Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday, 27 September 2018

Monday, September 11, 2017

NGUYỄN TRÃI * LẦN ĐẦU ĐƯỢC THĂM NUÔI




LẦN ĐẦU ĐƯỢC THĂM NUÔI
NGUYỄN TRÃI 

Tất cả chúng tôi có 37 người từ Trại Quảng Ninh được chuyển về Trại Mễ - Phủ Lý - Hà Nam Ninh. Một Trại được xây dựng từ thời Pháp để lại, nó được bọc kín bằng tường gạch xung quanh và chia làm hai khu rõ rệt. Khu ngoài gọi là “Khung” dành cho Bộ Chỉ Huy của Trại, Cán Bộ Quản Giáo, Vệ Binh đều ở trong khu này. Khu trong được ngăn cách với khu ngoài bằng một bờ tường gạch, chính giữa có một vọng gác thật cao để quan sát sinh hoạt của khu trong. Chính giữa khu trong có một sân bằng đất dùng để các người tù được ngồi chơi hay đi dạo trong những giờ được thả ra khỏi phòng ngủ.

Các buồng giam của khu trong, không thấy các buồng bắt đầu bằng số thứ tự 1, 2 ở đâu, tôi chỉ thấy số nhỏ nhất bắt đầu bằng 12, 13… cho đến số 23. Ngoài ra còn có một khu biệt giam cũng nằm ở khu trong nhưng tách biệt riêng ra một chút. Khu biệt giam này cũng đặc biệt lắm, một phòng chiều ngang chừng một mét hai hay một mét rưỡi, chiều dài khoảng hai mét, phía dưới là cái bệ bằng ximăng dùng làm giường ngủ cho tù nhân, trên bệ xi măng này có một cái “còng” bằng sắt, nửa vòng tròn phía dưới nằm dính chặt với nền ximăng, nửa vòng trên nối liền với nửa vòng dưới bằng một bản lề. Người tù khi bị nhốt vào phòng biệt giam sẽ bị đặt hai ống chân vào vừa vặn với cái còng ấy. Người ta ụp nửa vòng sắt trên lại vừa đúng với hai ống chân và khoá lại bằng một cái khóa thô sơ. Tùy theo tội trạng mà có buồng biệt giam có hai còng hay một còng. Hai còng tức là thêm một cái nữa trên cổ của tù nhân.

Nhìn vào buồng biệt giam đã thấy lạnh người vì sự chật chội tối om thiếu ánh sáng và bẩn thỉu của nó, đặc biệt khi bị giam ở đây thì người tù bị nằm bất động, mãi cho đến khi nào được mở cửa đưa thức ăn vào và được mở còng để được ăn khi đến giờ. Những ai bị biệt giam sau bốn ngày tự nhiên bị tê cóng chân tay và bị lở loét vì cái còng sắt quái ác.

Chúng tôi, 37 người đến Trại Mễ vào lúc hơn 10 giờ đêm, con đường dài từ Trại Quảng Ninh về Trại Mễ - Phủ Lý không biết dài bao nhiêu cây số nhưng xe chạy từ bốn giờ sang mà phải tới 10 giờ đêm mới đến. Họ nhét tất cả chúng tôi vào hai buồng 12 và 13, tức là một buồng 18 người và một buồng 19 người. Diện tích mỗi buồng chỉ vỏn vẹn chiều ngang 4 mét rưỡi, và chiều dài 8 mét. Có một đường đi nửa mét nằm chính giữa buồng ngăn đôi hai bệ xi măng cao 40 centimet dùng làm chỗ ngủ cho 18 người. Mỗi chúng tôi đêm xuống giăng mùng riêng cho từng người và phải nằm nghiêng thì mới đủ chỗ.

Sáng bảy giờ có hai người tù thuộc dạng “cải tạo tiến bộ” gọi là “Trật Tự viên” gồm có anh Hồng Khắc Lê Minh và Nguyễn Xuân Thu, cả hai được sự tin tưởng của Bộ Chỉ Huy Trại cho giữ nhiệm vụ mở cửa buồng, đóng cửa buồng, điểm danh, và quan sát theo dõi mọi sinh hoạt của tù nhân. Hai anh này mới đầu cũng là trại viên như chúng tôi nhưng có những hành động hay “biểu hiện” gọi là “cải tạo tiến bộ” nên được giao nhiệm vụ như nói ở trên, và dĩ nhiên phải là thành phần biết xu nịnh với cán bộ đúng mức. Cả hai đều có bằng Tiến sĩ của VNCH, không một ngày đi lính.

Vì Trại Mễ chỉ nhốt những thành phần yếu sức lao động hay bệnh tật như 37 người của cả Đoàn 776 từ Yên Bái chuyển về Quảng Ninh và từ Quảng Ninh được chuyển về đây sau khi bị áp lực sắp xảy ra trận đánh “Trung Cộng dạy cho Việt Nam một bài học”, cho nên chúng tôi không đi lao động mà được thả ra sân để đi lại dưới ánh nắng mặt trời, trưa 11 giờ 30 được lãnh phần ăn rồi tất cả vào trong buồng và khóa cửa buồng lại sau khi điểm danh từng người xong.

Chúng tôi ăn cơm trưa và tối trong buồng, đến 2 giờ lại được mở cửa buồng tiếp tục cho ra ngoài sân đến 6 giờ lại vào buồng trở lại, và dĩ nhiên mỗi lần vào được người “trật tự viên” kèm với một Cán Bộ Quản Giáo điểm danh rất kỹ.

Như đã nói ở trên, rằng vì là thành phần già yếu bệnh tật, trong khi di chuyển từ Yên Bái về Quảng Ninh và kể cả đến Trại Mễ, trên mui hai chiếc xe Molotova đều có mang theo hai chiếc quan tài đề phòng dọc đường có người chết thì có cái mà liệm. Chính vì đau bệnh nặng như thế cho nên thành phần chúng tôi được đưa về Trại Mễ hoàn toàn không phải đi lao động, mà sáng chiều được thả ra khỏi buồng để phơi nắng.

Cái không khí tẻ nhạt buồn chán cứ đều đều xảy ra mỗi ngày, và tất cả đều không hy vọng được thả tự do, cũng không có hy vọng nào cho nên chấp nhận hiện tại. Một bữa, bộ chỉ huy Trại thông báo cho phép đưọc viết thư thăm gia đình và thông báo cho gia đình địa chỉ trại giam cũng như những nhu cầu về áo ấm, một ít thực phẩm khi được chính quyền địa phương cho phép đi thăm nuôi.

Tôi đã liên tưởng đến việc gặp người thân trong vài tháng tới, nhưng không thể biết là ngày tháng nào. Tôi nghĩ ra cách gởi thư “chui” để tỏ bày những ý nghĩ thật của mình cho gia đình biết mà trong thư gởi về gia đình bằng đường bưu điện qua sự kiểm duyệt của Quản Giáo không bao giờ được phép nói ra. Thư do Quản Giáo kiểm duyệt tuyệt đối chỉ được viết “sức khoẻ tốt, học tập tốt, lao động tốt”.

Lúc còn trên miền Cao Nguyên Yên Bái Hoàng Liên Sơn, Trại có phát cho mỗi trại viên một cái mền do Trung cộng sản xuất. Khi về đến Trại Mễ tôi nhờ một người bạn biết nghề may quần áo, cắt cái mền ra và tôi đã may từng ngày một trong vòng hai tháng thì xong cái áo lạnh. Mỗi đêm sau khi bị nhốt vào chuồng, đợi mọi người ngủ hết tôi mới dám may phần nào có những tấm vải đã viết thư xong, lót vào chính giữa hai lớp mền (cái áo lạnh được may bằng hai lớp). Phần lưng chiếc áo lẫn hai mảng trước đều có những lá thư cũng bằng vải đính bên trong.

Trong những lá thư “chui” kiểu này, tôi nói tất cả sự thật về đời sống trong tù và khuyên người vợ hãy tìm cách vượt biên, đừng trông chờ ngày trở về của tôi vì chuyện ngày về là vô định. May xong chiếc áo tôi dự tính khi nào vợ ra thăm nuôi sẽ xin phép Bộ Chỉ Huy Trại cho vợ mang về nói là “tặng cho người Mẹ với tấm lòng biết ơn Mẹ, một món quà dành cho Mẹ”, nhưng kỳ thật “quà tặng cho Mẹ” chỉ là phương tiện chuyên chở những lá thư “chui” mà tôi tin tưởng không bao giờ bị phát giác.

Chuyện tôi may chiếc áo lạnh thì mọi người xung quanh ai cũng thấy, ai cũng biết là để tặng cho Mẹ khi người vợ ra thăm, nhưng may bên trong có những lá thư viết trên vải mỏng kèm theo là hoàn toàn bí mật, chỉ mỗi mình tôi biết. Ngay cả những người bạn thân tín nhất tôi cũng đề phòng, vì nó rất là quan trọng, nếu lộ ra tôi sẽ bị “cùm” trong các buồng biệt giam như đã nói ở trên. Chính vì sự bí mật ấy mà tôi chỉ may trong khi các người tù đã ngủ, vì đèn trong phòng được thắp sáng suốt đêm.

Tôi rất dạn và thích mạo hiểm, phần lớn là để giúp những bạn tù gởi được những tin nhắn về cho gia đình họ qua đường thăm nuôi. Tôi thông báo các bạn ai muốn gởi thư về gia đình, viết trên một mảnh giấy nhỏ hạn chế diện tích bằng một lòng bàn tay. Có tất cả 34 mảnh thư, tôi xếp nhỏ mỗi cạnh bằng hai ngón tay.

Gần hai tháng trời liên tục suy nghĩ cách nào để mang những xấp thư này ra an toàn và trao cho vợ mang về Sài Gòn gởi bưu điện đến cho từng nhà các bạn.

Hết chỗ này đến chỗ khác, tôi đều cảm thấy bất cứ chỗ nào cũng không an toàn. Phàm mình làm việc gì gian thì cũng đều thấy sợ bị lộ, giấu trong ve áo, dưới lòng bàn chân, trong quần lót cũng đều có thể bị khám xét và phát giác, vì những đợt thăm nuôi trước tôi họ vào đều kể người cán bộ đứng bên cạnh quan sát nhìn “người Trật Tự” là anh Hồng Khắc Lê Minh, hay Nguyễn Xuân Thu khám xét rất kỹ, chỗ nào cũng mò vào bất kỳ ở đâu.

Tôi lờ mờ đoán sẽ có ngày người vợ từ miền Nam lặn lội ra đây thăm chồng 30 phút, trải qua bao nhiêu là gian truân khó khăn dọc đường, lần đầu tiên đặt chân đến miền “Đất Bắc XHCN” đầy lọc lừa trộm cướp, tôi nhắm mắt lại và thở ra ngao ngán, nhưng những nhu cầu về vật chất lại lấn át sự lo lắng khôn cùng.

Tôi rất cần thêm dinh dưỡng để sống còn khi cái thây ma chỉ còn chừng 35 - 36 ký lô, mà lúc ở Trại Quảng Ninh tôi không còn bước đi được nữa, chỉ có nằm suốt ngày.

Nhưng thức ăn cũng chỉ là điều chưa phải tất yếu, tôi khao khát gặp mặt người vợ, mới vừa cưới nhau đúng một năm thì tôi chui vào tù. Người con gái đợi chờ tám năm kể từ ngày quen đến ngày cưới. Sau khi cưới lại chịu cảnh chia xa tiếp và lần này không có định mốc thời gian xum họp. Cái khao khát tình cảm và tinh thần của một con người lớn mạnh và mãnh liệt trong cuộc sống gian truân khắc nghiệt của đời sống tù tội và kể cả đời sống thường nhật ngoài đời sau khi mất Nước của từng người dân có chồng, cha đi “cải tạo”.

Hai tháng chờ đợi ngày Vợ đến thăm, hầu như trong đầu tôi chỉ nghĩ về chuyện thăm nuôi, và cảm xúc lúc nào cũng chực chờ bên cạnh tưởng như đang được gặp mặt, cùng với sự hồi hộp về chuyện chuỳển cái áo lạnh và xấp thư của các bạn ra khỏi nhà tù sao cho suông sẻ. Nhức đầu nhất là giấu mấy chục mảnh thư của bạn bất cứ chỗ nào cũng thấy sẽ bị phát giác. Nếu khám xét trước khi cho ra gặp gia đình mà bị tìm thấy những lá thư này thì xem như quay gót trở vào phòng, bị cấm thăm nuôi, người vợ hay gia đình sẽ cảm nhận nỗi đau ra sao khi vượt đường dài hơn một ngàn cây số mà không được gặp mặt, và có thể quà cáp cũng không được nhận.

Tôi lo lắng suốt ngày đêm tìm chỗ để giấu mà không tìm ra được chỗ nào cho yên tâm, tuy nhiên tôi cũng phải giữ đúng lời hứa sẽ mang ra cho được như là một cử chỉ giúp những người bạn tù đang khốn khổ. Cuối cùng tôi quyết định táo bạo dùng sợi giây thun cột chặt 34 mảnh thư ấy vào trong ống quyển của cái chân, phải gần chỗ gót bàn chân sau khi anh Hồng Khắc Lê Minh đến tìm tôi thông báo “ tôi chuẩn bị thăm nuôi”.

(Cũng xin nói thêm rằng một năm sau khi đặt chân đến Hoàng Liên Sơn, trong lúc lên núi cao phát quang chuẩn bị trồng khoai mì, tôi đã bị té ngã và lăn nhào xuống chân núi, làm chấn thương thần kinh toạ cốt và bị liệt chân trái từ ngày ấy đến khi thả ra khỏi nhà tù, tôi phải chống nạng. Ngày trở về tôi bước lê với cây nạng gỗ, vai mang cây đàn guitar tôi tự làm trong trại và cầm một bó bông muốn tặng vợ trong ngày đầu tiên bước vào nhà sau khi ra trại. Người hàng xóm nhìn thấy tôi không nhận ra và cứ tưởng là một người “đi ăn xin hát rong độ nhật” mà sao lại có bó bông.)

Chuẩn bị xong xuôi cho những mảnh thư “chui”, tôi cầm lấy cái áo lạnh đã may, mang theo và chống nạng đi cùng với Hồng Khắc Lê Minh ra cạnh bức tường ranh giới của hai khu vực Trại Giam. Ở đây đã có một tên “Cán Bộ Tư Tưởng” là Trung Uý Hiến đứng chờ sẵn. Tên Hiến ra lệnh cho Hồng Khắc Lê Minh bắt đầu kiểm tra thân thể tôi.

Lê Minh bảo tôi giở cái mũ ni che tai ra khỏi đầu (vì lúc này là mùa đông lạnh lắm), tất nhiên trên đầu trống trơn, tay Lê Minh vò bóp nhiều lần trong lớp vải dày của cái mũ ni. Lê Minh bảo tôi cởi hết ba lớp áo ra từng cái một, và Lê Minh vò bóp từng cái ve áo, cái túi áo, cổ áo xem có giấu gì trong từng phân vuông trên mỗi cái áo. Bảo tôi bỏ đôi dép ra khỏi chân để khám trong đôi dép. Giai đoạn cuối cùng, tên Cán Bộ bảo “cởi chiếc quần ra”, tôi nghĩ trong bụng “thôi xong rồi, có lẽ họ sẽ thấy ngay đống thư cột một cục ngay dưới ống quyển và họ sẽ giận dữ, nạt nộ lên lớp ca bài ca con cá và tống khứ tôi trở lại phòng là cái chắc, và vợ tôi hay còn ai nữa tôi chưa biết đi cùng trong cuộc thăm nuôi này sẽ có những giọt nước mắt lăn dài trên má khi được thông báo tôi “vi phạm nội quy” thăm nuôi và đã bị cấm không được gặp.”

Tôi tin tưởng như có bàn tay vô hình ngay lúc ấy đã phù trợ cứu tôi. Hồng khắc Lê Minh thấy tôi cởi chiếc quần ra một cách khó khăn vì chỉ xử dụng được một tay trái, còn tay phải phải cầm giữ cây nạng gỗ, khi tôi tuột được chiếc quần xuống đến hai bàn chân, đang định cho ra khỏi bàn chân thì hắn bảo thôi tới đó được rồi. Hú hồn, nếu tuột hết ra thì đống thư “chui” sẽ hiện ra trước mắt chàng Cán Bộ nổi tiếng hắc ám nhất trại. Chiếc quần đủ để che lấp cái đống thư còn đang cột chặt xung quanh ống quyển. Hồng Khắc Lê Minh tự nhiên bảo tôi “thôi được rồi”, tôi tưởng như có một bàn tay vô hình nào đó đã cứu giúp tôi thoát nạn. Hắn dùng hai bàn tay xoa nắn trên khắp chiếc quần đùi tôi đang mặc mà không bảo tôi cởi nó ra, chắc sợ “công xuất tu sĩ” chăng ?

Lúc nãy khi nghe “Cởi quần ra!”, tim tôi đập nhanh hơn và hồi hộp nhiều vì biết được chuyện gì sẽ xảy ra nếu lộ, tuy nhiên tôi sẽ chấp nhận tất cả mà không hề hối hận. Nhưng sau khi nghe tên Cán Bộ Trung Uý Hiến thốt ra “thôi được rồi cho anh ta mặc áo quần vào”, tôi mới thực sự nhẹ nhõm và mừng vô cùng. Tôi nghĩ số phần của tôi còn may mắn.

Ăn uống thiếu thốn còn da bọc xương, bị bắt cởi hết áo quần ra trong thời tiết giá lạnh mùa đông miền bắc chừng 4 hay 5 độ C, đối với người tù hết sức lực là điều oan khiên lắm rồi, như là một thủ tục tra tấn trước khi gặp được vợ sau 5 năm xa vắng. Sau khi mặc áo quần xong xuôi, tôi bắt đầu xin phép cho tôi được mang cái áo lạnh này ra để cho vợ mang về tặng cho người Mẹ. Tôi nói: “Thưa cán bộ, đây là cái áo lạnh tôi đã may nó trong ba tháng, và là tình cảm của người con dành cho Mẹ, xin phép cho tôi được gởi về biếu cho Mẹ.”

Tên Trung Uý Cán Bộ Tư Tưởng trợn con mắt ếch lên ngạc nhiên nói: “Không được, anh không được phép mang bất kỳ cái gì ra lúc thăm nuôi, nếu mang ra là anh đã vi phạm nội quy của Trại”. Người trật tự viên Hồng Khắc Lê Minh thì im lặng và chờ lệnh kế tiếp. Tên Cán Bộ không ra lệnh cho Lê Minh cầm chiếc áo lạnh vào buồng ngủ cho tôi mà lại nhìn vào mặt tôi, hất hàm nói: “Anh mang trả cái áo lại trong buồng.”

Tôi buồn xo và chấp nhận thất bại không gởi được cái áo ra ngoài, nhưng đã mừng vừa được thoát nạn với mấy chục lá thư “chui”. Tôi bang bang chống nạng đi nhanh vào buồng 13 của mình, quăng cái áo lên sạp ngủ rồi quay trở ra thật nhanh trong khi các câu hỏi, thắc mắc của đám bạn tù nhao nhao theo sau “đại khái khám rồi sao lại được vào..?”

Sự sai lầm của tên cán bộ là đáng lẽ phải ra lệnh cho tên Trật Tự Viên cầm cái áo trở vô phòng mới phải, vì cả cơ thể của tôi đã khám xét xong rồi, giờ đi vào phòng và trở ra thì hóa ra xem như chưa khám xét (biết đâu có giấu cái gì khi được đi vào phòng thì sao).

Nhiệm vụ của Hồng Khắc Lê Minh đến đây là chấm dứt, phần còn lại do Trung Uý Cán Bộ Tư Tưởng dẫn tôi đi ra phòng thăm nuôi của Trại để gặp thân nhân trong 30 phút theo quy định Trại. Tôi chống nạng bước theo sau tên trung uý, khi đi ngang chính giữa khoảng sân rộng của Bộ Chỉ Huy Trại, thình lình tiếng chuông điện thoại reo bên trong căn phòng, một trong những dãy nhà của Chỉ Huy Trại.

Tại sao điện thoại reo đúng lúc quá, nếu không có điện thoại reo thì bằng cách nào mà tôi chuyển được đống thư “chui” còn cột chặt dưới ống quyển để bỏ lên túi áo ngõ hầu khi gặp vợ mới dẽ dàng chuyền tay qua cho vợ được. Giống như có ai đó đã cứu tôi. Điện thoại reo, tên cán bộ nói “anh chờ ở đây một chút” và hắn nhanh chân bỏ đi về hướng đó. Một cơ hội bằng vàng đã giúp tôi thực hiện di chuyển các lá thư từ dưới ổng quyển lên túi áo. Tôi bèn làm bộ như có kiến cắn chân, liền bỏ cây nạng gỗ xuống đất và ngồi xuống gãi chân. Tôi gãi ngay cái ống chân có xấp thư đang cột trong đó và kéo nhanh ra, tay vo tròn trong lòng bàn tay chưa bỏ vội vào túi áo. Mắt tôi đảo nhanh xung quanh xem có ai đang nhìn mình không, tên cán bộ nghe điện thoại cũng chưa ra, tôi giả như lau trán bằng cách móc trong túi áo trên ra một cái khăn tay ngỏ đã chuẩn bị trước. Tôi làm bộ dùng khăn tay lau trán nhưng kỳ thật nhét nhanh xấp thư vào trong khăn tay ấy. Khăn tay này dùng để lau nước mắt cho vợ vì biết thế nào cũng chảy nước mắt khi nhìn thấy hình hài tàn tạ của chồng. Và chính khăn tay này là vật bao che đám thư “chui” khi tôi trao cho vợ.

Tôi đã làm một cách trót lọt chuyển thư từ ống quyển gói lại trong khăn và bỏ vào túi áo trước khi tên cán bộ trở lại đưa tôi đi tiếp. Dãy nhà dùng để thăm nuôi lợp bằng tranh vách đất, một phòng trống trơn từ sau ra trước đặt một cái bàn hình chữ nhật bằng gỗ cũ kỹ thô sơ, có hai cái ghế dài hai bên bàn, một cái ghế chiếc đặt ngay đầu bàn dùng cho tên cán bộ Hiến ngồi chình ình ở đó để nghe mọi lời nói giữa tù nhân và gia đình trao đổi với nhau.

Hắn chỉ cho tôi ngồi ghế đối diện với vợ và người chị vợ đi cùng để ra thăm tôi, chưa nói được lời nào đã thấy đôi mắt của vợ đỏ hoe, và từng giọt nước mắt lăn dài trên má. Gặp mà khóc vì xúc động cũng có mà có lẽ không ngờ nhìn thấy tôi tàn tạ ốm đến như thế này và cái bất ngờ là cây nạng gỗ. Tôi cũng xúc động không kém, nghẹn cuống họng đắng nghét, chỉ kịp thốt “Chị Hai và Em” trong lời chào..

Hắn nói như ra lệnh : “Anh phải nói to cho tất cả đều nghe, và để hai tay lên bàn. Anh được phép gặp gia đình trong 30 phút, tôi sẽ báo trước cho anh biết khi nào hết giờ thăm. Anh chị “khẩn trương lên.” Tôi đang “nặng nợ” với một đống thư của bạn nhờ chuyển về, tình cảnh này làm sao lấy thư từ túi áo để trao cho vợ được đây?

Tất cả những câu chuyện hỏi qua hỏi lại cũng chỉ có hỏi thăm sức khoẻ và công việc tại nhà chứ không nói được gì hơn. Anh chàng Trung Uý Hiến này coi bộ “ khoái” con gái miền Nam vì nước da trắng, cách ăn nói rất dịu dàng mềm mỏng, nhất là cách ăn mặc rất À La Mode, Áo Mantau của một thời VNCH chưa phai nhạt. Người chị vợ còn rất trẻ và đẹp đã làm tên Cán Bộ như bị hút hồn. Chị tôi nói với hắn: “Nhờ ơn Cán Bộ mà em tôi được khoẻ mạnh, cám ơn Cán Bộ nhiều lắm!” Anh chàng đã phải lòng gái miền nam bằng những lời tán tỉnh khô cằn của trai Bắc kỳ Cộng Sản thiếu tính lãng mạn nịnh đầm. Hắn ta bày tỏ chỉ bằng cách “cho anh Trãi qua ngồi cùng bên với gia đình cho thân mật.”

Thiệt là một cơ hội bằng vàng hiếm có, ít ai được như vậy, một dấu hiệu dễ dãi để chiếm cảm tình bà chị của tôi và anh ta dồn hết thời gian còn lại dùng cho việc “tán gái” với bà chị và ít để ý đến tôi nữa. Nhân cơ hội những giọt nước mắt của vợ còn đang lăn dài trên má, tôi đưa tay lên túi áo, không quên vo tròn và nắm chặt cái khăn lại để cho đống thư không bị rớt ra, tôi lau nuớc mắt cho vợ như một cử chỉ rất tự nhiên, sau đó tôi vất chiếc khăn lên bàn trước mặt mọi người.

Trong lúc hắn say sưa nói chuyện với bà chị của tôi, mà dường như chị cũng hiểu ý cho nên cố tình chăm chú đẩy đưa câu chuyện giữa anh chàng Cán Bộ háo sắc hầu tôi được thoải mái hơn. Tôi kề miệng vào tai vợ nói nhỏ: “trong khăn có thư, em lấy cất đi, đừng làm rớt thư ra ngoài”.

Vợ tôi không lấy khăn ngay, phải chần chừ một lúc để không bị nghi ngờ, sau đó cầm gọn chiếc khăn lên lau mặt rồi làm như quên tuởng là khăn của mình nên bỏ vào cái xắc tay. Thế là công việc chuyển thư đã trót lọt.

Ngay lúc này Trung Tá Nhã, tên Trại Trưởng bước vào. Tên Trung Uý đứng lên giới thiệu: “Thưa đồng chí, đây là gia đình của anh Trại Viên Nguyễn Trãi được thăm nuôi hôm nay”, và hắn giới thiệu với chị cùng vợ tôi: “Đây là Đồng Chí Trại Trưởng”.

Chị và vợ tôi đứng lên chào một cách lịch sự và tỏ lời cám ơn Cán Bộ Trại Trưởng đã ưu ái cho chúng tôi được gặp em của chúng tôi hôm nay. Phải thành thực nói rằng, từ ngày Miền Nam bị mất vào tay CS thì lần đầu các tay CS này được nhìn thấy tư cách, phong độ, sự lịch thiệp tao nhã của người dân Miền Nam làm cho hai tên Cán Bộ đang đứng trước mặt thán phục và tấm tắc khen khợi. Họ biểu lộ thiện cảm ra mặt bằng những lời tâng bốc khen ngợi liên tục.

Một điều rất mắc cười đến trơ trẽn là Tên Trại Trưởng Nhã chưa bao giờ gặp tôi, biết tên tôi là gì nhưng lại mở miệng nói rằng: “Các chị biết không, anh này hồi mới về yếu lắm. Bây giờ nhờ sự chăm sóc của Trại, anh ta đã khoẻ hẳn ra nhiều lắm rồi đấy!”

Dĩ nhiên bà chị và vợ cám ơn “nhờ ơn Cán Bộ chăm lo chu đáo”. Hai anh chàng ta tỏ ra sung sướng lắm. Tôi lợi dụng không khí dễ dãi này bèn đứng lên nói với tên Trại Trưởng: “Thưa cán bộ, sáng nay tôi có mang ra khỏi Trại một cái áo lạnh do chính tay tôi may trong thời gian ba tháng, đây là một tình cảm thiêng liêng mà tôi dành cho mẹ, một món quà tinh thần. Nhưng khi ra khám xét thì Cán Bộ Hiến không cho mang ra. Vậy xin Cán Bộ giúp đỡ cho tôi được gởi về tặng người Mẹ của tôi đang nhớ thương ở nhà.”

Tên Trung Tá tỏ vẻ thú vị cùng ngạc nhiên nghe tin này, quay qua anh chàng Cán Bộ Tư Tưởng hỏi: “Áo đâu rồi?”, tên Trung uý Hiến trả lời: “Thưa đồng chí, sáng nay anh Trãi có mang ra, nhưng tôi không đồng ý và bắt mang trả lại trong buồng rồi”. Trung Tá Nhã như muốn tỏ ra hào phóng và nịnh đầm trước đàn bà để lấy cảm tình nên nói “Thôi cho chị mang về đi”. Tôi thấy như nhẹ ngàn cân và mừng trong bụng vì được cho mang áo về. Tôi nghiêng đầu nói thầm với vợ : “Có thư bên trong áo, lột ra mà đọc”.

Tôi không nhớ đã hết giờ thăm chưa, nhưng tên Trung Uý nói: “Anh Trãi khẩn trương lên còn tranh thủ vào trong mà lấy áo, đã hết giờ rồi”. Tôi mừng quá, thế là tôi bang bang đi thật lẹ vào buồng của mình để vơ vội chiếc áo quăng lên chỗ nằm sáng nay. Các người bạn nhìn thấy tôi hết sức ngạc nhiên “Sao lại vào đây rồi còn được ra trở lại ?”, tôi không trả lời, chỉ lo đi nhanh ra khu nhà thăm nuôi cũng khá xa nơi mình ở.

Khi tôi cầm trên tay chiếc áo lạnh bước vào căn phòng thăm nuôi đứng trước mặt tên Cán Bộ Tư Tưởng thì nét mặt của hắn sa sầm giận dữ, màu mặt đỏ gay thét lớn “Tại sao anh lại vào trong trại lấy cái này ra đây ?” Tôi rất tự nhiên bình tĩnh trả lời: “Thưa cán bộ, chính cán bộ bảo tôi “còn tranh thủ vào lấy áo lạnh nữa” kia mà.”

Bây giờ hắn mới vỡ lẽ ra rằng hắn bị hố, chính hắn nói thế nhưng kỳ thật phải là tên Trật Tự viên đi lấy áo chứ không phải tôi, vì tôi đi vô trại thì làm sao ai biết tôi có giấu gì trong áo ? Bản chất của CS là nghi ngờ, trước cái chẳng đặng đừng và đứng trước mặt gia đình tôi, hắn không thể sỉ vả áp đảo hay miệt thị tôi cho nên hắn cầm chiếc áo trên tay và bảo tôi đi theo hắn.

Trung Uý Hiến đi dến cuối dãy nhà vì biết nơi này nói gì gia đình tôi cũng không nghe thấy. Hắn bắt đầu nạt nộ to tiếng, đổ tội cho tôi cố tình đi vào trong trại để lấy áo ra. Tôi cứng rắn trả lời một cách cả quyết: “Chính cán bộ bảo tôi “ khẩn trương” lên rồi còn “tranh thủ” vào lấy áo chứ tôi đâu có tự ý đi vào trại”. Hắn vẫn cho rằng tôi vào trại một mình là đã phạm nội quy, và làm sao biết được có gì bên trong áo? Tôi biết chắc tất cả các thư viết trên vải khi khám bằng cách vò nhầu lớp nỉ bên ngoài không bao giờ biết được có gì bên trong, chỉ trừ khi phải xé áo ra thì tôi đầu hàng. Tôi tháu cáy tên trung uý bằng cách đưa một cách dứt khoát và mạnh bạo chiếc áo trước mặt cho hắn và nói “Đây, cán bộ cứ khám nó đi xem tôi có giấu gì không ?”

Trước sự dứt khoát khá mạnh của tôi - chính là điều làm hắn tiến thoái lưỡng nan – hắn lúng túng không biết làm cách nào mà trong đầu thì vẫn nghi ngờ và cho tôi là vi phạm nội quy vì không thể tự mình đi vào trại không có ai đi cùng. Đang lúc cả hai người cùng lớn tiếng thì tên Nhã Trại Trưởng đi ngang ngoài sân, nghe thấy bèn rẽ vào và hỏi “Có chuyện gì vậy?” Tên Trung uý Hiến nói ngay: “Thưa đồng chí, anh Trãi tự đi vào trong Trại mang cái áo này ra”. Tôi cuớp lời: “Thưa Cán Bộ, đúng như Cán Bộ cho phép gia đình tôi mang cái áo này về cho Mẹ tôi, và chính cán bộ Hiến bảo tôi đi vào lấy áo ra tôi mới lấy. Cán bộ không tin thì cứ khám nó đi”. Thấy tôi cứng giọng của một người ngay không sợ lẽ phải và một lần nữa thách thức tên Trại Trưởng “Cán Bộ không tin hãy khám nó đi !”

Trung Tá Nhã đang trong cái thế khó xử, không khám thì không được mà khám thì làm sao mà khám trong khi gia đình người ta đang chờ, ông ta bèn nói gỡ gạt: “Tôi tưởng cái gì quý giá chứ cái này có gì mà phải gởi về?” Tôi liền đáp trả: “Thưa cán bộ, như tôi đã nói ban đầu, nó không có giá trị vật chất, nhưng đối với tôi nó rất có giá trị về tinh thần, nó là tình cảm của người con dành cho người Mẹ đang nhớ thương từng ngày, và chính từng mũi kim là tình yêu thương của tôi dành cho người Mẹ. Nếu Cán Bộ còn nghi ngờ thì tôi đồng ý không gởi nữa, nhưng tôi phải trả lời làm sao đây khi lúc nãy Cán Bộ đã đồng ý cho gởi bây giờ lại nói không đối với chị và vợ của tôi ? “

Tôi đã đánh trúng tâm lý tên cán Bộ Trại trưởng, lúc nãy trước mặt chị và vợ của tôi nói bao nhiêu là điều tốt mà người thân của “cải tạo viên” phải mang ơn, bây giờ mới đó không lẽ đã nuốt lời và thay đổi? Tên Trại Trưởng suy nghĩ một chút bèn hất hàm về anh chàng trung uý như ra lệnh: “Thôi cho ảnh mang về đi”. Vậy là tôi chiến thắng trong sự hậm hực của tên Trung Uý đành phải chấp nhận lệnh của Trại Trưởng. Hắn trở lại chỗ người chị vợ và vợ đang ngồi chờ, vẻ mặt vẫn còn hậm hực và trơ trẽn nói: “Anh Trãi đã tự động vào trong lấy cái này, theo đúng nội quy là không được, nhưng Trại vẫn thông cảm cho các chị mang về, đó là sự quan tâm của chúng tôi.”

Tôi chia tay trong sự nhẹ nhõm vì thoát nạn, nhưng vô cùng ngậm ngùi khi giây phút giã từ. Tôi nhìn nhanh trên khuôn mặt hai người đã thấy những nét không bình thuờng. Tôi quay gót đi vào trại mà lòng đau như xé ra từng mảnh vụn.

Thương biết chừng nào, yêu biết chừng nào… đã vượt nghìn trùng gian khổ để đến đây được nhìn mặt chồng, mặt em… Tôi cám ơn vô vàn và đâu biết lời nào để diễn đạt tình cảm lúc này của tôi dành cho hai người…

Nguyễn Trãi

NGUYỄN UYÊN* KÝ ÚC THUYỀN NHÂN

 


Ký ức của một thuyền nhân

01 Tháng Năm 201710:40 SA(Xem: 426)
Trái bom nổ rất gần làm má hết hồn nên má bỏ chạy," má tôi kể thế khi bà hồi tưởng lại về tính đãng trí của mình giữa cuộc giao tranh. "Chạy chừng 30 thước rồi mới phát hiện là má đang ôm cái gối, chớ không phải ôm con," bà bẽn lẽn khúc khích cười.
Đó là vào khoảng ngày 30 tháng Tư năm 1975, tại Đà Nẵng, một trong những thành phố chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của chiến tranh Việt Nam.

Tôi thích thú nghe bà kể chuyện. Tôi chưa hề có giây phút nào cảm thấy bị bỏ rơi hay thiếu tình thương của má, nên chuyện má quên ôm tôi theo không làm tôi thắc mắc. Tôi chỉ kinh ngạc khi nghĩ tới má chạy vào vùng bom đạn để cứu đứa con gái mới 2 tháng.

Đây là câu chuyện đầu tiên về đời mình tôi được biết - câu chuyện của một đứa bé kẹt ở khúc quanh lịch sử; câu chuyện về tình thương vô điều kiện giữa mẹ với con; và câu chuyện trong giờ phút đất nước đổi chủ, con người trải qua những hệ lụy của chiến tranh.

Tôi đã biết sẽ mất má ngay cả trước khi bà ra đi. Không phải là tôi tiên tri gì. Hồi nào tới giờ, như anh tôi vẫn thường nói, tôi luôn luôn "để ý rất kỹ, nhiều khi tới mức làm người khác khó chịu."

Đó là 10 năm rưỡi sau khi tôi sinh ra đời.

Chúng tôi đang bập bềnh đâu đó ngoài khơi Việt Nam, trên một chiếc thuyền rách nát và quá nhỏ để cưu mang 31 mạng người, quá thiếu an toàn để vượt biển, chứ đừng nói tới mục tiêu đầy tham vọng là đến được nước Mỹ.



Má ôm cơ thể gầy gò và khô cằn của đứa em gái 1 tuổi rưỡi vào lòng, dưới ánh nắng nhiệt đới thiêu đốt. Bà nhìn nó chằm chặp một cách tuyệt vọng, làn da bị nứt nẻ của đứa bé do sức nóng, nước biển và khát.

Má lúc đó đã mất ba đứa con rồi, và tôi thấy bà vuốt ve em tôi nhè nhẹ, dường như mong rằng hơi ấm và sự săn sóc dịu dàng của bà có thể giữ em tôi sống thêm vài phút nữa.

Khi em tôi trút hơi thở cuối cùng, mặt của má tôi chuyển từ một người mẹ bám víu vào niềm hy vọng mong manh, đến một người phụ nữ không còn lý do để sống nữa.

Má có thể nói bằng ánh mắt, và khi bà ngẩng mặt lên từ đứa em lúc đó đã chết để chuyển chầm chậm sang nhìn tôi, cho đến giờ phút này tôi chưa thấy cặp mắt nào buồn như thế, và tôi biết tôi sẽ mất luôn cả má. Tôi khóc dữ dội không kềm được, gần như tới độ bị co giật.

Bề ngoài, có vẻ như tất cả sự khổ đau của tôi là do cái chết của đứa em, nhưng tôi biết mình đang khóc cho cả em lẫn má.

Má luôn luôn là một người kiên cường - dẻo dai tuy trầm lặng - nhưng mặt bà lúc này không còn dấu hiệu kháng cự gì nữa. Con là tất cả, và bị mất bốn đứa con trong mấy ngày, cùng với viễn tượng sẽ mất thêm cả hai đứa con trai và tôi, là điều quá sức chịu đựng của bà.

Anh tôi phát hiện má đã chết trong giấc ngủ hai ngày sau đó. Bà lúc đó bằng tuổi tôi bây giờ. Em trai tôi cũng qua đời đêm đó. Và tôi mừng là má đã không phải chứng kiến cảnh em trai tôi chết.

Ngày 30 tháng Tư với tôi chưa bao giờ có ý nghĩa thắng hay bại.

Nó chỉ tượng trưng cho những cái chết oan uổng, cho những hy vọng và ước mơ bị dập tan.

Có người muốn tôi ủng hộ hay kết án phe này hay phe kia, Việt hay Mỹ.

Tôi không làm thế. Thay vào đó, tôi vững vàng sống trong một thế giới mà tôi không muốn mang chiến tranh đến với ai, và tôi làm những gì trong khả năng của mình để ngăn ngừa các hành động ác độc xảy đến cho người khác.

Đôi khi vì chúng ta đã từng làm nhân chứng cho cái chết, chúng ta trở nên sáng suốt hơn về cuộc sống. Tôi nghĩ điều đó đúng với tôi, và đã được lập lại nhiều lần.

Chúng ta nên vận động cho mọi người trên thế giới này đạt được một mục đích chung - sống một cuộc đời có ý nghĩa. Những gì còn lại chẳng có giá trị bao nhiêu, kể cả tiền bạc, quyền lực và danh vọng.

PHẠM THỊ TRỌNG TUYỂN * ĐẤT NƯỚC LÂM NGUY



ĐẤT NƯỚC LÂM NGUY: đừng ham thân phận chư hầu
PHẠM THỊ TRỌNG TUYỂN



Trong quá khứ, từng dài lâu gian nan chật vật đối đầu giặc xâm lấn Nguyên- Mông- Hán nhưng có lẽ chưa bao giờ người Việt Nam nhìn thấy nguy cơ mất nước rõ ràng như ngày nay. Kẻ thù xưa, càng lúc càng phát triển, lớn mạnh, và dân Việt vẫn chia rẽ, suy đồi, yếu kém.


Làm sao ra khỏi nguy cơ bị mất nước, thoát nạn bị tộc Hán đồng hoá ?


Hầu như xưa nay ai cũng đồng ý với đề nghị : Phải cải tiến đất nước, phải làm cách mạng kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục! Phải thay đổi chính con người chúng ta. Nhưng cho đến hiện giờ, kết quả ra sao?


Hơn 100 năm trước, trong thời thuộc Pháp, Phan Châu Trinh phát động phong trào Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Và cách đây 70 năm, đảng cộng sản Việt Nam với Hồ Chí Minh và nhất là Lê Duẩn tổng bí thư đảng từ 1960 đến 1986 hứa hẹn làm cuộc cách mạng long trời lở đất : Xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, xã hội chủ nghĩa. Chính ông tổng này tuyên bố “ta không được phép...sợ người Trung Quốc” ! Ngày nay, các vị tổng mới cũng tuyên bố, phát động đủ thứ phong trào, chiến dịch để chống sâu bọ, chuột lớn chuột nhỏ, bảo vệ bình quý bình sứt, dùng củi ướt củi khô mà dường như tình thế càng lúc càng nguy nan. Càng lúc càng thế cô.



Chuyện gì đã xảy ra khiến chỉ hơn ba mươi năm sau, thậm chí chỉ 20, 10 năm thôi, mọi sự đổi thay nhanh chóng : vua Tàu thân chinh qua nước Việt răn đe dụ dỗ, vua chúa dân quân quan lại Việt kéo nhau lần lượt sang chầu vua Hán và học hỏi sao chép đủ cách về mọi chuyện, khiếp phục Tàu cộng đến mức độ (hình như một số lãnh đạo Việt đã) ký mật ước xin làm hàng thần, xin hiến đất nước Việt làm một vùng tự trị?


Nếu quả thật là như thế thì những người Việt này hiểu gì về thân phận chư hầu, mơ màng tơ tưởng điều gì cho số phận dân tộc và đất nước Việt Nam dưới cái tên đẹp đẽ vùng tự trị ...dưới bàn tay Trung cộng?


Làm sao có thể học hỏi được tiến bộ vượt bực của nước Tàu hầu cải tiến đất nước mà vẫn giữ nguyên bản sắc, không cần phải trở thành người Tàu, và bằng cách nào, đối phó với âm mưu bành trướng hung hăng ngạo mạn của họ ? Làm sao hiểu thái độ (đa số ?) người dân và một (thiểu số ?) lãnh đạo Việt Nam : thần phục thiên triều, thờ ơ với vận mạng đất nước ?


Vì sao có đổi thay đột ngột này ?


Không tự vấn sao được khi phần lớn các nước trên thế giới đều tiến bộ ít nhiều trong các lãnh vực khoa học, kinh tế, xã hội văn hoá, và con người nói chung, tích tụ được những bài học lớn để áp dụng thích ứng vào cuộc sống chung nhân loại trong lý tưởng hoà bình hạnh phúc mà VN và Tàu dường như đều ở bên ngoài giới hạn lý tưởng bình thường đó. Tâm thức và lý trí con người Tàu và Việt có tiến triển theo đà thế giới ? Những bài học năm xưa được lãnh hội ra sao?


Nếu bị người Tàu đô hộ, dân mình, nước ta sẽ ra sao? Nhiều người quá cùng quẫn, toan tính thà làm dân Hán giấy, nô lệ, chư hầu một nước Tàu giàu có, còn hơn làm dân nước Việt tự do, nghèo nàn thiếu ăn. Có phải cuộc sống đầy bất công và khó khăn thêm vào những thất vọng về hoà bình thống nhất đã khiến nhiều người không còn lòng tin vào chính mình, vào dân tộc và tổ quốc ? Có phải ván cờ đã xong, chẳng còn thế trận nào khác nữa?


Chúng ta thử tìm nguyên nhân sự phát triển cùng âm mưu bành trướng của người Tàu và nhất là suy tư về thân phận chư hầu hiện nay của các nước thuộc vùng tự trị Trung quốc.


Biết mình biết người để tự thay đổi và tiến lên.


Sức mạnh Hán tộc và âm mưu thôn tính lân bang

* Đại quốc Trung Hoa và nước nhỏ Việt Nam : hai ngàn năm lịch sử láng giềng.


Đứng trước quốc gia khổng lồ với diện tích 9,6 triệu km² đông dân nhất (nhì?) trên thế giới với vận tốc phát triển chiếm hàng đầu về quân sự, thương mại và cả về thành tích lấn chiếm lân bang, làm sao (ai) có thể cả gan không “ hèn với giặc ” khi bị láng giềng này trấn áp ?





Hình 1 Bản đồ China đời nhà Đường


Không chỉ nước Việt mà rất nhiều nước trên thế giới ngày nay, trải thảm đỏ đón rước đại diện Tàu hòng giữ chân vị khách mua và bán rất “sộp” này[1].


Thật ra muốn biết rõ hiện tại có lẽ phải đi ngược xa hơn nữa, khi cả hai còn sống trong tăm tối lệ thuộc, để so sánh kết quả khác nhau của thay đổi ngoạn mục sau hơn vài trăm năm, nhất là sau 40 năm trở lại đây : một bên lãnh thổ tăng gấp đôi diện tích (hình 1), chế bom nguyên tử, cung cấp cho thế giới trên dưới 90 % hàng hoá đủ loại từ đồ chơi quần áo giày dép trẻ con, người lớn, từ thức ăn chơi đến hoả tiễn, nhà máy (lò) điện nguyên tử, vệ tinh nhân tạo[2]; một bên tuy thống nhất nhưng dần dà teo tóp các vùng biên giới (đất đai vùng biên giới phía bắc ?), mất đất mất rừng mất biển, mất cả lòng (thương) người (và được người thương). Chuyện gì đã xảy ra cho người Việt?





Hình 2 Bản đồ China thế kỷ 19


https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/7/7b/1861_Johnson_Map_of_China_-_Geographicus_-_China-johnson-1861.jpg

- Thành tựu lớn lao của Tàu : lấn chiếm đất đai


Vào thế kỷ 13, vua Möngke Khan xứ Mông Cổ sai em là Kubilai (Hốt Tất Liệt, cháu Thành Cát Tư Hãn Gengis Khan) sang đánh nước Tàu. Một đạo quân được đưa xuống phía nam để đánh chiếm Đại Lý rồi đánh luôn tới Đại Việt của vua Trần Thái Tông[3]. Sau khi lên ngôi và lập nên nhà Yuan (Nguyên), Kubilai chiếm nốt nam Tàu của nhà (Nam) Tống. Và từ đất mới chiếm này, với quân lính mới này, họ lại sửa soạn đánh Đại Việt[4]. Mấy lần đánh sang Đại Việt trong vòng vài năm (1285-1288), quân Tàu của triều đại Nguyên Mông này đều thất bại.



Người Tàu (không gốc Hán) Zhu Yuan Zhang (Chu Nguyên Chương) lật đổ nhà Nguyên lập ra nhà Ming (Minh - từ thế kỷ 14 đến 16), qua cuối thế kỷ đến lượt người Mãn Châu diệt nhà Ming lập thành nhà Qing (Thanh), cai trị nước Tàu.( hình 2)


Cái hận bị bọn Bắc địch cai trị này chắc người gốc Hán thứ thiệt khó quên được.

Khi bị các đế quốc phương Tây chia nhau ức hiếp (cuộc chiến tranh nha phiến) nhà Mãn Thanh phải ký hoà ước cho họ vào Tàu buôn bán tại 5 cửa biển. Riêng nước Anh chiếm Hongkong. Về sau đánh nhau với Anh, Pháp vì chuyện cấm đạo và buôn bán với phương Tây, nhà Thanh phải nhường Pháp quyền bảo hộ nước An Nam (Hoà ước Thiên Tân (Tien-Tsin) ký vào năm 1884 và 1885. Nước Việt không phải triều cống Tàu nữa nhưng bị tròng vào cổ cái ách thực dân Pháp.
Năm 1911, lật đổ nhà Thanh, nước Trung Hoa dân quốc ra đời vào năm sau và từ 1927 bắt đầu cuộc nội chiến quốc - cộng Mao -Tchang (Tưởng) ( Mao Zedong - Tchang Kaï-chek) đến 1945 từ đó cho đến 1949 (khi Tưởng bỏ đại lục ra đảo Taiwan) được sử Tàu gọi là cuộc chiến tranh giải phóng.


Chưa đầy 40 năm sau, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã nhảy một bước dài và cao, tả xông hữu đột, dùng bạo lực (và cổ sử ) đánh Ấn, giành đảo của Nga, chiếm Tibet, sát nhập Mông Cổ,[5] thổi cuồng phong cách mạng văn hoá chính trị, nên chỉ cần vài (trăm ?) chục triệu người chết, biên giới cũ từ thời cổ đại (nhà Đường chẳng hạn) từ phía Bắc sông Dương Tử, được bung cột mốc ra tứ phía. Trả thù người đại Mông, Mãn, Tạng đã từng đô hộ tộc Hán bấy lâu nay.


Sau Mao, Deng Xiao Ping cho phép dân Tàu dùng mèo trắng mèo đen bắt chuột, nghĩa là bắt tay /bắt chước (ăn cắp) tư bản chứ không thèm độc quyền giao du với cộng sản anh em. Bên cạnh những cải tổ về tổ chức kinh tế, thương mại, khuyến khích địa phương làm giàu, kỹ nghệ nặng và các doanh nghiệp nhà nước cũng phát triển nhanh chóng (bất kể môi sinh, đạo lý mà “bọn tư bản” đã từng “gãy răng sứt mũi” tìm phương cách sửa chữa tôn trọng trong thế kỷ vừa qua) khiến cho Trung cộng chỉ trong vòng vài thập niên trở nên cường quốc kinh tế và quân sự nhất nhì trên thế giới. Hàng trăm triệu phú và tỷ phú Tàu mua đủ thứ của thế giới : quặng mỏ, đồn điền ruộng nho làm rượu, đại công ty thuộc mọi ngành nghề từ du lịch, thuốc men, mỹ phẩm, y phục, (chơi/mua) đồ cổ, tranh cổ, lâu đài cổ, đến hội hoạ âm nhạc điện ảnh, thể thao, đến kỹ nghệ nặng xe cộ máy bay chiến hạm lò nguyên tử (hạt nhân).


Về văn hoá, du lịch họ cũng làm thế giới kinh ngạc, thán phục[6], người Tàu vực dậy ông Khổng Tử mà Mao đã chôn khi làm cuộc cách mạng văn hoá hơn nửa thế kỷ trước. Họ xin lập viện nghiên cứu Nho học khắp nơi trong những trao đổi/chưng bày văn hoá với các nước khác[7] như một thứ áo mão hương xa mời gọi nhiều bí ẩn nhưng che đậy một ý đồ chinh phục...cũng chẳng mới mẻ.


Thế là Mao, Deng đã xây xong một thứ vạn lý trường thành quanh các vùng biên giới mới đông tây nam bắc để “ tự vệ, đề phòng ngoại bang xâm lăng ”


Bức tường này tạm thời chưa khép lại ở phía nam nơi biên giới Việt Trung, con đường và cửa ngõ duy nhất cho Tàu tiếp tục mở rộng biên giới, bởi lòng tham của Mao và con cháu[8], vì sự yếu kém của nước Việt ngày nay.


- Và những đổi thay quan trọng cho thân phận tộc Việt:

Thật ra tuy có đổi thay ngoạn mục sau cuộc chiến[9], nhờ dân số tăng, nhờ sức sống và môi trường thanh bình, nhưng nước Việt luôn luôn nhỏ bé và yếu kém khác biệt về mọi mặt so với Tàu. Lãnh thổ Việt ( khoảng 331000 km2) còn nhỏ hơn các tỉnh Tàu cỡ trung bình như Vân Nam, Cam Túc..;dân số cũng nhỏ bé, của cải làm ra theo đầu người chỉ hơn mươi nước Phi châu, chỉ riêng con đường chính trị và lịch sử cận đại rất giống Tàu :

* chiến tranh giải phóng khỏi tay đế quốc,

* cải cách ruộng đất (miền Bắc rồi cải tạo tư sản miền Nam)[10],

* cuộc nội chiến quốc cộng Bắc Nam[11], chết vài triệu người anh em ruột thịt[12] và 58 000 lính Mỹ ( và một số nhỏ quân dân các nước tư bản bảo vệ miền Nam thời bấy giờ như Úc, Tân Tây Lan, Đại (Nam) Hàn, Thái Lan và Phi Luật Tân...),


* áp dụng chủ nghĩa xã hội (theo định hướng...tư bản, sự thật là kiểu tư bản đỏ vì tất cả quyền lực và quyền lợi nằm trong tay đảng và đảng viên)

* theo đường lối tôn thờ cá nhân ( Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn).

Doanh nghiệp nhà nước Việt luôn thua lỗ[13] chỉ lãnh đạo doanh nghiệp hay thanh tra mới giàu có !

Tình hình bị lệ thuộc Tàu đến mức báo động : người Tàu thống lĩnh (?) trăm sự từ chính trị đến kinh tế, lũng đoạn xâm lấn mọi lãnh vực trong chiều hướng xấu cho người Việt : chi phối các cuộc chuẩn bị chia ghế đại hội đảng, ký kết các hiệp định, hiệp thương bất bình đẳng, tràn ngập hàng hoá đủ loại vừa lợi dụng danh nghĩa xuất ra hàng ra ngoài vừa lấn áp giết chết thương mại địa phương, phá rừng lấy gỗ, làm những dự án với phí tổn cao nhưng vô ích và mang tính chất phá hoại : đào cát lấp sông, xây xa lộ xuyên Trường Sơn, xây phi trường, khai thác mỏ độc bauxite, xây những nhà máy (nhiệt điện chạy than hay nguyên tử với kỹ thuật lỗi thời nguy hiểm, tàn phá môi trường, tạo ra vùng kinh tế hay quân sự trá hình nơi yếu điểm hay trọng điểm chiến lược ngoài tầm mắt của dân Việt, “ cải tạo ” các đảo[14] (hình 3&4) chiếm đóng. Nơi thành phố họ mua đất đai, nhà cửa của người Việt. Đó là những dấu vết bên ngoài, bên trong là những tàn phá nền tảng xã hội và văn hóa, truyền thống Việt qua những viện trợ, trao đổi văn hoá và giáo dục có tính cách lũng đoạn[15]


Đến năm nay thì nhà nước Việt tuyên bố hết tiền, sắp vỡ nợ. Đồng bằng nhiễm mặn vì Cửu Long đã cạn dòng bởi hằng hà sa số con đập người Tàu xây chận nơi thưọng nguồn. Màn kịch sau cùng để nhà Xi giả vờ ra tay nghĩa hiệp (cho mưọn tiền trả nợ trả lương, mở đập nước ban ơn!) hạ xuống nhát dao/phát súng ân huệ? Kết quả kinh hoàng cho người Việt : tài nguyên cạn kiệt, người tài tận tuyệt, văn hoá tan tành, lịch sử là con số không.









Hình 3&4 : Tàu đòi đường lưỡi bò và vùng họ lấn chiếm đảo Việt trên biển từ 1974- 2009.

(Tài liệu wikipedia)


* Phản ứng trước tham vọng ngạo mạn Đại Hán và thái độ nhu nhược khó hiểu của lãnh đạo Việt

Thật ra âm mưu bành trướng về phương nam để thực hiện tham vọng đế quốc này đã được Việt Nam chính thức lớn tiếng tố cáo sau khi quân Tàu đồng loạt tấn công vào các tỉnh biên giới Việt Nam vào tháng 2 năm 1979. Vừa quân lính vừa dân công hơn nửa triệu, họ tràn vào đánh, giết dân Việt, san bằng triệt để và có hệ thống các cơ sở văn hoá xã hội trong thành phố. Các tài liệu phản đối cuộc tấn công này nay vẫn còn được lưu hành tuy lén lút vì chính quyền Việt cấm đoán.


Cuộc xâm lăng đó, mỉa mai thay, đem một chút tin tưởng hão huyền vào sự độc lập tự chủ của nước Việt Nam, vì theo kinh nghiệm lịch sử miền Nam ngày xưa, dù đường ngoại giao tốt đẹp với Đài Loan, Hồng Kông, người Việt (Nam) vẫn luôn tự cảnh báo dè chừng Trung Cộng[16]. Nhất là khi Trung Cộng tiến chiếm Hoàng Sa năm 1974. Năm 1979 có cả những người trẻ Pháp gốc Việt trong Hội người Việt tại Pháp ghi tên tình nguyện về nước đầu quân đánh giặc bành trướng!.


Kháng cự dũng cảm, mạnh mẽ lần xâm lăng thứ 14 này[17], phải chăng là một chút tự hào hay sức mạnh dân tộc còn lưu lại, không lẽ là cuộc chống trả sau cùng của tộc Việt ?


Hơn nửa thế kỷ trước, vào tháng 9 năm 1949, khi đọc diễn văn chuẩn bị xua quân tiến chiếmTibet, Mao Zedong hùng hồn (răn đe thế giới) : chúng ta, tám trăm triệu (800 000 000) người “quyết tâm”. Khi đó ông ta cũng đồng thời bình định Nội Mông, Tân Cương và tiêu diệt cả tàn dư nguỵ gốc Tàu thuộc quốc dân đảng, tư sản mại bản, phản động trong nước Tàu. Cũng như lăm le nuốt Taiwan.


Giờ đây, tuy là một trong 5 nước cộng sản vỏn vẹn trên thế giới nhưng thế giới sẽ tính sao với một tỷ rưỡi người ( Tàu gốc Hán ?![18]) quyết tâm, nhất trí Hán hoá thế giới ?


Thật vậy, công việc bình định và Hán hoá vừa xong tại các vùng đất mới, ông Xi Jingping kế tục Mao, vừa cho phép toàn thể nhân dân “đẻ thêm đứa nữa”[19], chưa tính đến đội quân trong các con ngựa thành Troie khả dĩ trên khắp địa cầu, thế giới này sẽ ra sao nếu họ tiếp tục nhất trí quyết tâm với Xi, nên cần nhớ đến lời Mao nói trên lần nữa.


Tại sao không, nếu tộc Hán “hoà gien “ (với) 6 tỉ người trên địa cầu này để cùng sống đẹp, sống nhân hoà thì chắc ai cũng đồng thuận, khổ nỗi, sự thật lịch sử, các hình ảnh phóng sự về đất nước và con người của xứ vĩ đại này không đem lại ước ao mong được như họ...


Thời đại mới phương cách mới. Trung Quốc muốn mở rộng vùng ảnh hưởng xuống Đông Nam Á, nơi sinh sống lập quốc của hậu duệ Trăm Việt cổ đại, bằng những thủ đoạn khác nhau, từ đường hoàng hợp tác kinh tế, ký kết kẻ cả anh em viện trợ, cổ võ hợp tác nghiên cứu giáo dục văn hóa, đẩy mạnh thương mại (một chiều), làm đường xá, khai thác khoáng sản, năng lượng, cấy dân cư, đề xướng cư dân lân bang đi lại không hộ chiếu, cho đến thủ đoạn then chốt là mua chuộc nhóm lãnh đạo chính trị của các nước này, nhất là Việt Nam theo bằng chứng và lời đồn đại khả tín[20].


Sau khi đưa củ cà rốt (bánh bao), ông Xi (như ông Putin) hươi cây gậy (thiết bảng) cho thế giới xem: quân đội nhân dân Tàu diễn hành với trang bị thiết bị vũ khí tối tân hiện đại, tất cả sẵn sàng chiến đấu “ để tự vệ” với : đầu đạn nguyên tử, hoả tiễn liên lục địa, chiến hạm, tàu ngầm và một đội quân mấy (chục?) triệu, anh nào cũng đánh xáp lá cà giỏi như Jackie Chan, Jet Li (?!). Chưa kể bom nguyên tử[21] Rõ là sức mạnh vô địch : Quân sự, kinh tế, chính trị, văn hoá hùng mạnh.


Trước đó vài mươi năm, quan trọng nhất là năm 1974 và 1988, Mao, Deng chỉ cần giết (74+65 người) hải quân Việt, chiếm được Hoàng Sa, và phần lớn Trường Sa của Việt Nam trong chớp mắt, bây giờ Xi với đội quân khủng khiếp này, mà chỉ bắn súng nước, cắt cáp, cướp máy ghe đánh cá, giết và bắt ngư dân đòi tiền chuộc, vờn ta như mèo vờn chuột. Tại sao ? Có phải chỉ vì Tàu sợ Mỹ sợ Nhật sợ thế giới ? Hay chỉ vì VN đã nằm trong tay họ ? Thật âm mưu cực kỳ đáng sợ. Giá bán của đất nước bốn năm ngàn năm lịch sử, rẻ rúng đến thế ư ?. Quả là sức mạnh vô địch ! Rồi thì sao ?


Làm sao giải thích được tình trạng từ một nước anh hùng nhờ đảng cộng sản lãnh đạo « nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng » thế mà chỉ sau 40 năm phục vụ đồng bào, nay lại « hèn với giặc, ác với dân », từ quyết tâm “đốt được cả dãy Trường Sơn” mà giờ đây không cất nổi tiếng hô « giặc vào nhà », kỵ cả tên gọi giặc? Điều gì đã xảy ra? Chỉ sau hai mươi lăm năm thôi, chúng ta như ông đồ Vũ Đình Liên, ngậm hờn hỏi chiến sĩ nhân tài thiên niên cũ hồn bây giờ ở đâu, để cho hậu duệ Đại Việt của Trăm Việt trên vùng định mệnh[22] tiếp tục bị truy đuổi đến hàng chục thế kỷ sau, đến tận cùng biển đảo? Chế độ này đã làm gì?


Vì sao không dám công bố mật ước và những lời cầu xin được làm một tỉnh hay vùng tự trị của Tàu cộng, sợ gì mà không hé nửa lời cho dân biết?


Vì sao đàn áp triệt để mọi mầm mống tố cáo Trung Quốc xâm lược?

Khi có người nhìn xa thấy rộng, từ hàng chục năm về trước đã nào báo động mất đảo HS-TS-VN, nào kêu gọi nhân dân tẩy chay thế vận hội Tàu, nào phản đối Tàu tuôn vô độ hàng hoá đủ loại, vô bổ, độc hại, mua bán bất chính, và còn ngang ngược đem giàn khoan cắm vào hải phận Việt Nam (chắc chắn không phải chỉ để) tìm dầu khí. Để rồi những người yêu nước ấy bị công an Việt đàn áp bắt bớ. Từ trí thức như ký giả, luật sư, bác sĩ đến thanh niên học sinh thường dân biểu tình ôn hoà chống Trung cộng, thậm chí dân kêu oan vì mất đất ... đều bị nhà cầm quyền Việt trấn áp, giam cầm trong sự thờ ơ lãnh đạm của nhân dân cũng như các cơ quan báo chí nhà nước.


Có phải vì (bị) đảng từ lâu giành giữ độc quyền trên mọi lãnh vực, cho nên dân chúng thờ ơ với chuyện sinh tử cực kỳ của đất nước? Có phải chỉ vì dân đã kiệt sức vì cuộc mưu sinh khó khăn, đã vô vọng trước chính sách phân biệt, kỳ thị, phân chia? Có phải vì Trung Cộng đã mua “trọn gói” các lãnh đạo Việt?


Các hạng lãnh đạo địa phương chỉ còn cách chảy tuôn vào những ngõ hẹp được mở ra theo mật ước, hàng ước, lợi dụng chính sách thương mại hay viện trợ quốc tế hay giản dị hơn : tạo cơ hội cho cắc ké kỳ nhông chia nhau vụn bánh : bóc lột sức lao động, lợi dụng bàn tay thanh niên, và nhan sắc phụ nữ.


Nhân dân hết nước, hết cách chỉ có thể ùa nhau đi làm dâu, đi lao động, trao đổi học tập đàn anh Tàu, ngoan ngoãn, choá mắt trước đất nước bao la giàu có này cho dù nó mắng mình con hoang, vô ơn bạc nghĩa. Cho dù nó bôi bác chiến thắng và anh hùng, tiết lộ (sự thật?) về chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 và Sài Gòn 1975, về cả nguồn gốc Tàu (khả dĩ?) của lãnh tụ Việt.


- Tuy nhân dân vất vả xoay sở bươn chải để sống còn...

Đến khi anh em Đoàn Văn Vươn, cựu chiến binh quân đội nhân dân VN dân chủ cộng hoà, nổ súng (tự chế) bắn vào đội quân đi cướp đất phá trang trại... Đến khi có các tổ chức nhân quyền ngoại quốc lên tiếng... Đến khi có không ảnh Mỹ cho thấy Tàu xây căn cứ, sân bay trên các đảo chiếm đóng, vận chuyển lính cải trang làm ngư phủ...bắt, giết, cướp cả dân chài Việt thì ngài Thủ tướng mới đọc diễn văn đem chút hy vọng viển vông rồi cũng ngài tiếp tục cho công an đàn áp, bắt bớ. Ngài còn tuyên bố quyết tâm giữ gìn tình láng giềng hữu hảo lo giải quyết song phương như ông to nào đó cho biết : biển Đông phẳng lặng hai kinh vững vàng [23].


Trong khi đó người Tàu tiếp tục ra vào nước Việt như vào chỗ không người, lãnh hải, không phận, trên diễn đàn quốc tế, họ ngạo mạn tiến tới. Vừa ăn cướp vừa la làng


Còn sao nữa : sơn hà Việt Nam nguy biến ! Nghe cải lương và nhàm tai (phản động) với người ham thân phận chư hầu hay phù Tàu, nhưng đó là sự thật theo cái nhìn thuần Việt

Tiếng dân thật nhỏ, thật yếu ớt, còn triều đình thì toàn là hình tướng Lê Chiêu Thống, Trần Di Ái, Trần Nhật Hiệu...!


Không lo, không sợ sao được khi ngườiViệt còn bị duy trì mãi trong tình hận phân chia quốc nội / hải ngoại, Nam/ Bắc, không nhìn thấy hậu ý gian tham của kẻ thù truyền kiếp.


Không buồn sao được khi nghe thấy dồn dập những tiếng kêu của Bùi Thị Minh Hằng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Phương Uyên, Thanh Nghiên, Mẹ Nấm, Thục Vy, Đoan Trang, Trần Thị Hài, Cấn Thị Thêu, ... như những đóa hoa giữa một rừng gươm ! Không lo sao được khi thấy Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Văn Đài, Việt Khang[24], ....bị tù chỉ vì nói lên mối ưu tư, đề nghị một chương trình cho đất nước tiến lên. Và bao nhiêu người khác bị bầm dập tù đày chỉ vì muốn vẫn là con cháu Việt tộc còn nhớ ơn tiên tổ.


- ...lại thêm hoang mang lo sợ...

Không sợ sao được khi ông Xi Jingping được đảng csVN trải thảm đỏ rước vào quốc hội người Việt, đọc một bài diễn văn[25] cho mấy trăm dân biểu do đảng cử (đại diện 3 triệu đảng viên) và họ đã nhất trí đứng lên vỗ tay hoan hô nhà Xi như đảng biểu, không một ai ngồi yên hay dám bỏ ra ngoài tỏ ý phản đối (như hy vọng của vài người Việt mơ màng viển vông). Bỏ ra ngoài phòng họp để bày tỏ sự bất bình hay trái ý là điều thường thấy tại nghị viện đa số các nước dân chủ trên thế giới. Nhất trí hoan hô những lời giả dối và ngạo mạn. Hai tiếng nhất trí lý tưởng và lạ lùng, thường trực này chỉ có ở đất nước độc tài, cộng sản, vào những lúc nguy nan.


Hoan hô ông Xi vì ông ta trân trọng nhắc nhở nhân dân Việt Nam trong bài diễn văn, phải thực hiện các khẩu hiệu 16 vàng, 4 tốt, cũng như các bài diễn văn của các ông Tàu khác Jiāng Zémín, Hú Jǐntāo (trước đây tại Thành Đô ) giao cho các ông Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn văn Linh, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh...mang về VN khuyến dụ nhân dân, nhưng điều đặc biệt là ở đây ông Xi pha trộn thêm nước...đường (thi và ...Mao tập lẫn Hồ thi[26] : cùng nắm tay nhau, nhìn về một phía...Giải quyết song phương nghĩa là theo một hướng mà thôi, hướng của kẻ mạnh...) cho nên tuy vẫn là các khẩu hiệu nhàm chán sắt đá kẻ cả, vẫn là cuộc ép duyên thô bạo, mà con mắt, lỗ tai Việt (lãnh tụ, đại biểu đảng viên ?) thoạt đọc, thoạt nghe, lại ra nhiều du dương, lắm ngọt ngào, hứa hẹn. Ngọt ngào, hứa hẹn, ru ngủ đến đáng ngờ. Qua lại thăm viếng... học tập, trao đổi...bình đẳng đến ớn lạnh xương sống[27]. Nếu là người Mỹ, Pháp hay Thụy Điển, Hoà Lan, Nhật Bản mời mọc hứa hẹn như vậy, cam đoan dân Việt xuôi tay chân mà đi theo, còn ở đây với hậu duệ Trọng Thuỷ, con cháu Hùng Vương không thể không bàng hoàng e ngại, ngờ vực. Không sợ sao? Không buồn sao?


Ngài sang tận đất Việt nhắc nhở. Lời nhắc nhở khuyến dụ sau cùng vì cam kết đáo hạn hay vì ngài muốn nhắc lãnh đạo Việt mau mau diễn tập màn kịch sau cùng?


Hay chỉ vì vua Tàu này muốn nhanh chân hơn tổng thống Obama? Kế hoạch gì đây hay đoạn kết màn vờn chuột sau cùng? Kịch bản lớp lang soạn trước, ve vuốt dân Việt như con sói già và cô bé quàng khăn đỏ? Nhiều câu hỏi đặt ra cũng vì thật sự có người e tộc Hán mượn đường (Việt) chống xâm lăng (Mỹ?).


Thật vậy, trong áng văn mà người Việt có thể gọi là bài ru điệu bắc (...cục), ông Xi thiết tha hùng hồn gom Tàu và Việt vào một chủ (từ) chung cho vô số cận cảnh, viễn cảnh, một Trung quốc-Việt Nam, hai Trung quốc-Việt Nam, gắn bó thân thiện, như thể nước Việt to bằng nước Nga, nước Mỹ, hay Ấn Độ.


Tàu -Việt song hành NHƯ MỘT NƯỚC, trí tuệ dày, tri thức cao (chắc cao to cỡ Thiên San, Hoàng San), đồng lòng lên đỉnh Thái Sơn nhìn xuống : “một con đường một vành đai ”, “ hai hành lang, một vùng kinh tế ” : vòng đai biên giới mới từ Tây Tạng đến lưỡi bò biển Đông?. ngàn vàng để mua láng giềng [28] mở rộng một thế giới...Hán. Người ngây thơ sẽ phỗng mũi và tin sái cổ.


Nhưng nước Việt không sao sánh vai ngang hàng với các nước kể trên, về nhiều mặt. Nước Việt chỉ có một thứ của cực kỳ quý hiếm đáp ứng ước mơ đại Hán : cửa ngõ nhìn ra biển, con đường đưa hàng và người Tàu tràn ngập Đông Nam Á và thế giới, để người Tàu dễ chiếm lĩnh vai trò chủ nhân mọi châu mọi đại dương trên trái đất này. Ham tiếng thì ông Xi cho tiếng và dân Hán lấy cái miếng. Chữ vàng chữ tốt và vài tỉ đồng bọt bèo để công ty làm đường hạng bét của TQ sang xây dựng (một cách phá hoại). Người đã ăn tiền sẽ gật gù khám phá thế là không sướng sao, tiếp tục ngậm miệng ăn tiền, làm tòng phạm vung vãi chút vụn bánh mua chuộc, dụ dỗ những hòn gạch tiếp tục lăn lưng xây vạn lý trường thành xâm lấn.


Láng giềng gần gũi qua lại, tay trong tay thành một khối, đến năm 2020, sau các chi tiết hai bên cam kết thi hành[29], Xi sẽ bắt tên láng giềng hảo ngọt, cựu chư hầu/anh em không cùng gốc, không cùng gien “hoà bình” này ký một thứ hiệp ước rõ ràng, khác với các mật ước trước đây, một thứ hiệp định kiểu Tàu –Tây Tạng hơn nửa thế kỷ trước[30], giờ đây sẽ giúp tộc Hán mở rộng thêm một phần tư lãnh thổ nữa về vùng biển.


Vùng biển Đông sẽ là một thứ Đông (Tây) Tạng tự trị , giúp Tàu mở rộng thế giới Hán ra toàn vùng đông Nam Á, trị giá tương đương với Tây Tạng. Viễn ảnh kỷ nguyên mới này quả thật là một cục đường, một cái bánh khá bự cho người hảo ngọt. Dân Việt ngoài đảng chưa nếm nhưng lắm người đã nghe bùi tai, miệng lưỡi, tim gan chưa chi đã thấm thía ngất ngây ...hương vị ảo. Nhưng tất cả chúng ta không phải là người hảo ngọt, ngây thơ hay là những lãnh tụ (không được dân bầu) hiện tại[31].


Cho nên không phải đợi ông Xi hùng hồn du dương vừa ru vừa doạ, xin nhắc lại từ hai mươi năm trước đã có những tiếng kêu sơn hà nguy biến, lẻ loi nhưng vang dội. Tàu đã chiếm rừng chiếm đảo, đã xây đồn đấp lũy cấy gián điệp trong lòng đất Việt Nam, cấy sinh tử phù trong lòng người Việt, cài bùa ngải, thuốc độc trong thức ăn, xây nhà máy huỷ hoại môi trường sống cư dân lân cận, thì chuyện diễn văn nhiều cục nhiều hòn này chỉ là hoả mù che mắt thế gian, một lời thách thức ngạo mạn, coi mấy chục triệu người Việt như không có. Chỉ vài mươi năm nữa thôi, chúng mày sẽ trở thành thiểu số ngay chính tại quê hương của chúng mày, chúng ta là một là thế đó. Cùng nhau sinh sôi nẩy nở, cái gien Hán hoà bình !


-... bắt đầu định thần và lắng nghe, xích lại gần nhau...


Bloggers thường dân và trí thức trong nhiều ngành văn hoá, học thuật trong ngoài nước Việt, dù không ai cử, không ai bầu, không hảo ngọt, đã vạch rõ cái hậu vị dụ dỗ răn đe. Vừa ra khỏi đất Việt, Xi đã lấy lại giọng ngang ngược. Thì ra cái cục to của ông Tàu này càng lộ thêm chân tướng ngạo mạn gian hùng khi ông ta khiêng nó qua các nước anh em (thứ thiệt?) của mình. Với anh em Đài Loan, Tân Gia Ba, ông Xi không ngần ngại khẳng định: biển Đông là của ta, tức của giống Hán chúng ta, như một hứa hẹn chia nhau bánh (thiệt), như một lời chửi xéo, như một tiếng răn đe gởi tên láng giềng hữu hảo mà đã hơn một lần phản bội khó tin[32].


Nếu Trường Sa Hoàng Sa là của ông Xi vào thời cổ đại thì thiên hạ sẽ hùa theo thừa thắng xông lên đòi nước Mỹ cho nước... Anh; Brésil cho Portugal; Quảng Đông, Quảng Tây cho Nam Việt, Tây Tạng cho dân Tibet, Ning Xia cho dân Tây Hạ, Tân Cương cho dân Uyghur ? Và tại sao không, người Châu Mỹ...nên đòi về cho họ cả thế giới này, từ châu Phi qua châu Âu và sang đông, trung, nam Á, chỉ mới vài mươi ngàn năm chứ mấy! Của tiên tổ họ để lại dấu chân, xương xẩu từ thời cổ đại thứ thiệt[33]!. A, thì ra đại cục này còn lâu mới là cục đường.


Giúp xây cầu làm đường tại Việt Nam hay bất cứ nước nghèo nào tại Phi Châu, Pakistan, Bangladesh...là giúp (hoặc đầu tư) phương tiện chuyên chở hàng hoá buôn bán. Thế kỷ toàn cầu hoá, thì khai thác đường biển, đường hàng không, đường bộ, cải cách truyền thông, luật lệ buôn bán, mậu dịch, trao đổi văn hoá là việc phải làm cho bất kỳ quốc gia nào muốn mở mang và sống còn, nhưng với kẻ mạnh thì người Tàu thương thuyết đa phương nhiều chiều, với đứa yếu thì khi doạ nạt khi mềm dẻo dụ dỗ thương thuyết song phương. Rõ ràng họ chỉ muốn lấy phần lợi cả về mình, ngạo mạn, tham lam, chèn ép nước bé, chủ trương lấy thịt đè người, dương oai sức mạnh tiền tệ và bạo lực quân sự, đi ngược đạo lý và nhân cách con người[34].


Của đáng tội, thật ra như đã nhắc trên đây, các bloggers (và cả một ông nghị trong số 500 người vỗ tay) đã cho thấy màn ru điệu bắc này cũng có vài nốt trật đường rầy, tố cáo dã tâm của chủ nó[35]: đòi đãi ông Xi gỏi cá Bạch Đằng hay dãi yến Trường Sa với lời cảnh cáo coi chừng nhé : chui ống đồng, mang số phận của Vương Thông, Liễu Thăng, Tô Định, Thoát Hoan...


Nhìn những im lặng khấu đầu của các cột trụ tự giành nhiệm vụ bảo vệ quê hương, dẫn dắt nhân dân, lắm lúc, dân hoài nghi lãnh đạo mình đang diễn màn Câu Tiễn. Không phải sao khi Lê Duẩn nói ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc...thật sự câu nói đầy đủ của ông ta là ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc và cho nhân loại, cho xã hội chủ nghĩa....và sau đó chính ông ta cũng đã nói[36] điều ngược lại ? Cái lưỡi không xương hay Câu Tiễn thật sự đã trở thành Lê Chiêu Thống ?


Cho dù ngay từ khi đi xuyên qua Hà Nội (chạy /chẩu hơi lẹ làng chứ không chậm chạp thẩn thơ bát phố bắt tay dân, ăn phở như Clinton năm nào) trong 21 tiếng đại bác, có thể họ Xi không thấy được tận mắt sự “vô cảm” của nhân dân thủ đô đối với ông ta (và đối với cả tiền đồ dân tộc). Không thấy cả hành động không nương tay của những người “anh là ai mà sao lại đánh tôi ” để ông ta có thể cất giọng hát ru điệu bắc...


Tôi ở đây là những (vài trăm?) người cả gan xuống đường hô lớn No Xi, No U. Cả hai miền Nam Bắc chỉ bấy nhiêu anh hùng đã oai dũng cất tiếng kêu, tự triệu tập hội nghị Diên Hồng không có vua[37]. Bô lão, thanh thiếu niên đây rồi. Còn triều đình ở đâu ? Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Trần Khánh Dư, Trần Bình Trọng là ai ? Còn hy vọng nào không?


-...rồi hy vọng sẽ vươn lên...


Chuyện một ông giáo sư (dỏm?) nửa Tàu nửa Việt bị chê cười nhạo báng trên mạng, vì đã bỏ họ Việt lấy họ Tàu, vì viết câu đối nửa Tàu nửa Việt, nửa “sáng tác” nửa vay mượn, viết tự điển Việt sai be bét, bỏ áo the thâm choàng cái áo gấm Tàu đỏ lòm khiến vô số người trong đó có tác giả bài này, tin rằng vận mạng Việt chưa đến hồi tận tuyệt.


Làm sao mà không đau lòng xót xa khi thấy những cô gái Việt đẹp đẽ mảnh mai rúm ró e dè bên những anh Tàu mập mạp (cho dù là Tàu Đài Loan hay Đại Hàn tròn trịa, cho dù là Nam Hàn hay Singapore) ? Nhưng hy vọng cũng nhóm lên khi nghe thấy đó đây những lời kêu cứu, cảnh tỉnh, cứu hộ, những trường hợp ngoại lệ xác nhận tình trạng chung.


Làm sao không xấu hổ, thương hại khi có những người Việt đủ lứa tuổi, đủ thành phần xã hội, từ công nhân đến giáo sư, từ con ông cháu cha đến du học sinh, từ phó thường dân đến quan ngoại giao đi ăn cắp ở xứ người hay vi phạm pháp luật sở tại một cách hồn nhiên đến trắng trợn. Ăn cắp từ hũ kem, cây son đến hoá chất, vàng bạc kim cương, sừng tê giác. Buôn lậu thuốc lá, thuốc men làm giả, giết người, buôn người, ăn trộm chó mèo ăn thịt, trồng/ bán cần sa[38] v...v...Nhân cách con người, lương tâm, giấy rách giữ lấy lề có hay không, nói chi đến tự hào dân tộc ? Nhưng khắp nơi cũng có những tài năng nổi bật như một chút phân bua, giải lý hầu kéo lại tẻo teo cân bằng, cũng là tia hy vọng le lói giữa bóng đêm bi phẫn.


Một ông tướng (lai Tàu?) bị răn đe (mất tích một thời gian, rồi trở về với lời đồn bị thay tim, thay não?) vì đã “ âu lo” cho một nước Tàu không được dân Việt mến yêu; việc này khiến một số lớn trong chúng ta có thể hát bài “tôi ơi đừng tuyệt vọng”.


Những người trẻ và không trẻ bị nhà cầm quyền bắt giam vì đã dám hô lớn Trường Sa Hoàng Sa là của Việt Nam, dám đòi “ Tàu khựa cút đi “, và vài người được thả ra sau những ngày tháng bị giam cầm đày đoạ, tuy khoảng phân nửa sau đó bị chết vì kiệt sức (hay vì bị đầu độc) phân nửa bị tạm tha hoặc đày ra ngoại quốc, những người trẻ tuổi dân thường hay con cháu công thần dám kêu lên SƠN HÀ NGUY BIẾN khiến ló dạng một ánh sáng cuối đường hầm/ nổi lên một cơn gió lạc quan khiến cho vài (trăm? ngàn? triệu?) trong đa số thầm lặng đã mơ hồ ấm lên lạc quan và hy vọng.


Trước đây nhà cầm quyền giật thư, đạp xe, vu oan tội hình sự, gây tai nạn chết người, rồi bây giờ chỉ biết ném phân, liệng đá, vứt mắm thối vào nhà người phản kháng, bây giờ thuê du côn (Tàu?) đánh chém người đòi tự do, dân chủ. Quấy phá đám tang, đám cưới nơi tư gia các vị tù nhân lưong tâm hay nhà dân chủ, thậm chí ôm nhau nhảy điệu Tàu để làm rối loạn lễ kỷ niệm anh hùng Hoàng Sa Trường Sa, bọn khuấy phá này chỉ có thể là ...gốc Hán, mới không tôn trọng lễ nghĩa ttruyền thống Việt. Càng ngày càng xuống ...nước, phải chăng là dấu hiệu ...hết tiền của nhà nước ? Không thể hy vọng được sao ?


Có những người Việt 70 đến 90 tuổi, trí thức hay phó thường dân, thất phu hay đại trượng phu, kẻ sĩ, nghệ sĩ, từng là công thần, là nguỵ dân/ ngụy quyên /“ phản động “, đã từng trước đây say men chiến thắng hay đớn đau chịu đựng chiến tranh thảm khốc, từng trải qua các cuộc vượt biên kinh hoàng/,đổi đời oan ức và cho dù giờ đây sống đời an lành hiện tại trong nước cũng như ngoài nước Việt, vẫn không ngần ngại nói/ viết/ gởi gấm tiếng kêu sau cùng trong những bức tâm thư/ hồi ký, trả sự thật cho lịch sử....Họ nói lên tấm lòng tha thiết với quá khứ và với tương lai quê hương đất tổ. Ai trong chúng ta có thể không rưng rưng cảm động trước những bô (beaux) lão[39] này, nghe khơi dậy niềm tin nơi đồng bào/dân tộc?.


Tuy các cảm nhận và phản ứng có khác nhau về biến chuyển tình hình đất nước nhưng các đợt sóng ngầm, những cơn gió này sẽ làm thành ngọn sóng thần đổi mới cuộc sống (đmcs :-) ) và thành cơn bão quét xâm lăng, đưa đất nước ra khỏi vực thẳm diệt vong.


Bài này là một gợn sóng bé nhỏ, một chút gió đìu hiu mong muốn góp phần trách nhiệm.


Dĩ nhiên “ bên kia bờ ảo vọng”, vô số những người (thực dụng? nhìn xa?) vội vàng đi học chữ Tàu, cho con cái đi du học bên Tàu, và có người đổi họ Tàu, như nhà thông thái dỏm kể trên. Lắm người không những chỉ muốn “ nhập Hán ” mà còn dám nối giáo cho giặc, làm gián điệp, làm nội tuyến, dám tin tưởng rằng người Tàu là tổ tiên người Việt, trở về mái nhà xưa là châu về hiệp phố bởi vì sử đã chẳng ghi Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ cháu Đế Lai, người Tàu[40]?. Bởi vì chẳng lẽ không có bàn tay Tàu trong ý định muốn xoá (đi môn) lịch sử trong chương trình giáo dục, nghĩa là bỏ những trang sử nhắc nhở rằng người Việt không có gốc Hán, nhắc nhở rằng người Việt đã kháng cự giặc Tàu suốt mấy ngàn năm, đã trường kỳ khẳng định sắc tộc riêng với vùng đất vùng trời mình sống từ bấy lâu nay?


Sự sùng bái thiên triều này, cha ông ta cũng đã có từ xưa nhưng luôn giữ được khoảng cách tự trọng. Chuyện gì đã xảy ra ? Ta mất gì ? Còn gì ? Làm sao qua được cơn nguy thập tử nhất sinh này ? Nhắc ai xin gởi đôi câu, đừng mê số kiếp chư hầu Hán nô.


Đừng ham thân phận chư hầu

Tấm gương Tạng -Hồi -Mông -Mãn trong các vùng tự trị Trung cộng


Các cường quốc khi xâm lăng nước nhỏ và nghèo trong thế kỷ 16 đến 20 thường dùng chiêu bài : Mượn đường buôn bán, thám hiểm, đem văn minh văn hoá tiến bộ, phát triển tôn giáo, nhưng mục đích tối hậu chẳng hề khác nhau từ Âu sang Á tới Mỹ [41] : các đế chế xưa Hoà Lan, Tây Ban Nha, Pháp, Anh...






Hình 5 : Bản đồ Tàu đời nhà Qing (Thanh) do Pháp vẽ năm 1735.


cướp tài nguyên, dầu hoả, vị trí chiến lược, hải cảng bán buôn giao dịch. Nhưng hai thế chiến đã xảy ra để họ điều hoà vị thế và chia nhau chiến lợi phẩm trong chừng mực nào đó. Đồng thời những ánh sáng lương tâm và tâm thức, nhân cách con người cũng trưởng thành sửa đổi...


Riêng mưu đồ bành trướng có từ thời...cổ đại của tộc Hán, ở thế kỷ 21, với hành trang chế độ cộng sản, tuy chế độ này là hậu quả của chủ nghĩa tư bản đế quốc, vẫn sống hùng sống mạnh và cũng chẳng đưa ra bài bản gì mới hơn : Giải phóng ra khỏi tay xâm lăng. Mượn đường đánh kẻ thù, giúp đỡ, hứa hẹn mang lại văn minh, cho phép tự do tôn giáo, tôn trọng bản sắc văn hoá. Ý định tốt đẹp hữu hảo này thật ra cũng bởi tại láng giềng tuy nhu nhược, kém cỏi, nhưng lại có đất rộng, lắm tài nguyên, quặng mỏ, lại thêm dân thưa, không thể tự vệ.


Các điểm trên là chính sách nước Tàu tuyên bố và ghi rõ trên giấy trắng mực đen dành cho các vùng tự trị Tibet, Hồi (Tân Cương), Mãn Châu, Mông Cổ và Ninh Hạ mà đa số bị Tàu chính thức hoá (thành vùng tự trị) ngay sau đệ nhị thế chiến.


Người Tàu áp đặt chánh sách Hán hoá khắt khe trong thời gian đầu tại các nước này, tàn sát tiêu diệt kẻ chống đối, vô hiệu hoá các tiềm lực phản kháng. Dân gốc Hán, đủ loại đủ cỡ tràn vào đè bẹp dân tộc vùng tự trị. Một số nhỏ dân bản địa được o bế, dụ dỗ, cho hưởng quyền lợi, bổng lộc để tiếp tay người Hán bình định đối kháng, có thể chiếm giữ những địa vị quan trọng về ngoại giao, quân sự, kinh tế, nhưng cho dù địa vị có cao sang quan trọng đến đâu cũng vẫn thua kém dân Tàu gốc Hán một bậc. Kết quả nhãn tiền hiển nhiên là đa số này quên hết cội nguồn, chỉ nói được một thứ tiếng Tàu chính thống vào bốn mươi, năm mươi, sáu mươi năm sau. Và tuyệt đại đa số thường dân bản địa được khuyến khích giúp đỡ để học...nghề tay chân trong nông nghiệp, công nghiệp, họ được khuyến khích (thật ra bị ép buộc) làm lụng nghề tay chân hơn sử dụng trí óc học hành thật nhiều, thật sâu. Lo tất bật kiếm sống thì đầu óc, sức lực còn chỗ đâu mà biết lịch sử nghìn năm xưa và đấu tranh đòi hỏi quyền bình đẳng.


Khi Mao, Deng (XiaoPing), Xi (JingPing) giả vờ hay thật sự nới tay (cho thêm quyền tự trị, ngôn ngữ, đi lại...) thì dân Tibet, Tân Cương, Mông Cổ...đã trở thành thiểu số trong chính quê hương mình; những thế hệ trẻ được Bắc Kinh nuôi dưỡng giáo dục từ nửa thế kỷ về trước, lần lượt trở lại quê cha đất mẹ (như/với bọn hồng vệ binh Hán và em cháu tương đương) đốt chùa phá tự viện, quên hết văn hoá tiền nhân, quên cả tiếng mẹ, và nhất là vô tôn giáo. Gien Hán được cấy vào cuộc sống và trên giấy tờ cho những dân bị trị này. Để rồi khi nước Tàu lâm chiến với các lân bang mới, tạo biên giới mới, thì chính những công dân hạng hai này sẽ là đội quân tiên phong làm sát thủ, đi làm cả bia thịt, tưởng mình mang sứ mạng bảo vệ quê hương và chủ nghĩa xã hội trong khi tộc Hán được an lành làm rốn vũ trụ, lưu truyền gien Hán, giữ địa vị then chốt, nắm quyền quyết định tối cao trong guồng máy cai trị trung ương lẫn địa phương.


Người Tàu đã hát ru, hứa hẹn cho dân chúng, nhất là người lãnh đạo các nước Tây Tạng (Tibet Hiệp định 17 điểm[42]), Tân Cương, Mãn Châu, Mông Cổ ..trước khi dùng thủ đoạn và bạo lực tiến chiếm các nước này. Với mức độ khó khăn khác nhau, nhưng họ luôn thành công.


Thành công này chỉ có thể trọn vẹn khi họ chiếm cả vùng Đông Nam Á, bắt đầu là Việt Nam (và Lào, Kampuchia). Tiến chiếm cả thế giới, làm chủ trái đất này có lẽ là mục đích tối hậu, khi đó mới đáng gọi là Trung Hoa. Nhưng nghĩ cho cùng, mục đích tối hậu của họ mai kia phải là chiếm cả vũ trụ !


Ngày ký hàng ước mật Thành Đô, các ông lãnh tụ Việt ấy, chưa hình dung được vai trò cửa ngõ Đông Nam Á, chứ nếu không đã dám cả tiếng hơn, xin được làm vạn miles trường thành Đông Hải...Tạng vùng tự trị thứ sáu thuộc ...Hán tộc miền nam cho oai.[43] Nhưng thâm tâm họ, phải thấy là sai nên không dám công bố cho nhân dân, y lời cam kết với chủ, giữ bí mật, bỏ lũ dân ếch vào nồi nước ngọt, chất củi than, đợi đến 2015 khi ông Xi sang châm ngòi, mới nổi lửa ?


Nhưng thử nhìn lại tình trạng kinh tế các nước chư hầu hiện nay nơi các vùng tự (bị) trị của Tàu và các tiểu quốc thuộc Liên Xô cũ, đa số đều nghèo, mức sống thấp, khác xa với trường hợp các nước tự trị trong Khối thịnh vượng chung Vương quốc Anh (commonwealth realm)[44] tuy xưa vốn là thuộc địa nhưng đa số sung túc, tự do, dân chủ như Úc, Gia Nã Đại, Tân Tây Lan...




Hình 6 : Đường biển, ngõ ra vùng Đông Nam Á


Nhưng không biết vì muốn thoát nghèo nàn hay vì thật sự thèm khát tự do mà ngay khi xã hội chủ nghĩa sụp đổ tại châu Âu, các nước trong khối Liên Xô lập tức tung cánh ra khỏi vòng tay xã nghĩa xô viết.


Chuyện này không xảy ra cho các nước chư hầu Tàu, có thể vì các thuộc địa cũ hoàn toàn bị đồng hoá, hay bởi Tàu dùng bạo lực đè bẹp những cuộc nổi dậy lớn nhỏ đòi lại độc lập. Các cuộc nổi dậy được chính quyền trưng ương Tàu gọi là phản động đòi ly khai, tuy thường xảy ra trong suốt thời gian từ buổi đầu đến nay nhưng không nhiều tiếng vang và kết quả. Các nước Tây Tạng, Tân Cương và Mãn Châu, nay chỉ còn là những dân tộc thiểu số, bị Hán hoá, mất cả tiếng nói, quyền tự chủ, chỉ còn là một thứ folklore địa phưong, mỗi năm vài lần, áo mão đẹp đẽ múa men hát hò than van hay sung sướng cưỡi ngựa tranh cầu, trước ống kính thế giới. Đa số đều nghèo kém hơn người tộc Hán, đôi chút thay đổi ngày nay có được cho vùng Tân Cương, vì trở thành hầm/vựa rượu[45], Tibet vựa nước, Mông Cổ mỏ vàng mỏ uranium, Ningxia gương mẫu ...Và trong lãnh vực sông Hoàng Hà trở xuống cực nam, là vùng Bách Việt ngày xưa [46] thì sự đồng hoá đã đến tận xương tuỷ, đa số đều quên ngọn nguồn Bách Việt hay không Hán. Những người dân hạng hai ấy, triền miên bị đè đầu đè cổ, tuy luôn luôn có những cuộc vùng dậy trong suốt quá trình " tự trị " này, bởi vì họ góp phần làm giàu cho tộc Hán mà không hề được hưởng, nhưng đồng thời, ý chí tìm lại tự do, tự chủ và bản sắc sẽ bị pha loãng, lụi tàn, biến mất theo thời gian.


Họ là những " gương tày liếp " cho chúng ta nhìn vào, trước khi mọi sự trở nên muộn màng, xin đừng chờ nước sôi lên mới nghe nóng, xin hãy lắng nghe lời các bô lão, trí thức, sinh viên, nhà báo…những người hiếm hoi này sẽ cứu nguy dân tộc nếu chúng ta cùng ủng hộ, tiếp tay, đồng lòng tham gia thứ hội nghị Diên Hồng dân dã ngàn năm một thuở để giải cứu đất nước, vì giặc dữ đã vào nhà mà chúng mạnh hơn ta cả trăm, ngàn lần.



Hình 7 : Quyền lực mềm của Tàu cộng : mọi lũ ếch ngây thơ sẽ tà tà chín rục (chết tươi) với củi lửa của chính mình?


Họ là dân Ouighur, Tây Tạng, Choang- Hmong- Mèo..., Mãn Châu, Hồi, Mông Cổ sống ở vùng đất biên thuỳ mới (tân cương) được gọi là tự trị. Người Tàu đặt tên cho các vùng tự trị theo tên các dân tộc thiểu số, trừ vùng người Hồi ở Ninh Hạ.






1) Người Duy Ngô Nhĩ ( Ouïghour/Uyghur ) của vùng Tân Cương (Khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương)


Các hình ảnh thuyền nhân bị đắm tàu được cứu vớt ở Ý hay các di dân nhập lậu qua đường bộ bất chấp hiểm nguy được đưa ra thường xuyên trong thời gian gần đây trên các mạng lưới truyền thông khiến dân Âu Châu xúc động. Các chính phủ trong cộng đồng này phải tìm cách giải quyết khẩn cấp.


Người tỵ nạn chạy trốn đàn áp, chạy trốn chiến tranh chết chóc. Đa số dân chúng, và người trách nhiệm tuần tra biên giới các nước đều thông cảm và nhiều khi phải làm ngơ cho qua, hay ra tay cứu vớt người vượt biên vì họ hiểu được nguồn cội, nguyên nhân của những quyết định vượt biên tưởng như điên rồ này.


Và đa số người Việt chúng ta không khỏi quặn thắt cõi lòng, nhớ lại những chuyến vượt biên gian nan của chính mình hay của người thân, của bạn bè, hàng xóm trong những năm 75, 80, 85, 90.


Từ vài năm gần đây dân Uyghur (Ouïghour/Duy Ngô Nhĩ) được cộng đồng mạng nhắc đến trong tình trạng khốn khó, hiểm nguy mà đất nước gây hoạ cho họ là Tàu: dân Uyghur bị mổ lấy nội tạng, bị truy đuổi, bắt giết ở vùng biên giới các nuớc láng giềng của Tàu như Việt Nam, Thái Lan và cả Cam Bốt nữa. Những hình ảnh đàn bà trẻ con bị truy đuổi này khiến thế giới chấn động, và ...rơi vào quên lãng ?


Khi biết người Duy Ngô Nhĩ chính là hậu duệ của Tây Độc Âu Dương Phong, có lẽ các thế hệ sinh ra trong những năm 1980, 1990 mê phim Tàu, phim Đại Hàn, nhất là người thành thị miền Nam (trước 1975) sẽ lưu ý đến số phận của người Duy Ngô Nhĩ. Vâng, chính người Duy Ngô Nhĩ là đồng bào của tác giả thế Hàm Mô Công vô cùng quen thuộc với người xem truyện kiếm hiệp Kim Dung[47]. Trên mạng nhiều blogger phân tích truyện, ý nghĩa và cá tính các tay giang hồ giỏi võ tuyệt vời độc đáo, tung hoành (một thời tại Sài Gòn, Chợ lớn) trong Võ lâm ngũ bá, Anh hùng xạ điêu.... Và « nỗi băn khoăn » của chúng ta bây giờ, giản dị, không mang màu triết lý, khác với Nguyễn Mộng Giác cách đây gần nửa thế kỷ[48], ta chỉ hỏi tại sao những người này mang gia đình con cái, vượt biên Tàu, trốn qua Việt Nam, Thái Lan để bị công an, quân đội Tàu truy nã, bắt bớ, bắn giết ?


Họ là người Hồi nói tiếng Thổ đến từ vùng tự trị Tân Cương trong nước Tàu. Là ngôi sao Hồi trong cách diễn dịch thứ hai về ý nghĩa các sao trên cờ Trung Cộng : Hán (sao to nhất )Tráng Mãn Hồi Tạng là bốn sao nhỏ xung quanh để chỉ 4 vùng tự trị lớn nhất[49]


Từ thời lập quốc ở vùng Tây Vực, nay là Tân Cương, như các tiểu quốc khác, dân Ouighour đã có mối giao hảo sóng gió và an lành với Tàu, xưa kia quê hương họ mang tên Tây vực đô hộ phủ và từ đời Đường : An tây đô hộ phủ và Bắc Đình đô hộ phủ : như nước Việt thời xưa, người Ouïghour cũng từng nhận sắc phong của đế quốc Tàu, thời ấy nước Việt đã thuộc Tàu (Bắc thuộc lần thứ 2 : An Nam đô hộ phủ ), cũng như nước Cao Ly (Triều Tiên, Đại Hàn bây giờ) lúc đó là An Đông đô hộ phủ. Nhân đây xin nhắc là trong các nước chư hầu cổ xưa của Tàu chỉ có Đại Hàn sau này dù chia đôi nam bắc, trở thành nước độc lập hùng mạnh, cho nên Xi chưa đòi đứa con (giàu có này) trở về với Hán tộc.


Cho nên lưu ý đến họ thật ra không chỉ vì lý do hời hợt liên quan đến cảm tính như nói trên và cũng không chỉ vì nỗi ngờ vực : có phải họ mang hình ảnh của số phận người Việt trong tương lai -từ sau năm 2020- ? Thật vậy, như người Việt, họ cũng nhiều lần nổi dậy chống Mông Cổ, chống Tàu dành lại độc lập, lần sau cùng chưa xa lắm, khi họ đẩy được người Mông Cổ để rồi rơi vào tay của MaoTrung Cộng.


Thật khó lòng không liên tưởng đến hiệp ước mật Thành Đô với những câu chữ u ám lường gạt đã được nhân dân sửa lại cho đúng hơn[50].


Ai, nhất là người trải qua gian khổ vượt biên hay tị nạn chính trị, khi xem qua các hình ảnh phóng sự, cũng phải chua xót trước cảnh người Ouïghour bị quân Tàu truy nã, rượt đuổi từ đất Tàu qua đến tận đất Việt và bị bắt/ giết trước sự thờ ơ của những người lính Việt gác biên giới. Người lính Việt vùng này không biết hay đã quên rằng có một thời một số đồng bào cha anh hắn đã bỏ nước, vượt biên, bị truy nã. Như trước đó lính gác Việt đã vô cảm và bất lực trước cảnh du khách Tàu tự do tràn qua đất Việt, ngạo mạn cười giỡn chụp hình, làm selfie nơi các cột mốc mới?


Người Ouïghour đi trốn với từng nhóm phụ nữ, trẻ con, ai nấy mặt mày tốt đẹp phương phi, trẻ con bụ bẫm. Điều đó muốn nói họ đi trốn khỏi nước Tàu không vì lý do kinh tế, họ chỉ giống Tây Độc, chủ nhân xấu xí tàn ác của món võ ghê gớm Hàm Mô Công ở chỗ khăn quấn đầu tóc của người Hồi giáo, và vô cùng giống mọi con người ở một chỗ khác là tình gia đình. Âu Dương Phong nhớ thương vợ, ôm đàn luyện khúc Lục chỉ và ngày nay ta biết thêm da họ không đen đúa như Kim Dung đã tả. Có thể trắng thêm ra, phương phi ra vì đã qua gần 1 thế kỷ bị Hán hoá ?


Họ là những người Tàu trên giấy tờ, nhưng bị truy nã vì thuộc gốc Duy Ngô Nhĩ. Vì sao có những người Hồi không thích làm công dân Tàu, dù đã hơn nửa thế kỷ nếm mùi tự trị ? Vùng Tây vực, hoang dã Tân Cương, quê hương của họ bao la hơn 1 triệu cây số vuông, nằm cực tây bắc nước Tàu hiện tại, chứa nhiều khoáng sản, mỏ, đất đai trù phú. Những kẻ tuyên bố và tin chắc như bắp rằng tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân làm sao có thể cho nhân dân, nhất là nhân dân hạng hai thuộc giống nam man, tây khuyển, đông di, bắc địch/cẩu tặc vân vân... được bình đẳng và tự do tôn giáo[51] ? Một người trí thức ly khai gốc Ouïghour [52] đã tố cáo những hứa hẹn giả dối này. Và ngay từ thế kỷ 19, họ đã từng trốn chạy ra khỏi vùng Tân Cương qua các nước khác, như người Tây Tạng.


2) Người Tây Tạng (nước Tibet cũ)(vùng tự trị dân tộc Xizang)


Thực hiện cuộc xâm lăng, người Tàu viện cớ giải phóng dân Tibet, vốn “thuộc Tàu từ đời cổ đại” [53]. Số người Tây Tạng (Tibet) bị ngưòi Tàu sát hại trong cuộc kháng chiến chống Tàu trước khi đất Tạng bị sát nhập vào Tàu rất lớn so với tổng số dân ít ỏi. Những người trí thức yêu nước, hay dân thường ái quốc, nhanh chóng bị loại ra khỏi chiến trường và chính trường. Để chỉ còn lại nhũng người hoàn toàn bị khuất phục. Và sau mấy mươi năm bị Hán hoá, bị tràn ngập lấn áp bởi người gốc Hán, người Tây Tạng trở thành thiểu số trên chính quê hương của mình.


Người Tàu đã ồ ạt đưa dân gốc Hán vào Tây Tạng và chiếm lĩnh các vai trò lãnh đạo từ địa phương đến trung ương. Những điều luật ban hành cho vùng tự trị Tây Tạng chỉ có giá trị trên giấy tờ. Người gốc Hán được khuyến khích lấy vợ Tây Tạng, được giúp đỡ trợ cấp nhiều hơn người bản xứ. Các thành phố chính đều tràn ngập người Tàu gốc Hán. Trẻ con được học tiếng Tạng trong thời tiểu học hoặc sau này trong cấp phổ thông, nhưng các cơ quan hành chính, nhất là thủ đô hay tỉnh lớn đều dùng tiếng Tàu. Dân Tạng muốn kiện cáo, việc hành chánh quan trọng phải dùng tiếng Tàu vì chánh án, quan toà lớn, cán bộ gộc trong các bộ máy đều là gốc Hán và không cần phải học tiếng Tạng.


Thứ ngôn ngữ Tàu áp đặt dùng khắp nơi trong các tổ chức hành chánh, khiến Tạng ngữ, dù mãi về sau này được cho phép dạy nhiều hơn trong các trường, đã bị lép vế dần và trở nên mai một.


Thiểu số người Tây Tạng theo Tàu làm tay sai được o bế hứa hẹn một tương lai sáng sủa, dù muốn cũng không đủ khả năng và sáng suốt để lật ngược tình hình. Là một dân tộc thấm nhuần đạo Phật không hề bạo động, người Tây Tạng thà tự thiêu hơn là đi giết quân Tàu. Nhưng trong suốt hơn 60 năm bị cai trị, bị giết hại, trấn áp, họ vẫn nổi dậy và chống đối. Ngày nay số người Tibet (tên Tàu đặt là Xizang) 6 triệu bị pha loãng trong




Hình 8 : người Tàu và người Hồi bán hàng trên đường phố vùng Lhassa (photo Trọng Tuyến)



hơn 10 triệu người Tàu và chỉ tiêu của nhà cầm quyền trung ương (Tàu) là gởi thêm 5 triệu người Hán nữa vào đây trong vòng 5 năm tới.


Tây Tạng với vùng cao nguyên trên 4000m chứa lượng nước ngọt khổng lồ, với diện tích nguyên thuỷ khoảng 2 triệu rưỡi km2, nhưng bị cắt xén sát nhập vào các tỉnh tàu lân cận như vùng Qinghai.


Vùng tự trị dân tộc Xizang ngày nay chỉ còn 1 221 600 km², tuy là 40 % đất thuở ban đầu, và mất tên Tibet, vẫn còn là nơi chứa nhiều (nhất nước Tàu) nguyên liệu và quặng mỏ đất hiếm, là tiền đồn nhìn về Ấn Độ, là nơi Tàu đặt hoả tiễn và vũ khí nguyên tử “ phòng vệ ” chống ...xâm lăng.



3) Vùng Nội Mông (khu tư trị dân tộc Mông Cổ)


Đất rộng (1.280.000 km2) nhưng người thưa, nếu gộp luôn nước Cộng hoà nhân dân Mông Cổ phía bắc, chúng ta hình dung được đất nước mênh mông của đại đế Thành Cát Tư Hãn vào thế kỷ 13, và các thủ lãnh của “rợ” Hung Nô, khiến người Tàu (đời Tần) phải xây vạn lý trường thành hòng ngăn bước chân xâm lược đe doạ hàng mấy trăm năm.


Thế kỷ 13 – 14 là thời kỳ huy hoàng của họ. Người Mông Cổ chiếm nước Tàu và đoạt được hầu hết các nước ngoại biên kể cả Tây Tạng, chỉ chịu thua Việt Nam và Đại Hàn (trước khi Kubilai lên ngôi). Người Đại Hàn gốc Việt do hoàng thân triều Lý thống lĩnh là Lý Long Tường đã có đóng góp quan trọng trong chiến tranh Cao Ly (Koryo) chống Mông Cổ. (hình 9)




Hình 9: đất Tàu dưới đời nhà Nguyên -Wikipedia –

Chỉ qua thế kỷ 14, đế quốc này bị người Mãn Châu chiếm, thôn tính nhà Ming lập thành nhà Thanh. Vào năm 1911, khi triều Thanh sụp đổ, Mông Cổ được độc lập nhờ Nga hoàng ủng hộ.

Sau đó, Mông Cổ bị chia đôi, phần phía bắc bị Nga liên xô bảo hộ từ 1922 đến 1992 trở thành nước “cộng hoà nhân dân”. Phần phía Nam bị Nhật cai trị cùng với Mãn Châu đến khi Nhật thua trận năm 1945.


Sau 1945, phần nam Mông trở lại thuộc Tàu theo sự phân chia giữa các cường quốc ở hội nghị Yalta và trở thành vùng tự trị đầu tiên (1947), được Tàu Mao khánh thành sớm nhất (1947). Thật ra thì năm 1947, người Mông Cổ phù Hán đã nhờ quân Mao giúp lấy lại độc lập, nhưng khi chiến thắng, Mao trở mặt, dựa vào sự ngây thơ và thần phục Tàu của thanh niên và trí thức Mông, cuối năm 1949, nam Mông Cổ trở thành Khu tự trị dân tộc Mông Cổ thuộc nước Tàu, chuyên chính cộng sản thay thế chính thể quân chủ lập hiến của Nội Mông. Chùa chiền bị phá bỏ, những vụ án xử tử người Mông Cổ “phản động và phản cách mạng” tiêu diệt nốt những người Mông Cổ yêu nước sau cùng. Mông Cổ là dân du mục truyền thống, người Tàu đã chỉ cần giết các đại thảo điền chủ, tịch thu những đàn thú thảo nguyên khổng lồ, tập thể hoá của cải này là thừa sức phá tan truyền thống du mục.


Năm 1954 hiến pháp TQ ghi nhận quyền cho phép nói và dạy tiếng Mông Cổ, nhưng qua 1957 thì lại cấm dạy ở tiểu học. Vào năm 1958 trong bước đại nhảy vọt, để cả nước tiến như nhau, phong tục, tập quán, tôn giác khác biệt các vùng tự trị đều bị trừ bỏ.


Dân số nội Mông trên 20 triệu, trong đó chỉ có 17 % là người Mông Cổ, phần còn lại là người gốc Hán, và dân các vùng tự trị khác. Nguồn gốc, tập tục, văn hoá, tiếng nói, ngôn ngữ của từng dân tộc trở nên mờ nhạt xa vời. Những biện pháp nới tay, mở rộng thêm chút quyền tự do, dân chủ v..v..đều được ban hành muộn màng, khi người dân đã hoàn toàn bị Hán hoá. Dĩ nhiên ban hành là một chuyện, trên thực tế có áp dụng không lại là chuyện khác.


Từ những năm 80 (1987, 1990 ...) đã có những cuộc biểu tình nổi dậy, nhưng tất cả đều nhanh chóng bị dẹp tan. Ngày nay, đọc sử hay đi viếng đất (Nội) Mông Cổ, du khách học rằng Thiết Mộc Chân Thành Cát Tư Hãn Nguyên Thế tổ, đại đế Mông Cổ tung hoành thế giới xưa kia, nay là anh hùng người ...Tàu[54] !


Ngoại Mông vẫn giữ chính thể độc lập và cố gắng chống sự Hán hóa từ phía Nam. Tuy nhiên, sự yếu kém về kinh tế trước nước Tàu cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 khiến Ngoại Mông đã bị tràn ngập bởi hàng hóa Tàu, người Tàu. Ngày nay họ cũng phải bỏ Nga quay về cầu cạnh người (phía) Tàu...


Vùng ngoại Mông này cũng đất rộng (1.564.116 km2) người thưa, nhiều mỏ, nguyên liệu quý báu như đồng, vàng, sắt, kẽm, molybden, nhôm, khí đốt tự nhiên, dầu mỏ… Mông Cổ có trữ lượng uranium hơn 1 triệu tấn. Nước này đất rộng với chỉ 3 triệu dân hiện đang lâm vào tình thế lệ thuộc Tàu, nguy nan hơn cả nước Việt Nam.


Sau những năm lệ thuộc khối cộng sản, Mông Cổ Nam lẫn Bắc, dù đất giàu tài nguyên, mênh mông thảo nguyên, sa mạc, nhưng vẫn là dân tộc nghèo nhất trong vùng, nghèo nhất nước Tàu. Người gốc Hán tràn ngập đất Nội Mông, nắm hết mọi quyền hành và quyền lợi. Người Tàu mua rác- thải công nghệ hạt nhân đem đổ tại đất nước này. Tương lai Mông Cổ bây giờ là một khúc vạn lý trường thành bảo vệ tộc Hán khỏi cái nhìn xâm lăng của ...Putin.


4) Vùng Quảng Tây : khu tư trị dân tộc Zhuang (Choang hay Tráng)


Cuối tháng 9 qua đầu tháng 10 năm 2015, hàng loạt vụ nổ xảy ra tại vùng Quảng Tây, vùng tự trị của dân tộc Tráng (Choang hay Nùng) bên Tàu gây chú ý trên thế giới. Cùng với Quảng Đông, đây là vùng Lưỡng Quãng, có giáp ranh với Việt Nam, ngày xưa có liên quan quen thuộc với Âu Lạc và Tây Âu thời cổ đại[55]. Thuộc ngôn ngữ Thái -Kadai


Người Tráng chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ bên cạnh người gốc Hán, chỉ đông hơn các dân tộc thiểu số khác như Mèo, Lô Lô, Thái... Sự phát triển kinh tế khá chậm so với toàn thể nước Tàu nhưng dân số đông nhất so với các khu tự trị khác, gần 50 triệu dân cho một diện tích gần bằng nước Việt 237 693 km2. Ta có thể xem như vùng này thuộc tộc Bách Việt, khoảng thế kỷ 1 trước công nguyên đến thế kỷ 3 sau CN không ngừng bị người Tàu, hết Tống đến Nguyên[56] xâm chiếm, cai trị. Dân Choang đã từng ủng hộ cuộc nổi dậy của hai bà Trưng chống nhà Đông Hán. Về sau một người Choang là Nùng Trí Cao[57], một thời làm run sợ nhà Tống, đánh nhau ngang ngửa với tướng Tàu Địch Thanh, xưng đế lập quốc giữa thế kỷ 11, đánh chiếm một vùng rộng lớn thuộc Quảng Châu, Quảng Tây.


Qua đời nhà Minh, người Hán giúp khí giới cho người Choang đánh nhau với người Mèo. Năm 1912 khi nhà Thanh mất, họ cũng muốn vùng lên đòi độc lập nhưng không thành, đến năm 1927 khi họ nổi dậy thì bị Tchang Kai Chek đè bẹp. Họ hoàn toàn thần phục người Tàu, từ năm 1949, và trở nên vùng tự trị vào năm 1958 dù không hề đòi hỏi. Gien Hán của nhiều người Choang chắc là nhiều hơn gien Bách Việt và xa hơn người Việt hiện tại qua hơn hai ngàn năm bị Hán hoá!


Chút xíu dấu vết còn lại của tộc Bách Việt nơi này hoạ chăng là ở câu ca dao rất giống người Việt Nam. Ếch nhái là con gái nhà trời. Coi ếch là con gái của thần sấm sét, dân Choang nhảy múa điệu ếch để cầu mưa. Người Việt mình thì nói con cóc là cậu ông trời, hễ ai đánh nó thì trời đánh cho. Chắc chưa đủ để nhìn bà con tộc Việt? Nhưng khoan lo, xin xem hồi sau sẽ rõ.


5) Khu Ningxia (Ninh Hạ) khu tư trị dân tộc Hồi


Khu tư trị Ninh Hạ có gần 7 triệu người, tôn giáo chính là đạo Hồi. Với diện tích 62 818 km2, Ningxia là khu nhỏ nhất trong các khu tự trị của Tàu và cũng là vùng có tổng sản lượng quốc gia thấp nhất nước Tàu. Nằm giữa phía bắc nước Tàu, nơi có Hoàng Hà chảy qua, giáp giới các tỉnh Thiểm Tây, Cam Túc và khu Nội Mông. Thủ phủ là Ngân Xuyên, xưa là thủ đô nước Xixia (Tây Hạ) của các bộ tộc Đảng Hạng, Thổ Phồn sau một thời lập quốc xưng đế, từ thế kỷ thứ 9, từng dựa Đường, nhờ Tống giúp đỡ chống cự hay xâm chiếm các nước lân cận (Liêu, Mông Cổ...) trở nên hùng mạnh vào thế kỷ 11.


Nhưng rồi cũng như các nước phương Nam thời đó (phía nam Dương Tử giang), vùng Tây Hạ lệ thuộc tộc Hán trong nhiều giai đoạn, từ đời nhà Tần, và sau cùng hoàn toàn bị Hán hoá. Gọi là dân tộc Hồi nhưng họ chỉ có 20% còn tộc Hán chiếm 79% dân số!


Sau khi bị Mông Cổ thống trị thế kỷ 13, người Đột Quyết theo đạo Hồi di chuyển dần vào Ninh Hạ từ phía tây vùng này mới trở thành vùng Hồi giáo. Như vậy, mặc dù có sự pha trộn với người Hán, vùng này là cát địa của nhiều bộ tộc phương bắc khác với tộc Hán cho đến gần đây. Như người Hồi đến từ Trung Á, họ có màu da sậm và mắt màu nhạt hơn dân Hán, cũng như có y phục, tập quán, tôn giáo của người Hồi. Trước đó dân Tây Hạ theo đạo Phật, ngày nay còn nhiều di tích, lăng mộ ở đó.


Kim Dung đã đưa vào Lục Mạch Thần Kiếm nhân vật Tiêu Phong. Tiêu Phong gốc Liêu[58] và Cưu Ma Trí người Thổ Phồn làm quốc sư nước này là những người võ công thật cao, một chính một tà. Truyện cũng có một đoạn dài xảy ra ở thủ đô Tây Hạ, với mối tình đẹp giữa Hư Trúc và công chúa Tây Hạ Ngân Xuyên. Như vậy qua Kim Dung ai cũng biết có nhiều người tài giỏi trong các nước độc lập ven biên Tàu mà ngày nay đã bị Tàu sát nhập.


Nhìn người lại ngẫm đến ta


Trong lịch sử thế giới, các đế quốc hùng mạnh nhất, hung dữ nhất từ đế quốc Hy Lạp cổ đến La Mã đều không thoát được vô thường: thành, trụ, hoại, diệt.


Khi liên bang Xô Viết hùng mạnh sụp đổ, khối này vỡ tan thành 13 quốc gia độc lập. Riêng nước Tàu vẫn đứng vững và tiến triển cực kỳ nhanh chóng. Tại sao ? Vì nó chưa đến thời hoại, diệt?


Sức mạnh lớn nhất Trung cộng thành tựu/ đến từ khối đông đảo người Tàu. Tàu chính gốc Hán và Tàu...gốc Bách Việt (và gốc khác từ các vùng bị Hán xâm chiếm từ xưa). Sức mạnh của Trung cộng còn là sức mạnh của Hán ngữ, có hệ thống chữ viết hoàn chỉnh, giàu có, vừa có vai trò lãnh đạo lại luôn luôn sử dụng bạo lực vào nên sự bành trướng Trung Hoa thật mãnh liệt.


Sức mạnh ngôn ngữ này ta đã từng thấy nơi vùng nam Mỹ với Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.

Người Tàu được (nhà nước Tàu) gọi là tộc Hán phương nam và Hán phương bắc, nói chung là tộc Hán nhưng sống tại hai miền nam bắc chia cách đại khái bởi sông Trường giang hay Dương Tử giang. Nhưng đa số dân Hoa nam tại hạ lưu Trường giang xưa kia rất có thể là dân tộc Bách Việt (xem phần sau).


Người Hán thời đó đặt tên các nhóm khác nhau của Bách Việt là: Dương Việt, Tây Âu, Lạc Việt, U Việt, Điền Việt, Dạ Lang (xem bản đồ hình 7) Phần lớn vùng này bị mất vào tay quân Hán phương bắc vào cuối đời nhà Tần bên Tàu, rồi trở thành nước Nam Việt của Triệu Vũ Vương, chư hầu phía Nam của nhà Hán.


Các nước cũ, nay là vùng tự trị, đều ở vùng ven biên, làm tường thành che chắn cho tộc Hán và đều là những vùng nghèo so với thủ đô và các tỉnh lớn khác.


Quyền hành gọi là tự trị được phân chia theo luật định trung ương, cho các nhóm dân thiểu số ít đông hơn nhóm dân chính. Như thấy ở trên, vùng Tibet, ngoài dân Tây Tạng chính cống, còn nhiều dân tộc khác nữa, không kể đến dân Hán chiếm đa số. Cho nên dù các đại diện mọi dân thiểu số có hợp sức, cũng không thể chống lại đa số Hán. Mỗi dân tộc thường chỉ có thể tranh đấu cho nhóm dân tộc mình. Chưa nói đến mọi quyết định quan trọng của chính quyền địa phương nằm trong tay đảng cộng sản, mà bí thư đảng luôn luôn là người tộc Hán. Vô phương cục cựa! Nhưng về mặt sinh tồn, sức sống của những trăm triệu người nơi vùng này vẫn tiếp tục và ít nhiều hoà lẫn, cho dù ta vẫn thấy Hán phương Nam tướng nhỏ thó, mắt tròn, mặt thon, càm nhọn, giống người Việt...ta, khác với Hán phương Bắc to con, da trắng, mi mắt sưng mỡ, gò má cao, mũi cao. Khác nhau như hai người tình của Marguerite Duras[59]. Khác nhau như Deng và Xi.


Xin làm vùng tự trị hay khác hơn, trở thành tỉnh lớn của Tàu thì thân phận tôi đòi hay chư hầu cũng không khác chi một thứ dã tràng cặm cụi xe cát cho tộc Hán tiếp tục xây lâu đài.


( Cho gien Hán có chỗ tiếp tục sinh sôi cai trị áp bức !)


Việt ở phương Nam


Thời chiến quốc (giữa thiên kỷ I trước công nguyên), cũng như các bộ tộc sống phía


Nam rặng Ngũ Lĩnh, Vương quốc Nam Việt mất vào tay Hán Vũ Đế năm 111 TCN. Từ lúc đó nhiều nước Bách Việt bị các vương quốc liên tiếp thuộc Hán tộc bắt làm thuộc địa (hình 10 ), các quận nhà Hán trong vùng Bách Việt ở đất Lĩnh Nam vào đầu Công Nguyên). Mãi đến khi Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán dân Việt mới được độc lập từ năm 939 với triều Ngô, sau một ngàn năm lệ thuộc Hán tộc.






Hình 10 : Lạc Việt và Âu Việt





Hình 11. Các quận của Bách Việt ở Lĩnh Nam và Nam Việt vào thời Đông Hán


Các nước chư hầu Bách Việt khác ở đất Lĩnh Nam có lẽ đa số không còn nhớ gì về thời cổ đại, không còn nhớ cội nguồn văn hóa Hòa Bình rất xa xưa. Thật ra cội nguồn nào kháng cự lại được các chính sách đồng hoá của các vua Hán từ trên ngàn năm nay, và nhất là ngày nay với bạo lực và tuyên truyền, bóp méo lịch sử của chế độ thực dân kiểu cộng sản Tàu ; từng giai đoạn, người tộc Hán, nắm giữ quyền trung ương lẫn địa phương đã lần hồi tiêu diệt các trí thức cũ và đồng hoá tối đa tuổi trẻ (Trăm hoa đua nở, cách mạng văn hoá ). Suốt hàng ngàn năm lệ thuộc, chắc chắn một số nhỏ can cường đã ra đi tìm đất sống mới, nhiều đợt ra đi, tụ hội, hoà huyết với người bản địa lập thành bộ lạc mới, nước mới trên bước đường thiên di. Người ở lại, quên mối đau thương chia lìa, quên hận vong quốc, trở thành người...Tàu (phương nam).


Nhưng có dễ quên không ? Ngược dòng lịch sử người Tây Tạng, Tân Cương, và người Tráng ( Choang hay Nùng – Nông -) tuy bị Hán hoá đã lâu nhưng đến đầu thế kỷ 20, vẫn luôn có người nổi dậy, muốn ly khai Trung quốc, nhưng người Choang, người Mông, nằm giữa trùng vây Hán tộc, cho dù chỉ là Hán thiểu số, bên cạnh các dân tộc thiểu số khác, bất đồng ngôn ngữ và văn hoá. Và sắc tộc nào cũng là thiểu số trong đa số các sắc tộc ấy, muốn truyền thông, sống còn với nhau và với trung ương, chỉ còn một “lựa chọn duy nhất”: nhận lấy thứ ngôn ngữ, văn hoá áp đặt: chữ Hán của Trung quốc. Đây chính là thượng sách trong phương cách rất thực dân chia để trị của Hán tộc.



Tình trạng bi đát của tộc Việt hiện nay

Với hành trang nhược tiểu Việt Nam

Một trong Bách Việt phương nam, trước và sau một ngàn năm bị Tàu đô hộ, đã tiến (hay lui dần) về phương Nam tìm đường sống, chiếm đoạt đất đai của người yếu hơn, so với Tàu cũng đã phình ra sau vài trăm năm. Đây là cơ may để tiến bộ của người Lạc Việt, nhờ sự pha trộn với lãnh thổ và cư dân bản địa, giống gien Đông Nam Á hoà trộn lại với con cháu những tổ tiên của các đợt di dân nghìn xưa, rửa bớt văn hoá và gien Hán của một nghìn năm đô hộ cũ. Vận may thứ nhì đến lần nữa qua trăm năm thuộc Pháp. Một lần nữa, tộc Việt bị buộc phải quay nhìn về phương khác, học hỏi, hoà hợp, khẳng định lại bản sắc (mới). Chỉ một phần mười thời gian chịu ảnh hưởng Tàu, nhưng giá trị rất lớn, trong khi các tộc Bách Việt còn ở lại tại chỗ, bị Hán hoá đến tận cùng xương tuỷ.


Sau thế chiến hai, như đa số các nước trên thế giới, đất nước Việt Nam nhân/chia đôi thành hai quốc gia, theo hai tổ chức sống và nghĩ khác nhau. Nhân đôi là nói theo kiểu lạc quan, nói khác thì là bãi chiến trường nóng cho cuộc chiến tranh lạnh. So với các nước bị thần phục như Tây Tạng, Tân Cương, Mông Cổ, hoặc các quốc gia bị băm vằm chia cho bên thắng cuộc sau thế chiến thứ hai, với cuộc phân chia nam, bắc; thoạt tiên người Việt có thể nghĩ mình còn may mắn, hai đất nước áp dụng 2 chủ nghĩa khác nhau tư bản và cộng sản; nhận chịu kết quả cùng hệ luỵ tất nhiên của các chủ nghĩa này. Nhưng cây muốn lặng mà cuồng phong chẳng ngừng thổi tới cuộc chiến tranh (lạnh)


Cho nên với quyết tâm giải phóng miền Nam, chỉ cần nhờ người Tàu giúp (khí giới ?), miền Bắc cộng sản đã toại nguyện sau 20 năm nội chiến tàn khốc. Mỹ Ngụy “ nhào và cút”, trong hơn 17 triệu người miền Nam mất đi 3 triệu, hoà bình đến, thêm 3 triệu bỏ nước ra đi, hơn phân nửa ở lại, (hoà ?) hợp sống chung với người Việt miền Bắc, cùng xây dựng lại đất nước. Tưởng rằng từ đó (1975) nước Việt sẽ phát triển trong tự do, độc lập, dưới (chế độ xã hội chủ nghĩa), và thêm sự "giúp đỡ" của hai đàn anh cộng sản đồ sộ Nga, Tàu. Thế nhưng hai đàn anh bây giờ chỉ còn một, và nước Việt, hơn 85 triệu dân, mà vẫn như các nước trong liên bang Xô viết cũ: nghèo đói chậm tiến, bị xếp hạng bét hay áp bét trong khối Đông Nam Á về lợi tức trung bình đầu người (thu nhập hàng năm), đứng đầu trên vài ba chục nước ...nghèo kém nhất thế giới, lại thêm mang mối nguy mất tên, mất nước vì đàn anh còn lại:Trung Quốc.


Như vậy tự hỏi hay vô cùng nghi ngờ về phương cách giúp đỡ cũng như tình nghĩa vô sản của các nước lớn này là điều hiển nhiên.


Quả nhiên, sau này, người Tàu, kể lể công ơn và muốn người Việt trả nợ đạn bom và hợp tác “toàn diện” với họ trong chiều hướng họ quyết định.


Môi lưỡi tay chân anh em xã hội chủ nghĩa đã thực hiện tình hữu hảo huynh đệ thế nào để nước Việt ra như thế?


Ra khỏi cuộc nội chiến, Việt Nam thống nhất dư thừa ngạo mạn hân hoan nhưng kiệt quệ về mọi mặt. Hay nói kiểu ba phải thì nửa vui, nửa buồn. Nửa giàu lên, nửa nghèo đi. Nửa ăn mừng chiến thắng, nửa ngậm đắng nuốt cay. Nửa mạnh (dẹp Khmer đỏ) nửa yếu (bị Tàu san bằng vùng biên giới). Nửa cộng nửa tư bản ...đỏ. Nên lạ lùng chẳng giống ai. Cho nên chỉ 10 năm sau trận đánh tàn khốc vùng biên giới, Tàu khuất phục được (tinh thần ?) nước Việt.


Tinh thần, tâm thức của người Việt phải chăng đã bị bào mòn qua ba mươi năm chiến tranh gần như không ngưng nghỉ ?..nội chiến từng ngày, bom tấn, bom bi, bom napalm, lựu đạn, mìn claymore, Ak 45, 47, M16, CKC, pháo kích, không kích, oanh kích, B52, B40... Rồi sau tháng tư 1975, Bắc (tự nguyện) vào nam, Nam (bị lôi) ra Bắc. Kẻ mất cha, mất chồng, con, anh, chị em, mất nhà cửa, tài sản, nơi chôn nhau cắt rún, kỷ niệm....


Chúng ta khác “thường”, bệnh hoạn, bị tổn thương mà không nhận ra. Từ ngày ngưng chiến, không có một cuộc chữa bệnh nào hay một hành động an ủi, cử chỉ hào phóng đến từ giới lãnh đạo, không một trấn an tập thể nào cho những người sống sót sau cuộc cuộc chiến và hai lần chia tay xé ruột ? Chỉ có : trả thù và tự thưởng công khi lao mình vào cuộc sống. Thưởng ,phạt đến ba đời con cháu. Của cải, tinh thần nào không kiệt quệ?


Người ta có nghĩ đến người chết, nhưng đa số là để tự trấn an lương tâm, tự biện hộ, tạo ảo ảnh để kể công, để duy trì miếng ăn, quyền lợi cho kẻ sống.


Mười năm hoà bình mà xúi thanh niên hát đường ra trận mùa này đẹp lắm, để cho nhân dân tiếp tục làm anh hùng cày sỏi đá và con quan thì lại làm quan?
Hai mươi năm hoà bình mà còn mời sư cô cải trang mặc áo bà ba đen cầm súng vác mã tấu hân hoan hát bài em đi làm nữ du kích ?


Ba mươi năm chia chác, đổi bán, phung phí hết mọi thứ chiến lợi phẩm lớn nhỏ, bây giờ vẫn vẫn tiếp tục lấy đất ruộng nông dân xây cất đủ thứ riêng chung trừ tương lai nông dân. Việt Nam xứ nông nghiệp lâu đời, (nên 40 năm vẫn) chưa kịp chuyển hướng công nghiệp kỹ thuật, mất đất rồi nông dân biết gieo hạt lúa vào đâu? Ta lại không/chưa giỏi buôn bán, thương mại hàng hải mà cứ cắm đầu giao khoán, giao thương ký hợp đồng với kẻ (thù truyền kiếp) mạnh bạo[60] thì đúng là tự sát chứ không phải bỏ điều 4 hiến pháp mới là tự sát. Bạch thư tố cáo Trung Cộng và chính sách nham hiểm tàn độc của họ đối với Việt Nam vẫn còn kia.


Mấy mươi năm hoà bình thống nhất độc lập tự do mà phải hàng năm sang Tàu, quỳ lạy tượng Mã Viện, tên tướng Tàu đã bức tử hai nữ anh hùng nước Việt ?

Trong chúng ta có người may mắn tự vượt lên, tự chữa, để tiếp tục cuộc sống. Vì cuộc sống tiếp tục, dù ta có muốn hay không. Tiếp tục nơi quê mình, quê người, tiếp tục mưu sinh, nuôi con, dưỡng cha mẹ vân vân ...


Mà bệnh có khỏi chưa ? Vết thương trong lòng trong tim, óc đã khép lại, đã thành sẹo, đã lành lặn chưa ? Vẫn thấy đâu đó: cuộc chiến tàn chưa? Và câu khẳng định: chưa!

Cách trả lời tốt nhất là thử nhìn lại lối sống, phương hướng ứng xử với nhau và với người khác của chúng ta hiện nay. Ở ngoài nước, chúng ta luôn nhớ về quá khứ, nhớ lại những kỷ niệm êm đềm hay đau thương để ...đau đớn kết án, căm hờn. Dưới mắt chúng ta Việt Cộng có bàn tay lông lá khắp nơi (mà thật vậy, họ thò bàn tay chia rẽ trong khắp các hội đoàn, tổ chức văn hoá, tôn giáo, xã hội người Việt hải ngoại. Tại sao họ không thò bàn tay thò tim óc nhìn vào những lấn lướt gian manh, âm mưu của người Tàu trên đất nước VN. Đánh nhau cho Tàu, cho Nga xong rồi, nợ kia đã trả rồi mà) nhưng ta chỉ biết chửi nhau, kiện cáo nhau, hành hạ nhau. Thì câu hỏi đặt ra thêm nữa là có phải cộng sản VN tiếp tục thi hành lệnh cộng sản Tàu để chia rẽ tiếp tục làm suy kiệt tộc Việt?


Trong nước thì người dân đen buộc lòng hay thật sự tin tưởng, giao phó vận mạng của chính mình và đất nước cho một thiểu số người quyết định. Đa số không nhìn thấy sức mạnh của chính họ, cũng như không nhìn thấy những vết thương và bệnh tật, những bất bình thường, bất công trong đời sống xã hội. Đa số cam chịu, thụ động chấp nhận. Bươn chải, vất vả kiếm sống.


Phải nhìn kỹ những biện pháp do nhà cầm quyền tại các nước tân tiến áp dụng cho các nạn nhân mỗi khi có tai ương xảy ra bất ngờ với số đông người, chúng ta mới hiểu được kích thước những tổn thương tồn tại nơi dân Việt từ hàng chục năm qua.

Tại Mỹ, ngay sau cuộc khủng bố september 11 năm 2001, phim ảnh báo chí nhắc nhở đến tùng nạn nhân trong mấy nghìn người tử nạn, từng hành động cứu người, nhắc nhở để vượt qua đau đớn và tìm lại ổn định tâm lý (chưa nói đến việc đem quân đi trừng phạt nước thù!).


Tại Pháp, gần đây nhất là khi khủng bố tự xưng tín đồ Hồi giáo (quá khích) nổ súng giết chết ba đứa trẻ đạo Do Thái, mười một nhân viên tuần báo nổi tiếng Charlie Hebdo, 4 người khách hàng trong một siêu thị Do Thái, 130 khán giả trong buổi ca nhạc, hơn 20 khách ngồi quán trà rượu, ngay tại thủ đô Paris... Hơn bốn triệu người Pháp xuống đường tuần hành phản đối bọn giết người và tỏ lòng thương tiếc tưởng nhớ các nạn nhân, nhà cầm quyền tổ chức lễ tưởng niệm, giúp đỡ thân nhân, chưa nói đến việc truy tìm thủ phạm từ gốc đến ngọn. Các nhà tâm lý đi thăm hỏi gia đình, báo chí ghi lại từng tiểu sử, phỏng vấn người thân cận.


Trong nước Việt ta, trong thập niên vừa qua, con số người chết cũng tương tự, chết trong đồn công an hay tù nhân chính trị bị giết, bị hại, lại chỉ gây phẫn uất cho gia đình nạn nhân và bất bình nơi một số nhà tranh đấu cho nhân quyền công lý. Và những người tranh đấu này bị (nhà cầm quyền thuê ) côn đồ bao vây quấy nhiểu, đánh đập, thậm chi vu oan bắt bớ bỏ tù.


Tất cả những cái chết tức tửi, oan uổng, bất thường, thảm khốc đều là biến cố kinh hoàng cho tuyệt đại đa số con người bình thường, sống trong những đất nước bình thường, nên họ cần những phương cách trị liệu nhằm hàn gắn vết thương, ổn định tâm lý người thân, kẻ sống sót.

Đã hiểu được nguyên nhân, cuộc chữa trị tâm thần người Việt sẽ dễ dàng hơn. Nhưng cơn khủng hoảng trầm trọng nhất cần giải quyết trước mắt là làm sao biết để sang một bên những oán thù khác biệt, biết đoàn kết để cứu đất nước. Thoát khỏi lưỡi dao Tàu đang nằm lơ lửng trên đầu cổ đã rồi ta sẽ tính sau. Để qua một bên những khác biệt không có nghĩa là bỏ quên quá khứ và lịch sử.


Cuộc di tản lớn lao lần này đã là lần cuối cùng, may ra rồi sẽ còn một nơi nương náu tâm linh, một chỗ đi về. Còn đất nước còn tiếng nói, còn quyền tự định đoạt cho chính mình. Đừng để muộn màng chúng ta sẽ không bao giờ gượng dậy được nữa.


Thử kiểm điểm lực lượng, tiềm năng và tìm sách lược kháng cự.

Ngày nay chúng ta đông dân hơn thời Bách Việt xưa và chúng ta may mắn tiếp xúc và học với các nước phương Tây, chúng ta cũng sống trong thời đại thông tin cực kỳ nhanh chóng, chúng ta có anh em bà con khắp nơi trên thế giới, chúng ta nhìn rõ tật bệnh để chữa lành và tiến tới.


1 1) Gien Bách Việt ?


Về nguồn cội, người Hán phong gốc Hán cho tộc Bách Việt ở phương Nam. Họ gọi những dân tộc Bách Việt xưa là anh em của họ ở phương Nam, tộc Hán ở phiá nam. Gốc Nùng (Choang), gốc Đại Lý, gốc Việt xưa kia đều là con cháu nhà Hán, theo họ. Ngày xưa bị gọi là Nam man với cấu tặc, bị đè đầu làm tướng làm quân đi đánh anh em tộc Việt vì không nhớ cội nguồn xưa cổ. Họ chỉ còn biết ngôn ngữ chữ viết Tàu, chỉ biết Thủy Hử với Tam Quốc Chí Đông Châu Liệt Quốc, sử ký Tư Mã Thiên, lấy làm hãnh diện làm con cháu Lưu Bị, Quan Công.


Tiếng nói tập tục đã quên, cổ sử mơ hồ[61], mà phe chiến thắng thì lại viết sửa lịch sử. Cho nên nếu ta để ý xem, hầu như các dân tộc Tàu (mới) này, như người Việt, đều có (truyền thuyết sáng giá và riêng biệt về) tổ tiên, nhưng các tổ tiên này đều...(cưới) lấy cháu của ông (vua) Tàu nào đó. Lâu ngày thì tộc Hán đều là ông ...cố nội của các tộc khác. Nên ta không ngạc nhiên khi nhiều người Việt, vin vào cổ sử, vào vài tập tục, truyền thống, cam đoan tổ tiên mình là người Tàu. Thì bởi tại bà Âu Cơ là cháu Đế Lai. Và ngược lại, dĩ nhiên, cũng có người Việt quả quyết dân mình là ...ông cố nội của người Tàu. Nghĩa là đằng nào cũng có bà con. Nguy là chỗ nhìn bà con với thứ bậc Khổng Nho, vua tôi, con dòng trưởng con dòng bé, thiên mệnh với chính danh, chính vương.


Điều quan trọng là cuộc sống chung hoà bình và bình đẳng, chứ không phân định anh em, bà con để ức hiếp những thân phận em nhỏ và họ hàng xa theo kiểu giai cấp phong kiến...Tàu. Nếu trở lui về thời tiền sử và kính lão đắc thọ hay ngàn vàng mua lấy láng giềng thì mọi người phải tôn kính hậu duệ tiên tổ loài người là người Phi Châu, đa số ngày nay đều nghèo không thể có ngàn vàng để mua lân bang hữu hảo.


Xem bản đồ dưới đây[62].





Hình 12: Hướng thiên di của người hiện đại từ đông Phi Châu đến dần Đông Á 65 000 năm trước


Huyết học và di truyền học dựa trên đặc tính sinh học máu và trên di tích trong gien con người đã đi ngược được hàng ngàn, hàng chục ngàn năm, thì gốc con người, đường địa di, hải di đã được thiết lập dần từ vài thập niên gần nay, nhất là từ lúc chương trình phân tích gien “thô” và giải mã gien con người Hugo (Human Genome Project) và Encode lần lượt được phát động năm 1990 và 2003.


Đường đi của người hiện đại từ phía đông châu Phi, nơi họ sinh ra từ hai trăm ngàn năm trước, đi đến sống ở Á, Úc và Mỹ châu càng ngày càng rõ ràng hơn. Dù còn nhiều chi tiết cần được soi sáng cho tỏ tường gốc gác mỗi tộc người địa phương, con người thiên di theo các ngã chính đến các vùng lớn trên thế giới đã được định rõ. Nói khác đi, các người cổ (Người Khôn Hiện Đại) đã đến nơi nào đó theo thứ tự thời gian, nói chung đã được đa số các nhà khoa học chấp nhận. Những tranh cãi về chi tiết sở dĩ có là do có sự liên tục pha trộn giữa gien người đi, người ở, người trở về...Nhiều đợt lớn nhỏ, đi về, pha trộn đan xen với nhau. Mỗi khoảng thời gian đi (về) là hàng trăm hay hàng ngàn năm, lớn nhỏ tuỳ thuộc vào điều kiện khí hậu và môi trường sống.


Từ thời sơ khai, giống người hiện đại sau khi rời Phi Châu, qua tới bán đảo Ả rập, họ đi/sống dọc theo biển cùng tên, xuyên qua Iran, Pakistan, Ấn Độ bây giờ để đến vùng Đông Nam Á (ĐNÁ) khoảng 50 – 60 ngàn năm trước đây. Một nhóm tiếp tục theo ven biển trên thềm lục địa ĐNÁ có tên Sundaland lúc đó chưa bị ngập bởi hiện tượng “biển tiến” (khi trái đất nóng lên làm tan băng). Nhóm này qua quần đảo Indonesia đến nơi xa nhất của đất liền, rồi vượt biển vào châu Úc. Nhóm ở lại quần đảo Indonesia sinh sống một thời gian mười, hai mươi ngàn năm ở ĐNÁ, sinh sôi con cháu đông đúc. Nhưng khi đời sống hay khí hậu trở nên khó khăn trong các nhóm định cư tại ĐNÁ, hàng đoàn người đi ngược lên phía Bắc. Tùy theo nơi họ ở lúc khởi hành, họ lên phía bắc qua ngả Nam Trung Hoa vùng ĐNÁ lên quá khỏi Hoàng Hà vào vùng Đông Á, hoặc đi vòng phía bên trong, qua cao nguyên Tây Tạng lên đến phía Đông vùng Trung Á.


Kết quả phân tích gien truyền qua người mẹ, mt DNA, hay người cha (qua sắc thể Y) cũng đưa đến cùng kết luận, là các bà mẹ ông cha tổ của người Đông Á đều là dân ĐNÁ thiên di lên phương bắc, mặc dù đường thiên di phía mẹ không trùng với cha. Phải chăng đây là cuộc chia tay rồi trùng phùng của nhiều Lạc Long Quân với Âu Cơ, huyền thọai chia tay mẹ cha rồng tiên, kẻ lên núi, người xuống biển (nhiều lần) của các tộc thời tiền Bách Việt ?


Rõ ràng khoa sinh học di truyền và ngành khảo cổ đã chứng minh dân Tàu có tổ tiên phía bên cha lẫn phía mẹ là cư dân vùng ĐNÁ, tức là vùng của nước Việt và các nước ven biển đông nam lục địa này. Và bởi vì con người sống trên toàn thế giới đều có cùng chung tổ tiên, từ Đông Phi đã thiên di tuần tự đến các nơi chưa từng có người ở. Vì Hy Mã Lạp Sơn ngăn trở, muốn đi đến phía bắc Tàu, tổ tiên chung của toàn người Hán và Bách Việt từ Phi Châu bắt buộc phải qua ngõ ĐNÁ. Vừa đi qua, vừa ở lại sinh sôi tại ĐNÁ, cho đến lúc quá đông so với nguồn lương thực có tại chỗ, họ lại phải thiên di đến miền đất chưa có người ở bắc Đông Á, vì nếu gặp Thái Bình Dương và về phía nam thì coi như trở về đường cũ, sẽ lại gặp các nhóm cư dân đi trước.


Ngành di truyền học cho phép tính “tuổi” các gien. Người Hán gốc bắc có cùng một số gien với Bách Việt nhưng là gien trẻ hơn. Họ, Hán- phương- Bắc, có thêm gien khác vì khi lên đến vùng bắc Hoàng Hà vì hoà huyết (lai) sau đó với những người cũng đến từ ĐNÁ nhưng bằng đường phía trong đất liền. Tức là người Tàu bắc và nam đều có tổ tiên là người xuất phát từ ĐNÁ. Tuy có sự pha trộn gien trong các cuộc di dân, bành trướng, nhưng gien gốc vẫn chỉ ra ai là ông cha ai là cháu chắt. Và gien chúng ta gần với gien hậu duệ Trăm Việt khác hiện nay trong vùng ĐNÁ hơn gien Hán.


Nhắc lại, người Tàu cộng, kể cả khoa học gia, thường phải ép mình theo quan điểm chính thống của nhà nước Tàu hiện nay, tức là xem dân Hán là một dân tộc đồng nhất (về tiếng nói) quan trọng về số lượng nhất thế giới ...nhưng chia làm hai nhóm có cấu tạo gien khác nhau: Hán- phương- Nam và Hán- phương- Bắc. Người Việt hiện nay là Hán- phương- Nam cùng các dân trăm Việt khác ở nguyên vùng ĐNÁ. Nhiều khoa học gia khác nói lên sự mâu thuẫn và khiên cưỡng trong quan điểm này, nhưng nhà nước Tàu hiện nay để phục vụ cho chính sách bành trướng người gốc Hán, vẫn không muốn những người Hán phương Nam đòi ly khai khỏi gia đình “ruột thịt”. Thử tưởng tượng nếu đoàn quân Nam Hán này sửa soạn sang đánh bọn Việt Nam cứng cổ con hoang, thì biết rằng họ là anh em với người Việt nhiều hơn là anh em với người tộc Hán, họ sẽ nghĩ sao, buông súng “tìm về cội nguồn xưa ” ? Đòi ly khai để tự mình quyết định một cuộc sống êm đềm, thanh bình hơn ?


Nhưng chúng ta chớ nên mơ màng ảo tưởng, ông Xi phải lo nuôi họ, phải đưa cuộc sống của họ lên ngang bằng tộc Hán như đã hứa, nghĩa là tiến về phương Nam, lập vòng đai mới, biên giới mới và lời hứa hẹn mới!


Nhìn anh em để làm anh cả, đem ông Khổng Tử ra để đòi có quyền huynh thế phụ, kêu gọi trung hiếu với thiên triều thì thấy ông quả là người...Tàu.

Chúng ta nhìn bà con Bách Việt, chẳng phải để đòi hỏi một kiểu ly khai hay chiêu hồi nào đó, chúng ta chỉ muốn họ được thật sự tự do và sánh bước với thế giới về lương tâm và tri thức, không mù quáng nghe theo lời đường mật, tự hào một cách quá bộ lạc và ấu trĩ về sức mạnh phải có của một dân tộc mang tầm vóc quốc tế. Một dân tộc lớn không nhất thiết phải chiếm hết đất đai của cải thiên hạ, một dân tộc có tầm vóc phải được lân bang và thế giới nhìn bằng con mắt thân thiện anh em.


2) Hồn thiêng sông núi, bản sắc tộc Việt ở đâu?


Cơn đau thập tử nhất sinh Việt kéo dài và dồn dập suốt thế kỷ vừa qua.

Khi xem lại những hình ảnh do người Pháp chụp thuộc địa Đông Dương vào cuối thế kỷ 19 và đầu 20, và nhìn tổng quan cuộc chinh phục qua các mặt chính trị, quân sự, kinh tế của họ chúng ta ý thức được tình trạng lạc hậu nghèo nàn của người Việt. Thì ra thoát được gọng kềm của Tàu xưa kia không phải chỉ nhờ vào sức mạnh nội tại của tộc Việt mà còn vì nhờ vào khí hậu đường xá hiểm trở xa xôi, đồng thời tại các vùng biên giới này kết quả Hán hoá chưa đến mức hoàn hảo như ngày nay.


Cha ông ta đã từng “kính nhi viễn chi”, răm rắp thần phục, cống hiến người giỏi và báu vật hàng năm nhưng giữ khoảng cách, người Tàu vượt qua lằn ranh biên giới là vua quan dân Việt đồng lòng đánh đuổi, rõ ràng là sáng suốt và khách quan.


Ngày nay tuy vẫn nghèo, yếu kém so với thế giới nhưng ý thức về bản sắc dân tộc được rõ nét và lớn mạnh hơn. Giòng máu Việt là máu Âu Lạc đã pha trộn với máu các tộc Việt khác (có khi cả Hán và Ming, Mãn là các tộc từng chiếm Tàu và di dân sang Việt Nam khi trở thành người ly khai với thiên triều) và nhất là các dân tộc Chiêm Thành, Chân Lạp[63]. Chúng ta ngậm ngùi cho các đất nước đã mất tên này, nhưng linh hồn, bản sắc, vóc dáng, màu da, nước tóc, máu huyết đã hòa lẫn để chúng ta là người Việt Nam, gốc Đông Nam Á.


Không cần phải leo lên Thái Sơn ngạo mạn nhìn xuống “một con đường, một vành đai, hay xin chút gien Hán, không cần “mượn sông”, mướn mỏ, thuê rừng, cướp biển, hay phải nắm tay TQ mới nghe mình lớn mạnh, chúng ta chỉ cần đi ngược thời gian, chỉ cần nhìn lại kết quả phân tích DNA để nói rằng nếu Trung cộng đưa cổ sử thì ta (mà họ cũng đã biết) cũng nói được rằng tộc Việt đã có mặt từ cổ đại, năm mươi ngàn năm về trước, trên vùng đất họ ở ngày nay, lâu hơn và cũng là nơi có gốc của tộc Hán trước khi Hán pha trộn với di dân phương bắc Đông Á. Nhưng người Việt nói con hơn cha là nhà có phúc. Người Tàu nói quân xử thần tử, thần bất tử bất trung. NgườiViệt không giết con gái sơ sinh, người Việt thờ mẹ như thờ cha, không bắt phụ nữ bó chân từ hàng ngàn năm trước. Người Tàu nói nhứt sĩ nhì nông, người Việt nói hết gạo chạy rông nhất nông nhì sĩ.


Không có lý do chính đáng trọng đại (lý do của cải vật chất còn tệ hại hơn) để quỳ gối dưới chân người Tàu để làm gạch xây tường thành che chắn bảo vệ họ, xây đường cho họ đi.


Chúng ta phải thay đổi thế nào, cải tiến làm sao cho qua khỏi cơn nguy này ?

Người lớn tuổi chữa lành cơn bệnh cũ, săn sóc vết thương xưa để cùng nhau đưa con trẻ ra khỏi hiện tại bức bách. Ra khỏi quá khứ mới thấy rõ hiện tại. Gốc rễ mấy ngàn năm không dễ gì tận tuyệt, nếu chúng ta không tự tay cắt đứt, ngoảnh mặt làm ngơ.


Chỉ mới vài năm dân Việt gửi con gái đi làm dâu Hán ( và tộc Việt phương Nam cũ) tuy chưa hòa huyết, chưa mất tiếng nói mà đã mất lòng tự hào “nghèo cho sạch rách cho thơm”, ăn cắp, xảo quyệt, lường gạt thiên hạ hơn cả người Tàu. Phải nói là có gien Hán trong hành động nhiều hơn cả người Hán! Chỉ gần đây thôi ta mới cướp giựt lộ liễu, đi ăn cắp, làm hàng giả, lường gạt...


Chúng ta cố tin rằng đây chỉ là những hành động đơn lẻ (tuy rằng đơn lẻ ngoại lệ thường khẳng định mẫu số chung), chúng ta biết đớn đau, xấu hổ là chúng ta còn bản sắc Việt.


Nhìn lại thực tế trước mắt, trong chừng mực nào đó những người con gái nghèo đất Việt bỏ xứ đi lấy chồng Tàu, trong nhờ đục chịu vì chẳng có giải pháp nào khác. Đục hơi nhiều vì đa số anh Tàu ế vợ đều là nông dân dốt nát, bệnh tật.


Những người con trai Việt bỏ gia đình cha mẹ vợ con nai lưng đi làm công nhân, thứ công dân nô lệ mới cho các hãng xưởng lớn, mang nhãn...Tàu. Nhưng không lẽ gái Việt đi lấy chồng Việt, tuy ...dễ thương, biết ngâm thơ Kiều, ca Lục Vân Tiên, vọng cổ, biết chiều vợ thương con, nhưng lại...thất nghiệp? Nào phải ai cũng được là con cháu đảng viên đi du học Âu Mỹ Úc hay đủ điểm (thi vào trường giỏi hay trường dạy làm công an, lý luận mác xít ?) Nào phải ai cũng muốn đi làm CSGTchận xe thu tiền phạt hoặc làm an ninh, trà trộn với du côn đi đánh bắt mấy đứa “phản động” trốn thuế lại ưa nhóm họp biểu tình đả đảo chặt phá cây xanh, đả đảo Trung Quốc xâm lược ? Nào phải ai cũng dễ dàng ký hợp đồng cho bọn Tàu vào nước Việt khai thác rừng, lấy gỗ, lấy quặng, xây căn cứ? Nào phải ai cũng dễ dàng tự tay mời gọi, ký giấy trao đổi, mua bán, học tập đủ ngành nghề, lãnh vực với người Tàu?


Nhưng trời hỡi sao không gởi gấm ước ao, hy vọng vào chính mình hay ai khác mà lại nhằm tướng cướp mà trao duyên? Đâu rồi kinh nghiệm ngàn năm tiên tổ? Đâu rồi quả báo, kinh nghiệm nhãn tiền trơ trơ trước mắt?


Chúng ta cần thức dậy mà đi. Chúng ta cần nhớ đến tiền nhân, tiên tổ, cần rũ sạch cái áo Tàu, bụi Tàu, nhìn ra thế giới để học hỏi bắt chước cái hay, cái tốt. Chúng ta cần lấy đạo lý con người nói chung chớ đừng ca tụng cái đạo lý Tàu mà chính họ đã từng phá vỡ. Chúng ta cần hướng về Chân Thiện Mỹ của con người, không phải chỉ của Tống Nho mà Trung Cộng dùng để mỵ dân gạt người. Chúng ta cần giàu mạnh bằng chính bàn tay và khối óc tộc Việt để khỏi bị ai bức hiếp nhục nhã như các cụ Phan (Chu Trinh/Bội Châu) đã dặn dò vào thế kỷ 20.


Có người đòi thoát Việt cộng trước khi thoát Trung Cộng. Có người đòi hợp tác với Việt Cộng mới đủ sức thoát Trung Cộng. Đòi là một chuyện, thực hiện được không mới đúng là câu hỏi phải đặt ra với tất cả những hệ luỵ đến với câu trả lời.


Thoát Việt cộng cách nào đây, khi ta biết rằng Trung cộng đã giăng bẫy, mai phục khắp nơi sẵn sàng tiếp tay Việt cộng bắn giết dân Việt. Chúng sai côn đồ (thất nghiệp, du đảng, tội phạm hình sự vùng biên giới nam Tàu sang trà trộn với đoàn quân cảnh sát công an bản xứ) đánh bắt tất cả những ai dám lên tiếng chống đảng, chống xâm lược. Chưa bị ngưng trả lương thì họ sẽ tiếp tục làm lá chắn, làm gươm đao, thiết bảng, dùi cui. Chưa nói đến việc cùng là cộng sản như nhau, có khi gien cộng sản tàn ác kiểu Stalin này mạnh hơn cả gien...phát xít.


Cho dù Việt Cộng tuy sắp hết tiền để trả lương cho đảng viên, công chức, nghĩa là guồng máy sắp hết chạy, nhưng họ nắm trong tay bảng điều khiển vận hành guồng máy. Phải nghĩ là còn rất nhiều người còn tin tưởng ở tài năng ...đột biến đột xuất của đảng vào giờ phút này.


Trừ phi Trung cộng kéo xe tăng, đổ tiền, tháo nước ngọt vào đất Việt, và hứa hẹn chia đôi biển Đông, chia đôi giếng dầu, chia đôi tiền mãi (hải) lộ. Cái này mới thật sự đáng gọi là “đàm phán song phương ” nhưng đố ai dám tin lãnh đạo Tàu ? Ngoài ra chúng ta còn các bạn láng giềng khác nữa cũng đang đòi quyền lợi ở biển Đông. Không thể nắm tay Tàu ức hiếp các nước bạn hoặc ngược lại cùng họ hợp lực chống Tàu.


Nhưng diễn tiến tình hình có thể đưa đến cơ hội (hay đến đúng theo kế hoạch âm mưu Tàu) cho ông Xi ra tay nghĩa hiệp cứu vớt lãnh tụ (và dân)Việt ? Như vậy đảng này phải coi chừng ! Bán đảng viên và công chức luôn cho Tàu, đảng sẽ hết còn gì để bán !


Không thể quên rằng đất nước đi đến tình trạng nguy nan ngày nay cũng là do lỗi đảng bị kẻ thù ru ngủ, quá tin vào anh em không cùng họ, chẳng cùng gien, quá tin vào chủ nghĩa cộng sản, quá tin vào bàn tay và bộ óc của mình, quá ngạo mạn, tham lam, không biết độ lượng và thương yêu đồng bào.


Nhưng đây cũng là một cơ hội để toàn dân và nhất là (một số) đảng (viên) suy nghĩ tìm giải pháp cứu nguy đất nước, đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên lòng sợ hãi và quyền lợi riêng tư của mình, của đảng.


Những người ký mật ước hay công hàm bán nước không phải là họ bây giờ mà là những người đi trước. Tội lỗi những người này, dân sẽ biết, sử sẽ ghi chép. Có nên hy vọng là nếu chúng ta có những... Yeltsin của Nga thuở nào, và nhất là những công nhân, thanh niên Ba Lan, Tiệp, Đông Đức vài mươi năm trước đây, thì người Việt sẽ tạo được cơ hội giúp đảng (mới, lãnh tụ mới ?) lấy công chuộc tội,...ra tay lật đảng cộng sản, lập thể chế mới, dân chủ, đa nguyên ? Chắc chắn nhân dân sẽ đồng lòng ủng hộ và hy sinh nếu đảng này hô lớn : toàn dân nghe chăng sơn hà nguy biến ? Và họ phải thề đưa dân tộc trở lại thời huy hoàng độc lập tự chủ từ hơn 800 năm về trước như những Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão và hai bà Trưng, Lê Lợi... ?


Giấc mơ này coi bộ khó đạt hơn nhưng đỡ tốn hao xương máu và dễ làm đối với đảng mới thoát thai


: thử tưởng tượng không những có tên ghi vào lịch sử, mà họ sẽ còn được dân biết ơn, ca tụng và yêu thương thật sự, có thể ra ứng cử vào những vị trí quan trọng và được toàn dân bỏ phiếu thuận để còn quyền điều khiển vận mạng đất nước mà không cần dùng bạo lực. Nhưng đây là lý luận ngây thơ bởi vì kẻ bán nước, muốn giàu sang cho bản thân và gia đình đổi lại thân phận nô lệ cho cả một dân tộc thì cách nào mà lay động được nơi họ tự tình dân tộc, lòng yêu quê hương ? Trái lại sẽ có lý hơn nếu tin tưởng mãnh liệt rằng đa số người Việt, như đa số con người, đều lựa chọn những nhân cách tốt đẹp, hướng thượng để lãnh đạo đất nước.


Ôi, cách nào cũng khó như đòi phép màu huyền diệu, như đòi gặp rồng tiên nguyên thuỷ. Nhưng quyền quyết định và sức mạnh nằm trong tay 85, 90 triệu người Việt chứ không phải đảng và vài ba triệu đảng viên. Sức mạnh của tuổi trẻ và tâm thức, tinh thần Việt này còn tiềm tàng, lẩn khuất, con dân Việt nào chưa bi quan tuyệt vọng phải biết cùng nhau khơi dậy, nuôi nấng để tìm ra giải đáp.


Cùng một lúc phải tìm cách làm sao cho càng nhiều người Việt nuôi dưỡng và ý thức rõ ràng về bản sắc, vị trí, lòng tự hào dân tộc, nắm vững tình hình, tiềm lực khả năng đất nước trong quá khứ cùng hiện tại, thấu hiểu và hình dung được hậu quả tai hại cực kỳ của sách lược chính trị của các lãnh tụ Việt qua hàng ước bí mật này, về tính mạng ngàn cân treo sợi tóc, về cơn nguy thập tử nhất sinh, cận kề của nước Việt ngày nay.


Trong khi chờ đợi những người con Việt, trong nước và thế giới, chuyên gia về giáo dục, luật pháp, khoa học, kinh tế, quân sự, xã hội, chính trị cùng nhau soạn thảo những giải pháp, sách lược cụ thể[64], tìm cách liên kết với lương tâm thời đại cùng bạn hữu khắp nơi, kể cả con cháu dân tộc Hán biết suy nghĩ, có tâm thức lương tri của con người hiện đại sống trong thế kỷ 21.


Chúng ta cũng phải biết tự đổi thay và chuyển hoá để cùng nhau đoàn kết, yêu thương nhau, vượt qua sợ hãi tị hiềm, chung lòng nghĩ đến quê hương và đặt sự sống còn đất nước lên trên tất cả tranh chấp và khác biệt về mọi phương diện giữa chúng ta. Đó là điều kiện quan trọng nhất và đầu tiên để tiến tới một hội nghị Diên Hồng. Không có vua, không cần vua. Bởi vì sẽ không còn một cơ hội nào khác nữa đâu.


Phan Thị Trọng Tuyến


14/12/2015 mừng Việt Khang mãn hạn tù, về với chúng ta.
Sửa lỗi tháng 6 2016 đồng hành đòi trả tự do cho Trần Huỳnh Duy Thức
Và tháng 8 2017 tiếp tục đòi tự do cho THDT và tất cả tù nhân chính trị Việt Nam.
Bài viết dài, xin cảm ơn độc giả vui lòng chịu khó đọc và chỉ dẫn những lỗi lầm vế hình thức lẫn nội dung. Đa tạ.

[1] Lò điện nguyên tử 100% Tàu vừa ký bán cho Argentine  ( China National Nuclear Corporation)
[2] Bỏ xuống dưới đây các đóng góp khác để chúng ta bớt tủi hổ : giải Nobel văn chương và Y học người China đem về cho nước họ trong thập niên này. Nhưng năm 2015, Charities Aid Foundation (CAF) đã xếp Tàu cộng hạng chót về lòng nhân (làm việc từ thiện) WGC (World Gìvng Index) trong số 140 hay 145 quốc gia (chiếm 96% dân số thế giới). Bảng xếp hạng dựa vào 3 điều thực hiện cho chỉ số : cho tiền bạc, giúp đỡ người xa lạ và làm việc thiện nguyện, công ích xã hộiĐứng đầu là Miến Điện. Năm nay chắc Miến sẽ bị tụt hạng vì việc đánh đuổi dân Rohingya. Nhưng việc này có đưọc tính vào cách đánh giá chỉ số  nói trên?
[3] Nhưng bị nước Việt của Trần Thái Tông đánh bại.”Thái Tông ngự thuyền đến hỏi Thái úy là Trần Nhật Hiệu. Nhật Hiệu không nói gì cả, cầm sào viết xuống nước hai chữ "Nhập Tống". Thái Tông lại đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ. Thủ Độ nói rằng: " Đầu tôi chưa rơi xuống đất, thì xin Bệ hạ đừng lo! ".
[4] Wikipedia.org/wiki/Chiến_tranh_Nguyên_Mông-Đại_Việt_lần_2 và lần 3
[5] Hồng Kông, Macau, nửa hai đảo Tababarov và Bolshoi  trên sông Amur thuộc Nga từ 1929 ; Trung cộng chiếm được nhiều đất thuộc lãnh thổ Kyrgyzstan, Tajikistan và Kazakhstan bằng áp lực; đòi nhiều vùng đất  ở biên giới các nước Ấn, Nepal !
[6] ...Phải tính đến 1 Nobel văn chương ( văn sĩ ly khai đem về danh dự về cho Pháp) và giải Y khoa năm nay, thiên hạ thán phục không có nghĩa là kính trọng yêu mến, nói đúng hơn là sợ hãi, gờm mặt, e dè. Họ hiểu rõ mặt trái của phồn thịnh nước Tàu, khoảng cách giữa giàu nghèo, giữa  thành thị và nông thôn. Họ biết rõ các phương cách kể cả bá đạo người Tàu dùng để đạt mục đích qua những tài liệu sách vở nghiên cứu về thành quả cách mạng văn hoá, cải cách ruộng đất, kinh tế, về chính sách sai lầm gây nạn đói hàng triệu người chết. Sự tàn ác này khiến lãnh đạo Tàu sẵn sàng sát một triệu nhân mạng cho một tỉ còn lại sống ngoan ngoãn.
[7] Có người tố cáo là ổ gián điệp Tàu. Trên thực tế  họ trưng bày thứ văn hóa Tống Nho từng bị đả phá chôn vùi từ những kế hoạch ngũ niên đầu tiên của thể chế cộng sản, tuy không thể là mẫu mực đáng noi theo cho các nước Tây phương (các nước này xem đó như một thứ folklore cũ kỹ), nhưng có thể có hiệu quả cho các nước nghèo và chậm tiến như Việt Nam (Lào, Thái Lan...chư hầu tương lai). Đảng csVN, và bác Hồ Chí Minh của họ có nhiều khẩu hiệu, khẩu quyết vô cùng Tống Nho : trung với đảng, hiếu với dân. Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính Thiếu một mùa, thì không thành trời.Thiếu một phương, thì không thành đất Thiếu một đức, thì không thành người .
Dĩ nhiên chư hầu nên ngoan ngoãn trau giồi các đức tính này còn chủ nhân Hán thì tự miễn.
[7] Trung Cộng có hơn 14000 km đường biển nhưng đối mặt với biển này là quần đảo Nhật, Tàu khó lòng tự do tung hoành ?
[9] Người Việt khác tộc Hán ở chỗ ít miệt thị khinh khi lân bang, họ không gọi hàng xóm là nam man, con hoang hay cẩu tặc...
[10] Tin chính thức hơn 157 000 bị giết tại miềnBắc năm 1954, sau 1975 tại miền Nam khoảng  65 000 đến 100 000 bị xử tử trong hai năm 1975-1976 và hơn một triệu người đi tù, nhà cửa, tài sản bị cướp ( tài liệu Wikipedia).
[11] Ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc....(Lê Duẫn), người Tibet, Ouïghour (không thuộc giống Hán)..cũng chết thảm không kém, xin xem phần sau
[12] Khoảng 3 triệu mất vì chiến tranh, ba triệu trốn khỏi Việt Nam trong đó một triệu bằng đường biển ( khoảng 200 000 hay 250000 người chết ( theo nguồn Radio Canada chỉ trong 2 năm  từ 1979-1980, nước Canada cứu trợ  tiếp nhận 60 000 thuyền nhân-  số thật sự về người chết trên biển có lẽ lớn hơn (tài liệu Wikipedia). Pháp và Mỹ : hơn 2 triệu qua các đợt nhận người Việt tỵ nạn từ 1975 đến 1995 và về sau nữa. http://www.unhcr.fr/4ad2f957e.html
[13] Trong khi chính trị gia, doanh nghiệp Tàu đi khắp nơi chào hàng, thu mua, không ngần ngại chìu chuộng nịnh nọt gia chủ, còn một số người Việt lại đi buôn lậu, ăn cắp, đi làm vợ kiêm nô dịch, đi làm công nhân cho người bóc lột sức lao động. Còn Quan gia cộng sản thì quá sức oan gia : ăn cắp của công, xài tiền dân, và vào hoàng hôn nhiệm kỳ  thì đi chuyến tàu vét, đưa của cải, con cái ra ngoại quốc vân vân...
[14] Xây dựng căn cứ quân sự  trá hình nơi các địa điểm chiến lược quan trọng của Việt Nam. Thí dụ tại vùng núi non hiểm trở phía Bắc sau khi đánh chiếm vùng biên giới Việt Nam, người Tàu đã xây căn cứ quân sự nơi mà ngày xưa cha ông họ chật vật vất vả đi qua khi muốn mượn đường đi đánh “ai” đó. Từ các căn cứ trên các đảo cướp của Việt và Phi, lính Tàu phải đi từ 270 hải lý đến 720 hải lý mới về tới quê nhà Trung cộng đại lục, mà thò tay qua đất Việt chỉ 190 hải lý. Từ các tỉnh Bình Dương, Cà Mau, Vũng Áng vân vân khi ra ngoài để khuất phục dân Việt tại thủ đô hay căn cứ quân đội công an Việt, họ chỉ cần đi bộ, nhiều lắm là đi...xe đạp. Dĩ nhiên đây là nói theo cảm tính. Sự thật còn kinh hoàng áo não hơn : họ đã ở lẩn lộn trong xóm làng Việt, các tổ chức dân sự, quân sự, lẩn vào cả những nhóm viết sử, làm sách giáo khoa, soạn chương trình giáo dục, thi cử...(theo tin tức tổng hợp trong nước)
[15] Trao đổi, giúp đỡ văn hoá là họ vào chùa chiền Việt sơn phết tượng, thoa son, quét móng, vẽ chân mày như phường tuồng và viện trợ hay bán rẻ mấy tượng Quan công, ông Thiện ông Ác, tượng sư tử kỳ lân rồng rắn sặc một kiểu Tàu duy nhất, thậm chí dám thay thế tượng thờ tiền nhân Việt bằng quan Tàu, dán cả bùa chú trấn yểm phong thuỷ long mạch. Một màu đỏ Tàu rất Tàu rất đỏ bao trùm khắp nơi. Du côn thất học khát máu gốc Tàu len lỏi vào công an, quân đội; các gián điệp và trí thức Tàu biết nói tiếng Việt mai phục hay trà trộn vào guồng máy hành chánh, giáo dục, phá hoại xã hội và truyền thống Việt Nam bằng mọi cách. Từ cả chục năm trước và cho đến gần đây những tiếng báo động vang lên khắp nơi : giáo sư Hoàng Tụy, giáo sư Nguyễn Huệ Chi, tiến sĩ Nguyễn Quang A, nhà giáo Phạm Toàn ..., các nhà dân chủ, cựu tù nhân lương tâm, cựu viên chức ngoại giao, thanh niên sinh viên và người dân bị áp bức trong nước hoà với tiếng lòng hải ngoại của Huỳnh Văn  Lang, Nguyễn Trọng Kha, Châu Tiên Khương ...Tâm trạng tức giận, đau buồn, bất lực...này nói lên cảm nhận tình thế hiểm nghèo nguy nan bên bờ vực thẳm tiêu vong của dân tộc
[16] Xem Chính Đề (Ngô Đình Nhu)
[17] Lực lượng chính chống trả lúc ban đầu là dân quân (tân binh) địa phương, quân đội chỉ có vài sư đoàn, tỉ lệ 1 chọi 5. Xem phần sau bạch thư và sách vở Việt Nam tố cáo Trung Cộng xâm lược. Các tài liệu này không còn được tự do phổ biến. Phải tìm trên mạng. Xem nhiều bài trên: https://dinhtanluc.wordpress.com
[18] Hán phương Bắc và Hán phương Nam ? Chúng ta sẽ xét đến điểm này trong phần sau.
[19] Trước đây chỉ người gốc Hán lấy vợ vùng tự trị mới được phép có 2 đứa con và được nhiều dễ dãi, trợ cấp trong đời sống.
[20] Tiền hối lộ cho ông Đỗ Mười (bao nhiêu để ông đem tặng cho viện mồ côi 1 triệu đô la ?), Lê Khả Phiêu ( xem phóng sự hình“mênh mông tiền dân ”), Nguyễn Tấn Dũng (dự án Bauxite) ...còn các cá mập khác thì chưa được công bố. Cá con và tép riu cũng đưọc ít nhiều vụn bột. Còn đầu trâu mặt ngựa, cắc ké kỳ nhông,
 tấm khiên lá chắn có lẽ chỉ còn mỗi một cách là ăn lương bèo trấn lột nhân dân anh hùng.
[21] Người Tibet, Tân Cương lưu vong tố cáo Tàu đã thử bom và chôn rác nguyên tử trên đất họ.
[22] Biên khảo lịch sử, tác giả Phạm Việt Châu. Xem kệ sách ebook: Giống Bách Việt, trong đó có Việt Nam ngày nay, sống từ lâu tại phía Nam Dương Tử, bị tộc Hán ức hiếp, xâm chiếm, cai trị trong suốt nhiều thế kỷ, một phần cư dân phải nhiều lần thiên di dần về phía cực nam Dương Tử, và xuống Nam Đông Nam Á, hoà huyết sống chung với các cư dân cổ để trở thành các nước Thái, Miến, Cam Pu Chia, Lào, Phi Luật Tân, Mã Lai Á, Nam Dương ngày nay. Riêng tộc Lạc Việt ở cực nam nước Tàu đã hoà lẫn với Chiêm Thành và một phần Phù Nam để trở thành Việt Nam. Các nước mới này nhiều thăng trầm lịch sử nhưng tất cả đều đứng vững, độc lập, tăng trưởng, bản sắc hình thành khẳng định riêng lẽ. Ngày nay, một lần nữa với vị trí chiến lược, thương mại, kinh tế mới, tất cả lại bị tộc Hán dòm ngó và đã ra tay lũng đoạn, tàm thực. Một công trình nghiên cứu công phu và nhiều giá trị nhờ cái nhìn sáng suốt và xuyên suốt tình hình lịch sử kinh tế chính trị. Người đọc cảm nhận được tấm lòng Lạc Việt và tâm hồn Bách Việt của một nhà nghiên cứu trong quân đội miền nam thời VNCH
[23] Gió thổi lung tung đủ chiều trong các bài đọc của ngài, đa phần là làm mát lên hy vọng, xin bái phục (các) quân sư viết giùm diễn văn!
Biết đâu các lãnh tụ Việt thi hành kế hoạch của Câu Tiễn (Bách Việt) ngày xưa : tự mình cúi đầu ngậm nhục (nằm n(gai)...vàng, nếm mật..gấu), cho đầu...gấu đánh người đòi công lý, để tàu lạ cướp cá cướp ghe giết cả dân chài. Không được quân tử ...tàu cho lắm.
[24] Việt Khang mãn hạn tù ngày 14/12/2015
[26]  Ngục trung nhật ký  là thơ người khác (gs. Nguyễn Hữu Mục ), Hoàng Khoa Khôi, Thụy Khuê còn đi xa hơn nữa khi cho biết những bài văn, bài báo (như Bản án thực dân) viết tại Paris những năm 1924 là do Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền viết ra với đóng góp của Phan Chu Trinh. Ông Hồ khi đó chỉ giữ vai trò bình phong che mắt mật thám và chính quyền mẫu quốc Pháp. 
[27] Họ đã chẳng qua lại mua bán thuê đất rừng nhà máy, thi hành các mật ước, thoả ước chính thức ký ...sau lưng dân Việt?
[28] Xem chú thích 16
[29] Danlambaovn.blogspot.fr/2015/11/ke-hoach-cuop-nuoc-va-ban-nuoc-hoan-hao.html
[30]lhassa.org/histoire-du-tibet/accord-en-17-points.php, hiệp ước 17 điẻm
[31] Xem tài liệu của nhà cầm quyền VN sau cuộc tấn công Trung Cộng tại biên giới phía bắc VN: Sự thật về quan hệ Việt Nam- Trung Quốc : dinhtanluc.wordpress.com/303. Xem ct 35.
[32] Nguyễn Huệ Chi : « Nhà thơ Vương Bột thời nhà Đường của Trung quốc cũng từng nói: “Leo lên đỉnh núi Thái để nhìn các núi khác, sẽ nhìn thấy được những điều mình chưa thấy qua”.https://levinhhuy.wordpress.com/2015/11/06/cau-tho-vuong-bot/ Đó là một câu văn, không phải câu thơ, và ở trong thiên khảo luận Bát quái đại diễn luận của Vương Bột. Nguyên cả câu là: 據滄海而觀眾水.則江河之會歸可見也,登泰山而覽群岳,則岡巒之本末可知也
Cứ thương hải nhi quán chúng thủy, tắc giang hà chi hội qui khả kiến dã; đăng Thái sơn nhi quán chúng nhạc, tắc cương loan chi bổn mạt khả tri dã. (Hãy đứng nơi biển cả để quan sát các dòng chảy, sẽ biết các sông rạch tụ về đâu; hãy lên núi Thái để nhìn các núi non, sẽ thấy được các đèo dốc nhấp nhô mà ta chưa từng biết) Tập đã ngắt vế trước hàm nghĩa nước chảy về nguồn đi, “ý tại ngôn ngoại”... »
[33] Xem bản đồ Tàu vào đời nhà Đường hay thế kỷ 16, 17 và bản đồ thủ tướng Đức Angela Merkel đã trao tặng cho ông Xi khi ông qua mua máy bay! Trong đó không có các đảo bị Tàu chiếm đóng hiện nay. Bà còn là lãnh tụ người Âu duy nhất dám tiếp đức Đạt Lai Lạt Ma khi ông sang viếng Âu châu.
[34] Năm nay 2015
[35] ijavn.org/2015/11/loi-noi-doi-vi-ai.html. Thật mỉa mai : khi Tàu « khuyên » người Việt làm theo nguyện vọng của Tàu là quên chuyện biển đảo, thật không thể không nghĩ đến chuyện Hà Nội cũng « thiết tha kêu gọi» khúc ruột ngàn dặm hãy bỏ qua "định kiến và mặc cảm" với nhà cầm quyền để cùng tiến tới tương lai theo hướng...Tàu định.
[36] Trong tài liệu Sự thật về quan hệ Trung Quôc -Viet Nam trong 30 năm qua : dinhtanluc.wordpress.com/387/ rõ ràng nhà cầm quyền VN, với Lê Duẩn thời đó, tố cáo với nhân dân VN rằng TQ luôn hành động, ép buộc để VN bị chia cắt, và 2 nước Việt đánh nhau liên tục, để bị suy yếu và tuỳ thuộc vào TQ. Những khí giới TQ đem sang cho miền Bắc dùng đánh miền Nam và đánh Mỹ xưa kia nay được đem ra kể ơn và đòi nợ. 
[37] Thầy Thích Không Tánh kêu lên “ giặc đã vào nhà, vận mệnh Tổ quốc lâm nguywww.ghpgvntn.net
 [38] Tin túc Báo chí trong ngoài nước
[39] Chú thích 13
[40] Cổ sử Việt ghi theo Tàu, mà Tàu đô hộ xâm lăng Việt bao nhiêu lần, viết sửa lại lịch sử là nghề của chàng, nhưng chúng ta cũng có thể tự hỏi tại sao không Thần Nông là tổ của Bách Việt, đã khởi đầu việc trồng lúa thay vì hái lượm, tại vùng này với  phong thổ khi hậu thuận lợi ? Người Tàu khám phá tại Hemudu thuộc Triết Giang, nhiều nông cụ, vật dụng và luá gạo xưa, cổ nhất thế giới, một thủ phủ của Bách Việt thời cổ đại ?. Giống người cổ ở đây có các tượng ( thờ ?) người mắt to, mũi lớn, giống như dân vùng hải đảo Đông Nam Á ngày nay, chứ không cao lớn trắng trẻo đẹp trai  phương bắc kiểu ông Xi : bề thế, mắt hí, mí bụp, má húp, cổ rụt.
[41] Đế quốc Anh Pháp Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha (néerlandaise, portugale, espagnole) bằng đường biển, cướp nhiều vùng trên vòng đai Thái Bình Dương  tại các nước Nhật,Tàu,Tích Lan, Nam Dương, Ấn Độ, Nam Mỹ...
[42] Xem chú thích 8 trên đây
[43] Xin lại được nghi rằng : biết đâu các vị này ngoài mặt đánh đá giành giựt chức quyền để che mắt người Tàu, thực chất lại là bắt chước Câu Tiễn ngàn xưa, khom lưng, nếm nhục chờ ngày thoát Trung ? Vật thì s..u..ỵ..t xin chớ nên dịch đoạn này ra tiếng Tàu !
[44] 16 triệu km2, 16 quốc gia, hầu hết là thuộc địa, coi nữ hoàng  Anh cũng là nữ hoàng của mình, nhưng bà chỉ giữ vai trò tượng trưng. Họ hoàn toàn tự do tự chủ về chính sách kinh tế, giáo dục, quân sự văn hoá vân vân
[45] Đây cũng là con dao hai lưỡi cho Tàu : Vùng đạo Hồi và các dân tộc anh em bao quanh cũng cùng tôn giáo, trong hoàn cảnh Hồi giáo quá khích hiện nay, mọi hành động đàn áp người Hồi tại Tàu có thể được diễn dịch nguy hiểm ngoài ý muốn người Tàu.
[46]  Nơi đây xin tỏ lòng biết ơn những bậc tiền bối cận đại, như Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Vương Hồng Sển, Nguyễn Hiến Lê... cho đến gần đây hơn Phạm Văn Sơn, Phạm Việt Châu, Tạ Chí Đại Trường...và những vị thầy cô không danh tiếng nhưng vô cùng gần gũi và có ảnh hương, từ tiểu học qua trung học đã dạy chúng tôi lịch sử và văn hoá Việt Nam (ít ra từ quan điểm miền Nam : không hề sợ Tàu ! ).
 [47] Kim Dung, người vùng Triết Giang, vốn là một người Tàu Hoa Nam, đăc biệt « ưu ái » các dân tộc vùng Nam Dương Tử giang, nghĩa là thuộc Bách Việt xưa. Các nhân vật chính tà do ông dựng lên đều đến từ những tiểu quốc thuộc nhóm Bách Việt này, Khiết Đan, Đại Lý, Liêu vân vân đã bị nuốt và Hán hoá từ lâu, nay sống lại dưới ngòi bút Kim Dung, tuy cổ quái tính tình dị hợm nhưng người nào cũng được độc giả lưu ý với ít nhiều cảm tình.
[48] Nỗi băn khoăn của Kim Dung, Tiểu luận, Nhà xuất bản Văn Mới, Sài Gòn 1972, http://nguyenmonggiac.info/noi-ban-khoan-cua-kim-dung.html
[49] Diễn dịch thứ nhất là đảng cộng sản Tàu lãnh đạo 4 “giai cấp” sĩ nông thương và binh (lính). Cộng sản mà chia đến 4 giai cấp thì thiệt là vô lý/ vô duyên, vi thật sự theo đảng chỉ có hai giai cấp là nhân dân và đảng, nên xin tạm nhận cách thứ nhất, để làm trục xoay quanh cho bài viết này
[50] 16 chữ vàng và 4 tốt : nguyên văn không nhắc ở đây, chỉ ghi lại bản dịch đúng nghĩa Láng giềng độc ác. Cướp đất toàn diện. Lấn biển lâu dài. Thôn tính tương lai
[51] Hiện nay vì vấn đề Hồi giáo cực đoan, họ nới lỏng ràng buộc để không phải (mang tiếng) khiêu khích những quốc gia Hồi giáo tự do khác.
www.lhassa.org/histoire-du-tibet/accord-en-17-points.php
[52] Dr Rebihya Kadeer còn tuyên bố thêm : « họ chiếm lấy truyền thống ẩm thực và âm nhạc của chúng tôi,  tuyên bố là của Tàu. Họ tuyên bố có lịch sử 5000 năm, chúng tôi có thể nói ngọn nguồn chúng tôi còn xưa hơn nữa »
[53] Tháng 10 năm 1949 vừa lập quốc, đầu năm 1950 Mao Zedong tuyên bố sẽ giải phóng Đài Loan, Tibet và Hải Nam ;  cuối năm Mao đưa 84000 quân vào Tibet. Quân đội Tibet phải 1 chọi 10, bị đạo quân nhân dân xâm lược và thiện chiến đè bẹp nhanh chóng
[54] Hốt Tất Liệt sau khi dẹp yên nhà Nam Tống, lập nhà Nguyên, cai trị trên toàn cõi Tàu thời đó, không mang gien Hán nhưng vẫn mưu toan chiếm  nước Đại Việt của nhà Trần để  trả thù lần đại bại trước. Như ta biết, quân Nguyên hai lần sau này cũng bị Hưng Đạo Vương của Đại Việt đánh không còn manh giáp thời Trần Nhân Tông, con Hốt Tất Liệt là Thoát Hoan chui vào ống đồng chạy về Tàu.
[55]  Tượng Quận, Quế Lâm xưa kia bị nhà Hán cai trị chia thành quận huyện
[56] Kubilai (Hốt Tất Liệt) năm1257 chưa lên ngôi nhưng cũng đã cho Uriyangqadai (Ngột Lương Hợp Thai) đem quân đánh chiếm được Đại Lý, rồi tiện đường đánh Đại Việt lần thứ nhất dưới thời Trần Thái Tông, với hơn 4 vạn quân trong đó có phò mã Hoài Đô, 50 vương tướng Mông Cổ và 2 vạn người Đại Lý thống lĩnh bởi hàng vương Đại Lý Đoàn Hưng Trí, bị quân tướng Việt đánh bại (theo wikipedia)
[57] Cha Nùng Trí Cao là Nùng Tồn Phúc bị vua Lý Thái Tông giết, nhưng vua tha mạng Nùng Trí Cao và mẹ, sau này lớn lên Cao chiếm Quảng Tây, Quảng Châu gộp với  Đại Lý  đổi tên thành nước Nam Thiên « dưỡng quân và làm các chiến thuyền sửa soạn đánh Quảng Châu lần nữa và cương quyết lập một nước độc lập với tên hiệu là Nam Việt tại thủ phủ Quảng Châu. Từ Việt đã cho thấy vẫn còn khêu gợi và hấp dẫn, của các giống dân vùng Lĩnh Nam mà Nùng – Zhuang là một nhánh Bách Việt » Về sau con và mẹ Cao bị quân Tống giết chết. Còn Cao cũng chết nhưng không rõ vì sao. Ông được dân Choang sùng kính. Nhưng người Tàu không xem nước Nam Thiên là một quốc gia độc lập, như đồng thời Đông Âu, Tây Âu, Mân Việt và Nam Việt nhưng ngàn năm sau (1997) Nùng Trí Cao được phong (« thần ») anh hùng ...Trung Hoa, chắc là để dân Choang càng mau quên cội nguồn Bách Việt, không lợi dụng đòi...ly khai. http://nghiencuulichsu.com/…/18/viet-bac-lich-su-va-con-nguoi…/
 [58] vì thật ra vốn gốc người Liêu nên bị người Hán ghen ghét, Kiều Phong phải tự sát, thảm kịch gây xúc động mạnh nơi độc giả
 [59] (L’Amant The lover) Người tình (miệt vườn Sa Đéc –Vĩnh Long gốc Chợ lớn) xuất bản năm1984 và Người tình Hoa Bắc (L’amant de la Chine du Nord ) Marguerite viết sau khi J. J Annaud thực hiên phim The lover với Jane March và Tony Leung
[60] Xem Đề cương của Lê Duẩn : dẩy mạnh cách mạng công nghiệp, nông nghiệp, kỹ thuật bla bla ...
[61] Nhiều vùng phía Nam Tàu như Quế Châu, thủ phủ xa xưa của Nùng Trí Cao, còn đền thờ Hai Bà Trưng. Khi chúng tôi hỏi người guide gốc Thượng Hải về sự tích Hai Bà, cô ta bảo là huyền thoại về « hai bà phù thuỷ » ( witches)
[63] Tộc Việt gặp gỡ, hoà huyết với nền văn hoá Sa Huỳnh, nền văn minh này với các dân tộc bản địa đến từ vùng biển đảo tuy trẻ hơn nhưng không kém rực rỡ. Cuộc giao tiếp văn minh đồng thau và đồng sắt, văn hoá núi non đồng bằng nông nghiệp (ăn gạo thịt) giao duyên với cuộc sống biển đảo hải hà  (ăn cá tôm) là dịp may cho chúng ta non nghìn năm trước : lột bỏ ảnh hưởng Tàu và trưởng thành biệt lập. Cũng là một cách gặp lại giữa những hậu duệ theo cha và theo mẹ từ thời hồng hoang ? Phải chăng một phần nhờ nguồn cội xa xôi này mà  thuyền nhân Việt được bà con biển đảo Phi Luật Tân (và Nam Dương, Mã Lai) đón tiếp cưu mang ?
[64] Thí dụ dùng tài liệu giáo khoa lịch sử do người Việt soạn thảo, xem xét luật lệ chính trị để : lập hồ sơ kiện Trung cộng ( luật sư Tạ văn Tài Harvard Law School ) xem 3 bài của ông ở thesaigontimes.vn. Thí dụ dự thảo kế hoạch phòng thủ vùng biên giới với Tàu/các yếu điểm trong nước ; tấn công (bất bạo động) /bao vây/cô lập các vùng người Tàu ( đóng góp của tân vàcựu chiến lưọc gia quân đội, công an trong ngoài nước ) Thí dụ bảo vệ, che chở các lãnh tụ, nhân tài và tuổi trẻ rường cột tương lai đất nước trong nước. Kêu gọi quan sát viên /các tổ chức quốc tế đến điều tra. Vân vân và vân vân

No comments:

Post a Comment