Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Friday 28 September 2018

NHỮNG MẨU CHUYỆN VUI TRONG TÙ CẢI TẠO




NHỮNG MẨU CHUYỆN VUI TRONG TÙ CẢI TẠO

Qua những lần tiếp xúc với những con người gọi là “cách mạng”, chúng tôi có cái nhìn chung về họ . Ngoài việc liều mạng đánh nhau trên chiến trường, vì bị nghe lời đảng tuyên truyền bịp bợm,cách ăn nói của những cán ngố thật giống nhau như khuôn đúc . Phải nói là ngô nghê một cách thật tội nghiệp, có thói quen lập lại những gì nghe được qua những buổi học tập chính trị nhạt nhẽo, họ không có một tư duy mới, hay nói đúng hơn không dám nói khác đi những lời khuôn vàng thước ngọc mà Đảng đã dạy dỗ, tôi cảm tưởng rằng họ là những con vẹt biết nói .Theo tôi họ chẳng biết gì nhiều về thế giới bên ngoài, vì bị Đảng ra lệnh bưng bít tất cả mọi tin tức, biến họ thành những con cừu non, ngô nghê ngốc nghếch, đúng với ý đồ của cấp lãnh đạo Đảng CS .Vì thế họ tuyệt đối nghe theo cấp trên một cách máy móc, mà đã là con người bị người ta lường gạt, không có chủ kiến cho riêng mình, tư tưởng bị kiềm chế nên họ tuyệt đối trung thành với Đảng một cách mù quáng .
Trái lại những người Chiến sĩ VNCH, được giáo dục trong một môi trường tự do đầy sáng tạo, nên có một thái độ ứng phó bén nhậy khi gặp hoàn cảnh khó khăn như khi bị tập trung vào những trại tù Cải tạo, nên lúc nào cũng lạc quan về cuộc đời .Lúc còn ở Trại Cà Tót ngày nào cũng thấy cái chết, nên anh em xem rất thường coi như hôm nay anh chết ngày mai đến tôi . Nhớ lại lúc đưa anh Đặng Văn Hai ra rừng chôn, nội tìm chỗ để chôn cũng cãi nhau một lúc, cuối cùng thì cũng chọn được một chỗ có phong cảnh hữu tình để thi hài anh Hai an giấc. Lúc này anh Biên có đi theo chúng tôi, nhưng vì mệt quá nên nằm lăn trên cỏ gần mộ anh Hai . Không có nhang chúng tôi đốt cây rừng làm nhang, anh Cư người bạn thân của tôi sau khi vái anh Hai ba vái xong, quay qua trước đầu anh Biên khấn “ Nếu mày có muốn theo thằng Hai thì cứ đi, chừng nào mày chết tao chôn mày sát thằng Hai cho có bạn “ Quả nhiên ngày hôm sau anh Biên chết, và chôn đúng chỗ anh nằm hôm qua, nghĩ lại nói chơi kiểu này thấy lạnh mình quá .
Có một anh bạn tin tưởng vào lời lường gạt của Chính quyền cách mạng tuyên bố là một tháng sẽ trở về, Tôi nhớ đâu anh lên đợt sau ngày 19 tháng 6 /75 . Tôi thấy trong vạt áo trắng anh mặc có vẽ một tấm lịch 30 ngày, mỗi ngày anh lấy viết ra gạch một ô, nhìn thấy chuyện vui quá nên tôi cười và nói, Anh đừng có tin tụi nó, tôi cá với anh thằng nào ít nhất cũng vài cuốn lịch, quả nhiên anh lãnh đủ hơn năm cuốn .
Một hôm tên Thượng sĩ Hợi, răng hô mã tấu cán bộ trại đến chỗ nằm tìm tôi đưa cho cây rựa bảo đi theo hắn chặt cho một cây Tre thật lớn không biết để làm gì, thật tình mà nói, chặt tre thì thường quá có gì phải lo, thỉnh thoảng tôi cũng có chặt Lồ ô, Le về làm sạp giường nằm có chết thằng nào đâu, nhưng mà cả trại mấy ngàn người hắn không chọn ai lại chọn tôi mới là chuyện lạ, tôi ra chỗ để dụng cụ chọn một cây rựa tốt nhất đi theo hắn, tôi chê cây rưa,hắn đưa vì lụt . Đi ngược theo dòng suối cách Trại khoảng mười phút, hắn chỉ cho tôi thấy một bụi tre rất to trước mặt .
Lần này lại khác, bụi tre hắn chỉ thì có lẽ từ hồi khai thiên lập địa đến giờ chưa ai đụng tới . Cây nào cũng to đường kính ít nhất cũng trên hai tấc, chiều cao thì khỏi nói . Đường kính bụi tre hơn mười mét, gai góc chĩa ra tua tủa, chỉ xong bụi tre hắn bỏ đi về . Nhìn bụi tre tôi thấy sợ quá, muốn chặt một cây tre phải giải quyết hết đám gai cứng như thép này cũng phải mất nửa ngày . Nghĩ nhanh trong đầu, cần phải cầu viện sư phụ mới được, nghỉ là làm ngay tôi lẻn ngõ khác về trại tìm thầy An nhờ giúp đỡ .Sau khi nghe tôi cầu cứu, thầy An cùng tôi ra ngay bụi tre, câu đầu tiên Thầy phán “mày có nghe câu, nhứt gò gái nhì chặt tre không” Quả thật tôi có nghe nhưng để ý làm gì cho mệt, nay nghiệm lại câu này quá đúng .
Thầy giảng cách làm thế nào để chặt được tre, thầy bảo phải làm một cái giàn cao ít nhất hai mét rồi leo lên đó chặt lấy thân nó từ hai mét trở lên mới được . Phán xong thầy cũng bỏ ra về để tôi một mình xoay sở . Còn lại một mình không biết làm sao làm cái giàn đây, Tôi nghĩ ngay tại sao mình không chặt một cái cây đẽo thành cái thang rồi đứng lên đó chặt . Phải mất một giờ mới làm xong cái thang bằng một cây gỗ dài hơn ba mét, bắt lên bụi tre và đứng lên trên thang chặt được một cây vác về giao nạp, phần ăn ít ỏi buổi trưa hôm đó tan nhanh trong bao tử làm bụng đói cồn cào . Từ đó tôi học được một bài học về chặt tre .
Trại Cà tót có hai con Bò được giao cho anh Lưu Đức Thắng chăn, trước đây anh là Đại Đội Trưởng ĐĐ Trinh Sát của tỉnh Bình Tuy, anh tốt nghiệp Sĩ Quan Đà Lạt, nhà ở gần nhà tôi . Hai con Bò này trước đây do một tên VC con chăn, tên này có biệt danh “Cam tích tán” vì bị bệnh Sơ gan Cổ chướng bụng phình như cái trống chầu chỉ chờ ngày chầu Diêm vương, nhưng mà nó hung hăng, thường chửi bới anh Thắng vì hai con bò không chịu để anh điều khiển .Tôi nghe nó chửi anh mà nổi máu muốn đạp cho nó một đạp “ mấy thằng Sĩ Quan ngụy ăn hại, có hai con bò cũng đuổi không đi” Một phần cặp bò của “Cách mạng” nên anh không dám đánh mạnh, vì đánh chó phải kiêng mặt chủ nên cặp Bò không sợ anh .
Tôi phải giúp anh lùa hai con bò qua sông ăn cỏ, đồng thời tôi chỉ cách anh huấn luyện và trừng trị hai con bò này vì hồi nhỏ nhà tôi làm ruộng nên có nhiều Trâu bò nên mấy tháng hè cũng có giúp gia đình chăn Trâu Bò nên tôi biết cách trị nó . Tôi buộc nó vào gốc cây và bảo anh Thắng lấy cây nhè mặt nó mà quất thật mạnh . Sau khi bị đánh dằn mặt hai con bò rất sợ anh Thắng, vì điểm yếu nhất của nó là con mắt, lần sau chỉ cần anh dơ roi lên hai con Bò phóng chạy ào ào trước con mắt kính phục của tên Cam tích tán .
Sắn măng nghe qua thì rất dễ, điều này chỉ đúng với các loại măng nhỏ như măng Lồ ô, măng Le, măng Giang, măng Nứa . Măng này nhỏ sắn rất lâu, vì vậy chúng tôi chỉ sắn loại măng Tre lớn cho mau đầy giỏ .Thường thì mỗi ngày toán chúng tôi phải giao cho nhà bếp ba giỏ măng . Hôm nay anh Bùi Loạn Thời người Chợ Lầu nhưng ở gần xóm Chàm, Tôi nghĩ hồi nhỏ chắc cũng có lên rừng sắn măng, nên anh sắn măng rất giỏi, anh muốn xin theo chúng tôi để mua hàng . Mấy hôm nay có một người Nùng thường cưỡi xe Honda đem hàng hóa lên lén bán cho chúng tôi, chỉ có anh Thắng chăn Bò là có điều kiện để mua về chia lại cho anh em . Vụ này mà bị lộ ra chắc cả đám bị cùm cho muỗi cắn chết mất .
Hôm nay anh Thời xin tôi cho đi sắn măng, mục đích là để tìm mua hàng gồm chao, tương, xì dầu, đường . Tôi phải sắp xếp để anh được đi cùng,vì toán tôi do Hợi du kích chỉ định, nên không được phép thì không đi được .Tôi và anh Thời khiêng chung một giỏ, lần này chúng tôi cố tình đi ra hướng gần đường xe Be từ Thiện Giáo lên để sắn măng, mọi ngày tôi phải sắn khoảng hai giờ mới xong, có anh Thời chỉ sắn nửa giờ là xong một giỏ cần xé to.Tôi đang bỏ măng vào giỏ thì nghe tiếng xe Honda chạy ngoài đường . Vừa ngó lại thì đã thấy anh Thời ban ào ào qua đám cỏ tranh cao tới ngực như lực sĩ nhảy rào . Tôi chỉ kịp kêu chờ tôi với thì anh đã mất hút bên kia đám cỏ, Tôi cố lao theo cho kịp để mua chút hàng hóa .
Bất ngờ tôi nghe tiếng quát, giơ tay lên không tao bắn bễ đầu . Nhanh như chớp tôi nằm rạp xuống đám cỏ tranh và bò tháo lui chạy về rừng tre . Khoảng mười phút sau tôi thấy anh Thời mò về, tôi hỏi chuyện gì vậy thì anh kể cho tôi nghe :
Khi nghe tiếng xe Honda, anh phóng nhanh ra đường không thèm nhìn người lái xe là ai vì yên chí là người Nùng bán hàng nên giơ tay chận xe lại . Nhưng rủi cho anh không phải người Nùng bán hàng mà là một tay Thượng úy VC với cả súng ống đầy đủ . Tay Thượng úy này hoảng quá vì nghĩ rằng đám tàn quân tấn công mình nên rút súng định bắn anh, nhanh trí anh nói : Thưa cán bộ tôi bị con Rắn rất to nó rượt sợ quá nên chạy ra đây . Được biết anh là toán sắn măng cho trại nên tha cho, từ đó anh bỏ ý tưởng theo tôi đi mua hàng, cũng còn hên vì tên Thượng úy VC không nổ súng bắn anh, mặ dù hắn ta đã rút cây K54 chĩa thẳng vào anh . .
Sở dĩ chúng tôi đăng ký vào toán đào mì, sắn măng không ngoài mục đích kiếm thêm miếng ăn vì đói quá . Sau khi đào mì xong, tìm củ nào nhỏ ngon nướng ăn cho no rồi mới về . Tên Hợi răng hô có biết nhưng cũng thông cảm vì tụi tôi bắt gặp hắn đang tù ti với mụ nữ Du kích trong cái chòi vắng trong rừng, và chúng tôi cũng thông cảm với đồng chi Hợi .
Về cái lý lịch của tên Hợi này do hắn kể cũng ly kỳ không it, chuyện này là do một lúc cao hứng hắn kể lại cho toán đào mì chúng tôi nghe . Khoảng mười bốn tuổi hắn đã tham gia vào Việt Minh, theo đoàn quân vào Nam công tác và ở luôn tại rừng này từ đó đến bây giờ, được giao quản lý kho lương thực cất giấu ở đây . Một chữ cắn làm đôi cũng không biết, còn văn minh loài người thì mù tịt, cả cuộc đời trai trẻ chôn vùi chốn rừng sâu . Nếu không có ngày 30/4/75 thì không giải phóng hắn thành kiếp người . Lần đầu tiên một cán bộ VC cưỡi xe Honda từ Phan Thiết lên công tác . Hắn theo xin ngồi đằng sau xe chạy vòng vòng trong sân ra vẻ thích thú lắm . Cũng nhờ có ngày này mà hắn ta mới vớ được một mụ du kích nạ giòng . Ước muốn của hắn là một lần được về ngắm thành phố Phan Thiết cho mở con mắt .
Khi về đến Sông Mao, thì việc đầu tiên của chúng tôi là hàng ngày bám sát hàng rào dọc đường Tự Do để nói chuyện với gia đình . Được mấy hôm đám ác ôn bắt chúng tôi lên Phi trường khiêng vĩ sắt về làm bức tường cao quá đầu ngăn chận .Mấy chị người Nùng ngoài Sông Mao thấy cảnh này tức quá nên cũng chửi bọn khốn kiếp, mấy chị nói : -Mấy ông Sĩ Quan đẻ con so nên sợ gió cần phải che lại .
Không đủ nước tắm, nên cuối tuần VC cho chúng tôi xuống Sông Mao chỗ đập É Chim để tắm . Lúc này mấy chị em ta ở Sông Mao còn đông lắm, nên cũng theo đứng hai bên đường vẫy tay chào mừng chúng tôi, có cô còn lén nhét cho gói thuốc, vài cục đường để cám ơn người lính VNCH trước đây đã từng cưu mang họ . Nghĩ cho cùng những chị em ta cũng còn chút tình người .
Cái sợ nhất của tù Cải tạo là phải ngồi đồng để nghe Chính trị viên Đảng ta nhả ngọc phun châu vào lỗ tai mình, sau đó phải tìm mọi cách để nói láo chính bản thân mình qua các cuộc thảo luận và tự kiểm điểm . Chúng tôi khám phá ra rằng, trong nhà tù Cộng sản nói phét càng hay thì sự tiến bộ học tập càng được đánh giá cao . Tôi nhớ có lần cả tổ ngồi đồng thảo luận về đề tài “Đế quốc Mỹ là tên xâm lược” . Thú thật mười tám thằng trong tổ không tìm đâu ra chỗ nào Đế quốc Mỹ xâm lăng nước ta cả . Chúng tôi chỉ thấy Đế quốc Mỹ đem lại cơm no áo ấm chẳng những cho miền Nam mà còn cho tất cả các nước Mỹ có mặt như Nhật, Nam Hàn, Đài Loan ...nên phải cố gắng để phịa ra chuyện nói xấu Mỹ, bây giờ nghĩ lại còn thấy muốn cười .
Mỗi bài như vậy phải đào sâu tư tưởng phát biểu đúng trọng tâm trong thời gian một tuần lễ thì chỉ có thánh nhân mới làm được . Ấy thế mà chúng tôi cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ học tập . Tôi nhớ nhiều lần ngồi đồng câu giờ chờ Quản giáo Tùng ghé lại tổ là có niềm vui mang lại . Chỉ cần chúng tôi mở đúng tần số là Tổ chúng tôi qua đi hai giờ thảo luận một cách nhẹ nhàng vì anh ta có năng khiếu nói dài nói dai nhưng không trúng vào đâu cả, nói văng ả nước miếng một cách say sưa, trong đó có nhiều chuyện thâm cung bí sử, mặc dù lạc đề nhưng có ăn thua gì, Quản giáo nói mà .
Quản giáo thì có quyền nói sao cũng được, đâu có thằng nào dám chận ngang .Từ đề tài Đế quốc Mỹ, Quản giáo nhà ta đưa chúng tôi về với trận địa pháo và các trận dội bom kinh hồn của B52 mà đơn vị anh ta gánh chịu hồi nào trong niềm say mê của các cổ động viên . Chính các Quản giáo cũng thừa nhận rằng Mỹ chưa có lấy gì từ tài nguyên của đất nước ta, người Mỹ chỉ tốn tiền và xương máu, nhưng cuối cùng bao giờ cũng kèm theo câu, thằng Mỹ sẽ bóc lột nhân dân ta vì tư bản Mỹ là tên xấu xa nhất . Cách hay nhất để sống còn là chúng tôi chấp nhận Đế quốc Mỹ là tên xâm lược, mặc dù không ai chứng minh được .
Cũng từ những bài học thực tế đó tôi nhận ra Quân đội Cộng sản Bắc việt không thể nào chiến thắng nỗi QL/VNCH nếu người Mỹ viện trợ cho ta đúng với bản Hiệp định Paris . Dù trong hoàn cảnh nào, người Chiến sĩ VNCH vẫn không khuất phục trước Cộng sản . Qua những bài viết bích báo, ta thấy ẩn vào đó những nét châm biếm chế độ mà với trình độ quá thấp kém của một Quản giáo, trình độ lớp ba trường làng thì làm sao hiểu nỗi.
Đi lao động tuy có vất vả thiệt nhưng cũng có cái thoải mái của nó . Đội chúng tôi khiêng đất tại dốc Bà Chá để đổ con đường đất . Hàng ngày phải đi trên Quốc lộ 1, nên gây sự chú ý đến những xe và hành khách qua lại trên đường . Sự thể hiện của những người trên xe đủ cho chúng tôi ấm lòng, vì biết rằng người dân miền Nam vẫn thương và càng thương yêu hơn chúng tôi . Những bao thuốc lá, những trái chuối của những bà mẹ, người chi, đứa em gái không quen biết quăng vào thùng gánh đất cho chúng tôi đủ để nói lên lòng thương yêu vô vàn đó . Có một quy luật bất thành văn giữa chúng tôi và đám Cảnh vệ cùng nhau có lợi . Gói thuốc nào lọt vào thùng là của chúng tôi, gói nào rơi trên đường là của nhà nước XHCN .
Một lần Má tôi biết được tôi hàng ngày cùng anh em khiêng đất ở đoạn đường đó . Má tôi lên Lương Sơn mua đủ loai trái cây, khi đi ngang qua bà bảo xe chạy chậm lại và xô xuống đường nhựa một đống trái cây rồi xe bỏ đi . Tôi ngó thấy bả ngồi trên xe đưa tay ngoắc tôi và chỉ vào đống trái cây, nhưng khi bị Cảnh vệ hỏi của ai thì không ai dám nhận cả, vì nếu nhận sẽ bị kiểm điểm phiền phức, không tốt trong học tập, vì quy phạm nội quy Trại .
Tất cả xe đò đi ngang qua biết là của người tốt bụng cho Tù Cải tạo nên không xe dám cán lên và tìm cách né qua để đi . Mấy tên Cảnh vệ bối rối vô cùng không biết xử lý thế nào . Hỏi của gia đình người nào bỏ xuống thì tất cả lại đều lắc đầu kể cả tôi . Cuối cùng chúng tôi xin ra lấy bồi dưỡng để xe khỏi cán nát, Cảnh vệ đồng ý nhưng với điều kiện phải thanh toán ngay tại chỗ không được mang về trại . Điều này dễ quá mà, chỉ chờ có vậy chúng tôi xúm lại thanh toán vài phút là sạch sẽ .
Có một Cảnh vệ tên Dưa biết nhà vợ tôi nên hỏi tôi có muốn nhắn gởi gì không vì cuối tuần anh ta đi đến đó chơi, tôi cho địa chỉ và nói vợ tôi gởi gì cũng được . Tối hôm Chúa nhật đó trời tối đen, Cảnh vệ Dưa vào lều tôi ở kêu tôi ra ngoài bảo, vợ anh gởi một xoong cá nục hấp, tôi để ngoài bụi cây sát đường QL1, bảo tôi ra lấy vô . Anh ta nói, anh cứ yên trí ra lấy, phiên gác của tôi, và tôi canh chừng cho anh ra lấy . Nguy hiểm trùng trùng trước mặt, tôi lao vào đêm tối tìm ra gốc cây và bưng vào một xoong cá thật lớn, nếu mình tôi ăn phải mất nửa tháng mới hết . Nhưng không thể để cho bất kỳ ai biết ngoài anh em trong tổ vì sợ có anh em nào nổi hứng quyết chí lập công dâng lên Bác và Đảng thì vô cùng phiền phức . Tôi kêu tất cả anh em trong tổ thức dậy và thanh toán thật nhanh không để lại dấu vết nào, kể cả xương cá .
Công việc xây Đập đào mương rất nặng nhọc mà thực phẩm thiếu thốn lại không được thăm nuôi nên rất đói . Chúng tôi mới xin cho người đào củ Nầng về ăn thêm, củ Nầng người Thượng, Chàm thường dùng làm thực phẩm cho Heo ăn . Muốn ăn củ này phải biết cách làm không thì trúng độc có thể chết . Vùng Đập tràn Sông Lũy này củ Nầng đâu cũng có . Một hôm nhà bếp đào Củ về cắt thành lát mỏng đem luộc chín xả nước ba lần, rồi phải đem ngâm ở dòng nước chảy một ngày đêm, lấy lên luộc lại chế biến gia vị vào mới ăn được .
Không ngờ mới đem ngâm hai giờ thì trời mưa lớn, nước sông chảy mạnh, nhà bếp sợ trôi mất nên kéo lên làm cho anh em ăn sáng . Kết quả nguyên cả Đội của tôi đi chưa tới chỗ làm thì đã ngã gục trên đường hết . Hai Đội bạn phải quay trở lại khiêng chúng tôi về trại vì trúng độc, may mà không có ai chết vì anh em sợ nên còn thăm dò không dám ăn nhiều .
Trong đời tôi đã từng đi theo mấy người lính Chàm bắt Ong lấy mật nhiều lần nên cũng có biết chút ít vào nghề này . Một hôm tổ chúng tôi đi vào rừng chặt cây làm Hội trường ở Hàm Trí, chúng tôi thấy một Tổ Ong mật tụ lại ở nhành cây rất lớn như cái thúng, con ong to như cọng đũa ăn cơm, chỉ cần vài con nó đớp thì cũng đủ bỏ mạng .
Trong Tổ có một anh bạn khó ưa tên Lê Đình Thái ( anh đã chết chưa kịp đi HO ). Hầu hết ai cũng ghét anh ta, anh này lại có tánh tham ăn . Mới thấy tổ Ong tôi đã biết ngay tổ này mới đóng chưa có mật . Vậy mà anh Thái tình nguyện bắt Ong, chỉ xin lấy cái Tàng Ong còn mật thì chia đều .Tôi cũng muốn sẵn dịp này mượn Ong nó trừng trị anh ta cho bõ ghét nên nháy mắt với mấy anh bạn đồng ý . Vì sợ bị cắn nhiều quá có thể chết nên chúng tôi cho anh ta mượn thêm quần áo và bịt mặt chỉ chừa hai con mắt khi leo lên chặt cành lấy tổ Ong . Đúng ra thì phải đốt lửa un khói cho nó bay đi rồi mới chặt nhưng anh Thái không có biết, nên leo lên chặt . 
Ngay nhát rựa đầu tiên chém xuống chúng tôi đã chạy hơn trăm mét mới dám đứng lại, vậy mà anh cứ ráng chặt cho cành cây có tổ Ong bám rớt xuống . Kết quả thật bi thảm, đàn Ong bị động bay ngược lên cắn anh thê thảm . May mà đã bận thêm đồ dầy, mà đến khi chạy được đến chỗ chúng tôi anh té nằm trên đất hôn mê bất tĩnh .
Niềm ân hận dâng lên nghĩ mình sao ác quá vậy, lỡ anh ta chết thì sao . Chúng tôi khiêng anh về trại kịp thời để Y tá chích thuốc giải độc cho anh . Với hơn ba mươi vết cắn, móc Ong còn dính lại đầy trên lưng to như gai quâu quấu, anh ta không chết cũng là chuyện lạ .Việc này BCH trại có hỏi chúng tôi sao để cho anh bắt Ong thì chúng tôi đồng thanh trả lời đó là do anh tình nguyện tự ý làm . Chuyện này dù xảy ra đã lâu mà mỗi khi nghĩ lại tôi cảm thấy sao mình ác quá, chút nữa gây chết người, bạn bè có giận nhau thì nên đem nhau ra thoi vài cái là xong, chứ mượn đao giết người kiểu này thì … .
Các tù nhân Nữ tại trại A30 Phú khánh cũng cần nên nhắc đến . Tại đây có hai đội nữ hơn 400 người, đủ các loại thành phần từ Phục quốc, Chính trị, Hình sự đông nhất là tội vượt biên . Mấy cô ở tù nhưng sướng lắm, nhất là mấy cô vượt biên . Cha mẹ thường giàu có tiếp tế hàng tháng nên có cô chê cơm trại tự nấu lấy ăn . Thức ăn trại phát thì nhường lại cho mấy cô Hình sự và Chính trị không có thăm nuôi .
Khi Chúng tôi được chuyển từ Hàm Trí Bình Thuận ra đây, gia đình không biết ở đâu mà tiếp tế nên rất đói . Gặp lúc trời mưa bão lớn nên toàn trại phải di tản ra xã Thạch Thành, nhà bếp trại bị ngập dưới dòng nước Sông Ba nên chúng tôi phải đói khát cả ngày . Kế bên đội tôi trú đóng là hai đội nữ, mấy hôm nay có thấy bóng dáng mấy em nhưng nội quy trại cấm tuyệt đối quan hệ nên không tiếp xúc được . Đây là dịp may hiếm có để tìm người quen, biết đâu trong đám này có đồng hương của mình . 
Đang khi không biết làm cách nào để dò tìm thì thấy có một cô tìm đến gặp và hỏi phải anh là anh Sơn ở Phan Rí không ? Lúc này có Lê Đình Thái đứng cạnh nên tôi không dám lên tiếng trả lời, chỉ gật đầu . Cô ta lại nghĩ là không phải nên bỏ đi . Sau gần 20 phút không thấy cô quay lại nói thêm điều gì, tôi liền tìm cách lai gần cô ta và nói, Tôi là Sơn ở Phan Rí đây, cô có chuyện gì muốn nói . Cô ta bảo anh đứng chờ một chút và vào trong phòng lớp học gần đó ôm ra một đống thức ăn gồm bánh tráng, cá khô, chuối khô …nhiều thứ lắm và nói là của cô P… Phan Rí gởi tặng các anh . “buồn ngủ gặp được chiếu manh”, tôi ôm mớ đồ ăn về phát hết cho anh em trong đội và không dám nói là của mấy em tặng, chỉ nói ăn đi .
Quen được mấy cô rất có lợi, khi đội có dịp làm việc gần đội nữ là hôm đó anh em no lòng chiến sĩ . Tình người em gái hậu phương vẫn đậm đà như xưa, có lần các cô được trại phân công gánh Củ Sắn nước về từ chỗ trồng về giao cho trại khoảng cách chừng 1 Km . Qua bảy ngày vận chuyển các em đã tặng cho chúng tôi mấy tấn Củ Sắn ( Củ đậu ) giải lao, chuyện này xảy ra vì cứ trung bình các em gái hậu phương gánh ba gánh thì khi đi ngang qua bất cứ Đội nào thì các em tặng một gánh để giải lao ..
Tổn thất quá to lớn mà trại biết được là do đã biết năng suất trước . Nhưng đã muộn quá rồi vì bị chúng tôi thanh toán một cách nhanh chóng không còn dấu vết, chẳng lẽ lại cùm cả đội nữ nên đành bỏ qua . Tôi còn nhớ lời cô Hoa, trước là Nữ Quân Nhân VNCH bị tù ở đây vì tội Phản động Phục quốc . Mấy anh cứ ăn cho đã đi, mấy anh làm khổ cực thì phải được hưởng thành quả của mình, bất quá nó biết được thì tụi em bị cùm vài ngày là cùng . Ôi người Nữ quân nhân can trường, tất cả nữ tù tại nhà tù này đều rất khí phách còn hơn đám nam nhi . Có lần mấy em còn dám làm bánh Bông lan có khắc chữ “ Thân Tặng các anh Chiến sĩ VNCH” giao cho đám trồng rau đội mang về . Chiếc bánh này được Đức và Bùi Anh Trinh mang về, nhưng để đề phòng chúng tôi xóa hàng chữ "Thân Tặng Các anh Chiến Sĩ VNCH"

DIỄM KIỀU * BỎ NƯỚC RA ĐI

 
 
BỎ NƯỚC RA ĐI
DIỄM KIỀU


Bỏ nước ra đi lòng buồn làm chết cả hồn tôi. Xa mái ấm gia đình. Xa giống nòi, tiếng cười bạn bè thân thiết. Những hình ảnh gần gũi nhất trong những ngày qua. Quê hương ơi ! Việt Nam nước tôi, tôi có biết bao nhiêu kỷ niệm êm đềm từ thủa thơ ấu, cũng như lúc trưởng thành . Người Việt Nam chúng ta vốn đã sẵn giầu tình cảm, lìa xa quê hương có mấy ai không đau buồn, nhớ thương, mong đợi và hy vọng có ngày trở về cố hương. Làm sao tôi quên được cuộc hành trình vượt biển đông năm xưa. Thấm thoát đã hơn 20 năm, mà tôi cứ tưởng chừng vừa xảy ra hôm qua…

Ngồi trên chiếc xích lô máy, nhìn qua những xóm nhỏ và con đường quen thuộc, tôi thấy những trụ đèn như chạy theo sau. Hành trang của ba mẹ con tôi chỉ vỏn vẹn có một túi vải nhỏ gồm có thuốc ngừa thai, một ít thuốc cảm, một hũ đường, chanh khô, hai hộp sữa bò và bảy trăm đồng tiền mới. Đêm đó chúng tôi đến ngã tư Bảy Hiền để ngủ qua đêm với gia đình ông Sáu. Rồi gặp thêm ba gia đình nữa ở Long Xuyên trong một căn biệt thự sang trọng.

Trời vừa rạng đông, thứ tự kẻ trước người sau, gặp nhau trên chuyến xe Rạch Giá. Những ánh mắt nhìn nhau như kẻ xa lạ. Mọi chặng đường công an xét rất gắt gao. Dừng tại Rạch Giá, tôi giữ khoảng cách xa ông Sáu đủ để nghe và thấy. Một cô gái mặc chiếc áo bà ba trắng, quần đen vừa bước xuống xe lôi, đến hỏi ông. Gia đình ông Sáu lên xe, tôi cũng theo ngồi ghế phía sau. Mặt trời vừa rựng ở chân mây. Nhìn những con chim bay mà tưởng chừng chúng bay về Sài Gòn.

Xe ngừng lại, cô gái bước xuống xe trả tiền. Cô đưa chúng tôi qua những cánh đồng ruộng, rạ khô vàng cháy, như sắp bốc lửa dưới ánh nắng tháng tư. Vào môt căn nhà lá vách đất. Cô gái gọi hai ông bà độ tuổi tứ tuần bằng ba má. Người đàn bà đưa chúng tôi vào căn buồng chật hẹp chỉ đủ ngồi chen chúc, che bên ngoài bằng tấm màn vải. Tôi nghe nhột nhạt trong bụng như kiến bò . Mâm cơm tối được đưa vào, mấy bát cơm gạo đỏ và đĩa khô sặc nướng. Lúc đang ăn, tai tôi nghe rõ từng tiếng nói của mấy người hàng xóm tới chơi. Tôi run. Tim đập mạnh, sợ người ta khám phá mình. Càng lo sợ, tôi càng muốn “pi pi”. Tiếng chó sủa đêm xen lẫn tiếng chó tru, tạo thành một âm thanh nghe ớn lạnh tóc gáy. Tôi cố gắng bò ra sau hè, tè cho nhẹ cái bụng. Những hạt sương rơi lành lạnh làm tôi nổi da gà.

Gà gáy hiệp nhất, chúng tôi bắt đầu đi xuống ghe. Dẫn đường là ông gánh dầu . Tôi phải băng qua ven rạch, bò qua lộ, lội qua mương. Chân tôi sụp xuống lỗ chân trâu đầy bùn nước. Kinh tâm, táng đởm, làm tim tôi muốn ngừng đập. Như có phép lạ nào giúp đỡ hai con tôi. Chúng chạy nhanh hơn mẹ, để bắt kịp những người đi trước .

Dân quê đêm đêm thường đi cắm câu, đặt bẫy. Mỗi lần nhìn thấy ánh đèn dầu thấp thoáng xa xa là tôi chui nhanh vào bụi rậm. Bất kể kiến bu nhột hay rắn hổ mang cắn đưa tôi về chầu Diêm Vương . Có lúc phải ráng căn răng chịu đau vì gặp gai nhọn đâm xuyên qua da thịt. Cũng có lần chui nằm vào đống rơm khô, thò đầu ra, nhìn trên trời có muôn ngàn vì sao và thấy rõ chị Hằng.

Có một đứa bé sáu tháng cứ khóc hoài. Mồi lần khóc là có người phát hiện. Chủ ghe phải lo lót vàng để được yên. Tội nghiệp biết mấy ! Đứa bé nhiều lần tưởng đã chết ngộp vì cha mẹ nó dùng khăn để bịt chặt miệng nó không cho phát ra tiếng khóc. Trọn một ngày chúng tôi phải nằm dưới mương sâu. Không sao chịu nổi cái nắmg quái ác, thấy rát đau trên mặt. Tôi chịu đói, chịu khát, chịu đau đớn, nhức nhối với mấy ổ kiến vàng. Chúng tôi không dám ở trên bờ nữa, lội ven rạch, chạy dài những hàng dừa nước xanh để lẩn trốn, thỉnh thoảng hàng dừa bị gió lay làm tôi muốn nín thở. Trời chưa tối nhưng bóng cây hai bên bờ đổ ập xuống dòng sông, nên có vẻ như tối. Bỗng một bầy chim li ti đen, như bị động xao xác bay qua đầu tôi.

Xa xa những chiếc thúng đen đang nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Sông Hậu Giang như một giòng nước chết. Ngồi trên thúng chèo ra đến ghe. Mọi người lên được trên ghe, gian nan cũng lắm mà đoạn trường cũng nhiều. Chiếc ghe một máy bị trở quá nhiều nên chạy ì ạch. Bình minh không nắng ở xứ nhiệt đới cho tôi cảm giác buồn vu vơ chợt len lén vào hồn của kẻ ra đi. Bỗng nghe tiếng súng đùng đùng đâu đây…Gặp tàu đánh cá quốc doanh bắt lại, khám xét tứ tung. Tịch thâu hải bàn và ống nhòm. Rồi họ bỏ ra một cái thùng nhựa, bảo chúng tôi tự nguyện ai còn gì dấu cất nên bỏ hết vào thì được tha cho đi.

Sau đó mưa bão đánh dồn dập hai thân ghe. Có những nhát như chém vào khoảng không, làm cho ghe lắc lư, trồi lên ngụp xuống như nhảy sóng. Thuyền nhân như hạt bụi trong cuồng phong. Tiếng nguyện cầu, kinh Chúa cũng như kinh Phật liên tục vang lên từ đó.

Mới có hai ngày đường mà lương thực khô gần hết. Nước uống chỉ đủ nhỏ giọt từng muỗng cà phê. Đến được hải phận quốc tế, thấy tàu qua lại chúng tôi dùng áo trắng hay đốt đuốc sáng lên làm hiệu. Cùng la to S.O.S, nhưng họ đành lòng ngoảnh mặt làm ngơ bỏ chạy luôn ! Trên nét mặt những thuyền nhân đầy vẻ ưu tư lần nét buồn vẩn vơ theo chiếc ghe định mệnh qua sóng nọ biển kia, tưởng chừng như vô tận.

Tổng cộng tám lần ghe bị hải tặc tấn công. Mỗi lần gặp là mỗi lần phải leo trèo qua tàu chúng để bị khám xét. Mấy ai còn lành lặn, bầm chân, trầy da, rướm máu…là chuyện không đáng kể. Chân một cậu bị ép chặt giữa hai vành tàu, gãy xương, phải xé vạt áo lại băng bó lại vết thương, vẫn không được tha. Dễ mấy ai mà không sống đi chết lại với những bộ mặt ác quỷ, người cầm búa, kẻ cầm súng, tên cầm dao to tiếng vào chiếc ghe nhỏ bé mong manh của đoàn người đói khát đi tìm tự do.

Có lần gặp tên hai tên hải tặc xé toạc áo của hai chị em gái tưởi khoảng 18, đôi mươi. Hai tay của mỗi tên xục xạo thân thể các cô một cách thô bỉ, chúng cười nhe răng trông giã man, ghê tởm làm sao. Rồi kéo lôi xềnh xệnh hai chị em với những dòng nước mắt lả chả. Đàn bà, con gái trên ghe đều chắp tay cúi lạy. Mạng sống con người chỉ còn biết buông trôi theo dòng . Ra đi âm thầm. Mà chết cũng lặng lẽ. Đã có hàng trăn ngàn người việt Nam chấp nhận cái chết, vùi chôn vực sâu. Biển Đông là nghĩa địa, nơi an nghỉ cuối cùng của thuyền nhân kém may mắn.

Có một lần hải tặc xách bổng con trai tôi lên, chân cháu chỏi lia lịa mà khóc không ra tiếng, hắn định quăng cháu xuống biển. Tôi chạy tới ôm chầm lấy hắn khóc rống lên, la thật to: “ Con tôi! Con tôi !” Hắn quăng trở lại sàn nghe cái bịch. Tôi ôm chầm lấy con mà khóc như chưa bao giờ được khóc. Dù bị hành hạ nhưng nếu ở lại Việt Nam, con sẽ trách mẹ suốt đời. Nghĩ vậy tôi tự tìm lấy sự yên ổn trong tâm hồn.

Lần cướp biển thứ tám, không còn gì nữa để chúng vơ vét. Chúng bèn đục gỡ máy tàu. Mạng sống con người như chỉ là mành treo chuông . Chiếc ghe chỉ còn trôi dạt theo chiều gió biển đẩy đưa. Bỗng tôi nghe có tiếng con gọi: “Mẹ ơi ! Có ông già râu dài kéo chiếc ghe đi”. Tiếp theo là một tiếng “rầm!”. Chiếc ghe tròng trành suýt lật ngang. Mọi người nhốn nháo. Nhìn thấy trước mũi ghe là một hòn đảo nhỏ. Mọi người dìu nhau lên tảng đá lớn. Suốt đêm ai nấy đều run lập cập, nhìn lại chiếc ghe từ từ chìm xuống, như biết mình đã làm tròn phận sự.

Bình minh vừa ló dạng, có người khám phá bên trên là đất liền. Chúng tôi may mắn gặp được đôi vợ chống trẻ người Thái Lan đang hưởng tuần trăng mật. Họ nấu cho một nồi cháo lớn với một chai nước mắm hiệu con mực. Nhờ chút cháo, hai con tôi từ từ tỉnh lại. Cậu người Thái đưa chúng tôi đến chính quyền địa phương làm nhiều chuyến bằng chiếc ca nô. Chính quyền địa phương lấy những chiếc xe dùng chở heo đưa chúng tôi đến trại tị nạn Cong –Sa Mui. Chung quanh trại này được rào bằng dây kẽm gai. Cảnh sát Thái rất ác độc, đánh đập thuyền nhân đến u đầu, chảy máu… mỗi khi khám xét, bắt bẻ là làm vệ sinh trại không sạch. Chúng tôi ăn cơm gạo sâu mọt, hôi mốc với khô mục. Mỗi khi tắm giặt chờ mọi người đi ngủ hết mới dám thoát y . Trại này có rất nhiều muỗi. Đêm ngủ mà để tay chân lộ ra vành mùng, muỗi đeo đến cắn cổ tay như đeo xâu chuỗi đen.

Rồi một ngày xe bus chuyển thuyền nhân đến trại tị nạn Songkla. Đến nơi nhưng chưa được vào ngay. Chúng tôi phải ngủ qua đêm trên sạp gỗ chợ Thái ngay bờ biển. Nhìn biển gần, tôi nhớ biển xa. Chiều tàn trên bờ biển lờ trôi. Chim bay về chân núi xa với mà cứ tưởng bay về quê hương tôi . Nghe những làn sóng vỗ vào bờ rì rào âm vang như điệu nhạc buồn ! “ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ !” . Sau khi làm xong tất cả mọi thủ tục giấy tờ, chúng tôi được gọi lên nhập trại.

Tôi tình nguyện làm trong nhà bếp của “Children Center”do cha Joe đảm trách. Trung tâm này gồm có một trăm bốn mươi ba trẻ em. Đa số là mồ côi, cha mẹ chết trên đường vượt biển. Tôi nấu cơm bằng bếp than cho từng ấy cháu ăn, món ăn thay đổi mỗi ngày. Rồi rửa chén, dọn dẹp linh tinh. Làm vệ sinh sạch sẽ trong nhà bếp. Tình yêu trẻ trong hoàn cảnh đau thương này giúp tôi làm việc không biết mệt mỏi mà vui.

Sau bốn tháng được chuyển trại đi Bangkok để khám sức khoẻ. Tôi không phải là người sanh ở đảo, cuộc đời lại trôi nổi từ đảo này sang đảo khác. Songkla, Panat Nikhom, Ga Lang II (Indonesia)…Những dãy ba-rắc cất thứ tự bên nhau, phần trên để ngủ, phía dưới làm nhà bếp, bàn ăn, họp bàn chuyện trò cho đỡ nhớ nhà. Ngoài giờ học tiếng Anh tôi tình nguyện làm ở bệnh xá, giúp đỡ bệnh nhân. Cuối tuần thướng rủ nhau hai ba gia đình đi cắm trại ven bờ biển. Tuy không có món ngon vật lạ, tôi cũng biết chế biến những đồ hộp được lãnh thành món ăn hợp khẩu. Đó là niềm hạnh phúc của tôi.

Tình đồng hương biết yêu thương lẫn nhau, chia xẻ từng bó rau muống chính tay cuốc đất trồng. Trống trọt tưới nước. Biếu nhau những con cá tươi bé nhỏ vừa mới bắt được. Tổ chức tiệc nhỏ để tiễn đưa những ai có tên định cư ở các nước tự do. Tại sân tầu để chuyển người sang phi trường Singapore, tiễn người đi chưa bao giò buồn thế, kẻ ở người đi lưu luyến, vui buồn lẫn lộn.

Mỗi kỷ niệm là một bức ảnh, làm thành một quyển “Album”, lưu lại tất cả sinh hoạt của tôi trên khắp nẻo đướng tị nạn. Mà ngày nay bạn Việt cũng như bạn Mỹ được xem qua, ai cũng đều nói giống như người “tourist”, không giống dân tị nạn tí nào.

Vận nước tôi rủi mất tự do, những cũng may cho nước tôi trong thế kỷ thứ hai mươi mốt này có thêm biết bao nhân tài làm vẻ vang dân tộc. Nhờ trời thương ba đứa con tôi cũng đã tốt nghiệp, với một mảnh bằng MD,PhD, và hai cháu đã có bằng MD, đều tốt nghiệp Đại Học Harvard.

Tôi tin tưởng hầu hết nhân tài sẽ trở về cố hương, góp phần xây dựng lại một nước Việt Nam tự do, dân chủ, và phú cường.

Cuối thu 2002
Diễm Kiều

NAM CAO * TRẺ CON KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT CHÓ

  


TRẺ CON KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT CHÓ
 NAM CAO 



    Hắn hút đến điếu này là điếu thứ ba. Ba điếu thông luôn. Cái thuốc lào, hút vào một buổi sáng lành lạnh như buổi sáng hôm nay, sao mà ngon thế! Khói đậm đà như vị mật, thấm qua lưỡi để pha vào với máu, lan đi từng thớ thịt, làm da thịt đê mê. Đôi mắt hắn gà gà; hơi thở phì phò như ống bễ lò rèn, những ngón tay lờ rờ trên không khí mơn man một dáng hình tưởng tượng. Như thế trong vài ba phút. Rồi cơn say lại nhạt. Cái thú vị chính là ở đó.


Những cơn say, nếu kéo dài ra tất thành nôn nao. Người ta đâm chúi đầu vào bức vách hoặc xều dãi ra như một con chó trước khi hoá dại! Còn cái gì thô tục bằng? Đằng này những cơn say rất chóng qua. Người hút, vừa hút xong, đã bị muốn hút luôn điếu nữa. Hút bằng nào cũng không biết chán. Hút đi, hút lại mà vẫn còn thấy ngon.

Cái điếu là một vật vô tri mà dường như cũng biết nịnh đời. Vốn dĩ xưa nay nó là một cái điếu rất tồi. Hút không kêu. Nó chỉ xìn xịt như tiếng một vật gì bị ẩm. Nghe chán lắm. Thế mà hôm nay, chẳng biết cao hứng thế nào, nó lại kêu: những tiếng nổ tanh tách nảy lên trên không khí khô nỏ và trong veo của mùa thu như một chuỗi cười giòn. À, thì ra cái điếu hình như cũng có hồn. Vào một buổi sáng mát mẻ như buổi sáng hôm nay, tự nhiên nó hết ươn ao, và thấy cần phải ầm ĩ thì mới khoái. Người cũng vậy. Hắn thấy lúc này mà phải bò gối ngồi nhà thì cái đời thật khổ. Ấy thế là hắn càu nhàu chửi tục. Hắn chửi những quân hàng bưởi không chịu đến mua cây bưởi đào nhà hắn để hắn có dăm đồng mà tiêu. Năm đồng bạc!… Mắt hắn sáng hẳn lên một chút. Chúng có vẻ vừa trông thấy con chó thui béo căng và vàng óng treo lủng lẳng bên trên cái trống hàng nhà mụ Tam.

Nước dãi tứa ra đầy miệng hắn, một hơi rượu rất mong manh thoáng qua mũi hắn rồi vụt biến. Chà! Hôm nay mát trời lắm nhỉ? Rượu với thịt chó mà lại gặp khí trời mát thì ngon biết chừng nào là ngon! Hắn nuốt dãi hai, ba lượt. Rồi hắn lại nhịt thuốc vào nõ điếu, châm đóm hút thêm điếu nữa. Cái điếu vẫn kêu tanh tách. Nhưng khói thuốc bây giờ sao nhạt thế! Khi đang hút thì nó nhạt như nước lã, mà hút xong thì lại hơi đắng miệng. Hắn nhổ bọt vào chân cột rồi vừa chép chép môi, vừa hếch mặt nhìn lên nóc nhà. Rượu… thịt chó… rượu… thịt chó…


Óc hắn cứ luẩn quẩn nghĩ đến hai thứ đấy. Sắc vàng bóng của một cái mông chó thui nhầy nhẫy mỡ với sắc xanh nhạt của một chai Văn-điển đầy ăm ắp cứ lần lượt hiện ra. Ờ! Mát trời thế này mà được uống rượu thì tuyệt quá! Nhưng đào đâu ra tiền? Ấy thế là hắn lại chửi những quân hàng bưởi. Rồi nhân tiện, hắn chửi luôn vợ hắn: Cái “con mèo mù” đà đẫn mãi, bưởi chín đã gần muốn rụng mà vẫn chưa chịu rước người vào mua.

Chửi chán, hắn tặc lưỡi một cái để bảo hắn rằng: không chửi nữa. Hắn quăng mạnh hai chân xuống đất để đứng lên và ra đi. Hắn đi cúi mặt, bước những bước mải mốt và cả quyết. Người ta tưởng hắn như đã định sẵn một nơi nào để đến. Nhưng không phải. Đến đầu ngõ, hắn tần ngần đứng lại. Bởi đến đầu ngõ, hắn gặp một con đường hai ngả. Biết đi ngả dưới hay ngả trên? Đi ngả dưới tức là đến nhà con mẹ Vụ để gạ bán non cho nó mươi gốc chuối. Nhưng con mẹ Vụ sẽ nhớ ra rằng: đã có lần hắn bán cho thị mười gốc chuối khác lấy hai đồng bạc đi xóc đĩa rồi lại bán lại lần nữa cho người khác lấy ngót hai đồng bạc. Giá mỗi cây chuối cố sinh ra lấy hai buồng, thì hắn không đến nỗi là con người lật lọng đâu. Nhưng cái giống chuối, từ cổ chí kim, mỗi cây chỉ sinh được một buồng. Vậy thì hắn đích thực là một con người hay lật lọng.
Chậc! Ừ thì hắn là người lật lọng, như vậy thì đã sao? Không sao cả. Bởi ai đã chửi hắn luôn ba hôm mới biết rằng chửi hắn vô ích thật. Chửi hắn thì mỏi miệng. Nhưng nên buộc chỉ cổ tay để nhớ cho thật kĩ: từ giờ đừng bao giờ dại dột tham lợi mà mua chuối non cho hắn một lần thứ hai. Con mẹ Vụ sẽ không mua chuối non cho hắn một lần thứ hai. Không những thế. Rất có thể, nó sẽ xỉa xói vào mặt hắn mà mắng cho đến nhục. Vậy thì cái ngả dưới rành rành là bất lợi. Hắn quay mặt về ngả trên. Thế nghĩa là cứ đến thẳng hàng thịt chó nhà mụ Tam. Nhưng mụ Tam vốn không ưa bán chịu. Mà hắn thì lại đã chịu của mụ luôn ba bữa, chứ đào đâu ra tiền trả. Cái mặt mụ chắc chắn là sẽ không được tươi tỉnh lắm. Mụ sẽ vác nó lên. Mụ sẽ nhìn cái tổ chim vô hình trên lưng chừng một cây tre ở trước cửa hàng nhà mụ, chứ không thèm nhìn hắn. Nếu hắn có lài nhài lắm, thì mụ sẽ hướng đôi môi lên hướng trời xanh mà bảo hắn: Trả nợ cũ đi đã rồi hãy ăn.

Như vậy thì cũng nhục. Hắn dùng dằng không nỡ bước. Trong khi ấy thì nước dãi từ từ dâng lên miệng hắn. Rượu… thịt chó!… Rượu… thịt chó!… Trước mắt hắn lại lập loè hai sắc: vàng bóng và xanh nhợt. Hắn nuốt nước dãi kêu ừng ực. Rồi hắn tặc lưỡi kêu một cái để ra hiệu cho hắn đừng do dự nữa. Việc gì mà do dự nữa ? Thịt chó của mụ Tam để bán, chứ không phải để cho ôi thối. Còn hắn muốn ăn thì phải mua. Không có tiền thì mua chịu. Trời sinh ra thế. Dầu rằng mụ Tam không ưa bán chịu thì hắn cũng đã chịu luôn được ba bữa. Thêm một bữa nữa thì đã sao? Ấy thế là hắn bước. Hắn bước nhanh nhẹn và vui vẻ. Y như một ông phó mới đi đến một đám mời ăn khao.
Nhưng gần đến hàng mụ Tam, hắn nghe tiếng mụ Tam the thé. Đích là mụ vừa xoắn được một kẻ ăn hàng chịu mất mặt mũi, bây giờ mới thấy. Đen đủi thực. Hắn tần ngần đứng lại. Để nghe ngóng xem sao đã! Chà cái con mụ la sát này thật là chua ngoa. Nó bảo người kia: ăn mà không muốn trả thì ăn này, ăn nọ cho con nó. Miếng ăn là miếng nhục. Thế này thì khó lòng mà nuốt cho trôi được. Hắn thở dài một tiếng, quay trở về… Bây giờ thì những bước đi thẫn thờ hơn. Hắn thấy người mỏi mệt, chân tay rã rời. Đúng là một anh nghiện đến bữa chưa được hút, thỉnh thoảng hắn lại đưa tay che miệng ngáp thật to, như một con trâu nghé ngọ, nước mắt ứa ra òng ọng. Khỏi một rặng tre cao, đến cánh đồng.

 Nắng bừng lên. Nắng mùa thu dìu dịu. Trời thì đẹp. Cánh đồng lúa mởn tươi, run gờn gợn như một làn da quen ủ kín đột nhiên phơi ra gió lạnh. Phong cảnh quyến rũ như một nhan sắc hoàn toàn nảy nở. Chao ôi! Giá hắn không bận nghĩ đến rượu và thịt chó! Giá hắn không khổ sở vì một cái dạ dày ưa đòi hỏi thì hắn đã sung sướng lắm. Nhưng hắn lại thèm rượu và thịt chó mà không được uống rượu, ăn thịt chó. Bởi vậy hắn cho là đời thật đáng buồn. Kiếp người nản lắm. Trời thì cay nghiệt như một bà già thiếu ăn ngay từ lúc còn thơ. Mà cái nắng hanh của mùa thu vô cùng khó chịu. Đầu hắn nghẹo xuống vai. Đôi mắt hắn lim dim. Hắn có vẻ vừa đi vừa ngủ. Hắn đã gần ngủ thật thì một việc bỗng làm hắn đột nhiên tỉnh người.
Ấy là lúc hắn lò dò về đến sân. Hắn đang đi bỗng giật mình. Một con chó đang thiu thiu trong một bụi dong ở đầu sân nhảy choàng ra. Một tí nữa thì đớp vào chân hắn. Hắn nhảy cẫng lên một cái. Và hắn sực nhớ ra rằng nhà hắn có một con chó vện, con chó vện ấy hay trông gà hoá cuốc, nên lắm khi trực đớp cả chân người nhà. Đó là một cái tật không thể tha thứ được. Bởi không ai nuôi chó để nó cắn què chân bao giờ. Ờ, mà lại còn điều này nữa: nuôi mèo hay nuôi chó thì cũng phải tuỳ gia cảnh; nhà giàu nuôi là phải, bởi nhà giàu sợ trộm mà lại nhiều cơm hớt; còn nghèo rớt mồng tơi như nhà hắn, nuôi làm gì?

Giá thử nhà còn trẻ nhỏ, thì nuôi chó cũng còn được việc. Nhưng nhà không còn trẻ nhỏ. Thằng cu con đã lên ba. Nó đã có thể ra vườn được. Hạt gạo năm nay khó chuốc như hạt ngọc. Đến bữa ăn, phải tính đầu để chia cơm. Cứ tình hình ấy, thì phải dở hơi lắm lắm mới nuôi một con chó để chẳng có việc gì cho nó làm… Thế là đủ lắm. Hắn sung sướng vì đã nghĩ ra điều ấy. Hắn gật đầu luôn mấy cái. Rồi hắn đưa mắt nhìn trộm con chó vện. Con chó vện đã lại nằm thiu thiu bên một gốc chuối. Quả thật, nó đã đến ngày tận số. Hắn đi tìm cái thúng. Hắn rón rén đi vòng lại phía sau đuôi con chó… Ập! con chó giật mình đến thót. Nỗi nguy chụp xuống. Nó bị thu gọn trong cái thúng, không còn chỗ mà giãy giụa.
Trong khi ấy, thằng người kêu rối rít:
- Chúng mày ơi! Chúng mày ơi! Tao úp được con chó rồi.
Lũ trẻ con đang nghịch đất, quăng cả những cái bẹ mèo chuối đi, xô đẩy nhau ngã kêu chí choé, và vừa chạy về vừa reo lên:
- Chúng mày ơi! Chúng mày ơi! Thầy úp được con chó rồi!… A ha!
Người cha bảo:
- Chúng mày xúm cả lại đây, đè chặt lấy. Đè thật chặt.
Con Gái, và cu Nhớn, cu Nhỡ, cu Con xúm lại: đứa tì tay, đứa tì chân, đứa ngồi cả lên trôn thúng. Người bố đi tìm gậy để ngáng lên cổ chó mà nhận xuống. Lũ trẻ bắt đầu bàn tán:
- Thầy giết chó, nhỉ?
- Ừ, thầy giết chó để làm thịt chén.
- Thích nhỉ, cu Con nhỉ?
- Thầy cho cả chúng ta ăn thịt chó nhỉ?
- Tao cũng ăn thịt chó.
- Ừ, thầy cho cả mày, cả tao.
- Cả chị Gái…
- Chúng mày có im cả không, chó ra bây giờ thì mất ăn…
*
* *


Người đàn bà ở chợ về. Thị tủm tỉm cười. Thị cười vì nghĩ đến đàn con. Hôm nay, chẳng biết cao hứng thế nào, thị đã mua cho chúng những bốn cây mía lách. Những ba trinh kia đấy, như thế kể đã là nhiều lắm. Cả đội hàng của thị đem đi buổi sáng, bán được vừa sáu xu. Vì đâu lại có sự hoang phí ấy? Có lẽ bởi hôm nay trời mát. Có lẽ bởi thị thương hại thằng cu Con. Mỗi lần mẹ về chợ, cứ nghe tiếng các anh reo là cu Con lại thét lên. Hình như nó sợ các anh chạy ra trước nó. Có khi nó khóc. Có khi mải mốt quá, nó ngã lộn tùng phèo từ trên hè xuống sân. Ấy thế mà mười lần thì đến chín, mẹ nó chỉ chìa cho nó bàn tay không. Người đàn bà, nghĩ đến cái bộ mặt tiu nghỉu của con lúc nào, rỏ nước mắt ra lúc ấy. Trông thương đứt ruột. Nhưng biết làm sao được? Đã đành quà của nó, chỉ một đồng trinh là đủ.

Nhưng không thể đong một hào chín xu rưỡi gạo. Mà cái ngữ tiêu trong nhà thị, mỗi ngày không thể quá hai đồng hào. Vậy có thương con thì để bụng. Còn cái sự mua quà thật khó lòng thay! Nhưng thời tiết có ảnh hưởng đến người ta rất lạ lùng. Hôm nay, người mẹ đáng thương kia thấy dễ chịu trong người. Khí nóng nặng nề của mùa hạ đã tan rồi. Cái rét sắc như dao của mùa đông chưa tới. Trời xanh ngắt. Nắng êm êm. Gió phơi phới trên da, cho người ta cái cảm giác nhẹ nhõm sau khi tắm. Tạo vật hiền hoà lắm. Tạo vật không đè nén và doạ nạt. Người ta tin tưởng vào đời hơn. Người mẹ nghĩ rằng: mát mẻ thế này thì làm việc là một trò chơi. Rồi thị lại nghĩ rằng: nếu mía lách đem đi chợ mà không có người mua thì chẳng ai đem đến chợ.

Ấy thế là thị đánh liều bỏ ra xu rưỡi và chọn lấy bốn cây vừa ngon vừa dài. Chọn xong, thị cũng thấy tiếc tiền. Và trên đường về thị còn lẩn quẩn nghĩ đến xu ruỡi mãi. Nhưng thị lại nghĩ đến thằng cu Con, đến lúc nó sẽ bíu chặt lấy mấy cây mía lách mà cười nấc lên. Vậy thì thị chẳng nên tiếc nữa. Có mất đâu mà tiếc? Con thị nó sẽ ăn vào miệng.

Về đến nhà, thị cảm động quá, hơi run. Môi thị tự nhiên mỉm cười. Nhưng chẳng có đứa nào reo. Chẳng đứa nào trông thấy mẹ. Chúng đi đâu cả? Thị vừa gọi vừa hoảng hốt chạy ra ngoài bờ ao. À! Hú vía… chúng nó đây cả rồi. Nhưng làm gì mà dao, thớt bừa bộn thế?
Thị hơi sửng sốt vì bố chúng nó đang thả một con chó thui xuống nước và cầm một búi rơm kì cọ. Sao lại có sự long trọng ấy? Thị đã toan hỏi nhưng lại nín, vì lại có cả mấy người anh em bạn chồng. À, thôi phải… có lẽ hôm nay là ngày giỗ ông nào, bà nào đây, thị ngây mặt ra, cố nhớ… Hăm nhăm tháng chín… không, mà không phải… Giỗ chạp gì hôm nay? Lửa giận chợt bốc lên ngùn ngụt. Thị thâm tím mặt. Thị biết chẳng phải giỗ chạp gì cả. Vả có giỗ cũng chẳng cần giết chó. Xưa nay có bao giờ phải giết chó mới làm giỗ được? Nhà nghèo, chả bát cơm, bát canh, thượng số vài, ba hào chỉ là đủ lắm.

Gọi là có nhớ đến ông bà tiên tổ cho khỏi tội. Làm gì mà phải linh đình thế? Khốn nạn! Khốn nạn cho thị lắm! Cái số thị chẳng ra gì nên vớ phải một thằng chồng không biết lo, biết nghĩ, chỉ thích ăn, thích uống. Con chó to bằng ấy, lúc này bán đâu không nổi ba đồng bạc? Cả nhà ăn gạo hàng nửa tháng. Ấy thế mà cái môi nó vừa máy lên một cái, nó đã phải đè ra mà giết ngay. Ăn hoang, phá hại. Ăn uống thế, có khác gì ăn thịt con không, hở trời? Thị nghẹn ngào cả cổ. Thị muốn gào thật lớn. Nhưng còn vướng mấy người bạn đây. Thôi cũng đành cắn răng. Nhưng thị không còn sức mà đứng nhìn nó nữa. Thị chạy về nhà bình bịch. Thị quăng thị xuống cái phản gỗ sung đến phịch. Chao ôi là chán nản, thị thấy một nỗi chán nản rời rã xâm lấn người…
Một lúc thật lâu, anh chồng về. Anh vừa lau tay vào vạt áo, vừa tươi cười hỏi:
- Nhà còn gạo không?
- Làm gì mà còn gạo!
- Thế thì làm sao được?
- Muốn làm sao thì làm.
Anh bẽ lắm. Giá phải lúc khác thì anh đã cho cái tát. Nhưng lúc này làm thế có khác gì đuổi bạn. Vả lại chị vợ đang tức tối. Đánh thị, chắc thị sẽ gào lên đến bảy làng nghe thấy. Còn ra quái gì! Anh cũng đành cười gượng mà nịnh nọt cho xong chuyện…
- Bu mày chịu khó đi đong chịu vậy?
- Tôi không rỗi!
Hắn đã lộn tiết lên rồi, không còn nhịn được. Mắt hắn trợn lên. Hắn gườm nhìn vợ một giây, rồi hục hặc:
- Cái giống nhà mày khó bảo!
Mắt người vợ đã rân rấn nước. Hắn biết là hắn thắng. Chỉ cần khéo hơn một chút. Hắn lại xoay ra đấu dịu:
- Cái thứ người đâu mà ngang như cua vậy? Phải biết: tao muốn mất tiền làm gì chứ? Nhưng chết cái ăn của người ta mãi, chẳng lẽ không mời lại người ta một bữa thì cái mặt mình còn ra mặt gì? Nhân tiện con chó nó ăn phải bả hay sao mà chẳng biết, sáng hôm nay cứ rú lên rồi lăn ra giãy chết…
À, ra thế… Thị hơi nguôi lòng một chút. Thật ra thì thị biết không nguôi, không được. Nó cục như chó vậy. Ương với nó, nó thượng cẳng chân, hạ cẳng tay là thường. Thiệt thân. Mà kết cục cũng vẫn phải đủ gạo cho nó thổi. Thị đứng lên, vừa nguýt hắn, vừa lạu bạu:
- Đong mấy hào?
Thế là hắn lại đổi mặt ra tươi cười:
- Thì bu mày liệu đấy. Có ba người khách với tôi là bốn. Với mẹ con nhà mày nữa.
- Mẹ con chúng tôi thì nhịn. Đong chịu chỉ có thể đong đến năm hào là hết đất. Ai bán cho mình hơn?
- Ừ thì đong năm hào. Với bảo mẹ Xuyên bán chịu cho tao chai rượu nữa. Mà cầm cả chai nước mắm đi, mua chịu cho tao một hào.
Bao nhiêu là thứ! Thị rên lên như một người mất cướp. Nhưng nó đã muốn chết thì mặc nó. Thị cứ mua cho nó. Rồi bán gì đi mà trả nợ thì cứ bán. Còn thì ăn, hết thì nhịn. Bố ăn lắm thì con chết đói. Cùng lắm thì bống bế nhau đi ăn mày…
Bây giờ thì mọi thức đã xong rồi. Con chó hơi gầy. Nhưng gầy thì cũng tốt. Hai bát tiết canh đông lắm. Ấy là cái điềm lành báo rằng cuộc vui sẽ hoàn toàn. Những miếng thịt ngon thái tái hộn ngay vào hai cái bát chậu thật to cho khỏi lôi thôi. Vẽ vời đơm vào đĩa hẳn hoi thì biết bằng nào đĩa cho nó xuể? Nồi xáo bốc hơi thơm lựng, chẳng cần múc làm gì cho rếch bát.

Sau khi đã hỏi qua ý khách, chủ nhà định bê cả nồi lên để lúc nào ăn cơm hãy múc ra. Múc ngay vào những bát bây giờ dùng đựng tái. Như vậy, tiện. Chỉ có hai cái bát mà đủ cả. Ăn hết rồi lại múc. Ăn thịt chứ có ăn bát đâu mà cần… Hắn lảm nhảm bênh vực cho cách dự định của hắn như thế mãi, tuy chẳng có ai phản đối. Họ cũng thừa biết cả cửa nhà cơ nghiệp nhà hắn chỉ có hai cái bát chậu ấy thôi. Nhưng có gì. Miễn là được uống rượu sớm hơn một chút. Anh nào anh ấy đói ngấu. Mà cái mùi thịt chó bốc lên thơm vô cùng. Bao nhiêu là nước răng!
Chủ nhân, sau một cái liếm môi rất nhẹn, hất hàm hỏi khách:
- Xong rồi chứ?
- Xong
- Bưng mâm nhé?
- Ừ, làm thì làm!
- Nào, bưng mâm!…
Hắn dang hai chân, khuỳnh hai cánh tay và thè lè cái lưỡi ra như một con chó về mùa nắng. Trông như hắn muốn vần một cái cối đá nhất chứ không phải để bưng một cái mâm bằng gỗ. Nhưng thật ra đó chỉ là một cử chỉ trịnh trọng và sung sướng. Binh Hựu giơ bàn tay trái lên làm trống khẩu, dùng ngón trỏ tay kia làm dùi, ưỡn ngực ra, vừa gõ vừa kêu:
- Tung! Tung!… Tung!
Ấy là cái hiệu trống để cho phu nhắc kiệu lên vai. Chủ nhân ý tứ nâng cái mâm thịt chó lên ngang mặt…
- Tung! Tung!
Thế nghĩa là: Đi! Đi! Và chúng đi. Lũ trẻ, thấy người lớn cũng làm trò như chúng, thích chí cười sằng sặc. Chúng à à tuốn vào nhà trước, như đàn ruồi. Cu Nhỡ trèo lên phản ngồi xếp bằng sẵn. Cu Con trèo không kịp khóc oà lên. Nhưng người bố trợn mắt thật to và quát:
- Những thằng này hỗn! Chỗ chúng mày ngồi đấy à?
Cu Nhỡ cười như mếu, vội vàng tụt xuống. Cu Nhớn lấy thế làm khoái lắm. Nó vừa lêu lêu em, vừa nhạo:
- Xấu! Không ngồi đấy đi!… Xấu! Không ngồi đấy đi…


Nhưng nó cũng cụt hứng ngay. Bố nó quay lại nó:
- Còn mày nữa! Không xách thằng cu Con đi à? Đưa nhau xuống bếp, rồi ăn cơm.
Khi cả ba đứa trẻ đã lụt cụt chạy ra rồi, hắn mới đặt mâm xuống phản, nháy mắt và xếch môi lên để làm cái điệu bộ cười, rồi toang toang bảo như một kẻ cả vẫn đi ăn, đi họp:
- Láo toét! Chỗ này là chỗ quan viên uống rượu. Có phải không, các cụ?
Nhiêu Cừ bẹp mồm ra:
- Bẩm cụ bá dạy thế thật là chí lí.
- Ồ, có chăng thì thế chứ!… Vậy mời quan viên nào!


Ba ông khách ngồi. Chủ nhân chắp hai tay trước ngực, rồi lại đưa tay phải lên đầu gãi, lầm rầm như khấn ông vải về ăn cỗ:
- Bẩm các cụ, chả mấy khi các cụ có lòng chiếu cố đến chơi nhà chúng cháu… Gọi là chén rượu nhạt, xin rước các cụ cứ thật thà đi cho.
- Ờ!
Nghe tiếng “ờ” rất sang rung lên trong cái cổ họng của binh Hựu bắt chước giọng ông chánh Ngạc, cả bốn anh cùng cười. Chủ nhân rót rượu ra hai cái bát. Hai người uống chung một bát. Chúng bắt đầu ăn, uống, tranh nhau nói và cười rung cả mái nhà.
*
* *
Người mẹ rất còm cõi và bốn đứa con gầy ốm, quây quần với nhau trong xó bếp. Trong gia đình này, năm mẹ con thường giống như một bọn dân hèn yếu cùng chung phận con sâu, cái kiến dưới cái ách một ông bạo chúa.
Thấy lũ con đứa nào cũng nhăn nhăn, nhó nhó, người mẹ thương đứt ruột. Thị biết rằng chúng đói. Khi người ta đã đói mà lại ngửi thấy mùi thịt chó, thì bụng càng đói thêm. Thế mà bữa rượu của người bố với ba ông khách cứ kéo dài mãi. Nghĩ mà bực quá! Cái thể không chết được, chứ giá chết được thì thị chỉ thắt cổ mà chết đi cho rồi… Thị dỗ con:
- Cố mà nhịn lúc nữa, các con ạ: Đợi trên nhà ăn xong, còn thừa thì ta ăn.
Rồi muốn cho chúng quên đi, thị sổ tóc ra cho chúng xúm vào bắt chấy. Úi chà! Nhiều chấy quá! Chỉ việc rẽ một đám tóc ra là đủ thấy bốn, năm con bò lổm ngổm. Cái Gái và cu Nhớn, cu Nhỡ thi nhau bắt. Chúng cho cu Con mấy con chấy kềnh làm trâu. Mới đầu cái trò chơi ấy cũng hay hay.

 Nhưng chỉ một lúc là chúng chán. Thằng cu Con ra hiệu đình công trước. Nó lăn vào lòng mẹ, oằn oại vừa hụ hị kêu:
- Đói!… Bu ơi! Đói…
Tức khắc những đứa kia cũng nhớ ra rằng chúng đói. Chúng không bắt chấy cho mẹ nữa. Chúng thở dài. Chúng nuốt bọt nhem nhép. Chúng thừ mặt ra. Chúng nằm ẹp xuống đất và lật áo lên để khoe cái bụng. Bụng đứa nào cũng gần dính lưng.
Mắt thị rơm rớm nước. Cũng may, tiếng người bố trên nhà gọi:
- Cái Gái đâu! Dẹp mâm đi, này!
Bốn đứa trẻ cùng nhỏm dậy: mặt chúng đột nhiên tươi tỉnh lại. Gái “vâng” một tiếng thật to và chạy lên. Cu Nhớn, cu Nhỡ ngồi chồm chỗm đợi… Một lát sau, Gái bê mâm xuống. Nó cũng nâng lên ngang mặt như cha lúc nãy. Các em nó đứng cả lên, chực đu lấy cái mâm. Nó càng nâng cao hơn, mồm thét:
- Khoan! Khoan! Kẻo vỡ…
Cu Nhớn thét:
- Thì bỏ xuống!
Gái vênh mặt lên, trêu nó:
- Không bỏ. Không cho chúng mày ăn.
- Có sợ thành tật không?
- Không cho ăn thật đấy.
Cu Nhỡ sốt ruột, khoặm mặt lại, vằng nhau với chị:
- Làm trò mãi! Có bỏ xuống đây không nào?
Gái hạ nhanh mâm xuống đất, bảo:
- Này, ăn đi.
Nó ngẩng mặt nhìn các em, cười the thé. Người mẹ xịu ngay xuống. Trong mâm, chỉ còn bát không. Thằng cu Con khóc oà lên. Nó lăn ra, chân đập như một người giãy chết, tay cào xé mẹ. Người mẹ đỏ mũi lên và mếu xệch đi, rưng rức khóc. Cái Gái và cu Nhớn, cu Nhỡ cũng khóc theo.

TRÚC QUỲNH * NGƯỜI VIỆT & THỊT CHÓ


Thịt chó: Không chỉ người VN bị "ném đá"
 - Trúc Quỳnh-
 



 Không chỉ người Việt, mà cả người Hàn Quốc, Trung Quốc và nhiều khu vực của Thụy Sĩ cũng ăn thịt chó như Việt Nam, cho dù thói quen này bị nhiều người cho là “mọi rợ”.

Người Hàn Quốc tin rằng ăn thịt chó giúp cơ thể chống lại thời tiết nóng bức trong mùa hè. Vì thế, xứ sở kim chi còn có cả lễ “Bok – Nal”, nghĩa là những ngày ăn thịt chó. Người Hàn Quốc ăn thịt chó quanh năm, nhưng trong dịp Bok-Nal họ ăn nhiều hơn để chống nóng.
Trong những ngày bình thường, người Hàn Quốc không ăn thịt chó thường xuyên vì chi phí khá đắt. Một bữa ăn thịt chó đủ cho 4 người phải tốn ít nhất 1.000 USD.
Khoảng 2,5 triệu con chó ở Hàn Quốc bị giết mỗi năm, mang lại lợi nhuận 2 tỷ USD.
Người Nhật Bản cũng ăn thịt chó, nhưng không phổ biến. Năm 2008, Nhật Bản nhập khẩu 5 tấn thịt chó từ Trung Quốc, nhỏ hơn nhiều so với số lượng hơn 4.700 tấn thịt bò, hơn 14.000 tấn thịt lợn và 116.000 tấn gia cầm. 
Một nhóm bạn trẻ Hàn Quốc tụ tập phản đối hành vi ăn thịt chó
Ăn thịt chó là thói quen có từ hàng ngàn năm trước ở Trung Quốc. Người Trung Quốc cho rằng thịt chó bổ như thuốc, đặc biệt là có tác dụng sinh nhiệt và làm ấm cơ thể trong mùa đông. Ăn thịt chó là thói quen phổ biến ở tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, đến mức thịt chó từng được đưa vào thực đơn cho phi hành gia trong không gian.  
Ăn thịt chó không chỉ có ở châu Á, mà có ở nước phương Tây như Thụy Sĩ. Người Thụy Sĩ thường chế biến thịt chó theo cách cắt thành lát mỏng như giấy, hoặc làm giăm bông hun khói.
Người dân ở vùng Appanzell và St.Gallen của Thụy Sĩ có truyền thống ăn thịt chó, chế biến thành thịt khô, xúc xích hoặc dùng mỡ chó để chữa bệnh. “Thịt chó là bổ dưỡng nhất vì thớ ngắn hơn thịt bò, không có hormone như thịt bê, không có kháng sinh như thịt lợn”, bài báo địa phương trích lời một nông dân địa phương về vấn đề ăn thịt chó.
Tuy nhiên, Thụy Sĩ cấm sản xuất thịt chó trên quy mô công nghiệp.
Tại Mỹ, từ “dog” (chó) được dùng với nghĩa xúc xích từ năm 1884. Nhiều người cho rằng các nhà sản xuất xúc xích đã dùng thịt chó ít nhất từ năm 1845.
Năm 1846, một nhóm nhà thám hiểm Mỹ bị kẹt trong tuyết khi đang di chuyển ở vùng Sierra Nevada đã ăn thịt chó để sống sót.
Tuy chuyện ăn thịt chó xảy ra rải rác trong lịch sử Mỹ từ thế kỷ 19 khi nhiều gia đình thiếu thực phẩm. Nhưng đa số người Mỹ không chấp nhận hành vi này, nên câu chuyện một số gia đình ăn thịt chó ở Ohio và Newark còn bị đưa lên Thời báo New York.
Việc ăn thịt chó ở Indonesia thu hút sự chú ý của người Mỹ, nơi thịt chó bị coi là điều cấm kỵ, trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2012, khi Tổng thống đương nhiệm Obama bị đối thủ tố cáo đã ăn thịt chó cùng bố dượng người Indonesia Lolo Soetoro trong thời gian ông Obama sống ở xứ vạn đảo.
Bắt đầu thay đổi
Vấn đề ăn thịt chó ở Hàn Quốc được cả thế giới chú ý trong những năm gần đây, và nhiều người trẻ ở Hàn Quốc có lối sống gần với phương Tây bắt đầu phản đối truyền thống ăn thịt chó. Bên cạnh đó, nhiều tổ chức bảo vệ quyền động vật còn chọn ngày ăn thịt chó 7/8 của người Hàn Quốc để tụ tập trước cửa các đại sứ quán Hàn Quốc tại London và Mỹ. Họ mang theo chó và nhiều khẩu hiệu để phản đối việc nhốt chó trong chuồng chật hẹt, bẩn thỉu, và giết thịt theo cách thức man rợ.
Tại Trung Quốc, ngày càng nhiều người trẻ hiện nay phản đối thói quen lâu đời này. Ý kiến chỉ trích chủ yếu tập trung vào hành vi nhẫn tâm của con người trước khi giết thịt chó, như việc lột da chó khi chúng vẫn còn sống. Đáng chú ý, hàng loạt sự kiện xảy ra vào năm 2012 góp phần làm tăng nhận thức của người dân về vấn đề này, với việc báo chí địa phương và quốc tế đồng loạt đưa tin về việc cư dân mạng Trung Quốc và cảnh sát  bắt nhiều xe tải chở lồng chó trên đường đưa chúng đi giết thịt ở Trùng Khánh, Côn Minh…
Một nhà hoạt động hóa trang và mang theo khẩu hiệu phản đối hành vi tra tấn,
giết hại chó thô bạo để làm thực phẩm ở Hàn Quốc
Phong trào phản đối ăn thịt chó và mèo được tiếp thêm động lực mới với sự ra đời của Mạng lưới bảo vệ động vật làm bạn (CCAPN), một dự án của Mạng lưới bảo vệ động vật Trung Quốc. Mở rộng tới hơn 40 tổ chức thành viên, CCAPN vào tháng 1/2006 bắt đầu tổ chức hàng loạt cuộc biểu tình rầm rộ để phản đối việc ăn thịt chó và mèo, bắt đầu từ Quảng Châu rồi phát triển ra hơn 10 thành phố.
Trước thế vận hội Olympics 2008, quan chức Bắc Kinh yêu cầu loại thịt chó ra khỏi thực đơn của 112 nhà hàng được lựa chọn phục vụ thế vận hội nhằm tránh làm người nước ngoài tức giận khi đến đây.
Từ tháng 1/2007, ít nhất 10 nhóm hoạt động ở Trung Quốc cùng ký vào cam kết không ăn thịt chó, mèo. Cam kết này nhận được 42.000 chữ ký từ người dân, và được lan truyền khắp đất nước.
Một dự thảo luật đưa ra năm 2010 đề xuất cấm ăn thịt chó. Tuy nhiên, dự luật này được dự đoán là sẽ không hiệu quả ngay cả khi được thông qua. Ngày 26/10/2010, một dự thảo luật được đề xuất để bảo vệ động vật khỏi bị ngược đãi, trong đó quy định người ăn thịt chó phải ngồi tù tới 15 ngày. Trong thực tế, rất nhiều lễ hội ẩm thực vẫn tiếp tục quảng bá món ăn từ thịt chó. Ví dụ, lễ hội ẩm thực Ngọc Lâm, tỉnh Thiểm Tây lần thứ 4 bắt đầu từ ngày 29/5/2011 và kéo dài 10 ngày đã tiêu thụ tới 15.000 con chó.
Khác với các nước có truyền thống ăn thịt chó lâu đời như Hàn Quốc, Trung Quốc hay Việt Nam, ăn thịt chó không phải thói quen của người Thái Lan. Trong những năm gần đây, tại một số khu vực của Thái Lan, đặc biệt là các tỉnh đông bắc như Sakon Nakhon và Nakhon Phanom (địa điểm buôn bán chó phi pháp lớn nhất đất nước), người dân không chỉ ăn thịt chó mà còn bán chó sang các nước láng giềng gồm Lào, Việt Nam và Trung Quốc.
Nhiều người phản đối ăn thịt chó vì cảnh giết thịt quá dã man
Báo chí Thái Lan cho biết khá nhiều chó bị bắt trộm để bán qua biên giới. Coi đây là “ngành thương mại hổ thẹn”, nhiều cư dân mạng Thái Lan đã lập nên một số mạng lưới cứu hộ và bảo vệ chó nhằm ngăn chặn tình trạng buôn bán trái phép, với khẩu hiệu “Chó không phải thực phẩm”.
Những tổ chức phi lợi nhuận như Soi Dog Foundation đang hoạt động tích cực để nâng cao nhận thức và làm việc với cơ quan chức năng Thái Lan để cứu hộ chó bị chở trên nhiều xe tải qua biên giới sang các nước láng giềng. Các tổ chức này cũng tiếp tục kêu gọi chính phủ Thái Lan ban hành luật chặt chẽ hơn, toàn diện hơn để ngăn chặn sự đối xử thô bạo với động vật.
Từ năm 1950, Hong Kong (Trung Quốc) ra pháp lệnh cấm giết chó mèo làm thực phẩm cho con người hoặc bất kỳ động vật nào. Tháng 12/2006, bốn người đàn ông địa phương phải ngồi tù 30 ngày vì giết thịt 2 con chó. Năm 1998, một người Hong Kong bị phạt tù 1 tháng và phạt 2.000 đô-la Hong Kong vì tội đuổi bắt chó trên phố để giết thịt.
Năm 2001, chính quyền Đài Loan (Trung Quốc ) ra lệnh cấm bán thịt chó vì áp lực từ các nhóm hoạt động vì quyền động vật và cũng muốn cải thiện hình ảnh trong mắt cộng đồng quốc tế. Dù bị cấm, việc giết và bán thịt đôi lúc vẫn diễn ra trong một số nhà hàng ở Đài Loan vì nhiều người tin rằng thịt chó tốt cho sức khỏe, làm tăng tuần hoàn máu và làm ấm cơ thể. Năm 2007, chính quyền thông qua luật cho phép phạt người bán thịt chó hơn 7.700 USD.
Trúc Quỳnh (tổng hợp)

VÕ ĐỨC TRUNG * ĐẦU NĂM TUẤT NÓI CHUYỆN CẦY


 Đầu Năm Tuất , dong dài vài chuyện về Chó

- Võ đức Trung -
 


      Con Chó là con vật được người Việt Nam nói riêng và khắp nơi trên thế giới nuôi trong nhà với nhiệm vụ trông nom giữ nhà cửa tài sản cũng như bảo vệ cá nhân và những thành viên trong gia đình họ, trước những nghịch cảnh mà họ có thể bất thình lình gặp phải. Gần đây, trước sự biến đổi trầm trọng của thế giới về kinh tế, chánh trị và xã hội, người ta còn xem Chó như một người bạn đời thân thương, luôn chia xẻ trong cuộc sống phức tạp hằng ngày của họ, nhứt là đối với những người lớn tuổi, vì một hoàn cảnh oái oăm nào đó buộc lòng phải chấp nhận sống cô đơn cô độc. Vì vậy họ xem Chó như một thành phần ruột thịt, khắng khít tình cảm trong sáng để bù đắp vào chỗ thiếu vắng tình thương của họ.
Con Chó đương nhiên được họ đánh giá như một con người, tuy không biết nói nhưng vẫn biết cảm thông và an ủi họ trong những tháng ngày còn lại ở tuổi ướm rụng, bóng xế trăng lu. Đó là trường hợp của những người lớn tuổi phải hiện diện trên cõi đời phiền toái lắm chuyện nầy để đi tiếp chặn đường cuối cùng theo luật bất biến của Tạo Hóa. Còn đối với lớp trẻ, nhứt là những bực trưởng giả sang giàu, dư ăn dư của, Chó được tiếp nhận, nuôi nấng tâng tiu như một món quà giải trí, được săn sóc còn hơn con người, nếu ta so sánh với những sinh mạng bất hạnh mà định mệnh đặt để phải sống ở các nước nghèo khổ đói rách và nhứt là ở các nước còn đang bị kềm kẹp bởi chế độ độc tài chuyên chính vô sản.
Một đặc tính nổi bật nhứt nơi con Chó là tính trung hậu, trước sau thể hiện nghĩa tình đối với chủ, cho dù ở vào hoàn cảnh nào, cho dù phải đối đầu với một tình huống bất lợi nào. Chó không có sự lựa chọn người chủ nuôi nấng nó. Nó đến với họ không phân biệt giai tầng trong xã hội, không phân biệt sang giàu nghèo khó. Dù nghèo khó đến đâu, sống khổ sở như chủ nó, ăn không đủ no, đôi khi còn bị bỏ đói nhiều ngày… nhưng nó vẫn một mực trung thành sống với chủ, không bao giờ bỏ chủ tìm sống nơi khác. Do vậy trong dân gian Việt Nam còn truyền tụng câu: “Con không chê mẹ khó, Chó chẳng chê chủ nghèo“.
Trong kho tàng văn chương dân gian, tục ngữ, ca dao, thành ngữ… còn lưu lại trong chúng ta biết bao hình ảnh về Chó không sao kể cho xiết. Chúng tôi xin nhắc nơi đây vài mẫu chuyện nhằm giúp vui độc giả nhân dịp xuân về.
Đồng bào Việt Nam thường hay dùng thành ngữ “Khuyển Mã“ – chó ngựa – để nói lên hai con vật rất trung tín và có nghĩa với chủ. “Nghĩa Khuyển“ đã được thăng hoa trong rất nhiều tình huống trái ngang rất cảm động, trực tiếp đánh động dài lâu lòng người. Người ta cũng thường nói “làm thân khuyển mã“ ý nói những bầy tôi đối với giới vua chúa hay tôi tớ trong nhà ăn ở rất mực trung hậu với chủ.

Trong Tự Tình Khúc của Cao Bá Nhạ thuộc dòng dõi của cụ Cao Bá Quát. Sau khi cụ Cao Bá Quát vì can tội chống lại triều đình nên bị kết án tử hình. Cả dòng họ Cao đều bị truy lùng ngặt nghèo để tiêu diệt. Cụ Cao Bá Nhạ may mắn trốn thoát nhưng phải cải danh tánh và bỏ xứ ra đi sinh sống nơi khác nhằm đánh lạc hướng triều đình. Nhưng không ngờ về sau có người biết chuyện tố cáo nên cụ bị chính quyền bắt và giam giữ trong ngục thất. Chính nơi nầy ông viết Tình Khúc để trang trải lòng mình trong đó có câu:
“Giải được lòng khuyển mã mới là vinh (?)“.
Trong Nhị Độ Mai (tức hoa mai nở hai lần) là một tác phẩm viết bằng chữ nôm theo thể lục bát có tánh cách luân lý, nội dung khuyên con người nên ăn ở theo đúng đạo lý trong sáng của Thánh Hiền, nêu những tấm gương trung hiếu, tiết nghĩa làm lẽ sống. Trong truyện có câu:
“Đem lòng khuyển mã đền nghì bể sông“.
Thêm một câu khác cũng thường hay dùng: “Làm người thì khó, làm Chó thì dễ“. Câu nầy có ý nói làm người thì phải có nhiều bổn phận, bổn phận đối với gia đình, xã hội và bổn phận đối với chính bản thân của mình. Mà để làm tròn bổn phận nói trên, con người phải trải qua lắm lao tâm khổ trí, phải phấn đấu thường xuyên để hoàn thành bổn phận khó khăn đầy thử thách mình trải qua, nhứt là phải biết phân biệt trắng đen, phải trái, tốt xấu... Nếu con người mà buông trôi theo thú tính, không ý thức và hành động theo đúng bổn phận làm người của mình qua ý nghĩa thiêng liêng cao quí thì không khác gì một con vật, một con Chó.
Trong ca dao còn có những câu rất dễ thương, từng trường hợp phản ánh một ý nghĩa thâm trầm:
“Nhà em có bụi  mía rừng
Có con Chó giữ, anh đừng có vô.
“Gái đâu có gái lạ lùng
Chồng chẳng nằm cùng
Nổi giận đùng đùng ném Chó xuống ao.
“Cám rang tôi để cối xay
Hễ Chó ăn hết thì mày với ông.
Chúng ta đã từng biết những đức tánh trung hậu nghĩa tình của con Chó. Nhưng thực tế trong quảng đại quần chúng có nhiều sự bất công vô tình hay cố ý đối với nó. Chúng ra thường nghe đồng bào xa xôi xỉa xói: “đồ Chó má“, “Chó chết“, “ngu như Chó“, “đồ ăn ruột cùn Chó“, “Chó hoang“, “Chó phản chủ“, “Chó sủa ma“… Thật tội nghiệp cho con Chó bị “hàm oan“. Chó nào có sủa ma bao giờ đâu. Một khi nó cất tiếng lên là phải có lý do:
Chó đâu có sủa lỗ không
Chẳng cha ăn trộm, cũng ông ăn mày.
Thôi, chúng ta hãy gát qua một bên những chuyện khen chê thương ghét thường tình nầy trong xã hội để lắng lòng trôi về một khúc quanh nhức nhối, đau buồn nhứt của quá khứ, của dòng sử mệnh. Việc nầy nhằm nhắc nhớ và thăng hoa nền văn chương đấu tranh của dân tộc, tượng trưng bởi lớp sĩ phu ái quốc, lớp người được xem như dẫn dắt dư luận trong công cuộc chống Pháp xâm lăng.
1867, Nam Kỳ Lục Tỉnh rơi vào tay giặc Pháp. Kinh Lược Sứ Phan Thanh Giản (1796-1867), người tỉnh Vĩnh Long, xét thấy bất lực trước kẻ thù ngoại xâm hung hãn và để bảo tồn toàn vẹn sinh mạng của binh sĩ và thứ dân thuộc quyền nên quyết định tuyệt thực. Sau đó, cụ uống thuốc độc tự tử không để rơi vào tay quân Pháp, nguyện giữ tròn tiết tháo đối với vua và đối với dân.
1882, Hà Thành thất thủ. Tổng Đốc Hà Ninh hàm Thượng Thư Bộ Binh cụ Hoàng Diệu (1828- 1882) người tỉnh Quảng Nam, đứng trước sự tấn công vũ bão của Pháp và sự tan rã bỏ ngũ của quân binh dưới quyền mình nên khẳng khái, ngẩng cao đầu thắt cổ tự tử chết theo thành, đền nợ nước ơn vua.
Kể từ đó, nước Việt Nam kể như hoàn toàn bị đặt dưới quyền thống trị của Pháp kéo dài ngót một trăm năm, mãi cho đến năm 1945 toàn dân khắp cả nước, không phân biệt gái trai già trẻ, tôn giáo, đảng phái hay giai tầng trong xã hội đều quyết tâm đồng thanh đứng lên giành độc lập và tự do cho nước nhà. Trong thời gian dài gần một thế kỷ, ngọn lửa đấu tranh không hề tàn lụn, trái lại vẫn còn âm ỉ sục sôi đó đây trong lòng người dân từ Nam chí Bắc. Bao nhiêu từng lớp sĩ phu yêu nước qua các phong trào đấu tranh đã liên tục và kiên cường đứng lên chống lại kẻ thù chung. Lịch sử đã ghi lại biết bao thành tích hiển hách làm nên một thời với những hy sinh cao cả lẫm liệt, vang dội mãi mãi trong lòng các thế hệ về sau.
Hôm nay, nhân năm Mậu Tuất 2018, chúng tôi xin ghi vội một vài hình ảnh của con Chó trong thi văn đấu tranh nầy của giới sĩ phu khoa bảng để nói lên ý chí bất khuất và tấm lòng thiết tha thương dân mến nước trước cảnh quốc phá gia vong, vận nước suy đồi mà triều đình vốn “bế quan tỏa cảng“, không theo kịp trào lưu tiến hóa để canh tân xứ sở kịp lúc kịp thời nên có tinh thần chủ bại buông xuôi. Vũ khí của họ lúc bấy giờ không phải là súng đạn, giáo gươm kiếm cung mà chính là thi văn thơ phú. Một thứ vũ khí vẫn sắt bén, vẫn hữu hiệu nhằm đánh động, vực dậy trách nhiệm tiềm ẩn trong lòng người dân còn có chút lương tâm đối với tiền đồ đất nước.

Lãnh đạo Việt Cộng phè phỡn 'đại tiệc" mừng " Mậu Thân"
Ngoài Bắc phải kể đến cụ Từ Diễn Đồng, người quê quán tỉnh Hà Đông, thi đổ tú tài nhưng không chịu ra làm quan. Cụ quyết định sống ẩn dật, ở nhà mở trường dạy học và đồng thời hành nghề bốc thuốc cứu nhân độ thế. Tính khí khái và với tấm lòng ái quốc nên cụ dùng văn thơ làm vũ khí chống lại bọn thống trị Pháp cùng những nhân vật theo tân trào, cúi đầu làm tay sai khuyển mã cho giặc. Cụ từng kích động đồng bào đứng lên diệt giặc trả thù nhà. Tình cảm và tâm chí của cụ được diễn tả tròn đầy qua bài thơ thất ngôn bát cú dưới đây:
Đêm sao đêm mãi tối mò mò
Đêm đến bao giờ mới sáng cho?
Con trẻ u ơ chừng muốn dậy
Ông già  húng  hắng vẫn còn ho
Ngọn đèn giữ trộm khêu còn bé
Tiếng Chó nghi người cắn vẫn to
Làng xóm láng giềng ai đã dậy
Dậy thì lên tiếng gọi nhà nho.
Đi lần vào miền Trung, chúng ta bắt gặp cụ Lê Văn Quyên (1859-1917) một Thủ lĩnh Nghĩa quân chống Pháp ở Nghệ Tĩnh. Cụ là người quê tỉnh Hà Tĩnh được biết từng nổi tiếng hợp tác với chí sĩ Phan Đình Phùng (1844-1895) và anh hùng Cao Thắng (1865-1893) phất cao ngọn cờ chống xâm lăng. Sau khi chiến khu Hương Sơn thất bại và hai cụ Cao Thắng và Phan Đình Phùng, người thì anh dũng tử thương nơi chiến trường, người thì mất vì mang trọng bệnh, nhưng cụ Lê Văn Quyên vẫn tiếp tục hoạt động chống kẻ thù chung của Tổ Quốc. Nhưng hỡi ơi, cuối cùng cụ bị Pháp truy lùng ngày càng siết chặt, khó thoát khỏi vòng vây nên cụ cam đành tự sát để khỏi rơi vào tay giặc. Theo các ông Nguyễn Bá Thế và Nguyễn Q. Thắng trong Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam thì cụ còn lưu lại hậu thế một bài thơ gởi bọn tay sai ngoại bang:
Trong cuộc hơn thua há chịu ai
Giống nòi Hồng Lạc thiếu chi người
Tấc gươm trung nghĩa cầm ngang dạ
Một gánh giang san chất nặng vai
Tình thế hùm thiêng còn dấu gót
Ai ngờ lũ Chó khéo tìm hơn
Phen nầy chẳng khuất thằng Tây nữa
Quyết phá tung ra đứng giữa trời.
Một nhân vật nữa cũng ở miền Trung là cụ Hoàng Quì, tục gọi là Tú Quì, người tỉnh Quảng Nam vang danh một thời. Cụ thi đổ tú tài rất trẻ mới 19 tuổi. Khi Pháp chiếm nước ta, cụ từ chối không chịu ra làm quan mà chỉ chú tâm vào việc dạy học nâng cao dân trí giúp đời. Cụ từng đả kích những nhân vật đương thời, bọn sâu dân mọt nước, cường hào ác bá cơ hội chủ nghĩa làm vẩn đục hồn thiêng sông núi, bôi nhọ ông cha. Cụ có bài thơ Nước Lụt như sau:
Mưa từng chập, gió từng hồi
Ngoảnh lại giang san ngập cả rồi
Lũ kiến bất tài đeo ngọn gió
Chòm rêu vô lực đóng bèo trôi
Linh lang vườn rộng nghe chim hót
Lỏng khỏng giường cao thấy Chó ngồi
Thương bấy hạ dân sao xiết kể
Nào ông Hạ, Vũ để đâu rồi!
Đến đây chúng ta xin đặt chân vào cuộc đất mới Nam Kỳ Lục Tỉnh để được đồng cảm với một thiên tài hiếm hoi thời bấy giờ mà lịch sử mãi mãi còn ghi danh. Đó là cụ PhanVăn Trị. Vì là người tích cực chống Pháp nên không được người đương thời ghi rõ năm sinh và năm mất. Có lẽ do họ sợ bị liên lụy, vạ lây chăng? Chỉ biết cụ sinh quán tại tỉnh Vĩnh Long, từng thi đậu cử nhân năm 1849. Vì thế trong dân gian Miền Nam gọi cụ là Cử Trị. Cụ tiêu biểu là một nhà nho tiết tháo, yêu nước, dùng thơ văn diễn tả nỗi đau của mình trước cảnh đất nước ngửa nghiêng, vận nước suy vong. Nhưng cụ nổi tiếng nhứt là mạnh dạng khẳng khái đứng lên đả kích hạng người mang danh là nho sĩ nhưng không giữ tròn đạo nghĩa, hèn hạ đê hèn chạy theo tân trào vì danh vọng chức tước hão huyền và tiền tài vật chất. Đặc biệt cụ đã để lại hậu thế cuộc bút chiến hực lửa đấu tranh lưu danh lịch sử. Đó là cuộc bút chiến giữa cụ và đốc phủ Tôn Thọ Tường qua Mười Bài Liên Hoàn và Cảm Hoài.
Như vầy trung nghĩa bấy lâu nay
Dầu những người xưa cũng sánh tày
Trướng vải lai rai cơn gió thổi
Cảnh thu hiu hắt hạt mưa bay
Sông sâu sóng ngả thuyền câu dập
Đồng rộng hùm sa lũ Chó vây
Kìa nước, nọ non cờ cuộc thế
Đầy vơi, tròn khuyết có sai rầy.
Một nhân vật khác là cụ Mai Đằng Phương tục gọi là Nhiêu Phang. Cụ là người quê ở Mỹ Tho thuộc tỉnh Định Tường. Cụ cũng là một nhà ái quốc, đau lòng khi đứng trước cảnh nước nhà bị quân Pháp xâm lăng. Là một nhà thức thời, cụ luôn giữ tiết tháo của một kẻ sĩ nên dứt khoát không chịu hợp tác với tân trào, mặc dù Pháp đã từng phái người thân tính đến thuyết phục cụ về hợp tác để hưởng quyền cao chức trọng. Cụ vẫn giữ một mực thoái thoát trước sau như nhứt, trái lại cam đành sống trong cảnh thanh bần trong sạch giữ tiếng thơm khí khái trong lịch sử. Cụ có làm bài thơ nhan đề Con Chó ý lời sâu sắc đanh thép:
Ban đêm ai nấy ngủ tư bề
Can cớ chi mà sủa tía lia?
Láu quáu chẳng cho hồn điệp nghỉ
Lừ ngừ không để giấc hòe  mê
Một là giận kẻ say về tối
Hai nữa ghét người thức học khuya!
Trời đất xui ta làm đặng chủ
Mượn đao Phàn Khoái giết không ghê.

“Con Chó“ của cụ Mai Đằng Phương dẫn dắt chúng tôi thưởng thức bài “Con Chó Già“ sau đây:

Tuy rằng muông cẩu có ơn ba
Răng rụng lâu năm nó phải già
Bởi đuổi hưu Tần nên mỏi gối
Vì lo khỉ sợ mới dun ra
Không ai trấn Bắc ngăn bầy cáo
Ít kẻ ngừa Tây giữ đứa tà
Mạnh mẻ như xưa còn hớn hở
Bây giờ yếu đuối hết xông pha.
Tương truyền bài thi nầy của cụ Huỳnh Mẫn Đạt, người quê ở tỉnh Gia Định. Cụ thi đổ cử nhân, từng giữ chức tuần vũ tỉnh Hà Tiên. Đến khi quân xâm lăng Pháp xâm chiếm trọn vẹn đất Nam Kỳ Lục Tỉnh, cụ ngán ngẩm chán chường nên cáo quan về sống cuộc đời ẩn dật ở đất Hà Tiên và mất tại Rạch Giá. Với một tâm hồn phóng khoáng, khí tiết thanh cao, cụ giao du thân mật với những bậc sĩ phu nổi tiếng chống Pháp, biết trọng nho phong sĩ khí của những nhà ái quốc vang lừng trong lịch sự dựng nước và giữ nước. Đứng trước cảnh nước mất nhà tan, hơn nữa đã luống tuổi nên cụ dùng văn thơ bộc lộ tâm sự ngậm hờn nuốt tủi của mình trước giặc Pháp như một bầy lang lũ sói.
Để được đầy đủ hơn khi nhắc đến những bài thơ về Chó, chúng tôi không quên bài “Con Chó Đá“ của vua Lê Thánh Tông (1460-1497) như sau:
Quyền trọng ơn trên trấn cõi ngoài
Cửa nghiêm chem chém một mình ngồi
Quản bao sương tuyết nào chi kể
Khéo dữ cao lương cũng chẳng nài
Mặc khách thị phi giương tráo mắt
Những lời trần tục biếng vào tai
Một lòng thờ chúa nghìn cân nặng
Bền vững ai lay cũng chẳng dời.
Gần đây hơn, chúng ta không thể không nhắc đến một nhân vật lừng lẫy từng chọc trời khuấy nước vang danh một thời. Đó là thi bá Cao Bá Quát. Cụ có hiệu là Chu Thần, sinh quán ở tỉnh Bắc Ninh. Cụ nổi tiếng trong giới thi văn thơ phú là có “giọng văn hùng hồn, ý tứ mạnh mẻ, thường phô diễn ý chí ngang tàng của bậc tài hoa“. Do tánh tình ngạo mạn, khinh miệt triều đình thái quá nên năm 1854 cụ bị đổi đến tỉnh Sơn Tây, ngày xa xưa nổi tiếng đèo heo hút gió. Bất đắc chí cụ nổi lên chống lại triều đình với tâm trạng một người buồn chán thế sự và tình người. Có lúc cụ thốt lên tâm sự mình qua hai câu đối:
Nhà trống ba gian một thầy, một cô, một con Chó cái
Học trò dăm đứa nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi.
Do chống lại triều đình cụ bị bắt và bị triều đình tuyên án xử chém. Tương truyền khi bị thọ hình cụ chẳng khiếp sợ và ngâm vang lên:
Một chiếc cùm liêm chân có đế
Ba vòng xích sắt bước thì vương.

Có nơi ghi:

Ba hồi trống giục mồ cha kiếp
Một nhác gươm đưa bỏ mẹ đời.
Thêm một nhân vật tiếng tăm không kém là nhà thơ núi Tản sông Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939). Cụ được người đương thời biết qua bút hiệu Tản Đà, tác giả Khối Tình Con, Lên Tám, Đài Gương, Giấc Mộng Con… Thất bại nhiều lần trong cuộc sống, cụ trở nên nghèo xơ xác:
Như tớ xưa nay vốn vẫn nghèo
Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu
Quanh năm luống những lo văn ế
Thân thế xem thua chú hát chèo.
Trong những năm cuối cùng trong đời, cụ đã phải chịu đựng bao cảnh túng quẩn cực kỳ ngặc nghèo. Tuy lăn thân bương chải vất vả vào Nam ra Bắc nhiều lần để viết thuê viết mướn… nhưng cuối cùng cũng túng thiếu, thậm chí quá tức mình cụ đem văn lên bán ‘Chợ Trời‘:
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng tiền thật rất khó.
Về sau tâm trạng và hoàn cảnh của cụ được nhà văn nhà báoNguyễn Vỹ (1912-1947) đồng tình cảm thông nói lên những khó khăn nan giải của nghiệp văn chương chữ nghĩa. Cụ Nguyễn Vỹ nguyên quán tỉnh Quảng Ngãi từng hoạt động chống Pháp và từng cộng tác với các báo Tiếng Dân, Văn Học tạp chí, L’Ami du Peuple… Cụ có chủ trương nhật báo Dân Ta, tạp chí Phổ Thông, tuần báo Bông Lúa… Cụ mất năm 1947 trong một tai nạn lưu thông tại Tân An. Cụ là tác giả Người Yêu Của Hoàng Thượng, Hai Thiêng Liêng, Tuấn Chàng Trai Nước Việt, Văn Thi Sĩ Tiền Chiến… Cụ than thở những dòng để đời cho hậu thế sau đây:
Mỗi lần cầm bút nói văn chương
Nhìn đàn Chó đói gặm trơ xương
Và nhìn chúng mình hì hục viết
Suốt mấy năm trời kiết vẫn kiết
Mà thương cho tôi thương cho anh
Đã rụng bao nhiêu mớ tóc xanh.
Tôi có một người em kết nghĩa tình cờ gặp nhau nơi mảnh đất lưu vong nhức nhói. Nó là một cựu quân nhân thuộc loại lính mới tò te thuộc binh chủng Nhảy Dù lừng lẫy. Một đặc điểm là nó tình nguyện đầu quân rất sớm ở tuổi chưa trưởng thành. Nó từng hãnh diện kể cho tôi nghe nó đã tham gia cùng đơn vị của nó trong chiến dịch tái chiếm Cổ thành Quảng Trị. Hôm nay nhân ngày vui chung của dân tộc, chúng tôi xin được ghi lại tâm tình của nó, trước giúp bạn độc thân thương của TinParis đôi phút ôn cố có ý nghĩa và cũng để cùng chung tưởng tiếc ngậm ngùi.
Đường đi Quảng Trị:
“Mười giờ sáng trước khi lên xe GMC chuẩn bị chiếc trước nối đuôi chiếc sau nhộn nhịp khởi hành, trong số rất nhiều người trai gái lớn nhỏ chen lấn tranh giành nhau buôn bán đủ mọi thứ bánh ăn dân gian, nước ngọt và trái cây, mía ghim… có một em gái tuổi độ ‘cặp kê’ đang cầm lưỡi liềm đi ngang qua đó. Trong đám lính tụi em có một đứa róng mắc nghịch ngợm đùa vui, chọc yêu em gái như sau:
- O đi mô vội rứa?
“Em gái vừa đi không cần ngoái nhìn lại phía sau, vừa vui vẻ tự nhiên trả lời, không một chút ngần ngại:
- Em đi “c… lỏ” anh ơi!
“Một cái cười rần rần ầm vang lên kéo theo đó đây vài câu phê phán lẻ tẻ giải thích theo kiểu trời ơi đất hỡi của đám bạt mạng buông cương trời đánh thánh đâm làm cho cô ta sượng mặt, e lệ khép nép thấy rõ trong chiếc nón lá sẫm màu năm tháng. Thật tội nghiệp cho cô làm sao! Cô gái chơn quê trong trắng chỉ còn biết nghiêng nhanh vành nón che mặt thẹn thùng.
“Cũng may, có anh lính khác trong đoàn đỡ lời như muốn thanh minh thanh nga hộ cho cô gái quê mùa, mới nói:
- Các ông quá quắc lắm, lúc nào cũng nghĩ tới những chuyện thường tình phòng the chăn gối. Bộ thiếu bóng đàn bà rồi đâm ra sàm sỡ hay sao. Nhưng nhằm to rồi đó các ông thần nước mặn ơi! Em gái dễ thương ấy nói là đi ‘cắt lọ’. Mà ở nhiều tỉnh thuộc vùng đất miền Trung nầy, người ta nói giọng địa phương rất nặng tai khó nghe, đi “cắt lọ” là đi “cắt lúa” ở miền Nam mình đó. Các ông đừng có hiểu lầm! Đừng có nghĩ tầm bậy tầm bạ không nên, làm tổn thương người hiền lành lương thiện. Người ta là ‘con gái’ mới lớn nheo nhẻo, nào có biết gì đâu?
“Sau đó, đoàn xe được cấp trên cho lệnh lăn bánh. Toàn bộ Tiểu đoàn khởi hành lên đường đúng giờ giấc ấn định và đến năm giờ chiều mới tới đầu cây cầu Mỹ Chánh rồi ngừng lại tại đây nghỉ ngơi điều chỉnh lệnh lạc trong hàng ngũ đúng một tiếng đồng hồ chẵn chòi. Thì giờ lúc nầy đối với tụi em quý báu lắm nên em quan tâm để ý từng phút một.
“Và từ đây đi đến thành phố Quảng Trị, chúng em phải đi thúc hối đúng ba đêm liền. Không có chuyện đi ban ngày như anh tưởng đâu. Chắc ông đơn vị trưởng của em sợ bị lộ đội hình chăng? Mình đi lấy lại của cải của mình, những gì mình đã bị bọn gian manh hiệp đảng, đồ tể đá cá lăn dưa cộng sản cướp đoạt mà y như là mình đi ăn cắp ăn trộm vậy anh à. Phải đi trong đêm, đi trong âm thầm như trốn lánh. Anh nghĩ xem có thấy tức tối và phi lý hay không?
“Em là một trong những thành viên của toán khinh binh ngay từ khi được bổ sung về đơn vị như định mệnh đã an bài, dù có chạy trời cũng không tránh khỏi nắng. Mà đã là khinh binh thì theo nguyên tắc sắp xếp công bình của truyền thống đại đội được áp dụng từ trước, cứ lần lượt thay phiên nhau, hoặc mình đi đầu, hoặc là người thứ hai hay thứ ba… Rồi cứ tiếp tục trở lại từ đầu khi dứt người cuối cùng. Không có trường hợp nào khác để tránh gây mất đoàn kết, làm tổn thương trầm trọng tình cảm trong sáng ‘huynh đệ chi binh’.
“Bắt đầu sáu giờ chiều, qua cây cầu Mỹ Chánh bằng phao. Nhiêu khê khổ ải lắm. Vô cùng vất vả khó tả nên lời. Tụi em phân chia cứ bốn người một phao tiếp nối nhau suốt đêm đó. Dĩ nhiên đi có một lai. Đến cây cầu Hải Lăng hư hao 100%, chỉ còn lại trơ vơ ngả nghiêng một số cọng sắt rĩ của cột cầu, làm chỗ đậu của chim cò vô tư nhàn nhã.
“Trông cảnh đổ vỡ điêu tàn của đất nước, em cảm thấy buồn buồn trong lòng, nhưng vẫn cố đè nén mong chóng quên. Tụi em mỗi đứa đều cà nắt cà nắt tiến lên, đến hừng sáng mới lọt hết qua cầu, tấp vào một bìa làng để nghỉ ngơi chờ Tiểu đoàn 11 Dù đến.
“Buổi sáng, sau hai đêm di chuyển, tụi em đến đầu cây cầu thứ ba (cây cầu nầy cũng không còn nguyên vẹn nhưng em không còn nhớ tên). Đến đây, tụi em được lệnh tạm dừng nghỉ theo đội hình vì phải chuẩn bị đi băng qua một cánh đồng rộng mênh mông mút chỉ cà tha. Mà quan trọng và nguy hiểm hơn hết là mình đã lộ hình, do đó tuyệt đối phải cảnh giác tối đa để kịp thời ứng phó đúng lúc.
“Vào mùa hè nắng cháy bỏng da rát cổ, con suối nhỏ nằm ngay phía dưới chân cầu đã cạn nước khô queo, em thấy dòng suối lồi lõm sỏi đá và cát mịn một màu vàng đồng nhứt thật đẹp mắt. Chúng em được lệnh cấp trên phân chia nhau đi tìm nước uống. Tụi em thường mang theo mình mỗi đứa hai bình toong. Trước mặt tụi em độ khoảng một trăm năm mươi thước là cùng có một cái ao khá lớn. Chưa kịp mừng vui thì em đành thất vọng. Một sự thất vọng hiện rõ rành rành trên gương mặt mỗi đứa tụi em qua những hơi thở dài chán nản hay những câu tiêng tiếc trách mốc bâng quơ nhẹ nhàng. Vì mình đâu biết trách mốc ai? Mà trách mốc có ích lợi gì!
“Ngặt một cái là có ba con trâu đen ngòm đang thoải mái nằm chỏng ở dưới, quậy nước đục ngầu. Chúng nó im lặng, vô tư lự ngước nhìn tụi em trân trân. Chúng coi đời chẳng ra cái thớ gì cả. Có con còn nghểnh cổ nghinh nghinh như thách thức tụi em nữa. Nghĩ có tức không? Nhìn nó thấy phát ghét muốn chửi thề một tiếng cho đã miệng, nhưng nghĩ kỹ nó là con thú, có thù hận gì với mình mà ghét nó. Dù sao, tụi em cũng phải mang nước về uống bằng mọi giá. Mình đang khát mà anh, thời giờ lại thúc bách mình thêm, không thể chần chờ, chọn lựa khen chê. Nhưng trời sanh trời dưỡng, cũng nhờ có cho thêm thuốc lọc vào nên uống chẳng sao cả.
“Em và khinh binh ‘bé Hiệp’ đặt chưn trèo lên cầu trước hơn đơn vị. Nơi đây em xin nói đôi dòng về ‘Bé Hiệp‘. Số là hôm đó, người bạn khinh binh đi đầu chẳng may bị tử thương trong đợt những tiếng súng khai hỏa đầu tiên của địch quân. Anh thấy chiến sĩ của mình chết sống trong một phút giây ngắn ngủi, bỏ lại vợ con, cha mẹ và người thân cật ruột bơ vơ giữa chợ đời chập chùng ngang trái nhiễu nhương. Không hiểu sao lần nầy tụi Việt cộng có lẽ bất ngờ quá nên khai hỏa phần đầu và lộ ra nên bị máy bay F5 đánh bom tới tắp. Và khi tiểu đoàn xung phong đồng loạt tiến lên nhận thấy đến khoảng 70% tụi nó nát thây nằm ngổn ngang tại hầm hố cũng kiên cố lắm.
“Riêng ‘bé Hiệp‘, khó khăn lắm mới cỏng được xác chiến hữu tử thương của mình về đến hậu cứ an toàn. Tình đồng đội thương yêu gắn bó thể hiện sáng trưng, không hề bỏ người đồng ngũ. Anh thấy đó, với thân hình mảnh khảnh ốm yếu của nó, nó thành công cỏng được xác bạn như vậy thật đáng thán phục và ngưỡng mộ vô cùng, nhứt là sau những giờ phút mệt mỏi kiệt quệ đối đầu với giặc dữ.
“Do vậy ngay ngày hôm sau, nó được đơn vị trưởng tưởng thưởng xứng đáng, cấp cho nó một phép đặc biệt bốn ngày, thêm hai ngày đi đường, tổng cộng là sáu ngày nhân dịp về cùng chuyến trực thăng tiếp tế và tải thương. Vậy mà về Sài Gòn đến ba tuần lễ tròn nó mới trở ra trình diện Tiểu đoàn.
“Khi nó đến trình diện, ông Tiểu đoàn trưởng bực mình hỏi nó:
- Trung tá thấy em có lòng dũng cảm và thương em còn trẻ tuổi nữa nên quyết định cấp một tuần lễ phép đặc biệt. Vậy tại sao em đi tới ba tuần mới trở lại đơn vị?
“Hiệp trả lời gọn hơ, đương nhiên như không có chuyện gì xảy ra:
- Trung tá thương em và cấp cho em một tuần phép đặc biệt, em cám ơn Trung tá lắm. Còn mẹ em sinh em ra, nuôi nấng em, dạy dỗ em lớn khôn đến hôm nay em mới có mặt tham dự cuộc chiến danh dự nầy dưới quyền chỉ huy của Trung tá. Như vậy, nếu mẹ em có cấp thêm cho em hai tuần lễ đặc biệt nữa, đâu có gì quá đáng đâu Trung tá. Trung tá rộng rãi nghĩ lại coi, xem có hợp tình hợp lý không?
“Lời nói mộc mạc xuất phát từ tấm lòng chân chất của ‘bé Hiệp‘ làm cho ông Trung tá lắc đầu bật cười vui vẻ. Ông còn dai qua dịch cho hai anh cố vấn Mỹ nghe. Hai anh cố vấn nầy cũng tươi cười thông cảm và còn nói: ‘vê ri gút’, ‘vê ri gút’ nữa chứ.
“Sau nầy những lúc được tạm thời nghỉ ngơi dưỡng sức, ‘bé Hiệp‘ có trút tâm sự với tôi, tâm sự cứ gậm nhấm đeo đuổi mãi theo nó không thôi, dù có muốn quên nhưng nó không sao quên được. Nó là con một hiếm muộn trong gia đình, mồ côi cha rất sớm. Hiện mẹ nó đã xấp xỉ tuổi ‘cổ lai hi‘‚ thường hay đau ốm thất thường trong cảnh sống cô đơn nơi một mái lá nghèo ở thôn quê hẻo lánh cùn cốc. May mắn là bà có nuôi một con Chó cỏ đặt tên là Vá cũng đã có tuổi, nhưng nhờ vậy quanh quẩn có tiếng có tăm, hủ hỉ với bà qua ngày tàn tháng lụn. Vá thường lửng thửngquấn quít  theo bên nó những khi nó về phép, tỏ ra trìu mến khắng khít nó lắm. Nó bùi ngùi khi nhắc đến ngày nó từ giả mẹ nó để trở về đơn vị. mẹ nó rươm rướm nhưng không khóc. Bà câm lặng nén lòng, có lẽ không muốn làm chùng chân nó hay sao. Riêng con Vá không còn chạy nhảy liếng thoáng như ngày nào, trái lại đờ đẫn lẩn thẩn theo chân nó đi đến đầu ngõ. Coi bộ Vá bịn rịn, buồn hiu. Khi nó đi được một khoảng đường, ngoái nhìn lại vẫn thấy con Vá còn ngồi trơ trơ bất động ở đó, lặng lẽ nhìn theo hướng nó. Phải chăng con Vá âu lo, sợ nó ra đi lần nầy chẳng có ngày về!?.
“Thôi, bây giờ em nhắc lại với anh, tình hình ở các vùng chiến thuật lúc nầy căng thẳng cực độ. Nơi nào cũng kêu gọi xin được tăng cường để giải tỏa áp lực địch. ‘Bé Hiệp’ sau ba tuần lễ lên hương, nghỉ phép thỏa đáng nơi quê nhà bên cạnh mẹ già đơn côi với con Vá bầu bạn thắm thiết rồi trở ra trình diện đơn vị để tiếp tục tác chiến cùng với các chiến hữu đồng đội của mình lúc chiến trường sôi động với nhiều hy sinh mất mát rủi may từng phút từng giây. Em ngẫm nghĩ với chiến trường khủng khiếp cao độ lúc đó mà Hiệp từng tích cực tham chiến và tiếp tục ra trình diện để nguyện làm trọn nhiệm vụ thời trai trẻ của mình thì anh thấy người con yêu của Tổ Quốc đặt nặng trách nhiệm và hy sinh lên hàng đầu như thế nào rồi? Một thái độ dứt khoát trong âm thầm nói lên một quyết tâm vời vợi mà không ai có thể phũ nhận được. Tình nghĩa mẹ con trong truyền thống gia đình Việt Nam đậm đà sâu đậm, thiêng liêng quá. Con người ‘hiếu tử’ như nó nhưng đứng trước cảnh chia ly có thể tử biệt mà cuối cùng nó đành bịn rịn gạt lệ dứt khoát lên đường bảo vệ quê hương. Trong lúc đó có biết bao nhiêu kẻ “no cơm ấm cật”, ‘ăn cơm Quốc Gia thờ ma cộng sản‘ sống nhởn nhơ, phè phỡn ấm êm bên gia đình ở hậu phương để làm giàu nức trứng… lại dã tâm cấu kết nhau ra tay đâm sau lưng tụi em lút cán.
“Hôm đó chúng em tiến lên rất thận trọng và cảnh giác, súng ống luôn trong tư thế sẵn sàng... nhả đạn. Nhưng trời đất thánh thần ơi, lần đầu tiên cha sanh mẹ đẻ trong đời mới thấy tận mắt thảm cảnh thê lương tang khó, hoang phế điêu tàn ngoài sức tưởng tượng của con người. Em quá đỗi xúc động lặng thinh, đứng bất động như trời trồng. ‘Bé Hiệp‘ cũng thế, em đoán chắc như vậy. Chập chập, nó đưa mắt nhìn em mà không nói một tiếng gì với em cả.
“Bất giác em bật chửi thề to tiếng như thói quen, không thể bỏ được mỗi khi em bực mình hay bất mãn một chuyện gì. Em chửi một cách máy móc, chửi không cần suy nghĩ, do không kềm hãm được lòng mình:
- Đ.M. nó!
“Em lại tiếp lẩm bẩm trong miệng không thôi:
- Đ.M. nó! Đ.M. nó!...
“Nó ở đây chính là bọn cộng sản vô tâm vô hồn giết người không gớm tay. Em xin lỗi anh thông cảm và rộng rãi xí xóa bỏ qua cho em về hai cái tiếng bình dân học vụ nơi đầu đường xó chợ kém ‘tác phong đạo đức’ nầy của đám anh chị bạt búa bất cần đời. Em đã quen miệng rồi từ lúc em đi lang bạt trước đây, thuở nhỏ ranh mảnh lang thang không định hướng. Vào lính, em nguyện với lòng cố gắng từ từ quên nó, bỏ nó, nhưng khốn nổi thỉnh thoảng nó lại sống dậy bừng bừng trong em, nhứt là trước cảnh trái tai gay mắt, trái với những suy nghĩ và cảm nhận của em. Như trường hợp đứng trước cảnh bất nhân ác đức tột cùng nầy của cộng sản hiếu chiến, chém giết đốt phá không nương tay.
“Mà nói cho cùng, nói cho chí tình và chắc anh cũng nghĩ như em, đã là người miền Nam, hạng người Nam Kỳ Lục Tỉnh rặc nòi, biết ăn giá sống, biết thưởng thức đủ thứ mắm mặn mòi truyền thống dân tộc, nếu không biết đến hai chữ bình dân chửi thề sàm sỡ đó, cũng như không mê sáu câu vọng cổ hoài lang muồi mẫn của ông Sáu Lầu đất Bạc Liêu xứ muối Ba Thắc thì không phải là người Nam Kỳ Lục Tỉnh phải không anh?
“Mấy thằng Việt cộng đồ tể‚ ‘trôi sông lạc chợ‘, ‘sinh Bắc tử Nam‘ ác nhơn ác đức gì mà đang tâm giết hết già trẻ, trai gái, lớn bé… cả con nít vô tội còn nằm thánh thiện trong nôi nữa. Có đứa chết thảm thiết khô đét, miệng còn ngậm chặt núm vú người mẹ đã chết cứng chắc cũng lâu lắm trước đó. Thầy tu, đại đức, ông cha gì chúng nó đâu có từ, cũng làm láng hết.
“Em nói thiệt với anh, cái cảnh ‘đoạn trường tân thanh’ nhức nhối nầy mà cho Đức Hồng y N. M. M. (không phải em nói đâu nhen vì em chỉ lập lại lời của các vị thức thời) hoặc mấy ông thầy mặc áo cà sa láng coón trẻ măng trong gánh hát quốc doanh Phật giáo hay mấy đức ông ‘sụm bà chè’ nghễnh ngãng trong cơ chế Công giáo nhà nước đến ‘tham quan’ để trông thấy tận mắt thì em dám cá độ một ngàn phần chỉ ăn một thôi, mấy ông ấy không bao giờ và chẳng bao giờ còn can đảm hay cam tâm tiếp tục làm thân ‘khuyển mã‘ mù quáng phục vụ chế độ cộng sản tàn ác bất nhân hiện giờ đâu.
“Bởi vì có thấy tận mắt như em mới ớn tới óc o, nhờm tởm buồn nôn, chứ còn nghe thì giống như nghe ông Tổng thống thời Đệ nhị Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu nói mà đến nay bà con mình trong cộng đồng lưu vong thường hay lập đi lập lại không lúc nào nhàm chán: ‘Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm’. Người chết đa phần chỉ còn lại mớ tóc rối nhùi với quần áo bẩn thỉu ngổn ngang khắp nơi, máu me đầy mình khô đét. Có nhiều xác đã rụt rã hoặc cong queo cứng đờ hết rồi.
“Nhưng đặc biệt là tụi em thấy có một con Chó Cò, đang nằm cạnh một cái xác đàn bà trạc ngoài năm mươi tuổi, kế bên có hai xác nhỏ khoảng dưới mười tuổi, chắc là con của bà? Nhưng những đốm lông trắng bạch lốm đốm ngày nào của con Chó đã trở thành xám đen, lấm lem bùn đất dơ bẩn hôi hám. Nó nằm im không cục cựa, ốm trơ xương. Em tưởng con Chó đã chết như bao nhiêu xác người và xác thú bất hạnh rải rác lềnh khênh chung quanh nó. Nhưng ‘bé Hiệp‘ nhanh nhẩu khẻ báo nhỏ cho em biết dường như con Chó còn sống sót, vì trông thấy bụng nó còn thoi thóp theo nhịp hơi thở yếu ớt.
“Khi đến gần, em thấy nó chỉ còn da bọc xương, em tưởng chừng như xương xẩu của nó dợm đâm toạt lớp da mỏng màu chì nó đang mang trong mình. Mắt nó đỏ sẩm, lớp ghèn đã khô gần như bít kín. Bụng dạ nó lép xẹp không thua gì con cá lẹp phơi khô trúng nắng vào mùa hè oi nồng.
“Gặp được hai anh em tụi em, nó tỏ ra mừng lắm, ráng co mình dợm đứng lên nhưng không được, lại còn quých quých nhè nhẹ cái đuôi nữa chứ. Anh xem có thấy thương nó không? Mà anh biết, con Chó một khi nó mừng thì nó mới quýt  đuôi, nhằm biểu lộ tình cảm thương yêu quí mến và trung thành mẫu mực của nó. Cho dù tụi em là người lạ hoắc lạ huơ đối với nó, nhưng em đoán chắc có thể nó đã nghe được những lời đối đáp qua lại chí tình chí nghĩa giữa hai anh em chúng tôi, hay nó đã nhìn thấy tụi em qua màu đồng phục rằn ri lính dù quen mắt với cái ‘ba lô‘ cồng kềnh, đôi giày ‘xô‘ và chiếc nón sắt nặng ì ì mà nó đã từng gặp đâu đó trước đây nên nó mừng vui nhận ra cùng một phe cánh với nó chăng?
“Nó mừng, mừng lắm, một lần nữa muốn nhốm đứng lên đi đến hướng tụi em mà thực ra đi không nổi vì quá đuối sức. Nhìn đôi mắt lờ đờ như van lơn cầu cứu của nó, em động lòng chịu không nỗi. ‘Bé Hiệp‘ còn khều nhẹ em, cảm động bảo nhỏ: dường như con Chó nó đang khóc anh à! Em cúi xuống không kịp suy nghĩ chi cả và nhìn kỹ thấy quả thật đôi mắt nó có đôi giọt long lanh. Em lật đật lấy ‘bình toong‘ nước nhểu trên mỏm nó vài giọt và vui thầm khi thấy nó chẩm rải thè lưỡi thò ra liếm liếm. Đuôi nó lại ngoắc qua ngoắc lại nhẹ nhàn, khổ sở lắm. ‘Bé Hiệp‘ cũng vội vàng lấy mấy lát thịt hộp còn sót lại dự trù những khi đói đem để ngay trước mặt nó. Em không hiểu nó có ăn được hay không hoặc đã chết sau đó cho tròn một kiếp Chó. Phần tụi em do lệnh thúc bách của đơn vị trưởng phải lên đường ngay…
“Như anh thấy đó, con Chó là con vật không biết nói như con người mà trong hoàn cảnh chết chốc, đói khát tận cùng vẫn còn trung thành, vẫn còn nằm sát bên cạnh với chủ nó như thế, như để tiếp tục bảo vệ người đã thương yêu từng nuôi nấng cho nó ăn uống đầy đủ, dù chủ nó đã chết mất lâu rồi. Hơn nữa dù đói lả đến kiệt sức, nhưng tuyệt nhiên nó không hề cắn xé xác thân những nạn nhân bất hạnh nằm lềnh khênh chung quanh nó để kéo dài cuộc sống riêng tư.
“Người đời thường tỏ ra bất công bảo con Chó là ‘con thú’ hay nặng nề hơn là ‘đồ súc vật’ khi để mắng nhiếc  chửi rủa người nào. Nhưng trong trường hợp thương tâm hiến hoi nầy, nó còn biết quấn quýt  mến chủ, thương yêu và quý trọng con người thì quả nó không phải là ‘súc vật’ nếu so với những người bệnh hoạn, tàn ác vô tâm vô hồn.
“Lúc ấy em bật nói lớn với ‘bé Hiệp‘ và gằn  từng tiếng:

Đại gia Việt Cộng tha hồ đánh bạc
- Tụi Việt cộng quả là quỷ là ma nơi mấy tầng địa ngục mà ngày xưa nhiều lần ông bà em thường kể cho nghe, chứ không phải là ‘thú’ như người đời thường nói. Bởi vì bằng chứng là ‘con thú Chó’ đang ngồi chình ình đó, trước mặt em, như để nêu một tấm gương trong sáng đáng làm bài học quí báu dạy đời. Vì nó còn biết cảm nhận và suy nghĩ, biết minh định chính xác giữa phe ta phe mình với kẻ địch người thù ác ôn, biết phân biệt rõ ràng thiện ác, biên giới giữa tình người tình Dân Tộc với tà thuyết độc tài đảng trị, hại dân. Hay nói theo thời thượng, ‘con thú Chó‘ đã biết chọn vị trí của nó trước lằng ranh Quốc Cộng, trong khi nhởn nhơ trong xã hội bao nhiêu kẻ hành động mù quáng, cầm nhầm giữa chính nghĩa và tà thuyết. Còn gì để nói nữa hả anh”.
Có lẽ đến đây, chúng tôi xin mượn những lời nhắn nhe của đứa em kết nghĩa của chúng tôi để chấm dứt bài viết ngắn ngủi nầy. Và nhân dịp Xuân về, chúng tôi thân chúc các bạn một năm tràn đầy sức khỏe và muôn việc đều được hanh thông viên mãn.
Tết Mậu Tuất 2018.
Võ Đức Trung


No comments:

Post a Comment