Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Tuesday, 1 November 2016

CỘNG SẢN ĐÀN ÁP PHẬT GIÁO = BIỂN ĐÔNG

CỘNG SẢN ĐÀN ÁP PHẬT GIÁO

Cuộc đàn áp quy mô Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sau 30/4
Ỷ Lan, Phóng viên RFA, Paris
2015-04-27

4892908803_c9f120b1b7.jpg
Từ trái sang phải: HT Thích Quảng Độ, Nhật Thường, Thích Nhật Ban, Đồng Ngọc, Thích Trí Lực, Thích Không Tánh tại TAND TPHCM tháng 8 năm 1995.
Photo courtesy of lehienduc.blogspot.com
Danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) ra đời tại Saigon ngày 4 tháng giêng 1964, sau cuộc đấu tranh đòi hỏi bình đẳng tôn giáo và tự do tín ngưỡng năm 63. Vì trước đó, Dụ số 10 của Pháp bó buộc phải hoạt động theo quy chế Hiệp hội.
Kể từ tháng 9 năm 75, cuộc đàn áp Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bắt đầu theo Chỉ thị số 20 của Đảng do ông Lê Duẩn ký năm 1960, khiến  Phật giáo miền Bắc bị tiêu vong. Nay đem thực hiện tại Miền Nam.
Cuối tháng 9 năm 75, Hoà thượng Thích Huyền Quang nhân danh Viện Hoá Đạo đã có văn thư phản đối Chủ tịch Cách Mạng Lâm thời về việc đập phá các tượng Phật lộ thiên.
Nhiều hiện tượng khác, như bắt treo hình Hồ Chí Minh trên bàn thờ tổ tiên, áp lực chư Tăng hoàn tục, hoặc đưa sang chiến trường Kampuchia, cấm treo cờ Phật giáo trong các chùa viện, cưỡng chiếm các cơ sở văn hoá, giáo dục, từ thiện Phật giáo, như Cô nhi viện Quách Thị Trang, Viện Đại học Vạn Hạnh, v.v…, hàng chục nghìn Tăng Ni, Phật tử bị đưa vào trại Cải tạo.
Trong lịch sử Việt Nam, chưa có thời đại nào mà số lượng Tăng Ni, Phật tử bị cầm tù đông đảo như dưới triều đại Hồ Chí Minh.
Tình trạng đàn áp bức thiết khiến 12 Tăng Ni tự thiêu tập thể ngày 2-11 năm 75 tại Thiền viện Dược Sư, tỉnh Cần Thơ, dưới hàng biểu ngữ “Chết vinh hơn sống nhục“. Đại đức Thích Huệ Hiền để lại chúc thư yêu sách chính quyền Cách mạng thực hiện nhân quyền, tự do tôn giáo, chấm dứt đàn áp GHPGVNTN.
Tình trạng đàn áp có chủ trương và chính sách này, không ai lên tiếng rõ hơn Đức cố Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu. Năm Mậu Thân 68, ngài bị cộng sản bắt đưa lên rừng rồi đưa ra Hà Nội áp lực tuyên truyền cho chế độ, nhằm đánh lừa dư luận quốc tế là Phật giáo ủng hộ Bắc Việt. Thế nhưng, trở về lại miền Nam, ngài từ nhiệm tất cả các chức vụ mà Hà Nội gán cho, lại còn tố cáo đàn áp Phật giáo và thảm sát cố Hoà thượng Thích Thiện Minh. Sau đây là tiếng Ngài qua một băng thu âm, được đăng tải trên tạp chí Quê Mẹ tại Paris :
“Từ khi giải phóng đến nay, Phật giáo đồ chúng tôi bị bao nhiêu khổ đau tan tác. Đi bất cứ đâu, đạo khác thì chúng tôi không biết, chớ về gặp các nhà chùa Phật giáo, cán bộ, bộ đội phát biểu “Hòa bình Độc lập rồi, tu mà làm gì nữa? Tuân thủ thờ Cách mạng hơn là thờ Phật“.
“Bắt đầu từ đó, sự vận động, khủng bố không cho họ được làm lễ. Phá hoại tượng Phật lộ thiên ở Gia Lai, Kontum, Ban Mê Thuột, Biện Hồ, Vũng Tàu, Quy Nhơn, Quảng Ngãi… Bộ đội cột giây lên kéo xuống, đập vỡ tan hết.
“Sau đây còn bắt các vị tu sĩ lấy lý do mấy ông Sư đó phản động theo CIA, theo Mỹ, theo Nguỵ. Rồi lần lượt bắt cho đến các vị lãnh đạo trong Viện Hoá Đạo nữa, Thượng toạ Huyền Quang, Thượng toạ Quảng Độ, rồi đến bắt Thượng toạ Thiện Minh nữa, để Thiện Minh chết nữa.
“Thiện Minh không có tội chi hết, thì tại sao chính phủ làm cái việc lạ lùng hết sức. Đi bắt tội người không có tội chi hết là Thiện Minh mà lại dung tha cho người có tội là cơ quan. Tôi thì không biết rõ luật quốc tế lắm. Nhưng tôi đoán chắc rằng, luật quốc tế không cho phép để cho người bị bắt chết trong trại giam. Mà đây Thiện Minh đã chết trong trại giam. Cơ quan nói Thiện Minh chết vì xuất huyết não. Tôi có thể kết luận, Thiện Minh chết không phải vì xuất huyết não, mà vì bàn tay tội ác chính trong cơ quan tạo ra. Là bởi được tin Thiện Minh chết, Viện Hoá Đạo về liền, thấy các ông bỏ trong hòm mà liệm rồi, chỉ chừa cái mặt. Viện Hoá Đạo xin đem về chôn cất, các ông không cho.
“Tại sao vậy ? Đây thấy rõ ràng quá. Rõ ràng như hai với hai là bốn. Là trong người của Thiện Minh đầy cả thương tích. Muốn che đậy thương tích đó, muốn che đậy lấp liếm cái việc làm của mình, bằng cách bỏ trong hòm liệm đi. Bởi vì sợ người ta thấy những cái vết thương mà các ông đã đánh đập.
“Là một công dân, tôi không thể để cho cơ quan làm những việc bất chính như vậy. Tôi xin nhắc lại ba điều yêu cầu:
“Một là yêu cầu chánh phủ trả tự do cho tất cả các tu sĩ bị bắt giam cầm đã lâu mà không can án;
“Thứ hai là đưa cái chết của Thượng toạ Thiện Minh ra ánh sáng, nghĩa là phải đưa người giết Thiện Minh ra ánh sáng. Không nói lôi thôi gì hết. Có người giết;
“Thứ ba phải chấm dứt tình trạng khủng bố các tín đồ ở các địa phương“.
Ngày 16-4-1977, Uỷ ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra Thông báo kêu gọi Phật tử Saigon đấu tranh chống lại GHPGVNTN. Thông báo cho rằng, “trong giới lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phái Ấn Quang có nhiều người vốn có mưu đồ xấu chống cách mạng, chống Cọng sản” (…) “Số này đã thao túng Giáo hội âm mưu kích động Phật tử chống lại các chính sách của Nhà nước”. Thông báo còn hăm doạ ra tay đàn áp.
Hăm doạ biến thành sự thật, bảy vị lãnh đạo Viện Hoá Đạo bị bắt giam. Hoà thượng Huyền Quang, Quảng Độ bị giam 20 tháng, nhờ áp lực quốc tế mới được thả nhưng bị quản chế. Hoà thượng Thích Thiện Minh bị tra tấn đến chết tại Trại thẩm vấn X4, đường Nguyễn Trãi, Saigon, như Hoà thượng Đôn Hậu tố giác.
Suốt 5 năm đàn áp, khủng bố, nhưng không thành công tiêu diệt GHPGVNTN. Năm 1981, nhà cầm quyền Cộng sản chuyển qua chiêu bài mới, gọi là Thống nhất Phật giáo“, thành lập “Hội Phật giáo Việt Nam” tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, ngày 4-11để làm công cụ chính trị cho Đảng và Nhà nước. Ép buộc Tăng Ni, Phật tử thuộc GHPGVNTN phải gia nhập.
Ông Xuân Thuỷ, Bí thư Trung ương Đảng kiêm Trưởng ban Dân Vận chỉ thị cho ông Đỗ Trung Hiếu, cán bộ tôn giáo vận, thực hiện cuộc Thống nhất Phật giáo này. Ông giải thích cho ông Hiếu vì sao phải dẹp bỏ GHPGVNTN như sau :
“Quan trọng là Đảng không bao giờ lãnh đạo được Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, mà ngược lại Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trở thành một tổ chức tôn giáo rộng lớn có đông đảo quần chúng, là một tổ chức có áp lực chính trị thường trực với Đảng và chính phủ Việt Nam”.
Năm 1994, hối hận việc làm sai lạc của mình, ông cho phát hành tập sách “Thống nhất Phật giáo” nói lên tất cả sự thật và tiết lộ :
thichquangdo11-400.jpg
Hoà thượng Quảng Độ uỷ lạo và tiếp tế thực phẩm thuốc men cho Dân oan trước văn phòng Quốc hội II ở TP.HCM.
“Cuộc thống nhất Phật giáo lần này, bên ngoài do các Hòa thượng gánh vác, nhưng bên trong bàn tay Đảng Cộng sản Việt Nam xuyên suốt quá trình thống nhất để nắm và biến Phật giáo Việt Nam trở thành một tổ chức bù nhìn của Đảng. (…) Nội dung hoạt động là do cúng bái chùa chiền, không có hoạt động gì liên quan tới quần chúng và xã hội. Hội Phật Giáo Việt Nam ở trong Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, tuân thủ luật pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Kể từ đó, GHPGVNTN bị đưa ra ngoài vòng pháp luật, dù Nhà nước không có văn kiện nào chính thức giải thể. Một cuộc đàn áp mới sắp khai trương.
Vài tháng sau Giáo hội Phật giáo nhà nước ra đời tại Hà Nội, ngày 24-2-1982, Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định trục xuất hai Hoà thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ về quản chế tại quê quán Quảng Ngãi và Thái Bình, không qua sự xét xử của toà án. Ngày 7-7 cùng năm, cưỡng chiếm chùa Ấn Quang là trụ sở của GHPGVNTN. Toàn bộ tư liệu, hồ sơ của Viện Hoá Đạo bị đốt sạch trong năm ngày mới hết.
Năm 1991, Đức cố Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu viên tịch tại chùa Linh Mụ, Huế. Nhà nước muốn lợi dụng tang lễ này tuyên truyền chính trị cho Đảng. Nhưng Di chúc Ngài ngăn cấm không tổ chức rầm rộ, không đọc điếu văn, ca tụng, v.v… Nên 50 Tăng Ni tuyệt thực phản đối tại chùa Linh Mụ. Có vị đòi tự thiêu. Ngài để lại khuôn dấu Giáo hội và trao quyền cho hai Hoà thượng Huyền Quang và Quảng Độ tiếp tục lãnh đạo GHPGVNTN để phục hồi quyền pháp lý cho Giáo hội. Mặc dù bị công an phong toả, cấm đoán, tại lễ tang, Hoà thượng Huyền Quang dõng dạc tuyên bố trước Linh đài quyết tâm thực hiện Di chúc giao phó :
Pháp lý là cái gì ? Giấy tờ chỉ được viết ra cho một tổ chức tân lập, còn Giáo hội ta đã có mặt trên dải đất này 2000 năm rồi. Đinh, Lê, Lý. Trần đã chấp nhận Phật giáo.
Pháp lý của Giáo hội là 2000 năm truyền đạo trên dải đất Việt Nam này. Địa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo hội.
Như vậy Pháp lý có thể cho ra và có thể thu lại. Vậy cho nên đừng đặt vấn đề pháp lý của thời đại, mà phải đặt lịch sử truyền đạo và sự chấp nhận của dân chúng Phật tử.
Trước sự bùng dậy của khối Phật giáo đồ sau tang lễ, tài liệu Tuyệt Mật của Bộ Nội vụ viết ngày 18-8-1992 chỉ thị 5 biện pháp đấu tranh chống khối Phật giáo Thống Nhất, đặc biệt là phân hoá cao hàng ngũ giáo sĩ ; “cắt đứt chân tay” với số cực đoan chống đối ; và thâm nhập đặc tình trong Tăng tín đồ Phật giáo.
Vì thực hiện và phổ biến Di chúc Ngài Đôn Hậu, chư Tăng chùa Linh Mụ bị đàn áp dữ dội, đưa tới cuộc biểu tình bốn mươi nghìn Phật tử Huế xuống đường ngày 24-5-1993 đòi hỏi nhân quyền và tự do tôn giáo. Đây là cuộc biểu tình lớn nhất chưa hề có dưới chế độ Cộng sản. Tại Hội nghị “Diễn biến Hoà bình” ở Hải phòng ngày 26.6 cùng năm, Tướng Đặng Vũ Hiệp đánh giá cuộc biểu tình của Phật tử Huế có “nguy cơ mất nước.
Sự kiện hi hữu xẩy ra là ngày 2-4-2003, Thủ tướng Phan Văn Khải tiếp Hoà thượng Thích Huyền Quang, nhân dịp ngài ra Hà Nội giải phẫu khối u ở mặt. Một thủ tướng tiếp một tù nhân ! Thủ tướng xin Hòa thượng hỉ xả cho chuyện đã qua, vì cán bộ cấp địa phương làm sai. Nhiều nhà quan sát tưởng rằng vấn đề Phật giáo được lắng yên.
Thế nhưng, sau Đại hội Phật giáo kỳ VIII do Hoà thượng Huyền Quang triệu tập tại Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định, ngày 1-10-2003, để bổ sung nhân sự vào hai Viện Tăng Thống và Viện Hoá Đạo, thì chuyến xe chở 10 vị giáo phẩm về lại Saigon bị chận bắt tại Lương Sơn hôm 8-10, trong số có hai ngài Huyền Quang và Quảng Độ. Tất cả đều bị bắt đi “làm việc” và ra khẩu lệnh quản chế.
Từ đó đến nay Giáo hội luôn bị đàn áp, sách nhiễu thường trực. Mọi hoạt động của 20 Ban Đại diện Giáo hội tại các tỉnh thành đều bị ngăn cấm. Chùa Giác Minh của Hoà thượng Thanh Quang ở Đà Nẵng bị phong toả thường trực, các Đại lễ Phật Đản, Vu Lan hay Tết bị ngăn cấm tổ chức.
Thế nhưng Giáo hội không ngừng lên tiếng cho những vấn nạn xã hội hay đất nước. Từ nơi quản chế Quảng Ngãi, ngày 20-11-1993, Hoà thượng Thích Huyền Quang ra Tuyên cáo Giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn, yêu sách bỏ điều 4 trên Hiến Pháp và bầu cử lại Quốc hội dưới sự giám sát của LHQ với sự tham gia của tất cả các đảng phái quốc gia.
Đầu năm 1994, Hoà thượng Thích Quảng Độ bị bắt khi dẫn phái đoàn Viện Hoá Đạo đi cứu trợ nạn bão lụt khủng khiếp ở đồng bằng sông Cửu Long. Bị kết án 5 năm tù, giam tại nhà tù Ba Sao. Được ân xá năm 1998, nhưng vẫn còn quản chế tại Thanh Minh Thiền Viện, Saigon. Ngài tuyên bố : “Tôi đi từ nhà tù nhỏ vào nhà tù lớn”.
Năm 2001 ngài công bố “Lời kêu gọi cho Dân chủ” với giải pháp 8 điểm thực hiện, mà ngài xem như giải pháp duy nhất cứu nguy dân tộc.
Ngày 17-5-2007, Hoà thượng Quảng Độ đến uỷ lạo và tiếp tế thực phẩm thuốc men cho Dân oan khiếu kiện trước tiền đình Quốc hội II ở Saigon. Việc làm bị báo chí truyền thông nhà nước tố cáo, hăm doạ trong vòng 3 tháng. Ngài cũng nhiều lần lên tiếng tố cáo về việc Trung quốc xâm lấn lãnh thổ và biển đảo, nạn bô xít Tây nguyên nơi Trung quốc nắm yết hầu quân sự, chiếm đóng Hoàng Sa Trường Sa, cho đến gần đây, năm 2014, biến cố giàn khoan Hải dương 981.
Nhiều vị Đại sứ các nước như Hoa Kỳ, Na Uy, Đức, Anh, Pháp… vẫn thường  xuyên đến vấn an, trao đổi với Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ. Liên tiếp nhiều năm, ngài được đề cử ứng viên Giải Nobel Hoà bình. Năm 2003, ngài và ngài Huyền Quang được trao Giải Nhân quyền của Tiệp dưới sự chủ trì của cựu Tổng thống Vaclav Havel, năm 2006 ngài được Giải Nhân quyền Quốc tế Rafto của Vương quốc Na Uy.
Nhờ sự lưu tâm quốc tế này mà ngài và hàng giáo phẩm Giáo hội không bị khủng bố, bắt giam tuỳ tiện như những năm sau 30 tháng Tư 75.
Ngài xác nhận lập trường Giáo hội suốt 40 năm qua không hề thay đổi như sau:
“Chừng nào mà chế độ Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam còn, thì Giáo hội không được sinh hoạt bình thường đâu.
“Họ dùng đủ cách để mà xoá sổ, xoá sạch cái danh nghĩa của Giao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trên đất nước Việt Nam. Mà chưa hết đâu, còn nhiều. Vì thế cho nên cứ sẵn sàng chuẩn bị tinh thần để đón nhận, để đương đầu.
“Cho nên trước khi tiễn đưa Đức Tăng Thống đến nơi an nghỉ cuối cùng, thì chúng tôi đã nói rồi : Chúng tôi sẽ tiếp tục con đường đi của Ngài.
“Còn rất nhiều khó khăn, còn rất nhiều chông gai, nhưng sẵn sàng vượt qua. Còn hơi thở thì vẫn cứ 
 tiếp tục. Đó là cái chí nguyện của Giáo hội”.
 http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/scale-of-a-crackdown-yl-04272015154522.html

TRUC GIANG MN * TRUNG QUỐC -NHẬT BẢN ĐẠI CHIẾN



“Trung Quốc có thể bị thua nhục nhã nếu đấu súng với Nhật Bản”
Trúc Giang MN

1
.


1* Mở bài

         http://image2.tin247.com/pictures/2014/09/12/xpt1410492099.jpg mediahttp://media.doisongphapluat.com/271/2013/10/29/131029_china%20submarine_01.jpg


Hai lãnh đạo giống như hai kẻ chết rồi


“Trung Quốc có thể bị thua nhục nhã nếu đấu súng với Nhật Bản”. Đó là kết luận của chuyên gia người Nga, ông Vasily Cashin, Chủ nhiệm Trung tâm Phân tích Chiến lược và Công nghệ Nga.


Sau khi phân tích kỹ lưỡng về tương quan lực lượng giữa hải quân và không quân hai nước Nhật Trung, ông đưa ra kết luận như thế.


Về số lượng vũ khí, Trung Quốc ưu thế hơn Nhật. Về chất lượng thì Nhật vượt trội hơn Trung Quốc.


Chuyên gia Nga Vasily Cashin nêu một dẫn chứng cụ thể, đó là sự kiện ngày 31-3-2013.


Sự kiện 31-3-2013.


Chiếc tàu khu trục cở lớn của Nhật mang số DD-107, trang bị hệ thống chiến đấu AEGIS, đã xông vào giữa đội hình tác chiến của tàu Trung Quốc đang tập trận ở Tây Thái Bình Dương.


Sự kiện khiến cho nhiều người đặt câu hỏi: “Vì sao con tàu đó có thể xâm nhập vào giữa đội hình tác chiến của Hải quân Trung Quốc đang tập trận thì mới bị phát hiện?”


Sự kiện đó khiến cho giới quan sát nghi ngờ khả năng của Hải quân Trung Quốc.


Về máy bay ném bom chiến lược tầm xa thì Trung Quốc đang xử dụng loại động cơ H-6K được thiết kế cho máy bay Tupolev của Liên Xô, sản xuất hồi thập niên 1950.


Viên tướng Nhật, Sumihiko Kawamura, cựu tư lịnh đơn vị không quân săn tàu ngầm Nhật Bản, cho biết tác chiến tàu ngầm mang yếu tố quyết định trong chiến tranh trên biển hiện nay.
Ông khẳng định Trung Quốc chưa đạt được công nghệ tàng hình cao của tàu ngầm. “Tàu ngầm của họ còn ồn ào và dễ bị phát hiện hơn tàu Liên Xô trước kia nữa”. Ông kết luận: “Về tàu ngầm họ lạc hậu hơn chúng tôi 30 năm”.


Trung Quốc không dám gây chiến với Nhật và Hoa Kỳ. Tuy nhiên họ có thể cho Việt Nam một bài học như họ thường đe dọa, nhưng phải trả cái giá quá đắt và phải nhận những hậu quả tai hại, nên lại thôi. Không đánh Việt Nam.
Trung Quốc không dám gây chiến với Nhật và Mỹ, không thể đánh Việt Nam, nhưng không dễ dàng từ bỏ chủ quyền trên vùng biển hình lưỡi bò bao trùm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


Vậy thì vấn đề Biển Đông sẽ được giải quyết ra sao?
2* Lực Lượng Phòng Vệ Nhật Bản
2.1. Lực Lượng Phòng Vệ Nhật Bản

    Flag of JSDF.svg http://farm.vtc.vn/media/vtcnews/2012/01/19/Japan-Tet-02.jpgNhật Bản, lực lượng phòng vệ, Hoa Đông, Senkaku/ Điếu Ngư, Đông Bắc Á
    Cờ Quân Đội Nhật Bản Nam nữ quân nhân Nhật Bản
     http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/0/09/JGSDF_22nd_Inf._official.jpg/440px-JGSDF_22nd_Inf._official.jpg http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/4/41/070907-jgsdf.jpg/400px-070907-jgsdf.jpg


Lực Lượng Phòng Vệ Nhật Bản (JSDF=Japan Self-Defense Forces) là lực lượng vũ trang của nước Nhật.


Điều 9 Hiến pháp Hòa bình không cho phép Nhật duy trì lục quân, hải quân và không quân, cũng như các tiềm lực chiến tranh khác, cho nên lực lượng vũ trang rất hạn chế, được gọi là Lực Lượng Phòng Vệ Nhật Bản.


Quân số hiện dịch: 247,150 (2015). Quân số trừ bị: 56,100 (2015)


Ngân sách: 59.3 tỷ USD (2012). 281.98 tỷ USD giai đoạn 2010 đến 2015.


Ba thành phần chính gồm có:
Lực Lượng Phòng Vệ Mặt Đất Nhật Bản
Lực Lượng Phòng Vệ Biển Nhật Bản
Lực Lượng Phòng Vệ Trên Không Nhật Bản.


Chiều hướng phát triển:
Giảm số lượng, tăng chất lượng vũ khí và trang thiết bị.
Gia tăng khả năng cơ động.
Mở rộng phạm vi hoạt động, tăng cường hợp tác với quân đội Hoa Kỳ.
Chuyển từ phòng thủ sang tấn công.


Lực Lượng Phòng Vệ Nhật được đánh giá là có thực lực trên thế giới. Cục Phòng Vệ được nâng cấp thành Bộ Quốc Phòng ngày 9-1-2007.
.2.2. Sửa đổi Hiến Pháp Nhật
2.2.1. Thủ Tướng Shinzo Abe thúc đẩy sửa đổi Hiến Pháp Nhật


      1-e1e47 media


Thủ tướng Abe muốn thay đổi chính sách an ninh của Nhật *Hàng ngàn người phản đối


Ngày 1-1-2014, trong thông điệp đầu năm gởi cho người Nhật, Thủ Tướng Shinzo Abe cho biết sự cần thiết phải sửa đổi Hiến Pháp do Mỹ áp đặt trong thời gian chiếm đóng nước Nhật sau Thế Chiến II.


Hiến Pháp Hòa Bình được thi hành ngày 3-5-1947 cho đến nay (68 năm). Nắm lấy cơ hội hai con tin người Nhật bị tổ chức khủng bố Nhà Nước Hồi Giáo sát hại dã man, ngày 3-2-2015 Thủ Tướng Abe tuyên bố, việc sửa đổi hiến pháp rất cần thiết để bảo vệ mạng sống và tài sản của công dân Nhật.


Bộ Trưởng Quốc Phòng Nhật cho biết, lợi ích và an ninh quốc gia của Nhật bị ảnh hưởng nặng nề khi Trung Quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền hầu hết trên vùng Biển Đông. Tuyến đường hàng hải quốc tế đi qua Biển Đông rất quan trọng đối với nền kinh tế trong việc nhập cảng và xuất cảng hàng hóa của Nhật.


Thủ Tướng Abe cho rằng thời cơ thuận tiện nhất để sửa đổi hiến pháp là vào mùa thu năm 2016, sau cuộc bầu cử Thượng Viện, hy vọng đảng Dân Chủ Tự Do (LDP=Liberal Democratic Party) của ông sẽ chiếm được nhiều số ghế hơn hiện nay. Quả thật như thế, kết quả bầu cử Thượng Viện Nhật ngày 22-7-2015, đảng LDP của ông đã thắng lớn. Ngày 19-9-2015, Thượng Viện Nhật đã thông qua dự luật an ninh, cho phép quân đội Nhật đem quân ra nước ngoài bảo vệ đồng minh khi Nhật không bị tấn công.


Điều 9 Hiến Pháp Nhật có ghi: “Lục quân, hải quân và không quân cũng như các tiềm lực chiến tranh khác sẽ không được duy trì. Quyền tham chiến của đất nước sẽ không được công nhận”.


Ông Abe cho rằng biện pháp nầy không còn phù hợp với tình hình thế giới và khu vực hiện nay.
.


2.2.2. Hạ Viện Nhật thông qua dự luật an ninh
      media media


Thủ tướng Nhật Shinzo Abe (giữa) tại Hạ viện trước khi bỏ phiếu thông qua dự luật quốc phòng ngày 16/07/2015.REUTERS/Toru Hanai* Hàng ngàn người phản đối.


Ngày thứ tư 15-7-2015, Hạ Viện Nhật do đảng cầm quyền của Thủ Tướng Abe đã thông qua hai dự luật cho phép quân đội Nhật tham chiến ở nước ngoài, được gọi là “Quyền phòng thủ tập thể” hoặc “Tự vệ chung”. Hàng ngàn người Nhật biểu tình phản đối ở Tokyo, nhung nhiều người cho rằng Thượng Viện rồi cũng thông qua để thành luật thôi.


Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Quốc, bà Hoa Xuân Oánh, đặt câu hỏi: “Có phải Nhật đã từ bỏ chính sách hòa bình hay không?” và bà thúc giục: “Hãy giữ con đường phát triển hòa bình và tránh gây bất ổn trong khu vực”.


3* Hải Quân Nhật Bản
Tổng quát về Hải Quân Nhật Bản
      Lá cờ của lực lượng tự vệ Hàng hải Nhật Bản (MSDF) phất phới trên các tàu hộ tống Kurama (phải) và Hyuga (trái) đang di chuyển khỏi Vịnh Sagami, tỉnh Kanagawa của Nhật Bản vào ngày 14 Tháng 10 năm 2012 aTàu ngầm lớp Soryu, tàu ngầm động cơ không khí độc lập AIP hiện đại hàng đầu thế giới.
    Quân kỳ Hải quân Nhật Tàu sân bay trực thăng Tàu ngầm tàng hình lớp Soryu
      http://a8.vietbao.vn/images/vn888/hot/v2012/20120826-090221-1-C139557-10-SHIP-Kongo-Class-Destroyer-lg-defenseindustrydaily.jpeg Chiến hạm Nhật thuộc loại hiện đại nhất thế giới
  

Tàu chiến Aegis của Nhật Bản *Chiến hạm Nhật thuộc loại hiện đại nhất thế giới


Hải Quân Nhật có tên chính thức là Lực Lượng Phòng Vệ Bờ Biển Nhật Bản. (JMSDF=Japan Maritime Self-Defense Force). Nhật Bản là một quần đảo cho nên hải quân là nồng cốt của lực lượng vũ trang.
110 tàu chiến mặt nước.
21 tàu ngầm.
2 tàu sân bay trực thăng và
Không lực của hải quân.


Trong 110 tàu khu trục có:
12 tàu khu trục mang hỏa tiễn điều khiển
4 tàu chiến trang bị hệ thống chiến đấu AEGIS, diệt hỏa tiễn đạn đạo liên lục địa.
2 tàu sân bay trực thăng chở 450 binh sĩ, mỗi chiếc chở 14 trực thăng. Tàu sân bay trực thăng có chỗ đủ rộng để cho 5 trực thăng vận hành cùng một lúc. Tàu sân bay nầy cũng có thể mang phi cơ chiến đấu tàng hình thế hệ 5 là F-35B. Tiêm kích F-35B cất cánh ở đường bay ngắn và hạ cánh thẳng đứng như trực thăng. (STOVL=Short Take-Off Vertical Landing)
Tàu ngầm Soryu tàng hình, phi hạt nhân, cực kỳ êm và đáng sợ nhất thế giới. 6 ống phóng hỏa tiễn hành trình (Cruise missile) chống tàu là VGM-84 Harpoon)
Hệ thống chiến đấu AEGIS





Hải Quân Nhật có 4 tàu khu trục (tàu chiến) trang bị hệ thống chiến đấu AEGIS chống hỏa tiễn đạn đạo (Ballistic Missile) liên lục địa. Đó là hệ thống tối tân nhất, phức tạp nhất hiện nay.


(AEGIS=Advanced Electronic Guided Interceptor System). Hỏa tiển đạn đạo có tầm sát hại từ 5,000km đến 15,000km nên gọi là liên lục địa.


Hệ thống AEGIS gồm có:
Một máy xử lý tín hiệu. Có khả năng phát hiện, theo dõi hỏa tiễn của đối phương từ xa.
Một hệ thống máy tính chỉ huy.
Một hệ thống phóng hỏa tiễn đánh chặn hỏa tiễn địch từ xa.
Một hệ thống Radar AN/SPY-1, là bộ phận chủ yếu và quan trọng của hệ thống chiến đấu AEGIS. Radar có khả năng giám sát 3 chiều, theo dõi hàng trăm mục tiêu cùng một lúc, cung cấp đường dẫn cho hàng trăm hỏa tiễn đánh chặn tiêu diệt hàng trăm hỏa tiễn địch từ các phương hướng khác nhau cùng một lúc.


Ngoài ra còn nhiều hệ thống hỗ trợ khác cho hệ thống AEGIS nầy, như:
Hệ thống liên lạc với vệ tinh để xác định tọa độ đường bay siêu tốc độ của hỏa tiễn địch.
Hệ thống chiến tranh điện tử, phá vở các hoạt động gây nhiễu của đối phương.
Hệ thống hiển thị trên màn hình màu to lớn trên tàu, nêu rõ những chi tiết cần thiết để đánh chặn, tiêu diệt từ xa hỏa tiễn tấn công của địch.


Hệ thống AEGIS trang bị trên tàu chiến có khả năng tàng hình tối cao. Vỏ tàu kiên cố bằng hai lớp thép đặc biệt.


Tóm lại, hệ thống chiến đấu AEGIS vô cùng tối tân, vô cùng phức tạp. Radar phát hiện hướng bay và tọa độ mục tiêu. Các hệ thống phức tạp phối hợp với nhau và cuối cùng ra lịnh cho các giàn phóng hỏa tiễn trên tàu tiêu diệt hàng chục, thâm chí hàng trăm hỏa tiễn của địch từ các phương hướng từ xa cùng một lúc.


Hiện nay trên thế giới chỉ có 108 tàu chiến được trang bị bằng hệ thống AEGIS. Hoa Kỳ có 91 chiếc. Nhật Bản 4 chiếc và hải quân các nước khác như Úc, Na Uy, Hàn Quốc, Tây Ban Nha.


AEGIS phức tạp nhất khiến cho Trung Quốc, Nga và Nhật Bản cũng không có khả năng chế tạo hệ thống AEGIS như của Hoa Kỳ.


Hệ thống chiến đấu AEGIS có thể tiêu diệt hỏa tiễn đạn đạo cách xa 500km. Vũ khí đánh chặn nầy bay cao 160km, tức là ở ngoài bầu khí quyển bao bọc trái đất dầy 120km.
Không lực của Hải Quân Nhật Bản
        http://image2.tin247.com/pictures/2013/07/12/axy1373634790.jpg http://img.giaoduc.net.vn/w500/Uploaded/xuanhien/2013_11_28/UH-60M%20Black%20Hawk%20truc%20thang%20My2.jpg
        

P-3 Orion tuần tra diệt tàu ngầm * Trực thăng UH-60M Black Hawk


Không lực của Hải Quân Nhật gồm có:
160 máy bay cánh cố định.
129 trực thăng chống tàu ngầm SH-60 và UH-60
80 phi cơ tuần tra và diệt tàu ngầm P-3 Orion


Vũ khí và các loại trang thiết bị quân sự của Nhật có đặc tính kỹ thuật rất cao. Hỏa tiễn, ngư lôi, và thiết bị điện tử thuộc loại tối tân nhất.


Hải Quân Nhật có nhiều kinh nghiệm tác chiến xa bờ biển thông qua những cuộc tập trận chung với Hoa Kỳ.


4* Lục Quân Nhật Bản
         http://img1.infonet.vn/t660/Uploaded/vietkhanh/2014_08_27/22082014son6143141234.jpgMãn nhãn xem Nhật phô diễn hỏa lực dưới núi Phú Sĩ - 7
       

T-90 Xe tăng bắn pháo sáng chống hỏa tiễn


Lục Quân Nhật Bản có tên chính thức là Lực Lượng Phòng Vệ Mặt Đất Nhật Bản. Gồm có bộ binh, bộ binh cơ động, pháo binh, xe tăng, thiết giáp, công binh, truyền tin, biệt kích…
Nhật đã loại bỏ 126 xe tăng T-74, thay vào đó 49 chiếc loại T-90 để trang bị cho các sư đoàn, lữ đoàn mục đích nâng cao khả năng cơ động và khả năng tấn công cao hơn trước 69%.
Loại ra 38 xe chở quân T-73 và thay vào đó104 xe T-90, đồng thời đưa vào xử dụng 700 xe bọc thép hạng nhẹ để nâng cao khả năng cơ động, di chuyển nhanh.
Loại bỏ toàn bộ hỏa tiễn cũ 130mm, đưa vào xử dụng 9 giàn hỏa tiễn tự hành 277mm.


5* Không Quân Nhật Bản
       https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/6/66/F-16_Fighting_Falcon.jpg/600px-F-16_Fighting_Falcon.jpgMỹ đưa thêm ‘quái vật’ MV-22 Osprey tới Nhật Bản
 F-35 Lightning II                MV-22 Osprey
         http://i179.photobucket.com/albums/w312/lethalSakura/ladyace02.jpg http://img.infonet.vn/t660/Uploaded/minhthu/2014_07_23/mb1.jpg
    

MV-22 Osprey xếp cánh lại tại căn cứ Không quân Iwakuni, Nhật Bản


Tên chính thức là Lực Lượng Phòng Vệ Trên Không Nhật Bản. (JASDF=Japan Air Self-Defense Force) chịu trách nhiệm bảo vệ không phận và tuần tra nước Nhật. Điều khiển một mạng lưới rộng lớn về radar và hệ thống cảnh báo sớm. Quân số 450,000 (2005) và 769 phi cơ chiến đấu gồm có các loại F-2, F-4EJ, F-15 và phi cơ vận tải C-130.


Nhật mua 42 chiếc F-35 thế hệ 5 của Mỹ. Nhật tiến hành xuất khẩu vũ khí ra nước ngoài.


Chính phủ thúc đẩy các công ty Nhật hợp tác nghiên cứu và sản xuất vũ khí với nước ngoài để từng bước loại bỏ lịnh cấm vận vũ khí đặt ra sau khi Nhật đầu hàng trong Thế Chiến II.


Nhật mua phi cơ cánh xoay MV-22 Osprey của Mỹ. Nhật muốn mua 20 chiếc loại nầy nhưng Mỹ chỉ bán 17 chiếc cho rằng đủ để phòng thủ. Mỹ không muốn bán nhiều hơn 17 chiếc vì sợ không kiểm soát được Nhật.


Phi cơ cánh xoay rất phù hợp với tàu sân bay trực thăng của Nhật.


MV-22 Osprey là phi cơ vận tải, mỗi chiếc chở 32 binh sĩ với đầy đủ trang bị và 9,000kg hàng hóa, tốc độ 509km/giờ bay nhanh gấp đôi trực thăng.


Cánh quạt quay về phía trước thì vận hành như phi cơ cánh cố định. Cánh quạt quay 90 độ, hướng lên trời thì bay như một trực thăng.


MV-22 Osprey trang bị 3 khẩu súng máy 12.7mm và 7,62mm. Cánh phi cơ còn xếp lại được để tiết kiệm không gian trên tàu sân bay trực thăng.
.


6* “Trung Quốc có thể thua nhục nhã nếu đấu súng với Nhật Bản”


Chuyên gia Nga Vasily Cashin đưa ra kết luận như thế. Nếu xảy ra cuộc chiến ở nhóm đảo Senkaku/Điếu Ngư, giữa Hạm Đội Đông Hải đấu với Hải Quân Nhật thì tương quan lực lượng hai bên như sau:


Phía Trung Quốc:
500 phi cơ
20 tàu ngầm
3 tàu ngầm hạt nhân


Phía Nhật Bản:
150 máy bay
10 tàu ngầm
10 tàu khu trục hỏa tiễn


1). Về không chiến


Hai bên ngang ngữa nhau. Mặc dù TQ hơn hẳn về số lượng phi cơ, nhưng có hai điểm yếu kém hơn Nhật. Đó là TQ không có phi cơ cảnh báo sớm so với Nhật và không có máy bay diệt tàu ngầm.


2). Về hải chiến


Về tàu ngầm thì TQ thua kém xa so với Nhật vì tàu ngầm TQ ở tình trạng của thời 1970 của Liên Xô. Nhận định nầy của chuyên gia Nga có thể tin cậy được vì ông rất rõ về tình trạng của vũ khí Nga.


3). Về tàu chiến trên mặt nước


Trung Quốc vượt trội hơn Nhật về số lượng. Hai bên tương đương nhau về sức mạnh hỏa tiễn.


Xét về tương quan lực lượng, nhất là khả năng và kinh nghiệm chiến đấu, chuyên gia Vasily Cashin kết luận: “Trung Quốc có thể thua nhục nhã nếu đấu súng với Nhật Bản”.


Hải Quân Nhật có nhiều kinh nghiệm tác chiến xa bờ mà TQ chưa có.


Điều quan trọng nhất là khả năng tương tác giữa các thiết bị hiện đại nhất về khoa học kỹ thuật tác chiến, đưa hợp đồng tác chiến của Nhật vượt trội hơn của Trung Quốc.


7* Nhật-Ấn hiệp lực đập nát Chuỗi ngọc trai của Trung Quốc
        http://www.xaluan.com/images/news/Image/2013/05/30/451a70a46b09ce.img.jpg http://farm10.gox.vn/tinmoi/store/images/thumb/14062013/151/1363885/chuo_i_truo_ng_kie_m_a_n_do_be_ga_y_chuo_i_ngo_c_trai_trung_quoc_0.jpg
             

Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh và Thủ tướng Nhật Shinzo Abe


Ở Ấn Độ Dương, Chuỗi ngọc trai (String of Pearls) là một vành đai căn cứ quân sự của Trung Quốc nhằm bao vây phía Nam của Ấn Độ, từ Bangladesh, Sri Lanka, đảo Maldives và Pakistan.


Ấn Độ cảm thấy bị đe dọa và không an tâm nên đã liên minh với Nhật.


Ngày 29-5-2015, Nhật-Ấn đã nâng mối quan hệ lên tầm cao mới. Cam kết cùng nhau phối hợp nhằm bảo vệ sự ổn định trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng sức mạnh kinh tế, quân sự và tăng ảnh hưởng trong khu vực.


Tại Tokyo, Thủ tướng Ấn, Manmoham Singh, và Thủ tướng Shinzo Abe đã lên tiếng phản đối việc xử dụng vũ lực và làm thay đổi trật tự ở Châu Á của Trung Quốc.


Nhật-Ấn nhất trí mở rộng hợp tác bảo vệ an ninh hàng hải và củng cố ổn định khu vực.


Ấn Độ nổ lực phá vỡ sự bao vây của chiến lược Chuỗi ngọc trai của TQ.


Ngoài ra Nhật còn cam kết hỗ trợ tài chánh cho các dự án của Ấn Độ như hành lang công nghiệp Chennai Bangalore, tuyến tàu điện ngầm thứ ba ở Mumbay.


Nhật cung cấp thủy phi cơ US-2 ShinMaywa cho Ấn Độ. Hợp tác khai thác đất hiếm mà hiện nay Nhật đang lệ thuộc vào Trung Quốc.


Ấn Độ ở phía Tây, Nhật Bản ở phía Đông cùng nhau hợp tác bảo vệ đại dương, bảo vệ một châu Á hòa bình và thịnh vượng.


Cùng nhau đập nát Chuỗi ngọc trai của Trung Cộng.


Chuỗi ngọc trai của Trung Cộng đang bị kềm chế bởi vành đai quân sự của Mỹ từ Alaska, Hàn Quốc, Nhật Bản, Okinawa, Hawaii, Philippines, Indonesia, Úc, Singapore và Ấn Độ, với lực lượng hùng hậu của Hạm Đội 3, Hạm Đội 7 và Hạm Đội Thái Bình Dương…
.


8* Trung Quốc không dám khai chiến với Nhật và Mỹ


8.1. Khai chiến với Nhật cũng có nghĩa là khai chiến với Mỹ
       http://st.galaxypub.vn/staticFile/Subject/2015/01/18/34018/vi-sao-my-dieu-sieu-chien-ham-toi-can-cu-nhat-ban_18016651.jpg?w=102 Như vậy, đến thời điểm đó, hạm đội tàu chiến Mỹ triển khai tiền phương tại Yokosuka sẽ lên đến 14 chiếc, trong đó có một tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân, USS George Washington (CVN-73). (Tàu sân bay ở căn cứ Yokosuka).


Căn cứ Yokosuka là cảng nhà của hàng không mẫu hạm George Washington (CVN-73)


Khai chiến với Nhật cũng có nghĩa là khai chiến với Mỹ, vì những căn cứ của Nhật và Mỹ ở cùng một địa điểm, một khu vực.


Mỹ có hiệp ước an ninh quốc phòng với Nhật. Nhật nằm trên vành đai chiến lược của Mỹ. Đánh Nhật cũng có nghĩa là đánh Mỹ.


Ở Nhật, có hai căn cứ quân sự của Mỹ. Cảng nhà của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ nằm tại căn cứ Yokosuka. Tàu sân bay USS Kitty Hawk (CV-63) của Mỹ cũng đồn trú tại đó.


Yokosuka cũng là căn cứ của Lực Lượng Phòng Vệ Nhật bao gồm lục quân, hải quân và không quân Nhật Bản.


Đánh Nhật ở căn cứ Yokosuka cũng là đánh Mỹ tại đó. Trái lại đánh Mỹ tại đó cũng có nghĩa là đánh vào nước Nhật tại đó. Dù đánh Nhật hay đánh Mỹ tại đó thì cũng như đánh vào vành đai của Mỹ từ Alaska cho đến Okinawa, Úc và Ấn Độ. Làm sao Trung Cộng thoát khỏi thiên la địa võng của Hoa Kỳ?


Vì thế Trung Quốc không dám mạo hiểm làm liều. Vì làm liều, điếc không sợ súng là sập tiệm.
.


8.2. Về chiến tranh hạt nhân


Báo Nga: “Mỹ đánh bại Trung Quốc chỉ trong một giờ nếu chiến tranh hạt nhân xảy ra”.


Theo nhận định của tạp chí Expert (Nga) thì quân đội Trung Quốc có thể bị bại trong vòng một giờ đồng hồ nếu xảy ra cuộc chiến tranh hạt nhân toàn diện.


Lý do là công nghệ hạt nhân của TQ xuất xứ từ thời Liên Xô ở những năm 1991. Tờ Expert dẫn chứng, TQ chưa đủ năng lực tấn công hạt nhân ba mũi để đánh bại Mỹ.
.


Năng lực 3 mũi gồm có:
Máy bay ném bom chiến lược tầm xa
Hỏa tiễn đạn đạo liên lục địa
Hỏa tiễn đạn đạo bắn từ tàu ngầm.


Quân Đoàn Pháo Binh số 2 (Lực lượng hạt nhân) của TQ chưa đủ khả năng để theo kịp với lực lượng hạt nhân của Mỹ. Chuyên gia Nga, Vasily Cashin, nêu rõ các hỏa tiễn đạn đạo liên lục địa mà TQ đang xử dụng là tên lửa Đông Phong DF-31 có khả năng bắn tới Mỹ nhưng khuyết điểm lớn nhất của loại hỏa tiễn nầy là phải mất 2 giờ để nạp nhiên liệu. Hỏa tiễn nầy phải phóng thẳng đứng nên phải bố trí ngoài trời, vì vậy chưa kịp khai hỏa thì đã bị tiêu diệt.


Mỹ đã có 7,300 hỏa tiễn ICBM (ICBM=InterContinental Ballistic Missile) mang đầu đạn hạt nhân. Trung Quốc 260 (Nga có 7,500).


Hỏa tiễn Đông Phong DF-41 của Trung Quốc.


Hồi cuối năm 2013, TQ đã thử nghiệm 2 tên lửa DF-41 có tầm bắn xa 14,000km. Loại nầy có thể mang đầu đạn nguyên tử nhưng chỉ còn trong vòng thử nghiệm và chế tạo.


Về máy bay ném bom chiến lược tầm xa thì TQ đang xử dụng loại động cơ H-6K được thiết kế cho phi cơ Tupolev Tu-16 của Liên Xô, sản xuất hồi thập niên 1950.


Tất cả những yếu tố trên đưa đến kết luận: “Trung Quốc sẽ bị Mỹ đánh bại dưới một tiếng đồng hồ trong cuộc chiến tranh hạt nhân toàn diện”.


9* Trung Quốc có thể dạy Việt Nam bài học thứ hai, nhưng vô ích nên lại thôi.
.


9.1. Trung Cộng không có lý do nào để đánh Việt Nam cả


Trung Cộng có khả năng dạy Việt Cộng bài học thứ hai như họ thường đe dọa, nhưng phải trả bằng cái giá rất đắt và nhận những hậu quả tai hại, nên lại thôi. Không đánh Việt Nam.


Trước đây Trung Cộng đã từng đe dọa sẽ đánh chiếm Việt Nam trong 31 ngày, và mới đây dọa sẽ đánh chiếm Việt Nam chỉ trong một tiếng đồng hồ.


Thật ra Trung Cộng có thể dạy cho Việt Cộng một bài học mà họ cho rằng vô ơn bội nghĩa, nhưng bài học nầy phải trả bằng cái giá quá đắt vì chiến tranh hỏa tiễn sẽ gây thiệt hại nặng nề cho hai bên. Kẻ u đầu người sứt trán. Chó le lưỡi, nai cũng vạt móng.


Đánh Việt Nam, Trung Cộng sẽ lãnh hậu quả tai hại, là làm cho các nước trong khu vực đoàn kết chặt chẽ nhau hơn để chống Trung Quốc.


Thật ra Trung Cộng không có lý do nào để đánh Việt Nam cả, bởi vì VN chưa bao giờ có “hành động” chống lại quan thầy Tàu khựa nầy. Nếu có thì chỉ vài câu tuyên bố phản đối lấy lệ về cái nầy, cái nọ của anh lưỡi gỗ của bộ Ngoại Giao. Các lãnh đạo đảng CSVN thì cũng chỉ tuyên bố những lời lẽ bóng gió, ám chỉ cái nầy cái nọ rồi cũng tung hô 16 chữ vàng và 4 tốt. Quyết tâm hợp tác chiến lược toàn diện…


Bang giao Việt-Trung nồng ấm khi anh Tàu khựa ngừng chửi và ngừng tấn công Việt Cộng.


Vụ giàn khoan HD-981, Việt Nam chống lại Trung Cộng bằng cách đưa 25 tàu nhà nước ra biển, chìa hông ra cho tàu Trung Cộng đâm vào. Đó là chiến thắng vẻ vang, huy hoàng dựa theo công thức “quân đội ta trung với đảng, hiếu với dân, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.


Vừa rồi Lý Khắc Cường, Thủ tướng Trung Cộng, nói với Phạm Bình Minh rằng: “Bắc Kinh hết sức coi trọng “sự kiên trì của VN về phương châm láng giềng hữu nghị (nằm trong 16 chữ vàng) hợp tác chiến lược toàn diện của VN.


16 chữ vàng là: Láng giềng hữu nghị, (Láng giềng khốn nạn) Hợp tác toàn diện (Cướp đất toàn diện), Ổn định lâu dài (Lấn biển lâu dài), Hướng tới tương lai (Thôn tính tương lai).


Ngày 17-6-2015 trong chuyến đi sứ sang Tàu, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại Giao Phạm Bình Minh đã khẳng định với Lý Khắc Cường rằng: “Hà Nội luôn luôn coi trọng việc phát triển ổn định, quan hệ đối tác “chiến lược toàn diện” với Bắc Kinh”.


“Chiến lược” của Trung Cộng là chiếm biển đảo của Việt Nam thế mà coi trọng chiến lược toàn diện đó là thế nào?
.


9.2. Tranh chấp chủ quyền chỉ là chuyện nhỏ


Cũng trong ngày 17-6-2015, Tân Hoa Xã dẫn lời của Lý Khắc Cường nói với Phạm Bình Minh như sau: “Việt Nam và Trung Quốc nên triển khai những “thỏa thuận” đạt được giữa lãnh đạo hai nước. Hai bên còn nhiều lãnh vực quan trọng, đáng quan tâm hơn là tranh chấp biển”


Lời huấn thị của Lý Khắc Cường có hai điểm chính cần phải làm sáng tỏ cho đồng bào được biết:
Lãnh đạo hai nước thỏa thuận những gì?
Lãnh vực quan trọng đáng quan tâm hơn chủ quyền biển là gì?


9.2.1. Lãnh đạo hai nước đã thỏa thuận những gì?



           Image result for hình ảnh về hội nghị thành đô năm 1990 https://dominhtuyen.files.wordpress.com/2014/10/65607-2.jpg?w=598&h=640http://i1219.photobucket.com/albums/dd438/dongson1002c/dongson1002c183/hinhHNTD_zpsa7a0266a.jpg


Các đồng chí vui mừng hả hê vì được thu nhận vào làm khu tự trị Trung Quốc


Rà soát lại tất cả những thỏa thuận của Việt Nam đối với Trung Quốc thì thấy những sự việc cụ thể như sau:


1). Ngày 14-9-1958


Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đồng thuận với Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai là hai quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) thuộc chủ quyền của Trung Quốc.


Ngày 4-9-1990


Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng được Đặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân chấp thuận thỉnh nguyện của Việt Nam, xin được làm một khu vực tự trị trong đại gia đình các dân tộc của Trung Quốc. Bắc Kinh cho VN thời gian 30 năm (1990-2020) để chuẩn bị mọi việc sáp nhập toàn bộ vào TQ.


Kể từ tháng 2 năm 1999 cho đến nay.


Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng thỏa thuận kế hoạch 30 năm sáp nhập được ngụy trang dưới chiêu bài 16 chữ vàng.


Trung Cộng khởi tạo phương châm 16 chữ vàng và cho biết con đường hợp nhất của hai nước vô cùng thuận lợi. Đó là đặc thù về địa lý tự nhiên, về chế độ chính trị, văn hóa, xã hội, vận mệnh của hai dân tộc, của hai đảng được xem là một.


“Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương thông, Văn hóa tương đồng, Vận mệnh tương quan”


Phương châm 16 chữ vàng là ngụy trang của chương trình bí mật 30 năm để sáp nhập Việt Nam vào Trung Quốc, cho nên mỗi khi lãnh đạo VN tuyên bố tuân thủ 16 chữ vàng thì có nghĩa là đồng ý và thi hành chương trình 30 năm sáp nhập. Một phương thức khác đã được các lãnh đạo CSVN tuyên bố với Trung Quốc, đó là “Hợp tác chiến lược toàn diện” cũng có nghĩa là vẫn tiến hành kế hoạch 30 năm.
.


9.2.2. Những bước cụ thể đã được thực hiện
       https://encrypted-tbn3.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcR0elu3BFdHMtKcNroeMf3lqvzyOpFR4udBcafZmPvJwZD6a6vI https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhAK3q3iEMdm9oQ6UpcXtaF3mJuQe7bVWuynUB31pBQ-tCtA9LsuJKB9o6kIWcwioxpOGWom7YpyvnCFKylqT9rjT06S3Q8-uV1hhj56zqVaNngPLQNQyAtwe6j7B3HTMxFJaAa4mY6hT0/s1600/truongtansang-cuidau.jpg


Hợp tác toàn diện về viêc quản lý Đảng và quản lý nhà nước. Hai chính quyền, hai nhà nước trở thành một. Hội nhập toàn diện.


Những lãnh đạo thường xuyên thăm viếng lẫn nhau. Lãnh đạo CSVN thường xuyên qua “thăm viếng” Trung Quốc để báo cáo và nhận chỉ thị.


Hợp tác toàn diện về kinh tế. Thiết lập nhưng nguyên tắc căn bản về hội hập kinh tế giữa khu tự trị VN với chính quyền Trung ương ở Bắc Kinh. 44 hiệp định thỏa thuận đã được ký. 20 văn bản thỏa thuận làm căn bản pháp lý bổ túc cho việc sáp nhập.


Kế hoạch toàn diện qui định mỗi bộ trong chính phủ phải đặt đường dây nóng tự quản kết nối với Bắc Kinh.


Đường dây nóng tự quản với Bắc Kinh là nhận lịnh trực tiếp từ chính quyền trung ương ở Bắc Kinh.


Ngoài ra, Việt Nam chấp thuận cho 4 tỉnh phía Nam Trung Quốc, như Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam được hưởng đặc quyền khai thác toàn diện trên 7 tỉnh biên giới của Việt Nam, như Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh. Người Trung Quốc được hưởng qui chế "bất khả xâm phạm" từ khi có mặt tại Việt Nam để thi hành công tác khai thác toàn diện ở Việt Nam.


9.2.3. Những tuyên bố cụ thể của các lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam
.


1). Bản tuyên bố của Trương Tấn Sang


Trong bản tuyên bố chung ngày 21-6-2013 được ký bởi Trương Tấn Sang và Tập Cận Bình, có đoạn ghi như sau:


– Dân sự: Đào tạo nhân dân, văn hóa, giáo dục, y tế, sản xuất, chế biến. Khai thác lãnh thổ, lãnh hải, đất liền, biên giới, cửa khẩu, biển Đông, rừng núi, đầu tư, khoa học, công nghệ, kinh tế, thương mại, môi trường, nông nghiệp, ngư nghiệp, dầu khí, giao thông, vận tải và du lịch để hội nhập toàn diện vào Trung Quốc.


– Chính trị: Xây dựng nguồn máy đảng, và nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tham vấn chính phủ, ban tuyên giáo, ban đối ngoại trung ương, ban lý luận, đào tạo hữu nghị quân, dân, cán chính cao cấp để sẵn sàng hoàn tất việc sát nhập.


– Quân sự: Quân đội, quốc phòng, khí tài, an ninh, ngoại giao.


Kế hoạch toàn diện qui định mỗi bộ phận đặt đường dây nóng tự quản và kết nối quản trị Bắc Kinh.


Ngoài ra, đảng CS và nhà nước Việt Nam, ưu tiên để 4 tỉnh phía Nam Trung Quốc, được hưởng đặc quyền khai thác toàn diện trên 7 tỉnh biên giới của Việt Nam.
.


2). Tuyên bố của Nguyễn Phú Trọng


Trong chuyến viếng thăm Trung Quốc từ ngày 7-4-2015, Nguyễn Phú Trọng tuyên bố:


“Chúng ta phải nghiêm túc tuân thủ những thỏa thuận quan trọng mà lãnh đạo của hai đảng đã đạt được, cùng nhau xử lý thỏa đáng và kiểm soát các bất đồng trên biển, duy trì mối quan hệ tổng thể, hòa bình và ổn định trên Biển Đông”. Hãng tin China News Service dẫn lời nói với ông Trọng tại cuộc gặp tại Đại lễ đường Nhân dân ở thủ đô Bắc Kinh hôm 7/4/2015.


9.3. Lãnh vực quan trọng hơn chủ quyền biển là gì?


Điều mà Trung Quốc thường nhắc tới nhắc lui với các lãnh đạo đảng CSVN là hãy vì đại cuộc, tức là sự việc vô cùng hệ trọng đối với nguyện vọng của VN, đó là được thu nhận vào làm một thành viên của đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.


Lúc đó biển đảo sẽ là của chung.


Về chủ quyền biển thì TQ đã nêu một chiêu bài nham hiểm là chiến lược “Ba bước lấn tới”. Đó là tạo ra tranh cãi. Rồi kêu gọi dẹp bỏ tranh cãi. Bước thứ ba là tuyên bố chủ quyền.


Bước một: Tạo ra tranh cãi.


Tự ý vẽ ra vùng biển hình lưỡi bò rồi tuyên bố có chủ quyền trên đó. Tức là gây ra tranh cãi.


Bước hai: Gác tranh chấp, khai thác chung.


Đã nhiều lần Trung Quốc kêu gọi hãy tạm gác vấn đề chủ quyền qua một bên. Cùng nhau khai thác chung. Điều nầy cho phép TQ hiện diện công khai và hợp pháp trên vùng biển của Việt Nam mà gọi là vùng tranh chấp, để thăm dò, khai thác tài nguyên của Việt Nam.


Bước ba: Tuyên bố chủ quyền.


Trong thời gian khai thác chung, TQ xây dựng những phương tiện phục vụ cho việc thăm dò, bảo quản, chế biến, sản xuất, chuyên chở, bao gồm các nhà kho, nhà máy, sân bay, bến cảng, nhà ở của công nhân…Và như thế đã đầy đủ yếu tố để tuyên bố chủ quyền.


Trung Quốc không dễ gì nhả Biển Đông ra, nhượng bộ nhiều lắm là tạm thời ngưng xây dựng để áp dụng phương thức tầm ăn lên, âm thầm thực hiện mưu đồ.


Dân tộc Việt Nam đã bất hạnh vì có đảng Cộng Sản bán nước. Đảng CSVN đã dâng 6 đảo ở Trường Sa cho Trung Cộng ngày 14-3- 1988.


Nguyễn Cơ Thạch tố cáo kẻ bán nước, chính là đại tướng Lê Đức Anh. Người tố cáo không những được thưởng công mà trái lại bị cách chức, loại ra khỏi quyền lực. Kẻ bán nước không bị trừng phạt mà hành động bán nước được đảng ém nhẹm suốt 26 năm qua, cho đến ngày 1-10-2014 Thiếu tướng Lê Mã Lương tiết lộ thủ phạm trên Youtube, như dưới đây:


Trên Youtube (ngày 1-10-2014) tựa đề: “Thiếu tướng Lê Mã Lương tiết lộ thủ phạm tiếp tay Trung Quốc đánh chiếm Gạc Ma” (Là Lê Đức Anh), “Lê Đức Anh bán đứng đảo Gạc Ma và 64 bộ đội cho Trung Quốc”
(https://www.youtube.com/watch?v=uS5fmvKoCeg&feature=player_embedded)
    Image result for hình ảnh về thiếu tướng lê mã lương https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgYCX5mtxx5Ag4hn-Mzhyz8ShCpR_qumAER_RYvv6o6shpb7aUk4RVGpaSOKXaUP0Tb6J_AVgBrmcJWxzwB9OmvYddnt1y7Mm2nCp1mEVTYwxzoD8KQr-JUAkJIPKbLA4WnfiXcDbNqj7fA/s1600/14_anh2.jpgTưởng niệm các Liệt sĩ Gạc Ma tại Hà Nội


Thiếu tướng Lê Mã Lương tiết lộ thủ phạm tiếp tay cho Trung Quốc đánh chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam chính là ‘đồng chí lãnh đạo cấp cao’, Lê Đức Anh


10* Vấn đề Biển Đông đã quốc tế hóa


Vấn đề Biển Đông thật sự đã quốc tế hóa nhưng Việt Nam vẫn chủ trương giải pháp song phương.


Nhật Bản nâng cao hợp tác với Ấn Độ, tập trận ở Biển Đông với Philippines, cam kết tham gia tuần tra biển Đông với Mỹ.


Úc, Singapore tiếp tục tuần tra Biển Đông. Anh, Đức, Liên Âu, Malaysia Ấn Độ, Nhật Bản đã lên tiếng phản đối việc xây đảo nhân tạo, quân sự hóa các đảo và thái độ hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông.


Mỹ cũng thay đổi lập trường. Trước kia tuyên bố không can dự vào việc tranh chấp chủ quyền, nhưng mới đây Phụ tá Ngoại trưởng Mỹ, ông Daniel Russel, tuyên bố tại Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược ở thủ đô Washinton vào ngày 9-7-2015 như sau: “Chúng tôi không trung lập khi nói tới việc tuân thủ luật pháp quốc tế. Chúng tôi có thái độ cương quyết trong việc tuân thủ luật pháp quốc tế”.


Tóm lại Biển Đông đã quốc tế hóa nhưng trái lại VN vẫn tiếp tục giải pháp song phương.


Tướng Nguyễn Chí Vịnh và lãnh đạo CSVN luôn luôn kiên quyết giữ lập trường thông qua những cam kết với Trung Cộng như sau:


“Việt Nam luôn luôn thực hiện 16 chữ vàng và 4 tốt. Không đa phương hóa, không quốc tế hóa tình trạng Biển Đông”


Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng kiên quyết khẳng định: “Việt Nam khẳng định chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước và “nhân dân VN” (?), luôn luôn coi trọng quan hệ hữu nghị, hợp tác với Trung Quốc, mong giữ gìn, củng cố và không ngừng làm cho quan hệ Việt-Trung phát triển mạnh mẽ, ổn định”.


11* Kết luận


Trung Quốc không dám gây chiến với Nhật và Mỹ. Trung Quốc cũng không có lý do nào để đánh Việt Nam, vì Việt Cộng chưa bao giờ có hành động cụ thể nào chống lại Trung Cộng cả.


Tuy nhiên Tập Cận Bình cũng không dễ gì từ bỏ việc đòi chủ quyền ở Biển Đông.


Vậy thì vấn đề Biển Đông sẽ được giải quyết ra sao?


Tập Cận Bình muốn thực hiện giấc mơ Trung Hoa mà mục đích là giành lấy chiếc ghế chúa tể càn khôn với hình hài còn nguyên vẹn, nội lực còn thâm hậu về kinh tế và quân sự để lãnh đạo thế giới.


Đó là điều kiện tất yếu. Nếu chơi dại, hành sự hồ đồ lỗ mãng, gây chiến với Mỹ-Nhật và cả thế giới thì mang họa vào thân. Trở nên thân tàn ma dại, không leo được lên ghế chúa tể mà trái lại không còn giữ được địa vị hạng nhì như hiện nay.


Hình ảnh của quân phiệt Nhật trong Thế Chiến II vẫn còn lưu lại dấu vết trước mắt đó.


Thế Chiến II phe trục có đồng minh Nhật-Đức-Ý, trái lại nếu gây ra “Thế Chiến III” thì chỉ có một mình anh Ba Tàu đơn độc.


Giấc mơ Trung Hoa ấp ủ từ nhiều thập niên qua, vậy cũng có thể trường kỳ mai phục thêm vài thập niên nữa, như thế là khôn ngoan và hợp lý thôi.


Về Biển Đông, Trung Quốc không dễ gì nhả vùng biển hình lưỡi bò ra, nếu vì áp lực mạnh mẽ của Mỹ thì chịu nhượng bộ nhiều lắm là tạm thời ngưng cải tạo đảo để áp dụng chính sách tầm ăn dâu, âm thầm thực hiện ý đồ và cuối cùng cũng làm chủ Biển Đông.


“Các vua Hùng có công dựng nước. Đức Trần Hưng Đạo có công giữ nước, bác cháu ta tha hồ bán nước”.


Trúc Giang MN


Minnesota ngày 20-9-2015

SONG NHỊ * DUYÊN NỢ TIỀN THÂN

Song Nhị
Duyên Nợ Tiền Thân

Đặng Tâm là đứa con thứ sáu trong một gia đình có tám anh em. Tâm xuất gia từ năm lên tám tuổi với hòa Thượng Tuệ Giác, một vị cao tăng tại chùa Long Thọ. Năm ba mươi tuổi, nghĩa là hai mươi năm sau, kể từ ngày Đặng Tâm theo thầy học đạo, chàng nổi tiếng là một sa môn uyên bác về kinh điển của nhà Phật và là người có đức độ khó ai bì kịp.

Từ ngày quy y, Đặng Tâm có pháp danh là Pháp Không. Sư Pháp Không có dáng người thon cao, vẻ mặt quắc thước, sáng sủa. Đôi mắt của nhà sư như ẩn chứa một cái gì vừa ấm áp, vừa mênh mông huyền diệu. Giọng nói trầm trầm, truyền cảm làm cho người đối diện phải đem lòng mến mộ. Một lần, sau buổi thuyết pháp về đề tài “luật nhân quả”, thầy về tới tăng phòng thì gặp một người con gái đứng chờ trước cửa. Người thiếu nữ ấy khoảng hai mươi tuổi, ăn mặc theo lối Âu, gương mặt đẹp, sắc sảo, quý phái.

Vừa thấy thầy, thiếu nữ chắp tay, cúi đầu: - Bạch thầy, xin thầy hoan hỉ cho con được vấn đạo. - Mô Phật, nếu câu hỏi của tín nữ thuộc lãnh vực hiểu biết của bần tăng, bần tăng xin sẵn lòng. Thiếu nữ cung kính cúi đầu: - Bạch thầy, theo như bài luật nhân quả mà thầy vừa thuyết giảng, con thấy không phù hợp với những gì đang diễn ra trong xã hội hôm nay.


Như kẻ hiền lành thì lại bị đói khổ, bị áp bức. Kẻ độc ác, gian manh thì lại được giàu có, uy quyền. Người lương thiện thì chết yểu, kẻ hung tàn lại sống lâu. Nếu có luật nhân quả sao lại còn những trái ngược đó? Sư Pháp Không chậm rãi trả lời: - Nhân quả là gọi tắt của Nhân Duyên Quả Báo. Nhân Duyên có hòa hợp mới sinh ra Quả. Ví như hạt lúa là Nhân mà hợp với đất, nước, phân bón là Duyên mà sinh ra cây lúa. Về phương diện nhân sinh, người có Nhân từ kiếp trước, hiện tại mới gặp Duyên mà sinh ra Quả. Có người kiếp trước đã gieo Nhân mà mãi đến đời sau, đời sau nữa mới gặp Duyên để thành ra Quả. Bởi lẽ ấy nên có người đời này tu nhân tích đức nhưng lại bị tai họa.


Người khác, đời này ác độc, hung tàn mà lại được hưởng giàu sang, quyền quý. Người tín nữ vẫn tỏ vẻ chưa hài lòng với lời giải thích của sư Pháp Không. Nàng nhỏ nhẹ: - Bạch Thầy, như vậy là luật nhân quả cũng có kẽ hở? Sư Pháp Không vẫn ôn tồn: - Bởi vì người đời không rõ lẽ ác báo và phúc báo. Nhân Ác trồng ở kiếp này chưa đủ thời gian để thành Quả Ác. Nhân Lành gieo ở kiếp trước chưa đủ thời gian để thành Quả Phước cho đời hiện tại.


Tất cả đều là do vòng chuyển hóa của luân hồi định nghiệp. Không có kẻ hở như luật pháp của thế gian. Bánh xe quay nhanh hay chậm thì chỗ ráp nối đến chậm hay nhanh, tùy thuộc vào vòng quay, vào nội tại của người đạp xe. Bánh xe pháp luân tùy thuộc vào Nhân Duyên. Người thanh thản đạp xe chậm rãi, kẻ âu lo đạp xe vội vàng. Người thiện nhiều, nghiệp báo chậm, kẻ ác hung nghiệp báo nhanh. Chậm hay nhanh là do Nhân Duyên. Lành dữ cũng do Nhân Duyên. Nghiệp báo cũng thế. Tựu Trung không sớm thì muộn: Nhân nào Quả ấy. Thiếu nữ ngước lên nhìn nhà sư, hỏi tiếp: - Bạch thầy, thế nào là lòng từ bi? - Từ bi là tình thương. Bất cứ là thứ tình thương nào mà người thương biết quên mình, không đòi hỏi một tình thương được trả lại.


Từ bi là một thứ vị tha nhân, không vị kỷ, là một thứ cho mà không nhận. - Bạch thầy, thế nào là cho? Thế nào là nhận? - Cho là “xả”, nhận là “thọ”. Cho là “vô”, nhận là “hữu”. Cho là vì người, nhận là vì ta. - Như vậy một người nữ yêu một người nam là “cho” hay là “nhận”. - Đó là nhận. - Tại sao? - Yêu người muốn được người yêu lại, đó là vì yêu mình chứ không phải yêu người Vậy thế nào mới được gọi là “yêu người”? - Hy sinh, quên mình. - Khó quá. - Khó, dễ tại tâm sanh. Không khó, không dễ thì tâm diệt. - Tâm diệt thì được gì? - Tịnh lạc. - Thưa thầy, muốn “lạc” mà không muốn “tịnh” được không? - Muốn có gió mát mà không muốn cành lá lay động, đó là ảo tưởng. - Tình yêu có tịnh lạc không? - Có và không? - Xin thầy cho thí dụ. - Nước biển mặn là do chất muối. Muối thành do nước biển. Tình yêu là “dụng”, còn tịnh lạc là “thể”. Bản chất của “dụng” là động. Bản chất của “thể” là tịnh.


Đã động thì bất tịnh. Động thì không có Tịnh Lạc. - Nói như vậy chẳng khác nào khuyên người ta đừng yêu nhau. Nòi giống loài người làm sao tồn tại và phát triển để phụng sự Phật pháp. - Không phải con người phụng sự Phật pháp, vì Phật pháp vốn là không có. Nói Phật pháp như một thể “hữu” để cho con người dễ hiểu. Đúng ra, Phật pháp phụng sự con người. Phật pháp là phương tiện đưa con người đến sự giải thoát. Khi cứu cánh ấy đã đạt đến thì phương tiện kia không còn. Người thiếu nữ đứng khoanh tay, xưng tên là Hoàng Bích Vân, nhìn nhà sư rồi nói thật nhỏ: - Dù sao thì... “em” vẫn muốn cái “tịnh lạc” kia chính là cái “tình yêu” mà em đang mơ ước kiếm tìm. Sư Pháp Không chắp tay: - Mô Phật, điều đó ngoài sự hiểu biết của bần tăng. - Xin từ biệt. - Nhà sư quay lưng bước về phòng.


Bích Vân gọi với theo: - Thầy..! Thầy!.. Nhưng cánh cửa sau lưng nhà sư đã đóng lại. Hòa thượng Tuệ Giác nhìn môn đệ đệ của mình là sa môn Pháp Không rồi nói: - Thầy muốn con hoàn tục. Sư Pháp Không giật mình, sợ hãi: - Bạch sư phụ xin minh xét cho con. Hòa thượng Tuệ Giác vẫn giọng ôn tồn: - Sư Pháp Không nước mắt đã ràn rụa, nhạt nhòa, quỳ xuống lạy thầy: - Xin sư phụ hỉ xả. Đừng đuổi con. Con đã nguyện trọn đời nương thân chốn thiền môn. - Thầy đã nói hết lời rồi. Đó là nghiệp quả của con. Kiếp trước con đã hẹn hò với người ta nên đời này con phải trả, phải làm tròn lời hẹn ước. Sư Pháp Không năn nỉ: - Bạch sư phụ, tất cả không phải vì con. Xin sư phụ cho con được nương thân dưới bóng từ bi của sư phụ, của Phật pháp. - Đừng, con đừng nói thêm nữa. Khi nào con dứt căn duyên, làm xong lời thề ước với người ta, con hãy trở về đây.


Còn bây giờ... con về phòng thu xếp. Đừng lại từ giã thầy. Con đi đi. Đóng cửa phòng lại cho thầy. Nói xong, Hòa thượng kiết già, mắt nhắm nghiền, người cứng như pho tượng. Biết không còn có thể thưa gửi được gì thêm, sư Pháp Không lạy thầy rồi bước ra ngoài, vừa đi vừa khóc. Thấm thoát đã hai năm, thời gian đi nhanh quá. Đặng Tâm ở một mình trong một am nhỏ trên mảnh đất của tổ phụ. Chàng vẫn ăn chay, giữ giới, mặc dù giờ đây chàng đã mặc áo đời. Nhiều người trước đây quen biết với gia đình chàng, thấy Đặng Tâm hoàn tục, có ý muốn gả con gái cho chàng. Nhưng chàng đều từ chối. Những lúc ngồi một mình chàng buồn vời vợi. Bạn bè khuyên chàng nên lập gia đình, chàng cự tuyệt. Đặng Tâm muốn được tâm hồn thảnh thơi nhưng đã bị những cô gái quanh vùng đến quấy rầy. Có người đến nghe thầy giảng kinh. Có kẻ đến xin thầy học đàn Tây Ban Cầm. Lại có cô xin được đến nấu cơm, giặt giũ săn sóc...



Đặng Tâm khổ sở lắm. Rồi vào một buổi sáng, Đặng Tâm thay xong y phục, định đến thăm một người bạn thì Bích Vân, cô gái “vấn đạo” cách đây hai năm đột ngột xuất hiện. Vừa nhìn thấy thầy, cô chợt òa lên khóc. Đặng Tâm lo lắng: cất tiếng hỏi: - Cô có gì buồn lắm phải không? Bích Vân càng khóc lớn hơn, Đặng Tâm nói tiếp: - Ở đây cô không nên làm thế. Nếu người ta hiểu lầm thì thật là tai hại cho tôi. Bích Vân nức nở: - Em đã tìm thầy suốt mấy năm, hôm nay mới gặp. Bây giờ thầy đã hoàn tục, còn sợ gì người ta hiểu lầm nữa. Đặng Tâm ngạc nhiên: - Cô tìm tôi? Nhưng để làm gì? Bích Vân lau nước mắt. Đôi mắt đẹp và buồn ngước nhìn Đặng Tâm: - Em...em...không thể sống xa thầy. Đặng Tâm cố nén cơn giận dữ vừa òa đến: - Cô có biết vì cô mà tôi phải xuất tự không?


Bích Vân thổn thức: - Dạ em biết. - Đã biết mà cô còn tới tìm tôi? - Em tìm...anh để nói cho anh hay là... Đặng Tâm xoa tay: - Cô đừng nói gì cả. Điều mà cô sắp nói không ý nghĩa gì. Không ích lợi gì cho cô và cho tôi. Cũng vì điều cô sắp nói, cô đã làm mà thầy tôi bắt tôi phải hoàn tục. Hai mươi năm tu hành, phút chốc vì cô mà phải uổng phí. - Giờ đây anh đã về nhà. Cuộc sống của anh đã khác, không lẽ cứ như thế này mãi. Gia đình em giàu có. Nếu chúng ta kết hôn, anh sẽ không còn vất vả nữa. Đặng Tâm thở dài chán nản: - Cô vẫn giữ mãi ý định kỳ lạ đó? Tôi chưa bao giờ nghĩ đến tình ái ở cuộc đời này. Tôi tha thiết xin cô hãy bình tâm trở lại, nếu có thể chúng ta sẽ làm bạn, chứ không thể là vợ chồng. Bích Vân gắng gượng hỏi: - Có ai cấm anh lập gia đình đâu. - Tâm ý của tôi không cho phép.

Không lay chuyển được lòng dạ sắt đá của Đặng Tâm, Bích Vân vô cùng tuyệt vọng, nàng đứng lên quay gót, bước đi như một kẻ không hồn. Biết không thể ở đây được, Đặng Tâm đóng cửa am, đi tìm một nơi nào đó để được an thân, bình tâm mà tu hành. Trên đường đi, một hôm chàng ghé vào chùa Bửu Tự vấn an sư thúc là Hòa thựơng Pháp Nhãn. Sau khi kể sự việc phải hoàn tục của mình, Đặng Tâm thỉnh cầu sư thúc xin với sư phụ của chàng để trở về chùa cũ. Hòa Thượng ngồi tịnh một giờ lâu rồi mở mắt nhìn Đặng Tâm: - Oan nghiệt! Đó là oan nghiệt, là tiền căn. Đặng Tâm xin sư thúc chỉ rõ. Hòa thượng Pháp Nhãn chậm rãi nói: - Ngươi đã có ấn chứng, sao không dùng mà soi lại tiền kiếp của mình. Đặng Tâm như sực tỉnh, nhưng chàng vẫn thưa: - Nhưng còn cô gái Bích Vân, thưa sư thúc. - Cứ ngồi định tâm, thầy sẽ giúp cho. Chàng ngồi vào nệm cỏ, buông xả hết mọi ưu tư, tạp tưởng.


Một lúc, Đặng Tâm thấy một luồng thanh điển đưa chàng đến một nơi xa lạ. Đăng Tâm thấy mình là một thầy tu, đem lòng yêu thương một thiếu nữ con nhà giàu có. Chàng trốn chùa về ở với người con gái đó. Được vài năm, hạnh phúc đang tràn đầy thì người con gái đó chết. Chàng quá thương tiếc, thề suốt đời ở vậy, không tục huyền. Người đó là Bích Vân kiếp này. Khi biết rõ tiền căn duyên nợ, chảng thở dài, mở mắt. Vị sư thúc của chàng an ủi: - Bây giờ, một là con lấy nàng, hai là con phải ở vậy cho tới suốt đời. Nếu lấy nàng, trả hết nợ tiền căn con mới được quy tự, tiếp tục tu hành. Nếu không, con phải sống một cuộc đời nửa tăng nửa tục. Kiếp sau nữa con vẫn phải tái sanh mà kết duyên tơ tóc với nàng. Sẽ cứ như vậy mãi. Con đường giải thoát của con còn bất tận. Đặng Tâm phiền muộn vô cùng.

Từ đó thỉnh thoảng người ta thấy chàng thanh niên tuấn tú ấy xuất hiện, nay tới chùa này, mai tới chùa khác để “soi căn” cho những bá tánh thỉnh cầu. Trong lời “soi căn”, chàng dùng những ẩn ngữ sâu xa, diễn tả bằng thể văn vần song thất lục bát. Lời ngâm đều, chậm, mang những dư âm buồn man mác xa xôi. Cũng vì căn duyên tiền định, Bích Vân vẫn lâu lâu tìm gặp Đặng Tâm một lần, dù chỉ để nhìn nhau một thoáng, nói vài câu van xin và nghe mấy lời cự tuyệt. Nhưng hình ảnh cô gái diễm kiều này đã dần dần len vào tâm tưởng Đặng Tâm. Lần gặp lại Bích Vân mới đây chàng đã có những lời lẽ thân tình gần gũi hơn . Khỏang cách biệt đã dần dần được thu hẹp, để xích lại lằn ranh kết nối của cuộc hẹn hò duyên nợ tiền thân.
song nhị

Monday, September 28, 2015

THÔNG TIN & BÌNH LUÂN QUỐC TẾ

Người Nhật quan tâm đến tranh chấp Biển Đông như thế nào?

Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ RFA
2015-09-26
000_Hkg10209527-622.jpg
Ông Nguyễn Phú Trọng (trái) và TT Shinzo Abe (phải) tại Tokyo ngày 15 tháng 9 năm 2015.
AFP PHOTO / KAZUHIRO NOGI

Một hội thảo về vấn đề Biển Đông diễn ra tại Nhật Bản trong hai ngày 18 và 19 tháng 9 vừa qua tại Nhật Bản. Hoạt  động này diễn ra nhân dịp tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam - Nguyễn Phú Trọng được mời sang thăm Nhật từ ngày 15 đến 19 tháng 9.
TS Đinh Hoàng Thắng, nguyên đại sứ Việt Nam tại Hà Lan và hiện là chuyên gia của một số viện nghiên cứu ngoài Nhà nước, tham gia trình bày tại hội thảo.

Mối quan tâm

Vào ngày 26 tháng 9, ông cho biên tập viên Gia Minh biết một số thông tin liên quan; trước hết là mối quan tâm của những thành phần Nhật tham dự:
TS Đinh Hoàng Thắng: Vừa rồi chúng tôi trong khuôn khổ hợp tác giữa Viện Nghiên cứu Các vấn đề Phát triển (VIDS) và trường Đại học Takhshoku có mời chúng tôi tham dự hội thảo. Hội thảo đó có tên “Căng thẳng trên Biển Đông, tác động của nó (những sự kiện mới đây nhất trên Biển Đông)  đối với quan hệ Việt - Trung và Việt - Nhật như thế nào?”
Họ quan tâm đến quá trình chuyển biến thái độ của Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông. Theo họ thì Việt Nam từ chỗ hết sức nhân nhượng cho đến giờ đây, Việt Nam đã công khai trước thế giới về các âm mưu và hành động của Tung Quốc.
-TS Đinh Hoàng Thắng
Anh hỏi người ta quan tâm gì tại hội thảo đó, thì có 5 vấn đề mà người Nhật quan tâm. Thứ nhất là họ quan tâm đến quá trình chuyển biến thái độ của Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông. Theo họ thì Việt Nam từ chỗ hết sức nhân nhượng cho đến giờ đây, Việt Nam đã công khai trước thế giới về các âm mưu và hành động của Tung Quốc. Điểm thứ hai họ quan tâm thông qua hội thảo vừa rồi là những tác động, ảnh hưởng của các diễn tiến mới đây nhất và hiện thời trên Biển Đông. Đó là vụ HD981 khi Trung Quốc đưa giàn khoan vào trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, và việc mới đây bồi đắp/đảo hóa và quân sự hóa trên Biên Đông của Trung Quốc. Họ quan tâm đến ảnh hưởng của các vấn đề này đối vớiv bang giao Trung-Việt và quan hệ Nhật-Việt như thế nào. Đặc biệt phía nhật muốn tìm hiểu các xu hướng trong tương lai gần của các ảnh hưởng này. Vấn đề thứ ba mà họ quan tâm qua hội thảo là muốn tìm hiểu trước mắt, Nhật Bản và VN có thể cùng nhau làm gì để đẩy mạnh hơn nưa, phát huy hơn nữa các “chất lượng mới” của mối bang giao. Cái chất lượng mới theo họ nói giờ đây  cả Việt Nam lẫn Nhật Bản, hai nước coi nhau là “cùng hội cùng thuyền”, hai nước tự coi nhau là “tâm đầu ý hợp”, là “đồng cảm với nhau. Vấn đề thứ tư họ quan tâm là triển vọng hợp tác Nhật-Việt, Nhật-ASEAN đối với việc triển khai quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng song phương và tìm hiểu những cơ hội mới đối với việc phát huy cái đối tác chiến lược đa phương. Vấn đề cuối cùng họ quan tâm là tương lai hợp tác ba bên Nhật Bản-Hoa Kỳ-Việt Nam trong bảo vệ chủ quyền của Việt Nam và của Nhật Bản ở Biển Đông và Hoa Đông? Họ muốn tìm hiểu tương lai này trong bối cảnh Nhật Bản vừa có đợt vận động chính trị rất sôi động là việc giải thích điều 9 HPN và trong bối cảnh triết lý an ninh “ba không” của Việt Nam.

“Đồng hội, đồng thuyền”


dinh-hoang-thang-400.jpg

TS Đinh Hoàng Thắng, nguyên đại sứ Việt Nam tại Hà Lan, ảnh minh họa chụp trước đây. Courtesy photo.
Gia Minh: Phía Nhật quan tâm như vậy và như tiến sĩ vừa nói họ cho rằng Việt Nam và Nhật Bản hiện nay ‘đồng hội, đồng thuyền’, ông có đưa ra biện pháp đối tác như thế nào đối với Nhật Bản để có thể tối ưu hóa mối quan hệ này?
TS Đinh Hoàng Thắng: Vầ phần mình, chúng tôi cũng nói lại phân tích của chúng tôi trong một vài năm qua về những hành động của Trung Quốc trên Biển Đông gây ra những ảnh hưởng như thế nào đối với quan hệ quốc tế của Việt Nam.
Trước hết phải nói rằng tình hình Trung Quốc gần đây căng thẳng trên Biển Đông như thế làm cho mối bang giao Việt- Trung ‘bất định’. Chưa ai hiểu được rồi đây Trung Quốc sẽ đi những bước nào. Và điều này Việt Nam cũng nói rất rõ là chắc chắn sẽ không chịu xuống thang. Nghĩa là gần đây qua các tuyên bố, lúc đầu của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu, gần đây các nhà lãnh đạo cao nhất cũng nói Biển Đông là của Trung Quốc. Thậm chí còn có ông phó đô đốc nói Biển Đông/Hoa Nam là của Trung Quốc vì trong tiếng Anh Souch China Sea có chữ China thì Biển Đông là của Trung Quốc. Họ lập luận như thế thì chịu, mọi người ‘botay.com’.
Còn đối với quan hệ Việt- Nhật thì có tương lai, có thể nói lần đầu tiên quan hệ Việt- Nhật là mối quan hệ khá đặc biệt trong khu vực. Có thể nói đối tác chiến lược sâu rộng cũng chưa thể nói hết. Cảm nhận của tôi là có sự gặp gỡ rất lớn về mặt lợi ích giữa hai bên.
Với quan hệ Việt- Nhật thì có tương lai, có thể nói lần đầu tiên quan hệ Việt- Nhật là mối quan hệ khá đặc biệt trong khu vực. Có thể nói đối tác chiến lược sâu rộng cũng chưa thể nói hết. Cảm nhận của tôi là có sự gặp gỡ rất lớn về mặt lợi ích giữa hai bên.
-TS Đinh Hoàng Thắng
Phân tích tình hình như thế thì chúng tôi có đưa ra một giải pháp mà cái này chúng tôi cũng đã nói ở Việt Nam rất nhiều. Đó là giải pháp ‘P& DOWN’. P& DOWN là 5 từ trong tiếng Anh: P là ‘Partnership’ là hệ thống đối tác chiến lược, đối tác toàn diện của Việt Nam với bên ngoài. D là tiến trình dân chủ hóa. P & DOWN là mối tương quan, tương hổ, tương sinh. Partnership là điểm tựa bên ngoài, Democratization là điểm tựa bên trong . Hai cái tác động và thúc đẩy lẫn nhau làm cho an ninh và phát triển của Việt Nam có cơ sở. Tất nhiên P& DOWN phải dựa trên tình hình đấu tranh sắp tới đây dựa trên căn bản luật pháp quốc tế; bởi vì đối với Trung Quốc không thể đối đầu bằng quân sự, sức mạnh được. Mặc dầu cứ phải chuẩn bị, nhưng cái chính phải nói đến đấu tranh trên mặt trận pháp lý và mặt trận truyền thông. Thứ tư là ‘Wisdom’ tứ phải có ‘quân bình’, ‘thông minh’, ‘minh triết’. Quân bình ở đây có hai ý nghĩa, trước hết phải cố gắng thoát Trung Quốc;  tôi nói ở đây là những cái tiêu cực; chứ quan hệ Việt Trung vẫn phát triển theo kênh của nó. Ví dụ quân bình là quân bình với các nước lớn trong khu vực. Điều này rất quan trọng đối với Việt Nam. Cuối cùng theo tiếng Anh ‘networking’ là hệ thống mà Việt Nam sẽ tham gia từ TPP đến RCEP, những cấu trúc an ninh của khu vực lớn sau này đang hình thành.
Gia Minh: Và họ phản hồi đối với đề xuất, giải pháp mà ông đưa ra, cũng như họ có những giải pháp gì đáng lưu ý?
TS Đinh Hoàng Thắng: Như tôi nói họ rất quan tâm đến P&DOWN. Lúc đầu họ tưởng đây là mô hình  đâu đó từ bên ngoài vì bằng tiếng Anh. Nhưng sau đó tôi giải thích thì họ do tiếng Anh tập trung được đủ những khái niệm và chúng tôi phân tích ‘power of emergence’- tức sức mạnh của hệ thống mô hình P&DOWN này sẽ có sức đoàn kết lại những thành tố, kết nối lại từng giải pháp, biện pháp, kết nối lại sức mạnh khu vực tạo thành sức mạnh vượt trội để khống chế mọi tình hình khó quản trị, khó kiểm soát được.
Họ cũng có một số đề xuất. Theo họ thì đối tác chiến lược sâu rộng thì về mặt nhà nước có nhà nước lo, không bàn ở đây; nhưng về phía người Nhật thì họ muốn tăng cường hơn nữa cái ‘ngoại giao nhân dân (people-to-people diplomacy) như tổ chức một hội thảo tương tự tại Hà Nội vào thời điểm sớm có thể được. Rồi phía Nhật cũng muốn tăng cường hợp tác với những viện, những trung tâm nghiên cứu ngoài nhà nước. Thứ ba nữa các nội dung nghiên cứu và hợp tác lâu dài mà bạn đề xuất cũng rất đa dạng. Từ vấn đề đổi mới nói chung đến đổi mới thể chế, rồi họ muốn nghiên cứu chính sách hội nhập của Việt Nam, quan hệ giữa Việt Nam với các nước lớn. Bạn đặc biệt quan tâm đến tiến trình dân chủ hóa ở VN. Cuối cùng về thời điểm hiện nay diễn giải lại điều 9 Hiến Pháp ( của Nhật) thì họ muốn Việt Nam ủng hộ công khai như Philippines, còn nếu vì lý do gì đó mà chưa thể ủng hộ công khai thì cũng có thái độ tích cực đối với việc Nhật xây dựng  lực lượng quân đội để tạo thành sức mạnh mới trong liên minh Mỹ-Nhật để bảo vệ hòa bình ở Hoa Đông cũng như ở Biển Đông. Đặc biệt họ không chỉ nhấn mạnh đến vấn đề tự do hàng hải hay tài nguyên… mà họ còn nói đến ý nghĩa sâu xa của việc bảo vệ trật tự khu vực, trật tự hiện hành.
Gia Minh: Cám ơn TS Đinh Hoàng Thắng trình bày về những điều mà ông đưa ra tại Nhật vừa qua.
 http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/what-do-jp-care-about-the-east-sea-issues-gm-09262015082949.html




Thứ ba, 29/09/2015

TT Obama kêu gọi nỗ lực ngoại giao toàn cầu giải quyết xung đột

Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama phát biểu tại trụ sở Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ngày thứ hai 28 tháng 9, 2015.
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama phát biểu tại trụ sở Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ngày thứ hai 28 tháng 9, 2015.

Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama hôm nay kêu gọi thế giới xa lánh chiến tranh và xung đột, thay vào đó hãy tham gia các nỗ lực ngoại giao mới để giải quyết xung đột trên toàn cầu.
Nhà lãnh đạo Mỹ phát biểu trước Đại Hội đồng Liên hiệp quốc rằng "Nếu chúng tôi không thể hợp tác cùng nhau, tất cả chúng ta sẽ phải gánh chịu hậu quả. Tất cả chúng ta sẽ mạnh hơn nếu cùng nhau làm việc".
Ông Obama cũng bênh vực sức mạnh quân sự của Mỹ và chiến dịch Hoa Kỳ chống lại các phần tử nổi dậy Nhà nước Hồi giáo ở Trung Đông. Ông khẳng định Nhà nước Hồi giáo sẽ không bao giờ có nơi ‘trú ẩn an toàn’.
Tổng thống Mỹ chỉ trích Nga về việc sáp nhập bán đảo Ukraine cách đây một năm và sự can dự của Moscow hậu thuẫn các phần tử ly khai thân Nga ở miền Đông Ukraine. Tổng thốngg Obama cho rằng các biện pháp chế tài kinh tế của phương Tây đối với Nga là cần thiết vì không một quốc gia nào có thể làm ngơ trước việc xâm chiếm Crimea mà không bị trừng phạt.’
Vẫn theo lời Tổng thống Obama, không có đáp án đơn giản để chấm dứt 4 năm giao tranh ở Syria, nhưng ông cho rằng phải dùng ngoại giao để đạt một thỏa thuận cho người dân Syria chung sống hòa bình. Ông cũng lên án Tổng thống Syria Bashar al-Assad là người ‘dội bom thùng xuống dân chúng’.
Tổng thống Obama nói sau quá nhiều đổ máu và tàn sát, Syria không thể trở lại nguyên trạng trước chiến tranh. Ông kêu gọi một quá trình chuyển tiếp từ chế độ của Tổng thống Syria Bashar al-Assad.
Tổng thống Mỹ nói "Thảm họa như ở Syria không diễn ra ở các nước thật sự có dân chủ”.
Các giới chức chính quyền Obama đã nhiều lần nói rằng một quá trình chuyển đổi chính trị không thể xảy ra ở Syria chừng nào ông Assad vẫn còn nắm quyền. Vấn đề này dự kiến là trọng tâm trong các cuộc thảo luận giữa Tổng thống Mỹ với Tổng thống Nga hôm nay.
Đây là cuộc họp đầu tiên từ khi lãnh đạo hai nước hội đàm chính thức kể từ thượng đỉnh G8 hồi tháng 6/2013. Cuộc họp diễn ra đáp yêu cầu nhiều lần của Moscow, theo lời phát ngôn nhân Tòa Bạch Ốc, Josh Earnest. Sự kiện này cũng diễn ra giữa những lo ngại của Mỹ về việc Nga mở rộng sự hiện diện quân sự tại Syria.
Ông Earnest tuần rồi nói với báo giới rằng ‘Tổng thống Obama sẽ một lần nữa nhấn mạnh rằng việc Nga nhân đôi hỗ trợ cho chế độ Assad là một ván cược thua."

Trong bài phát biểu tại Liên hiệp quốc, Tổng thống Mỹ khẳng định khi các lãnh đạo thế giới tin tưởng dân chúng và mở đường cho dân chủ, họ sẽ được tăng cường sức mạnh chứ không phải bị yếu đi.
"Lịch sử chứng minh rằng các quốc gia phớt lờ dân chúng cuối cùng sẽ sụp đổ," ông Obama nói.
Nhà lãnh đạo Mỹ cũng chỉ ra hiệp ước quốc tế hoàn thành gần đây nhằm ngăn chặn Iran chế tạo vũ khí hạt nhân như là một ví dụ về hiệu quả của ngoại giao khi các nước bị buộc phải chịu trách nhiệm về việc vi phạm luật quốc tế.
http://www.voatiengviet.com/content/tt-obama-keu-goi-no-luc-ngoai-giao-toan-cau-giai-quyet-xung-dot/2982682.html
Thứ ba, 29/09/2015

Trung Quốc nhất quyết 'bám' Biển Đông

Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình trong cuộc họp báo chung tại Vườn Hồng Tòa Bạch Ốc, ngày 25/9/2015.
Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình trong cuộc họp báo chung tại Vườn Hồng Tòa Bạch Ốc, ngày 25/9/2015.
Bất chấp những cảnh cáo của Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama rằng những công trình bồi đắp đất xảy đảo nhân tạo tại vùng biển có tính chiến lược ở Biển Đông sẽ tác động tới việc giải quyết các cuộc tranh chấp biển một cách hoà bình, Trung Quốc vẫn nhất mực bám lấy vùng biển này, theo tờ South China Morning Post.
Bài viết trên trang mạng Maritime Professional hôm nay tường thuật rằng trong hội nghị thượng đỉnh Mỹ-Trung vừa rồi, Tổng Thống Barack Obama đã có các cuộc thảo luận thẳng thắn với Chủ tịch nước Trung Quốc về các cuộc tranh chấp biển trong khu vực Á Châu-Thái Bình Dương.

Tổng thống Obama bày tỏ quan tâm về những nỗ lực của Bắc Kinh quân sự hoá các đảo nhân tạo trong các vùng biển nơi đang có những tranh chấp chủ quyền chồng chéo giữa Trung Quốc với nhiều nước láng giềng Đông Nam Á.
Ông Tập bác bỏ cáo buộc cho rằng nước ông đang tăng cường sự hiện diện quân sự trong khu vực, nhưng một lần nữa ông khẳng định vùng biển phía Nam Trung Hoa, tức Biển Đông, đã là lãnh thổ của Trung Quốc từ thời xa xưa, và Bắc Kinh có quyền hành sử quyền hàng hải của mình tại đó.
Ông Tập nói Trung Quốc có quyền xây những kiến trúc trên các bãi đá ở Trường Sa, nhưng Bắc Kinh không có ý định quân sự hoá những nơi này. Phát biểu của nhà lãnh đạo Trung Quốc đi ngược với những nhận định của các nhà quan sát cho rằng Trung Quốc cần các đảo nhân tạo và các đường băng mà họ xây dựng ở Biển Đông, vì Bắc Kinh muốn sử dụng các phương tiện này làm căn cứ tiếp tế cho các lực lượng hải quân và không quân Trung Quốc tại Á Châu-Thái Bình Dương.
Tổng Thống Obama nói ông tin rằng Mỹ và Trung Quốc có khả năng xử lý những khác biệt quan điểm, và sự cạnh tranh giữa hai nước có tính xây dựng và tích cực.
Tuy nhiên cùng lúc, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter nói Washington đã sẵn sàng xúc tiến những chuẩn bị cho một cuộc xung đột có thể xảy ra với Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông, theo thông tấn xã Tass của Nga.
Ông Carter lưu ý rằng Trung Quốc đang biến các bãi đá ngầm thành những sân bay và căn cứ quân sự qua các hoạt động cải tạo đất để củng cố các đòi hỏi chủ quyền của mình trong khu vực.

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ nói đã đến lúc Hoa Kỳ đòi Trung Quốc phải hoãn lại tiến trình quân sự hoá quần đảo Trường Sa, và cổ võ cho các nỗ lực ngoại giao hầu có thể bảo vệ các quyền và lợi ích của tất cả các nước trong khu vực.
Trong khi đó, Ấn Độ loan báo lần đầu tiên trong lịch sử, quân đội Ấn Độ sẽ tổ chức một trong cuộc diễn tập đa quốc lớn nhất vào tháng Ba năm tới tại Pune.
Tờ Economic Times của Ấn Độ tường thuật rằng cuộc diễn tập mang tên là FTX 2016 sẽ kéo dài 1 tuần lễ, với sự tham gia của tất cả 10 nước thành viên ASEAN và 8 đối tác đối thoại của New Dehli, kể cả Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, và Hoa Kỳ.
Hội nghị để hoạch định cuộc diễn tập sẽ khởi sự tại Pune vào ngày mai và chấm dứt ngày 30/9.
Theo Maritime Professional, Economic Times
 http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-nhat-quyet-bam-bien-dong/2982450.html



Biển Đông: Mỹ triển khai 30 000 quân đối phó với Trung Quốc


media 
Thủy quân lục chiến Mỹ và Philippines cùng tập trận ở tỉnh Zambales, phía bắc Manila, ngày 23/10/2011REUTERS
Để đối phó với chiến thuật của Trung Quốc lấn chiếm Biển Đông, Thủy quân lục chiến Mỹ tiến hành kế hoạch tái bố trí 15% lực lượng tại Hawai và « xa hơn nữa ». Tin này được báo chí Đài Loan, Hàn Quốc và trang mạng thông tin điện tử Douwei (Đa Duy) tại Hoa Kỳ loan tải.
Theo báo Đài Loan Want China Times, Bộ Tư lệnh Thủy quân lục chiến Mỹ bắt đầu tiến hành kế hoạch tăng cường lực lượng tại Châu Á-Thái Bình dương để đối phó với sức mạnh của Trung Quốc đang lấn áp tại Biển Đông. Theo kế hoạch này, Thủy quân lục chiến Mỹ sẽ được tăng cường tại Hawai và bên ngoài hải đảo này.
Trích dẫn tài liệu của nhật báo Hàn Quốc Joong An Ilbo , mạng điện tử Đa Duy của một tổ chức người Hoa tại Mỹ cho biết, lực lượng viễn chinh của Hoa Kỳ, với 190 000 quân, sẽ được huy động và phối hợp với Hải quân Mỹ tại Châu Á-Thái Bình dương.
Giới chuyên gia thẩm định, 30 000 Thủy quân lục chiến sẽ được tái bố trí để củng cố lực lượng nòng cốt trong chiến lược « xoay trục » của Tổng thống Obama.
Tờ Marines Corps Times của Thủy quân lục chiến Mỹ giải thích, các hoạt động của Trung Quốc tranh giành lãnh thổ ở Biển Đông là nguyên nhân chính làm cho Hoa Kỳ phải tái bố trí lực lượng viễn chinh vào khu vực.
Bên cạnh đó là tình hình Bắc Triều Tiên, với các hoạt động chuẩn bị thử bom nguyên tử lần thứ tư và sự kiện không quân Nga gia tăng nhịp độ xâm nhập không phận Nhật Bản.
Nhật báo Hàn Quốc Munhwa Ilbo cho biết thêm, « bốn vũ khí chiến lược » có khả năng trang bị vũ khí hạt nhân sẽ được đưa vào Hàn Quốc hoặc tăng cường cho căn cứ Guam trong tháng 10 tới. Đó là các tàu ngầm nguyên tử, hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan, pháo đài bay B2 và chiến đấu cơ tàng hình F-22.
 http://vi.rfi.fr/chau-a/20150928-bien-dong-my-trien-khai-30-ngan-thuy-quan-luc-chien-doi-pho-voi-trung-quoc

Biển Đông : Tập Cận Bình không nhân nhượng Obama


media 
Ảnh vệ tinh của CICS
Ảnh vệ tinh của CICS ngày 03/09/2015 cho thấy Trung Quốc đã xây đường băng thứ ba trên Đá Xu Bi ở Trường Sa.Handout via Reuters
Bên cạnh hồ sơ nhân quyền, có một hồ sơ khác mà Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình dứt khoát không nhân nhượng Tổng thống Mỹ Barack Obama, đó là Biển Đông, cho dù lần đầu tiên ông cam kết sẽ không « quân sự hóa » các đảo nhân tạo.
Chủ tịch Trung Quốc đến thăm Nhà Trắng trong bối cảnh mà từ nhiều tuần qua, các lãnh đạo chính trị và quân sự của Mỹ thay phiên nhau lên án việc Bắc Kinh ráo riết bồi đắp và quân sự hóa đảo thuộc khu vực đang tranh chấp ở quần đảo Trường Sa, đồng thời đã yêu cầu Bắc Kinh dừng ngay những hoạt động xây dựng này.
Trung Quốc cũng đã nhiều lần nói rõ là các cơ sở được xây dựng trên đảo nhân tạo này cũng có thể sẽ được sử dụng vào mục đích quốc phòng và các hình ảnh vệ tinh cho thấy là Bắc Kinh đã hoàn tất việc xây dựng một phi đạo quân sự và dường như đang xây thêm 2 phi đạo khác.
Trong cuộc họp báo chung ngày 25/09/2015, sau cuộc hội đàm tại Nhà Trắng, Tổng thống Obama đã nhắc lại mối quan ngại nói trên của Hoa Kỳ, vì ông cho rằng việc Trung Quốc bồi đắp và quân sự hóa các đảo đang tranh chấp, « khiến cho các nước trong vùng càng khó mà đạt đến một giải pháp hòa bình cho các bất đồng ».
Đáp lại ông Obama, Chủ tịch Trung Quốc bác bỏ lời cáo buộc rằng Bắc Kinh đang quân sự hóa các đảo nhân tạo. Ông Tập Cận Bình tuyên bố rằng những hoạt động xây dựng của Trung Quốc trên quần đảo Nam Sa ( trên Trung Quốc gọi quần đảo Trường Sa ) không nhắm vào nước nào hay ảnh hưởng đến nước nào, và Bắc Kinh không hề có ý định quân sự hóa các đảo này.
Theo lời một quan chức cao cấp của chính quyền Mỹ, cam kết nói trên của ông Tập Cận Bình là một điều mới, mặc dù các quan chức cấp thấp hơn của Trung Quốc cũng đã từng cam kết như vậy với Ngoại trưởng Mỹ John Kerry vào mùa hè vừa qua.
Về phần bà Bonnie Glaser, chuyên gia về quân sự Trung Quốc tai Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược CSIS, nêu lên câu hỏi không hiểu ông Tập Cận Bình dùng chữ « quân sự hóa » ở đây nghĩa là gì ? Nghĩa là sẽ không để chiến đấu cơ sử dụng các phi đạo ? Hay sẽ không triển khai tên lửa trên các đảo này?.
Trong cuộc họp báo chung với Tổng thống Obama hôm qua, Chủ tịch Tập Cận Bình cũng không nói rõ là cam kết nói trên của ông có ảnh hưởng gì đến các hoạt động xây dựng Trung Quốc ở Trường Sa hay không.
Một chuyên gia khác về quân sự Trung Quốc, ông Taylor Fravel, thuộc Viện Công nghệ Massachussets, cũng nhận định rằng tất cả là tùy thuộc vào việc ông Tập Cận Bình hay Trung Quốc định nghĩa thế nào là quân sự hóa. Thật ra theo ông Fravel, các đảo hiện do Trung Quốc và các nước tranh chấp khác chiếm giữ trên thực tế đã được quân sự hóa rồi, vì trên các đảo đó đã có một số binh sĩ trú đóng và một số vũ khí phòng thủ.
Tóm lại, trên hồ sơ Biển Đông, Tập Cận Bình vẫn không lùi bước, cho dù bị Tổng thống Obama thúc ép ngưng ngay các hoạt động xây dựng trên những đảo đang tranh chấp. Nói cách khác, cuộc họp thượng đỉnh ở Nhà Trắng hôm qua đã chẳng giải quyết được gì. Hoa Kỳ thật sự có quyết tâm ngăn chận tham vọng chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông hay không, thời gian sẽ trả lời.
 http://vi.rfi.fr/chau-a/20150926-bien-dong-tap-can-binh-khong-nhan-nhuong-obama


No comments:

Post a Comment