Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday, 27 September 2018

Saturday, September 2, 2017

THỦ TƯỚNG NHẬT SAU KHI NGHỈ HƯU


 

THỦ TƯỚNG NHẬT SAU KHI NGHỈ HƯU
August 13, 2017

Khó có thể tưởng tượng được người đàn ông ngày ngày đạp xe đi chợ mua thức ăn cho vợ này là ai
Hàng ngày, người ta thấy một người đàn ông già đạp xe điềm tĩnh đi chợ mua đồ ăn. Ông được mọi người vô cùng yêu mến về phong cách của mình. Đó là Thủ tướng Nhật về hưu.
Người ta thường nói, khi lãnh đạo của một nước về hưu mà cuộc sống trở nên bình dị thì chứng tỏ tỷ lệ tham nhũng của nước đó thấp và ngược lại.

Gần như tất cả các cựu thủ tướng của nước Nhật đều có cuộc sống khá giản dị nếu không nói là nghèo khó sau khi nghỉ hưu.
Ngài Murayama sau khi mãn nhiệm kỳ chưc thủ tướng Nhật Bản không lâu cũng từ bỏ vị trí trong Quốc hội đất nước, cả nhà già trẻ lớn bé đưa nhau về quê hương ở Oita, thuộc đảo Kyushu, Nhật Bản sinh sống.


Cựu thủ tướng đạp xe đạp đi chợ mua đồ ăn cho vợ.



Với phong cách bình dị, ông điềm tĩnh trên chiếc xe đạp đi chợ.



Ông nói: “Bà nhà dạo này hay bị đau lưng, nên tôi đạp xe ra chợ mua ít đồ ăn”.
Vậy đấy, bạn có nghĩ đến một người đàn ông già, lại còn là một cựu thủ tướng đạp xe đạp hằng sáng ra chợ mua đồ ăn không?

Ngôi nhà may mắn


Mọi thứ bên trong ngôi nhà vẫn y như 2 năm trước, sạch sẽ và nhỏ xinh.





Ông Murayama nói rằng ngôi nhà này được xây từ thời Minh Trị cũng 130 năm rồi. Năm 1945 khi quân Mỹ ném bom thành phố Oita, thành phố bị tàn phá nặng nề nhưng ngôi nhà không bị hư hại nhiều. “Đây là một ngôi nhà may mắn nên tôi đã mua nó”, ông nói.





Bước vào nhà, một người phụ nữ cúi đầu chào. Không thể ngờ đây là người từng là Đệ nhất phu nhân của nước Nhật. Bà giản dị, thân tình chào mừng khách bằng bình trà nóng, chút bánh đậu thong thường...


Nhà của những cựu Thủ Tướng khác thì ít người dám lai vãng đến, nhà của cựu Thủ Tướng Nhật Murayama không có lính bảo vệ, không có các thiết bị an ninh tối tân , không có người giúp việc, chỉ có đôi vợ chồng già hơn 90 tuổi mà có không ít người thường xuyên đến thăm hỏi. Cuộc sống của vợ chồng ông không khác gì với cuộc sống của những người dân nghèo khó quanh làng.

Hằng ngày ông dậy từ 5 giờ sáng để đi bộ đến công viên gần nhà, tập thể dục, hàn huyên với những người bạn già. Cứ 2 tiếng như vậy mỗi ngày đã góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn sức khỏe cho ông.
Có người hỏi: “Thủ tướng nước Nhật nghỉ hưu thì được hưởng những ưu đãi gì?”
Ông nói: “Không có gì cả”.

Thủ Tướng Nhật sau khi nghỉ hưu

Tổng thống Mỹ sau khi nghỉ hưu, chính phủ sẽ cấp một khoản tiền để xây dựng thư viện. . .
Thủ Tướng Nhật sau khi nghỉ hưu, chính phủ không hề có bất cứ trợ cấp đặc biệt nào, thậm chí trợ cấp sách, báo, đi lại cũng không.
Nếu bị bệnh thì đến bệnh viện khám, lấy thuốc và trả 30% tiền thuốc, tiền bệnh viện như người dân bình thường, tiền hàng tháng cũng chỉ có số tiền lương hưu ít ỏi.




Khách mời cựu Thủ Tướng đi ăn trưa, cuối cùng ông cũng đồng ý.






Khi bước vào quán Sushi, quán nhỏ không quá nhiều người, mọi người vừa ngồi xuống, nhân viên phục vụ đã mang đồ ăn ra. Bà chủ cửa hàng nói: Chỉ cần ông Murayama gọi điện thoại đến là họ biết ông muốn ăn gì.



Tất cả tài xế taxi đều biết về người đàn ông này. Họ nói rằng đây là người con của Oita, là niềm tự hào của Oita và họ đặt biệt gọi ông là ông Tấn. Chẳng trách ông Murayama ra ngoài không cần bảo vệ, tình yêu thương của làng xóm, láng giềng đã là sự bảo vệ tốt nhất với ông.






Khi từ biệt mọi người, ông Murayama nói: “Thật ngại quá, anh nhất định trả tiền sushi, vợ chồng già chúng tôi cảm thấy rất có lỗi”, ông nói đến đây mọi người thực sự cảm thấy cảm động.




Theo: Therealtz © VietBF

*Thế giới này có bao nhiêu cựu quan chức cấp cao có nếp sống bình dân, giản dị như ngài cựu Thủ Tướng Nhật Murayama ? Các quan to của Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam có nên học tấm gương này không???
__._,_.___

LÊ LÔ * HÀ NỘI

Quốc gia Ba Đình, và Hà Nội - Lê Lô




Tôi từng ra Hà Nội sống và làm việc một năm đầu thế kỷ 21. Tôi quen sống ở Sài Gòn, thích cái không khí tưng tưng ngang dọc (và ngang ngạnh) của trời Nam, nay phải đến một nơi mà đối với tôi không khác gì mấy một nước ngoài, nên không khỏi có phần hồi hộp. Thật ra, những người từng đi nhiều thì đến một nước khác họ cũng không hồi hộp. Ở Paris qua New York làm việc, hay ngược lại, bất quá chỉ cần làm quen với phố xá dăm bữa nửa tháng là đâu vào đó.

Lối sống ở các nước phương Tây không khác nhau mấy, quan trọng nhất là lối hành xử và suy nghĩ của họ cũng na ná, không nếu không na ná thì người ta cũng tôn trọng sự khác nhau. Làm việc ở Hà Nội có khác. Đó là nơi mà có lần, nhà văn Tưởng Năng Tiến viết như thế này: “Tôi chưa bao giờ đến Hà Nội, và cũng chưa bao giờ cảm thấy có chút xíu nào hào hứng khi nghĩ đến thành phố này. Đường thì xa, vé tầu thì đắt, thủ tục thì lôi thôi rườm rà, và lỡ mà kẹt luôn thì... chết mẹ.”

Quả thật, Hà Nội đại để cũng cho một thằng dân miền nam cái cảm giác đó. Không phải tôi tưởng tượng mà có kinh nghiệm đàng hoàng với nó ít nhất là hai lần. Lần đầu, năm 1993, mới chân ướt chân ráo đến Hà Nội thì đúng 11 giờ đêm, hai công an chìm đến gõ cửa phòng khách sạn, nói là đến “hỏi thăm và bảo vệ khách.” Sáng hôm sau tôi đổi vé máy bay và dông tuốt về Sài Gòn.

Lần thứ hai theo một công ty nước ngoài về làm việc hai ngày. Trong hai ngày đó tiếp xúc với mấy đảng viên cỡ trung trung đang phụ trách công tác tư tưởng của cả nước, sau hai ngày thì tôi bịnh đúng một tuần vì căng thẳng. Tóm lại, trong cuộc đời bá láp này, tôi đã học rất nhiều tốt đẹp từ sách vở về thủ đô Thăng Long, nhưng học ở thực tế Hà Nội thì toàn là chuyện chó má. Hai kỷ niệm ‘sâu sắc’ về Hà Nội ấy khiến tôi đã lẩm bẩm thề với cụ rùa nơi Bờ Hồ, buổi chiều trước khi ra phi trường Nội Bài, “vĩnh biệt cha nội, một đi không trở lại.”
Ấy vậy mà không biết ai xúi bậy hay sao mà lần này, tôi lại... hướng về Hà Nội! Mà lại chịu ở đến một năm trời.

Trong một năm trời đó, tôi đã đi hầu hết các tỉnh thành miền Bắc (trừ Điện Biên Phủ), rồi lần vào Bắc Trung Việt, qua Thanh Hóa, Vinh, vào Quảng Bình. Hết một năm, chuyển vào Nam làm việc ở Sài Gòn tiếp hai năm nữa. Lần này, lại đi khắp Nam kỳ lục tỉnh. Vì lý do công việc, tôi không đi khơi khơi để cưỡi ngựa xem hoa mà thực sự là ở và làm việc, trên nhiều miền đất nước trong suốt thời kỳ quá độ từ thời đại Hồ Chí Minh (quang vinh) đến thời đại @ (a-còng) láng cóng, dưới (ách) cai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Quốc gia trong lòng thủ đô
Hà Nội có một quốc gia trong một quốc gia.
Quốc gia ở đây không như cách định nghĩa hàn lâm của các nhà làm luật — phân biệt quốc gia-nhà nước (nation-state) — mà theo cách hiểu thông thường: quốc gia là một nước có biên giới địa lý riêng (có hoặc không có chủ quyền).

Khi bạn đến một nước lạ, cảm giác như thế nào? Có phải có cái cảm giác tưng tưng, nghĩa là mình không thuộc vào đâu cả, mình thuộc những người đứng bên bờ giậu ngó qua nhà hàng xóm đang sinh hoạt (buồn tẻ hay náo nhiệt), mình có cái cảm tưởng không ai biết đến mình và đồng thời như tất cả đang ngó mình chăm chẳm, mình có cái cảm giác lành lạnh khi ngồi lủi thủi nhai cơm một mình, hoặc chông chênh dù đang trò chuyện với người bản xứ, và rất thường xuyên là thấy là lạ dửng dưng khi ngắm nhìn một cảnh nào đó, một di tích hay một cơ ngơi nào đó, của xứ người.

Chính Hà Nội đã cho tôi cảm giác đó, không phải được (hay bị) coi là người ngoại cuộc, mà chính nhiều người Hà Nội, những thường dân và ngoại dân (sống ngoài pháp luật), cũng có cảm tưởng đó, trong đời sống thường ngày của họ. Cái khác giữa họ và những người ở phương khác tới là, họ đã sống quen với cảm giác đó nên không buồn đặt tên, hoặc quá mệt mỏi với đời sống nên không muốn đào xới những gì không thuộc về hay làm nên cơm ăn áo mặc.

Hà Nội là một thành phố. Thành phố còn xa lạ với rất nhiều người miền Nam theo nhiều nghĩa dù đã gần ba mươi năm thống nhất. Nhưng lạ hơn nữa là nó cũng, ở một chừng mực nào đó, xa lạ ngay với những người ở miền Bắc. Không phải lạ đường lạc phố. Người ta có thể thông thuộc hết mọi ngả đường, các ngõ ngách, những địa hình đặc biệt của Hà Nội. Người ta có thể thông thuộc những cái ngõ luồn lách chật hẹp đằng sau và xuyên qua những phố cổ, những căn nhà chỉ có một phòng nằm ngay những địa chỉ danh tiếng gần bờ Hồ nhưng thực ra là khuất và rất sâu trong kiệt (hẻm). Nhưng người ta, những thường dân và phó thường dân Việt Nam, vẫn thấy nó không thực sự là thành phố của mình.

Nếu lấy lăng ông Hồ làm tâm điểm của Hà Nội, vạch một vòng tròn có bán kính một cây số để bao gồm những cơ sở của nhà nước như hội trường và quảng trường Ba Đình, các bộ, thì bầu khí xa lạ đậm đặc dần khi càng tới gần trung tâm. “Vị cha già dân tộc” nằm trong cái lăng được xây theo kiểu kiến trúc nổi tiếng xấu nhất thế giới: kiến trúc Liên Xô. Các cột đứng to và cao, đen lủi thủi, những khối đá xám lạnh chồng lớp nặng nề và mệt nhọc chương ứ lên bầu trời tuồng như muốn tạo một sự sừng sững kiêu hãnh và lạc điệu.

Con người đó khi sống được ca tụng là gần gũi nhân dân, khi chết càng được tụng ca dữ dội hơn. Thế nhưng trừ những dịp lễ lạc để người ta vào tham quan xác, sự sừng sững của lăng ông Hồ chỉ tô đậm sự lạnh lẽo của một khối đá trơ trụi, chìm trong bầu khí lạnh, nó như sự ngất ngưỡng xa cách của một người làm xiếc đi trên đôi nạng cao nhìn xuống những thưa thớt người qua kẻ lại: người đi trên nôi nạng xiếc không với xuống được người đi bên dưới, mà người đi dưới cũng chẳng mó được người làm xiếc. Chỉ ngó nhau chơi vậy thôi.

Đại lộ giữa lăng và hội trường Ba Đình là đại lộ rộng nhất nước. Nó là quảng trường. Nơi đây đã diễn ra vài biến cố lịch sử, nơi làm nên lịch sử Việt Nam hiện đại từ giữa thế kỷ 20. Đây là nơi tập họp của đám đông, quảng trường Ba Đình, mỗi khi có biến cố lịch sử người ta hay tập họp để làm lịch sử. Các cuộc tập họp không phải thôi thúc bởi tính hiếu kỳ, mà do sự đồng lòng của dân với những chuyển biến của đất nước, thí dụ như ngày tuyên bố Độc lập 2 tháng 9 năm 1945. Quảng trường Ba Đình đúng là quảng trường lịch sử, từng chứng kiến đám đông từ nhiều nơi đổ về.

Ngày hôm nay, từ ba mươi năm qua, quảng trường Ba Đình không làm nhiệm vụ truyền thống của nó. Nó trở thành một nơi tịch mịch, một nơi sang trọng và tách biệt với đám đông của nhiều thành phần của đất nước. Từ phía bên hội trường Ba Đình nhìn sang, ta sẽ thấy một bức tường đen chạy từ hướng chùa Một Cột đến mặt tiền lăng, kéo dài gần mút tầm mắt phía bên kia. Có ba bực cấp từ lòng đường, một hàng cây cảnh, và hai hàng khẩu hiệu lớn treo trên tường phía hai bên lăng. Các bực cấp đó không phải dành cho người đi bộ.

Nó là bực cấp để làm kiểng. Có lần một giáo sư Chính trị học trọng tuổi người Ý đi tham quan quảng trường, đã tưởng như bên nước ông, bước lên bực cấp sát lề đường. Ông mới dợm vài bước đã nghe một tiếng quát rùng rợn vang lên từ phía anh lính đứng gác lăng, nghe cả tiếng đạn lên nòng súng. Ông sợ hãi nhảy xuống lòng đường, và hiểu ngay mình vừa làm một hành động lầm lẫn. Buổi sáng đó, ông kể lại, dù ông đi đâu loanh quanh gần đó cũng có một gã thường phục lầm lì theo sau.

Nếu so sánh quảng trường Ba Đình và khuôn viên hồ Gươm (người Hà Nội chỉ gọi là bờ Hồ), sẽ thấy một sự đối lập rất rõ. Bờ Hồ là nơi tập họp của người (dân) Hà Nội, sáng sớm là nơi chạy bộ, tập dưỡng sinh, chiều và tối là nơi của các cặp tình nhân, của những người lớn thủng thỉnh đi dạo hay ngồi đọc báo, cũng là nơi người (dân) Hà Nội liệng bao rác xuống lòng hồ, đi tiểu tiện hay khạc nhổ, cũng là nơi gây ra nhiều cuộc tranh luận làm sao bảo tồn cụ rùa có một không hai trên thế giới, hay những cãi cọ về tiêu chuẩn kiến trúc xung quanh bờ Hồ để không phá vỡ cảnh quan thơ mộng. Nói chung, hồ Gươm phản ảnh đời sống của xã hội Hà Nội. Nó sống động, vừa sạch sẽ vừa dơ bẩn, thơ mộng trong đêm trăng hay ồn ào chứng kiến những trận đua xe của thanh thiếu niên.
Bờ Hồ là của Hà Nội, của người Hà Nội. Nó là Hà Nội.

Quảng trường Ba Đình thuộc về Hà Nội nhưng không phải của Hà Nội.
Quảng trường Ba Đình ngày nay tách biệt hẳn bờ Hồ dù cách nhau vài con đường. Quảng trường Ba Đình không phải là chỗ chơi của người Hà Nội. Không ai tới đó để ‘thư giãn,’ để ngồi tâm tình dù nó rộng rãi, ít khói xe. Nó là cõi riêng của một xác chết, và cũng là cõi riêng của một nhúm người sống theo người đã chết. Xung quanh trung tâm xác ông Hồ là các bộ, hội trường Ba Đình, những con đường sạch sẽ tươm tất, những tàng cây xanh, nhưng người ta không qua lại ngắm nghía dù khó kiếm một nơi sạch đẹp như vậy trong lòng thủ đô chật chội. Tự cái lăng, tự các bộ, tự quốc hội, tự những công an chìm nổi đứng gác, đã tự tạo cho khu vực này một biên giới, một quốc gia riêng. Trong cõi riêng đó ban xuống những mệnh lệnh để cai quản cả quốc gia bên ngoài.

Tại sao có một không khí tách biệt và một lực lượng trang bị phòng vệ cẩn mật Ba Đình như vậy, dù đã là thời bình, và ngay cả trong khi thế giới đang đối đầu với khủng bố thì dù Việt Nam vẫn không bị ảnh hưởng, nơi đây, quanh quảng trường Ba Đình, vẫn có cái không khí hâm hấp của khủng bố trong lòng người dân thường mỗi khi phải đi ngang qua.

Hà Nội không sợ khủng bố, các quan to cũng không sợ bị ám sát. Mà có lẽ, và chắc là, do vị trí và truyền thống làm lịch sử (hiện đại) đều đã diễn ra ở quảng trường Ba Đình cho nên nó có một chỗ đứng đặc biệt. Giáo sư Mandy Thomas thuộc trường đại học Tây Sydney (Úc), trong một tham luận đọc ở Đại học Quốc Gia Úc tại Canberra hồi tháng 6 năm 2002, có một nhận xét sâu sắc: những địa chỉ lớn như quảng trường Ba Đình thường là nơi dễ xảy ra các bất ổn chính trị, vì nó có một không gian rộng rãi, lại nữa các biến cố do chính quyền tổ chức ở quảng trường chỉ tiêu biểu cho chế độ chứ không hề phản ảnh ước muốn của quần chúng.

Nghiên cứu các cuộc biểu tình hay nổi dậy đông người trên thế giới, chúng ta thấy những cuộc tụ tập lớn đều diễn ra (hay kéo về) ở thành phố, kéo về những nơi có khuôn viên (không gian) rộng rãi, thường là chỗ tụ tập đầu não của chính quyền. Quảng trường Ba Đình có tất cả các điều kiện địa lợi đó. Một cuộc tràn ngập người ở Ba Đình chắc chắn có ý nghĩa rất lớn — dù có thể chỉ là sự tràn ngập của những cuộc... đua xe máy! Nhưng chúng ta thấy những năm qua (mười năm qua), thanh niên Việt Nam thường tự tổ chức các cuộc đua xe hay tràn ra đường mỗi khi có một biến cố thể thao như các trận túc cầu có Việt Nam tham dự. Nhưng đám đông chỉ đua khu vực loanh quanh gần bờ Hồ, nơi mà không gian không lấy gì rộng lắm. Đám đông chưa bao giờ nghĩ tới việc đua xe ngay quảng trường, một địa điểm cực kỳ lý tưởng của tốc độ.

Trước nhất là họ sợ. Quảng trường là cấm địa. Tử Cấm Thành của Việt Nam triều đại cộng sản.
Thứ hai là họ cảm thấy lạ xa với khu vực Ba Đình. Khu vực đó không hề thể hiện hay phản ảnh cuộc sống của những người dân thường. Đua xe ở đó chỉ sướng ở tốc độ nhưng không có cái sung sướng được chia sẻ cảm giác với người xem, không cảm thấy được ở giữa lòng đám đông (dù bị đám đông có thể reo hò tán thưởng hay phản đối), vì Ba Đình không thuộc về nhân dân, nó thuộc về một thiểu số cầm quyền và độc quyền. Ba Đình rộng rãi nhưng ích kỷ, nó thoáng đãng nhưng lạnh lẽo. Nó to nhưng bụng rỗng. Nó mát mẻ nhưng là cái mát của tử khí!


Dân xa lạ với chính quyền vì chính quyền, qua biểu tượng là quảng trường Ba Đình, tự đào giao thông hào cố thủ bằng tất cả phương tiện dồi dào từ sức dân. Một trong những câu khẩu hiệu cũng là phương châm hành xử của nhà nước phản ảnh sự xa cách giữa quốc gia Ba Đình và thường dân đa số: “Nhà nước và nhân dân cùng làm.” “Nhà nước” là một thực thể; “nhân dân” là một thực thể đối lập, nếu hai là một thì không cần hô “cùng làm.”

Ba Đình giờ đây chỉ nhộn lên khi có một quan to chết và được làm quốc tang, hay khi có quốc khách đến viếng lăng, những buổi lãnh đạo sắp hàng vào lăng trước khi khai mạc các kỳ họp lớn như Quốc hội hay Đại hội Đảng. Nó là nơi tụ tập của lãnh tụ, của quốc khách, của quốc lễ, của người đã chết.
Ba Đình, khu vực Ba Đình, là một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Ba Đình là một quốc gia. “Độc lập, Tự do, Hạnh phúc” chính là khẩu hiệu đúng đắn nhất áp dụng cho quốc gia Ba Đình. Nơi đây cai trị cả nước nhưng hoàn toàn độc lập với cả nước. Nơi đây bắt cả nước theo ý nó nhưng riêng nó thì hoàn toàn được tự do muốn làm gì thì làm. Và hạnh phúc, tất nhiên, chỉ riêng mình nó biết. Một hạnh phúc riêng biệt như một hòn đảo dành riêng cho những cặp trăng mật!
Khu cấm địa đó đã lạnh lẽo từ ba mươi năm qua theo nghĩa đen. Nhưng nếu lịch sử là sự lập lại thì chắc rằng khu vực quang đãng đó sẽ chứng kiến và chứa đựng một cuộc tập trung lớn để lịch sử lại tiếp diễn.

Vi hiến
Trung tâm đầu não của quốc gia Ba Đình không phải là hội trường Ba Đình, nơi quốc hội họp, mà ở số 5 Nguyễn Cảnh Chân, tổng hành dinh của ĐCSVN.
Số 5 Nguyễn Cảnh Chân đưa ra mọi quyết định liên quan đến đất nước Việt Nam.

Quốc hội, cơ quan lập pháp, xương sống của mọi nền dân chủ trên thế giới, nhưng ở Việt Nam là tiểu đơn vị có mục đích hợp pháp hóa các quyết định đã được nhất trí từ tổng hành dinh Nguyễn Cảnh Chân.
Chủ tịch nước là người không có trách nhiệm nào cả trừ nhiệm vụ ký các đạo luật đã được tiểu đơn vị quốc hội thông qua. Vì vậy chủ tịch nước không bao giờ phạm sai lầm (trừ một số sai lầm là đã không kín đáo trong việc kinh doanh riêng).

Thủ tướng và các bộ, cũng bắt chước người ta gọi là hành pháp nhưng thực ra cũng là một tiểu đơn vị, thực thi đường hướng từ số 5 Nguyễn Cảnh Chân.
Nếu mọi quốc gia đều có hai vấn đề lớn là đối nội và đối ngoại thì quốc gia Ba Đình cũng vậy, chỉ có cách ‘đối’ là khác.

Đối nội thì tiểu đơn vị quan trọng nhất là Bộ Công an. Bộ Công an sẽ tổ chức ruồng bố, canh gác (và tất nhiên là bắt giữ) tất cả các tiểu đơn vị khác không chịu, hay làm không đúng, chỉ thị từ số 5 Nguyễn Cảnh Chân. Trong hệ thống cai trị của quốc gia Ba Đình, cũng như các nước khác, đều có ngành tư pháp với hệ thống tòa án từ thấp lên cao. Cái khác của các nước khác và quốc gia Ba Đình là ở chỗ, trong khi nước khác dùng lực lượng công an hay cảnh sát là biểu tượng bảo vệ pháp luật hay thi hành mệnh lệnh của tòa án thì ở quốc gia Ba Đình, qui ước này được thực hành ngược lại. Ở tầm vĩ mô, tòa án có nhiệm vụ thực hiện chỉ thị từ tổng hành dinh Nguyễn Cảnh Chân.

Ở tầm vi mô, công an giữ trật tự để tòa án làm theo sự chỉ đạo từ tổng hành dinh. Nếu có một quan tòa — trong lịch sử cầm quyền của ĐCSVN chưa hề có — lỡ phán xét một phiên tòa theo lương tâm thì cầm chắc công an sẽ đóng vai quan tòa và ‘xử’ ông ta hay chị ta tại chỗ. Thí dụ không thiếu. Gần đây nhất là vụ xử kín ông Nguyễn Vũ Bình ở Hà Nội. Nguyên đơn của vụ án này là số 5 Nguyễn Cảnh Chân, đã thưa bị đơn vì dám xin nguyên đơn thành lập Đảng Tự do Dân chủ đối lập. Tòa không xử vụ án này ở... trụ sở tòa án (kỳ chưa), mà xử ở một cơ quan khác nằm ở vị trí ít người biết là phố Đội Cấn. Xử len lén như vậy vì nguyên đơn, cũng là quan tòa, chắc cũng thấy cả thẹn vì cái vụ thưa gửi kỳ cục này.

Về đối ngoại, trên nguyên tắc là Bộ Ngoại giao, nhưng thực ra là Ủy ban Đối ngoại Trung ương (Đảng). Thí dụ cũng không thiếu (cái siêu việt của cộng sản là cái gì cũng thực, cũng có cơ sở, đều dễ chứng minh vì toàn là... hiện thực xã hội chủ nghĩa không hà). Trong Bộ Ngoại giao có một tiểu-tiểu đơn vị là Ủy ban về người Việt Nam ở Nước ngoài. Ông Bộ trưởng Ngoại giao hiện nay (2004) là Nguyễn Di Niên, trước khi lên Bộ trưởng đã làm Chủ nhiệm cái Ủy ban này. Như tên gọi, nhiệm vụ của Ủy ban này là lo “mọi khâu liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài.” Thế nhưng do nguyên tắc riêng của quốc gia Ba Đình, Ủy ban này, và cả tiểu đội trưởng của tiểu đơn vị Ngoại giao, đã không dám làm nhiệm vụ của mình.

Vì nhiệm vụ này đã được thực thi từ số 5 Nguyễn Cảnh Chân, do một người không dính dáng gì đến Bộ Ngoại giao, cũng không nằm trong tiểu đơn vị hành pháp hay lập pháp gì ráo trọi, là ông Phan Diễn. Ông Diễn là Thường trực Ban Bí thư, tức phó Tổng bí thư Đảng, nhưng quyền nhiều hơn vì ông quyết định các vấn đề quan trọng hàng ngày (“thường trực”). Ông Diễn đã làm công việc của Bộ Ngoại giao là ký (đại) cái Nghị quyết (số) 36 về người Việt Nam ở nước ngoài.

Hà Nội nói họ cũng dân chủ, gọi là dân chủ tập trung. Ông Phan Diễn, dù quyền hành bao trùm, nhưng không có nhiệm vụ gì trong hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Nhiệm vụ của ông là “tập trung” đứng đằng sau giựt dây cho những người đã xuất đầu lộ mặt làm việc. Vậy mà ông không yên tâm, ông ló mặt ra ký (luôn) một nghị quyết không thuộc phần vụ của mình, vì ông, và đồng chí của ông, đã làm việc theo nguyên tắc tập trung dân chủ riêng của quốc gia Ba Đình.
Cái đáng phiền là nguyên tắc riêng đó được áp đặt trên cả nước chứ không chỉ dùng riêng trong bán kính một cây số từ tâm điểm cái lăng.

Người Hà Nội không biết nói
Người Hà Nội không hẳn là phải sinh và lớn lên ở Hà Nội. Người Hà Nội bây giờ là dân tứ xứ và tứ chiếng, quê quán loanh quanh ở miền Bắc nhưng sống lâu ở Hà Nội thì thành người Hà Nội. Ông Nông Đức Mạnh, thí dụ, không sinh ở Hà Nội nhưng thuộc về người Hà Nội. Nói chung, người Hà Nội ở đây phải là người có gốc gác ở các tỉnh phía Bắc vì họ có nhiều điểm chung, đặc biệt nhất là thích nói. Còn người Nam bộ mà có sống lâu ở Bắc thì vẫn là Nam bộ, như ông Phan Văn Khải chẳng hạn, vì giọng lưỡi Nam bộ rất khác.

Hà Nội của thời Thạch Lam, thời chiến tranh không biết ra sao nhưng cái vẻ bên ngoài chắc vẫn là nét e ấp kín đáo. Người Hà Nội có vẻ như lịch thiệp, ăn nói thâm trầm, và người Hà Nội vẫn tự hào về điều đó, cái tự hào của phần lớn dân thủ đô ở nhiều nước khác.


Thực ra, ở chung với Hà Nội thời hiện tại thì thấy cái rõ nhất là người Hà Nội thích xài bạc giả. Họ nói khác những gì họ nghĩ. Nếu bản chất của tiếng Việt là thiếu chính xác, và bản sắc của người Việt là nói vòng quanh chủ đề, thì Hà Nội là đại diện chân chính của hai yếu tố này. Họ ưa nói lòng vòng mặc cho người nghe đoán ý. Điều đó không hẳn là không hay nhưng nó hoàn toàn không phù hợp với tốc độ của thời hiện tại, khi con người và thế giới chạy đua với thời gian để bắt kịp lẫn nhau. Người trung lưu Hà Nội sống giả dối, không biết điều đó có phải là phế phẩm của bảy mươi năm đời ta có đảng không. Họ đãi tiệc, làm đám cưới với bề ngoài cực kỳ linh đình long trọng nhưng món ăn thì lỏng chỏng bình dân. Họ thích tiền nhưng cứ làm vẻ dửng dưng.

 Họ bắt tay người này nhưng mắt hướng về một người khác đứng ở gần đó có chức vụ cao hơn. Họ nói năng thưa gửi, nói sông dài biển rộng nhưng sau một giờ thì không ai hiểu ý họ muốn tả cái gì hay muốn gì. Ai nói người Hà Nội có tài... nói, lập luận và lập ngôn, giỏi biện bác là không hiểu Hà Nội thời đại Hồ Chí Minh. Thực ra, người Hà Nội ngày nay không có tài ăn nói. Cái mà chúng ta tưởng họ giỏi trong khoa ăn nói thực ra là sự huyên thuyên mà nổi bật nhất, đáng chú ý nhất trong rừng huyên thuyên đó là sự phóng đại. Họ phóng rất to, nhưng một đặc điểm nữa là họ chỉ giỏi phét giữa người Hà Nội với nhau, giữa người trong nước với nhau; đụng đến “yếu tố nước ngoài,” họ cụp đuôi, lí nhí, hoặc nếu dở trò phét như phét với người trong nước thì thường là phét trật bậy, để lộ trình độ thấp kém.

Một bằng chứng cực đoan là năm 2000 khi Lê Khả Phiêu gặp Bill Cinton ở Hà Nội, cụ Phiêu ta dở trò bốc phét nói với Bill là Mỹ đã thua trận. Cái “tài” đó ngoài việc chứng tỏ cách đối xử (ăn ở) mọi rợ của một người chỉ sống trong lũy tre làng, không quen đối đáp người ngoài, còn hé lộ bản chất và trình độ sơ đẳng của người đứng đầu quốc gia Ba Đình và đất nước Việt Nam.

 Một bằng chứng khác: trong các cuộc thi hùng biện (tiếng Anh) quốc tế, chưa nghe nói người Hà Nội có ai tham dự, không phải tại họ chưa quen với tiếng Anh mà do lối diễn đạt không rõ ràng, trong khi hùng biện (quốc tế) kỵ nhất là ba hoa chích chòe, nói trông trổng như cái đài phát thanh. (Tất nhiên chỉ có thể đem tiêu chuẩn quốc tế để so, chứ thi hùng biện trong nước, như thi hùng biện về “Tư tưởng Hồ Chí Minh,” thì có khác gì con nói cha nghe, làng nói xã nghe, và tiêu chí chấm không nói ai cũng biết.)

Người Hà Nội của ngày trước ra sao, tôi không biết, nhưng chắc là cũng cự phách trong làng nói năng thưa gửi, nếu không thế thì Hà Nội nổi tiếng... oan sao! Đọc các nhà văn gốc Hà Nội, còn ở lại hay đã vào Nam từ những trước và sau 1954, ai cũng công nhận họ thuộc hàng tiền bối (và tiền đạo) trên sân vận động chữ nghĩa.

Hà Nội ngày nay khác. Tệ nhất là những người được phép nói trước công chúng. Nghe một lúc chỉ có nước đoán là ngay chính họ cũng không biết mình đang nói gì. Tôi có lần than phiền với một ông bạn vong niên hàm thứ trưởng đã nghỉ hưu (nghỉ hưu thì mình mới chơi được), làm trong ngành tư tưởng văn hóa lâu năm. Ông cười ruồi: “Đảng nói hết rồi!”

Đảng nói hết. Sáng tản bộ trên Bờ Hồ, hay trên phố Hàng Than, trên đê Yên Phụ, tiếng loa phóng thanh từ một trạm phát thanh của phường cứ oang oảng. Dân cứ ăn phở, đạp xích lô, phì phèo thuốc lá, nhổ khạc, đổ nước rửa ra đường, loa cứ làm việc của loa kêu gọi nếp sống văn mình đô thị, dân cứ đái xoành xoạch.


Hậu quả không biết nói là hậu kỳ của nguyên tắc tập trung ở biệt khu Ba Đình trong lòng Hà Nội. Một câu của lãnh đạo nói ra là hệt như một nút bấm, toàn bộ hệ thống thông tin lên đồng và lắc lư. Mới đầu, cái nút bấm ấy thay dân nói, tưởng là vô hại. Lâu ngày, thói quen dân không dám nói khiến đầu óc lười suy nghĩ, dần dần trở nên chậm lụt, ù lỳ. Mấy năm đầu thế kỷ 21, chính lãnh đạo Ba Đình nhiều lần than phiền thanh niên thời nay không có lý tưởng, thiếu năng động, hoặc chỉ nuôi lý tưởng làm giàu. Thì đó là sản phẩm do việc dành nói hết của Đảng, cấm ai nói khác Đảng.

Đảng chỉ cho phép nói thoải mái về kinh doanh thì dân nói về kinh doanh. Đảng cấm nói chuyện chính trị thì dân tránh nói chuyện chính trị. Những người bất chấp Đảng vẫn cứ nói chuyện chính trị, như Nguyễn Vũ Bình, Dương Thu Hương, thì Đảng dùng ngay đòn ruột là bạo lực cách mạng. Mấy chục năm, bao nhiêu thế hệ trôi qua trong bầu khí khủng bố và thiếu thông tin khiến người thủ đô nổi tiếng lịch lãm, để sống còn, đã tự ‘sáng tạo’ ra cách nói không rõ nghĩa, nói vòng vo tam quốc ai hiểu sao cũng được.

Tưởng như vô hại mà kỳ thực, thói quen ‘thức thời’ ấy dần tạo nên một não trạng khiến cả một khối người trở nên lẩm cẩm, thiếu tự tin, tập thành thói quen lừa người và dối mình, tự mình đánh lạc hướng để được sống yên. Người ta đã không bàn chuyện đất nước giữa đám đông, người ta chỉ nói chuyện nắng mưa, giá cả, giá xăng dầu, các quán karaoke, những nhà hàng mới mọc, những quan to hiếp dâm chơi gái, các chương trình lễ hội, những tượng đài kỷ niệm chiến tranh, hay những hình ca sĩ trần truồng phóng trên mạng.

Con người Việt Nam giữa lòng thủ đô đang định hình để trở thành những người vô tư như người máy, chỉ biết chơi đùa, cợt nhả lẫn nhau. Trừ một thiểu số quá ít còn tất cả, những người ở ngoài chính quyền và cán bộ cấp trung như đang sống theo một thỏa hiệp bất thành văn, là không động đến chuyện chính trị, đến cơ chế cầm quyền, đến những phi lý trong cuộc sống. Con người không có quyền trăn trở về vận mệnh của dân tộc mình nữa. Sự thỏa hiệp ngầm đó do một cơ cấu lộng quyền sắp đặt, nhưng sự sắp đặt đó sẽ không tồn tại nếu không được một tầng lớp xương sống của đất nước đang ra sức bảo vệ nó. Đó là lớp cán bộ cấp trung của chế độ, cái xương sống và đầu tàu đang giữ cho guồng máy chạy êm và lâu được chừng nào hay chừng nấy.



Virus-free. www.avg.com

LÊ HẢI LĂNG * HOÀNG TRUNG HẢI




Dọn đường cho Tàu Hoàng Trung Hải làm TBT?





Lê Hải Lăng (Danlambao) -


Bầy chuột dưới tay Trọng đục khoét làm lở loét cái hệ thống ông cống đảng. Chuột định hướng XHCN bằng gậm nhấm tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, chuột chỉ biết xách bị ăn xin quốc tế nhận viện trợ, vay nợ rồi chuột rút ruột công trình xây dựng, phá sập hệ thống ngân hàng... Khi đất nước hết lương thực cho chuột xơi, chuột chia nhóm phe cắn xé nhau. Thế mới có chuyện Phúc đi Thái Lan thúc đẩy hợp tác mà thực chất là cầu viện.


Theo báo đảng Trọng sắp đi Nam Dương và Miến Điện thúc đẩy hợp tác. Song song với các chiêu chạy tiền các nước trong khu vực. Theo báo NLĐ Phúc yêu cầu Thống đốc NHNN tiếp tục tập trung nghiên cứu, có giải pháp phù hợp huy động các nguồn ngoại tệ, vàng trong dân phục vụ cho đầu tư phát triển.


Có thể ăn cướp của dân bằng hai cách. Cách 1 như cướp đất dân oan là xử dụng súng ống khi đền bù giá rẻ dân không chịu. Cách 2 in thêm tiền gây lạm phát đưa giá vàng cao người dân ham "trúng lớn" đem vàng ra bán, nộp cho nhà nước, nếu dân còn "ngoan cố" không thực thi chính sách ăn cướp có "Chỉ đạo" Phúc nghẹo đề ra dân không có chọn lựa nào khác bằng ăn đạn.


Có người đặt câu hỏi Trọng lú sao không chịu về vườn "làm người tử tế" mà cứ khư khư ôm cái ghế làm thân phận đứa con hoang. Chuyện dể hiểu vì chính người VN quá thờ ơ với đại cuộc tin tưởng vào dối trá lưu manh của các tay ngồi trụ cột Ba Đình. Ngay cả Nông Đức Mạnh còn bảo rằng các đảo Hoàng Sa Trường Sa chim ỉa đó sao. Trọng lú chỉ bỏ ngai vị khi đã hoàn thành nhiệm vụ Bắc Kinh giao phó hoặc thiên triều đổi tay sai.


Khi Mao Trạch Đông muốn Lê Duẩn đánh tới người Việt cuối cùng cũng như Đặng Tiểu Bình "dạy cho VN một bài học". Sự kiện xảy ra cho ta thấy rằng giới lãnh đạo Trung Cộng không bao giờ lùi bước trước tham vọng bành trướng xuống phương Nam của họ. Hồ Cẩm Đào có lần nói không cần đánh Đài Loan mà chỉ cần kéo thời gian mua chuộc. Tên hải tặc Tập Cận Bình nằm trong cái lò luyện tham vọng bá chủ đó thì cái chuyện xỏ mũi người tham quyền phản quốc như Trọng lú là điều dể hiểu. Nhìn trước mắt người Tàu đã mua chuộc và thâu tóm bao nhiêu điểm chiến lược, nắm chủ động vẻ rồng rắn kinh tế VN. Thế nhưng trưởng đảng csVN ông nào như ông nấy làm ngơ chia nhau ăn phần hoa lợi, đến lúc cả nước đổ nợ ra rồi chỉ tay đổ tội cho nhau, còn đi xa hơn là trút tội cách chức cán bộ đã hết giữ quyền hành.


Có người hỏi tại sao triều Ba X làm sai, Trọng không xuất đầu lộ diện ngăn cản trên cương vị đầu đảng nắm trong tay 3 cơ quan đầu não. Hỏi như thế là quên rằng Trọng muốn Dũng phạm lỗi để Trọng tự độc diễn vai vế TBT. Và từ đó mới dẫn tới chuyện theo vết tay Phạm Văn Đồng Trọng đi sứ ký 15 văn kiện bán nước.


Một mình một chúa sơn lâm Trọng tận dụng hết lực lượng côn an côn đồ dân phòng, DLV... đấu tố chém vè các nơi biểu tình chống thảm họa Formosa đặc biệt là một số khu vực giáo xứ. Trọng triệt hạ mọi ngỏ ngách mà người dân mom men lò đầu ra chống hiểm họa Trung Cộng. Blogger Người Buôn Gió trong bài Đàn áp dân chủ cao độ đã viết: "Thế nhưng sau đại hội 12, Nguyễn Tấn Dũng từ giã chính trường, các vụ bắt bớ người bất đồng chính kiến xảy ra nhiều hơn trước đó gấp bội và các mức án tù cũng tăng đến mức kinh ngạc. Không ai nghĩ rằng chỉ với những bản cáo trạng sơ sài, lủng củng và thiếu lập luận mà toàn án Việt Nam có thể kết án hai bà mẹ đang nuôi con nhỏ là Nguyễn Ngọc Như Quỳnh và Trần Thúy Nga từ 9 đến 10 năm tù. Những năm trước đây cũng với những việc làm tương tự như hai người này, những người khác chỉ bị kết án đến 3 năm tù là căng, nếu có đồng phạm, có tổ chức cũng chỉ 5 năm tù.


Một điều phải công nhận rằng dưới thời của Nguyễn Tấn Dũng các tổ chức xã hội dân sự hoạt động nở rộ hơn bao giờ hết, các hội đoàn thi nhau mọc ra, tuy có bị khó khăn như triệu tập, ngăn chặn hội họp, tiếp xúc... nhưng mức độ bắt bớ thẳng tay không nhiều như bây giờ."


Người dân dưới gót giày đảng csVN đày đọa, không ai thương tiếc chuyện cs ăn thịt nhau. Có điều cho dân ai ngủ mê thức tỉnh dậy để thấy rõ bè đảng csVN chỉ có lo quyền lợi cá nhân bè phái và quyền lợi đảng. Quyền lợi đất nước chỉ là đầu môi chót lưỡi phỉnh gạt dân chúng.


Trung Cộng giỏi dùng sách lược mua chuộc và cấy người. Chiếm thêm một nước qua tay Lê Chiêu Thống là quốc sách.


Khi đứa con hoang Trọng lú ăn nhiều "quả " quá trúng thực. Phải chăng Tập Cận Bình đôn đốc thái thú Hoàng Trung Hải thay ngôi?


Bao giờ Việt Nam thoát họa cộng sản để thoát Tàu. Chỉ có 90 triệu dân mới có câu trả lời. (NPH tô đậm và tô mầu)


19/8/2017



Lê Hải Lăng
danlambaovn.blogspot.com


**KẺ THÙ DUY NHẤT CỦA DÂN TỘC VÀ ĐẤT NƯỚC VIỆT LÀ ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC CỘNG SẢN VIỆT NAM .


**Bất luận ai, ở trong nước cũng như hải ngoại, không dám lật tẩy và chống lại HCM và đảng csVN đều là những người không thể đoàn kết, hợp tác và đồng chiến tuyến với những loại người ấy.


**Phải vùng dậy đập tan đảng cướp csvn và tập đoản lãnh đạo nhà nước tham ô, bạo tàn và phi nhân chỉ biết tàn ác với dân, tay sai hèn mạt của lũ lãnh đạo Tầu Cộng.


**Quyết tâm giải thoát nhân dân và Đất Nước Việt khỏi nạn đồng hóa của bè lũ Hán Nô!


Hoang Nguyen/NPH/Nguyễn Phi Hoàng

CHUYỆN BÍ ẨN ĐƯỜNG SƠN

Chuyện bí ẩn trước động đất Đường Sơn khiến 700 nghìn người thiệt mạng, 40 năm sau người đời còn kinh sợ


Lúc 3 giờ 42 phút 53 giây, rạng sáng 28/7/1976 (giờ Bắc Kinh), lòng đất ở Đường Sơn như có 400 trái bom nguyên tử Hiroshima đột ngột nổ tung. Chỉ trong 10 giây, trận động đất kinh hoàng khiến nơi cư ngụ của hơn 1,6 triệu người trong phút chốc bị san thành bình địa. Đến nay người ta vẫn còn nhiều điều khó lý giải về trận đại địa chấn này.

Đó dường như là kiếp nạn không cách nào đoán trước, cũng không cách nào ngăn cản. Chỉ 10 giây, cơn địa chấn đã cướp đi sinh mệnh của gần 700 nghìn người. Đó là thảm họa động đất gây thương vong nhiều nhất thế kỷ 20. Tuy vậy, nhiều người tin rằng, trước khi thảm họa xảy ra, đã có rất nhiều dấu hiệu báo trước. Thần Phật thực sự đã nhiều lần điểm hóa, cảnh báo con người.

Sau khi sưu tập lại tài liệu cũ, đối chiếu các dữ kiện, các nhà nghiên cứu cũng phải lặng người trước những sự thực này. Mãi cho tới nay, nhiều nghi vấn trong đó vẫn còn chưa tìm được lời giải.
 


Trận động đất 7,8 độ richter mùa hè năm 1976 đã cướp đi sinh mạng của gần 700.000 người dân thành phố Đường Sơn. Chỉ kéo dài vỏn vẹn 10 giây nhưng đây là trận động đất gây nhiều thương vong nhất trong thế kỷ 20, là nỗi ám ảnh kinh hoàng trong ký ức của người dân Trung Quốc qua nhiều thế hệ. 

Những con cá sợ hãi phát điên
Vợ chồng giáo sư Ngô Bảo Cương và Châu Ngạc ở trường Bát Trung, Đường Sơn kể lại: Trung tuần tháng 7/1976 đột nhiên họ thấy xuất hiện thêm rất nhiều người bán cá tươi ở đầu phố Đường Sơn. Họ cảm thấy rất kỳ lạ vì thường ngày khó mua được cá tươi thế nhưng mấy hôm đó cá rất nhiều và giá rẻ bất ngờ. Họ liền hỏi người bán cá: “Đây là cá ở đâu?“.

 


Mấy ngày trước khi động đất xảy ra cá ở đập nước Đẩu Hà rất dễ bắt. Ảnh dẫn theo weixinnu
“Cá này bắt ở đập chứa nước Đẩu Hà“. Người bán cá trả lời và nói thêm: “Mấy ngày nay kỳ lạ lắm, cá cực kỳ dễ bắt“. Vợ chồng giáo sư Cương lúc ấy không ngờ rằng đây là dự báo của thiên nhiên về một tai họa khủng khiếp sắp ập đến. Vài ngày sau, trận đại địa chấn xảy ra cướp đi sinh mạng của con trai và con gái họ.

Một người đánh cá ở vùng Bắc Đới Hà tên là Thái Gia Bảo nhớ lại: “Lũ cá cứ như bị điên hết. Trước và sau ngày 20/7, tại ngư trường ở vùng duyên hải cách Đường Sơn không xa, cá đối, cá nheo, cá chẽm nhao nhao nổi lên, trắng dã, rất dễ bắt. Các ngư dân chưa bao giờ gặp vận may tốt như vậy“.
Anh Hoắc Thiện Hoa ở ngư trường Bách Các Trang, Đường Sơn kể: Ngày 25/7 nghe trong ao cá có tiếng nước chảy ào ào anh liền chạy ra xem thì thấy cả đàn cá trắm cỏ đang nhảy lên, có con nhảy cách mặt nước cao hơn một thước, có con phóng thẳng lên trời giống như con quay xoay vòng cực nhanh. (Lời người chuyễn bài: Trong nhà mà thấy bà vợ hay bà mẹ vợ nhãy choi choi tức là sẽ có động đất tức khắc trong nhà ,liệu hồn mà cao bay xa chạy)



 

Cả đàn cá trắm cỏ nhảy lên trong ao. Ảnh dẫn theo weixinnu
Thuyền viên thuyền chở dầu Trương Hồ Hiệu ở vùng biển Đại Cô Khẩu, Thiên Tân, phía Nam Đường Sơn nhớ lại: Ngày 27/7 năm đó không ít thuyền viên chen chúc tại mạn thuyền thả câu. Sứa chung quanh thuyền đột nhiên bơi tới rất nhiều, cá con cũng dồn dập bơi qua bơi lại thành đàn. Thả lưỡi câu một hồi có thể câu lên hơn 100 con. Có thuyền viên dùng một sợi dây câu tơ, chỉ buộc 4 móc câu lại có thể đồng thời câu lên 4 con cá. Những con cá giống như đang sợ hãi tranh giành cắn lưỡi câu để mong được thoát khỏi biển.

Côn trùng có cánh, chim và dơi như mất lý trí
Theo những gì các thuyền viên tận mắt chứng kiến: Ngày 25/7, quanh thuyền chở dầu vang lên tiếng rít. Sau đó một đàn chuồn chuồn màu xanh thẫm bay tới, đậu trên cửa sổ, cột buồm, đèn và mạn thuyền, chi chít một mảng. Mặc cho người bắt đi hay xua đuổi, chúng vẫn không nhúc nhích, một con cũng không bay lên.

 


Chuồn chuồn bay tới chi chít, đuổi thế nào cũng không đi. Ảnh dẫn theo weixinnu
Không lâu sau, lại có một đàn bướm ngũ sắc rực rỡ, châu chấu màu đất, ve đen, cùng rất nhiều dế, chim sẻ và các loài chim không biết tên tới tấp bay đến. Dường như chúng đều không hẹn mà cùng tụ họp lại ở mạn thuyền. Cuối cùng một con vẹt da hổ màu sắc lộng lẫy bay tới, choáng váng đậu ở đuôi thuyền và cũng không nhúc nhích.

Ông Trương Hữu ở thị trấn Bình Thôn, huyện Thiên An, Đường Sơn chia sẻ: Ngày 27/7, con yến mẹ dưới mái hiên nhà ông ngậm lấy mấy con chim yến con mà bay đi. Cùng ngày, con yến mẹ dưới mái hiên nhà một người khác ở huyện Ninh Hải, phía Nam Đường Sơn cũng mang theo 2 con yến con còn lại bay đi. Từ ngày 25/7, con yến mẹ này giống như phát điên, mỗi ngày đều đem một con yến con từ trong tổ ném ra ngoài. Chủ nhà nhặt yến con đặt lại vào tổ lập tức lại bị yến mẹ ném ra.

 

Chim và dơi như mất trí. Ảnh dẫn theo weixinnu
Cùng ngày, tại hợp tác xã Thương Trang Tử, huyện Thiên An, có người nhìn thấy chuồn chuồn và châu chấu cùng bay tới. Chúng bay thành từng bầy trải rộng hơn 100 mét, bay từ đông sang tây trong khoảng 15 phút đồng hồ. Lúc đàn chuồn chuồn bay qua nghe tiếng vù vù vang lên như tiếng động cơ khiến nhiều người tròn mắt ngạc nhiên.

Chuột lớn chuột nhỏ tìm nơi trốn chạy
Ông Vương Cái Sơn ở huyện Loan Nam, Đường Sơn kể lại: Ngày 27/7 ông tận mắt nhìn thấy đàn chuột trong khu trồng bông hốt hoảng chạy tán loạn. Nhìn kỹ thì phát hiện những con chuột lớn đang mang theo những con chuột nhỏ chạy đi rất nhanh, rất gấp. Những con chuột nhỏ cắn đuôi nhau nối liền một chuỗi như đang di cư đi đâu đó.

Có người cảm thấy hiếu kỳ định đuổi bắt chúng nhưng một người khác ngăn lại nói: “Đừng bắt nữa, có thể sắp lụt rồi, chuột sợ nước ngập hang nên tìm cách di cư đi chỗ khác“. Cùng lúc trong mấy ngày đó, tại một nhà kho hợp tác xã cách Đường Sơn không xa có hơn 300 con chuột chui ra khỏi hang, tụ tập lại cùng một chỗ mà đứng ngẩn ra.

Những chuyện kỳ quái không thể lý giải
Khi ấy, vùng ven biển phía đông nam Đường Sơn, sóng biển phát ra tiếng nổ lớn kinh người, khác hẳn với bình thường. Từ hạ tuần tháng 7, ngư dân vùng Bắc Đới Hà cảm thấy rất khó hiểu khi các tảng đá ngầm vốn luôn lộ trên mặt biển đã bị nước nhấn chìm. Trước đây trên bờ biển có thể phơi 3 tấm lưới đánh cá, nhưng khi ấy chỉ có thể phơi được 1 tấm mà thôi.

Phòng tắm vòi sen ở bãi tắm bị nước biển tràn vào. Vùng biển quanh năm đánh bắt cá cũng đột nhiên sâu hơn so với trước kia.
Những ngư dân tại vùng biển từ Thái Gia Bảo đến thôn Đại Thần Đường, gần Đường Sơn, dường như không tin nổi vào mắt mình khi chứng kiến nước biển trong vắt trước nay bỗng đột nhiên biến thành một màu vàng đục ngầu. 

Từ trung tuần tháng 7, những lỗ nhỏ trên tấm che xi-măng tại một giếng sâu hơn 50m ở huyện Phong Nhuận, Đường Sơn có khí lạ thoát ra kêu “xuy xuy”. Ngày 25 và 26/7, những đợt khí này phun trào tới mức đỉnh điểm. Đứng cách giếng 20m bên ngoài cũng có thể nghe thấy tiếng vang. Khối đá nhỏ đặt phía trên lỗ thoát khí kia cũng có thể lơ lửng trên không một cách vô cùng kỳ lạ. 

Tại hợp tác xã Cao Khảm huyện Loan, Đường Sơn cũng có một cái giếng thần bí. Miệng giếng không sâu, bình thường mọi người dùng đòn gánh là có thể múc được nước. Nhưng vào ngày 27/7 có người đột nhiên phát hiện thùng treo trên đòn gánh đã không với đến được mặt nước nữa. Người này đành phải quay về nhà lấy thêm dây thừng để nối, chẳng ngờ khi quay lại thì nước giếng tự nhiên lại đầy ắp. Người ta chẳng những không cần dùng dây thừng mà còn có thể trực tiếp cho thùng xuống cũng múc được đầy nước.

 
Nước trong giếng tự nhiên cạn rồi lại tự nhiên đầy ắp. Ảnh minh họa 

Tại Bắc Kinh, vào nửa đêm, bóng đèn huỳnh quang trong nhà của nhiều người mặc dù đã tắt đi nhưng lại tự sáng lên một cách kỳ lạ. Tại huyện Thông có người phát hiện một bóng đèn huỳnh quang 20W đã bị tháo hẳn xuống lại lòe lòe sáng lên.

Ngày 27/7 tại khu vực khai thác mỏ Tây Lâm, Đường Sơn xuất hiện một đám sương mù bốc lên mùi lưu huỳnh khó ngửi. Đám sương mù này che mất tầm mắt người dân, khiến họ mờ mịt không nhìn thấy đường. Mọi người bị mùi vị khác thường này xộc vào mũi tới mức như bị mê mờ. Họ không còn thấy rõ tình cảnh thật đang xảy ra trong khu vực họ đang sống, càng không thấy rõ thiên nhiên đang chuẩn bị một tai nạn như thế nào.

Đêm 27/7 trước đại hủy diệt
Ông Vương Tài sống ở ngoại ô thành phố Đường Sơn kể lại: Khoảng 12 giờ khuya ông về nhà sau khi xem xong chiếu bóng thì nhìn thấy 4 con vịt mái trước cổng nhà. Chúng không đi vào sân nhỏ hay vào chuồng mà cứ đứng ở ngoài cửa. Khi vừa thấy ông, chúng liền rướn cổ kêu lên và vỗ cánh lạch bạch nhào tới. Ông đi đến đâu chúng đuổi tới chỗ đó, không những vậy còn ra sức dùng miệng kéo ống quần của ông như muốn nói một điều gì đó.

Ông Trương Bảo Quý ở huyện Loan Nam kể: Đêm 27/7 ông nằm mãi không ngủ được, lại nghe thấy tiếng con mèo nhà mình kêu lên thảm thiết. Tưởng nó đói bụng, ông dậy mang thức ăn cho mèo. Nhưng kỳ lạ là con mèo không ăn chút nào mà vẫn cứ tiếp tục kêu gào, chạy tán loạn như sắp bị mang đi giết thịt. Đêm hôm đó mấy trăm cây số chung quanh Đường Sơn, người ta đều nghe thấy rất nhiều tiếng chó sủa thê lương kéo dài. 

Theo ông Lưu Văn Sáng huyện Phong Nam, đêm 27/7 ông bị tiếng chó sủa dữ dội tứ phía đánh thức. Lúc ấy con chó dùng sức cào mạnh vào cửa phòng ông. Nghĩ có người định bắt nó, ông Lưu ra mở cửa cho chó vào nhà. Nhưng kỳ lạ là chú chó lại tìm đủ mọi cách vừa sủa, vừa ngậm vào gấu quần như muốn kéo ông ra khỏi phòng.

 

Tiếng chó sủa giữ dội trong đêm. Ảnh dẫn theo weixinnu

Anh Trần Phú Cương, huyện Phong Nhuận, đang cho ngựa ăn. Bất ngờ những con la, con ngựa không ngừng hí vang và đá lung tung. Chúng còn nhảy loạn xạ như muốn lồng ra khỏi chuồng, có dùng cách gì cũng không dừng lại. Sau hơn 3 tiếng nhảy loạn xạ, toàn bộ hơn 100 con ngựa của 60 xe ngựa giằng đứt dây cương, kêu lớn quái dị, tranh nhau nhảy ra khỏi chuồng ngựa, tung vó chạy như điên ra đường quốc lộ.

Cùng lúc đó, anh Lý Hội Thành, huyện Xương Lê tận mắt nhìn thấy hơn 200 con chim bồ câu của nhà hàng xóm đột nhiên bay tán loạn lên không trung rồi lượn từng vòng từng vòng. Mặc dù bị va đập vào nhau nhưng chúng vẫn gắng hết sức bay trên trời chứ không chịu đáp xuống tổ.

Rõ ràng, rất nhiều người đều đã nhận được tín hiệu cảnh báo từ thiên nhiên trước khi đại địa chấn Đường Sơn xảy ra nhưng chẳng mấy ai chú ý. Người ta cho rằng thời tiết oi bức khó chịu đến con người còn thấy bức bối nên gà chó, động vật không yên là chuyện thường. Mưa mấy ngày liền cũng có thể khiến nước giếng đột nhiên dâng cao, chẳng có gì là khó hiểu.

Đúng 3 giờ 42 phút ngày 28/7/1976, trận động đất hủy diệt đã bất ngờ nổ ra. Chỉ 10 giây địa chấn đã để lại hậu quả kinh hoàng. Gần 700 nghìn người thương vong, 85% công trình xây dựng bị phá hủy hoàn toàn hoặc không thể sử dụng được tiếp. Thiệt hại kinh tế của trận động đất ước tính lên tới 10 tỷ Nhân dân tệ (khoảng hơn 23 nghìn tỷ đồng theo thời giá hiện tại).

Tượng Phật rơi lệ sau động đất
Lạc Sơn Đại Phật là một bức tượng chạm khắc hình Phật Di Lặc đang ngồi với cặp mắt hơi mở, từ bi nhìn xuống chỗ hợp lưu của mấy con sông Mân Giang, Đại Độ và Thanh Y bên dưới.
Bức tượng bằng đá này cao 71,2 mét, được khắc vào thời nhà Đường, nay nằm ở miền nam tỉnh Tứ Xuyên, cách huyện Lạc Sơn khoảng 3 km về phía Đông. Bức tượng đá đối mặt với núi Nga Mi, dưới chân tượng Phật có dòng sông chảy ngang qua. 

Bức tượng này cần tới 90 năm để hoàn thành với hy vọng rằng những con thuyền đi qua nơi đây sẽ được bình yên vô sự, vượt qua được vùng nước dữ. Phải chăng vì được tạo ra với mục đích bảo hộ cho con người nên mỗi khi có tai nạn to lớn xảy ra tượng Phật này đều rơi lệ?
Tháng 7 năm 1976, cặp mắt của tượng Phật một lần nữa nhắm lại lần thứ 3. Điều này xảy ra ngay sau trận động đất ở Đường Sơn. Hai mắt nhắm lại và chảy nước mắt, bức tượng Phật cũng thể hiện một gương mặt giận dữ.

 
Bức tượng Lạc Sơn Đại Phật rơi lệ. Ảnh dẫn theo Pinterest

Vì sao sự việc tượng Phật chảy nước mắt lại xảy ra nhiều như vậy? Rốt cuộc, điều đó là muốn cảnh báo hay gửi gắm điều gì đến con người chúng ta?
Cổ nhân nói: “Ông trời có đức hiếu sinh” hay “Trời không tuyệt đường người”. Họ cho rằng khi đại kiếp nạn sắp xảy ra trong tương lai, Trời Đất, thần linh đều sẽ bằng cách nào đó cảnh báo cho con người tìm nơi bình an. 

Tất cả các loại động vật lớn nhỏ, nhất là côn trùng có cánh và loài chim đều rất nhạy cảm, có thể biết trước được thảm họa sắp xảy ra. Người ta nói rằng chúng có “giác quan thứ 6”. Chỉ có con người là vẫn mê mờ, không nhìn ra được cảnh báo của Thần Phật dành cho mình. Chẳng ai ngờ rằng một trận đại hủy diệt sắp ập xuống đầu.

Người ta chính là dùng những quan niệm người thường để giải thích những điều dị thường kia. Tri thức khoa học có thể giúp con người cảm thấy hiểu biết hơn một chút, nhưng đồng thời cũng lại khiến họ trở nên phong bế, không thể nhìn ra chân tướng, đôi khi vì thế mà còn trở nên yếu đuối hơn.
Người ta vẫn thường quên rằng, con người cũng là một phần của vũ trụ bao la này, hơn nữa chỉ là một hạt bụi nhỏ bé nhất. Khả năng của người ta vì thế cũng rất hữu hạn. So với nhiều loài động vật, chúng ta dường như lại kém nhạy cảm hơn rất nhiều. Rất nhiều loài vật có “giác quan thứ 6”, đoán trước được tai họa từ nhiều ngày, nhiều tháng trước. Chỉ có con người là cứ mãi mê mờ.
Kiên Định

ĐẠI DƯƠNG * VẬN HỘI MỚI TRÊN BIỂN NAM TRUNG HOA

VẬN HỘI MỚI TRÊN BIỂN NAM TRUNG HOA

Đại-Dương
Cơ hội đến rồi sẽ đi. Kẻ nào không khai thác được vận hội mới sẽ ôm hận suốt đời.
Chiến lược, chiến thuật, kế hoạch, chương trình nếu đem thực hiện không mang lại hiệu quả thì chỉ còn cách rướn gân cổ mà ca “Em ơi, nếu mộng không thành thì sao”.


Tờ The Financial Times ngày 29-06-2017 cáo buộc “Tổng thống Donald Trump đã thất bại trong việc làm thay đổi đường hướng của Trung Quốc mặc dù có mối quan hệ thân hữu với Tập Cận Bình”.
Hãy trả lại sự thật cho cuộc đời bởi lẽ Tổng thống Barack Obama gieo NHÂN trên Biển Nam Trung Hoa suốt 8 năm cầm quyền qua chiến lược “xoay trục sang Châu Á-Thái Bình Dương” về quân sự lẫn kinh tế; chiến thuật “ngoại giao kiên nhẫn” điều khiển từ ghế sau; chương trình hợp tác với tất cả các quốc gia trong vùng; kế hoạch xây dựng khu vực kinh tế tiên tiến, TPP.


Di sản của Obama để lại: Bắc Kinh kiểm soát khắc nghiệt về chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, bao gồm cả tài nguyên thiên nhiên trong Đường 9 Đoạn, chiếm hơn 80% diện tích Biển Nam Trung Hoa; xây 7 đảo nhân tạo ở Spratly Islands (Trường Sa) mà Mischief Reef (Đá Vành Khăn), Fiery Croix Reef (Đá Chữ Thập), Subi Reef (Đá Xu Bi) đã trở thành pháo đài quân sự; thường xuyên đe doạ các quốc gia duyên hải Đông Nam Á; không công nhận Phán quyết ngày 12-07-2016 của Toà án Trọng tài Thường trực về Luật Biển, PCA; tăng cường áp lực kinh tế và ngoại giao lên ASEAN.

Năm 2012, Obama làm trung gian để Trung Quốc và Phi Luật Tân rút tất cả tàu bè đang tranh chấp khỏi Scarborough Shoal để tránh bão. Manila ngoan ngoãn. Bắc Kinh đưa chiến hạm quay lại tức khắc và cưỡng chiếm làm của riêng. Khi phát hiện Bắc Kinh cải tạo ồ ạt tại Trường Sa, Obama không ngăn cản mà đến khi các đảo nhân tạo thành hình lại mặc nhiên công nhận qua các lần “tự do hải hành” với điều kiện “thông qua vô hại”.
Tổng thống Donald Trump phải gánh lấy QUẢ do người tiền nhiệm làm mất ưu thế chiến lược khắp thế giới, kể cả trên Biển Nam Trung Hoa.


Giới học giả quốc tế đang bàn cãi râm ran về hai xu hướng đối phó với Trung Quốc. Họ mong đợi Tổng thống Trump công bố chính sách rõ ràng theo đúng truyền thống ngoại giao. Tuy nhiên, dư luận quốc tế chỉ có thể tìm hiểu qua cách thức hành động từ Tổng thống thứ 45 của Hoa Kỳ.
Học giả Mark Valencia thuộc Viện Quốc gia Nghiên cứu về Biển Nam Trung Hoa toạ lạc tại Hải Khẩu của Đảo Hải Nam biện minh cho chính sách của Bắc Kinh trong bài viết trên Tờ The Strait Times ngày 30-06-2017.


Valencia lập luận “Hoa Kỳ muốn áp đặt trật tự quốc tế lên Biển Nam Trung Hoa, kể cả Phán quyết của Toà án Trọng tài Thường trực về Luật Biển, PCA. Mỹ tập họp các đồng minh nhằm chống lại Trung Quốc bằng các hoạt động chiến thuật hơn là chiến lược. Hoa Kỳ muốn giữ nguyên quyền lực thống trị và trọng tài trên phương diện quân sự và chính trị ở Biển Nam Trung Hoa. Hãy để cho Trung Quốc và mỗi quốc gia trong vùng tự đưa ra quyết định điều gì cần cho họ về an ninh và chính sách đối ngoại với Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc”.


Hoa Kỳ tự đảm trách vai trò gìn giữ an ninh, hoà bình, ổn định, thúc đẩy phát triển tại Châu Á mà chưa hề chiếm đoạt vùng biển, hòn đảo hoặc tài nguyên thiên nhiên của bất cứ quốc gia nào. Tuy chưa phê chuẩn, nhưng, Hoa Kỳ tôn trọng tất cả những quy định trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982, UNCLOS.
Valencia cố tình quên về tuyên bố chủ quyền trên Biển Nam Trung Hoa của Bắc Kinh không tương hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển mà Trung Quốc đã tích cực tham gia soạn thảo và phê chuẩn.


Khi Phó chủ tịch Quân uỷ Trung ương Phạm Trường Long đến đàm phán quân sự với Việt Nam hồi giữa tháng 6 đã gặp tất cả các nhà lãnh đạo cao cấp Hà Nội mà tuyên bố “Tất cả các đảo trên Nam Hải thuộc về Trung Quốc từ ngàn xưa!”. Long trở về nước tức khắc mà không tham dự Chương trình Giao lưu Quân sự Biên giới Việt-Trung.
Nhóm học giả thứ hai đòi hỏi phải cứng rắn đối với các hành động ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Nam Trung Hoa. Tại Diễn đàn Shangri-La 2017, Thủ tướng Malcom Trurbull của Úc cũng kêu gọi các biện pháp đối phó với Trung Quốc.


Tập Cận Bình đòi Trump thừa nhận chính sách “một nước Trung Hoa” mới chịu sang Mỹ gặp mặt. Thực sự, chính sách “một nước Trung Hoa” năm 1979 được hiểu theo 2 nghĩa: (1) Đài Loan, Ma Cao, Hồng Kông, Hoa Lục thuộc về Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc. (2) Hoặc thuộc về Trung Hoa Dân Quốc.
Trump không tiếp Tập tại Toà Bạch Ốc như các nguyên thủ quốc gia từ Trung Đông và Châu Á mà ở khu nghĩ mát Florida. Tập nuốt không trôi trong buỗi tiệc khi Trump báo tin đã bắn 50 hoả tiễn vào Syria khi Tổng thống Bashar al-Assad sử dụng vũ khí hoá học như một lời cảnh cáo.


Tập nuốt lời hứa kiềm chế Bắc Triều Tiên nên Trump ra lệnh trừng phạt 2 cá nhân và 1 công ty hải vận của Trung Quốc có liên quan đến các chương trình nguyên tử và hoả tiễn của Bình Nhưỡng. Đồng thời, cáo buộc một ngân hàng Trung Quốc rửa tiền cho Bắc Triều Tiên.
Nhiều quốc gia bắt đầu thích ứng với chính sách phi truyền thống của Donald Trump vì biết tầm quan trọng của Hoa Kỳ đối với thế giới bất chấp những cáo buộc tổng thống thứ 45 của Mỹ sẽ không quan tâm hoặc thiếu khả năng lãnh đạo siêu cường.
Trong 1 tháng qua, Hoa Kỳ đã thực hiện 2 chuyến “hải hành tự do” đúng theo tinh thần của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển tại Trường Sa và Hoàng Sa mà Trung Quốc không thể ngăn cản.
Các nguyên thủ quốc gia Việt Nam, Ấn Độ, Đại Hàn được Tổng thống Trump tiếp đón tại Toà Bạch Ốc trong tinh thần hợp tác chân thành, cùng chia sẻ trách nhiệm và nghĩa vụ quốc tế.


Chỉ có Hoa Kỳ giúp Phi Luật Tân tái chiếm thị trấn Marawi bị Hồi giáo cực đoan kiểm soát.
Hoa Kỳ cũng đồng ý bán 4 trực thăng Black Hawk cho Thái Lan và sắp tiếp Thủ tướng Prayuth Chan-ocha tại Toà Bạch Ốc vào tuần tới, mở màn cho mối quan hệ nồng ấm.
Quốc hội Mỹ cho phép mở rộng mối giao hảo với Đài Loan, kể cả bán vũ khí trị giá 1.4 tỉ USD.
Mối nghi ngờ Hoa Kỳ từ thời Obama đang tan biến dần khiến cho chính sách đe doạ và ve vãn của Trung Quốc tại Đông Nam Á mất dần ảnh hưởng.
Ai khôn, ai dại trước bàn cờ mới ở Châu Á-Thái Bình Dương?
                                 
Đại-Dương


Tài liệu tham khảo:
EXCLUSIVE: Pentagon sails destroyer near disputed island in South China Sea, officials say (Fox News)
What’s Next for US-Thailand Military Ties Under Trump? (Diplomat)
China builds new missile shelters on South China Sea islands (Financial Times)
South China Sea: America needs a better strategy (The Strait Times)
(From: Ngoc Nguyen <ngoc.n2@gmail.com>, Jul 4, 2017 10:09 pm)
(Posted by: BEBELIEM@aol.com, Nuoc_VIET, 7/5/2017, 3.08PM)

THƯỢNG VIỆN MỸ THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT BIỂN ĐÔNG

Thượng viện Mỹ nhất trí thông qua Nghị quyết về Biển Đông

 
Tàu cá ĐNa 90152 bị tàu Trung Quốc tấn công đâm chìm trên vùng biển Việt Nam. (Ảnh: Trần Lê Lâm/TTXVN)


    Ngày 10/7, với toàn bộ phiếu thuận, Thượng viện Mỹ đã nhất trí thông qua Nghị quyết mang mã số S.RES.412 về Biển Đông yêu cầu Trung Quốc quay lại nguyên trạng trước ngày 1/5/2014.

Theo phóng viên TTXVN tại Washington, Nghị quyết S.RES.412 được một số thượng nghị sỹ có ảnh hưởng bảo trợ như Chủ tịch thường trực Thượng viện Patrick Leahy; Thượng nghị sỹ John McCain; Thượng nghị sỹ Robert Menendez; Chủ tịch Ủy ban đối ngoại Thượng viện Benjamin Cardin; Thượng nghị sỹ James Risch; Thượng nghị sỹ Marco Rubio; Thượng nghị sỹ Dianne Feinstein và Thượng nghị sỹ John Cronyn.

Nghị quyết khẳng định sự ủng hộ của chính phủ Mỹ đối với quyền tự do hàng hải, sử dụng các vùng biển và không phận ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương theo đúng quy định của luật pháp quốc tế.

Nghị quyết nêu rõ mặc dù không phải là một bên có yêu sách ở Biển Đông nhưng Mỹ là một cường quốc châu Á-Thái Bình Dương, có lợi ích quốc gia trong việc khuyến khích và ủng hộ các quốc gia trong khu vực hợp tác với nhau để giải quyết các tranh chấp bằng con đường ngoại giao và hòa bình; phản đối việc cưỡng bức, hù dọa, đe dọa hoặc sử dụng vũ lực.

Nghị quyết nhấn mạnh tầm quan trọng sống còn của tuyến hàng hải qua Biển Đông, cho rằng việc gia tăng các hoạt động tuần tra và đưa ra các quy định đối với các vùng biển và không phận có tranh chấp ở Biển Đông đang làm gia tăng căng thẳng cũng như nguy cơ đối đầu.

Nghị quyết S.RES.412 liệt kê một loạt hành động của Trung Quốc vi phạm luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS).

Cụ thể, ngày 1/5 vừa qua, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC), với sự tháp tùng của hơn 25 tàu, đã hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 (Haiyang Shiyou-981) tại lô 143, cách bờ biển Việt Nam 120 hải lý.

Sau đó, Trung Quốc điều động thêm hơn 80 tàu, trong đó có 7 tàu quân sự, và sử dụng máy bay trực thăng, vòi rồng để ngăn chặn hoặc có những hành động đe dọa, nhiều lần cố tình đâm húc tàu của Việt Nam. Trung Quốc cũng thiết lập vùng bất khả xâm phạm xung quanh giàn khoan Hải Dương-981…

Nghị quyết cho rằng các yêu sách lãnh thổ và hành động trên đây của Trung Quốc là không thể biện minh theo luật pháp quốc tế như đã được nêu rõ trong UNCLOS và là một hành động đơn phương nhằm thay đổi nguyên trạng bằng vũ lực, vi phạm Tuyên bố về cách ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC) mà Trung Quốc đã ký với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 2002.

Nghị quyết cũng lên án việc cưỡng chế, sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực gây cản trở các hoạt động hàng hải, hối thúc chính phủ Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương-981 cùng các lực lượng ra khỏi các vị trí hiện nay, ngay lập tức trả mọi việc trở về nguyên trạng trước ngày 1/5/2014.

Liên quan đến căng thẳng ở biển Hoa Đông, Nghị quyết S.RES.412 chỉ trích việc Trung Quốc đơn phương áp đặt Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở vùng biển này từ ngày 23/11/2013, coi đây là hành động vi phạm công ước về hàng không dân dụng, gây căng thẳng quan hệ với các nước trong khu vực như Nhật Bản và Hàn Quốc./.
--
Ý kiến: Dương Tràng
Người dân ở Việt nam có biết về việc Trung cọng đem giàn khoan vào biển của VN lần thứ 2. Việt cọng im thin thít có nghĩa là sao?

(Fwd: ‘Sen Nguyen’ via banvang, 7/13/2017, 10.24PM)

DAVID KILGOUR LÊN TIẾNG

David Kilgour: Lên tiếng thay những người không có tiếng nói (Phần 1)
Thứ bảy, 17/06/2017 | 07:06 GMT + 7 2,786 lượt xem

Người từng được đề cử giải Nobel Hòa bình năm 2010, cựu Quốc Vụ Khanh Canada khu vực châu Á – Thái Bình Dương David Kilgour đã cùng luật sư nhân quyền David Matas tiến hành cuộc điều tra về việc mổ cướp nội tạng người tập Pháp Luân Công tại Trung Quốc từ năm 2006. Cuộc điều tra này sau đó đã thu hút được sự quan tâm của quốc tế.

Ông  David Kilgour phát biểu sau buổi chiếu phim "Thu hoạch Nhân thể " tại trường Đại học Ottawa vào ngày 6 tháng 4 năm 2017. (Jonathan Ren)
Ông David Kilgour phát biểu sau buổi chiếu phim “Thu hoạch Nhân thể ” tại trường Đại học Ottawa vào ngày 6 tháng 4 năm 2017. (Jonathan Ren)

David Kilgour học ngành luật, sau khi tốt nghiệp ông làm Công tố viên, rồi làm Nghị viên Quốc hội Canada liên tiếp 7 kỳ, với tổng cộng 27 năm. Sau đó ông làm Quốc vụ khanh Canada phụ trách khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Bộ trưởng Bộ Giao thông, Bộ trưởng Bộ Phát triển Quốc tế, ông cũng là một thành viên quan trọng trong nội các chính phủ Canada.

Do cả đời ông quan tâm tới nhân quyền nên từ năm 2006, ông đã chủ trì cuộc điều tra về mổ cướp nội tạng người tập Pháp Luân Công đang diễn ra tại Trung Quốc cùng luật sư nhân quyền David Matas. Cũng trong năm 2006, bản báo cáo điều tra đã được công bố, năm 2009 bản cập nhật được phát hành, năm 2016 bản cập nhật lần thứ 3 được phát hành.

Gần đây, khi được người dẫn chương trình Phương Vĩ của Đài phát thanh hy vọng (SOH) phỏng vấn, ông đã kể lại câu chuyện về cuộc đời mình, nguyên do vì sao ông đến với cuộc điều tra này và những gì ông đã trải qua.

Mẹ dặn tôi: hãy làm kẻ ngốc, đừng làm kẻ đào ngũ

Phương Vĩ: Là một luật sư và chính trị gia, ông có rất nhiều hướng để lựa chọn, vậy tại sao ông lại chọn công việc liên quan tới nhân quyền ?

David Kilgour: Vấn đề này, thông thường người ta cho rằng công tố viên là những người cứng rắn, sắt đá, chỉ nhăm nhăm định tội bị cáo. Nhưng mà ở Canada, công tố viên chúng tôi không như vậy, chúng tôi cần phải bảo vệ chính nghĩa. Nếu như trong quá trình xử án, người này không có tội thì chúng tôi sẽ lập tức đứng lên nói với quan tòa, tôi không đi tiếp nữa. Rất nhiều người cho rằng, chỉ có luật sư biện hộ mới bảo vệ nhân quyền, nhưng không nhất định như vậy. Trên thế giới đã xảy ra rất nhiều việc, khi tôi thấy một người bị bức hại chính trị và bị định tội, tôi thật sự ngao ngán trong lòng.

Phương Vĩ: Ai là người ảnh hưởng lớn nhất tới sự trưởng thành của ông?

David Kilgour: Mẹ tôi là người có ảnh hưởng lớn nhất đối với tôi. Bà từng nói với tôi rằng, thế giới này có hai loại người, một loại gọi là “sucker”, tức là kẻ ngốc; loại nữa  gọi là “ducker”, tức là kẻ đào ngũ, kẻ gặp phải khó khăn liền chạy trốn. Bà nói, khi đối mặt với gian nan, khi tình thế trở nên vô cùng khó khăn, kẻ đào ngũ sẽ bỏ chạy, nhưng kẻ ngốc sẽ kiên trì ở đó, và tiến về phía trước không sợ khó khăn. Do đó mẹ tôi dặn tôi, hãy nhớ, con phải luôn luôn làm kẻ ngốc, đừng làm kẻ đào ngũ.

Phương Vĩ: Thế còn cha ông có ảnh hưởng thế nào tới ông?

David Kilgour: Tôi rất ngưỡng mộ cha mình. Ông nội và ông cố tôi đều là công tố viên, nhưng cha tôi thì không, ông là một thương nhân. Mỗi lần tôi phấn khích nói chuyện gì đó với cha, tôi liền hỏi: “Cha đã từng nói quá sự thực bao giờ chưa?” Ông liền trả lời, không được nói khoác. Do đó, từ năm 15 tuổi, tôi bắt đầu học được điều này. Cha tôi cũng dạy cho tôi rất nhiều những chuẩn tắc của cuộc sống, trong đó tôi nhớ rõ nhất đó chính là không được nói khoác, do đó tôi rất cẩn thận với sự thực.

Từ lúc nào bắt đầu có cảm hứng với Trung Quốc

Phương Vĩ: Là một nhà chính trị, một luật sư người Canada, từ khi nào ông có cảm hứng với Trung Quốc?

David Kilgour: Điều này rất thú vị, lần đầu tiên tôi tiếp xúc với Trung Quốc đó là khi tôi du học ở Pari từ năm 1969 đến năm 1970. Lúc đó tôi tìm thấy một cuốn sách, chính là cuốn sách Hồng Bảo Thư của Mao Trạch Đông, bìa cuốn sách chính là ảnh ông Mao Trạch Đông đang quan sát Trường Giang, khi đó tôi cảm giác người này chắc là rất tốt, nhìn ông ấy dường như con giun cũng chẳng muốn giết chết. Bây giờ anh có thể nói tôi đúng là đồ ngốc, nhưng đối với tôi mà nói, đến khi tôi đọc nhiều thứ hơn, bắt đầu nói chuyện với những người đến từ Trung Quốc và hiểu họ, tôi mới biết Hồng Bảo Thư chính là cuốn sách tuyên truyền chính trị, mọi thứ nói trong đó đều nói rất hay, nhưng bản thân ông ta lại không dùng.

Về sau khi tôi đến Trung Quốc, tôi làm Quốc vụ khanh khu vực châu Á Thái Bình Dương, lúc đó không có cách nào để bình luận về vấn đề nhân quyền Trung Quốc, bởi vì tôi là quan chức Canada, nếu tôi nói về vấn đề nhân quyền thì sẽ mạo phạm đến Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Giờ tôi cảm thấy thật xấu hổ, sao lúc đó tôi không dám nói gì chứ, về góc độ cá nhân tôi có thể nói chứ? Nhưng tôi lại không nói, chỉ nhắc đến một chút xíu. Lúc đó tôi cũng biết đến Pháp Luân Công bị đàn áp. Năm 1999, ĐCSTQ bắt đầu đàn áp Pháp Luân Công, năm 2002, 2003 tôi làm Quốc vụ khanh Canada phụ trạch khu vực châu Á Thái Bình Dương. Bây giờ nghĩ lại, tôi cảm thấy vô cùng day dứt, tại sao lúc đó tôi lại không lên tiếng!

Phương Vĩ: Sao ông lại tiếp xúc với người tập Pháp Luân Công?

David Kilgour: Khi đó tôi là Nghị viên Quốc hội và quan chức của chính phủ Canada, do đó người tập Pháp Luân Công lấy thân phận công dân đến gặp tôi, họ kể cho tôi những sự việc về Pháp Luân Công. Lúc họ kể tôi đều chăm chú lắng nghe và ghi chép, sau đó tôi liền hiểu rốt cuộc là chuyện gì đã xảy ra.

Phương Vĩ: Sao ông lại tin những lời họ nói?

David Kilgour: Căn cứ vào phán đoán của tôi về những người đó. Họ là những người thành thật, họ đến chỗ tôi không phải vì bản thân họ, mà là vì những người tập Pháp Luân Công khác tại Trung Quốc đang bị bức hại. Tôi là một công tố viên, nên tôi có con mắt quan sát. Trên cơ bản, tôi có thể biết được một người đang nói thật hay đang nói dối. Tôi biết những người tập Pháp Luân Công này nói thật, nhưng lúc đó trong tay tôi lại không có chứng cứ nào.

Phương Vĩ: Họ nói với ông những gì?

David Kilgour: Họ nói người nhà họ bị bức hại, bị bắt, và không có tin tức gì nữa.

Phương Vĩ: Ông đã bắt đầu điều tra về việc người tập Pháp Luân Công bị mổ cướp nội tạng từ khi nào?

David Kilgour: Tìm đến tôi đầu tiên đó là Tổ chức Thế giới Điều tra bức hại Pháp Luân Công. Về sau tôi mới biết là có người ở Quốc hội Mỹ nói với họ, họ muốn lấy được báo cáo điều tra thì phải đi tìm người thứ 3 độc lập. Chính vì nguyên nhân này, họ đã đến tìm tôi và luật sư nhân quyền David Matas, và chúng tôi đã nhận lời thỉnh cẩu của họ.
Tại sao phải làm cuộc điều tra này

Phương Vĩ: Sao ông lại nhận lời thỉnh cầu này của họ?

David Kilgour: Ông Matas là người Do Thái, nên ông rất hiểu sự việc người Do Thái bị sát hại. Khi đó chúng tôi nghĩ, sao lại không chứ? Và chúng tôi bắt đầu điều tra về nguồn gốc nội tạng của Trung Quốc. Sau đó chúng tôi tìm được 32 chứng cứ khác nhau để chứng minh việc mổ cướp nội tạng thực sự tồn tại.

Phương Vĩ: Lúc ông mới bắt đầu điều tra, phải chăng ông đã có hướng đi rồi, ông cảm thấy sự việc này là có thực hay là không tồn tại?

David Kilgour: Không có, lúc chúng tôi bắt đầu cuộc điều tra thì hoàn toàn không có kết luận. Tức là chứng cứ dẫn chúng tôi đến chỗ như thế nào thì chúng tôi sẽ đưa ra kết luận như thế. Bởi vì đó là luận chứng đặc biệt trên góc độ pháp luật, chúng tôi không có cách nào đích thân đi Trung Quốc điều tra, nên chúng tôi dùng những bằng chứng gián tiếp để làm. Nghĩa là, cùng với việc đi sâu vào điều tra của chúng tôi, nếu như việc mổ cướp nội tạng trên quy mô lớn thế này thực sự không tồn tại, thì hậu quả sẽ thế nào; nếu như có tồn tại thì hậu quả sẽ ra sao. Còn về kết luận, trước đó đều không có, còn sau đó những chứng cứ tương ứng cũng dần dần giúp chúng tôi đưa ra kết luận. Cuối cùng chúng tôi có kết luận: Việc mổ cướp nội tạng trên quy mô lớn thực sự có tồn tại.



Tối 30/10/2016, luật sư nhân quyền nổi tiếng David Matas (trái) và cựu Quốc vụ khanh Canada phụ trách vấn đề châu Á-Thái Bình Dương David Kilgour (phải) đã tổ chức họp báo công bố chứng cứ mới về tội ác mổ cướp nội tạng của ĐCSTQ.

Phương Vĩ: Ông đã tiến hành điều tra 10 năm về mổ cướp nội tạng, trong 10 năm theo đuổi việc này, là một chuyên gia trong lĩnh vực này, sự thật ông điều tra ra rốt cuộc là gì?
tại.
Tối 30/10/2016, luật sư nhân quyền nổi tiếng David Matas và cựu Quốc vụ khanh Canada phụ trách vấn đề châu Á-Thái Bình Dương David Kilgour đã tổ chức họp báo công bố chứng cứ mới về tội ác mổ cướp nội tạng của ĐCSTQ.
 
Tối 30/10/2016, luật sư nhân quyền nổi tiếng David Matas (trái) và cựu Quốc vụ khanh Canada phụ trách vấn đề châu Á-Thái Bình Dương David Kilgour (phải) đã tổ chức họp báo công bố chứng cứ mới về tội ác mổ cướp nội tạng của ĐCSTQ.
David Kilgour: Những người Trung Quốc có tiền họ cần nội tạng để ghép, còn có người nước ngoài nữa, giống như người Mỹ và người Canada, họ đều có những chuyến du lịch ghép tạng. Bây giờ chúng tôi biết được toàn bộ sự việc này vận hành như thế nào. Ví dụ như anh ở San Francisco hay ở Ottawa, anh cần tạng để ghép và anh bỏ ra rất rất nhiều tiền, sau đó có người sắp xếp cho anh đến Thượng Hải, trú tại Bệnh viện Nhân dân số 1 Thượng Hải, ở đó họ sẽ xét nghiệm máu cho anh. Xét nghiệm xong, họ sẽ đưa thông tin của anh lên máy tính để đối chiếu kho dữ liệu và tìm nguồn tạng phù hợp.

Chúng tôi biết rằng tìm được nguồn tạng phù hợp không hề dễ dàng, có khi tỷ lệ là 1/10 thậm chí 1/100 mới tìm được nguồn tạng phù hợp. Tìm được người có tạng phù hợp rồi, nhưng người này ở đâu đây? Ví dụ ở doanh trại số 250 hay trại tập trung số 250, ở những nơi như thế có thể tìm được người đáng thương như vậy, và người đáng thương này có thể là người tập Pháp Luân Công. Chúng tôi đã từng nói chuyện với rất nhiều người từng trốn thoát khỏi những trại tập trung như thế. Họ nói ở trong đó họ cũng bị xét nghiệm máu. Khi đó những người phạm nhân khác nói các bác sĩ sao lại quan tâm đến người tập Pháp Luân Công đến thế, thường hay xét nghiệm máu cho họ. Thực ra không phải là quan tâm, cũng không phải là điều trị bệnh, mà là tìm nhóm máu phù hợp với người ghép tạng.

Chúng tôi đã làm cuộc điều tra với Anne –  vợ một bác sỹ tại bệnh viện Tô Gia Đồn ở thành Phố Thẩm Dương, tỉnh Liêu Ninh. Anne nói chồng bà là bác sĩ tại bệnh viện Tô Gia Đồn. Trong khoảng thời gian từ năm 2001 đến 2003, chồng bà đã tiến hành hơn 2000 ca phẫu thuật ghép giác mạc, những giác mạc này được lấy từ người tập Pháp Luân Công. Đương nhiên sẽ có người nói, ông làm sao biết được những lời chồng bà ấy nói là thật? Ông đã từng nói chuyện với chồng bà ấy bao giờ chưa? Sau này chồng bà đã chạy trốn sang Canada, nhưng ông ấy không muốn gặp chúng tôi. Nhưng chúng tôi đã có cuộc nói chuyện rất lâu với bà Anne và đã điều tra rất kỹ lưỡng, có hôm chúng tôi ở bên bà hơn 8 tiếng đồng hồ, hỏi đi hỏi lại rất nhiều lần, và còn ghi chép lại những lời của bà ấy nữa.

Năm ngoái tôi đã đăng bản cập nhật của báo cáo điều tra, bản báo cáo này dày tới 700 trang giấy, với 2000 nguồn tin tức. Chúng tôi đã điều tra khắp tất cả các bệnh viện tại Trung Quốc, số giường bệnh, cũng như tất cả các thông tin liên quan. Kết luận của chúng tôi đưa ra, mỗi năm có 50.000 ca ghép tạng, đây là con số tương đối, thực tế là từ 50.000 đến 200.000 ca. Mỗi năm có hàng bao nhiêu ca ghép tạng như vậy nhưng nguồn tạng lại không rõ ràng.

Các ông làm như vậy phải chăng là phản Hoa?

Phương Vĩ: Nhiều công việc phải làm như thế, nhiều cuộc điều tra như thế, tốn biết bao nhiêu tiền bạc và công sức, vậy nguồn kinh phí của các ông là từ đâu?

David Kilgour: Nhiều người đã hỏi tôi vấn đề  này. Tôi và Matas làm việc, không có ai cho chúng tôi một đồng nào. Pháp Luân Công cũng không cho tôi một đồng nào. Chúng tôi không phải là người đi lấy tiền của người khác, không phải là luật sư làm việc cho khách hàng, chúng tôi không có khách hàng, do đó chúng tôi điều tra gì và không điều tra gì, cũng không có ai bảo chúng tôi cả. Tự chúng tôi quyết định nên điều tra gì thì điều tra thôi.

Gần đây có một hội nghị về buôn lậu nội tạng tổ chức tại Vatican, chúng tôi muốn tham

hội nghị đó, nhưng về sau lại không đi. Tôi nghĩ có lẽ do ảnh hưởng của chúng tôi nên Giáo hoàng đã lựa chọn không tham gia hội nghị.

Phương Vĩ: Các ông cho Giáo hoàng biết về việc mổ cướp nội tạng này chưa?

David Kilgour: Chúng tôi đã cố hết sức để liên lạc với ngài ấy, chúng tôi chưa gặp mặt ngài ấy, nhưng có thể ngài ấy đã đọc những tài liệu chúng tôi gửi. Anh biết đó, một năm trước, liên quan tới vấn đề mổ lấy nội tạng, Giáo hoàng đã biểu thị thái độ cực lực phản đối. Cho nên chúng tôi hy vọng ngài ấy biết đến việc này và đưa ra hành động.

Phương Vĩ: Có người Trung Quốc nói, ông điều tra việc này là có ý đồ xấu với Trung Quốc, là hành động chống phản Hoa, ông thấy thế nào?

David Kilgour: Chúng tôi tuyệt đối không phản Hoa, chúng tôi không phản Hoa, ngược lại, chúng tôi lại rất thích người Hoa, chúng tôi yêu thích lịch sử Trung Hoa, yêu thích văn hóa Trung Hoa, chúng tôi chỉ phản đối chính quyền ĐCSTQ, họ đã đối xử quá tệ với chính người dân của mình.

Phương Vĩ: Ông đã bỏ ra rất nhiều công sức để đi sâu vào vấn đề nhân quyền của Trung Quốc, đặc biệt là việc mổ cướp nội tạng người tập Pháp Luân Công, vì việc này mà ông đã đi tới 50 nước, mấy năm vừa qua ông đã đi khắp nơi kêu gọi sự quan tâm tới việc mổ cướp nội tạng của ĐCSTQ. Xin hỏi mục đích của cuộc đời ông rốt cuộc là gì?

David Kilgour: Tôi có rất nhiều mục đích của cuộc đời mình, trách nhiệm với con cái, trách nhiệm với gia đình, tôi cũng là Nghị viên của Quốc hội Canada, tôi cũng cần làm hết trách nhiệm của Bộ trưởng. Đồng thời tôi cũng có trách nhiệm nói lên sự thật, bao gồm cả những sự thật với cường quyền, về phương diện giúp đỡ người khác, tôi cũng có sứ mệnh của mình. Tôi hy vọng thế giới này trở nên tốt đẹp hơn. Thế giới này có rất nhiều vấn đề tồn tại ở rất nhiều nước, tôi mong muốn có thể lên tiếng thay những người không có tiếng nói ở các nước này…

Xem tiếp Phần 2 bên dưới.

Trí Đạt


Xem thêm:

    Giết người theo nhu cầu ở Trung Quốc
    ‘Xác sống’: Chuyện có thật bên trong nhà tù Trung Quốc
    Thư gửi Giáo hoàng La Mã về vấn đề mổ cướp nội tạng tại Trung Quốc .

(http://trithucvn.net/trung-quoc/david-kilgour-len-tieng-thay-nhung-nhuoi-khong-co-tieng-noi.html)

David Kilgour: Lên tiếng thay những người không có tiếng nói (Phần 2)

Thứ ba, 20/06/2017 | 07:06 GMT + 7 2,713 lượt xem

Gần đây, khi được người dẫn chương trình Phương Vĩ của Đài phát thanh hy vọng (SOH) phỏng vấn, cựu Quốc Vụ Khanh Canada khu vực châu Á – Thái Bình Dương David Kilgour đã kể lại câu chuyện về cuộc đời mình, nguyên do vì sao ông đến với cuộc điều tra mổ cướp nội tạng ở Trung Quốc và những gì ông đã trải qua.

Sau đây là các câu hỏi PHẦN II





David Kilgour - len tieng thay (phan 2) - Hinh 1




Phản ứng của chính quyền Trung Quốc và phương Tây về báo cáo điều tra

Phương Vĩ: Chính quyền Trung Quốc có trực tiếp hay gián tiếp phản ứng về những tố cáo của các ông không?

David Kilgour: Điều này rất thú vị. Về việc này, theo lý thì chúng tôi mở ra cuộc tranh luận chính nghĩa, cho nên sẽ có sự tranh luận của hai bên. Tuy nhiên, về phía Đảng Cộng sản Trung Quốc, ngoài việc nói chúng tôi phản Hoa, nói chúng tôi là Pháp Luân Công thì họ không có bất kỳ tranh luận gì. Ngay cả tranh biện cơ bản cũng không có. Đương nhiên, chúng tôi không phải là Pháp Luân Công.

Tôi vẫn nhớ lần đầu tiên chúng tôi đưa ra báo cáo về cuộc điều tra mổ cướp nội tạng, chúng tôi cung cấp một tấm ảnh. Trên bức ảnh này có chú thích rõ 15 nơi tại Trung Quốc có thể mua bán nội tạng. Trong đó có 2 thành phố, chúng tôi đặt sai tỉnh. Kết quả họ đưa ra phản bác, phản bác duy nhất đó là gì? Họ nói, ông có nhìn thấy không, “thành phố này được đặt ở tỉnh nào vậy, các ông làm không đúng rồi”. Cho nên thực chất những tố cáo chúng tôi đưa ra về việc bán nội tạng, thì họ lại không đưa ra bất kỳ lời phản bác nào. Do đó, những việc họ có thể làm, về cơ bản là luôn công kích vào cá nhân chúng tôi, công kích vào bản thân những người nào có dị nghị về vấn đề nhân quyền ở Trung Quốc.

Phương Vĩ: Chính quyền Trung Quốc có đến để nói chuyện với các ông không, chẳng hạn như về những tố cáo ông đưa ra, chúng ta hãy cùng ngồi lại với nhau để làm rõ sự thật. Có chuyện này hay không?

David Kilgour: Nói ra rất buồn cười, đúng là họ có tiếp xúc với chúng tôi, nhưng tiếp xúc như thế nào ? Bởi vì chúng tôi xin visa đi Trung Quốc, chúng tôi muốn tới Trung Quốc điều tra, nhưng họ không cấp cho chúng tôi. Xem ra, tốt nhất bây giờ họ không nên cấp cho chúng tôi, bởi vì nếu chúng tôi đến Trung Quốc, chúng tôi nói chuyện với ai thì người đó sẽ bị bắt, trước đây đã xảy ra việc như vậy. Tức là có người tập Pháp Luân Công nói chuyện với người nước ngoài đến để điều tra, và sau đó người này bị mất tích. Cho nên may mà chúng tôi không đi.

Một quan chức tại Đại sứ quán Trung Quốc ở Canada có đến gặp tôi tại một quán cà phê và hai bên bắt đầu nói chuyện. Tôi nói tôi muốn xin visa đi Trung Quốc, họ nói muốn xin visa thì không có vấn đề gì, chỉ cần đến phòng visa để xin là được. Nói xong, anh ta bắt đầu nói về Pháp Luân Công, mới đầu thì anh ta giảng giải hàng loạt những lý do từ chối của Đảng Cộng sản Trung Quốc liên quan tới Pháp Luân Công. Tôi càng nghe càng cảm thấy nhàm chán và không muốn nghe nữa. Tôi nói tôi không muốn nghe, tôi phải đi. Bởi mang dòng máu Scottland nên tôi khá bị kích động. Khi đứng dậy tôi liền nghĩ, anh ta ở đây dạy bảo tôi, khác gì đang sỉ nhục tôi, tôi còn phải trả cả tiền cà phê cho anh ta nữa ư. Không được, không trả cho anh ta. Nhưng hiện giờ tôi đã nhận ra sai lầm này, thực ra khi đó tôi nên rộng lượng hơn. Lúc tôi trả tiền cà phê của tôi xong, anh ta không mang theo tiền chỉ còn cách vẫy người lái xe vào thanh toán hộ.

Lần tiếp xúc khác với quan chức của chính quyền Trung Quốc, đó là lúc tôi dừng ở trạm xăng để đổ xăng. Phía sau tôi có một chiếc xe mang biển ngoại giao. Tôi nghĩ chắc đó là xe của Đại sứ quán Trung Quốc. Ở đây là thủ đô Ottawa. Đúng lúc trên xe của tôi có tờ báo của The Epoch Times, tôi lấy tờ báo đó đưa cho người trong xe. Anh ta không vứt đi mà cất nó trong xe. Chung quy lại, chúng tôi phải theo dõi sát việc mổ cướp nội tạng, và chúng tôi vẫn đang theo dõi không từ bỏ. Sẽ có một ngày, họ sẽ nhận ra, tiền mà họ kiếm được từ mổ cướp nội tạng, khoảng 8 – 9 tỉ USD, đây là con số chúng tôi ước tính dựa trên giá ghép tạng. Sẽ có một ngày, họ sẽ biết rằng số tiền bất chính mà họ kiếm được này, cả thế giới đều biết. Chúng tôi đang theo dõi việc như thế. Đồng thời, chúng tôi cũng so sánh tội mổ cướp nội tạng của Đảng Cộng sản Trung Quốc với tội diệt chủng của Đức Quốc Xã, tôi hy vọng chúng tôi có thể tạo nên một số ảnh hưởng.

Phương Vĩ: Ông và ông Matas đã đi tới 50  nước trên thế giới để vạch trần nạn mổ cướp nội tạng đang diễn ra tại Trung Quốc, xin hỏi vì sao các ông lại muốn làm như vậy?

David Kilgour: Mới đầu chúng tôi không có kế hoạch như vậy, chúng tôi cho rằng sau khoảng 6 tháng thì việc này sẽ dừng lại. Nhưng tội ác mổ cướp nội tạng vẫn diễn ra, nên chúng tôi vẫn phải làm tiếp, không dừng lại. Đây là nguyên do vì sao chúng tôi đi tới 50 nước trên thế giới. Chúng tôi được mời đến các nước khác nhau, có lúc dự tính đi đến 1 nước thôi, nhưng cuối cùng lại đi đến 2, 3 nước. Gần đây nhất chúng tôi đi đến Na Uy, còn có Phần Lan, Tây Ban Nha, Hy Lạp. Tại Tây Ban Nha, giới truyền thông đưa tin rất nhiều về chúng tôi. Chúng tôi cũng trình lên quốc hội Tây Ban Nha danh sách ký tên của hơn 250.000 người dân, kêu gọi chấm dứt mổ cướp nội tạng. Hai tuần sau đó, câu chuyện của chúng tôi được đăng lên trang nhất tạp chí về sức khỏe của Tây Ban Nha. Cho nên chúng tôi hy vọng sẽ tiếp tục làm việc này cho đến khi nào đòi được công lý và việc mổ lấy nội tạng tại Trung Quốc dừng lại.

Phương Vĩ: Ông thấy xã hội phương Tây, người ta nhận thức thế nào về vấn đề mổ cướp nội tạng người tập Pháp Luân Công?

David Kilgour: Nói về vấn đề này, tôi thấy rất thú vị, các nước khác nhau thì nhận thức của họ cũng khác nhau. Ví dụ như Tây Ban Nha, nghị viên quốc hội cũng như giới truyền thông của Tây Ban nha họ rất chào đón chúng tôi. Cũng có những nước không tốt, tôi phải cẩn thận không nhắc đến tên, nhưng tôi vẫn muốn nói đến một nước, đó là Nhật Bản. Tôi và ông Matas đến Nhật, đã gặp nghị viên quốc hội và một số nhân vật trong giới chính trị. Tại Nhật có Bệnh viện Hữu nghị Nhật Trung. Chúng tôi nói với những người ở đó về vấn đề mổ lấy nội tạng người tập Pháp Luân Công. Bệnh viện đó rất kỳ lạ, có bác sĩ cho rằng lợi ích của bệnh nhân của họ là quan trọng hơn, họ quan tâm tới bệnh nhân hơn. Tôi nói với họ, các vị cần phân biệt rõ, những người cho tạng này là bị mưu sát. Tóm lại, bác sĩ cũng thế, mà quốc hội Nhật Bản cũng vậy, đều không có nhiều đột phá. Đây cũng là nơi làm tôi thấy thất vọng.

Còn Hàn Quốc, khi chúng tôi đến Hàn Quốc, cơ quan chức năng họ không cho chúng tôi đến thăm bệnh viện, không cho chúng tôi vào bệnh viện. Chúng tôi không biết nên làm thế nào. Nhưng chúng tôi đã gặp Trưởng Hiệp hội chữa bệnh của Hàn Quốc, hiệp hội này có 16.000 bác sĩ thành viên. Tôi bắt đầu nói với ông về việc mổ lấy nội tạng, khi ấy có người mở cho ông ấy xem một đoạn video, nói về gia đình người Bắc Hàn nhận nuôi một đứa trẻ, nhưng họ nhận nuôi đứa trẻ này không phải để cho nó trở thành một thành viên trong gia đình, mà chỉ là để giữ nó lại, có lẽ trong tương lai họ sẽ mổ lấy nội tạng của nó. Câu chuyện trong video này cùng làm ông ấy rất chấn động. Hàn Quốc có một điểm tốt đó là họ rất mẫn cảm với áp lực. Do đó lúc tôi nói đến bệnh viện nào đó đưa người đi Trung Quốc ghép tạng, chúng tôi phơi bày rõ bệnh viện đó ra, và họ liền cấm bệnh viện đó đưa người đi Trung Quốc ghép tạng.

Còn một nước nữa cũng tương đối tốt, đó là Australia. Tôi rất vui mừng kể với anh, sau khi chúng tôi đến làm việc về vấn đề mổ cướp nội tạng, mấy năm qua không có người ở Australia đến Trung Quốc ghép tạng nữa.

Bôn ba hàng chục năm bởi chúng tôi không muốn lương tâm day dứt

Phương Vĩ: Trong thính giả của chúng tôi có thể có một số người nói, ông Kilgour, tôi thấy ông làm việc này là có mục đích khác. Chúng tôi không tin việc ông làm. Vậy ông giải đáp thế nào về những thắc mắc này?

David Kilgour: Nói tôi có mục đích khác, mục đích đó của tôi là gì đây? Đối với người tập Pháp Luân Công tu luyện theo Chân Thiện Nhẫn, đối với người Tây Tạng, đối với người Duy Ngô Nhĩ, khi họ bị thảm sát, thì sẽ liên quan tới sự tôn nghiêm của nhân loại. Trong các thính giả đây, rất nhiều người cũng sẽ làm giống như tôi. Do đó tôi chỉ làm những việc tôi nên làm. Họ không dừng mổ lấy nội tạng, thì tôi vẫn sẽ tiếp tục làm công việc này.

Phương Vĩ: Ông đã bôn ba 10 năm vì việc này, trên thế giới có rất nhiều việc cần làm, sao ông vẫn kiên trì làm việc này tới 10 năm? Đối với ông mà nói có lẽ câu trả lời đã rất rõ ràng rồi, nhưng tôi vẫn muốn hỏi, điều gì thôi thúc ông tiếp tục việc này?

David Kilgour: Tôi là người rất quật cường, khi tôi nhìn thấy một việc rõ ràng rất chấn động, tôi sẽ không dừng lại. Đương nhiên, cha mẹ tôi không giống như người Do Thái bị Đức Quốc Xã sát hại, nhưng tôi đồng tình với câu nói của ông Jacob Lavee, việc giết hại người Do Thái không dừng lại, ông sẽ vẫn tiếp tục đấu tranh. Và tôi cũng thế, nếu như nhìn thấy việc xấu mà chúng ta không hành động để ngăn chặn, vậy người bị hại tiếp theo sẽ là ai, người tiếp theo sẽ làm thế nào? Tại Ottawa có tổ chức kỷ niệm người Do Thái bị sát hại, những người may mắn sống sót đã chia sẻ cách nhìn nhận của họ, họ không thù hận. Tôi rất cảm động. Đây chính là nguyên nhân thôi thúc tôi tiếp tục công việc này.
Phương Vĩ: Có một người bạn người phương Tây nói với tôi, những gì bạn nói là hơi quá, tôi không cách nào tin, do đó tôi chỉ còn cách không nhắc việc này. Đối với phản ứng thế này, ông nhìn nhận thế nào?

David Kilgour: Đúng vậy, mới đầu khi người Do Thái bị thảm sát, khi tin tức được truyền đi thì cũng như vậy. Mặc dù chứng cứ được liên tục đưa ra, nhưng lúc đó có rất nhiều quan chức cấp cao nói: “Ông nói quá rồi, bởi họ là Do Thái giáo nên mới giết họ? Tôi không tin” . Và họ tránh né việc này. Nhưng 10 năm sau, người ta lại quay lại hỏi anh, khi đó có chứng cứ như thế này, tại sao anh không có hành động gì. Tôi không muốn sau này sẽ có người hỏi tôi câu hỏi tương tự thế này để rồi phải im lặng không biết trả lời ra sao. Tôi không muốn bị day dứt lương tâm.
(Hết)


Monday, September 4, 2017

BỬU UYỂN * MỘT NỤ CƯỜI

Một Nụ Cười
Bửu Uyển


Vào dịp cuối năm 1984, một buổi họp mặt các cựu tù nhân chính trị được tổ chức ở San Diego. Xướng ngôn viên của buổi lễ cho biết:

“Khi tôi xướng tên trại nào, nếu quý anh là trại viên của trại đó, xin đứng dậy và tự giới thiệu tên của mình để các anh em khác được biết”.

Nhiều trại cải tạo ở miền Bắc được lần lượt xướng tên như “Phong Quang”, “Yên Báy”, “Vĩnh Phú”, “Thanh Cẩm”, “Lý Bá Sơ”, “Nam Hà”, “Phú Sơn” v.v Trại nào cũng có năm bảy anh đứng dậy và giới thiệu tên của mình. Khi xướng tên trại Nam Hà, tôi đứng dậy và có thêm bốn anh nữa , trong đó có một anh, tự giới thiệu tên của mình là Lê Trung Đạo. Tôi lẫm nhẫm Lê Trung Đạo, Lê Trung Đạo…sao tên nghe quen quá, hình như anh ấy ở chung đội với tôi thì phải.

Khi phần giới thiệu các anh em trại Nam Hà chấm dứt, tôi đi đến bàn của anh Đạo, đứng đối diện và nhìn kỹ anh ấy. Tôi nhận ra anh Đạo ngay. Tôi ôm chầm lấy anh, và anh ấy cũng ôm tôi trìu mến. Tôi thì thầm bên tai Đạo:

“Em còn nhớ anh không? ”

Đạo trả lời ngay:

“Anh Uyển, mà sao em có thể quên được, thật vui mừng được gặp lại anh. Em trông chờ ngày này đã lâu lắm rồi!”

Khi cùng sống trong cảnh đọa đày nơi trại Nam Hà, phân trại C, tôi và Đạo nằm gần nhau. Ra đồng, bắt được con cua, con cá, tôi và Đạo cùng chia sẻ với nhau. Đạo là một Thiếu Úy Cảnh Sát Đặc Biệt, mới ra trường, không biết làm Trưởng G hay H gì đó..mà bị đày ra cải tạo ở miền Bắc. Anh còn quá trẻ, khoảng 24, 25 tuổi. Tôi xem anh như một người em của tôi và tôi rất quý mến anh. Đạo chưa lập gia đình. Anh chỉ còn một mẹ già đang sống ở Vĩnh long. Vì vậy, từ ngày bị đưa ra Bắc, Đạo chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân từ trong Nam gởi cho anh. Anh sống hiền hòa, vui tính, nên anh em trong đội ai cũng mến anh. Đạo xem tôi như một người anh trong gia đình, anh tâm sự với tôi:

“Đời em chẳng còn gì nữa, chỉ có một người mẹ, mà từ ngày bị đày ra Bắc, đã trên 5 năm rồi em chẳng có tin tức gì của mẹ em. Không biết bà còn sống hay đã ra người thiên cổ”

Đạo nắm tay tôi và cảm động nói:

“Giờ đây em chỉ có anh là người duy nhất thương mến em, cho em chút an ủi để sống qua ngày!”

Như có một động lực nào thúc đẩy, Đạo tâm sự với tôi:

“Anh ạ, mình phải sống chứ anh, mà muốn sống, dù là cuộc sống thấp nhất, cũng phải có một ước mơ gì đó để mà mộng tưởng, để tiếp sức cho mình. Các anh em ở đây, dĩ nhiên ai cũng mơ ước sớm được trở về với gia đình. Ngoài xã hội thì kẻ này mơ trúng số, kẻ kia mơ nhà cửa, ruộng vườn v.v. Nhưng sống nơi địa ngục trần gian này, anh em mình mơ ước điều gì đây? Tất cả đều nằm ngoài tầm tay của mình. Em chợt nhớ lại một câu chuyện cổ tích của Pháp, tựa đề là “Un Peu De Soleil Dans L’eau Froide” kể lại câu chuyện một ông lão nghèo khổ, sống cô đơn một mình trong căn lều nhỏ bé, trống trước, trống sau. Bổng một bà tiên hiện ra và cho ông một điều ước. Bà tiên cứ nghĩ, thế nào ông lão nghèo nàn này cũng sẽ ao ước có một căn nhà, hoặc ao ước có nhiều tiền bạc..v..v. Nhưng bà tiên vô cùng ngạc nhiên, khi ông lão nghèo khổ ấy chỉ xin “Một Nụ Cười”

Đạo như chợt tỉnh, ông lảo bất hạnh trong câu chuyện cổ tích, đã chỉ cho Đạo một mơ ước, mà dù trong hoàn cảnh nào cũng có thể đạt được, đó là một nụ cười. Không cần phải là nụ cười của giai nhân, mà chỉ cần một nụ cười thân ái của ai đó, chân thành trao cho anh, vì yêu mến anh, có thế thôi.

Cuộc sống tù đày cứ kéo dài triền miên trong đói khổ, vô vọng. Nhưng khi nghĩ đến một nụ cười, Đạo thấy tâm hồn mình có chút an ủi, nhẹ nhàng. Hằng ngày , Đạo ước mơ nhận được nụ cười. Đêm đêm Đạo cũng ước mong trong giấc mơ, anh sẽ gặp được một nụ cười. Nhưng buồn thay, những giấc mơ đến với Đạo chỉ là những cơn ác mộng mà thôi.

Nhưng thật kỳ diệu, từ ngày Đạo ôm ấp ước mơ có được một nụ cười, anh thấy cuộc đời của anh có chút ý nghĩa, vì dù sao anh cũng có một ước mơ, để mà thương, mà nhớ, mà mong chờ.

Một hôm, đội được dẫn đi gặt lúa, khi đi ngang qua cỗng cơ quan, Đạo thấy nhiều chiếc áo vàng đứng ở đó. Nhìn lướt qua, Đạo chợt thấy một nữ cán bộ nhìn anh mỉm cười. Anh không tin ở mắt mình, anh nghĩ rằng có thể cô ta cười vu vơ gì đó, chứ đâu phải cười với anh. Anh quay lại nhìn một lần nữa, vẫn thấy cô ta nhìn anh và mỉm cười.

Từ ngày ấy, mỗi khi đội đi ngang qua cỗng cơ quan, Đạo đều bắt gặp nụ cười của người nữ cán bộ dành cho anh. Vì vậy khi đi lao động, Đạo luôn luôn đi cuối hàng để dễ đón nhận nụ cười của cô nữ cán bộ. Đạo cũng cười đáp lễ với cô ta. Đạo bắt đầu thấy cuộc đời của mình, có một chút gì thi vị, đáng sống. Khi ăn, khi ngủ, nụ cười đó luôn luôn theo anh, cho anh niềm an ủi, và chút lạc quan để sống. Anh em trong đội đều biết mối tình mắt nhìn mắt và trao đổi nụ cười của Đạo và cô nữ cán bộ.

Không những Đạo nhớ đến nụ cười, anh còn nhớ đến đôi mắt như muốn nói với anh muôn ngàn lời, anh nhớ đến người con gái ấy. Ban đầu anh nghĩ rằng cứ giã bộ vui vẻ cho qua ngày. Nhưng trong tâm trí anh, luôn luôn nhớ đến cô gái ấy và anh nhận ra rằng anh đã yêu cô ta. Đạo nhớ lại ngày xưa Elvis Presley đã hát một bài hát nỗi tiếng là bài Don’t Gamble With Love nay thật đúng như trường hợp của Đạo. Bây giờ Đạo không còncho rằng lao động là khổ sai nữa, mà anh trông chờ mỗi buổi sáng được đi ngang qua cỗng cơ quan, để đón nhận nụ cười của người nữ cán bộ.

Một buổi chiều khi đi lao động về,nghe các anh em Công Giáo tập hát bài “Đêm Đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời”, Đạo mới biết, đêm nay là đêm Noel. Khi cửa phòng giam đóng lại, anh em Công Giáo vội vã thiết trí một ngôi sao Giáng Sinh và hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh” ở vách tường cuối phòng. Họ nắm tay nhau ca hát, đọc kinh, cầu nguyện. Đạo nằm mơ màng, lơ đãng nhìn về cuối phòng, chung quanh hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh”, Đạo tưởng tượng như có những bóng đèn màu chớp sáng. Anh mơ hồ nghe như có tiếng nhạc bài Silent Night dịu dàng thoảng đi trong gió…Anh thiếp đi trong giấc ngủ yên lành.

Vào một buổi sáng chúa nhật, chúng tôi được gọi ra sân để nhận quà của thân nhân từ trong Nam gởi ra. Thường thì 80 đến 90 phần trăm anh em đều nhận được quà. Riêng Đạo thì chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân. Nhưng thật bất ngờ, hôm nay cán bộ lại kêu tên Đạo lên nhận quà, ai cũng ngạc nhiên và mừng cho Đạo.Anh nhận một gói quà bình thường, nhưng cách gói quà , khác với những gói quà từ trong Nam gởi ra. Đạo sững sốt nhận gói quà, đem về phòng, cẩn thận mở ra. Một mãnh giấy nhỏ nằm trên những gói đồ ăn, anh đọc vội hàng chữ “Trìu mến gửi anh Đạo – Em : Kim Chi”. Với mấy chữ ngắn gọn đó, Đạo biết ai gởi cho anh món quà tình nghĩa này. Anh ôm gói quà vào lòng. Anh không ngờ người nữ cán bộ có nụ cười dễ thương đó, lại dám liều lĩnh gởi quà cho anh. Hai hàng nuớc mắt chảy dài xuống má, đây là những giọt nước mắt hạnh phúc mà từ lâu anh không hề có.

Trại Nam hà, Phân trại C, nơi chúng tôi đang ở, phía sau là con đường làng. Trại chỉ ngăn cách với bên ngoài bởi những bụi tre thấp và hàng rào kẽm gai. Dân chúng đi ở ngoài, chúng tôi có thể thấy họ. Thường vào buổi chiều, sau khi ăn cơm xong , chúng tôi hay ra ngồi chơi ở sân sau đó, nhìn người qua lại. Một hôm, chúng tôi thấy cô cán bộ Chi đi lui, đi tới ở ngoài hàng rào, rồi thình lình quăng vào trong một cái gói nhỏ. Chúng tôi biết cô ấy gởi gì đó cho Đạo, chúng tôi mang vào cho anh. Đạo không biết Chi gởi gì cho anh, nhưng anh cảm động lắm. Anh em hiếu kỳ đứng quanh giường của của Đạo, để xem cô Chi đã gởi gì cho anh: đó là một gói xôi và một con gà vàng rộm. Đối với tù nhân, đói triền miên như chúng tôi, thì gói xôi gà này là cao lương mỹ vị bậc nhất trên thế gian này.
Đạo rất hào phóng, anh chia đều xôi, gà cho tất cả 32 anh em trong đội, mỗi người được một muỗng xôi và chút ít thịt gà. Có người ăn ngay, nhưng cũng có vài anh em để đó, hít hít mùi thịt gà cho đỡ thèm.

Đạo thấy thương Chi quá, vì yêu anh, nàng đã gan liều làm những việc như vậy, vì nếu bị phát giác, nàng ở tù như chơi. Đạo càng thương Chi khi nghĩ đến tương lai: một cán bộ công an yêu một sĩ quan cảnh sát ngụy..thì đời nào có thể sum họp được. Anh thở dài!

Vào một sáng chúa nhật, một anh trật tự đến phòng chúng tôi, bảo anh Đạo chuẩn bị ra có người thăm nuôi. Chúng tôi rất ngạc nhiên, vì từ bao năm nay, Đạo thuộc diện con mồ côi, chưa hề có ai gởi quà cho Đạo, nói gì đến chuyện thăm nuôi.Thế mà hôm nay, lại có người thân nào đó đến thăm Đạo. Chúng tôi mừng cho Đạo. Khoảng 9 giờ sáng, anh được cán bộ dẫn ra nhà thăm nuôi. Chúng tôi hồi hộp chờ Đạo trở vào để xem anh nhận được những quà gì của thân nhân đem đến.

Nhưng chúng tôi chờ mãi…đã ba , bốn giờ chiều rồi, vẫn chưa thấy Đạo trở vô trại. Thường một trại viên được gặp mặt thân nhân khoảng 15, 20 phút, tối đa là nửa giờ. Thế mà , Đạo ra nhà thăm nuôi đã hơn bốn, năm tiếng rồi mà chưa thấy vô. Chúng tôi bắt đầu lo lắng cho Đạo, không biết chuyện gì đã xảy ra cho anh, lành hay dữ. Và từ đó, chúng tôi không còn biết tin tức gì về Đạo nữa.

Hôm nay gặp lại Đạo, tôi đem chuyện ấy ra hỏi Đạo, anh đã kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây:

“Anh nhớ không, ngaỳ chúa nhật hôm đó, em được dẫn ra nhà thăm nuôi, nói là có thân nhân đến thăm. Em vô cùng ngạc nhiên vì em đâu có thân nhân nào từ trong Nam có thể ra thăm em. Bước vào nhà thăm nuôi, em thấy Chi và một ông Thượng Tá công an ngồi ở đó. Chi vội vã đứng lên giới thiệu:

“Đây là cậu Du của Chi, đang công tác ở tỉnh Thái Bình, em nhờ cậu ấy đến thăm anh.”

Đạo bối rối nhìn Chi, nhìn ánh mắt, nụ cười của Chi. Chi mặc đồ công an, trên cổ áo có đeo quân hàm (cấp bậc) Thiếu Úy. Chi biết Đạo ngỡ ngàng, thắc mắc nên cô nói ngay:

“Anh đừng lo, em bảo anh làm gì thì cứ làm theo, chớ có hỏi han gì hết”.

Chi dẫn Đạo vào một căn nhà ở gần nhà thăm nuôi, nhà không có ai cả. Chi bảo tôi cởi bộ áo quần tù ra, và mặc ngay bộ đồ công an đã để sẵn ở đó; ngoài áo quần, có cả nón, cặp da và giấy chứng nhận đi công tác miền Nam. Tôi như trên trời rớt xuống, nhưng không có thì giờ để hỏi Chi, việc gì đang xảy đến cho tôi. Khi tôi đã mặc xong bộ đồ công an, Chi nhìn tôi mỉm cươì, rồi kéo tôi ra ngỏ, bảo tôi leo lên một chiếc xe Jeep nhà binh đậu sẵn ở đó, và chạy ra ga xe lửa Phủ Lý. Chi bảo tôi cứ ngồi trên xe, Chi vào mua vé xe lửa đi về Sàigòn. Khi đưa tôi lên xe lửa, Chi ân cần căn dặn:

“Không nên về nhà, cũng đừng liên lạc với mẹ, mà tìm một người bà con nào đó ở tỉnh khác xin trú ngụ vài ngày, rồi tìm đường vượt biên. Tốt nhất là đi đường bộ qua ngã Campuchia”.

Chi đưa cho tôi một gói giấy và nói:

“Đây là ít tiền để anh tiêu dùng, nhớ là phải vượt biên ngay nhé!”.

Chi cầm tay tôi và chân thành nói:

“Em là vợ của anh, anh đừng quên em!”.

Tôi ôm Chi vào lòng, nước mắt ràn rụa. Chi cũng khóc trên vai tôi. Xe lửa từ từ lăn bánh, hình ảnh Chi cô đơn đứng một mình trên sân ga, nhỏ dần, nhỏ dần.. Tôi thấy nhiều lần Chi đưa tay lên lau nước mắt. Trong tim tôi, mối tình mà Chi dành cho tôi quá sâu đậm, đã chiếm trọn cuộc đời tôi. Tôi vỗ vỗ vào trái tim của mình “Đạo, Đạo, mày phải sống xứng đáng để đền ơn đáp nghĩa cho Chi nghe chưa”


Khi xe lửa dừng lại ở ga Bình triệu, Sàigòn, tôi không về nhà tôi ở Vĩnh Long, mà đến nhà dì tôi ở Cần Thơ xin trú ngụ. Chồng của dì tôi là một Đại úy Công Binh Việt nam Cộng Hòa, trước năm 1975, ông phục vụ ở Tiểu Đoàn 24 Công Binh Kiến tạo, mới được trả tự do. Gia đình dì, dượng tôi đang âm thầm chuẩn bị vượt biên. Dì, dượng tôi vui vẻ chấp thuận cho tôi cùng đi theo. Tôi đã đưa gói tiền mà Chi trao cho tôi, cho dì tôi để bà tiêu dùng. Mở gói ra xem, dì bảo tôi:

“Tiền đâu mà cháu có nhiều vậy?”

Tôi trả lời ngay:

“Của vợ con cho đó!”

Vào một đêm tối trời, ghe máy chở cả nhà ra cữa biển Đại Ngãi, vì tàu lớn đang đậu ở đó. Sau 3 ngày và 4 đêm, tàu của chúng tôi đã đến hải phận Thái Lan, được tàu tuần duyên của Thái Lan đưa về trại Sikiew. Trong cuộc phỏng vấn thanh lọc, nhân viên Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc hỏi tôi rất ít. Tôi nghĩ là họ có đầy đủ hồ sơ cá nhân của ngành Cảnh Sát Đặc Biệt. Họ chỉ hỏi tôi là làm Trưởng G hay Trưởng H, tôi trả lời. Người nhân viên đó lấy trong tập hồ sơ ra một tấm ảnh, anh nhìn tôi rồi gật đầu. Thế là tôi vượt qua cuộc thanh lọc. Mấy tháng sau, họ chuyển tôi qua trại Pulau Bidong ở Mã Lai, để chờ chuyến bay đi định cư ở Mỹ.

Tôi mau chóng gởi thư cho má tôi ở Vĩnh Long, báo tin tôi đã bình yên đến trại Pulau Bidong ở Mã Lai, đang chờ chuyến bay để đi định cư ở Mỹ. Khoảng 2 tuần sau, tôi vui mừng nhận được thư hồi âm của má tôi, và một bất ngờ thú vị đến với tôi là có cả thư của Chi nữa! Má tôi đã viết cho tôi:

“Đạo con, má rất vui mừng nhận được tin con đã đến nơi bình yên. Má cho con biết là Chi đang ở đây với má. Chi đã kể cho má nghe hết mọi chuyện. Má rất hạnh phúc có được một con dâu hiếu thảo như Chi, má mừng cho con”

Đạo run run mở thư của Chi ra đọc:

“ Anh Đạo yêu quí của em, nghe anh đã đến đảo và đang chờ chuyến bay để đi Mỹ, má và em mừng quá anh ơi. Khi anh đi về Nam chưa đầy một tháng, họ đuổi em ra khỏi ngành công an. Em đã về Vĩnh Long ở với má, em thay anh phụng dưỡng, săn sóc má, anh yên tâm ! “

Với lời lẽ chân tình, mộc mạc, tôi uống từng chữ, từng lời trong bức thư ngắn gọn của Chi, tôi áp bức thư vào ngực và đi vào giấc ngủ.

Năm 1982, tôi được đi định cư ở Mỹ. Khi có thẻ xanh, tôi đã làm hồ sơ bảo lãnh Chi. Trong thời gian ở với má tôi ở Vĩnh Long, không biết Chi hỏi thủ tục bảo lãnh ở đâu mà nàng ra Thái Bình, nhờ người cậu Thượng Tá Công An của nàng, làm một giấy hôn thú của tôi và Chi, có đầy đủ chữ ký và khuôn dấu đỏ xác nhận của chính quyền địa phương.

Năm 1987 khi tôi được nhập quốc tịch Mỹ, tôi đã bổ túc hồ sơ bảo lãnh. Chi đã nhanh chóng được phỏng vấn. Lúc này, những trường hợp gian dối chưa xảy ra nhiều, nên việc chấp thuận cho chồng bảo lãnh vợ tương đối dễ dàng nếu có đầy đủ giấy tờ chứng minh.

Vào một ngày se lạnh ở miền Nam Cali, tôi và vài bạn bè thân quen đến đón Chi ở phi trường Los Angeles. Tôi ôm Chi vào lòng, vì quá cảm động, tôi chỉ thốt lên được một tiếng “Em!” Chi cũng vậy, nàng thổn thức trên vai tôi “Anh!”. Chỉ 2 tiếng “Anh” “Em”, nhưng đã gói trọn cuộc tình mà chúng tôi nghĩ là không bao giờ có thể sum họp được. Tạ ơn Trời Đất !

Đạo xây qua người đàn bà ngồi bên cạnh anh, và giới thiệu với tôi:

“Thưa anh, đây là Chi, vợ em”

Chi bẽn lẽn cúi đầu, che dấu nụ cười đã đem lại sức sống và hạnh phúc cho Đạo.

Tôi đã được nghe , được biết nhiều mối tình ly kỳ, éo le lắm. Nhưng nếu nói đến một mối tình thật lãng mạn, mà người con gái đã dám hy sinh sự nghiệp và cả tính mạng mình cho người yêu, thì không thể không nói đến mối tình của nàng Kim Chi và chàng Trung Đạo.



Bửu Uyển
Tháng 6-2016
Source: "http://https://tunhan.wordpress.com/...huyen-tinh-dep

TONY DƯƠNG * NHỮNG CÁNH CHIM KHÔNG MP3I


Những Cánh Chim Không Mỏi
Tony Dương
Đây là lần thất bại thứ mấy rồi, tôi không còn nhớ được – nhưng thất bại bị ở tù thì đây là lần thứ hai. - Lần thứ nhất: Cùng ông anh rể, xuống tuốt mãi Trà Vinh: Họ dụ khị để bán vé, rồi bắt bỏ tù 10 tháng, đòi đem tiền chuộc mạng, mới tha!!!( có đáng nổi loạn chưa?) - Lần thứ hai: Tham gia cướp tàu có vũ khí (đã nổi loạn thật rồi!!!); tù 15 tháng!... Các cụ bảo: “Cùng tắc biến, biến tắc thông” xem ra chẳng đúng một ly ông cụ nào trong trường hợp của tôi cả!...Cái cảnh “cùng đường” của tôi đã được bọn chúng tôi “khuấy lên thành BIẾN “!...Thế nhưng cái “tắc biến” đó lại dẫn tôi đến nơi “tắc tị”... Tôi vừa suy ngẫm như thế, vừa thất thểu trên đường chẳng biết đi về đâu.

Với nước da bạc thếch lốm đốm những nốt ghẻ ruồi và muỗi đốt, nhất là cái đầu trọc lốc dễ gây chú ý cho những người qua lại, và không dấu được hành tung của một tên tù, hay ít ra là của một tên tù vừa được thả, thì bỗng nghe có tiếng gọi tên tôi...Một cô gái cũng khá tiều tụy, từ bên kia đường đang hăm hở lách dòng xe cộ băng qua. Hóa ra là Ngọc Bảo, một sinh viên trước năm 1975 và cũng là vị hôn thê của tôi. Chúng tôi đưa nhau vào một quán cóc ven đường. Ngọc Bảo cho biết nàng cũng vừa được thả từ huyện Duyên Hải về tuần trước. Về chuyện của tôi cả hai bên Cha Mẹ đều đã biết. Các vị buồn chứ không lo lắng lắm. Riêng Ông Già Vợ của tôi thì “ phán” thêm một câu: “ Ngựa non háu đá!” và nói với Bảo rằng ông muốn gặp tôi chừng nào tôi được tha về. Ông già vợ tôi là người có khuynh hướng thực dụng, làm việc cần cù và rất thận trọng.

Phân tích những lần thất bại của tôi và của các ông – ông thường dựa vào 3 yếu tố Thiên Thời, Địa Lợi, Nhân Hòa... nhưng luôn nhấn mạnh “ chính mình phải luôn luôn nắm lấy lấy thế chủ động “. Việc gì cũng vậy, nếu chưa chuẩn bị chu đáo thì hãy chờ thời. Từ đó tôi ở hẳn nhà bố mẹ vợ tôi. Tứ thân phụ mẫu đã cùng lo tổ chức hôn lễ cho chúng tôi. Sau đó nhờ sự quen biết rộng rãi ông xin nhập hộ khẩu cho tôi. Dịp này chị tôi từ Mỹ gởi về mừng chúng tôi một số vốn kha khá. Vợ tôi sang được một sạp bán đường, đậu, bột tại chợ Hòa Bình. Còn tôi học được một lớp máy nổ tại Trường Kỹ Thuật Cơ Khí trên đường Vườn Chuối Sài Gòn. Năm 1984 chúng tôi có một cháu trai, ba năm sau nữa vợ tôi sinh thêm một cháu gái. Vợ chồng tôi tâm sự với ông: “ Chúng con thấy trách nhiệm ngày càng thêm nặng...

Chúng con không thể để các cháu lớn lên trong cái xã hội mỗi ngày thêm một thoái hóa này được được...” Ông nhìn tôi thích thú: “ Tôi tưởng những cánh chim bằng đã mỏi rồi chứ!” – Rồi ông cười ha hả... Có lần ông kể cho tôi nghe như một lời gợi ý: Một lần ông đến liên hệ công tác với công ty Hải Sản quận 6, Giám đốc công ty này thấy ông nói tiếng Bắc, lại than sắp về hưu, ngỡ ông là cán bộ, nên vốn vã: “ Lo gì đồng chí cứ xuống đây “... Chúng tôi bèn nhờ ông mở hồ sơ tại đó và lấy những thông tin cần thiết. Sau đó chúng tôi chính thức đến phường xin thị thực chữ ký và đem đơn đến Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố nạp ở Sở Thủy sản để xin phép đóng thuyền đánh cá ven biển. Được giấy phép, chúng tôi đến Hợp Tác Xã Sao Vàng tại quận 8 ký hợp đồng đóng thuyền.

Ngày thuyền đóng xong, khánh thành hạ thủy, chúng tôi cũng mời thầy cúng Tổ Nghiệp. Tiệc khánh thành chúng tôi mời công nhân hợp tác xã và hai anh công an địa phương tham dự. Rượu nửa chừng, anh công an trưởng nửa đùa nửa thật: “ Này, chừng nào cậu vượt biên nhớ rủ tớ với nhé!” Vợ tôi tái mặt, tôi vội bỏ đũa đùa lại: “ Dạ, nếu anh chịu thì nhất định em sẽ đến tận nhà mời cả chị và các cháu nữa!” Anh công an khu vực cũng thêm vào: “ Các cậu cứ ngồi lai rai, tớ phải đi rồi, chiều nay tớ sẽ tóm một lũ vượt biên cho coi!” Lúc đó đã quá 3 giờ 30 chiều. Tiệc tan, chúng tôi cũng dọn dẹp xong, sau đó tôi đi tìm được anh công nhân để nhờ giới thiệu một người thợ máy. Chuyện vãn một lúc lâu, tôi chở vợ tôi trên chiếc xe Lambretta sport cổ điển rời khỏi bến sông. Đi vào trong xóm, còn xa mới ra đến đường Phạm Thế Hiển, đã thấy phía trước môt đoàn người bị trói thành một giây đang bị dẫn đi. Thấy tôi, anh công an khu vực khi nãy hất hàm kênh kiệu: - Thấy chưa? Tôi đùa lại: - Anh phát tài rồi! Vỏ thuyền có rồi, bây giờ đến giai đoạn làm máy.

 Công đoạn này, và trong giai đoạn 1987 này mới thật vất vả. Tôi còn nhớ hồi đầu phong trào vượt biên, người ta tìm kiếm vỏ tàu phải là dài hơn 20m, 19 là bị chê rồi. Máy thì chọn Yanmar 8 lốc đầu bạc, hèn cũng phải 6 lốc, 4 lốc là bị chê, đầu xanh cũng chê... Còn bây giờ thì bói cũng không mua nổi một máy hai lốc được cho là tạm ổn. Cuối cùng chúng tôi chọn mua trong đống phế liệu một thân máy hai lốc thật cũ xì hiệu Kiloska sản xuất tại Ấn Độ - anh thợ máy, người tôi nhờ đi mua giải thích: - Cái thân máy này có thể cải tiến được; 1 – Thân máy rất dầy, các máy dẫn nước giải nhiệt còn nguyên chưa bị nước biển bào mòn gây rò rỉ 2 – Trục máy rất lớn có thể mài mà không sợ yếu. 3 – Phần thân đặt cylinder rất dầy tha hồ xoáy, để thay cặp cylinder to nhất. 4 – Cá bộ phận khác ta còn có thể kiếm ra...

Khi đem về tái tạo, chúng tôi thay vào bằng một cặp cylinder Yanmar và một cặp Píton Kubota mới toanh, chỉ còn thiếu một cây lap cốt cam. Anh thợ máy lại một phen vất vả mất mấy ngày mới vác về một cây lap, hình như được tháo ra từ một cái máy điện nào đó, sau khi anh hì hục chế biến, rồi cũng lắp vào được. Tiện, xoáy, đục, đẽo, cắt, mài thôi thì đủ cả...Các công đoạn giờ đã hoàn thành. Chúng tôi cho nổ máy thử, tiếng nổ âm vang, từ dòn tan như bắp khi ga thấp, cho đến rền êm khi tăng ga lên tối đa. Chiếc thủy động cơ của chúng tôi giờ đây như mới, tôi bảo đảm ngay đến ông chủ hãng Kiloska Ấn Độ có thấy cũng không dám nghĩ đó lại là từ sản phẩm của mình.

 Máy được lắp đặt vào vỏ thuyền xong xuôi, chúng tôi chuẩn bị cho bữa tiệc khao quân trên sông nước. Thức ăn đã được bầy ra ở khoang trên, rượu, thuốc lá đã sẵn sàng. Tôi mường tượng chút nữa đây, vừa cầm lái cho thuyền vun vút trên sông, vừa nâng ly chúc tụng nhau cho bõ những ngày mồ hôi chảy... Đến giờ hoàng đạo, anh thợ máy lệnh cho tài công quay máy. Tôi đứng cạnh anh, chờ sai bảo khi cần. Máy nổ rộn ràng tựa tiếng vỗ tay chào mừng của một đám đông. Anh thợ máy ra lệnh tiếp cho tài công gài số tới và kéo ga...rời bến. Thuyền giật lên chuyển mình. Tất cả mọi người hoảng hốt!

Thay vì thuyền tiến lên rời bến, thì nó lại thụt lui thật mạnh...suýt gây tai nạn phía sau...Anh thợ máy hoang mang suy tính...Tôi trấn an; - Thôi thì...ta vừa bàn vừa nhậu...Thịt rượu sẵn sàng rồi... Kiểm tra thật kỹ từng động cơ qua hộp số đến chân vịt...không có gì sai sót. Vậy nguyên nhân từ đâu? Máy vẫn nổ nhẹ nhàng khi khởi động...Tắt máy để kiểm tra thật kỹ vẫn không thấy gì bể gẫy...Thôi đây rồi...Tôi chợt hiểu; Tất cả chỉ tại cây cốt cam...Một thứ: “Râu ông nọ cắm cằm bà kia “ Từ những kiểm tra thực tế đó, tôi đi mua ngay một cái chân vịt trái chiều.

Cuối cùng thuyền của chúng tôi: Lui tới ngon lành như bao thuyền khác. Nhưng khi kiểm tra về tốc độ...mới thật là số Dách!...Máy mạnh thuyền chạy nhanh là chuyện rất bình thường. Trong trường hợp thuyền của tôi chỉ có chúng tôi mới biết: nó mạnh nhỡ cặp cylinder và piston quá khổ!... Chúng tôi đăng ký vào Hợp Tác Xã Đánh Cá Nhà Bè. Từ một người mất chỗ đứng trong xã hội “xhcnvn” giờ đây tôi đã trở thành Thuyền Trưởng kiêm Thợ Máy và “ chỗ đứng của tôi nhất định là trên con thuyền “ này rồi!!...


Vợ tôi là chủ phương tiện đánh cá này, hay nói cho oai là Chủ Tầu đánh cá! Lương, em trai vợ tôi là tài công, cô vợ tôi, chị gái tôi, em gái vợ tôi là thuyền viên!...Thành lập một danh sách như thế để đi đăng ký hành nghề đánh cá, tôi mới thấy một khoảng trống không thể nào chấp nhận được! Bạn đi đánh cá ven biển thì có thể là đàn ông, đàn bà, già trẻ gì đều được ráo...

Nhưng chỉ có hai mống đàn ông là không thể được!!! Khi ra khơi lỡ một người ốm đau thì sao? Cuối cùng chúng tôi phải rủ thêm anh Bình, một bạn hàng xóm tham gia, với điều kiện anh phải góp vào năm chỉ vàng. Đây chỉ là điều kiện chúng tôi cầm chân anh mà thôi. Cho đến lúc đó, thông thường vượt biên vẫn phải là 3 “ cây” trở lên, điều kiện chúng tôi đưa ra làm anh ngỡ ngàng...Dĩ nhiên là anh mừng húm, bắt ngay. Kể từ lúc đó chúng tôi chăm chỉ hành nghề! Nếu ai tinh ý sẽ thấy chúng tôi xuất bến ra khơi kể cả các ngày giông gió lớn. Đi đi về về đến độ sạp đường, đậu, bột của vợ tôi tại chợ Hòa Bình cứ mỗi ngày một teo lại.


Thực ra những ngày ra khơi là tập cho quen để không say sóng, tập nhảy sóng ra sao, tập đoán thời thiết bằng cách nhìn ráng trời, mây, nước, và cũng là quan sát địa hình cũng như thực trạng hoạt động của biên phòng và của các tàu đánh cá quốc doanh. Buổi tối, tôi thường neo thuyền và đăng ký tạm trú tại bến công an biên phòng cửa sông Rinh. Mỗi lần được phép đi đánh cá là phải mua cá để khi về có cá bán cho Hợp Tác Xã, hay ít nhất cũng phải có chút đỉnh làm quà cho biên phòng và công an dọc bờ sông. Năm 1986, Tường Vân em gái của vợ tôi được người anh họ đưa đi đã đến bến tự do. Từ đảo Galang cô gửi thư về, ngầm chỉ đường cho tôi tìm gặp người taxi chở cô.


Nắm rõ tình hình, tôi ra bến xe mua vé đi Bà Rịa, đem theo xe đạp. Còn cách Bà Rịa 18 cây số, tôi xuống xe, đạp khoảng hai cây số, tôi thấy một xe nước mía bên đường, ghé vào nghỉ chân, kêu một ly nhâm nhi giải khát, nhìn sang bên kia đường...Tôi tìm thấy một căn nhà tranh vách đất, trên vách gần cửa có trổ một cửa sổ tròn, nhìn qua bên phải có một trạm sửa xe màu xanh dương. Băng qua đường tôi đi thẳng đến căn nhà tranh. Từ sân nhìn xuyên qua nhà vào tận bếp, tôi thấy một người đàn bà và một đứa nhỏ, tôi mạnh dạn lên tiếng như một người quen: - Chị Cang ơi! Anh Cang có nhà không? Người đàn bà bế con ra ngó tôi lom lom: - Anh...mà xin lỗi..Anh là ai? - Tôi là anh của cô Vân - Cô Vân nào cà?...


Mà anh tìm anh Cang có chuyện gì không? Tôi nghĩ người đàn bà này thật khôn ngoan, kín đáo, biết rõ việc của chồng mà chị ta vẫn vờ như không biết. - Cũng có chút việc muốn nói với anh ấy, chị có biết bao giờ anh ấy về không? - Mọi khi giỡ này về rồi, còn hôm nay thì tôi không biết. - Thôi được! Tôi ra ngoài một lát, chút nữa tôi quay lại vậy! - Tôi vừa quay ra thì chị vợ reo lên; - kìa, anh ấy về rồi. - Tôi thấy một anh chàng thanh niên khoảng gần 30 tuổi từ ngõ bước vào sân, dáng đi vững vàng chắc nịch, khổ người cao to cân đối, nước da nâu bóng nhẫy, rõ ra một người suốt ngày sống với sóng gió thiên nhiên. Nét phong trần phóng khoáng của anh khiến tôi có tình cảm ngay khi gặp mặt. Thấy tôi, đôi lông mày Cang hơi nhíu lại, thì chị vợ lên tiếng: - Anh đây là anh của cô Vân - Làm sao anh biết mà ra đây? - Em tôi viết về giới thiệu cho tôi, mấy tháng trước cô ấy đã ở đây vài ngày, nên tôi ra đây để cám ơn anh chị.

 Hình như Cang còn do dự, chưa đủ tin, tôi tung thêm đòn tối hậu: - Lúc mới đến đây nhìn thấy chị Cang, tôi đã hoàn toàn tin là tôi đã đến đúng nhà và tìm đúng người, vì chiếc áo sơ mi mà chị đang mặc, chính là chiếc áo quen thuộc mà ở nhà em Vân thường mặc. - Đến lúc ấy Cang mới chịu đưa tay ra bắt tay tôi và vui vẻ mời tôi ngồi uống nước. Lúc đó đã quá trưa, chị Cang nhanh nhẩu dọn cơm và mời tôi cùng ăn với anh chị. Xong bữa thì chúng tôi đã thực sự thân tình. Anh pha hai ly cà phê rồi kéo tôi ra sau nhà ngồi dưới gốc điều ( đào lộn hột ) xum xuê rợp bóng. Tôi hỏi anh: - Bữa trước cá lớn của anh Diệm nằm có xa không? - Khoảng một giờ taxi thôi. - Từ đấy ra biển bao xa? - Gặp lúc nước ròng cũng chỉ khoảng một giờ đồng hồ - Có thể tìm được bến khác tốt như thế không - Ăn thua là cá lớn, lớn hay nhỏ thôi, nếu chỉ bằng của anh Diệm thì vùng này thiếu gì vũng có thể làm bến.

Tôi đề nghị anh Cang cho tôi đi chơi một vòng, nhân tiện thăm cho biết bến của anh Diệm ra sao. Cang lấy đưa tôi một bộ quần áo của anh để tôi “ giả dạng thường dân”, mặc dù bộ quần áo của tôi đang mặc trên người chẳng đáng giá gì. Trên chiếc Tam bản, tôi ngồi đằng mũi, cũng hờ hững cầm theo một mái chèo. Cang ngồi lái, con thuyền uốn lượn đưa tôi đi như đi trong một mê hồn trận. Thật là một vùng trời nước mênh mông luồn lách dọc ngang chằng chịt, nếu không phải là người địa phương, đã vào đây cầm chắc sẽ lạc lối, khó tìm được đường về. Ấy thế mà Cang luôn miệng giải thích chỗ này là gó ếch, chỗ kia là vũng cua... Lúc này nước đang dâng lên và bóng tồi bắt đầu phủ xuống. Chúng tôi ra về, đêm đó tôi nghỉ lại nhà Cang.


Sáng sớm hôm sau, theo đề nghị của tôi, Cang đưa tôi ra biển. Cũng may lúc đó nước vẫn còn ròng, nên khoảng hai tiếng sau thì tôi đã nghe tiếng sóng biể rì rào. Cửa rạch mỗi lúc thêm mở rộng...Trước hình như có một cái đảo chặn ngang tầm mắt. Cang bảo chúng tôi đã ra đến biển – Vì lúc này nước đã hết ròng, mép nước biển cũng đã rút ra xa, nên mới thấy được trọn vẹn cả bãi bùn lẫn cồn đất đang bồi. Lúc nước lớn mặc cồn hoàn toàn chìm dưới mặt nước sâu khoảng ngang thắt lưng – Tuy nhiên các lùm cây vẫn xanh um. Chúng tôi bơi xuồng vòng ra phía ngoài mặt cồn cạn. Quả thật chúng tôi đã hoàn toàn ra khơi, nhấp nhô đây đó những con thuyền đánh cá. Xa xa về bên trái là một dốc đá, trên đó thấp thoáng có một ngôi chùa, Cang cho biết ngôi chùa bỏ hoang từ lâu, bây giờ chỉ là chỗ nghỉ trưa, ăn cơm của những người mò cua bắt ốc. Ngay bên dưới chỉ là vũng bùn, nên tất cả những ghe cào cũng lánh xa.


Xa hơn nữa là cửa sông Rinh, mà bên kia là đồn công an biên phòng nằm gần như dựa vào chân núi lớn Vũng Tàu. Về bên mặt chúng tôi, lác đác những hàng cột đáy, càng xa về huyện Duyên Hải và Vam Láng cột đáy càng thêm dày đặc. Lúc trở về, vì là nước dừng và cạn nên chúng tôi phải chèo thuyền rất vất vả, phải mất một thỡi gian dài gấp hai lần chuyến đi, mới về đến nhà. Tuy vậy có một cái lợi là tôi quân sát được độ nông sâu của con rạch, căn cứ vào các thân cây để lại vết bùn rêu bám vào khi nước lớn. Trước khi rời nhà Cang, tôi hỏi; - Sao anh không tự lực làm một mình mà phải dựa vào người khác?

Tôi thấy anh cũng tháo vát lắm mà! - Chúng tôi chỉ mới đến đây đây được vài năm thôi nên không quen biết nhiều. Về lại Sài Gòn tôi tìm mua được một bản photocopy bản đồ hải hành thuộc vùng cửa sông Rinh để nhận định được rõ vị trí mà tôi và Cang đã đi suốt một ngày rưỡi trên thực địa. Tôi thấy có thể chọn vùng này làm nơi xuất phát. Tôi đem dự kiến của tôi bàn lại với ông già vợ và trình bầy khái quát; Buổi đi biển chót, không về bến, đợi đến tối khuya khi nước lên, dẫn thuyền vào lạch mất một giờ, bốc dầu, bốc lương thực, bốc người tối đa một giờ, quay thuyền trở ra biển thêm độ một giờ nữa, là khoảng độ 3 tiếng đồng hồ tất cả. Như vậy khoảng 3 giờ 30 sáng thuyền sẽ thong thả ra khơi, như bất kỳ một thuyền đánh cá nào khác.

Nghe xong ông già vợ tôi phản bác ngay: - Vẫn hoàn toàn bị động! Này nhé, từ lúc bắt đầu vào lạch là lúc thuyền trở nên bất hợp pháp, ba giờ là tối thiểu, lúc nào thuyền cũng bị lệ thuộc vào con nước, ba giờ đầy bất chắc cho thuyền không phải là ngắn ngủi. Nếu thuyền không gặp rủi ro, nhưng nhóm taxi gặp phải thì thuyền vẫn bị vạ lây, không có cách nào gỡ ra được! Tại sao ta không đem điểm xuất phát ra tuốt bên ngoài? Tôi chợt hiểu: - Như vậy con có thể chọn điểm ở gần cồn cạn? - Tại sao không chính là cồn cạn? - Lúc nước lên cồn cạn bị ngập nước. - Càng tốt, nhóm taxi càng không thể lên đổ người lên đó rồi rút trước, mà sẽ ẩn kỹ trong các lùm cây trên đó.

Tôi hiểu ý ông già vợ, lúc nào cũng muốn bảo vệ thuyền, và còn muốn nhóm taxi tham dự vào công việc để bảo đảm sự thành công. Tôi kể cho ông nghe về chuyện gặp gỡ của tôi với Cang – và ý muốn của tôi sẽ nhờ Cang...Sau khi hỏi tôi về tính tình, gia cảnh của anh, ông đồng ý với tôi nên nhờ Cang là phải. Tôi bèn nhờ ông hôm sau đi gặp Cang để bàn chi tiết, kể cả tiền bạc. Kết quả ông mang về thật hợp lý và tốt đẹp.

Nhằm làm cho Cang lên tinh thần bằng cách tạo cho anh ta một hy vọng “Bắt được cái mối lâu dài”, khi gặp Cang ông đóng vai Người Chuyên Tổ Chức. Ông hỏi Cang có dám đưa nguyên một nhóm taxi ra hẳn ngoài biển không? Cang nhận và nói đến số đầu không quá 20, bởi lẽ chỉ riêng anh chị em ruột của anh ta có tới 5, thêm vào là ông bố vợ với hai người em vợ. Về phần giá cả Cang chỉ xin 2 chỉ mỗi đầu. Ông đồng ý với điều kiện là không được đổ khách xuống bãi. Ông còn tố thêm là sẽ thưởng thêm 1 chỉ cho mỗi đầu khách nếu “ ráp nối” thành công.

 Ngoài ra nếu chẳng may không ráp nối được, taxi phải cố gắng đưa khách về an toàn sẽ được hưởng 2 chỉ tiền công lần về. Công lần đi thanh toán ngay khởi sự. Chúng tôi cũng thỏa thuận nhờ Cang mang dầu ra dấu ngoài biển, mỗi can 30 lít với giá 1 chỉ. Trong khi giá bình thường trong đất liền một chỉ mua được gần ba chục can. Nước ngọt để uống cũng vậy: 1 chỉ cho mỗi can 30 lít. Cang lý luận: Gánh dầu hay nước ngọt ra biển bị bắt cũng tù như tội tổ chức vượt biên...Để tiết kiệm tiền về vụ nước, tôi lập tức ngăn phần mũi nhọn của thuyền thành một hầm nhỏ chứa nước.

Ốp hai lần gỗ, ở giữa chèn chấu khô cho nước không thấm, vách ngăn với khoang thuyền tôi đặt một vòi nước cho tiện. Phía trên bên ngoài tôi cũng mở ra một nắp như các hầm thuyền khác. Trong hầm này từ đó lưu trữ thường xuyên 5 cây nước đá 50 ký (5x50=250 lít). Đó là tiêu chuẩn nước đá được đem theo cho các thuyền đánh cá. Thể tích của hầm trên 400 lít, ngày khởi sự chúng tôi sẽ đổ thêm nước cho đầy. Như vậy cộng với một phuy 200 lít được phép có trên thuyền, chúng tôi có trên 600 lít nước ngọt, dư cho cả 20 người trong cuộc hành trình. Nhờ sự quen biết của gia đình, chúng tôi mời được một Trung úy hải quân xưa kia phục vụ trong đơn vị tuần duyên VNCH dậy cho chúng tôi cách đi biển. Tất cả thân nhân trong gia đình chúng tôi, dù trai hay gái đều quây quần ngồi nghe ông chỉ. Từ cách đo toa độ trên bản đồ, cách bố trí vật dụng trước mặt tài công, và lái thuyền theo hải bàn – cho đến cách lái thuyền khi không có hải bàn hay hải bàn bị hư bể...

Nếu trời trong, học cách nhận định đi theo hướng trăng sao. Nếu trời tối mây mù, ta có thể lái theo hướng gió. Ông nhắc chúng tôi: “ Vùng biển Việt Nam có gió mùa, gió nồm thổi từ tây nam qua đông bắc. gió bấc thổi từ đông bắc xuống tây nam". Tìm phương hướng bằng cách nghe tiếng gió: Quay mặt về hướng gió thổi tới, nhẹ nghiêng mặt qua phải, rồi qua trái để nghe tiếng gió thổi ù ù vào tai bên này hay bên kia, nhẹ nhàng điều chỉnh sao cho tiếng ù ù ở hai bên tai can bằng. Lúc đó, hướng mặt ta đang đi chính là hướng tây nam hay đông bắc. Từ vị trí hướng vừa tìm được, điều chỉnh mũi thuyền lên hay xuống bao nhiêu độ cho đúng với hướng đi là chuyện quá dễ dàng. Dĩ nhiên theo cách này còn cần đến một dụng cụ chia góc số theo hải bàn được phóng lớn cho dễ nhìn và dễ lái.

 Chúng tôi bèn lấy cái mâm nhôm cũ đang dùng trên thuyền, lật úp xuống khắc vào đáy, đoạn bôi đen nham nhở để ngụy trang, khi cần chỉ một miếng giấy nhám chà sạch, đáy mâm sẽ hiện rõ ràng nét khắc mầu đen. Khi xử dụng, nó sẽ được đặt úp dưới một sợi dây căng thẳng dọc theo chiều từ mũi xuống đuôi thuyền. Khi nói về bão, ông cho chúng tôi biết đa số các trận bão thổi vào bờ biển Việt Nam thường xuất phát từ Thái Bình Dương thổi qua đảo Midanao – Phi Luật Tân. Vì nước ta ở bắc bán cầu nêu chiều xoáy của chúng theo kim đồng hồ, vì vậy hướng chúng lúc đầu như sẽ chạy thẳng vào Sài Gòn Vũng Tàu nhưng rồi thường chệch hướng dần dần thổi vào miền Trung, có khi vào miền Bắc, và có khi sang hẳn tới miền miền Nam Trung Hoa.

Tránh bão tốt nhất là càng ra xa bờ càng tốt, vì gần bờ, bị sóng dội ngược rất cao. Xa bờ sóng dù cao nhưng khoảng cách từng đợt này đến đợt khác rất xa, nên độ dốc của nó trở thành thoải hơn, không đáng sợ... Chúng tôi được đặt câu hỏi; - Khi gặp bão nên lái thế nào. - Bình thường ta có thể cưỡi sóng đi, đi ngược sóng, nhưng gặp bão sóng quá lớn thì không thể đi được, đành phải xuôi theo sóng gió. Có điều cấm kỵ cần nhớ để giữ cho thuyền không bị lật úp chớ bao giờ đưa sườn thuyền ra hứng một đợt sóng lớn. - Đó là trường hợp máy thuyền còn chạy, còn xử dụng được bánh lái. Trướng hợp máy thuyền chết thì sao? - Phải thả dù thôi...


Vài trường hợp máy bay phản lực phải tung dù ra sau đươi khi đáp xuống một phi trường có phi đạo ngắn, để giảm bớt tốc độ của máy bay. Vậy ta cũng phải áp dụng một động tác tương tự. Trên thuyền có vài cần xé đựng hải sản là chuyện bình thường, ta nên mua sẵn ba cái mới cho chắc ăn. Dùng ba hay bốn đoạn dây thừng bằng nhau, buộc vào miệng cần xé, những đầu kia cột chung lại, thế là ta có được một cái dù rồi. Khi hữu sự kết chung ba cái lại thành từng một chùm, cột thật chắc những đầu dây dù kia vào đuôi thuyền, rồi thả cả chùm dù xuống nước. Dù cần xé bằng tre tươi nhưng bao giờ cũng nổi mà chỉ nổi lập lờ dưới mặt nước. Bây giờ thuyền của ta là vật nổi trên mặt nước, hứng gió như những cánh buồm, bị sóng gió đẩy trôi đi nhưng đuôi thuyền phải kéo ba cái cần xé nên sức trôi của thuyền bị giảm đáng kể.


Cái lợi quan trọng ở đây là mũi thuyền luôn đi trước, đuôi thuyền đi sau, và không bao giờ có trường hợp thuyền đưa sườn ra hứng sóng. Một câu hỏi về vấn đề khác; - Thuyền đang chạy trên đại dương, chung quanh có những tàu thuyền khác, làm sao để biết cái nào đang đuổi bắt mình? - Ta đổi hướng một góc độ nào đó, thuyền đuổi bắt tất cũng đổi hướng theo. - Gặp trường ho8p. Bị đuổi bắt, phải làm sao - Tất nhiên phải tăng tốc tối đa, lúc này tốc độ là điều ăn thua nhất. Ở ngoài biển ta có nhiều ưu điểm hơn họ, thuyền ta càng chạy nhanh ta càng bỏ xa bờ, hiểm họa bị bắt càng giảm đi. Ngược lại phía đuổi càng lâu càng bất lợi, bởi lẽ lượng dầu chạy máy của họ rất ít không thể so với ta. Mặt khác 100 toán đi tuần thì đủ 100% toán bớt dầu để ăn nhậu hay chia chác...Nên lúc nào họ cũng sợ không đủ dầu để trở về, thế nên họ không dám đuổi xa đâu! - Nếu bị đuổi trong khi thuyền còn đang trong sông rạch? - Ta phải bắt chước lối chạy của kẻ cướp giựt.


Đang chạy nó bỗng quay ngoắt vào một con hẻm, đợi cho cảnh sát đuổi quá trớn nó quay ra chạy ngược lại hướng cũ. Ở đây nếu bị biên phòng đuổi ta phải cố chạy ra biển, lỡ bị đuổi rát, nhắm một con lạch nhỏ, một lùm cây rậm rạp, tắt máy ngay rồi lao vào ẩn kín. Khi biên phòng vượt qua cho máy nổ lại tìm đường khác cố chạy ra biển... Ngoài ra ông nhắc chúng tôi: Tại Đông Nam Á, các trại tiếp nhận thuyền nhân đều đã tuyên bố đóng cửa, nhiều thuyền đến sau ngày đóng cửa đang gặp khó khăn – Tuy nhiên vẫn còn hai nơi; Một là Nhật Bản từng tuyên bố cho 10,000 thuyền nhân đến định cư tại Nhật, nhưng mới có 3,500 người nên chắc họ sẽ tiếp đón dễ dãi. Hai là tại PhiLippine, tuy cũng đã tuyên bố đóng cửa, nhưng vẫn còn căn cứ Không Quân Mỹ Clack và căn cứ Hải Quân Mỹ tại Vịnh Subic, đó là những ngọn hải đăng!


 Chúng tôi muốn tới Mỹ nên chọn Philipine khi chấm tọa độ ông Trung úy nhắc: - Cứ nhắm thẳng theo cánh tay tượng Đức Chúa Giê-Su đang dang tại núi hải đăng Vũng Tàu cho thuyền ra khơi, ta sẽ đụng Côn Đảo. Để tránh vùng hành nghề của các vùng đánh cá quốc doanh dù muốn đến mục đích nào cũng nên đi ngược lên phía bắc Côn Đảo, ra đến đường hàng hải quốc tế rồi hãy bẻ góc đi về hướng muốn tới. Ví dụ bẻ góc Tây Nam để Singapore,Malaysia, v v...Muốn đi Philippine cũng vậy, từ phía bắc Côn Đảo đến Philippine theo đường gần nhất phải chui qua hai nhóm đảo của Trường Sa. Giữa hai nhóm đảo này có một hành lang rộng rãi. Lúc này bộ đội Việt Nam đã chiếm đóng một đảo tại phía bắc hành lang này.

 Đối diện, về phía Nam hành lang cũng có một đảo bị Quân đội Trung Cộng chiếm đóng. Hai bên này vẫn hằm hè nhau nhưng không bên nào muốn nổ súng trước. Muốn đến Philippine qua ngả này phải canh cho thuyền đi ngang qua hành lang vào ban ngày để cả hai bên đều nhìn thấy rõ “ đây chỉ là thuyền vượt biên”. Tuy nhiên cứ theo đường hàng hải quốc tế về phía tây nam, sẽ gặp nhiều dàn khoan dầu của các nước dọc theo lối đi. Hơn nữa đi lối này trên một chặng đường dài như thế, sẽ gặp rất nhiều tàu thuyền qua lại, có nhiều hy vọng được tiếp cứu và tương đối an toàn. Ông Trung úy còn nhắc chúng tôi nên đem theo một cái Radio chạy pin, chủ yếu để nghe tin tức thời tiết. Dĩ nhiên còn rất nhiều điều hữu ích cho những người đi biển mà ông trung úy đã dậy cho chúng tôi suốt hai ngày.

 Trên đây tôi chỉ kể một số vấn đề thật đặc biệt cần thiết cho cuộc vượt thoát thành công, và cho cả sự an nguy của chính mạng sống bản thân chúng tôi. Cho đến lúc đó tôi mới kịp nhìn lại bao lần thất bại trước đây của tôi, của vợ tôi và của tất các người tôi quen biết mới thấy; Quả thật chúng tôi đã nhắm mắt làm liều một cách thật ngây thơ, khờ khạo... Cuối tháng 8 năm 1988 tôi dự định giã biệt quê hương, nên xin xuất bến vào ngày 27 – Nhưng không được nhà cầm quyền địa phương cho phép, họ bảo:Nghỉ ăn lễ độc lập xong hẳn đi. Ai cũng nhắm vào dịp lễ tết, các cơ quan, cán bộ say sưa, lơ là để thừa cơ trốn chạy.

Thực ra tôi cũng nhắm vào dịp 2 tháng 9. Cuối cùng đành chọn vào đêm 7 rạng ngày 8 thàng 9, một đêm tối trời... Cuộc “ Hành Quân Đêm” của chúng tôi xuất phát vô cùng thuận lợi – diễn ra từng bước đúng như tính toán trước. Thuyền của tôi chiều ngày 7 tháng 9 vẫn về cửa bến sông Rinh như thường lệ, vẫn vui đùa ăn nhậu như mọi ngày, nhưng mọi thứ cần thiết cho chuyến đi vẫn được kín đáo, sắp xếp, kiểm soát...Sáng hôm sau, thuyền của tôi vẫn ra khơi ngay từ đợt đầu tiên trong lúc trời còn chưa sáng rõ. Từ ngoài xa, ngồi trong khoang tôi dùng ống nhòm kín đáo quan sát “ Những hoạt động tại điểm” trong khi thuyền thả cào chầm chậm di chuyển vào cồn cạn..

.Khi nhận được tín hiệu của nhóm taxi đã đầy đủ và sẵn sàng, thuyền liền gác cào, nhanh chóng áp sát và quay ngang để án ngữ tầm nhìn từ biển vào. Chỉ trong vòng 15 phút vội vàng, căng thẳng, nhưng rất trật tự...Tất cả số lượng dầu, lương thực, và 18 người lớn nhỏ đã nằm gọn ghẽ trong khoang thuyền, và nhóm taxi cũng lần lượt phân tán khuất sâu trong các con lạch. Tôi thở ra một hơi thật dài nhẹ nhỏm...trong lúc con thuyền tiến ra xa...xa..xa mãi.

 Vào lúc 7 giờ sáng hôm đó trong một bãi kios tại bãi Vũng Tàu, gần đồn biên phòng, mũi hải đăng với tờ giấy vừa xuất viện (nằm bệnh viện ) trong túi, và cuốn “ Bố Già” mới phát hành tại Sài Gòn trên tay, ông già vợ tôi ung dung ngồi trước một cái phin cà phê thong thả nhỏ giọt. Người ta tưởng ông đang say sưa với cuốn truyện, thỉnh thoảng lật từng trang... Nhưng thực ra ông đang để hết tinh thần vào thính giác và thị giác quan sát ngoài biển, và nhất là những động tĩnh của đồn biên phòng... Mười giờ ông vui vẻ ra về...Tìm gặp Cang để bác cháu hàn huyên. Sau này Cang còn có dịp tìm ông vài lần để cám ơn ông đã giới thiệu cho anh vài người bạn của tôi tại bãi sông quận 8.

 Chúng tôi đã vượt qua Côn Đảo an toàn, đã gặp đường Hàng Hải Quốc Tế và vẫn đang theo con đường đã chấm tọa độ đi tới Philippine thì khoảng 11 giờ sáng hôm sau, trong bản tin thời tiết loan báo một trận bão xuất phát từ ngoài biển Trung Hoa Lục Địa tiến về hướng tây nam. Nếu ít giờ sau bão tràn tới mà thuyền của tôi vẫn còn giữ hướng đang đi, thì sóng gió gần như đập thẳng vào hông thuyền “ Gặp điều cấm kỵ đây rồi!!!”...Tối quyết định tức khắc phải đổi Hướng: bẻ góc cho thuyền đi xéo dần dần về gặp lại (và đi theo) đường hàng hải quốc tế để hy vọng: a ) – Lúc đó gió bão sẽ đẩy thuyền đi nhanh hơn b ) – Tránh tình trạng sóng đập vào hông thuyền (nếu theo hải trình cũ ) c ) – Trên đường hàng hải quốc tế có hy vọng nhận được sự tiếp cứu của các tầu lớn.

Chiều hôm ấy quả nhiên bão đã tràn tới sau lưng, đẩy thuyền chúng tôi chạy như tên bắn...Tiếp theo tức thì, sóng biển dềnh lên cuồn cuộn...Thuyền bị nâng lên thật cao...cao ngất....rồi từ độ cao chót vót ấy...lao ào....xuống thung lũng đen ngòm phía dưới khoang...Riêng tôi, lúc này chỉ mong sao cho máy thuyền đứng chết...Bóng tối cũng mau chóng trùm kín, sấm chớp giăng giăng ngang dọc...chúng tôi đã thấy thấp thoáng ánh sáng lửa bập bùng xa xa, hình như từ một dàn khoan nào đó. Khoảng nửa đêm, sóng gió quay cuồng, mưa đổ như trút...sấm chớp liên hồi...Dĩ nhiên thuyền của chúng tôi phải đổi hướng xoay chiều theo sóng gió...Suốt ba ngày đêm bị vùi dập, thuyền của chúng tôi trôi tới trôi lui, hình như vẫn đứng nguyên tại vị trí cũ, dốm lửa dàn khoan vẫn lúc thấy lúc không.

Có vài lần chúng tôi đã toan tính thử cho thuyền sáp gần về phía ánh lửa dàn khoan...nhưng không thể được...12 giờ trưa ngày thứ 55 kể từ khi chúng tôi rời bỏ quê hương, và là ngày thứ 3 khi gặp bão gió, gió mới dịu lại! Tứ lúc ra đến đường Hàng Hải Quốc Tế, chúng tôi đã gặp không dưới 10 chiếc tầu dân sự to lớn, mang cờ hiệu của nhiều quốc gia ngược xuôi, chúng tôi đều ra dấu cứu vớt, nhưng họ cố ý làm ngơ. Khoảng 4 giờ chiều, đột nhiên tôi nghe Lương La lên; - Cái tàu đằng sau hình như đã dừng lại! Tôi nhìn lại, quả thật một ngọn núi sắt sừng sững hiện ra trước mặt tôi: - Chúng ta được cứu rồi!!! Suốt ba ngày đêm bị bão táp vúi rập, trừ những đứa trẻ vẫn ăn ngủ, bú sữa bình thường, còn hầu hết hành khách của tôi đều mệt mỏi, say sóng, không ăn và nằm bẹp dí...Bây giờ mới chỉ nghe được tiếng “ Có tầu cứu” là tất cả đều nhỏm dậy và leo lên boong. Các chị, các cô bế ngay mấy đứa trẻ, nâng cao để những người trên tàu trông thấy. Tôi thấy thủy thủ trên tầu ra dấu cho thuyền tôi tới gần đống thới họ thả thang sắt xuống... Sóng lúc đó vẫn còn khá lớn, con thuyền dềnh lên thụt xuống, khi vừa áp sát đã đụng nhẹ vào thành tầu kêu lên răng rắc như muốn bể toang.

 Cho thuyền lui giật ra tôi cố ghìm giữ cho thuyền chỉ tiếp xúc với tàu bằng mũi. Trước đó chúng tôi đã căng sẵn một dây thừng lớn từ khoang ra đến cọc mũi làm chỗ vin và móc dây an toàn. Nhờ đó sự di chuyển bây giờ tương đối an toàn. Theo lệnh từ trên tàu đưa xuống: Người ít tuổi sẽ ưu tiên lên tàu trước. Do đó, con gái tôi mới 7 tháng tuổi được cậu Lương và chú Bình, người bế kẻ dìu, thận trọng từ khoang thuyền ra mũi, đợi đúng lúc thuyền dềnh lên mới chuyền cháu cho hai thủy thủ, đứng sẵn ở bậc cuối thang sắt, cùng đưa tay đỡ lấy cháu...Tôi nghe một loạt pháo tay rộ lên...của những người trên tàu đón mừng cháu...mà chảy nước mắt dài...Tôi khóc..Quả thật cho đến lúc ấy tôi mới khóc...khóc, vì...mừng vui!!! Đến lượt thằng con trai của tôi gần 4 tuổi, vùng vằng không chịu lên tàu, khóc lóc la hoảng đòi về nhà bà ngoại. Người thứ ba là một cháu gái tên Thúy ( hiện là sinh viên của đại học UCL).

 Lương và Bình cố móc dây an toàn lần lượt dẫn từng người từ khoang ra mũi để rời thuyền. Người khách cuối cùng là bà Chín, cũng là người lớn tuổi nhất trong chuyến đi, run rẩy sợ hãi vì thuyền dềnh lên thụt xuống, ra đến mũi sắp được kéo lên thang...loạng quạng sao đó, té lăn xuống biển...Nhanh như vượn Lương phóng xuống theo túm được, Bình cũng lao đến tiếp cứu, vớt lên được. Lên tầu bà Chín phải nằm bệnh viện săn sóc 5 ngày mới khỏi ( Ông bà Chín hiện định cư tại Bốtn – Massachussets). Lệnh thuyền trưởng yêu cầu chúng tôi đem lên boong tất cả các dụng cụ hải hành, cũng như tất cả các loại lương thực có trên thuyền. Sau Lương và Bình, tôi là người cuối cùng, tắt máy, rời thuyền với một tâm trạng bâng khuâng, dào dạt. Đặt chân lên boong tầu, lúc đó là 5 giờ 30 chiều ngày 12 tháng 9 năm 1988.

Tôi nhìn xuốt lượt 21 người “ cùng hội cùng thuyền” với tôi, Bà Chín, cô Lan và cháu gái 5 tuổi tên Thúy, Tôi chỉ gặp từ lúc lên thuyền (vì là người của Cang đưa taxi, anh đã năn nỉ vợ tôi cho đi để anh có thêm sở hụi ), Anh Bình là bạn hàng xóm, còn lại đều là thân thuộc trong gia đình chúng tôi ( Sau này lúc Lương lập gia đình, ông bà Chín nhân dịp này tặng Lương một kỷ vật trân quí. Cô Lan đã nhận bố mẹ vợ tôi làm bố mẹ nuôi và cô đã kết hôn với anh Bình. Chúng tôi đều được định cư tại Mỹ, và hầu hết ở Cali. Chúng tôi thướng đi lại gặp nhau như một nhóm gọi là “ Nhóm Golar Freeze”, lấy tên của con tàu đã cứu vớt chúng tôi trên Biển Đông. Khi tôi đến chào và trình diện ông thuyền trưởng, ông tỏ ra rất lịch sự và ân cần, ông cho tôi biết ông là người Tây Đức, ôgn rất thông cảm chẳng những với thuyền nhân, mà còn với tất cả mọi người ở Miền Nam Việt Nam nữa.

 Ông nói ông đã nhìn thấy thuyền của chúng tôi từ xa 9 – 10 cây số. Tứ đằng sau ông quan sát thuyền của chúng tôi rất lâu. Vừa rồi ông đã xem xét cái Mâm Nhôm, một dụng cụ thô sơ nhất của người đi biển, rồi đến cái hải bàn cổ quái “không có kim” ( nó đã bị bão vùi dập lăn lóc, nên kim đã gẫy và tấm bản đố Hải Hành vẽ bằng tay ( Thực ra là can bằng tay theo kiểu học trò ), ông hoàn toàn kinh ngạc và hỏi tôi làm cách nào dẫn thuyền đi đúng hướng, đúng đường và an toàn qua cơn bão vừa rồi. Tôi đã trình bày cho ông rõ là: “ Chúng tôi đã được một Trung úy Hải quân Việt Nam Cộng Hòa huấn luyện trong một khóa đặc biệt...thật kỹ...và lâu đến cả...hai ngày lận!!!”

Lúc đó tất cả chúng tôi đã được an toàn trên con tầu Golar–Freeze, một tầu chở dầu, trọng tải 80 ngàn tấn của một đại công ty hỗn hợp Nhật Bản - Phần Lan – Anh Quốc. Chúng tôi được từ cõi chết trở về! Anh chị em chúng tôi, từ trên boong, nhìn xuống con thuyền bé bỏng, thân thương, hiện không còn người lái đang quay cuồng trên sóng đại dương, va đập vào hông tàu bể vỡ...và từ từ chìm xuống. Không ai bảo ai, chúng tôi cùng im lặng bùi ngùi, cúi đầu như mặc niệm. Sóng nước đã hoàn toan phủ kín nó...Như phủ kín cả một thời trai trẻ, thanh xuân của thế hệ chúng tôi! Lake Forest, Ngày trọng đông năm Nhâm Ngọ ::: Tony Dương:::

NGƯỜI VIỆT Ở HOUSTON

Người Việt ở Houston 'tương thân tương trợ' vượt bão

  • 31 tháng 8 2017
Các đường dẫn bên ngoài này sẽ mở ở cửa sổ mới Các tình nguyện viên đang phân loại đồ quyên góp tại Chùa Liên Hoa, Houston
Tại Houston, mưa tiếp tục rơi, và tình trạng ngập lụt ở một số khu vực có thể kéo dài sang tuần tới. Nhưng nhiều người Việt tại đây vẫn đồng lòng cùng nhau vượt qua cơn bão lịch sử này.
Houston là thành phố lớn nhất Texas, với khoảng 80,000 người gốc Việt đang sinh sống, chiếm hơn 1/4 dân số thành phố này.
Điều này cũng có nghĩa nhiều người Việt cũng bị ảnh hưởng nặng nề từ sau cơn bão.
Bão Harvey: Áp lệnh giới nghiêm ở Houston
Nhà báo Phạm Phú Thiện Giao cho BBC biết ông đến Houston tầm trưa thứ Tư.
Ông nói là đã đến thăm Nhà thờ La Vang và Chùa Liên Hoa nơi có một số người Việt đang tạm trú ẩn.
"Không có nhiều người Việt ở đây vì đến giờ phút này nước đã rút rồi, nên một số người ta về nhà xem nhà của họ có hư hại gì không. Một số người khác thì khi bạn bè biết tin đã đến đón họ về.
"Phía Nhà thờ La Vang có khoảng 5-7 người gồm hai vợ chồng người Mỹ, Chùa Liên Hoa có khoảng 4-5 gia đình, một cặp vợ chồng người Cuba."
"Sức khỏe họ tốt. Tinh thần ổn định. Đồ ăn thức uống thì không thiếu. Cộng đồng đem đến rất nhiều đồ ăn, nhiều đến mức không thể tưởng tượng được. Họ phải đem hiến tặng cho các nơi tạm trú khác. Còn về vệ sinh, các nhà thờ và chùa cũng tổ chức rất tốt, nên những người cư trú tại đây rất thoải mái.


Chùa Liên Hoa 
Bản quyền hình ảnh Phạm Phú Thiên Giao
Image caption Lương thực do các nhà hảo tâm quyên góp cho Chùa Liên Hoa để hỗ trợ các nạn nhân bị ảnh hưởng nặng nề từ bão Harvey
Khi được hỏi về những lo ngại về nhà cửa, tài sản, ông Giao chia sẻ:
"Họ không có lo ngại gì. Có thể họ có bảo hiểm, và cũng có thể họ tin vào FEMA (Cơ Quan Liên Bang Quản Lý Tình Trạng Khẩn Cấp). Họ có niềm tin là chính phủ Mỹ sẽ không để người Việt thiệt thòi bất cứ điều gì.
"Có một điều khiến tôi rất là ngạc nhiên và tôi sẽ nhớ mãi. Đó chính là tinh thần tương thân tương trợ của người Việt Nam rất là cao," ông Giao chia sẻ.
"Hầu như tất cả những người tôi gặp đều trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào các công tác cứu trợ.
"Số lượng người tham gia thiện nguyện còn đông hơn số nạn nhân. Như lời ông Trần Quốc Anh, Chủ tịch cộng đồng người Việt ở Houston nói: 'Nạn nhân chưa tới mà tình nguyện viên đã đến trước rồi."
"Khi chúng tôi đến thì nước đã rút gần hết, Houston lại hiện ra là một phố giàu có, sung túc. Một số nơi còn nhiều nước thì cảnh sát vẫn chặn lại, để đợi xả hết nước."


Texas 
Bản quyền hình ảnh AFP / GETTY IMAGES
Image caption Nhiều nơi tại Texas vẫn ngập sâu trong nước, xe cộ bị bỏ hoang
Một số cư dân khác thì may mắn hơn như ông Cường, sống phía Tây Nam Houston cho BBC biết khu vực ông ở chỉ bị ngập nước một chút.
"Mấy hôm trước không ra ngoài được, nhưng hôm nay thì đi lại được rồi," ông Cường nói. Ông nói nhiều người Việt trong khu của ông cũng không bị ảnh hưởng gì nghiêm trọng."
Cơn bão nhiệt đới Harvey đã cướp đi sinh mạng của hơn 20 người, và Texas cũng đã tiến hành hơn 8,500 cuộc giải cứu với hơn 32,000 vẫn còn đang ở trong cái trạm tạm trú trên toàn tiểu bang.


Bão Harvey qua những con số
Thống đốc bang Texas Greg Abbott nói "điều tệ nhất vẫn chưa qua" cho khu phía đông nam của tiểu bang này. Khoảng 10,000 thành viên khác của Vệ binh Quốc gia được biết sẽ tham gia đội vệ binh 14.000 người vốn đã đang hỗ trợ giải cứu. Giới chức và tình nguyện viên vẫn đang nỗ lực giải cứu những cư dân bị mắc kẹt.
 http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-41107933

LS. NGÔ NGỌC TRAI * NÔNG THÔN VIỆT NAM

Điều gì đang diễn ra ở nông thôn Việt Nam?

HOANG DINH NAM/GETTY IMAGES
 

Image caption Việc chuyển mục đích từ trồng lúa sang trồng cây ăn quả, hay chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp xây chuồng trại chăn nuôi và làm nhà đều phải xin phép.

Năm 1959 Quốc hội Việt Nam ban hành một Nghị quyết về Hợp tác hóa nông nghiệp, đưa toàn bộ nông dân miền Bắc vào canh tác tập thể trong các Hợp tác xã nông nghiệp theo phương thức canh tác chung và chia lợi nhuận cho xã viên.
Đây là chính sách cải tạo nông nghiệp theo đường hướng xây dựng kinh tế tập thể xã hội chủ nghĩa.
Đến năm 1988 Bộ chính trị Trung ương đảng cộng sản đã ban hành một nghị quyết số 10 về đổi mới quản lý kinh tế trong nông nghiệp, về sau thường được gọi là chính sách khoán 10. Trong đó có ý chính là khôi phục lại kinh tế hộ gia đình, giao khoán sản phẩm nông nghiệp cho hộ nông dân.
Theo đó nhà nước sẽ giao lại đất canh tác cho các hộ và sẽ nhận lại một phần thành quả lao động, phần còn lại các hộ gia đình được sử dụng và bán đổi ra thị trường.
Đến năm 1993 khi đã thấy được hiệu quả canh tác của hộ gia đình, nhà nước đã tiến hành chia toàn bộ ruộng của các hợp tác xã nông nghiệp cho người dân theo đầu nhân khẩu, ở các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, bình quân mỗi đầu người được chia từ 1,5 sào đến 2 sào, mỗi sào Bắc Bộ 360 mét vuông.
Các hợp tác xã tuy vẫn còn nhưng không còn kiểu làm chung và chia sản phẩm như trước nữa, hợp tác xã nông nghiệp chuyển sang vai trò cung ứng các vật tư nông nghiệp cho nông dân và bao tiêu sản phẩm.
Dân Đồng Tâm đối đầu với công an
VN: chính sách đất khiến dân phải sống nghèo?
Từ vụ Đồng Tâm, nghĩ về quá khứ và tương lai
Thời hạn giao đất nông nghiệp theo Nghị định 64 năm 1993 của Chính phủ chỉ có thời hạn là 20 năm, đến năm 2013 là hết thời hạn, đúng ra người dân phải giao trả lại ruộng cho nhà nước. Nhưng sau khi cân nhắc tính toán, thấy việc thu về để rồi phân chia lại sẽ gây xáo trộn mất ổn định lớn, cho nên Nhà nước quyết định giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất và kéo dài thời gian sử dụng cho người dân lên 50 năm. Luật đất đai năm 2013 đã ấn định chính sách này cho cả nước.


Quá trình chia ruộng trước đây, để đảm bảo công bằng cho nên mỗi gia đình được phân chia một khoảnh nhỏ tại mỗi xứ đồng khác nhau theo từng đơn vị thôn xóm, dẫn đến manh mún, nhỏ lẻ không thuận lợi cho việc canh tác.
Từ dăm bảy năm trở lại đây nhiều nơi trên cả nước đã tiến hành dồn điền đổi thửa, dồn ô đổi ruộng, để tập trung ruộng đất mỗi hộ gia đình thành một khoảnh lớn, tạo cơ cấu đồng đất thuận lợi cho việc canh tác.

Bất cập hiện nay



Nhiều hộ dân canh tác tập thể (hình minh họa)Bản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Nhiều hộ dân canh tác tập thể (hình minh họa)
Chính sách đất đai trong nông nghiệp đã trải qua nhiều biến chuyển, phản ánh sự thay đổi nhận thức qua các thời kỳ. Nhiều việc làm ban đầu bị cho là sai nhưng sau hóa ra lại đúng, quy định chính sách bất cập được sửa đổi, và bây giờ nhìn lại mới thấy các chính sách trước đây thật là không phù hợp.
Đó là một tiền đề tốt để suy xét rằng, vậy liệu các các quy định chính sách hiện nay thì sao? Liệu đã đúng đắn hợp lý chưa, hay là vẫn còn tồn tại những quy định phi lý sai trái mà tương lai khi nhìn lại thì sẽ thấy quy định hiện tại đầy phi lý mâu thuẫn?
Tôi cho rằng thực tế đang tồn tại một quy định chính sách quản lý đất đai sai trái, trói buộc sức sản xuất của nông dân, đang âm ỉ đốt lên những ngọn lửa bất đồng phản kháng ở nông thôn. Tôi xin chỉ ra như sau.
Sau hơn 30 năm đất nước đổi mới kinh tế (tính từ năm 1986), đời sống nông thôn đã có những bước cải thiện. Có thể hình dung là người dân đã tích lũy được một số vốn liếng mà theo đó họ sẽ có xu hướng thay đổi cái cơ cấu trồng cấy manh mún kém hiệu quả năng suất xưa nay.
Nhờ những tiến bộ kinh tế nên các trang thiết bị máy móc cơ khí hóa nông nghiệp như máy bơm, máy cày, máy bừa, máy gặt, hệ thống đường điện đã phổ biến khắp nơi.
Các loại máy móc cơ giới, xây dựng như công nông, xe tải nhỏ, máy xúc, máy ủi, máy cắt, máy khoan cũng được phổ biến tạo ra khả năng mới cho người dân, và họ sẽ áp dụng cái khả năng mới đó vào trong canh tác nông nghiệp.
Kinh tế thị trường cũng giúp tạo ra thị trường tiêu thụ cho các mặt hàng nông sản, lúa gạo không còn là cây lương thực tạo ra giá trị kinh tế chủ đạo nữa, nhiều nơi trồng hoa màu, rau củ các loại hoặc cây ăn quả, chăn nuôi thả các loại gia cầm, gia súc, cá tôm lại cho hiệu quả kinh tế tính theo diện tích cao hơn cấy lúa.
Những điều đó phát triển như một sự tất yếu khách quan. Tất nhiên cũng không phải mọi vùng nông thôn với hàng chục triệu nông dân đều có được môi trường tích tụ các yếu tố tương thích đồng thời nảy sinh như trên.
Nhưng có lẽ là hàng trăm nghìn hộ gia đình đâu đó trên cả nước đã ở vào cái bối cảnh trạng thái của sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp.

Cấm chuyển đổi mục đích sử dụng đất



Người dân Đồng Tâm có thực sự tin chính quyền?Bản quyền hình ảnh Reuters
Image caption Người dân Đồng Tâm có thực sự tin chính quyền?
Sự phát triển theo chiều hướng tất yếu mở ra cơ hội khả năng mới cho hàng trăm nghìn hộ gia đình, nhưng họ đang vấp phải một chướng ngại lớn, đó là người dân không được tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp.
Việc chuyển mục đích từ trồng lúa sang trồng cây ăn quả, hay chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp xây chuồng trại chăn nuôi và làm nhà đều phải xin phép. Nhưng sự cho phép lại phụ thuộc vào các vấn đề quy hoạch quan liêu, thiếu hợp lý khoa học nên đang là một rào cản, khiến người dân khó thể làm đúng pháp luật mà đạt được mục đích của mình.
Do những thôi thúc kinh tế nên người dân nhiều nơi đã vượt rào, tự gỡ mình thoát ra khỏi những trói buộc pháp luật bất cập, họ đã trồng cây ăn quả trên đất lúa và làm chuồng trại chăn nuôi, làm nhà ở trên đất nông nghiệp.
Họ đã vượt rào giống như sự vượt rào đã xảy ra trước đây trong công cuộc chuyển đổi mô hình canh tác theo hợp tác xã kém năng suất chuyển sang mô hình kinh tế hộ gia đình, làm tiền đề cho chính sách khoán 10.
Giống như trước đây, nhận thức của cơ quan quản lý trong trường hợp này đã không theo kịp với sự biến chuyển từ thực tiễn đời sống. Chính quyền nhiều nơi lên kế hoạch xử lý vì cho rằng người dân chuyển mục đích sử dụng đất trái phép. Sự mẫn cán của các địa phương trong trường hợp này lại mang đến hệ quả xấu, tạo ra tình thế chống đối, gây xáo trộn đổ vỡ sự bình yên ở nông thôn.
Những nhận thức quan liêu cứng nhắc và sự lười biếng trong quản lý đất đai, khiến cho người ta không nhận ra cái lẽ tất yếu rằng, đất thuộc quyền sử dụng của các hộ dân, bắt họ phải sử dụng vào mục đích mà họ không muốn thì hiệu quả sẽ ra sao?


Việc cưỡng chế với ý muốn khôi phục lại hiện trạng như trước kia, nhưng thực tế cũng chỉ làm được cái việc có tính chất phá phách là phá dỡ mà chẳng làm được gì hơn. Vậy thì thực chất nhà nước đem lại lợi ích gì trong hoạt động công vụ này?
Việc xử lý xây dựng trái phép thường được cho là để giữ nghiêm kỷ cương, giữ nghiêm pháp luật. Nhưng thử hỏi rằng vì sao mà người dân xây dựng, có phải họ rỗi rãi làm điều xằng bậy đâu.
Người dân tích cóp bao năm mới có được chút tiền làm cái nhà, xây được cái chuồng chăn nuôi. Để tiến tới quyết định làm việc này họ đã bao đêm trằn trọc suy nghĩ tính toán. Người dân đâu có xằng bậy làm càn?
Để đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật mà dân phải sống trong khốn khó nghèo nàn thì pháp luật có ý nghĩa gì? Chính người dân họ biết sử dụng đất vào việc gì để mảnh đất có giá trị nhất với họ, gia tăng giá trị cho họ cũng là gia tăng giá trị cho xã hội. Đất của mỗi gia đình, họ tự biết cách trân trọng để tạo ra hiệu quả kinh tế, không bao giờ có việc người dân vô trách nhiệm đối với tài sản của chính mình.
Cho nên cái quan điểm "kiên quyết phá bỏ những công trình xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp" ở nhiều địa phương là hệ quả của nhận thức ấu trĩ, lầm lạc, phản ánh tư duy dễ dãi giản đơn, cẩu thả trong quản lý đất đai, coi thường tính phức tạp của thực tiễn, vô trách nhiệm trước sự phát triển mà thôi.
Việc ngăn cấm người dân chuyển đổi mục đích sử đụng đất đang là bất cập lớn nhất trong chính sách quản lý đất đai hiện nay, và đây đang là rào cản lớn trói buộc kìm hãm sức sản xuất trong nông nghiệp.
Bài viết thể hiện ý kiến và lối hành văn riêng của Luật sư Ngô Ngọc Trai, gửi cho BBC Tiếng Việt từ Hà Nội.
 http://www.bbc.com/vietnamese/forum-41134339

BS. TRẦN DUY HƯNG NÓI VỀ CHA

Vì sao cha tôi và các trí thức bị cách ly?

  • 4 tháng 9 2017

Bác sỹ Trần Duy Hưng

Bản quyền hình ảnh Other
Image caption Bác sỹ Trần Duy Hưng, Thị trưởng Hà Nội tại lễ khai trương đường phố mang tên Điện Biên Phủ ở Hà Nội.
Nhà báo tự do Trần Tiến Đức, con trai thứ của vị thị trưởng đầu tiên của Hà Nội thời chính phủ Hồ Chí Minh, nói với BBC về nguyên nhân và cách thức mà thân phụ của ông, bác sỹ Trần Duy Hưng, và một số trí thức theo Việt Minh và chính phủ kháng chiến bị 'cách ly' sau khi được Đảng Cộng sản huy động vào bộ máy.
Trao đổi với BBC hôm 2/9/2017, nhân dịp 72 năm quốc khánh Việt Nam, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục & Truyền thông, Ủy ban Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình nói:

"Cho đến năm 1950, vai trò của các trí thức trong chính phủ kháng chiến còn rất to lớn, nhưng sau năm 1950, sau khi Chiến dịch Biên giới thắng lợi, mở ra sự thông thương với Trung Hoa Cộng sản, thì các đoàn cố vấn Trung Quốc sang và sức ép đối với Hồ Chí Minh và đối với lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là phải thay thế những người trí thức trong chính phủ bằng những nhân vật khác.
http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-41142824

Saturday, September 2, 2017

TIN THẾ GIỚI

   Mỹ cảnh báo dùng mọi phương tiện, kể cả nguyên tử, bảo vệ lãnh thổ và đồng minh





media 

Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ James Mattis (T) phát biểu với báo chí, tại Nhà Trắng, Washington DC, ngày 03/09/2017REUTERS
Hôm qua, 03/09/2017, ngay sau khi Bắc Triều Tiên thử bom nhiệt hạch, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ James Mattis đã họp với tổng thống Donald Trump tại Nhà Trắng. Phát biểu với báo chí, ông Mattis cảnh cáo Bắc Triều Tiên rằng Hoa Kỳ có nhiều giải pháp quân sự và tổng thống Trump muốn được thông báo về những giải pháp này.
Sau đó vài giờ, Nhà Trắng ra thông cáo về nội dung cuộc điện đàm giữa tổng thống Donald Trump và thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, theo đó, nguyên thủ Hoa Kỳ tái khẳng định cam kết bảo vệ đất nước, lãnh thổ và các đồng minh bằng cách sử dụng toàn bộ các khả năng ngoại giao, phương tiện quân sự truyền thống và cả nguyên tử.

Từ New York, thông tín viên Grégoire Pourtier nhận định:
« Mùa hè vừa qua, khi thể hiện thái độ cứng rắn, Donald Trump đã hy vọng kìm hãm được Bắc Triều Tiên phát triển vũ khí nguyên tử. Thế nhưng, Bình Nhưỡng vẫn cứ tiếp tục, do vậy, nguyên thủ Hoa Kỳ bị rơi vào tình thế khó xử bởi chính những lời đe dọa của ông.
Vậy tổng thống Mỹ còn có những giải pháp nào nữa ? Do các biện pháp trừng phạt tỏ ra không hiệu quả, tổng thống Mỹ cảnh báo là ông rất có thể cắt đứt các quan thương mại với tất cả những quốc gia làm ăn với Bắc Triều Tiên, trong đó có Trung Quốc, đối tác thương mại chủ chốt.

Vậy tổng thống Trump có sẵn sàng lao vào một cuộc xung đột quân sự đối đầu với một nước mà từ nay dường như là một cường quốc nguyên tử hay không? Bộ trưởng Quốc Phòng James Mattis không bác bỏ giả thuyết này. Ông nói: mọi mối đe dọa nhắm vào Hoa Kỳ và lãnh thổ Mỹ, kể cả Guam hoặc nhắm vào các đồng minh của Mỹ sẽ phải hứng chịu phản ứng quân sự ồ ạt, hiệu quả và áp đảo. Kim Jong Un phải để ý tới lập trường đồng nhất của toàn bộ Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Chúng tôi không tìm cách tiêu diệt một quốc gia, cụ thể là Bắc Triều Tiên, nhưng chúng tôi có rất nhiều giải pháp để làm việc này.
Tuần trước, một tên lửa của Bắc Triều Tiên đã bay qua không phận Nhật Bản, đồng minh chủ chốt của Hoa Kỳ.
Và hôm nay, Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc họp khẩn cấp để thảo luận về hồ sơ Bắc Triều Tiên. Thái độ của Bình Nhưỡng đương nhiên sẽ bị lên án. Tuy nhiên, kể từ nay, cộng đồng quốc tế cũng cần phải thể hiện lập trường trước những tuyên bố quyết chiến của Hoa Kỳ ».
Vẫn trong hồ sơ Bắc Triều Tiên, hôm nay, một quan chức bộ Quốc Phòng Hàn Quốc tuyên bố trước nghị viện nước này là Bình Nhưỡng dường như đã bắt đầu các hoạt động chuẩn bị cho những vụ bắn thử tên lửa đạn đạo, thậm chí cả tên lửa liên lục địa.
 http://vi.rfi.fr/chau-a/20170904-khung-hoang-bac-trieu-tien-my-canh-bao-dung-moi-phuong-tien-ke-ca-nguyen-tu-bao-ve-l
 

Trump: ‘Ngày buồn’ cho Bắc Triều Tiên nếu Mỹ hành động quân sự


Tổng thống Trump phát biểu trong cuộc họp báo với nhà lãnh đạo Kuwait Sheikh Sabah Al Ahmad Al Sabah ở Phòng Đông Nhà Trắng, Washington, ngày 7 tháng 9, 2017.
Tổng thống Mỹ Donald Trump hôm thứ Năm nói rằng ông không muốn sử dụng hành động quân sự nhắm vào Bắc Triều Tiên để chống lại mối đe dọa hạt nhân và phi đạn nhưng nếu ông làm như vậy thì đó sẽ là "một ngày rất buồn" đối với giới lãnh đạo ở Bình Nhưỡng.
Ông Trump một lần nữa thẳng thừng từ chối loại bỏ khả năng phản ứng quân sự sau vụ thử hạt nhân lần thứ sáu và mạnh nhất của Bắc Triều Tiên trong khi chính quyền của ông tìm cách tăng cường những chế tài kinh tế, nói rằng Bình Nhưỡng đang "hành xử tệ hại và họ phải dừng lại."
"Hành động quân sự chắc chắn sẽ là một lựa chọn. Có thể tránh được không? Không có gì là không thể tránh được," ông Trump nói trong một cuộc họp báo.
"Tôi không muốn đi theo con đường hành động quân sự," ông Trump nói. "Nếu chúng ta sử dụng hành động quân sự đối với Bắc Triều Tiên thì đó sẽ là một ngày rất buồn đối với Bắc Triều Tiên."
Dù ông Trump khẳng định bây giờ không phải là lúc để đàm phán với Bắc Triều Tiên, các thành viên cao cấp trong chính quyền của ông đã nói rõ rằng cánh cửa cho giải pháp ngoại giao vẫn để ngỏ, đặc biệt là với đánh giá của Mỹ rằng bất kỳ cuộc tấn công phủ đầu nào cũng sẽ khiến Bắc Triều Tiên trả đũa ào ạt.
Dù ông Trump lên giọng cứng rắng với Bắc Triều Tiên, Trung Quốc hôm thứ Năm đồng ý rằng Liên Hiệp Quốc nên có thêm hành động đối với Bình Nhưỡng nhưng cũng thúc đẩy đối thoại để giúp giải quyết xung đột.
Bắc Triều Tiên, nước đang theo đuổi chương trình hạt nhân và phi đạn bất chấp bị quốc tế lên án, nói họ sẽ đáp lại bất kỳ biện pháp chế tài mới nào và áp lực của Mỹ bằng "các biện pháp đối phó mạnh mẽ," cáo buộc Mỹ muốn gây chiến.
Mỹ muốn Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc áp đặt lệnh cấm vận dầu mỏ đối với Bắc Triều Tiên, cấm xuất khẩu hàng dệt may và thuê nhân công Bắc Triều Tiên ở nước ngoài, và buộc đóng băng tài sản và cấm du hành đối với lãnh tụ Kim Jong Un, theo bản dự thảo nghị quyết mà Reuters đã xem qua hôm thứ Tư.
Áp lực từ Washington đã tăng lên kể từ khi Bắc Triều Tiên tiến hành vụ thử nghiệm hạt nhân hôm Chủ nhật. Vụ thử nghiệm đó, cùng với một loạt những vụ phóng phi đạn, cho thấy nước này đã gần đạt được mục tiêu phát triển vũ khí hạt nhân mạnh mẽ có thể vươn đến Mỹ.

 

Ông Trump trả lời về khả năng tấn công Bắc Hàn

Một người đàn ông Hàn Quốc xem truyền hình chiếu hình ảnh Tổng thống Trump và lãnh tụ Bắc Hàn Kim Jong Un.




Trong đoạn tweet thứ hai, ông Trump viết rằng “Bắc Hàn là một quốc gia lưu manh, đã trở thành một mối đe dọa và nỗi hổ thẹn lớn đối với Trung Quốc, vốn đã tìm cách giúp đỡ nhưng đạt được thành công ít ỏi”.
“Hàn Quốc đang thấy, như tôi từng nói với họ, rằng đối thoại mang tính xoa dịu với Bắc Hàn sẽ không hiệu quả. Họ [Bắc Hàn] chỉ hiểu đúng một điều!” ông Trump viết tiếp, nhưng không nói rõ điều đó là gì.
Nhà Trắng cho biết rằng đội ngũ cố vấn an ninh quốc gia của ông Trump "theo dõi chặt chẽ" tình hình và rằng tổng thống Mỹ sẽ triệu tập một phiên họp với các trợ lý vào cuối ngày 3/9.
Đích thân ông Kim Jong Un ra lệnh tiến hành vụ thử bom nhiệt hạch.
Bắc Hàn đã tiến hành vụ thử hạt nhân thứ sáu và cũng là mạnh nhất hôm 3/9 mà Bình Nhưỡng nói là một quả bom nhiệt hạch có thể dùng cho tên lửa tầm xa, đánh dấu bước leo thang mới trong cuộc đối đầu giữa chính quyền bị cô lập này cùng Hoa Kỳ và các nước đồng minh.
Thông báo của Bình Nhưỡng được đưa ra vài giờ sau khi các cơ quan địa chấn quốc tế ghi nhận một trận động đất do con người gây ra gần địa điểm thử nghiệm của Bắc Hàn.
Theo Reuters, các quan chức Nhật Bản và Hàn Quốc nói rằng vụ thử này mạnh gấp 10 lần so với mức chấn động ghi nhận được sau vụ thử hạt nhân lần cuối cùng một năm trước.
Hiện chưa có xác nhận độc lập đó là một thử bom nhiệt hạch, nhưng chánh văn phòng nội các Nhật Bản Yoshihide Suga nói rằng Tokyo không thể loại trừ khả năng đó.
Vụ thử là một thách thức trực tiếp đối với Tổng thống Mỹ Donald Trump, người vài giờ trước đó đã điện đàm với Thủ tướng Nhật Shinzo Abe để thảo luận về sự “leo thang” cuộc khủng hoảng hạt nhân trong khu vực, và trước đó, từng thề sẽ ngăn Bắc Hàn phát triển vũ khí hạt nhân có thể đe dọa tới Hoa Kỳ.

​Bình Nhưỡng, vốn tiến hành các chương trình tên lửa và hạt nhân bất chấp các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, thông báo trên truyền hình nhà nước rằng vụ thử nghiệm bom nhiệt hạch theo lệnh của lãnh tụ Kim Jong Un đã “hết sức thành công”.
Theo Bắc Hàn, quả bom được thiết kế để có thể lắp đặt trên một quả tên lửa đạn đạo xuyên lục địa mới phát triển.
Reuters cho biết rằng vụ thử đã vấp phải sự lên án từ nhiều nước và các tổ chức. Tổng giám đốc IAEA, cơ quan kiểm soát hạt nhân của Liên Hiệp Quốc, nói rằng đó là “hành động hết sức đáng tiếc”, “bất chấp các yêu cầu liên tục của cộng đồng quốc tế”.
Tổng thống Pháp Emmanuel Macron nói rằng cộng đồng quốc tế phải hành động mạnh mẽ trước “sự khiêu khích mới” này.

Trong khi đó, cả Hàn Quốc và Nhật tuyên bố sẽ thúc đẩy các biện pháp nhằm cô lập Bình Nhưỡng, kể cả bao gồm các biện pháp trừng phạt mới của Liên Hiệp Quốc.
Trung Quốc, đồng minh chính duy nhất của Bắc Hàn, lên án vụ thử hạt nhân và thúc giục Bình Nhưỡng chấm dứt các hành động “sai trái”.
https://www.voatiengviet.com/a/tong-thong-trump-noi-rang-bac-han-rat-nguy-hiem-doi-voi-my/4013202.html




Trump cáo buộc Triều Tiên 'tống tiền' Mỹ suốt 25 năm qua


Tổng thống Donald Trump viết trên Twitter rằng Mỹ đang bị Triều Tiên tống tiền trong nhiều năm qua, bất chấp hàng loạt cuộc đàm phán giữa bên.
"Mỹ đã đàm phán với Triều Tiên, và phải chi các khoản tống tiền trong suốt 25 năm qua. Đàm phán không phải là giải pháp.", ông Trump viết trên mạng xã hội Twitter hôm 30/8.
Nhiều người đặt câu hỏi về khoản tiền mà tổng thống Mỹ đề cập tới. Trước đó, ông tỏ ra thiếu dứt khoát về việc đàm phán với Bình Nhưỡng.
Theo New York Times, các chính quyền Mỹ trong lịch sử đều tìm cách giải quyết vấn đề Triều Tiên thông qua biện pháp ngoại giao và đưa ra lệnh trừng phạt nhằm buộc Bình Nhưỡng từ bỏ chương trình hạt nhân và phát triển tên lửa.

Ông Trump khẳng định Triều Tiên đang tống tiền Mỹ. Ảnh: NYT.
Washington nhiều lần gửi tiền trợ giúp nhân đạo cho Triều Tiên và tìm cách hàn gắn mối quan hệ thù địch giữa hai nước.
Trong suốt chiến dịch tranh cử tổng thống, ông Trump từng phàn nàn về chi phí cho việc bảo vệ Nhật Bản và Hàn Quốc, hai đồng minh thân cận của Mỹ ở châu Á.
Ngày 29/8, sau khi Triều Tiên phóng tên lửa đạn đạo qua Nhật Bản, ông chủ Nhà Trắng khẳng định đã nhận được thông điệp của Triều Tiên.
"Thế giới đã nhận được thông điệp rõ ràng của Triều Tiên: Chế độ này thể hiện sự khinh thường đối với các nước láng giềng và tất cả thành viên Liên Hợp Quốc", ông Trump nhấn mạnh.
 

Mỹ lên kế hoạch tuần tra hàng hải ở Biển Đông thường xuyên hơn

Khu trục hạm USS John S. McCain tham gia tuần tra 'tự do hàng hải' trên Biển Đông hồi tháng 8/2017 


Bản quyền hình ảnh MALAYSIAN NAVY CHIEF
Image caption Khu trục hạm USS John S. McCain tham gia tuần tra 'tự do hàng hải' trên Biển Đông hồi tháng 8/2017

Bộ Quốc phòng Mỹ đang lên kế hoạch tăng cường tuần tra ở Biển Đông nhằm củng cố tự do hàng hải ở những vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, tờ Wall Street Journal đưa tin hôm 1/9.
Giới chức Mỹ cho biết theo kế hoạch của Bộ tư lệnh Thái bình dương Mỹ, sẽ có từ hai đến ba hoạt động 'tự do hàng hải' hàng tháng trên Biển Đông trong vài tháng tới. Tuy nhiên, họ không cho biết các cuộc tuần tra này sẽ được thực hiện cụ thể bao giờ và ở địa điểm nào.
Sự hiện diện đều đặn của Hải quân Hoa kỳ ở vùng biển này sẽ khác với cách tiến hành tuần tra không theo lịch trước đây của chính quyền Obama.
Biển Đông: VN phản đối việc TQ tập trận
Tàu chiến Mỹ lại tiến sát Đá Vành Khăn
Tàu chiến Mỹ áp sát đảo tranh chấp ở Hoàng Sa
Các cuộc tuần tra trong tương lai cũng có thể có sự tham gia của máy bay quân sự Mỹ cũng như các tàu chiến Mỹ, vẫn theo Wall Street Journal.
Kể từ khi Tổng thống Trump lên nhậm chức, đã có ba cuộc tuần tra hàng hải diễn ra ở Biển Đông. Trong khi đó, dưới thời Tổng thống Obama, chỉ có tất cả là bốn cuộc tuần tra như vậy.



Bản đồ các khu vực có tranh chấp ở Biển Đông. Mischief Reef (Đá vành khăn) là nơi tàu chiến Mỹ đã hai lần áp sát trong các cuộc tuần tra 'tự do hàng hải'. 


Bản quyền hình ảnh UNCLOS, CIA
Image caption Bản đồ các khu vực có tranh chấp ở Biển Đông. Mischief Reef (Đá vành khăn) là nơi tàu chiến Mỹ đã hai lần áp sát trong các cuộc tuần tra 'tự do hàng hải'.
Cuộc tuần tra 'tự do hàng hải' đầu tiên của chính quyền Trump diễn ra vào tháng Năm, khi chiến hạm USS Dewey đi vào vùng 12 hải lý của Đá Vành Khăn, một trong số các đảo mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền nhưng bị Trung Quốc kiểm soát và tiến hành bồi đắp.
Hồi tháng Bảy, một tàu chiến của Hoa Kỳ đã áp sát đảo Tri Tôn thuộc Quần đảo Hoàng Sa, nơi Trung Quốc hiện đang nắm quyền kiểm soát, nhưng cả Đài Loan và Việt Nam cũng tuyên bố chủ quyền.
'Hoạt động tự do hàng hải' mới nhất của Hải quân Mỹ là hôm 10/8 khi tàu khu trục USS John S. McCain tiến vào bên trong phạm vi cách Đá Vành Khăn 12 hải lý.
Tàu chiến Mỹ tiếp cận Đá Vành Khăn
Mỹ cảnh báo TQ về các đảo ở Biển Đông
Giới chức nói kế hoạch tăng cường tuần tra này là nhất quán với cách quản lý các hoạt động quân sự của chính quyền Trump, theo đó các tư lệnh được trao quyền tự quyết lên kế hoạch một số hoạt động quân sự nhất định, tờ Washington Examiner đưa tin.
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền hầu hết Biển Đông, nơi mà giao thương hàng hải hàng năm có trị giá khoảng 5 tỷ USD và được cho là có nguồn dầu khí dồi dào.
Nhiều quốc gia khác gồm Việt Nam, Phillippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông.
Quan hệ giữa Washington và Bắc Kinh trở nên căng thẳng trong thời gian gần đây, sau cuộc gặp tưởng chừng như đầy hứa hẹn giữa Tổng thống Trump và Chủ tịch Tập Cận Bình hồi tháng Tư.
Hồi tháng Sáu, tại Diễn đàn An ninh ở Shangri-la, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ James Mattis đưa ra cảnh báo Mỹ sẽ không chấp nhận việc quân sự hóa của Trung Quốc với các hòn đảo nhân tạo trên Biển Đông.
 http://www.bbc.com/vietnamese/world-41134917




No comments:

Post a Comment