Thứ bảy, 16 Tháng 2 2013 18:26 Kiều Duy Vĩnh / Chuyện tù cải tạo
Lời phi lộ Hoàng Hải Thủy
Tháng Bẩy năm 1954, đất nước chia đôi, cả triệu người Việt Nam bỏ miền
Bắc đi vào Nam. Năm ấy có một số người Việt ở miền Nam đi ra Bắc, số
người này rất ít.
Về
văn nghệ sĩ, năm 1954, tôi được biết Trung Sĩ Hoàng Giác, tác giả bản
nhạc Ngày Về — Tung cánh chim tìm về tổ ấm.. Nơi sống bao ngày giờ đằm
thắm — Trung sĩ Nguyễn Minh Lang, tiểu thuyết gia, đang làm việc trong
Phòng Năm Bộ Tổng Tham Mưu ở Sài Gòn, hai ông bỏ Sài Gòn trở ra Hà Nội. Ở
Hà Nội, tôi được biết có ba ông sĩ quan Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, ở
lại. Đó là các ông Đại Úy Hoàng Phụng Tỵ, nhà thơ, Đại Úy Hoàng Công
Khanh, tác giả Kịch Thơ Bến Nước Ngũ Bồ, và Đại Úy Kiều Duy Vĩnh.
Ba
ông Sĩ Quan tự nguyện ở lại Hà Nội ông nào cũng bị bọn Bắc Cộng bắt đi
tù. Tù ba, bốn năm, không phải tù ba, bốn tháng. Bị tù nặng nhất là ông
Đại Úy Kiều Duy Vĩnh, ông bị đưa lên Trại Tù Cổng Trời, ông tù ở đó đến 9
năm. Trại Tù Cổng Trời ở tỉnh Hà Giang, trên vùng biên giới phía Bắc.
Cái tên Cổng Trời là tên do người tù đặt ra. 1000 người tù bị đưa lên
Cổng Trời, 999 người bỏ xác ở đó.
Đại
Úy Kiều Duy Vĩnh sống sót từ Trại Cổng Trời trở về. Hai mươi năm sau, ở
Hà Nội, ông viết mấy trang Hồi ký về những ngày sống thê thảm của ông
trong Trại Tù Cổng Trời . Tôi tìm được bài viết của ông trên WEB, xin
trích mời quí vị cùng đọc:
TUYỆT THỰC CỔNG TRỜI Người viết: KIỀU DUY VĨNH
Tôi không theo đạo Thiên Chúa, và điều ấy có thể đã làm cho tôi sống
được đến hôm nay, năm 1994. Vì những người Cộng Sản căm thù những người
theo đạo Thiên Chúa nên tất cả mũi nhọn của nền chuyên chính đều chĩa
vào những người con Chúa. Thứ nhất là các vị Giáo sĩ trong Giáo Hội, rồi
đến các tu sĩ cả nam lẫn nữ. Trong ngục tù Cộng sản, tôi đã gặp hai bà
Sơ bị bắt vào xà-lim, rồi đến các ông chánh trương, trùm trưởng, cả đến
những người trong Hội Trống, Hội Kèn Nhà Thờ cũng bị bắt đi tù hàng
loạt. Tôi thấy đa số họ hiền lành, ngơ ngơ nói năng chẳng ra sao. Không
biết họ mắc tội gì mà bị hành hạ đến như vậy: Họ có mỗi một tội là tin
vào Chúa Jê-Su. Thế thôi.
Còn tôi, tôi thiếu đức tin đó, và điều đó đã cứu tôi sống. Nói thế
không có nghĩa là tất cả mọi người Công giáo đi tù đều chết hết. Có
nhiều người còn sống sau cuộc tù đày, những anh Thi, anh Thọ, chị Diệp,
là những người trong vụ nổi loạn ở Ba Làng, Thanh Hóa năm 1954, còn
Nguyên Công “Cửa” tức Nguyễn Công Môn, ngư dân vượt biển, còn Nguyễn Hữu
Bổn, người thôn Vạn Lộc, Nam Lộc Nam Đàn…
Tôi nghe kể khi đọc lệnh tha anh Thi, anh không chịu ra khỏi tù, họ phải
lôi anh ra. Ngay cả giáo dân cũng kiên cường như vậy, thảo nào mà những
người Cộng Sản xếp họ lên hàng đầu để tàn sát họ, tiêu diệt họ.
Cho đến hôm nay, một ngày năm 1994, tôi vẫn mong mỏi gặp lại vài người
còn sót lại trong số 72 người đầu tiên lên Nhà Tù Cổng Trời mà vẫn chưa
gặp lại ai, ngoài 1 người Cộng Sản là anh Nguyễn Hữu Đang.
Khi ở Khu A Trại Tù Cổng Trời chỉ còn thưa thớt người thì tù ở các trại
dưới được dồn lên để lấp vào các chỗ trống, nên có sự sắp xếp lại. Tôi
được chuyển sang Khu B dưới quyền quản giáo mới tên là Duật, người Nam
Hà. Kỷ luật Khu B nhẹ hơn khu A, chế độ ăn uống có hơn đôi chút, tù Khu B
được làm lao động nhẹ ở sân trại. Ba tháng được viết thư về cho gia
đình một lần, được phép nhận thư . Tôi vừa chuyển sang khu B, chưa được
viết thư về nhà thì đã nhận được thư của mẹ tôi gửi đến địa chỉ:
Công trường 75A Hà Nội C65 HE.
Tuyệt Thực Trại Tù "Cổng Trời"
Thư
đến, mọi người đều ngạc nhiên, tôi là người ngạc nhiên nhất. Lúc đó nhà
tôi ở Số 7 Phố Thi Sách đằng sau Chợ Hôm-Hà Nội. Tính từ ngày tôi bị đưa
lên Trại Tù Cổng Trời đến lúc này đã được hơn 3 năm, tôi chưa được viết
thư về nhà lần nào. Tại sao mẹ tôi lại biết được địa chỉ này mà viết
thư cho tôi, tại sao mẹ tôi lại biết tôi đang ở Nhà Tù Cổng Trời, Hà
Giang?
Mãi đến khi được tha tù lần thứ nhất,1970, tôi về nhà gặp lại mẹ tôi,
tôi mới biết. Thì ra sau khi tôi bị đưa lên Cổng Trời –1960 — gia đình
tôi mất hết tin tức về tôi. Mẹ tôi lên trại tù cũ ở Bất Bạt, Sơn Tây để
hỏi về tôi. Chánh giám thị trại là Thiếu tá Thanh trả lời mẹ tôi là tôi
bị đưa đi đâu ông ta không biết!
Về Hà Nội, mẹ tôi đến Bộ Công An ở Phố Trần Bình Trọng hỏi về anh con
bị tù. Gác cửa không cho vào. Nhưng từ nhà tôi ở chợ Hôm ra Hồ Thiền
Quang chưa đến 1 Km nên hầu như liên tục khi nào mẹ tôi đi đâu là mẹ tôi
lại tạt vào Bộ Công An quấy rầy họ. Đến nỗi người thường trực cứ trông
thấy mẹ tôi là tránh mặt không tiếp.
Mẹ tôi cứ đến hỏi. Hỏi mãi. Riết rồi họ phải trả lời. Nhưng cũng mất
hơn 3 năm họ mới cho mẹ tôi cái địa chỉ Trại Tù Cổng Trời: Công Trường
75A Hà Nội. Mẹ tôi lại hỏi tiếp: Thế cái Công trường này nó ở chỗ nào ở
cái đất Hà Nội này? Họ bảo họ không biết. Mẹ tôi đời nào chịu. Và cuối
cùng họ phải trả lời là tôi đang ở Nhà Tù Cổng Trời ở Hà Giang.
Thế là mẹ tôi đi Hà Giang tìm Nhà Tù đang nhốt tôi. Đi với 2 bàn tay
trắng: không có mảnh giấy phép đi tiếp tế cho tù. Quy định đi thăm tù
phải có giấy giới thiệu của địa phương cấp, mà địa phương được lệnh
không cấp giấy cho mẹ tôi vì thành phần gia đình tôi là địa chủ cường
hào đại gian đại ác. Bố tôi bị bắn chết trong cải cách ruộng đất, còn
tôi thì đi tù tội phản động nên gia đình tôi là đối tượng của cách mạng
cần phải chuyên chính. Mặc, không có giấy giới thiệu, mẹ tôi vẫn cứ đi
tìm thăm con. Nhưng lên đến Hà Giang, chưa qua được đèo Quyết Tiến thì
mẹ tôi bị Công An đuổi theo, bắt quay về Hà Nội. Mẹ tôi đành viết thơ
chọ tôi theo địa chỉ trên. Thế là tôi nhận được thư của mẹ tôi.
Cũng có 1 phần do mẹ tôi không chịu mất dấu vết của tôi, làm phiền họ,
quấy rầy họ, mà trên Bộ Công An chưa bật đèn xanh cho Ban Giám thị trại
xóa tên tôi trong danh sách tù nhân ở Cổng Trời. Đã có lần họ cho người
giả làm tù ở cùng trại với tôi về nhà tôi báo tin tôi đã chết. Nhưng mẹ
tôi không tin. Mẹ tôi cứ làm tới, sấn tới, và điều đó phần nào đã cứu
sống tôi.
Vả lại ở trên Cổng Trời này, đối với các bậc như Cha Vinh, cha Quế, Tu
sĩ Đỗ Bá Lang, Tu sĩ Nguyễn Trung Chính tức Nhẫn, tôi là hạng bét so với
các đấng Tù ấy nên mũi nhọn của cuộc tàn sát không chĩa vào tôi. Ban
giám thị trại đem so tôi với các bậc Thánh đó thấy tôi là một phần tử
tốt. Này nhé: Tôi không có đạo, tôi không cầu kinh, không làm dấu thánh,
không ăn chay Lễ Phục Sinh, không theo nghi Lễ Giáng Sinh. Như thế là
tôi chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của Ban Giám thị quá rồi còn gì
nữa.
Còn với các đấng Tù kia. Nội qui trại tù cấm tù cầu kinh, các vị cứ cầu
kinh, cấm làm dấu thánh trước khi ăn, các vị cứ làm dấu thánh. Ngày Lễ
Giáng Sinh các vị tự ý nghỉ, không chịu đi làm.
Và, đáng kể nhất là việc tôi ở cùng buồng giam, tôi ăn cùng với các vị
nhưng tôi không tuyệt thực cùng các vị khi có lệnh cấm làm dấu thánh
trước khi ăn.
Câu chuyện tuyệt thực của một số vị tín đồ Thiên Chúa Giáo ở Trại Tù Cổng Trời xảy ra như sau:
Một hôm, giám thị tập hợp các Tu sĩ Thiên Chúa Giáo, nói:
- Đây là nhà tù, không phải là nhà thờ của các anh, nên cấm mọi hành vi
tôn giáo và tịch thu mọi thứ: thánh giá, kinh bổn, tràng hạt. Cấm các
anh đọc kinh, làm dấu trước khi ăn.
Tịch thu thì được, còn cấm thì hơi khó, nếu không nói là không cấm
được. Cấm cầu kinh các vị ấy cứ cầu, vì làm thế nào mà biết các vị đang
cầu kinh? Ăn xong, ngồi, không nói chuyện, không đi lại, thế là các vị
đang cầu kinh đấy. Chỉ có đêm đến, lệnh cấm ngồi là có hiệu lực, chứ ban
ngày chả nhẽ lại cấm tù ngồi, cứ bắt tù nằm mãi sao!
Không cấm được, Ban Giam Thị uất lắm! Sau vụ Tu sĩ Đỗ Bá Lang công khai
chống lệnh, Chánh giám thị Nguyễn Quang Sáng tỏ ra quyết liệt hơn, cứng
rắn hơn, dấn tới một bước nữa. Y tuyên bố:
- Cấm triệt để làm dấu thánh trước khi ăn cơm. Anh nào làm dấu thánh sẽ bị tịch thu phần cơm.
Y lý luận:
- Ai cho các anh ăn? Ai cho các anh bát cơm? Chúng tôi cho các anh ăn
chứ không có Chúa nào cho các anh ăn cả. Cấm cầu kinh, các anh vẫn lén
lút cầu kinh.
Y quyết định:
- Vậy bây giờ trước khi ăn, tôi cấm các anh làm dấu. Các anh phải cảm
ơn người cho các anh ăn. Đúng lắm, nhưng người cho các anh ăn là chúng
tôi đây, muốn cám ơn các anh phải cám ơn chúng tôi. Không có con mẹ
Maria, thằng Jê-su nào cho các anh ăn cả. Nghe rõ chưa?
Nguyên văn như vậy, tôi xin lỗi các vị, tôi phải viết đúng, không dám xuyên tạc, bịa đặt, báng bổ gì.
Và đến bữa ăn, cơm mang vào, Quản giáo vào buồng, đứng đó. Mọi lần thì
cửa phòng giam mở, chúng tôi bê thùng cơm vào trong phòng, quản giáo
đóng cửa, khóa lại, tù chia cơm ăn, không có cai tù canh trong bữa ăn.
Nhưng hôm ấy, bê cơm vào, cửa vẫn mở, Quản Giáo đứng đó kiểm soát và
nhắc lại lệnh cấm của Ban Giám Thị.
- Không được làm dấu trước khi ăn!
Tất cả, kể cả tôi, không ai bảo ai, không chia cơm ra ăn. Đứng mãi chán, Quản Giáo đóng cửa phòng giam lại, đi về.
Đến chiều, tù nhà bếp đến lấy thùng cơm. Cơm canh vẫn nguyên. Buổi
chiều, đích thân Chánh Giám Thị xuống xem bữa ăn chiều, mọi việc lại
diễn ra đúng như buổi sáng. Không ai lấy cơm. Mặt Chánh Giám thị tái đi
vì giận dữ. Nhưng người tù không ăn, làm thế nào bắt họ ăn?
Không có khí thế hừng hực đấu tranh, không có hô khẩu hiệu, những người tù không chịu ăn chỉ lặng lẽ, ngồi im.
Không thể dùng lưỡi lê và sức mạnh để nhét cơm vào mồm họ được. Họ
không ăn, thế thôi. Không hò reo, không gõ bát, gõ đĩa, không ai diễn
thuyết, kích động, yêu sách điều gì. Im lặng, ai ngồi chỗ ấy. Giám thị
Sáng đứng đó, không một ai thèm nhìn ông. Giám thị Sáng đành phải đi
ra..
Đêm đến. Tôi đói không thể nào ngủ được. Đã một ngày trôi qua, và hai
bữa không ăn. Suốt mười năm tù đầu tiên, tôi không bỏ một bữa cơm nào,
ngoài hai bữa hôm ấy. Chỉ khi nào đến ngày giỗ người sinh ra tôi bị bắn
chết, là tôi khai ốm và báo nhà bếp cho tôi ăn cháo, vì tôi nghĩ: “Đói
ngày giỗ cha, no ba ngày Tết.”
Thiên nhiên miền đá nhìn từ Cổng Trời. Sáng sớm, trời lạnh buốt.
Dạ
dầy tôi là dạ dày thép, nó ngốn, nó nghiền tất cả mọi thứ mà những người
cùng tù với tôi, dù cũng đói như tôi, không sao ăn nổi. Tôi ăn sắn
sống, khoai sống, ngô sống, om on sống, cả cây ngô non tôi cũng ăn sống
được, khoai hà chỉ có ngỗng đói mới ăn, tôi cũng ăn được, khoai sọ,
rong, riềng tôi ăn cả vỏ, có lần đi làm tôi lẩn vào ruộng trồng đỗ Mèo,
ních một bụng quả đỗ sống, chiều về say gần chết. Ra suối tắm, thấy quả
vả mọc hoang tôi bứt ăn, cũng say gần chết. Chỉ gần chết thôi chứ chưa
chết hẳn. Ngất ngư lảo đảo thôi. Sắn sống ăn vào là say, ngày nào tôi
chả say sắn, mà theo cái đầu óc ngu dốt của tôi thì có lẽ vì tôi ăn sắn
sống triền miên mà tôi còn sống đến hôm nay. Chả là rét, lạnh quá, tôi
bị sưng phổi. Tôi ho khặc khặc, sốt, tôi không dám nói láo, cứ cúi xuống
ngẩng lên là nghe trong phổi có tiếng óc ách. Ở Cổng Trời tù không phải
khai ốm, vì có khai với ai được. Ốm mặc, không có thuốc men gì hết.
Quản Giáo trực thấy tôi nằm mọp, hỏi làm sao? Hỏi để mà hỏi. Rồi thôi.
Để đấy. Tôi cứ ăn sắn, say sắn. Và rồi tôi hết sưng phổi, tôi sống. Mãi
đến khi tôi về Hà Nội, năm 1970 tôi đi khám ở Bệnh viện A để kiểm tra
phổi. Sau khi chụp X quang, kết luận: dầy, dính màng phổi. Bác sĩ Kim
hỏi tôi bị sưng phổi bao giờ và y viện nào chữa cho? Tôi trả lời là quên
mất tôi bị sưng phổi năm nào nhưng nhớ là không có chữa ở bệnh viện nào
cả. Bác sĩ Kim rất ngạc nhiên.
Ở Cổng Trời, khu nọ cách biệt với khu kia bằng một hàng rào bao quanh
khu. Cấm tù khu này liên lạc với tù khu kia nhưng khi trả thùng cơm
canh, thì tù các khu đem đến một cái sân chung để tù nhà bếp đến lấy. Có
lần Khu C tù được mua sắn cải thiện để ăn thêm. Tù Khu C ăn sắn, bị say
sắn, chết mất 5 người. Sáng ra, quản giáo trực vào khu thấy tù chết vì
say sắn nằm một đống, bèn ra lệnh tịch thu số sắn còn lại, cấm không cho
ăn, sai tù đem ra tập trung ở chỗ trả thùng cơm. Hôm ấy đến lượt tôi
bưng thùng cơm ra trả. Thấy sắn bỏ đó, tôi lấy ngay mấy cây sắn luộc
rồi, dấu vào bụng, đem về buồng ăn.
Các vị tu sĩ bảo tôi: Anh em bên ấy ăn sắn này chết mấy người, anh
không sợ chết hay sao mà ăn? Tôi nói: Họ có nhiều họ ăn nhiều quá nên họ
mới chết! Chứ tôi cứ củ một, củ một, ăn rồi uống nước, chờ cho tiêu
bớt, lại ăn, chết thế nào được. Và tôi ăn. Ăn chầm chậm tùng củ một,
thấy đắng quá, cứng lưỡi thì tạm ngừng. Có hơi say một chút nhưng chẳng
sao cả. Và những chất độc làm người ăn bị say ở sắn đã làm tôi khỏi bệnh
phổi, làm tôi no, và, có lẽ vì nhai dữ quá, hai bên quai hàm tôi to
bạnh ra. Say sắn có khổ nhưng không khổ bằng đói: tôi chọn cái ít khổ
hơn. Chuyện này là sự thật 100%, cứ ăn sắn nhiều là hai bên quai hàm to
bạnh ra. Xin các nhà khoa học giải thích hộ cho. Kể lại với quý vị như
thế, để quý vị biết tôi đói đến thế nào. Tôi đói lắm ấy! Được ăn 12kg cả
gạo cả sắn một tháng, với sức tôi cao 1m76, nặng 78kg, 30 tuổi thì các
vị chắc cũng hiểu tôi đói đến như thế nào.
Nay trở về với chuyện tuyệt thực. Thế là qua một ngày và hai bữa không
ăn. Tôi xin phép được nhắc lại, mười năm tù đầu tôi không nhịn ăn bữa
nào ngoài hai bữa cơm tuyệt thực đó, và tất nhiên là tôi đói lắm. Ở
trong Mein Kamp – Cuộc Chiến Đấu Của Tôi – Hitler viết: “Cái đói nó theo
tôi như một cái bóng…” tôi xin thêm: “Nó hành hạ tôi khổ sở nữa.”
Tối hôm đó, đã hơn chín giờ, tôi không thể nào ngủ được, cứ trở mình
trằn trọc. Tu sĩ Chính tức Nhẫn ở xứ Trung Đồng, Thái Bình, nằm cạnh
tôi, hỏi nhỏ:
- Đói không ngủ được à?
- Vâng, đói lắm không ngủ được.
Cha nói:
- Vậy thì ngày mai Vĩnh cứ ăn đi. Tôi sẽ chia cơm để Vĩnh ăn.
Tôi, xin thưa rằng, phần xác tôi nặng, nặng lắm nhưng cơ thể tôi lúc đó
thì rất nhẹ. Lúc đó tôi chỉ cân nặng 49kg. Tôi gầy đến “lõ đít” ra. Tôi
xin phép được dùng tiếng “lõ đít”, vì đúng là tôi gầy đến như vậy.
Những lúc ngồi xếp bằng, ngồi luyện yoga tôi nhìn xuống đùi, đầu gối ống
chân đều trơ xương, khẳng khiu, khô khắc. Trước đó ít hôm ra khênh cơm
vào buồng, anh bạn ở nhà bếp khiêng cơm đến nhìn thấy tôi, ra hiệu bằng
cách lấy hai bàn tay vuốt vào hai má anh, chúm cái miệng lại ra cái điều
là anh thấy tôi gầy quá, má hóp, mồm vêu. Tôi cũng biết vậy, tôi yếu
lắm rồi, tay nắm không chặt, cầm vật gì nặng là hay rơi, hai bàn tay xoa
vào nhau phát ra những tiếng rẹt rẹt như hai thanh củi khô, không còn
cái mềm mại của da thịt. Ở Nhà Tù Cổng Trời này không có gương để soi,
xem mặt mũi của mình nó ra sao. Mỗi lần cắt tóc, quản giáo đưa cho một
cái tông-đơ, xén tóc, xén râu, thế thôi, không có gương lược, dao kéo
gì. Có lần muốn nhìn cái bản mặt mình, tôi bắt chước Nguyễn Tuân đái một
bãi xuống đất rồi soi mặt mình lên đó. Nào có thấy chó gì đâu, cái nhà
ông Nguyễn chỉ nói ngoa ngôn, phóng đại, xui dại anh em thôi. Vì gầy
thế, nên hai cái mông tôi teo lại, cái xương cùng nó thò dài ra, khi đi
ngoài, chùi nó chạm, nó đâm vào tay mình. Lúc ấy tôi mới cảm nhận thấy
thế nào là “gầy lõ đít.” Mười năm tù, lúc nào tôi cũng ước có một
bữa ăn no, thèm được ngồi trước nồi cơm nóng bốc hơi nghi ngút, muốn ăn
bao nhiêu thì đơm bấy nhiêu, và có đầy một bát muối để ăn cơm cho mặn.
Cả muối tôi cũng thèm. Tất cả các nhà tù của Cộng Sản miền Bắc mà tôi đã
đi qua và sống ở đó tôi đều đói, tôi có thể chết đói ở đấy. Nói cách
khác, nếu tôi chết trong những nhà tù đó là tôi chết đói.
Khi ở Trại Tù Bất Bạt Sơn Tây, tôi ở toán kiên giam, biệt lập: phải tự
xay lúa, giã gạo trong khu biệt lập kiên giam này. Khi xay lúa, tôi nhớ
tới phim “Samson và Dalila,” tôi xem ở Hà Nội năm 1950. Anh chàng Samson
mù bị bắt quay cối xay. Chúng tôi cũng vậy. Rào kín và hẹp chả nhìn
thấy gì ở ngoài cả. Chế độ ở Khu kiên giam Nhà Tù Bất Bạt cũng học đòi
cách quản lý và đối xử với tù của Nhà Tù Cổng Trời, nhưng mà là học trò
hạng bét.
Ở Trại Tù Bất Bạt, cũng tù hình sự đem cơm đến để ở cổng khu rồi chạy
đi ngay, tù kiên giam cũng không được ra khỏi khu, nhưng tù được viết
thư về nhà, còn được gặp và nhận đồ tiếp tế của người nhà đến thăm nuôi.
Chứ ở Trại Tù Cổng Trời thì không một người tù nào được thăm nuôi,
không một ai được gia đình nuôi trong suốt thời gian 7 năm tôi ở đó.
Khi đói quá, tôi kêu, tôi rên. Tôi kêu đến nỗi Quản Giáo phụ trách Giáo
dục tên là Kích, người Liên khu 5 Bình Định đi “tua” nghe tiếng, gọi
tôi ra ngoài, hạch hỏi, lên lớp và đe dọa tôi: - Anh Vĩnh, anh định kích động mọi người, phải không? Cẩn thận. Anh không chịu im là đi suốt đấy. Tôi nói: - Thưa ông, tôi đói thật. Tôi kêu vì tôi đói. Phàm cái gì uất ức, đau khổ quá nó phát ra thành tiếng. Có thế thôi. Tôi vừa lấy hơi vừa cố nói cho rõ tiếng:
- Thứ tôi mà kích động được ai hở ông? Ông xét xem, tôi kích động
được ai trong số những người ở cùng với tôi trong buồng này? Tôi nói rất
thật, để chứng minh tôi đói thật, ông làm ơn súc cho tôi một bát cám
lợn kia tôi sẽ ăn hết ngay trước mặt ông cho ông thấy. Chả là
chỗ nói chuyện gần chỗ nuôi lợn của nhà bếp mà. Chừng quản giáo Kích
cũng hiểu ra, nên không trấn áp tôi thêm nữa, cho tôi trở về buồng. Trên
đường về, đi qua dàn su-su, quả mới bé bằng ngón tay cái, tôi với tay
vặt ngay lấy dăm bẩy quả đút túi về buồng ăn sống. Người tù Trần Liệu nói:
- Tù được ra khỏi buồng thấy bất cứ cái gì động đậy đều vồ lấy ăn
hết, chỉ trừ khi vồ nó mà nó kêu “Ối giời ôi” thì chịu không ăn mà thôi.
Hắn ăn giun, ăn dế, ăn gián, ăn cả trứng con bọ hung nữa. Chúng
tôi cùng cười. Trần Liệu cũng đói dữ lắm. Hắn to con gần bằng tôi, vốn
là đồ tể Quỳnh Lưu, Cầu Giát, rất thích ăn tiết canh “me”, huyết bê non.
Chính vì thế mà tôi thán phục Liệu; hắn cũng chịu được hai ngày không
ăn theo các đấng tu sĩ cùng buồng. Trần Liệu là con chiên cực kỳ ngoan
đạo. Ông Chính bảo tôi: - Mai tôi sẽ chia cơm để Vĩnh
ăn. Vĩnh cứ ăn đi. Không sao cả. Tôi sẽ nói với anh em trong phòng để họ
cảm thông trường hợp của Vĩnh. Tu sĩ Chính là người có uy tín
nhất trong số tu sĩ bị giam trong buồng. Tôi im lặng. Đối với ông Chính,
tôi có món nợ lớn lắm! Lớn mà không bao giờ tôi có thể trả được.
Tôi vốn có duyên nợ với đất Thái Bình, ông Chính là người sinh ra và
tu ở Thái Bình. Tôi và ông có rất nhiều điểm tương đồng. Ông hay nói
chuyện với tôi. Tôi ở với ông từ ngày đầu đi tù, từ Trại Bất Bạt Sơn Tây
lên ở Khu A Cổng Trời, ở cùng nhau cho đến lúc ông bị gọi đi và chết.
Những năm 1950, ở Thái Bình tôi có may mắn gặp Đức Giám mục nguời
Tây Ban Nha coi sóc địa phận, tôi gặp cha Chính, cha Trụ ở thị xã, rồi
các cha ở Sa Cát, Phương Xá, Bái Bồ Trung, Phù Lưu (ngã ba Đọ) Cao Mái.
Những năm ấy tôi hành quân giải vây cho các nhà thờ bị vây hãm. Tôi có
nhiều kỷ niệm đẹp về các xứ đạo ở Thái Bình. Tôi nói chuyện với Tu sĩ
Chính về những ngày xưa đó, ông và tôi rất tâm đầu ý hợp. Thấy
tôi kêu rên vì đói. Một hôm, tu sĩ Chính nói ông ốm, ốm ở đây ít ai bỏ
ăn. Ở Cổng Trời, ốm phải không? Tốt. Tốt lắm! Nếu ốm chết thì rất tốt:
Khỏi phải giết! Đỡ mệt. Hôm ấy Tu sĩ Chính bỏ ăn. Ông rất ít khi ốm, từ
Bất Bạt tôi thấy ông không ốm bao giờ tuy rằng ông rất gầy và xanh.
Nhưng sự chịu đựng gian khổ của ông thì tôi phải ngã mũ kính cẩn vái
chào. Lúc nào ông cũng ôn tồn, nhỏ nhẹ, điềm tĩnh cười nói như không cho
dù có điều gì xảy ra. Thấy ông ốm, tôi còn mấy viên thuốc cảm,
đưa ông dùng, ông nói không sao đâu, chỉ có miệng ông đắng và bụng ông
nó không ổn, thế thôi. Buổi chiều qua đi ông cũng bỏ cơm. Chúng tôi
thường ăn vào độ ba, bốn giờ chiều. Cấm nấu nước, đun lại canh, hâm cơm.
Với chúng tôi chín giờ đêm là khuya rồi. Tu sĩ Chính lay tôi dậy, nói: - Vĩnh ăn hộ tôi đi, chứ để mai cơm thiu, bỏ đi. Phí của lắm. Tại sao tôi lại có thể ăn xuất cơm của tu sĩ Chính như thế được chứ? Tôi từ chối, ông nói như năn nỉ:
- Tôi đắng miệng quá, trong bụng tôi nóng như lửa, quặn đau, không
thể ăn được. Vĩnh ăn hộ tôi đi. Nếu Vĩnh không ăn, sáng mai nhà bếp họ
lấy cho lợn ăn thì uổng lắm. “ Tôi thấy đúng như ông nói. Ở các
trại duới, cơm dư tù có thể phơi khô để dành. Chứ ở đây, thì chỉ có đưa
xuống nhà bếp cho lợn ăn. Tại sao lại để cơm cho lợn ăn? Trong khi tôi
đói quá lắm, tôi thèm ăn quá lắm. Lúc đó là 10 giờ đêm. Tôi ngồi
ăn hai xuất cơm đó. Đọc tới đây, tất có vị sẽ chửi rủa tôi. Xin các vị
cố hiểu mà đánh chữ đại xá cho tôi. Tôi ăn cả hai xuất cơm canh trong
nháy mắt rồi nằm xuống ngủ ngon lành. Tôi ngủ yên cho đến sáng. Lâu lắm
tôi mới được ngủ đêm mà bụng không đói lắm. Cám ơn Tu sĩ Chính tức Nhẫn. Cám ơn Ngài nhiều.
Sáng hôm sau, như thường lệ, mọi người, cả Tu sĩ Chính, dậy sớm cầu
kinh. Ông Chính bảo tôi ông thấy đỡ nhiều. Chỉ đến chiều hôm ấy, tôi
mới biết là hôm qua Tu sĩ đã nhịn hai bữa cơm cho tôi ăn. Xin
cám ơn ông. Cho đến tận hôm nay ba mươi năm trôi qua, tôi vẫn còn món nợ
ông mà không thể nào trả được. Tôi chỉ biết cầu Chúa, xin Chúa biết đến
sự hy sinh cao cả của ông, đến sự vất vả nhọc nhằn của ông khi ông vác
cây thánh giá của Chúa theo Chúa đến chết. Cầu cho linh hồn ông được tới Thiên Đàng.
Sáng hôm sau, tù lại khênh cơm đến. Quản giáo lại vào phòng, đứng
xem. Không ai nhúc nhích. Không ai lấy cơm ăn, kể cả tôi. Tu sĩ Chính
đứng dậy, cầm bát, lấy cơm canh đem đến để trước mặt tôi. Ông nói: - Đây, phần của anh, anh ăn đi.
Một lần nữa tôi lại xin các vị cố hiểu cho tôi và bỏ qua cho tôi.
Tôi không theo đạo Thiên Chúa, tôi không làm dấu thánh bao giờ. Tôi ăn.
Hà tất gì tôi lại nhịn không ăn? Không có điều gì bắt tôi không ăn cả. Thấy tôi ăn, Quản Giáo bèn lên tiếng:
- Đấy, các anh thấy không? Anh Vĩnh, ăn cơm không cần làm dấu, làm
diếc gì cả. Có sao đâu nào. Anh ấy vẫn ăn ngon lành, thế thì tại sao các
anh lại không ăn? Các anh là đồ ngu dốt, cuồng trí, dại dột dám chống
lại Đảng và Chính phủ. Các anh chỉ có nước chết thôi. Không một người tù nào nói nửa tiếng. Có tôi nói:
- Xin lỗi ông, ông đọc lý lịch của tôi chắc ông đã rõ, tôi không
theo đạo nào cả. Phật không, Chúa cũng không, mà lệnh của các ông thì
chỉ có cấm làm dấu thánh trước khi ăn. Tôi, tôi từ thuở cha sinh mẹ đẻ
chưa làm dấu thánh bao giờ. Vì vậy tôi ăn, có thế thôi. Đứng cho
đến lúc tôi ăn xong. Quản giáo thấy trơ trẽn quá, quay gót, khóa cửa ra
về. Đến buổi chiều, cơm đem đến, không thấy mặt ai cả. Cả Giám thị, cả
Quản giáo cả lính coi tù. Tu sĩ Chính chia cơm canh cho một mình tôi. Tôi ăn. Các đấng Tu sĩ Tù, kể cả Trần Liệu cũng vẫn không ăn. Hai ngày trôi qua. Ngày thứ ba, tù khênh các thùng cơm canh nguội lạnh còn nguyên xuống nhà bếp, rồi khênh đến hai thùng cơm canh mới. Không có giám thị vào phòng. Cửa đóng, khóa lại.
Cơm canh được chia đều. Các Tu sĩ Tù làm dấu thánh trước khi ăn.
Chẳng ai cười, nói, hát hò, reo vui gì khi cuộc đấu tranh dành được
thắng lợi. Và cuộc sống tù đày của chúng tôi lại lặng lẽ trôi như thế cho đến ngày tôi được ra khỏi tù. Và các vị tù ở lại chết hết trong tù!. Viết tại Hà Nội, Ngày 1 Tháng 8, Âm lịch, năm 1994
Kiều Duy Vĩnh
*****
Thi sĩ Hoàng Song Liêm, cư dân Virginia, nguyên là sĩ quan Không Lực
Việt Nam CH. Ông quen biết ông Cựu Đại Úy Kiều Duy Vĩnh. Năm 2002 ông
Liêm mời ông Vĩnh sang chơi Hoa Kỳ. Tấm ảnh ông Kiều Duy Vĩnh đăng trong
trang báo này là do ông Hoàng Song Liêm cho tôi. Từ Trại Tù Cổng Trời,
Hà Giang, ông Kiều Duy Vĩnh về Hà Nội, ông sang du ngoạn Kỳ Hoa, ông đến
trước Nhà Trắng, đến trước Bức Tường Đen, ông sang Cali thăm khu Bolsa,
rồi ông sang chơi Pháp quốc. Ông đến xem Paris có gì lạ không Em? Ông
đến sông Seine đi bateau-mouche, ông đến Vườn Luxembourg tìm con đường
xưa ông bạn ông — ông Anatole France- tung tăng đi đến trường học, ông
đến Nhà Thờ Đức Bà Paris tìm hình bóng nàng Esmeralda. Rồi ông trở về Hà
Nội.
Tôi
đọc hồi ký của ông với sự kính phục và lòng căm giận chen lẫn ngậm
ngùi. Năm 1972 khi dịch The First Circle của Alexander Sozhenytsin ra
tiếng Việt — Tầng Đầu Địa Ngục — tôi thấy Solzenytsin viết:
- Trong ngục tù cộng sản, cái làm người tù khổ nhất là cái Đói.
Bọn
Cộng sản giết người chúng bắt tù bằng cái Đói. Bao nhiêu người tù chết
vì Đói. Những thằng không từng bị bọn Cộng bỏ tù một ngày, những thằng
không biết thế nào là cái Đói trong Ngục Tù Cộng Sản, dzài mồm kêu gọi
các Bố Tù của chúng nó quên Tội Ác Cộng Sản. Chúng mày là cái gì mà
chúng mày kêu gọi Các Bố Chúng Mày Quên? Các Bố Chúng Mày Không Quên.
Còn lâu!
Đứa con của biển, hay là câu chuyện của một hài nhi được sanh ra dưới
nước, trong một đêm mưa gió bão bùng, giữa đại dương mênh mông nổi sóng
điên cuồng.
Đứa con của biển cũng là câu chuyện của nàng, một thiếu phụ Việt Nam, đã
sanh con trong hoàn cảnh đắm tầu, hai tay bám chặt vào một cái phao
đang bị cuồng phong và sóng bạc đầu đánh tả tơi ngoài khơi Đông Hải.
Đứa con của biển còn là một câu chuyện thật của một thiếu niên 17 tuổi,
em học sinh NgôĐình Đa đã hộ sanh sản phụ trong những giờ phút kinh
hoàng, trên đỉnh sóng cao vút đang gào thét cùng với gió mưa, giữa đại
dương đêm tối hãi hùng...
Câu chuyện bi hùng trên đây bắt đầu vào cuối tháng 7 năm 1979 tại biển Đông Việt Nam.
Vào lúc 12 giờ khuya đêm đó, trời mờ mờ tối, gần 350 người được
dồn xuống hầm một chiếc tầu đánh cá dài 17 mét rộng 3 mét, máy 6 bloc.
Trong số đó có chàng ngồi co ro ôm hai con nhỏ, một trai 3 tuổi và một
gái 6 tuổi. Còn nàng thì đã sắp đến giờ sanh, có thể lâm bồn bất cứ lúc
nào.
Tầu quá nặng, thủy thủ vất bỏ lưới và nước đá ươm cá. Tài công dùng vải
bố bịt ống bô máy cho đỡ ồn. Sáng sớm hôm sau, tầu đã ra xa bờ. Nhiều
người hướng vế phía Tây, cố ghi lại lần chót hình ảnh quê hương yêu dấu,
lòng bỗng chùng xuống, buồn tha thiết. Núi khuất dần theo những đợt
sóng nhấp nhô... Phải chăng lần này ra đi là vĩnh biệt!
Tầu càng xa, sóng càng lớn, sóng lớn như mái nhà, tài công lái tầu theo
lườn sóng cho tầu khỏi lật. Ai nấy say sóng, ói mửa, mùi hôi nồng nặc,
nhưng nhờ có gió biển nên dễ thở
đôi chút.
Tầu quá đông và chật, không ai có thể nằm xuống nghỉ ngơi được, chỉ ngồi
bó gối. Thỉnh thoảng nàng lại lấy cái kéo trong cạp quần ra lau chùi
sạch sẽ, rồi lại cẩn thận lận kỹ trở lại cùng với cuộn chỉ đen nhỏ. Năm
nay nàng trạc 30 tuổi, trông nàng còn có vẻ khoẻ hơn chồng, người gầy
nhom và nét mặt hốc hác.
Đến trưa thì từ xa một tầu lớn đi tới. Tài công ra hiệu S.O.S, tầu lớn
làm ngơ không ngừng. Khi trời chập tối, may quá lại thấy một tầu lớn
khác, tài công bắn trái sáng lên làm hiệu, tầu lớn sợ, bỏ chạy luôn. Con
tầu nhỏ lại tiếp tục phấn đấu với sóng to gió lớn. Sóng bạc đầu lúc nào
cũng như muốn nhận chìm chiếc tầu bé nhỏ, mong manh như chiếc lá tre.
Bỗng bầu trời u ám, mây mưa vần vũ, sấm sét, chớp nổ vang rền. Gió ào ào
từ
nhiều hướng đổ lại, xoáy vào nhau tạo thành cơn bão dữ dội, kinh hoàng.
Đại dương mênh mông nổi sóng, điên cuồng, thịnh nộ. Mưa như thác đổ, con
tầu mong manh bị bão tố đánh tả tơi, thê thảm... Có những lúc cả một
khối nước bỗng đội tầu lên đỉnh sóng, rồi ném ngayxuống hố sâu thẳm. Mỗi
lần như thế, mọi người lại như chết đi sống lại.
Lo lắng, kinh hoàng... Mọi người bắt đầu cầu nguyện. Trong đêm tối,
trong tiếng gào thét của sóng, trong tiếng rít của gió và trong tiếng
mưa đổ rào rào trên mui tầu, tiếng cầu kinh xen lẫn với tiếng khóc con
nít vì đói khát, nghe thật não nùng.
Qua ngày thứ hai, sóng vẫn lớn và gió vẫn dữ dội. Lại không có tầu lớn
nào. Nước bắt đầu vô tầu. Mọingười đầu tóc, quần áo vốn đã ướt nhẹp, lại
càng ướt sũng hơn. Lúc đầu, nước vô còn ít, về sau mỗi lúc
mỗi nhiều, tình trạng thật nguy kịch! Thanh niên phải thay nhau tát nước
ra. Mặt nước gần, có thể thò tay xuống. Tài công ra lệnh vất bớt hành
lý cho nhẹ tầu.
Một số người đói quá, khát quá cứ từ từ ngất xỉu. Còn nàng, lâu lâu nàng
lại lau cây kéo và kiểm soát lại cuộn chỉ nhét trong cạp quần. Lần này
nàng lấy một sợi giây lớn buộc chắc cây kéo vào ngang lưng, chỉ sợ tầu
lắc lư rơi mất.
Đến xế chiều ngày thứ hai, máy tầu bắt đầu trục trặc. Khói bốc ra ngộp
thở. Máy tầu nóng quá, phải ngưng chạy nhiều lần. Mọi người như ngất xỉu
phần vì đói khát, phần vì say sóng, vì thế khi chủ tầu và tài công
quyết định cho tầu quay mũi trở lại hải phận Việt Nam tránh bão, không
có ai phản ứng gì cả.
Đến 10 giờ đêm, tầu đụng phải vật gì cứng, tầu khựng lại. Tài công
và thủy thủ la lớn, sang số de. Máy nóng cháy, khói mịt mù. Đang de thì
sóng lớn tràn vô tầu. Bỗng như có linh tính cho biết cái chết đã gần kề,
mọi người im lặng, con nít ngưng khóc.
Một thiếu niên chừng 17 tuổi, tên Ngô Đình Đa, vội lấy hai thùng nylon
làm phao, đưa một thùng cho bố. Em sợ bố không biết bơi nên dặn bố ôm
thùng cho thật chặt.
Sóng và nước tạt vào tầu, tầu tróc mái, tả tơi. Tầu lật nghiêng 90 độ,
hất người xuống biển như sung. Tiếng la khóc, tiếng chồng gọi vợ, tiếng
cha gọi con vang động cả biển trời.
Thiếu niên và bố chui ra, gặp gia đình quen, vợ chồng con cái đứng ôm
nhau khóc ở lối ra. Thiếu niên và bố nhảy liều xuồng biển. Chung quanh
và trên tầu, tiếng người kêu khóc, cầu cứu vang rền trong đêm giông tố
hãi hùng.
Hai bố con bị sóng nhận
chìm nhiều lần rồi lại nổi lên. Có lúc bố bị sóng đánh văng ra xa, em
phải vận dụng hết sức bơi tới, túm áo kéo bố lên. Một số người còn đứng
trên tầu la khóc cầu cứu. Một làn sóng lớn đánh ập tới, em quay lại,
không thấy tầu đâu nữa. Những người đứng trên đó cũng mất tiêu luôn. Em
ngó quanh không thấy ai, đồ đạc trôi lềnh bềnh.
Bỗng dưới chân như có vật gì đang nổi lên, em đưa tay sờ thì đoán là nắp
cabin tầu. Nắp cabin cùng với giây diện chằng chịt, từ từ nổi lên mặt
nước. Em bứt giây điện cột chặt người bố vào nắp cabin.
Thỉnh thoảng em lại thấy vài cái đầu đen nổi lên. Em bơi ra túm được một
bé trai chừng 13 tuổi ôm phao bằng bánh xe nhỏ. Em lôi đứa bé cột vào
nắp cabin cùng vối bố. Phía bên kia mấy ngọn sóng, em lại thấy hai cái
đầu đen khi ẩn khi hiện, em bơi tới và túm được mái tóc dài của hai cô
gái chừng 15, 16 tuổi. Vận dụng hết sức lực và sau chừng 15 phút chiến
đấu với sóng to gió lớn, em đã đưa được hai cô gái tới nắp cabin. Cả 5
người cùng ôm vào nắp cabin dài chừng 4 mét, rộng chừng một mét, nhưng
nắp cabin mỗi lúc mỗi thấm nước cứ chìm dần...chìm dần...
Vừa khi đó, 5 người thấy từ đằng xa một đám đen nổi lên. Thiếu niên la
to hai lần. Trong tiếng gào thét của sóng, hình như có tiếng người đáp
lại, phấn khởi, em la to thêm nữa, lần này quả thật có tiếng người đằng
kia đáp lại.
Cả năm người cùng đạp chân, khoảng cách chỉ chừng 50 mét, nhưng phải mất
hơn nửa giờ mới tới. Đám đen là một cái bè kết bằng phao dài 1m, rộng
chừng 8 tấc, nhưng đã có chín người bám
vào đó. Tới gần, thiếuniên rất ngạc nhiên khi thấy người thiếu phụ có
bầu và cùng chồng và đứa con trai 3 tuổi đang bám vào bè phao. Không
thấy đứa bé gái6 tuổi đâu cả. Ngoàira còn có hai vợ chồng ông bà chủ tầu
và hai con gái nhỏ trên mười tuổi có buộc phao an toàn. Cuối cùng có
hai thanh niên chừng 20 tuổi. Tấtcả những người nàykhông một ai biết
bơi.
Khi nắp cabin thấm nước chìm hẳn thì cả năm người bám qua bè phao, số
người tăng lên 14. Bè phao nổi lưng chừng, nước ngập trên gang tay.
Cuồng phong càng lúc càng gầm thét dữ dội, sóng bạc đầu trùng trùng lớp
lớp, ầm ầm vây bủa tứ bề, vùi dập chiếc bè cùng với 14 người ốm yếu, đói
khát. Nước lạnh căm, toàn thân thiếu niên đều nổi da gà. Có tiếng hàm
răng đánh vào nhau kêu lắc cắc.
Người chồng quay qua thiếu niên, giọng nói
thất thanh qua tiếng sóng : " Vợ tôi sắp sanh...nhờ cậu săn sóc giùm..."
Thiếu phụ hai tay bám vào thành bè, cố ngước mặt lên khỏi mặt nước thở,
thỉnh thoảng nàng rên nho nhỏ...Có lẽ nàng chuyển bụng sắp sanh. Hình
như nàng không còn có thể khóc được nữa....
Thiếu niên hốt hoảng, yêu cầu hai cô con gái ông bà chủ tầu nhường chỗ
trên bè vì lúc đó hai bé gái nhoài người nửa trên bè nửa dưới nước. Ông
bà chủ từ chối, viện lý do hai con sẽ bị sóng đánh văng ra. Cực chẳng
đã, thiếu niên phải dọa : " không xuống thì tôi phải kéo xuống." Lúc đó
vợ chồng chủ tầu mới chịu bỏ hai con tụt xuống, trên người hai em đều có
buộc phao.
Thiếu niên và một thanh niên nữa giúp đẩy thiếu phụ sắp sanh lên bè.
Nàng nằm đó nhưng nửa người nằm dưới nước lạnh căm. Đại dương, đêm tối,
mưa bão
mịt mù, trong tiếng sóng đổ ầm ầm, trong tiếng gió gào thét ào ào có
tiếng rên la, mong manh, yếu ớt của thiếu phụ Việt Nam sắp lâm bồn.
Bỗng thiếu phụ nhỏm dậy và la to : "Chắc sắp đến giờ sanh rồi..." Nàng
tiếp tục rên khe khẽ. Thiếu niên kêu bà chủ hộ sanh. Bà từ chối, viện lý
do chưa bao giờ hộ sanh, và cũng không biết hộ sanh.
Sau một vài phút rên, thiếu phụ lại nằm xuống, ngâm bụng bầu dưới nước lạnh buốt, rồi la lớn : " Nó ra rồi ! Nó ra rồi !"
Quýnh quá, thiếu niên kêu hai cô gái lớn ra phụ. Một cô khóc òa lên. Một
cô vừa mếu máo vừa đưa tay xuống nước, sờ phải đầu hài nhi, òa lên
khóc, còn khóc lớn hơn cô kia.
Người chồng, một tay bám vào bè, một tay ôm chặt đứa con trai 3 tuổi, nói với thiếu niên : "Chắc số cháu
không sống được đâu, thôi để nó chết !!!...."
Lúc đó là nửa đêm, trận bão đang ở thời điểm tàn phá dữ dội nhất. Tất cả
đều kiệt sức, mạng sống như sợi chỉ treo mành. Ban ngày, khi sắp sanh
thì các tầu buôn lớn làm ngơ không cứu. Hoàn cảnh này có khác nào hoàn
cảnh của Thánh Maria hai ngàn năm về trước. Trong đêm đông giá lạnh,
thánh Maria sắp đến giờ sanh, cùng thánh Giu-Se tới gõ cửa nhiều nhà
trong thành phố, nhưng không có nhà nào chấp nhận. Chúa Giê-Su hài đồng
đã được sinh ra trong máng cỏ của chiên, lừa trong hang đá lạnh lẽo.
Không biết nhờ ai hộ sanh nữa, thiếu niên đánh liều, mặc dù có cảm giác
rờn rợn. Em dùng hai chân bơi để giữ thăng bằng, hai tay thò xuống nước
đụng phải đầu hài nhi. Một làn sóng đánh ập tới, em bị hất văng ra xa.
Tiếng thở hổn hển của thiếu
phụ mỗi lúc một khó khăn, dồn dập. Thiếu niên sải tay, đạp sóng bơi trở
lại, nhờ hai thanh niên giữ giùm người mình cho chắc. Em đưa tay xuống
nước tìm đầu hài nhi. Cái đầu nhỏ thó đã ra ngoài, nhưng còn vướng cái
vai, em không biết có nên kéo mạnh ra không, hay là cứ chờ sản phụ vận
sức đẩy hài nhi ra. Đang phân vân thì bỗng sản phụ rên lớn lên một tiếng
và em cảm thấy toàn bộ hài nhi đã lọt ra gần hết, chỉ còn hai bàn chân.
Em đánh bạo từ từ kéo hài nhi ra luôn. Hài nhi ra ngoài cùng với nhau
bầy nhầy. Em lúng túng, không biết làm gì hơn là ôm cả hài nhi lẫn đống
nhau bầy nhầy lên khỏi mặt nước.
Người mẹ nhoài người lấy cây kéo cũ lúc nào cũng buộc ngang thắt lưng.
Bà nhờ em cắt cuống rốn hài nhi. Vì sóng lớn quá, lúng túng mãi
ngủ. Hài nhi vẫn an nhiên tiếp tục giấc ngủ thiên thần từ trong lòng mẹ.
Đã gần nửa giờ qua đi mà chưa nghe hài nhi khóc oe một tiếng. Bà mẹ nhổm
dậy, nhìn qua hài nhi như mừng rỡ. Dưới ánh trăng lờ mờ có những giọt
nước mắt rơi trên khuôn mặt người mẹ. Thiếu niên mừng thầm, hy vọng hài
nhi sẽ sống sót. Bỗng từ xa một đợt sóng lớn và dài như dãy núi đên ngòm
đang ầm ầm đổ tới. Thiếu niên thầm nguyện: "Lạy Chúa, xin cứu chúng
con." Em vội la lớn cho mọi người bám chặt vào bè. Cả khối nước lớn ầm
ầm phủ chụp xuống. Thiếu niên vội cúi đầu che chở cho hài nhi. Hài nhi
đang khóc bỗng im bặt. Chắc bị ngộp nước mặn. E khó sống. Bà mẹ còn đau,
nằm ngửa ngâm dưới nước, nửa trên bè, hai tay bám chặt hai bên thành,
bà không biết bà còn đủ sức bám
chặt được bao lâu nữa trước khi bị sóng đánh văng ra.
Thiếu niên ôm hài nhi đã lâu, quá mỏi tay, nhờ ông chủ tầu ôm giùm. Ông
ta từ chối, viện lý do không biết bơi. Một lần nữa em phải dọa :"Ông
không ẵm giùm, tôi lôi ông xuống ". Ông chủ tầu đành phảiôm hài nhi,
nhoài một nửa người lên bè phao cho hài nhi bớt ướt. Hai thanh niên bên
cạnh không biết bơi, không dám giúp gì, chỉ biết nhường hai áo nylon đắp
cho em bé khỏi mưa gió lạnh.
Người mẹ muốn cho con bú, nàng lấy tay day day cặp vú một hồi, nhưng xẹp
lép, không có lấy một giọt sữa. Có lẽ vì nhịn đói cả hai ngày nay nên
không còn chút sữa cho con. Nhìn con mà quá xót xa. Thiếu niên cố bơi ra
xa, kéo hành lý trôi lềnh bềnh để tìm thực phẩm, thiếu niên chỉ toàn
thấy xác người chết bắt đầu
em mới cắt được cuống rốn và để dài chừng một gang tay như lời người
thiếu phụ căn dặn: "Cậu nhớ giữ chặt cuống rốn, kẻo gió cháu chết mất !"
Thiếu niên một tay ôm hài nhi và bám vào thành bè, một tay bóp cuống
rốn thật chặt. Sau một hồi lâu sản phụ mới tìm thấy cuộn chỉ đen lẫn
trong cạp quần nhét giữa hai cái phao. Bà nhờ em cột rốn hài nhi, nhưng
em không biết cột ra sao, trời thì nhá nhem tối, sóng đánh liên tục và
quá mạnh muốn văng cả em lẫn hài nhi ra xa, sợi chỉ lại quá nhỏ. Lúc đó
người chồng một tay ôm con trai 3 tuổi và bám vào bè, một tay cột rốn
phụ với thiếu niên.
Bây giờ hài nhi bé nhỏ nằm gọn trong khuỷu tay thiếu niên, trơ trơ giữa
trời nước, có mưa buốt lạnh đan áo, có sóng bạc đầu đưa nôi, có gió gào
thét đưa
ngủ. Hài nhi vẫn an nhiên tiếp tục giấc ngủ thiên thần từ trong lòng mẹ.
Đã gần nửa giờ qua đi mà chưa nghe hài nhi khóc oe một tiếng. Bà mẹ nhổm
dậy, nhìn qua hài nhi như mừng rỡ. Dưới ánh trăng lờ mờ có những giọt
nước mắt rơi trên khuôn mặt người mẹ. Thiếu niên mừng thầm, hy vọng hài
nhi sẽ sống sót. Bỗng từ xa một đợt sóng lớn và dài như dãy núi đên ngòm
đang ầm ầm đổ tới. Thiếu niên thầm nguyện: "Lạy Chúa, xin cứu chúng
con." Em vội la lớn cho mọi người bám chặt vào bè. Cả khối nước lớn ầm
ầm phủ chụp xuống. Thiếu niên vội cúi đầu che chở cho hài nhi. Hài nhi
đang khóc bỗng im bặt. Chắc bị ngộp nước mặn. E khó sống. Bà mẹ còn đau,
nằm ngửa ngâm dưới nước, nửa trên bè, hai tay bám chặt hai bên thành,
bà không biết bà còn đủ sức bám
nổi lên.
Sau ba tiếng đồng hồ bị gió dập vùi, nhóm người đắm tầu bỗng thấy có ánh
đèn phía xa. Ánh đènnhư tia hy vọng sống còn loé lên trong tâm tư mọi
người. Tất cả cùng ráng sức đạpchân đẩy bè tiến tới. Khi đến gần chỉ
thấy nhiều hàng cột đáy, trên có chòi. Mặc dù cố gắng cách mấy cũng
không tới gần được.
Lúc trời vừa sáng, khi tới gần thì bị sứa điện quấnrát quá, lại phải bơi
ra xa. Khoảng chín giờ sáng, vẫn không thấy núi, vì thế không biết bè
trôi ở vị trí nào.
Bây giờ mọi người mới biết hài nhi là bé trai. Mắt nhắm nghiền, thoi
thóp thở, nhỏ thó như con mèo,nước da còn tím thẫm. Nơi đây và giờ này,
sản phụ Việt Nam không nằm giường, không bác sĩ, không y tá, không bạn
bè, không hoa, không quà. Hài nhi không nôi, không mền, không cả một
mảnh vải bao bọc. Từ
trong bụng mẹ ấm cúng, ra chào đời là bị quăng ngay vào vòng cuồng phong
thịnh nộ, bị vất ngay vào vòng đại dương nổi sóng kinh hoàng. Hài nhi
Việt Nam, trần truồng, đầu dội trời chân đạp sóng, an nhiên giấc ngủ
thiên thần, mặc cho sóng gió gào thét , mặc cho các tầu lớn làm ngơ tiếp
tục hải trình với luật quốc tế về hàng hải bên cạnh thuyền trưởng, mặc
cho các nhà cách mạng trên thế giới đang nỗ lực giải phóng conngười, mặc
cho các lãnh tụ thế giới đang hăng say thảo luận và hô hào bảo vệ nhân
quyền.
Mạng sống của sản phụ và hài nhi mong manh như ngọn đèn trước gió, thời
gian là phút giây. Bà mẹ vẫn còn mệt lả, máu đỏ vẫn gỉ ra hòa lẫn với
sóng biển. Em thiếu niên ái ngại, nếu máu cứ tiếp tục chảy ra, sản phụ e
khó sống. Cá Mập, hung thần đại dương, chúng
chặt được bao lâu nữa trước khi bị sóng đánh văng ra.
Thiếu niên ôm hài nhi đã lâu, quá mỏi tay, nhờ ông chủ tầu ôm giùm. Ông
ta từ chối, viện lý do không biết bơi. Một lần nữa em phải dọa :"Ông
không ẵm giùm, tôi lôi ông xuống ". Ông chủ tầu đành phảiôm hài nhi,
nhoài một nửa người lên bè phao cho hài nhi bớt ướt. Hai thanh niên bên
cạnh không biết bơi, không dám giúp gì, chỉ biết nhường hai áo nylon đắp
cho em bé khỏi mưa gió lạnh.
Người mẹ muốn cho con bú, nàng lấy tay day day cặp vú một hồi, nhưng xẹp
lép, không có lấy một giọt sữa. Có lẽ vì nhịn đói cả hai ngày nay nên
không còn chút sữa cho con. Nhìn con mà quá xót xa. Thiếu niên cố bơi ra
xa, kéo hành lý trôi lềnh bềnh để tìm thực phẩm, thiếu niên chỉ toàn
thấy xác người chết bắt đầu
nổi lên.
Sau ba tiếng đồng hồ bị gió dập vùi, nhóm người đắm tầu bỗng thấy có ánh
đèn phía xa. Ánh đènnhư tia hy vọng sống còn loé lên trong tâm tư mọi
người. Tất cả cùng ráng sức đạpchân đẩy bè tiến tới. Khi đến gần chỉ
thấy nhiều hàng cột đáy, trên có chòi. Mặc dù cố gắng cách mấy cũng
không tới gần được.
Lúc trời vừa sáng, khi tới gần thì bị sứa điện quấnrát quá, lại phải bơi
ra xa. Khoảng chín giờ sáng, vẫn không thấy núi, vì thế không biết bè
trôi ở vị trí nào.
Bây giờ mọi người mới biết hài nhi là bé trai. Mắt nhắm nghiền, thoi
thóp thở, nhỏ thó như con mèo,nước da còn tím thẫm. Nơi đây và giờ này,
sản phụ Việt Nam không nằm giường, không bác sĩ, không y tá, không bạn
bè, không hoa, không quà. Hài nhi không nôi, không mền, không cả một
mảnh vải bao bọc. Từ
nổi lên.
Sau ba tiếng đồng hồ bị gió dập vùi, nhóm người đắm tầu bỗng thấy có ánh
đèn phía xa. Ánh đènnhư tia hy vọng sống còn loé lên trong tâm tư mọi
người. Tất cả cùng ráng sức đạpchân đẩy bè tiến tới. Khi đến gần chỉ
thấy nhiều hàng cột đáy, trên có chòi. Mặc dù cố gắng cách mấy cũng
không tới gần được.
Lúc trời vừa sáng, khi tới gần thì bị sứa điện quấnrát quá, lại phải bơi
ra xa. Khoảng chín giờ sáng, vẫn không thấy núi, vì thế không biết bè
trôi ở vị trí nào.
Bây giờ mọi người mới biết hài nhi là bé trai. Mắt nhắm nghiền, thoi
thóp thở, nhỏ thó như con mèo,nước da còn tím thẫm. Nơi đây và giờ này,
sản phụ Việt Nam không nằm giường, không bác sĩ, không y tá, không bạn
bè, không hoa, không quà. Hài nhi không nôi, không mền, không cả một
mảnh vải bao bọc. Từ
trong bụng mẹ ấm cúng, ra chào đời là bị quăng ngay vào vòng cuồng phong
thịnh nộ, bị vất ngay vào vòng đại dương nổi sóng kinh hoàng. Hài nhi
Việt Nam, trần truồng, đầu dội trời chân đạp sóng, an nhiên giấc ngủ
thiên thần, mặc cho sóng gió gào thét , mặc cho các tầu lớn làm ngơ tiếp
tục hải trình với luật quốc tế về hàng hải bên cạnh thuyền trưởng, mặc
cho các nhà cách mạng trên thế giới đang nỗ lực giải phóng conngười, mặc
cho các lãnh tụ thế giới đang hăng say thảo luận và hô hào bảo vệ nhân
quyền.
Mạng sống của sản phụ và hài nhi mong manh như ngọn đèn trước gió, thời
gian là phút giây. Bà mẹ vẫn còn mệt lả, máu đỏ vẫn gỉ ra hòa lẫn với
sóng biển. Em thiếu niên ái ngại, nếu máu cứ tiếp tục chảy ra, sản phụ e
khó sống. Cá Mập, hung thần đại dương, chúng
trong bụng mẹ ấm cúng, ra chào đời là bị quăng ngay vào vòng cuồng phong
thịnh nộ, bị vất ngay vào vòng đại dương nổi sóng kinh hoàng. Hài nhi
Việt Nam, trần truồng, đầu dội trời chân đạp sóng, an nhiên giấc ngủ
thiên thần, mặc cho sóng gió gào thét , mặc cho các tầu lớn làm ngơ tiếp
tục hải trình với luật quốc tế về hàng hải bên cạnh thuyền trưởng, mặc
cho các nhà cách mạng trên thế giới đang nỗ lực giải phóng conngười, mặc
cho các lãnh tụ thế giới đang hăng say thảo luận và hô hào bảo vệ nhân
quyền.
Mạng sống của sản phụ và hài nhi mong manh như ngọn đèn trước gió, thời
gian là phút giây. Bà mẹ vẫn còn mệt lả, máu đỏ vẫn gỉ ra hòa lẫn với
sóng biển. Em thiếu niên ái ngại, nếu máu cứ tiếp tục chảy ra, sản phụ e
khó sống. Cá Mập, hung thần đại dương, chúng
tầu đánh cá nữa tới. Cả hai tầu cùngđi về phía các đáy, kéo lưới lên,
hàng trăm xác chết vướng trong đó : Xác đàn ông, xác đàn bà, xác con
nít, xác người già, xác chết thanh niên nam nữ !
Trong số gần 350 người ra đi, chỉ còn 14 người sống sót, thêm đứa con
của biển mới sanh giữa những mảnh vụn của con tầu bị bão tố đánh vỡ tan
tành trong đêm tối. Những người sống sót này lại trở về điểm khởi hành.
Còn hơn 300 người kia, lúc ra đi họ không ngờ rằng đây là cuộc hành
trình chót của đời họ. Cuộc hành trình của họ trên biển Đông đã trở
thành cuộc hành trình vượt thoát ra khỏi thế giới loài người, cái thế
giới có quá nhiều hận thù nhưng có quá ít tình thương, cái thế giới chìm
đắm trong bóng tối tội lỗi, sống trong u mê với quá nhiều khổ đau.
Cuộc hành trìnhtrên biển Đông đã đưa hơn 300 anh linh về cõi bất diệt,
nơi không còn hận thù, không còn ước muốn, không còn bóng tối u mê, nơi
chỉ có hạnh phúc toàn vẹn, vĩnh cửu.
::: Vy Vy Trần
Bài
viết dưới đây mượn lời của một người Nhật vốn sinh sống và làm việc tại
Việt Nam khá lâu. Anh bạn này có góc nhìn rất khác đối với kế hoạch xâm
lược Việt Nam của Trung Quốc, đồng thời châm biếm, đả kích sự thờ ơ của
một số vị lãnh đạo tỉnh thành trước mối đe dọa đặt ra cho đất nước. Tâm
sự của anh như sau:
Tôi
đã sinh sống và làm việc khá lâu tại đất nước các bạn, dĩ nhiên trước
khi sang đây, chúng tôi đã nghiên cứu rất nhiều về văn hóa và lịch sử
Việt Nam để có thể hòa nhập tốt. Cũng như các bạn, nước Nhật chúng tôi
đang trải qua thời kỳ vô cùng khó khăn khi liên tục phải cảnh giác và
đối phó với những âm mưu thôn tính Quần đảo Senkaku trên biển Hoa Đông
của Trung Quốc. Đối với tình hình đất nước bạn hiện nay, tôi có một số
đánh giá như sau:
Thói
quen bành trướng của người Trung Quốc đã có từ xa xưa, quốc gia này
luôn lăm le xâm chiếm nước Việt, điển hình là sự kiện An Dương Vương mất
nước đã bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc kéo dài 1000 năm trong lịch sử Việt
Nam, đến khi Ngô Quyền đánh thắng giặc trên sông Bạch Đằng. Rồi thì hàng
loạt cuộc chiến tranh biên giới khác kéo dài từ xưa cho đến nay, tham
vọng bành trướng của người Trung Quốc vẫn cháy rực không ngừng. Quốc gia
phía Nam luôn là mục tiêu mà người Trung Quốc nhắm đến, tuy nhiên các
bạn không dễ dàng bị ức hiếp và xâm lược.
Âm
mưu của người Trung Quốc sử dụng trên Biển Đông được gọi là chiến thuật
“cắt lát salami”, nghĩa là họ sẽ không cùng lúc chiếm toàn bộ mà là “ăn
mòn” từng bộ phận, sau đó độc chiếm trọn vẹn.
Từ
thời xưa, người Trung Quốc đã không ngừng nỗ lực xâm phạm bờ cõi Việt
Nam, điều này vẫn kéo dài cho đến ngày nay và họ sẽ tiếp bước thế hệ cha
ông tiếp tục sự nghiệp bành trướng. Âm mưu của người Trung Quốc được
gọi là chiến thuật “cắt lát salami”. Nghĩa là họ sẽ không cùng lúc chiếm
toàn bộ lãnh thổ của Việt Nam mà là “ăn mòn” từng bộ phận, sau đó độc
chiếm trọn vẹn, toàn bộ. Chiến thuật này không chỉ áp dụng tại Biển Đông
– từng bước độc chiếm các bãi cạn và đảo nhỏ, củng cố yêu sách chủ
quyền Trung Quốc trên Biển Đông, mà còn được áp dụng trong âm mưu xâm
lược trên đất liền Việt Nam.
Kế
hoạch “tích tiểu thành đại” của Trung Quốc gồm nhiều hành động nhỏ: từ
việc thâu tóm và biến các công ty Việt Nam thành công ty Trung Quốc,
tăng cường sự hiện diện của người Trung Quốc tại Việt Nam; cho tới việc
đẩy mạnh đầu tư lớn trên khắp đất nước, đặc biệt là khu vực Quảng Trị
đến Thừa Thiên Huế – nơi hẹp nhất theo chiều Đông-Tây của dải đất hình
chữ S (bề rộng chỉ khoảng 40km).
Con
đường bê tông dẫn vào khu dự án nghỉ dưỡng 5 sao trên đèo Hải Vân – nơi
có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự của Việt Nam
Việc
di dân âm thầm xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam là bước nhỏ tạo bàn đạp
để người Trung Quốc đồng hóa cũng như gây nhiễu trật tự xã hội tại đất
nước các bạn. Trên dải đất hẹp nhất của Việt Nam, họ muốn dần thay thế
người Việt bằng người Trung Quốc nhằm phục vụ cho âm mưu chia cắt Việt
Nam và mưu chiếm Biển Đông. Bởi vì từ căn cứ quân sự Du Lâm của Trung
Quốc trên đảo Hải Nam đến Cửa Việt (Gio Linh, Quảng Trị) của đất nước
các bạn chỉ khoảng 320 – 350km theo đường chim bay. Do đó, họ dễ dàng
thực hiện âm mưu chia cắt hai miền Nam Bắc trên cả về đường bộ lẫn đường
biển.
“Mất
đất là mất nước”, người Trung Quốc đã lợi dụng điểm này để thực hiện âm
mưu xâm lược của họ. Cách đây không lâu, họ không tiếc tay chi mạnh
tiền thuê đất đầu nguồn trồng rừng của Việt Nam nằm ở cả ba miền Bắc –
Trung – Nam với thời gian thuê dài hạn là 50 năm. Những vùng đất đầu
nguồn đều có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng đối với Việt Nam, việc dễ
dàng cho Trung Quốc thuê đất sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho họ thực
hiện mưu đồ “xâm chiếm”.
Tập
đoàn Innov Green (Hồng Kông, Trung Quốc) được cấp phép thuê đất 50 năm
trồng rừng nguyên liệu tại Quảng Ninh, Nghệ An, Quảng Nam, Lạng Sơn, Kon
Tum Mới đây nhất là việc lên kế hoạch xây dựng khu du lịch nghỉ
dưỡng quốc tế World Shine (Huế) nằm ở khu vực đèo Hải Vân – nơi có vị
trí chiến lược quan trọng về quân sự của Việt Nam. Năm 2013, tỉnh Thừa
Thiên – Huế đồng ý cấp phép gần 200ha đất ở khu vực đèo Hải Vân cho một
công ty Trung Quốc để thực hiện Dự án xây dựng Khu du lịch nghỉ dưỡng
quốc tế World Shine với tổng mức đầu tư lên đến 250 triệu USD.
Theo
thông tin mà tôi biết, nơi này có liên quan đến quân khu V và quân khu
IV của Việt Nam, nếu chiếm được đèo Hải Vân tức là chiếm được Đà Nẵng.
Từ Đèo Hải Vân nếu “lấn chiếm” sang Đèo Ngang thì Vịnh Bắc Bộ chắc chắn
sẽ bị chia cắt, Trung Quốc khi đó hoàn toàn đủ sức đe dọa an ninh quốc
gia của Vịệt Nam. Đây là binh pháp có từ tời xa xưa, từ lợi dụng kinh tế
nhắm đến mục tiêu quốc phòng, tung hỏa mù khiến cho địch mất phương
hướng, đây là điều người Trung Quốc đang hướng tới.
Nhưng
lạ thay, các vị chủ tịch huyện tỉnh của Việt Nam có lẽ chưa được học
binh pháp này. Trung Quốc chỉ cần vung tiền mua đất để đầu tư thì các
bạn đã nhanh chóng cắt đất cho thuê mà không mảy may nghi ngờ. Dĩ nhiên
mưu đồ này không thể qua mắt được các vị tướng lĩnh quân đội. Âm mưu bị
vạch trần và kế hoạch của người Trung Quốc thất bại ngoài ý muốn.
Việt
Nam không đồng ý với đề xuất đưa 1000 xe cùng 1500 người Trung Quốc vào
Việt Nam “nhân dịp hội chợ thương mại Việt Nam – Trung Quốc” trong
tháng 12/2014. Có lẽ, các bạn đã bắt đầu đề cao cảnh giác hơn trước âm
mưu của Trung Quốc.
Nhưng
các bạn nên nhớ, Trung Quốc sẽ không từ bỏ kế hoạch thâm độc của mình
và tôi lo ngại rằng vẫn còn nhiều vị Chủ tịch tỉnh sẵn sàng cấp phép cho
các dự án nhanh chóng để đạt được cái mà họ gọi là “lợi ích chung của
cộng đồng, cũng như vì sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và quốc
gia” (nhưng thực ra là lợi ích của riêng họ). Không mấy khó khăn khi
thuyết phục những vị lãnh đạo này, họ có vẻ khá dễ dãi và nhìn nhận sự
việc quá đơn giản, trong khi người Trung Quốc thì quá thâm độc!
Mới
đây, chính quyền thành phố Bằng Tường (Trung Quốc) đã đề nghị phía Việt
Nam cấp phép cho 1.000 xe với khoảng 1.500 người Trung Quốc du lịch tại
Việt Nam và quá cảnh sang các nước ASEAN, viện cớ là “nhân dịp hội chợ
thương mại Việt Nam – Trung Quốc” trong tháng 12/2014.
Yêu
cầu của Trung Quốc đã vấp phải sự phản đối của Bộ Giao thông Vận tải và
Bộ Quốc phòng Việt Nam. Có lẽ, các bạn đã bắt đầu đề cao cảnh giác hơn
trước âm mưu của Trung Quốc khi cố tình đề nghị được phép đi lại tự do
từ 5 cửa ngõ của Việt Nam. Thông qua việc đưa một số lượng lớn người
Trung Quốc đi khắp đất nước này, họ dễ dàng do thám tình hình, cài người
Trung Quốc vào người Việt Nam, gây nguy hiểm cho chính người Trung Quốc
để có cớ bắt bớ Việt Nam,… Những điều như vậy chẳng phải rất dễ dàng
xảy ra nếu đề nghị trên được chấp thuận hay sao?
Một
điểm khiến tôi cảm thấy lạ nhất đó là khi âm mưu của Trung Quốc bị vạch
trần, lãnh đạo của các tỉnh thành Việt Nam lại dễ dàng phủi bỏ trách
nhiệm quanh co biện minh cho quyết định sai lầm. Dường như các vị ấy
chưa từng được học về “nhận sai và sửa sai”, nếu như ở đất nước chúng
tôi, thì ngay lập tức các lãnh đạo của chúng tôi sẽ tạ lỗi trước người
dân và xin từ chức.
Thiết
nghĩ nếu Việt Nam vẫn còn nhiều vị quan chức dùng lý do “lo lắng cho
lợi ích chung của cộng đồng” (thực chất là của riêng họ) và cố tình lờ
đi “sự an nguy của đất nước” thì âm mưu xâm lược Việt Nam của người
Trung Quốc chỉ là vấn đề thời gian mà thôi.
Không quân Mỹ - Thái Bình Dương hỗ trợ dân nghèo Quảng Ngãi
Ngày 24/3, hàng chục quân nhân Mỹ, Hoàng gia Campuchia, Thái Lan,
Singapore đã giúp tỉnh Quảng Ngãi sửa trường học, trạm y tế và khám bệnh
cho người nghèo.
65 quân nhân Mỹ cùng các chuyên gia y tế, bác sĩ, kỹ sư không lực từ
Singapore, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam bắt đầu tham gia chuỗi hoạt
động hỗ trợ nhân đạo tại Quảng Ngãi theo chương trình Thiên thần Thái
Bình Dương (PACANGEL) từ nay đến cuối tháng. Đây là hoạt động hỗ trợ
nhân đạo chung và kết hợp do Không quân Mỹ - Thái Bình Dương chủ trì.
Họ sẽ sửa chữa, xây hai trường học ở xã Bình Thanh Đông (huyện Bình
Sơn), Nam Tịnh Phong (huyện Sơn Tịnh), hai Trạm y tế tại huyện Mộ Đức và
khám sức khỏe cho người dân.
Các quân nhân sửa chữa trường Tiểu học Bình Thanh Đông. "Tham gia chiến
dịch Thiên thần Thái Bình Dương lần này tôi cảm thấy thật vinh dự được
giao lưu với các bạn Việt Nam. Hy vọng sau khi hoàn thành, những công
trình nơi đây sẽ trở thành kỷ niệm đẹp khó quên của đời tôi", thượng sỹ
Lizarraga cho biết.
Dãy phòng của Trường tiểu học Bình Thanh Đông vừa được các quân nhân Mỹ, Thái Lan, Campuchia, Singapore sơn mới. Sự
kiện này nằm trong chuỗi hoạt động hợp tác về lĩnh vực an ninh - quốc
phòng giữa Việt Nam và Mỹ, hướng tới kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan
hệ hai nước (1995-2015).
Dịp này, các quân nhân cũng khám sức khỏe tổng quát, nhi khoa và tư vấn sức khỏe cho người dân Quảng Ngãi. Chương
trình năm nay hỗ trợ nhân đạo tại Quảng Ngãi 1,4 triệu USD. Bộ Tư lệnh
Không quân Mỹ - Thái Bình Dương cũng hỗ trợ 690.000 USD xây Trung tâm
phòng chống thiên tai ở Quảng Ngãi.
Tiến sĩ Eric Stephan hướng dẫn cho ông Mai Tấn Mùi (49 tuổi, ngụ xã
Bình Chánh, huyện Bình Sơn) luyện tập vật lý trị liệu chữa bệnh thần
kinh liên sườn. Trung tá Darcy Yoshimoto -
Chỉ huy trưởng Chương trình Thiên Thần Thái Bình Dương - cho hay, chuỗi
hoạt động này nhằm cải thiện và phát triển mối quan hệ các nước cho sự
nỗ lực hỗ trợ nhân đạo và cứu nạn thiên tai trong tương lai gần. Từ năm
2007 đến nay, quân đội Mỹ cùng các quốc gia trong khu vực đã góp phần
cải thiện cuộc sống hàng nghìn người dân.
Họ vui đùa cùng học sinh Trường Tiểu học Bình Thanh Đông, huyện Bình
Sơn. Theo Trung tá Darcy Yoshimoto, trong khuôn khổ chiến dịch lần này,
Không quân Mỹ sẽ đưa đến Đà Nẵng máy bay vận tải quân sự C130 cùng 13
nhân viên để giao lưu cùng Sư đoàn 372. Hai bên sẽ giao lưu, trao đổi
kinh nghiệm về kỹ năng vận hành máy bay quân sự và hội thảo chuyên đề hỗ
trợ nhân đạo.
Trí Tín
Quân đội Mỹ trở lại miền Trung Việt Nam
Thật bất ngờ gần 40 năm, quân đội Mỹ lại có mặt tại Việt Nam.
Sáng 24.3, tại trường Tiểu học Bình Thanh Đông, xã Bình Thanh Đông,
huyện Bình Sơn, gần 20 quân nhân thuộc các lực lượng Không quân, Hải
quân… của Mỹ đã giúp thầy trò nơi đây xây dựng một số hạng mục và sửa
chữa trường học.
Thượng sỹ Lizarraga, phụ trách nhóm này bày tỏ: Dù hơi vất vả nhưng
chúng tôi cảm thấy rất vui khi được cùng đồng đội giúp đỡ thầy cô và các
em học sinh của trường.
Cùng
ngày, tại Trung tâm Văn hóa-Thể thao Dung Quất, KKT Dung Quất, cùng
huyện; các quân nhân Mỹ và một số quân nhân các nước Thái Lan;
Campuchia, Singapore… cũng đã tổ chức khám bệnh và cấp thuốc miễn phí
cho người dân vùng ven biển của địa phương. Theo đó từ hôm qua, ngày
23.4 đến nay, đã khám và cấp thuốc miễn phí cho trên 1000 lượt người
dân.
Bà Andrea Dykes, đại diện nhóm quân nhân tham gia chương trình này,
cho biết: “Tổng số tham gia có gần 100 quân nhân, trong đó thuộc quân
đội Mỹ là 65 người. Đây là lần đầu tiên các quân nhân Mỹ thực hiện hỗ
trợ nhân đạo chung tại Quảng Ngãi và là lần thứ 5 tại Việt Nam. Lần này,
ngoài 2 nơi đã nêu trên, chúng tôi còn tổ chức khám bệnh và cấp thuốc
cho người dân ven biển ở huyện Đức Phổ; sửa chữa trường trường Tiểu học
Tịnh Phong, huyện Sơn Tịnh; Phòng khám Đức Chánh và Đức Lợi, huyện Mộ
Đức. Hoạt động hỗ trợ sẽ kéo dài đến ngày 30.3, với tổng kinh phí khoảng
1,4 triệu USD”.
Bất chấp lời hứa của thủ tướng, phong trào đình công lan rộng sang ngày thứ 8 liên tiếp
Cảnh sát cơ động giàn trận trong lúc công nhân
Danlambao
- Các cuộc đình công phản đối điều luật quái đản cho phép nhà nước tự ý
‘giữ hộ’ tiền công nhân đến năm 60 tuổi đã bước sang ngày thứ 8 liên
tiếp. Bất chấp thông báo sẽ sửa luật bảo hiểm xã hội của thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng, làn sóng đình công từ Sài Gòn tiếp tục lan tỏa đến các
tỉnh lân cận như Long An, Tiền Giang, Tây Ninh…
Theo facebook Nguyễn Thiện Nhân,
ngày 2/4/2015, toàn bộ khu công nghiệp Tân Hưng (Tiền Giang) – nơi có
gần 50 ngàn công nhân đã đồng loạt bỏ ra về và không làm việc.
“Công
nhân bỏ về hết, vắng tanh, chỉ còn loe hoe vài nhân viên văn phòng bị
ép ở lại. Các công ty lớn như Dụ Đức, Simone, On accessories, Freeview,
Hansae, Quảng Việt... công nhân đều bỏ về”, facebook Nguyễn Thiện Nhân cho biết.
Cuộc
đấu tranh phản đối luật bảo hiểm xã hội cũng đã bắt đầu diễn ra tại
Long An, Tây Ninh…, điều này cho thấy những lời hứa hão của thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng và nhà cầm quyền CSVN đã không còn được ai tin tưởng.
Tại
công ty Pou Yuen (Sài Gòn) – nơi đã khởi phát phong trào đình công từ
hôm 26/3, truyền thông nhà nước nói rằng vào sáng ngày 2/4, hầu hết các
công nhân đã quay trở lại làm việc sau khi nghe loa thông báo về lời hứa
của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Dù vậy, lúc trưa cùng ngày, facebook Nguyễn Thiện Nhân cho biết: “Hơn
phân nửa số công nhân Công ty Pou Yuen chưa chịu làm việc. Hàng trăm
công an với nhiều xe đặc chủng vẫn vây quanh công ty, sẵn sàng bắt
người”.
Tiền Giang) bỏ ra về. Ảnh: Facebook Nguyễn Thiện Nhân
Công nhân Công ty On accessories đồng loạt đình công, bỏ ra về để
phản đối luật bảo hiểm xã hội mới. Ảnh: Facebook Nguyễn Thiện Nhân
Trước đó, hàng ngàn côn an đã được huy động đến công ty Pou Yuen để đàn
áp, bắt bớ những công nhân biểu tình ôn hòa hôm 1/4. Phóng viên Lao Động
Việt có mặt tại hiện trường cho biết một số công nhân đã bị bắt và đánh
đập, khiến nhiều người phẫn nộ xông đến giải vây.
Để đối phó với các cuộc đình công, bộ LĐTBXH còn ban hành công điện khẩn ra lệnh “xử lý cá nhân lợi dụng tình hình kích động, lôi kéo người lao động ngừng việc, đình công”.
Trong khi đó, ông Đặng Ngọc Tùng – chủ tịch tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam không hề đứng về phía công nhận, mà thậm chí còn ngang ngược yêu
cầu công nhân “không để kẻ xấu lợi dụng, kích động, xúi dục làm ảnh hưởng đến doanh nghiệp và tình hình an ninh trật tự tại địa phương’'.
Bộ máy CA với quân số khổng lồ cũng đã được lệnh trực chiến tại những nơi có đông công nhân tập trung.
Hiện không rõ tình trạng của những công nhân bị CA bắt bớ trong những ngày đình công vừa qua.
Bạn đọc Danlambao
- Ngày 1/4/2015, hàng vạn công nhân Pou Yuen tiếp tục đình công phản
đối luật bảo hiểu xã hội vừa được quốc hội CS thông qua. Cuộc biểu tình
ôn hòa đã bước sang ngày thứ 7 liên tiếp và lan sang nhiều công ty khác
tại Bình Dương, Long An…
Đáp lại, nhà cầm quyền CSVN đã huy
Đáp lại, nhà cầm quyền CSVN đã huy động lực lượng lên đến hàng ngàn
người, gồm cảnh sát cơ động, côn an, dân phòng, quân đội… kéo đến vây
hãm. Lợi dụng buổi trưa vắng người, CA bất ngờ kéo đến đàn áp và bắt bớ
nhiều công nhân. Dù vậy, sức mạnh của số đông công nhân đã khiến những
kẻ đàn áp phải bỏ chạy tán loạn.
Phá rào, giải vây đồng đội
Theo nhóm phóng viên Lao Động Việt có mặt tại hiện trường, đông đảo công
nhân khi hay chuyện đã lập tức phá hàng rào sắt, đồng loạt xông vào
giải cứu đồng đội.
Video do Lao Động Việt cho thấy hình ảnh lực lượng dân phòng đã phải bỏ chạy tán loạn vì bị bị công nhân rượt đuổi.
Trước khi thế mạnh mẽ và đoàn kết của công nhân, lực lượng đàn áp dù đã phải chạy tán loạn nhưng vẫn bắc loa đe dọa: “Đề nghị bà con giải tán, bằng không chúng tôi sẽ dùng biện pháp mạnh”.
Ảnh từ clip Lao Động Việt
Trong video xuất hiện nhiều tiếng la uất ức:
“Tui đóng bao nhiêu phải trả lại bấy nhiêu, chứ đợi đến 55 chắc gì tôi còn sống?”
“Công an phải bảo vệ công nhân chớ, sao trấn áp tụi tui?”
Được biết, nhiều máy rút tiền ATM đã bị khóa trong thời gian đình công.
Đây là thủ đoạn của nhà cầm quyền CSVN nhằm đánh vào đồng lương còm cõi
của công nhân.
Khi nào đến lượt Nguyễn Tấn Dũng?
Trước làn sóng biểu tình, đình công ngày càng lan rộng, chiều ngày 1/4,
văn phòng thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng đã buộc phải phát đi thông báo
chấp nhận yêu cầu của công nhân. Theo đó, ông Dũng và các quan chức cam
kết sẽ kiến nghị quốc hội CSVN sửa đổi điều 60 bộ luật bảo hiểm xã hội,
cho phép công nhân được nhận tiền một lần.
Tuyên bố trên nhằm mục đích ‘xoa dịu’ công nhân, nhưng đã khiến chế độ
CSVN rơi vào tình thế bế tắc vì quỹ bảo hiểm xã hội và lương hưu đã sắp
cạn kiệt.
Nếu Nguyễn Tấn Dũng sửa điều luật 60 thì sẽ dẫn đến hậu quả là vỡ quỹ
bảo hiểm xã hội, hàng triệu cán bộ cộng sản bị mất lương hưu. Điều này
đồng nghĩa với thời điểm cáo chung của chế độ CSVN.
Ngược lại, nếu Nguyễn Tấn Dũng cố tình ‘quỵt nợ’ bằng trò hứa lèo như
trước đây, thì chắc chắn ông thủ tướng sẽ bị hàng triệu công nhân cả
nước ‘tính sổ’.
Được biết, sáng ngày 2/4/2015, các cuộc đình công đã lan sang các tỉnh
như Tiền Giang, Tây Ninh. Còn tại Sài Gòn, một số công nhân Pou Yuen vẫn
bỏ việc, trong khi nhiều người khác đã quay trở lại công ty.
Có
thể thấy, thủ đoạn câu giờ đã khiến chế độ CSVN lung lay đến tận gốc.
Nguyễn Tấn Dũng và các quan chức CS còn thời hạn 8 tháng trước khi luật
bảo hiểm xã hội chính thức có hiệu lực vào đầu năm 2016.
Trong trường hợp Nguyễn Tấn Dũng không thuyết phục được quốc hội CSVN
sửa luật, chắc chắn người dân cả nước sẽ chứng kiến hình ảnh Nguyễn Tấn
Dũng và đảng CSVN tháo chạy tán loạn như những viên dân phòng trong đoạn
clip trên.
CẦU JETTY CŨNG LÀ CẦU BIỆT LY, CHÚNG TA ĐẾN RỒI ĐI...
BIDONG ƠI HÔM NAY TA RỜI ĐẢO RỒI, TA CHÀO BIDONG NHÉ....
TƯ LỆNH PHÓ LỰC LƯỢNG ĐẶC NHIỆM SAU CÙNG TRÊN ĐẢO PULAU BIDONG.....
_
CÁC TRƯỜNG HỌC TRÊN ĐẢO
ĐƯỜNG LÊN ĐỒI TÔN GIÁO
ĐỒI TÔN GIÁO NHÌN TỪ BIỂN
CHÙA TỪ BI
NƠI MONG TIN THƯ VÀ MONG TIẾP TẾ CỦA NHỮNG NGƯỜI CÓ THÂN NHÂN,
LÃNH THƯ XONG........
........TỚI GIAN HÀNG MÃ
........HOẶC ĐI CHỢ
........HAY ĐI DẠO PHỐ TRÊN ĐẢO
NƠI BUỔI TỐI XEM TV Ở KHU F
NẾU CÓ TIẾP TẾ THÌ CAFE
THUỐC LÁ THẬT NGON LÀNH
KHU BỆNH VIỆN SICKBAY....THÁNG 7-1989.
ĐỒNG BÀO ĐI LẢNH NƯỚC
TIÊU CHUẨN MỔI NGƯỜI 1 NGÀY 1 SÔ.
TẮM GIẶT BẰNG NƯỚC GIẾNG
NHÌN TỪ KHU F QUA BÊN KIA LÀ ĐẢO "CÁ MẬP"
HÌNH ĐẢO "CÁ MẬP" NÀY NHÌN TỪ THỀM CHÙA TỪ BI QUA
KHỐI TIẾP LIỆU ĐANG PHÁT THỊT GÀ HẰNG TUẦN VÀO NGÀY THỨ 5
& MỖI TUẦN 2 LẦN TÀU BLUE DARTCỦA UNHCR CHỞ QUA ĐẢO TẤT CẢ
NHỮNG THỰC PHẪM KHÔ & THỰC PHẪM TƯƠI CÓ ĐÔI KHI TRÁI CÂY NỮA..
No comments:
Post a Comment