Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday, 17 November 2016

THẾ CHIẾN III * HÀ NỘI * TRUNG CỘNG *


HỮU ĐÌNH NGUYÊN * THẾ CHIẾN III
Chiến tranh thế giới thứ III:
Lịch sử đứng đầu thế giới của Mỹ 130 năm qua:
 -là chặn đường đấu tranh tiêu diệt các đối thủ hạng nhì của thế giới , những quốc gia giàu mạnh đứng nhì thế giới mà muốn dành vị trí đứng nhất của Mỹ đều bị Mỹ đánh cho suy yếu ,vỡ ra từng mảnh.
1)   Từ năm 1880 GDP Mỹ vượt qua Anh, và đứng nhất thế giới.
Đến 2010 Mỹ đứng nhất đã được 130 năm.
2)   1918 chiến tranh thế giới thứ I nổ ra: (tiêu nước Anh đang hạng nhì thế giới)
Mỹ xúi Đức (Đức hạng tư thế giới) và Áo đánh Anh và Pháp, gây nên chiến tranh thế giới thứ nhất I. Sau chiến tranh thế giới thứ I, Anh suy yếu, Nước Nga ngôi lên đứng nhì thế giới.
3)   1939 chiến tranh thế giới thứ II nổ ra: (tiêu nước Nga đang hạng nhì thế giới)
Mỹ xúi Đức đánh Nga, gây nên chiến tranh thế giới thứ II. Sau chiến tranh thế giới thứ II, Nga suy yếu, Nước Trung Quốc ngôi lên đứng nhì thế giới dưới sự lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch đi theo con đường Tư Bản Chủ Nghĩa.
4)   Thập niên 1950 cộng sản hóa Trung Quốc: (tiêu nước Trung Quốc đang hạng nhì thế giới).
Mỹ đưa bom nguyên tử cho Mao Trạch Đông, giúp Mao đánh bại Tưởng Giới Thạch, cộng sản hóa toàn nước Trung Quốc, gây nên 1 Trung Quốc kiệt quệ về kinh tế. Trung Quốc cộng sản suy yếu. Liên Xô gượng dậy sau thế chiến, ngôi lên đứng nhì thế giới.
5)   1991 Mỹ đánh Liên Xô vỡ ra từng mảnh:  (tiêu nước Liên Xô đang hạng nhì thế giới)
Lần đầu tiên Mỹ diệt 1 quốc gia hạng nhì, mà không cần dùng đến hành động quân sự (như Tổng Thống Kennedy tuyên bố: muốn diệt Cộng Sản, không cần tốn 1 viên đạn). Mỹ dùng chiến tranh kinh tế để tiêu diệt Liên Xô vỡ ra từng mảnh. Nước Trung Quốc ngôi lên đứng nhì thế giới.
6)   2010 đến 2020 Mỹ đánh Trung Quốc vỡ ra từng mảnh: (tiêu nước Trung Quốc đang hạng nhì thế giới).
**********************
v Tại sao Mỹ phải đánh Trung Quốc vỡ ra từng mảnh trong 10 năm tới ?
Theo các nhà phân tích: năm 2020 nếu Trung Quốc vẫn duy trì được đà phát triển như hiện nay, GDP Trung Quốc sẽ vượt qua Mỹ, và đứng nhất thế giới.
Nếu Mỹ không đánh gục Trung Quốc trước năm 2020, thì Mỹ sẽ xuống vị trí thứhai, Mỹ sẽ chịu kiếp Quốc Gia hạng hai, như các bạn đã thấy kiếp quốc gia hạng hai như Trung Quốc, Liên Xô... Chẳng nước nào coi trọng, nói chẳng ai nghe, đồng tiền chẳng ai thèm xài, dân nghèo, nước lạc hậu… Vì bị nước hạng nhất (Mỹ) dùng sức mạnh kinh tế, quân sự, chính trị vượt trội: quật qua, quật lại, nắm đầu quay như con dế như sau:
•​Dùng sức mạnh đồng USD: chuyển USD vào nhiều thì hình thành bong bóng tài sản, đợi giá thật cao bán sạch, rút USD ra thật nhanh làm bể bong bóng,gây khủng hoảng kinh tế . (khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 – thị trường chứng khoán Trung Quốc và Nga giảm giá trị 4 lần, 4 đồng còn 1 đồng) .
•​8-2008 Mỹ ra lệnh cho Georgia đánh 2 vùng li khai, cho Nga tham chiến, để Nga không được Georgia ủng hộ vào WTO. Nga đứng trước tương lai chậm được vào WTO trong nhiều năm, làm các nhà đầu tư rút vốn khỏi nước Nga, Stock Nga rớt 4 lần.
Nếu Mỹ đánh vỡ được Trung Quốc ra từng mảnh, thì Mỹ sẽ giữ được vì trí quốc gia hạng nhất cả 100 năm nữa. Vì không còn nước nào dành vị trí nhất thế giới với Mỹ:
Ø​Trung Quốc bị nội loạn vỡ ra, Tây Tạng và 1 vài tỉnh tách ra, làm cho diện tích Trung Quốc chỉ còn 1/2 của Mỹ, Mỹ sẽ kềm kẹp Trung quốc giống như kềm kẹp kinh tế Nga bây giờ, không cho phát triển.
Ø​Quốc gia hạng ba là Ấn Độ có dân số gấp 3 lần Mỹ, nhưng có diện tích 1/2 của Mỹ, và là xứ nhiệt đới nóng bức không thuận lợi cho những người sử dụng trí não nhiều, nên sẽ thiếu nhân tài để phát triển quốc gia. Nên cả 100 năm nữa Ấn Độ mới đe dọa vị trí đứng nhất của Mỹ.
Ø​Còn Nga thì diện tích lớn hơn Mỹ 1 ít mà không hữu dụng, quanh năm tuyết phủ. Dân số phân nửa Mỹ. Nên không bao giờ qua mặt Mỹ được.
Ø​Brazil thì còn thua Ấn Độ nữa...
Nếu Mỹ đánh vỡ Trung Quốc, Mỹ được 100 năm vinh quang, hoặc mãi mãi đứng nhất thế giới nữa.
Nếu Mỹ không đánh Trung Quốc, Mỹ chỉ còn 10 năm vinh quang. Sau đó như Anh, Pháp bây giờ, phải ôm chân Mỹ cùng hưởng giàu sang.  Chống Mỹ thì nghèo đói như Nga, Trung Quốc. Nghĩa là Mỹ phải ôm chân quốc gia đứng nhất là Trung Quốc, Trung Quốc nói gì cũng phải nghe.
Vậy chỉ còn con đường duy nhất là Mỹ phải đánh Trung quốc trong 10 năm tới.
***************
v​Trước tiên Mỹ đánh Trung Quốc bằng kinh tế  và bằng chính trị (giống như đánh vỡ Liên Xô năm 1991) như sau:
•​Mỹ tố Trung Quốc là "nước thao túng tiền tệ", tạo cớ để Mỹ  đánh thuế nhập khẩu lên hàng Trung Quốc 30 % chỉ trong 6 tháng. Tất cả các hãng Trung Quốc sẽ phá sản, vì nền sản xuất Trung Quốc tồn tại chính yếu dựa vào thị trường tiêu thụ Mỹ. Không bán được hàng, tất cả các hãng Trung Quốc sẽ phá sản. Còn Mỹ mua hàng các nước khác mắc hơn 10 % không sao cả.
•​Mỹ tố Trung Quốc giữ giá trị đồng tiền thấp, để tạo ra phong trào trên toàn cầu áp thuế chống bán phá giá lên hàng Trung Quốc, để hàng Trung Quốc khó tiêu thụ trên toàn thế giới.
•​Áp thuế phá giá 30 % lên từng ngành hàng của Trung Quốc thay phiên nhau, gây phá sản lần lượt từng ngành sản xuất của Trung Quốc.
•​Nếu Trung Quốc nghe lời Mỹ tăng giá trị đồng tiền so với USD, thì Mỹ sẽ nâng giá đồng USD vừa đủ cho kinh tế Mỹ phát triển ổn định, còn đồng tiền Trung Quốc tăng giá vượt qua tốc độ tăng của USD sẽ ngăn cản sự tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc, kinh tế Trung Quốc sẽ đi xuống, các nhà đầu tư sẽ rút ra khỏi Trung Quốc, Trung Quốc sẽ gặp khủng hoảng. (Như khủng hoảng kinh tế Trung Quốc năm 2008, Stock Trung Quốc xuống 4 lần)
•​Còn nếu Trung Quốc hạ giá đồng tiền so với USD. Các nhà đầu tư Mỹ sẽ rút đầu tư ra khỏi Trung Quốc, vì đầu tư vào nơi có đồng tiền xuống giá sẽ lỗ, gây khủng hoảng kinh tế Trung Quốc.
•​Mỹ đánh Iran, mượn cớ chiến tranh cản đường vận chuyển dầu đến Trung Quốc trong 6 tháng, nền kinh tế Trung Quốc sẽ phá sản vì không có dầu để sản xuất, để công nhân di chuyển đến sở làm, hãng xưởng sẽ phá sản hàng loạt.
•​Ra lệnh cho các nước có mâu thuẫn biên giới với Trung Quốc, kiếm chuyện cho Trung Quốc tấn công (giống như Nga tấn công Georgia). Mỹ tố Trung Quốc chiếm nước khác bất hợp pháp, tuyên bố cấm vận Trung Quốc, kinh tế Trung Quốc tan hoang.
•        V…v……….
**************************
v Chiến tranh thế giới thứ III :
Nếu đánh bằng kinh tế mà Trung Quốc chưa vỡ, thì bắt buộc Mỹ phải đánh bằng nước cờ cuối cùng, đánh bằng quân sự.
Mỹ đánh Irắc để có nguồn cung cấp dầu bảo đảm, trong lúc chiến sự xảy ra giữa Mỹ với Trung Quốc. Mỹ đánh Afghanistan để đưa quân Mỹ sát biên giới Trung Quốc. Mỹ bán và dàn trận các tên lửa chống hỏa tiễn SM3 khắp Trung Đông, để bảo vệ các mỏ dầu chống hỏa tiễn Trung Quốc, bảo đảm nguồn cung cấp dầu. Bán hỏa tiễn SM3 cho các nước có biên giới giáp Trung Quốc, kể cả Việt Nam nếu chịu đứng chung chiến tuyến với Mỹ đánh Trung Quốc. Mỹ thuê căn cứ Manas ở Kyrgyzstan giáp biên giới phía Tây của Trung Quốc. Mỹ đặt căn cứ quân sự trên đảo của Tây Ban Nha gần Venezuela, nhầm cản Venezuela vận chuyển dầu cứu Trung Quốc. Mỹ triễn khai máy bay 747 trang bị vũ khí Laser, bắn hạ các hỏa tiễn nguyên tử của Trung Quốc bắn lên.
Mỹ sẽ ra lệnh cho các quốc gia đệ tử Mỹ, xung quanh Trung Quốc, khiêu khích cho Trung Quốc ra tay, ví dụ như:
Đài Loan bắn chìm 1 chiếc tàu của Trung Quốc. Việt Nam tấn chiếm lại Hoàng Sa Trường Sa. Nhật đánh chiếm mỏ dầu của Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp. Ấn Độ đánh Trung Quốc trên biên giới Ấn Hoa tố Trung Quốc xâm phạm biên giới. Tạo điều kiện cho Bắc Hàn bắn chìm 1 tàu chiến Mỹ, Mỹ đánh chiếm Bắc Hàn ,Trung Quốc tham chiến. v.v… Mỹ mượn cớ đó cùng với các nước đánh Trung Quốc tứ phía. Kể cả đánh bằng nguyên tử.
•​Phía Đông Bắc có Nhật, Nam Triều Tiên.
•​Phía Đông có Đài Loan.
•​Phía Đông Nam có Philipines, Thái lan, có thể có Việt Nam vì Việt Nam cần chiếm lại Hoàng Sa, Trường Sa. Mỹ đang ve vãn Việt Nam và Miến Điện.
•​Phía Nam có Ấn Độ.
•​Phía Tây có quân đội Mỹ và NATO ở Afghanistan. Trung Quốc bắn vào quân Mỹ ở Afghanistan sẽ trúng quân NATO, Các nước NATO cùng nhau tấn công Trung Quốc.
Kết quả nước Trung Quốc tan hoang ,vỡ ra từng mảnh vụng , mỗi nước chiếm 1 miếng, Việt Nam chiếm 1 miếng, Nhật chiếm 1 miếng, Ấn Độ chiếm 1 miếng, Tây tạng độc lập, hình thành nhiều quốc gia theo sau sự mâu thuẫn giữa các tôn giáo, các dân tộc thiểu số với Cộng Sản như: quốc gia Hồi Giáo, quốc gia Thiên ChúaGiáo, các quốc gia của các dân tộc thiểu số: Duy Ngô Nhỉ, Quảng Đông, Tiều,Quang Thoại…
Nam Hàn thống nhất Nam Bắc Hàn.
Việt Nam sẽ giống như các nước Đông Âu: Ba Lan, Rumani… sau 1991.
Giải phóng Iran, Venezuela, Cuba, Việt Nam, Bắc Hàn, Miến Điện… sẽ được bầu cử tự do giống như Irac, có sự kiểm tra của Liên Hiệp Quốc.
Tất cả các quốc gia trên thế giới đều nằm trong lòng bàn tay của Mỹ, Mỹ muốn nước đó sống thì sống, mà muốn chết thì chết .
Hy vọng rằng sẽ không có thế chiến thứ III, mà Trung Quốc vẫn vỡ ra, đó là ước mong lớn nhất của những nhà lãnh đạo Mỹ.
Tại sao có cuộc chiến tranh Việt Nam?
Trong cuộc chiến Việt Nam, Mỹ là người chiến thắng.
Vì mục đích của việc Mỹ đổ quân vào Việt Nam là nhằm ngăn cản Trung Quốc chiếm Đông Nam Á sáp nhập vào Trung Quốc ,đưa Trung Quốc thành quốc qia đứng nhất thế giới, Trung Quốc sẽ dành chức Đế Quốc của Mỹ.
Sau khi Mỹ âm thầm giao Việt Nam cho Liên Xô (Việt Nam muốn đánh với Mỹ phải cần vũ khí Liên Xô, nên Việt Nam sẽ dựa hẳn vào Liên Xô). Mỹ an tâm là Trung Quốc không thể chiếm Đông Nam Á sáp nhập vào Trung Quốc.  Trung Quốc muốn chiếm Đông Nam Á thì phải chiếm Việt Nam trước đã, phải đánh nhau với Liên Xô (Trung Quốc đánh với Liên Xô trên chiến trường Việt Nam năm 1979).
Mục đích của Mỹ đã đạt nên Mỹ rút đi năm 1973. chức Đế Quốc của Mỹ đứng nhất thế giới vẫn còn giữ được cho đến ngày nay.
Con trốt chiến tranh thế giới nhen nhúm từ lâu và gần đây bắt đầu quyện gió. Ý đồ tranh bá quyền của Trung quốc (TQ) lộ rõ qua những tuyên bố chủ quyền lãnh hải ở biển Đông và gây hấn với Nhật về vấn đề tương tự.Từ thể thao, kỷ thuật tin học, kinh tế, quân sự, ngoại giao… TQ âm mưu khống chế không chừa lãnh vực nào.
Thành tích huy chương trong kỳ thế vận hội vừa qua cho thấy Mỹ không còn ở vị thế cao tột. Về quân sự, xét về nhiều mặt, TQ chưa phải là đối thủ của Mỹ nhưng trong tương lai gần, không quá 20 năm, nếu đụng độ, Mỹ không thể khống chế địch thủ dễ dàng như với Iraq hoặc Afghanistan … Về ngoại giao, cánh tay của chú ba đã vươn tới Nam Mỹ, Châu Phi. Trước mắt, cả thế giới tư bản đều điêu đứng trong cuộc chiến kinh tế, bao gồm tiền tệ và giao thương. Cán cân thương mại nghiêng phần thặng dư về phía TQ. Với ưu thế nhân công đông như kiến với đồng lương rẽ mạt, hàng hóa của chú ba mặt sức thao túng thị trường dù chất lượng rất thấp.
Về kỹ thuật vi tính, điệp viên TQ len lõi cùng khắp. Với túi tiền rủng rỉnh, chú ba phóng khoa học gia vào không gian, cải tiến vũ khí kỹ thuật cao, nâng cấp quân đội lên hàng cường quốc quân sự. Thế giới không dửng dưng trước sự cựa mình của con rồng lớn Á châu này. Hơn ai hết, Ấn độ phải lo an ninh cho bản thân. Vùng Hi Mã là miếng mồi mà TQ luôn chờ cơ hội thuận tiện. Cách đây không lâu, chừng vài tháng, Ấn độ vừa ký kết mua 300 chiến đấu cơ thuộc loại hiện đại của Nga. Âu châu, sau 1975, đã ngồi lại thành một khối ngày càng vững mạnh. Nếu Liên Hiệp Âu châu không thành hình thì các cựu cường quốc này sẽ dễ dàng bị chú ba tỉa dần. NATO, từ nguyên thủy, là liên minh quân sự được thành lập để đối đầu với Liên sô. Liên sô sụp đổ, khối liên minh quân sự Varsaw tan rã, NATO mất đối tượng tranh hùng, đáng lý phải bị giải tán, nhưng ngược lại ngày càng kết nạp thêm hội viên; và gần đây nhất, Nga vừa lên tiếng tham gia chương trình phòng thủ lá chắn của tổ chức này. Tổng thống Nga còn cho biết là Nga không chỉ tham gia hời hợt mà là trong vai trò tích cực. Chương trình phòng thủ lá chắn, trên ngôn từ là để ngăn chận hỏa tiển từ Iran, nhưng bình tâm nhìn kỹ xem những vũ khí kỹ thuật cao của Iran có đáng cho cả khối NATO –cùng với Nga - phải bận tâm rối rít như vậy không. Xem thế, cả khối Âu châu, ít ra đã có một đạo quân có bộ chỉ huy thống nhất; đây là một trong những yếu tố hệ trọng trong việc điều quân.
Chiếc ghế cường quốc lãnh đạo thế giới đang bị ngấm nghé, Mỹ phản ứng như thế nào. Không phải chỉ trong vòng vài thập niên gần đây Mỹ mới ý thức hiểm họa này. Tiêu mốc dễ nhận ra nhất là sau thế chiến thứ hai, kể từ khi CS Trung Hoa kiểm soát hoàn toàn lục địa, phong trào vô sản tràn lan như nước vỡ bờ. Chậm tay, Mỹ sẽ bị bao vây. Cuộc chiến ở Triều Tiên tạo cơ hội cho quân đội Mỹ đóng quân sát bên nách TQ.Tham chiến ở VN, ban đầu Mỹ nghĩ là sẽ có một Triều Tiên thứ hai. Tiếc rằng cuộc chiến quốc cộng ở VN quá phức tạp, Việt cộng trà trộn len lõi trong chánh quyền cũng như trong dân chúng dày đặc cho nên Mỹ chọn phương sách khác. Nếu VN có trữ lượng dầu cao như ở Trung đông và tinh thần cũng như lập trường nhân dân miền Nam được như Nam Hàn, thì có thể Mỹ đã không bỏ rơi miền Nam. Quyết định phủi tay ở VN, Mỹ đã không khoán trắng cho TQ tự do Nam tiến. Khi Kissinger bí mật gặp Mao Trạch Đông, Mỹ đã hoàn tất kế sách trong vùng này. Hãy nghe một vài thỗ lộ của vài tướng lãnh Mỹ hành quân ở VN: "Những nhà chánh trị ở Hoa Thịnh Đốn gởi quân ra trận với đặc lệnh hành quân là đánh nhưng không được thắng". Xem thế, mọi chuyển biến trên thế giới không ra ngoài dự kiến của Mỹ.Trong khi quân đội Mỹ không được thắng ở VN thì các lực lượng CS ở Nam Dương, Mã Lai bị quét sạch không còn một móng!!! Thì ra chiến trường VN trở thành nút chặn sự bành trướng của CS – Tàu –về các quốc gia ĐÔNG NAM Á.Khi Đông Nam Á không còn cơ nguy bị nhuộm đỏ, vai trò nút chặn của miền Nam VN trở nên thừa.
Nhìn xa hơn, trong chiến lược toàn cầu, mục tiêu tối hậu của Mỹ lúc bấy giờ là đập tan khối CS thế giới. Nga Tàu còn thân thiện thì Mỹ còn mất ngủ. VN là một vị trí chiến lược ở Đông Nam Á. Cường quốc nào muốn làm chủ khu vực này thì chỉ cần chiếm giữ VN. Thế là Mỹ biến VN thành miếng mồi để nhử Nga Tàu húc nhau.Nhìn lại những diễn biến ở VN sau chuyến Hoa du của Kissinger ta sẽ thấy sự thần sầu quỉ khốc của Hoa Thịnh Đốn. Lúc bấy giờ thềm lục địa VN được phân lô để khai thác dầu. Các hãng dầu lớn rầm rộ tranh nhau đấu thầu khiến thế giới có cảm tưởng như dầu ở biển Đông tràn khắp! Tổng thống Nguyễn văn Thiệu cười hớn hở với cây đuốc trên tay được châm lửa với dầu vừa khai thác ngoài khơi Vũng Tàu. Màn trình diễn này càng khiến Nga Tàu háo hức tranh nhau vồ mồi. Lúc ấy nhân dân miền Nam càng thêm vững tin Mỹ sẽ không bỏ VN. Đùng một cái, Mỹ rút quân, Nga Tàu phóng nhanh vào kho nguyên liệu mà Mỹ bỏ tiền khai thác nữa vời. Thế là ngày nào ôm nhau xưng tụng đồng chí, giờ đây Nga Tàu càng thêm hục hặc. Điển hình là các đồng chí trong Bộ Chính trị CSVN đánh nhau vỡ đầu phun máu, phe thân Liên Sô thắng thế, Hoàng Văn Hoan phải nhanh chân đào thoát sang Tàu. Giờ đây dầu vẫn chỉ là tài nguyên phụ ở VN, chỉ đủ để chong đèn trong lăng Hồ chủ Tịt! Dầu là mạch máu của kỷ nghệ. Chú ba hí hững xua hải quân chiếm Hoàng sa. Được trớn, hậu duệ của Mao xếnh xáng tuyên bố chủ quyền biển Đông. Thế giới, nhất là các quốc gia Đông Nam Á – trong đó có VN - lo sốt vó. Mỹ vẫn dững dưng và lẳng lặng ngầm khuyến khích TQ làm tới. Sau 1975, các quốc gia vùng Đông Nam Á tự thấy thân thiện với Mỹ có ngày sẽ như miền Nam VN. Dè dặt với Mỹ chứ không dám đoạn giao với tư bản Mỹ. Trong khi đó, CSVN hồ hỡi trong chiến thắng, lại thêm đặt hết niềm tin nơi Liên Sô cho nên ngày càng đi vào lộ trình được Mỹ vẽ sẳn (ROAD MAP) mà không hay biết. Đến khi cái lưỡi bò biển Đông của TQ sắp liếm vào lãnh thổ, các quốc gia Đông Nam Á, nhất là VN, xúm nhau lại thỉnh Mỹ vào ngồi ghế trên và răm rắp tuân theo sự sắp xếp của chú Sam. Thế là tư bản kỹ nghệ chiến tranh của Mỹ tha hồ nhận đơn đặt hàng.
Bấy giờ, Hillary Clinton mới nở nụ cười ngoại giao – gây hộc máu cho chú ba – tuyên bố Mỹ có quyền lợi thiết yếu ở biển Đông và cương quyết bảo vệ quyền giao thông quốc tế của tàu bè Mỹ. Để hậu thuẩn cho lời tuyên bố trên, hàng không mẫu hạm của Mỹ tới lui thoải mái như vào chỗ không người trong khu vực lưỡi bò.* * *
Thử Đòn
Trong trao đổi thương mại, Mỹ ù lì ục ịch bồi dưỡng cho các đồng chí lãnh đạo TQ trở thành tư bản hút máu. Thế là CSTQ tự đặt mình vào hàng ngũ đàn em của Mỹ qua nghị quyết nhìn nhận quyền tư hữu, mộtkẻ thù cần phải bị tiêu diệt dưới chế độ CS. Mỹ tiếp tục đưa hơi tiếp sức cho TQ thặng dư thương mại. Để chi? Trước hết, khoảng cách giàu nghèo giữa thống trị và bị trị càng xa, bất mãn càng tăng!!! Đám thống trị quen mùi tư bản, lâm vào thế cởi cọp. Thế là chú Sam bắt đầu ra tay, tuy muộn. (Về điểm này Mỹ bị hố, đánh giá thấp tiềm năng lao động và không tiên liệu mức phát triển kinh tế của TQ quá nhanh. Bên cạnh đó Mỹ không ngờ tên thiến heo Đỗ Mười quá sức ngu dốt, chịu áp lực của Tàu, từ chối vào WTO do Tổng Thống Clinton mở cho một lối thoát. Đến khi chú ba vào được tổ chức này, Giang Trạch Dân tha hồ bắt chẹt, buộc VN phải mở cửa biên giới cho Tàu tự do qua lại không cần chiếu khán, mới chịu chấp nhận cho VN vào WTO. Đây là một đau đớn cho đất nước VN dưới sự lãnh đạo của một nhóm người dốt nát!)Rất nhịp nhàng, Mỹ và Âu châu cùng áp lực TQ tăng giá đồng yuan với lý do là giao hoán thương mại không công bằng. Một nan giải đối với TQ. Tăng giá đồng yuan tức nhiên giá thành cao, mất ưu thế cạnh tranh, xuất cảng giảm, xí nghiệp đóng cửa, nhân công thất nghiệp đưa đến bất ổn xã hội. Đó mới là đòn hiểm của Mỹ. Biết chắc là TQ khó chấp nhận tăng giá đồng yuan, Mỹ cho in thêm 600 tỉ bơm vào thị trường tiền tệ. TQ chới với la hoán yêu cầu Mỹ giải thích lý do in thêm tiền. Trước đó vài hôm, tại G20 ở Hán Thành, Hồ Cẩm Đào dõng dạc tuyên bố các quốc gia hãy tự lo liệu chuyện tiền tệ, thương mại của mình.Giờ đây Mỹ ra chiêu gậy ông đập lưng ông: "In tiền là chuyện riêng của nước Mỹ, không ai có quyền xía vào". Thế là bao nhiêu ngoại tệ dự trữ của TQ đầu tư vào chứng phiếu của Mỹ bỗng chốc bốc hơi; trước mua được một cái bánh bao giờ chỉ còn đáng giá một cái giò chảo quảy!TQ thừa biết có ngày sẽ bị Mỹ chơi đòn này cho nên trước đó đã nhiều lần vận động nhiều nước chọn đồng yuan thay cho vị thế "đô la bản vị" của tiền tệ thế giới nhưng bất thành. Chưa hết, trong chuyến viếng thăm Ấn Độ, Obama đưa hậu duệ Ghandi lên tận mây xanh qua lời hứa vận động cải cách cơ cấu hội đồng bảo an LHQ để Ấn Độ ngồi ghế ủy viên thường trực. Chỉ với chiêu này, Mỹ có được một thị trường nhân côngkhổng lồ và lương thiện hơn. Thêm được một món hời khác là mấy ngàn công ty tháp tùng Obama tha hồ nhận đơn đặt hàng. Tại Nam Dương, Obama, trong chuyến về thăm quê hương của 'kế phụ', được tiếp đón hết sức nồng nhiệt. Trong tương lai không xa, khách hàng của TQ, chánh yếu là Mỹ, sẽ chuyển đơn đặt hàng sang các quốc gia ĐNÁ và Ấn Độ… Chưa hết, tư bản đầu tư sẽ rút khỏi TQ. Được biết Intel đang thành lập một xưởng sản xuất qui mô ở VN. Trước viễn ảnh đó, TQ đang lợi dụng 'đất hiếm' để áp lực các công ty xe hơi Nhật ở lại với chú ba. Về mặt chánh trị thế giới, TQ bị tây phương, qua Na Uy, lột mặt nạ độc tài, đàn áp đối lập, chà đạp nhân quyền qua việc trao giải Nobel hòa bình cho Liêu Hữu Ba, một trí thức đối lập đang thọ án tù vì đòi hỏi dân chủ cho nhân dân TQ. TQ áp lực một số quốc gia tẩy chay lễ phát giải Nobel tổ chức vào ngày 10-12-2010. Đây là lần đầu tiên trong 74 năm qua, giải thưởng cao quí này không được trao tận tay người trúng giải. Trước những quan khách đồng loạt đứng dậy vỗ tay hưởng ứng, Ông chủ tịch Ủy Ban Giải Hòa Bình Nobel phát biểu về sự vắng mặt của ông Liu: "Chỉ riêng sự kiện này đủ chứng tỏ Giải Nobel dành cho Ong Liu là điều rất thiết yếu và thích đáng". (Noting Liu's absence, the chairman of the Norwegian Nobel Committee Thorbjorn Jagland said to a standing ovation: "This fact alone shows that the award was necessary and appropriate.") (The Toronto Star Dec 11, 2010). TQ lồng lộn trước việc này. Thiết tưởng cũng nên nhìn qua việc Bắc Triều Tiên nả trọng pháo vào một hòn đảo nhỏ thuộc Nam Hàn. Lâu nay cả thế giới đều biết Bắc Triều Tiên chỉ là con múa rối do TQ giật dây. Việc gây hấn này xảy ra vài tuần trước ngày trao giải Nobel chỉ là thâm ý của TQ muốn thế giới bớt chú ý việc chú ba bị thế giới vạch mặt độc tài đảng trị.TQ không bó tay để mộng bá chủ không thành. Chú ba không ngớt mượn tay đàn em khuấy động hết nơi này đến nơi khác. Hiện TQ đang phát động cuộc chạy đua vũ khí với Mỹ. Cuộc chiến trong tương lai không giới hạn trong qui ước cũ. Điễn hình là TQ thành công trong việc bắn hạ vệ tinh. Gần đây nhất Mỹ vừa thí nghiệm thành công chiếc phi thuyền con thoiX-37B, hoàn toàn dựa vào kỹ thuật mới, thuộc quyền sử dụng của quân đội. X-37B có nhiều ưu điểm trong hoạt động. Hình dáng nhỏ - chiều dài không quá 30m, chiều rộng 4.5m – khó bị dò tìm; xài 'lithium battery'và năng lượng mặt trời – ít hao năng lượng. Ưu điểm vượt trội của con thoi này là có thể thay đổi quĩ đạo khiến địch không phát hiện được để bắn hạ cũng như địch không che dấu kịp các vị trí trọng yếu khi con thoi bay ngang để thu lượm tình báo kỷ thuật, hoặc bắn tia laser vào kho vũ khí nguyên tử của địch.Được hỏi phải chăng đây là dấu hiệu chiến tranh bắt đầu lan rộng ra không gian, vị giám đốc trách nhiệm chương trình ởm ờ đây là bí mật quân sự.
TQ không dậm chân tại chỗ, chỉ trong vài thập niên, đất nước này đã thực sự nhảy vọt từ một quốc gia yếu kém lên hàng cường quốc kinh tế, quân sự và kỷ thuật không gian. Những thành công về thương mại, kinh tế và tài chánh đưa quân đội TQ giờ đây lên hạng ba trên thế giới. Cho dù hiện giờ vẫn còn ở thế thượng phong so với TQ nhưng bên trong, Mỹ chạy đua ráo riết về mọi mặt để cứu vãn những khinh địch của các lãnh đạo tiền nhiệm… Chưa ai hình dung ra mức độ khốc hại của cuộc chiến sắp tới.
* * *
Việt Nam Trong Thế Trận
Trở về mặt trận ĐNÁ, các quốc gia trong khối thay nhau làm chủ tịch của tổ chức liên quốc trong vùng. Nhìn kỹ ta có thể nhận ra đây bản sao của Liên Hiệp Âu Châu, chỉ khác nhau về nhân sự, địa lý, văn hóa. Riêng VN, sau hơn hai thập niên bị TQ chèn ép lấn lướt mọi mặt, từ biên giới nội địa, lãnh hải, đến cột xương sống Trường Sơn, giờ đây bắt đầu chấp nhận làm tay sai cho đế quốc Mỹ. Rồi đây VN sẽ phải lãnh ấn tiên phong trong cuộc đụng độ giữa TQ và ĐNÁ. Để trang bị cho đội quân tuyến đầu của mình, Mỹ cho biết sẽ nâng cấp bang giao giữa hai nước. Vốn đầu tư của tư bản Mỹ ở VN ngày càng vượt trội. Nên nhớ tư bản đi đến đâu thì chánh quyền Mỹ có trách nhiệm phải bảo vệ đến đó. Chỉ cần nhìn số công ty Mỹ hoạt động ở VN ta có thể hình dung mối bang giao giữa hai nước. CSVN thấy được tầm quan trọng chiến lược trong vai trò tiền phương của mình nên không ngại vòi vĩnh Mỹ và không sốt sắng đáp ứng yêu cầu của Mỹ về nhiều lãnh vực trong đó có nhân quyền, dân chủ… Cách đây vài năm, trong chuyến công du Mỹ, NT Dũng đã được Mỹ củng cố chiếc ghế Thủ Tướng và mạng sống khi được Bộ Trưởng Quốc Phòng R. Gates mời đến cho xem những tin tức tình báo về một âm mưu đảo chánh ở Hà Nội, cũng như vị trí những hỏa tiển của TQ hướng về VN. Thế là ngay sau khi về nước Dũng cách chức tức khắc 6 tướng lãnh đặc trách các khu vực hiểm yếu ở Hà Nội. Cho nên những ai mong đợi sự sụp đổ của chế độ CSVN là còn sống trong mơ. Mỹ đang cần một VN vững mạnh, càng mạnh càng tốt; thế mới bảo đảm an ninh cho hải trình biển Đông, mới chận đứng được mộng bá quyền của phương Bắc. Đại sứ Mỹ ở VN công khai tuyên bố ủng hộ một VN cường thịnh.
* * *
Vài Ý Kiến Đóng Góp Với Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại
Đối phó với người Việt hải ngoại, CSVN ngày càng lấn lướt. Chúng tấn công mọi mặt, văn hóa, kinh tế, len lõi trong cộng đồng để lủng đoạn gây chia rẽ. Kể từ những ngày đầu làn sóng vượt biên chúng đã gài người trà trộn để tạo niềm tin. Có những tên nằm vùng lúc nào cũng tỏ ra chống cộng hăng say nhất để chiếm lòng tin của người tị nạn, sau đó gây chia rẽ. Ở Toronto cách đây không lâu, có đứa con rơi của Nguyễn Chí Thanh lúc nào cũng tỏ ra tinh thần chống cộng triệt để nhưng thật ra, hắn có máu gian manh của CS ngay từ khi mới chào đời cho nên hắn ra tay phá nát cộng đồng.Chúng tung cán bộ văn hóa dưới nhiều hình thức như trình diễn ca nhạc, kết hôn Việt kiều, du học. Một trong những hoạt động ngầm đáng ngại của chúng là cho cán bộ vào làm việc trong các cơ quan công quyền địa phương. Không ít cán bộ CS xâm nhập cộng đồng dưới chiêu bài HO. Đó là truờnghợp người bạn cùng khóa 18 sĩ quan Đà Lạt của Phan Nhật Nam. Còn rất nhiều HO thuộc loại này. Chúng đã công khai ra mặt ứng cử vào hội đồng thị xã Toronto. Có nhiều người tị nạn đã nhìn ra và cảnh giác là người Việt quốc gia sẽ thua thêm một keo nữa. Đó là sự thật chứ không phải bi quan. CSVN có nhiều ưu thế và có sách lược khai thác điểm mạnh của họ và chỗ yếu của ta.Sơ lược những điểm mạnh của CSVN: - Kiểm soát người của chúng bằng cách hăm dọa thân nhân ở VN - Len lõi hoạt động ngầm trong cộng đồng, cán bộ trà trộn người vượt biên - Cán bộ được huấn luyện kỹ - Trang bị vật chất cũng như kiến thức cần có để hoạt động, hội nhập sinh hoạt bản xứ - Có chỉ đạo, lèo lái trực tiếp từ tòa đại sứ . . . Điểm mạnh của CSVN chính là yếu điểm của người Việt hải ngoại: - Liên hệ tình cảm gia đình trong nước - Lòng nhân đạo bị lợi dụng và khai thác - Nhân sự ngày càng giảm theo thời gian, trong khi lớp trẻ không được tổ chức, hướng dẫn để thay thế - Tinh thần hăng say giảm theo tuổi tác - Không có được một tổ chức lãnh đạo thống nhất.- Một yếu điểm khác của lớp người tị nạn là đã định cư ở các nước ngoài trong tình trạng khủng hoãng tinh thần, thể xác và vật chất. Cuộc sống bắt đầu lại từ con số âm không (-0), chẳng những lo sinh kế cho bản thân, giáo dục con cái mà còn bận bịu cứu giúp thân nhân còn kẹt lại nơi quê nhà, hội nhập xã hội xa lạ trong ngơ ngác.
- Thế hệ thứ hai không tiếp nối ý chí, lập trường của người đi trước v.v…
- Hơn 35 năm qua, đường lối cũng như hình thức tranh đấu của cộng đồng không chuyển biến cho phù hợp hoàn cảnh mới, khiến chánh quyền cũng như người dân bản xứ cảm thấy nhàm chán.
Thấy được yếu điểm của mình thì có thể khắc phục được.Trước hết những người lãnh đạo cần sáng suốt, qui tụ những người nhiệt tâm với lý tưởng tự do, sự sinh tồn của đất nước và dân tộc, tập họp thành MỘT KHỐI. Ví như các hội Sĩ Quan Thủ Đức, Sĩ Quan Đà Lạt, Thiết Giáp, Hải Quân, Không Quân v.v... hăy ngồi chung lại thành MỘT HỘI với nhiều chi hội bên dưới và các chi hội phải tuân hành chỉ đạo của ban lãnh đạo do toàn thể bầu lên. Các hội ái hữu Quãng Ngải, Mỹ Tho, Bến Tre, Rạch Giá, Cà Mau cho tới Gio Linh… nên tập họp lại thành một khối vì cho dù ở địa phương nào thì chúng ta vẫn là nạn nhân của CS, vẫn cùng chung chịu cảnh mất vợ, mất chồng, mất nhà cửa, con cái... do quốc nạn CS. Những người có học vị, chức vị dưới chế độ cũ cùng các bạn trẻ trưởng thành ở nước người nên tham gia tích cực vào sinh hoạt cộng đồng. Cho đến nay số người này rất là khiêm nhường. Tất cả những MỘT HỘI kể trên lại nên ngồi chung thành lập một KHỐI NGƯỜI VIỆT TỊ NẠN CỘNG SẢN. Các quốc gia Tây phương thường gồm nhiều sắc tộc và nhìn chung, ta thấy Trung Hoa, Do Thái, Ần Độ, Sikh … cho đến Tamil đều có MỘT KHỐI riêng.Về đường lối tranh đấu thì chúng ta nên tạo cảm tình của người dân bản xứ; khi tranh đấu vạch mặt bọn CSVN thì nên nhân danh quyền lợi của đất nước cưu mang mình chứ đừng nên hô hào tranh đấu vì quyền lợi của cộng đồng mình. Ví như trường hợp Lý Tống, ông nên vạch rõ cho người Mỹ cũng như chánh quyền Mỹ nhìn thấy những thiệt hại cho đất nước Mỹ khi CSVN tổ chức xong mạng lưới xâm nhập cộng đồng người Mỹ gốc Việt chống cộng. Hãy nêu lên một vài ví dụ như cán bộ CSVN kết hôn với người Việt hải ngoại, len lõi kết nối lớp trẻ lớn lên ở Mỹ đang làm việc ở những cơ quan kỷ thuật cao của Mỹ như NASA, BOEING để thu lượm tình báo kỷ thuật… Lớp trẻ Mỹ gốc Việt thừa hưởng tinh thần tự do ở đây cho nên chưa có kinh qua những trò gian xão, mưu mô, tráo trở, lật lọng… của CSVN.
Thói thường người Việt hải ngoại không thích giao tiếp với lớp người Việt mới (xin tạm gọi những đồng hương ra nước ngoài không thuộc diện tị nạn CS hay vượt biên). Xử sự như thế e rằng không thích hợp vì kinh nghiệm cho thấy rất nhiều đồng hương thuộc lớp trẻ tha thiết với đất nước và dân tộc. Có rất nhiều bạn trẻ đang can đảm dấn thân đấu tranh cho quyền lợi quốc gia dân tộc mà không có mấy ai ở hải ngoại sánh bằng.Thế tại sao ta không kết thân với họ. Cho dù họ là đảng viên CS hay bất cứ thành phần nào, ta tránh nhìn họ qua lăng kính ghét bỏ. Nhìn lại bản thân, ta phải trải qua nhiều chục năm mới nhận ra được cái hay cũng như điều xấu của nước ngoài. Tại sao ta không tạo cơ hội để họ nhìn thấy tinh thần tự do dân chủ của xứ người và điều không kém quan trọng là không nên bào chữa những tệ nạn xã hội ở khắp nơi. Nêu lên cho họ thấy những ưu điểm cũng như khiếm khuyết của chánh quyền nước ngoài và so sánh với giới lãnh đạo trong nước để họ tự nhìn thấy chỗ khác nhau. Ví như sinh viên nước ngoài không bị bắt buộc phải học chủ thuyết Karl Marx. Nêu cho họ thấy CSVN lúc nào cũng hô hào nhân dân ta anh hùng, Karl Marx là đỉnh cao trí tuệ (!!!), cái gì thuộc về đảng cũng siêu quần bạt tụy nhưng mà con cháu của bác và đảng đều tranh nhau ra khỏi xứ.
CSVN lợi dụng lòng nhân đạo, tình người để thu tóm ngoại tệ qua hình thức cứu trợ thiên tai và lộ liểu nhất là việc đưa 'bồ tát Cô Tim' chu du nước ngoài để công tác nhiều mặt. Thứ nhất là tìm ngoại tệ, bên cạnh đó là gây chia rẽ cộng đồng và lôi kéo những người nhẹ dạ theo phe chúng.Có một người – bị vào tròng của cán bộ CS gian xảo, ngụy trang dưới lớp áo đồng đạo – chủ quan khoe rằng ông biết rõ về cô Tim; rằng khoản tiền quyên được sẽ ký thác vào trương mục của cô ở Thụy Sĩ. Không ai chối bỏ điều đó. Tiếc thay ông bạn kia lại quên rằng mọi chi tiêu của cô Tim đều thông qua hệ thống tài chánh VN, có nghĩa là cô Tim rút dollars từ ngân hàng Thụy Sĩ nhưng chỉ nhận được một mớ giấy đi cầu có in hình Hồ Chủ Tịt, còn phần ngoại tệ kia thì CSVN mua thêm dây thòng lọng để siết cổ hơn 80 triệu đồng bào, để dâng đất cho Tàu! Mấy ai biết được trước khi đưa cô Tim ra nước ngoài, chánh quyền VN đã làm một DVD để cô Tim phơi bày nỗi khổ của những cô nhi. Nếu xem kỹ ta sẽ thấy một thực tế là CSVN không hề đoái hoài tới nhưng cô nhi này mà còn tạo thêm bi đát để đánh động lòng nhân của người Việt hải ngoại. Ngay trong DVD kể trên, chínhcô Tim xác nhận những cô nhi bị bịnh viện từ chối chửa trị chỉ vì những em bé đáng thương kia KHÔNG CÓ HỘ KHẨU!!!
Những đoàn thể đấu tranh thay vì nêu lên những yếu huyệt này nhằm vạch trần âm mưu của CSVN để chánh quyền cũng như người bản xứ thấy rõ dã tâm của bọn tổ chức, lại đi đòi hỏi những điều mà chúng có thể tránh né. Tin gần đây nhất cho biết Ngôi Nhà May Mắn của 'bồ tát Cô Tim' đã bị chánh quyền cuổm đoạt tương tự như những ngôi chùa 'làng đỏ' của ông sư (?!) 'THIỀN ÔM'.
* * *
Trước khi chấm dứt, xin kể thêm một câu chuyện có thật như sau. Một hôm, tại quán cà phê Tim Horton gần góc đường Hurontario và Eglington ở Mississauga, một người Việt tị nạn CS lớn tuổi nhìn thấy một thanh niên, khoảng ngoài 30, mặc áo thun đỏ có viền vàng,trước ngực có thêm hàng chữ 'Việt Nam'. Ông già kia xốn mắt, lân la hỏi chuyện. Đôi bên trò chuyện khá lâu, đủ để thanh niên kia trút bầu tâm sự: "Thú thật với bác, những chiếc áo này tụi cháu bị bắt buộc phải mua và được lệnh phải mặc. Theo chỉ đạo, đã đến lúc những người ra nước ngoài như tụi cháu phải xuất đầu lộ diện. Chúng cháu rất khó xử vì thân nhân của chúng cháu sẽ bị hăm dọa nếu chúng cháu không tuân theo chỉ đạo của họ". Cuối cùng, bài viết này chỉ là sự đóng góp ý kiến chứ hoàn toàn không chỉ trích. Thời gian cũng như khuôn khổ có hạn, chỉ nêu lên một số diễn biến và vài ý kiến đơn sơ.
Posted by sontrung at 4:29 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 335
Sunday, October 26, 2014
ĐỖ TRƯỜNG * DƯƠNG THU HƯƠNG
Dương Thu Hương, người đi giữa hai lằn đạn
Đỗ Trường (Danlambao) - Không hiểu thế quái nào, từ những thập niên cuối của thế kỷ hai mươi đến nay, văn chương đất Việt, lại mắc phải chứng bệnh lệch pha. Âm phần thịnh vượng khí xung. Dương phần sợ gió máy, đụng chạm chướng khí, đâm ra lại còi cọc. Điều này, càng rõ ràng hơn, ngay sau khi ông Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh hứa hẹn cởi trói, bóc keo dán miệng cho văn nghệ sỹ. Chúng ta thấy, đã xuất hiện một loạt tên tuổi của những văn nhân, nữ sĩ, từ Dương Thu Hương, Võ Thị Hảo, đến Phạm Thị Hoài… Sự can đảm, tiếp nối nhau ấy của họ, tuy ở những mức độ khác nhau, nhưng đã góp phần không nhỏ, cho sự hồi sinh dòng văn học hiện thực phê phán.
Cho đến tận hôm nay, vẫn có những ý kiến, đôi lúc còn khác nhau, nhưng có lẽ, không ai có thể phủ nhận, nhà văn Dương Thu Hương là người đã bập nhát cuốc đầu tiên, khơi thông dòng chảy này.
Có một giai điệu lạ, lạc ra khỏi trong dàn đồng ca ấy
Tôi không rõ, chính ông Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, hay văn kiện của Đảng, hoặc ai đó đã viết: TBT Nguyễn Văn Linh kêu gọi, hãy cởi trói cho các văn nghệ sĩ. (Như vậy, có sự khẳng định, từ trước đến nay, các văn nghệ sĩ đã bị trói tay, bịt miệng) Câu văn này, đã được nhắc lại nhiều lần, trong bài viết của các giáo sư, các nhà ngôn ngữ học và từ cả các văn nghệ sĩ ở trong nước. Đọc nó, tôi thấy rất mâu thuẫn và dường như có một chút hề hề. Bởi, Đảng cộng sản là đảng cầm quyền. Từ trước đến nay, chính Đảng (mới đủ khả năng) trói tay, bịt miệng các văn nghệ sỹ và kiểm duyệt sách báo. Vậy, ông TBT đứng đầu đảng kêu gọi ai, cởi trói cho các văn nghệ sĩ? Khi chính ông thắt và đang cầm cái dây đó. Hay ông đang kêu gọi chính ông? Người bình thường, không ai, làm một công việc kỳ quái như vậy.
Vâng! Một lời kêu gọi, rặt tính vờ vịt, vô trách nhiệm, chạy tội này, không hiểu các giới trí thức trong nước, có suy nghĩ gì, khi sử dụng câu văn này?
Phải nói, đây là thời kỳ khởi sắc nhất của văn học trong nước, kể từ sau Nhân Văn- Giai Phẩm. Một loạt tên tuổi nhà văn và các tác phẩm của họ, đã tách hẳn ra khỏi dàn đồng ca, tụng ca, tìm một hướng đi, cách viết mới, rửa lại bộ mặt nhem nhuốc cho nền văn học trong nước. Những Thân Phận Tình Yêu (Nỗi Buồn Chiến Tranh) của Bảo Ninh, Tướng Về Hưu của Nguyễn Huy Thiệp… gắn liền với tên tuổi của bà đỡ Nguyên Ngọc.
Thiết nghĩ, dù có đổi mới, có cởi trói cho văn nghệ sĩ, nhưng nếu không có Nguyên Ngọc, khao khát cái mới của người đọc ở thời điểm ấy, thì những tác phẩm trên chưa chắc đã thành công đến như vậy. Bởi, đến nay, có nhiều tác phẩm, xét về nghệ thuật cũng như nội dung, không hề thua kém Nỗi Buồn Chiến Tranh, hay Tướng Về Hưu, nhưng lại không được công kênh, chào đón nồng hậu như vậy, vì thiếu địa lợi, vắng nhân hòa và bàn tay bà đỡ như Nguyên Ngọc. Qủa thực, văn chương thơ phú, cũng như con người, đều có số phận của nó.
Khi các nữ sĩ Dương Thu Hương, Võ Thị Hảo, Phạm Thị Hoài… vẫn đủ can đảm và nội lực viết thẳng tưng về những vấn đề nhức nhối nhất của xã hội, con người, thì các đấng văn nhân dường như, ngòi đã bị xì, bị tịt. Người đọc, chờ cuốn tiểu thuyết kế tiếp của Bảo Ninh, đến nay, đã một phần tư thế kỷ, nhưng vẫn thấy tít tắp mù xa. Nguyễn Huy Thiệp lại chuyển sang (gam) truyện dài, tiểu thuyết lịch sử, nhưng anh đã thất bại, về cả nội dung, tư tưởng lẫn nghệ thuật viết. Gần đây, nghe nói, anh tuyên bố, rửa tay gác bút.
Thật là buồn thay! Các nhà văn thuở ấy, hồn khí ở nơi đâu bây giờ?
Nhà văn Dương Thu Hương, sinh năm 1947 tại Thái Bình, chị đã có những năm tháng dài là người lính, ở mặt trận ác liệt Bình Trị Thiên. Rất may mắn, chị còn sống và trở về, sau chiến tranh. Giải ngũ, chị vào học trường viết văn Nguyễn Du và làm việc trong ngành điện ảnh. Và từ đây, chị chuyên tâm, và hoàn toàn dấn thân vào con đường văn chương đầy khổ ải này.
Có thể nói, trong chiến tranh, Dương Thu Hương đã mờ mờ nhận ra, không riêng thế hệ chị, mà cả một dân tộc bị dối lừa. Nhưng chỉ đến khi, kết thúc cuộc chiến, chị mới nhận thức được rõ ràng, đầy đủ. Đắng cay là như vậy, nhưng dường như, Dương Thu Hương đã kịp kìm lại nỗi đau ấy. Sự dồn nén, đợi chờ đó, nó chỉ phát nổ và cháy lên, khi chị đã có một chỗ đứng, và trở thành nhà văn Dương Thu Hương nổi tiếng.
Thật vậy, những bài văn chính luận, những trang sách hiện thực phê phán của chị đã phơi trần những sự thật, từ cung đình xuống đến đời sống dân cày. Để từ đó, Dương Thu Hương đã xổ toẹt Đảng, ly dị hội nhà văn. Và cánh cổng nhà tù, đã mở ra cho chị từ đây…
Có một số nhà văn, nhà nghiên cứu cho rằng, những tác phẩm của Dương Thu Hương gây tiếng vang và đọng lại trong lòng người, phần nhiều do chính trị. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, chị đã đứng hẳn về phía nhân dân để viết. Và chính sự thật trong những cuốn sách của chị, đã mở cửa, cho độc giả nước ngoài, tiếp cận và hiểu đúng về văn học Việt, cũng như nỗi thống khổ của con người. Từ đó, làm tên tuổi của chị gần gũi, và được người đọc trong, ngoài nước yêu mến nhiều hơn, là lẽ đương nhiên.
Tuy đến với văn chương hơi muộn, nhưng Dương Thu Hương viết nhanh và khỏe. Kể từ năm 1980, đến những năm cuối thập niên chín mươi, dường như năm nào chị cũng ra sách. Đặc biệt, năm 1985, chị cho in ba, bốn tập truyện ngắn và tiểu thuyết. Viết nhanh và khỏe như vậy, nhưng có thể nói, tập truyện nào của Dương Thu Hương cũng hay, nhiều người tìm đọc, kể cả những truyện ngắn đầu tay. Tư tưởng, cách viết của chị đã vượt ra khỏi cái dàn đồng ca, tụng ca ấy. Và cũng chính nó, đã xé toạc bóng tối của đời sống con người, xã hội, mà bấy lâu nay người ta cố tình che đậy. Thật vậy, nếu văn chương không đi thẳng vào đời sống xã hội, một cách trung thực nhất, thì nó chỉ là những trang viết chết.
Nếu như được phép lựa chọn, những cuốn sách đại diện cho sự nghiệp văn chương của Dương Thu Hương, thì chắc chắn, tôi sẽ nghĩ đến tiểu thuyết Những Thiên Đường Mù và tập truyện Chân Dung Hàng Xóm. Đây là hai cuốn sách điển hình về tư tưởng, nghệ thuật viết truyện của chị. Nhưng nhìn từ góc độ khác, Tiểu Thuyết Vô Đề (Khải Hoàn Môn), lại là cuốn sách tôi thích hơn cả. Bởi Dương Thu Hương rất can đảm, đánh giá lại, đưa ra cái nhìn rất mới về chiến tranh, ngoài ra còn nhiều chi tiết, tình huống phức tạp, dễ gây tranh luận với lối hành văn nhanh, sinh động, khác với cách viết thông thường của chị.
Nhà văn phản kháng- Sự phản kháng trong văn chương

Cùng với Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, Tháng Ba Gãy Súng của Cao Xuân Huy, Tiểu Thuyết Vô Đề là cuốn sách viết về chiến tranh hay nhất mà tôi đã được đọc. Có thể nói, Tiểu Thuyết Vô Đề là cuốn tự truyện trong tiểu thuyết, mổ xẻ tâm lý người lính, trước sự tàn nhẫn man rợ của chiến tranh. Cuốn sách này, được xuất bản ở Hoa Kỳ vào mùa hè năm 1991, khi Dương Thu Hương đang ngồi tù ở Việt Nam. Đặt bút viết Tiểu Thuyết Vô Đề, chắc chắn, chị đã lường trước được áp lực không chỉ của chính quyền trong nước, mà còn cả phần đông người Việt ở nước ngoài. Nhưng chị đã vượt qua cả hai làn đạn ấy, để có một tác phẩm văn học, hay đến như vậy. Thì quả thật, làm cho người đọc không chỉ yêu mến tài năng, mà còn cảm phục, tinh thần, lòng dũng cảm của chị.
Có thể nói, khuynh hướng mới, tự truyện trong tiểu thuyết gần đây, đã cho người đọc hiểu được tác giả và cuộc sống, thời đại đó, soi rọi qua chính những tình tiết, gắn liền cuộc đời hay những trải nghiệm thật của họ. Tiểu Thuyết Vô Đề cũng vậy, nhà văn Dương Thu Hương, đã dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, thay cho Quân, thuật lại thân phận, cuộc đời người lính chiến. Tư tưởng, cảm xúc của tác giả, được thông qua sự hồi tưởng, hành động nhân vật, bằng thủ pháp bẻ đôi câu chuyện, cắt ngang cuộc đời Quân. Và lời tự thuật của người lính, được bắt đầu từ nhát cắt ấy.
Ngay những dòng đầu tiên, Dương Thu Hương đã dẫn người đọc vào cận cảnh rùng rợn của cuộc chiến. Dù không có tiếng bom rơi, đạn nổ, nhưng ta đã cảm được cái chết ở đâu đó, hoặc nó đang đến rất gần: “Suốt đêm tôi nghe gió hú ngoài vực cô hồn.
Tiếng rên rỉ triền miên, tiếng nức nở, đôi lúc tiếng rít hỗn hào như ngựa cái hí ngày động cỡn. Mái lán rung bần bật, những ống tre nứt thổi sáo từng hồi, tấu lên giai điệu thê lương của đám tang vùng thôn dã. Cây đèn chai của chúng tôi phập phù như muốn tắt. Tôi thò cổ khỏi chăn, thổi tắt ngọn lửa, mong bóng đêm sẽ bịt hết mọi giác quan..." (chương1)
Vâng! Đó là cái chết tang thương của sáu cô gái ở binh trạm hay thanh niên xung phong, người miền Bắc, mà tác giả cho rằng, (có thể) do những người lính thám báo VNCH gây ra. Chi tiết này, gây ra phản ứng, tranh cãi cho người đọc, nhất là những người lính VNCH. Như có lần tôi đã viết, là người sinh sau đẻ muộn, rất may, tôi không phải tham gia, cuộc chiến huynh đệ tương tàn, đẫm máu và nước mắt này. Nhưng đọc và nghe, tôi cảm được quân kỷ, cũng như phẩm chất của người thám kích nói riêng và người lính VNCH nói chung.
Cho nên, đến lúc ngồi viết những dòng chữ này, tôi vẫn không tin, hành động dã man bỉ ổi đó, do một số người lính thám báo gây ra. Nhưng, đọc Tháng Ba Gãy Súng của người sĩ quan VNCH Cao Xuân Huy, viết về hành động giết chính đồng đội mình, của lính thủy quân lục chiến, rồi quăng xác xuống biển, chỉ vì chỗ ngồi trên tàu, khi di tản, rút chạy, làm tôi thấy khó hiểu. Buộc tôi phải hoài nghi: Sự quân kỷ của lính thám báo VNCH, có lẽ, nó lại nằm trong cái (xác suất) số dư như trong toán học chăng?
Sự giết chết đồng đội của nhóm lính thủy quân lục chiến, giữa chốn đông người, tôi cho rằng, còn dã man, tàn bạo hơn nhiều lần, so với những kẻ đã giết 6 nữ thanh niên xung phong, là người của phía bên kia.
Tôi hoàn toàn, không tìm ra lời giải đáp. Và tôi chỉ còn có thể an ủi mình: Chiến tranh điều gì cũng có thể xảy ra.
Vâng! Chúng ta nghĩ gì? Khi đọc đoạn trích hồi ký dưới đây:
“…Chưa kịp tìm chỗ ngồi, tôi nghe một tiếng súng nổ.
Hai người lính Thủy Quân Lục Chiến cúi xuống khiêng xác một người lính Bộ Binh vừa bị bắn chết ném xuống biển. Một người lính Thủy Quân Lục Chiến khác đang gí súng vào đầu một trung úy Bộ Binh ra lệnh:
"Ðụ mẹ, có xuống không?"
"Tôi lạy anh, anh cho tôi đi theo với."
"Ðụ mẹ, tao đếm tới ba, không nhảy xuống biển tao bắn."
"Tôi lạy anh mà, tôi đâu có gia đình ở ngoài này."
"Ðụ mẹ, một."
"Tôi lạy anh mà, anh đừng bắt tôi ở lại, anh muốn lạy bao nhiêu cái tôi cũng lạy hết. Tôi lạy anh, tôi lạy anh."
"Ðụ mẹ, hai."
"Trời đất, mình đồng đội với nhau mà, anh không thương gì tôi hết. Tôi lạy anh mà."
"Ðụ mẹ, ba."
Tiếng ba vừa dứt, tiếng súng nổ.
Người trung úy Bộ Binh ngã bật ngửa ra, mặt còn giữ nguyên nét kinh hoàng. Viên đạn M-16 chui vào từ đỉnh đầu. Xác của anh ta được hai người lính Thủy Quân Lục Chiến khác khiêng ném xuống biển.
Tên lính vừa bắn người thản nhiên tiếp tục chĩa súng vào đầu một thiếu tá Bộ Binh đang sợ hãi nằm mọp người ở cạnh đó, mặt lạnh băng đầy sát khí:
"Ðụ mẹ, tới thằng này, mày có xuống không?"
Ông thiếu tá Bộ Binh này hơi lớn tuổi, mặt cắt không còn hột máu, run lên cầm cập, năn nỉ:
"Anh tha cho em, anh tha cho em."
"Ðụ mẹ, một…." ( Tháng ba gãy súng –chương 5- Cao Xuân Huy)
Vâng! Tôi cũng định dừng sự việc đau đớn này ở đây, bởi tình tiết trên, không phải là điều chính, tôi muốn viết, muốn bàn trong bài này. Nhưng trời đã về khuya, màn đêm dày đặc trước ô cửa, không có gió, mà lòng cứ thấy nao xao, buộc tôi phải bật dậy. Tôi ngồi, viết những suy nghĩ của mình, gửi cho hai người anh văn chương lớn tuổi. Các anh là sĩ quan cấp tá quân đội VNCH, đều chỉ huy trung đoàn ngoài mặt trận. Rất may, cả hai anh đều viết, trả lời những thắc mắc, suy nghĩ của tôi. Tuy nhiên, là kẻ hậu bối, tôi không dám, không đủ khả năng kết luận đúng sai. Nhưng khi đi sâu vào phân tích Tiểu Thuyết Vô Đề, tôi giữ nguyên những tình tiết vốn có trong tác phẩm.
Và cũng xin phép các anh, tôi đưa nguyên văn bức thư ấy lên đây, để bạn đọc tự suy xét, có đánh giá của riêng mình vậy:
“1/- Lính thám báo (biệt kích) hầu hết đều được chọn lựa rất kỹ càng, sau đó cũng phải trải qua một thời kỳ huấn luyện nghiêm khắc. Không phài chỉ có khả năng tác chiến, mưu sinh giỏi mà quan trọng là tinh thần kỷ luật rất cao. Tất cả đều đáng tin cẩn. Vì các toán thám báo hoạt động đơn độc và hầu hết trong các công tác thật nguy hiểm, nếu không có kỷ luật, họ sẽ không thi hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của cấp chỉ huy, nhất là trong tình trạng sinh tử. Vì vậy, việc nhà văn Bảo Ninh (hay là Dương Thu Hương) kể về hành động của tham báo (biệt kích) trong các tác phẩm của họ, dưới con mắt của người lính miền Nam, sẽ trở nên quá cường điệu, nếu không nói là... không thể.
Điều nên nhớ là nhiệm vụ chính của lính thám báo hay biệt kích là đột nhập (âm thầm) vào vùng địch để ghi nhận tin tức, tình hình của quân địch, hay bắt sống địch mang về khai thác. Chỉ nổ súng khi thực sự cần tự vệ (nếu bị phát hiện), và nhanh chóng phân tán, tìm mọi cách thoát ra khỏi vùng địch. Với họ, nổ súng là điều tối kỵ và bất lợi nhất. Như vậy các sự kiện (theo Bảo Ninh và DTH) kể: các thám báo bắt địch quân (lính gái hay TNXP) tra khảo, hãm hiếp... (nhẩn nha ngay trong lòng địch một thời gian khá dài) là điều không đúng!
2/- Về chuyện đám lính TQLC bắn giết các quân nhân không cùng binh chủng trên các tàu di tản từ Đà Nẵng ( theo Tháng Ba Gãy Súng của Cao Xuân Huy) là chuyện có thật. Là một vết nhơ đáng lên án. Nhưng bản chất sự việc khác hẳn với chuyện Thám Báo.
Vì đám lính này thuộc loại vô kỷ luật. (Có nhiều thanh niên du đảng, phạm pháp, sau thời gian thụ xong án, cũng được đưa vào lính, bổ sung cho một số đơn vị hao hụt quân số). Với bản chất (xấu) ấy, lợi dụng khi đơn vị gặp lúc xáo trộn, mạnh ai nấy sống, không còn được sự chỉ huy chặt chẽ nữa, thì những con người này trở về với bản chất xấu của họ, giết người , cướp bóc. Vì vậy, sau khi các chiếc tàu di tản từ miền Trung vào Nam, đã không cho cặp bến Vũng Tàu hay Sài gòn, mà tất cả được lệnh cặp vào Đảo Phú Quốc. Một Tòa Án Mặt Trận đã được thành lập khẩn cấp tại đây, hầu hết những người lính TQLC phạm tội đều bị xử bắn.
Do đó, theo mình, những tên lính lưu manh, phạm tội này, không thể so sánh với những người lính thám báo hay biệt kích. Khác nhau rất xa, mà người sĩ quan miền Nam nào cũng nhận thấy khác biệt rất rõ ràng."
Tuy có lần, nhà văn Dương Thu Hương đã tuyên bố, dùng văn chương để làm chính trị. Nhưng khi đọc, nghiên cứu, tôi thấy những tác phẩm của chị được chia thành hai mảng, chính luận và văn hiện thực phê phán nhân đạo, rất rõ ràng. Nếu như, văn chính luận của chị đanh thép, quyết liệt, hừng hực sức chiến đấu chống bạo quyền, làm nên tên tuổi nhà văn phản kháng Dương Thu Hương, thì văn học hiện thực, nhân đạo xoáy sâu vào nỗi đau của con người, xã hội, lại làm nên một nhà văn Dương Thu Hương can trường và tài hoa khác.
Phải nói thẳng, từ sau Nhân Văn- Giai Phẩm bị đàn áp, đến năm đầu đầu thế kỷ này, chưa có nhà văn nào, can đảm viết thẳng thắn, máu lửa như Dương Thu Hương. Những ngày tháng tù đày ấy, dường như càng làm cho tinh thần chị vững vàng và can đảm hơn lên. Những bài viết, những trang sách của chị, không chỉ còn là nhát dao chọc vào ung nhọt của xã hội nữa, mà nó như trái bom, dội xuống đầu chế độ và nhà cầm quyền. Do vậy, sách của chị, cho đến nay, hoàn toàn bị cấm xuất bản và phát hành trong nước.
Việc cấm xuất bản và phát hành, kể cả những cuốn sách văn học hiện thực nhân đạo, của những nhà văn Dương Thu Hương, Võ Thị Hảo, Phạm Thị Hoài… gần đây, cho thấy rõ một điều, nhà nước chưa bao giờ từ bỏ lý lịch hóa, chính trị hóa văn học. Với cách quản lý văn hóa, nhưng lại thiếu văn hóa, ích kỷ, thiển cận như vậy, gây thiệt thòi cho người đọc và tổn hại cho cả nền văn học, vốn dĩ đã èo uột.
Hệ quả quái thai được sinh ra từ chiến tranh
Ngược dòng lịch sử, đất Việt ta đã trải qua bao phen chống ngoại xâm và những năm tháng dài nội chiến, chém ngang hình đất nước, nhưng chưa cuộc chiến nào tàn nhẫn, man rợ như cuộc chiến huynh đệ tương tàn vừa qua. Chủ thuyết nào, ý thức hệ nào, đã ấn súng, ấn dao vào tay học sinh, sinh viên, và cả những người nông dân chất phác, hiền lành, để họ lao vào nhau chém giết, một cách thú vật, điên cuồng như vậy?
Một câu hỏi tưởng chừng đơn giản, vậy mà, trải qua mấy chục năm và bao thế hệ, không tìm ra câu trả lời. Bởi, lời giải đáp ấy, đã được che giấu, bằng họng súng và tù đầy. Và chỉ đến khi, người nghệ sĩ, nhà văn Dương Thu Hương dám đánh đổi tù đày, thì sự thật mới được phơi bày. Một sự thật, ai cũng biết, nhưng không đủ can đảm nói và viết ra.
Để viết những trang sách này, Dương Thu Hương đã bước ra khỏi cuộc chiến, ra khỏi hận thù, để tìm góc nhìn trung thực nhất. Thông qua lời tự thú của Quân, nhà văn không chỉ vạch trần tội ác dã man tàn bạo, của người lính miền Bắc, mà còn vạch ra hành động vô nhân đối với đồng loại của người lính thám kích miền Nam. Chúng ta, đọc lại đoạn trích dưới đây, để thấy được cách giết người man rợ của người lính miền Bắc:
“…Hùng thường nghĩ ra những cách giết người đặc sắc trong các trận giáp lá cà. Và gã kể lại cho đồng đội nghe với khoái cảm không che đậy. Kẻ thì gã xọc lê từ họng xuống tim, - kẻ gã chọc từ nách bên phải qua bên trái, - kẻ gã lại đâm từ hạ bộ ngược lên ở bụng. Kỳ thú nhất là một lần đánh ấp, gã bò vào phòng riêng một tên sĩ quan Nguỵ , chờ tên này dính chặt với cô vợ trắng phôm phốp của y như một cặp cá thờn bơn, gã mới phóng lê từ trên xuống "Một xọc xuyên hai, bảo đảm là sướng mắt…".(chương 11)
Khi người lính miền Bắc, đang sung sướng, vui mừng, tìm ra những kiểu giết người mới, thì người lính miền Nam lại điên cuồng với những với những kiểu hãm hiếp, giết người thời trung cổ:
“…Chúng tôi hướng vào góc rừng đã tỏa ra mùi thối khủng khiếp mà đi. Tới vực cô hồn, gặp sáu cái xác truồng. Xác đàn bà. Vú và cửa mình bị xẻo, ném vung vãi khắp đám cỏ xung quanh.
Nhờ những tấm khăn dù, nhờ những chiếc cổ áo sơ mi kiểu lá sen tròn và hai ve nhọn mà chúng tôi nhận ra đấy là những người con gái miền Bắc. Có lẽ họ thuộc một binh trạm hoặc một đơn vị thanh niên xung phong cơ động nào đó bị lạc. Cũng có thể họ đi kiếm măng hoặc rau rừng như chúng tôi rồi vấp bọn thám báo.
Chúng đã hiếp các cô tàn bạo trước khi giết! Những cái xác bầm đập méo mó! Da thịt con gái nõn nà tươi thắm vậy mà khi chết cũng thối rữa y như da thịt một lão già phung lỡ hay một con cóc chết!…"(chương 1)
Viết đến những hình ảnh man rợ này, chợt làm tôi nhớ đến câu chuyện, hơn bốn mươi năm trước. Tôi có người chị họ khá xinh đẹp, làm việc ở Hòa Bình. Đầu những năm 1969-1970, chị đang là đối tượng kết nạp Đảng. Thời kỳ đó, thương binh, bộ đội người miền Nam ra Bắc tập kết, an dưỡng khá đông. Thành phần này, rất được chính quyền ưu đãi. Bọn này, thường tụ tập bầy đàn, rượu chè, ăn nhậu, không chịu trả tiền, đập phá, đốt nhà, đánh người vô cớ…
Nhưng chính quyền thường làm ngơ. Không hiểu sao, có một thương binh quê ở miền núi An Khê, Bình Định, đem lòng yêu người chị họ tôi. Lúc đầu, chị không chịu, nhưng có lẽ, do sắp xếp của tổ chức hay vì cái thẻ Đảng viên, nên chị gật đầu. Cưới được một thời gian, chị dẫn hắn về nhà tôi chơi. Bữa tối, mẹ tôi mua lòng lợn, đãi khách.
Cả nhà đang ăn ngon lành, tự nhiên hắn kể chuyện chiến trường. Đến đoạn giết tù binh, lấy gan xào với rau rừng ăn, làm cả nhà buông bát đứng dậy. Lúc đó, tôi hơn chục tuổi, nhưng do tính tò mò, ngồi nghe hết câu chuyện ăn gan người của bọn hắn. Theo hắn, bọn hắn ăn thịt đồng loại, không hẳn là vì đói, mà cần cảm giác và ăn cho biết vậy thôi. Sau năm 1975, hắn cũng không chịu về quê Bình Định. Sau này, nghe nói hắn bị điên. Không rõ, bị điên vì bị vợ bỏ, hay bị vật, bởi những linh hồn người, hắn đã ăn gan xẻ thịt.
Không ai có thể giải thích được, những cái quái đản, mà người ta đã đưa vào cuộc chiến này. Nó như những thứ bùa ngải hận thù, không chỉ nhử một dòng họ, gia đình, anh em, mà cả dân tộc lao vào chém giết nhau.
Vâng! Một sự nhồi sọ của chủ thuyết quái thai, không tưởng, hay một học thuyết bán mua chiến tranh của những kẻ đến từ bên kia bán cầu. Chúng cùng nhau, đưa cả dân tộc đến tuyệt lộ. Đoạn văn diễn tả sự dã man, lòng hận thù đến mù quáng, lên tới tột đỉnh, dưới đây, là những tiếng kêu bi thảm, xót xa, hay là một lời ai điếu cho cả một dân tộc, của Dương Thu Hương?
“…Hai bên đều hò hét, cả hai bên đều điên cuồng chém giết, - cả hai bên đều rú lên khoái trá khi máu đối phương phụt khỏi tim, óc đối phương vọt khỏi não, - cả hai bên đều quằn quại như sâu bọ dưới những làn đạn lửa, - phần sống sót lê khỏi chiến địa để làm mồi dự trữ cho các mặt trận tiếp theo, - phần đã chết tự hiến nốt hình hài cho các loài ác thú và dòi bọ.
Cả hai bên đều yên trí là mình đã hy sinh xứng đáng cho lý tưởng. Than ôi, họ có chung một nòi giống, con của mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân. Họ là những hữu thể được tái sinh trong cùng một bào thai - không xứ sở nào có được cái huyền thoại mê ly đến thế!."(chương 13)

Quan tài, đường đi đến của cuộc chiến huynh đệ tương tàn

Hành trình, dòng người cõng những cỗ quan tài, đi ra nơi có tiếng súng nổ, là biểu tượng, là con đường chết của cuộc chiến này. Và đó cũng là thông điệp nhà văn muốn gửi đến người đọc, về giá trị, kết cục của nó, trong tác phẩm Tiểu Thuyết Vô Đề. Chiếc quan tài đó, không chỉ chứa thể xác, mà nó còn là những nấm mồ chôn đi ham muốn, linh hồn khát vọng của con người.
Nếu ta đã đọc, Bên Kia Bờ Ảo Vọng, hay Những Thiên Đường Mù, thì thấy tính ẩn dụ, so sánh trong Tiểu Thuyết Vô Đề, đã đạt đến mức độ cao hơn. Thủ pháp nghệ thuật này, được chiếu rọi từ những ký ức rời rạc, đứt quãng của Quân, (người thuật truyện) xuyên suốt tác phẩm.
Đọc đoạn văn dưới đây, ngoài cái quặn đau cho một kiếp nhân sinh, ta còn thấy được, trong binh đao khói lửa, còn đâu nữa cái đẹp, thanh bình từ tạo hóa sinh ra. Chiến tranh đã nhập đồng vào linh hồn, với người lính, vẻ đẹp chỉ còn hiển hiện trong cái chết, trong sự chém giết nhau điên cuồng. Đây là một trong những đoạn văn ẩn dụ, so sánh, hay và rung động nhất, mà tôi đã được đọc:
“… Đoàn người mang những cỗ quan tài in hình trên đường viền của núi, giữa khung cảnh rạng đông. Bóng họ đi động chậm chạp nhưng kiên nhẫn, mê mải. Hành trình. Con người tự vắt kiệt sức mình để đem được quà dâng cho chiến trường. Trong các tặng vật ấy, biết đâu chẳng có một chiếc dành cho tôi?... Và tôi, và bất cứ người lính nào cũng đã sẵn sàng tiếp nhận món quà kì lạ đó... Trong cả hai hành động, có chung vẻ đẹp tuyệt vời của chiến tranh.
Bất chợt, tôi sực nhớ tiếng kêu xé ruột, man đại của mẹ tôi, gương mặt dầm mồ hôi, nỗi đau làm méo mó một cách kinh dị. Rồi cũng chính trên gương mặt méo mó kinh dị ấy, ngời lên nụ cười rạng rỡ hạnh phúc khi tiếng khóc oe oe của đứa con cất lên và đôi bàn chân đỏ hỏn của nó quẫy đạp trong không khí... Đó, vẻ đẹp mặn mòi của đời sống, vẻ đẹp của tạo sinh. Vẻ đẹp ấy đã xa vời. Nó lẩn khuất với những kỷ niệm vụn vặt thời thơ bé. Tôi bỗng kinh hoàng. Người ta không thể cùng một lần đắm mình vào hai dòng nước…” (chương 9 )
Có người đã mạt sát, hành vi chủ động, van xin được làm tình với Quân là thú vật của Viếng, người nữ quân nhân, một mình quanh năm canh nghĩa địa, sống với xác chết, giữa rừng. Tôi cho đây là cái nhìn khắt khe, thiếu cảm thông. Bởi, hành động đó là bản năng, khao khát sống, khao khát yêu, khao khát làm tình của con người. Ai cho Viếng, một cơ hội, một ước vọng đó? Khi chiến tranh bom đạn và những xác chết đang bủa vây lấy cô. Nếu như, ta đã đọc những câu thơ của người lính VNCH Huỳnh Hữu Võ, chắc chắn sẽ có cái nhìn khách quan, cảm thông hơn về Viếng, về những người lính cả hai phía, nơi chiến trường: Anh phải ngủ thật nhiều ban ngày/để đêm từng đêm ngồi ôm súng gác/anh phải cười nơi đây thật to/để khỏi nghe tiếng súng/anh phải văng tục nơi đây cho đã/vì thiếu bóng đàn bà suốt tháng/anh phải thủ dâm.
Tôi nghĩ, nếu như nhà văn để Quân không từ chối cự tuyệt Viếng, thì tính nhân đạo sẽ nhân lên. Và chắc chắn, người đọc sẽ thỏa mãn hơn. Tuy nhiên, ý đồ của tác giả, muốn bật lên cái tàn nhẫn tận cùng của chiến tranh, sẽ phải giảm đi.
Đọc Tiểu Thuyết Vô Đề, ta không chỉ thấy được bản năng sống, khao khát yêu, nhu cầu sinh lý con người bị tước bỏ, để cho những người lính, như Biền phải làm tình với cả súc vật, một cách nhục nhã như vậy. Mà ta còn thấy được, sự giả dối lưu manh ngay trong chiến tranh, của những tướng lãnh, những kẻ chuyên giảng giải đạo đức. Hình ảnh so sánh dưới đây, cho ta thấy rõ điều đó:
“…Lũ dân thường như chúng ta, chịu cực đủ điều, bóp miệng bóp mồm, bóp cả đến con c... Tụi tướng lĩnh nó có khổ như thế đâu? Ra Bắc vào Nam, đâu đâu chúng nó cũng có đàn bà. Ngày xưa thì là phi là thiếp, giờ thì các đồng-chí-nữ phục vụ! Trò đểu, thời nào cũng giống nhau là thế!...” (chương 6)
Sự lưu manh, giả dối ấy, không dừng lại mức độ ăn chơi hưởng lạc, nó đã được đẩy lên mức giết người tàn nhẫn. Nhân danh đảng, cùng với sự dốt nát của mình, chính ủy trung đoàn đã đưa cả đại đội nướng vào cái cối say thịt. Từ đây, ta thấy rõ hơn, sinh mạng người lính trong chiến tranh, dưới bàn tay của những kẻ cuồng vọng này, quả thật, chỉ là trò chơi, quá rẻ mạt:
“Lão Hữu muốn lập công với sư đoàn nên quyết định đánh lẻ. Bọn dưới nịnh lão, ủng hộ kế hoạch tác chiến vắng mặt sư trưởng. Lão lại là bí thư đảng ủy trung đoàn, toàn thể các đảng ủy viên nhất trí quyết định của ban thường vụ. Đại đội trinh sát vừa muốn lấy lòng lão Hữu, vừa lười nên báo cáo ẩu, địa hình địa vật hoàn toàn sai. Thế là đại đội B41 của thằng em tôi được lệnh tiêu diệt các hỏa điểm của địch, mở đầu trận F.E.18. Chúng nó bò tới trận địa, vừa rút xẻng ra đào hầm trú ẩn thì bị ngay. Ở đó, không phải loại đất pha cát như tụi trinh sát báo cáo, thuần một thứ đất sỏi pha đá ong già, lưỡi xẻng chọc xuống là lửa lóe lên. Các hỏa điểm đích cứ thấy đốm lửa lóe lên ở đâu là nã cối và các loại đạn nóng vào đó. Đại đội B41 phơi lưng, không một hòn đá, gốc cây ẩn núp. Địch trút cả núi đạn xuống. Hôm sau phải điều động ba đại đội tới đánh trả và lấy xác các tử sĩ ra. Lại thêm năm mươi nhân mạng hy sinh...”(chương12)
Lời sám hối dưới cái nhìn nhân bản
Thật kỳ lạ, hai cuốn tiểu thuyết có cách viết và cái nhìn rất mới về chiến tranh lại thuộc về hai nhà văn nữ. Đó là Tiểu Thuyết Vô Đề của Dương Thu Hương và Dạ Tiệc Qủi của Võ Thị Hảo. Khi đọc, tôi có cảm giác khác hẳn, bởi nó đã giải mã được bản chất của sự việc, cùng bộ mặt thật của những kẻ đứng sau cuộc chiến vừa qua. Mà những cuốn sách khác chỉ mới dừng ở mức độ, bóc trần sự tàn nhẫn, khốc liệt và thân phận con người sau chiến tranh, kể cả Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh.
Thật vậy! Khải hoàn môn ấy, được tạo bằng xương máu của cả một dân tộc khổ đau, nhưng vinh danh lại thuộc về những kẻ bán mua chiến tranh. Những lý tưởng, những hình tượng thánh thần, chỉ là liều thuốc, ru người vào trong khói lửa binh đao. Từ cái nhìn ấy, Dương Thu Hương đã mỉa mai, điểm mặt chỉ tên, những kẻ đứng sau, thực sự là ông chủ của cái Khải hoàn môn đó: "Chúng tao thờ một chủ thuyết. Chúng mày cũng thờ một chủ thuyết. Vị thần chúng tao thờ tên là Mác, mũi lõ, mắt xanh, râu rậm. Còn vị thần chúng mày thờ tên là gì? Tóc thưa hay tóc rậm? Trán hói hay trán vuông? Để râu dê hay râu cáo?"(chương 12)
Và cũng chính cái chủ thuyết hoang tưởng đó, đã đẻ ra tầng lớp thống trị mới, với những phương thức cai trị quái đản, phi nhân. Nếu nhìn lại lịch sử, từ cải cách ruộng đất đến những gì đang xảy ra trên đất mẹ hôm nay, ta mới thấy được trái tim nhạy cảm trong con người nghệ sĩ, nhà văn Dương Thu Hương:
“…Bây giờ, đa phần là bọn phong học cương thường đạo lý. Họ học luân lý Mác-lê. Cướp vườn cướp ruộng nhà người ta cũng là theo sách Mác. Lột quần vợ người ta mà ngủ cũng là vì lợi ích của đấu tranh giai cấp…” (chương 6)
Khi chưa tàn cuộc chiến, Dương Thu Hương đã nhận ra bộ mặt tráo trở của chế độ. Và đã vạch ra, sự coi thường, rẻ rúng con người, của những kẻ ngồi trên, sau cuộc chiến. Đây là cái nhìn sáng suốt, đầy ắp nhân bản của nhà văn. Sự đập phá kho hàng chiến lợi phẩm, không để rơi vào tay những kẻ có chức, có quyền của những người lính, tuy là hành động tiêu cực, nhưng nó lại là phát súng, báo hiệu sớm, cho sự phản kháng của người dân lương thiện với cường quyền, sau này. Rất cảm ơn, nhà văn Dương Thu Hương, đã sớm chỉ ra điều này, từ mấy chục năm về trước: “- Em nghĩ nhiều... Em cũng nghe chán vạn điều thiên hạ nói. Nhưng mà, nhân dân lúc có thật, lúc như bóng ma: Nếu cần lúa, nhân dân là con bò kéo cày. Lúc có chiến tranh, con bò ấy mặc áo giáp và cầm súng. Rồi, khi mọi sự đã qua, vào những ngày lễ lạt, hội hè... người ta tôn xưng nhân dân như hú vọng các hồn ma, tưởng thưởng cho khói thơm và tro tiền, còn phần xôi thịt thì kẻ khác hưởng…”(chương 15)
Có thể nói, Tiểu Thuyết Vô Đề có lời văn đẹp và súc tích nhất, trong những cuốn sách của Dương Thu Hương, mà tôi đã đọc. Tâm trạng, cũng như cái nhìn của tác giả về chiến tranh và xã hội đương thời, đã hiện lên rõ nét, từ diễn biến nội tâm của (nhân vật) người lính. Và tác giả, đã giải quyết thành công mâu thuẫn nội tâm nhân vật. Tuy nhiên, không riêng Tiểu Thuyết Vô Đề, mà các tác phẩm khác, của Dương Thu Hương, có nhân vật và những câu thoại căng, khá lên gân làm cho người đọc, đôi khi cảm giác hơi bị hẫng.
Tôi không dám nghĩ, Tiểu Thuyết Vô Đề là kêu tiếng kêu đau đớn, lời sám hối chung cho một nòi giống, một cộng đồng, như có lần nhà văn Dương Thu Hương đã viết. Nhưng đọc nó, quả thật, tôi đã cảm được nỗi lòng người nghệ sĩ, nhà văn qua những hành động, hay giằng xé nội tâm nhân vật của mình. Và đây, là một trong ba cuốn sách viết về chiến tranh, mà tôi thích. Đọc xong, gấp cuốn sách lại, tôi vẫn cảm thấy thiêu thiếu, dường như có điều gì nhà văn chưa nói hết….
Đức Quốc ngày 25-10-2014
Đỗ Trường
danlambaovn.blogspot.com
Sunday, October 26, 2014
LÊ PHÚ KHẢI * HÀ NỘI
HÀ NỘI – 10-10-1954
Lê Phú Khải
BVN
Nhân danh một người Hà Nội, tôi muốn nói với những người đang “cầm cân nẩy mực” ở thủ đô Hà Nội rằng: Quê tôi, Hà Nội, đang là một thành phố bệ rạc vào bậc nhất vùng Đông Nam Á. Khói bụi, kẹt đường, ngập nước, dân oan cả nước kéo về đây… kêu cứu. Nói tục, chửi bậy, chặt chém khách du lịch là nét văn hoá của đất ngàn năm văn vật hôm nay! Vì thế, không nên “ngộ độc ngợi ca, bội thực tự hào” (*) nữa!
Đầu năm 1950, do mẹ tôi mang bầu, bà không đủ sức tần tảo buôn bán để kiếm sống nên phải “tản cư ngược” về Hà Nội, vùng tạm chiếm của quân Pháp. Nhưng cả gia đình họ Lê Phú của tôi, đứng đầu là ông nội tôi vẫn trụ lại ở vùng sơn cước Thanh Ba – Phú Thọ theo kháng chiến đến cùng. Đó là một “nỗi buồn” như lời mẹ tôi lúc về thành. Nhưng cũng nhờ thế mà một đứa trẻ 12 tuổi là tôi lại được chứng kiến trọn vẹn ngày 10-10-1954, một ngày lịch sử với Hà Nội.
Có lẽ, những người Hà Nội được chứng kiến Hà Nội ngày đó cũng không còn nhiều. Vả lại, có nhớ những hình ảnh ngày đó thì cũng ít người đủ kiên nhẫn để hoài cổ mà viết lên giấy trắng mực đen ở cái thời kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa này!
Với chứng bệnh nghề nghiệp, tôi thấy cần phải viết lại về cái ngày 10-10 năm ấy (1954)… để các tiểu thuyết gia sau này, các nhà viết tiểu thuyết lịch sử có chút tư liệu, chút cảm hứng khi ngòi bút của họ đụng đến… 10 tháng 10-1954 tại Hà Nội, thủ đô của nước Việt ngàn năm. Dù chỉ là một góc hẹp của Hà Nội qua cái nhìn của một người.
Đêm 9-10-1954 cả thành phố thiết quân luật. Đường phố như chết, không một bóng người, không có tiếng rao đêm quen thuộc. Nhưng hầu như tất cả Hà Nội đều thức trắng đêm đó, hồi hộp chờ đến sáng…
Nhà tôi ở đầu phố Hàm Long, gần ngã năm Phan Châu Trinh, Hàn Thuyên, Lò Đúc, Lê Văn Hưu… Mấy chị em tôi hay dán mắt nhìn qua khe cửa, trong ánh sáng vàng đục của những ngọn đèn đường, tôi nhìn thấy những tên lính Pháp cao lớn mang súng đi tuần. Gần sáng, lính Pháp chốt lại ở đầu phố nhìn ra ngã năm.
Khi trời chưa sáng hẳn, từng tốp bộ đội ta vai đeo súng từ từ tiến đến chỗ lính Pháp đứng. Những tên lính Pháp cao lớn đứng bên những anh bộ đội của ta bé nhỏ, chỉ cao đến ngang vai lính Pháp. Họ nói với nhau những điều gì đó, bàn giao cái gì đó… rồi lính Pháp từ từ rút lên phía Nhà Hát Lớn thành phố theo đường Phan Châu Trinh.
Khi lính Pháp rút rồi, chỉ còn bộ đội ta thì các cánh cửa hai bên phố đều bật tung, dân chúng ùa ra đường với cờ đỏ sao vàng trong tay reo mừng, hoan hô bộ đội. Đường phố tràn ngập niềm vui.
Cần phải nói thêm, mẹ tôi là một người buôn bán ở thành phố từ nhỏ, bà có kinh nghiệm. Trước đó, khi thấy nhiều người bí mật may cờ, mua cờ đỏ sao vàng… chờ ngày quân ta trở về, bà đã đi mua nhiều cây tre nhỏ, nhiều thanh gỗ nhỏ cắt ra để làm cán cờ. Cả cái phố Hàm Long đó đã mua cán cờ của mẹ tôi để đón bộ đội ta chiến thắng trở về!
Cũng phải nói thêm, trước ngày 10 tháng 10 năm 1054, đã có nhiều cán bộ Việt Minh thâm nhập vào Hà Nội, tá túc trong những nhà dân là cơ sở cách mạng hay những gia đình có người đi kháng chiến ở Việt Bắc. Nhà tôi cũng có một nữ cán bộ Việt Minh tên là Nhân đến ở.
Chị Nhân có chồng là một cán bộ hoạt động nội thành rất đẹp trai tên là Hồng Kỳ. Mẹ tôi đã xếp cho họ một căn phòng nhỏ ở tận cùng ngôi nhà, có cửa sau ăn thông ra đường Lê Văn Hưu để dễ thoát thân. Đứa con đầu lòng của họ đã “nên người” từ căn phòng bé nhỏ đó. Sau này họ vẫn qua lại thăm gia đình tôi. Những cán bộ Việt Minh vào thành trước có nhiệm vụ giải thích chính sách của chính phủ kháng chiến, khuyên đồng bào không theo Pháp đi Hải Phòng. Khuyên công chức của Hà Nội không đi Nam. Vì thế sau này mới có chế độ công chức lưu dung, sử dụng các công chức của chế độ cũ.
Cho đến 10 giờ sáng ngày 10-10 thì cả Hà Nội là một ngày hội lớn. Năm cửa ô Hà Nội (Ô Quan Chưởng, Ô Đống Mác, Ô Cầu Rền, Ô Cầu Giấy, Ô Chợ Dừa) chật ních người dân Hà Nội tưng bừng đón đoàn quân chiến thắng trở về. Các nghệ sĩ đem cả đàn gió, cả vĩ cầm, ghita ra góp vui trên đường phố. Các mẹ, các chị mặc áo dài, các bà nhà giàu tung hoa tươi lên đoàn xe chở quân tiến vào thành phố.
Có những câu chuyện thật cảm động.
Ở làng Đồng Nhân, quê ngoại của tôi, có bà mẹ tên là bà Lý Tiếp, bà đi bán nước mắm rong trên hè phố. Trước ngày 10-10, có người báo cho bà biết, con bà là chỉ huy cao cấp ở mặt trận Điên Biên Phủ, là cán bộ của Trung đoàn Thủ đô năm xưa, nên sẽ dẫn đầu đoàn quân tiến về Hà Nội… Bà không tin. Vì thế, sáng ngày 10-10 bà vẫn gánh nước mắm đi bán rong. Khi đoàn quân tiến vào một trong năm cửa ô, bà cũng chen vào đoàn người đứng hai bên đường để hoan hô. Bỗng bà nhận ra con trai của mình ngồi trên chiếc xe jeep mui trần dẫn đầu đoàn quân. Bà đã lao ra… Người chỉ huy cũng nhảy xuống xe… Hai mẹ con ôm chầm lấy nhau và… khóc! Mọi người cũng khóc theo.
Người chỉ huy ấy là thiếu tướng Vũ Yên sau này, trung đoàn phó Trung đoàn Thủ đô năm xưa. Tên cúng cơm của ông là Nguyễn Văn Tịch, người làng của mẹ tôi – như bà nói. Mẹ tôi còn khoe với mọi người: - Thằng Tịch này ngày xưa, mùa nước lũ, nó bơi qua sông Hồng là chuyện thường (!).
Mẹ tôi và bao nhiêu người buôn bán nhỏ được gọi là tiểu thương của Hà Nội, cũng như bao nhiêu bà tư sản nhà giàu lúc đó, đã đem hoa tươi tung lên xe của đoàn quân chiến thắng trở về… Có hay đâu, chỉ ít tháng sau cái ngày vui đó, họ trở thành nạn nhân của cách mạng. Họ trở thành đối tượng phải “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”. Nhà xưởng của họ bị công tư hợp doanh. Đến nhà ở của họ cũng bị đo đạc để đưa thêm người khác vào ở, vì… mỗi gia đình chỉ được sử dụng tối đa 120 mét vuông!
Ông anh ruột của mẹ tôi bị quy là tư sản, có hai cái nhà đã “được” hiến cho nhà nước. Gia đình ông có chín người con, nhưng nhà vẫn phải xếp cho người khác vào ở vì… còn thừa diện tích.
Còn mẹ tôi, sau 10-10-1954 bà vẫn buôn bán nhỏ, nhưng vì không chịu được người ta gọi mình là “con buôn”, nên một lần nữa, đã theo ông nội tôi, bán ngôi nhà ở phố Hàm Long về làng Hoàng Mai thuộc huyện Thanh Trì mua vườn, làm một nông dân bất đắc dĩ.
Tôi không bao giờ quên hình ảnh của mẹ tôi, những đêm trăng gánh nước tưới rau, đôi vai gầy run run dưới gánh nặng…
Nhà văn Nguyễn Khải trong thiên tuỳ bút chính trị “Đi tìm cái tôi đã mất” đã miêu tả rất đúng chân dung của con người Việt Nam sau chiến thắng Điện Biên Phủ: “Một nửa nước được độc lập nhưng lòng người tan nát vì tài sản một đời chắt chiu của họ bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp trí thức chả có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do thì cái đầu cũng được trưng thu luôn, từ nay họ chỉ được nghĩ, được viết theo sự chỉ dẫn của một học thuyết, một đường lối, nếu họ không muốn dẫm vào vết chân của nhóm “Nhân Văn – Giai Phẩm”. Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng lom rom như kẻ bại trận”.
Người Hà Nội, sau 10-10-1954, trong đó có mẹ tôi, đúng như Nguyễn Khải đã mô tả!
Vì thế, nhân danh một người Hà Nội, tôi muốn nói với những người đang “cầm cân nẩy mực” ở thủ đô Hà Nội rằng: Quê tôi, Hà Nội, đang là một thành phố bệ rạc vào bậc nhất vùng Đông Nam Á. Khói bụi, kẹt đường, ngập nước, dân oan cả nước kéo về đây… kêu cứu. Nói tục, chửi bậy, chặt chém khách du lịch là nét văn hoá của đất ngàn năm văn vật hôm nay! Vì thế, không nên “ngộ độc ngợi ca, bội thực tự hào” (*) nữa!
Posted by sontrung at 7:55 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 335
NGUYỄN NHƠN * ĐIẾU CÀY LÀ TRANH ĐẤU CUỘI?

MỘT CHI TIẾT NHỎ – MỘT VẤN NẠN LỚN

Trong video clip Chúc Mừng Điếu Cày đến Mỹ – Người Việt TV, ở phút 1:22 có một thanh niên cố chen đến gần Điếu Cày, trao ngọn Quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa cho Điếu Cày. Điếu Cày không nhận và nói cám ơn!
Cử chỉ nầy diễn giải ra sao?
Phải chăng Điếu Cày muốn nói: Tôi tranh đấu vì Tự do – Dân chủ cho Việt Nam, nhưng không phải là theo khuynh hướng, lập trường của Việt Nam Cộng Hòa?
Nếu diễn giải như vậy thì nghĩ cũng chua chát cho những ai phất cờ vàng VNCH chào đón Điếu Cày, bởi vì người được chào đón xác định: Tôi không đứng cùng trong tập thể cộng đồng VNCH.
Nếu như vậy, thì phải xác định lại vấn đề về “ Lập trường Tranh đấu “: Tranh đấu giải trừ chế độ toàn trị cộng sản hay thỏa hiệp với nó làm cải lương kêu là cải cách dân chủ hóa tiệm tiến được khoa trương là “ Con đường Diễn biến Hòa bình ” theo phương châm “ Đối thoại – Hòa bình – Phát triển “ theo Khuynh hướng Thời đại!
Và như vậy là đặt lại vấn đề Cách mạng vs. Cải lương.
Từ mấy năm nay, nhất là từ ngày trong nước khoa trương rầm rộ phong trào “ Xã hội Dân sự “, tôi không nề hà gì mà nói thẳng thừng: Con đường xã hội dân sự khai dân trí, dân chủ hóa tiệm tiến “ diễn biến hòa bình “ là con đường đi không bao giờ tới, là “ liều thuốc an thần,” trấn an dân chúng khỏi nổi dậy, chỉ có tác dụng kéo dài ách thống trị tàn bạo việt cộng.
Để khỏi mang tiếng “ chống cộng cực đoan, quá khích “, lần nầy xin mượn lời của một trí thức trong nước, giảng sư Đại học Hà Nội Nguyễn Thị Từ Huy phê phán về các nhà dân chủ trong nước:
“ Điều đáng buồn là những người nước ngoài nghiên cứu về Việt Nam có thể nhìn một số hoạt động dân chủ hiện tại ở Việt Nam như là những đối lập cuội. Tôi đã suy nghĩ về vấn đề này và cố tìm cách lý giải tại sao họ lại có thể nhìn nhận như vậy.
Và tôi đụng phải cái thực tế này: chính quyền biến các đối lập thật thành các đối lập cuội bằng cách không trừng phạt những người có các đòi hỏi mang tính chất đối lập nhưng lại vô hiệu hóa các đòi hỏi của họ (dĩ nhiên những người bị trừng phạt do các hoạt động đối lập không nằm trong trường hợp này), do đó mà tạo nên tình trạng: ai đòi cứ đòi, ai làm cứ làm, không cần nghe, không cần đếm xỉa. Để cho đòi thoải mái, để cho phản đối thoải mái, nhưng những đòi hỏi đó hoàn toàn bị phớt lờ, bị vứt vào sọt rác.
Đó là tình trạng diễn ra những năm gần đây: nào là góp ý cho hiến pháp, nào là kiến nghị dừng Boxit Tây Nguyên, nào là yêu cầu đòi hiệu trưởng ĐHSPHN hủy bỏ quyết định vi phạm pháp luật đối với Đỗ Thị Thoan, nào là kiến nghị đòi thay đổi thể chế..., vô vàn các văn bản kiến nghị mà nhà nước không bao giờ thèm trả lời, không bao giờ thèm thực hiện . Bằng cách đó chính quyền cho phép tồn tại một thứ trạng thái dân chủ giả. Khi cần, có thể nói với quốc tế rằng: « Không, chúng tôi không bóp nghẹt tự do ngôn luận, chúng tôi vẫn để cho người dân nói đấy chứ. Bằng chứng là: a, b, c....»
Nhưng bản chất của vấn đề là: chính quyền để cho người dân nói, nhưng chỉ thực hiện những gì do chính mình quyết định, không đếm xỉa đến ý kiến của người dân. Hãy xem thực tế của tình trạng khai thác Boxit, hãy xem bản hiến pháp 2013 được thông qua còn tệ hơn cả bản dự thảo, hãy xem việc Thông tư 15/2014/TT-BGDD đã khiến cho tình trạng tự do học thuật trong đại học Việt Nam còn có thể bị vi phạm trầm trọng hơn rất nhiều lần trước khi có vụ việc của Đỗ Thị Thoan. V.v...
Ở đây phải nói rõ rằng, tôi không nghi ngờ mong muốn dân chủ hóa của những người đang cố gắng cho phong trào dân chủ. Đó là một mong muốn thực sự, ít nhất đó là điều mà cá nhân tôi nhìn thấy. Nhưng mong muốn của họ bị vô hiệu hóa, và vì thế họ bị đẩy vào tình thế đối lập mà thành ra không đối lập. Nếu để tình trạng này kéo dài, nếu để mình bị biến thành đối lập cuội, thì vô hình chung (ngoài ý muốn) những người làm dân chủ có thể góp phần củng cố sự dối trá của chính quyền.
Những người tiến hành các hoạt động dân chủ, nếu không ý thức được rằng trên thực tế các hoạt động của mình đã bị làm cho vô hiệu, sự đối lập của mình đã bị biến thành đối lập cuội do tình trạng vô hiệu triền miên, thì sẽ dễ dàng có cảm giác tự hài lòng, tự cho là mình đã làm được việc nọ việc kia, nói được điều nọ điều kia... Nhưng lại không biết rằng, trên thực tế họ có thể đang ở vào tình trạng « đối lập cuội ». Vị thế đối lập cuội hẳn còn đáng buồn hơn là vị thế trí thức cận thần.
Tôi vốn là một cán bộ hành chánh thực hành, ít nệ vào “ lí thiết “ mà lần nầy, trước thái độ, cách nhận thức và hành xử khác biệt giữa người Việt Quốc gia VNCH và người Việt công dân CHXHCNVN đành phải qui chiếu vấn đề vào căn nguyên văn hóa.
Vậy xin mượn lời “ Ông công dân VNCH chân chính “ Trần Mộng Lâm để kết thúc bài viết ngán ngẩm nầy:
“ Ngày nay, trong nước, còn sót lại những công dân cũ của VNCH. Tại Hải Ngoại, đa số là người của VNCH.Tại Việt Nam, những người sống tại Miền Bắc trước 1975 là công dân của CHXHCNVN. Hiện nay, đại đa số người Việt Nam trong nước là các công dân của CHXHCNVN.
Người Việt Nam, nói chung, có cùng một tiếng nói, nhưng nói cùng một thứ tiếng không có nghĩa là cùng một tổ quốc. Người Anh, người Úc, người Mỹ, cùng nói tiếng anh, nhưng họ không cùng một tổ quốc.
Cũng vậy, người Việt Nam Cộng Hòa và người của CHXHCNVN không cùng một tổ quốc. Với tôi, người của CHXHCNVN rất xa lạ : Họ nói khác tôi ( tiếng Việt Cộng), họ suy nhĩ khác tôi , sống khác tôi, thậm chí lài xe, chưởi thề, ăn mặc, hát , đóng kịch, mọi thứ đều khác. Họ có một lá cờ khác, một bài quốc ca khác, những anh hùng khác, những thần tượng khác.
Những người đó là gốc của tôi hay sao ???
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là tổ quốc của tôi hay sao??
Không, gốc của tôi là VNCH, tổ quốc của tôi là Việt Nam Cộng Hòa. Công dân của VNCH là công dân VNCH và công dân của CHXHCNVN là công dân của CHXHCNVN.
Hai khối người, nhưng cũng là hai nỗi cô đơn. Hai nỗi cô đơn này hiện hữu tại trong nước, nhưng cũng hiện hữu tại Hải Ngoại. Bây giờ, giả thử có một ông đảng viên CS nào kêu gọi nới rộng tự do một chút, cởi mở hơn một chút, sửa sai chế độ của họ một chút, thì đó là việc của họ.
Riêng tôi, Cộng Sản phải được xóa bỏ toàn bộ. Sửa nó? đúng là nằm mơ giữa ban ngày. ( Mất Gốc !!! - Trần Mộng Lâm )

Nguyễn Nhơn
Posted by sontrung at 7:48 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 335
CAO ĐẰC TUẤN * VIỆT CỘNG PHẢN QUỐC HẠI DÂN
  Câu chuyện Việt Nam qua thành ngữ (Phần 1): Thế kỷ 20
Cao-Đắc Tuấn (Danlambao) - Trong thế kỷ 20, Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn lịch sử quan trọng theo tình hình thế giới. Từ cuộc tranh đấu chống Pháp cho tới chiến tranh Việt Nam, dân Việt Nam phải chịu đựng biết bao nhiêu nỗi đau thương. Hồ Chí Minh và các đồng chí đem chủ nghĩa ngoại bang thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, tạo ra cảnh chiến tranh khốc liệt giữa hai miền Nam Bắc. Sau khi chiến tranh chấm dứt năm 1975, người dân Việt lại còn bị hành hạ cướp bóc dưới sự đô hộ dã man tàn bạo của cộng sản.
*
Chơi chữ không những là một hình thức giải trí mà còn giúp xả căng thẳng, nhất là khi có những chuyện bực bội, cay đắng, giận dữ về những đối tượng mà người ta không muốn đối phó mặt đối mặt. Một trong những đối tượng thông thường đó là chính phủ. Hầu như khắp nơi trên thế giới tự do dân chủ, chế nhạo vả nhiều khi mạ lỵ chính phủ công khai xảy ra rất thông thường. Tại các xứ độc tài, cộng sản, chuyện đó hầu như không có. Tuy nhiên, điều đó không cản được dân chế giểu chính phủ qua những phương tiện không chính thức. Các hình thức chơi chữ gồm có nói lái, tiếng lóng, viết ra chữ viết tắt, và tô điểm thêm với thành ngữ và tục ngữ. Đặc biệt, thành ngữ, tục ngữ, và ca dao thường được dùng để chỉ trích hoặc nhạo báng chính phủ, vì tính chất hài hước và tượng hình của những thể loại này.
Trong phần sau đây, câu chuyện về Việt Nam trong thế kỷ 20 và 21 được kể qua thành ngữ và thỉnh thoảng tục ngữ, ca dao, tiếng lóng và quán ngữ Việt Nam. Sự châm biếm được thấy rõ với số lượng rất nhiều những từ ngữ này, hơn một ngàn, chính xác tổng cộng là 1071, trong số đó hơn 95% là thành ngữ, đa số dưới dạng bốn chữ. Có những nhóm chữ có thể không phải là thành ngữ, mà chỉ là tiếng lóng hoặc quán ngữ, nhưng vì ý nghĩa có chút khôi hài hoặc châm biếm nên tôi cũng dùng trong câu chuyện này. Những thành ngữ này là những thành ngữ đã có sẵn từ lâu trong tiếng Việt. Có nhiều thành ngữ hoặc tiếng lóng mới do người dân sáng chế để chế nhạo chế độ và chính quyền cộng sản trong suốt 70 năm ở miền Bắc và 40 năm ở miền Nam. Lẽ dĩ nhiên, những thành ngữ hoặc tiếng lóng này không được lưu hành chính thức hiện nay. Trong bài này, tôi không dùng những thành ngữ hoặc tiếng lóng này mà chỉ dùng từ ngữ được lưu hành chính thức. Lý do đơn giản là ta không thể kể các câu chuyện về cộng sản mà dùng những thành ngữ sáng tạo do từ các câu chuyện đó. Thí dụ, ta không thể dùng thành ngữ mới "bịt râu đeo kính" (xem, thí dụ như, Cao-Đắc 2014d) khi kể chuyện Hồ Chí Minh bịt râu vả Trường Chinh đeo kính đi xem buổi đấu tố/ hành quyết bà Nguyễn Thị Năm.
Câu chuyện Việt Nam trong thế kỷ 20 và 21 được chia ra thành ba phần. Phần 1 nói về thế kỷ 20. Phần 2 nói về thế kỷ 21 (cho tới hiện đại). Phần 3 nói về cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ hiện nay. Phần 4 là phụ lục gồm có danh sách toàn bộ thành ngữ, tục ngữ, tiếng lóng dùng trong câu chuyện, và một phần tài liệu tham khảo. Tuy câu chuyện có hình thức châm biếm và đôi khi phóng đại qua các thành ngữ, nội dung về lịch sử được kể với sự chính xác khách quan trung thực dựa vào nhiều tài liệu tham cứu. Phần phụ lục liệt kê một phần những nguồn gốc tham khảo có thêm ghi chú liên hê ̣đến câu chuyện. Tuy nhiên, sự trình bày của tôi hẳn nhiên có nhiều sơ sót. Mục đích chính của tôi là đem lại chút thú vị cho độc giả khi đọc những chi tiết lịch sử khô khan.
Phần 1: Thế kỷ 20
Đất nước Việt Nam vào cuối thế kỷ mười chín và đầu thế kỷ hai mươi ở dưới chế độ quân chủ chuyên chế với sự kiểm soát và cai trị của thực dân Pháp. Lũ thực dân Pháp bóc lột Việt Nam dưới danh nghĩa ba miền Việt Nam là đất bảo hộ (Bắc Kỳ và Trung Kỳ) và thuộc địa (Nam Kỳ) trong khối Đông Dương. Họ xây cầu, làm đường xe lửa, và đường xá thành phố. Họ lập trường để huấn luyện thợ thuyền và nhân viên làm việc cho họ. Nhưng lũ Pháp rõ ràng là có âm mưu đen tối vì mọi phí tổn cho những dịch vụ và dự án xây cất này lấy từ sưu cao thuế nặng đặt lên dân Việt. Lũ Pháp coi dân Việt bằng nửa con mắt. Tuy chúng có mướn thợ thuyền địa phương, chúng trả lương rẻ mạt. Chúng tuyên bố là mang phúc lợi cho dân Việt nhưng những lợi này chẳng thấm tháp gì so với những lợi lộc chúng lấy từ Việt Nam.
Triều đình quan lại bất lực chỉ là bù nhìn, không biết làm sao, nên bưng tai giả điếc nhiều khi lại còn hợp tác với Pháp vì lũ Pháp nắm hết quyền hành. Căm phẫn bởi sự thống trị hà khắc của thực dân Pháp và sự bất lực triều đình, biết bao nhiêu cuộc khởi nghĩa nổi lên, từ Nam ra Bắc, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Nhưng nói dễ làm khó, những cuộc khởi nghĩa không đủ mạnh vì thiếu quân số và vũ khí, chỉ có ảnh hưởng địa phương. Đã thế, chín người mười ý, các cuộc kháng chiến thiếu đoàn kết để tạo thành lực lượng toàn quốc. Thế rồi, mưu sự tại nhân thành sự tại thiên, mặc dù các cuộc khởi nghĩa gây khó khăn cho Pháp, sau cùng cũng bị Pháp dẹp dần. Vào đầu thế kỷ 20, khi các cuộc khởi nghĩa chống Pháp bớt dần, Pháp bắt đầu đặt nền móng cai trị quy củ lên Đông Dương. Nhờ sự phát triển chữ Quốc ngữ và báo chí, một giới trí thức mới bắt đầu hình thành. Ngoài ra, vì nhu cầu nhân sự địa phương, Pháp giúp đỡ dân Việt trong các vấn đề học hành, báo chí và hội họp. Nhờ vậy nhiều người Việt Nam mở mang kiến thức, hấp thụ ý tưởng và văn hóa Tây Phương, và còn được qua Pháp ăn học.
Nguyễn Tất Thành là người du thủ du thực, bỏ học và bỏ nhà ra đi vào năm 1911. Hắn sống cuộc đời ba chìm bảy nổi lênh đênh trên biển trôi sông lạc chợ vòng quanh thế giới làm phụ bếp dưới tàu và lang thang trên đất liền ăn bờ ở bụi làm các việc lặt vặt như mèo mù móc cống khi tàu cặp bến, tứ cố vô thân, nay đây mai đó trong 8 năm trời. Hắn đến Paris năm 1919 bơ vơ như chó lạc đàn, lơ láo như bù nhìn nên ăn nhờ ở đậu nhà ông Phan Văn Trường và Phan Chu Trinh. Thành giao du với các nhà trí thức này và trở thành một phần tử của nhóm họ gọi là nhóm Ngũ Long. Những người kia của nhóm là các ông Trinh, Trường, Nguyễn Thế Truyền, và Nguyễn An Ninh, là những người yêu nước hoạt động chống thực dân Pháp. Vì dốt đặc cán mai, kém cỏi tiếng Pháp, và chân ướt chân ráo mới đến Paris cà lơ thất thểu, Thành là kẻ thừa thãi trong nhóm. Hắn chỉ được giao phó nhiệm vụ đưa bản văn "Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam" tới hội nghị Versailles và sau đó bài vở của các ông Trường, Truyền, và Ninh dưới bút danh nhóm là Nguyễn Ái Quốc tới các toà báo. Vì mật thám Pháp chưa có hồ sơ nhiều gì về hắn lúc ấy, hắn được các ông Trường, Truyền, và Ninh phái đi mượn sách vở tài liệu ở thư viện để họ biên soạn sách "Bản án chủ nghĩa thực dân Pháp." Thành lợi dụng thời cơ và gây lẫn lộn cho mọi người tự xưng là Nguyễn Ái Quốc để lấy uy tín.
Vì chẳng có nghề ngỗng gì và ăn báo cô ông Trường và ông Trinh mãi cũng kỳ, Thành cố xoay xở kiếm ăn. Hắn nghĩ là có thể tìm công kiếm việc bằng cách viết báo chống chính quyền Pháp như các ông Trường và Truyền. Thế là hắn nghiên cứu chính trị và cách mạng. Hắn mượn sách thư viện viết bởi Karl Marx, ráng học hỏi về lý thuyết Marx. Nhưng vì tư chất dốt nát, hắn đọc mãi mà không hiểu nên dùng quyển sách đó để gối đầu giường. Sau đó, có người cho hắn coi bài luận đề viết bởi Lenin về thể chế thuộc địa và thực dân. Mắt Thành sáng rực lên khi hắn đọc chữ "thuộc địa" trong bài đó. Sau khi đọc xong, Thành nhảy cà tưng cà tưng vì sung sướng. Như Archimedes la hét "Eureka!" hắn tưởng đã tìm ra chân lý. Vì không rành lịch sử nước Việt, hắn không biết là cái chân lý đánh đuổi ngoại xâm đã được biết xưa như trái đất và thực hiện cả mấy ngàn năm trước từ thời Hai Bà Trưng mà chẳng cần phải có một nhãn hiệu ý thức hệ nào.
Với tên Nguyễn Ái Quốc và mớ kiến thức mới thâu lượm, hắn bắt đầu ăn nói vung vít như là một nhà cách mạng thứ thiệt. Chẳng bao lâu, nỗ lực của hắn được đền bù. Hắn được kết nạp làm tác nhân Quốc tế cộng sản. Sau này hắn dựa vào tên Nguyễn Ái Quốc, tự nhận là tác giả "Thỉnh nguyện" và "Bản án" để tô rồng vẽ rắn quá trình hoạt động cách mạng của mình. Trên thực tế, từ lúc qua Liên Xô làm việc cho Đệ Tam Quốc Tế và đi qua Trung Hoa, hắn chỉ tha phương cầu thực làm tác nhân cho cộng sản¸ lang thang trên đất khách quê người. Trong những năm đó, hắn không hề có hoạt động nào cho thấy hắn thực sự tranh đấu cho nền tự chủ Việt Nam. Với hắn, của trọng hơn người. Khi hắn đói ăn vụng túng làm càn, bần cùng sinh đạo tặc bán đứng cụ Phan Bội Châu, người yêu nước chân chính, cho Pháp, hắn đã chứng tỏ phẩm cách của hắn ăn ở hai lòng phản bội tổ quốc. Là người gian xảo, hắn bưng bít mọi chuyện về cuộc đời mình để che mắt thế gian. Ngày sinh tháng đẻ, ngay cả chuyện vợ con, hắn giấu như mèo giấu cứt. Hắn lấy bà Tăng Tuyết Minh bên Tàu, rồi quất ngựa truy phong, tham vàng bỏ ngãi bỏ vợ cao bay xa chạy khi quân Trung hoa quốc gia của Tưởng Giới Thạch lùng bắt cộng sản. Hắn trở lại Nga, qua Pháp, rồi sang Thái Lan, tiếp tục làm việc cho Quốc tế cộng sản.
Vào đầu năm 1930, Quốc và một vài người khác túm năm tụm ba, nhớn nha nhớn nhác trong một cuộc họp bí mật tổ chức tại một trận đá banh tại Hồng Kông, vừa coi đá banh vừa bàn bạc. Vì đảng cộng sản là một hội kín nên ai cũng lấm la lấm lét. Nói chuyện với nhau mà cặp mắt láo liên, nhìn trước trông sau, sợ tai vách mạch rừng. Sau cuộc họp thì Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) ra đời. Tuy nhiên, Quốc tế Cộng sản bắ̀t phải thay lông đổi cánh thành Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD) vào cuối năm 1930. Hắn đóng vai trò liên lạc giữa ĐCSĐD và Quốc tế cộng sản. Trong khoảng thời gian này, dân Việt ngày càng tức giận sự bóc lột của Pháp nên khởi động một loạt các cuộc nổi dậy bùng nổ bắt đầu từ Nghệ Tĩnh, theo sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái tổ chức bởi Việt Nam Quốc Dân Đảng. Háo hức muốn kiếm điểm với cấp trên, Quốc láu ta láu táu báo cáo Quốc tế Cộng sản về cuộc nổi dậy. Hắn còn nhanh nhẩu đoảng nói bừa là nông dân tổ chức chính quyền làng địa phương ở Nghệ Tĩnh dựa vào kiểu Xô viết. ĐCSVN sau này chụp vào cái báo cáo có hàng chữ Xô viết đó mà tuyên bố cuộc nổi dậy ở Nghệ Tĩnh được các thành viên họ lãnh đạo. Thực ra, không có lãnh đạo cộng sản nào dính líu đến cuộc nổi dậy và cũng không có các chính phủ địa phương kiểu Xô viết mà chỉ là thuần túy dân làng tự trị theo chính sách phép vua thua lệ làng. Vụ Xô viết Nghệ Tĩnh là khởi đầu cho một loạt các vụ lừa đảo mà ĐCSVN tạo ra từ lúc thành lập cho tới bây giờ.
Năm 1939, Thế chiến thứ hai bùng nổ. Tháng 9 năm 1940, Pháp ký thỏa hiệp với Nhật đồng ý cho Nhật mang quân đóng tại Bắc Việt. Tháng 7 năm 1941, Nhật được thể làm tới, đem quân vào miền Nam Việt Nam, chuẩn bị cho mặt trận Thái Bình Dương. Trong lúc này, Quốc được gửi sang Tàu để giúp tạo dựng chi nhánh cộng sản tại đó. Năm 1941, hắn trở về Việt Nam lần đầu sau 30 năm xa nước. Hắn bắt đầu thay hình đổi dạng và kéo bè kéo cánh. Tại Pác Bó, trong lúc ăn hang ở hốc, cùng với các đồng chí bàn ra tán vô, hắn đóng góp trong việc thành lập Việt minh dưới sự bảo trợ của ĐCSĐD. Việt minh hô hào dân Việt tham gia, lừa đảo dân bằng chiêu bài yêu nước thương nòi, giấu giếm tông tích cộng sản. Vì vậy, Việt minh kết nạp được một số người quốc gia lúc ban đầu. Bấy giờ Thế chiến thứ hai đang tới thời kỳ khốc liệt. Tháng 12 năm 1941, Nhật dám vuốt râu hùm công kích Hoa Kỳ tại Trân châu cảng khiến Hoa Kỳ nổi trận lôi đình, gia nhập Thế chiến thứ hai, liên kết với các đồng minh để đánh phe Trục gồm có Đức, Ý, và Nhật.
Năm 1942, Quốc thay tên đổi họ thành Hồ Chí Minh, mang giấy tờ giả mạo đi qua Tàu để kết bè kết đảng với đảng cộng sản Tàu bấy giờ. Nhưng đi đêm có ngày gặp ma, hắn bị quân quốc gia Trung hoa bắt tại Liễu châu. Trong lúc ở trong trại giam, hắn vớ được một tập thơ viết bởi một người Tàu, với nhan đề "Nhật ký trong tù." Khi bị điều tra thẩm vấn về chuyến đi thì hắn trơ như mặt thớt, chối loanh quanh không nhận là theo cộng sản. Đã thế hắn lại còn ba hoa chích chòe với tướng Trương Phát Khuê của Trung hoa quốc dân đảng để được tham gia việc tổ chức lại Đồng Minh Hội chống Nhật. Tới năm 1943, tướng Trương Phát Khuê đâu ngờ nuôi ong tay áo, lại còn mở đường cho kẻ trộm, thả Hồ về Việt Nam, cho hắn tháo cũi sổ lồng.
Khi trở về Việt Nam, Hồ và các đồng chí uống máu ăn thề tăng cường hoạt động. Đảng Việt minh mọc lông mọc cánh, dụ dỗ giới trí thức và dân ngu khu đen dưới danh nghĩa chống thực dân Pháp. Trong khoảng thời gian này, hắn móc nối được với Văn phòng dịch vụ chiến thuật (Office of Strategic Services - O.S.S.) của Hoa Kỳ và vì buôn có bạn, bán có phường, hắn hợp tác với Hoa Kỳ trong việc báo cáo đường đi nước bước và hoạt động Nhật đang đóng quân tại Bắc Việt. Đổi lại, O.S.S. gửi nhân viên huấn luyện lính Việt minh dùng dụng cụ truyền thông và vũ khí. Hồ tận dụng triệt để mối liên hệ với Hoa Kỳ để quảng cáo Việt Minh. Khi gặp tướng Mỹ Chennault, hắn xin ảnh và chữ ký của tướng Chennault. Sau đó mỗi khi hắn đi đâu, hắn ve vẩy tấm ảnh có chữ ký đó để đi hù thiên hạ, dùng Hoa Kỳ để treo đầu dê bán thịt chó.
Năm 1945, Đồng minh đánh tan phe Trục tại Âu châu. Thế chiến thứ hai sắp tới màn kết thúc, nhưng Nhật vẫn còn hung hăng con bọ xít, đảo chánh Pháp vào tháng 3. Dân Việt Nam nhìn quân Nhật hạ bệ Pháp mà ngao ngán cõi lòng cho sự nhược tiểu của mình: trong nhiều thập kỷ, 23 triệu dân bị dưới sự kiểm soát của đám mật thám và vỏn vẹn 65.000 lính, trong số đó mười hai ngàn quân là Âu châu. Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập vào tháng 4 năm 1945. Nhờ các hoạt động tích cực qua các đàm phán thương lượng với chính phủ Trần Trọng Kim, Nhật đồng ý giao trả độc lập và thống nhất đất nước cho Việt Nam. Tuy nhiên, do hỗn loạn chính trị từ Thế chiến thứ hai và các mâu thuẫn nội bộ, chính phủ Trần Trọng Kim giải tán vào đầu tháng 8 năm 1945. Vào giữa tháng 8 năm 1945, Nhật đầu hàng Đồng minh và Thế chiến thứ hai chấm dứt. Tình hình chính trị Việt Nam trở thành tranh tối tranh sáng, không phân biệt được chính tà. Hồ và các đồng chí chụp cơ hội khoảng trống quyền lực này để cướp chính quyền. Thế là một kẻ vô danh tiểu tốt, chỉ sống cuộc đời bèo dạt mây trôi, cầu bơ cầu bất, dốt nát võ vẽ dăm ba chữ nghĩa cộng sản, thuộc hạng người ăn sung trả ngái, đầu óc ác quán mãn doanh, bịp bợm lừa đảo, lòng dạ đổi trắng thay đen, tay sai của Tàu cộng, trở thành thủ lãnh chính thức của một nhóm người tự xưng là yêu nước. Việt minh thừa nước đục thả câu nổi lên giành quyền thế khi Nhật án binh bất động. Họ đánh trống khua chiêng lợi dụng danh nghĩa Hoa Kỳ như cáo mượn oai hùm để ra vẻ cuộc nổi dậy của họ là danh chánh ngôn thuận với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và đồng minh. Tưởng thật, dân chúng ùn ùn đi theo. Thế là chó ngáp phải ruồi, Việt minh nắm giữ được chính quyền dễ như ăn cháo.
Bấy giờ, Hồ quyết tâm theo đuổi tham vọng cầm quyền của mình. Dốt hay nói chữ, Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập với những câu dao to búa lớn mà chính hắn ù ù cạc cạc không hiểu ý nghĩa, như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, mượn từ bản tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ và cách mạng Pháp. Hắn lại còn thêm mắm thêm muối, hứa hẹn dân Việt Nam “chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp” trong bản tuyên ngôn độc lập. Nhưng hắn chỉ cho ăn bánh vẽ và đã có ý định bán đứng Việt Nam cho Pháp khi Pháp bị Nhật kiểm soát.
Tháng 11 năm 1945, trong một kế hoạch nham hiểm lừa đảo thiên hạ, Hồ tuyên bố giải tán ĐCSĐD, giấu giếm mối liên hệ với cộng sản để lấy cảm tình những người quốc gia. Thực ra, đảng cộng sản vẫn còn hoạt động, dưới tên Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Người dân Việt Nam lúc bấy giờ tưởng là sẽ thoát được ách đô hộ tàn nhẫn của thực dân Pháp. Nhưng họ đâu ngờ là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Chẳng bao lâu, Hồ lộ ra bản chất phản trắc và nói một đàng làm một nẻo khi hắn ký thoả hiệp cho Pháp trở lại Việt Nam vào năm 1946, với mục đích chính thức hóa trên danh nghĩa chính quyền cộng sản bất hợp pháp của hắn và mượn Pháp để tiêu diệt các thành phần quốc gia đối nghịch. Các cán bộ Việt minh thì cũng cá mè một lứa. Đảng Việt minh của hắn lúc mới thành lập tuy có một thiểu số người trí thức quốc gia bị lừa gạt mà tham gia nhưng đa số là những người dốt có đuôi. Họ thuộc lòng những bài học chính trị rồi miệng nói như vẹt cố thuyết phục dân chúng. Họ nói hươu nói vượn và nói dối như cuội để lường gạt dân. Họ lại còn là những người đầu trộm đuôi cướp, giết người như ngoé và đã thảm sát hằng hà sa số những người quốc gia chân chính.
Thế rồi chiến tranh giữa Việt minh và Pháp bùng nổ. Hồ và những người ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu chạy trốn Pháp tại những nơi hang cùng ngõ hẻm, thâm sơn cùng cốc trong vùng núi miền Bắc. Trong giai đoạn đầu đánh nhau với Pháp, Hồ viết thư năn nỉ ỉ ôi với Tổng thống Hoa Kỳ Truman xin xỏ viện trợ, lại còn giở giọng bán nước khi ngỏ ý dâng hiến vịnh Cam ranh cho Mỹ khai thác. Hồ hy vọng Hoa Kỳ nhớ lại tình xưa nghĩa cũ lúc hợp tác chống Nhật, nhưng Hoa Kỳ biết tỏng tòng tong hắn là cộng sản nên cứ phớt tỉnh Ăng lê, mặc cho những lời xin xỏ dai như đỉa đói, chẳng thèm đoái hoài gì đến Hồ. Bẽ mặt vì bị Mỹ coi thường, hắn tức tối đầy vơi, chửi Mỹ là đế quốc. May sao cho Hồ, Mao Trạch Đông thắng quân quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch và thành lập Cộng hòa nhân dân Trung hoa vào năm 1949. Năm 1950, Hồ hối hả trèo đèo lội suối, xuống ghềnh lên thác, qua Tàu rồi sang Nga, vào luồn ra cúi với Mao Trạch Đông và mềm lưng uốn gối với Stalin để xin viện trợ. Hắn lại giở trò xin chữ ký của Stalin trên một tạp chí, nhưng lần này âm mưu bị bại lộ. Stalin ký nhưng sai thủ hạ lấy lại tờ báo làm Hồ tẽn tò, bị quê một cục.
Về nước, hắn và các đồng chí hô hào dân chúng, kêu gọi lòng yêu nước, và dụ dỗ nông dân theo Việt minh đánh Pháp. Năm 1951, sau khi hội ý với hai thầy Stalin và Mao, Hồ quyết định đổi tên Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác thành Đảng Lao Động Việt Nam (ĐLĐVN). Hắn dùng miệng lưỡi Tô Tần thuyết phục các đồng chí nghe theo lời Stalin và Mao vì hai vị thầy không bao giờ sai và không thầy đố mày làm nên. Thế là Hồ và các đồng chí tung hô vạn tuế hai vị thầy đáng kính Stalin và Mao của họ, và Đảng Lao Động Việt Nam ra đời. Là người thích chơi chữ, Hồ dùng tên Lao Động vì chữ viết tắt của nó, L.Đ., cũng có nghĩa là Lừa Đảo.
Cuộc cải cách ruộng đất khởi đầu vào năm 1953 cho thấy bản chất lừa đảo của Hồ khi hắn ném đá giấu tay viết báo, dưới bút hiệu C.B., lên án bà Nguyễn Thị Năm rồi sau này lại giả nhân giả nghĩa la mắng thuộc hạ khi bà bị xử tử, trong khi chính hắn là kẻ bịt râu hóa trang đi xem cuộc đấu tố bà Năm. Cuộc cải cách ruộng đất là một thảm họa kinh thiên động địa cho dân miền Bắc và nó cũng cho thấy bộ mặt cùng hung cực ác của ĐLĐVN. Họ giết hơn 170,000 người và tạo ra những cảnh nhà tan cửa nát cho vô số dân vô tội. Dưới sự chỉ đạo của Tàu cộng, chính phủ cộng sản Bắc Việt tàn nhẫn giết hại chính dân mình, lại còn xúi giục dân phạm chuyện đảo lộn luân thường đạo lý, khuyến khích con cái đấu tố cha mẹ, người giúp việc đấu tố chủ nhân.
Tháng hai năm 1956, tại hội nghị Đảng cộng sản Liên Xô, Khrushchev đọc bài diễn văn long trời lở đất nguyền rủa Stalin, chửi tưới hạt sen sự sùng bái cá nhân, và thúc dục mọi đại biểu thực hành tự phê bình. Diễn văn của Khrushchev làm Hồ chột dạ, mặt xanh như tàu lá, nên vội vàng tuyên bố là Đảng cộng sản Liên Xô quả là có can đảm mới có sự tự phê bình, và các đảng cộng sản khác phải noi theo gương sáng của bậc đàn anh. Hồ lập tức khởi đầu cuộc tự phê bình, thú nhận là cuộc cải cách ruộng đất có nhiều sai lầm. Để biểu lộ lòng ân hận của mình, hắn cố rỏ những giọt nước mắt cá sấu khóc lóc như mèo già khóc chuột khi đọc diễn văn nhận lỗi là đã giết oan biết bao nhiêu người. Nhưng vì tài đóng kịch kém cỏi, hắn cố khóc nhưng cặp mắt ráo hoảnh. Đến giờ phút này, nhiều người vẫn tưởng Hồ biết ăn năn sám hối mà nhận lỗi chứ đâu có biết là Hồ và đảng cộng sản làm vậy để theo ý Liên Xô.
Năm 1954, Việt minh, với sự giúp đỡ quân sự và cố vấn của Tàu cộng và lừa đảo nông dân phu với hứa hẹn hão cho ruộng đất, huy động nhân lực đông như kiến cỏ, vây quanh Điện Biên Phủ. Sau 55 ngày, Điện Biên Phủ thất thủ. Một lần nữa, ĐLĐVN vỗ ngực huênh hoang giành công cho cuộc chiến thắng trong khi đó là cuộc chiến của những người Việt Nam đánh Pháp vì tinh thần dân tộc bỏ qua những hiềm khích hoặc vì bị lừa đảo bởi các hứa hẹn hão chứ không hề vì chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1954, hiệp định Geneva phân chia nước Việt Nam thành hai miền: miền Bắc theo chế độ cộng sản và miền Nam theo chế độ cộng hòa. Nạn nọ chưa qua nạn kia đã tới, dân Việt Nam lại chịu thêm cảnh chiến tranh Nam Bắc. Dân miền Bắc đói khát liên miên, rách như tổ đỉa. Dân miền Nam chỉ muốn sống yên ổn thanh bình. Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng dừng, Hồ và các đồng chí muốn thôn tính miền Nam. Họ tạo dựng Mặt trận giải phóng miền Nam và xua quân vào miền Nam. Họ dùng chiêu bài giải phóng miền Nam để dương Đông kích Tây, đánh lạc hướng dân miền Bắc để người dân không để ý đến các vấn đề nội bộ về kinh tế và xã hội. Hoa Kỳ nhảy vào cuộc chiến, một công hai việc, vừa chống cộng sản lan tràn vừa dùng miền Nam Việt Nam là nơi thí nghiệm chiến tranh lạnh và làm giàu các tay buôn vũ khí quân sự. Bắc Việt khôn ngoan áp dụng chiến thuật một nồi hai vung, bợ đít cả hai quan thầy Liên Xô và Tàu cộng, nhận viện trợ về kinh tế lẫn quân sự, cho lính Tàu cộng qua Việt Nam, rước voi giày mả tổ. Dân Việt Nam bị rơi vào tình trạng chiến tranh huynh đệ tương tàn, ủy nhiệm bởi ba siêu cường quân sự. Đầu dây mối nhợ là chính quyền Bắc Việt chủ trương xâm lăng miền Nam.
Hồ bổn cũ sào lại tước đoạt quyền tác giả của quyển Nhật ký Trong Tù. Hắn lại còn trơ trẽn viết hai bản tự truyện mèo khen mèo dài đuôi ca ngợi chính mình. Sự đạo văn tột độ của hắn với Thỉnh nguyện, Bản án, và Nhật ký cho thấy rõ phẩm cách đá cá lăn dưa của hắn. Hồ thích mập mờ đánh lận con đen khi bị hỏi thẳng. Hắn không bao giở khẳng định rõ rệt chuyện gì về bản thân mình. Ngay cả khi có người hỏi hắn có phải là Nguyễn Ái Quốc không thì hắn lại nói, "Chú tìm ông ấy mà hỏi, tôi đâu biết." Mặc dù lúc đó là năm 1946, khi mà an ninh không còn là vấn đề. Hồ không bao giờ khẳng định mình là tác giả của Nhật Ký Trong Tù, nhưng khi có người hỏi là tại sao ngày tháng ghi trên trang bìa cuốn Nhật Ký Trong Tù lại sai trệch đi đúng mười năm, thì hắn trả lời là hắn muốn đánh lạc hướng thiên hạ.
Đã thế, hắn lại còn lên mặt đạo đức giả miệng nam mô, bụng bồ dao găm, khuyên răn dân chúng và cán bộ theo đuổi cần, kiệm, liêm, chính. Lẽ ra mọi chuyện khẩu Phật tâm xà của hắn cũng được bưng bít, nhưng thiên bất dung gian, chính những tài liệu bôi râu đánh phấn hắn của hắn và đảng cộng sản Việt Nam sau này lại lạy ông tôi ở bụi này, chẳng ai khảo mà xưng. Đa số những vụ lừa đảo của Hồ bị khám phá vì không có dối trá nào mà không bị vạch ra mãi mãi. Như một con chồn vụng về, Hồ giấu đầu lòi đuôi.
Hồ là người ba phải, không hề có một chính kiến gì rõ rệt. Mọi chuyện quan trọng đều tùy cơ ứng biến hoặc tới đâu hay tới đó. Ai cho tiền thì chạy theo, chẳng biết ất giáp gì. Vì vậy, khi Liên Xô và Tàu cộng muốn bành trướng ảnh hưởng trên thế giới, hắn và các đồng chí chỉ biết ôm chân liếm gót hai quan thầy Liên Xô và Tàu cộng và biến Bắc Việt thành một chư hầu cộng sản. Chính phủ hắn đã ghi lòng tạc dạ Tàu cộng trong cuộc chiến tranh với Pháp và chiến tranh với Hoa Kỳ. Chính hắn và các đồng chí tỏ bày lòng trung thành với người bạn môi hở răng lạnh Tàu cộng của họ khi năm 1958 Phạm Văn Đồng viết công hàm cho Chu Ân Lai mại quốc cầu vinh đồng ý sự xác nhận chủ quyền của Tàu cộng trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau này, Liên Xô và Tàu cộng như hàng tôm nguýt hàng cá xung đột nhau, tranh giành ảnh hưởng trên Bắc Việt. Nhờ cảnh ngao cò tranh đấu, ngư ông đắc lợi, cộng sản Bắc Việt nhận được viện trợ cả hai bên. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chính trị Bắc Việt ổn định. ĐLĐVN có sự chia rẽ trầm trọng giữa hai phe thân Nga và thân Tàu. Hai phe vào lườm ra nguýt, tranh giành quyền thế. Cuối cùng thì phe Lê Duẩn thắng thế, đưa Lê Duẩn lên đỉnh cao danh vọng, trong khi Hồ chỉ là người bù nhìn. Thực ra, Hồ và ĐLĐVN có sự thỏa thuận. Hồ bề ngoài vẫn giữ quyền trong khi ĐLĐVN tạo ra hình ảnh hắn thánh thiện bịp bợm dân để họ dựa vào đó mà tung hoành ngang dọc. Cảnh vụng chèo khéo chống được hỗ trợ bằng đủ loại lừa đảo bịp bợm, tăng cường bởi chính sách mị dân, bảo vệ bởi sự đàn áp tàn bạo của chế độ độc đảng.
Trong khoảng mười năm đầu tiên của nền cộng hòa, tình trạng trong miền Nam, Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), cũng chẳng hay ho gì. Trong mấy năm cuối của thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, miền Nam nếm mùi dân chủ lần đầu nên mới lẫm chẫm biết đi. Ông Ngô Đình Diệm là người thanh liêm, quốc gia chân chính và chống cộng tích cực nhưng lại độc tài. Trong vài năm đầu cầm quyền, ông tỏ ra là một người tài cao đức trọng, thiết tha cho việc xây dựng một quốc gia Việt Nam hùng mạnh, nhưng ông cũng có một vài khuyết điểm rất giống Hồ Chí Minh, tuy không đến nỗi tệ mạt như Hồ. Về phương diện chính trị, ông Diệm thích sùng bái cá nhân. Đài phát thanh trong nước lúc nào cũng rỉ rả bài hát "Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống Ngô Tổng Thống muôn năm." Ông Diệm cũng dùng những mánh lới chính trị trong cuộc trưng cầu dân ý truất phế vua Bảo Đại, sử dụng những thủ thuật bầu cử khả nghi, và tạo dựng một quốc hội bù nhìn. Nhưng khác với Hồ Chí Minh, ông Diệm là người trí thức, học cao, liêm chính, ngoan đạo, ăn ngay nói thẳng, không bị Mỹ khuất phục và quả thật là người không vợ không con. Tiếc là những ưu điểm của ông bị lu mờ bởi tinh thần chống cộng quá khích và gia đình trị đã khiến những năm ông cầm quyền phạm nhiều lỗi lầm nghiêm trọng. Chính quyền ông Diệm thành công trong việc tiêu diệt gần hết quân cộng sản ở lại miền Nam sau năm 1954. Nhưng ông cũng tiêu diệt một số những người không thân cộng, và vì vậy khiến những người không thân cộng chẳng đặng đừng phải theo phe cộng sản. Ngoài ra, lợi dụng thể chế tự do dân chủ, nhiều cán bộ cộng sản len lỏi vào hàng ngũ chính quyền, tôn giáo, và trí thức, kích động tôn giáo và sinh viên học sinh. Thay vì đối phó mềm mỏng với các phe phái này, chính quyền ông Diệm dùng nhiều biện pháp cứng rắn. Ông Nhu, em ông Diệm, chuyên quyền đàn áp Phật giáo và các phe chống đối, tạo ra bất mãn. Ông Nhu là người thông minh, nhưng có nhiều thủ đoạn và mưu mẹo chính trị, nên nhiều khi già quá hóa non. Ông Nhu còn tổ chức buôn gian bán lận, chuyên chở thuốc phiện và dung túng đàn em. Bè lũ ông thì tham nhũng, ăn cắp như ranh. Mỹ biết ông Diệm biết lo cho tổ quốc nhưng chẳng ưa gì ông Nhu, nhưng không biết làm sao vì hai anh em như hình với bóng. Hơn nữa, hai anh em ông Diệm Nhu có ý tưởng không lệ thuộc Mỹ và không muốn Mỹ dính líu nhiều vào nội bộ Việt Nam.
Năm 1963, hai anh em Diệm và Nhu bị giết chết trong một cuộc đảo chánh được Mỹ hỗ trợ. Sau đó, miền Nam lại rơi vào rối loạn chính trị. Giới lãnh đạo miền Nam có khuynh hướng chia rẽ, chia bè lập phái, hết đảo chánh này sang đảo chánh nọ. Cục diện chính trị tại miền Nam như một màn kịch cải lương, tướng lãnh tranh ngôi đoạt vị ra vô cầm quyền Sài gòn như chỗ không người, khiến cho Mỹ điên đầu, không biết đâu mà mò. Mỹ có ưu tiên là cản mức bành trướng của cộng sản, và họ hy vọng thể chế dân chủ ở miền Nam giúp việc đó. Tuy nhiên, chính quyền Mỹ bị ảnh hưởng bởi đám diều hâu thích có chiến tranh để có dịp làm giàu cho hệ thống thương mại kỹ nghệ quân sự chế tạo súng ống, máy bay, xe tăng.
Thế là Mỹ đổ tiền viện trợ kinh tế quân sự vào Việt Nam, nhắm mắt làm ngơ những chuyện tham nhũng, ăn cắp của cả người Mỹ lẫn Việt. Sau cùng, tình trạng ổn định hơn và ông Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng thống năm 1967. Tuy nhiên, khi tiền Mỹ đổ vào càng nhiều, cấp lãnh đạo miền Nam bị hư hại bởi tệ trạng tham nhũng, mua quan bán tước. Công việc địa vị béo bở thì để cho người quen kẻ thuộc, bạn bè hay họ hàng thân quyến. Tiền và vật liệu viện trợ của Mỹ thì bị ăn bớt ăn xén. Thiệu là một người chống cộng tích cực. Một trong những câu nói bất hủ của Thiệu là, "Đừng nghe những gì cộng sản nói. mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm." Nhưng ông lại là người tham quyền cố vị, có tính đa nghi, chỉ tin dùng những tướng lãnh thân cận. Tệ hơn nữa, ông để bè lũ lạm dụng quyền thế, buôn bán trục lợi. Cũng may là có nhiều tướng lãnh liêm khiết và tinh thần chiến đấu chống cộng của binh sĩ cao. Dân miền Nam có một phần tự do, không bị chính quyền bóp hầu bóp cổ. Đảng phái tự do hoạt động, xuống đường biểu tình chống đối chính quyền liên miên. Chính nhờ chính sách và tinh thần tự do dân chủ của miền Nam mà cộng sản Bắc Việt có thể cho người của họ xâm nhập vào hàng ngũ chống cộng miền Nam, kể cả chính quyền, quân đội, báo chí, tôn giáo, và ngay cả sinh viên học sinh, tạo thành một đám ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản. Ngoài những thủ đoạn rối loạn dân cho lợi thế chính trị, cán bộ cộng sản thực hiện nhiều công tác gián điệp bí mật tàn bạo, ám sát hàng ngàn viên chức chính quyền và dân vô tội.
Trận chiến tại miền Nam càng ngày càng tàn khốc. Người dân miền Nam chạy trốn cộng sản, tất tả ngược xuôi. Trong cảnh trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết, những người dân vô tội bị cộng sản bắn giết bừa bãi. Trong những vùng đồng quê xa thành phố người dân miền Nam chỉ muốn sống yên thân nhưng lũ cộng sản trà trộn với dân làng, dùng họ làm bia đỡ đạn, lại còn ép buộc tham gia cái cách mạng rởm. Tuy người dân miền Nam muốn tránh né cộng sản như tránh cùi hủi, họ không thể bỏ nhà và làng xã họ; vì vậy dân bị trong cảnh trên đe dưới búa, tránh hùm mắc hổ. Ban ngày thì phải đối phó với lính VNCH hoạnh họe, ban đêm thì bị kéo đi hội họp nghe tuyên truyền của cán bộ Việt cộng.
Lũ cộng sản lại còn cố tình tạo ra nhầm lẫn cho lính Mỹ bằng cách giả dân phục kích bắn tỉa khiến lính Mỹ hoang mang không phân biệt ai là bạn ai là thù. Đa số lính Mỹ có tôn ti trật tự, tôn trọng mạng dân, lo cho thường dân, nhất là người già, đàn bà, và trẻ em. Lính Mỹ mang người già, đàn bà trẻ em, và ngay cả lính cộng sàn bị thương ra khỏi hiểm nguy trong lúc và sau khi đánh trận. Họ cung cấp săn sóc y tế cho nông dân trong các vùng quê xa xôi, chăm lo những người bị thương, và bảo đảm an toàn cho thường dân. Còn có người hy sinh tính mạng để cứu dân Việt. Tuy nhiên, vẫn có thiểu số là phường thất học, coi dân Việt như cỏ rác. Khi đồng đội thương vong vì bị bắn tỉa hoặc dẵm mìn gài bởi Việt cộng, lũ vô lại Mỹ này lên cơn điên dại bắn bừa bắn bãi vào đàn bà và trẻ em, đốt nhà đốt cửa, rải mưa bom bão đạn lên đầu dân khiến cho dân căm phẫn Mỹ. Trong vụ thảm sát Mỹ Lai năm 1968, có cả hàng trăm dân kể cả đàn bà con nít bị bắn chết. Nhưng những vụ này không thấm vào đâu so với tội ác chiến tranh của lũ cộng sản Việt Nam. Cái đáng nói hơn hết là lũ cộng sản giết hại chính người dân của họ, mà sau này lại còn chối đây đẩy. Dân miền Bắc cũng bị thương vong vì tai họa phụ do bom Mỹ. Chính phủ Bắc Việt lợi dụng những tai họa phụ này để lên án Mỹ, làm gia tăng sự căm thù Mỹ trong đầu óc người dân Bắc Việt.
Năm 1968, bất kể ngày Tết thiêng liêng, cộng sản Bắc Việt tổng công kích toàn thể miền Nam, nhưng bị phản công dữ dội bởi Quân Lực VNCH và Hoa Kỳ. Quân cộng sản bị quét sạch bò lê bò càng khiến chúng kinh hồn bạt vía, chạy trốn chui trốn nhủi. Tuy nhiên, trước khi bị quét ra khỏi Huế, quân cộng sản thực hiện cái gọi là bạo động cách mạng bằng thảm sát hàng ngàn người dân tại Huế, trẻ không tha già không thương. Cái mà lũ cộng sản gây cho dân Huế làm ai cũng rùng mình rởn gáy. Dân chết như rạ, bị bắn, đập đến chết, và bị chôn sống tập thể. Thành phố Huế phủ ngập màu trắng khăn tang trên đầu những người vợ khóc chồng, con khóc cha.
Là người xưng không có vợ con, Hồ không hiểu được cái đau đớn của dân Huế. Nhưng hắn hiểu cái chết là gì. Khi hắn gần kề miệng lỗ, hắn viết chúc thư, sau này sửa đổi nhiều lần. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ an giấc ngàn thu. Có những bí mật về hắn thì hắn sống để dạ, chết mang đi. Trong chúc thư với chữ như gà bới đầy lỗi chính tả, hắn mong mỏi được gặp hai thần tượng là Karl Marx và Vladimir Lenin. Nếu hắn được gặp họ thì hắn cũng ngậm cười nơi chín suối. Hắn còn dặn dò mọi người là tiếp tục kháng chiến chống đế quốc Mỹ và tiêu diệt ngụy quyền Sài gòn.
Chẳng cần Hồ dặn dò, Hoa Kỳ đang chán ngấy về cuộc chiến. Niềm tin của dân Hoa Kỳ bị suy thoái bởi sự bi quan biểu lộ qua truyền hình và báo chí, cộng thêm với sự gia tăng hoạt động của phong trào phản chiến. Tổng thống Nixon muốn có hòa bình trong danh dự. Ông phái quân sư quạt mo Kissinger đi đêm với Bắc Việt nhưng Bắc Việt muốn kéo dài cuộc chiến nên cà kê dê ngỗng về chuyện đàm phán hòa bình. Đám ngoại giao Bắc Việt cứ đủng đà đủng đỉnh trì hoãn mọi chuyện. Ngay cả chuyện hình dạng bàn họp cũng kéo dài đến cả mấy tháng chưa xong. Trong khi chính họ là những kẻ cướp đoạt chính quyền bất hợp pháp, cộng sản Bắc Việt mồm năm miệng mười không chịu công nhận chính quyền Sài gòn. Đã thế, Bắc Việt lại còn lôi kéo Mặt trận giải phóng miền Nam, một lực lượng cộng sản do chính họ tạo dựng, vào cuộc họp như là một phe độc lập. Nhưng những nhà ngoại giao cộng sản Bắc Việt chỉ múa rìu qua mắt thợ với cặp bài trùng Nixon và Kissinger. Hoa Kỳ muốn ngồi xích lại với Nga và Tàu, nói chuyện thẳng với quan thầy của cộng sản Bắc Việt, mặc cho Bắc Việt khua môi múa mép.
Khi cuộc họp bắt đầu thì cộng sản Bắc Việt thuyết phục Tàu cộng cho phép họ sử dụng chiến thuật vừa đánh vừa đàm. Họ cố tìm một chiến thắng quân sự để gây áp lực cho cuộc đàm phán. Tàu cộng không thích ý đó, nhưng trước sự Bắc Việt nài nỉ, họ đồng ý. Đám lãnh đạo Bắc Việt bèn tiến hành kế hoạch thua keo này bày keo khác, hăm hăm hở hở tưởng là có thể tái diễn trò Điện Biên Phủ. Vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, cộng sản Bắc Việt tung ra một đợt tấn công khốc liệt vào miền Nam. Họ lại một lần nữa thảm bại ê chề, bị đánh tan không còn mảnh giáp. Nhưng họ không quên pháo kích giết chết gần hai ngàn người dân vô tội trên Đại Lộ Kinh Hoàng tại Quảng Trị, phạm thêm một tội ác trời không dung đất không tha. Không có được một chiến thắng quân sự nhưng cộng sản Bắc Việt vẫn đú đa đú đởn với chuyện đàm phán, không màng đến dân. Nhưng vỏ quýt dầy gặp móng tay nhọn, Nixon nộ khí xung thiên ra lệnh thả bom khốc liệt vào tháng 12 năm 1972. Đám lãnh đạo cộng sản Bắc Việt sợ té đái vãi cứt, mặt cắt không còn hột máu, tưởng là tên điên Nixon thả bom để tiêu diệt chính họ. Thế là họ thúc dục đám ngoại giao ba chân bốn cẳng, chạy bở hơi tai về bàn đàm phán. Trong những ngày cuối của cuộc đàm phán, hòa bình đâu chẳng thấy trên miền Nam, mà lại còn giao tranh dữ dội hơn. Hai bên lo tranh bờ lấn cõi, chiếm đất chuẩn bị cho ranh giới quy định bởi hiệp định. Hiệp định Paris được ký vào tháng giêng năm 1973.
Ngay sau khi ký xong hiệp định, Bắc Việt đã chờ gió bẻ măng nên bắt đầu cuộc thôn tính miền Nam. Với thủ đoạn vừa đánh trống vừa ăn cướp, họ tuyên bố Hoa Kỳ và miền Nam vi phạm hiệp định Paris trong khi chính họ gửi cả trăm ngàn binh sĩ vào Nam. Trước hiểm họa cộng sản xâm lăng, Sài gòn hy vọng Nixon giữ lời hứa trừng phạt Bắc Việt. Nhưng họa vô đơn chí, miền Nam lại bị xui xẻo thêm lần nữa. Vụ Watergate khiến Nixon phải từ chức, thân bại danh liệt, chẳng còn thế lực gì để giúp Sài gòn. Đầu năm 1974, Tàu cộng, dưới sự đồng ý ngầm của Mỹ, tấn công một phần quần đảo Hoàng Sa trấn giữ bởi Hải quân VNCH. Sau một trận đánh đẫm máu, Tàu cộng chiếm được Hoàng Sa. VNCH phản đối kịch liệt cuộc xâm lăng này, nhưng cộng sản Bắc Việt miệng câm như hến. Thấy Hoa Kỳ không can thiệp vụ Hoàng Sa, cộng sản Bắc Việt chụp lấy cơ hội ngàn năm một thuở, mở màn chiến dịch xâm lược. Vào lúc này, Hoa Kỳ đã quyết định hy sinh miền Nam Việt Nam vì phong trào phản chiến trong nước và chính sách ngoại giao. Sau trận đánh Phước Long vào đầu năm 1975 để dọ dẫm phản ứng Hoa Kỳ, Bắc Việt mừng rỡ khi thấy Hoa Kỳ điềm nhiên tọa thị. Thế là bộ chính trị cộng sản Bắc Việt ra lệnh tung toàn bộ lực lượng quân sự vào mùa xuân năm 1975 tấn công miền Nam.
Trước sự chống đối của Quốc hội ảnh hưởng bởi phong trào phản chiến, Hoa Kỳ chỉ biết ngồi trơ mắt ếch, nhìn miền Nam Việt Nam bị ăn tươi nuốt sống bởi quân Bắc Việt với xe tăng đại bác Nga Tàu. Tổng thống miền Nam Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu, trước sự Hoa Kỳ im hơi lặng tiếng, biết mình đã bị lừa. Trong tình trạng khẩn cấp của mặt trận cao nguyên và quân khu I, ông làm nhiều quyết định mà ông sẽ ân hận ngàn đời. Quan trọng nhất là quyết định di tản chiến thuật, ra lệnh quân VNCH rút lui, cho quân cộng sản chiếm các tỉnh cao nguyên và quân khu I, với ý định tập trung vào việc phòng thủ một lãnh thổ nhỏ hơn cho có hiệu quả hơn.
Tiếc thay, sai một ly đi một dặm. quyết định vội vã đó tạo ra những hậu quả tâm lý và chiến thuật tác hại. Binh sĩ và nhiều cấp chỉ huy tin rằng chuyện di tản chiến thuật là bước đầu của sự xụp đổ miền Nam, nhất là khi thấy Hoa Kỳ không phản ứng gì. Cộng thêm vào đó là sự thiếu thốn đạn dược và vật liệu đã làm nao núng tinh thần chiến đấu. Đã thế, Thiệu còn thay đổi ý kiến vào phút chót khi một số đơn vị đã thi hành lệnh di tản. Các tướng lãnh VNCH vò đầu bức tai, dậm đất kêu trời. Dân tị nạn còn ùn ùn tay bồng tay dắt chạy theo binh sĩ rút lui vì kinh cung chi điểu khi ký ức về thảm sát Tết Mậu Thân vẫn còn, càng làm quân đội VNCH vướng chân vướng cẳng, vừa lo bảo vệ dân, vừa chống trả quân địch, vừa rút lui trong cùng một lúc. Những thành phần cộng sản nằm vùng báo cáo tin tức tình báo cho quân xâm lăng và tung ra những tin đồn thất thiệt, càng làm tình trạng thêm phần tồi tệ. Toàn bộ trở nên một cảnh hỗn loạn chưa từng thấy. Nhiều thành phần hèn nhát trong quân đội VNCH vừa nghe tin đồn xe tăng địch lăn vào thành phố là rụng rời tay chân, bỏ súng chạy bán sống bán chết, vắt giò lên cổ.
Quân cộng sản reo hò mừng rỡ, chiếm các tỉnh ở quân khu I mà không tốn một viên đạn. Tưởng bở, cấp lãnh đạo Bắc Việt ra lệnh tiến quân vào Sài gòn với xe tăng bộ đội giữa thanh thiên bạch nhật. Trong cảnh hầu như tuyệt vọng đó, quân lực VNCH vùng lên, thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt, chặn đứng sức tiến quân cộng sản tại Xuân Lộc. Còn nước còn tát, sáu ngàn người lính VNCH kề vai sát cánh chống lại bốn mươi ngàn quân Bắc Việt, trùng trùng điệp điệp bao vây Xuân Lộc với xe tăng và chiến thuật tiền pháo hậu xung, trong một trận hào hùng nhất của chiến tranh Việt Nam. Tuy mãnh hổ nan địch quần hồ, quân lực VNCH tại trận Xuân Lộc thề một mất một còn với cộng sản và đã ghi lại một trang sử oai hùng và dậy cộng sản một bài học vô giá: người Việt đừng bao giờ coi thường người Việt. Chiếm không được Xuân Lộc lại bị thiệt hại quá nặng nề, quân cộng sản bỏ mục tiêu và đi luồn qua đường khác tiến tới Sài gòn. Những người hùng Xuân Lộc rút về Sài gòn để bảo vệ. Nhưng đã quá trễ vì cái sảy nảy cái ung. Thiệu từ chức và bay qua Đài Loan không kèn không trống, để lại các tướng lãnh ngơ ngác.
Số trời đã định, Dương Văn Minh kế nhiệm Thiệu ra lệnh quân lực VNCH đầu hàng vô điều kiện. Mặc dù tình thế tuyệt vọng nhưng lệnh Minh bắt đầu hàng như sét đánh ngang tai cho miền Nam Việt Nam. Những cấp chỉ huy quân lực VNCH đấm ngực than trời nhưng đa số phải tuân theo lệnh. Năm vị tướng VNCH tự tử, không muốn nhìn hình ảnh ác quỷ của lá cờ cộng sản bay trên miền Nam, trong tinh thần thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vua đất Bắc của Trần Bình Trọng, một vị tướng nhà Trần vào thế kỷ thứ 13. Biết bao nhiêu binh sĩ và sĩ quan theo gót họ hoặc tuy sa cơ thất thế nhưng vẫn chiến đấu tới viên đạn cuối cùng tận trung báo quốc, thà chết vinh hơn sống nhục. Những người vị quốc vong thân tuy chết, nhưng anh hùng tử, khí hùng bất tử. Cái chết của họ sẽ được sử sách ghi nhận là bằng chứng cho tinh thần bất khuất của dân Việt. Nhiều chiến sĩ không đầu hàng nhưng sức cùng lực kiệt, anh hùng mạt lộ và bị bắt sống như hùm thiêng sa lưới. Thế rồi, như rắn mất đầu, Sài Gòn bị thất thủ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Sau 20 năm trời chinh chiến nồi da xáo thịt, Việt Nam được thống nhất với một giá rất đắt với hơn ba triệu người Việt Nam bỏ mình. Trong những ngày cuối cùng cuộc chiến, hơn 130.000 người sống ở miền Nam bỏ của chạy lấy người, được di tản sang Hoa Kỳ. Họ là những người thuộc đợt dân tị nạn cộng sản đầu tiên, sau này trở thành những người Việt hải ngoại chống cộng tích cực nhất.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, mèo mù vớ cá rán, chính quyền cộng sản Bắc Việt hí ha hí hửng chiếm đóng miền Nam. Như chuột sa chĩnh gạo, họ thu thập được cả chì lẫn chài vô số quân cụ, vũ khí, máy bay, xe tăng, tàu bè, súng ống, đạn dược, và mọi thứ quân nhu vật liệu Hoa Kỳ để lại. Ngoài ra họ thừa hưởng biết bao nhiêu tài sản của chính phủ VNCH và dân chúng miền Nam đã chạy thoát. Những người cộng sản từ Bắc vào Nam còn thất đảm kinh hồn khi thấy mức sống thịnh vượng của miền Nam, một trời một vực so với miền Bắc khác hẳn những gì họ nghe chính phủ Bắc Việt tuyên truyền. Thật là tréo cẳng ngỗng khi một nước nghèo túng đem quân tấn công một nước thịnh vượng đang yên ổn không hề gây hấn gì đến họ. Cộng sản Bắc Việt gọi đó là "giải phóng," nhưng từ điển khắp nơi định nghĩa hành động đó là "đánh cướp." Đoàn quân cướp nước mắt trắng môi thâm, lếch tha lếch thếch đi vào Sài gòn ngơ ngác như vạc đui trước sự văn minh tân tiến của hòn ngọc Viễn Đông. Các cán bộ cộng sản loé mắt trước những hàng hóa, đồ đạc tân kỳ trong miền Nam. Như mèo thấy mỡ, họ mặt dày mặt dạn, tham con giếc, tiếc con rô vơ vét tài sản, đồ đạc bỏ lại bởi những người đã thoát khỏi nước. Có những cảnh cười ra nước mắt khi các cán bộ Bắc Việt hì hà hì hục khệ nệ vác những đồ dùng thông thường ở miền Nam để mang ra Bắc coi như là quý giá lắm.
Dương dương tự đắc, kẻ chiến thắng tác oai tác quái, giở trò được làm vua thua làm giặc. Nhưng kẻ thua đã đầu hàng, mà vua đâu không thấy, chỉ thấy một lũ mặt người lòng thú, hành quyết hơn 65.000 người. Sau đó, họ kêu gọi binh lính sĩ quan và viên chức thuộc chính thể VNCH ra trình diện, hứa hẹn là chỉ đi học tập trong bốn năm tuần. Hàng trăm ngàn người thuộc chính thể VNCH tin vào lời hứa hẹn đó, quên câu “nói láo như vẹm,” và hoan hỉ ra trình diện vì nghĩ rằng không lẽ kẻ chiến thắng lại đi nói láo với người đã đầu hàng. Họ không ngờ những người cộng sản là những người có lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, ăn nói tráo trở, đi dối cha, về nhà dối chú. Ba mươi ngày học tập hứa hẹn biến thành vào trại cải tạo ba năm, mười năm, và với các sĩ quan cao cấp, còn lên tới mười bảy, mười tám năm. Họ bị tống đến những nơi đèo heo hút gió, rừng sâu núi thẳm, hoặc những vùng lam sơn chướng khí, ma thiêng nước độc. Không những thế, những tù nhân sa cơ lỡ vận còn bị đối xử một cách cạn tàu ráo máng, làm lụng cực khổ, thiếu ăn thiếu ngủ, thiếu thuốc men và săn sóc y tế, bị khủng bố tinh thần và vật chất. Hàng chục ngàn người tan xương nát thịt trong các trại tù vì bệnh hoạn, đói khát, bị đánh đập dã man, và hành quyết. Chính quyền cộng sản còn hà hiếp, làm tình làm tội gia đình những người đi học tập. Họ bới lông tìm vết, ngăn cấm vợ con họ hàng những người này tiến thân trong xã hội. Biết bao gia đình bị tan hoang vì sẩy đàn tai nghé. Không những đối xử tàn nhẫn với những người thuộc chế độ cũ, đám lãnh đạo Bắc Việt còn vắt chanh bỏ vỏ, ngược đãi những người trong chính phủ lâm thời của mặt trận giải phóng miền Nam. Họ thuộc loài vong ơn bội nghĩa, đánh trống bỏ dùi, xong chay quẳng thầy xuống ao, không đếm xỉa gì đến những người đã giúp họ chinh phục miền Nam, cho dù chuyện giúp đỡ đó là để thực hiện một mục tiêu bất nhân bất nghĩa.
Năm 1976, ĐLĐVN được đổi tên thành Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Sau suốt 46 năm trời che đậy, ĐCSVN sau cùng chính thức xuất đầu lộ diện. Đất nước Việt Nam tuy không còn cảnh binh đao khói lửa nhưng bị thảm họa tàn khốc gấp ngàn lần: thảm họa quỷ đỏ khiến người dân chết lần chết mòn, sống đọa thác đầy năm này qua năm khác. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, trong cơn điên cuồng thác loạn, như điên như dại, lũ cộng sản Việt Nam đổi tên Sài gòn bằng một tên ô nhục. Buồn thay, Sài gòn, hòn ngọc Viễn Đông ngày nào, như một thiếu nữ đoan trang thùy mị, má đào mày liễu với nhan sắc chim sa cá lặn, nét đẹp sắc nước hương trời, dáng dấp hoa nhường nguyệt thẹn, nụ cười khuynh quốc khuynh thành bị lũ quỷ đỏ xo vai rụt cổ, mặt bủng da chì nhẫn tâm giập liễu vùi hoa, trở thành hoa tàn nhị rữa, ủ liễu phai đào.
Chính quyền cộng sản quay sang ức hiếp dân miền Nam kể cả người Việt gốc Hoa bằng đủ mọi thủ đoạn ác độc như tịch thu tài sản, hàng hóa, giới hạn tiền lưu trữ trong ngân hàng. Họ đốt sách chôn nho, coi thường khinh rẻ những người trí thức thuộc chế độ cũ. Họ đem con bỏ chợ, tống khứ dân từ các vùng đồng bằng, thành phố đến các vùng nông thôn đồng không mông quạnh, đồi núi, biên giới xa xôi khỉ ho cò gáy mà họ gọi là vùng kinh tế mới. Người miền Nam vốn có tính dễ chịu và thái độ vô tư. Họ ưa chuộng tự do và ghét giả dối. Nhưng ghét của nào trời trao của ấy. Trong suốt mấy năm sau năm 1975, chính quyền cộng sản làm mưa làm gió. Đám cán bộ cao cấp ngông nghêng tự mãn ăn tục nói phét. Đám cán bộ con thì theo đóm ăn tàn, bắt tội bắt vạ hà hiếp dân lành. Từ trên xuống dưới, người cộng sản ỷ thế hiếp cô, quen thói ăn ngược nói xuôi, nhũng nhiễu dân lành. Biết là dân miền Nam ưa chuộng tự do, nhưng chính quyền cộng sản vẫn đàn áp, mong là trước lạ sau quen. Nhưng chẳng ai có thể quen nổi chế độ cộng sản. Sự đối xử tàn nhẫn của chính quyền cộng sản với chính dân họ tạo sự căm phẫn trong dân gian. Người dân miền Nam bấy giờ nằm trong chăn mới biết chăn có rệp. Ai cũng bầm gan tím ruột, nhưng chỉ biết ngậm cay nuốt đắng.
Nhưng rồi, chịu không nổi cảnh chim lồng cá chậu, nhiều người tìm cách vượt biên, đứt gan đứt ruột quệt nước mắt bỏ nơi chôn nhau cắt rốn để đi tìm tự do. Hơn một triệu người rời quê cha đất tổ bằng đường biển và đất liền. Khoảng tám trăm ngàn thuyền nhân cuối cùng định cư tại những nơi đất lành chim đậu trên các quốc gia tự do. Khoảng năm trăm ngàn người vùi thây chết tức tưởi trong biển cả vì hải tặc, hết lương thực, và phong ba bão táp. Cuộc di dân vĩ đại trong thời bình này thật là vô tiền khoáng hậu. Nhưng cái đáng nói hơn là lòng can đảm vô bờ của những thuyền nhân nam phụ lão ấu đã quyết định dấn thân ra đi một đi không trở lại trong nguy hiểm ngặt nghèo thập tử nhất sinh với cái chết trong đường tơ kẽ tóc. Dù sống hay chết trên đường đi, họ là những chiến sĩ cho tự do biểu hiện tinh thần bất khuất của nòi giống Lạc Hồng.
Chính quyền cộng sản say sưa điên cuồng trong chiến thắng, như ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung, tưởng mình đã thành ba đầu sáu tay, nên họ nhơn nhơn tự đắc. Bấy giờ họ không cần đến quan thầy Tàu cộng của họ nữa, nghĩ rằng họ là những người bách chiến bách thắng, và chỉ muốn xưng hùng xưng bá, dùng lực lượng quân sự sẵn có và chiến lợi phẩm thu thập của miền Nam để gây thù chuốc oán với các nước láng giềng. Lòng tham không đáy, họ thừa thắng xông lên, đem quân xâm lấn Kampuchea, một lâu la của Tàu cộng bấy giờ. Tàu cộng đã tức tối vì Việt Nam đối xử tàn nhẫn với người Việt gốc Hoa. Sự chiếm đóng Kampuchea như chế dầu vào lửa. Tàu cộng thù Việt Nam là kẻ ăn cháo đái bát, đã không đội ơn họ qua sự giúp đỡ thời chiến tranh với Pháp và suốt hai chục năm chiến tranh với miền Nam và Hoa Kỳ, mà lại còn ngông cuồng khiêu khích họ, lộ rõ bản chất qua cầu rút ván. Lúc trước khi cần giúp đỡ quân sự và kinh tế thì làm nũng làm nịu, vòi vĩnh đủ điều. Bây giờ thì thay thầy đổi chủ, ỷ có Liên Xô hỗ trợ nên thay lòng đổi dạ. Thế là Tàu cộng quyết định dạy Việt Nam một bài học. Đầu năm 1979, chiến tranh giữa Việt Nam và Tàu cộng bùng lên ngắn ngủi. Kẻ tám lạng người nửa cân, hai bên quần thảo đánh nhau trong một tháng, thật là kỳ phùng địch thủ. Kết quả cuộc chiến bất phân thắng bại nhưng tạo tổn thất nặng nề cho cả hai bên. Như hai đứa bé, hai bên rối rít tít mù cả lên, rốt cục chẳng đi đến đâu cả. Chỉ tội cho hàng ngàn dân Việt vì tai bay vạ gió mà chết hoặc mang thương tích thảm thương ở các tỉnh gần biên giới trong cuộc đánh nhau.
Việc chiếm đóng Kampuchea chẳng có lợi lộc gì cho Việt Nam, lại còn tiền mất tật mang. Trong đầu thập niên 1980, Việt Nam kiệt quệ vì không còn nhận được viện trợ từ Tàu cộng, lại còn suy xụp thêm vì quốc tế lên án Việt Nam về vụ Kampuchea, khiến cho mậu dịch như bị bế quan tỏa cảng. Thêm vào đó, chế độ kinh tế cộng sản nhắm vào kiểm soát trung ương, cấm cản tự do buôn bán nên thương mại dậm chân tại chỗ. Nhận thấy tình trạng ngày càng nguy ngập lửa cháy ngang mày, chính quyền Việt Nam bắt đầu chương trình Đổi Mới vào năm 1986, đổi sang kinh tế thị trường, giảm thiểu kiểm soát của nhà nước và rút quân cuốn gói ra đi rời khỏi Kampuchea. Nhờ vậy nền kinh tế dần dần hồi phục, lạm phát bớt dần. Nhưng rồi chỉ được một thời gian, khi thấy có chút tiến triển, đảng cộng sản Việt Nam lại ngựa quen đường cũ, tiếp tục thói bóc lột hà hiếp dân. Chương trình Nói Và Làm (NVL) của Nguyễn Văn Linh biến thành Nói Và Lờ, đâu cũng vào đấy.
Để gây uy tín với cộng đồng quốc tế, chính phủ CHXHCNVN muốn vinh danh Hồ trên lãnh vực quốc tế. Họ vẽ vời chuyện không cần thiết và đánh một lá bài nguy hiểm vì nếu không thành công thì sẽ là mối nhục nhã cho đất nước. Nhưng họ vẫn như điếc không sợ súng, lao đầu vào, cố gắng xin xỏ UNESCO có lời tôn vinh Hồ. UNESCO chỉ ghi chú và xét rằng Hồ là người vĩ đại trong nền văn hóa Việt Nam theo lời yêu cầu của chính phủ CHXHCNVN, chứ không có thừa nhận, và cũng không coi Hồ có tầm vóc quốc tế. Bằng cớ cho thấy UNESCO phân biệt "ghi chú/xét rằng" khác với "thừa nhận," và "quốc gia" khác với "thế giới/ quốc tế" là trong cùng một phân đoạn nói về Hồ, UNESCO "thừa nhận" ông Phya Anuman Rajadhon, một học giả Thái Lan, là một học giả vĩ đại với những đóng góp cho "thế giới" văn học. Phân đoạn này cho thấy UNESCO coi Hồ thua xa ông Rajadhon. Đó là không kể Hồ là một lãnh tụ nước trong khi ông Rajadhon chỉ là một dân quèn. Thay vì coi đó là một mối nhục dân tộc, chính phủ CHXHCNVN lại mồm loa mép giải, huênh hoang Hồ là "người văn hóa nổi tiếng thế giới." Không hiểu chính phủ Việt Nam toàn là những người dốt như bò, đọc những hàng chữ "ghi chú" và "xem xét" mà như vịt nghe sấm, không hiểu gì cả và không phân biệt được những chỉ định quốc tế; hoặc họ là những người chứng nào tật nấy, dùng vải thưa che mắt thánh để lừa lọc dân gian; hoặc họ biết nhưng lỡ phóng lao phải theo lao không thể thoát ra khỏi kết cục xấu hổ và thay vì đó lại chọn giấu giếm nó bằng dối trá trắng trợn. Chỉ tội nghiệp cho hàng triệu người Việt sống tại Việt Nam, nhất là giới trẻ, tưởng rằng Hồ được UNESCO vinh danh là danh nhân văn hóa thế giới.
Đã thế, đảng cộng sản Việt Nam còn thánh thiện hóa Hồ, ca công tụng đức, coi lời lẽ hắn như khuôn vàng thước ngọc, dệt gấm thêu hoa những thành tích tác nhân cộng sản như lả những hoạt động cách mạng. Họ muốn chứng minh rằng câu nhân vô thập toàn là sai lầm với Hồ Chí Minh và dân Việt phải hãnh diện là có một nhà lãnh tụ văn hay chữ tốt và đức rộng tài cao và phải tôn thờ hắn như thánh thần. Nhưng cái hãnh diện đó chỉ là một danh dự hão huyền với một giá đổi lại quá đắt: cả thế giới cười chê dân Việt là ngu xuẩn, tôn thờ sùng bái một lãnh tụ dốt nát, hiểm ác và vô đạo đức. ĐCSVN lại còn không để Hồ mồ yên mả đẹp, làm ngược lại di chúc hắn muốn được hỏa thiêu mà đem ướp xác hắn, để trưng bày triển lãm trong lăng khổng lồ. Hàng ngày, những người bị lừa bịp, trong nước và nước ngoài, lũ lượt đứng xếp hàng ở lăng Hồ để được chiêm ngưỡng dung nhan hắn, với xác chết cứng đơ như khúc gỗ nằm trong lồng kính trong một bầu không khí tiêu điều ảm đạm. Không khác gì hàng triệu người đã xem xác Stalin.
Một chuyện kỳ lạ xảy ra là Stalin, kẻ sát nhân hàng triệu người lúc còn sống, vẫn còn có tà khí để ráng giết thêm hàng trăm người cho dù đã chết. Cũng chỉ vì muốn nhìn xác Stalin lúc hắn mới chết, 500 người phải chế̉t vì giày xéo nhau trong lúc hối hả chạy loạn xà ngầu. Cũng may cho dân Nga là xác Stalin đã bị dời ra khỏi lăng sau này và chôn tại một nơi hẻo lánh, nếu không thì nước Nga đã bị rơi vào cảnh lầm than đói rách. Một điều quái lạ là dân Việt Nam nổi tiếng mê tín dị đoan mà lại không nghĩ ra là khi Hồ chết mà không được hỏa thiêu như ý muốn thì hắn sẽ biến thành hồn ma vất vưởng, triệu tập âm binh thiên tướng nhũng nhiễu dân lành như rắn chết vẫn còn nọc, và do đó dân Việt vẫn tiếp tục sống trong cảnh A Tì địa ngục, dầu sôi lửa bỏng, nơi mà lũ âm binh cộng sản hoành hành. Một cách giúp dân là chấm dứt ca ngợi hắn, mang xác hắn ra khỏi lăng và thiêu đốt thành tro để dẹp cái âm dương quái khí đó, và để hắn siêu thoát đi gặp Marx và đồng chí Lenin của hắn.
Năm 1989, một loạt thay đổi chính trị xảy ra tại Đông Âu, dẫn đến sự xụp đổ của các chế độ cộng sản. Thế là Việt Nam hỏng chân hụt cẳng không còn chỗ dựa. Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) cuống cuồng quýnh quáng cố gắng kiếm cách dĩ hòa vi quý với Tàu cộng. Nhiều người lãnh tụ Đảng vẫn còn thầm thương trộm nhớ người bạn ngày nào nên chụp lấy cơ hội, ưỡn à ưỡn ẹo tiến tới nối lại tình xưa với Tàu cộng. Quả thật tình cũ không rủ cũng tới, Tàu cộng mừng húm, mở cờ trong bụng hoan hỉ chào đón phái đoàn Việt Nam trong cảnh bến cũ đò xưa. Năm 1990, tại Hội Nghị Thành đô, các lãnh tụ Việt Tàu thảo luận về vấn đề chính trị tại Campuchia và bình thường hóa mối liên hệ Việt Tàu. Tiếng đồn gần xa cho biết có những thỏa thuận về lãnh thổ bất lợi cho Việt Nam. Nhưng cho đến nay, chính phủ cộng sản Việt Nam vẫn chưa công bố hoàn toàn các thỏa thuận này. Năm 1991, Liên Xô bị giải tán. Cuối năm 1991, Việt Nam và Tàu cộng bình thường hóa liên hệ ngoại giao với nhau, không những biến thù thành bạn, gương vỡ lại lành mà còn khắng khít nhau hơn xưa. Cùng là những người đàn áp dân chủ, ĐCSVN và Đảng cộng sản Tàu quả thật là xứng đôi vừa lứa. Các lãnh đạo hai bên tán dương lẫn nhau, mẹ hát con khen hay. Các cuộc họp thảo luận bang giao sau đó rất là tâm đầu ý hợp. Năm 1994, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton bùi tai nghe lời các cố vấn kinh tế nên bãi bỏ hoàn toàn cấm vận. Sau đó, năm 1995, trong tinh thần tứ hải giai huynh đệ, Hoa Kỳ và Việt Nam tay bắt mặt mừng, thiết lập bang giao để hàn gắn lại vết thương chiến tranh sau 20 năm xa mặt cách lòng. Năm 1999, Tàu cộng và Việt Nam vẽ vời phương châm hoa hòe hoa sói cho mối liên hệ của hai nước là dựa vào 16 chữ vàng: Láng Giềng Hữu Nghị, Hợp Tác Toàn Diện, Ổn Định Lâu Dài, Hướng Tới Tương Lai, và 4 điều tốt: Láng giềng tốt, Bạn bè tốt, Đồng chí tốt, Cộng sự tốt.
© 2014 Cao-Đắc Tuấn.
Cao-Đắc Tuấn
danlambaovn.blogspot.com


Câu chuyện Việt Nam qua thành ngữ (Phần 2): Thế kỷ 21
Cao-Đắc Tuấn (Danlambao) - Vào đầu thế kỷ 21, nền kinh tế Việt Nam giảm bớt tiến triển sau chương trình Đổi Mới. Mặc dù có những nguồn tài nguyên phong phú và lực lượng làm việc năng động, nền kinh tế Việt Nam vẫn không được phát triển tương xứng. Cuộc sống đa số dân vẫn khó khăn, tệ trạng xã hội càng gia tăng. Nguyên nhân là khả năng yếu kém của ĐCSVN, tệ trạng tham nhũng, và sự kết hợp không tương xứng giữa kinh tế thị trường và chế độ độc tài. Chính phủ cộng sản Việt Nam còn hèn với giặc ác với dân, tiếp tục đàn áp dân, đặt ra những luật lệ mơ hồ để giam giữ những người bất đồng chính kiến. Người Việt Hải Ngoại (NVHN) tích cực góp tay với người dân trong nước trong việc đem lại thể chế tự do dân chủ cho Việt Nam.
*
Năm 2000, Tàu cộng và Việt Nam chính thức tuyên bố bà con xa thua láng giềng gần với 16 chữ vàng và 4 điều tốt là phương châm chỉ đạo cho mối quan hệ hai quốc gia. Đây là khởi đầu cho một tiến trình ĐCSVN đưa Việt Nam vào cảnh lệ thuộc Tàu cộng về đủ mọi phương diện, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội.
Năm 2007, Việt Nam được gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới. Chương trình Đổi Mới kích động kinh tế và Việt Nam trải qua một tiến triển lớn lao trong những thập niên sau đó. Tuy nhiên, nền kinh tế dần dà chạy hết xí quách trong thập niên đầu của thế kỷ thứ 21. Mặc dù có tiến triển về kinh tế, mức tiến triển vẫn còn chậm chạp so với khả năng của một quốc gia sống động. Năm 2014, Việt Nam vẫn là một nước nghèo. Với nền kinh tế tiến triển chậm như rùa bò, chính phủ Việt Nam vô kế khả thi, không biết tính toán ra làm sao. Họ thừa biết là chế độ cộng sản trước sau gì cũng tiêu tan, nhưng bỏ thì thương vương thì tội, tạm thời thì cứ tiếp tục bắt cá hai tay. Nhưng vì râu ông nọ cắm cằm bà kia, nên toàn bộ hệ thống đâm ra dở dở ương ương, đầu gà đít vịt chẳng ra cái quái gì cả. Chính trị thì theo chủ nghĩa cộng sản Marx - Lenin độc đảng, kinh tế thì theo biến dạng của chủ nghĩa tư bản, nửa người nửa ngợm nửa đười ươi. Một hệ thống như vậy thì không thể tồn tại được. Đó là vì để cho tư bản phát triển, phải có tự do buôn bán, tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do đi lại, tự do tôn giáo. Nhưng tự do ngôn luận và độc đảng là hai kẻ thù không đội trời chung. Vì tự do ngôn luận cho phép dân phát biểu ý kiến, chỉ trích chính quyền, mà độc đảng thì làm sao chịu bị chỉ trích?
Dân Việt Nam không phải là dân ngu dốt. Trái lại nữa là khác. Họ rất thông minh, cần cù, và có tinh thần bất khuất. Tướng Hoa Kỳ Westmoreland đã từng nói dân Việt Nam là thông minh tài giỏi nhất Á châu. Lý Quang Diệu, cựu Thủ tướng Singapore, ca ngợi dân Việt Nam là một trong những dân tộc có khả năng và đầy năng lực nhất ở Đông Nam Á. Nhưng dưới sự thống trị vô lương tâm của chính phủ, người dân thấp cổ bé miệng chỉ biết bấm bụng bấm gan, chấp nhận cuộc đời đen như mõm chó. Người thì khoanh tay bó gối, người thì ngậm bồ hòn làm ngọt, người thì bưng tai bít mắt trước những cảnh chướng tai gai mắt. Có người vì nhiều hoàn cảnh bó buộc, phải cố đấm ăn xôi, miễn cưỡng hợp tác với chính quyền. Nhiều người cũng đã cố gắng trình bày điều hơn lẽ thiệt với chính phủ. Nhưng những lời lẽ của giới trí thức như đàn gẩy tai trâu vì đa số thành viên chính phủ không đủ trình độ hiểu được những lời ngay lẽ phải. Với những người hiểu được thì những lời đó cũng như nước đổ đầu vịt vì họ chẳng thèm màng. Chung quy thì chính phủ giả câm giả điếc, nhiều khi lại còn vu oan giá họa những người có ý kiến xây dựng hoặc chỉ trích chính quyền là phản động và muốn lật đổ chính quyền. Lẽ dĩ nhiên cũng có những kẻ ủng hộ cộng sản, dù là bên trong hay bên ngoài, nhất là đảng viên cộng sản và những kẻ có lợi trong chế độ cộng sản như nhân viên chính quyền, công an, an ninh, cảnh sát, bồi bút, giới trí thức dỏm, v.v.
Vấn đề với ĐCSVN và công cụ của nó, chính phủ CHXHCNVN, là các lãnh tụ đảng hoặc chính quyền chẳng hiểu mô tê gì về ý nghĩa của dân chủ. Bề ngoài họ tuyên bố là tôn trọng dân chủ, nhưng trong thâm tâm, họ tin rằng dân chủ và chủ nghĩa cộng sản là bất cộng đái thiên. Trong thể chế dân chủ đa nguyên thực thụ, chủ nghĩa cộng sản vẫn có thể hiện hữu. ĐCSVN hiểu rõ chuyện này nhưng biết là nếu dân có sự lựa chọn thì chẳng ai chọn đảng cộng sản. Vì vậy họ phải dùng đến chính sách độc tài để sinh tồn. Tệ hơn nữa, ĐCSVN, hoặc chính phủ CHXHCNVN, lạm dụng quyền lực ép buộc quân đội, cảnh sát, và công an chỉ phục vụ họ, và thậm chí dùng các lực lượng này để đàn áp dân. Vì ĐCSVN chỉ có bốn triệu đảng viên trong khi toàn thể dân số là 90 triệu, chuyện ĐCSVN xưng là đại diện dân là một chuyện hoang tưởng.
Người Việt hải ngoại tuy ghét cay ghét đắng chế độ cộng sản và phải làm việc kéo cày trả nợ nhưng vẫn gửi tiền về giúp đỡ gia đình họ hàng, hoặc để giúp đỡ những người xấu xố, nghèo nàn tàn tật, hoặc nạn nhân của hạn hán thiên tai trong tinh thần một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ và lá lành đùm lá rách. Tiền kiều hối gửi về gãi đúng chỗ ngứa của chính phủ Việt Nam. Họ mừng rỡ ra nghị quyết 36, dỗ ngon dỗ ngọt kêu gọi người Việt hải ngoại trở về Việt Nam dưới danh nghĩa đoàn kết quốc gia. Nhưng nhiều người Việt hải ngoại đi guốc trong bụng người cộng sản, biết lời kêu gọi đó là mật ngọt chết ruồi nên không thèm về. Tuy nhiên, tổng số kiều hối cũng rất cao, lên đến 9 tỉ đô la trong năm 2011, 10 tỉ đô la trong năm 2012, và 11 tỉ đô la trong năm 2013, khoảng 8% tổng số thu nhập quốc nội. Số tiền này thực ra không phản ảnh đúng số tiền NVHN chống cộng gửi về Việt Nam. Sổ sách tài chánh thường không phân minh, ít khi nào mà ra môn ra khoai, nhất là có rất nhiều vụ chuyển tiền không khai báo, từ Việt Nam ra ngoại quốc và ngược lại. Dầu gì thì tiền NVHN gửi về cũng rất nhiều.
Với tiền đầu tư từ nhiều công ty quốc tế, tiền kiều hối sung túc, tài nguyên thiên nhiên dồi dào, và khối lao động trẻ trung nhiệt tình, Việt Nam lẽ ra phải là một quốc gia giàu có. Nhưng không hiểu sao dân Việt Nam vẫn cực khổ, sống trong tình trạng gạo châu củi quế mà tiền lương cố định, ba cọc ba đồng. Nhiều người không có được việc làm trong nước phải tìm cách tha phương lập nghiệp tại các xứ ngoài. Công nhân nam nữ được gửi làm việc tại Nhật, Nam Hàn, Đài Loan, Mã Lai Á, và các nước khác ở Âu châu và Trung Đông. Bằng cách xuất cảng lao động, Việt Nam thu nhập được thêm tiền kiều hối do các công nhân gửi về cho gia đình. Tổng quát, công nhân làm việc xứ ngoài lấy bát mồ hôi đổi bát cơm, dãi nắng dầm sương nơi xứ lạ quê người. Đa số sống chân chỉ hạt bột, hà tằn hà tiện, chắt chiu từng đồng dành dụm tiền để gửi về gia đình. Ngoài những công nhân lao động, một số lớn thiếu nữ kiếm tiền bằng cách nhận lập gia đình với đàn ông từ Đài Loan, Nam Hàn. Nhiều người bị đối xử tàn tệ, mang tiếng là vợ nhưng bị coi như người giúp việc trong nhà. Nhiều cô gái đau lòng xót dạ, héo ruột héo gan phải xa gia đình vì miếng cơm manh áo đành đánh liều đưa chân làm nô lệ cho thiên hạ, như là một hình thức buôn hương bán phấn để sinh sống qua ngày. Không kém thảm thương, người dân trong nước cày sâu cuốc bẫm làm việc cực khổ nhưng vẫn nghèo rớt mồng tơi. Cả ngày chạy ngược chạy xuôi mà vẫn xấc bấc xang bang, bữa đói bữa no. Dân cố thắt lưng buộc bụng, hàng ngày chỉ biết thở vắn than dài, hy vọng ngày mai trời lại sáng. Chỉ có những tay con ông cháu cha hoặc các cán bộ cao cấp ăn tiền hối lộ mới có tiền rừng bạc bể, sống trong nhà cao cửa rộng, lên xe xuống ngựa, bát ngọc đũa ngà, cao lương mĩ vị, rủng rỉnh đô la, ném tiền qua cửa sổ. Trong khi những cán bộ cao cấp hoặc các đại gia thì giàu nứt vách đổ tường, biết bao nhiêu người dân tay làm hàm nhai, vất vả bán cốt lột xương. Một xã hội bắt kiến nuôi voi như vậy thì không thể tồn tại được.
Có nhiều lý do giải thích cho chuyện này. Thứ nhất là tệ trạng tham nhũng. Tham nhũng đã có gốc rễ từ xưa. Ở mức độ nhỏ, tham nhũng được ngụy trang dưới hình thức quà cáp biếu xén biểu hiện cho sự biết ơn hay kính trọng, có qua có lại. Nhưng càng lên cao, tham nhũng trở thành trắng trợn. Viên chức chính quyền thì quen ăn bén mùi, chức càng cao, hối lộ càng nhiều và tham nhũng càng được che chở cẩn thận. Các cán bộ cao cấp và ngay cả giới lãnh đạo ĐCSVN có của chìm của nổi đầy rẫy khắp nơi. Những hoạt động tham nhũng là một hệ thống phức tạp dây mơ rễ má, dính líu ̣mọi cấp. Do đó thanh trừng tham nhũng rất khó vì rút dây động rừng. Tình trạng thượng bất chính, hạ tắc loạn có ảnh hưởng thật sâu xa và rộng lớn, hút hết tiền bạc của dân mọi giới. Thứ nhì là sự đối nghịch giữa tổ chức chính trị và cơ cấu kinh tế. Chính trị cộng sản và kinh tế tư bản là đầu Ngô mình Sở, sẽ chỉ tạo ra quái thai mà không làm ra trò trống gì. Đó là vì chính trị cộng sản chủ trương kềm kẹp và bạo lực, trong khi kinh tế tư bản nuôi dưỡng tự do và cơ hội. Kết hợp cả hai chỉ có thể dẫn đến một hệ thống như một kẻ say chân nam đá chân xiêu; trước sau gì thì cũng té nhào chổng bốn vó lên trời.
Một thí dụ điển hình cho những tệ trạng đưa đến sự bế tắc kinh tế Việt Nam là vụ Vinashin. Vinashin được thành lập là một tập đoàn kinh doanh, chuyên về đóng tàu năm 2006, với mục tiêu vĩ đại là sẽ trở thành công ty đóng tàu lớn thứ tư trên thế giới vào năm 2018. Nhưng té ra Vinashin chỉ là thùng rỗng kêu to, có nhiều dự án kếch xù nhưng tất cả chỉ là đầu voi đuôi chuột. Mặc dù có nhà nước bảo trợ tài chánh, chỉ sau vài năm hoạt động, Vinashin đã nợ như chúa chổm, mắc nợ lên tới 4.4 tỉ đô la vào giữa năm 2010, nằm bên bờ vực phá sản. Biết bao nhiêu tiền đầu tư, vay mượn với lãi xuất rẻ, lên đến hàng tỉ đô la, đã không cánh mà bay. Trong một quốc gia có Tổng sản phẩm quốc nội khoảng một trăm tỉ đô la vào năm 2010, sự phá hủy 4 tỉ đô la trong vài năm quả là một thành tích siêu quần bạt tụy. Chỉ có những người có phép thần thông biến hóa mới làm được. Các phân tách về sự thất bại cho biết nguyên nhân gồm có quản lý sai lầm, không tự lượng sức mình, và khủng hoảng tài chánh quốc tế. Quản lý sai lầm thực ra chỉ là ngụy trang cho tham nhũng dưới hình thức vi phạm các nguyên tắc căn bản của luân lý kinh doanh. Vì thế dẫn đến chuyện vô trách nhiệm. Tập đoàn có hàng trăm công ty con, nhưng mạnh ai nấy làm, mỗi khi thiếu thốn thì giựt gấu vá vai hoặc mượn đầu heo nấu cháo. Sổ sách thì xập xí xập ngầu, khai gian lận, tính toán không rành mạch. Người kiểm tra sổ sách thì như cưỡi ngựa xem hoa, chỉ coi qua loa cho xong chuyện. Đến khi đổ vỡ thì không ai chịu trách nhiệm. Không tự lượng sức mình là kết quả của sự bất tương đồng giữa xã hội cộng sản chủ nghĩa và tư hữu. Vì không nhìn thấy được những nguyên lý kinh doanh tư bản, nên các quản lý thiếu trình độ phán xét sai lầm và đưa đến cảnh dắt trâu chui qua ống hoặc mèo con mà đòi bắt chuột cống. Ông Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị, người đứng mũi chịu sào, sau cùng thì giơ đầu chịu báng, bị toà án sơ thẩm kết án 20 năm tù. Vụ Vinashin cho thấy ĐCSVN không biết tự lượng sức mình và những nỗ lực của chính phủ Việt Nam mà không nhắm vào những nguyên do gốc rễ cũng sẽ chỉ như dã tràng xe cát.
Thực ra vụ Vinashin chỉ là một đỉnh đầu một tảng băng khổng lồ của sự suy xụp sắp đến trong nền kinh tế Việt Nam. Với tiền vô như nước, doanh nghiệp nhà nước hiện tại đóng góp khoảng 40% tổng số thu nhập quốc nội, nhưng tiền ra như sông đổ biển vì bán thua mua lỗ nên dẫn đến khủng hoảng trầm trọng trên lãnh vực tài chánh. Các ngân hàng có tỷ lệ vay mượn xấu cao hơn mức an toàn, tạo nên hiểm họa vỡ nợ. Các kế hoạch đầu tư thì vĩ đại với những dự án khổng lồ, làm những chuyện bắt cóc bỏ dĩa, chẳng có hy vọng thành công, hoặc làm những chuyện dại dột ngu xuẩn, bắt ngựa đàng đuôi. Vì trèo cao té đau, càng ăn to nói lớn bao nhiêu thì lúc xụp đổ cũng sẽ to tát tương xứng. Nền kinh tế Việt Nam có tiếng mà không có miếng. Mấy thập kỷ trước ai cũng tưởng Việt Nam là con cọp rời chuồng. Chính phủ CHXHCNVN hô hào thế giới đầu tư. Các công ty ngoại quốc ào ào nhảy vào vòng chiến, xây cất trung tâm nghiên cứu, nhà máy, xưởng chế tạo. Nhưng sau hai thập kỷ chẳng có phát triển gì kinh khủng cả. Công ty xí nghiệp phần lớn chỉ gồm có những nhà máy lắp ráp đầy những thợ lắp ráp. Ngày 5 tháng 10, 2014, Bộ trưởng bộ công thương Vũ Huy Hoàng huênh hoang rằng nền công nghiệp Việt Nam ‘đã sản xuất được ốc vít’ cho tổ hợp Samsung trong khi tổng giám đốc tổ hợp Samsung cho biết doanh nghiệp Việt Nam 'chỉ cung ứng được sản phẩm in ấn, bao bì.' Nhiều dự án xây cất nhà cửa bị bỏ dở nửa chừng vì những người đầu tư hết tiền, không vay được tiền, hoặc gặp khó khăn với luật lệ bất động sản. Nhiều cao ốc thương mại thì vắng như chùa bà Đanh. Con cọp tráng lệ hào nhoáng ngày nào bây giờ tiu nghỉu như mèo cúp tai, chui trở lại chuồng giấu mặt. Chính phủ CHXHCNVN tiếp tục lừa dối dân với những lời hứa hẹn rỗng tuếch, nhưng sự mất tin tưởng vào chính quyền tiếp tục gia tăng. Nền kinh tế Việt Nam chẳng bao lâu sẽ tan vỡ, lao xuống vực thẳm.
Những người cộng sản Việt Nam hay suy bụng ta ra bụng người. Họ là những người ăn không nói có, lại hay đâm bị thóc, thọc bị gạo. Trước đó họ đã cướp chính quyền và xâm lăng miền Nam Việt Nam bằng những chiêu giơ tay mặt giật tay trái, nên họ tưởng ai cũng vậy. Do đó mỗi khi dân chúng biểu tình là họ có tật giật mình, nghĩ rằng dân đang muốn lật đổ chính quyền. Để chống lại, tay cầm khoán, tay bẻ măng, họ cứ dùng luật lệ mơ hồ về an ninh nhà nước, cả vú lấp miệng em để đàn áp dân. Quên đi ý nghĩa tự do ngôn luận, họ bóp cổ bóp họng những người phản đối chính quyền. Mỗi khi dân đòi hỏi điều tra, họ lại hay ̣đùn đẩy trách nhiệm bắn binh sang hộ, viện lẽ này cớ nọ để kiếm kế hoãn binh. Chuyện gì cũng kéo dài, chờ đến hồi sau phân giải. Nhưng họ đâu biết là càng kéo dài, càng đàn áp, càng làm dân bất mãn, càng làm tích tụ sự căm phẫn, rồi cho đến mức nào đó thì bùng nổ, dân sẽ nổi dậy. Lúc đó thì quá trễ, chẳng còn hồi sau đâu để mà phân giải.
Họ đặt ra cả một rừng luật nhưng tiếc thay đa số đều là luật rừng. Chính phủ CHXHCNVN càng làm ra nhiều luật lệ, họ càng làm dân thù ghét họ. Với điều 79, 88, và 258 của bộ luật hình sự là bùa hộ mệnh, chính phủ CHXHCNVN kết tội những người bất đồng chính kiến, vơ đũa cả nắm bất cứ ai chỉ trích chính phủ là có ý định lật đổ chính phủ. Ngoài ra, tin là bị nội công ngoại kích, chính phủ đa nghi như Tào Tháo của CHXHCNVN vu khống những người Việt hải ngoại chống cộng là thọc gậy bánh xe. Chính phủ cộng sản lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử, tuyên truyền là những người chống cộng hải ngoại vẫn còn ấm a ấm ức hậm hà hậm hực chuyện thua trận ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhưng đó không phải là thua trận. Người Việt Nam không bao giờ thua người Việt Nam, cho dù là Bắc hay Nam. Mạ lỵ người Việt hải ngoại vẫn còn cay cú như cà cuống chết đến đít vẫn còn cay vì thua cộng sản Bắc Việt là mạ lỵ Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, những vị tướng của phe Nguyễn và Tây Sơn bị thua trận và chết trong cuộc nội chiến vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Chỉ vì nhà cầm quyền cộng sản miền Bắc dùng xe tăng đại bác Nga Tàu thừa cơ hội Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam để tấn công một cách hèn hạ nên một số người mới phải cắn răng nuốt hận bỏ nước ra đi. Đó là không kể số người rời bỏ Việt Nam trong những ngày cuối của cuộc chiến chỉ chiếm khoảng một phần ba mươi tổng số người Việt hải ngoại hiện tại. Ngoài ra, có quả thật là họ vẫn còn cay cú khi mà lớp người tị nạn thuộc chế độ VNCH cũ đã già cốc đế, đầu bạc răng long, và con cháu họ chẳng còn biết gì về cuộc chiến nữa? Phải có một lý do gì khác mới khiến họ tiếp tục tranh đấu cho nền dân chủ ở Việt Nam chứ? Phải chăng đó là vì họ vẫn còn có lòng yêu nước? Ngoài ra, giả sử miền Nam thua trận vào năm 1975 nhưng chưa biết mèo nào cắn mỉu nào vì cuộc chiến chống cộng chưa chấm dứt. Do đó cho rằng người Việt hải ngoại thua trận thì quả là hơi sớm.
Trong chiến dịch tấn công những người chống cộng trong nước và hải ngoại, ĐCSVN và chính phủ CHXHCNVN vẽ chân rắn, giặm lông lương ra hình ảnh một đất nước thanh bình và nền kinh tế phát triển. Với nghị quyết 36, chính phủ CHXHCNVN kêu gọi kiều bào hải ngoại gác bỏ hận thù quá khứ để trở về xây dựng đất nước. Nhiều người trong nước tin vào lời lẽ này, và trách kiều bào là không chịu về nước để xem đất nước đã thay đổi như thế nào. Buồn thay, quả thực là đất nước đã thay đổi. Nhưng thay vì thay đổi để tiến hóa, đất nước thay đổi để đi thụt lùi, thua đơn kém kép các quốc gia lân cận. Câu hỏi đơn giản là tại sao sau gần bốn mươi năm sau chiến tranh, Việt Nam vẫn là một nước nghèo ao tù nước đọng mặc dù có tài nguyên phong phú, ̣đất thuần dân hậu, và nguồn lao động trẻ trung to tát.
Nhiều người dân sống ở Việt Nam còn trách người Việt hải ngoại chống cộng là vạch áo cho người xem lưng, chỉ biết khua môi múa mỏ chửi chính quyền Việt Nam hoặc bêu xấu Hồ Chí Minh, đã chẳng làm nên trò trống gì cả, mà còn khiến cho Việt Nam mất uy tín với thế giới. Nhưng đó là những lời kết tội thiếu suy nghĩ. Trước hết, sự kính phục hay khinh bỉ một dân tộc không có dính líu gì đến phẩm cách hoặc tài năng lãnh tụ của dân tộc đó. Một dân tộc có được sự kính phục của thế giới không phải vì họ có lãnh tụ là hiền nhân quân tử hay là người anh hùng cái thế, mà là vì dân tộc đó can đảm, đạo đức, cần cù, tài giỏi, yêu chuộng hòa bình.
Hồ, giả sử lừa bịp được thế giới, chỉ đáng xách dép cho Mahatma Gandhi hoặc ông Nelson Mandela về tài năng và đức độ, nhưng thế giới đâu có ngưỡng mộ dân tộc Ấn độ vì ông Gandhi hoặc dân Nam phi vì ông Mandela? Ngược lại, thế giới mù tịt về các lãnh tụ Nhật Bản nhưng hầu hết ai cũng phục sát đất dân tộc Nhật vì sự cần cù, chăm chỉ, lương thiện, và ý chí đoàn kết của họ đã đưa Nhật lên hàng siêu cường kinh tế. Thế giới quên đi chuyện Nhật Bản đã tạo ra những chuyện tang tóc cho biết bao nhiêu dân Á châu trong Thế chiến thứ hai. Một dân tộc cũng không bị thế giới khinh bỉ hay coi thường vì sự tàn ác hiểm độc của một lãnh tụ dân tộc đó. Hitler là một trong những lãnh tụ tàn ác khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại, đã biến Âu châu thành địa ngục trần gian trong Thế chiến thứ hai. Nhưng thế giới đâu có khinh bỉ hay coi thường dân tộc Đức, nếu không muốn nói là còn nể nang họ qua những đóng góp về văn học, khoa học kỹ thuật, và kinh tế của họ. Tuy nhiên, có một điểm rõ như ban ngày. Nếu một dân tộc tôn thờ một lãnh tụ hiểm ác vô đạo đức thì chắc chắn thế giới sẽ coi thường và khinh bỉ dân tộc đó.
Người Việt hải ngoại (NVHN) mang lại vinh quang cho dân tộc Việt Nam trên nhiều khía cạnh. Thế giới ngả mũ nghiêng mình trước lòng can đảm kiên trì của thuyền nhân vượt biển, bàng hoàng về sự tàn bạo của lũ hải tặc, bùi ngùi nhỏ lệ cho những cái chết bi hùng tráng lệ của những trẻ em ngây thơ, của cha mẹ nhịn ăn nhịn uống cho con, của vợ chồng che chở lẫn nhau trong cơn giông tố mịt mù.
NVHN đến định cư nước ngoài sinh cơ lập nghiệp với hai bàn tay trắng, tự lực cánh sinh. Họ làm việc cực khổ, thức khuya dậy sớm, gây dựng sự nghiệp với mồ hôi nước mắt. Sống nơi xứ người, lạ nước lạ cái, họ vẫn đoàn kết, chung lưng đấu cật, tạo dựng những cộng đồng trù phú. Biết bao nhiêu người thành công rực rỡ, công thành danh toại, có sự nghiệp trọng vọng, nắm giữ địa vị lớn lao trong xã hội, thiết lập công ty, hoặc khuếch trương đủ mọi cơ sở buôn bán thành công. Tuy vẫn có người còn thua kém, nhưng đa số NVHN có đời sống sung túc, có công ăn việc làm, tậu nhà tậu cửa, sinh con đẻ cái. Họ vẫn uống nước nhớ nguồn, không quên quê hương Việt Nam, dạy dỗ con cái theo truyền thống Việt Nam. Con cái họ ngoan ngoãn, kính trên nhường dưới, gọi dạ bảo vâng, cố gắng học hành, dùi mài kinh sử, tạo nên những huyền thoại làm biết bao nhiêu người kính phục. NVHN lúc nào cũng duy trì di sản tổ quốc, tổ chức hội hè đình đám, kỷ niệm những ngày lễ cổ truyền. Họ tổ chức văn nghệ, chương trình ca nhạc văn hóa đượm màu sắc dân tộc. Những thành quả tốt đẹp, sự bảo tồn văn hóa, sự đóng góp vào xã hội của người Việt hải ngoại đã khiến người nước ngoài cảm phục dân tộc Việt Nam. Lúc trước, có một thiểu số NVHN lạm dụng danh nghĩa chống cộng để lừa gạt cộng đồng cho lợi lộc tài chánh. Tuy nhiên, đó chỉ là một số rất nhỏ và bây giờ những kẻ lừa đảo đó không còn đất dụng võ nữa vì NVHN đã khôn ngoan và hiểu được những mánh khóe này. Nói chung, những kẻ lưu manh này không đủ mạnh để thành những con sâu làm rầu nồi canh. Ngoài ra, cũng có những NVHN hoặc vì khờ dại, hoặc vì ngây thơ, hoặc vì có máu trục lợi, nghe lời dụ dỗ chính quyền mà trở về Việt Nam hợp tác với chính quyền cộng sản. Sau này, một số đụng chạm thực tế, hiểu được mưu mô Việt cộng, hoặc bị lừa đảo nên tỉnh ngộ, trốn về nước.
NVHN vẫn có thể ăn sung mặc sướng cả đời, an cư lạc nghiệp trên xứ tự do. Tại sao họ lại bận tâm đến Việt Nam? Thế hệ NVHN thứ nhất chống cộng tích cực đã dần dần thu nhỏ lại. Đa số đã qua đời hoặc đã da mồi tóc bạc đang hay sắp hưu trí vui thú điền viên. Bây giờ chỉ còn thế hệ một rưỡi, không có kinh nghiệm trực tiếp với Việt Nam và kiến thức về Việt Nam thường là qua lời cha mẹ ông bà. Thế hệ thứ hai thì lại càng không màng chuyện gì xảy đến Việt Nam. Tuy thế, NVHN vẫn còn quan tâm đến Việt Nam. Ở Hoa Kỳ, cơ sở thông tin mọc lên như nấm. Nhiều đài truyền hình và phát thanh của người Việt có những chương trình tin tức và thảo luận chỉ về Việt Nam. Báo chí, tạp chí, tin trên mạng, blogs của người Việt đều có những tiết mục dành riêng về Việt Nam. Sự quan tâm đó chứng tỏ tình yêu thương thiết tha cho đồng hương. NVHN bận rộn sinh nhai, nếu không có tình yêu đồng hương máu chảy ruột mềm, họ đã không thèm đoái hoài gì đến đất nước, mặc kệ những gì xảy ra ở Việt Nam, sống chết mặc bay. Vì chính phủ cộng sản Việt Nam bưng bít sự thật, áp dụng chính sách ngu dân để dễ cai trị, người Việt, trong nước và hải ngoại, muốn vạch ra những trò ám muội đó. Do đó, chỉ trích hay vạch ra những cái xấu xa cùa chính quyền chế độ cộng sản không phải là chuyện gà nhà bôi mặt đá nhau, mà là cho dân chúng biết sự thật và để phục hồi danh dự dân tộc.
Tình trạng nhân quyền tại Việt Nam là một thảm họa. Chính phủ bắt bớ những người bất đồng chính kiến dựa vào luật lệ mơ hồ. Họ khóa mồm khóa miệng dân, cấm dân không được phát biểu ý kiến bày tỏ sự bất mãn hoặc chống đối chính sách chính quyền. Công an ngăn cản dân chúng tham gia biểu tình, phùng mang trợn mắt hò hét hung hăng, chửi thề tục tĩu, lại còn khoa tay múa chân hà hiếp dân lành. Có dịp thì đấm đá những người dân chân yếu tay mềm, đánh dân bầm môi tím mặt. Họ bẻ hành bẻ tỏi vặn vẹo đủ điều, bắt bớ giam cầm những người hoạt động nhân quyền một cách hèn nhát, lại còn sai thủ hạ đầu trâu mặt ngựa bám đuôi theo dõi, rình như mèo rình chuột, lén lút đánh đập, sách nhiễu những người này một cách đê tiện.
Với những thành quả vi phạm nhân quyền như vậy, thế mà Việt Nam cũng xoay sở để trở thành một thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Vào ngày 12 tháng 11, năm 2013, Việt Nam, cùng với Tàu cộng, Nga, Cuba, và Saudi Arabia, được bầu là thành viên của Hội đồng Nhân quyền có 47 ghế của Liên Hiệp Quốc cho nhiệm kỳ ba năm 2014-2016. Nhiều nhóm Nhân quyền độc lập chỉ trích nặng nề cuộc bầu, cho rằng các thành viên mới bầu này là trong số những quốc gia vi phạm nhân quyền tệ hại nhất trên chính công dân của họ. Chính phủ CHXHCNVN thích thú tiểu nhân đắc chí tiếu hi hi với cuộc trúng cử. Điểm cười lăn cười bò là chính phủ CHXHCNVN lại mang vạ vào thân khi xin gia nhập vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc vì bây giờ ai ở Việt Nam cũng biết đến nhân quyền. Hơn nữa, là một thành viên của Hội đồng Nhân quyền, Việt Nam phải hành động phù hợp với lời hứa trịnh trọng và cam kết tình nguyện của mình trong việc tôn trọng nhân quyền ở mức quốc gia và thế giới, và hợp tác với Hội đồng trong việc chia sẻ thông tin và thi hành những đề nghị được chấp thuận của nhóm công tác Duyệt xét Định kỳ Phổ quát.
Tuy nhiên, thay vì biết thân biết phận bây giờ là họ lẽ ra biết tôn trọng nhân quyền, ĐCSVN lại còn mặt trâng mày tráo đi ngược lại những lời cam kết của họ với thế giới. Vào ngày 10 tháng 12 năm 2013, các blogger tại Việt Nam chính thức ra mắt tổ chức họ, Mạng Lưới Blogger Việt Nam (MLBVN) tại Hà Nội với các cuộc họp tổ chức tại Hà Nội và Sài Gòn. Cùng ngày, bạo lực và tàn bạo bùng nổ tại Sài Gòn. Cảnh sát và công an bao vây nhà của blogger Nguyễn Hoàng Vi và tấn công cô và blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (hay còn gọi Mẹ Nấm) để ngăn cản họ tham dự cuộc họp với các blogger khác. Họ thậm chí còn dữ dội tấn công thượng cẳng tay, hạ cẳng chân đấm đá các blogger khác đến cứu các nạn nhân. Máu đổ vào ngày dân Việt Nam mừng ngày Nhân quyền tại Việt Nam. Chưa đầy một tháng sau khi trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, chính phủ CHXHCNVN đã chứng minh cho thế giới thái độ mục hạ vô nhân khinh thị tổ chức LHQ và coi thường nhân quyền của chính công dân họ. Hành động này là cái tát vào lời hứa trịnh trọng và cam kết tình nguyện của Việt Nam trong đơn xin gia nhập Hội đồng Nhân quyền LHQ.
Mặc cho thế giới nghĩ sao về Việt Nam, dân Việt biết rõ chính phủ họ. Họ đã chán ngấy với tuyên truyền và hư tin của chính phủ. Chính phủ CHXHCNVN có thể gạt và tung hỏa mù được thế giới, nhưng không thể gạt được dân. Phản đối chống chính phủ đã xảy ra biết bao nhiêu năm trời. Các nhà hoạt động dân chủ biểu hiện sự bất mãn của họ qua bỉểu tình, blogs chống chính quyền, thư ngỏ gởi cho lãnh đạo ĐCSVN, và các phương tiện truyền thông khác.
Trước những biểu tình phản đối và chỉ trích trên mạng, ĐCSVN và chính phủ CHXHCNVN cố gắng tìm cách trấn an dân chúng. Nhưng quanh đi quẩn lại cũng vẫn là những kết tội mơ hồ về những thế lực thù địch hoặc úp úp mở mở về những hoạt động chính quyền. Những viên chức chính quyền và các đại biểu quốc hội họp hành đã đời, đọc diễn văn tràng giang đại hải, trả lời báo chí dài dòng văn tự, nói vòng vo tam quốc, rốt cục rồi cũng khen lấy khen để đảng và chính phủ, và rêu rao những lời tuyên truyền chán như cơm nếp nát. Thỉnh thoảng chỉ trích nhau thì cũng như anh đui chê anh mù không có mắt. Chẳng có ai bênh vực cho người dân thực hành tự do ngôn luận qua biểu tình hoặc trên mạng. Những biểu tình, phản đối, chỉ trích trên mạng tuôn ra ào ào như thác lũ làm chính phủ CHXHCNVN tối tăm mặt mũi, nhìn quanh trông gà hoá quốc, tưởng ai cũng muốn lật đổ chính quyền, hoặc biết rõ là họ không muốn lật đổ chính quyền nhưng muốn đàn áp tiếng nói dân chủ nên bắt bớ cấm cản người dân.
Đối với ĐCSVN, truyền thông trên mạng là chuyện làm họ khó chịu bực bội vì nó là kỳ đà cản mũi cho cái gọi là tự do ngôn luận của họ. Những tố cáo tham nhũng và chia rẽ bè phái trong ĐCSVN đăng tải trên các trang mạng làm rúng động chính quyền cộng sản vì không có lửa làm sao có khói. Ngày 12 tháng 9 năm 2012, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ra công văn 7169 lên án những trang mạng "đăng tải thông tin vu khống, bịa đặt, xuyên tạc, không đúng sự thật nhằm bôi đen bộ máy lãnh đạo của đất nước." Chưa từng bao giờ tự cổ chí kim trên lịch sử thế giới lại có một lãnh tụ quốc gia sợ tiếng nói người dân đến độ hớt ha hớt hải ra công văn kêu đích danh những trang mạng như vậy. Hành động có một không hai đó cho thấy rõ nỗi lo sợ của ĐCSVN trước phong trào dân chủ tự do và như thế nào. Làm sao mả một lãnh tụ chính phủ cao cấp có thể ngu như lợn ra một công văn ăn ốc nói mò, kết tội thiên hạ không có căn cứ cơ sở nào cả?
Với công văn 7169, chính phủ CHXHCNVN còn lộ rõ bản chất khinh người của họ, coi thường dân Việt quá mức, cho rằng dân Việt ngu dốt không đủ trí tuệ ̣để phân biệt vàng thau lẫn lộn giữa tin giả và tin thật. Mà họ cũng lòi ra là dân đâu còn tin tưởng gì ở thông tin báo chí của chính quyền nữa. Ngoài ra, chính phủ CHXHCNVN quả thật là ngu hết chỗ nói khi họ ra công văn 7169. Nếu họ nói sai, thì chính họ mới là người đăng tải thông tin vu khống, bịa đặt, xuyên tạc. Nếu họ nói đúng thì điểm khôi hài là cộng sản Việt Nam là vua về tuyên truyền xuyên tạc mà bây giờ lại ở trong cảnh gậy ông đập lưng ông, bị các "thế lực thù địch" dùng chính những chiêu tuyên truyền đập cho tơi bời hoa lá. Nếu các thế lực thù địch này lại chính là các phe phái trong ĐCSVN thì chuyện lại càng tiếu lâm hơn vì chính phủ CHXHCNVN chế giễu chế độ VNCH là bị lũng đoạn vì tài địch vận chia rẽ kẻ thù của họ. Bây giờ, đúng là cười người hôm trước hôm sau người cười. Trong cả hai trường hợp, chính phủ CHXHCNVN đều là trò cười cho thiên hạ. Cái oái oăm của vụ này là ĐCSVN bị ám ảnh bởi cảnh gậy ông đập lưng ông đã từ lâu. Vì họ chiếm đoạt chính quyền quá dễ dàng vào năm 1945 nên họ biết ai cũng có thể lật đổ họ một cách dễ dàng. Nhất là trong giai đoạn này, dân Việt đã quá chán ghét họ. Tức nước vỡ bờ, toàn dân chỉ chờ dịp là bùng nổ. Chỉ cần một nhóm hoạt động dân chủ trẻ đứng lên hô hào dân chúng biểu tình rầm rộ đòi hỏi cải tổ theo kiểu chống đối ở Thiên An môn năm 1989 bên Tàu cộng hoặc Cách mạng Dù do Joshua Wong ở Hồng Kông vào tháng 10 năm 2014 là ĐCSVN tức khắc tan tành mây khói, đi đời nhà ma. Bố bảo họ cũng không dám mang xe tăng và binh lính bắn giết dân chúng như chính quyền Tàu cộng.
Vụ tranh chấp biển Đông còn cho thấy tình trạng tệ mạt hơn. Khi bị phanh phui, cháy nhà ra mặt chuột, công hàm của Phạm Văn Đồng biểu hiện không những lối bán trời không văn tự mà còn tinh thần phản quốc của chính phủ cộng sản. Bây giờ bụng làm dạ chịu nên há miệng mắc quai, chính phủ CHXHCNVN cãi cố cãi chày là lúc đó Bắc Việt không có quyền sở hữu trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vì những quần đảo đó là thuộc Việt Nam Cộng Hòa và do đó công hàm là vô giá trị. Nhưng như vậy lại càng lộ ra họ là những kẻ lừa thầy phản bạn, dùng thủ thuật ba que xỏ lá, biết là không có quyền sở hữu mà vẫn đồng ý với Tàu cộng. Họ đã mày trơ trán bóng lừa gạt ân nhân của họ lúc đó, thì làm sao thế giới tin tưởng những gì họ nói bây giờ nữa? Một sự không tin vạn sự bất tín. Nhất là những kẻ gian dối đó là thành phần lãnh đạo nhà nước. Làm sao mà các công ty kỹ nghệ quốc tế tin tưởng vào những người đi ngang về tắt và tiền hậu bất nhất như vậy để bỏ tiền đầu tư?
Đối với Việt Nam, Tàu cộng dùng chiến thuật đi với Phật mặc áo cà sa đi với ma mặc áo giấy. Họ đã từng là quan thầy của cộng sản Bắc Việt, nên biết rõ bộ mặt thật của đám lâu la. Tàu cộng dùng những lời lấp la lấp liếm, vừa đánh trống vừa la làng, đã lấy quần đảo Hoàng Sa năm 1974, rồi còn chiếm một phần quần đảo Trường Sa năm 1988, rồi đưa ra những bằng cớ lịch sử tam sao thất bổn và lý lẽ pháp luật nói nhăng nói cuội để tuyên bố chủ quyền trên những quần đảo này. Cộng sản Việt Nam quả thật là kẻ cắp gặp bà già và bà già này có một lực lượng quân đội hùng hậu nhất thế giới với ba triệu người. Tàu cộng càng ngày càng hung hăng, ỷ cá lớn nuốt cá bé, xua hàng ngàn tàu bè đánh cá tới biển Đông, lại đặt ra một thành phố có nhiệm vụ quản lý các đảo, rồi còn điều động quân đội để diễu võ dương oai và phô trương thanh thế. Ngày 1 tháng 5 năm 2014, Tàu cộng mang giàn khoan Hải dương 981 tới vùng gần quần đảo Hoàng Sa để thăm dò dầu khí. Dân Việt bừng bừng nổi giận, tổ chức biểu tình phản đối, nhưng chính phủ ngăn cản, chỉ cho phép cuộc biểu tình "quốc doanh" tại Bình dương với bạo động nhằm gây tiếng xấu cho phong trào dân chủ và dùng đó là cớ để đàn áp các cuộc biểu tình sau này.
Dân chúng Việt Nam căm phẫn, tổ chức biểu tình chống đối Tàu cộng. Các nhà trí thức viết thư điều trình tới chính phủ, vạch ra những gì nên làm. Chính phủ CHXHCNVN tiến thoái lưỡng nan, dở khóc dở cười, không biết làm gì, đầu óc rối như tơ vò. Một mặt không dám làm mất lòng Tàu cộng vì đã lỡ dung dăng dung dẻ với người bạn láng giềng này qua 16 chữ vàng và 4 tốt. Một mặt sợ mất thớ với dân, không muốn lộ ra sự hèn nhát của mình với dân Việt Nam và thế giới. Họ ngoài miệng tuyên bố cứng rắn, nhưng miệng hùm gan sứa, bên trong thì nhát như thỏ đế, chỉ muốn chủ trương tránh voi chẳng xấu mặt nào. Trước sự khiêu khích của Tàu cộng, các lãnh tụ Đảng sợ run như cầy sấy nên áp dụng chính sách im lặng là vàng. Chính phủ CHXHCNVN còn giở trò mị dân với những chiêu sáo mượn lông công như mua sắm vũ khí tối tân, tầu ngầm, ra vẻ như là đang chuẩn bị ̣chiến tranh với Tàu cộng. Trong khi chuyện đơn giản nhất là tuyên bố cứng rắn với Tàu cộng thì không làm, lại đi vẽ rồng nên giun. Tàu cộng, dưới áp lực thế giới, rút giàn khoan Hải dương 981 ra khỏi vùng vào ngày 15 tháng 7, năm 2014, vin vào cớ bão tố. Ngày 6 tháng 10 năm 2014, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng huênh hoang tuyên bố, "Trong giải quyết căng thẳng trên biển Đông thời gian qua, chúng ta đã giành được thắng lợi."
Chính phủ còn giở bộ mặt khôn nhà dại chợ, quay sang dọa nạt đàn áp dân chúng, lấy thịt đè người, cá mè đè cá chép cấm cản biểu tình chống đối. Đã thế họ lại còn phao tin vịt là những người biểu tình được trả tiền để đi biểu tình. Vào ngày 26 tháng 7 năm 2013, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao Nguyễn Thanh Sơn, trong một cuộc phỏng vấn, ngậm máu phun người những NVHN biểu tình chống đối cuộc thăm viếng Hoa Kỳ của chủ tịch Trương Tấn Sang là "có những người chỉ vì đồng tiền, có những người chỉ vì nhu cầu cuộc sống, có những người chỉ vì có một chút thu nhập thêm." Lời kết tội không có bằng chứng của một viên chức ngoại giao này cho thấy phẩm cách ngược ngạo của chính phủ CHXHCNVN. Là những người chỉ biết chỉ tay năm ngón và quen với sự tuân lệnh cấp trên sai đâu chạy đó, những người cộng sản không thể hiểu được làm sao người ta lại có thể tự ý biểu tình phát biểu ý kiến. Thế mà họ vẫn tôn thờ lời lẽ rỗng tuếch của Hồ trong bản tuyên ngôn độc lập về quyền tự do và câu hắn nói, "Không có gì quý hơn độc lập tự do." Quả là thầy nào tớ ấy, đám lãnh đạo ĐCSVN hiện thời cha truyền con nối noi gương Hồ Chí Minh nên dùng đủ mọi mưu ma chước quỷ để lừa đảo dân lành.
Vào tháng 10 năm 2012, ĐCSVN có cơ hội đái công chuộc tội trong Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, nhưng giới lãnh đạo đã bỏ lỡ cơ hội này. Ban chấp hành trung ương đảng công nhận có nhiều thất bại về kinh tế, doanh nghiệp nhà nước, hành chánh và tham nhũng, nhưng lại có thái độ vô thưởng vô phạt, quyết định "không kỷ luật Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị." Chủ tịch Trương Tấn Sang sau này gọi người đó là "đồng chí X." Nhận thức được những thất bại mà không trừng phạt những kẻ có trách nhiệm gây ra chúng là một hành động đạo đức giả ở mức độ cao nhất, vi phạm trắng trợn nguyên tắc pháp bất vị thân, nghĩa bất dung tình. Vì họ cùng trong một đảng, hành động đó còn cho thấy đám lãnh đạo đảng một đồng một cốt, bảo vệ và bôi son trát phấn lẫn nhau, cùng bảo nhau cả bè đè cây nứa, rốt cục chỉ có dân là bị thiệt thòi. Ngoài ra, trong khi toàn dân ai cũng biết Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là "đồng chí X," kiểu ĐCSVN đối xử dân thiếu thành thật với ngôn ngữ mơ hồ chỉ càng làm cho dân khinh thường họ. Vì nếu họ là cây ngay không sợ chết đứng, sao họ không nói toạc móng heo cho rồi? Không lẽ thanh danh của Thủ tướng quan trọng hơn quyền người dân được biết?
Ngày 12 tháng 6 năm 2013, Quốc hội Việt Nam công bố kết quả cuộc bỏ phiếu tín nhiệm 47 lãnh đạo chính phủ cao cấp, kể cả chủ tịch Trương Tấn Sang và thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Điểm đáng cười ngặt cười nghẽo cho màn kịch này là phiếu tín nhiệm chỉ có ba lựa chọn: tín nhiệm cao, tín nhiệm, và tín nhiệ̣m thấp. Cuộc bỏ phiếu như là không có lựa chọn gì cả vì không có lựa chọn không tín nhiệm. Vậy mà các bản tin trên báo chí muối mặt đăng tải kết quả cuộc bỏ phiếu với nhan đề: "Không có viên chức cao cấp nào có phiếu không tín nhiệm." Chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng còn hí hửng như Ngô được vàng tuyên bố, "Có thể nói nhìn chung cách đánh giá của các đại biểu khá khách quan." ĐCSVN quả thật là khinh người vắt nóc dân Việt Nam với màn kịch bỏ phiếu tín nhiệm này.
Vào ngày 28 tháng 11, năm 2013, Quốc hội Việt Nam bỏ phiếu tán thành sửa đổi cho hiến pháp năm 1992 với tỉ lệ kỷ lục gần 98%. Hiến pháp mới sửa đổi, có hiệu lực ngày 1 tháng 1, năm 2014, bị chỉ trích là một bước thụt lùi về chính trị và kinh tế. Các sửa đổi tái xác nhận quyền lực tối cao của Đảng cộng sản mô tả trong Điều 4, bắt quân đội phải thề non hẹn biển với đảng, cho phép tịch thu đất đai vì "quyền lợi" quốc gia, và duy trì vai trò của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế. Vì đa số thành viên của Quốc hội cũng là đảng viên của ĐCSVN, kết quả cuộc bỏ phiếu không hoàn toàn bất ngờ. Chuyện đó còn cho thấy Quốc hội không đại diện dân mà chỉ là con rối của ĐCSVN đang cai trị.
Chính quyền CHXHCNVN có một mặc cảm lo sợ kỳ lạ. Những hoạt động dân chủ đã khiến các lãnh tụ ĐCSVN ăn không ngon, ngủ không yên. Các lãnh tụ ĐCSVN và viên chức chính phủ lúc nào cũng lo ngay ngáy phập phồng là bị dân mất tín nhiệm, sợ bị nói xấu. Nhưng nếu họ là người quang minh chính trực thì làm sao bị mất tín nhiệm hay bị nói xấu được? Thay vì cải tà quy chánh, sửa lại lỗi lầm để lấy công chuộc tội, họ lại cứ như đười ươi giữ ống khư khư theo cái chủ nghĩa sai lầm và ráng giữ cái sĩ diện hão huyền. Họ hứa hẹn dân đủ điều tốt đẹp, trấn an là mọi việc đều được đảng lo. Nhưng đó chỉ là đầu môi chót lưỡi vì giới lãnh đạo toàn là những người tài thô trí thiển, văn dốt vũ dát, đầu óc bã đậu, lại hay nói thánh nói tướng. Họ không biết lo việc nước và không học hỏi gì cả, nói như rồng leo, làm như mèo mửa. Họ còn có máu du côn du kề chỉ biết ăn hiếp dân nghèo, hèn nhát với Tàu cộng, ̣đối với quan chức Tàu cộng thì nhũn như chi chi, đi ra nước ngoài thì ngớ nga ngớ ngẩn như gà mở cửa mả, ấm ớ hội tề, ăn nói chẳng ra thể thống gì bạ đâu nói đấy.
Chính quyền đồi trụy. Các cơ quan chính quyền bóc lột, ăn cướp tài nguyên đất nước, trá hình bằng những chương trình xây cất hoặc khai thác quặng mỏ vĩ đại. Chúng còn đặt ra những chương trình cướp đoạt đất đai nhà cửa dân với mức bồi hoàn rẻ mạt, mục đích là moi ruột moi gan dân khiến dân khố rách áo ôm, màn trời chiếu đất. Dân oan nghèo túng, ăn bát mẻ, nằm chiếu manh. Dân oan ta thán, kêu trời như bọng, kiện cáo chính phủ ngày này qua ngày khác mà chẳng có công hiệu gì. Nhiều người lại còn bị chính quyền địa phương hà hiếp, trở thành thân tàn ma dại, con cái không được chăm sóc. Nhiều viên chức cao cấp chính phủ là những kẻ tham quan ô lại chỉ biết vinh thân phì gia, bất tài vô tướng, ăn chẳng nên đọi, nói chẳng nên lời, bằng cấp giả hiệu buôn danh bán tiếng, bìm bìm lại muốn leo nhà gạch. Nhân viên chính quyền thì sáng tai họ, điếc tai cày, làm việc lè phè buổi đực buổi cái lại cà rịch cà tang. Quốc hội chỉ là con rối của ĐCSVN. Cuộc bỏ phiếu tán thành các sửa đổi hiến pháp tháng 11 năm 2013 là bằng chứng hùng hồn cho hành vi này. Đại diện dân thì đa số là lũ hèn nhát, ăn càn nói bậy, lên diễn đàn thì múa may quay cuồng, tuyên bố như những kẻ ăn đàng sóng, nói đàng gió. Lắm kẻ chỉ tham danh trục lợi, a dua nịnh bợ như anh lùn xem hội. Công an cảnh sát thì tham nhũng, hung ác, giá áo túi cơm, ăn bơ làm biếng chỉ có tài hút máu hút mủ dân lành.
Xã hội suy đồi, đầy rẫy tệ đoan đồi phong bại tục, trộm cướp như rươi, trai gái hư thân mất nết, lêu lổng như mèo mả gà đồng. Con người thì ích kỷ, ăn cắp, dối trá, lừa đảo. Giáo dục thì yếu kém, hữu danh vô thực, học sinh chỉ biết học như vẹt, ê a lý thuyết Mác Lê nin, học trước quên sau. Các em bị dạy dỗ tôn thờ Hồ Chí Minh mặc dù hắn là kẻ thù của tổ quốc. Sinh viên ra trường không có việc làm, phí phạm công trình dầy công đèn sách, nấu sử sôi kinh. Tuy thanh thiếu niên Việt Nam thông minh và chăm chỉ, chính sách giáo dục tẩy não của chính phủ chỉ làm tổn hại đầu óc của những nhân tài tương lai của đất nước.
Với cấp lãnh đạo tham nhũng và bất tài, ĐCSVN và chính phủ CHXHCNVN không tài nào mà lèo lái con thuyền Việt Nam trên con đường đúng đi tới kinh tế trù phú và xã hội ổn định.
© 2014 Cao-Đắc Tuấn

Cao-Đắc Tuấn
danlambaovn.blogspot.com

Posted by sontrung at 2:19 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 335
NGUYỄN LỘC YÊN * VIỆT CỘNG NÔ LỆ TRUNG CỘNG
Cộng sản Việt Nam làm “đứa con hoang” giặc Tàu thật sao?!
Nguyễn Lộc Yên (Danlambao) - Hôm nay (25-10-2014) dân tôi nghe đài RFA và đọc “Dân Làm Báo” được biết: “Theo thông báo của bộ Ngoại giao Việt Nam, ủy viên quốc vụ viện Trung Cộng là Dương Khiết Trì sẽ lại sang Việt Nam vào tuần tới. Chuyến đi sẽ diễn ra trong hai ngày, từ 26-27/10/2014, theo lời mời của bộ trưởng ngoại giao Việt Nam, ông Phạm Bình Minh”.
Tôi sửng sốt và ngạc nhiên! Vì sao vậy, vì các nhân vật đã được mang hổn danh hay mỹ danh tùy bàn dân thiên hạ nhận định: Trọng Lú, Tư Sâu, tướng Hèn (hay Thanh Hèn)..., tôi chưa từng nghe ông Phạm Bình Minh được bà con tặng hổn danh nào, có lẽ ông Minh muốn chức vụ của mình cận kề với ông Tổng (Trọng Lú) là Minh Lẫn chăng?!
Vì sao?! Vì theo Trang mạng Hoàn Cầu Thời Báo, tên Dương Khiết Trì đã nói năng ngang ngược, trong cuộc hội đàm tại Hà Nội ngày 18-6-2014, hắn bảo: “Chính quyền CSVN tự kiềm chế trước khi quá muộn” và nhắn nhủ đảng CSVN với lời lẽ trịch thượng: “Thúc giục đứa con hoang đàng trở về nhà”.
Lời nhục mạ của tên Dương Khiết Trì mới có 4 tháng (10/2014-6/2014) chỉ có kẻ LẪN mới sớm quên (không nhớ) lời nhục mạ này! Tôi buồn bã vì sao ông Minh cúi đầu làm “đứa con hoang” cho kẻ thù truyền kiếp!
Nên tìm hiểu tiểu sử của ông Minh, có phải là tên giặc Tàu lẫn lộn vào chính quyền VN không?! Nhưng không, được biết ông sinh năm 1959, hiện đang là Ủy viên Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Ông là con trai cựu bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch (tên thật Phạm Văn Cương), mẹ là Phan Thị Phúc. Trời ơi! “Cây ngọt sinh trái đắng”, vì chính ông Nguyễn Cơ Thạch có tư tưởng chống lại tham vọng bá quyền của đại Hán, nên bị Trung cộng chỉ thị chính quyền CSVN bãi chức?! Cớ sao ông Minh lại mời mọc tên du côn Dương Khiết Trì đã nhục mạ chính mình, đảng CSVN, có thể cả dân tộc Việt Nam?!
Dân tôi thiển nghĩ, nếu ngay bây giờ, đảng CSVN còn biết liêm sỉ và tự trọng tối thiểu hãy điện ngay cho chính quyền Trung cộng không chấp nhận tên nói năng trịch thượng Dương Khiết Trì sang Việt Nam. Nhưng than ôi, khí phách của Tiền nhân Việt, làm sao có được với kẻ vô thần vô tổ quốc!
Nhìn gương Trần Bình Trọng, năm 1285, quân Nguyên xâm lược nước ta lần thứ hai, thế giặc mạnh, tấn công ào ạt thành Thăng Long, quân nhà Trần không thể giữ được thành. phải lui về Thiên Trường (nay tỉnh Nam Định). Danh tướng Trần Bình Trọng được vua nhà Trần giao nhiệm vụ quan trọng, giữ vùng Thiên Mạc, ngăn chặn và cầm chân quân Nguyên, để quân nhà Trần rút lui được an toàn, chờ cơ hội phản công. Trần Bình Trọng cùng các tướng sĩ của ông can trường ngăn giặc, tả xông hữu đột, nhưng cuối cùng ông cũng bị giặc bắt. Thoát Hoan đem vàng bạc tặng, rượu thịt thết đãi và mỹ nữ hầu hạ dụ hàng, ông dõng dạc mắng giặc “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Phục thay:
Thà quỉ nước Nam” chan chứa nghĩa
“Hơn vương đất Bắc” nhuốc nhơ gương
Trung trinh phảng phất cùng sông núi!
Kim cổ muôn đời, lưu luyến thương!
Còn nữa, khi Thám hoa Giang Văn Minh đi sứ nhà Minh (Tàu). Vua Minh hách dịch ra câu đối: “Đồng trụ chí kim đài di lục” (Cột đồng đến nay đã rêu xanh), ý vua Minh muốn nhắc chuyện Mã Viện dựng cột đồng khắc chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”. Giang Văn Minh vì danh dự dân tộc, nên thẳng thắn đối lại: “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” (Nước sông Bạch Đằng từ xưa đến giờ máu còn hồng”. Câu này nhắc lại chiến công lẫy lừng của Ngô Quyền và Hưng Đạo Vương, đã giết quân Tàu ở Bạch Đằng giang, đến nay máu dòng sông còn đỏ. Vua Minh quá thẹn sinh giận, bất chấp luật lệ bang giao; cho người mổ bụng xem “sứ thần An Nam to gan đến đâu”, ngày ấy là mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Minh Tư Tông giận vì thẹn, nhưng kính trọng người khẳng khái, cho ướp xác ông Giang Văn Minh bằng bột thủy ngân và đưa thi hài về nước. Ngưỡng mộ thay:
“Đi sứ nhà Minh, chẳng ngại ngần
Trung trinh khẳng khái, vững vàng tâm
Thiết tha dân tộc, gìn son sắt
Yêu nước nồng nàn, dẫu xả thân!”
Vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng bái kiến linh cữu, ban tặng câu “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ).
Tiền nhân Việt Nam hào khí ngút trời, thế mà CSVN chỉ vì bổng lộc mà cam tâm làm thái thú cho giặc Tàu là sao?! Tác giả CTV Danlambao trong bài viết Dương Khiết Trì lại sang Việt Nam  còn cho biết: “Mục đích thực sự đằng sau việc Dương Khiết Trì đến Hà Nội lần này để khống chế giàn lãnh đạo CSVN và gây áp lực để cài cắm những nhân vật thân Trung Cộng”.
Chế độ CSVN, không được nhân dân VN bầu chọn thực sự, thì không đủ tư cách và không có giá trị về việc ký kết với tên giặc Tàu Dương Khiết Trì, kể cả những ký kết khác với bọn giặc Tàu. Và nếu Phạm Bình Minh nói riêng hay đảng CSVN nói chung, vào ngày mai (26-10-2014) vẫn nhục nhã cúi đầu tiếp đón tên Dương Khiết Trì, thì rõ ràng ông Minh và đảng CSVN đúng là “đứa con hoang” của giặc Tàu thật rồi đấy! Chúng ta sẽ làm gì hỡi Đồng bào?!
Ngày 26-10-2014
Nguyễn Lộc Yên
danlambaovn.blogspot.com
Posted by sontrung at 2:13 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 335
NGUYỄN THƯỢNG LONG * NGUYỄN PHÚ TRỌNG
Nguyễn Phú Trọng - AQ và tôi...
Nguyễn Thượng Long (Danlambao) - Trong những chuyến rong ruổi vi hành, thăm thú nơi này nơi nọ trong hay ngoài nước, từ việc được vấn an Đức Giáo Hoàng, việc tiếp các nguyên thủ các nước... tới những lần tiếp xúc cử tri ở Hà Nội hay nhiều nơi khác, ông Nguyễn Phú Trọng thường có những tuyên bố làm những người có đôi chút học hành không thể không liên tưởng ông với nhân vật AQ trong văn phẩm “AQ Chính Truyện” nổi tiếng của Lỗ tiên sinh ngày nào. Nhân vật này là nhân vật điển hình của văn học Trung Quốc cận đại. Anh ta có những nét hao hao với những nhân vật điển hình của dòng văn học hiện thực phê phán của Việt Nam như Chí Phèo, Xuân tóc đỏ hay bà Phó Đoan... Những mẫu người này thế hệ chúng tôi chưa ai quên.
Ông Nguyễn Phú Trọng đã nói gì để người đời liên tưởng ông với AQ?
Ông Nguyễn Phú Trọng và Đức Giáo Hoàng
(23-01-2013 (Ảnh internet)
Có thể tìm thấy lời lý giải cho liên tưởng trên từ câu tự huyễn nổi tiếng “Mình có thế nào thì người ta mới đón tiếp mình long trọng như thế chứ!” sau lần ông Trọng được lãnh tụ tinh thần của 2 tỉ giáo dân trên trái đất, Đức Giáo Hoàng tiếp chuyện (23-01-2013)... hoặc lần ông Trọng giữ vẻ mặt tỉnh khô không cảm xúc khi đọc diễn văn bế mạc HN Trung Ương VI dù là ông đã nghẹn ngào nấc lên khi không ép được các đồng chí trung ương bỏ phiếu xử lý đồng chí X, hay là những lần ông thong thả nhả lời uốn nắn chỗ này, nhắc nhở chỗ kia... sẽ thấy ông diễn rất dở, đã đội nhầm mũ, đi nhầm dép của nhân vật AQ, kẻ mang nặng căn bệnh tự sướng, tự huyễn mình và mọi người... với những xuất ngôn đình đám: “Tao là bố đẻ mày đây, mày đánh tao là mày đánh bố mày!”, “Nó chửi mình như nó chửi bố nó!”. Nhân vật đó là AQ. (AQ Chính Truyện - Lỗ Tấn 1881-1936).
Tất nhiên ông Trọng cùng những đảng viên của ông không bao giờ dám chửi Tàu bằng những lời tầm thường hạ cấp như thế, vì ông và đảng của ông đã ngoan ngoãn tự nguyện chui đầu vào chiếc vòng Kim Cô “Thập Lục Kim Tự” và “Tứ Hảo” của Trung cộng từ lâu rồi. Cho nên, giữa lúc tàu lạ, người lạ (Trung cộng) làm loạn biển Đông... ông vẫn khăng khăng trước những chất vấn của ĐBQH rằng “Tình hình Biển Đông không có gì là mới!”. Và cũng không có gì là lạ, khi Giàn Khoan HD 981 của Tàu bất ngờ nhảy vào chễm chuệ giữa vùng biển chủ quyền của đất nước, suốt 2 tháng liền người ta không thấy ông Trọng lãnh tụ tinh thần của hơn 3 triệu đảng viên đưa ra một xuất ngôn nào để chỉ dạy mọi người.
Thế mà khi ban lãnh đạo Trung cộng dịch chuyển giàn khoan HD 981 vì bão, vì áp lực đấu tranh của mọi giới trong và ngoài nước, vì họ đã hoàn tất các dự định thăm dò và quảng bá thành công cái lưỡi bò 9 đoạn của họ, như một sự đã rồi ông Trọng đã nhanh nhẩu lập ngôn:
“Trong việc giải quyết vấn đề căng thẳng trên biển Đông thời gian qua, chúng ta đã giành được thắng lợi lớn...”.  (Nói với cử tri Hà Nội 10-2014)
Người Việt Nam ở trong và ngoài nước... hết sức bất ngờ trước kết luận này. Có lẽ là ông Trọng đã quên một hiện thực là mọi người đang sống trong thời đại bùng nổ thông tin, thời đại internet len lỏi vào tận phòng ngủ của mỗi người thì không một sự thật nào có thể bị bưng bít hay bị bóp méo. Chỉ vài thao tác nhấn chuột thôi là người ta biết ngay thông điệp trên của ông Trọng chỉ là món “Lẩu”, món “Nộm” suồng sã trên bàn tiệc ăn mừng “Thắng Lợi Tinh Thần” mà xưa kia AQ tiên sinh coi là món khoái khẩu. Vậy thì liên tưởng ông Trọng với nhân vật AQ của văn học Tàu là tất nhiên thôi có gì đâu là không bình thường, là vu khống, là bôi nhọ.
Nói rằng trên biển Đông những ngày qua, ta đã “Thắng Lợi Lớn...” không biết ông Trọng sẽ trả lời thế nào trước loạt câu hỏi thế này:
- Lại là “Thắng lợi lớn...” ư, khi mà không dưới nhiều chục lần phía Việt Nam yêu cầu gặp mặt để thương thảo về vụ HD 981 hạ đặt trái phép trong vùng biển chủ quyền của Việt Nam... TQ đều từ chối, kể cả việc xin gặp của cá nhân ông Trọng cũng bị họ Tập ngoảnh mặt đi?
- Lại là “Thắng lợi lớn...” được hay sao khi mà các tàu của ta từ tầu cảnh sát biển, tầu hải giám, tầu cá của ngư dân, vốn rất ít ỏi, liên tục bị các loại tầu của họ có cả tầu chiến, máy bay với số lượng áp đảo... uy hiếp, phun nước, đâm chìm, liên tục đẩy tầu ta ra xa ngay trên vùng biển của mình?
- Lại là “Thắng lợi lớn...” được hay sao khi HD-981 dịch chuyển về vì mùa bão biển đã đến, vì Trung cộng đã hoàn thiện những khảo sát cơ bản đáy biển, đã hiện thực hóa đường lưỡi bò 9 đoạn như một sự đã rồi, vì sự phẫn nộ của cả dân tộc Việt Nam, vì áp lực của khu vực và quốc tế trong đó có nỗ lực xoay trục của Mỹ về Châu Á và Thái Bình Dương mà Trung cộng đã dịch chuyển HD-981 ra nơi khác với thái độ dương dương tự đắc của kẻ muốn xộc vào nhà ai lúc nào thì xộc vào, muốn dịch đến đâu thì họ sẵn sàng dịch đến.
- Lại là “Thắng lợi lớn...” được hay sao khi HD-981 dịch chuyển đi thì các đường băng cho máy bay lên xuống ở Hoàng Sa, ở Gạc Ma... đã được hoàn thiện, hiện trạng ở những nơi này không ngừng thay đổi theo hướng có lợi cho tham vọng độc chiếm biển Đông của Trung cộng mà không hề thấy ĐCS Việt Nam, nhà nước, chính phủ, báo chí lề đảng lên tiếng?
Tôi nghĩ rằng những ngày qua nếu có cái gọi là “Thắng lợi lớn...” thì đó là thắng lợi của Trung cộng và thắng lợi của đảng cộng sản Việt Nam thôi, còn dân tộc Việt Nam vẫn tiếp tục là kẻ đại bại, đại bại đến đau đớn. Danh dự giống nòi bị xúc phạm đến ê chề. Những thắng lợi lớn này hoàn toàn không phải là những chấm đậm kể trên. Những thắng lợi này, ông Trọng không dám nói đến đâu, tôi mạn phép ông, xin nói hộ ông về những “Thắng Lợi” không thể chối cãi nhờ sự cố HD-981 rút đi:
- Nhờ tinh thần yêu nước nồng nàn của người dân Việt Nam, những người đã tự phát bảo nhau xuống đường biểu tình phản đối HD-981 của Trung cộng ngay từ những ngày đầu giàn khoan này xuất hiện ở biển Đông, nhờ những ủng hộ của cộng đồng quốc tế... cuối cùng thì HD 981 cũng phải dịch chuyển... Đảng CS Việt Nam nhờ đó mà vớt vát được một chút sĩ diện trước sự bất bình và thất vọng đến tột cùng của toàn dân.
- Nhờ việc giàn khoan HD-981 dịch chuyển đi chỗ khác mà đương nhiên ĐCS Việt Nam vẫn tiếp tục tồn tại ở địa vị độc tôn cai trị dân tộc, bởi đối lập chính trị ở Việt Nam ở trong nước đã xuất hiện song còn quá yếu, chưa đạt tầm vóc là một đối trọng với ĐCS.
- Nhờ việc giàn khoan HD-981 cũng đã dịch đi nơi khác mà các thâm cung bí sử liên quan đến những thiệt thòi về lãnh thổ, biển, đảo của Việt Nam... đặc biệt là Thỏa Ước Thành Đô 1990 vẫn tiếp tục còn là một bí mật thách đố những ai muốn biết đâu là sự thật.
- Nhờ việc giàn khoan HD-981 dịch chuyển mà ban lãnh đạo Trung cộng ngộ được rằng, trong vùng Đông Nam Á này, có cả chục quốc gia và nhà nước lớn có, nhỏ có... “Không Thể Chọn Được Hàng Xóm...”, như lời của ông Nguyễn Phú Trọng... thì chỉ mỗi Việt Nam là đồng minh tuyệt vời nhất trong việc đàn áp dân chúng ngăn chặn làn sóng bài Hoa làm ảnh hưởng bất lợi cho chủ trương áp đặt bằng được cái “Lưỡi Bò 9 đoạn” của họ trên biển Đông.
***
Với đại sự HD-981 của Trung cộng... ông Trọng đã chào mừng “THẮNG LỢI LỚN...” bằng món cỗ sực nức mùi “THẮNG LỢI TINH THẦN” mang đậm hơi hướng AQ như thế, còn với trận chiến chống tham nhũng mà ông Trọng phát động cách đây 2 năm với khẩu hiệu làm nức lòng dân chúng rằng “Chống tham nhũng không có vùng cấm!” thì ông Trọng đã chào mừng bằng món cỗ nào?
Sáng ngày 6-10-2014 tiếp xúc với cử tri Quận Ba Đình Hà Nội, nói về cuộc chiến chống tham nhũng ông Trọng khẳng định:
“Tôi nói lại là rất kiên quyết, nhưng phải bình tĩnh, tỉnh táo. Và chúng ta cũng phải làm một cách lâu dài, bằng nhiều biện pháp tổng thể”.
“Xử lý việc này phải nghĩ đến những việc khác, xử lý cái trước mắt phải nghĩ đến cái lâu dài”
“Giữ cho được ổn định để đất nước phát triển, chứ không phải rối tung lên tất cả rồi tạo cái mất niềm tin, nghi kỵ lẫn nhau, rối loạn lên thì cái đó cũng rất là nguy hiểm”.
“Cho nên tôi vẫn nói là bình tĩnh, tỉnh táo, rất là khôn ngoan, phải có con mắt chiến lược, giải quyết một cách tổng thể”
“Như bác Hồ đã dạy rồi, cha ông ta dậy rồi, đánh con chuột nhưng mà đừng để vỡ bình” - “Tức là phải giữ cho được ổn định, cái tư tưởng này rất là quan trọng”.
Không có gì là khó khăn cả, ai cũng hiểu, CHUỘT ở đây là các đồng chí đã lộ, chưa lộ và sắp lộ của ông Trọng ở trung ương, ở địa phương và họ đang đông như quân Nguyên, còn BÌNH ở đây là Đảng, là Chế Độ đang hiện hữu trên quê hương Việt Nam vô vàn đau khổ.
Nhưng tại sao mà lại có sự chuyển gam, đổi mầu bất ngờ như thế? Xin ngược lại thời điểm này cách đây 2 năm:
Hội nghị TW VI (1-15/10/2012) ông Trọng tuyên bố hùng hồn: “Không có vùng cấm trong việc chống tham nhũng”. Nói là ông làm ngay với việc cho ra đời Ban Nội Chính trung ương trực thuộc BCT. Vì sợ để Ban phòng chống tham nhũng trực thuộc chính phủ Nguyễn Tấn Dũng là vừa đá bóng vừa thổi còi. Và Nguyễn Bá Thanh bí thư Đà Nẵng được điều ra trung ương gấp với sứ mạng làm trưởng ban này. Ông Thanh nhanh chóng trở thành một “hot man”, một “super man”, một thứ Bao Thanh Thiên, một người hùng chống tham nhũng thực sự với tuyên bố nổi tiếng sẽ “Hốt Liền - Bắt Liền” bất kể ai nếu thấy có vấn đề. Những tuyên bố như thế làm nức lòng dân chúng đang khốn khổ vì tham nhũng và cũng làm rúng động những “Con Chuột” - “Con Sâu” đang ẩn nấp trong đảng cũng như ở các cấp chính quyền. Cả nước nín thở chờ đợi cái thời khắc ông Trọng dìu được ông Thanh và ông Vương Đình Huệ bước vào thế giới của các Vua Tập Thể (BCT), để xuất hiện những cặp bài trùng, những thế chân vạc đưa cuộc chiến chống tham nhũng đến được cái tiêu chí “Không có vùng cấm”.
Nhưng oái oăm thay! “Trời đã sinh Nguyễn Bá Thanh, sinh Vương Đình Huệ sao còn sinh Nguyễn Thiện Nhân, sinh Nguyễn Thị Kim Ngân”. Kết cục thế nào, toàn dân đã biết. Với chức danh là Trưởng ban nội chính trung ương, ông Thanh vẫn chỉ là “Vua Không Ngai” thôi. Sau vài ba đại án thấy thấp thoáng bóng dáng ông như vụ Dương Chí Dũng, vụ nữ quái Huyền Như, vụ Bầu Kiên... bất ngờ ông Thanh tự nhiên mất dạng. Sau đó nhờ con trai ông Thanh thì cả nước mới té ngữa trước tin ông mắc bênh hiểm nghèo. Càng bất ngờ hơn nữa khi có dư luận ông Thanh bị phơi nhiễm phóng xạ nghiêm trọng phải đi Mỹ để ghép tủy sống. Lực lượng nào, phe phái nào, sát thủ nào đã làm vụ này? Câu hỏi đó lúc này là chưa có lời giải đáp.
Không biết đòn đánh hạt nhân vừa tiểu nhân, vừa quái ác đó có gây tác động tâm lý nào đến ông Trọng không thì chưa biết. Chỉ biết rằng, “Thầy Giáo” Nguyễn Phú Trọng đã xuất hiện ở Hàn Quốc trong bốn ngày đầu tháng 10-2014 (1-4/10/2014) với những xuất ngôn hoàn toàn khác những gì mà ông chém gió về “CNXH & con đường đi lên CNXH nhìn từ thực tiễn Việt Nam” ở La Habana - Cu Ba 9-4-2012 và suýt nữa ông chém gió tiếp cũng bài này ở Brazilia (Brazil). Thật là may mắn cho xứ sở của vũ điệu Sampa khi bà tổng thống đã bất ngờ đóng sập cửa, từ chối chuyến đi của ông Trọng vào đất nước của bà vào những giây cuối cùng.
Lần này chỉ 4 ngày ở xứ sở của Kim Chi thôi... không biết vì cái gì mà ông Trọng làm cho bà Park và cả liên minh Mỹ-Hàn sướng đến phát điên lên khi ông nói “Việc Bắc Hàn sở hữu vũ khí hạt nhân là không thể dung thứ”. TTXVN lập tức a dua luôn với bản tin giật tít công khai “EU kêu gọi đưa nhà lãnh đạo Triều Tiên ra tòa án hình sự quốc tế”.
Chao ôi, chẳng lẽ chỉ vì 12 tỷ USD trong Bản Ghi Nhớ hợp tác tài chính Việt-Hàn để cho các doanh nghiệp Hàn quốc lập nghiệp thuận lợi ở Việt Nam hay còn cả cái gì nữa... mà ông Trọng đã rũ ngay cái ý thức hệ cộng sản anh em cùng chung lý tưởng mà lãnh tụ cộng sản Hồ Chí Minh và Kim Nhật Thành dày công vun đắp.
Những biến cố này làm người đời nhớ lại chuyến vi hành thăm Hàn Quốc cũng trong cương vị TBT đảng CS Việt Nam của ông Đỗ Mười cùng câu chuyện chiếc phong bì chứa một triệu USD của nước chủ nhà đặt vào tay ông Đỗ Mười năm 1995 và ông Mười coi đó là lộc lá của riêng mình... Thế mới biết về khoản “Đánh Gục” các yếu nhân của ĐCS Việt Nam, người Hàn Quốc không hề thua kém những người cộng sản Tàu.
Cũng chỉ 2 ngày thôi sau chuyến đi Hàn Quốc, sáng 6-10-2014, ông Trọng làm người dân trong nước, đặc biệt là cộng đồng dân oan, những nạn nhân trực tiếp của Tham Nhũng một lần nữa bật ngửa vì những gì mà ông đã trình diễn ở cuộc gặp gỡ cử tri Quận Ba Đình Hà Nội như ở phần trên của bài viết này.
Tôi nghĩ rằng, chẳng ai là Thánh, là Thần, là Muôn Đời, là Mãi Mãi cả đâu. Nhưng chuyển hướng quá đột ngột như những gì mà ông Trọng đang trình diễn là quá không bình thường. Trước hết người đời đủ cơ sở để nói: Từ “Chống tham nhũng không có vùng cấm” (10/2012) đến “Đập Chuột - Giữ Bình” (10/2014) Ông Trọng là người không nhất quán. Với người hùng Nguyễn Bá Thanh, thông điệp “Đập Chuột - Giữ Bình” đã đặt ông Thanh vào thế bị việt vị sau khi ông Thanh làm vỡ vài ba chiếc “Bình” nhỡ. Ông Trọng là người không có trước có sau với đồng đội.
Về lý luận... đây là một bước thụt lùi thảm thiết của cây lý luận hàng đầu Việt Nam về Mác-Lê và CNXH Nguyễn Phú Trọng. Thế là vào những tháng năm cuối cùng của nhiệm kỳ đứng đầu BCT, ông Trọng đã giật mình mà tự thú: “Không thể chống được tham nhũng, vì chống tham nhũng triệt để sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn vong của Đảng và Chế Độ”.
Đây là hành động kéo cờ trắng đầu hàng, là sự thoái lui và thừa nhận động thái chống tham nhũng vừa qua ở Việt Nam là thất bại. Đây là chiếc xuồng cứu sinh, là chiếc phao cứu nạn bất ngờ được quăng ra cho cộng đồng “Sâu” và “Chuột” đang vô cùng hốt hoảng vì câu “Chống tham nhũng sẽ không có vùng cấm!”, là phát súng lệnh để trùng trùng là những “Chuột” và “Sâu” béo mập nhờ tham nhũng, nhanh chóng lũ lượt chui vào BÌNH để ẩn nấp.
Đây cũng là mênh lệnh của người cộng sản Nguyễn Phú Trọng: “Lợi ích của Đảng, của Chế Độ phải là trên hết... bất chấp quyền lợi của Đất Nước, quyền lợi của Dân Tộc”. Và cuối cùng...
Đây cũng là lời cầu xin của kẻ bất ngờ thấy mình đang thất thế: “Tôi biết sợ rồi!” và “Xin cho tôi một chữ Bình An...”
Khép lại bài viết này mà không một dòng nào dành cho người hùng “Hốt Liền - Bắt Liền” Nguyễn Bá Thanh... cộng sự số một, bề tôi tâm phúc của ông Nguyễn Phú Trọng trong trận chiến chống tham nhũng thất bại là một thiếu sót không thể tha thứ. Biết rằng chẳng hề sai chút nào, cái chân lý của muôn đời:
“Không có tình yêu nào là vĩnh viễn.
  Không có liên minh nào là vĩnh viễn
  Không có kẻ thù nào là vĩnh viễn.
  Chỉ có lợi ích là vĩnh viễn.”
...thì Thông Điệp “Đánh Chuột - Giữ Bình” đến với Nguyễn Bá Thanh trong tình cảnh này... ai cũng thấy sao mà bất nhẫn. Chẳng lẽ Giáo Sư - Tiến Sĩ Nguyễn Phú Trọng trong những ngày này trong lòng không thấy một chút áy náy bận hận nào trước những đau đớn về thể xác cũng như tinh thần của anh hùng “Hốt Liền” Nguyễn Bá Thanh hay sao?
Tôi tin rằng nếu AQ mà tái thế, anh ta chắc cũng sẽ phải mủi lòng mà rằng: “Ngộ xin pái phục, xin pái phục” và “Hảo Lớ! Hảo Lớ!”.
Hà Đông những ngày tháng 10 - 2014
Nguyễn Thượng Long
- Nơi ở: Số nhà 4, Đường Văn La, Phường Phú La, Quận Hà Đông, Hà Nội.
- ĐT: 0433521066 & 01652323836
- Email: nguyenthuonglong571@gmail.com
Nguyễn Thượng Long
danlambaovn.blogspot.com
Posted by sontrung at 2:10 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 335
ĐẤU DÁ NỘI BỘ - NGUYỄN SINH HÙNG TRANH GHẾ

NGUYỄN SINH HÙNG TRANH GHẾ
Dân Luận: Bài viết sau đây được tác giả gửi tới Dân Luận qua đường email. Chúng tôi chưa có điều kiện kiểm chứng nên mong độc giả sử dụng thông tin ở đây với sự dè dặt cần thiết.
Xin đọc thêm loạt bài: "Đang có âm mưu thâu tóm ngân hàng Bảo Việt của giới Mafia Tài chính Hà Nội" đã đăng trên Dân Luận trước đây.
Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng chuẩn bị gì trước kỳ họp Quốc hội thứ 8, Khóa 13?
Trong những ngày cuối tháng 09 và đầu tháng 10, có nhiều sự kiện quan trọng được giới truyền thông đăng tải, khiến dư luận quan tâm. Trong đó có thông tin trong phiên họp thường kỳ Chính phủ đã đánh giá tình hình kinh tế xã hội có chuyển biến tích cực. Tăng trưởng đạt tới 5,8%; cả năm có thể đạt 5,9% và triển vọng năm 2015 đạt 6,1%. Có 13/14 chỉ tiêu kinh tế - xã hội của năm 2014 do Quốc Hội nêu ra đã đạt được, chỉ số CPI ở mức 5%, thu ngân sách vượt 9%, xuất siêu trên 2,5 tỷ USD, ngoại tệ dự trữ tăng ở mức cao và tỷ lệ thất nghiệp giảm đáng kể.
Các tổ chức quốc tế cũng đánh giá tình hình Kinh tế - Xã hội của Việt Nam theo xu hướng tích cực. Việt Nam vẫn là nước hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên Chính phủ cũng chỉ rõ những tồn tại, yếu kém trong những lĩnh vực cụ thể và nêu hướng khắc phục từ nay đến cuối năm. Dư luận rất phấn khởi với đánh giá đó.
Nhưng cũng chỉ sao hơn 10 ngày (08/10/2014), Ủy ban thường vụ Quốc hội và ông Nguyễn Sinh Hùng, chủ tịch Quốc hội; sau khi nghe Uỷ ban Tài chính Ngân sách và Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ trưởng Bộ Tài chính báo cáo; đã có những đánh giá rất tiêu cực về tình hình kinh tế - xã hội của nước ta; nhất là đánh giá kết luận của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã gây hoang mang trong dư luận, không biết tin vào đâu. Vẫn biết trong hệ thống chính trị nước ta, có những số liệu hoặc có những kết luận chưa thống nhất được với nhau, đó là chuyện thường xảy ra. Nhưng đây là người lãnh đạo cao nhất của Chính phủ (ông Thủ tướng) và ông Chủ tịch Quốc hội lại đưa ra thông tin trái ngược nhau là chuyện không bình thường.


Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng ngày nay: “Cứ ăn hết lấy gì mà tiêu, ăn hết mà không có tiền chi lương thì tôi không hiểu thế nào”
Không bình thường ở chỗ lời phát biểu của ông Sinh Hùng phủ định hoàn toàn kết quả kinh tế - xã hội 9 tháng. Báo Thanh Niên, báo Tuổi Trẻ là 2 tờ báo “cánh tay phải của Đảng” đã đưa tin khá cụ thể lời của ông Nguyễn Sinh Hùng. Tuy vậy, vẫn cần phải nêu lại để mọi người suy gẫm. Ông nói:
“Phải cân bằng thu – chi. Thu lấy mà chi, chứ bây giờ cứ phát hành trái phiếu lu bù, vay lu bù để chi thì chết thôi”.
“Thu được đồng nào các đồng chí đem xài hết, chi đầu tư các đồng chí hãm lại, rồi cứ vay nợ ào ào. Như vậy thì làm sao phát triển được đất nước, rồi trả nợ không được thì sụp đổ”.
“Cứ ăn hết lấy gì mà tiêu, ăn hết mà không có tiền chi lương thì tôi không hiểu thế nào”.
Ông cũng phê bình báo cáo của chính phủ lời văn quá cứng nhắc khi đề xuất không tăng lương trong năm 2015, không bố trí được nguồn vốn giải quyết an sinh xã hội. Ông nhắc nhở chính phủ phải điều chỉnh lại cơ cấu chi: “Các đồng chí tính thế nào thì tính, phải đảm bảo 50% chi thường xuyên, 30% chi đầu tư, 20% trả nợ trong tổng chi ngân sách”.
Ông cũng phê bình gay gắt các bộ trưởng, ông nói: “Hiện nay nhiều lãnh đạo bộ ngành ngồi thụ động, chờ có bao nhiêu tiền để chi. Thu được đồng nào các đồng chí đem xài hết”. Ông còn nói nhiều về sự yếu kém trong điều hành về tài chính, tiền tệ; để tỷ lệ nợ công quá cao. Ông nói: “Tôi thấy xấu lắm rồi. Trước đây chúng ta vay hạn 10, 15, 20 năm. Bây giờ các đồng chí phát hành trái phiếu chỉ có 2, 3 năm và thậm chí chỉ 1 năm. Vậy cái việc trả nợ đè lên đầu lên cổ làm sao mà sống được …”.
Trong bài viết này, tôi không đi sâu vào phân tích đúng sai giữa thông tin của Chính phủ với những thông tin của Uỷ ban Kinh tế - Ngân sách của Quốc hội và phát biểu của ông Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng. Vì cá nhân tôi không đủ thông tin và không đủ tầm để nêu vấn đề đó. Với tư cách là cán bộ đã lãnh đạo Văn phòng Chính phủ nhiều năm thì đây là lần đầu tiên có chuyện người đứng đầu Quốc hội lại công khai phản bác đánh giá của Chính phủ với lời lẽ nặng nề như vậy. Tôi có cảm tưởng ông Nguyễn Sinh Hùng đang đứng ngoài hệ thống chính trị của nước ta, ông là người có quyền lực nhất của nước này. Bản thân tôi thấy có cái gì đó thật khác lạ.
Câu chuyện này tôi có trao đổi với một số anh em có trách nhiệm trong Chính phủ và cả những anh đã nghỉ công tác rồi. Chúng tôi đều thống nhất đưa ra những nhận xét, đánh giá rất tiêu cực về ông Nguyễn Sinh Hùng, vì ông cũng mới từ Chính phủ mà ra. Có thể những đánh giá của chúng tôi sau đây khiến ông Nguyễn Sinh Hùng bực tức, nhưng sự thật nó vẫn là sự thật.

1) Một là: những phát biểu của ông trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội vừa qua là có chủ đích nhằm tấn công Chính phủ và ông Thủ tướng.
Ngay sau khi ông phát biểu, 2 tờ báo của Đoàn thể là Thanh Niên và Tuổi Trẻ đăng tin ngay, tường thuật đầy đủ chi tiết nội dung để chuyển tải đến toàn xã hội.
Vậy tại sao ông lại tấn công Thủ tướng và Chính phủ mạnh mẽ như vậy? Qua tìm hiểu tình hình từ những người thân của ông thì được biết – ông đang tích cực vận động để được tái cử ở Đại hội XII sắp tới. Ông Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng bí thư, đã cho biết ông Sinh Hùng đã đặt vấn đề với ông về việc ủng hộ tái cử làm Thủ tướng hoặc Tổng bí thư. Số người thân cận ông như Hoàng Văn Chánh, Hà Văn Thắm hay em ruột là bà Nguyễn Hồng Phương (Chủ tịch tập đoàn SSG) cũng đã úp mở tiết lộ vấn đề này. Trong các cuộc nói chuyện với số người thân cận gần đây, ông đã phê phán thẳng thừng việc điều hành của Thủ tướng và các bộ. Ông cho các đệ tử biết đã nhiều lần ông trao đổi với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang những tin xấu về tình hình kinh tế - xã hội. Ông cũng nói với các đệ tử rằng trong số các uỷ viên Bộ Chính Trị hiện nay, thì không ai hơn được ông, chỉ có ông mới cứu vớt được tình hình kinh tế nước ta hiện nay.
Ông tin rằng, nếu hạ uy tín của Chính phủ và cá nhân ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào lúc này thì sẽ rất có lợi cho ông. Những lời phát biểu của ông chắc chắn sẽ được sự ủng hộ của dư luận. Việc bố trí Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nghe Chính phủ báo cáo tình hình kinh tế - xã hội vào lúc này cũng là có sự tính toán của ông. Ông đã cử những Chủ nhiệm Uỷ ban như Nguyễn Văn Giàu (một người đã gây nhiều hậu quả cho hệ thống ngân hàng) đi kiểm tra và báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, lại được sự bổ sung tình hình của các trưởng ban của Quốc hội như Phùng Quốc Hiển, Trương Thị Mai và của phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân …làm tựa đề cho lời phát biểu của ông Chủ tịch Quốc hội. Tất cả tình hình đó sẽ được đưa tới kỳ họp Quốc hội sắp tới để ông điều hành “đấu tố” Thủ tướng, các Bộ trưởng dưới hình thức chất vấn của các đại biểu Quốc hội, nhằm hạ uy tín của Thủ tướng và các thành viên chính phủ. Dự kiến của ông sẽ là tấn công Thống đốc Ngân hàng, Bộ trưởng Tài chính và Bộ trưởng Bộ Công an (BCA). Ông cho rằng những người này “thân với Thủ tướng”.
Ngoài mục đích trên, những phát biểu của ông Sinh Hùng còn để trả thù việc Thủ tướng và Bộ trưởng BCA đã kiên quyết bắt giam đệ tử của ông là Trần Trọng Phúc, cựu Tổng giám đốc Tập đoàn Bảo Việt về tội tham ô. Anh này là một trong những đệ tử “tay hòm chìa khoá”, chuyên đi thâu tóm các ngân hàng cho gia đình ông. Trước lúc ông Phúc bị bắt, ông Sinh Hùng đã can thiệp rất quyết liệt nhưng không thành, nên ông rất uất hận và sinh ra hằn thù.


​Cựu Tổng Giám đốc Tập đoàn Bảo Việt (BVH) Trần Trọng Phúc bị khởi tố ngay trước thềm đại hội cổ đông (21/4/2014)
2) Có người nói nói ông Sinh Hùng gần đây mới thay tính đổi nết. Nhưng những ai đã cùng thời làm việc với ông Sinh Hùng thì không coi như vậy. Cuộc đời ông từ nhỏ đến lớn không biết khói lửa chiến tranh là gì. Ông học trong nước và sống ở Tây nhiều năm. Khi về nước là anh viên chức ngành tài chánh, sống buông thả, suốt ngày chơi bi-a, nhất là lúc vợ trước của ông (bà Võ Thị Minh Châu, hơn ông Hùng 1 tuổi, công tác tại Bộ Nông nghiệp) theo trai trong thời gian ông đi Tây. Ông thường được đàn em dẫn dắt tới các điểm bia ôm, mát-xa, gái gú. Cho tới khi lấy cô vợ hai bán bia, ông vẫn chưa bỏ được tật ấy.

​Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng và cô vợ trẻ Lê Thị Mai Hương (sinh năm 1968, nhỏ hơn ông Hùng gần 2 giáp) từ cô gái bán bia ôm "bỗng nhiên" được trở thành Đảng viên, cán bộ Phòng Tổ chức Cán bộ, Bộ TT&TT
Ông ta sống cuộc sống ích kỷ, chỉ biết mình. Ai đã công tác ở Chính phủ đều rất coi thường, và tuy công tác với nhau nhiều năm, nhưng không ai coi Sinh Hùng là bạn. Vì những tật xấu của ông ta thuộc về bản chất.
Nhờ truyền thống cách mạng của dòng họ Nguyễn Sinh nên ông Sinh Hùng được quan tâm cất nhắc, đề bạt nhanh chóng kể từ khi giữ chức Bộ trưởng Bộ Tài Chính đến chức Phó Thủ tướng, UVBCT. Đó là những năm tháng Sinh Hùng đã thể hiện được tính chất tham tiền, tham chức nhất. Nét nổi trội trong tính cách của Sinh Hùng là dùng quyền hành, chức vụ cao để nắm giữ hệ thống tài chánh. Ông ta thâu tóm những dự án quan trọng như đầu tư về cầu đường,thuỷ điện, đất đai nội thành, dầu khí, bia rượu và ngân hàng. Những việc khuất tất ông làm đã được tất cả các báo mạng tung tin ra cuối năm 2013.
Trong đó có các vụ ông dính sâu vào tiêu cực như vụ Hà Văn Thắm – Chủ tịch ngân hàng Đại Dương thâu tóm Ngân hàng Bảo Việt, hoặc Hoàng Văn Chánh (Chánh buôn Vua) đều là sự thật. Rõ nhất là việc ai đó đã ghi âm được cả bằng chứng ông Sinh Hùng chỉ đạo Hà Văn Thắm thôn tính Ngân hàng Bảo Việt và đòi trừng trị Tổng cục Trưởng Tổng cục Cảnh sát Phan Văn Vĩnh khi ông này ra lệnh kiểm tra về Thắm; là bằng chứng ông đứng sau nhóm tội phạm. Mọi lợi ích của nhóm này đều chảy về túi Nguyễn Hồng Phương - em gái ruột của ông Sinh Hùng, Chủ tịch tập đoàn SSG- nắm giữ; trong đó có gần 40 công ty con hoạt động khắp cả nước. Nhờ vậy mà ông Sinh Hùng nắm rất chắc tình hình kinh tế - xã hội, trong đó có việc em gái ông và các đệ tử của ông thao túng các Ngân hàng, rồi ông lại lấy đó để phê phán Chỉnh phủ, phê phán Thống đốc Ngân hàng và Bộ trưởng Tài Chính là quản lý Ngân hàng kém.

​Ông Nguyễn Sinh Hùng và em gái Chủ tịch SSG Nguyễn Hồng Phương
3) Khi đã có tiền rồi, ông và các đệ tử lại tính đến việc ngồi ghế quyền lực lâu dài, nhất là khi ông thoát không bị “sờ đến” trong vụ Vinashin. Trong bối cảnh ông Nguyễn Tấn Dũng bị quy về trách nhiệm chính trị, có nguy cơ bị nhóm Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang cho án kỷ luật, Nguyễn Sinh Hùng tin rằng ông Dũng sẽ bị truất quyền Thủ tướng. Trong trường hợp đó, ông tính toán người thay thế chỉ có thể là ông. Vì vậy, ông Sinh Hùng đã tích cực vận động ông Trọng, ông Phiêu ủng hộ. Ông Phiêu đã viết thư khuyên ông Dũng hãy chủ động xin từ chức, nhưng điều đó đã không xảy ra. Vì ý đồ của ông bị lộ và vấp phải sự phản ứng của ông Trương Tấn Sang, khi đó cũng muốn thay Thủ tướng.

Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng và ông Lê Khả Phiêu
​Ý đồ tiếp tục ngồi lại ghế quyền lực khoá tới vẫn rất sôi động trong con người ông Sinh Hùng. Từ ngày ngồi ghế Chủ tịch Quốc Hội, ông ta tìm mọi cách để củng cố quyền lợi cho mình. Ông đã thành công trong việc biến Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội thành một cấp quyền lực mới; bắt các Bộ, Ngành báo cáo tình hình để phán quyết còn mạnh hơn Bộ Chính Trị. Mọi hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội là nhằm kiểm soát hoạt động của Chính phủ. Đặc biệt, ông dùng quyền điều khiển các kỳ họp Quốc Hội để chất vấn Thủ tướng và các thành viên Chính phủ với giọng rất hách dịch. Ông cũng luôn khẳng định: Quốc Hội là cơ quan quyền lực cao nhất nên mới đây, trong đại hội Mặt trận Tổ quốc, ông đã ép Ban Tổ chức Hội nghị phải giới thiệu ông trước ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Những đánh giá, kết luận của ông trong các phiên họp Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội được Tuổi Trẻ, Thanh Niên tung hô kịp thời; và ông tin rằng ông đang được dư luận ủng hộ. Trong đó, phải kể đến kết luận phiên họp của Quốc Hội lấy phiếu tín nhiệm Thủ tướng và các Bộ trưởng trong Chính phủ năm 2013. Khi Thủ tướng có được trên 70%, một số Bộ trưởng và Thống đốc Ngân hàng được phiếu tín nhiệm thấp hơn nữa, thì ông đã kết luận rằng “kết quả của lấy phiếu tín nhiệm Chính phủ là phản ánh đúng tình hình Kinh tế - Xã hội, là hợp với lòng Dân, ý Đảng”. Nhưng mỉa mai thay, chỉ vài ngày sau đó, kết quả lấy phiếu tín nhiệm này bị dư luận lên án vì những người quần quật làm việc thì phiếu thấp; người chỉ nói nhiều, làm ít như 1 vị ĐB Quốc Hội nào đó thì phiếu tín nhiệm lại cao. Sau đó, ông Nguyễn Phú Trọng đã phải tạm hoãn việc lấy phiếu tín nhiệm để rút kinh nghiệm.
Vì vậy, ta cần xem phát biểu của ông Sinh Hùng ở Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội về tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng vừa qua, trong đó phê phán Chính phủ, gần như phủ định hết thành quả, có phải là hành động dọn đường cho ông ở kỳ họp Quốc Hội thứ 8 diễn ra vào 20/10 này không? Chờ xem Chính phủ sẽ chịu trảm thế nào ?

4) Ai đã từng tham gia TW, và là thành viên của Chính phủ đều biết quá rõ số phận của ông Sinh Hùng trước Đại Hội XI thế nào. Có thể nói bản thân ông Sinh Hùng không nghĩ có thể còn được tái cử TW nữa hay không, khốn chi lại được vào Bộ Chính Trị rồi được bầu làm Chủ tịch Quốc Hội. Trong khi ghế đó là của Phạm Quang Nghị theo dự kiến.
Bởi vì ai cũng biết Nguyễn Sinh Hùng đã dính nặng vào việc làm chìm đắm Vinashin. Theo ông Nguyễn Văn Chi, Trưởng ban Kiểm tra Đảng và ông Lê Hồng Anh, Bộ trưởng BCA lúc đó, đã cho rằng ông Nguyễn Sinh Hùng là người phải chịu trách nhiệm chính làm thất thoát tiền của Nhà nước và phải truy cứu trách nhiệm hình sự, lúc đó ông làm Bộ trưởng Tài chính. Theo quyết định của Thủ tướng Phan Văn Khải thì số tiền Nhà nước vay của nước ngoài 650 triệu USD phải được đưa vào 1 Ngân hàng để quản lý. Nhưng ông Sinh Hùng đã không chấp hành. Ông đã chuyển thẳng số tiền đó cho Công ty Tài chính của Vinashin. Từ đó, Phạm Thanh Bình – Tổng giám đốc của Vinashin- mới có điều kiện tung hoành tự tác.
Theo ông Nguyễn Văn Chi thì Uỷ ban Kiểm tra có nêu những vi phạm của ông Sinh Hùng ra Bộ Chính Trị và yêu cầu phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Nhưng ông Sinh Hùng đã thoát được là nhờ khi đó ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhận hết trách nhiệm về mình, với tư cách là người đứng đầu Chính phủ. Trong nhiều cuộc họp của Ban cán sự Chính phủ, ông Tấn Dũng đã bảo vệ ông Sinh Hùng khỏi bị kỷ luật.

​Nguyễn Sinh Hùng ngày trước (Trong vai trò Trưởng ban Tái cơ cấu Vinashin): “Từ năm 2014, Vinashin có lãi”
Sự việc ông Sinh Hùng không bị kỷ luật vụ Vinashin, được biết ông Nguyễn Văn Chi tuy đã nghĩ hưu rồi mà vẫn ấm ức. Các thành viên Chính phủ ai cũng biết rất rõ điều này, chỉ riêng ông Sinh Hùng mới “không biết” nên ông đã phản lại Chính phủ theo cách mà người đời vẫn gọi là “kẻ ăn cháo đá bát”.
Thật không may cho nước nhà có một vị đứng đầu Quốc Hội tồi tệ như thế.
Với những gì ông tích luỹ được khi làm Phó Thủ tướng trong Chính phủ; ông Sinh Hùng đã triệt để sử dụng để tấn công hòng làm mất uy tín của Chính phủ, của Thủ tướng, để đề cao vai trò cá nhân và quyền uy của mình. Nhưng ông đã tính nhầm, tất cả những ai đã công tác ở Chính phủ đều biết rất rõ về con người háo danh, tham lam và suy đồi của ông. Ông chính là con chuột đang gặm nhấm, phá hoại kinh tế đất nước, nhưng khổ thay, ông đã chui được vào một bình hoa quý mà người đang chủ trì việc đánh chuột lại sợ “vỡ bình hoa”, sự nghiệp phòng chống tham nhũng sẽ đi về đâu? Số phận dân đen sẽ đi về đâu? Dù hiện nay, ông đang phát biểu rất mạnh, hạ bệ vai trò của cả bộ máy và tự đánh bóng mình để dư luận thấy ông là người có năng lực điều hành đất nước. Nhưng hãy nhìn vào năng lực của ông từ xưa đến giờ sẽ rõ, dù ông có nói hay đến mấy thì Nhân dân cũng khó có thể thay đổi cách nhìn về ông. Ông chỉ có tài lừa dối tổ chức Đảng, chứ không lừa dối được dư luận. Hãy chờ xem ông sẽ bày trò gì ở Quốc hội kỳ này và kết quả tín nhiệm dành cho ông ra sao!
Viết theo ghi chép cuộc nói chuyện với một đồng chí Nguyên Phó Chủ nhiệm VPCP (Xin được phép dấu tên)
Posted by sontrung at 10:42 AM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 335
Saturday, October 25, 2014
TIN THẾ GIỚI

 Giới lập pháp Mỹ yêu cầu rút hoặc hoãn việc dỡ bỏ cấm vận võ khí cho VN
    In
    Ý kiến (66)
    Chia sẻ:
Thượng nghị sĩ Cộng hòa Marco Rubio
Thượng nghị sĩ Cộng hòa Marco Rubio

    [Pin It]
Tin liên hệ
    Việc trục xuất blogger Điếu Cày là bất hợp pháp?
    Hình ảnh/Video Điếu Cày tới Mỹ- Phỏng vấn nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng
    Nghe Blogger Điếu Cày được phóng thích sang Mỹ
    Blogger Điếu Cày trong mắt bạn tù
    Mỹ hoan nghênh việc trả tự do cho blogger Điếu Cày
    Video Mỹ-Việt tiến thêm một bước hướng tới quan hệ đối tác quốc phòng
    Trợ Lý Ngoại trưởng Mỹ Tom Malinowski đến Việt Nam
    Hoa Kỳ nới lỏng lệnh cấm bán võ khí sát thương cho Việt Nam
Trà Mi-VOA
24.10.2014
Một nhóm Thượng nghị sĩ Mỹ vừa gửi thư cho Tổng thống Barack Obama yêu cầu rút hoặc hoãn việc dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam vì thành tích nhân quyền tồi tệ của Hà Nội.
Thư đề ngày 23/10 của 4 Thượng nghị sĩ Cộng hòa Marco Rubio, John Cornyn, John Boozman, và David Vitter khẩn thiết kêu gọi chính quyền của ông Obama cân nhắc và bảo đảm rằng việc Mỹ nới lỏng một phần lệnh cấm vận phải gắn liền với các tiến bộ cụ thể về nhân quyền và cải tổ chính trị ở Việt Nam.
Tác giả kiến nghị thư nói họ ủng hộ Hoa Kỳ giúp các đối tác và đồng minh giải quyết những lo ngại về các tuyên bố chủ quyền lấn lướt của Trung Quốc ở vùng biển Châu Á-Thái Bình Dương nhưng sự hợp tác an ninh với một nước có thành tích nhân quyền tệ hại dai dẳng như Việt Nam nên được căn cứ vào những tiến bộ trong việc tôn trọng các quyền tự do căn bản của công dân.
Thượng nghị sĩ John CornynThượng nghị sĩ John Cornyn
Các nhà lập pháp trong Thượng viện Mỹ nhấn mạnh dù Việt Nam có biểu hiện một ít cải thiện trong vài lĩnh vực giới hạn kể từ khi Quốc hội Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ mậu dịch với Hà Nội năm 2006, nhưng chưa thực hiện lời hứa lúc đó rằng quan hệ kinh tế mở rộng hơn sẽ dẫn tới cởi mở chính trị hơn tại Việt Nam.
Những người đồng ký tên trong thư nhắc nhớ rằng quốc gia độc tài-độc đảng Việt Nam hạn chế nghiêm ngặt các quyền tự do lập hội, tự do quan điểm, tự do báo chí, và tự do Internet giữa lúc nạn tra tấn bạo hành của lực lượng công quyền ngày càng đáng báo động.
Thư nói trong khi Mỹ nỗ lực cải thiện quan hệ với Hà Nội từ năm 2011-2013, số người bị bắt giam vì các hoạt động ôn hòa tại Việt Nam lại càng cao, số tù nhân không ngừng gia tăng, và số lượng được thả không theo kịp số mới bị bắt.
Bấm vào nghe bài tường trình
    Danh mục
    Tải
Thư nêu rõ đa số các vụ phóng thích tù nhân lương tâm trong năm nay đều được thực hiện dựa trên điều kiện thỏa thuận với Mỹ và hầu như tất cả những người được thả đều trong tình trạng sức khỏe suy kém giữa lúc hơn 150 người khác bị phạt tù vì hành xử quyền tự do ngôn luận trong những năm gần đây vẫn còn bị giam cầm, kể cả trường hợp của luật sư nhân quyền nổi tiếng Lê Quốc Quân, doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức, linh mục Nguyễn Văn Lý, và blogger Tạ Phong Tần.
Với những lý do và dẫn chứng cụ thể trình bày trong thư, 4 Thượng nghị sĩ Cộng hòa ký đơn kêu gọi Tổng thống Mỹ coi lại hoặc trì hoãn việc chuyển giao bất kỳ dịch vụ và thiết bị an ninh nào cho Việt Nam cho tới khi nào Hà Nội cải thiện đáng kể các chính sách vi phạm nhân quyền.
Thư được gửi đi giữa lúc Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ đặc trách Dân chủ Nhân quyền Lao động Tom Malinowski và Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Michael Froman đang thăm và làm việc tại Việt Nam trước chuyến công du dự kiến của Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel tới Hà Nội vào tháng sau.
Một trong những nhà hoạt động hàng đầu thúc đẩy nhân quyền Việt Nam tại hải ngoại nhận định văn thư này có tác dụng quan trọng giữa bối cảnh Việt-Mỹ đang tìm cách thắt chặt quan hệ thương mại-quân sự, đặc biệt là tăng cường hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng trước sự giương oai diễu võ của Trung Quốc ở Biển Đông.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, phát ngôn nhân của Liên Minh Cho Một Việt Nam Tự Do Và Dân Chủ gần đây đã mở ra nhiều cuộc vận động lớn về nhân quyền Việt Nam nhắm vào chính giới Hoa Kỳ, nói với VOA Việt ngữ:
“Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ sắp đi Việt Nam. Thư này sẽ yểm trợ cho tiếng nói của ông để nối kết vấn đề quốc phòng và vấn đề nhân quyền, cho Việt Nam thấy cần phải nhượng bộ về nhân quyền khi muốn mở rộng quan hệ với Mỹ về mọi mặt. Đây là lúc rất quan trọng để đưa ra thông điệp vừa rồi từ 4 Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ. Thể thức ở Thượng viện cho phép dù chỉ 1 Thượng nghị sĩ thôi cũng có thể cản chặn đựơc những đạo luật. Cho nên, hành pháp Hoa Kỳ luôn rất quan tâm đến tiếng nói của các Thượng nghị sĩ, dù chỉ một người.”
Thư của 4 Thượng nghị sĩ gửi Tổng thống Obama nói nỗ lực giúp Việt Nam cải thiện khả năng quốc phòng hàng hải sẽ bền vững nếu kèm theo chứng tỏ tôn trọng nhân quyền từ phía Hà Nội, mà thể hiện cụ thể nhất là phóng thích vô điều kiện tất cả tù nhân lương tâm, hủy bỏ các điều luật hình sự hóa những tiếng nói bất đồng chính kiến ôn hòa, và trả lại tài sản tước đoạt của các giáo hội và cộng đồng tôn giáo.
Nếu đảng Cộng Hòa chiếm được đa số ở Thượng Viện sau cuộc bầu cử ngày 4/11, Thượng nghị sĩ Rubio ký tên trong thư có thể trở thành Chủ Tịch Tiểu Ban Á Châu-Thái Bình Dương của Thượng Viện Hoa Kỳ.
Trong 3 người ký tên còn lại, Thượng nghị sĩ Cornyn là tác giả Dự Luật Chế Tài Những người Vi Phạm Nhân Quyền ở Việt Nam và Thượng nghị sĩ Boozman là người đưa Dự Luật Nhân Quyền Việt Nam vào Thượng Viện đầu năm nay.
Cùng ngày 23/10, 8 dân biểu ở Hạ viện đã gửi thư cho Đại diện Thương mại Mỹ Michael Froman, thúc giục áp lực Việt Nam thể hiện tiến bộ cụ thể về nhân quyền trước khi có thể gia nhập Hiệp định Tự do Thương mại Xuyên Thái Bình Dương TPP.
Hai bên Việt-Mỹ mong muốn có thể đúc kết thỏa thuận TPP trước cuối năm nay, nhưng nhà hoạt động Nguyễn Đình Thắng cho rằng có rất ít hy vọng đạt được điều đó. Và thời gian kéo dài cuộc thương thảo, vẫn theo lời ông, là cơ hội giúp thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa nhân quyền cho Việt Nam.
Hà Nội một mực khẳng định luôn tôn trọng và thăng tiến các quyền căn bản của công dân.
YouTube
Trà Mi-VOA
 http://www.voatiengviet.com/content/gioi-lap-phap-my-yeu-cau-rut-hoac-hoan-do-bo-cam-van-vo-khi-cho-vn/2495141.html
  Tổng thống Nga lên án Mỹ tìm cách thống trị thế giới
    In
    Chia sẻ:
Ông Putin liên kết lý thuyết của ông về những tham vọng chính trị của Tây phương với cuộc khủng hoảng Ukraine.
Ông Putin liên kết lý thuyết của ông về những tham vọng chính trị của Tây phương với cuộc khủng hoảng Ukraine.

    [Pin It]
Tin liên hệ
    Tổng thống Nga cáo buộc Mỹ muốn áp đặt bá quyền
    Ukraine, Nga, EU không đạt được thỏa thuận về giá khí đốt
    Ukraine và Nga sẽ nối lại các cuộc đàm phán trong tuần tới ở Brussels
25.10.2014
Trong một ngôn từ làm nhớ lại Chiến tranh Lạnh, Tổng thống Nga Vladimir Putin lên án Mỹ về điều ông gọi là đang nỗ lực thống trị thế giới.
Phát biểu hôm thứ Sáu tại thành phố Sochi ở miền nam nước Nga, ông Putin nói Washington đang nỗ lực điều khiển thế giới bằng “diktat đơn phương” hay mệnh lệnh đơn phương, một từ Moscow ưa dùng trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Ông Putin liên kết lý thuyết của ông về những tham vọng chính trị của Tây phương với cuộc khủng hoảng Ukraine.
Ông cho rằng Hoa Kỳ và các đối tác chịu tránh nhiệm về việc ông gọi là một “cuộc đảo chánh” tại Ukraine lật đổ cựu Tổng thống Viktor Yanukovych có liên hệ chặt chẽ với Nga.
 http://www.voatiengviet.com/content/tong-thong-nga-len-an-my-tim-cach-thong-tri-the-gioi/2496564.html
Tổng thống Obama tiếp y tá gốc Việt Nina Pham
Thụy My
media
Ông Obama ôm lấy Nina Pham, sau khi cô vừa xuất viện điều trị bệnh Ebola - Reuters /Larry Downing
Hôm qua 24/10/2014 Tổng thống Mỹ Barack Obama đã tiếp đón Nina Pham, nữ y tá gốc Việt ở Texas vừa lành bệnh Ebola. Một cử chỉ mang tính biểu tượng cao : ông Obama đã ôm lấy Nina Pham, chỉ vài giờ sau khi cô vừa xuất viện.
Nina Pham, bị lây nhiễm Ebola khi chăm sóc một bệnh nhân người Liberia nay đã tử vong, được đón tiếp tại Phòng bầu dục của Nhà Trắng cùng với mẹ và em gái. Trong cuộc gặp mà chỉ có các phóng viên ảnh được phép tham dự, Tổng thống Mỹ đã không ngần ngại ôm lấy cô.
Được chất vấn trong một cuộc họp báo, ông Earnest, phát ngôn viên chính phủ Hoa Kỳ, nhấn mạnh rằng ông Obama, vốn « không hề ngần ngại » về cuộc gặp này, muốn khen ngợi công việc của cô gái « đã lây bệnh vì chăm sóc bệnh nhân Ebola ».
Phát ngôn viên Nhà Trắng nói thêm: « Cô Nina Pham không làm việc ấy để được tăng lương, hay để nổi tiếng, mà cô làm chỉ vì đó là nghề nghiệp của cô. Sự kiện cô khỏi bệnh là một tin tức tuyệt vời. Đây cũng là bằng chứng cho thấy chúng ta có cơ sở hạ tầng y tế tốt nhất thế giới ».
Từ nhiều ngày qua, Tổng thống Obama kêu gọi người dân Mỹ đừng hoảng loạn, sợ hãi, nhấn mạnh rằng virus không lây lan một cách quá dễ dàng, và cơ sở y tế của Mỹ hoàn toàn có khả năng đối phó với những trường hợp nhiễm bệnh Ebola mới.
Cách đây mười ngày, Barack Obama đã nói : « Tôi bắt tay, ôm hôn các nữ y tá để cổ vũ công việc đầy can đảm của họ khi chăm sóc một bệnh nhân Ebola. Đội ngũ y tá tuân thủ các quy trình, các cô biết điều mình làm và tôi hoàn toàn cảm thấy an toàn ».
Trước đó trong cuộc họp báo, bác sĩ Anthony Fauci, giám đốc Viện Dị ứng và Bệnh lây nhiễm (NIAID) khi tuyên bố Nina Pham không còn dấu vết của virus, cho biết Viện Y tế Mỹ (NIH) đã tiến hành năm cuộc xét nghiệm và tất cả đều âm tính với virus. Trong phát biểu của mình, cô Nina Pham đã « cám ơn Thượng Đế, gia đình và bạn bè », và nói rằng cô nghĩ đến bao nhiêu người khác không có may mắn như cô.
Nina Pham nhập viện vào NIH hôm 16/10 vì bị lây nhiễm Ebola khi chăm sóc bệnh nhân người Liberia, Thomas Eric Duncan tại một bệnh viện ở Texas. Bệnh nhân này tử vong ngày 8/10. Nữ y tá thứ hai cũng bị lây nhiễm do chăm sóc bệnh nhân này là Amber Vinson, hôm qua cũng được khẳng định là không còn virus Ebola nhưng vẫn phải ở lại bệnh viện để được chăm sóc tiếp.
Cho đến nay, có tổng cộng 9 bệnh nhân Ebola trên đất Hoa Kỳ trong đó có 8 người Mỹ. Bảy người đã khỏi bệnh, chỉ có bệnh nhân người Nigeria tử vong.
Tại New York, thị trưởng ra lệnh cách ly bắt buộc đối với các hành khách có tiếp xúc với các bệnh nhân Ebola Tây Phi, sau khi phát hiện ca nhiễm Ebola đầu tiên ở thành phố này – bác sĩ Craig Spencer, làm việc cho Y sĩ Không biên giới, trở về từ Ghinê.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) hôm nay cho biết các vắc-xin ngừa Ebola sẽ được thử nghiệm, có thể vào tháng 12 tới, tại ba nước Tây Phi đang bị dịch bệnh này hoành hành.
 http://vi.rfi.fr/obama-om-y-ta-nina-pham
Hội nghị Trung ương 4 : Tập Cận Bình củng cố quyền lực
Đức Tâm
media
"Y pháp trị quốc" cũng có nghĩa là sử dụng các định chế pháp luật để "củng cố chế độ độc đảng" - AFP /F.J. BROWN
Trong bốn ngày, kể từ hôm nay, 20/10/2014, đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 18 họp Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư. Nội dung chính của Hội nghị lần này là « y pháp trị quốc », tức cai trị đất nước bằng pháp luật.
Ban Chấp hành Trung ương của mỗi khóa Đại hội Đảng, là cơ quan quyền lực cao nhất, bầu ra Bộ Chính trị và Tổng Bí thư. Do vậy, theo giới quan sát, có một số động thái cho thấy, Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương là cơ hội quyết định, tạo tính chính đáng để Tổng Bí thư Tập Cận Bình củng cố quyền lực qua việc gạt bỏ hẳn những đối thủ đáng gờm có chân rết sâu rộng, như Chu Vĩnh Khang, Từ Tài Hậu, sắp xếp người thân cận vào các vị trí trọng yếu, đặc biệt trong Quân Ủy Trung ương.
Ngày 15/10 vừa qua, website Nhân Dân nhật báo, cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc cho biết, ban Kỷ luật và Thanh tra Đảng sẽ thông báo việc điều tra tham nhũng của Chu Vĩnh Khang, nguyên ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, cựu Bộ trưởng Công an. Và dường như đang có các thảo luận liên quan đến việc « có khai trừ Đảng đối với Chu Vĩnh Khang và chuyển trường hợp này cho cơ quan tư pháp hay không ». Thông tin này không được loan tải trên ấn bản giấy của tờ báo.
Vẫn theo nguồn tin này, Hội nghị Trung ương 4 cũng hoàn tất các thủ tục khai trừ Đảng và chuyển cho Viện Kiểm sát trường hợp một số nhân vật, vốn là cộng sự thân cận của Chu Vĩnh Khang, như Lý Xuân Thành (Li Chuncheng), cựu Phó Bí thư tỉnh ủy Tứ Xuyên (Sichuan), Lý Đông Sanh (Li Dongsheng), nguyên Thứ trưởng Công an, Tương Khiết Mẫn (Jiang Jiemin), cựu lãnh đạo Ủy ban quản lý tài sản công, Vương Vĩnh Xuân (Wang Yongchun), nguyên Phó Chủ tịch tập đoàn dầu khí Petrochina (China National Petroleum Corp).
Trong một trường hợp khác không liên quan đến Chu Vĩnh Khang, Hội nghị Trung ương 4 cũng xem xét hoàn tất thủ tục hạ bệ Vạn Khánh Lương (Wan Qinglian), cựu Bí Thư tỉnh ủy Quảng Châu.
Khi tấn công vào Chu Vĩnh Khang, về hưu từ năm 2012, Tập Cận Bình đã bác bỏ một luật lệ bất thành văn trong nội bộ đảng Cộng sản Trung Quốc là không đụng chạm tới các quan chức cao cấp khi đã nghỉ hưu. Hành động của Tập Cận Bình có thể làm dấy lên phản ứng mạnh mẽ của các cựu lãnh đạo Đảng, vì lo sợ là sau Chu, thì đến lượt họ và gia đình sẽ bị « sờ gáy ».
Tuy nhiên, một nguồn thạo tin cho Reuters biết là hai cựu Tổng Bí thư có ảnh hưởng lớn là Hồ Cẩm Đào và Giang Trạch Dân, ủng hộ việc Tập Cận Bình cho điều tra Chu Vĩnh Khang. Mặt khác, đây là một sự mạo hiểm có tính toán của lãnh đạo Trung Quốc. Nhân danh chống tham nhũng, đập ruồi đả hổ, Tập Cận Bình sẽ có được sự ủng hộ của công luận.
Các nguồn tin từ Hồng Kông cho hay là Hội nghị Trung ương 4 cũng sẽ đề cập đến vấn đề nhân sự trong Quân Ủy Trung ương, Và nêu ra hai lý do chính.
Hồi tháng Sáu, Từ Tài Hậu, Phó Chủ tịch Quân Ủy đã bị cáo buộc tham nhũng. Tuy bị hạ bệ, nhưng Từ Tài Hậu vẫn còn nhiều ủng hộ, ngay trong Quân Ủy. Do vậy, Tập Cận Bình phải gạt bỏ các nhân vật này và đưa vào đây một số người được coi là thân cận. Báo chí nói đến Lưu Nguyên, con trai cố Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ, hiện là Chính ủy Tổng Cục Hậu Cần, Trương Hựu Hiệp, lãnh đạo Tổng Cục Vũ khí Khí tài.
Một lý do khác là tình hình căng thẳng ở Biển Đông và biển Hoa Đông, do các tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền giữa Trung Quốc với Việt Nam, Philippines và Nhật Bản. Lãnh đạo Trung Quốc cần củng cố Quân Ủy, cơ quan lãnh đạo tối cao của quân đội.
Với chủ trương « Y pháp trị quốc » để bảo toàn ổn định xã hội, tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài, đảng Cộng sản Trung Quốc, nhân danh thượng tôn pháp luật, sẽ sử dụng luật pháp để duy trì tình trạng độc quyền lãnh đạo và Tổng Bí thư Tập Cận Bình có cơ hội và phương tiện củng cố thế lực của mình.
Ông Andew Nathan, chuyên gia về Trung Quốc, tại đại học Columbia, New York, Hoa Kỳ, giải thích, đối với đảng Cộng sản Trung Quốc, « lãnh đạo bằng pháp luật có nghĩa là sử dụng các định chế pháp luật như viện kiểm sát, tòa án, các nhà làm luật, để tiếp tục củng cố chế độ độc đảng ».
http://vi.rfi.fr/chau-a/20141020-hoi-nghi-trung-uong-4-tap-can-binh-cung-co-quyen-luc/

Pháp : Khủng hoảng trong Đảng Xã hội
Thanh Phương
media
Thủ tướng Pháp Manuel Valls lúc phát biểu trước Quốc hội ngày 21/10/2014.AFP
Có lẽ chưa bao giờ Đảng Xã hội, đảng hiện cầm quyền tại Pháp, lại rơi vào khủng hoảng trầm trọng như vậy, đến mức mà thủ tướng đương nhiệm Manuel Valls đã đề nghị nên đổi tên đảng cánh tả này.
Khủng hoảng nội bộ Đảng Xã hội đã khởi đầu từ thứ ba vừa qua, 21/10/2014. Hôm đó, trong cuộc biểu quyết về ngân sách năm 2015, 39 dân biểu thuộc các đảng cánh tả, trong đó có Đảng Xã hội, đã không bỏ phiếu. Một trong những dân biểu này, ông Benoit Hamon, cựu bộ trưởng Giáo dục, cho biết họ hành động như vậy bởi vì, theo ông, chính sách của chính phủ hiện nay « đe dọa nền Cộng hòa » và sẽ dẫn đến « một thảm họa dân chủ to tớn » vào năm 2017, tức là khi Pháp bầu lại tổng thống và Quốc hội. Ngay lập tức, phát ngôn viên của chính phủ Stéphane Le Foll đã phản pháo, yêu cầu ông Hamon nên rời khỏi Đảng Xã hội.
Cả hai ông Hamon và Le Foll sau đó đã dịu giọng lại đôi chút. Thư ký thứ nhất của Đảng Xã hội Jean- Christophe Cambadélis cũng khẳng định với báo chí rằng ông không muốn ai rời bỏ đảng này, nhưng phản bác ông Hamon rằng mối nguy hiểm đối với nền Cộng hòa chính là đảng cực hữu Mặt trận Quốc gia, chứ không phải là Đảng Xã hội.
Vấn đề là trong số dân biểu Đảng Xã hội không bỏ phiếu cho ngân sách 2015, ngoài ông Hamon còn có cựu bộ trưởng Văn hóa Aurélie Filippetti. Cả hai đều bị mất chức trong cuộc cải tổ nội các thủ tướng Manuel Valls tháng 8 vừa qua.
Hành động của hai dân biểu này phản ánh căng thẳng giữa chính phủ của tổng thống François Hollande với nhóm các dân biểu « bất mãn » trong Đảng Xã hội.
Ông Hollande hôm qua đã khuyên thủ tướng Manuel Valls là không nên để bị lôi kéo vào các cuộc tranh cãi như vậy. Thế nhưng, trong một bài trả lời phỏng vấn đăng trên tuần báo Le Nouvel Observateur, phát hành ngày 22/10, ông Manuel Valls lại châm ngòi cho một cuộc tranh cãi khác, khi kêu gọi phải đoạn tuyệt với cái mà ông gọi là « cánh tả thủ cựu », cho rằng những người chỉ trích ông là những kẻ « lỗi thời ».
Đương kim thủ tướng Pháp chủ trương một cánh tả « thực dụng, cải tổ và đề nghị xây dựng « một ngôi nhà chung » cho toàn bộ các « lực lượng cấp tiến », thậm chí gợi ý là nên đổi tên Đảng Xã hội. Đây là một đề xuất mà thủ tướng Pháp đã đưa ra hai lần vào năm 2007 và 2011, và lần nào cũng gây nhiều phản ứng trong đảng.
Lần này cũng vậy, ý kiến của ông Manuel Valls đều đã bị bác ngay lập tức. Thư ký thứ nhất Đảng Xã hội Jean - Christophe Cambadélis đáp lại rằng : « Đảng Xã hội là một cái tên đẹp, đã qua nhiều thử thách, thế thì nên giữ lại tên này ». Lãnh đạo Đảng Xã hội cũng bác bỏ một đề xuất khác mà thủ tướng Valls mới đưa ra sáng nay, đó là liên kết với cánh trung để cầm quyền.
Hôm nay, ông Cambadélis kêu gọi mọi đảng viên Xã hội đoàn kết với nhau. Nhưng xem chừng lời kêu gọi của ông sẽ chẳng có tác dụng gì, nội bộ đảng này sẽ còn tiếp tục lủng củng.
Ngoài những diễn biến vừa nói ở trên, còn phải kể đến việc cựu thư ký thứ nhất của Đảng Xã hội Martine Aubry, sau 2 năm im hơi lặng tiếng, cách đây vài ngày đã phát ngôn trở lại, đòi chính phủ Manuel Valls phải thay đổi chính sách kinh tế nhằm « thúc đẩy tiêu thụ và tăng trưởng » cho nước Pháp. Nhưng thủ tướng Valls đã bác bỏ ngay lập tức yêu cầu của bà Aubry, vì theo ông làm như thế sẽ mất mọi thành quả đạt được cho đến nay.
Tóm lại, Đảng Xã hội đang ngày càng bị chia rẽ giữa những xu hướng chính trị khác nhau, thậm chí đối lập nhau và rất có thể là chẳng sớm thì muộn những bất đồng nội bộ này sẽ khiến đảng này bị phân hóa.
http://vi.rfi.fr/phap/20141023-phap-khung-hoang-trong-dang-xa-hoi/
Ông Dương Khiết Trì sắp thăm Việt Nam
    24 tháng 10 2014
Chia sẻ
Ông Dương Khiết Trì và ông Phạm Bình Minh trong cuộc gặp tại Hà Nội tháng 6/2014
Lãnh đạo ngoại giao cao cấp nhất của Trung Quốc sẽ thăm Việt Nam vào thứ Hai 27/10.
Phía Trung Quốc nói ông Dương Khiết Trì đã ‘nhận lời mời của Ngoại trưởng Phạm Bình Minh’.
Dự kiến hai bên sẽ bàn về “hợp tác song phương Trung – Việt”, nhưng phía Trung Quốc không nói rõ thêm chi tiết.
Hồi tháng Sáu, ông Dương Khiết Trì, Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc tới Việt Nam trong bối cảnh quan hệ giữa hai quốc gia đang căng thẳng do vụ Bắc Kinh đưa giàn khoan Hải Dương 981 ra Biển Đông
Ông Dương Khiết Trì được cho là người đã chỉ trích Việt Nam khi gặp Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh ở Hà Nội hôm 18/6/2014.
Người phát ngôn Trung Quốc Hoa Xuân Oánh được Tân Hoa xã dẫn lời mô tả vào lúc đó rằng ông Dương Khiết Trì đã nói với phía chủ nhà Việt Nam rằng các hoạt động của giàn khoan “hoàn toàn hợp pháp”.
Phóng viên của Reuters ghi nhận cảnh ông Dương và ông Minh bắt tay trước các phóng viên nhưng không mỉm cười.
Tân Hoa Xã khi đó đưa tin: "Ủy viên Quốc vụ Dương Khiết Trì chỉ rõ, đối với vấn đề trên biển hiện nay, hai bên cần phải xuất phát từ đại cục gìn giữ quan hệ giữa hai Đảng và hai nước, tránh mở rộng, làm phức tạp và quốc tế hoá vấn đề liên quan.
Căng thẳng vụ giàn khoan cũng dẫn tới một số cuộc biểu tình trên các thành phố lớn ở Việt Nam và trong đó xảy ra hai vụ bạo động có qui mô Bình Dương và Vũng Áng.
Hồi tuần trước, các nhà lãnh đạo của Trung Quốc và Việt Nam đã gặp gỡ bên lề hội nghị thượng đỉnh Á-Âu tại Italy và đã đồng ý “giải quyết và kiểm soát” tranh chấp trên biển.
Trong chuyến thăm Đức, Thủ tướng Dũng cũng đưa ra thông điệp rằng biện pháp pháp lý "là một biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế, là biện pháp tiến bộ và văn minh để giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia".
'Thoát Trung' hay 'hòa hiếu'
Ông Lê Hồng Anh gặp Chủ tịch Tập Cận Bình hồi tháng Tám năm nay.
Vào tháng Tám, Việt Nam xác nhận ba nguyên tắc "chỉ đạo phát triển" quan hệ Việt - Trung đạt được trong chuyến thăm Bắc Kinh của ông Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Truyền thông Trung Quốc và Việt Nam nói hai bên “đạt được nhận thức chung nguyên tắc ba điểm”.
Bàn về chuyến thăm Trung Quốc của ông Lê Hồng Anh, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng chuyên gia bang giao quốc tế thuộc Đại học George Mason nói với BBC khi đó rằng "Ở Việt Nam gần đây, có hai khuynh hướng, một khuynh hướng là 'Thoát Trung' và khuynh hướng còn lại là 'Hòa hiếu'.
"Trong những việc Việc Nam đưa ra nhiều chủ động, để có tính cách quyết liệt hơn, trong những năm tháng gần đây, nhất là vụ Giàn khoan (Hải Dương-981), thì chuyến đi này có nghĩa làm dịu đi sự căng thẳng của hai nước, tìm cách hậu thuẫn cho những phe chủ trương hòa hiếu", Giáo sư Hùng nói.
Bill Hayton, tác giả một cuốn sách về Biển Đông cho rằng Việt Nam không thể cắt đứt hoàn toàn quan hệ với Trung Quốc trong tranh chấp chủ quyền.
"Sẽ là dại dột nếu Việt Nam cắt đứt hẳn liên hệ với Trung Quốc vì kinh tế của Việt Nam có thể kiệt quệ, thất nghiệp sẽ là vấn nạn lớn.
"Do đó giới lãnh đạo Việt Nam dường như tách tranh chấp chủ quyền ra thành một chuyện riêng biệt trong khi tiếp tục có những mối quan hệ khác", ông Hayton nói với BBC trong cuộc phỏng vấn vào tháng này.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2014/10/141024_duong_khiet_tri_tham_vietnam
Mỹ đối phó Chiến lược Chống xâm nhập của Trung Quốc
    25 tháng 10 2014
Chia sẻ
Hoa Kỳ muốn dùng kế hoạch Tác chiến Không-Biển nhằm làm suy yếu Chiến lược Chống Tiếp cận, Chống Xâm nhập Khu vực của Trung Quốc, theo nội dung bản báo cáo mới ra của Viện Nghiên cứu Chính sách Trung Quốc (China Policy Institute).
Trong Báo cáo số 4, ra năm 2014 của Viện, đặt ở Đại học Anh Nottingham, tác giả Harry J. Kazianis đánh giá từ đầu những năm 2000, Trung Quốc đã nổi lên như một cường quốc khu vực với chiến lược Chống tiếp cận/ Chống xâm nhập khu vực (Anti-Access/Area Denial, viết tắt là A2/AD). BBC Tiếng Việt xin giới thiệu dưới đây một số nét chính của báo cáo này:
Báo cáo của China Policy Institute nói Chiến lược A2/AD của TQ đang thách thức ba mục tiêu lớn của Mỹ
Chiến lược A2/AD được chính quyền Bắc Kinh thúc đẩy phát triển nhằm làm chậm, hạn chế hoặc ngăn chặn kẻ thù công nghệ tiên tiến thực hiện các hoạt động đe dọa quân sự.
A2/AD được phát triển dựa trên sự kết hợp các yếu tố quân sự khác nhau như tàu ngầm diesel siêu yên tĩnh, hơn 80.000 thủy lôi, nhiều loại hình chiến tranh mạng, vũ khí chống vệ tinh và tấn công số đông của tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình.
Trong đó, quy mô lớn của các cuộc tấn công bằng tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình được đánh giá là điểm mạnh nhất của A2/AD, có thể phá hủy các sân bay, máy bay trên mặt đất và các tàu hải quân. Bên cạnh đó, các cuộc chiến tranh mạng cũng sẽ giúp Trung Quốc thống trị thông tin nhằm thu thập, khai thác và truyền tải thông tin tốt hơn, đồng thời ngăn chặn đối phương đạt được những khả năng này.
Các nhà phân tích cho rằng ý đồ của A2/AD nhắm đến lực lượng quân sự Mỹ và các đồng minh trong các hoạt động quân sự trên Biển Hoa Đông và Biển Đông, các vấn đề liên quan đến Đài Loan, và các hoạt động tại khu vực trong và xung quanh chuỗi đảo đầu tiên.

    Các nhà phân tích cho rằng ý đồ của A2/AD nhắm đến lực lượng quân sự Mỹ và các đồng minh trong các hoạt động quân sự trên biển Hoa Đông và biển Đông, các vấn đề liên quan đến Đài Loan, và các hoạt động tại khu vực trong và xung quanh chuỗi đảo đầu tiên.
Trung Quốc dường như đã rút kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng Đài Loan năm 1995-1996 khi Mỹ nhanh chóng triển khai sức mạnh không quân từ các hàng không mẫu hạm, hay cuộc khủng hoảng đảo Hải Nam năm 2001 khi một máy bay trinh sát EP-3 của Mỹ hoạt động trên không phận phía đông nam đảo Hải Nam Trung Quốc.
Trung Quốc đang phát triển toàn bộ các cơ sở trung tâm mới của A2/AD – được biết đến như ‘A2/AD 2.0’ với mục tiêu là duy trì khả năng hiện tại trong khi biến khu vực từ đường bờ biển của nước này ra đến chuỗi đảo đầu tiên trở thành vùng ‘cấm’ với Mỹ và các lực lượng đồng minh.
Trung Quốc có thể cũng đang tìm cách mở rộng khả năng chống tiếp cận bằng mọi cách đối với chuỗi đảo thứ hai.
Tác chiến không-biển của Hoa Kỳ (ASB)
Các nhà hoạch định Mỹ đã tìm cách đảm bảo ba khái niệm cơ bản xuyên suốt trong những thập niên tới.
Thứ nhất là nhằm duy trì ưu thế quân sự tuyệt đối trên tất cả các lĩnh vực của chiến tranh (đất liền, trên biển, trên không, không gian và mạng).
Tiếp đến là nhằm duy trì khả năng tập trung lực lượng và thâm nhập nhanh vào khu vực chiến sự.
Mục tiêu thứ ba là vẫn phải đảm bảo duy trì các lợi ích toàn cầu cho các thế hệ mai sau.
A2/AD của Trung Quốc rõ ràng đang thách thức ba mục tiêu này của Mỹ.
Để đối phó với A2/AD của Trung Quốc và duy trì ưu thế quân sự ở châu Á-Thái Bình Dương cũng như trên toàn cầu, Mỹ đưa ra chiến lược Tác chiến không-biển (Air-Sea Battle hay ASB) trong năm 2010.
Vào cuối mùa thu năm 2011, văn phòng tác chiến không-biển được tuyên bố thành lập.

    ASB là một khái niệm giới hạn mục tiêu mô tả những gì cần thiết cho lực lượng tham gia để định hình đầy đủ A2/AD nhưng không phải là một kế hoạch hoạt động hay chiến lược nhằm vào một khu vực hoặc đối thủ cụ thể.
Theo chính phủ Mỹ, mục đích của ASB là cải thiện sự hợp nhất của các quân chủng trên không, trên bộ, dưới biển, trong không gian và mạng thông tin để cung cấp các khả năng cần thiết cho quân đội.
Mục tiêu cần đạt được là nhằm ngăn chặn và thậm chí có thể đánh bại kẻ thù sử dụng khả năng chống tiếp cận/chống xâm nhập khu vực.
ASB tập trung đảm bảo rằng các lực lượng tham gia sẽ có khả năng để bảo vệ lợi ích của Mỹ trong tương lai.
Tháng 5/2013, văn phòng ASB cũng công bố tài liệu được gọi là ‘bản tóm tắt’ ASB, theo đó, ASB là một khái niệm giới hạn mục tiêu mô tả những gì cần thiết cho lực lượng tham gia để định hình đầy đủ A2/AD nhưng không phải là một kế hoạch hoạt động hay chiến lược nhằm vào một khu vực hoặc đối thủ cụ thể.
Thay vào đó, ASB giúp phân tích các mối đe dọa và là tập hợp các khái niệm phân loại các hoạt động (CONOPS) miêu tả làm thế nào để đối phó với chiến lược A2/AD và phát triển một lực lượng tập hợp với các khả năng cần thiết nhằm đối phó thành công với những chiến lược như vậy.
Dù Washington không thừa nhận nhắm vào Bắc Kinh, nhưng ASB được đánh giá là một chiến lược của Mỹ nhằm đối phó hiệu quả với chiến lược A2/AD của Trung Quốc.
 http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2014/10/141024_china_anti_access
Posted by sontrung at 11:31 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 335
PHAN CHÂU THÀNH * VÕ NGUYÊN GIÁP
Võ Nguyên Giáp: Bài toán sử “chẳng hay ho gì” đang được giải?
Phan Châu Thành (Danlambao) - Ngày 14 tháng 10 năm ngoái, 2013, sau cái chết của tướng Giáp, tôi có viết một bài “Võ Nguyên Giáp: Bài toán sử lớn còn để lại?” cố gắng nhìn lại cuộc đời Giáp, nêu ra nhưng câu hỏi lớn về Giáp mà tôi chưa giải đáp được để đánh giá, nên tôi gọi là “bài toán sử lớn còn để lại”...
Hôm nay, vừa tròn một năm sau, cuối tháng 10/2014 này, vào trang Bauxite lại nhìn thấy ảnh Giáp như là logo của trang báo đó, tôi tự hỏi đến bao giờ những người lập và ủng hộ trang Bauxite mà tôi rất tôn trọng và đánh giá cao đó sẽ phải “thay logo”, vì dường như “ánh hào quang” của Giáp đã dần tắt lịm trong chỉ một năm qua và đang để lại những sự thật trần trụi chẳng có gì hay ho về Giáp cả?

“Bài toán sử VNG” sớm bắt đầu tự hé lộ lời giải?
Vâng, tôi cũng rất bất ngờ khi nhìn lại và thấy những câu hỏi lớn mình đã nêu ra về Giáp trong bài viết ngắn chỉ có 3 trang A4 trên, đã dường như đang được lịch sử lần lượt trả lời qua nhiều ngả rất bất ngờ khác nhau, như Hồi ký của ông Hoàng Tùng, các bài viết nghiên cứu của ông Bùi Anh Trinh, lá thư tay 16 trang được cho là của bà Bảy Vân vợ sau của Lê Duẩn, hay cả cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh, Hồi ký của các tướng Tàu là Trần Canh và Vi Quốc Thanh, Hồi ký của chính Giáp và các tường lĩnh CSVN khác, và nhất là bộ phim “Sống cùng lịch sử” tốn 21 tỷ của CSVN được công chiếu mà chẳng có ai xem - như bị dân tẩy chay (điều người ta khó có thể hình dung khi liên tưởng đến đoàn người rồng rắn viếng tang Giáp chưa đầy một năm trước đó ở 30 Hoàng Diệu, Hà Nội...), và nhiều tài liệu khác có thông tin gián tiếp về Giáp được công bố, hé lộ...
Khi viết bài “Võ Nguyên Giáp: Bài toán sử lớn còn để lại?” tôi không thể ngờ và không dám hy vọng các câu hỏi mình nêu ra sẽ có trả lời trong 5-10 năm tới, mà tôi đã nghĩ sẽ có thể lâu hơn thế nhiều. Có ai ngờ, đa số “câu hỏi sử” đó đã được trả lời khá sáng tỏ chỉ trong vòng đúng một năm, dù tất nhiên đó chưa phải là những đáp án cuối cùng, mà mới chỉ là những đáp án đầu tiên. Ngoài ra, tuy tôi rất nghi ngờ Giáp, nhưng tôi vẫn đánh giá Giáp cao một cách khách quan, nên đã gọi Giáp là “bài toán sử lớn” - “lớn” ở đây có nghĩa tích cực, có thể là vĩ đại, và không thể ngờ những sự thực được phơi bày ra lại chứng tỏ Giáp là kẻ nhỏ bé, chả “lớn” chút nào, còn rất tầm thường hèn hạ nữa!
Như vậy, cả những sự thực hèn kém phũ phàng, cả thời gian ngắn và cái cách lịch sử tự đem lại các câu trả lời cho “Bài toán sử Võ Nguyên Giáp” làm cho tôi đều thật bất ngờ, “thú vị” và hơi chua chát... “Huyền thoại” Giáp chỉ có thể thôi ư?!
Các câu hỏi sử và những lời giải đầu tiên
Trong bài viết một năm trước, tôi tạm chia cuộc đời Giáp làm 4 giai đoạn (bỏ qua 16 năm niên thiếu) để nghiên cứu và đều đã húc vào những câu hỏi chưa có lời giải cho từng giai đoạn đó về Giáp. Và ở đây, tôi cũng sẽ bám theo các giai đoạn và câu hỏi đó để trình bày tóm lược các câu trả lời về Giáp mà Lịch sử đã đem lại cho chúng ta trước đó và mới trong 12 tháng qua.
Tháng 12/1944, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được Hồ Chí Minh
giao nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Giai đoạn I (1927-1940): Đây là giai đoạn lập nghiệp của Giáp, và câu hỏi của tôi là: Thiên hướng và tài năng bộc lộ của Giáp là gì không rõ ràng (học luật mà thích coi mình là hậu duệ Napoleon)? Sự nghiệp ban đầu của Giáp mâu thuẫn với đường vợ con (vợ Giáp là Minh Thái em Minh Khai)? Có nhiều uẩn khúc trong lý lịch về vụ bãi khóa theo Quốc Dân đảng hay theo Xô Viết NT? Vụ học trường Albert Sarault và con nuôi chánh Phòng nhì Pháp...?

Trả lời các câu hỏi sử Giai đoạn I:
Giáp là con người hoang tưởng (coi mình là Napoleon của VN từ trẻ?), có thiên hướng không rõ ràng và rất cơ hội, không trung thực (sau này khai man lý lịch rất nhiều và viết hồi ký bịa công thường xuyên và chủ yếu). Ví dụ, năm 1931 Giáp bị bắt trong phong trào bãi khóa của học sinh ủng hộ Khởi nghĩa Yên Bái của Quốc Dân Đảng nhưng được Pháp tha (vì đã hợp tác?) và sau này khai lý lịch là bị bắt vì ủng hộ XVNT vốn xảy ra mấy tháng sau đó (khi Giáp đang bị giam và xử rồi)? Sau đó, Giáp lại được vào học ở Albert Sarault là nhờ Marty - chánh mật thám Pháp? Và chính Trường Chinh - TBT đảng CSVN tố cáo Giáp (cùng với bạn/bố bợ Đăng Thai Mai) là con nuôi Marty! (điều này nhiều người đã nói và gần đây nhất là như tố cáo của bà Bảy Vân vợ Lê Duẩn, xác nhận lại).
Như vậy, tất cả những nghi vấn về Giáp giai đoạn lập nghiệp này đều được trả lời một cách khá rõ ràng, logic với nội dung không thể tệ hại hơn về Giáp - về nhân cách một con người lúc vào đời.
Giai đoạn II (1940-1954): Đây là giai đoạn thăng tiến chính, nhanh và duy nhất của Giáp. Câu hỏi chính và lớn nhất về cuộc đời Giáp là về giai đoạn thăng tiến này. Đó là, tại sao Giáp đã thăng tiến nhanh như thế sau khi bỏ lại vợ trẻ là Minh Thái chết trong tù của Pháp để theo Đồng sang Pháp đón Hồ về hang Pắc Bó (bây giờ đã nằm ở phía bên kia biên giới Việt-Trung)?
Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh, chụp khoảng năm 1945

Trả lời các câu hỏi sử Giai đoạn II:
Phải thú nhận là, một nửa câu hỏi quan trọng bậc nhất về Giáp này vẫn chưa có lời giải đáp mới. Chúng ta vẫn chỉ biết, từ một kẻ tay ngang 39-40 tuổi năm 1940-1941 Giáp đột nhiên sang Tàu đón Hồ về, vào đảng CSVN và từ đó thẳng tiến vùn vụt như Hồ, là cánh tay phải “quân sự” của Hồ trong suốt thời gian này mà không có khả năng lãnh đạo chiến tranh, kiến thức quân sự cũng như tư cách làm tướng. Bí mật về Giáp vẫn bao trùm giai đoạn 1940-1949... chưa có lời giải rõ ràng.
Tuy nhiên, nhiều tài liệu mới về giai đoạn cuối 1950-1954 của Giai đoạn II này đã chứng tỏ rõ ràng thực tài làm tướng của Giáp là không có, đạo đức cầm quân của Giáp là hèn hạ - chỉ cướp công, nướng quân, trù dập người tài... và liêm sỉ làm người cũng không có (gian dối, bịa đặt và bóp méo lịch sử...)
Theo Hồi ký của Trần Canh, Vi Quốc Thanh, thư tố cáo của Bảy Vân, Hồi ký Hoàng Tùng, Hồi ký Hùm xám đường số 4 Đặng Văn Việt, và rất nhiều tài liệu khác... thì Giáp không có một chiến công quân sự nào, từ trận đầu ở biên giới Việt-Trung đồn Đông Khê ngày 16&17/9/1950 đến trận cuối Điện Biên Phủ kết thúc 7/5/1954. Tất cả đều là công chỉ huy chiến lược của các cố vấn quân sự Tàu là Trần Canh và những người khác hoặc công lao chỉ huy chiến thuật của các sĩ quan Việt Nam cấp dưới của Giáp (được Tàu đào tạo bên kia biên giới - gọi là bộ đội Lưỡng Quảng) nhờ họ không chịu nghe lệnh (ngu) của Giáp mà lập nên, chứ Giáp chỉ có sai lầm, do kém, do hèn nhát (xa trận địa), và nướng quân...
Ví dụ, trận Đông Khê trên đường số 4 do Trần Canh chọn đánh mở màn và chỉ huy (Giáp chọn đánh Cao Bằng và bị Trần Canh bác bỏ), và công đầu tại trận là do Trung đoàn trưởng 174 Đặng Văn Việt đánh không theo chỉ huy từ quá xa của Giáp...
Và ví dụ, trận cuối cùng Điện Biên, theo Hồi ký Hoàng Tùng (đặc phái viên của Trung ương đảng CSVN ở Điện Biên), Giáp chọn đánh nhanh thắng nhanh và đã nướng sạch 23 ngàn quân trong hai đợt tấn công đến tháng 3/1954, chỉ cón vài ngàn quân và vài ngày lương thực đạn dược, nên CSVN phải xin tướng Vi Quốc Thanh xin Mao thêm 7,000 quả đại bác, 30 khẩu đại bác 108ly và nhiều vũ khí đạn dược nữa của Tàu, xin Hồ cấp thêm thêm 25 ngàn quân mới, xin Chinh cướp 11,000 tấn thóc giống của dân Thanh Hóa để ăn (gây nên nạn chết đói 1954 ở xứ Thanh, sau đó Hồ/Mao phải xin Khrútsev mua gấp 150,000 tấn gạo từ Thái chở sang cứu để nạn đói không lan ra cả nước). Rồi sau đó Mao duyệt phương án của Vi Quốc Thanh đánh chậm đánh chắc sở trường của Tàu (đào hầm tiếp cận đặt bộc phá, với người thực hiện xuất sắc là Nguyễn Chí Thanh...). Tóm lại, ở Điện biên Giáp chỉ có tội lớn!
Không những thế, trong hồi ký của mình sau này (cuốn “Đường đến Điện Biên Phủ”) Giáp còn gian trá cướp công của tất cả mọi người khác đó và các trận thằng đó (từ Đông Khê đến Điện Biên) cho mình...
Thế cho nên, sau 1954, toàn quân mừng công, nhận thưởng huân huy chương cho nhau, Giáp tự xưng “công đầu” nhưng lại bị Hoàng Tùng và Lê Đức Thọ khước từ cho bất cứ huân huy chương nào mà Hồ, Duẩn, Chinh... đều đồng ý!
Như vậy, tuy chưa có trả lời gì thêm về giai đoạn 1940-1949 Giáp đã thực sự làm gì, nhưng 1950-1954 lại thực sự không phải giai đoạn lập công của Giáp chút nào, mà là ngược lại hoàn toàn - Giáp là kẻ cản mũi kỳ đà và cướp công của các cố vấn Tàu và các sĩ quan cấp dưới Giáp. Điều đó giải thích thái độ của đa số tướng lĩnh quân đội CSVN (những người biết chuyện) rất coi thường Giáp sau này, còn cấp dưới chỉ nghe theo tuyên truyền của CS không dám nói đến công trạng của các cố vấn Tàu (lộ ra sự can thiệp của Tàu vào chiến tranh Đông Dương ra thế giới) thì tưởng mọi chiến thắng là nhờ “thiên tài” của... Giáp. Những người lính Điện biên “tự hào về Giáp” là thuộc số 25 ngàn lính bổ sung đợt cuối và thắng lợi theo cách đánh của Tàu mà không biết... Thế nên mới có vụ “rồng rắn đưa ma” Giáp 1 năm trước đây.
Giai đoạn III (1955-1976): Tôi đã gọi “đây là giai đoạn huy hoàng may mắn của tướng Giáp”, thực ra phải gọi đây là giai đoạn “cáo già Giáp khệnh khạng đi trong bóng cọp” mới đúng. Thời trẻ, Giáp có con cọp đầu tiên là phòng Nhì Pháp? Giai đoạn II trên, Giáp ăn may có con cọp Tàu thắng Pháp mà không được lộ diện. Và đến giai đoạn III này Giáp lại đã có con cọp mới là cộng sản Liên xô với chủ nghĩa xét lại “chung sống hòa bình” rất hợp với tâm địa hèn nhát (mà đã có rất nhiều hư vinh) của Giáp!
Hai câu hỏi sử về Giáp giai đoạn này là:
1- Tại sao Giáp bị CSVN (Duẩn-Thọ và sau lưng là Hồ) đánh gián tiếp rồi cô lập trong vụ án “xét lại chống đảng” mà không bị diệt luôn? Và,
2- Giáp có công lao gì trong cuộc chiến Đông Dương thứ hai (chiến tranh Nam-Bắc 1960-1975), hay không?
Trả lời các câu hỏi sử Giai đoạn III:
Cả hai câu hỏi trên đều đã được trả lời thỏa đáng trong các tài liệu mới sau này.
Thứ nhất, câu sau trước, cũng như cuộc chiến Đông Dương lần I, Giáp chẳng có tí ti công trạng nào trong cuộc chiến thứ hai mà Giáp vẫn là “đại tướng bộ trưởng Quốc phòng” và “tổng chỉ huy” quân đội VN. Theo thư bà Bảy Vân, để vô hiệu hóa Giáp từ 1956 nấp sau “con cọp” Liên xô, Hồ và Duẩn phải chia đôi Bộ chính trị thành ban A (miền Bắc XHCN) và ban B (đánh miền Nam), mà Giáp là tướng lại trong ban A: xây dựng XHCN. Chúng ta cũng biết, thời đó “xây dựng XHCN” tức là nhịn đói và nhận viện trợ toàn diện từ Nga và Tàu để sống trong hầm, trong hang tránh bom đạn rồi lo đẻ cho nhanh cho nhiều để cung cấp người cho quân đội CS đánh miền Nam, còn ban B là nhận người từ ban A đẻ ra, nhận trang bị, lương thực súng đạn từ Nga và tàu rồi kéo vào Nam “giải phóng”... Như vậy, ở ban A, Giáp lo “sinh đẻ theo kế hoạch tuyển quân” là đúng rồi (mặc dù chức vụ đó Giáp chỉ chính thức phụ trách sau này).
Năm 1969 Hồ chết. Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên xô là Côsưgin sang dự lễ tang phải trực tiếp xin Duẩn và đảng CSVN cho Giáp tham gia vào việc đánh nhau, nhưng Duẩn lờ đi...
Và câu hỏi đầu tiên: Giáp có bị oan trong vụ xét lại chống đảng? Không. Giáp chỉ bị cô lập là may, không phải vào tù như tất cả đàn em “xét lại”, là vì CSVN còn sợ (vì còn rất cần) CS LX giúp đánh nhau với Mỹ (một mình Tàu giúp không đủ vì Tàu chưa mạnh và không có vũ khí hiện đại...). Thế là với bản chất “cáo hèn núp bóng hổ tưởng mình oai”, Giáp được tiếp tục núp con cọp thứ ba trong đời Giáp là CS Liên xô, vì Giáp sau 1954 đã kịp chạy theo LX, như năm 1930 đã theo Pháp và 1940 đã theo Tàu-Hồ!
Tóm lại, như tôi đã nói trong bài trước, Giai đoạn III của đời Giáp chỉ giải được khi hiểu bản chất của Giáp qua hai giai đoạn trước. Và vì chỉ trong một năm qua nhiều tài liệu sử đã lộ rõ bản chất lưu manh cơ hội “cáo núp đuôi cọp” ngoại của Giáp, nên giai đoạn III đời Giáp đã được giải mã khá rõ ràng, logic. Cáo Giáp đã đổi chủ ba lần...
Giai đoạn IV (1976-2013):  37 năm cuối đời bi hài của Giáp mà tôi nói có thể khắc họa bằng một trong ba chữ, tùy quan điểm cá nhân: nhẫn, nhục, hèn. Chữ nào đây? Nay, tôi xin bỏ đi chữ đầu: nhẫn. Theo tôi, Giáp cũng không xứng chữ đó, vì chữ nhẫn chỉ có khi người ta có chí lớn, tâm lớn kia! Còn Giáp? Sic!
Trả lời các câu hỏi sử Giai đoạn IV:
Đó cũng là câu hỏi sử và câu đáp sử về giai đoạn cuối này của cuộc đời Giáp. Ít ra, tôi cũng đã (mượn trí khôn nhân loại mà) nói đúng: Người ta bắt đầu ra sao thì kết thúc như vậy. Ở giai đoạn lập nghiệp, Giáp đã mượn râu hùm phòng Nhì Pháp để len lỏi lên, nhưng nghe chừng hùm Pháp sẽ chết sớm nên Giáp chạy sang núp bóng cọp Tàu (hay được Pháp giao nhiệm vụ?). Ở giai đoạn cuối này, Hùm LX mà Giáp nấp mượn bóng để tồn tại đến 1990 cũng laị bị toi, nên Giáp từ đó chỉ còn thoi thóp đời sống thực vật, không thể quay về với cọp Tàu được, Giáp vô chủ, chả dọa, lừa ai được nữa. Dần dần Giáp sẽ trần truồng như khi mới sinh ra thôi, chỉ có ba con dấu “Có Chủ” trong cuộc đời Giáp thì vẫn còn trơ ra cùng lịch sử, không gọt rửa được, để nhân dân phán xét.
Sơ kết sau 1 năm - 10/2013-10/2014
Thế là, dù đa số câu hỏi về đời Giáp tôi tự đặt ra trong bài viết một năm trước đã được lịch sử khách quan trả lời ít nhiều, đã có đáp án đầu tiên, nhưng vẫn còn đó câu hỏi về giai đoạn 1940-1949 của đời Giáp chưa có lời giải rõ ràng. Và nhất là còn phải kiểm chứng (những gì đã tạm biết) với những đáp án khác sẽ có nữa và với sự thực lịch sử khách quan. Thế cho nên, nhiệm vụ của tôi tự đặt ra cho mình - như “nhà sử học trong dân, bình dân” - vẫn chưa được hoàn tất, và bài này vì thế chỉ là sơ kết cho các lời giải của “Bài toán sử VNG” mà thôi.
Tôi lại tiếp tục tự đặt câu hỏi cho mình và gửi vào vũ trụ, hy vọng lịch sử, vũ trụ sẽ giúp tôi, qua nhiểu ngả nhiều cách rất bất ngờ như vũ trụ vốn kỳ diệu thế, như lịch sử vốn minh bạch vô biên thế, sẽ trả lời cho tôi. Lần này, tôi bạo dạn hy vọng trong ba năm tới sẽ (được giúp) giải xong hoàn toàn “bài toán sử VNG” đã trở nên không còn thú vị thơm tho gì mấy nữa này...
Giáp đã chết và hết chủ sau ba lần đổi chủ, nhưng đảng CSVN thì vẫn còn chủ, là cọp Tàu. Tôi muốn giải “bài toán sử VNG” là vì muốn giải những bài toán sử đẫm máu khác của CSVN như “Bài toán sử Hồ”, “Bài toàn sử Đồng”, “Bài toán sử CSVN”... để mong góp thêm chút xíu xíu gì chăng giải thoát cho dân Việt lầm than khỏi CSVN. Tôi tin lịch sử và vũ trụ vẫn sẽ giúp tôi trong những mong ước nhỏ bé nhưng chân chính đó...
Thực ra, mỗi “bài toán sử” của CSVN chính là một “bài toán xử” CSVN của nhân dân Việt Nam.
Sài Gòn, 22/10/2014
Phan Châu Thành
danlambaovn.blogspot.com
Posted by sontrung at 11:06 AM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 335
KINH TẾ TRUNG QUỐC

Giá bất động sản TQ tiếp tục lao dốc
    5 giờ trước
Chia sẻ
Khu vực bất động sản chiếm đến 15% hoạt động kinh tế của Trung Quốc
Trung Quốc thông báo giá bất động sản ở nước này tiếp tục giảm 1,3% trong tháng Chín, đánh dấu lần đầu tiên khu vực này trượt giá so với một năm trước.
Thống kê của chính phủ dựa trên giá nhà trung bình từ 70 thành phố lớn nhất.
Những con số mới nhất cho thấy giá nhà mới tại 69 thành phố đã giảm xuống so với tháng trước, cao hơn so với con số 68 hồi tháng Tám.
Khu vực bất động sản đóng góp đến 15% GDP của Trung Quốc.
Sức mua trong khu vực này đã giảm đều trong suốt năm 2014 và nhiều ngân hàng đang ngày càng trở nên ngần ngại trong việc cho cả người mua và chủ đầu tư vay vốn.
Các chủ đầu tư bất động sản tại Trung Quốc cũng đang thi nhau giảm giá nhằm khắc phục tình trạng ế ẩm.
Thống kê mới nhất cho thấy giá nhà đã giảm tháng thứ 5 liên tiếp.
Doanh thu kém

    Tình trạng đình trệ đối với thị trường bất động sản hiện nay không chỉ ảnh hưởng đến mảng công nghiệp nặng, mà còn ảnh hưởng đến mảng đầu tư sản xuất

Ông Vương Đào, kinh tế gia từ hãng tài chính UBS tại Hong Kon
Tình trạng đình trệ trên thị trường bất động sản vẫn tiếp diễn, bất chấp các nỗ lực của ngân hàng trung ương Trung Quốc nhằm khuyến khích các ngân hàng thương mại trong nước tăng cường cho vay vốn mua nhà.
Tân Hoa Xã cho biết giá nhà tại 58 trong số 70 thành phố thậm chí còn thấp hơn so với năm ngoái.
"Giá nhà tại Bắc Kinh và Thượng Hải đã giảm lần lượt là 0,9% và 1,1%," hãng thông tấn nhà nước Trung Quốc cho biết.
Ông Vương Đào, kinh tế gia từ hãng tài chính UBS tại Hong Kong nói thị trường bất động sản vẫn đang kìm hãm nền kinh tế Trung Quốc.
"Tình trạng đình trệ đối với thị trường bất động sản hiện nay không chỉ ảnh hưởng đến mảng công nghiệp nặng, mà còn ảnh hưởng đến mảng đầu tư sản xuất", ông Vương nói.
Kinh tế gia Shane Oliver, từ Quỹ đầu tư AMP tại Sydney, nhận định thị trường bất động sản của Trung Quốc sẽ tiếp tục xuống dốc, và cho biết điều này không làm ông bất ngờ.
"Các chính sách thắt chặt thị trường bất động sản đã cần nhiều thời gian để làm giảm tốc độ tăng giá, thế nên các biện pháp nới lỏng trên thị trường này cũng sẽ cần thời gian để giảm tốc độ rơi giá," ông cho biết.
"Điều này có nghĩa là giá bất động sản nhiều khả năng sẽ tiếp tục suy giảm trong năm sau".
Ông cũng cho biết tình trạng yếu kém trên thị trường bất động sản đang là mối đe dọa lớn nhất cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, tuy nhiên, "vì tầm kiểm soát rộng lớn của chính phủ đối với nền kinh tế," Bắc Kinh có thể đảm bảo rằng các khu vực khác, bao gồm chi tiêu tiêu dùng, có khả năng bù đắp vào, ông Oliver nói thêm.
"Điều này không có nghĩa là cần phải có thêm các gói kích thích kinh tế cỡ nhỏ," ông cho biết thêm.
Nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chỉ 7,3% trong tháng Chín - chậm nhất kể từ quý một năm 2009, nhưng cao hơn mức 7,2% được giới chuyên gia dự đoán trước đó.
 http://www.bbc.co.uk/vietnamese/business/2014/10/141025_china_real_estate_bubble
Tăng trưởng Trung Quốc xuống mức thấp nhất từ 5 năm qua
Lê Vy
mediaSương mù bao phủ Hàm Đan, một trong những thành phố ma ở Trung Quốc - RFI /S.Lagarde
Mục kinh tế các nhật báo Pháp tập trung phân tích nền kinh tế thứ nhì thế giới là Trung Quốc qua bài viết trên Le Monde: «Tăng trưởng Trung Quốc thấp nhất từ 5 năm rưỡi nay» và « Tăng trưởng Trung Quốc chựng lại, Bắc Kinh vẫn tỏ ra an tâm » là tựa trên Le Figaro.
Theo nhật báo Le Figaro, vào quý III năm nay, tổng sản phẩm quốc nội GDP chỉ đạt 7,3%, trong khi mục tiêu tăng trưởng hàng năm là 7,5%. Kết quả trên được xem là thấp nhất từ năm 2009 đến nay. Theo Bắc Kinh, nguyên nhân của tình trạng trì trệ này là do các cải cách chính phủ nhằm cân bằng mô hình kinh tế, bớt lệ thuộc vào ngành xuất khẩu, xây dựng và tín dụng. Vào thời điểm này, chính quyền Trung Quốc vẫn chưa dự định đưa ra các biện pháp kích thích tăng trưởng.
Bên cạnh đó, nhật báo Le Monde cho rằng, nguyên nhân đầu tiên làm cho nền kinh tế số hai thế giới chựng lại là do giá địa ốc giảm. Bắc Kinh luôn lập lại ý định muốn xóa bỏ hiện tượng vỡ bong bóng địa ốc do tình trạng đô thị hóa ồ ạt gây nên.
Các quan chức Trung Quốc đã nhanh chóng bắt tay với môi giới nhà đất đầu tư vào phát triển các thành phố. Giới đầu cơ địa ốc đã từng hốt bạc. Nhiều hộ gia đình muốn tậu nhà cửa nhưng lại không đủ điều kiện để mua. Theo ông Lưu, giám đốc nghiên cứu của hệ thống địa ốc Centaline cho biết : « Nhiều thành phố đang trong tình trạng cung nhiều hơn cầu ». Do đó, giới buôn bán nhà đất buộc phải giảm giá thành.
Danh sách các thành phố ma, tức không người ở ngày càng dài thêm. Ví dụ như thành phố Ordos (nội Mông), Thường Châu (Changzhou-Đông), Hàm Đan (Handan-đông bắc), hay Ôn Châu (Wenzhou) cái nôi của các doanh nghiệp tư nhân. Ngay cả tờ China Daily vốn rất khả quan cũng nhận định, phải mất 2 năm mới bán hết được các cơ sở địa ốc mọc lên như nấm.
Ngoài ra, vẫn theo Le Monde, chiến dịch chống tham nhũng mà Chủ tịch Tập Cận Bình tung ra cách đây 2 năm cũng ảnh hưởng ít nhiều đến tăng trưởng. Chủ tịch Trung Quốc muốn đánh vào cuộc sống xa hoa của các quan chức địa phương, các đảng viên đảng Cộng sản (PPC) và khuyến khích một lối sống đạm bạc. Chính vì lý do đó mà một số viên chức đã ngưng các dự án mua bán địa ốc đang tiến hành.
Hồng Kông, đối thoại bế tắc
Nhìn sang thời sự tại Hồng Kông, nhật báo Libération đăng bài : « Hồng Kông : sau đợt biểu tình, đối thoại rơi vào ngõ cụt ». Sau cuộc gặp gỡ đêm qua giữa đại diện người biểu tình và chính quyền Hồng Kông, bất đồng vẫn tồn tại.
Theo Libération, bà Carrie Lam, nhân vật số hai của đặc khu Hồng Kông khuyến khích phong trào Occupy Central nên nhắc nhở thành viên của mình và bà còn đe dọa sẽ ra lệnh cho cảnh sát can thiệp. Đáp lại thái độ gia trưởng của bà Lam, đại diện phong trào sinh viên Lester Shum lên tiếng : « Chúng tôi chỉ đơn giản muốn chính phủ bảo vệ quyền lợi cơ bản của chúng tôi… Hãy thể hiện là người dũng cảm ! Các vị muốn sách lịch sử sẽ nhắc đến quí vị như những anh hùng hay những kẻ hèn ? các vị không thể đề nghị chúng tôi chấm dứt biểu tình mà không hề nhượng bộ ».
Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không thay đổi quyết định về cuộc bầu cử vào năm 2017 để chọn ra lãnh đạo đặc khu. Đại diện Lester Shum nhận định : « Đã 30 năm nay Hồng Kông mơ ước dân chủ và quyết định của Bắc Kinh đã phá vỡ giấc mơ này ».
Theo Le Figaro, ông Lương Chấn Anh cho biết đừng ảo tưởng sẽ đòi được Bắc Kinh chấp nhận yêu sách phổ thông đầu phiếu. Tại Hồng Kông, 20% trong 7 triệu dân sống dưới ngưỡng nghèo, nếu bầu cử theo phổ thông đầu phiếu thì người nghèo sẽ có tiếng nói đa số. Điều đó là không thể chấp nhận được đối với ông Lương, một cựu doanh nhân và làm phật lòng giới đầu tư.
Indonesia : Tổng thống xuất thân từ giai cấp bình dân
Nhìn sang Đông Nam Á, nhật báo Le Monde có bài viết : « Tại Indonesia, một vị Tổng thống xuất thân từ tầng lớp bình dân ». Nhậm chức hôm thứ hai vừa rồi, tân Tổng thống Joko Widodo muốn ưu tiên đấu tranh chống bất bình đẳng xã hội.
Le Monde nhận định, khác hẳn với những người tiền nhiệm, khi đắc cử, ông Widodo có một mục tiêu là quan tâm đến dân chúng trước hết và tích cực tiến hành các cải cách xã hội. Phong cách của ông cũng vô cùng bình dân. Người ta vẫn thường thấy cựu thị trưởng Djakarta ngày nào xuất hiện tại các con chợ của thành phố, trò chuyện với công chúng trong chiếc áo sơ mi trắng, quần tây đen, đôi khi đi chân không trong đôi hài. Người dân Indonesia chưa từng thấy hình ảnh này trước đây bao giờ.
Trong lễ nhậm chức, Tân Tổng thống thể hiện quyết tâm « đưa Indonesia thành một nước lớn và mang lại phồn thịnh cho dân tộc ». Những thành tựu đạt được về kinh tế trong những năm gần đây không thể che giấu được hiện thực đầy bất công : sự phân hóa giàu nghèo quá lớn. Khoảng 100 triệu dân Indonesia vẫn còn sống dưới ngưỡng 2 đô la/ngày thậm chí ít hơn.
Trên phương diện kinh tế, những thách thức mà ông Widodo phải đối mặt để đáp lại bao kỳ vọng mà mọi người đặt vào ông cũng vô cùng lớn. Theo phân tich một chuyên gia ngoại quốc tại Djkarta, tân Tổng thống « thừa hưởng một triển vọng kinh tế khá tuyệt : đất nước có các phương tiện để trở thành một cường quốc kinh tế (…) Song tình hình hiện tại lại rất khó khăn : đơn đặt hàng của thế giới giảm, đặc biệt là của Trung Quốc, giá thành nguyên vật liệu giảm (một trong những nguồn làm giàu cho Indonesia), thâm hụt thương mại và phụ thuộc vào vốn đầu tư nước ngoài. Ông ta sẽ phải có một chính sách tiền tệ hạn chế nhưng cần phải có tăng trưởng để tạo việc làm, năng suất và đầu tư vào cơ sở hạ tầng ».
Một trong những thách thức đầu tiên chờ đợi ông Widodo là ông phải tiến hành việc giảm trợ giá cho ngành nhiên liệu như xăng dầu. Đây là một bài toán trắc nghiệm mà chưa một tổng thống tiền nhiệm nào đã giải đố thành công. Khoản trợ giá trên chiếm đến 20 tỷ đô la/năm của nhà nước và theo một số nghiên cứu thì chính sách trợ giá trên có lợi cho người giàu hơn người nghèo.
Theo tính toán của ông Widodo, số tiền cắt giảm trợ giá ngành năng lượng sẽ được dùng để đầu tư vào các hoạt động nông nghiệp như hệ thống thủy lợi, phân bón, gieo giống…đồng thời cải tạo cơ sở hạ tầng vốn cũ kỹ, lỗi thời và cho phép người dân Indonesia nhận được chế độ an sinh thật sự.
Total trước cú sốc
Trở lại với tại nạn của Chủ tịch tập đoàn dầu khí Total, trong lúc chờ đợi kết quả điều tra, các nhật báo đồng loạt chia buồn và nhận xét về con người chủ tịch tập đoàn Total.
Gương mặt tròn, đôi mắt long lanh kèm bộ ria mép, đó là hình ảnh của vị Chủ tịch-Tổng giám đốc tập đoàn lớn nhất của Pháp Total là ông Christophe de Margerie xuất hiện trên trang nhất các nhật báo ra ngày hôm nay (22/10/2014) Ông vừa qua đời sau tai nạn máy bay vào đêm thứ Hai vừa qua tại Nga. Les Echos thốt lên : « Total dưới cú sốc ». Le Figaro nhận thấy : « mọi người đồng loạt dành cảm xúc cho vị Tổng giám đốc Total ». Le Monde chạy tít : « Christophe de Margerie : ngày qua đời của một ông chủ điển hình ».
Libération nhận thấy ông là người thẳng thắng, thân thiện, kỳ quặc, thường có những ý tưởng lạ kỳ nhưng chuyên môn thì vô cùng giỏi. Ông luôn tìm đồng thuận với nhân viên của mình, lắng nghe lợi ích chung và tìm cách thương lượng. Mặc dù giàu có nhưng ông không xem tập đoàn như một cỗ máy chỉ để kiếm tiền mà là một tổ chức của xã hội.
Nhật báo Công giáo La Croix cũng tưởng nhớ đến ông Christophe de Margerie : « Tổng giám đốc tập đoàn Total là một người thực tế. Ông đi du lịch khắp nơi trên thế giới để chăm lo cho lợi ích của công ty(…). Với sự ra đi của ông, nước Pháp không chỉ mất đi một lãnh đạo trong ngành công nghiệp mà cả một nhân vật có tầm ảnh hưởng quan trọng.
Le Figaro cho biết, khắp nơi tổ chức tưởng niệm sự ra đi của chủ tập đoàn Total. Tổng thống Pháp François Hollande nhận định : « ông Christophe de Margerie đã dành cả cuộc đời cho nền công nghiệp Pháp và cho sự phát triển của tập đoàn Total. Ông đã đưa Total lên danh sách các công ty hàng đầu thế giới. Ông bảo vệ thành công và xuất sắc công nghệ Pháp tại nước ngoài ».
Nhật báo Le Monde nhận định : 40 năm làm việc cho Total, « sự qua đời đột ngột của ông Christophe de Margerie gây bất ổn cho tập đoàn». Người kế nhiệm ông sẽ được chọn trong nội bộ, theo truyền thống xưa nay của Total.
 http://vi.rfi.fr/chau-a/20141022-tang-truong-trung-quoc-xuong-muc-thap-nhat-tu-5-nam-qua/

Posted by sontrung at 11:01 AM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 335
ANH VŨ * CỘNG SẢN CHIA RẼ

Đang có sự phân hóa tư tưởng trong nội bộ ĐCSVN?
Anh Vũ, thông tín viên RFA
2014-10-24
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
    In trang này
    Chia sẻ
    Ý kiến của Bạn
    Email
10242014-anhvu.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh
000_Hkg10109836.jpg
Từ trái qua: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng rời khỏi lăng cố chủ tịch Hồ Chí Minh hôm 20/10/2014.
AFP photo
Gần đây xuất hiện hiện tượng các vị lãnh đạo VN có phát biểu về cùng một vấn đề, một nội dung nhưng lại có sự khác biệt khá cơ bản về quan điểm, thậm chí là trái ngược. Đó có phải lá dấu hiệu của sự phân hóa về tư tưởng trong nội bộ Đảng CSVN?
Quan điểm khác nhau
Việt Nam là một nhà nước theo mô hình chính trị với duy nhất một Đảng CSVN giữ độc quyền quyền lãnh đạo.
Đảng CSVN có tổ chức chặt chẽ từ trung ương đến địa phương và sự thống nhất và chung một quan điểm tư tưởng xuyên suốt từ cấp cao xuống cấp thấp. Vị tổng bí thư hiện nay của đảng là ông Nguyễn Phú Trong từng nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thống nhất tư tưởng trong đảng qua câu nói: “Mỗi người nghĩ một khác, mỗi người thích đi một hướng thì làm sao chở con đò sang sông được”.
Tuy vậy, một số phát biểu của các vị lãnh đạo VN gần đây với báo chí cho thấy đang diễn ra sự khác biệt khá cơ bản về quan điểm, thậm chí là trái ngược hoàn toàn.
    Trong Đảng CSVN đang ngấm ngầm tồn tại hai phái theo hai trục trong Đảng, tức là một trục theo Đảng còn một trục theo Chính phủ.
    - Ông Đặng Xương Hùng
Đó là các phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khi đề cập đến vấn đề cải cách thể chế, hay các vấn đề nhân quyền, tự do dân chủ, điều được dư luận cho là trái ngược với chính sách và chủ trương của Đảng CSVN từ trước đến nay.
Mới đây nhất, bên lề phiên khai mạc kỳ họp Quốc hội thứ 8, trả lời phóng viên về vấn đề an ninh và chủ quyền quốc gia sau chuyến sang Bắc Kinh của 13 vị tướng Việt Nam vào trung tuần tháng 10, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Phùng Quang Thanh cho biết: " Khi trao đổi với bạn, nói chung bạn ghi nhận ý kiến của phía Việt Nam".
Điều đó trái ngược hoàn toàn với ý kiến của Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng – Tổng TM trưởng trong kỳ họp QH này  nhận định rằng “Âm mưu thực hiện hóa đường lưỡi bò, độc chiếm biển Đông của Trung Quốc là không thay đổi. Chỉ có điều chuyển sang giai đoạn đấu tranh khác, thậm chí quyết liệt hơn, phức tạp hơn”
Dư luận xã hội đặt câu hỏi tại sao đối với một vấn đề cực kỳ quan trọng liên quan đến an ninh và chủ quyền quốc gia, mà hai tướng lĩnh cao cấp nhất của QĐND Việt nam lại bất đồng về quan điểm như thế?
Bình luận về vấn đề này, LS. Nguyễn Văn Đài thấy rằng Đảng CSVN vốn là một tổ chức có tính thống nhất cao, theo ông sự khác biêt trong phát biểu là vấn đề không bình thường.
Từ Hà nội, LS. Nguyễn Văn Đài nhận định:
“Trước đây thì Đảng CSVN thường có sự thống nhất chặt chẽ từ trung ương đến địa phương, tuy vậy 1-2 năm trở lại đây cho thấy, đó không chỉ là hiện tượng giữa ông Đỗ Bá Tỵ và Phùng Quang Thanh, mà là của rất nhiều quan chức khác. Nói về cùng một vấn đề thì họ có các phát biểu khác nhau thậm chí là đối lập nhau. Điều đó cho thấy nội bộ quan chức CS trong nội bộ đã không thống nhất tập trung quyền lực nữa, mà đã có các nhóm lợi ích và phe phái khác nhau. Từ đó nó dẫn đến sự xung đột về các suy nghĩ hay cách trình bày quan điểm về một vấn đề, nhưng chưa đến mức trở thành đối lập với nhau.”
Do đâu?
Ông Đặng Xương Hùng, nguyên lãnh sự Việt Nam tại Genève thấy rằng, trong lịch sử của Đảng CSVN việc các cá nhân có quan điểm bất đồng với quan điểm chung của đảng như trường hợp ông Trần Xuân Bách, Nguyễn Cơ Thạch…đã từng xảy ra. Nhưng kết cục các cá nhân đó đều bị kỷ luật hoặc phế truất.
Từ Genève ông Đặng Xương Hùng nói với chúng tôi:
“Những phát biểu của ông Nguyễn Tấn Dũng vừa qua theo tôi là đều không thông qua Bộ Chính trị, mà là phát biểu với tính cách cá nhân nhằm mục đích tạo hình ảnh cá nhân của ông ấy cho ở trong và ngoài nước. Tức là ông ấy muốn cho thấy ông ấy đã độc lập với Bộ Chính trị, ông ấy có đủ sức mạnh và thẩm quyền để đối phó với sự lãnh đạo tập thể hiện nay của Bộ Chính trị, vì lợi ích của cá nhân. Theo tôi đấy mới là vấn đề.”
Trả lời câu hỏi nguyên nhân do đâu dẫn đến tình trạng lãnh đạo cao cấp trong đảng CSVN có quan điểm khác nhau như hiện nay?
Ông Đặng Xương Hùng cho rằng trong các tổ chức khác, sự khác biệt quan điểm là chuyện bình thường, nhưng đối với một tổ chức có kỷ luật chặt chẽ, tính tổ chức cao như Đảng CSVN là điều đáng chú ý. Theo ông trước hết là do tính thống nhất trong nội bộ Đảng CSVN nay đã giảm sút.
Ông Đặng Xương Hùng nói:
“Trong Đảng CSVN đang ngấm ngầm tồn tại hai phái theo hai trục trong Đảng, tức là một trục theo Đảng còn một trục theo Chính phủ. Mà nguyên nhân chính theo tôi là do các phe đang tranh giành, đối chọi nhau về lợi ích để giành quyền chi phối của Đảng và nhà nước, giành cái lợi thế trong cuộc đấu tranh vì quyền lực.”
LS. Nguyễn Văn Đài tiếp lời:
    Những phát biểu của ông Nguyễn Tấn Dũng vừa qua theo tôi là đều không thông qua Bộ Chính trị, mà là phát biểu với tính cách cá nhân nhằm mục đích tạo hình ảnh cá nhân của ông ấy cho ở trong và ngoài nước.
    - Ông Đặng Xương Hùng
“Nguyên nhân là trong nội bộ của họ đã có sự phân hóa, sự tập trung quyền lực thống nhất quyền lực từ trung ương đến địa phương hay tư tưởng của các quan chức không còn như trước đây nữa. Đây là hậu quả của sự phân hóa theo ê kíp, phe nhóm thậm chí là ở ngay cùng một cơ quan hay tổ chức.”
Trao đổi quan điểm về vấn đề đảng CSVN nên tách hoặc chia thành 2-3 đảng cho phù hợp, và cũng là để kiểm soát, giám sát lẫn nhau trong vai trò đảng đối lập.
LS. Nguyễn Văn Đài cho rằng tuy là còn quá sớm để nói đến chuyện này, nhưng theo ông bài học từ chính trường Đài loan trước kia và Myanmar gần đây cho thấy đây là điều đáng quan tâm.
LS. Nguyễn Văn Đài đánh giá:
“Để tự đảng CS tách ra là chuyện không bao giờ có, chỉ có khi nào phong trào Dân chủ hay các lực lượng đấu tranh lớn mạnh đến một mức độ nhất định nào đó thì phái cấp tiến trong Đảng CSVN, khi thấy rằng nếu tiếp tục duy trì đảng trong tình trạng lộn xộn, nội bộ lục đục không thống nhất với nhau sẽ dẫn đến sự sụp đổ của đảng CS. Chỉ khi đó phe cấp tiến, phe trung dung  sẽ tách ra, còn đảng CS theo đúng bản chất xa xưa của họ thì tôi nghĩ rằngsẽ chỉ còn lại một nhóm rất nhỏ để duy trì quan điểm bảo thủ”
Theo nhận định của giới quan sát tình hình Việt Nam thì những phát biểu bất nhất vừa qua cho thấy nội bộ của đảng cộng sản Việt Nam đang có sự phân hóa mạnh mẽ. Những người quan tâm đến tiền đề dân tộc, thì mong mỏi xu hướng tiến bộ sớm vượt thắng.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/opposite-ideological-trends-vcp-leader-av-10242014095440.html

Posted by sontrung at 10:50 AM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 335
RFA * KINH TẾ VIỆT NAM

Kinh tế Việt Nam đã hết động lực phát triển?
Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-10-24
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
    In trang này
    Chia sẻ
    Ý kiến của Bạn
    Email
10252014-dbtn-nn.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh
000_Hkg10110903.jpg
Lối vào khu dân cư mới Times City tại Hà Nội hôm 23 tháng 10 năm 2014.
AFP photo

Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư Bùi Quang Vinh, người ca ngợi kinh tế thị trường là tinh hoa nhân loại một lần nữa kêu gọi nhà nước thực hiện cải cách. Trong khuôn khổ kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII, theo VnExpress tại phiên họp Tổ ở Quốc hội ngày 21/10/2014, ông Bùi Quang Vinh khẳng định “đến thời điểm hiện tại nền kinh tế Việt Nam đã hết động lực để phát triển và Việt Nam cần cơ chế, chính sách mới để phát triển.”
Động lực đổi mới
Phát biểu mới nhất của Bộ trưởng Bùi Quang Vinh làm rõ hơn nhu cầu cải cách đổi mới ở Việt Nam. Nhiều chuyên gia cho rằng, nếu Việt Nam muốn tiếp tục phát triển thì sẽ phải thực hiện cuộc đổi mới lần thứ hai trong lịch sử.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương từ Hà Nội nhận định:
“Theo tôi, công cuộc đổi mới sắp tới đây sẽ khó khăn hơn và đòi hỏi nỗ lực mạnh mẽ hơn của phía lãnh đạo Đảng và Nhà nước vì nó liên quan đến việc phải thay đổi thể chế, bộ máy Nhà nước, chống được tham nhũng, thay đổi được vai trò và chức năng của Nhà nước. Hiện nay, các chuyên gia đều xem xét tính toán thấy rằng Việt Nam đến năm 2020 không thể đạt được mục tiêu cơ bản trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại và đấy là một điều lỡ hẹn nữa đối với chính các kế hoạch mà Việt Nam đề ra, điều này, rõ ràng là nền kinh tế VN tăng trưởng dưới tiềm năng và chậm hơn nhiều so với các nền kinh tế trong khu vực.”
Việt Nam thống nhất năm 1976, trong một thập niên tiếp theo nền kinh tế đất nước rơi vào ngõ cụt đe dọa sự tồn vong của chế độ toàn trị. Lúc đó Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định tiến hành đổi mới và tạo ra các động lực chưa từng có để vực dậy nền kinh tế. Ông Lê Văn Triết nguyên Bộ trưởng Thương mại phân tích về những động lực để phát triển trong thời kỳ đổi mới 1986-1989.
    Động lực đổi mới là sự chuyển hướng từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường, nó mở ra một tiềm năng rất lớn cho nhân dân mà đầu tiên tác động là nông dân.
    - Ông Lê Văn Triết
"Động lực đổi mới là sự chuyển hướng từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường, nó mở ra một tiềm năng rất lớn cho nhân dân mà đầu tiên tác động là nông dân. Cho nên mới có chuyện xuất khẩu gạo lần đầu tiên của Việt Nam sau bao nhiêu năm. Từ đó trở đi sự phát triển vươn lên từ nông nghiệp đó, sự đổi mới xóa cấm chợ ngăn sông; xóa vấn đề định giá cố định để mua 4 hào 1kg thóc; rồi ai cũng được quyền tự do lưu thông; hàng hóa lương thực được quyền tự do lưu thông và lúc đó đã xóa bỏ việc nhà nước đứng ra thu mua và định giá thu mua theo giá cố định như cũ. Tất cả những cơ chế tạo lập ra hồi mới đổi mới thì chính là những động lực rất là quan trọng để làm cho nền kinh tế nông nghiệp của Việt Nam lúc đó nó phát triển và từ đó nó kéo dần đi đến nền kinh tế thị trường được mở ra.”
Tuy vậy nguyên Bộ trưởng Lê Văn Triết nhấn mạnh tới việc đổi mới quan hệ đối ngoại mà ông cho là rất quan trọng. Lúc đó cùng với đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước chủ trương Việt Nam làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới bên ngoài thị trường truyền thống là các nước Xã hội Chủ nghĩa như Liên Xô, các nước Đông Âu…sự đổi mới đó và thành quả của nó dần dần được thế giới ủng hộ và điều này chính là động lực để phát triển.
Cựu Bộ trưởng Lê Văn Triết nói là ông không có điều kiện để hiểu thật rõ ý nghĩa về điều gọi là động lực phát triển của Việt Nam đã tới hạn, qua phát biểu của Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư Bùi Quang Vinh. Tuy vậy đối với nhu cầu đổi mới đang được đặt ra ông nhận định:
“Việc cần có những đổi mới nữa thì không phải là đến thời điểm này đâu, mà trong quá trình từ lần đổi mới thứ nhất tôi thấy rằng, cần phải rút ra những kết luận, cái gì đúng cái gì sai, cái gì phát triển tốt phù hợp với trong nước, phù hợp với nền kinh tế, phù hợp với lòng dân và phù hợp với bạn bè thế giới thì những cái đó phải phát triển. Trong quá trình vừa qua không thể tránh được có những cái này cái nọ không phù hợp với qui luật phát triển, không phù hợp với sản xuất, với kinh tế ở trong nước và cũng có những cái có khi không phù hợp với bạn bè trên thế giới khi quan sát hay đến làm ăn ở Việt Nam thì đáng lý mình phải ngồi nhìn lại để mà đúc kết rút ra kết luận để phân định cái gì cần phát triển cái gì cần xóa đi. Tôi nghĩ việc nó lâu lâu cần nên làm chứ không phải tới giờ này mới ngồi lại xem có cần đổi mới như lần đầu hay không.”
Cần đổi mới thể chế
Trở lại các ý kiến được Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư Bùi Quang Vinh đưa ra trong buổi họp tổ đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Lai Châu hôm 21/10/2014 trong khuôn khổ kỳ họp thứ 8 Quốc hội Khóa XIII, theo VnExpress ông Bộ trưởng nhấn mạnh: “Việt Nam cần đổi mới thể chế để tìm ra những động lực mới. Phải thực hiện tốt 3 đột phá đã được đề ra: Thể chế kinh tế; cơ sở hạ tầng; chất lượng nguồn nhân lực. Những việc này không chỉ làm trong năm 2015 mà phải làm thường xuyên, liên tục mạnh mẽ trong thời gian dài.”
000_Hkg2105311-400.jpg
Người dân vận chuyển những thùng trái cây Trung Quốc về VN qua cửa khẩu Tân Thanh. AFP photo
Trong dịp trả lời chúng tôi, Tiến sĩ Kinh tế Phạm Chí Dũng một nhà phản biện độc lập từ Saigon nhận định:
“Điều gì quyết định thể chế, chủ thể và chủ thuyết lợi ích đã chiếm tuyệt đại đa số trong các chi phối về các mối quan hệ xã hội, mối quan hệ kinh doanh và cả các mối quan hệ chính trị ở Việt Nam hiện nay. Cho nên vấn đề anh Nam Nguyên đặt ra cần phải giải quyết thể chế kinh tế, điều đó là đúng thì lại phải cái gốc của nó là vấn đề chính trị. Và không thể giải quyết vấn đề chính trị nếu không giải quyết vấn đề các nhóm lợi ích hiện nay. Cho nên đó là một cái vòng luẩn quẩn, các nhóm lợi ích lại thao túng chính trị, xây dựng chính trị và thậm chí hoàn chỉnh chính trị”
    Với tỷ lệ nợ công so với GDP như vậy đồng thời với những khó khăn thách thức cũng như xu hướng nợ công tăng, khả năng chi trả và việc xử dụng không hiệu qủa thì đây là tình trạng đáng báo động.
    - PGS-TS Ngô Trí Long
Theo báo chí Việt Nam, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII sáng 20/10/2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhìn nhận nợ công đang tăng nhanh. Không nêu số liệu cụ thể nhưng người đứng đầu chính phủ khẳng định hiện các tỷ lệ nợ công, nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của Việt Nam đều trong giới hạn cho phép. Được biết Việt Nam qui định ngưỡng an toàn về nợ công là không quá 65% GDP. Tuy vậy Bộ Tài chính Việt Nam đưa ra con số tổng nợ công không bao gồm nợ của khối doanh nghiệp nhà nước, hoặc nợ của chính quyền địa phương. Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long từ Hà Nội nhận định:
“Hiện nay về cách tính nợ công của Việt Nam và quốc tế có sự vênh nhau, không khớp với nhau. Điều đó có nghĩa nợ của doanh nghiệp nhà nước, nợ của một số chính quyền địa phương hoặc tổ chức thuộc nhà nước được nhà nước không tính vào đó. Trước quốc tế thực chất hiện nay với khối nợ của doanh nghiệp nhà nước cực kỳ lớn thì trong tình hình như vậy mức nợ công không phải là dưới 65%. Thực tế các chuyên gia, các nhà khoa học không phải tổ chức nước ngoài người ta tính toán nợ công trên 100% tức là trên mức báo động rất nhiều. Với tỷ lệ nợ công so với GDP như vậy đồng thời với những khó khăn thách thức cũng như xu hướng nợ công tăng, khả năng chi trả và việc xử dụng không hiệu qủa thì đây là tình trạng đáng báo động. Chính vì vậy cho nên vấn đề này đang được đặt ra trên bàn nghị sự của Quốc hội trong kỳ họp này.”
Cũng trong kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XIII sẽ xem xét nhiều dự án quan trọng trong đó đặt nặng việc hoàn thiện thể chế kinh tế, tổ chức bộ máy nhà nước, quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, cải cách hành chính, cải cách tư pháp theo tinh thần và nội dung của Hiến pháp 2013.
Không phải là bất ngờ khi Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư kêu gọi đổi mới thể chế kinh tế để tìm ra những động lực mới. Tuy có chút ít hy vọng Việt Nam cải tổ pháp luật cho phù hợp Hiến pháp 2013 sẽ dẫn tới một số cải cách nhất định. Nhưng liệu có thể cải cách thể chế kinh tế mà không cải cách thể chế chính trị hay không? Các chuyên gia luôn thống nhất một điều, cải cách thể chế phải được thực hiện một cách đồng bộ. Sự khẳng định kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế nhà nước là chủ đạo nền kinh tế sẽ vẫn là một chướng ngại không nhỏ cho yêu cầu đổi mới lần nữa ở Việt Nam.
 http://www.rfa.org/vietnamese/programs/ReviewOnlineDomesticPress/vn-eco-driving-force-critical-nn-10242014082654.html 
 Khi chính phủ không còn tiền để đầu tư
Vũ Hoàng, phóng viên RFA
2014-10-24
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
    In trang này
    Chia sẻ
    Ý kiến của Bạn
    Email
10242014-vuhoang.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh
000_Hkg10110465.jpg
Nạn kẹt xe trong giờ cao điểm ở Hà Nội do đường phố quá chật hẹp. Ảnh chụp hôm 21/10/2014.
AFP photo

Chưa bao giờ công luận lại quan tâm đến hiệu quả đồng vốn vay của Việt Nam như hiện nay, bởi tiền vay dành cho đầu tư phát triển thì quá thấp, trong khi vốn vay về lại dùng để trả nợ quá cao. Nghịch lý trên vẫn tồn tại nhiều năm qua, vì sao?
Nợ công tăng quá nhanh
Tại kỳ họp quốc hội thứ 8 đang diễn ra, một trong những nỗi lo được các cử tri tập trung bàn thảo là nợ công, hiệu quả đồng vốn vay và khả năng trả nợ của Chính phủ. Không phải ngẫu nhiên, ngay trong diễn văn khai mạc, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thừa nhận “nợ công của Việt Nam tăng nhanh” để khẳng định sự khó khăn mà chính phủ Việt Nam đang phải đối mặt trong thời gian sắp tới trước hết là sức ép trả lãi, trả nợ, sau đó là những hệ lụy vì đầu tư phát triển không đủ tiền. Thậm chí, đại diện của Ủy tài chính – ngân sách Quốc hội Trần Quang Chiểu không ngần ngại chỉ ra nhiệm vụ quan trọng của năm 2015 là “tập trung vào trả nợ.”
Rõ ràng nếu nhiệm vụ quan trọng chỉ là “tập trung” vào “trả nợ” thì làm sao Việt Nam có thể thực thi được những dự án đầu tư phát triển, những kế hoạch tăng trưởng hay các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang tiến gần. Không những vậy, các khoản nợ công của Việt Nam lại đang bị đánh giá là có độ rủi ro cao hơn các nước trong khu vực.
Phân tích về điều này, T.S Lê Xuân Nghĩa đưa ra 3 nguyên nhân cơ bản: thứ nhất, hiệu quả của đầu tư từ nợ công rất thấp, thứ hai, tỷ lệ trả nợ hàng năm trên tổng thu ngân sách rất cao chiếm 25% và thứ ba, kỳ hạn bình quân các khoản vay của Việt Nam rất ngắn, dẫn đến lãi phải trả cao hơn. Được biết, trong phiên họp chiều 20/10, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết Chính phủ đề nghị giữ mức bội chi ngân sách năm 2014 bằng 5,3% GDP để có được 224.000 tỉ đồng nhằm trả nợ ngân sách nhà nước.
    Hiện nay mỗi người dân Việt Nam phải chịu 900 USD/ đầu người nợ công; với thu nhập quốc dân tương đối bé với ngân sách thâm hụt rất lớn tình hình kinh tế vô cùng khó khăn.
    - T.S Ngô Trí Long
Trong một lần trả lời phỏng vấn với chúng tôi gần đây về gánh nặng nợ công, T.S Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế độc lập từ Hà Nội không khỏi băn khoăn:
Hiện nay mỗi người dân Việt Nam phải chịu 900 USD/ đầu người nợ công; với thu nhập quốc dân tương đối bé với ngân sách thâm hụt rất lớn tình hình kinh tế vô cùng khó khăn; nợ công có xu hướng gia tăng, năng suất không có hiệu quả. Cho nên đó chính là những băn khoăn những khó khăn lớn nhất. Vấn đề ở đây không phải là biểu hiện của con số mà khả năng trả nợ cũng như tốc độ nợ có xu hướng tăng quá nhanh. Đây chính là sự lo lắng và cũng là sự bất cập của vấn đề nợ công hiện nay.
Những khoản nợ mà T.S Ngô Trí Long gọi bằng cái tên “lo lắng” và “bất cập ấy” nếu qui đổi ra con số sẽ khiến người ta quá bất ngờ, bởi đồng hồ nợ công do tạp chí Times công bố, tổng nợ công của VN vào ngày 1/10/2014 là gần 85 tỉ đô la, mỗi người dân Việt phải gánh hơn 930 đô la.
Tuy nhiên, điều đáng nói không phải chỉ ở số nợ mà Việt Nam đang oằn lưng gánh, mà lại chính là ở khả năng Chính phủ sẽ trả nợ thế nào trong thời gian sắp tới. Bản thân chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng từng nhấn mạnh “Quốc hội nhận thấy an ninh về nợ công bị đe dọa do cơ cấu của nợ công, do nguồn để trả nợ công thiếu cân đối, do bội chi và vay thêm để trả nợ công.” Không “đe dọa” sao được khi ngân sách Nhà nước có “cơ cấu rất xấu” chiếm tới 72% là các khoản chi thường xuyên, trong khi đó, chưa đầy 30% còn lại là để trả nợ và đầu tư phát triển.
Không đủ khả năng trả nợ
Nhận xét về mối nguy hại này, T.S Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Trung ương phân tích:
Chi thường xuyên của ngân sách chiếm đến 72% tổng số chi, như vậy, chỉ còn lại 28%, mà 25% sẽ phải chi để trả nợ, như vậy, chỉ còn 3% để đầu tư, đây là điều hết sức đáng lo ngại, nếu như vậy, nền kinh tế Việt Nam sẽ không thể công nghiệp hóa được và Việt Nam sẽ phải có những biện pháp để giảm những khoản chi thường xuyên.
Con số chỉ còn 3% dành cho đầu tư phát triển mà T.S Lê Đăng Doanh vừa cảnh báo hẳn đã phản ánh đúng thực trạng những gì mà đại biểu Trần Du Lịch của đoàn đại biểu TPHCM ngán ngẩm khi nhìn vào bức tranh ảm đạm của nền kinh tế Việt Nam, ông phát biểu: “kinh tế vẫn quá yếu, như người đi cà rề, cà rề, khỏe không ra khỏe, bệnh không ra bệnh, đọc tất cả báo cáo thì không thấy có quyết sách gì đột phá.”
    Chi thường xuyên của ngân sách chiếm đến 72% tổng số chi, như vậy, chỉ còn lại 28%, mà 25% sẽ phải chi để trả nợ, như vậy, chỉ còn 3% để đầu tư, đây là điều hết sức đáng lo ngại...
    - T.S Lê Đăng Doanh
Đột phá sao được khi mà “nhiều chính sách ra đời không thực hiện được chỉ vì không có tiền,” đó là nhận xét của bộ trưởng bộ Kế hoạch Đầu tư Bùi Quang Vinh khi đề nghị “Việt Nam cần chính sách mới để phát triển.” Bộ trưởng Bùi Quang Vinh cho rằng “chưa bao giờ tiền dành cho đầu tư phát triển tại Việt Nam lại ở mức thấp như vậy, chỉ ở khoảng 17% tổng chi”, ông chỉ ra 3 nguyên tắc trụ cột của kinh tế trong chi ngân sách đang bị vi phạm, đó là: tăng chi ở VN cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động, tốc độ tăng cho chi an sinh xã hội cao hơn tốc độ tăng thu ngân sách và cuối cùng, tốc độ tăng chi thường xuyên cao hơn tốc độ tăng chi cho đầu tư phát triển.
Ngưỡng an toàn của nợ công là 65% GDP mà Quốc hội VN đề ra, theo tính toán, đến hết 2015 nợ công dự báo sẽ lên đến 64%, nhưng thực chất con số này còn cao hơn rất nhiều nếu bao gồm cả các khoản nợ của doanh nghiệp Nhà nước mà Chính phủ đứng ra bảo lãnh:
Đáng lo ngại là số nợ công mà bộ Tài Chính công bố lại không gồm nợ của doanh nghiệp Nhà nước, mà nợ của doanh nghiệp Nhà nước không trả được cũng phải do Nhà nước trả, nghĩa là cũng sẽ trở thành nợ công, đây là một tình huống rất phức tạp, nếu tính cả số nợ của doanh nghiệp Nhà nước cộng vào thì số nợ công của Việt Nam hiện nay đã lên đến mức trên 105% của GDP và đó là một tỉ lệ quá cao.
Nếu đơn giản sử dụng con số chính thức được công bố là 65% thì nghĩa là trong tương lai gần Việt Nam không còn đủ khả năng trả nợ, chứ đừng nói đến đầu tư phát triển.
Chúng tôi xin được trích nguyên văn phát biểu của chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng mới đây để làm lời kết: “2015 xơi hết rồi thì 2016 lấy gì mà đầu tư phát triển, tôi thấy ngân sách xấu lắm rồi, thứ nhất, thu được đồng nào đem xài hết, thứ hai là hãm đầu tư và thứ ba là cứ vay thêm ào ào, như thế thứ nhất là không phát triển được đất nước, hai là trả nợ không được thì đến ngày là sụp chứ còn gì?”
 http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/public-invest-bcome-impossible-mission-vh-10242014105345.html
Posted by sontrung at 10:45 AM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 335
SƠN TRUNG * ÁNH SÁNG ĐÈN CÙ IV

NHÂN DÂN VÀ CỘNG SẢN
SƠN TRUNG

Phần cuối sách, Trần Đĩnh viết về cuộc sống nhân dân dưới chế độ cộng sản. Nhân dân ở đây là nhân dân Trung Quốc và nhân dân Việt Nam. Dưới chế độ cộng sản Bắc Việt, từ 1964, nhiều cán bộ Việt Cộng đã du học và hoạt động tại Trung Quốc nhưng it ai viết về xã hội Trung Quốc như Trần Đĩnh.
Về Trung Cộng, ông cho biết Bước đại nhảy vọt, của Mao là một tham vọng ngu ngốc, điên cuồng đã gây chết chóc cho nhân dân, và đưa đến sự dối trá của cán bộ các cấp vì ai cũng phải báo cáo láo để sống còn.
Năm 1958, Khrushchev bất thần ghé Bắc Kinh. Ông đã khuyên với Mao hai điều: một là nên hòa hoãn với Mỹ, không nên đánh Đài Loan, hai là nên chớ nên làm Công xã nhân dân nhưng Mao bảo đó là con đường tiến lên chủ nghĩa cộng sản đặc thù của Trung Quốc (ĐC, 136 ).
Kết quả công việc làm công xã nhân dân đã làm kinh tế Trung Quốc sa sút và uy tín của Mao xuống đất đen. Trần Đĩnh đã cho ta thấy đời sống của công xã nhân dân ở Trung Quốc như sau:
Hội nghị trung ương Bắc Đới Hà liền họp. Ra đời Tổng lộ tuyến mà ta mựơn chỉ một mẩu là “nhiều, nhanh, tốt, rẻ” và thực tế hóa ra “hiếm, chậm, tồi, đắt.”
Ba ngọn cờ hồng là: đại nhảy vọt, gang thép nhân dân và công xã nhân dân. Mao có ý bao cấp cả cho toàn dân, xóa bỏ chế độ lương bổng - trong quân đội xoá bỏ lon gù, nhất loạt một mẩu phù hiệu đỏ - đúng như chế độ cộng sản các tận sở năng các tận sở nhu, cái mà Khroutchev gọi là “chủ nghĩa cộng sản mặc quần đùi.”
Công xã nhân dân công hữu hóa búa xua hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, nồi niêu, xoong chảo, thau chậu, phích nước nóng... Ra đồng làm, tới bữa tối thì đến nhà ăn tập thể lĩnh phần cơm và phần nước nóng ngâm chân rồi toàn gia ăn uống, bế bồng, ôm ấp, mai lại ra đồng từ sớm. Trẻ con vào nhà trẻ, người già vào nhà dưỡng lão. Có công xã lập trại con gái riêng, con trai riêng, vợ chồng tháng tháng gặp nhau ăn nằm theo lịch công xã đặt, tùy theo độ tuổi mà dầy thưa khác nhau. Báo đăng câu Mao ca ngợi: cái ưu Việt của công xã là nắm được hoàn toàn dân chúng trong tay. Ông đã nuôi ý định công xã hoá cả thành thị. Để nắm cho không sót thằng dân nào.(ĐC,137)
Để vừa lòng Mao, các cán bộ cấp dưới đua nhau báo cáo láo và làm gian dối:
Phải có bằng chứng về tính ưu việt của công xã chứ! Bằng chứng dễ thuyết phục và dễ kiếm nhất là năng suất lương thực. Lập tức báo chí đăng không kịp “sản lượng vệ tinh” - ở nghĩa lên cao vút - ầm ầm vượt nhau. Bắp cải nặng một tạ ba, muốn xài thì phải lấy cưa mà kéo cưa lừa xẻ chứ dao nào chặt cho lại? Lợn một con đứng chật cả thùng xe cam nhông cỡ nhỡ. Một mẫu ruộng (bằng một phần ba mẫu Việt Nam) 500 tấn khoai. Lúa mì 60 tấn... (ĐC, 138). Từ Thủy Tỉnh - Hà Bắc, một huyện có 31 vạn dân đã đề ra mục tiêu “tiến lên chủ nghĩa cộng sản trong ba năm,” vụ hè vừa thu hoạch được 45. 000 tấn lương thực, đã đề ra mục tiêu sản xuất 1,1 triệu tấn ngay trong vụ thu tiếp theo (tăng gấp hơn 24 lần, bình quân đầu người 1,8 tấn)...( ĐC, 140 )
Một nhát các thứ cây trồng biến ra thành toàn là Phù Đổng Thiên Vương hết. Một hôm báo đăng ảnh một tràn ruộng lúa chín với những đứa trẻ nô nhảy ở bên trên. Và Mao Chủ tịch liền nổ lệnh: Ta cho các người từ nay ăn hẳn năm bữa một ngày!
Phóng viên Việt Nam thông tấn xã kiêm tình báo Lê Phú Hào đi tham quan đồng lúa kiêm “sân chơi trẻ con” về đến ngay trường bảo tôi đó là trò bịp. Anh theo nhà báo nước ngoài tụt xuống thì ngỡ anh là đồng bào, người ta giữ anh lại sợ đông quá sập liếp độn ở bên dưới: cắt lúa chín ở nơi khác về cắm chi chít lên trên. ..
Nay sau chống phái hữu, người Trung Quốc sợ thêm sự thật. Sự thật là nguồn gốc của bất hạnh, chết chóc. Đã muôn người đều sợ sự thật thì cũng lại muôn người thi nhau nói phét. Có người nói ở Trung Quốc bây giờ chỉ phản cách mạng mới còn cái đức nói sự thật, nghe sự thật. Còn toàn là hoan nghênh vờ, tin tưởng vờ, hăng hái vờ. Toàn dân nói phét, chui niu, thổi trâu, mà biết tỏng nhau là nó đang nói phét, vui phét hệt như mình...
Tôi lạnh người. Anh nói tiếp:
- Mình có một ông chú họ làm đội trưởng ở công xã. Trên bắt ông khai vống lên lấy sản lượng vệ tinh. Ông không nghe, sợ khai man nộp hết thì đói. Thế là bị đánh gẫy hai hàm răng. Cứ nhè mồm đánh bắt nhận “vệ tinh.” cuối cùng đầy mồm máu khai man. Nhờ đó được chữa không tiền cái tay bị đánh què nhưng răng thì đắt quá thành ra từ nay ông chú chỉ nuốt không nhai. Sự thật phai nuốt, nhai gẫy răng ngay. Cứ thả cửa nói phét rồi bạo lực giáng xuống cho thật khoẻ vào là cái giả toàn thắng. .. ( ĐC, 137-138 )
Cũng như Lenin, Stalin, Mao tích cực phát triển kỹ nghệ mà khởi đầu là đúc gang thép.
Nên nói tiếp đến phong trào nhân dân luyện gang thép. Công đầu là Tăng Hy Thánh, ủy viên trung ương, bí thư tỉnh An Huy. (Ông đã tíếp đoàn báo Việt Nam chúng tôi ở Hợp Phì, nơi Hàn Tín điểm quân và tôi đã đến đó.) Ông cho dựng dọc đường xe lửa Mao sẽ đi qua các lò cao luyện thép. Lò rừng rực lửa như hội hoa đăng, dân gang thép múa ương ca tưng bừng bên cạnh. Lãnh tụ hả cái bụng quá. Bèn đề ra mục tiêu gang thép vượt Anh, vượt Đức, vượt Nhật rồi Mỹ cuối cùng ...Phải ra sức thu gom sắt phế liệu, có thể tháo dỡ các đường sắt tạm thời không có giá trị kinh tế như đường sắt Ninh Ba, đường sắt Giao Đông.
Tôi không tham gia tuy sinh viên phải nghỉ học làm gang thép đầy trong campus. Tôi mơ hồ thấy chẳng khác nào lột áo quần ra xé tơi rồi đem bật lại thành bông, xe lại thành sợi để dệt nên thứ vải chất lượng khốn nạn hơn nhiều. Không hiểu sao nhìn các quả đấm cửa bằng sứ trắng có lõi sắt người ta quẳng vào chảo quấy, đảo, tôi cứ nghĩ đó là những con ngươi mắt mỗi hộ dân gửi đến để trừng trừng nhìn mà đặt ra câu hỏi đơn sơ: các người làm trò gì đây?Màn bịp gang thép rồi cũng xếp xó. (ĐC,140)
Ông mô tả đời sống các bô lão trong các trại dưỡng lão của Trung Quốc như sau:
Tôi đã thăm mấy nhà dưỡng lão trong đó một nơi làm cho tôi buồn hơn cả là của công xã nhân dân tại nhà máy thủy điện Mai Sơn, tỉnh An HuyMột lán nứa dài trong một rừng nứa rậm, một dẫy sạp nứa dài và cao lênh khênh, ọp ẹp làm giường (có lẽ sạp cao thế này là để các cụ không thể tụt xuống trốn đi). Khoảng ba chục cụ ngồi ngơ ngẩn nhìn khách tham quan đến chiêm ngưỡng “hạnh phúc” của các cụ. Tất cả đều ủ dột, đều con mắt vô hồn dửng dưng và đều co chân cao đến ngực và đặc biệt đều tăm tắp mấy chục cẳng chân phù to tướng, căng bóng, những mặt hàng chĩnh bày trong triển lãm. Tôi bỗng thấy chúng là những cái bình đựng thư cầu cứu mà trong bão tố, thủy thủ đem vất cầu âu vào sóng... Già quá, không lê nổi đến nhà ăn, mà có đến nổi nhà ăn thì hết sức chen hàng, nhiều cụ đành chết đói.( ĐC, 138)
Thất bại kinh tế, bị các đảng viên cao cấp chỉ trích, Mao bày ra trò Trăm Hoa Đua Nở rồi Cách Mạng Văn Hóa để giết hại, khủng bố đảng viên và nhân dân Trung Quốc đồng thời phá hoại văn hóa Trung Hoa cổ truyền. . Mặc dầu cộng sản đàn áp mạnh mẽ, nhân dân Trung Quốc không lùi bước. Trí thức và sinh viên là lực lương tiên phong chống Cộng tại Trung Quốc. Một sinh viên Trung Quốc đã nhờ Trần Đĩnh chuyển thư cho sứ quán Việt Nam một thư đề nghị Bắc Việt Nam hãy tôn trọng hiệp định Genève, đình chỉ đưa quân và vũ khí vào trong Nam cũng như rút lực lượng đã phi pháp cài lại từ 1954. Con gái tướng Hạ Long, Hạ Tử Trinh chuyên sưu tầm tài liệu về những người bị đàn áp tàn khốc và chết tủi nhục trong cái phong trào điên loạn do lãnh tụ gây nên. Trên báo chí Trung Cộng, nhiều nhà văn, nhà báo như La Long Cơ, Trương Bá Quân, Trần Kỳ Thông, Ngô Hàm v.v. đã lên tiếng đòi dân chủ. Theo một sinh viên Thượng Hải, một nửa người Trung Quốc có tinh thần chống cộng ( ĐC, 121- 131 ).
Phần chính trong Đèn Cù, Trần Đĩnh đã viết về quan điểm nhân dân ta đối với cộng sản. Đây là điểm ưu việt của tác giả mà các tác giả khác không có hoặc chỉ đề cập sơ lược. Ngay trong thời hoạt động bí mật, Cộng sản chưa lộ móng vuốt, chính cộng sản cũng sợ cái đảng của mình tàn ác hơn Pháp. Đó là trường hợp Kỳ Vân trốn tú thực dân về nhà dặn mẹ đứng cho ai biết vì sợ cộng sản giết ông vì tội vượt ngục không xin phép đảng ( ĐC, 36 ).
Trần Đĩnh đã cho ta thấy cái dã man, vô nhân đạo của Việt Cộng đối với cán bộ và nhân dân trong thời gian chúng cai trị. Trong Đèn Cù, ông đã nói nhiều về cái lưu manh, tàn độc của cộng sản trong vụ Xét lại dối với cán bộ và nhân dân miền Bắc, ông cũng cho biết chính sách dối trá, độc ác của cộng sản đối với nhân dân miền Nam. Lê Duẩn đánh miền Nam là theo lệnh Mao gây chiến với Mỹ bẻ gãy chính sách sống chung hòa bình của Khrushchev, đồng thời cũng muốn ngăn chận miền Nam hòa bình sẽ mạnh hơn miền Bắc (ĐC, 460 ). Trong Viết Cho Mẹ và Quốc hôi, Nguyễn Văn Trấn cũng nói rằng Võ Nguyên Giáp sau 1975 muốn kìm hãm miền Nam, không cho vượt hơn miền Bắc. Chính sách này dùng nhiều biện pháp làm rối loạn nền kinh tế và khiến cho nó trì trệ và làm được việc mà đàng ngoài mong ước, miền Nam nghèo đi để đuổi kịp miền Bắc ( 235).
Bọn Cộng sản Bắc Việt bỏ tù nhân dân miền Nam, và sẵn sàng bóp chết khi họ muốn. Phạm Văn Đồng nói: ta nhân đạo đưa họ đi cải tạo để trở lại làm người, kẻ nào không chịu mà chống lại thì ta sẽ đối xử như chó . Lê Đức Thọ nói ta để cho họ tạm buôn bán thế mà đã có anh em chất vấn. Họ như con chim ta nắm trong lòng bàn tay, cần đến ta bóp lại ngay thôi mà ( ĐC, 482)
Trần Đĩnh cũng viết về Trần Văn Trà. Trần Văn Trà , chủ tịch ủy ban quân quản Sài Gòn gửi giấy mời và xe con đưa ông Lê Đình Duyên, con cụ Lê Đình Thám, nhân vật Hoà bình thế giới của miền bắc, đến dự hẳn ở trên lễ đài. Trà nói với ông: “Không có ai thắng ai, chỉ có nhân dân Việt Nam thắng Mỹ, nam bắc chúng ta một nhà.” Ông Duyên về nói lại mà bao nhiêu người mừng. Ai ngờ rồi chính tướng Trà ký lệnh bắt ông đi cải tạo. (ĐC, 488)
Từ 1945 cho đến nay, luồng phản kháng âm thầm như dòng nước ngầm cuồn cuộn trong nhân dân. Trần Đĩnh đã thu thập khá nhiều về những câu ca, mẫu chuyện khôi hài đen về cộng sản.
Ông thuật lại cái bi hài kịch của đời ông khi về Quỳnh Côi ( Thái Bình ) bị nhân dân chửi xéo vì nghi ông là " chó săn của đảng" về rình mò việc làm ăn của Hợp tác xã:
Lần ấy tôi đến một hợp tác xã, gần thị trấn Quỳnh Côi. Vừa tới đầu làng, thấy một nhóm bà con trục lúa, tôi đứng lại xem. Liền bị chửi tức thì - nhanh hơn cả pháo phòng không sau này: “Kìa, gớm chưa, thính hơi thế!” , “về đánh hơi rình mò mà,” “Này, con đốm nhà tôi nó đã hít hít hực hực ở đâu là y như có cáo...,” “Nào, cót kiếc, thúng mủng chuyến này đem đốt mẹ nó hết đi mà hun chuột đồng, nó về thì còn cái đ. gì để mà cần cót, cần thúng nữa?”
Bà con cho là tôi về đánh giá sản lượng để bóp nặn thuế nông nghiệp.( ĐC,283)
Trần Đĩnh còn nghe một chị Saigon bán ve chai nói về " Giải Phóng":
Như có trời xui, cách chúng tôi hai ba mét một phụ nữ ve chai ngồi tựa vào hông chiếc ghế dài trống không. Tôi bảo ngồi lên ghế thì lắc: “Cháu không quen ngồi vào thứ sang.” Cụ bạn bèn đến bên: - Bây giờ được ở trong các nhà thế này cô có quen không?
- Không ạ!
- Cô thấy nó đẹp không?
- Đẹp… Nhưng cháu chỉ muốn Mỹ nó lại thả bom cho tan hết…
Chúng tôi trố mắt. Không ngờ tới câu trả lời dứt khóat, đanh thép này chút nào.
Người phụ nữ nói tiếp: - Thế hồi đánh nhau đâu có như thế này? Chả là đều nghèo như nhau cả thôi. Bây giờ đấy, đứa ăn chẳng có mà đứa thì sướng quá vua. ..Thôi cháu chào hai cụ, cháu đi đây. Sáng đến giờ mới kiếm được hai mươi tư nghìn...” (ĐC, 492 )
Minh Trường, phóng viên nhiếp ảnh Thông tấn xã là lớp người đầu tiên về Sài Gòn chiến thắng.Khi trở về nhà cũ, đứng trước nhà mình bấm chuông. Thì mẹ anh mở cửa. Thì mẹ liền chắp hai tay lạy: - Anh còn sống thì tôi mừng nhưng anh về thì tất cả các đứa con bao lâu nay sống với tôi, chăm sóc phụng dưỡng tôi đều đã bị các anh lôi đi tù hết mất rồi. Anh về thì nhà này tan nát, thì tôi trơ trọi. Thôi, tôi xin anh, anh đi với đồng chí của anh đi cho mẹ con tôi yên...( ĐC, 486)
Rải rác trong Đèn Cù, chúng ta nhận được những câu ca dao hiện đại cười cợt cộng sản:
-“Miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng.”( ĐC, 481 )
-Một năm hai thước vải thô,
Làm sao che nổi gì gì (tên một vi tôi không tiên nói ra) hỡi em…
- Dịch lợn rồi tiếp dịch gà,
Bao giờ dịch đảng dân ta reo mừng.(ĐC, 284 )
Ông Lê Nin nước Nga,
Sao ông lại đứng vườn hoa nước này,
Ông ưỡn ngực, ông chỉ tay,
Ông xem như thể nước này của ông,
Tự do hạnh phúc đừng hòng còn xa,
Kìa xem gương của nước Nga,
Bảy mươi năm lẻ mà có ra cái đếch gì!(ĐC, 380 )
-Nhân phẩm toàn dân mất sạch rồi,
Chỉ còn lương thực giá cao thôi,
Lương tâm giá rẻ hơn lương thực,
Chân lý, chân giò cũng thế thôi…
-Đảng là mẹ, Bác là cha,
Bác ta mất sớm, mẹ ta góa chồng.
Bác ơi sống lại mà trông,
Thạch Sanh thì ít, Lý Thông thì nhiều! (ĐC,386 )
Anh hùng quân đội Nguyễn Thị Chiên bán vé xổ số.Dân tổng kết quá siêu đầu ra của võ công oanh liệt:
-Đầu đường đại tá bơm xe,
Giữa đường thượng tá bán chè đậu đen,
Trung tá đi bán cà - rem,
Thiếu tá thì bận thổi kèn đám ma,
Đại úy chăn vịt đuổi gà,
Trung úy ở nhà bám đít con trâu,
Còn thằng thiếu úy đi đâu,
Ba - lô lộn ngược buôn tàu bắc nam.
Bao giờ Trung Quốc tràn sang,
Trung ương Đảng gọi, si quan chạy làng!
- “Ngày xưa chống Mỹ, chống Tây;
Bây giờ chống cổng rước Mỹ Tây vào nhà.”
( ĐC, 515 )
 - Chuyến tôi đi xe đò đứt thắng, đ. mẹ đời đ. má tương lai”( ĐC, 482 )
Việt cộng tuyên truyền trong Nam dân chúng bị Mỹ Ngụy bóc lột nên đói khổ. Đến khi vào Saigon, cán bộ mới thấy Saigon đẹp đẽ biết là bao. Trần Đĩnh thuật lại cảm giác của các cán bộ cộng sản vào Nam trong những năm đầu 1975 :
" Thương miền Nam đang sướng rồi khổ đây thì mọi người cũng lại xuýt xoa trong kia dân nó ối chà giàu ơi là giàu. Vàng chỉ năm chục đồng Cụ một cây. Tủ lạnh vài chục đồng một chiếc. Lạnh cứ là liên lu liền lù suốt năm. Bảo cho tay vào lâu là hoá ra đá.
Một sáng P. K. bên giáo dục chuyển sang làm báo mời tôi ăn phở Phú Gia. Lúc chờ, anh nói: - Chỉ với anh thì tôi mới nói thật cái này: nhà tôi là tư sản anh ạ.
Thấy vẻ sung sướng trên mặt anh, tôi mừng thay nhưng cũng lo. Tôi nói khéo sẽ mất hết. K. nói: - Tôi đã mách cách phân tán cả rồi. Sao để họ lấy không được chứ? Trả lời tôi hỏi trong ấy họ sống thế nào, anh nói: - Đủ hết nhưng nay nhà tôi đã cho nghỉ máy lạnh. Giả nghèo. Buồng nào cũng máy lạnh. Xin lỗi anh, tôi thấy sướng nhất là đi toa lét. Ối trời, anh biết không, rộng, thoáng, mát., sạch… Buồng trưởng phó ban báo ta thua xa…(ĐC, 480 ).
Các nhân vật trong Đèn Cù đã cho ta thấy rõ tính " ưu việt" của chủ nghĩa cộng sản là tàn bạo, dã man hơn thực dân. Khi công an bắt Vũ Đình Huỳnh, ông nói: " - Các đồng chí cho tôi vào hôn mấy cháu bé.
- Thằng phản động, ai đồng chí với mày hả?
Sau ông Huỳnh nói với Trần Đĩnh: - Mật thám Tây đến bắt không vô văn hóa như vậy (ĐC, 338).
Nguyễn Đức Thuận cho biết rằng cơm ăn nước uống của tù rất khá. Mỹ cho mỗi tù mỗi ngày một đô - la ăn uống cơ mà. Thuận đã so sánh cụ thể:- Ra đây tôi thấy cơm vụ trưởng không bằng cơm tù chúng tôi những ngày không bị đánh đạp (ĐC, 298 ).
Cộng sản đã làm cho khuôn mặt người méo mó đi. Đa số đã phải làm loài bò sát để tồn tại. Tuy nhiên, trong xã hội cộng sản, vẫn có một số người nhân nghĩa, đao đức, không sợ uy quyền.
Trong Chỉnh Huấn, Nguyễn Tư Nghiêm nhất định không khai “tội ác” của mẹ. Chi bộ thuyết phục, răn đe, anh vẫn khăng khăng nói không thể căm thù mẹ, không thể coi mẹ là kẻ thù giai cấp, là có tội ác, không thể (ÐC,75). Trong vụ Xét lại, có nhiều tấm gương sáng của phụ nữ Việt Nam trinh liệt . Trần Đĩnh viết: 'Trong vụ án xét lại, phải nói tới các chị. Chị Tề, vợ Vũ Đình Huỳnh; chị Mỹ, vợ Đặng Kim Giang; chị Sơn, vợ Bùi Công Trừng; chị Minh Quang, vợ Minh Việt; chị Oanh, vợ Lưu Động; chị Lan, vợ Kiến Giang. v. v. ( ĐC, 337 ). Phía nam nhân cũng có những tay bất khuất như Dương Bạch Mai, Bùi Công Trừng, Hoàng Minh Chính, đặc biệt là Nguyễn Trung Thành.
Đèn Cù của Trần Đĩnh có vài nội dung giống với Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên và Viết Cho Mẹ và Quốc Hội của Nguyễn Văn Trấn. Cả ba tác phẩm này đều nói đến CCRĐ, Chỉnh Huấn, Nhân Văn Giai Phẩm và Vụ án xét lại. Vũ Thư Hiên thì có nhiều mâu thuẫn, lúc khen lúc chê. Ông giác ngộ nhưng chỉ một phần. Ông bị giam giữ , bị cộng sản khủng bố nhưng ông vẫn gọi bọn cướp của giết người đó là " nhà cách mạng ", và gọi những hành vi bán nước hại dân của cộng sản là "hoạt động cách mạng"! Trong khi đó, Trẩn Đĩnh và Nguyễn Văn Trấn có thái độ dứt khoát với cộng sản.
Trong Đèn Cù, Trần Đĩnh đã thành công trong hai mục tiêu chính là
1.Trình bày âm mưu của Mao và Lê Duẩn nhằm tiêu diệt Viêt Nam, cũng cố quyền lợi bản thân với tính chất lưu manh , gian ác của Duẩn, Thọ, Thanh, Lành.
2. Nói lên tiếng nói của nhân dân Trung Quốc và Việt Nam trong việc phản kháng cộng sản gian ác.

Tuy nhiên, Trần Đĩnh có có một vài khuyết điểm nhỏ.
1. Vũ Thư Hiên và Nguyễn Văn Trấn viết có chương mục, tiết tấu rõ ràng, còn Trần Đĩnh thì lan man, chưa xong chuyện này đã nói đến chuyện khác.
2. Ông viết sai về cha Phan đăng Lưu. Cha Phan Đăng Lưu là Phan Đăng Dư (1874 - 1955), còn có tên là Phan Đăng Kính, lúc sinh thời bà con Tràng Thành (Hoa Thành) thường gọi là Cụ Phán, bởi cụ có 4 người con trai, trong đó có ba người con là trí thức yêu nước, làm Thông phán nhưng đều hoạt động cách mạng: Phan Đăng Lưu (Phán Tằm), Phan Đăng Triều (Phán Triều), Phan Đăng Tài (Phán Tài). Đầu năm 1955, trong cải cách ruộng đất, gia đình cụ Phan Đăng Dư bị quy địa chủ, tất cả nhà cửa, tài sản bị tịch thu. Cụ bị kết án 20 năm tù và bị giải đi nhà lao Bến Hới (Tân Kỳ). Trên đường từ trại Mụ Vạc (Đồng Thành-Yên Thành) lên Tân Kỳ, vì tuổi cao, sức yếu, bấy giờ cụ đã 80 tuổi, cụ không đi nổi, phải ngồi lên gióng cho các bạn tù thay nhau gánh đi, đường xa phải đi 2 ngày, vì đói, có lúc phải kéo trệt giữa đường. Lên đến Bến Hới, cụ đã yếu lắm rồi, hai ngày sau thì cụ qua đời.
http://vanhoanghean.com.vn/dat-va-nguoi-xu-nghe6/nguoi-xu-nghe43/cu-phan-dang-du-va-bai-phu-tu-trao
Phan Đăng Tài là anh của Phan Đăng Lưu. Chính ông cũng viết trong khoảng Mỹ đánh bom miền Bắc, Phan Đăng Tài phụ trách thư viện cùa báo khi lo đem thư viện đi sơ tán đã cho tôi toàn tập kịch Berthold Brecht. Và một từ điển Pháp - Trung ( ĐC,323).
3. Trần Đĩnh viết: Hội nghị hợp nhất ba nhóm cộng sản vừa bế mạc thì đồng chí Nguyễn Ái Quốc lại đi Xiêm và Mã Lai. Rồi đồng chí lại về Hương Cảng theo dõi chỉ đạo phong trào trong nước.” ( ĐC, 169). HOÀNG TÙNG viết: 'Bác về Xiêm là do Bác chủ động chứ không phải là do Quốc tế phân công. Nghe tin ở nước nhà giải tán Thanh niên cách mạng đồng chí hội để lập Đảng cộng sản, Bác cho rằng chưa phải lúc." Như vậy là ông Hồ đi Xiêm trước khi đảng Cộng sản ra đời.Tháng 3 năm 1929, Ngô Gia Tự thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN cho biết ông Hồ đi Xiêm năm 1929, còn việc tập họp các nhóm cộng sản tại Cửu Long, Hồng Kông, từ ngày 6-1-1930.
Nói chung, Đèn Cù cho người đọc rất nhiều tài liệu về chế độ cộng sản phi nhân, và phi dân chủ, là tai họa của loài người, nhất là các nước Á Châu bé nhỏ. Viết Đèn Cù, Trần Đĩnh đã đứng về phía nhân dân, đã đi sâu  đi sát với quần chúng nhân dân, lắng tai nghe và quan sát khá kỹ lưỡng đời sống của nhân dân bị cộng sản giết hại, bỏ tù, khủng bố và bóc lột. Đèn Cù là tâm tư, tình cảm và tếng nói của nhân dân đòi hỏi độc lập,tự do và dân chủ. Trần Đĩnh đã trích dẫn lời của bà Olga Bergolzt, nhà thơ nữ Nga bị đày ải hết đời, một lời nói rất đúng về chủ nghĩa cộng sản :" Cộng sản lúc đầu hấp dẫn nhờ đưa ra các hứa hẹn thỏa mãn toàn bộ các nhu cầu của con người. Nhưng phiệu hết. Chỉ còn bành trướng quyền lực của cộng là nhu cầu duy nhất phải thỏa mãn. Vỡ mộng, dân bèn có nhu cầu trừng phạt cái tội lừa dân. Và cậy đến bất cứ thứ gì không phải cộng ( ĐC, 497 ).
HẾT
Posted by vanhoa at 2:50 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0335

No comments:

Post a Comment