực nhưng họ trở về cuộc đời thì thân tàn ma
dại, hầu như chẳng còn gì ngoài một tấm thân tiều tụy, đau đớn và cận kề
cái chết.
Trương Văn Sương, Đinh Đăng Định, rồi đến Nguyễn Hữu Cầu, Bùi Thị Minh Hằng, Tạ Phong Tần, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải… Và rồi đây còn nhiều tù nhân nữa, họ là một ẩn số của chế độ.
Mà có lẽ cũng cần nói thêm rằng một khi bước vào nhà tù của chế độ CSVN, mặc dù không phải là tù nhân lương tâm, cơ hội bước ra một cách lành lặn e rằng quá hiếm. Một khi bước vào nhà tù, điều đó cũng đồng nghĩa với cái chết luôn rình rập, cận kề.
Có một điều là những ai thật sự sống, thật sự hiện hữu trong tâm thức bạn bè, trong những người cùng chí hướng thì sự sống của họ luôn bị đánh đổi bởi lòng quả cảm, tính kiên cường và sự vững vàng tư tưởng, trung thành, thủy chung với những gì đã lựa chọn.
Ngược lại, họ có thể được ra tù, được hưởng bổng lộc nếu như họ chọn con đường dễ dàng và có tính nhất thời: Chấp nhận thỏa hiệp và đi ngược với lựa chọn ban đầu.
Chuyện sống và chết dưới thời CSXHCN Việt Nam là một câu chuyện vừa khôi hài, vừa đầy nước mắt mà cũng có đôi khi chứa đầy máu. Nhưng chung qui, nó không còn là khái niệm siêu hình, cũng không cần phải luận đến tử thư Tây Tạng gì đó để phân tích. Đơn giản, chết và sống là hai thái độ lựa chọn cho cùng một mục tiêu: Làm Người!
Chuyện làm người thời bây giờ nghe ra cũng lắm cam go và cay đắng. Làm thế nào để làm người đúng nghĩa? Câu hỏi này chưa có hồi đáp dưới vòm trời CSXHCN này. Vì sao?
Vì mọi thứ được đặt ra như một cái bẫy. Ngay với một người dân chân lấm tay bùn, không quan tâm gì về chính trị, họ vẫn sống dưới một cái bẫy mà ở đó, một cách vô thức, họ thụ động trở thành Cộng sản trong lúc họ không hề hay biết.
Cái mà nhà nước Cộng sản đạt được sau gần bốn mươi năm thống trị cả hai miền và sau hơn bảy mươi năm thồng trị miền Bắc chính là quốc hóa Cộng sản, mọi ngóc ngách, mọi nếp nghĩ đều mang hơi hướm Cộng sản và bất kì một người dân nào cũng đều làm Cộng sản mặc dù về mặt ý chí, họ không ưa gì chế độ này.
Một ông bán phở sẵn sàng toa rập với công an khu vực để mua chuộc chỗ vỉa hè và đẩy những đồng nghiệp khác ra khỏi khu vực mà mình mua bán thuận lợi, một người nông dân sẵn sàng vâng dạ, cúi luồn một tay chủ tịch xã, thậm chí cúi luồn trước một tay thôn trưởng để được nhận phần cứu trợ sau lũ, một nhà văn, kẻ sĩ, kẻ cầm bút sẵn sàng cúi gập người trước quan quyền để được nhận khoản thù lao hoặc khoản tài trợ in ấn… Tất cả những thứ đó là gì nếu không gọi là Cộng sản?
Trương Văn Sương, Đinh Đăng Định, rồi đến Nguyễn Hữu Cầu, Bùi Thị Minh Hằng, Tạ Phong Tần, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải… Và rồi đây còn nhiều tù nhân nữa, họ là một ẩn số của chế độ.
Mà có lẽ cũng cần nói thêm rằng một khi bước vào nhà tù của chế độ CSVN, mặc dù không phải là tù nhân lương tâm, cơ hội bước ra một cách lành lặn e rằng quá hiếm. Một khi bước vào nhà tù, điều đó cũng đồng nghĩa với cái chết luôn rình rập, cận kề.
Có một điều là những ai thật sự sống, thật sự hiện hữu trong tâm thức bạn bè, trong những người cùng chí hướng thì sự sống của họ luôn bị đánh đổi bởi lòng quả cảm, tính kiên cường và sự vững vàng tư tưởng, trung thành, thủy chung với những gì đã lựa chọn.
Ngược lại, họ có thể được ra tù, được hưởng bổng lộc nếu như họ chọn con đường dễ dàng và có tính nhất thời: Chấp nhận thỏa hiệp và đi ngược với lựa chọn ban đầu.
Chuyện sống và chết dưới thời CSXHCN Việt Nam là một câu chuyện vừa khôi hài, vừa đầy nước mắt mà cũng có đôi khi chứa đầy máu. Nhưng chung qui, nó không còn là khái niệm siêu hình, cũng không cần phải luận đến tử thư Tây Tạng gì đó để phân tích. Đơn giản, chết và sống là hai thái độ lựa chọn cho cùng một mục tiêu: Làm Người!
Chuyện làm người thời bây giờ nghe ra cũng lắm cam go và cay đắng. Làm thế nào để làm người đúng nghĩa? Câu hỏi này chưa có hồi đáp dưới vòm trời CSXHCN này. Vì sao?
Vì mọi thứ được đặt ra như một cái bẫy. Ngay với một người dân chân lấm tay bùn, không quan tâm gì về chính trị, họ vẫn sống dưới một cái bẫy mà ở đó, một cách vô thức, họ thụ động trở thành Cộng sản trong lúc họ không hề hay biết.
Cái mà nhà nước Cộng sản đạt được sau gần bốn mươi năm thống trị cả hai miền và sau hơn bảy mươi năm thồng trị miền Bắc chính là quốc hóa Cộng sản, mọi ngóc ngách, mọi nếp nghĩ đều mang hơi hướm Cộng sản và bất kì một người dân nào cũng đều làm Cộng sản mặc dù về mặt ý chí, họ không ưa gì chế độ này.
Một ông bán phở sẵn sàng toa rập với công an khu vực để mua chuộc chỗ vỉa hè và đẩy những đồng nghiệp khác ra khỏi khu vực mà mình mua bán thuận lợi, một người nông dân sẵn sàng vâng dạ, cúi luồn một tay chủ tịch xã, thậm chí cúi luồn trước một tay thôn trưởng để được nhận phần cứu trợ sau lũ, một nhà văn, kẻ sĩ, kẻ cầm bút sẵn sàng cúi gập người trước quan quyền để được nhận khoản thù lao hoặc khoản tài trợ in ấn… Tất cả những thứ đó là gì nếu không gọi là Cộng sản?
Và nhà nước Cộng sản chỉ mong mỏi có chừng đó thôi, khi nào sự thỏa
hiệp chan đều trên toàn cõi Việt Nam, lúc đó xem như chủ nghĩa Cộng sản
đã có mặt khắp đất nước, khắp các gia đình. Và để có nó, họ đã nhiều lần
đặt bẫy.
Cái bẫy đầu tiên chính là cái bẫy hợp tác xã, kinh tế tập trung bao
cấp. Hàng triệu con người phải cật lực làm việc nhưng chỉ nhận được duy
nhất là xếp hàng chầu chức miếng ăn nhà nước ban phát. Ngay cả giới trí
thức cũng phải chầu chực bằng hình thức tem phiếu. Đất nước thành cái
chuồng lợn và mỗi người dân ngóc miệng chờ cái ăn như những con lợn đói.
Tiếp đến, cái bẫy thứ hai là kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Lúc này, những kẻ “thập diện mai phục” trong thời tập
trung bao cấp có cơ hội thừa nước đục thả câu, họ toa rập với đảng viên
cao cấp và chính những đảng viên cao cấp bắt đầu hoành hành, tạo thành
những tập đoàn tư bản đỏ ngồi trên đầu nhân dân. Người dân thấp cổ bé
miệng chỉ có một cơ hội duy nhất để gọi là “vươn lên”, đó là tuân phục
và làm theo sự hướng dẫn, sắp đặt của nhóm này.
Với hai cái bẫy này, người dân chỉ có một hướng đi duy nhất: Trở
thành Cộng sản một cách thụ động và khốc liệt nhưng lại chẳng được hưởng
tí quyền lợi, bổng lộc nào từ cái cơ chế ấy. Chung qui, quyền lợi vẫn
thuộc về một nhóm đảng viên cao cấp ăn ở mâm trên cùng, sau đó những cục
xương thừa ném xuống cho đám bên dưới. Và nhân dân mãi mãi ngồi ngóc cổ
nhịn thèm.
Chính cái bầu khí quyển ám ngộn mùi Cộng sản này đã đẩy bất kì một
người nào có nguyện vọng, khao khát bình thường nhất, đó là làm người,
được tự do, sống trong dân chủ, tôn trọng nhau đều bị xem là cá biệt, bị
đẩy ra ngoài lề xã hội và rất có thể bị ném đá tập thể.
Một tù nhân lương tâm sau khi về nhà, hầu như bạn bè, người thân trở
nên xa lánh, và không chừng, nếu có đấu tố, người đó sẽ bị ngay một số
người thân của mình ném đá. Vì vô tình, lý tưởng của người đó đụng chạm
đến miếng ăn hằng ngày của họ. Vì đó là một thứ cơ chế đã được sắp đặt
từ trứng nước. Muốn sống, muốn tồn tại thì phải chấp nhận độc tài và trở
thành Cộng sản một cách thụ động, trở thành con tốt thí của chế độ.
Và, sự sống hay cái chết dưới thời Cộng sản, nghe ra rất buồn cười,
có nhiều người vẫn cứ sống phây phây, nhà cao, cửa rộng, con đàn cháu
đống ra đó nhưng trên thực tế, họ đã chết từ vài mươi năm trước và tất
cả sự sinh sôi của họ chỉ mang tính biểu niệm về xác thối.
Ngược lại, có những cuộc đời đã chết từ lâu hoặc giả đời sống nằm bên
kia song sắt, nhưng sự sống của họ vẫn cứ chói lòa một cách không cưỡng
lại được. Họ càng đau, sinh mệnh của họ càng tỏa sáng. Đó là điểm khá
đặc biệt của khái niệm Sống và Chết dưới thời Cộng sản xã hội chủ nghĩa
này!
Và càng về sau, nhất là trong những ngày gần đây, điều này càng thêm rõ nét.
TƯỞNG NĂNG TIẾN * TUÂN NGUYỄN
Chuyện Ông Tuân Nguyễn
Fri, 04/11/2014 - 02:10 — tuongnangtien
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Trong khi bạn bè thân thích, kể cả máu mủ ruột thịt, người yêu, đều xa lánh tôi, thì Tuân Nguyễn vẫn gắn bó, cưu mang tôi. Mặc dầu lúc này anh là người có chức danh của một cơ quan quan trọng, bắt đầu có tiếng tăm trên thi đàn. Tuân mò tìm được nơi tôi tá túc, thường xuyên mang cho tôi áo quần, tem gạo, phiếu thịt, kẹo, thuốc lá căng tin…
Một lần, tôi hỏi Tuân:
- Cậu hay gặp mình, thế nào cơ quan họ cũng biết. Cậu không ngại à…?
- Có ngại cái con cặc. Đù mạ …!
- Trời… Tuân!
Phải, người đang đứng trước mặt tôi là Tuân Nguyễn. Da mặt vàng úa và hơi phù nề. Cặp kính cận vành đồng rỉ xanh và hai gọng được thay bằng hai vòng dây gai xe. Cái miệng vẫn rộng nhưng không còn tươi nữa. Cặp môi nhợt nhạt vì thiếu máu. Như bừng tỉnh, tôi loạng choạng đứng dậy. Và hai chúng tôi ôm chặt lấy nhau lúc nào không biết. Phút chốc hai gương mặt dãi dầu, bầm dập khổ nạn trần gian, đẫm lệ. Tôi thì thầm qua nước mắt:
- Thế mà đã gần mười năm rồi… Mười năm tốt đẹp nhất của một đời người…
Tuân cười buồn:
- Chắc cậu không tin mình còn có ngày trở về?
- Cậu gầy yếu quá… Người của sách vở, của mộng mơ… Cậu đâu được chuẩn bị để nhận một đòn chí mạng như vậy…
Tuân ngồi xuống cạnh bếp lửa, hơ hơ hai bàn tay gầy guộc, nói:
- Sức thích nghi vô tận cũng là một điều bí ẩn của con người, cậu ạ.
Tôi thổi cơm, rán cá, nấu canh chua. Hai đứa ngồi ăn ngay bên bếp.
- Nghĩ cho cùng, không có cái rủi nào lại không chứa sẵn ít nhiều cái may. Có lẽ nhờ vậy mà con người mới có thể tồn tại trong những hoàn cảnh nghiệt ngã nhất.
- Cậu thử nói cái may cậu tìm thấy trong mười năm qua xem nào, tôi hỏi.
- Trước hết, mình có dịp suy gẫm thêm về cuốn tiểu thuyết mình định viết, vì đã viết được hai chương đầu… Nhưng điều may mắn này mới là quan trọng hơn cả: trong mười năm qua, mình đã sống giữa những con người vô cùng phong phú và phức tạp, chất liệu sống vàng ròng cho các nhà văn… (P. Quán, sđd, tr. 152-153).
- Tuân Nguyễn sinh ra ở đời là để đóng cái vai trò này: khi có ai đó muốn kêu lên ‘Trời ơi, sao mà tôi khổ thế?’, thì nhìn vào Tuân Nguyễn, sẽ thấy mình chưa phải là người khổ.
09/1933 – 04/1983
Có những người / Nếu thêm được mười năm/ Sẽ trở thành thi sĩ /
Nhưng cuộc sống không mỉm cười đến thế/ Đã chết sớm mười năm / Để lại
những tuần trăng chưa đến dộ rằm…
“Việc xảy đến với Tuân… thật đột ngột và bất ngờ. Nó cứ như tai
họa từ đâu bỗng giáng xuống gia đình Vương Thúy Kiều vào năm Gia Tĩnh
triều Minh… Trong một khoảng thời gian ngắn, tai họa đến với ba người
bạn tôi: Tuân Nguyễn, Bùi Ngọc Tấn, Vũ Huy Cương.”
Hà Nhật tâm sự như trên, trong bài viết có tựa là: “Tuân Nguyễn, Kẻ Mộng Mơ.”
Tôi không quen nhưng biết cả ba nhân vật này, cùng với những tai
hoạ “đính kèm” trong cuộc đời (lao đao) của họ. Câu chuyện hôm nay xin
(chỉ) đề cập đến ông Tuân Nguyễn, như một nén hương lòng – gửi
người đã khuất!
Trong một bài viết khác (“Người Bạn Lính Cùng Tiểu Đội”) Phùng Quán kể lại:
Hòa bình lập lại, Tuân ra khỏi quân ngũ, đi học tiếp và tốt nghiệp
Đại học Sư Phạm, làm thầy giáo. Sau đó được điều về Đài phát thanh Tiếng
nói Việt Nam…Còn tôi, lâm vào cảnh khổ nạn văn chương Nhân văn Giai
phẩm phải về tá túc bên bờ hồ Tây, nhập phường câu cá trộm…
Trong khi bạn bè thân thích, kể cả máu mủ ruột thịt, người yêu, đều xa lánh tôi, thì Tuân Nguyễn vẫn gắn bó, cưu mang tôi. Mặc dầu lúc này anh là người có chức danh của một cơ quan quan trọng, bắt đầu có tiếng tăm trên thi đàn. Tuân mò tìm được nơi tôi tá túc, thường xuyên mang cho tôi áo quần, tem gạo, phiếu thịt, kẹo, thuốc lá căng tin…
Một lần, tôi hỏi Tuân:
- Cậu hay gặp mình, thế nào cơ quan họ cũng biết. Cậu không ngại à…?
- Có ngại cái con cặc. Đù mạ …!
(Phùng Quán, “Người Bạn Lính Cùng Tiểu Đội.” Ba Phút Sự Thực. NXB Văn Nghệ: Sài Gòn 2007, 180-181)
Ở Việt Nam mà quan hệ và nói năng “linh tinh” như thế thì (e) sẽ
lắm chuyện lôi thôi. Và rồi Tuân Nguyễn bị lôi thôi thật, lôi thôi
lâu,và lôi thôi lớn. Ông bị bắt vào ngày 21 tháng 10 năm 1964, và được
thả … mười năm sau đó! Sau đó, vẫn theo lời Phùng Quán:
Một buổi vào giữa trưa, tôi đang ngồi đun bếp, thì cửa liếp xịch
mở. Tôi ngẩng lên, ngồi lặng đi một lúc khá lâu. Tôi bật gọi, cổ nghẹn
tắc:
- Trời… Tuân!
Phải, người đang đứng trước mặt tôi là Tuân Nguyễn. Da mặt vàng úa và hơi phù nề. Cặp kính cận vành đồng rỉ xanh và hai gọng được thay bằng hai vòng dây gai xe. Cái miệng vẫn rộng nhưng không còn tươi nữa. Cặp môi nhợt nhạt vì thiếu máu. Như bừng tỉnh, tôi loạng choạng đứng dậy. Và hai chúng tôi ôm chặt lấy nhau lúc nào không biết. Phút chốc hai gương mặt dãi dầu, bầm dập khổ nạn trần gian, đẫm lệ. Tôi thì thầm qua nước mắt:
- Thế mà đã gần mười năm rồi… Mười năm tốt đẹp nhất của một đời người…
Tuân cười buồn:
- Chắc cậu không tin mình còn có ngày trở về?
- Cậu gầy yếu quá… Người của sách vở, của mộng mơ… Cậu đâu được chuẩn bị để nhận một đòn chí mạng như vậy…
Tuân ngồi xuống cạnh bếp lửa, hơ hơ hai bàn tay gầy guộc, nói:
- Sức thích nghi vô tận cũng là một điều bí ẩn của con người, cậu ạ.
Tôi thổi cơm, rán cá, nấu canh chua. Hai đứa ngồi ăn ngay bên bếp.
- Nghĩ cho cùng, không có cái rủi nào lại không chứa sẵn ít nhiều cái may. Có lẽ nhờ vậy mà con người mới có thể tồn tại trong những hoàn cảnh nghiệt ngã nhất.
- Cậu thử nói cái may cậu tìm thấy trong mười năm qua xem nào, tôi hỏi.
- Trước hết, mình có dịp suy gẫm thêm về cuốn tiểu thuyết mình định viết, vì đã viết được hai chương đầu… Nhưng điều may mắn này mới là quan trọng hơn cả: trong mười năm qua, mình đã sống giữa những con người vô cùng phong phú và phức tạp, chất liệu sống vàng ròng cho các nhà văn… (P. Quán, sđd, tr. 152-153).
Số “vàng ròng” qúi báu này, tiếc thay, Tuân Nguyễn không bao giờ
có dịp dùng đến. Ông đột ngột qua đời vì một tai nạn lưu thông. Hà Nhật bùi ngùi kể lại:
Vào bệnh viện Chợ Rẫy thăm Tuân rồi đưa Tuân đến nghĩa địa Gò
Dưa bên Thủ Đức, cúng ‘mở cửa mả’ cho Tuân, những chuyện ấy dồn dập xảy
ra cứ như là không có thật. Buổi chiều ấy, ngồi nói chuyện với Cao Xuân
Hạo về Tuân Nguyễn, Hạo buông một câu nghe mà lạnh người:
- Tuân Nguyễn sinh ra ở đời là để đóng cái vai trò này: khi có ai đó muốn kêu lên ‘Trời ơi, sao mà tôi khổ thế?’, thì nhìn vào Tuân Nguyễn, sẽ thấy mình chưa phải là người khổ.
Có lẽ vì “xót” bạn nên nhà ngữ học Cao Xuân Hạo đã nói (hơi) quá ra
như thế. Chứ những mảnh đời te tua bầm dập, với chung cuộc thê thảm và
lảng xẹc (cỡ) như Tuân Nguyễn – hay chỉ hơn thua chút đỉnh – đâu có nhằm
nhò hay hiếm hoi gì, ở Việt Nam. Nơi mà Phùng Quán mô tả là “chín người – mười cuộc đời rạn vỡ.Bị ruồng bỏ, và bị lưu đầy.”
Và những kẻ đã bị lưu đầy, theo lời Nguyễn Chí Thiện, không mấy ai trở lại:
Trại lính, trại tù người đi không ngớt…
Người về thưa thớt, dăm ba!
Người về thưa thớt, dăm ba!
Nghe mà thấy ghê!
Ông Tuân Nguyễn chỉ là một đại diện tiêu biểu – cho hàng chục triệu
người “đi không ngớt” vào những “trại lính, trại tù,” và cả chục triệu
những “cuộc đời rạn vỡ” khác – ở Việt Nam, thế thôi! Hy vọng là giáo
sư Cao Xuân Hạo đủ bao dung, cho phép kẻ hậu sinh này đổi lại vài chữ
trong câu nói (“lạnh người”) của ông – như sau:
- Người Việt sinh ra ở đời để đóng vai trò này: khi có ai đó muốn kêu
lên “Trời ơi sao dân tộc tôi khổ thế này,” khi nhìn vào Việt Nam sẽ
thấy nỗi khổ của dân tộc mình … cũng chưa đến nỗi nào!
Khổ như thế, đã đành. Chuyện không đành là ở đất nước này khi đề
cập đến những chuyện khốn nạn, tàn ác, bất nhân, vô luân … (đại loại như
những chuyện nát lòng đã xẩy ra cho Tuân Nguyễn) thì mọi người bỗng
dưng nhỏ giọng, thì thào; nếu không, cũng phải vội vàng rào đón hay
che chắn trước sau.
Nghe mà phát mệt!
Thử đọc một đoạn trong bài “Tuân Nguyễn Phận Mỏng Cánh Cò” ( của nhà thơ Vũ Từ Trang) trên tờ Việt Báo:
“Giá như anh không va vấp, không gục ngã, thì anh đã thành đạt
như bao bạn bè trang lứa mê văn chương chữ nghĩa một thời… Cái chết của
anh như một định mệnh. Một tai nạn giao thông với một con người lầm lũi
sống và yêu cuộc sống. Một cái chết của một cánh cò trắng đang bay…”
- Ủa, chớ ông Tuân Nguyễn “va vấp” vào cái (con cặc) gì vậy Trời?
Giúp đỡ bạn bè trong cơn hoạn nạn, thẳng thắn trình bầy quan niệm
sống của mình trước mọi người là cách hành xử bị coi là “va vấp,” đáng
bị bỏ tù – hay sao? Ra tù, với “da mặt vàng úa hơi phù nề và cặp môi
nhợt nhạt vì thiếu máu,” lúc phải ở nhờ, lúc thì sống chui rúc trong một
căn phòng chỉ rộng bằng … chiếc chiếu. Xin đi làm việc thì bị khước từ
vì có “thành tích là một tên phản động.” Vậy mà khi lìa đời thì được ông
thi sĩ đồng nghiệp mô tả đó là “cái chết của một con cò trắng đang
bay.”
- Đụ mạ, “bay” kiểu chi mà kỳ cục rứa hè?
Nếu không “đãi bôi” như vậy thì mọi người cũng chỉ dám buồn rầu,
khe khẽ thở dài, ái ngại đổ thừa cho “số phận” (không may) của Tuân
Nguyễn mà thôi. Ông Hà Nhật đã nhắc lại điệp khúc “mất mùa vì tại thiên
tai” – theo cung cách đó – để kết luận cho bài viết (thuợng dẫn) như
sau:
“Tên thật của Tuân Nguyễn là Nguyễn Tuân, ngẫu nhiên mà trùng tên
với nhà văn tài hoa bậc nhất nước ta. Có lẽ khi đặt tên cho con, các vị
thân sinh của anh không hề nghĩ gì đến chuyện này, vì phải rất lâu sau
khi con trai họ ra đời thì Nguyễn Tuân mới có Vang bóng một thời cho
người đời ca tụng. Tránh việc trùng tên cho người ta khỏi ngộ nhận, hóa
ra Tuân Nguyễn đã tự nhận mình như một sự đảo ngược của số phận: một
người thì có đủ thứ vinh quang, một người thì gặp toàn nghiệt ngã.”
Cái được mệnh danh là “đủ thứ vinh quang” này, theo như chính
Nguyễn Tuân xác nhận, ông gìn giữ được suốt đời là nhờ biết … sợ! Mà sợ
hãi tới cỡ đó, vào thời buổi đó, nghĩ cho cùng, cũng phải (giá) thôi.
Thời phải thế, thế thời phải thế.
Bỉ nhất thời dã.
Thử nhất thời dã.
Thử nhất thời dã.
Hồi đó là một thời. Bây giờ là thời thế khác. Người Việt hôm nay
ăn nói và hành xử (đã) khác xưa chăng? Đ...mẹ, không dám (khác) đâu.
Đọc thử poster giới thiệu Hoàng Hưng, cách đây chưa lâu, của một “nhà thơ đương đại” là biết liền chớ gì:
Tên thật Hoàng Thụy Hưng, con một gia đình trí thức Hà Nội, có thơ
đăng báo từ năm 11 tuổi… Mười tám thi đỗ vào Khoa Văn Đại học Sư phạm Hà
Nội… ông đã bỏ học, tình nguyện lên Tây Bắc…Hai mươi ba tuổi, ông về
dậy văn cấp ba tại Hải Phòng… Về Hà Nội … Hoàng Hưng rẽ sang một hướng
khác: ông không nhìn đời toàn mầu hồng nữa, ông kết bạn với những thành
phần ‘phức tạp’, và đến năm 1982, vì một lý do ‘đáng tiếc’, ông phải
bước vào trại cải tạo.
Nghe cứ y như thể Hoàng Hưng đang là một thanh niên trí thức, lý
tưởng, tràn đầy nhiệt huyết (bỗng) đâm ra đổ đốn, giao du toàn với bọn
đầu trộm đuôi cướp, rồi đến năm 1982 vì “một lý do đáng tiếc” không
tiện nói (kiểu như móc túi hay giựt đồ và bị bắt gặp quả tang) ông phải
bước vào trại cải tạo vậy!
Cái được mô tả là “thành phần phức tạp,” và “lý do đáng tiếc” – khiến
Hoàng Hưng phải vào tù – được chính ông tường thuật như sau, qua RFA:
Cái lý do trực tiếp của nó là khi tôi cầm trong tay tôi bản thảo
tập thơ Về Kinh Bắc của nhà thơ Hoàng Cầm vào năm 1982 khi tôi từ Thành
Phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội nhà thơ Hoàng Cầm có tặng tôi
bản thảo chép tay Về Kinh Bắc…Tôi không nghĩ là nó có vấn đề gì nhưng
không ngờ họ lại bắt tôi và họ bảo tôi lưu truyền văn hóa phẩm phản
động…
Chữ “họ” trong đoạn văn thượng dẫn là một đại danh tự, dùng để chỉ
(hay ám chỉ) cái tập đoàn cộng sản – những kẻ đã hành xử quyền lực một
cách bất nhân và bạo ngược hơn nửa thế kỷ qua – ở Việt Nam. Bao giờ mà
người dân Việt còn “kiêng,” chưa chỉ thẳng vào mặt, và đặt thẳng tên cho
chúng nó (rõ ràng) như vậy thì “họ” vẫn tưởng mình là những người của
“Đảng Cộng Sản Việt Nam Quang Vinh Muôn Năm,” và vẫn còn có thể tiếp
tục tác yêu tác quái, trên đầu muôn dân trăm họ.
Saturday, April 12, 2014
THIỆN TÙNG * GIẤC MỘNG
Giấc mộng
Thiện Tùng
Chập
chờn trong giấc ngủ, tôi mộng thấy cha tôi hiện về. Vẫn như xưa, ông
mặc bộ ka-ki, mang đôi dép cao su, râu tóc bạc phơ, với đôi mắt đăm
chiêu đượm buồn, trông có vẻ nghiêm nghị. Đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên
sau 55 năm kẻ dương gian người âm cảnh.
Trước sự nghiêm nghị của ông, không dám xáp lại gần, đứng cách hơi xa, tôi hỏi:
- Cha bị bịnh gì mà trông vàng võ, xác xơ đến thế?
-
Bịnh già ấy mà, rơ hết, không có phụ tùng thay thế! Nhưng con ơi, nỗi
đau về thể xác là chuyện nhỏ so với nỗi đau về tinh thần.
- Có việc gì khiến cha buồn phiền?
Ông nhìn thẳng vào mắt tôi, lắc đầu nói:
-
Tụi bây quá rồi, ngoài “tứ đổ tường” còn làm những điều sai trái khác
khiến cho lòng dân ai oán. Khi “nợ” dân chồng chất, không còn cách nào
khác, tụi bây buộc phải kinh doanh trên mồ ma xác chết – đem “bàn thờ
tổ” ra thế chấp. Nhưng dân có chịu đâu, vì giá trị “cái bàn thờ” không
tương xứng với khối “nợ” khổng lồ mà tụi bây đã vay trong dân.
- Con chưa hiểu, xin cha nói rõ hơn? – tôi hỏi vặn.
-
Có gì đâu mà không hiểu: Tụi bây làm quá nhiều chuyện bất nhơn, thất
đức khiến cho lòng dân ta thán rồi lấy tao làm cái khiên để che chắn. Đó
là lối “ăn mày dĩ vãng”, hiểu chưa?
- Ôi xời,
tưởng gì, đó chẳng qua là các thế lực thù địch từ bên ngoài xúi giục kẻ
cơ hội bên trong nói xấu chế độ nhằm thực hiện âm mưu “chuyển lửa về quê nhà” ấy mà, hơi đâu mà cha nghe những đồn đại lẻ tẻ ấy.
-
Bộ mầy tưởng tao như như đứa con nít, như hồi còn người phàm xác thịt
chõi gậy, cuốc bộ rồi muốn nói sao nói à! Bây giờ tao đi mây về gió,
những việc làm nên hư của tụi bây tao biết tất.
- Nhưng mà thưa cha, con đã về hưu.
-
Biết rồi. Hưu rồi ôm lấy sổ hưu, hết trách nhiệm hay chối tội được sao?
Những chuyện “bê bối” đâu phải mới xảy ra? Cha nay thuộc “cõi âm”, hoạt
động về đêm, cha lai trần lần nầy để rảo thăm con cháu. Ăn nhiều chớ ở
bao nhiêu, thấy con khỏe, cơ ngơi gói ghém như vầy là cha mừng rồi, chớ
cơ ngơi đồ sộ, nguy nga như thằng Phiêu, thằng Truyền… thì cha buồn lắm.
“Dân giàu nước mạnh”, “Quan giàu nước yếu, dân khổ”, biết chưa?
- Gì chớ những cái “thiệu” ấy con thuộc nằm lòng. Như cha vừa nói, cha “đi mây về gió, việc làm nên hư của tụi con cha biết tất”, thử kể xem? – Tôi muốn thăm dò xem ông biết đến đâu.
-
Đã nói tao đã thuộc “cõi âm”, sống về đêm, gà đã gáy canh tư, trời sắp
sáng, thời gian đâu mà kể lể bao chuyện xảy ra cùng trời cuối đất. Hơn
nữa, những trí thức chân chính cũng đã nói cả rồi, có điều bây bỏ nó
ngoài tai đó thôi.
- Lâu quá rồi cha mới về, chẳng lẽ không có một vài lời chỉ bảo gì với con cháu hay sao?!
- Thôi được rồi, cha chốt lại những chứng tật mà các con cháu thường mắc phải, mong rằng cha nói ít con cháu hiểu nhiều:
+ Phải can đảm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật – không ngụy biện đổ lỗi khách quan.
+ Phải nghe người ta nói chớ đừng chỉ biết nói cho người ta nghe theo kiểu dạy đời.
+ Trời sáng không phải do tiếng gà gáy – đừng “hả miệng chờ sung”, chạy sau xe chỉ hứng bụi.
+
Bỏ đi thói quen giấu dốt, thích khen, ghét chê – khen thì vui cười,
hỉnh mũi; chê thì như bị kim chích đít, đỏ mặt, tìm cách trù dập người
ta.
+ Từ lâu, cha dị ứng nhứt: Làm sai, người ta cật vấn, bí rồi lấy chữ “nhạy cảm” để phớt lờ. Đất nước đã thoát khỏi chiến tranh hơn 30 năm mà cứ nhai đi nhai lại cái điệp khúc “chúng ta đang đứng trước những khó khăn thách thức mới”…
+
Bớt nói dài dòng, bôi trơn, ngụy biện. Chẳng hạn: Không nói thất nghiệp
mà nói “người đến tuổi lao động chưa có việc làm”. Đi làm thuê cho nước
ngoài gọi là “xuất khẩu lao động”. Hàng ế thì gọi “hàng tồn kho chưa
đưa ra lưu thông”. Không gọi “cửa hàng tạp hóa” cho gọn mà gọi “cửa hàng
bách hóa tổng hợp” vừa thừa vừa dài dòng, v.v. và v.v.
Phải bỏ thói ngụy biện, không thì người ta sẽ gọi “ngụy quyền, ngụy quân”
như thời Việt Nam Cộng Hòa thì nguy đấy. Lai rai tao nghe người ta gọi
cán bộ nhân viên công quyền bằng “gã”, bằng “thằng”, đó là dấu hiệu
không lành đó, biết chưa?
- Ba nói không sai,
nhưng phải thông cảm cho tụi con, những tồn tại về mọi mặt ấy do tác
động của những yều tố khách quan, chẳng hạn như: do tàn dư chế độ cũ/
do hậu quả chiến tranh/ do cơ chế/ do thời kỳ quá độ/ do biến cố Châu
Âu/ do chiến tranh vùng vịnh, do khủng hoảng kinh tế thế ….
Tôi chưa nói hết, ông xoa tay ngắt lời tôi, lắc đầu, chấp tay xá tôi mấy cái, khen “dzõi”. Rồi “thăng”!
12/04/2014
T. T.
Tác giả gửi BVN.
CẦM VĂN KÌNH * TRUNG QUỐC LÃNH THẦU, VIỆT NAM NHỊN ĐÓI
13/04/2014
Nhiều dự án tỉ USD vào tay nhà thầu Trung Quốc: Nhập khẩu từ nhân công đến ốc vít
Cầm Văn Kình
TT
- Hàng loạt dự án tỉ USD rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc, chưa rõ chất
lượng đến đâu thế nhưng tỉ lệ nội địa hóa gần như bằng 0% vì “họ đem cả
bulông, ốc vít vào”- nhiều doanh nghiệp, chuyên gia đã kêu lên như vậy
trước Thủ tướng và coi đây là một trong những lý do ngành cơ khí VN khó
phát triển...
Tuyến
đường sắt trên cao Hà Đông - Cát Linh (Hà Nội) hiện đang thi công cũng
do doanh nghiệp Trung Quốc trúng thầu - Ảnh: Nguyễn Khánh
Tại
hội nghị tổng kết mười năm thực hiện chiến lược phát triển ngành cơ khí
VN do Bộ Công thương tổ chức ngày 11-4, Bộ Công thương cho biết đến năm
2012 VN mới đáp ứng được 32,5% nhu cầu về cơ khí trong nước. Hệ quả,
nếu như năm 2006 VN mới phải nhập khẩu 8,7 tỉ USD cơ khí thì năm 2013
nhập khẩu thiết bị cơ khí đã lên khoảng 24,8 tỉ USD.
Trung Quốc trúng thầu nhiều quá...
Máy nông nghiệp cũng gặp khó vì hàng Trung Quốc Ông Trần Ngọc Hà, chủ tịch HĐQT Tổng công ty Máy động lực và máy nông nghiệp VN (VEAM), cũng nêu một khó khăn cho ngành cơ khí đến từ Trung Quốc. Theo ông Hà, các loại máy nông nghiệp sản xuất tại VN chỉ chiếm 15-20% thị phần, trong khi máy Trung Quốc chiếm tới 60%. Loại máy diesel Trung Quốc giá rẻ, chất lượng trung bình do các nhà máy đã hết khấu hao nên theo ông Hà, nếu doanh nghiệp VN giờ muốn đầu tư theo đúng chiến lược phát triển ngành cơ khí sẽ rất khó và sẽ không thành công. |
Phát
biểu ngay sau báo cáo đề dẫn của Bộ Công thương, TS Nguyễn Chỉ Sáng,
viện trưởng Viện Nghiên cứu cơ khí, đã đưa ra bảng thống kê về thực
trạng các nhà thầu ngoại trúng thầu tại VN. Cụ thể từ năm 2003-2013, VN
có 20 dự án nhiệt điện thì 17 dự án đã rơi vào tay nhà thầu nước ngoài,
trong đó 15 dự án là tổng thầu Trung Quốc (như Nhiệt điện Hải Phòng,
Quảng Ninh... - PV). Hệ quả là tỉ lệ nội địa hóa của các nhà máy nhiệt
điện chỉ đạt 7%. Nếu tính riêng các dự án Trung Quốc làm tổng thầu, ông
Sáng cho rằng “tỉ lệ nội địa hóa gần như bằng 0%”!
Trong
khi đó, các nhà máy thủy điện mà nhiều nhà thầu VN được làm tổng thầu
thì tỉ lệ nội địa hóa đã lên đến 30%. Nhờ có đơn hàng, đến nay các doanh
nghiệp VN đã có thể tự thiết kế, chế tạo thiết bị thủy công cho cả các
thủy điện lớn như Sơn La, Lai Châu với tỉ lệ nội địa hóa đến 90%. Vì
vậy, theo ông Sáng, “rõ ràng là do cơ chế, cách chúng ta chuẩn bị, chứ
không phải năng lực”.
Với ngành công nghiệp
nhiều “tai tiếng” về ô nhiễm như ximăng, ông Sáng công bố trong mười năm
qua, VN có 24 nhà máy thì 23 nhà máy do nước ngoài làm tổng thầu EPC
(đảm nhiệm từ tư vấn, mua sắm thiết bị và xây lắp). “Với các dự án nhà
máy ximăng mà doanh nghiệp Trung Quốc làm tổng thầu, tỉ lệ nội địa hóa
cũng cơ bản bằng 0%” - ông Sáng khẳng định.
Dự
án bôxit cũng tương tự, VN đang làm hai nhà máy ở Tây nguyên thì cả hai
nhà máy đều do doanh nghiệp Trung Quốc làm tổng thầu. Và tỉ lệ nội địa
hóa ở hai nhà máy này có khá hơn, nhưng cũng chỉ ở mức... 2%. “Trong khi
đó, theo Công ty Hatch (của Úc) chuyên về nhôm thì VN có đủ năng lực để
thiết kế, chế tạo trong nước tới 50% thiết bị trong ngành này” - ông
Sáng dẫn chứng.
Ông Nguyễn Văn Thụ, chủ tịch
Hiệp hội Cơ khí, cũng dẫn chứng thời ông làm nhiệt điện Phả Lại mở rộng
(bắt đầu từ năm 1998), đối tác Nhật là thầu chính đã giao cho doanh
nghiệp VN làm hầu hết kết cấu thép cho nhà máy này. Tuy nhiên “khi Trung
Quốc sang thì khác, đến cái bulông họ cũng đem vào”...
Thiếu nhất quán
Theo
ông Lê Dương Quang, thứ trưởng Bộ Công thương, Thủ tướng đã có nhiều
chỉ thị về việc sử dụng hàng hóa trong nước với những gói thầu dùng ngân
sách. Ngay cả khi doanh nghiệp nước ngoài trúng tổng thầu EPC, tinh
thần chỉ thị vẫn có thể chia dự án thành các gói thầu riêng như tư vấn,
mua sắm, xây lắp... để doanh nghiệp trong nước có thể tham gia. Tuy
nhiên, ông Quang thừa nhận việc thực thi các quy định còn hạn chế, thiếu
nhất quán, các chủ đầu tư nhiều nơi chưa tạo điều kiện cho nhà thầu
trong nước...
Ông Lê Văn An, tổng giám đốc Tổng
công ty Cơ điện nông nghiệp và thủy lợi, nêu các chỉ thị của Thủ tướng
đã đủ về mặt pháp lý. Tuy nhiên, “có lẽ Thủ tướng hiền quá nên thực hiện
chưa nghiêm”.
Trao đổi với Tuổi Trẻ bên
lề cuộc họp, ông An khẳng định chỉ thị 494/2010 của Thủ tướng căn cứ
Luật đấu thầu, đã cấm các dự án dùng vốn Nhà nước đấu thầu quốc tế nếu
doanh nghiệp trong nước đáp ứng được (trừ khi theo yêu cầu nhà tài trợ
vốn ODA). Dẫn chứng doanh nghiệp mình đã làm thủy điện 3MW Tam Kỳ, Đà
Nẵng, từ nhiều năm trước tuôcbin giờ vẫn chạy tốt, ông An cho rằng việc
hầu hết thủy điện nhỏ hiện nay dùng công nghệ Trung Quốc đã làm hại đến
khả năng phát triển của doanh nghiệp VN. Kiến nghị với Thủ tướng, ông An
đề nghị cần chế tài các chủ đầu tư, bộ ngành không thực hiện nghiêm chỉ
đạo về việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước.
Kim ngạch nhập khẩu cơ khí của VN qua các năm - Nguồn: Bộ Công thương - Đồ họa: V.Cường
Phải sửa ngay
Đánh
giá những vấn đề của ngành cơ khí rất quan trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng đồng ý kéo dài cuộc họp tới tận 13g (từ đầu giờ sáng). Trả lời cụ
thể những vấn đề doanh nghiệp nêu về chủ đầu tư không thực hiện nghiêm
chỉ thị về sử dụng hàng hóa trong nước, Thủ tướng nhấn mạnh cái nào thực
hiện không nghiêm, hay văn bản không sát phải tập trung khắc phục ngay
để đưa cơ khí phát triển nhanh, vững chắc hơn. “Không làm cái này công
nghiệp hóa, hiện đại hóa không thành công” - Thủ tướng nói và yêu cầu bộ
trưởng công thương sau cuộc họp phải dự thảo ngay chỉ thị của Thủ tướng
để giao việc cho các bộ, ngành xử lý các việc cuộc họp nêu.
Bộ
Công thương cũng được yêu cầu rà soát, làm quy hoạch và chiến lược mới.
Thủ tướng nêu hằng ngày VN có khoảng 1 triệu người đánh bắt trên biển,
nay có tàu sắt, dân mừng, cần tiến tới thay thế hết tàu gỗ bằng tàu sắt.
Với
vấn đề doanh nghiệp giàn khoan nêu làm cơ khí trọng điểm nhưng vẫn phải
nộp thuế VAT dù theo quy định được miễn, đến nay giàn khoan đã hoạt
động ba năm vẫn chưa được hoàn thuế, Thủ tướng yêu cầu: phải sửa. Với
các kiến nghị về thuế, Thủ tướng tiết lộ và hỏi: “Như Samsung, ta phải
cho thuế thu nhập doanh nghiệp 10% họ mới đầu tư, tại sao cơ khí không
có cái này?”.
Việc bảo vệ sản xuất trong nước,
Thủ tướng nêu Hoa Kỳ giàu như thế nhưng họ vừa áp các biện pháp bảo vệ
cá da trơn. Ông chỉ đạo các bộ ngành phải rà soát chính sách đấu thầu,
chỉ định thầu, quy định tỉ lệ nội địa hóa trong đấu thầu... để hỗ trợ
doanh nghiệp nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc không đóng cửa cạnh tranh và
phù hợp điều kiện hội nhập. Các chính sách tín dụng, cho vay ưu đãi, Thủ
tướng nhấn mạnh cần đi vào sản phẩm trọng điểm, không tràn lan.
Ôm từ hàng đến nhân công Đã có rất nhiều dự án quy mô hàng trăm triệu USD, thậm chí cả tỉ USD, đã được các nhà thầu Trung Quốc trúng thầu. Và tại nhiều dự án, nhà thầu sử dụng tối đa hàng Trung Quốc và cả nhân công của họ. Những công trình lớn doanh nghiệp Trung Quốc trúng thầu có thể kể: Nhiệt điện Quảng Ninh, Nhiệt điện Hải Phòng, Nhà máy alumin Tân Rai, Nhà máy alumin Nhân Cơ, Nhiệt điện Vĩnh Tân 2, Nhiệt điện Duyên Hải 1, Nhà máy Đạm Cà Mau, đường sắt trên cao Hà Đông - Cát Linh (Hà Nội)... Tổng giá trị các hợp đồng doanh nghiệp Trung Quốc giành được ở VN trong mười năm trở lại đây đã lên đến cả chục tỉ USD. |
C. V. K.
Nguồn: tuoitre.vn
LỜI NÓI THẬT TRƯỚC KHI GIÃ TỪ
Lời thú nhận muộn màng của ông Bộ trưởng
2014-04-11
Bộ trưởng Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Cao Đức Phát nhìn nhận là
Việt Nam không thể làm nông nghiệp như cách vẫn làm từ 30 năm qua mà
phải thay đổi từ trong nhận thức. Ông Bộ trưởng đã nói như thế khi trả
lời chất vấn tại phiên họp ngày 8/4/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ở Hà Nội.
Trách nhiệm của bộ trưởng ở đâu?
Các báo mạng như
Đất Việt, SaigonTimes, Dân Việt, Saigon Giải Phóng và Một Thế Giới đưa
nhiều tin bài về nội dung trả lời chất vấn của Bộ trưởng NN-PTNT. Theo
lời người đứng đầu ngành nông nghiệp Việt Nam, khi tham gia nền nông
nghiệp sản xuất hàng hóa, cạnh tranh quốc tế, mọi người tham gia quá
trình này phải hiểu là làm ra sản phẩm để bán, làm ra những thứ thị
trường thiếu. Theo đó, cần tập trung vào những loại cây trồng, vật nuôi
có lợi thế, Việt Nam không thể trồng táo Tây hay lúa mì, nhưng có tôm,
cá tra…Để thực hiện được chủ trương này phải điều chỉnh cơ chế, chính
sách nhằm khuyến khích người dân áp dụng khoa học công nghệ nâng cao
hiệu quả sản xuất, xây dựng thương hiệu để dù sản lượng ít nhưng giá trị
vẫn cao.
Người lướt mạng đọc báo điện tử có cảm giác ông Cao Đức Phát đang
đóng vai một nhà phản biện thay vì điều hành chính sách trong cương vị
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn. Bởi vì bản thân ông là
tổng tư lệnh ngành nông nghiệp và đáng lý ông phải đề ra những chủ
trương như thế và thực hiện nó sau khi nhậm chức năm 2004. Những gì ông
Cao Đức Phát trình bày ngày 8/4/2014 tại Quốc hội cũng là những gì mà
các chuyên gia cả trong và ngoài chính phủ nói rất nhiều từ nhiều năm
qua và có thể cho rằng chính ông là người không lắng nghe, hay trách
nhiệm còn ở cấp cao hơn ông Bộ trưởng.
Có thể kiểm chứng, nếu dựa trên những thành quả phát triển nông
nghiệp ở Việt Nam nhiều năm qua. Đó là một nền nông nghiệp phát triển
không định hướng, chú trọng về lượng thay vì về phẩm, kết quả là Việt
Nam đứng thứ nhì thế giới về xuất khẩu gạo nhưng nông dân không đủ ăn.
Người trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ có lợi tức trung bình
530.000 đồng một tháng. Đó là mức thấp nhất trong tất cả các ngành nghề ở
Việt Nam và tương đương chưa tới 1/2 mức lương tối thiểu của công nhân
lao động. Số liệu này do chính các Viện nghiên cứu của Bộ NN-PTNT công
bố.
Saigon Times và
Dân Việt Online trích lời Bộ trưởng Cao Đức Phát trình bày tại Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Việt Nam đã phát triển được 102 giống lúa nhưng chất
lượng gạo xuất khẩu vẫn kém. Ông Phát nhận định là bản thân các giống
đó không có đột phá, hơn nữa trong quá trình tổ chức thu mua, thương lái
trộn lẫn các loại lúa với nhau nên dẫn tới chất lượng thấp, giá bán
không cao, khó cạnh tranh.
Người nông dân Việt Nam gánh chịu đủ mọi thiệt thòi
Những vấn đề như Bộ trưởng Cao Đức Phát vừa nêu thì chính bản thân
ông phải là người có trách nhiệm lớn nhất vì ông là người thực hiện
chính sách nông nghiệp phát triển nông thôn của Đảng Nhà nước và Chính
phủ. Trong ba thập niên vừa qua, GSTS Võ Tòng Xuân một nhà nông học có
uy tín sống và làm việc ở đồng bằng sông Cửu Long từng nói những điều
tương tự trên báo chí Việt Nam. Các giới chức có trách nhiệm chẳng hành
động gì, hai Tổng công ty lương thực quốc doanh thống lĩnh 70% thị phần
xuất khẩu gạo không thực hiện vùng nguyên liệu và xa lạ với nông dân.
Các Tổng công ty qua các công ty con của mình chỉ mua gạo nguyên liệu
qua thương lái và chẳng bao giờ mua lúa của nông dân.
GSTS Võ Tòng Xuân nhận định:
“ 38 năm trong hòa bình mà người nông dân vẫn còn nghèo, bây giờ
nông dân khi thu hoạch xong phải ráng kiếm ai mua giùm sản phẩm thu
hoạch của mình ngay…kẻo còn thiếu nợ nó bủa vây, chứng tỏ họ đâu có dành
dụm được bao nhiêu đâu…chính sách thì hô hào người ta trồng khối lượng
lớn để xuất khẩu cho nó oai. Nhưng mà giá rất thấp tại vì mạnh ai nấy
làm, với cái kiểu làm của VFA Hiệp hội lương thực và Vinafood Tổng công
ty lương thực thì gạo mình không có chất lượng. Không phải tại giống của
mình xấu mà tại cách làm của VFA, Vinafood. Họ chỉ mua của mấy người
thương lái, mở bao gạo ra là ba bốn thứ gạo trong đó có hột vàng có hột
xanh làm sao mà ăn, ai mà mua giá cao được. Bên ngoài thì tên gạo Viet
Nam rice, không ai dám đứng ra chịu trách nhiệm, 90 triệu người cùng
chịu trách nhiệm hết, làm sao gạo tốt được. Nói hoài không tới đâu, họ
vẫn tiếp tục làm vậy hoài, tại vì cái nhóm lợi ích nó mạnh quá.”
Trở lại buổi trả lời chất vấn ngày 8/4/2014 tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ trưởng Cao Đức Phát không cho biết khi nào sẽ chấm dứt tình trạng một bao gạo có 5-10 giống trong đó. Theo Saigon Times Online Bộ trưởng Cao Đức Phát bày tỏ hy vọng trong 5 năm tới, ngành lúa gạo sẽ có chuyển biến rõ hơn trong quá trình tổ chức sản xuất theo hướng liên kết nông dân và doanh nghiệp đầu ra. Nhờ đó nông dân có nơi tiêu thụ ổn định và có nơi đặt hàng cho sản phẩm.
Một trong những nhược điểm của gạo xuất khẩu được Bộ trưởng Cao Đức Phát nhìn nhận, không thể có thương hiệu khi thương lái đấu trộn hàng chục giống lúa trước khi xay ra gạo nguyên liệu để bán cho doanh nghiệp.
Một chuyên gia nông nghiệp ở tỉnh An Giang, ông Đoàn Ngọc Phả trình bày ý kiến cá nhân về vấn đề tại sao đến nay vẫn chưa xây dựng được thương hiệu cho gạo xuât khẩu của Việt Nam.
“ Không ai làm thay cho doanh nghiệp được, nhà nước chỉ hỗ trợ về khung chính sách thôi. Yếu kém đầu tiên là từ doanh nghiệp, doanh nghiệp Việt Nam rất yếu kém trong vấn đề xây dựng thương hiệu.Một khi họ có chiến lược xây dựng thương hiệu thì họ mới mua vùng nguyên liệu để bảo đảm ổn định chất lượng. Thành ra vừa qua họ cũng không xây dựng thương hiệu và mua bán trôi nổi, bán bằng thương hiệu người khác không có thương hiệu của mình. Bởi vì họ cũng mua nguyên liệu gạo lức trôi nổi, mua nhiều nguồn rồi chế biến theo đặt hàng của nhà nhập khẩu nhà phân phối của nước ngoài. Nói về cách làm ăn là như vậy, bây giờ nhiều doanh nghiệp cũng đang xây dựng thương hiệu, cũng làm nhãn hàng hóa rồi xâm nhập thị trường. Nhưng thị trường nước ngoài thì khó nên họ xây dựng ở thị trường trong nước. Họ xây dựng thương hiệu nhãn hiệu hàng hóa lưu hành trong nước. Khi khách hàng nước ngoài tới Việt Nam thấy những nhãn hiệu đó mới đặt hàng cho doanh nghiệp làm. Muốn đẩy mạnh ra nước ngoài thì cần có sự hỗ trợ của nhà nước.”
Trao đổi với chúng tôi, ông Đoàn Ngọc Phả nhận định là, bên Campuchia
thành công trong việc xây dựng thương hiệu lúa gạo do làm thương hiệu
khởi đầu với các giống lúa mùa truyền thống dài ngày. Tuy năng suất thấp
nhưng chất lượng cao, ít lẫn giống và có thể “chứng nhận hữu cơ”, tức
sản phẩm hữu cơ không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hay phân bón hóa
học… Theo ông Phả ở đồng bằng sông Cửu Long đã làm tăng vụ nhiều năm
rồi, sử dụng các giống lúa ngắn ngày thích hợp cho thị trường trung bình
thì khó mà xây dựng thương hiệu…muốn làm thương hiệu thì phải có các
vùng lúa nguyên liệu tập trung được tổ chức bài bản. Ông Phả cho biết
một số diện tích lúa mùa ở Cà Mau cũng có thương hiệu Vĩnh Phú được
chứng nhận hữu cơ, sản phẩm này đã được xuất khẩu đi Hoa Kỳ, Anh nhưng
khối lượng còn hạn chế.
Ngành chăn nuôi đang thực sự sống dở chết dở
Theo SaigonTimes, tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày
8/4 các đại biểu nêu vấn đề năm 2013, Việt Nam xuất khẩu 2,95 tỷ USD gạo
nhưng nhập khẩu hơn 3 tỷ USD nguyên liệu thức ăn chăn nuôi như bắp và
đậu nành. Các đại biểu đặt câu hỏi về chuyển dịch cơ cấu cây trồng để
đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.Ngoài ra còn vấn đề ngành thức
ăn chăn nuôi đang bị đang bị các doanh nghiệp nước ngoài thao túng. Bộ
trưởng Cao Đức Phát cho biết Việt Nam chỉ có thể gia tăng diện tích
trồng bắp, chứ đậu nành thì năng suất thấp không thể cạnh tranh. Về chăn
nuôi ông Bộ trưởng nhìn nhận đây là lĩnh vực yếu nhất và cần thời gian
để tái cơ cấu, khuyến khích chăn nuôi khép kín trong trang trại lớn.
Trong dịp trả lời chúng tôi bà Phạm Chi Lan, chuyên gia kinh tế ở Hà Nội từng nhận xét về vấn đề liên quan.
“ Trên lĩnh vực chăn nuôi đã để cho các nhà đầu tư nước ngoài, một
số công ty nước ngoài khống chế thị trường về thức ăn chăn nuôi và từ
đó tạo nên nhiều sức ép đối với người nông dân. Bản thân họ còn tổ chức
chăn nuôi ở Việt Nam biến nông dân thành những người làm gia công cho họ
và đặt mức giá rất thấp.Tất cả những việc đó gây thiệt hại cho người
nông dân, ngành chăn nuôi bây giờ đang thực sự sống dở chết dở và tương
lai hết sức đáng lo ngại.”
Bộ trưởng NN-PTNT Cao Đức Phát đã tại chức được gần 10 năm từ cuối
2004 cho tới nay. Ông đã là người điều hành chính sách nông nghiệp của
Việt Nam trong một thời gian đủ dài để có thể cải cách nền nông nghiệp
lạc hậu của Việt Nam. Nếu nhìn kết quả để đánh giá nhà lãnh đạo thì ông
Cao Đức Phát phải là người chịu trách nhiệm cao nhất. Nhưng người nông
dân có thể không oán trách ông Bộ trưởng mà oán ông chính phủ, ông Đảng
vì cơ chế ở Việt Nam là như vậy.
********
THƠ
HOÀI NIỆM
Anh bảo rằng em biết nói
chi ?
Anh ơi ! Còn biết nói năng gì
Những năm xa cách em còn nhớ
Đến chuyện ngày xưa lúc biệt ly
Kể đã bao thu lá úa vàng
Mỗi mùa tuyết lạnh gió đông sang
Nhớ người năm cũ em đan áo
Gửi đến cho ai những ngỡ ngàng
Muốn nói cùng anh đến cạn lời
Nhưng đành im lặng đấy anh
ơi !
Khơi làm chi nữa bao thương nhớ
Nhớ mãi cho lòng rách tả tơi
Bao lần em muốn viết thành thơ
Câu chuyện tâm tư chẳng xóa mờ
Kể mối tình đầu tan vỡ ấy
Nhưng rồi lại phải cố… làm
ngơ !
Poème vietnamien de THU
HƯƠNG
Traduit en français par LÊ MỘNG
NGUYÊN :
SOUVENIR
Tu me dis que je ne sais quoi dire
Ô mon amour ! Que puis-je te dire
encore ?
Des années de séparation durant, je pensai à
toi
À notre bonheur passé
À l’instant même de nos adieux
Combien d’automnes, combien de feuilles mortes
flétries ?
À chaque saison où le vent froid annonce la venue de
l’hiver
De mon ancien amour je me souvins et je
tricotai
Pour toi et pour moi seul et par la
pensée
Je voulais te dire tout ce qu’il fallait,
absolument
Mais je me suis résigné, ô mon amour, à garder le
silence !
À quoi bon susciter tant de souvenirs du
passé
D’éternels souvenirs qui abritaient mon cœur
lacéré
Combien de fois je voulais transformer en
poésie
Nos histoires par la pensée, ineffaçables à
jamais
Racontant ce premier amour entièrement
brisé
Mais finalement je dois me comporter
Comme s’il m’était tout à fait…
étranger !
Việt Nam ơi sao mà thương mà
nhớ!
David Thiện Ngọc
Đường Cali tôi đi mà nhung nhớ!
Hà-Nội em ơi...có nóng lắm không
em?
Tháng năm (AL) nắng hạ ngã nửa bậc
thềm.
Công viên Bờ Hồ-Nghĩa Đô giờ có
mát?
Cho những trái tim cùng hoà vang tiếng
nhạc.
Thắp lửa Nhân Quyền đã tắt lịm từ
lâu.
Tắt từ đâu? Lịm từ đâu?
-Từ khi đất nước nhuộm màu...
... "Mùa thu năm ấy" mái đầu còn
xanh.
Tôi chưa biết tuổi anh!
Để biết ngày nào anh mất mác.
Cháu chưa biết tuổi bác.
Để biết ngày bác phân ly.
Mang nỗi sầu bi...
Chia tay cùng quyền sống.
Bác về trôi theo mộng...
Đêm oà ra để ngắm một dòng sông.
Buồn mênh mông...nhìn hoa trôi bèo
dạt.
Ngày bác nhìn đoàn quân kéo về tan
tác...
Từ Bất Bạt-Sơn Tây.
Rồi trăn trở tháng ngày...
"Đêm nghe tiếng nhà máy".(*)
Lòng ngay ngáy khát khao...
Đêm nhìn vạn ánh sao...
"hít trộm từng hơi thở!"
Sáng tinh mơ...
Nghe "Tiến quân ca"(*) sao thấy rũ bóng
cờ?
Bác thẩn thờ viết mấy dòng thơ:
-"...Ta về gác chiếu chăn gào tự
tử..."(**)
Hé cửa nhìn "Phường Dạ Lạc chiếc xe xác đi qua"
(*)
Chết lịm trên lời ca...
Của chính mình.
x x x
Sài Gòn ơi! Sao lại gọi Hồ chí
Minh?
Để hôm nay kẻ còng người trói.
Chị ơi sao không nói!
Cô ơi sao uất nghẹn lặng thinh?
Em ơi! sao em đứng một mình?
-Vì Dân Chủ, Hoà Bình mà gia đình em kẻ còn
người mất!
Giờ cô độc tựa vào hàng rào sắt.
Ngăn lối về của Dân Chủ Tự Do.
Này em ơi! sao em đứng co ro!
Trong cơn mưa chiều tháng năm tầm
tã?
-Anh ơi! em không ước mong gì cả...
Trả tự do cho bạn mặc áo No-U.
Mới kết thân một chiều.
Bên góc đường "Tự Do" nhìn qua dinh "Độc
Lập".
Mây chiều hôm nay bỗng dưng xuống thấp.
Cho đất trời được gần nhau,
Nước từ đâu?-Đôi mắt thấy cay xè!
Dập dìu xuôi ngược ngựa xe...
Trời Tây đau đáu nhớ về phương
Đông.
Tôi xin gói vạn đoá hồng.
Gởi về quê hương-cùng các chị, các em đang đứng
đó!
Việt Nam ơi! Sao mà thương mà
nhớ...
Lời nguyện cầu cho đất nước hồi
sinh.
David Thiên Ngọc
(*) các tác phẩm của nhà thơ Văn Cao (Chiếc xe
xác qua phường Dạ Lạc)
(**)Thơ Văn Cao.
SA CHI
LỆ
KIỀU PHONG
(Toronto)
Nước mắt cũng có hai công
dụng
Giống như rượu, người ơi !
Dục phá thành sầu duy hưũ tưủ, đúng rồi
Không có rượu làm sao giảm cơn sầu đây hả ?
Họp mặt, lễ lạc nếu chỉ uống Trà Chay, kém vui
Hơi men giúp kéo tình người thêm thân mật, phải không người ?
Cha con, anh em , bè bạn càng thêm thân thiện, cởi mở
Nhưng ở mức độ còn giữ được đạo nghiã, không đi quá xa
Mượn rượu làm bậy đại kỵ đó nha
Mất tư cách, gây tổn thương thì tệ lắm
Đau khổ ngập lòng phải để giọt lệ tuôn ra
Giúp giảm bớt nỗi đau, u uất tuôn trào
Sau đó cảm thấy chút thoải mái, vơi bớt phiền não
Tha hương ngộ cố tri vui sướng biết dường nào ? !
Cách biệt ba , bốn chục năm tưởng không còn gặp lại nhau
Bất ngờ dòng đời đưa đẫy tương phùng, diễm tuyệt !
Ôm chầm lấy nhau cảm động tuyệt vời, lả chả lệ rơi.......
Tình mẫu tử cách biệt góc biển, chân trời
Nay tái ngộ mừng vui làm sao cầm được nước mắt tuôn tràn sung sướng
Lệ và tưủ là hai mặt cuả kiếp người
TƯỦ PHÙNG TRI KỶ THIÊN BÔI THIỂU
THOẠI BẤT ĐẦU CƠ BÁN CÚ ĐA
Rượu gặp Tri Kỷ uống ngàn chén vẫn còn thiếu
Nói chuyện không hợp nưả câu cũng quá thưà
Con người ai cũng đến lúc nào đó phải đi xa
Lưu luyến, tiếc thương người sống có Tình, có Nghiã, lệ sa.......
Chính Đường Tăng được vị cao nhân Nhập Vai nhìn góc cạnh gần gủi kiếp người
Giây phút đêm cuối cùng nước mắt chảy ra ấm, nóng lại
Ranh giới Cõi Người và Phật khác nhau
Cũng còn chút luyến lưu, bịn rịn, thương đau
Nếu ai biết sống cho ra NGƯỜI vẫn thú
Đó là những gì cả đời ấp ủ.
Giống như rượu, người ơi !
Dục phá thành sầu duy hưũ tưủ, đúng rồi
Không có rượu làm sao giảm cơn sầu đây hả ?
Họp mặt, lễ lạc nếu chỉ uống Trà Chay, kém vui
Hơi men giúp kéo tình người thêm thân mật, phải không người ?
Cha con, anh em , bè bạn càng thêm thân thiện, cởi mở
Nhưng ở mức độ còn giữ được đạo nghiã, không đi quá xa
Mượn rượu làm bậy đại kỵ đó nha
Mất tư cách, gây tổn thương thì tệ lắm
Đau khổ ngập lòng phải để giọt lệ tuôn ra
Giúp giảm bớt nỗi đau, u uất tuôn trào
Sau đó cảm thấy chút thoải mái, vơi bớt phiền não
Tha hương ngộ cố tri vui sướng biết dường nào ? !
Cách biệt ba , bốn chục năm tưởng không còn gặp lại nhau
Bất ngờ dòng đời đưa đẫy tương phùng, diễm tuyệt !
Ôm chầm lấy nhau cảm động tuyệt vời, lả chả lệ rơi.......
Tình mẫu tử cách biệt góc biển, chân trời
Nay tái ngộ mừng vui làm sao cầm được nước mắt tuôn tràn sung sướng
Lệ và tưủ là hai mặt cuả kiếp người
TƯỦ PHÙNG TRI KỶ THIÊN BÔI THIỂU
THOẠI BẤT ĐẦU CƠ BÁN CÚ ĐA
Rượu gặp Tri Kỷ uống ngàn chén vẫn còn thiếu
Nói chuyện không hợp nưả câu cũng quá thưà
Con người ai cũng đến lúc nào đó phải đi xa
Lưu luyến, tiếc thương người sống có Tình, có Nghiã, lệ sa.......
Chính Đường Tăng được vị cao nhân Nhập Vai nhìn góc cạnh gần gủi kiếp người
Giây phút đêm cuối cùng nước mắt chảy ra ấm, nóng lại
Ranh giới Cõi Người và Phật khác nhau
Cũng còn chút luyến lưu, bịn rịn, thương đau
Nếu ai biết sống cho ra NGƯỜI vẫn thú
Đó là những gì cả đời ấp ủ.
KIỀU PHONG (Toronto)
XHCN. THẲNG CONG !
Giải tỏa giao thông lợi của dân,
Đường cong thẳng quá thiệt nhà "quân",
Người người mất đất là theo luật.
Bảo vệ nhà cao liệt sĩ cần !.
Chiến sĩ ở đâu đều có lý...
Xây cong bẻ quẹo được yên phần.
Xe đi thẳng quá là thiêu " tốt ", ( Tướng quân. )
Tốn của tiền sâu thủ cá nhân. ( Sâu thuế dân đóng. )
PHANNGY
Westminster,CA. 2014
Saturday, April 12, 2014
NGUYỄN BÁ CHỖI * NƯỚC SƠN CỘNG SẢN
Gỗ đã xấu, Sơn lại tồi
Nguyễn Bá Chổi (Danlambao) - Tục ngữ Việt Nam có câu “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”.
Gỗ làm nên nhà nước CHXHCNCC xấu quá, coi không được chút nào nên cần
phải vận dụng tới Sơn, nhưng, thiên bất dung gian, “đảng ta” lại gặp
phải thứ Sơn quá tồi, chưa kể nặng mùi.
Theo dõi một số “thành tích” phát ngôn khi mang loa đi “hoà giải hoà hợp”
của Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng Ngoại giao Hán Ngụy trong thời gian
qua, người ta không thể không nhận ra bộ mặt ngày càng tèm lem bèm nhèm
của cái gọi là Nờ Cu 36 tức Nghị Quyết 36 mà Sơn được giao phó trách
nhiệm thực hiện.
Sơn hô hào kêu gọi “hoà giải hoà hợp” mà lại vu khống nạn nhân xuống đường biểu tình đòi dân chủ tự do nhân quyền cho đồng bào mình trong nước là “vì đồng tiền, có những người chỉ vì nhu cầu cuộc sống, có những người chỉ vì có một chút thu nhập thêm mà tham gia những hoạt động đó”(Sic)
Làm đến thứ trưởng ngành ngoại giao là bộ mặt của một nước xấp xỉ trăm
triệu dân mà ăn nói thật là hàm hồ, thiếu giáo dục. Sơn nói mà không
biết nhà nước Hán Ngụy của Sơn đang sống sót được đến hôm nay là nhờ “quà Mỹ” của những người biểu tình ấy gửi về hàng chục tỷ USD mỗi năm; Sơn có biết đem món “quà Mỹ” năm 2013 này là 18 tỷ Mỹ Kim đặt cạnh Tổng sản lượng quốc gia của nước CHXHCNCC để biết ai mới đích thực là kẻ “cần chút thu nhập thêm”.
Sơn hô hào kêu gọi “hoà giải hoà hợp” mà lại phân biệt đối xử một cách trắng trợn như vầy: “Trong
chuyến đi lần này, chúng tôi cũng kế thừa truyền thống đại đoàn kết của
các chuyến đi trước là mời đại diện sáu tôn giáo lớn tham dự, sẽ tổ
chức các lễ cầu siêu ở đảo Trường Sa Lớn và trên đường đi cho những anh
hùng liệt sĩ của Quân đội nhân dân VN đã hi sinh trong quá trình bảo vệ
biển đảo. Chúng ta cũng ghi nhận sự hi sinh của những người lính VN cộng
hòa trong lực lượng hải quân đã bảo vệ Hoàng Sa năm 1974.”(Sic)
Sơn gọi những anh bộ đội của đảng không được phép bắn trả lại quân Tàu, chỉ đứng phơi mình chịu trận là “anh hùng liệt sĩ”, trong khi đó lại gọi quân đội VNCH, những người đã bắn chìm tàu giặc, là “những người lính”.
Sơn hô hào kêu gọi “hoà giải hoà hợp” mà khi trả lời phỏng vấn
trên truyền hình Phố Bolsa TV lại mở mồm lật lọng với những gì ông
Thượng nghị sĩ Ngô Thanh Hải vừa nói trước đó với Sơn ở Canada.
Sơn hô hào kêu gọi “hoà giải hoà hợp” mà lại tự hiếp dâm miệng Sơn thế này: “Chúng ta cũng tưởng nhớ và thương tiếc những người dân VN vô tội đã ra đi và bị chết trong cuối thập kỷ 1970, đầu thập kỷ 1980. Chúng tôi coi những thuyền nhân tử nạn là những nạn nhân chiến tranh, ra đi vì bị tuyên truyền, kích động bởi thông tin một chiều, bởi khó khăn về đời sống kinh tế và nhiều nguyên nhân khác, vậy thì hãy cầu siêu để linh hồn họ được siêu thoát trên vùng biển quê nhà..”(Sic)
Sơn “coi những thuyền nhân tử nạn là những nạn nhân chiến tranh”.
Có người bảo Sơn có cái mặt của con Lợn, người mổ (keyboard) thì thấy
Sơn có cái óc của nhà Trư. Thời người Việt đổ nhào ra biển đông “thà chết còn hơn sống với CS”,còn đâu nữa chiến tranh. Nạn nhân của chiến tranh là những
“Xác người nằm trôi sông
Phơi trên ruộng đồng
Trên nóc nhà thành phố
Trên những đường quanh co.
Xác người nằm bơ vơ
Dưới mái hiên chùa
Trong giáo đường thành phố
Trên thềm nhà hoang vu.
Mùa xuân ơi xác nuôi thơm cho đất ruộng cày
Việt Nam ơi xác thêm hơi cho đất ngày mai
Đường đi tới dù chông gai
Thì quanh đây đã có người.
Xác người nằm quanh đây
Trong mưa lạnh này
Bên xác người già yếu
Có xác còn thơ ngây.
Xác nào là em tôi
Dưới hố hầm này
Trong những vùng lửa cháy
Bên những vồng ngô khoai.” (TCS- Hát cho những xác người)
Do “người anh em” gây ra, điển hình là vụ thảm sát đồng bào Huế dịp Tết Mậu Thân, năm 1968.
Sơn lu loa rằng những người vượt biển vượt biên “…ra đi vì bị tuyên truyền, kích động bởi thông tin một chiều” mà quên đi rằng dưới chế độ CS, “tuyên truyền, kích động bởi thông tin một chiều” là độc quyền của đảng.
Láo với người sống như thế, Sơn còn đểu với người chết khi cả gan nói "vậy thì hãy cầu siêu để linh hồn họ được siêu thoát trên vùng biển quê nhà”.
Đúng là mồm “nam mô” mà tay cầm búa tạp đập mồ mả nạn nhân. Sơn không
nhớ ai đã áp lực chính phủ các nước Nam Dương, Mã Lai đập phá bia tưởng
niệm thuyền nhân bị chết trên đường vượt biển.
Bia Tưởng Niệm Thuyền Nhân đã bị phá ở Galang (ảnh nhận ngày 16/5/2005) |
Những “thành tích” của ngài thứ trưởng ngoại giao nước CHXHCNCC thì
nhiều vô kể, nhưng chẳng mảng nào ăn với mảnh nào, thế nên Sơn càng tô
càng làm bầy hầy thêm bộ mặt vốn đã nham nhở của cái gọi là “Hoà giải Hoà hợp Dân tộc”.
DƯƠNG THU HƯƠNG * SƯ QUỐC DOANH
Sư Quốc Doanh
Dương Thu Hương, C/N 2011/05/21
Sau khi trả lời ông Đinh Ngọc Ninh bỗng nhiên tôi nhận được một loạt thư, hỏi :
- Bà có phải Phật Tử không ? Chúng tôI thấy nhiều quan điểm trong bài viết của bà rất gần với lý thuyết Đạo Phật.
- Nếu điều chúng tôi nghi ngờ là đúng, tại sao một người đấu tranh cho dân chủ lại có thể là Phật Tử ? ...
- Nếu điều chúng tôi nghi ngờ là đúng, tại sao một người đấu tranh cho dân chủ lại có thể là Phật Tử ? ...
Câu trả lời của tôi là : - Tại sao không ?
Đạo Phật không biên giới. Đó là một tôn giáo thẫm đẫm tính đạo đức và
triết lý. Đạo Phật cũng như bất cứ tôn giáo nào khác đều tồn tại và
phát triển thông qua hằng hà sa số các cá nhân. Bất cứ cá nhân nào cũng
có một gốc rễ văn hoá, cũng mang một nhãn hiệu bản thể gọi là quốc tịch.
Do đó khi trong một con người cùng tồn tại song song hai tình yêu lớn :
tôn giáo và tổ quốc, người đó ắt phải tranh đấu cho hai kỳ vọng, hai
niềm tin.
Vì thế, câu trả lời của tôi là : Tại sao không ?
Tuy nhiên, tôi chỉ là Phật Tử theo cách của riêng tôi. Tôi không đi
lễ chùa. Chẳng phải là cố tình tìm một cách tồn tại độc đáo nhưng vì tôi
không có khả năng thoả hiệp, cho dù đó là một sự thoả hiệp dễ chịu
nhất.
Cách đây chừng 17, 18 năm một ngày Xuân tôi đi viếng cảnh chùa. Ngôi
chùa đó nằm gần phủ Tây Hồ. Trên đường tới phủ rẽ tay phải chừng non
trăm mét là tới. Tôi không còn nhớ rõ tên chùa mặc dù đó là nơi trước
khi xảy ra sự việc năm nào tôi cũng tới, khoảng một hai tháng một lần,
siêng năng nhất là mùa xuân và mùa Thu. Đó là ngôi chùa cổ còn may mắn
sót lại sau những cơn đốt phá đình chùa đền miếu theo chủ trương "tiêu
diệt tàn dư phong kiến" của nguỵ quyền cộng sản. Không có gì đặc biệt ở
ngôi chùa ấy, ngoài một mảnh vườn nhỏ vừa trồng đào vừa trông mai. Có lẽ
cảnh tượng thân ái của những cây đào và cây mai chen vai, thích cánh
cuốn hút tôi vào mùa Xuân và khi mùa Thu đến, đám cành trần trụi khẳng
khiu vươn lên trong lặng lẽ cũng mang lại một vẻ đẹp u sầu và nghiêm
cẩn, vẻ đep ta thường gặp ở mọi ngôi chùa cổ xứ Bắc.
Trưa hôm đó, tôi qua cổng chùa đi vào ngôi nhà ngang. Vừa đặt chân
lên bậc tam cấp tôi chứng kiến một cảnh tượng không tương hợp chút nào
với chốn từ bi : Trên tấm phản gỗ mốc, sư cụ bà ốm nằm còng queo, bát
cháo ăn dở ở một góc phản khô đét lại. Nhà "sư nữ" ngoại tam tuần mắt
long sòng sọc, tay nắm cổ người bệnh lắc, miệng rít lên :
- Mày chết đi, mày chết ngay đi cho người ta nhờ ! ...
- Mày chết đi, mày chết ngay đi cho người ta nhờ ! ...
Sư cụ đã quá yếu không động cựa nổi, cái đầu lắc lư ngật ngưỡng như quả bưởi trong tay người đàn bà trẻ hung hãn :
- Mày chết đi ...
- Mày chết đi ...
Tôi định lui ra nhưng cô ta đã nhìn thấy tôi. Quá muộn cho cả đôi
bên. Hẳn cô ta không ngờ có kẻ đột nhập vào "ngang hông" bởi thông
thường khách thập phương phải qua sân đi vào chùa chính. Cô ta không
biết rằng tôi quen mọi ngõ ngách và thường đi tắt qua nhà ngang vào chùa
sau để hầu chuyện sư cụ. Không thể mở miệng "mô phật" như lần trước cô
ta ném cho tôi một cái nhìn giận dữ và thách thức rồi ngoay ngoảy quay
đi. Tôi ngồi xuống phản với sư cụ. Cụ không mở mắt nổi và giọng nói đã
đứt quãng nhưng hoàn toàn minh mẫn. Đó là người đã xuống tóc từ thời
nguỵ quyền 1945 chưa thiết lập, đã duy trì và tu tạo ngôi chùa này qua
mọi thăng trầm của thời gian. Nhưng cụ không có mảy may quyền hành để
lưu giữ các chân tu ở lại, thay cụ chủ trì. « Nhân sự » do « bên trên »
đưa xuống.
Vậy cái gì là « bên trên » ?
Quyền lực nào áp chế những người tu hành và thả lũ lợn bẩn thỉu vào
khắp chùa chiền xứ sở ? ... Chẳng có gì bí mật cả, "bên trên" là A 25
Cục bảo vệ văn hoá thuộc Tổng Cục 1 Bộ Nội Vụ. A 25 có nhiệm vụ đào tạo
sư sãi để « yểm » Hội Phật Giáo Việt Nam, để trấn giữ hệ thống chùa toàn
quốc. Không ai quên rằng chính nhà nước cộng sản đã dấy lên cơn bão
kinh hoàng nhằm tàn phá đình chùa, đền miếu thậm chí đào mồ hốt mả chúng
sinh, tiêu diệt tất cả những gì mà họ cho là "tàn tích của chế độ phong
kiến".
Trong một thời gian dài, những người cộng sản muốn xoá sạch tất
cả các tôn giáo, bắt chúng sinh thờ vị thần duy nhất mắt xanh mũi lõ tên
là Karl Marx và đám tông đồ của ông ta. Nhưng để xoá đi một đức tin và
thay thế vào một đức tin khác không dễ dàng như họ tưởng. Và không phải
bất cứ lúc nào họng súng cũng đem lại những kết quả mong muốn. Thời gian
không ủng hộ họ. Bức tường Berlin sụp đổ và Lénine vĩ đại của họ sụp đổ
theo. Dân Nga xích cổ tượng ông ta kéo lê trên bùn. Đám tín đồ phương
Đông đứng chơ vơ không biết từ nay "người cầm lái vĩ đại" của họ sẽ là
ai ? ... Trong lúc đó dân chúng ào ào dựng đình, cất chùa. Khắp nơi miếu
mạo, đền chùa, lăng tẩm dựng lên theo trí nhớ. Nguỵ quyền cộng sản có
thể truy bức tàn sát chúng sinh, cướp bóc phá huỷ tài sản của họ, nhưng
trí nhớ và niềm tin là những thứ không thể bắn thủng bằng các loại đạn.
Và như thế, giờ đây dân chúng đã xây lại tất cả những gì đã từng bị họ
tàn phá, nếu không nói là còn nhiều hơn. Nhu cầu tâm linh hoá ra cũng là
một nhu cầu sinh tử của kiếp người. Trước tình hình này A 25 trở nên
quan trọng hơn trong vai trò « bảo vệ nền chuyên chính ».
Nhiệm vụ của
họ là « khống chế hội Phật Giáo » biến chùa chiền toàn quốc thành hệ
thống pháo đài của quyền lực, rình mò theo dõi tư tưởng dân chúng và ...
điều này nữa, các tín đồ của Marx không quên : tận thu nguồn lợi béo bở
từ đám chúng sinh « mê tín » kia. Vậy là đội quân « sư nhà nước » được
hình thành. Nguồn đào tạo chính là C 500 (đại học ngành an ninh). Thêm
nữa, sinh viên tuyển lựa từ các đại học khác như Tổng hợp, Sư phạm,
Ngoại ngữ ... có thành phần cơ bản (lý lịch đáng tin cậy) được vũ trang
bằng lý thuyết giai cấp của Marx-Lénine và một thứ chủ nghĩa duy vật hạ
đẳng. Sau đó, lớp người này được « tráng men » bằng lý thuyết Đạo Phật
và trước hết các phương pháp niệm kinh, hành lễ để « vào nghề ».
Như thế nhà nước cộng sản đã tạo nên một đội ngũ « tôi tớ trung thành
» được quyền thoả mãn mọi nhu cầu vật chất và nhục thể dựa trên sự đầu
cơ trục lợi « những khát vọng tâm linh » của dân chúng. Các ông sư bà sư
áo quần phấp phới cưỡi xe vù vù đi "họp kín". Họp kín ở đây tức là họp
"giao ban" ngành dọc A 25. Họ báo cáo rành mạch mọi thành tích. Riêng
những cọc tiền thu được từ các hòm công đức là "không thể rành mạch" vì
các sư còn phải mang về quê xây nhà tầng và lo cho các con học đại học
trong nước và ngoài nước. Sư hành nghề ở Thái Nguyên, Hà Bắc thường có
quê quán gia thất tại Thanh Hoá, Nam Định và ngược lại ... So với các
nghề khác trong Bộ Nội vụ, "nghề làm sư" là béo bở, chỉ thua kém « Cục
buôn lậu ma tuý » thôi.
Cả một bộ máy lừa bịp vận hành nghiễm nhiên và ngang nhiên dưới ánh mặt trời, trước mắt dân chúng.
Dân chúng, tuy thường xuyên phải cúi mặt nhẫn nhục cam chịu, đôi khi
cũng vùng lên tranh đấu, đòi đuổi sư nhà nước, giành chùa cho chân tu.
Vụ biểu tình của các tín đồ chùa Láng Hà Nội cách đây ba năm là một ví
dụ. Trong tối hôm đó, công an đã bắt giam trên một trăm tín đồ.
Vậy tôi xin trở lại lý do khiến tôi không đi lên chùa từ gần hai thập
kỷ nay, sau kỷ niệm đau buồn với sư cụ tôi không còn muốn nhìn thấy một
lần nữa bọn « thầy chùa đểu ».
Nhưng chưa hết.
Tôi không đi lễ chùa cũng còn vì chùa chiền giờ đây đầy rẫy bọn « đao
phủ » đi « đánh quả » thần, phật. Gọi là « đao phủ » vì chính lũ người
đó trước đây đã ra lệnh phá đình chùa, đuổi sư sãi, vặt cổ vặt tay tượng
phật làm củi ... giờ đây chúng lại xì xụp hương khói hơn tất thẩy mọi
người.
Vì sao có sự đổi hướng quay chiều ? ...
Tôi sẽ trả lời tường tận nhưng trước hết, để tránh rơi vào lối ám chỉ chung chung tôi xin nêu dẫn chứng :
- Một là, những người dân Huế cỡ trung niên hẳn chưa quên câu ca này :
- Một là, những người dân Huế cỡ trung niên hẳn chưa quên câu ca này :
Bùi San cùng với Trần Hoàn
Hai thằng ngu ấy phá đàn Nam Giao
Hai thằng ngu ấy phá đàn Nam Giao
Bùi San : bí thư tỉnh uỷ. Trần Hoàn : trưởng ty văn hoá. Công trình
chung của họ là huỷ diệt một di tích lịch sử nơi xưa kia các vua Nguyễn
tế Trời Đất và tiên vương. Sau này, ông Trần Hoàn ra làm bộ trưởng Bộ
Văn hoá, vợ con ông ta xem bói từ Nam ra Bắc, khấn lễ mọi nơi, đặc biệt
lễ hậu là Bia Bà để cầu cho ông được"vững vàng". Riêng tôi, tôi nhìn
thấy ông nhiều lần cắp cặp đứng trước cổng nhà các vị "Bộ Chính trị".
Quả là một cuộc hiệp đồng tác chiến ; vợ con ông đi đút lót "thần, phật"
còn ông đi hầu hạ các "thánh sống" để ông được duy trì thêm 4 năm trên
ghế bộ trưởng vì ông đã già lại quá nhiều khiếu kiện, cấp trên của ông
đã chấm ông "vào sổ hưu".
- Hai là, thời kỳ Lê Khả Phiêu làm tổng bí thư Đảng, ngoài chiến dịch
"Thanh Hoá hoá bộ máy cầm quyền" ông ta đã tranh thủ đào bới ngân khố
quốc gia để xây dựng lại, mở mang hoành tráng đền thờ Lê Lai, tin tưởng
đó là tổ tiên trực tiếp, là thần hộ mạng cho mình.
- Ba là, vài năm gần đây nhiều người họ Trần vênh vang tuyên bố rằng
họ Trần sắp sửa bước vào thời kỳ "đại phát" vì Trần Đức Lương vừa cho
xây khu mộ cổ họ Trần tại Thái Bình. Khu mộ này sẽ được xây theo thế
"rồng phục" sao cho ít nhất, chín đời họ Trần sẽ liên tục "làm vua" ...
& …
Theo logic, ngày nào chế độ độc tài này còn tồn tại thì tất thảy bọn
cầm quyền họ Miêu họ Thử họ Ngưu họ Mã ... sẽ lần lượt vét ngân khố quốc
gia để xây dựng mồ mả đền miếu cho riêng dòng tộc của chúng với một chủ
đích hoặc nguỵ trang hoặc lộ liễu : Duy trì quyền lực.
Quyền lợi, đó là căn nguyên sự quay chiều đổi hướng của kẻ cầm quyền.
Marx và Lénine hết sài được thì quay sang "đầu tư, đánh quả"thần, phật.
Hạng người ti tiện, lòng tham ngùn ngụt như vậy làm gì có "tâm hồn tôn
giáo" ? ... nhất là một tôn giáo có quá nhiều yêu cầu đạo đức, cấu trúc
trên tinh thần khắc kỷ như Đạo Phật ? ... Không phải vô cớ mà so với đạo
Hồi và Thiên Chúa giáo, Đạo Phật có ít tín đồ hơn. Con đường dốc khó
trèo. Con đường dốc ấy làm sao tương hợp được với bọn cởi áo đao phủ
khoác áo cà sa điềm nhiên như diễn viên thay trang phục sân khấu, không
một chút ngượng ngùng, không mảy may hối tâm, không một lần thành khẩn
trước tha nhân ?
Lẽ ra, nguỵ quyền CSVN phải xin lỗi dân chúng một cách công khai, một
cách thanh thật, một cách nghiêm khắc vì tội ác phá đền chùa lăng miếu,
đào bới san ủi mồ mả tiền nhân của chúng sinh. Nếu họ cải tâm họ đã
phải làm điều đó trước khi đặt chân lên thềm những đền chùa mà dân chúng
gom góp xây dựng lại.
Nhưng cái ngã mạn của kẻ cầm quyền khiến lương tâm họ mù tối. Họ
không cần xin lỗi ai bởi vì họ tự nhận là "Đảng thần thánh và vĩ đại".
Và vì "thần thánh và vĩ đại" họ đã thản nhiên làm cái việc mà cổ nhân
từng cảnh báo :
“Thế gian có mặt mũi nào
Đã nhổ lại liếm làm sao cho đành".
Đã nhổ lại liếm làm sao cho đành".
Tôi chuyển sang mục thứ hai : Tôi là Phật Tử theo kiểu của riêng tôi.
Không đi lễ chùa đã đành, tôi cũng không tin tuyệt đối vào lòng từ bi.
Đối với tôi, lòng từ bi không thể độc hành. Lòng từ bi phải bước song
song với một trí tuệ sáng suốt và khả năng chiến đấu chống lại điều ác.
Khi lòng từ bi không được rọi chiếu dưới ánh sáng trí tuệ, nó dễ dàng
đưa ta đến tai hoạ. Chỉ cần nhớ lại tích “Đường Tam Tạng đi lấy kinh"
là đủ. Đã bao nhiêu lần vị sư phụ này mắc lừa bọn yêu quái, niệm chú để
xiết chặt vòng kim cô làm Tôn Ngộ Không đau đớn vật vã điên cuồng. Và
cũng chớ nên quên rằng bao nhiêu lần ông ta mắc lừa, bấy nhiêu lần Tôn
Hành Giả đi giải cứu.
Khi thiếu khả năng chiến đấu chống lại cái ác, lòng từ bi của chúng
ta biến thành chất dầu nhờn, bôi trơn cỗ máy nghiền của loài ngạ quỷ và
chính cỗ máy này sẽ nghiền nát chúng sinh. Một dân tộc hiền hoà như dân
tộc Tây Tạng đã mất nước vì thiếu khả năng chiến đấu. Quân lính TC không
chỉ xâm chiếm, tàn phá đất nước Tây Tạng mà còn đổ than hồng vào đầu
vào họng các nhà sư và tra tấn họ bằng tất cả những hình thức tra tấn
thời Trung Cổ.
Thêm một ví dụ nữa : Ai cũng biết ở Khơ Me Đạo Phật là quốc giáo. Vậy
mà chính tại xứ sở này nạn diệt chủng đã xảy ra. Hơn hai triệu người bị
giết dưới nguỵ quyền Khơ Me đỏ. Thê thảm thay, rất nhiều cuộc tán sát
man rợ lại xảy ra chính tại các chùa. Nơi thờ cúng linh thiêng biến
thành địa ngục và giờ đây, thành một thứ bảo tàng lưu giữ đầu lâu của
các nạn nhân.
Với nghiệm sinh, tôi xin góp một dẫn dụ nhỏ. Năm 1991, trong gần tám tháng tù, tôi nhớ nhất câu này :
- Chị sẽ được ra tương ớt ! Chị sẽ được nghiền ra tương ớt !
- Chị sẽ được ra tương ớt ! Chị sẽ được nghiền ra tương ớt !
Không phải vì câu nói được lặp đi lặp lại mà vì thái độ của những
người nói. Họ có một vẻ hài lòng đáng sợ, một sự điềm nhiên đáng sợ. Tôi
không thù ghét họ : một đại tá, một đại uý, một trung uý. Có lẽ về bản
chất họ không phải người ác người xấu. Nhưng họ đã được đào tạo để làm
cái việc "nghiền người khác ra tương ớt". Vì thế, đối với họ, việc
nghiền ai đó ra tương ớt là phận sự, là phương tiện sinh tồn, giống như
người thợ phay bào một con ốc thép hoặc người đầu bếp xào món rau.
- Chị sẽ được nghiền ra tương ớt !
Mỗi lần nghe câu nói đó, tôi đọc thấy trên gương mặt họ niềm hạnh
phúc thanh thản của "Gã nông phu vừa cày xong thửa ruộng, Ngả mình trên
nếp cỏ ngủ ngon lành".
Đương nhiên, họ chuẩn bị mọi sự để cho tôi ra "tương ớt". Nhưng không
may cho họ, một tuần sau cuộc đảo chính ở Nga thất bại, thành trì của
chủ nghĩa xã hội sụp đổ tan tành, cả ê-kíp ba người hỏi cung tôi tái
xanh tái xám, mặt họ hiện lên nỗi hoang mang thê thảm, không còn chút tự
tin.
Họ phải dừng tay, không dám cho tôi ra “tương ớt" ... Và rồi, với 95
triệu franc viện trợ không hoàn lại của chính phủ đảng Xã hội Pháp, nhà
nước cộng sản đã thả tôi ra ...
Hơn một thập kỷ trôi qua, tôi vẫn không quên hình ảnh "tương ớt". Vì
cỗ máy nghiền con người ra tương ớt vẫn tồn tại. Và nó tiếp tục nghiền
những người khác. Cả một đội ngũ "thợ nghiền" tiếp tục nuôi sống bản
thân cũng như vợ con họ bằng nghề nghiệp này. Liệu các vị có thể dùng
lòng từ bi hỉ xả như vũ khí tối hậu và duy nhất để làm thay đổi cỗ máy
nghiền này chăng ? ...
? ... ? ...
Tôi không tin.
Vì thời gian hữu hạn, khả năng con người cũng hữu hạn.
Vì sự tập nhiễm là bản năng thứ hai có sức mạnh ghê gớm mà chỉ riêng lòng tốt không đủ để đổi thay.
Vì lẽ đó, cuộc đấu tranh của Phật Tử cũng như của giáo dân không thể
chỉ tựa trên sức mạnh của lòng từ ái. Cuộc đấu tranh nào cũng phải có
chiến lược và chiến thuật, tuỳ cơ ứng biến. Và dù đứng dưới bóng Phật
hay bóng Chúa, con người cũng cần có một bộ óc phán đoán phân tích sắc
bén cộng với một khả năng đủ cho việc chống lại cái ác, bên cạnh lòng hỉ
xả từ bi,.
Tôi là Phật Tử theo kiểu của riêng tôi vì tôi không bao giờ chủ
trương Đạo Phật trở thành “quốc giáo", tôi đấu tranh cho một nền dân chủ
đích thực mà nền dân chủ đích thực chỉ cho phép tồn tại một nhà nước
thế tục trong đó tất thảy các tôn giáo đều được bảo vệ một cách bình
đẳng nhưng trước hết mọi tín đồ đều có nghĩa vụ làm công dân xứng đáng.
Với tôi, chỉ có một nền dân chủ đích thực cho phép thay đổi thường
xuyên các chính phủ thối nát, lạm nhũng mới cho phép các tôn giáo tồn
tại đúng với tư cách tôn giáo, đền chùa và nhà thờ mới tồn tại như những
chốn thiêng liêng nhằm thoả mãn nhu cầu tâm linh của cõi người mà không
bị biến thành đồn bốt bảo vệ cho quyền lực nơi đám cường hào trá hình
ức hiếp người tu hành và bóc lột chúng sinh.
Bây giờ, là một câu hỏi có tính riêng tư :
- Cơ duyên nào đưa bà đến cửa thiền ?
- Cơ duyên nào đưa bà đến cửa thiền ?
Tôi xin trả lời :
- Sự đưa dẫn của số phận.
- Sự đưa dẫn của số phận.
Đúng như vậy. Tất cả những ngả rẽ lớn trên đường đời, tôi không trù
tính. Tất cả, đều xảy ra như những ngẫu nhiên. Nói một cách bóng bẩy hơn
suốt phần đời tôi đã trải qua là tạo phẩm dưới bàn tay vô hình của số
phận. Tuổi thơ, tôi không mơ ước làm nghề viết văn. Trưởng thành tôi
cũng không hình dung được có ngày tôi trở thành kẻ thù số 1 của chế độ
này. Tương tự như thế, chưa bao giờ tôi cố ý đi tìm đọc giáo lý nhà
Phật.
Sau cái chết của cha tôi 1992 trong tôi bỗng nảy sinh nhu cầu siêu
hình. Vì sao, chính tôi cũng không rõ. Có điều, tôi biết chắc chắn rằng
đời người thường chưa chất những ngộ nhận, những nhầm tưởng, những bí
ẩn, những che giấu ... tất cả những gì mà ta thường gọi là "bờ lú bến
mê". Trong quan hệ giữa con người với con người, những mê lú thường đem
lại khổ đau, hờn oán. Thâm tình càng sâu, khổ đau càng lớn. Bởi vì, chỉ
những người ta yêu thương mới có khả năng làm cho ta đau đớn. Phật tổ
Như Lai dạy : "Con cái là những sợi xích bằng vàng". Với tôi, sự thật
dạy thêm vế đối : "Cha mẹ là những chiếc cùm bằng ngọc". Trong gia đình
tôi, tồn tại một nguyên tắc "Gia pháp cao hơn quốc pháp". Vì lẽ đó,
trong hơn một thập kỷ cha tôi đã áp dụng với tôi mọi hình thức kỷ luật
quân đội để ép tôi sống với người chồng cũ, vì "bỏ chồng là điếm nhục
gia phong" ... Có lẽ vì những ẩn ức đó tôi bỗng có nhu cầu siêu hình sau
cái chết của ông, dù người âm kẻ dương chúng tôi vẫn là cha con và vẫn
có nhu cầu trò chuyện. Cũng chính vì những ẩn ức đó cuộc gặp gỡ và thờ
phụng Phật bà Quan Âm đối với tôi là một hạnh duyên, một may mắn vĩ đại
và thần bí.
Là người viết văn tôi biết rằng với thời gian và qua thời gian tất
thảy các nhân vật lớn thuộc mọi tôn giáo đều được thần thoại hoá. Nhưng
cho dù tước bỏ mọi chi tiết huyền hoặc, mọi sợi chỉ óng ánh thêu dệt
chân dung tôi vẫn thấy Phật Bà là một nhân cách vĩ đại toả sáng. Bị
chinh phục hoàn toàn vì nàng công chúa từ bỏ cuộc đời xa hoa của hoàng
cung, chạy trốn sự truy đuổi của quân lính triều đình, cưỡi hổ về phương
Nam tu hành, tôi đi tìm đọc giáo lý nhà Phật.
Vậy là con đường tôi đi ngược chiều với nhiều người khác. Tuy nhiên phương Tây có câu : "Mọi con đường đều dẫn đến Roma".
Tôi tin rằng có nhiều con đường khác nhau dẫn đến tôn giáo nói chung
cũng như cửa Phật nói riêng. Tuỳ theo duyên phận từng người, họ có thể
dấn thân vào hành trình đó sớm hay muộn, lâu dài hay ngắn ngủi, sâu hay
nông, thành thực hay chiếu lệ ... & ...
Đối với tôi, Đạo Phật đem lại nhiều chân lý vĩnh hằng : Tính vô
thường của Tồn Sinh, luật ly hợp của con người, vòng quay Sinh Diệt ...
& ... Nhưng trước tất thảy mọi triết thuyết, Đạo Phật dạy ta xử lý
ra sao trong các mối mâu thuẫn nan giải của đời người. Lịch sử cá nhân
của Quán Âm Bồ Tát đem cho tôi một sức mạnh mới mẻ và sự thanh thản
triệt để trong tâm hồn. Tôi hiểu là từ ngàn xưa những con người vĩ đại
đã giải quyết ra sao mối mâu thuẫn giữa các thế hệ đặt trong bối cảnh
tình huyết nhục.
Tôi hiểu rằng ngoại trừ ngày cha mẹ đặt ta vào cõi đời, con người
phải tự mình sinh đẻ ra mình, và lần sinh trưởng thứ hai này mới thực sự
quyết định cho nhân cách cũng như sự nghiệp.
Tôi hiểu rằng không phải vinh quang cũng không phải chiến thắng mà chính là Tình Yêu và sự Hy Sinh nâng con người lên cao.
Và tất thảy những ý tưởng ấy được chắt lọc ra khi tôi đọc “Chuyện
Quan Âm". Cho nên tôi như được hồi sinh khi tẩy xoá mọi ẩn ức, thanh lọc
tâm hồn. Tôi cúi đầu trước vong linh cha tôi vì hiểu rằng chính ông và
chỉ ông mới tạo ra tôi nhưng tôi vẫn đi đúng con đường tôi đã chọn,
không mảy may nao núng. Tôi cũng không bao giờ ép duyên hay can thiệp
vào đời tư của các con tôi. Và bài học lớn lao ấy tôi học được từ Phật
bà Quan Âm. Ngài chính là cơ duyên đưa tôi đến cửa Thiền.
Cuối cùng, để cảm ơn tất cả những ai đã quan tâm hỏi tôi, nhất là các Phật Tử tôi xin phép nói rằng :
- “Tôi vẫn mơ ước có một ngày, khi lũ lợn bẩn thỉu bị đuổi khỏi đền chùa, mọi nơi thờ cúng linh thiêng được trả lại cho các chân tu những người mà mệnh và nghiệp gắn kết họ với tôn giáo ... Ngày ấy, nếu Trời còn cho sống tôi sẽ lại "vãn cảnh chùa", để thưởng thức mùi hương thuần khiết, thanh cao của hoa mộc hoa sói, hoa lan ... những loài hoa chỉ được phép trồng nơi thiêng liêng hương khói”.
- “Tôi vẫn mơ ước có một ngày, khi lũ lợn bẩn thỉu bị đuổi khỏi đền chùa, mọi nơi thờ cúng linh thiêng được trả lại cho các chân tu những người mà mệnh và nghiệp gắn kết họ với tôn giáo ... Ngày ấy, nếu Trời còn cho sống tôi sẽ lại "vãn cảnh chùa", để thưởng thức mùi hương thuần khiết, thanh cao của hoa mộc hoa sói, hoa lan ... những loài hoa chỉ được phép trồng nơi thiêng liêng hương khói”.
Dương Thu Hương, C/N 2011/05/21
ĐỖ VŨ KỶ HÀ * TÌNH ĐỒNG CHÍ
Tình đồng chí…đồng rận
(Truyện cổ tân trang – Do Vu Ky Ha, VN)
Có 2 tên kia là đòng chí đồng rận, họ yêu thương nhau vô cùng thắm thiết, như ta vẫn thấy trên TV, gặp nhau là họ…ôm chầm lấy nhau, hít mồ hôi nách bên này, hít mồ hôi nách bên kia….giông như 2 nước Trung quốc vĩ đại và nước đàn em cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam vậy. Thậm chí có cái đảo Hoàng sa, Trường sa, thế mà 2 nước cứ mãi nhường nhịn nhau, không nước nào chịu nhận mình là chủ quyền.
Sau khi chiếm được miền Nam, 2 tên cán rựa cao cấp cùng “chung vai sát cánh” bên nhau mò vào đất Sài gòn, cho dù ta thấy không biết bao nhiêu là bản nhạc, là bài thơ rằng “yêu Hà nội, gắn bó với Hà nội….” nhưng sau 75 chúng, vẫn lũ lươt kéo vào miền Nam…xí phần, nhà nước phân chia cho chúng những cái nhà to đùng , lầu 5,7 tầng, ngay Công lý, Tự do…nhưng chúng nhất định không chịu nhận, vì 2 nhà ấy không ở sát bên nhau, 2 “đồng chí” ấy không được ở gần nhau, Cuối cùng, chúng đành nhận 2 biệt thự ngay bên bờ sông liền nhau, mỗi biệt thư chỉ rông khoảng trên 500 mét vuông, cách 2 nhà là 1 khu đất trống, chẳng của ai cả, vì ngày xưa, biệt thự xây theo kiểu Pháp, bốn bề chừa những khoảng đất vườn.
Một ngày kia, 1 tên qua nói với đồng chí của mình:
- Nhà đòng chí đông người, đồng chí hãy lấy đỡ 4 mét đất trống giữa 2 nhà mà xây thêm 5,7 phòng nữa ở cho mát mẻ…..
Người đòng chí thấy thế giãy nảy lên mà rằng:
- Sao đồng chí lại nỡ lòng nào mà nói thế? Đồng chí còn bố mẹ già, cần ở mát mẻ, yên tĩnh…vậy đồng chí cứ lấy đất ấy mà xây thêm…..
Hai người cứ dằng co, đùn đẩy nhau mãi, không ai chịu lấy cái mảnh đất rộng trên 400 mét vuông giữa 2 nhà, trong thành phố “tấc đất tấc vàng” này.
Một đêm nọ, 1 đồng chí ta nghĩ bụng: ta nói năn nói nỉ mãi mà đồng chí của ta cứ nhường miếng đất cho ta, thôi thì, đêm nay, ta sẽ len lén đem gạch, xi măng….xây 1 bức tường chắn nhà ta lại thì bạn phải nhận nó thôi….và cũng ngay trong đêm ấy, người hàng xóm cũng cùng 1 ý nghĩ như thế, mỗi anh vác lặc lè 1 bao xi măng…và cùng gặp nhau ở…giữa mảnh đất, cùng ôm nhau cảm động khóc hu ….hu…..và…tha hồ tiếp tục hít mồ hôi nách của nhau….
Dĩ nhiên, đó là “chiện”…cá tháng tư.
Do vu Ky Ha
( Chuyện kể cho nhau nghe)
VŨ TRỌNG KHẢI * CÁ CHẾT ĐUỐI
MỘT CON CÁ BỊ CHẾT ĐUỐI ?
Vũ Trọng Khải/Úc Châu. 14/3/2014
“ " Viết cho Nguyễn Văn Tòan, Houston, Texas.
Khi nhớ Bạn tôi cùng dân Cao Nguyên ra đi trong cuộc
“ Bỏ Phiếu Bằng Chân năm 1975 ”.
Ngày Ban Mê Thuật thất thủ !!!"
Một con cá bị chết đuối !!!
Nghe hơi lạ ?
Vâng, xin thưa, chết đuối là chết ở trong nước khi người hay vật bị rơi xuống vùng nước sâu mà không biết bơi, chả ai lại đi nói “ CÁ BỊ CHẾT ĐUỐI” bao giờ !!
Vì “ NƯỚC ” là môi trường sống của “ CÁ” …
Chả thế mà ngạn ngũ của Dân Tộc ta, khi ám chỉ kẻ gặp vận may thường nói :“ NHƯ CÁ GẶP NƯỚC, NHƯ RỒNG GẶP MÂY”
Xin Quý Vị vui lòng đọc tiếp đề người viết được trình bầy rõ ràng hơn.
VÀO TRUYỆN :
Không biết tự bao giờ, tôi cảm thấy thích thú với câu truyện sau đây, cũng không biết tác gỉa là ai, tôi đọc được ở đâu hay do ai kể cho nghe, cũng không còn nhớ nữa , nhưng thiết nghĩ nội dung câu truyện mới đáng để ta chú ý.
Xin được lên tiếng cảm ơn tác gỉa đã dựng được câu truyện này.
Truyện kể :
“ Có một người chuyên thuần hóa rồi nuôi dậy thú hoang, thú dữ…biết hành động, làm trò vui khi nghe tiếng người sai khiến, để bán cho các gánh xiệc. Ông ta rất nổi tiếng trong giới làm xiệc, phải nói, ộng ta là một bậc thầy trong việc nuôi, dậy thú làm xiệc.
Đã nổi tiếng và giầu có nhờ tay nghề, nhưng ông ta có vẻ như chưa hài lòng với những thành công nuôi dậy thú vật của ông ta.
Ông ta nghĩ đến cách :
“ phải làm thế nào để đưa một con cá lên sống trên cạn và phải đi được như động vật hai chân
Ông ta bắt đầu thực hiện bằng cách “mỗi ngày ông đổ bùn vào hồ nước nuôi cá.”
Hồ nước bị đặc dần dần theo ngày tháng, con cá ông nuôi cũng mỗi ngày dần dần bị đẩy lên sống trong vũng bùn lõang, lúc nào đầu cá cũng ngẩng cao trên mặt bùn để thở.
Mỗi lần cho cá ăn, ông ta thường tìm cách làm cho cá phải cất mình cao khỏi mặt bùn, ngóc đầu lên đớp mồi như những lần ông cho mèo hay chó ăn, chúng cũng phải chồm lên vồ mồi.
Bùn càng ngày càng khô dần, con cá ông nuôi cũng đã quen dần với môi trường sống thay đổi chậm chạp.
Không biết thời gian nuôi và dậy con cá này mất bao năm tháng ?
Nhưng nay ông đã thành công.
Con cá ông nuôi từ bùn loãng, sệt, qua đặc, rồi sau cùng bùn đã trở nên khô cứng, cũng qua cách tập luyện kiên nhẫn của ông, đến nay, cá đã nghe được những tiếng gọi của ông, làm theo những gì ông chỉ dậy, và kỳ công hơn cả là con cá ấy đã đi được trên hai cánh đuôi như lòai động vật hai chân.
Ông có thể dẫn con cá của ông đi chơi như người ta dẫn chó, mèo đi rạo mát mỗi chiều.
Rồi có một buổi chiều, như nhiều buổi chiều ông vẫn dẫn cá đi chơi, ai thấy cũng nhòm ngó, chầm trồ thích thú vì quá lạ.
Không lạ sao được ! Cá sống trên cạn, lại biết đi nữa !
Lạ quá đi chứ !!!
Bất chợt, trời đổ cơn mưa !!!
Cũng như những người khác, đang giắt chó, mèo, ông phải chạy tìm nơi trú mưa, mải nhìn trời xem cơn mưa bao giờ tạnh, ông cũng quên cả chăm sóc con cá của mình.
Đến khi trời ngớt mưa, định bước chân đi, ông nhìn lại, thấy con cá của ông không còn cột ở đầu dây ông vẫn dẫn nó đi chơi !!!
Ông vỗi chạy trở lại khu vườn ông vừa dẫn cá đi rong, xem nó lạc đâu mất….
Ông đi lại đọan đưòng ông và cá chạy trú mưa ……
Chợt một hình ảnh làm ông choáng váng, muốn ngã vật ra đất, khi ông nhìn thấy con cá ông nuôi dậy trong bao năm tháng, nay đã CHẾT, Nó CHẾT thật rồi,. nó nằm trương bụng trong một vũng nước chỉ sâu hơn chiều cao của nó.( Vì cá đã biết đi, nên gọi là chiều cao thay vì chiều dài)
Con cá đã CHẾT ĐUỐI trong vũng nước sau cơn mưa !!!
Cuối câu truyện không thấy nói gì về người nuôi dậy thú này nữa.
Chẳng lẽ “ CÁ CHẾT LÀ HẾT TRUYỆN ?”.
Không, truyện không hết ở đó dù cá đã chết đuối !
Cá đã chết , chết trong chính môi trường sống nguyên thủy của nó,
chỉ vì nó: KHÔNG CÒN BƠI ĐƯỢC NỮA ! NÓ KHÔNG CÒN THÍCH HỢP VỚI CHÍNH MỘI TRƯỜNG SỐNG CỦA NÓ…… CÁ CHẾT ĐUỐI !!!
LUẬN TRUYỆN :
So sánh câu truyện “ cá biết đi ” hay “ cá chết đuối ” vào cuộc sống hiện nay của CSVN người ta thấy có nhiều tương đồng khá lý thú !
Ngày nào, mấy chú cộng sản từ Bắc vào Nam,
Ngày nào mấy chú cộng sản từ núi rừng về thành phố,
Ngày nào ? thời đó ! mấy chú cộng sản luôn mấp máy trên môi “ ĐẠP ĐỔNG ĐÀI ”.
Dân miền Nam, ngây thơ quá, thắc mắc hoài, sao mấy chú cộng sản cứ đòi phải “ĐẠP ” cái “ ĐỔNG ĐÀI ”… miền Nam làm gì có cái “ ĐỔNG ĐÀI” nào do “ Mỹ Ngụy ” dựng lên đâu ?
Chỉ có một bức tượng “ THƯƠNG TIẾC ” là quý nhất của dân miền Nam thì mấy chú cũng đạp đổ rồi còn gì nữa !!!
Nhưng cũng chẳng bao lâu, người dân mền Nam, hiền lành, chất phác nhưng dư thông minh để hiểu các chú cộng sản này nói gì và muốn gì !!!
- Nhữngchiếc xe đạp cũ dân miền Nam đã gác xó bếp, nay được lau chùi hay sơn lại mới toanh !
- Những chiếc đồng hồ cũ được đánh bóng lại sáng choang !
- Những chiếc radio transitor , chạy được cả bằng pin lẫn điện cũng được lau chùi y như mới !
Một lô các lọai chợ này được thành hình tại SaiGon và những tỉnh thành miền Nam, sau những ngày các chú cộng sản đổi tiền, đánh tư sản…. dân miền Nam trắng hai tay, còn lại cái khố che thân là may rồi !
Nơi ấy, nơi những cái chợ bất đắc dĩ thành hình, Nam Bắc gặp nhau !
Nơi ấy, Quốc Cộng gặp nhau !
thay tiếng sung bằng những trận cười vang dội !
Nhiều nụ cười ra nước mắt chung quanh cái “ĐẠP ĐỔNG ĐÀI ”,
( thế ra các chú cộng sản đã biết đến “ 3 D ” từ những ngày tháng đó ! )
Nó cười vang, nó cười ra nước mắt vì kẻ bán người mua cùng chung một Dân Tộc, cùng chung một ngôn ngữ mà chẳng hiểu được nhau !!!
Nhiều trận cười vang chung quanh “ CÁI ĐỔNG BA TAY , HAI CỬA SỔ ” …trước những khuôn mặt ngây ngô của núi rừng.
Nhưng rồi cuối cùng, Bắc Nam cũng hiểu nhau….
Rồi từ đó các chú được dân miền Nam tặng hai chữ “ CÁN NGỐ ”
Đó là những ngày sống xa núi rừng của các chú cán ngố, như cá tập sống trong môi trường từ nước lỏng đến bùn khô cứng…. để tập làm người !!!
Truyện ấy xưa rồi !!! Nói làm chi nữa !!!
Nó hết NGỐ rồi , Nó vượt xa người luôn rồi !!!
Chuyện ngày nay khác xưa nhiều lắm !!!
Các chú cán ngố ngày nay quên béng ba chữ “ ĐẠP ĐỔNG ĐÀI ” !!!
Ngày nay, bụng các chú phệ xuống, cổ có nọng vài ba ngấn, mặt phẹt ra …đạp xe đạp sao nổi, Peugeot, Durat các chú cho vào sọt rác, thay vào đó con của các chú chơi những chiếc “ xe khủng ” trị giá bạc triêu đô la Mỹ !!!
Những chiếc “ xe khủng ”này được các chú lôi lên từ những mảnh ruộng, mảnh vườn hay cả trong khu nghĩa trang khi các chú lấy quyền “ thu lại đất đai ” của Dân !!!
Đổng thì các chú chê Seiko các chú cũng chả thèm longines, rolex… chả thấy chú nào nói đến cái gì là “ ba tay, hai cửa sổ ” nữa …
Đài ! thì ôi thôi, bây giờ được thay bằng Apple vàng, nạm kim cương, trị giá “ vài chục vé xanh ” các chú mới chịu rờ tay !....
Các chú như con cá biết đi trong cậu truyện kể trên đấy !
Các chú là những con vật trong gánh xiệc của tụi Ba Tàu đấy !
Nhưng các chú còn thua con vật trong gánh xiệc vì các chú không biết nghe tiếng người !!!
- Ngày xưa khi các chú từ Bắc vào Nam, các chú từ rừng núi xuống đồng bằng, mặt các chú ngây ngô, ngờ ngệch trước TIẾNG NÓI của NGƯỜI.
- Ngày nay MẶT CÁC CHÚ CỨ LẠNH NHƯ TIỀN trước TIẾNG KHÓC CỦA NGƯỜI.
Tiếng khóc vang lên trong lòng Dân Tộc các Chú, nhưng các chú không nghe thấy hay vì không hiểu tiếng người hay các chú còn phải khom lưng làm con vật trong gánh xiệc của bọn giặc phương Bắc !
Thầy nào dậy các chú khi ra ngòai tuyên bố Biển Đông của Quốc Tổ gọi là Biển Nam Trung Hoa ?
Thầy nào dậy cho các chú “ cắt đất” dâng biển cho ngọai bang ?
Thầy nào dậy cho các chú cướp đất của dân để làm nhà to cửa rộng ?
Thầy nào dậy cho các chú biết bỏ ĐẠP đi “ XE KHỦNG ” ?
Thầy nào dậy cho các chú bước chân ngênh ngang đạp trên mặt, trên lưng đồng bào ?
Thầy nào dậy cho các chú biết bỏ ĐỔNG chơi APPLE ?
Thầy nào dậy cho các chú………………………………………….?
CHẲNG CÓ THẦY NÀO DẬY CÁC CHÚ NHƯ THẾ CẢ !!!
CHÍNH LÒNG THAM VÔ ĐÁY TRONG CÁC CHÚ DẬY CÁC CHÚ ĐÓ THÔI.
Như ngày nào, “ CON CÁ BIẾT ĐI ” chết đuối trong chính môi trường sống nguyên thủy của nó là “ NƯỚC ” ….
Thì cũng có một ngày, các chú sẽ “ CHẾT TRONG LÒNG DÂN TỘC ”
Là nơi đã sinh ra và nuôi dưỡng các chú lớn lên….
- Các chú sẽ chết vì tội : PHẢN BỘI QUỐC TỔ.
- Các chú sẽ chết vì tội : BUÔN DÂN BÁN NƯỚC.
- Các Chú có quá nhiều tội, MÀ TỘI NẶNG NHẤT LÀ :
“ TỘI CÁC CHÚ KHÔNG BIẾT NGHE TIẾNG NGƯỜI !!! ”
Thời VÀNG SON của các chú, một đời làm con vật trong gánh xiệc của bọn GIẶC PHƯƠNG BẮC như hôm nay….Sẽ biến mất trong một ngày không xa.
Sydndey, ngày 14 tháng 3 năm 2014.
Vũ Trọng Khải
__._,_.___
FRANCIS WADE * TĂNG THỐNG THICH QUẢNG ĐỘ
Nhà lãnh đạo Phật giáo Việt Nam trong ngôi Chùa tù — Ký giả Francis Wade viết về Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ
Posted by pttpgqt.paris
PARIS, ngày 10.4.2014 (PTTPGQT) – Giữa tháng 3 vừa qua, Ký giả Francis Wade đến Việt Nam quan sát tình hình tôn giáo, và ông đã có dịp đến Thanh Minh Thiền viện gặp gỡ trao đổi với Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ. Trở về ông viết bài đăng tải hôm 27.3.2014 dưới đề mục “Nhà lãnh đạo Phật giáo Việt Nam trong ngôi Chùa tù” với tiểu tựa “Tội phạm duy nhất của Hoà thượng Thích Quảng Độ là chống lại một Nhà nước đàn áp Phật giáo.
Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ
tại Thanh Minh Thiền viện do Ký giả Francis Wade chụp
Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế dịch bài ấy sang Việt ngữ và đăng tải sau đây để người Việt hải ngoại được nhìn cận cảnh đời sống của người có tín ngưỡng nói chung tại Việt Nam ngày nay, và Phật giáo đồ nói riêng, thông qua vị lãnh đạo tối cao của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất : Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ.
Nhà lãnh đạo Phật giáo Việt Nam trong ngôi Chùa tù
Tội phạm duy nhất của Hoà thượng Thích Quảng Độ là chống
lại một Nhà nước đàn áp Phật giáo
Bài viết của ký giả Francis Wade
Thiền viện nhỏ nằm bên rìa trung tâm thành phố là thế giới riêng của Hoà
thượng Thích Quảng Độ từ hơn thập niên qua. Những gã đàn ông ngồi trên
xe gắn máy bên kia đường, túc trực mỗi ngày trước thiền viện, là bọn mật
vụ mặc thường phục, quan sát mọi di động, soi mói từng cử chỉ đám người
tới lui viếng chùa hằng năm, săn đuổi ông già 87 tuổi hiếm khi được rời
thiền viện đi khám bệnh.
Nhà lãnh đạo nổi danh của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thương cảm cho mọi người. Hoà thượng nói : “Nhiều người trong đám mật vụ phải thương lo cho gia đình nên bị ép buộc phải theo Cộng sản. Tôi nghĩ rằng một số trong họ không còn ủng hộ ý thức hệ của giới cầm quyền ; họ chỉ lo cho gia đình họ mà thôi”.
Hoà thượng quá quen thuộc những cuộc theo dõi, kiểm soát ngày đêm, vì sự quản chế tại Thanh Minh Thiền viện tiếp diễn con đường tù đày từ năm 1975, khi chính quyền Cộng sản đặt sự kiểm soát toàn bộ miền Nam Việt Nam, thu tập mọi phê phán để bắt người ta vào tù.
Liên hệ giữa chủ nghĩa cộng sản và tôn giáo luôn luôn thù nghịch, ở Việt Nam cũng thế thôi, nơi chính quyền rao bán chủ nghĩa vô thần trên mọi tín ngưỡng khác. Tuy nhiên cũng khó thực hiện chủ trương này, vì theo Diễn Đàn PEW về Tôn giáo và Đời sống chung, thì 16% dân chúng theo Phật giáo (số liệu này do nhà cầm quyền Cộng sản cung cấp ; còn theo Báo cáo viên LHQ về Tự do tôn giáo thì 75% dân chúng theo đạo Phật, PTTPGQT chú), 8% theo Thiên Chúa giáo ; các tôn giáo như Hoà Hảo và Cao Đài phát triển tại địa phương, được nhiều người ngưỡng mộ. Vào thời đại này kẻ có tín ngưỡng cần phải mặc áo giáp — theo phúc trình năm ngoái của Uỷ hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới thì tự do tín ngưỡng “quá tệ” tại Việt Nam, qua sự kiện chính quyền sử dụng “lực lượng đặc tình tôn giáo và các điều luật mơ hồ về an ninh quốc gia” để đàn áp sự thờ phụng.
Nhà lãnh đạo nổi danh của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thương cảm cho mọi người. Hoà thượng nói : “Nhiều người trong đám mật vụ phải thương lo cho gia đình nên bị ép buộc phải theo Cộng sản. Tôi nghĩ rằng một số trong họ không còn ủng hộ ý thức hệ của giới cầm quyền ; họ chỉ lo cho gia đình họ mà thôi”.
Hoà thượng quá quen thuộc những cuộc theo dõi, kiểm soát ngày đêm, vì sự quản chế tại Thanh Minh Thiền viện tiếp diễn con đường tù đày từ năm 1975, khi chính quyền Cộng sản đặt sự kiểm soát toàn bộ miền Nam Việt Nam, thu tập mọi phê phán để bắt người ta vào tù.
Liên hệ giữa chủ nghĩa cộng sản và tôn giáo luôn luôn thù nghịch, ở Việt Nam cũng thế thôi, nơi chính quyền rao bán chủ nghĩa vô thần trên mọi tín ngưỡng khác. Tuy nhiên cũng khó thực hiện chủ trương này, vì theo Diễn Đàn PEW về Tôn giáo và Đời sống chung, thì 16% dân chúng theo Phật giáo (số liệu này do nhà cầm quyền Cộng sản cung cấp ; còn theo Báo cáo viên LHQ về Tự do tôn giáo thì 75% dân chúng theo đạo Phật, PTTPGQT chú), 8% theo Thiên Chúa giáo ; các tôn giáo như Hoà Hảo và Cao Đài phát triển tại địa phương, được nhiều người ngưỡng mộ. Vào thời đại này kẻ có tín ngưỡng cần phải mặc áo giáp — theo phúc trình năm ngoái của Uỷ hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới thì tự do tín ngưỡng “quá tệ” tại Việt Nam, qua sự kiện chính quyền sử dụng “lực lượng đặc tình tôn giáo và các điều luật mơ hồ về an ninh quốc gia” để đàn áp sự thờ phụng.
Công cụ hăm doạ và kiểm soát, mài nhọn gần nửa thế kỷ cộng sản cai trị,
đã giam giữ Hoà thượng Thích Quảng Độ và hàng giáo phẩm của ngài trong
vòng luân hồi không dứt của sự tù đày. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất hình thành năm 1964, đã không ngừng phê phán chính quyền, và không
bao giờ được hiện hữu như một thực thể chính thức, khác với “Tăng Đoàn
Phật giáo Việt Nam” được nhà nước công nhận.
Cố ĐLHT Thích Huyền Quang
Những nỗ lực muốn thoát ly sự khống chế của nhà nước đều bị dập tắt :
hồi tháng Giêng, lãnh đạo tổ chức Gia Đình Phật tử, Lê Công Cầu, lên máy
bay vào thành phố Hồ Chí Minh với dự tính gặp gỡ Đức Tăng Thống Thích
Quảng Độ, đã bị bắt. Hiện ông bị quản chế.Mặc dù được xem như nhà bất
đồng chính kiến, Hoà thượng Thích Quảng Độ kiên định trong tư thế phi
chính trị. Dù vậy, lằn ranh quá mỏng giữa chính trị và tôn giáo trong
chủ nghĩa vô thần, dưới chế độ độc đoán, chính quyền xem Hoà thượng như
cái gai cho giới lãnh đạo cộng sản. Hoà thượng nói :
“Tôi phải được quyền sinh hoạt tôn giáo, nhưng ở đây, Đảng Cộng sản không cho chúng tôi thực hiện ước muốn của chúng tôi. Tôi không được quyền thuyết pháp cho Phật giáo đồ để hoằng pháp giáo lý đạo Phật. Cộng sản muốn kiểm soát mọi sự, nhưng chúng tôi khước từ”.
Chạy xe quanh thành phố Hồ Chí Minh và vùng phụ cận, người ta có thể quên đi và nghĩ rằng tự do tôn giáo đang rộ nở. Gần Biên Hoà, một cộng đồng Thiên chúa giáo đông đảo, sử dụng một tá nhà thờ loè loẹt, sâu thẳm, thành hàng dài lộ liễu, một số được xây sau thời Cộng sản cướp chính quyền. Một số người sùng bái hớn hở vô tư trong Đại Thánh đường Dòng Chúa Cứu thế ở trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, xem như thảnh thơi với chuyện quốc gia của đất nước. Tuy nhiên, trong văn phòng thánh đường, Cha Joseph Thoại, linh mục dòng Chúa Cứu thế, ra hiệu cho những người bước vào cổng chính, xem xét kẻ ra người vào.
Cha Joseph nói “Không ai có thể tiêu diệt tôn giáo. Vì nơi nào có con
người, nơi đó tôn giáo hiện hữu”. Thay vào đó, chính quyền tìm cách kiềm
chế sự phát triển tôn giáo. “Họ sợ rằng khi tôn giáo trở thành tổ chức
lớn, tất sẽ có ảnh hưởng tới quần chúng. Họ nắm một đảng độc tài, và họ
không muốn có những quyền lực khác cai quản quần chúng”.
ĐLHT
Thích Quảng Độ
Các linh mục Dòng Chúa Cứu thế vốn có thái độ gay gắt trong quan hệ với
Hà Nội, qua nhiều thập niên họ thường lên tiếng phê phán chính quyền về
việc cưỡng chiếm tài sản, đất đai giáo hội. Đứng ngoài văn phòng nói
trên, một nhóm 20 người, toàn là Dân oan, đứng chờ xin cố vấn cho những
khiếu nại của họ. Những báo cáo việc công an tấn công và bắt bớ tuỳ tiện
Dòng Chúa Cứu thế là chuyện thường tình — Cha Joseph gần đây bị bắt hai
lần, trong năm 2011 và năm 2013, lần cuối khi cha tham dự phiên xử
blogger Đinh Nhật Huy. Người đồng sự, Cha Anthony, từng bị công an đánh
đập.
Chính quyền đang đối diện với cuộc đấu tranh vất vả để ngăn chận các nhà bất đồng chính kiến phát triển, xuất phát từ nguồn tôn giáo hay chính trị. Tự do tôn giáo được ghi trong Hiến pháp Việt Nam, Cha Joseph ghi nhận, nhưng từ lâu bản Hiến Pháp này chẳng có giá trị gì. Các nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị thường bị chính quyền vu cáo, trong nỗ lực làm mất uy tín họ trước mắt tín đồ : tháng Hai vừa qua, toà án ở Hà Nội xử Lê Quốc Quân, một luật sư và blogger Công giáo chống chính quyền, với cái tội sai lầm nghiêm trọng là trốn thuế. Các tổ chức nhân quyền trên thế giới đã kêu gọi trả tự do cho ông.
Thế nhưng sự gia tăng bắt bớ các nhà bất đồng chính kiến mấy năm vừa qua được xem như dấu hiệu của một quần chúng lớn mạnh trong sự nói thẳng điều họ nghĩ, và họ đã sử dụng những nguồn như Internet mà chính quyền nỗ lực kiểm soát.
Hoà thượng Thích Quảng Độ nói rằng : “Mười năm trước, chẳng ai dám lên tiếng, nhưng bây giờ đã bắt đầu thay đổi”.
“Thời gian trôi qua, dân chúng xem Truyền hình để biết những chi xẩy ra trong thế giới ; 20 năm trước họ chỉ biết chuyện xẩy ra tại Việt Nam. Thời đó, họ như con chim trong lồng”, Hoà thượng cười nói một cách bình thản, như muốn che giấu con người khắc kỷ phải chịu sống suốt 40 năm ròng trong tù tội. Hoà thượng nói tiếp : “Chính quyền không thể kiểm soát dễ dàng tất cả mọi người, tuy nhiên quần chúng cũng biết rằng nếu họ sử dụng quyền ăn nói để biểu tỏ ý kiến họ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, tôn giáo, vân vân, là họ phải vào tù”.
Chẳng sợ chính quyền trừng phạt khi tiếp xúc với các nhà nhà báo đến thăm, Hoà thượng luôn đón chào mọi cơ hội để trao đổi. Hoà thượng nói : “Họ có thể bắt bỏ tù tôi bất cứ lúc nào họ muốn. Tôi chẳng sợ hãi, cho nên họ cũng chẳng cần bắt tù tôi. Tôi đã già rồi — nếu tôi chết trong tù sẽ là điều chẳng hay ho gì trên công luận thế giới”.
Dường như chính quyền biết điều đó. Vị cao tăng đầy biểu tượng đã được nhiều lần đề cử Giải Nobel Hoà Bình. Sau những cuộc đàn áp mấy năm qua, chính quyền cảm nhận áp lực quốc tế trước những án tù đối với các nhà bất đồng chính kiến, nên chính quyền tô vẽ lớp sơn tự do có giới hạn cho Hoà thượng trong khuôn viên thiền viện của ngài.
Hoà thượng Thích Quảng Độ có thể còn ở mãi nơi ngôi Chùa tù cho đến khi, hoặc Hoà thượng hay chính quyền mất đi. Hoà thượng không biết rõ ai sẽ đi trước. Hoà thượng nói “Muốn hay không muốn họ đã mất quyền kiểm soát chính trị — bây giờ có đông người đòi hỏi cho dân chủ Việt Nam, và cuối cùng, nếu Đảng Cộng sản muốn tồn tại, họ phải thay đổi. Mọi sự chuyển biến mỗi ngày — đặc biệt chính trị luôn đổi thay. Một ngày nào đó trong tương lai họ phải chấp nhận những quan điểm khác, những đảng phái khác. Tôi nghĩ như thế và tôi muốn như thế”.
(Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế dịch từ bản Anh ngữ
The Vietnamese Buddhist leader whose temple is his prison)
SƠN TRUNG * TỘI ÁC HỒ CHÍ MINH GIẾT NGƯỜI BỊT MIỆNG
TỘI ÁC HỒ CHÍ MINH GIẾT NGƯỜI BỊT MIỆNG
SƠN TRUNG
Con người làm ác thường che giấu tội ác của họ. Có người giả mang bộ mặt lương thiện, hay ra sức làm một vài việc tốt để che đậy hành vi xấu xa của họ. Có người chối phắt những lời tố cáo của dư luận. Có người ra tay sát nhân diệt khẩu. Đó là hành vi của những người có quyền thế làm ác và muốn che đậy tội lỗi. Giang Thanh thuở thiếu thời là một diễn viên sân khấu nổi danh tài sắc, có 4 đời chồng và một tập sử gồm nhiều trang dài về các đàn ông đã đi qua đời Giang Thanh. Để che giấu cuộc đời truỵ lạc của mình, Giang Thanh đã cho thủ hạ thủ tiêu các người quen cũ.
Hồ Chí Minh có quá nhiều gian dối và nhiều tội ác cho nên ông đã thực hiện kế sách sát nhân diệt khẩu.
1. PHẠM QUỲNH (1892-1945)
Phạm Quỳnh quê quán ở làng Lương Ngọc (nay thuộc xã Thúc Kháng), phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương, một làng khoa bảng, có truyền thống hiếu học. Mồ côi mẹ từ 9 tháng tuổi, mồ côi cha từ khi lên 9 tuổi; Phạm Quỳnh côi cút được bà nội nuôi ăn học. Phạm Quỳnh học giỏi, có học bổng, đỗ đầu bằng Thành chung (tốt nghiệp) Trường trung học Bảo hộ (tức trường Bưởi, còn gọi là trường Thông ngôn). Năm 1908, Phạm Quỳnh làm việc ở Trường Viễn Đông Bác cổ tại Hà Nội lúc vừa tuổi 16.
Từ năm 1916, Ông tham gia viết báo cho một số tờ có uy tín đương thời; làm chủ bút kỳ cựu của Nam Phong tạp chí từ ngày 1 tháng 7 năm 1917 cho đến năm 1932; tuyên truyền cho tư tưởng "Pháp Việt đề huề".Cũng trong thời kỳ 1924-1932, ông còn là giảng viên Trường Cao đẳng Hà Nội.Năm 1924, ông được mời làm giảng viên Khoa Bác ngữ học, Văn hóa, Ngữ ngôn Hoa Việt, Trường Cao đẳng Hà Nội, trợ bút báo France - Indochine.
Từ năm 1925 - 1928, Phạm Quỳnh là Hội trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ; năm 1926, ông làm ở Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ và đến năm 1929 được cử vào Hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông Dương. Năm 1930, Phạm Quỳnh đề xướng thuyết lập hiến, đòi hỏi người Pháp phải thành lập hiến pháp, để quy định rõ ràng quyền căn bản của nhân dân Việt Nam, vua quan Việt Nam và chính quyền bảo hộ.
Năm 1931, ông được giao chức Phó Hội trưởng Hội Địa dư Hà Nội. Năm 1932, giữ chức Tổng Thư ký Ủy ban Cứu trợ xã hội Bắc Kỳ. Ngày 11 tháng 11 năm 1932, sau khi Bảo Đại lên làm vua, ông được triều đình nhà Nguyễn triệu vào Huế tham gia chính quyền Bảo Đại, ông thôi không làm chủ bút Nam phong Tạp chí nữa. Tại Huế thời gian đầu ông làm việc tại Ngự tiền Văn phòng, sau đó làm Thượng thư Bộ Học và cuối cùng giữ chức vụ Thượng thư Bộ Lại (1944-1945).
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập. Ông về sống ẩn dật ở biệt thự Hoa Đường bên bờ sông đào Phủ Cam, Huế. Ông bị Việt Minh bắt giam ngày 23 tháng 8 năm 1945 và giam ở lao Thừa Phủ, Huế. Ông bị giết sau đó cùng với nguyên Tổng đốc Quảng Nam Ngô Đình Khôi (anh ruột Ngô Đình Diệm) và Ngô Đình Huân (con trai của Ngô Đình Khôi).
Ai cũng nghĩ rằng Phạm Quỳnh bị giết về tội theo Pháp, nhưng đằng sau vụ này có nhiều bí ẩn. Những người sống lâu năm bên Pháp cho biết Hồ Chí Minh có liên hệ đến tổ chức Tam Điểm. Thuật ngữ Hội Tam Điểm (tiếng Anh: Freemasonry; tiếng Pháp: Franc-maçonnerie, nghĩa là “Nền tảng tự do”) dùng để chỉ một tập hợp những hiện tượng lịch sử và xã hội rất khác nhau tạo dựng từ một môi trường hội nhập mà việc tuyển chọn thành viên dựa theo nguyên tắc bổ sung và các nghi lễ gia nhập có liên hệ tới những ẩn dụ về người thợ xây đá.
Tên gọi trong tiếng Việt của hội này là "Tam Điểm" được giải thích là do các hội viên người Pháp khi viết thư cho nhau thường gọi nhau là Sư huynh/Sư đệ (frère), hay Đại Sư phụ (maître), viết tắt F hay M và thêm vào phía sau 3 chấm như 3 đỉnh hình tam giác đều. Chưa thấy có tài liệu nào nói rõ mục đich của hội Tam Điểm, nhưng tổng quan, ta thấy Tam Điểm là một tổ chức quốc tế, quy tụ giai cấp quý tộc, tạo một lực lượng mạnh, để hoạt động. Nhiều tài liệu cho rằng Hội Tam Điểm nhắm chống Cộng sản và Thiên Chúa Giáo. (1)
Một tài liệu khác cho biết năm 1717, HTĐ đầu tiên có hình thức như hiện nay được thành lập tại Anh Quốc là "Grande Loge de Londres" (dịch là Đại Đường Luân Đôn). Đến năm 1723, để thống nhất các HTĐ, mục sư Tin Lành James Anderson, người Tô Cách Lan, cho công bố bản Hiến Pháp chung cho tất cả HTĐ.
Mục tiêu chính của bản Hiến Pháp đó quy định những điều căn bản sau đây:
-HTĐ là một hội để phục vụ con người.
-Hội viên TĐ là những con người tốt và chân thật, tôn trọng sự tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của người khác.
-HTĐ có bổn phận kết hợp những người tốt trên khắp hoàn cầu qua sợi giây huynh đệ thân ái không phân biệt màu da hay chủng tộc.
Muốn được vậy, hội viên Tam Điểm phải tự trau dồi bản thân bằng "phương pháp suy tư" qua các biểu tượng (tương tự như thiền quán trong đạo Phật) của các dụng cụ hàng ngày như cái dùi, cây compas (vẽ vòng tròn), thước vuông góc (équerre) v.v...(2)
Hiện nay, trên thế giới những HTĐ được phân chia theo 3 khuynh hướng:
- Chịu ảnh hưởng của HTĐ Anh Quốc
- Chịu ảnh hưởng của HTĐ PHáp
- Độc lập tùy theo mỗi quốc gia như Đức, Thụy Sĩ v.v...
Các HTĐ vẫn có quan hệ với nhau chỉ trừ vài trường hợp không được nhìn nhận là "hợp lệ" .Nhiều danh nhân trên thế giới là hội viên Tam Điểm như các tổng thống Mỹ (Washington, Thomas Jefferson, Grant, Abraham Lincoln, Franklin Roosevelt, Trumann, Lyndon B. Johnson v.v...) , thủ tướng Anh Winston Churchill, tổng thống Chili Allende, các nhân vật trọng yếu trong cuộc cách mạng Pháp (đại tướng La Fayette, Mirabeau, Sieyès, toàn thể gia đình hoàng đế Nappoléon đệ I) và những nhà lành đạo nước Pháp (Jules Ferry, Paul Doumer, Mendès France, Gambetta v.v...), những nhà bác học (Alexandre Flemming, người phát minh ra thuốc Pénicilline; Lumière, ông tổ điện ảnh, Laplace v.v...), những nhạc sĩ (Mozart, Haydn, Louis Amstrong, Duke Ellington, Rouget de Lisle, tác giả bài quốc ca Pháp: La Marseillaise, Eugène Pottier, tác giả bài Quốc Tế Ca của các đảng Xã Hội và Cộng Sản v.v...), các văn sĩ và triết gia nổi tiếng (Montesquieu, Voltaire, Fichte, Rudyard Kipling, Mark Twain, Pouchkine, Stendhal v.v...) các phi hành gia lên cung trăng (Gordon, Cooper [1963], Aldrin, Gleen), các tài tử điện ảnh (Clark Gable, John Wayne v.v...)...
Danh sách có thể lên đến cả chục ngàn người. Kể từ số nầy, với những loạt bài sẽ đăng liên tục, tác giả xin cố gắng trình bày những tài liệu thu thập được về những "Hội kín" mà chính ngay phần đông những người Pháp, Đức, Anh v.v... còn chưa biết rõ mấy, nhưng ảnh hưởng về mặt chính trị, tư tưởng và văn hóa rất rộng lớn, sâu đậm và dài lâu. Đó là các Hội Tam Điểm (La Franc Maçonnerie hay Freemasonry theo tiếng Anh), OPUS DEI (Phục Vụ Chúa).
Hứa Vạng Thọ viết rằng ông mong bài viết của ông sẽ đóng góp được phần nào cho công cuộc đấu tranh chung vì "am hiểu và nắm vững được tình hình chính trị, văn hóa của xã hội Tây Phương" cũng là một trong những yếu tố để xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh, dân chủ, tự do, không còn chế độ độc tài Cộng Sản nữa. Ngoài ra, tác giả hy vọng rằng những người Việt quốc gia tranh đấu trong các Hội, Đoàn, Đảng Phái cần phải cảnh giác nhiều hơn nữa, đừng tưởng rằng chỉ có Phòng Nhì Pháp, KGB là có ảnh hưởng mà thôi hoặc Đảng ta là nhất.
Nhiều "trí thức Việt Nam tại Pháp" có biết ít nhiều về các Hội nầy, và có lẽ, có người cũng là hội viên của Hội Tam Điểm hay của Opus DeI, nhưng họ giấu thân phận rất kỹ vì đây là một tổ chức bí mật.. ......trước đây, Hồ Chí Minh, khi sang Pháp năm 1912, đã có bắt liên lạc với Hội Tam Điểm, qua sự giới thiệu của hai ông Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền nhưng không chắc là đã được vào Hội Viên. Vua Duy Tân là một hội viên Hội Tam Điểm ở đảo La Réunion. (3)
Một tài liệu khác cho biết Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, vua Duy Tân, Trần Trọng Kim, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Phan Long, Nguyễn Văn Thinh, Phạm Ngọc Thạch, Phạm Văn Huyến, Trịnh Đình Thảo, Tạ Thu Thâu, Trần Quang Vinh, Nguyễn Hữu Thọ, Lê Văn Trung, Dương Văn Giáo, Lê Thước, và Nguyễn Tất Thành là hội viên Tam Điểm (4 )
Vì bản chất ích kỷ và tự hào là đã được chọn vào các "hội ưu tú" nói trên, nên một mặt họ chỉ truyền lại cho người trong gia đình để lợi dụng những sự quen biết cá nhân mà làm lợi cho bản thân, và mặt khác, họ giấu rất kỹ không muốn cho những người Việt khác biết. Với sự tính toán vị kỷ như vậy, họ đã đi ngược lại chủ trương của HTĐ nhằm kết hợp những người tốt và chân thật. Trong khi đó, đã từ lâu, Cộng Sản Việt Nam cho cài người của họ vào trong các hội đoàn nói trên.
Theo thiển kiến, Nguyễn Tất Thành lúc này chỉ đi cắp cặp cho Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền nhưng anh Ba vẫn mon men vào cái hội Tam Điểm để trở thành con người danh giá, có thế lực. Cậu Ba đã nộp đơn xin vào trường thuộc Địa thì việc lân la này cũng là việc dễ hiểu. Nhưng tài năng bồi bếp của cậu làm sao mà vào được giai cấp ưu tú của Tam Điểm. Cậu phải chờ đảng cộng sản nổi lên, thu nhận những tay vô sản thì cậu mới phát tài.
Cái oái oăm của cuộc đời là lúc trẻ cậu Ba bám hội Tam Điểm mà sau này cậu ta lại theo Cộng sản. Có lẽ cậu Ba và Phạm Quỳnh đã chạm trán tại ngưỡng cửa hội Tam Điểm. Một lãnh tụ cộng sản như ông không thể để cho ai lật mặt nạ ông theo thực dân ,đế quốc, theo Tam Điểm cho nên khi vừa lên cầm quyền là lão Hồ đã giết Phạm Quỳnh bịt miệng.
2. NGUYỄN BÁ TRÁC ( 1881-1945 )
Nguyễn Bá Trác sinh năm Tân Tỵ (1881) tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Thuở nhỏ ông theo học ở Quảng Nam, năm 1906, thi đỗ Cử nhân ở Huế. Hưởng ứng lời kêu gọi của các nhà ái quốc trong phong trào Đông Du, ông ra Hà Nội học tiếng Pháp và năm 1908, ông sang du học ở Nhật. Nhưng cũng ngay năm ấy, dưới sức ép của Pháp, chính phủ Nhật đã giải tán phong trào Đông Du, ông phải sang Trung Quốc rồi trở về Hà Nội (Việt Nam) năm 1914, làm ở Phòng báo chí Phủ Toàn quyền Đông Dương và Chủ bút phần Hán văn tờ Cộng Thị cho đến năm 1916.
Năm 1917, dưới sự bảo trợ của Louis Marty, Phạm Quỳnh sáng lập Nam Phong tạp chí, ông nhận làm Chủ bút phần Hán văn.
Sau thôi làm ở báo Nam Phong, ông vào Huế làm Tá lý Bộ Học và lần lượt trải qua các chức vụ: Tuần vũ Quảng Ngãi, Thị lang Bộ Binh, Tổng đốc Thanh Hóa, Tổng đốc Bình Định.
Tháng 8 năm 1945, Việt Minh lên nắm chính quyền, ông bị xử bắn công khai tại Quy Nhơn (Bình Định). Cũng như Phạm Quỳnh, người ta cho rằng ông làm việc cho Pháp nên bị cộng sản giết, nhưng sự thực không phải thế.
Nên nhớ rằng khoảng 1905, Phan Bội Châu lập hội Đông Du, được khoảng 200 thanh niên hưởng ứng sang Nhật du học. Năm 1908, Pháp bắt tay với Nhật, Nhật đuổi du học sinh Việt nam về nước. Một số sang Thái Lan, Trung Quốc ẩn náu và hoạt động, một số bỏ về nước. Cùng lúc này, Pháp cũng gửi người trà trộn thám thính và phá hoại tổ chức. Pháp cũng kêu gọi các trí thức, các thanh niên trở về nước. Một số thấy đại mộng không thành lại lâm vào đường quẫn bách nên đã bỏ về nước. Trong số đó có Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Sĩ Giác, Lê Dư. .Chúng ta không biết sau khi về nước, cụ Nghè Giác làm gì, chỉ biết sau 1954 cụ làm giáo sư môn Hán văn tại đại học Văn Khoa và Sư Phạm Saigon, cộng tác với trường Đại Học Luật Khoa Saigon trong việc dịch thuật các sách về luật lê thời xưa.
Lê Dư (?- 1967) là người ở xã Nông Sơn, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Thuở nhỏ, ông học ở quê nhà. Khoảng năm 1900, ông cùng với Nguyễn Bá Trác, Phan Khôi ra Hà Nội học tiếng Pháp, rồi tham gia công tác tại trường Đông Kinh nghĩa thục và phong trào Đông Du, Tháng 9 năm 1908, Nhật Bản thi hành hiệp ước Pháp - Nhật, nên đã ra lệnh trục xuất các nhà cách mạng và du học sinh người Việt, trong số đó có Lê Dư. Rời Nhật Bản, Lê Dư sang Trung Quốc tiếp tục hoạt động cách mạng. Trong thời gian ở nước ngoài, Lê Dư có đến Triều Tiên. Ở đây, ông là người đầu tiên phát hiện ra dòng họ Lý, hậu duệ của Hoàng tử Lý Long Tường, con thứ của vua Lý Anh Tông .
Năm 1925, Lê Dư về nước, vào làm việc ở phòng Chính trị thuộc Phủ Toàn quyền Bắc Kỳ, rồi làm việc ở Trường Viễn Đông Bác cổ Hà Nội. Vừa làm việc, ông vừa biên soạn sách và cộng tác với các báo: Nam Phong tạp chí, Hữu Thanh, Đông Thanh, Đông Tây,...Lê Dư là nhạc phụ của Phan Khôi cho nên ông đã biết được chân tướng Nguyễn Tất Thành ở Trung Quốc nên ông khinh bỉ cậu Ba. Nguyễn Bá Trác đã chết vì biết quá nhiều về Hồ Chí Minh, dù là Hồ Chí Minh thật hay giả. Cùng trường hợp này có nhiều người đã lọt vào tay Hồ Chí Minh.
Nghĩ đi nghĩ lại, tại sao thực dân đế quốc lại nhân đạo hơn người cộng sản? Những người chống Pháp nay trở về nước thì được Pháp và chính phủ Nam triều trọng dụng. Nếu họ không muốn tham gia chính quyền thì cũng được sống đời tự do. Nhất là giai đoạn chiến tranh khốc liệt 1945-1954, cộng sản khí thế bừng bừng thế mà thực dân Pháp không ra sức tiêu diệt cộng sản, lại sẵn sàng để cho dân từ chiến khu tràn về thành rất nhiều như Phạm Duy, Doãn Quốc Sỹ, Hoàng Thi Thơ, Nguyễn Mạnh Côn, Bùi Giáng, Võ Phiến... mà không bắt bớ, giam cầm . Chính sách nhân đạo này đã lưu truyền về sau như Ngô Đình Diệm trọng dụng Trần Chánh Thành, Phủ Quốc vụ khanh Mai Thọ Truyền dùng Hồng Liên Lê Xuân Giáo, Bộ Chiêu hồi của Bác sĩ Hồ Văn Châm tin dùng Xuân Vũ. Không có chế độ nào tàn ác bất nhân như cộng sản đã bắt giam những người trở về trên tàu Việt nam Thương Tín. Đối với nhân dân, cộng sản tàn ác, mà đối với đồng chí, cộng sản cũng hết sức dã man. Những người cộng sản hoạt động bí mật từ vùng quốc gia trở ra chiến khu, hoặc những tù nhân cộng sản bị Pháp, Mỹ hay quốc gia bắt rồi thả, khi trở về cũng bị điều tra gần chết như trường hợp Đoàn Duy Thành, nguyên Phó thủ Tướng Việt Cộng ( 5 )
Nhiều tay đặc vụ cộng sản như Đinh Bá Thi đã chết thê thảm khi trở về Việt nam. Hồi ký Hoàng Tùng cho biết trong một cuộc điều tra nội bộ, người ta hỏi người đứng đầu Đảng Cộng sản là ai, đồng chí ấy trả lời là Trần Văn Giàu, liền bị chôn một nửa người xuống hố sâu (6)
Người Pháp tử tế mà người Mỹ lại càng nhân đạo hơn. Cái đám ngu dại, phản phúc trên tàu Việt nam Thương Tín được Mỹ cho thực phẩm, xăng dầu và tàu trở về Việt Nam thì đã là quá nhân đức. Nhưng thế giới vô cùng ngạc nhiên hơn khi Mỹ đem cái đám Việt Cộng con, Việt Cộng cha, và thân cộng trên tàu Việt Nam Thương Tín sang Mỹ định cư. Cả Trần Trường cũng vậy. Chính họ thich cờ đỏ sao vàng, thích Việt cộng, từ chối ân huệ của Mỹ quốc thì cứ để cho họ ở với đảng và bác trọn đời cho thỏa chí tang bồng sao lại cho họ sang Mỹ để làm gì? Không biết những ông bà yêu nước và yêu hòa bình này mặt mũi vênh vang hay ngượng ngùng khi gặp người Mỹ, và họ nói sao với người Mỹ khi phỏng vấn? Và bây giờ họ sang Mỹ để làm người hay lại mang lốt khỉ hoạt động cho cộng sản?
Khi ở trên tàu VNTT, có lẽ những tên yêu nước và yêu hòa binh này cũng hò hét ầm ĩ hăng hái như những tên Việt cộng nằm vùng., và họ đã toại nguyện :
"Về đây mặc áo the đi guốc mộc
Kể chuyện tình bằng lời ca dao
Kể chuyện tình bằng nồi ngô khoai
Kể chuyện tình bằng hạt lúa mới
Và về đây nghe gọi tiếng xưa
Để nhớ trong tiếng vỗ bờ ...
...Về đây thả ước mơ đi hát dạo
Để chào đời bằng hạt sương mai
Để bằng lòng ngọt ngào hấp hối
Và hận thù người người lắng xuống
Rồi tìm nhau như tìm xót xa
Trong lúc lệ đã đầy vơi".
Ôi giấc mộng hòa bình đẹp quá. Gần năm chục năm trôi qua, một số đã thất, bát tuần, một số đã đi thăm bác. Nhưng nay những ông bà trên tàu VNTT lai xin qua Mỹ. Đã chơi thì chơi cho đến xế chiều, sao bỗng dưng bỏ cuộc chơi? Mấy ông bà này 'yêu hòa bình tổ quốc chúng ta" nhiệt tình đến thế nay sao lại bỏ khế ngọt mà đi ăn khế chua ? Không lẽ các ông bà lại bỏ mặc cho Tuấn Ngọc, Elvis Phương, Khánh Ly phải thui thủi với guốc mộc,, áo the? Thật là tội nghiệp cho lúa mới, ngô khoai bây giờ biết lấy ai bạn cùng? Cổ nhân có câu:
“Thế gian có mặt mũi nào
Đã nhổ lại liếm làm sao cho đành"!
3. LÂM ĐỨC THỤ (1890-1947)
Lâm Đức Thụ tên thật là Nguyễn Công Viễn, còn có biệt danh là Trương Béo hoặc bí danh là Hoàng Chấn Đông, quê ở Thái Bình, con trai cụ tú tài Nguyễn Hữu Đàn và là cháu nội nhà nho yêu nước Nguyễn Mậu Kiến. Lâm Đức Thụ thi đỗ đầu xứ, nên còn gọi là Đầu xứ Viễn. Năm 1912, Lâm Đức Thụ gia nhập Việt Nam Quang phục Hội của cụ Phan Bội Châu, rồi trở thành tay sai của Hồ Chí Minh, và theo lênh Hồ Chí Minh làm chỉ điểm cho mật thám Pháp , rồi đem bán Phan Bội Châu cho Pháp. Lâm Đức Thụ đã kéo một nhóm phản đồ phản đảng như Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái, Nguyễn Giãng Khanh, Đặng Xuân Hồng... đi theo Hồ Chí Minh . Khi HCM về Việt Nam, Lâm Đức Thụ tưởng bở về ăn ké, nhưng Lão già khuyên y về làng cũ Kiến Xương, Thái Bình, rồi năm 1947, y bị cộng sản giết, gán cho tội Việt gian, mật thám, tay sai của Pháp. Thế là rồi đời một tên ngu muội đi theo gian ác mà chết thảm thiết!
4. HÀ HUY TẬP (1906- 1941)
Hà Huy Tập là Tổng bí thư thứ 3 của Đảng Cộng sản Việt Nam, quê ở làng Kim Nặc, tổng Thổ Ngọa, nay là xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Ngoài căn bản Nho học được truyền thụ từ cha, ông còn theo học bậc Tiểu học tại Thị xã Hà Tĩnh. Sau khi học hết bậc Tiểu học, năm 1919, ông thi vào trường Quốc học Huế. Năm 1923, ông tốt nghiệp Diplôme hạng ưu, được phân về dạy tại trường Tiểu học Nha Trang cho đến năm 1926.
Tháng 7 năm 1928, ông ra Bắc, được giao nhiệm vụ liên lạc với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ngõ hầu tìm cách thống nhất tất cả các tổ chức chống thực dân Pháp vào một tổ chức hành động chung. Ngày 19 tháng 7 năm 1929, ông sang Liên Xô, học trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Moskva với bí danh là Xi-nhi-trơ-kin (Синичкин). Cuối năm 1929, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản toàn liên bang (bôn-sê-vích). Trong thời gian này ông đã soạn thảo “Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương” và “Sơ thảo lịch sử phong trào Cộng sản ở Đông Dương”.
Tháng 4 năm 1933, ông tốt nghiệp khóa học và trở về Việt Nam. Trên đường về ông bị Pháp bắt và bị trục xuất sang Bỉ, sau đó trở về Trung Quốc, được Quốc tế Cộng sản chỉ định tham gia Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương, do Lê Hồng Phong là Bí thư. Từ ngày 16 đến ngày 21 tháng 6 năm 1934, Hội nghị Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương và đại diện các tổ chức Đảng ở trong nước được tổ chức, gồm có Lê Hồng Phong, 'Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Dựt, Nguyễn Văn Tham và Trần Văn Chấn. Hội nghị đã thông qua Nghị quyết Chính trị và Nghị quyết Về các vấn đề tổ chức.
Tháng 3 năm 1935, tại Đại hội I của Đảng ở Ma Cao, Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư. Hà Huy Tập được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và được cử vào cương vị Bí thư Ban Chỉ huy hải ngoại. Đến tháng 7 năm 1936, Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng họp Hội nghị lần thứ nhất, Ban Chấp hành Trung ương cử ông về nước để lập lại Trung ương cấp ủy và và giữ chức Tổng Bí thư từ ngày 26 tháng 7. Ông trực tiếp chỉ đạo các báo L'Avant garde (Tiền phong) (1937), Dân chúng (1938) của Đảng dưới danh nghĩa "cơ quan lao động và dân chúng" ở Nam Kỳ.
Ngày 1 tháng 5 năm 1938, ông bị bắt do có chỉ điểm trong khi tham dự ngày Quốc tế Lao động tại Sài Gòn. Ông bị trục xuất khỏi Nam Kỳ và bị đưa về quê chịu quản thúc. Đến ngày 30 tháng 3 năm 1940, ông bị bắt lại và đưa vào Nam Kỳ để xét xử.
Ngày 25 tháng 3 năm 1941, chính quyền Pháp đổi bản án của ông thành án tử hình vì "chịu trách nhiệm tinh thần về cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ" (cùng bị kết án tử hình với Hà Huy Tập còn có Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai). Trước tòa ông tuyên bố: "Tôi chẳng có gì phải hối tiếc. Nếu còn sống tôi sẽ tiếp tục hoạt động".
Ngày 28 tháng 8 năm 1941, ông bị chính quyền Pháp xử bắn cùng với một số nhà cách mạng khác tại Sở Rác (nay là bệnh viện Hóc Môn, Sài Gòn).
Ông chết vì bị chỉ điểm. Cái thuật này Hồ Chí Minh đã dùng để triệt hạ những ai không theo cộng sản, hoặc theo cộng sản mà không thuộc phe đảng của ông, hoặc ngang tàng bướng bỉnh, hoặc biết quá nhiều!
Hà Huy Tập có "tội " rất lớn đối với Hồ Chí Minh, dù là Nguyễn Tất Thành hay Hồ Tập Chương. Trong lúc Stalin đang hăng say uống máu đồng chí và nhân dân trong cuộc đại khủng bố 1930, việc Hồ Chí Minh bị bắt ở Hương Cảng 1932, rồi được người Anh thả ra là một mối nghi ngờ lớn cho Stalin.Trong lúc dầu sôi lửa bỏng này, Hà Huy Tập lại ném vào một thùng xăng to tổ bố vào mặt mũi Hồ Chí Minh. Về việc này Duiker đã ghi nguyên văn một đoạn trong báo cáo của Hà Huy Tập gửi QT3 đề ngày 20-4-1935 nội dung như sau gồm các điểm tố cáo Hồ Chí Minh như sau:
(1).Hồ Chí Minh phản bội chủ trương quốc tế vô sản mà lại đi theo chủ trương dân tộc.
Stalin lúc này căm thù khuynh hướng quốc gia vì khuynh hướng này đã làm nhiều nước vì yêu nước mà chống Đức và từ bỏ khuynh hướng thân Đức của Marx , Lenin, Stalin làm cho quốc tế II tan vỡ.
(2. Hồ Chí Minh bắt các đảng viên kê khai lý lịch, địa chỉ để cho Pháp bắt các đảng viên.
Như vậy là Hà Huy Tập kết tội Hồ Chí Minh chỉ điểm cho Pháp bắt các đảng viên cộng sản.
(3).Hồ Chí Minh bắt tay với Lâm ĐứcThụ là một gián điệp của Pháp.
Nói nhự vậy nghĩa là Hà Huy Tập tố HCM là gián điệp của đế quốc Anh và thực dân Pháp
Điểm quan trọng là mở đầu bản báo cáo ông cho biết các đồng chí khắp nơi đều phê phán, nghi ngờ HCM. (7)
Đài BBC viết như sau:
" Các nhà nghiên cứu nước ngoài từ lâu đã cho biết Hồ Chí Minh (hay Nguyễn Ái Quốc, tên được dùng từ 1919), thời trước 1945, không được Liên Xô trọng dụng.
Lần đầu tiên khi tới Moscow, ông Hồ "không nhận được sự quan tâm chu đáo".
Ông Hồ viết trong một lá thư tháng Ba 1924: "Đã hơn một tháng nay, tôi xin đồng chí vui lòng tiếp để có thể thảo luận với đồng chí về tình cảnh thuộc địa của Pháp. Cho tới nay, tôi vẫn chưa được trả lời. Hôm nay, tôi xin mạn phép nhắc lại sự thỉnh cầu đó, và xin đồng chí nhận lời chào cộng sản anh em."
Lý thuyết cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh bị chính những người cộng sản Việt Nam khi đó phê phán. Hà Huy Tập, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương từ 1936 đến 1938, đã gọi Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (do Nguyễn Ái Quốc thành lập năm 1925) và Tân Việt cách mạng đảng "có những sự xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin", "mắc chủ nghĩa cơ hội trong lý luận và trong thực tiễn, tư tưởng biệt phái, đóng kín".
Cuốn Đường Kách mệnh được Hồ Chí Minh viết năm 1927, bị phê phán là "những điều ngu ngốc về lý luận".
Năm 1930 Hồ Chí Minh cho rằng phải thành lập đảng cộng sản riêng rẽ ở ba nước Đông Dương, nhưng Quốc tế Cộng sản chủ trương chỉ thành lập ở Đông Dương một đảng duy nhất.
Kết quả hội nghị ở Hong Kong tháng 10.1930, do Trần Phú chủ trì, quyết định bỏ tên Việt Nam cộng sản Đảng mà lấy tên Đông Dương cộng sản Đảng.
Ba năm sau, viết trên tạp chí lý luận của Đảng Cộng sản Pháp, Hà Huy Tập phê phán Nguyễn Ái Quốc "phạm một loạt sai lầm cơ hội chủ nghĩa" và rằng lúc mới thống nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam "chưa có đường lối chính trị đúng đắn ( 8)
Tuy theo chủ trương " tốt khoe xấu che", đảng cộng sản Việt Nam đôi khi cũng hé lộ ít nhiều thâm cung bí sử cho dù họ cố bênh vực HCM. Tạp chí điện tử Bảo Tàng Bà Rịa viết về Hà Huy Tập như sau:
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng tại Ma Cao (Trung Quốc). Đại hội I từ ngày 27 đến ngày 31-3-1935 dưới sự chủ trì của Hà Huy Tập đã thảo luận và thông qua các văn kiện, bầu ra Ban chấp hành Trung ương. Hà Huy Tập đã có đóng góp rất quan trọng trong quá trình chuẩn bị văn kiện Đại hội và tổ chức Đại hội. Bên cạnh những hạn chế về nhận thức lý luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam, dẫn đến những chủ trương mà Nghị quyết Đại hội “vạch ra không sát với phong trào cách mạng thế giới và trong nước lúc bấy giờ” (Hồ Chí Minh: toàn tập, Sđd, t6, tr.155), Hà Huy Tập vẫn tiếp tục phê phán tập sách Đường cách mệnh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là “lý thuyết đầu cơ, cải lương, duy tâm, quốc gia chủ nghĩa” (ĐCSVN, Sđd, tập 5, tr. 20).
Tiếp đó, Báo cáo của Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi Quốc tế Cộng sản ngày 31-3-1935 (do Hà Huy Tập khởi thảo) cũng nhận định rằng tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập mang tàn dư của "tư tưởng dân tộc cách mạng pha trộn với chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa duy tâm của các đồng chí Hội Việt Nam cách mạng Thanh Niên và của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, những tàn dư ấy rất mạnh và tạo thành một chướng ngại nghiêm trọng cho sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản" (Sđd, tập 5, tr. 203).
Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng cho rằng “cuộc tranh đấu không nhân nhượng chống những học thuyết cơ hội này của đồng chí Quốc (tức lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc) và của Đảng Thanh Niên (tức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên- BT) là cần thiết và yêu cầu đồng chí Lin (tức Nguyễn Ái Quốc) phải viết một cuốn sách để tự phê bình những khuyết điểm đã qua" (Sđd, tập 5, tr. 204 (9).
Sống trong chế độ cộng sản thật khó khăn cho nên nguyên Phó thủ tướng cộng sản Đoàn Duy Thành đã kêu lên "làm người thật khó " ! Chỉ một lời tố cáo vu vơ là đủ toi mạng huống hồ HCM được tổng bí thư và ban chấp hành đảng báo cáo chính thức thì làm sao sống nổi với Stalin! HCM phải đi thăm cụ Marx trong khoảng 1935. HCM không được Stalin coi là đồng chí , không coi là người có khả năng nên từ lâu người ta đã bố trí Hồ Tập Chương, cũng bí danh Pôn Lìn vào ban sáng lập đảng cộng sản Việt nam, cho nên sau khi HCM lên thiên đàng thì Hồ Tập Chương về thay thế một cách rất tự nhiên. Hồ Tập Chương là Hồ giả mạo thì lại càng ra tay sát nhân diệt khẩu. Danh sách nạn nhân rất dài, trong đó có thể có cả ông Cả Khơm (1888- 1950) là người biết quá nhiều.
Một vài người xưng danh là chống đảng độc tài, tìm đường tự do, chạy sang Pháp, cũng đã chửi bới HCM nhưng thật tâm vẫn ca tụng HCM, cực lực phủ nhận thuyết HCM- Hồ Tâp Chương. Nhưng việc này đâu khó khăn gì mà không hiểu. Việc trà trộn người , việc giả mạo là chuyên môn của ngành gián điệp, và chuyện thường trong đảng cộng sản. Thế giới cộng sản là thế giới ảo, người cộng sản là ma quỷ, mọi việc của cộng sản là gian trá, không có chuỳện nào, việc nào là thật. Ta có thể theo bà thủ tướng Đức Angela Merkel mà nói rằng cộng sản dối trá và làm cho dân dối trá.
Trước mắt đã có hai tiền sử, đó là việc Trung Quốc đã đưa một người Việt gốc Hoa ở Nghệ An là Trương Phước Đạt từ năm 1933 đến 1938 thành tổng bí thư đảng CS Malaysia , và việc Việt Nam đã đưa Hun Sen là người Việt Nam sang làm lãnh tụ Cambodia. Hơn nữa, quốc tế ba là một loại siêu đế quốc họ bắt các đảng từ bỏ tính dân tộc để phục vụ cho chủ nghĩa quốc tế, mà quốc tế chính là Liên xô, là Stalin. Marx chủ trương xóa bỏ giai cấp, xóa bỏ biên cương quốc gia là để lập một thế giới đại đồng do đảng cộng sản cai trị với chính sách vô sản chuyên chính. Đi xa hơn và cũng gần hơn, Lenin, Stalin lập Quốc tế III cũng là xóa biên cương quốc gia cho Nga thôn tính các quốc gia lân cận lập Liên bang Xô Viét và bắt các nước Đông Âu làm chư hầu cho Nga! Sau khi Stalin chết, Mao muốn nhảy lên làm bá chủ thiên hạ. Người của quốc tế ba nằm trong ban lãnh đạo các đảng, cho nên tất cả đảng viên phải tuân theo chính sách " dân chủ tập trung", nghĩa là tuyệt đối tuân lệnh lãnh tụ, tuyệt đối tuân hành lệnh Nga, Tàu. Trong tình trạng này, HCM là Nguyễn Tất Thành hay Hồ Tập Chương không có ý nghĩa gì khác nhau vì tất cả đều là nô lệ của quốc tế ba, của Stalin, của Mao Trạch Đông.
Cộng sản là một chủ nghĩa gian manh xão quyệt, từ lý thuyết cho đến con người và tổ chức. Trong lịch sử đảng cộng sản có hàng ngàn, hàng vạn trường hợp chứ không phải hai trường hợp Trương Phát Đạt và Hunsen. HCM chính là một con người giả cũng như Trương Phát Đạt, Hunsen, Hồ Tập Chương. HCM là một kẻ gian xão, chuyên gạt gẫm, cướp đoạt. HCM là một tên đại ma đầu. HCM là người giả. Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy ...là người giả. Nguyễn Tất Thành mới là người thật, nhưng bản thân y từ chối tên này cho nên Nguyết Tất Thành trở thành một con ma cụt đầu. Cậu học sinh Quốc Học, giáo viên trường Dục Thanh, học viên trường Đông Phương là giả mạo. Và cái đám cộng sản không học hành , dốt nát tàn ác nhưng thù hận trí thức (trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ), như đám y tá Nguyễn tấn Dũng năm ba bữa đã thành cử nhân, tiến sĩ, thạc sĩ ào ào. Như vậy bọn họ cũng là người giả giống như Hồ Tập Chương đóng vai HCM nào có khác gí, nào có lạ gí!.
Mặt trận Giải Phóng là ma quỷ. Trịnh đình Thảo, Nguyễn Hữu Thọ là những hình nộm mà lãnh đạo thực sự là đảng cộng sản ngoài Hà Nội, và xa nữa là Mao Trạch Đông.. Những ai trước đây ca tụng GPMN yêu nước chống Mỹ, không phải cộng sản, nay thì đã hiểu Võ Chí Công, Phùng Văn Cung, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Văn Linh, Trần Văn Trà, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh , Huỳnh Minh Siêng, Anh Đức...cũng là những người giả , việc giả như Hồ Tập Chương, là cộng sản tay sai của HCM, Mao Trạch Đông.
Ngày nay, CHXHCN VN là toàn giả mạo. Yêu nước là giả, đầu hàng Trung cộng là thật. Sư quốc doanh 80% là giả vì đó là công an, bộ đội, cán bộ hưu trí đóng chốt trong các chùa.. Công thương nghiệp là giả là vì các nhóm quyền lợi lập công ty ma . kế hoạch ma để cướp tài sản công. Cán bộ công nhân viên, tiến sĩ, thạc sĩ 80% là giả, không có khả năng làm việc, chỉ là con ông cháu cha ngồi mát ăn bát vàng trong các bộ viện, cơ quan. Các cán bộ ngoại giao, các nhân viên hàng không, các sứ quán, các tổ chức du lịch, lao động...đều là giả mạo để đậy cho việc ăn cắp hàng hóa, buôn ngưởi, kinh doanh thân xác cho đảng hay một nhóm quyền thế nào đó..Việc trước mắt ai cũng thấy là cầu giả, đường giả, bác sĩ giả tràn lan. Đó là một chủ trương có tính tập thể quy mô rất lớn, rất mạnh, từ trên xuống dưới, không phải của một vài cá nhân nào. Làm hàng giả là chuyên ngà nh của cộng sản, chính Tố Hữu đã khoan khoái cười to:
" Giả mà như thiệt khó chi mô !"
Cái trò tráo long thay phương, treo đầu dệ bán thịt chó là chuyên nghiệp của cộng sản. Trong một tổ chức cộng sản, các ông thủ trưởng nhiều khi là bù nhìn, thủ trưởng thứ thiệt lại là một anh lao công hay chị thư ký hạng bét. Thành thử ai làm bù nhìn cũng được. Võ Nguyên Giáp làm đại tướng bộ trưởng quốc phòng cũng được vì đàng sau đã có đaị tướng thứ thiệt là Trung Cộng hay Liên xô. Võ Nguyên Giáp không là gì cả. Võ Nguyên Giáp là hình nộm, là tên hề được tổ chức đeo râu mang giáp lên sâu khấu đóng trò. Nếu quả VNG có tài thì sao bao kế hoạch của VNG bị các tướng Trung cộng đặt xuống ghế ngồi, Trường Chinh khinh khi, và cả Nguyễn Sơn, Văn Tiến Dũng , Lê Duẩn, Lê đức Thọ miệt thị?
Tại Saigon, giám đốc thư viện quốc gia là Thanh Nghị thật ra là một thằng bù nhìn, bị đánh, bị đạp, bị chửi mà không dám khóc. Còn giám đốc thật sự là một người khác, một mụ đàn bà Bắc Kỳ không ngớt miệng thóa mạ Thanh Nghị. Cái đám sư tăng quốc doanh nào là đại sư Thích Trí Tịnh, Thich Trí Thủ , tiến sĩ Thích Minh Châu, học giả Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thác... múa may quay cuồng oai phong là thế nhưng phải quỳ rạp trước người em gái Lê Đức Thọ mà còn bị xỉa xói chửi mắng tàn tệ.! Trong cộng sản tất cả đều giả dối nào phải riêng HCM. Tất cả đều giả mạo, là bù nhìn. HCM, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đều là con rối do Bắc Kinh,. Mạc Tư Khoa giật dây, nào phải riêng chỉ Bảo Đại , Ngô Đinh Diệm mà cười cợt làm chi? Các ông quốc gia sống đời thật thà thì khó lòng tin chuyện ma quỷ, còn các ông đã sống với cộng sản đã sống cạnh Bác Hồ, đã làm tá làm tướng lẽ nào không biết chuồng trâu, chuồng bò, chuống xí thì thúi hoắc, đầy ruồi muỗi., thế thì sao thấy người ta bịt mũi, nôn oẹ thì lại ngạc nhiên? Các cụ ngạc nhiên thật hay ngạc nhiên giả hỡi các ông cụ ngây thơ?
Sau khi Hồ Chí Minh Hồ Tập Chương về nước, việc đầu tiên là thực hiện kế điệu hổ ly sơn, đẩy Hà Huy Tập vào Nam, xứ lạ quê người, rồi theo thuật cũ cho người chỉ điểm để Pháp bắt và giết Hà Huy Tập. Một số nạn nhân khác cũng được Hồ Chí Minh dùng tay người Pháp diệt trừ như trường hợp HCM đã trừ Phan Bội Châu năm 1924, vừa trừ được đối thủ tương lai, vừa có tiền chơi bời, chẳng kể nhân nghĩa liêm sỉ. Phùng Chí Kiên , hay Nguyễn Sơn đáng lẽ là đại tướng bộ trưởng quốc phòng nhưng HCM tin tưởng tài nịnh hót và nghề chém giết của Võ Nguyên Giáp, và họ Hồ tối kị Phùng Chí Kiên chuyện gì đó, có lẽ họ Phùng vì biết quá nhiều, nên năm 1941, trung đội Bắc Sơn của PCK đã “vô tình” bị trên 4000 lính Pháp vây đánh và Phùng Chí Kiên cùng người phó Lương Văn Tri bị Pháp giết...
Nguyễn Bình trên đường ra Bắc cũng bị máy bay Pháp bắn chết. Có lẽ Phùng Chí Kiên hay Nguyễn Bình, Nguyễn Văn Tố không bị máy bay Pháp bắn, không bị lạc đạn Pháp ruồng bố mà là do ban ám sát đảng bắn hạ sau lưng. Họ nhân có máy bay Pháp bay trên trời rồi bắn hạ và bảo là máy bay Pháp bắn. Họ nhân Pháp hành quân mà ám sát rồi đổ cho Pháp bắn. Đó là thuật "thừa gió bẻ măng". Ai mà biết đúng hay sai vì ngày nào chẳng có máy bay Pháp, và quân Pháp bố ráp. Thuật này cũng áp dụng cho các binh sĩ hay cán bộ cộng sản khi đi đường hay về thăm nhà thường có hai bộ đội đi theo, nếu gặp gặp máy bay Pháp hay Pháp đổ bộ là những người hộ vệ này có quyền bắn hạ để trừ diệt trước những ai muốn bỏ ngũ, đầu hàng Pháp , hoặc rơi vào tay Pháp rồi tiết lộ bí mật đảng. Thuật bắn hạ sau lưng cũng được Ngô Đình Nhu áp dụng để giết Trịnh Minh Thế, một phản đồ của Cao Đài, theo voi ăn bã mía tưởng một bước làm nên công hầu khanh tướng mà bị chết thảm vì những viên đạn bắn từ phía đàng sau! Việc này các cháu Bác Hồ, các tướng tá thâm niên phải hiểu rõ hơn ai hết vì bác Hồ còn chơi độc hơn thế nữa ! Cán bộ đảng trung kiên nhưng thành phần xấu, và nông dân nghèo cũng bị giết trong trò chơi khủng bố của Bác huồng hồ những ai bị Bác đã ghi vào sổ đoạn trường!
Có lẽ Phùng chí Kiên, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai , Ngô Gia Tự đã theo Hà Huy Tập tố cáo HCM cho nên tất cả đều bị chết do bàn tay HCM chỉ điểm cho Pháp , theo thuật mượn dao giết người.Và nhiều đảng viên công sản cũng bị giết vì tội biết quá nhiều hoặc tội có khả năng tranh đoạt uy quyền HCM dù cho là ông ta người Tàu hay một người Việt nào đó.
Có rất nhiều người biết rõ tội ác Hồ Chí Minh nhưng họ khôn ngoan ẩn giấu thân phận và thái độ. Tất cả những người thân cận HCM đều biết rõ HCM không nhiều thì it, nhưng vì danh lợi và sợ hãi mà họ cam phận nô lệ cho HCM và Nga, Tàu. Võ Nguyên Giáp giả bộ điếc và mù nên sống trên trăm tuổi. Trong "Tướng Đi Đêm " , Trần Nhu đã cho biết mặt thật hèn nhát của Võ Nguyên Giáp khi Hồ Chí Minh tuyên bố việc cắt đất dâng Tàu (10)
Một số ngu thành tin tưởng đảng và lãnh tụ, họ theo chủ nghĩa quốc tế, từ bỏ quốc gia , dân tộc. Họ không quan tâm đến chủ tịch nước là người Trung quốc hay người Việt nam, nước Việt nam còn hay mất, miễn là Trung Quốc cho họ ăn no, viện trợ súng đạn và tiền bạc cho họ, và cho họ quyền lợi thế là đủ. Trong kháng chiến chống Pháp, lực lượng Việt minh đói rách vũ khí thô sơ, được Trung cộng viện trợ súng đạn, xe ô tô, cấp lương thực và dụng cụ cá nhân như áo trấn thủ, bi đông, giày dép, cơm khô, gạo sấy, nhị hồng sâm ... là các anh bộ đội , cán bộ sướng rơn, miệng không ngớt hoan hô Mao Trạch Đông, Đông phương hồng mặt trời lên... Bọn tiểu tốt đã thế huống hồ bọn đại cán. Bọn cán bộ cao cấp tất nhiên hoan hô Trung Cộng, ủng hộ Hồ Chí Minh dù y là Hồ Tập Chương hay Nguyễn Tất Thành hay là ai đi nữa miễn là cho họ quyền cao chức trọng. Tô Hải đã nói đúng tâm lý tướng lĩnh, cán bộ và binh sĩ Việt cộng khi nhận viện trợ Trung quốc, và được Trung Quốc bảo hộ:
Số là trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn trong nước được lệnh “sáp nhập” vào phân hiệu Côn Minh mà sau này tôi mới hiểu là trường sĩ quan mà các cố vấn Tầu, sau một thời gian giúp đỡ củng cố đã nhận xét là một trường của giai cấp... tiểu tư sản, tổ chức “sai lầm cả về nội dung lẫn hình thức”! Chỉ có thể “uốn nắn” bằng cách...cho nhập luôn vào trường bên Tầu! Như thế là trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn của chúng tôi, tới khóa VI, đã bị xóa tên người anh hùng trong lịch sử Việt Nam! Đến nay người ta chỉ gọi là Trường Sĩ Quan Lục Quân 1, Lục Quân 2, mà chẳng cần giải thích gì hết! Nói trắng ra từ ngày đó, anh “lính cụ Hồ” đã trở thành “lính cụ Mao”! Từ chân đến đầu, từ khối óc đến trái tim, từ hột cơm đến miếng nước, tất cả đều nhờ Đảng Cộng Sản Trung Quốc dạy dỗ và nhân dân Trung Quốc “nhường cơm sẻ áo”!(11)
Dù HCM ra tay sát nhân diệt khẩu, và che giấu tội ác, nhưng tội ác của HCM và đảng cộng sản không thể che giấu mãi. Lịch sử và nhân dân dân ta sẽ vạch rõ tội ác của chúng và tiêu diệt chúng. Tâm lý sùng bái Trung cộng, sùng bái Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh chắc hẳn tồn tại trong những cán bộ, bộ đội cũ.. Nhưng một số như bà Võ Nguyên Giáp, Trần Xuân Bách, Nguyễn Kiến Giang, Trần Độ, Việt Khang, Huỳnh Thục Vy và đa số nhân dân, đặc biệt những người mất nhà, mất đất, mất tự do, bị mất biển đánh cá, mất đất làm ruộng tất phải chiến đấu bảo vệ tổ quốc và nhân quyền. Bên cạnh họ, đồng bào hải ngoại và nhân dân thế giới sẽ ủng hộ cuộc chiến đấu thần thánh này.
_______________
(1). Hứa Vạng Thọ. Hội Tam Điểm.(La Franc- Maçonnerie / Freemasonry ).www.tinparis.net/timhieu/htamdiem1a.html
(2). Thủy Nguyên. http://bookhunterclub.com/hoi-tam-diem-o-viet-nam/
(3). Hứa Vạng Thọ. Hội Tam Điểm.(La Franc- Maçonnerie / Freemasonry ).www.tinparis.net/timhieu/htamdiem1a.html
(4) .Thủy Nguyên. http://bookhunterclub.com/hoi-tam-diem-o-viet-nam/
(5).ĐOÀN DUY THÀNH * HỒI KÝ III
(6). HOÀNG TÙNG * HỒI KÝ
(7). HOÀNG TÙNG * HỒI KÝ ; William Duiker..HO CHI MINH A LIFE III
(8). Lê Quỳnh. Bài học từ Việt Nam- http://www.bbc.co.uk/vietnamese/specials/170_viet_studies/page3.shtml )
(9)..http://www.baotangbrvt.org.vn/index.php?Module=Content&Action=view&id=214&Itemid=261
(10).TRẦN NHU * TƯỚNG ĐI ĐÊM
(11). TÔ HẢI HỒI KÝ 6