Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Friday, 28 September 2018

TRẦN ĐỖ CUNG * CHUYỆN TÙ CẢI TẠO

 

Chuyện tù “cải tạo” của Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia VNCH

Trần Đỗ Cung
Một bạn thân ở Montréal Canada vừa gửi cho tôi cuốn Pháp Ngữ Souvenirs et Pensées, viết bởi Bà Bác Sỹ Nguyễn Thị Đảnh và được Bác Sỹ Từ Uyên chuyển qua Việt Ngữ. Bạn lại khuyến khích tôi nếu có thì giờ thì chuyển qua Anh Ngữ theo sự mong muốn của tác giả. Sau khi đọc tôi thấy đặc biệt ở chỗ tù cải tạo này là một chuyên viên tài chính ngân hàng, khác hẳn trường hợp thường thấy của các sỹ quan trong quân lực. Ông Thảo bị đầy đọa sáu năm rưỡi trời để hy vọng moi các hiểu biết của ông về tài sản Ngân Hàng Quốc Gia.

Bà Bác Sỹ Đảnh nay định cư tại Oslo Na Uy là một phụ nữ miền Nam, Tây học. Phu quân Đỗ Văn Thảo cũng là người Nam, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1927 tại Gò Công. Sau khi tốt nghiệp Đại Học tại Pháp ông Thảo đã về làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam từ tháng Tư năm 1955. Ông đã giữ chức Giám Đốc Nha Ngoại Viện rồi Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng  Quốc Gia cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975. Ông bị đi tù cải tạo tháng 6 năm 1975 rồi bị lưu đầy ra Bắc cho đến tháng 9 năm 1980. Đến tỵ nạn chính trị tại Bergen, Na Uy tháng 12 năm 1981, ông tạ thế tháng Giêng năm 2001 tại Oslo, Na Uy vì trụy tim.

Câu chuyện Bà Bác Sỹ Đảnh kể lại về sự tù tội Việt Cộng của đức lang quân cho thấy đặc biệt có ba khía cạnh. Là người Nam thuần túy, là chuyên viên được huấn luyện công phu và chưa bao giờ liên quan đến quân đội. Nhưng Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam đã hành xử như quân xâm lăng, cầm tù những chuyên viên rồi vơ vét của cải đem về như Phát Xít Đức Quốc Xã khi tiến vào Paris. Sự thiển cận của họ đã đưa đến sự kiệt quệ tột cùng cho đến bây giờ vẫn chưa ngóc đầu lên ngang hàng với các nước lân bang. Nay mở miệng mời chào người Việt nước ngoài trở về đem chất xám giúp nước thì thử hỏi có nghe được không?

Câu chuyện do bà Đảnh kể lại trong thời kỳ gia đình bị kẹt vì lỡ chuyến ra đi của tầu Việt Nam Thương Tín. Những ôn tưởng chỉ được ông Thảo thỉnh thoảng nhắc đến vì ông không muốn trải qua một lần nữa những hình ảnh dã man mà ông đã trải qua. Bà hết sức căm nước Pháp đã hùa theo Việt Cộng chỉ vì thù Mỹ đã không giúp họ xâm chiếm lại xứ Việt Nam trù phú sau khi Thế Chiến II chấm dứt. Bất hạnh cho Việt Nam, trong khi cộng sản Nga Hoa chỉ ngầm giúp Hà Nội thì Mỹ ồn ào đổ quân vào làm mất chính nghĩa của chúng ta đã bị nhóm thiên tả và CS cơ hội bóp méo thành chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bà viết để vinh danh những ai đã trải qua địa ngục trần gian tù cải tạo Việt Cộng. Và cũng để nói lên lời an ủi tới những ai đã bị phân tán ra bốn phương trời, làm cho không những mất gốc  mà còn mất cả cá tính nữa.

Bà cùng gia đình bị kẹt lại trong cư xá sang trọng của Ngân Hàng nằm trên đường nhỏ hướng ra cầu xa lộ mới. Bà thấy rõ sự chiến đấu dũng cảm của một Trung Đội Nhẩy Dù với 20 binh sĩ chỉ huy bởi một Thiếu Úy trẻ măng có vẻ mới ra trường. Nhìn các quân nhân rắn chắc, nét mặt kiêu hùng và người chỉ huy Thiếu Úy trẻ nhưng chững chạc, bà đã chia xẻ đồ ăn với họ và có cảm tưởng đã cùng họ chiến đấu. Cuối cùng tất cả quân sỹ đã bị hy sinh một cách tức tưởi.

Bà nói: “Ai dám bảo là quân ta không chịu chiến đấu”? Trong khi ấy những phát súng lẻ tẻ của du kích Mặt Trận Giải Phóng quấy rối giữa những tiếng nổ đại pháo. Ngoài đường một sự hỗn loạn không tưởng tượng được khi bọn hôi của nhào vào các nhà vắng chủ và du kích Việt Cộng ngày càng hung hăng tàn ác.

Rồi ông Thảo phải ra trình diện theo lệnh của quân quản Sài Gòn. Ông   thật thà nghĩ rằng vì vợ chồng ông là các chuyên gia thuần túy nên chính thể mới sẽ cần đến những bàn tay xây dựng lại quốc gia. Ông nói với vợ rằng, “Nếu họ không ưa chúng ta thì họ cũng không thể xử tệ với chúng ta. Họ không thể giết hết tất cả”. Một Pol Pot đã làm như vậy, nhưng họ đã thấy là không có lợi gì hết. Tuy nhiên Việt Cộng đã làm những việc tệ hại hơn nhiều. “Chúng tôi không hiểu rõ cái thực tế của cộng sản.

Chúng tôi đã nuôi ảo tưởng rằng cộng sản là một xác tín cao đẹp. Song  đem cái xác tín ấy vào đời sống con người bằng võ lực đã làm mất hào quang lý tưởng và thơ mộng. Và như vậy nó trở nên tầm thường, bẩn thỉu, ích kỷ và man rợ”.

Ngày 15 tháng Sáu năm 1975 bà Đảnh đã chở ông Thảo và các con trên chiếc xe VW Variant đến một ngôi trường bỏ không gần Sở Thú. Ông gập một bạn cũ cùng đi trình diện nên thấy đỡ cô đơn hơn. “Khi chia tay tôi nhìn thấy trong ánh mắt anh ấy sự tiếc nuối, lo âu và tình yêu đằm thắm. Anh chưa biết rằng sự chia tay này kéo giài cả hơn sáu năm rưỡi trời. Ánh mắt sâu thẳm ấy theo tôi mãi mãi ngày đêm và không bao giờ tôi quên được. Hầu hết các gia đình đều chịu hoàn cảnh như vậy, không cha, không chồng. Tôi may mắn thuộc thành phần không làm điều gì sai quấy và được đồng sự mến, không phải loại có nợ máu lớn với nhân dân, nên được gọi đi cải tạo trong một tuần lễ”.

Rồi xẩy ra việc vơ vét toàn diện. Tại Bộ Giáo Dục cũ không một cái gì là bị bỏ sót, cục tẩy, cái bút BIC, giấy, tập vở đều bị thu gom chở về Bắc trên các xe vận tải nhà binh đầy ắp. Những cán bộ miền Nam thấy bất bình, “Chúng ta bây giờ thống nhất vậy của cải miền Nam phải được để lại miền Nam vì ở đây cũng cần các phương tiện để xây dựng lại chớ”? Bà nói: “Khi tôi nghĩ dến những đứa con miền Nam đã gia nhập MTGPMN tôi không khỏi khinh bỉ và tội nghiệp. Một số ít có thể là những người yêu nước thật sự tuy nuôi một lý tưởng ngu đần để bị VC xập bẫy. Họ đã làm gì để giúp đỡ quê cha đất tổ? Hay là giúp tay xa lìa sự trù phú, sự phồn thịnh và cả tự do nữa”?

Các cán bộ cộng sản thường vào tư gia mượn những thứ cần dùng. Họ được đối xử tử tế nhã nhặn. Nhưng một hôm một cấp chỉ huy vào nhà. Bà lịch sự rót một cốc nước mát mời thì ông ta túm lấy vai đứa con trai nhỏ bắt húp một ngụm trước. “Tôi đâu có ngu gì mà đầu độc họ ngay tại nhà tôi? Họ ra vào nhiều lần và tôi cảm thấy họ muốn cái gì, có lẽ muốn cái nhà của tôi? Ý tưởng đào thoát manh nha trong đầu tôi. Với sự hiện diện của báo chí và những quan sát viên, nên VC còn tỏ ra dè dặt, không dám ra mặt tham lam áp chế dân chúng. Cũng may là chẳng bao lâu sau cả đoàn quân CS bị chuyển qua Cao Mên”.

Một tháng sau khi trình diện học tập cải tạo không thấy một ai được về nhà. Cậu con trai lớn luôn luôn đạp xe quanh ngôi trường mà cha cậu trình diện thì thấy vắng tanh. Khi đem người trưởng gia đình đi thì tạo ra một không khí bất an và đạt được hai mục đích, vô hiệu hóa người chồng người cha và cùng một lúc kiểm soát được mọi người trong gia đình. Nhiều gia đình chỉ trông cậy vào đồng lương cha chồng đem về hàng tháng thì bây giờ túng quẫn. Và sau hai lần đổi tiền, những người giầu có nay thành nghèo và những ai đã nghèo nay lại càng xơ xác. Sau một tháng quy định chẳng ai được trở về. Thỉnh thoảng có một vài người có lẽ thuộc loại có móc nối hay không nợ máu thấy lẻ tẻ trở về. Một người quen cho biết là chồng bà bị chuyển tới trại Long Thành.
Một loạt xe vận tải nhà binh đến chở các tù nhân đi. Họ không biết là đi tới đâu. Trong đêm tối đến một khu rừng mà họ không biết là Long Thành và bị lùa vào mấy gian trại bằng tre lá và lèn chặt như cá hộp. Ngay sáng hôm sau tù phải bắt tay xây cất các trại giam khác cho những người tới sau. Có cảm tưởng là Việt Cộng không có kế hoạch gì cả, chỉ thực hiện theo nhu cầu xẩy đến và tù nhân phải dựng lấy trại giam cho mình. Mục tiêu quan trọng lúc đó là gom lại và vô hiệu hóa các thành viên của chế độ cũ. Mục đích thứ hai là cách ly quân đội với hành chính. Các cấp hành chính do cán bộ canh giữ còn các quân nhân bị đặt dưới bộ đội và các sỹ quan Việt Cộng canh chừng. Chỗ nào cũng là rừng nên không ai biết được bao nhiêu trại tù rải rác ở đâu.

Mỗi nhà giam có thể lèn chừng 50 tù, mỗi người có được chừng 80 phân để nằm ngủ ngay trên mặt đất. Về đêm phải chịu hơi lạnh của núi rừng và khi mưa phải chịu ướt át. Bà hỏi chồng có nhớ đến cái mùng mà anh cẩn thận gói theo.

Anh nói, “Trong hoàn cảnh ấy mùng đâu có ích gì và một anh bạn khéo tay đã giúp cắt ra may thành một áo trấn thủ dầy dặn với nhiều lớp vải mùng khiến cho anh qua được cảnh rét mướt”! Mỗi đêm có điểm danh trước khi cho vào đi ngủ sau khi cán bộ đã khóa chặt nhà tù.

Đồ ăn thật đơn sơ nhưng còn có gạo nên không bị đói. Cơm được nấu trong các chảo to nên có nhiều cháy là một món ngon mà đứa bé con cô cán bộ nhà bếp luôn luôn chầu chực. “Nhà tôi sực nhớ đến đứa con nhỏ ở nhà mà lòng bồi hồi xúc động”! Vấn đề nước khó khăn hơn vì chỉ có mỗi một cái giếng và khi lao động về phải sắp hàng tắm rửa. Những người lớn tuổi chậm chân nên đến lượt mình thì đã tới giờ điểm danh trở về phòng nên không bao giờ được dùng nước.

Tù phải viết bản báo cáo mỗi ngày, nói rõ những gì bản thân họ đã phạm trước kia và những gì cha hay thân nhân họ đã làm. Nay mới thấy sự ích lợi của các cây bút BIC. Các bản báo cáo trở thành ác mộng của tù nhân. Viết ít chừng nào tốt chừng ấy và phải nhớ những gì đã viết để có thể viết lại những báo cáo sau. Ý đồ của quản trại là bắt tù từ bỏ niềm tin, chối bỏ lý tưởng và gia đình, khinh rẻ chế độ cũ và chửi rủa các cấp lãnh đạo cũ. Thật là khó khăn cho những ai thẳng thắn với những nguyên tắc có sẵn hay những người bản chất hiền hòa không biết chửi bậy. Song viết ngắn quá cũng bị nghi ngờ là thiếu thành thật và tù bị gọi lên hạch hỏi đủ điều, chữa đi chữa lại. Kết quả là tù phạm tội nặng hơn để rơi vào bẫy sửa sai không ra thoát.

Có lệnh cho đi thăm tù. Những người như bà Đảnh là công nhân viên phải có giấy phép của cơ quan ghi rõ lý do nghỉ phép. Và chỉ được đem theo tối đa 5 kí thực phẩm và mỗi gia đình chỉ có ba người được đi thăm. Với bốn đứa con, đem đứa nào đi, để đứa nào lại? Trong khi thăm chồng phải ngồi hai bên bàn dài cùng những người khác, có cán bộ đứng đàu bàn lắng nghe. Phải nói to, không được dùng ngoại ngữ. Vợ chồng trao đổi những vấn đề sức khỏe và kinh tế gia đình, bán chác quần áo cho các bà miền Bắc bây giờ ham chưng diện lắm. Khi hết giờ thăm, tù đứng giậy nhặt gói quà trở về nhà giam. Có người còn bị mắng vì ôm hôn người thân hay căn dặn thêm vài điều. Trong phòng những tiếng òa khóc nổi lên như sóng gió trong cơn mưa bão. “Tôi cố nhịn khóc nhưng khi về đến nhà vào phòng tôi bật khóc lệ tràn như suối”.

Từ tháng 10/11, 1976 bà Đảnh không nhận được thư nào của chồng nữa và biết là chồng không còn ở Long Thành. Từ nay gửi thư cho anh phải qua một địa chỉ mới tại hòm thư A-40 khám Chí Hòa. Thư từ quà bánh tối đa 3-5 kí phải gửi qua một địa điểm ở một ngôi trường không xử dụng nữa. Hai đứa con lớn phải đi thi hành các nghĩa vụ công ích không lương, tối phải tạm trú tại những chỗ nào tạm che mưa nắng. Đã có dấu hiệu chống đối ngầm trong giới trẻ. Nhưng chúng bị răn đe, phải cố gắng theo chỉ thị thì cha anh mới được mau chóng tha về. Thật là xảo trá, lợi dụng lòng thương xót cha anh để ép chúng phục vụ.

Một ngày đen tối nhất của tháng 10 năm 1976, các tù được lệnh đổi trại giam. Đây là lúc cán bộ lục lọi khám xét thủ tiêu mọi chuyện. “Chồng tôi ghi chép nhật ký trong một cuốn sổ tay nhỏ hầu mong kể lại cho con những điều đã trải qua. Anh đã vội vã thủ tiêu cuốn sổ”. Tù đươc chất trên các xe vận tải, tay xích người nọ với người kia. Sau hàng giờ đi vòng vo họ bi lùa xuống hầm tầu thủy và chân bắt đầu bị khóa.Tầu đi ngang qua một khu mà nhìn qua lỗ hổng hầm tầu anh nhận ra cây cầu gần nhà, nơi đây vợ con đang ở, rất gần anh nhưng xa, xa lắm. Nước mắt anh dâng trào, không biết đang đi về đâu, xa Sài Gòn vì đây là Tân Cảng.

Chừng 7 tháng sau cái địa chỉ kỳ quái Chí Hòa, có một người tới gập bà Đảnh nhưng không dám vào nhà. Ngó trước ngó sau, phải trái, rồi anh vội nói, “Chồng chị đang bị giam tại miền cực Bắc. Tôi cũng bị giam ở đó nhưng vì vợ tôi là người Đức nên đã nhờ tòa Đại Sứ Tây Đức can thiệp”. Mắt tràn lệ, anh nói tiếp, “Chị biết chúng bắt tôi và anh làm gì không? Ngày ngày gánh phân bón rau và đó là việc nhẹ dành cho người yếu sức”! Bà bật khóc thảm thiết, ngồi bệt xuống vệ đường rồi anh bạn bỏ đi thật nhanh để khỏi bị nhòm ngó.

“Chồng tôi chẳng phải là một ông lớn tại miền Nam mà cũng không phải là các Tướng Lãnh uy quyền. Nhưng anh thuộc loại có thể khai thác được. Họ muốn biết vàng, đô la hay các kho tàng của miền Nam chôn dấu ở đâu. Họ hạch hỏi khai thác bắt làm việc đều đều, nhưng cho là không thành khẩn khai báo nên đầy ra miền Bắc cộng sản”.

Hầm tầu chật chội với các chất thải vệ sinh của tù nên tạo ra một mùi hôi hám khủng khiếp không tả nổi. Hành trình rất dài không ai nhớ rõ. Sau cùng cũng tới hình như Hải Phòng và chuyển lên các xe tải, chân vẫn xiềng xích. Xe chạy qua một số làng xóm, dân làng đua nhau la ó chửi bới và mọi người biết đây là đất địch. Có các bà chửi, “Đồ Tàu Phù khốn kiếp”! Thì ra họ tưởng là tù binh Trung Quốc.

Cán bộ la to, “Đây không phải là tù binh Trung Quốc”. Nhưng họ cũng không dám bảo là tù miến Nam vì họ sợ phản ứng của dân quê thật thà, thương hại hay cùng chia xẻ nỗi đau buồn. Đêm tới thì đến một ven rừng bát ngát. Tù được tháo cùm và lùa sâu vào rừng rậm, đi bộ dăm bẩy cây số và đến một hàng rào bao quanh một số trại. Các cán bộ vào trại, để mặc tù lo liệu chỗ ngủ qua đêm. Sáng hôm sau tù bỏ tay vào xây cất lấy trại tù cho chính mình.

Đúng 31 tháng Chạp Dương Lịch các gia đình tù nhận được một món quà chính thức cuối năm, một lá thư của thân nhân đang bị giam tại trại Bắc Thái. Ông Thảo không gập lại những bạn tù Long Thành và phải bắt đầu làm quen với các bạn tù mới. Tù được lệnh trao cho một cán bộ gái tất cả tài sản, đồng hồ, bút máy, nhẫn vòng tay, dây chuyền và tiền mặt để được liệt vào một cuốn sổ ghi tên sở hữu. Ông Thảo nhất định không đưa chiếc nhẫn cưới với lý do vì lâu ngày không kéo ra được. Sau khi dùng xà bông mà cũng không xong thì họ văng tục và thôi không thử tháo nữa. Ông nói dù họ có cố rút ra nhưng nếu ông cố ý giữ thì cũng vô hiệu vì ông nhất định không rời cái nhẫn cưới mà ông coi là tượng trưng quý báu.

Ban quản trại đều là người Bắc khắc nghiệt và khó tính. Tù thấy luôn luôn bị theo rõi sát nút. Báo cáo hằng ngày bị phân tách kỹ lưỡng, thảo luận và bị phê bình. Các cán bộ hung dữ và lộng quyền, không ngớt tỏ ra là người chiến thắng. Nhưng đừng lầm tưởng họ thèm muốn những gì chúng ta có, họ thấy chúng ta giỏi hơn họ trên mọi phương diện. Họ luôn khiêu khích, nói xiên nói xỏ, đả kích chê bai và phê bình. Và đây là tình trạng khủng bố tinh thần kinh khủng.

Về phương diện vật chất vì quá đông người nên trong phòng một tiếng động nhỏ cũng vang âm. Một tiếng ho, một cái hắt xì cũng khiến một số tù nhân thức giấc. Nhiều bạn tù trong cơn ác mộng đã rên la, gào khóc. Không ai quên được một bạn già cỡ sáu chục, góa vợ với đứa con thơ dại nên đêm đêm nức nở khi đi ngủ thương xót đứa con bỏ lại miền Nam không ai săn sóc. Giếng nước duy nhất rất gần trại nên phải nấu sôi để uống. “Chồng tôi làm công tác hôi thối gánh phân nên cần tắm rửa mỗi chiều tối. Nhưng nước lạnh cóng khi xối lên người thi da đỏ ửng. Anh còn đùa rằng, “thật may là da và phổi còn tốt”.

Nhưng cái đói thật là kinh khủng. Khi còn ở miền Nam thì nắm cơm còn thực là nắm cơm đầy đủ gạo. Ở đây, cơm phải trộn những hạt bo bo vỏ thật cứng thường phải xay ra để cho súc vật ăn. Một số lớn không muốn hy sinh bộ răng cấm nên phải ngồi nhặt các hột bo bo ra để chỉ còn lại được một muỗng cơm trong bát cơm độn. Nhiều người bị lủng củng tiêu hóa và bị tháo dạ. Cái đói thật khủng khiếp ngày đêm làm cho con người bớt sáng suốt, dảm ý chí và mất óc phán đoán.

“May mắn là cả bốn đội trưởng đều là bạn thân của em tôi. Nếu không nhờ các bạn đó và các y sĩ đồng nghiệp của tôi giúp đỡ thì chắc gì anh đã sống đến ngày được thả”!

“Tôi cố tìm hiểu vì sao mà anh bị giam giữ lâu thế? Phải chăng anh được nhiều bạn tù cảm mến nên anh bị giữ lâu? Anh luôn luôn được gọi lên yêu cầu hợp tác để giúp trại sinh hoạt tốt. Nếu nhận lời thì sẽ được cấp phần ăn như cán bộ, được miễn lao động và hưởng nhiều ưu đãi. Nhưng anh đã từ chối và bị giam giữ lâu hơn”.

Đầu tháng 9 năm 1978 ông Thảo gửi thư về cho biết quản trại đã phổ biến tin cho thân nhân đi thăm và tù được nhận thực phẩm. Ông cũng dặn nếu muốn ra Bắc thì liên lạc với một bà gốc Bắc có chồng cùng bị giam giữ với ông. Bà này biết rành Ha Nội và biết rõ manh mối chạy chọt giấy tờ di chuyển và cũng biết cách xoay xở vé xe lửa khứ hồi. Và từ nay bà Thảo biết các mánh khóe luồn lọt thật mất thì giờ, khó khăn và tế nhị. Tất cả các sự việc đều có thể mua bằng tiền, chạy đúng chỗ và không để lộ ra vì hối lộ là một trọng tội. Đối với bà lại còn khó khăn hơn vì trước kia đã phục vụ ngụy quyền và chồng đang bị tù cải tạo.

Mãi mới xin được giấy phép nghỉ nhưng chưa biết cách nào đi. May thay có một ông bạn có cô em trước làm tiếp viên phi hành cho Air Vietnam cũ và nay còn được lưu dụng bởi hãng Vietnam Airlines mới chưa có ai đủ khả năng thay thế. Cô này rất tháo vát và đã kiếm cho bà một vé máy bay vào tháng 11. Khi ra máy bay với xách đồ ăn khô cô ta đã giới thiệu là dì ruột và đưa bà lên máy bay, căn dặn là đừng tỏ ra sợ sệt quá. “Khi đã lên máy bay, không ai biết được là mình không có quyền xử dụng máy bay và khi về thì đã có người cho phép đi nên không có ai dám cản trở về”.

Khi đến phi trường Gia Lâm nhỏ xíu bà lên xe quân sự chờ đón khách. Bà gọi một xe xích lô đạp về nhà cán bộ giáo dục trẻ Sơn mà bà được bà thủ trưởng Sâm giới thiệu. Cha mẹ Sơn đều là giáo sư Đại Học tiếp bà ân cần và thông cảm. Họ được ở ngôi biệt thự cũ gần hồ Hoàn Kiếm tuy chỉ dược xử dụng có một căn phòng với một cầu tiêu lối cổ. Ông đã cơi lên một gác xép làm chỗ ngủ cho ông và con trai. “Tối đến họ dẹp bàn ghế vào tường và trải một chiếc chiếu rộng dưới sàn cho bà mẹ, cô chị dâu, cháu gái nhỏ và tôi nằm. Trong khi tôi thao thức vì sắp gập chồng sau hơn hai năm xa cách thì ai cũng ngủ ngon lành”.

Khi đợi người hướng dẫn đến bằng xe lửa phải mất ba tuần lễ, bà Đảnh ra phố quan sát thấy các nhóm người bán đồ lậu. Cái gì họ cũng có, phần nhiều là các gói nhỏ đường, trà, cà phê, bao thuốc lá và các thỏi chocolat nhỏ đựng trong các túi xách. Bà mua các gói kẹo chocolat vì mang từ Sài Gòn ra không tiện. Họ nói mua gì cũng có trữ tại nhà vả trả tiền xong là hôm sau họ sẽ giao. Người hướng dẫn cho bà đến nhập bọn ngủ dêm để sáng hôm sau ra ga lúc 5 giờ cho kịp chuyến xe lửa Đông Bắc.

Người đông như kiến, chen lấn lộn xộn và “tôi cùng bà chiếm được hai chỗ trên bực ngoài toa cho đến sau khi qua nhiều ga xép mới mò vào được bên trong để ngồi xệp xuống sàn tầu đầy rác, đỡ nạn bụi khói và mưa phùn giá lạnh”.

Từ trạm xe lửa đi đến vùng Bắc Thái phải dùng xe bò. May thay bà hướng dẫn đã nhanh nhẩu quá giang được một xe chở dầu nhà binh với tiền thù lao nhỏ 20 đồng. Đến ven rừng phải thuê một xe bò tới trại giam qua một con đường gập ghềnh với giá 15 đ một người. Tới cổng trại, một căn nhà lợp tranh thì cán bộ xét giấy và cho hai người một vào ngồi đợi ở một cái bàn nhỏ chữ nhật. Hai mưoi phút sau thân nhân được dẫn ra, yếu ớt, thân hình tiều tụy xác xơ trông thật đau lòng. Cán bộ đứng ở đầu bàn và phải nói to cũng như không được dùng ngoại ngữ. “Tôi không biết được gập anh bao lâu nhưng mục đích tôi là xin phép anh đưa các con trốn khỏi nước. Tôi có bổn phận báo cho anh biết là phải liều lĩnh như tự sát vì chừng 50% đến được bến tự do”. Nhưng làm sao để không cho cán bộ biết?

“Tôi nghĩ cách nói là mẹ con muốn đi vùng kinh tế mới”, thi anh xúc động hỏi lại, “Bộ chúng không đủ ăn sao”? Bà chậm rãi trả lời, “Chúng muốn làm lại cuộc đời mới và gập lại hai bà gì đã đến đó trước rồi”. Ông Thảo suy nghĩ rồi chợt hiểu là chị và em tôi đã định cư ở Âu Châu từ lâu và dặn dò, “Đừng để cho các con bơ vơ, em phải đi với các con còn quá nhỏ”! “Chúng tôi chuyện trò đủ chuyện Sài Gòn trước đây, nhà cửa, tình trạng gia đình thân nhân nội ngoại và anh không thổ lộ gì về hoàn cảnh của anh và số phận hiện tại”.

Sau một giờ thì cán bộ thổi còi chấm dứt thăm nuôi. Các tù nhân đứng lên lượm gói quà và sắp hàng về phòng giam. “Chồng tôi ôm tôi và thì thầm, em phải đi với các con và như vậy trong tương lai có thể dễ tìm lại nhau”. Lần thăm nuôi chỉ có bốn người đi thăm khốn khổ. Không một lời phản kháng hay thất vọng. Nước mắt có chảy cũng trong thầm lặng. Nơi đây hy vọng còn ít hơn ở Long Thành. “Rã rời tôi có cảm tưởng như sống những giây phút cuối cùng và tôi không còn biết tôi là ai nữa. Nếu tôi ra đi cùng các con thì rồi đây ai săn sóc anh, và biết có gặp lại nữa không”?

Chiều về tới Hà Nội, tôi e họ sẽ không cho tôi ghi vé trở về. Cha anh Sơn chở tôi bằng xe đạp ra trạm hàng không. Họ hỏi tôi đủ điều, lý do đi thăm, trú ngụ ở đâu, thấy thủ đô ra sao và đã đi thăm lăng Hồ Chủ Tịch chưa? “Tôi phải vui vẻ tỏ ra mãn nguyện và phải chấp nhận bất cứ cách giả dối nào để về với các con tôi. Tôi đã thành công và được về trên chuyến bay hai ngày sau”. Còn hơn một ngày tôi mướn một xe xích lô đi một vòng quanh Hồ Gươm. Hồ quá nhỏ, nước đen ngòm mà mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Không thấy dấu hiệu hư hại vì oanh tạc chỉ có cây cầu Doumer và đôi chút ở một bệnh viện mặc dầu họ tuyên truyền ầm ĩ là bị phi cơ hủy hoại. Tôi đã nói dối ở trạm hàng không. Tôi đã không đi thăm lăng chủ tịch mà chỉ đi xích lô phớt qua. Không có gì đặc sắc, chỉ là một kiến trúc lạc loài bê tông cốt sắt với các cột lạnh lẽo như trong thời cổ. Nhưng nếu tôi vào trong để nhìn thấy con người mà họ cho là thần thánh thì tôi đã ớn lạnh về sự lọc lừa phản bội của ông ta đã đưa nước nhà vào một cuộc chiến tàn khốc, tạo nên mối chia rẽ toàn dân và cả nước”!

Hà Nội một thành phố cổ kính thì nay đã tiều tụy, không được coi như một bà già mà là một đứa con nít thiếu dinh dưỡng lâu ngày, bụng ỏng, đít eo, chân tay khẳng khiu mang chứng bệnh còm cõi và già nua sớm không phương cứu chữa. “Tôi không muốn những ai đã rời Hà Nội năm 1954 trở lại để thấy sự điêu tàn khắc nghiệt vì tiền của nhân lực đều xung vào chiến tranh. Cha mẹ Sơn cũng như người hướng dẫn tôi đều hình như thổ lộ là họ đã sống qua ngày hướng về miền Nam. Nhưng nay miền Nam đã xụp đổ, thế là hết cả. Cuôc viếng thăm rất có kết quả vì tôi đã nói được với nhà tôi một điều cần thiết. Và tinh thần nhà tôi hình như đã vững hơn, bắt đầu yêu đời hơn và thấy hy vọng”.

Bà Đảnh đã đưa bốn đứa con vượt biển ngày 1 tháng 5 năm 1979 lợi dụng sơ hở vì mải liên hoan ngày lễ. Cả gia đình lênh đênh trên biển cả thì gặp một chiếc tầu chờ dầu Na Uy vớt. Vì vậy khi ông Thảo được thả về thì nhà đã mất và phải tạm trú nhà bà chị. Ông bị các đè ép từ các cơ quan công an phường, quận. Không có hộ khẩu nghĩa là không được phiếu mua thực phẩm và các đồ lặt vặt như thuốc đánh răng. Phải luôn luôn trình diện và đẩy  đi vùng kinh tế mới. Nhưng nếu xa Sài Gòn thì làm sao có được tin tức nên ông đã chán nản nghĩ liều đi trốn. Bà Đảnh phải nhắn về xin yên tâm đừng liều mạng vì đã có chương trình bảo lãnh và Cao Ủy tị nạn đã đặt thêm một văn phòng ở Sài Gòn.

Bà gửi về các giấy tờ cho nhiều nơi để khỏi thất lạc.

Cuối cùng, sau nhiều lần chạy chọt khó khăn và nhiêu khê, ông Thảo đã được giấy phép xuất cảnh. Bà Đảnh nói, “Không chối cãi việc Việt Cộng đã trả lại người thân cho chúng tôi. Nhưng họ đã ra sao khi được thả? Một số đông đã chết như anh đội trưởng giúp đỡ  tận tình bạn tù. Anh chết tức tưởi trong tuổi hoa niên của cuộc đời. Qua hành hạ thể xác độc địa nhằm triệt tiêu nhân phẩm, Việt Cộng không tàn phá nổi thể xác nhưng đã để lại trong tâm hồn tù nhân nhiều rạn nứt in hằn. Lập trường chính trị, tín ngưỡng, lòng yêu nước không bao giờ xóa tẩy được”. Bà Đảnh kết luận, “Tôi chấm dứt bằng một câu xúc tích của chồng tôi khi anh đặt chân xuống đất Na Uy”: “Chúng tôi vẫn sống, hy vọng của chúng tôi đã đạt được. Tôi đã có vợ con quanh tôi, hạnh phúc tôi tràn đầy. Từ nay các con tôi được bảo đảm tương lai trên một đất nước cao đẹp, tự do như Na Uy mà chúng tôi coi là miền đất hứa”.
Vài cảm nghĩ.- Cộng sản Việt Nam sùng bái Hồ Chí Minh như thánh sống. Ai cũng biết là họ Hồ mạo danh nhóm ái quốc ở Paris khi viết báo Le Paria đã dùng tên chung Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriot). Hồ đã từng nộp đơn xin làm việc với Bộ Thuộc Địa rồi đi theo cộng sản Nga để được huấn luyện thành cán bộ Đông Dương Cộng Sản. Khi qua Tầu lại lấy danh tính một người chết để thành Hồ Chí Minh. Không có lấy cái bằng sơ học,  chỉ lặp lại những danh từ Sô Viết rồi Tầu Mao, lợi dụng khí thế ái quốc chống Pháp để đổi Việt Minh thành đảng Lao Động Cộng Sản và hãm hại các người yêu nước cũng như nhiều người trong vụ đấu tố.
Ông ta đã học thuộc lòng câu “Hồng hơn Chuyên” của Mao nên cũng nói “Trí Thức là Cục Phân” cho nên khi chiếm Sài Gòn chính trị bộ Hà Nội đã bỏ tù các chuyên viên của miền Nam mà huấn luyện mất bao nhiêu thời gian và công của. Hệt như “bước nhẩy vọt” của Tầu Mao trong kế hoạch sản xuất thép tiểu công trong các làng xã phí phạm bao nhiêu nhân lực đưa đến phá sản kinh tế và môi trường. Cho nên ta thấy các Y Khoa Bác Sỹ phải đi quét chợ và chuyên viên kinh tài như ông Đỗ Văn Thảo bị giam cầm trong nhiều năm. Phí phạm “chất xám” như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và “chất xám” trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng?
Trần Đỗ Cung

ĐẶNG PHUC HÒA * VƯỢT THOÁT


Vượt Thoát

Phạm Kim
Đặng Phúc Hòa
 
Tôi có lẽ cũng giống như các bạn đều không nghĩ rằng trong cuộc đời có một ngày nào đó phải rời bỏ quê hương đất nước của mình một cách lến lút và hết sức nguy hiểm. Có khi phải hy sinh chính mạng sống của mình cho đủ mọi lý do của cuộc vượt thoát như: bị bọn công an Việt Cộng bắn chết hay bị giam và chết trong tù...Sau đó lại bị bọn hải tặc cướp, giết và chết chìm ngoài biển cả, hay bị bệnh dịch mà chết khi đã được lên các đảo trong vùng Đông Nam Á. Tất cả những nguy hiểm đó, nếu ai chưa từng trải qua thì khó hình dung được hết nỗi khổ sở, đắng cay, tủi nhục và đau buồn của những người đã phải từng chịu đựng những cảnh ngộ đau thương đó.

Tôi giã từ cuộc đời áo trắng học sinh để khoác lên người áo lính và ba lô khi tuổi đời còn rất trẻ, vừa tròn mười bẩy tuổi đời. Do sự đánh phá của Việt Cộng ngày càng gia tăng tại Miền Nam, đặc biệt là cuộc tổng tấn công tại miền Trung vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, hàng đoàn lớp thanh niên học sinh và sinh viên đã tạm gác bút nghiên theo tiếng gọi của non sông để lên đường bảo vệ tử do và bình yên cho quê hương. Năm vừa tròn hai mươi tuổi, tôi lại phải chứng kiến cuộc chiến tại miền Nam bị kết thúc một cách bức tử vào ngày 30/4/75, làm lòng tôi uất nghẹn, nước mắt tuôn trào và thương cho đất nước đã rơi vào vòng cai trị của bọn người theo chủ nghĩa độc tài và vong bản. Đó cũng là nỗi lòng và tâm tình chung của tập thể chiến sĩ quân đội Việt Nam Cộng Hòa, của nhân dân miền Nam và của cả nước.
Biết nói thế nào khi cuộc chiến tại Việt Nam lúc đó do các thế lực ngoại lai chi phối và quyết định chiến thắng đã ngả về phía kẻ xấu, và hậu quả của nó đã đưa đến tình trạng đất nước gần ba mươi năm sau chiến tranh cón tiếp tục bị nghèo và lạc hậu về nhiều mặt so với các nước trong vùng Đông Nam Á hiện nay (Mã Lai, Nam Dương, Thái Lan, Singapore, Nam Hàn, Phi Luật Tân...), so sánh trước năm 1975, miền Nam đã không bị thua kém xa về trình độ phát triển kinh tế và xã hội so với các nước trên. Cho nên một điều chắc chắn là cho đến nay, không một người nào có đầu óc bình thường lại còn có thể tin tưởng, ủng hộ và muốn sống trong một xã hội được gọi là xã hội chủ nghĩa và chẳng có một nhà học giả nào có thể tìm được những lý lẽ hợp lý để bênh vực cho cái gọi là sự yêu việt và tuyệt với của chủ nghĩa cộng sản để tồn tại trên quả đất này nữa.
 Tuy nhiên, có thể còn hai loại hạng người muốn theo cái xã hội đó: Thứ nhất là những kẻ mộng du, và loại thứ hai là những kẻ điếm đàng muốn có quyền lực độc tài để sống trên mồ hôi, máu và nước mắt của người dân lành. Chính sự mắt thấy và tai nghe những khủng bố và trả thù tàn bạo về mặt chính trị, các thảm họa về mặt kinh tế, sự lụn bại về văn hóa, sự suy sụp về đạo đức xã hội đã xảy ra trên quê hương Việt Nam khi Việt Cộng cai trị cả nước sau năm 1975, đặc biệt vào năm 1978, thời điểm mà Việt Cộng đã thi hành cái gọi là cuộc cải tạo thành phần tư sản, tiểu tư sản và hợp tác xã nông nghiệp trên khắp miền Nam, đã tạo ra cơn khủng hoảng về kinh tế, xã hội và đời sống của mọi người dân, và làm phát sinh nên hiện tượng vô tiền khoáng hậu trong lịch sử di dân của nước ta là làn sóng hàng triệu người đã tìm đường vượt thoát bằng mọi cách, mọi phương tiện sẵn có để ra đi và từ bỏ một thiên đàng mù hay còn gọi thiên đàng bánh vẽ trên mặt đất. Công cuộc vượt thoát kéo dài trong hơn mười năm trời ròng rã, có biết bao đau thương và khổ nhục đã xảy ra trên những chuyến đi bằng đường biển cũng như đường bộ.
Chuyến ghe vượt biển của chúng tôi cũng là một trong hàng laot. những chuyến ghe tàu vượt biên trong thời điểm của những năm 1979 và 1980. Chuyến đi vừa có nhiều gian nan, nguy hiểm vì đã gặp những chắc trở và tai nạn chết người trên đường đi, có lúc tưởng chừng như không đến được bờ, và may mắn là đa số người đi cùng chiếc ghe đều được định cư ở một nước thứ ba, chỉ trừ vài người không may mắn bị mất tích hoặc chết trên sông và trên biển. Chuyến ghe vượt biên đã được chuẩn bị gần hai tháng mới xong mọi thứ cần thiết: như chiếc ghe dài khoảng 14 mét, xăng dầu, các dụng cụ, thuốc trị bệnh, thực phẩm. nước uống. Anh của bạn tôi là người đứng ra tổ chức chuyến vượt biên này, anh là một sĩ quan hải quân cấp úy vừa mới ra khỏi nhà tù mà Việt Cộng gọi là trại học tập cải tạo, với hơn ba năm bị giam cầm.
Tôi và bạn tôi được giao trách nhiệm lo xăng dầu cho chuyến đi, khoảng 400 lít dầu cặn diesel, chúng tôi đi hỏi mua dầu lẻ từ các bác tài xế xe hàng ở các bãi đậu xe dọc theo bến tàu cảng Sài Gòn và cầu Tân Thuận. Dầu được vận chuyển bằng các phương tiện xe xích lô, xe đạp và được ngụy trang như những bình đựng nước mắm, nước tương. 
Sau khi đã có đủ mọi thứ cần thiết, chúng tôi bắt đầu di chuyển từng nhóm nhỏ về thị xã Mỹ Tho từ vài ba ngày trước đó. Để tránh sự dòm ngó của bọn công an, chúng tôi chia thành từng nhóm nhỏ vào nhà người quen, giống như là bà con đến thăm viếng nhau. Buổi tối đúng giờ đã hẹn, khoảng mười một giờ đêm, chúng tôi bắt đầu gom người lại từ bốn chiếc xuống nhỏ, mỗi chiếc chở từ bốn đến sáu người, để đưa ra chiếc ghe lớn đã đậu chờ sẵn cách cách các chiếc xuống nhỏ khoảng một cây số. Chúng tôi đã quy ước ám hiệu để khi muốn gọi và nhận ra nhau là gọi " Anh Hai ơi!" Đáp " Rượu đế đây!"
Nếu lời đáp không theo như định ước thì tìm đường thoát cho nhanh. Mặc dầu đã được chuẩn bị trước khá chu đáo, chuyến đi này cuối cùng đã bị thất bại vì có một nhóm đã bị công an theo dõi và chúng bắt buộc vài người trong nhóm phỉa đi ra bến đậu của các xuống nhỏ để chúng có thể gom bắt nhiều người khác trong chuyến đi. Khi nhóm chúng tôi đến gần điểm hẹn thì đã nghe từ xa hàng trăm mét tiếng sột soạt vào các cành lá cây như là một sự cố ý, chúng tôi đã cử một thanh niên nhanh nhẹn len phía trước, khi đến khoảng cách an toàn thì thanh niên này đã gọi ám hiệu "Anh hai ơi!" Chợt bên kia có tiếng động phát ra khá lớn:"
Xong rồi!". Biết đã bị động, anh thanh niên vội vã đi ngược nhanh về phía chúng tôi và nói nhỏ:"Bể rồi các anh ơi!" Không nói thêm một lời, mọi người đều di chuyển thật nhẹ và nhanh ra khỏi vùng đất nguy hiểm đó ngay lập tức. Rất may mắn là người bạn đó đã trả lời sai ám hiệu đó thật hay làm cho bọn công an tưởng rằng đúng ám hiệu nên có phản ứng hơi chậm và chủ quan, do đó nhóm chúng tôi có đủ thới gian trong gang tấc để rời bỏ địa điểm đó. Liền sau đó, chúng tôi cử ra một người cầp tốc liên lạc với hai nhóm người còn lại để báo hoãn chuyến đi, những người còn lại vội vã trở lại căn nhà nơi đang ở tạm để làm như đang ngủ bình thường tại nhà.
 Ngày hôm sau chúng tôi ra chợ Mỹ Tho để liên lạc với nhau thì được biết một chiếc xuồng của anh bạn cùng xóm đã không kịp biết tin báo hoãn chuyến đi, nên chiếc xuống của anh đã ra giữa dòng sông. Sau đó vì nghe tiếng rượt bắt người vượt biên nên mọi người trên xuồng cuống quít, lo sợ và muốn vào bờ thật nhanh để chạy thoát, nhưng do hấp tấp lúc quay đầu ghe vào bờ, chiếc ghe đã bị lật giữa dòng sông trong đêm tối đen như mực. Mọi người đã quàng mọi thứ vật dụng mang theo để bơi vào bờ, có điều không may là đứa em trai khoảng mười một tuổi của anh bạn cùng xóm đã bị chết chìm dưới lòng sông, mặc dù anh và vài thanh niên đi cùng đã bơi vòng quanh một hồi lâu để ráng cứu em.
Đây là sự mất mát đầu tiên của chuyến vượt biên, tôi và vài người cùng nhóm đã gặp anh bạn đó với đôi mắt đỏ hoe, buồn bã và đau xót vô cùng. Trong đôi mắt anh có một sự nưới tiếc và ân hận vô vàn vì không bảo vệ an toàn cho người em thân yêu của mình mà mẹ anh đã giao cho anh trước lúc từ biệt mẹ và gia đình để đi vượt biên. Tôi hình dung ra sự bàng hoàng đau đớn và những dòng nước mắt tuôn trào thương xót tột cùng của người mẹ khi biết tin người con trai nhỏ bé của mình đã bị mất tích trên đường vượt biên.
Chuyến vượt biên đầu tiên đã thất bại. Trở về lại Sài Gòn, nơi mà bọn Việt Cộng đã đổi thành tên cho một kể tội đồ của đất nước đã đi theo chủ nghĩa vong bản và ảo tưởng, để cùng băng đảng đưa dân tộc Việt Nam vô vòng máu lửa chiến tranh hơn ba mươi năm, tạo ra sự thù hận và sự lụn bại về mọi mặt trong đời sống của xã hội nước ta cho đến ngày hôm nay, chúng tôi bắt tay ngay vào việc chuẩn bị lại mọi thứ cần dùng cho chuyến đi mới.
 Trước khi tôi và các bạn lên đường vượt biên lần thứ hai, chúng tôi đã họp mặt và ăn một bữa cơm chia tay tại nhà tôi, các bạn tôi đã kể chuyện buồn vui cho mẹ tôi nghe về chuyến vượt biên vừa qua. Chúng tôi cũng đã nói để an ủi mẹ tôi rằng nếu ai đi vượt biên thì có ba con đường phải chấp nhận: một lá Má nuôi (do bị bắt vào tù Việt Cộng nên má phải đi thăm nuôi ), hai là nuôi cá (do chết ngoài biển hay vì bất cứ lý do gì như chìm tàu, hải tặc giết, bệnh dịch hoặc đói mà chết ), và ba là nuôi Má (đi được tị nạn thì sau khi đi làm sẽ có tiền để gửi về nuôi Má và cả gia đình ).
Cả ba trường hợp trên thì nuôi má là hạnh phúc nhất mà ai cũng mong muốn được như thế. Chuyến ghe vượt biên lần thứ hai lên đường vào khoảng sau Tết Kỷ Mùi năm 1979 một tuần lễ, chiếc ghe của chúng tôi đã chạy thoát ra vùng biển của Việt Nam, ra đến hải phận quốc tế thì bị hư chân vịt quạt nước, may mắn là trên ghe đã có sẵn một cái để thay, tuy nhiên việc sửa chữa cũng kéo dài chừng hai ngày mới hoàn chỉnh được máy móc. Sau đó chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình của ngày thứ tư trên biển, mọi người đều có dấu hiệu mệt mỏi, hốc hác thấy rõ vì không được ngủ, một số người đã bị bệnh cảm cúm, say sóng và tiêu chảy, thực phẩm và nước uống bắt đầu cạn dần. Chúng tôi đã lạc vào vùng biển không có tầu hàng hải lớn đi ngang qua.
Chúng tôi đang bàn tính phải đổi hướng đi, thay vì sang Thái Lan thì nên chuyển hướng sang Nam Dương, mặc dù xa hơn nhưng sẽ an toàn hơn. Chưa kịp đổi hướng đi thì chiếc ghe của chúng tôi đã bị hải tặc Thái Lan gồm khoảng hơn mười chiếc tầu đánh cá lớn nhỏ đến bủa vây để trấn lột và cướp phá dã man. Trận cướp đầu tiên bị bọn hải tặc tấn công là lần thiệt hại nặng nề nhất về tài sản và nhân mạng. Hai chiếc ghe lớn của hải tặc ép sát hai bên hông chiếc ghe nhỏ của chúng tôi, mặc dầu đã rất mệt mỏi sau 4 ngày vượt biển, nhưng chúng tôi cũng cố lấy hết hơi tàn để cùng nhau dùng các cây chèo đẩy hai chiếc ghe hải tặc ra xa chiếc ghe của chúng tôi.
Tình trạng đó không kéo dài hơn vài phút, bọn hải tặc có súng trường loại Cạc-bin đã bắn vài ba phát chỉ thiên hăm dọa, đồng thời trên tay những tên khác còn cầm các loại dao mã táu và dao phay. Tiếp theo đó, khoảng bốn tên đã nhảy qua ghe nhỏ của chúng tôi, không nói câu nào tên trong bọn đã chém ngay vào tay và chân của hai thanh niên còn tương đối khoẻ trên ghe để dằn mặt mọi người chúng tôi không nên chống cự lại bọn chúng, vết thương của hai anh này bị khá sâu nên cả hai đều phải chịu ôm vết thương ngồi tại chỗ, sau đó bọn hải tặc bắt đầu lục soát khắp nơi trên ghe, các túi đựng quần áo, các giỏ đựng thực phẩm và thuốc men còn lại ít ỏi, kể cả quần áo trên người chúng tôi đang mặc để tìm các quí kim, nhẫn vàng, dây chuyền, đồng hồ...
Cho đến lúc đó, trên chiếc ghe của chúng tôi có khoảng hai mươi người, gồm bảy trẻ em dưới 15 tuổi, và 9 nam, tuy nhiên đa số trẻ con và phụ nữ đã bị bệnh, hai người nam bị bệnh sốt đang nằm trên sàn ghe, chỉ còn khoảng Tám người là tương đối khoẻ để có thể giúp đỡ cho các bệnh nhân trên ghe. Trong số hai người nữ còn tương đối khoẻ mạnh là một chị đã ngoài ba mươi tuổi nhưng trông già và ốm yếu, một cô gái chừng ngoài hai mươi tuổi, là em ruột anh bạn cùng ghe với chúng tôi. Sau khi lục soát và cướp đi hết đồng hồ và nhẫn đeo tay ít ỏi của những người trên ghe thì một tên trong bọn thình lình lấy tay của cô gái lôi kéo đi qua ghe của bọn chúng, anh bạn của tôi mặc dù đang bị bọn hải tặc cầm dao khống chế, nhưng anh vẫn can đảm nhào ra cứu em gái và miệng luôn la lớn lên nhiều lần, trong giọng nói của anh có pha lẫn nỗi sợ hãi: “ No, please don’t. No, no, please don’t”...
 Dường như bọn hải tặc chẳng để ý lời kêu gào của anh, một tên trong bọn đã xả dao chém vào lưng anh một nhát mạnh khiến anh ngã quị trên sàn ghe, sau đó tên này lôi cô gái lên bờ thành ghe của chiếc ghe để kéo về ghe bọn chúng, tuy nhiên với sức lực tuyệt vọng còn lại, cô gái đã vẫy vùng mãnh liệt để thoát khỏi bàn tay độc ác của tên này và bị rơi xuống biển cùng tên hải tặc đang nắm chặt tay cô. Tức giận vì bị té xuống biển, tên hải tặc đã đấm mạnh vào đầu và vai cô gái khiến cô chìm dần vào lòng biển, sau đó tên này ung dung bơi trở lại ghe của bọn chúng. Khi cô gái rơi xuống biển, bọn hải tặc đã vội gom mọi thứ cướp được và nhảy trở lại ghe của bọn chúng.
Ngay khi chúng rời chiếc ghe của chúng tôi, lập tức ba người thanh niên của ghe chúng tôi đã nhảy xuống biển ngay vào nơi tên hải tặc vừa đấm cô gái để có thể cứu cô trở lên. Nhưng không may, sau hơn mười phút cố gắng lặn hụp tìm kiếm, cả ba người đều không thấy cô gái đâu cả, có lẽ do bị tên hải tặc đánh mạnh vào đầu, cô gái bất tỉnh nên đã chìm sâu vào lòng đại dương. Trong lúc đó, mọi người trên ghe đã dùng vài cái áo cũ nằm rải rác trên ghe do bọn hải tặc lục soát làm văng tung toé để dùng làm băng cứu thương buộc lại các vết thương cho ba thanh niên vừa bị bọn hải tặc chém, mọi người đều thương xót cho anh thanh niên nằm bất tỉnh trên ghe mà không biết em gái mình bị mất tích. Trong những giây phút hỗn loạn đó, tất cả chúng tôi đều bị khống chế bằng dao và mã tấu, cho nên việc chống cự không hiệu quả sẽ bị thiệt hại nhiều hơn nữa. Chúng tôi có cảm giác hết sức căm giận và hổ thẹn cho sự bất lực của chính mình khi thấy cảnh tượng đau lòng xảy ra cho những người xung quanh, đặc biệt là trường hợp của cô gái và anh trai của cô đang bị thương nằm trên sàn ghe.
 Sau trận cướp phá đầu tiên, trong vòng năm giờ đống hồ tiếp theo sau của buổi chiều hôm đó, chiếc ghe của chúng tôi phải gánh chịu thêm ít nhất ba đợt trấn lột khác nữa hết nhóm hải tặc này thì lại đến nhóm khác đến cướp bóc và trấn lột. Các lần sau này, khi bọn hải tặc đến cướp thì hầu như không còn gặp kháng cự nào của chúng tôi nữa vì mọi người đã mệt lả và không còn vật qúi giá gì để cướp nữa, bọn hải tặc đã vét cạn hết mọi thứ có được trên ghe, thậm chí đến đôi giày của em bé tám tuổi cũng bị bọn chúng lột khỏi đôi chân bé nhỏ của em để cướp lấy, sự việc rất đau lòng nhưng đó lại là sự thật hiển nhiên đã xảy ra trên đường vượt biên của chúng tôi. Sau các đợt bị bọn hải tặc cướp, mọi người trên ghe chỉ còn dính duy nhất một bộ quần áo trên người mà thôi, có anh chỉ còn quần xà lỏn che thân.
Ngày thứ năm trên biển với thực phẩm đã hết, nước uống và dầu cạn dần. Trong ba ngày còn lại, trước khi trôi vào một hoang đảo mà sau này chúng tôi được biết là của Nam Dương, ghe chúng tôi đã gặp một vài tàu lớn đi ngang, nhưng họ đã quay mũi tàu bỏ đi từ xa, không vớt chúng tôi lên tàu, chỉ có một chiếc tàu do thấy cảnh đói khát, bệnh dịch thê thảm của chúng tôi nên đã quăng xuống ghe một ít thực phẩm và nước uống, vừa cho xong là họ rồ máy đi ngay bỏ lại chiếc ghe nhỏ của chúng tôi lênh đênh trên vùng biển vắng.
Khi chúng tôi lên được một đảo hoang, chúng tôi đã chôn cất anh trai của cô gái mất tích trên biển vì vết thương làm mất nhiều máu nên anh đã chết hai ngày sau đó, chúng tôi không nỡ bỏ anh xuống lòng biển cả mà cố đợi vào đất liền để có thể chôn cất anh. Điều rất may là lúc anh vừa mất, chúng tôi thấy hy vọng lấp ló đâu đó bóng dáng của vài hoang đảo. Khi vào được đảo hoang thì số thực phẩm ít ỏi còn lại đều bị lên men chua nên không ai ăn được nữa, chúng tôi phải leo hái các trái dừa tươi trên đảo để ăn cho đỡ đói hết hơn môt ngày. Sau đó nhờ có tầu của phủ Cao Ủy Liên Hợp Quốc đi ngang đã vào đón chúng tôi về đảo Galang I cách đó khoảng một chục cây số. Đa số người đi trên ghe của chúng tôi đếu ở lại trị tị nạn không quá sáu tháng, vì mọi người đều là gia đình thuộc quân lực Viêt Nam Công Hòa hay đã có sẵn thân nhân ở các nước Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Anh, Úc...nên đều được đi định cư sớm.
Những ngày chúng tôi sống trong trại tị nạn của đảo Galang I đi qua thật nhanh và thường vào những đêm ngủ, chúng tôi đều gặp ác mộng về chuyến đi vừa rồi và chờ đến sáng hôm sau mọi người đem ra kể lại cho nhau nghe những giấc mơ hãi hùng và kinh dị, ai nấy cũng đều thương cảm cho những người không may mắn tử nạn trên đường vượt sông, vượt biển vừa qua. Một tháng đúng, sau khi ghe chúng tôi cặp vào hoang đảo, nhóm chúng tôi đã họp mặt để làm lễ cúng tưởng niệm cho ba người đã chết trong hai lần vượt biên gồm một em bé mười một tuổi, cô gái và anh trai của cô. Chúng tôi đã đồng cầu nguyện cho những người không may mắn đến đến được bến bờ tự do, đã chết trên sông trên biển, hoang đảo hay đất liền đều được siêu thoát về cõi vĩnh hằng.
Chúng tôi cũng sẽ nguyện cố gắng sống sứng đáng nơi xứ người để góp phần vào xây dựng cộng đồng nơi mình sinh sống, và lúc nào cũng quyết tâm và nỗ lực không mệt mỏi để góp phần nhỏ vào việc đấu tranh xóa bỏ chế độ độc tài Cộng Sản nhằm đem lại tự do và thịnh vượng cho đất nước Việt Nam của chúng ta trong tương lai không xa. Phạm Kim Đặng Phúc Hòa

HÌNH ẢNH DI CƯ 1954

Hình ảnh năm 1954: từ Bắc vô Nam 

 
Bốn thủy thủ hải quân căng biểu ngữ đón chào người Di Cư lên chiến hạm
USS Bayfield (APA-33) từ bến Hải Phòng để đi Saigòn vào ngày 3-9-1954


Bán đồ đạc chuẩn bị di cư vào nam sau khi Hiệp định Genève được công bố

Việt Minh và Pháp bàn giao bót Hàng Trống


Bộ đội tiến vào tiếp thu bót Hàng Trống, lúc này đang là Ty Cảnh Sát TP Hà Nội

Bộ đội Việt Minh tiến vào tiếp quản Hà Nội


Bộ đội Việt Minh tiến vào Hà Nội

Di cư vào nam

Chuẩn bị lên tầu vào nam

Ra phi trường Gia Lâm

Phi trường Gia Lâm


Hải Phòng

Lên tầu vào Nam

Hải Phòng 1954

Lễ hạ cờ Tây lần cuối cùng trong thành Hà Nội, phía trước Đoan Môn,
chấm dứt hơn 70 năm chiếm đóng thành Hà Nội từ năm 1883 của quân Pháp.

Những ngày cuối cùng của Hà Nội, bệnh viện Yersin
Jul 1954, dân chúng đọc Viet-Nam Presse
Những ngày cuối cùng ở Hà Nội
Một thủy thủ hải quân Mỹ giúp một phụ nữ miền Bắc (di cư) nặng gánh lên tàu


Vị tuyên úy Hoa Kỳ, thiếu úy Francis J. Fitzpatrick giúp người di cư trên con tàu USS Bayfield vào khoảng tháng 9 năm 1954. Trên suốt chuyến hành trình từ Bắc vô Nam,
vị tuyên úy này cũng là người thông dịch giữa người Mỹ vào Việt Nam di cư.


Một y tá đang điều trị cho một người phụ nữ miền Bắc (di cư)
có cánh tay bị thương vào ngày 7-9-1954
Một bệnh nhân khác cũng được điều trị thuốc.

Đồng bào miền Bắc di cư (vào Nam) nhận phần ăn trên tàu.
Một người di cư xếp hàng nhận phần ăn.


Một em bé di cư giúp anh lính hải quân cạo sơn trên tàu, ngày 7-9-1954.
Chúng ta để ý bên cạnh có bình khí oxygen.

Có lẽ đây là lần đầu tiên, người di cư này thử dùng nước lạnh từ máy lọc nước.

Các em bé di cư giơ tay đón lấy kẹo Mỹ…

Tàu USS Bayfield (APA-33) cập bến Saigòn vào tháng 9 năm 1954

Mỗi người di cư nhận gói gạo, chai nước mắm khi rời tàu Bayfield (APA-33)
ở cảng Saigòn vào tháng 9 năm 1954


Partir c'est choisir La Liberté= Ra đi là sự lựa chọn tự do.

To go Southvards is to choose freedom = Vào Nam là lựa chọn tự do.

Cầu nguyện trước khi vào Nam.
Xe tải từ các tỉnh đổ người di cư xuống ga Hàng Cỏ.
Rất đông phụ nữ và trẻ em.
Chiếu chăn mang theo cho biết họ đã qua một một chặng đường dài
trước khi về đến Hà nội.
Chờ lên tàu dưới sự hướng dẫn của binh sĩ Pháp.







No comments:

Post a Comment