QUAN CHƯC BẮC HÀN THÁO CHẠY
Kim Jong-un tỏ rõ vẻ già nua trong những ngày tàn của chính quyền Triều Tiên. (Ảnh: Internet)
Có thể nói, chính quyền
độc tài Kim Jong-un đang trong giai đoạn hấp hối: Trong năm nay đã có ít
nhất 20 quan chức cấp cao của chính quyền Kim Jong-un bỏ trốn sang Hàn
Quốc. Ngày 27/10 vừa qua, truyền thông của Úc đã cung cấp thông tin cho
biết, số quan chức cấp cao của Triều Tiên chạy trốn càng ngày càng
nhiều.
Theo thông tin, trong số
những người bỏ chạy có cả quan chức của Bộ Chính trị Quân đội Nhân dân
(People‘s Army Politburo). Vị quan chức này khi được cử đi thăm Bắc Kinh
đã trốn chạy qua Hàn Quốc.
Đa số người bỏ trốn là quan chức ngoại giao được Kim Jong-un tín nhiệm
Vào tuần trước, Cục Tình
báo Hàn Quốc (NIS) đã công bố số liệu mới nhất về các quan chức Triều
Tiên bỏ trốn. Người phụ trách NIS cho biết, đa số những người bỏ chạy
đều là quan chức được Kim Jong-un tín nhiệm, họ sau khi được cử đi nước
ngoài đã quay về Hàn Quốc mà không về Triều Tiên.
Trong số những người trốn
khỏi có thành viên của Phòng số 39 Đảng Lao động Triều Tiên (tức Ban Kế
toán – Tài chính Triều Tiên). Phòng số 39 phụ trách quản lý quỹ hối lộ
của Kim Jong-un.
Theo thông tin, trong số
quan chức tạo phản có người được phái đi Phi châu, phụ trách về dự án
tượng đài bằng đồng. Triều Tiên nổi tiếng về xây dựng tượng đài khổng lồ
bằng đồng mang phong cách Chủ nghĩa Xã hội, thợ của Triều Tiên có nhu
cầu thị trường lớn ở Zimbabwe. Vị quan chức này đã mang theo một phần
tiền dự án bỏ chạy.
Theo NIS, số quan chức tháo
chạy khỏi Bình Nhưỡng đang ngày càng tăng lên. Năm 2003, có 8 quan chức
chạy đến Seoul, còn năm ngoái có 18 quan chức. Ngoài ra còn nhiều quan
chức đã chạy đến Âu châu và Mỹ.
Vai trò thống trị của Kim Jong-un không còn giữ được lâu?
Giáo sư Toshimitsu Shigemura thuộc Đại học Waseda ở Tokyo cho biết: “Quyền lực của Kim Jong-un đang ngày càng bấp bênh”.
“Sau sự kiện hành quyết ông
chú dượng Jang Sung-taek vào tháng 12/2013, rất nhiều quan chức đã
quyết định bỏ chạy vì lo lắng họ sẽ trở thành đối tượng tiếp theo. Những
lo lắng cho đến nay vẫn thường trực. Kể từ tháng 12/2011 khi Kim
Jong-un kế vị, vì để nắm quyền tốt hơn, tên độc tài này đã tiến hành
thanh trừng hàng loạt quan chức.”
Giáo sư Toshimitsu
Shigemura còn cho biết, Kim Jong-un đã hành quyết rất nhiều người, trở
thành chính quyền theo Chủ nghĩa Stalin. Những người bỏ trốn đã bỏ cả
gia đình của họ, nếu họ quay lại Triều Tiên chắc chắn sẽ bị hành quyết.
Có thể họ nhận thấy chính quyền Kim Jong-un đang đến ngày tàn. Khi chính
quyền sụp đổ họ có thể cứu được gia đình của họ.
Kim Jong-un sợ chính biến và bị ám sát
Việc Kim Jong-un không xuất
hiện trong Lễ Duyệt binh ở Bắc Kinh được giới quan sát chú ý. Ngày 9/3,
Thời báo New York đã dẫn lời Phó Giáo sư John Delury thuộc Đại học
Yonsei cho biết, việc Kim Jong-un vắng mặt có thể vì sợ sẽ không an toàn
khi ra khỏi Triều Tiên.
Trong bài báo “Ngày tận thế
của Triều Tiên” (North Korea’s Endgame) đã kể về lối sống xa hoa của
chính quyền Kim Jong-un làm cạn kiệt tài sản mà các đời trước để lại,
việc duy trì chế độ của chính quyền Triều Tiên vì thế ngày càng khó
khăn, nguy cơ bị ám sát luôn thường trực đe dọa.
Ngày 12/5/2015, một nữ quan
chức cấp cao trốn khỏi Triều Tiên đã tiết lộ trên kênh CNN của Mỹ, Kim
Jong-un đã áp dụng kiểu khủng bố chính trị mới hoàn toàn khác. Trước đây
ông Kim Jong-il thường đối phó kẻ thù chính trị bằng cách bỏ tù, nhưng
Kim Jong-un thì trực tiếp hành hình, mức độ tàn nhẫn đến chính những
người quen thấy sự tàn nhẫn dưới thời Kim Jong-il cũng phải kinh hãi.
Người phụ nữ này nói, Kim
Jong-un lên nắm quyền được 3 tháng đã hành quyết 7 thân tín, tịch thu
tài sản và chu di tam tộc toàn bộ người thân trong gia đình của họ, bao
gồm cả trẻ em cũng không tha. Trong 3 năm đầu cầm quyền, hàng trăm người
ưu tú đã bị hành quyết.
Trước đó, vào ngày 11/5, nữ
quan chức này đã cho CNN biết, Kim Jong-un đã hạ lệnh giết người cô là
Kim Kyong-hui bằng cách bắt uống thuốc độc. Sau đó vào ngày 13/5, báo
Yonhap (thông tấn xã Hàn Quốc) đã đưa tin nhân vật số hai trong quân đội
Triều Tiên, Phó Nguyên soái Tổng Tham mưu Trưởng Quân đội Nhân dân
Triều Tiên là Hyon Yong-chol bị Kim Jong-un hành hình bằng pháo cao xạ
với sự chứng kiến của hàng trăm người tại hiện trường.
HỒ VĂN CHÂM * SỐNG CÒN VỚI DÂN TỘC CỦA HÀ THÚC KÝ
SỐNG CÒN VỚI DÂN TỘC CỦA HÀ THÚC KÝ
HỒ VĂN CHÂM\
“Sống Còn Với Dân Tộc” là nhan đề cuốn hồi ký chính trị của cố Chủ Tịch Đại Việt Cách Mạng Đảng Hà Thúc Ký.
Kỹ
sư Hà Thúc Ký sinh trưởng ở Huế, xuất thân là quan chức ngành Thủy Lâm
thời Pháp thuộc. Sau khi Việt Minh nắm chính quyền, quan Tham Thủy Lâm
Hà Thúc Ký gia nhập Giải Phóng Quân (Vệ Quốc Đoàn) chiến đấu ở Mặt Trận
Nam Lào. Vì có mâu thuẫn cá nhân với viên chính ủy mà bị quy chụp là
thành phần phản động Việt Nam Quốc Dân Đảng, Hà Thúc Ký rời quân ngũ, ra
Hà Nội sống trở lại đời sinh viên. Tại đây, chàng trai 25 tuổi Hà Thúc
Ký gia nhập Đại Việt Quốc Dân Đảng, và được giao công tác làm Trưởng ban
Báo chí Nội Thành. Cuối năm 1946, Hà Thúc Ký được lệnh trở về Huế làm
Phụ tá cho Bác sĩ Bửu Hiệp là Xứ Ủy Xứ Bộ Trung Việt của Đại Việt Quốc
Dân Đảng. Sau khi Bửu Hiệp bị ám sát, Hà Thúc Ký thay thế làm Xứ Ủy, và
đã cùng một số cộng sự viên xây dựng cơ sở vững mạnh cho đảng Đại Việt
tại miền Trung, đặc biệt là ở hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Sau biến
cố Ba Lòng, đảng Đại Việt bị chính quyền đương thời đàn áp, bản thân Hà
Thúc Ký bị kết án và bị bắt giam. Qua thời đệ nhị Cộng Hòa, Hà Thúc Ký
tập họp đồng chí tản mác khắp nơi để tái lập Đại Việt Quốc Dân Đảng. Tổ
chức mới tiếp nối truyền thống Trương Tử Anh, xiển dương chủ nghĩa dân
tộc sinh tồn, chủ trương cách mạng, nên mang danh xưng là Đại Việt Cách
Mạng Đảng. Lãnh tụ Hà Thúc Ký đưa Đại Việt Cách Mạng Đảng ra hoạt động
công khai, bố trí đảng viên tham gia chính quyền trong các ngành lập
pháp, hành pháp, quân đội, công an, cảnh sát, chiêu hồi, xây dựng nông
thôn. Sau ngày Sắc Luật Tu Chính Quy Chế Chính Đảng được ban hành vào
năm 1972, Đại Việt Cách Mạng Đảng trở lại hoạt động bí mật. Từ năm 1975,
tại hải ngoại, Chủ Tịch Hà Thúc Ký tiếp tục được tín nhiệm ở vị thế
lãnh đạo Đảng cho đến năm 2005. Hà Thúc Ký mất năm 2008 tại Mỹ, hưởng
thọ 88 tuổi.
Cuốn
hồi ký “Sống Còn Với Dân Tộc” của Hà Thúc Ký khổ trung bình, dài 371
trang, bìa cứng, giấy trắng, ấn loát rõ ràng, trình bày trang nhã, do
Phương Nghi ấn hành năm 2009. Ngoài phần đầu ngắn gọn dành cho các hồi
ức về thời niên thiếu ở Huế và cuộc đời công chức ở Cà Mâu, hồi ký của
Hà Thúc Ký chủ yếu nói về các hoạt động của tác giả từ năm 1945 đến năm
1975, kể từ khi gia nhập Giải Phóng Quân chiến đấu ở Mặt Trận Nam Lào
cho đến ngày lên tàu Trường Xuân di tản ra nước ngoài, sống đời lưu vong
của người tỵ nạn cộng sản. Hồi ký của Hà Thúc Ký hầu như không nhắc nhở
gì đến các hoạt động từ năm 1975 trở đi. Có lẽ tác giả nghĩ rằng trong
cuộc đời hoạt động chính trị của mình có những công việc mà tới giờ phút
lâm chung tác giả vẫn chưa tiện nói ra hết các tình tiết, ngọn ngành,
nhất là những công việc đã làm trong thời gian sống lưu vong trên đồng
đất nước người, bởi lẽ thời cơ chưa thuận lợi, vận nước chưa hanh thông,
một số lớn những người có liên hệ đến các công việc đó đang còn ở trong
vòng kiềm tỏa của chính quyền chuyên chính trong nước.
Người viết những dòng tản
mạn này được nhà xuất bản Phương Nghi ưu ái gửi cho một bản với lời đề
tặng thân tình kèm chữ ký ghi chú “Ký thay anh Cả”. Phương Nghi không ai
khác là phu nhân của tác giả cuốn hồi ký. Chính vì cảm kích ân tình tri
ngộ của anh chị Hà Thúc Ký mà người viết nảy sinh ý định ghi lại những
dòng tản mạn này về cuốn hồi ký “Sống Còn Với Dân Tộc”, trước là để nói
lên những cảm nghĩ chân thành của mình về người lãnh tụ nay đã khuất
núi, sau nữa là để soi sáng một số vấn đề tuy có nêu ra trong cuốn hồi
ký nhưng tác giả không tiện kể hết tình tiết, ngọn ngành, bởi lẽ tác giả
nghĩ rằng cái tôi là cái đáng ghét, tác giả không muốn mang tiếng khoe
khoang để tự đề cao hay biện minh để đổ trách nhiệm cho người khác.
Tác giả cuốn hồi ký “Sống
Còn Với Dân Tộc” thuộc dòng dõi quan lại, bên nội bên ngoại đều là đại
thần lương đống triều đình. Bản thân tác giả cũng là người thành đạt
trên cả hai mặt khoa hoạn. Thế nhưng tác giả Hà Thúc Ký là con người rất
mực khiêm cung. Nếp sống bình nhựt của tác giả rất ngăn nắp và giản dị.
Tác giả không uống trà, không uống rượu, không hút thuốc lá, không
ghiền cà phê. Trong bữa tiệc tại tư gia Thiếu tá Thao Ô chỉ huy trưởng
lực lượng Lào Độc Lập Ê Cà Lạt ở mặt trận quốc lộ 9, tác giả Hà Thúc Ký,
dù đã nín thở cố nuốt trôi món ruột trâu chấm mật để giữ phép lịch sự
tôn trọng chủ nhà, vẫn cương quyết từ chối uống rượu trong lúc các quan
khách khác, phần lớn là các tài xẻng địa
phương, thi nhau uống rượu như hũ chìm. Tác giả Hà Thúc Ký không ham ăn
ngon mặc đẹp, không quen nếp sống xa hoa, không mấy khi lui tới các nơi
trà đình tửu quán, và không bao giờ đi ngang về tắt, lân la sớm mận tối
đào. Dù ở cương vị Đảng trưởng hay ở cương vị Bộ trưởng, những khi đi
công tác bên ngoài mà có sinh hoạt liên hoan với anh em đồng chí hay với
thuộc hạ dưới quyền, tác giả Hà Thúc Ký luôn luôn nêu cao tinh thần
đồng cam cộng khổ với mọi người. Tác giả Hà Thúc Ký từ chối không tiếp
nhận những biệt đãi dành riêng cho lãnh đạo. Người viết còn nhớ một lần
tháp tùng anh Cả đi công tác đảng vụ ở Vũng Tàu, ngoài các buổi sinh
hoạt tập thể với anh em đảng bộ địa phương, hai người chúng tôi lui về
trú ngụ trong ngôi biệt thự của kỹ sư Nguyễn Thôn là bạn đồng nghiệp
Thủy Lâm của tác giả, để sáng sớm thảnh thơi tắm biển và điểm tâm bằng
một chiếc bánh ú với nước lã đun sôi để nguội, bỏ ngoài tai lời nài nỉ
thiết tha của các đồng chí có lòng mến mộ mời chúng tôi đi thưởng thức
đặc sản của Vũng Tàu. Một lần khác đưa theo người viết ra Huế sinh hoạt
đảng vào mùa hè nắng nóng, Tổng Bí Thư Hà Thúc Ký đã nhờ đồng chí Tôn
Thất Tế là Bí thư Đảng bộ Liên Tỉnh Bắc Hải Vân tổ chức cho chúng tôi
ngủ đò trên sông Hương thay vì ngủ qua đêm ở khách sạn. Người viết cùng
với mấy anh em lãnh đạo đảng bộ địa phương đã trải qua những giờ khắc
tuyệt vời bên cạnh vị lãnh tụ ít nói ít cười, rất mực nhân từ và độ
lượng được dấu kín trong cái võ bọc nghiêm nghị và khắc khổ. Những giờ
khắc đó là những giờ khắc trong sáng và lành mạnh đúng nghĩa, không trà
không rượu, không có thương nữ hát khúc Hậu Đình Hoa, duy chỉ có trăng
thanh gió mát với sóng vỗ mạn thuyền.
Tác giả hồi ký “Sống Còn
Với Dân Tộc” quen lề lối làm việc nghiêm túc, nói năng cẩn thận và khúc
chiết, đôi khi có phần bộc trực, không quanh co khuất tất, không dối trá
phỉnh nịnh để làm đẹp lòng người đối thoại. Bởi vậy, khi giải bày ý
tưởng lên giấy trắng mực đen, tác giả hồi ký “Sống Còn Với Dân Tộc” có
lối hành văn rõ ràng với ngữ nghĩa minh bạch, bút pháp vững chải, lời lẽ
cô đọng và ý tứ súc tích. Điều này được thể hiện rõ nét qua độ dày vừa
phải của cuốn hồi ký. Thật vậy, khối lượng dữ kiện được đề cập đến trong
tác phẩm rất phong phú và đa dạng. Với lề lối kể lể dông dài thường bắt
gặp trong phần lớn các cuốn hồi ký đã xuất bản trong mấy thập niên vừa
qua, hồi ký “Sống Còn Với Dân Tộc” có thể dày đến trên dưới một nghìn
trang thay vì thu gọn trong ba bốn trăm trang. Nói về quê quán của mình,
tác giả chỉ viết sơ lược về “cuộc đất Dinh”,
về cột lim đình làng, về đại hồng chung của chùa làng. Tác giả không
lan man đề cập đến thân thế và sự nghiệp Tư Đồ Võ Văn Dũng, cũng như
không đả động đến câu tục ngữ “thình thình như cột đình La Chữ”quen thuộc ở cửa miệng dân gian. Nói về truyền thống hiếu học của La Chữ, tác giả chỉ mô tả địa cuộc “nghiên bút”
theo quan điểm phong thủy của dân làng. Tác giả tuyệt nhiên không mảy
may tiết lộ về gia thế của mình. Chỉ tính riêng khoa thi Hương năm Bính
Ngọ, niên hiệu Thành Thái thứ 18 (1906), trường Thừa Thiên (dành cho sĩ
tử từ Quảng Bình đến Quảng Nam) có 25 người đậu Cử nhân thì La Chữ đã
chiếm hết 5 người. Đó là các ông Lê Hoàn, Hà Xuân Hải, Hà Thúc Tuân, Hà
Thúc Du, và Hà Thúc Huyên. Ba ông Hà Thúc này là ba anh em ruột, và ông
Hà Thúc Huyên là thân phụ tác giả. Cả ba ông Hà Thúc này về sau đều là đại thần lương đống triều đình, góp phần tạo thành câu nói cửa miệng của người đương thời ở đất Thần Kinh “nhất Thân, nhì Đặng, tam Hà”.
Với cương vị người lãnh
đạo một chính đảng, Chủ Tịch Hà Thúc Ký thường xuyên được anh em đồng
chí khắp nơi thông báo các sự kiện quan trọng xảy ra bên trong Việt Nam.
Chắc chắn tác giả hồi ký “Sống Còn Với Dân Tộc” đã nghe nói đến các
khai quật khảo cổ tại Cồn Ràng và Cồn Dài trong địa phận xã Hương Chữ.
Những phát hiện tại hai di chỉ này rất quan trọng. Các hiện vật mang dấu
ấn văn hóa Sa Huỳnh tại Cồn Ràng, nhất là hàng trăm mộ chum và hiện vật
tùy táng phân bố dày đặc tại Cồn Dài, đã dứt khoát khẳng định sự kiện
văn hóa Sa Huỳnh không chỉ lan tỏa trong phạm vi Nam Hải Vân mà còn tiến
xa hơn lên phía bắc. Gần đây, nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan ở Huế đã sưu
tập rất nhiều cổ vật được trục vớt từ đáy sông Hương. Ngoài những đồng
tiền đời Tùy, đời Đường, điều đáng quan tâm trong bộ sưu tập là sự đa
dạng và phong phú của những mảnh gốm mang dấu ấn văn hóa Sa Huỳnh. Các
hiện vật thu lượm được ở Hương Chữ thuộc huyện Hương Trà cùng với việc
phát hiện trống đồng Đông Sơn ở Phong Mỹ thuộc huyện Phong Điền ở kế
bên, đã minh chứng một thực tế trong quá khứ xa xưa rằng vùng Huế là địa
bàn giao thoa, hay hơn thế nữa, là trung tâm hội tụ của hai nền văn hóa
rực rỡ Đông Sơn và Sa Huỳnh. Việc khai quật khảo cổ đã xảy ra trên
chính làng quê La Chữ của mình, nhưng tác giả hồi ký “Sống Còn Với Dân
Tộc” không đưa vào trong tác phẩm. Tác giả nghĩ rằng chuyện này xảy ra
sau năm 1975, tác giả không thể có mặt ở trong nước, không thể có điều
kiện tự thân mắt thấy tai nghe để hiểu rõ tường tận tình tiết ngọn
ngành, nên lược bỏ không bàn tới. Ngược lại, tác giả đã để dành nhiều
trang viết về khuôn phép học đường, tổ chức hành chánh, lễ tế Nam Giao,
cùng với một vài nét văn hóa đặc thù thời Pháp thuộc, là những điều tác
giả am tường, thông thạo, vì lẽ tác giả ít nhiều là người trong cuộc,
kiến thức thu góp được chủ yếu rút tỉa từ kinh nghiệm bản thân. Tác giả
mong muốn truyền đạt những thông tin ấy cho lớp người trẻ đi sau. Nói
tóm lại, những gì nên viết ra, những gì nên lược bỏ, tác giả đều đắn đo
suy tính kỹ càng. Đó là dụng tâm của tác giả hồi ký “Sống Còn Với Dân
Tộc”, và là biểu hiện bản chất cẩn trọng trong lời nói và việc làm của
con người Hà Thúc Ký.
Bản chất cẩn trọng đó
bàng bạc trong văn phong của tác giả. Độc giả thường xuyên của Tạp chí
Cách Mạng những năm trước đây quen thuộc với các bút hiệu Nam Phong, Bắc
Vũ đều có chung nhận xét rằng trong các bài viết của tác giả Hà Thúc
Ký, không những câu văn mạch lạc, ý tứ khúc chiết, mà việc dùng từ và
đánh dấu cũng không hề vượt ra ngoài quy phạm của tiếng Việt phổ thông.
Bởi vậy, một vài khuyết điểm nhỏ nhặt về hình thức bắt gặp rải rác trong
hồi ký “Sống Còn Với Dân Tộc” không phải là sơ sót của tác giả mà chủ
yếu là do khâu ấn loát. Vì lý do bệnh tiểu đường trở nặng, tác giả không
có điều kiện rà soát lại bản layout trước khi đem in. Những lỗi chính
tả như Hội Quảng Trị (Hội Quảng Tri), cung Càng Thành (cung Càn Thành),
xắp xếp (sắp xếp), giậu đổ bình leo (giậu đổ bìm leo) v. v. rõ ràng là
lỗi lầm từ người đánh máy do thói quen phát âm sai hoặc không thông suốt
ngữ nghĩa. Quảng Tri là biết rộng, là tên một hội văn hóa, không liên
quan gì đến tỉnh Quảng Trị. Càn là Trời, là Vua, cung Càn Thành là nơi
vua ở, chứ Càng Thành thì không có nghĩa gì cả. Xuyên suốt hồi ký “Sống
Còn Với Dân Tộc”, tác giả viết toàn chuyện thật, người thật, không rườm
rà cà kê nghê ngỗng. Hãy lấy thí dụ ở Chương 5, đoạn Chung Cục Của Một
Triều Đại. Nói về liên hệ gia đình với nhà Nguyễn, tác giả chỉ viết vắn
tắt bác và cha đều làm quan nhà Nguyễn, mẹ và vợ đều là người hoàng tộc.
Tác giả đâu có kể lể dài dòng các bác người thì Hiệp Tá Đại Học sĩ,
người thì Tuần Vũ, còn thân phụ thì Tham Tri bộ Hình, rồi chuyển qua
Tham Tri bộ Lại. Tác giả cũng không đi quá xa đề tài, lan man nói mẹ là
người hệ 9, hậu duệ của Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, vợ là người hệ 3, hệ
tổ là Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên. Vậy thì một vài khuyết điểm như vừa
nêu trên đã phát xuất từ khâu ấn loát, xét ra lại chẳng quan trọng gì,
độc giả chắc chắn cũng rộng tình thông cảm.
Sau khi Hiến pháp
1-4-1967 được ban hành, các tổ chức chính trị ở miền Nam Việt Nam náo
nức chuẩn bị người ra tranh cử vào các cơ quan công quyền. Đại Việt Cách
Mạng Đảng đưa Liên Danh Bông Lúa Hà Thúc Ký - Nguyễn Văn Định ra tranh
cử Tổng Thống - Phó Tổng Thống, và 4 Liên Danh Bông Lúa, Bó Lúa, Cấy
Lúa, Gặt Lúa ra tranh cử Thượng Viện. Mỗi liên danh tranh cử Thượng Viện
gồm 10 ứng viên chính thức và 1 ứng viên dự khuyết. Đưa ra một loạt 4
liên danh gồm 44 người để tranh cử 60 ghế Nghị sĩ, Tổng Bí Thư Hà Thúc
Ký hy vọng đắc cử được 1 liên danh. Vì vậy, tinh binh mãnh tướng của Đại
Việt Cách Mạng Đảng đều dồn hết cho Liên Danh Bông Lúa là liên danh
tranh cử Thượng Viện được mang cùng dấu hiệu đảng huy với liên danh
tranh cử Tổng Thống – Phó Tổng Thống. Người viết được xếp vào Liên Danh
Cấy Lúa. Biết được dụng tâm của người lãnh đạo Đảng, một vài anh em có
hỏi sao không sắp xếp để người viết vào Liên Danh Bông Lúa thì được anh
Cả cho biết là đã có chủ trương để người viết đảm trách nhiệm vụ khác.
Số là Tổng Bí Thư Hà Thúc Ký nhận xét rằng người viết có khả năng tổ
chức và điều hành hơn là công tác vận động hành lang nên chuẩn bị đưa
người viết tham gia ngành hành pháp chứ không muốn người viết đắc cử vào
nghị trường. Trước đây không lâu đã có lần Đại Việt Cách Mạng Đảng giới
thiệu người viết làm Tỉnh Trưởng Quảng Trị thay thế Đại Tá Nguyễn Ấm
xin từ chức. Nay gặp lúc giới chính trị Sài Gòn phản đối việc cả Tướng
Thiệu lẫn Tướng Kỳ đứng chung một liên danh mà cuộc bầu cử lại do chính
quyền đương nhiệm tổ chức nên đòi hỏi phải có một chính phủ chuyển tiếp
để việc bầu cử được vô tư và công bằng, Đại Việt Cách Mạng Đảng một mặt
vẫn ráo riết chuẩn bị việc tranh cử, mặt khác cử Bác sĩ Nguyễn Thạch và
Kỹ sư Nguyễn Thôn cùng với người viết tham gia chính phủ chuyển tiếp.
Gần đến ngày nộp hồ sơ cho ủy ban bầu cử, sau khi duyệt xét lần cuối các
danh sách ứng viên, Tổng Bí Thư Hà Thúc Ký sợ rằng Liên Danh Cấy Lúa có
thể đắc cử nên đã rút tên 2 ứng viên sáng giá Nguyễn Đình Hoan, Giáo sư
Viện Đại Học Huế và Đoàn Ý, Luật sư Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn, ra khỏi
Liên Danh Cấy Lúa để tăng cường cho các liên danh khác. Có lẽ đoán được ý
nghĩ của Tổng Bí Thư Hà Thúc Ký không mong muốn cho Liên Danh Cấy Lúa
đắc cử nên vào phút chót Đại Tá Phạm Đỗ Thành, Giám Đốc Nha Quân sản Bộ
Quốc Phòng, đã rút tên ra khỏi Liên Danh Cấy Lúa khiến người viết phải
vất vả ngược xuôi kiếm người điền khuyết để kịp hoàn tất hồ sơ đúng hạn
kỳ.
Đầu năm 1969, Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu ủy nhiệm Phụ tá Nguyễn Cao Thăng thương nghị với các tổ
chức chính trị trong nước để thành lập Mặt Trận Dân Chủ Xã Hội. Kết quả
có 6 đoàn thể thỏa hiệp tham gia Mặt Trận. Đây là một cuộc hôn nhân vì
lý trí chứ không phải là một sự gắn bó tình nghĩa để phụng sự lý tưởng
chung. Tổng Thống Thiệu lợi dụng Mặt Trận để tuyên truyền rằng chính
quyền có hậu thuẫn quần chúng. Các đoàn thể trong Mặt Trận lợi dụng danh
nghĩa hợp tác để sử dụng phương tiện chính quyền trong mục đích bành
trướng cơ sở và phát triển thế lực, nhất là để tham gia các cương vị
công cử cấp trung ương. Kịp đến khi chính phủ Trần Thiện Khiêm thành lập
vào đầu tháng 9 năm 1969 thì chỉ có 2 đảng Nhân Xã và Đại Việt Cách
Mạng được mời tham gia. Các đoàn thể không được mời lặng lẽ quay sang
phía đối lập. Mặt Trận âm thầm tan rã. Để công chúng không chú ý đến sự
kiện này, nhật báo Chính Luận, trong bài nhận định về tân Nội các, đã
viết rằng 2 ông Hồ Văn Châm và Ngô Khắc Tỉnh tham gia chính phủ với tư
cách nhân sĩ độc lập, cũng như bản tin Việt Tấn Xã đã đăng danh sách các
thành viên Nội các mà không hề đả động đến xuất xứ đảng phái của người
viết và của Dược sĩ Ngô Khắc Tỉnh. Ngược lại, sau màn độc diễn năm 1971
của liên danh Nguyễn Văn Thiệu - Trần Văn Hương, Đại Việt Cách Mạng Đảng
chuyển sang thế đối lập với chính quyền, rồi tiếp đến, Sắc Luật Tu
Chính Quy Chế Chính Đảng được ban hành năm 1972 giải tán các chính đảng,
Đại Việt Cách Mạng Đảng lui về hoạt động bí mật, thì trong dịp công bố
Nội các cải tổ tháng 2 năm 1974, Việt Tấn Xã lại loan tin người viết
tham gia Nội các với tư cách là Tổng Ủy viên Tổ chức Ban Chấp Hành Trung
Ương Đại Việt Cách Mạng Đảng. Việc người viết đã ở lại trong Nội các
qua mấy lần cải tổ trước đây là chuyện bàn tính riêng giữa người viết
với Chủ Tịch Hà Thúc Ký, không mảy may gây sự chú ý của một ai. Nhưng
lối loan tin lần này của Việt Tấn Xã đã gây nên dư luận sôi nổi trong
giới chính trị đối lập với chính quyền, và đặt Chủ Tịch Đại Việt Cách
Mạng Đảng vào vị thế khó ăn khó nói. Đương nhiên Việt Tấn Xã không đưa
tin như thế nếu không có chỉ thị từ cấp cao hơn. Dù sao thì chính quyền
một phần nào cũng đạt được mục đích gây phân hóa trong hàng ngũ các tổ
chức đối lập.
Để làm êm dịu dư luận,
nhất là để hóa giải sự nghi kỵ Đại Việt Cách Mạng Đảng đi đêm với chính
quyền đương nhiệm, Chủ Tịch Hà Thúc Ký cho phổ biến tại hành lang Thượng
Viện tờ xác minh người viết không ở trong Đại Việt Cách Mạng Đảng kể từ
31-12-1972. Văn kiện xác minh này được soạn thảo rất khéo, chỉ nêu lên
sự việc mà không nói lý do cũng như không kèm theo lời giải thích, để
người đọc muốn hiểu sao thì hiểu. Rõ ràng là Sắc Luật Tu Chính Quy Chế
Chính Đảng ban hành vào giữa năm 1972 sửa đổi Luật 19-6-1969, với những
điều lệ ràng buộc hết sức khắt khe, đã gián tiếp giải tán tất cả các
chính đảng đương thời kể từ ngày 31-12-1972. Như vậy, đứng về mặt hợp
pháp để được hoạt động công khai, đảng đã không tồn tại thì đương nhiên
đảng viên không còn ở trong đảng. Dù sao thì việc loan tin người viết
không ở trong Đại Việt Cách Mạng Đảng kể từ 31-12-1972 cũng giải hóa
được sự nghi kỵ của các tổ chức đối lập, gỡ cho Chủ Tịch Hà Thúc Ký
thoát ra khỏi cái lúng túng nhất thời và đưa Đại Việt Cách Mạng Đảng trở
về vị trí nguyên thủy trong hàng ngũ Lực lượng thứ ba. Nhưng dư luận
anh em trong nội bộ Đại Việt Cách Mạng Đảng thì lại khác, nhất là sau
ngày người viết chuyển sang bộ Cựu Chiến Binh lại kiêm nhiệm thêm bộ Dân
Vận Chiêu Hồi. Một vài nhóm anh em ở miền Trung đòi hỏi thi hành kỷ
luật sắt máu, khiến Chủ Tịch Hà Thúc Ký phải lên tiếng ngăn cản, và Ban
Bảo vệ yếu nhân của cảnh sát Sài Gòn phải tăng cường nhân sự canh gác
nhà riêng cũng như sở làm của người viết. Chủ Tịch Hà Thúc Ký chỉ lên
tiếng ngăn cản dự tính của các phần tử quá khích, chứ không tiết lộ bất
kỳ tình tiết gì, mà bản thân người viết cũng im lặng, không biện minh,
không giải thích với bất kỳ ai, ngay cả với vợ con trong nhà. Bởi vậy,
sự việc tuy có gây nên công luận sôi nổi nhất thời, nhưng rồi cũng theo
ngày tháng trôi qua, ai hiểu sao thì hiểu, không một ai biết rõ ẩn tình,
duy chỉ có người viết hết lòng cảm phục Chủ Tịch Hà Thúc Ký đã đi một
nước cờ tuyệt vời của bậc thầy cao thủ.
Liên hệ giữa tác giả
“Sống Còn Với Dân Tộc” Hà Thúc Ký và người viết chủ yếu là tương quan
đảng vụ. Tuy vậy, do sự đẩy đưa của thời thế, cộng thêm một số yếu tố
riêng tư, tương quan này đã trở nên giao tình tri ngộ. Tác giả với người
viết không phải đồng trang lứa. Tuổi chúng tôi chênh lệch nhau đúng một
con giáp. Tác giả với người viết không phải là đồng nghiệp, lại cũng
không phải là bạn bè, cho dù là bạn vong niên. Tác giả với người viết
cũng không phải là bà con, mặc dù tác giả với vợ người viết là anh em
con dì con già. Thật vậy, tác giả với người viết làm việc chung với nhau
đã lâu, thế mà mãi đến giữa năm 1967, tác giả có việc cần nên đến tìm
người viết tại nhà riêng mới vỡ lẽ là em gái bà con với mình là vợ của
người Tổng Ủy viên Tổ Chức của mình. Rõ ràng là tác giả “Sống Còn Với
Dân Tộc” và người viết gắn bó với nhau hoàn toàn là do công việc chung.
Điều đáng nói là sự gắn bó đó được kết dính bởi lòng tin cậy vào khả
năng và tinh thần tận tụy với công việc của nhau, chứ không phải do cảm
tình cá nhân hay do liên hệ gia đình. Gia dĩ, tác giả Hà Thúc Ký và
người viết cá tính có nhiều điểm giống nhau, bẩm sinh đều ít nói, lại
quen tính quyết đoán, không thích bàn bạc dài dòng, nên gặp lúc ý kiến
không thống nhất với nhau thì đi đến sự đồng thuận là trong phạm vi
trách nhiệm của ai thì người ấy làm. Người viết được Chủ Tịch Hà Thúc Ký
ủy thác công việc trong tinh thần tin cậy. Cho dù phải tự lo tự liệu,
công việc đôi lúc kinh qua nhiều giai đoạn khó khăn, nhưng cuối cùng kết
quả đều tốt đẹp, nên tương quan giữa chúng tôi y hệt mối tương quan
công vụ giữa Hoàng Đế Napoleon Bonaparte và Thượng Thư
Talleyrand-Perigord thời Đế chế nước Pháp. Đó là điều mà người viết gọi
là giao tình tri ngộ. Một sự kiện khác cũng cần nêu lên là mối liên hệ
giữa tác giả “Sống Còn Với Dân Tộc” và Cố Nghị sĩ Trần Điền. Sự thật chỉ
giản đơn Trần Điền là anh rể của Hà Thúc Ký. Thế nhưng, bất kỳ ai ở Huế
lưu tâm đến chuyện thời thế cũng cho rằng Trần Điền là đảng viên Đại
Việt, nhất là sau vụ biến động Ba Lòng, Tỉnh trưởng Quảng Trị Trần Điền
mất chức và một số lớn đảng viên Đại Việt ở miền Trung phải ra tòa lãnh
án tù. Tỉnh Trưởng Trần Điền trong phạm vi quyền hạn của mình theo tinh
thần Dụ số 10 đã bổ nhiệm Quận Trưởng Nguyễn Ngọc Cứ và điều động các
đại đội Nghĩa Dũng đoàn lên chiếm đóng Ba Lòng hoàn toàn vì mục tiêu
công vụ, không giây mơ rể má gì đến quan hệ gia đình hay đảng phái. Trần
Điền ngay dưới thời Bảo Đại đã là người của nhóm nhân sĩ miền Trung
hoạt động ủng hộ Ngô Đình Diệm, và sau này đắc cử vào Thượng Viện do
đứng tên trong một liên danh không phải là Đại Việt. Bởi vậy, dư luận
bàn tán về tinh thần gia đình trị trong lề lối sử dụng nhân sự của Đại
Việt Cách Mạng Đảng là hoàn toàn phiến diện.
Lùi xa hơn về quá khứ,
việc các đảng viên Đại Việt cao cấp Lê Thăng và Nguyễn Tôn Hoàn tham
chính thời Quốc Trưởng Bảo Đại, việc cảm tình viên Đại Việt Phan Huy
Quát hết giữ chức Bộ Trưởng Giáo Dục lại giữ chức Bộ Trưởng Quốc Phòng,
cũng như việc Thủ Hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí đưa một số quan chức cũ
thời phong kiến về làm việc trong guồng máy hành chánh thuộc quyền, đã
làm nẩy sinh cụm từ “Đại Việt Quan Lại” lưu truyền trong công luận đương
thời với hậu ý không mấy thân thiện, quả tình là một sự ngộ nhận đáng
tiếc. Cũng có dư luận cho rằng đảng Đại Việt ở miền Trung thuộc hệ phái
“Đại Việt Ky Tô” dựa trên nhận xét phiến diện rằng đa số đảng viên là
tín hữu Công giáo có quan hệ mật thiết với giáo quyền địa phương. Đành
rằng trong số cán bộ nòng cốt của Đại Việt Cách Mạng Đảng ở miền Trung
lúc bấy giờ có nhiều người có tiếng tăm như Cựu Nghị sĩ Nguyễn Văn Mân,
Cố Nghị sĩ Hoàng Xuân Tửu, hoặc có thành tích hoạt động năng nổ như Cựu
Dân biểu Nguyễn Lý Tưởng, Cựu Dân biểu Nguyễn Đức Cung, những người đó
đều là người Công giáo, nhưng cùng với những đảng viên khác tại miền
Trung không phải là Công giáo, họ gia nhập đảng Đại Việt với tư cách
người công dân Việt Nam yêu nước, lấy lý tưởng phụng sự quyền lợi quốc
gia làm cứu cánh, và mưu cầu phúc lợi dân tộc làm đối tượng. Việc bàn ra
tán vào hệ phái này hệ phái nọ chỉ là chuyện chẻ sợi tóc làm tư, gặp
khi trà dư tửu hậu thì tìm cách bới bèo ra bọt để mua vui và giết thời
giờ. Về sau, tình hình chính trường Việt Nam gặp nhiều biến chuyển, đảng
phái chính trị cũng phải uyển chuyển tìm cách thích nghi với thời thế,
nên mới phát sinh những hiện tượng gọi là “thống nhất với phân hóa”,
“cựu với tân”, “cấp tiến với cách mạng” v.v., nhưng tất cả đều là những
nhánh sông có cùng chung một nguồn và cùng chảy một hướng, chỉ vì gặp
phải địa hình hiểm trở mà phải tạm chia nhánh, phân dòng, để mai đây ra
tới đồng bằng thì lại hội tụ hoặc cùng nhau song hành xuôi về biển đông.
Người đảng viên Đại Việt đặt yếu tố quốc gia dân tộc lên hàng đầu, một
lòng một dạ chung vai sát cánh với mọi người Việt Nam yêu nước thương
nòi, không phân biệt giai cấp, địa phương, tôn giáo, và luôn luôn biết
quên mình để phụng sự lý tưởng chung. Trước đây, Đại Việt Quốc Dân Đảng
đã từng kết hợp với Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Dân Chính Đảng để
thống nhất thành Quốc Dân Đảng Việt Nam. Lẽ nào ngày nay một vài chi
lưu của con sông có chung nguồn và chảy cùng hướng lại mãi mãi chia
nhánh phân dòng?
Đó cũng là lời nhắn nhủ tâm huyết với lớp người trẻ của tác giả “Sống Còn Với Dân Tộc”.
Tháng 11 năm 2009
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Sunday, November 8, 2015
NGUYỄN KHẮC PHÊ * VŨ BÃO
Những trang sách chân thực và trào lộng
10:34 | 19/12/2011
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc Rễ bèo chân sóng, hồi ký của Vũ Bão, Nxb Hà Nội, 2011)
Nhà văn Vũ Bảo - Ảnh: tuoitre.vn
Nhà văn Vũ Bảo (1931-2006) từng là chiến sĩ quân báo từ năm 1947, nổi tiếng với tiểu thuyết Sắp cưới (1957), nhưng thực ra cuốn sách 200 trang này chỉ là phần nhỏ trong sự nghiệp sáng tác của ông với gần ba chục tác phẩm (kể cả kịch bản phim), trong đó nhiều cuốn sách và truyện ngắn đã được giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội, báo Văn nghệ, tạp chí Văn nghệ quân đội… Tiểu thuyết Sắp cưới bị phê phán gay gắt một thời chẳng qua do quan niệm văn nghệ ấu trĩ và thích chứng tỏ “lập trường” hồi đó; chứ sách viết về đề tài “Cải cách ruộng đất” sau này, nhiều cuốn còn “ác liệt gấp nhiều lần mà vẫn… bình yên”.
Sắp cưới là chuyện đôi trai gái yêu nhau, sắp làm lễ cưới thì đội CCRĐ về xã; mặc dù gia đình cô gái bị quy oan thành phần địa chủ, nhưng chàng trai sợ mang tiếng bao che, cố tình làm ngơ trước nỗi đau của người yêu. Sau sửa sai, chàng trai hối hận xin nối lại cuộc tình, nhưng cô gái từ chối… Chỉ có vậy thôi. Có lẽ vì thế mà tác giả không dành nhiều trang cho câu chuyện không vui này. Chỉ biết sau khi bị “đánh đấm”, tác giả lâm cảnh “lên bờ xuống ruộng”, bị đẩy đi hết cơ quan này đến cơ quan khác. Cũng nhờ thế mà ông lại có dịp khoác ba lô vào chiến trường miền Nam để rồi viết thêm nhiều tác phẩm có chất lượng cao hơn.
Nhà văn Hồ Anh Thái, trong mấy dòng giới thiệu cuốn hồi ký ở bìa 4 đã viết: “…Trong cuốn hồi ký này, bạn đọc lại thấy Vũ Bão hội đủ tính hài hước của mình trong một văn phong trào phúng, cười đấy mà cũng xót thương đấy, khi ông viết về đời mình, về bạn bè…”
Quả là tính trào lộng của cuốn sách đã thể hiện ngay từ những trang đầu, khi ông viết về quê Thái Bình với mấy cái “danh hiệu hão” và bút danh của ông (tên thật của ông là Phạm Thế Hệ). Tuy vậy, trong gần 500 trang chữ nhỏ, có đến khoảng 300 trang, tác giả dành kể lại thời thơ ấu cho đến thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp với bút pháp hiện thực nghiêm ngặt nhất.
Có thể một số bạn đọc sẽ kêu “mệt” khi đọc những trang này, nhưng không ít người - nhất là lớp “người cũ” U60-80 - hẳn là thích thú vì tác giả đã dựng lại cuộc sống hơn nửa thế kỷ trước với vô vàn chi tiết hết sức tỉ mỉ, từ bài học thuộc lòng trong sách Quốc văn giáo khoa thư đến những bài hát “Tây”, phim “Tây” thời đó… Với một trí nhớ “siêu đẳng” và với cách nhìn cuộc sống của một cây bút từng trải nhiều cảnh ngang trái ở đời, tác giả đã để lại những trang viết chân thật và công bằng. Ví như với bọn lính Nhật vào Hải Phòng năm 1945, ông tả cảnh chúng dùng dây thép xâu tai mấy đứa trẻ “bâu xấu” hôi của ở khu Sáu Kho khi bị Mỹ ném bom, nhưng đã dành đến mấy trang kể chuyện lính Nhật chơi với lũ trẻ khu phố ông ở rất thân ái!…
Đã đành, với cái “tạng” của một nhà văn có khiếu trào phúng, trong những trang viết “hiện thực nghiêm ngặt” vừa nêu, thỉnh thoảng tác giả lại “chêm” một hai câu liên hệ chuyện “đời nay” để “chọc” thiên hạ. Ví như sau khi kể chuyện bọn “bâu xấu” chôm chỉa ở đường phố thời xưa, ông liên hệ đến “cái hội “bàn tay chìa” bây giờ đã phát triển đến các ông béo nung núc, có đủ học hàm học vị, mặc complê, cravát, đi giày da, xách ca-táp bóng lộn”… tranh giành nhau “hộc” đến” những chỗ béo bở dù “đã từng chửi thậm tệ bọn đang chi tiền là kẻ thù không đội trời chung…” Một chỗ khác, ông viết: “Hồi ấy chưa có Ban Tư tưởng - Văn hóa, không có ai định hướng tư tưởng cho chúng tôi. Chúng tôi chỉ tin vào Sấm Trạng…”.
Dù sao, đó cũng chỉ là chút trào lộng điểm xuyết cho những trang sách kể chuyện “đời xưa” đỡ… nặng; còn dư âm sâu đậm để lại trong lòng bạn đọc chính là đôi nét chân dung mấy bạn đồng nghiệp - lại toàn là những nhân vật nổi tiếng - mà ông có dịp gặp gỡ - những trang sách cười ra nước mắt! Đó là lúc Vũ Bão được làm phóng viên đi viết về “Cải cách ruộng đất” gặp Xuân Diệu đang “bắt rễ xâu chuỗi” ở làng Còng; vốn hâm mộ nhà thơ trữ tình nổi tiếng, thấy Xuân Diệu “ba cùng” hàng ngày chỉ ăn sắn, khoai… nên có lần Vũ Bão rủ Xuân Diệu “mò đến quán một bà già ở làng bên” để tránh những cặp mắt dò xét; dù vậy, nhà thơ lớn vẫn… sợ phạm kỷ luật “ba cùng” vì tìm quà ăn thêm, dù Vũ Bão đã bóc sẵn bánh và sẵn sàng nhận “tội” chủ mưu:
“Trông anh thật tội, cứ ngần ngừ không dám vượt khoảng cách tội lỗi từ cái bánh chưng đã bóc trần trên tay đến cái miệng chuyên ngâm thơ tình”… Đáng cười mà chảy nước mắt hơn nữa là khi nhà thơ lớn nhờ Vũ Bão đưa bài thơ mới sáng tác về đăng báo: “Đấu thằng đầu sỏ vừa xong/ Gặp kỳ giáp hạt, làng Còng gieo neo/ Trong thôn đa số dân nghèo/ Sắn ăn thay bữa, ngô nhiều hơn cơm…”. Vũ Bão hỏi nhà thơ Tổng Biên tập Bùi Hạnh Cẩn: “Sao dạo này nhà thơ Xuân Diệu làm thơ không hay như hồi “Yêu là chết ở trong lòng một ít” anh nhỉ?” Trả lời: “…Anh ấy đang lột xác để trở thành nhà thơ của công nông binh”. Chưa hết, về sau, Xuân Diệu còn viết bài phê phán Văn Cao “…Sự giả dối đã trở thành bản chất của Văn Cao… Những thứ tư tưởng văn nghệ của Văn Cao bóc trần ra, chỉ là một mớ bùng nhùng bèo nhèo quan điểm nghệ thuật tư sản…”.
Cùng “căn bệnh” ấy, cùng thời ấy, nhà văn lừng danh Nguyễn Khải đã “quay ngoắt 180 độ, đóng vai người bảo vệ Đảng, kịch liệt phê phán một số nhà văn viết về sai lầm trong Cải cách ruộng đất để đến hơn 40 năm sau, Nguyễn Khải phải có lời xin lỗi với những người đã từng bị ông ta đánh đập”. Chuyện “vui” này là có thật 100% vì nhà báo Xuân Ba đã viết bài, chụp ảnh “vụ” Nguyễn Khải tươi cười đón Vũ Bão ngồi cạnh mình tại Đại hội Nhà văn lần thứ 6 - tức là 42 năm sau khi Nguyễn Khải viết bài dài 4 trang phê phán cuốn tiểu thuyết Sắp cưới của Vũ Bão…
Ôi! Cái “thời ấy”, cái thời mà không ít văn nghệ sĩ tên tuổi, hầu hết là những người tốt, rất tốt, nhưng do nhận lầm những giá trị hoặc vì sự thúc ép nào đó đã nói ra, viết ra những điều về sau phải ân hận. Bài học xưa rồi, nhưng tưởng cũng nên nhắc lại vì ngay sau “Đổi mới”, cũng một nhà văn tên tuổi, đã lên án tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh để rồi phải công khai xin lỗi Bảo Ninh tại một Đại hội Nhà văn…
Cuộc đời tác giả cũng như các nhà thơ tên tuổi Quang Dũng, Trần Lê Văn, Phùng Quán… còn vô số chuyện “cười ra nước mắt” đã được Vũ Bão kể lại một cách… khá vui vẻ trong cuốn sách. Như với nhà thơ tài hoa Quang Dũng, hồi 1951, khi Vũ Bão đi chiến dịch lên miền Tây gặp ông, trong ba lô có cuốn sổ tay chép bài thơ “Tây Tiến”, Vũ Bão chỉ “thầm ao ước làm sao được nhà thơ Quang Dũng giơ tay vẫy lại rồi cho đi cùng…”; không ngờ, ít lâu sau thì chính bài thơ “Tây Tiến” bị cấm lưu hành “vì nhiều câu phản ánh tâm hồn tiểu tư sản, sợ khó khăn gian khổ”, lúc về lại Hà Nội, nhà thơ bị xếp loại cán bộ hạng bét hưởng phiếu E (cũng như Vũ Bão và Trần Lê Văn), không có dầu đun, phải ra công viên Lê Nin nhặt lá khô nhen lửa!... Hôm nay thì “Tây Tiến” đã được đưa vào Văn tuyển lớp 12 và những câu thơ bị phê phán “làm nhụt ý chí chiến đấu” đã được chính cán bộ chiến sĩ Tây Tiến - đồng đội của nhà thơ Quang Dũng - khắc bia tưởng niệm đặt tại Nghĩa trang liệt sĩ Tây Tiến ở Mai Châu (tỉnh Hòa Bình)…
Chỉ tiếc là hình như Vũ Bão viết chưa xong hồi ký của đời mình. Cũng do cái “máu” xông pha thời làm báo trong kháng chiến, dù tuổi trên 75, ông vẫn tung hoành khắp trong Nam ngoài Bắc, nên đã bỏ dở những trang viết sau khi xuống Quảng Ninh dự lễ hợp long cầu Bãi Cháy vào tháng 4 năm 2006! Thật tiếc!...
N.K.P
(SH274/12-11)
PHAN LẠC TIẾP * HÀ THUC SINH
HÀ THUC SINH
PHAN LẠC TIẾP
ĐNV:
Hà Thúc Sinh lá tác giả của truyện dài "Đại Học Máu". Đây là tác phẩm
nhức nhối, và gây "đau đầu" cho không ít những nhà nghiên cứu
trong nước, khi viết về văn học hải ngoại. Nói "đau đầu" bởi vì khi
nghiên cứu về VHVN hải ngoại, không thể không nói tới Hà Thúc Sinh. Mà
nói tới ông, không thể không nhắc tới Đại Học Máu. Mà nhắc đến ĐHM, làm
sao những người nghiên cứu văn học, như Hoàng Ngọc Hiến, chẳng hạn, dám
nhìn thẳng vào sự thực, chấp nhận một sự dã man, mà người chiến thắng đã
gây ra trên những thân xác của kẻ bại trận.
Nên
nhớ, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, đã viết về những hành hạ dã
man trong tù, của người cộng sản đối với những đồng chí cũ của họ. Với
đồng chí, đã là thế. Thì với "kẻ thù" thì sao?
Vâng, với kẻ thù, người cộng sản tăng cường độ dã man ấy lên đến 7 lần hơn.
Tôi
nghĩ, khi đọc ĐHM, HNH đã chạm phải những sự thật kinh khủng đã kể lại
trong tác phẩm này, làm cho ông bàng hoàng về những điều mà có nằm mơ,
hẳn cũng không dám nghĩ đến, nên ông đã nhận xét rất "qua loa", rất hời
hợt, để đi qua những tác giả khác, mà nói theo nhà thơ Phan Nhiên Hạo:
miễn sao xong một sô.
Có thể nói" ĐHM là tiếng kêu trầm thống về một thời đã qua, là một bản cáo trạng đầy thuyết phục về "một thời oan trái".
Không
chỉ viết tiểu thuyết, truyện, HTS còn là mọt nhạc sĩ với hàng trăm ca
khúc đấu tranh, và cũng là người đồng sáng lập phong trào Hưng Ca VN.
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Hà thúc Sinh
Anh
Hà thúc Sinh là một người đa tài : viết văn, làm thơ, làm nhạc, viết
kịch. Là tác giả cuốn Đại Học Máu, lừng lẫy một thời, được đón nhận nồng
nhiệt cả trong thị trường chữ nghĩa cũng như trong văn đàn. Trong mỗi
trang sách đều tiết ra vẻ cao ngạo, diễu cợt, buồn cười, khiến ngườì đọc
đều thấy cái nghịch lý rằng sự thất trận thật là kỳ cục, và kẻ thắng
thật không có gì đáng thắng. Ngày ra mắt cuốn sách này, nhìn cuốn sách
đồ sộ gần một ngàn trang, so với tấm thân mỏng manh dựa trên đôi nạng
gỗ, nhạc sỹ Pham Duy đã cười đùa : “ Sinh à, em có thể chết được rồi.”
Nhưng không, trong những ngày khởi đầu cuộc sống nơi hải ngoại, anh đã
toát mồ hôi kiếm sống, nuôi một đàn con nhỏ. Anh chẳng quản ngại việc
gì. Có thời mấy cha con làm nghề bỏ báo. Trong nỗi nhọc nhằn ấy, anh đã
đùa vui, ghi lại trong mấy câu Ném Báo :
Thế sự vo tròn ném cái vù
Từng chiều báo bỏ sáu mươi nhà
Người xưa quẳng gánh rồi vui sống
Mình mấy năm liền quẳng vẫn lo.
Trong
hoàn cảng ấy anh vẫn miệt mài sáng tác và tích cực tham gia những công
tác đấu tranh. Vì anh không thể quên những ngày dài quằn quại trong các
trại tù cộng Sản. Anh đã sản xuất nhiều nhạc khúc đấu tranh, và vẫn tiếp
tục viết truyện, làm thơ, viết kịch và có mặt trong hầu hết các sinh
hoạt của cộng đồng, nhằm vạch trần tội ác của cộng sản Việt Nam trước
lịch sử. Ở lãnh vực nào anh cũng có những công trình được công luận tán
thưởng. Bởi dưới mọi thể loại, người thưởng ngoạn đều tìm thấy trong
sáng tác của anh một tấm lòng tha thiết với quê hương, với đồng bào. Anh
làm hối hả, như chạy đua với thời gian, với số phận. Để có một cái nhìn
chu đáo về những đóng góp của anh, chúng ta cần có thì giờ và thẩm đinh
chu đáo hơn. Với tôi, trong cảm quan nghệ thuật tức thì, tôi bị ám ảnh
về cuốn Chị Em của anh mạnh mẽ nhất. Cuốn sách thật mỏng, kể cả bià chỉ
có 132 trang, khổ 5”1/4 và 8”. Bià màu đen, chỉ có tên sách, tên tác giả
mà không có hình vẽ gì hết, hiện lên trong một màu đen đặc. Đen như
cảnh một đêm nào đó không trăng sao giữa biển, trời giao thoa không
gianh giới, đầy hãi hùng, tuyệt vọng của Thuyền Nhân trên đường đi tìm
ánh sáng của Tự Do năm nào.
Bề
ngoài cuốn sách là như thế, nhưng mở ra, trên 100 trang sách mỏng manh,
nhưng đó là cả một thách đố và nỗi kinh hoàng. Thách đố, bởi Hà thúc
Sinh đã bước chung một khung trời cùng một văn hào lừng lẫy Hoa Kỳ, E.
Hemingway trong tác phẩm nổi danh là cuốn Ngư Ông bà Biển Cả (The Old
man and The Sea ). Anh đã cùng lấy biển khơi làm môi trường của cuốn
tuyện. Và cụ thể hơn nữa, anh cũng đã khép mình vào sự ngặt nghèo của
sinh hoạt như tác giả lẩy lừng kia, truyện chỉ có 2 nhân vật. Cái giống
nhau là thế, nhưng cái khác nhau thì thật cực kỳ. Ngư Ông ra biển để
thoả lòng tự ái, ông không muốn là
một người già. Ông còn hữu ích và tấm lòng ông, ông vẫn còn thừa can
trường trước những thách đố, nguy nan của sóng gió, của biển khơi. Ông
ra biển, và biệt tăm. Trong khỏng gian trống vắng mịt mù của biển và của
nỗi trông chờ của người trong đất liền, ông câu được một con cá lớn.
Con cá lớn quá ông không thể kéo lên thuyền được. Con cá bỗng trở nên
cái mồi khổng lồ cho đàn cá mập. Chúng nhâu đến rỉa mồi. Con cá ông câu
được nhẹ dần, cuối cùng con cá ấy chỉ còn lại là một bộ xương ở cuối
đường dây, nhẹ thênh. Với bộ xương cá khổng lồ ấy, ông trở về bến cũ.
Ông gặp người bạn nhỏ, ông hỏi nó. Trong những ngày ông ra khơi, ở trong
bờ người ta có đi kiếm ông không. Chú nhỏ nói. Có chứ. Cả máy bay và
tàu thuyền bổ đi tìm mà không thấy ông đâu. Báo chí theo dõi và đăng tin
đầy ra đây này. Lão ngư ông mỉm cười, nằm bên chồng báo có những bài,
những tin tức vô vọng nói về
ông. Ông đã trở về và thoả mãn với cuộc phiêu lưu, đùa cợt với hiểm
nghèo. Cuốn sách nhỏ này được đón nhận nồng nhiệt trên thị trường chữ
nghĩa và được trao tặng giải văn học cao quý, giải Nobel về văn chương,
như một lễ đăng quang cho lòng can trường hiếm quý của xã hội tây
phương. Đăng quang cho một trò tiêu khiển, cho tự ái cá nhân, trò chơi
ấy có hay không cũng chẳng chết ai. Hầu như cả thế giới đểu biết, và ca
ngợi thật lẫy lừng.
Còn cuốn Chị Em của Hà thúc Sinh thì sao. Cũng chỉ có hai nhân vật. Đó là hai chị em trên con tàu đi vượt biển tìm Tự Do. Gặp
bão, thuyền đắm. Tất cả mọi người trên thuyền chết hết. Trong cơn hoảng
loạn, hai chị em trôi dạt vào một hòn đảo hoang. Hòn đảo nhỏ nhoi,
không biết thuộc quốc gia nào trong Thái Bình Dương. Trong cảnh hoang
sơ, thiếu thốn ấy, hai chị em phải vận dụng mọi khả năng để sinh tồn.
Tìm nước mà uống. Tìm cây trái mà ăn. Gia tài của cải của hai chị em chỉ
còn một mảnh vải nhỏ thay nhau che thân. Nhưng thời gian không ngưng
lại. Trên hòn đảo hoang vu này, hai chị em đã sống như hai người tiền
sử. Họ ăn uống, trú ngụ ra sao, nhiều cảnh huống thật bi ai, trào nước
mắt. Sức khỏe của hai người mổi ngày mỗi thêm suy kiệt. Bịnh tình khởi
phát. Những hôm thuỷ triều
xuống thấp, cái cột buồn của chiếc ghe vượt biển ngày nào nhô lên. Trực,
tên người con trai, nhớ đến những gói nylong ở những khoang thuyền. Có
thể trong đó còn có những viên thuốc chưa nát, và cũng có thể còn có
những bịch thức ăn khô, và cũng có thể còn những mảnh áo quần cũ chưa
tan rách hết. Cái gì cũng quý, cũng cần. Trực, người con trai quyết định
sẽ bơi ra con thuyển cũ, lục tìm những gì còn sót lại. Anh hẹn người
chị sáng mai sẽ về khi trăng
lặn, nước lên. Trong nỗi chờ đợi và hy vọng ấy, đêm đã hết, mặt trời đã
lên, và thuỷ triều cũng đã dâng đầy. Người chị, người đàn bà cô độc trên
hòn đảo hoang ấy đã đi ra triền cát, nhìn ra khơi. Cái cột buồm
của con thuyền cũ đã chìm trong lòng biển sâu. Tất cả đều vắng lặng.
Chị nhìn quanh. Tất cả đều vắng lặng. Bốn phương chỉ có tiếng gió hoà
trong tiếng biến dạt rào. Chị hoàn toàn tuyệt vọng. Chị nhìn xuống triền
cát. Miếng vải nhỏ che thân của người em nằm đó. “ Gia tài” cuối cùng
người em đề lại cho người chị là đây. Lan, tên người con gái. “ Nàng
không còn nước mắt để khóc. Nàng quỳ lên. Quay mặt ra biển, hai tay chắp
trước ngực và khép chặt hai mắt. Một lát nàng mở ra, qua đôi môi run
rẩy, nàng khan giọng thầm thì :
“ Trực ơi, em ơi, em của chị ơi…”
Đó
là lời than khóc của một thuyển nhân Việt Nam trong vô củng tuyệt vọng.
Tiếng kêu ấy không tới được đất liền, không được ai biết đến. Không ai
nghe thấy được. Nỗi tuyệt vọng này khác hẳn với hoàn cảnh của Ngư Ông
khi từ biển khơi trở về đã được in đậm trên những hàng tin tức và câu
truyện giả tưởng ấy đã được lửng lẫy vinh danh. Trong khi hoàn cảnh bi
thương của Thuyển Nhân Việt Nam thì đã từng bị loài người quên lãng. Một
đằng là câu tuyện giả tưởng. Một đằng là truyện của hàng triệu những
câu chuyện như thế, và còn bi thảm hơn thế thực sự đã và còn liên tiếp
xẩy ra trên Biển Đông. Một đằng là sản phẩm của một xã hội dư thừa đi
tìm cái hào hùng trong sự dong chơi. Còn một đằng là thảm nạn của một
giai đoan cam go, bi thảm, hậu quả cuả một cuộc thư hùng khốc liệt giữa
Thế Giới Tư Do và Cộng Sản đã diễn ra trên đất nước Việt Nam. Dân tộc
Việt Nam đã phải gánh chịu bao nhiêu là tang thương, chia lìa đau khổ mà
làn sóng Thuyền Nhân là hệ quả cuả cuộc chiến này.
Đó
là một vấn nạn cực kỳ khốc liệt của nhân loại ở cuối thế kỷ 20. Và
trước hết là nỗi đau xé ruột của những người cùng chung giòng máu, cùng
chia nhau những ngày gian khổ chiến tranh, cũng như chia nhau những tủi
nhục của ngày 30 tháng 4, và những ngày gian lao tù tội, những nguy nan,
khốn khổ trên đường đi tìm Tư Do. Sau đó là những chiến dịch Vớt Người
Biển Đông, là những đóng góp của ngưòi đi trước kêu cứu, hỗ trợ cho
người đi sau, là “lá rách đùm lá tả tơi”. Trong tinh thần ấy Phong Trào
Hưng Ca ra đời, do Hà thúc Sinh đứng ra thành lập, quy tụ những tiếng
hát với bát ngát những tấm lòng thương sót những người đang nguy nan
trên đầu ngọn sóng. Bản nhạc Thà Chết Trên Biển Đông của Hà thúc Sinh đã
được thai nghén và vang lên, khởi đi từ San Diego, từ căn nhà thuê nhỏ
bé 2 buồng ngủ cho hai vợ chỏng và 5 đứa con. Tiếp theo có những người
như Nguyệt Ánh, Nguyễn hữu Nghĩa, Phan ni Tấn,Việt Dũng và bao nhiêu
bằng hữu nữa cùng góp tiếng. Bản hùng ca ấy mỗi ngày mỗi bùng lên, vang
toả gần như khắp các tiểu bang Hoa Kỳ, lan tới các châu lục khác ở Úc, ớ
Canada, ờ Pháp… Những tiếng hát ấy lúc đầu để nói lên nỗi kinh hoàng
của ngưòi vuợt biển, để quy tụ, để gây quỹ Vớt Người Biển Đông. Sau đó
tại Geneve, trong những ngày cuối của thảm nạn này, trước buổi họp quốc
tế về Thuyền Nhân, những tiếng hát ấy còn bùng lên như nhũng tiếng kêu
khẩp thiêt “ Là Thuyền Nhân chúng tôi không muốn trở về đất cũ”. Tiếng
kêu thương hùng vỹ ấy đã có hàng triệu người nghe, bay cả về quê nhà qua
các đài phát thanh quốc tế, nhưng khởi đầu là từ tấm lòng của con người
mảnh khảnh, tựa mình trên đôi nạng gỗ, anh Hà thúc Sinh, người bạn cùng
màu áo trắng của tôi.
Bây
giờ, năm 2010, thảm nạn này đã qua, đã đi vào lịch sử. Những thế hệ con
em chúng ta nơi đất mới đã và đang là những ngôi sao lấp lánh của sự
thành công, làm vui sướng cho các bậc cha anh, cũng như làm rạng danh
cho ngưởi Việt trên các vùng đất của quê hương mới. Người Việt Nam ở
đâu, hầu như cũng có những tấm gương của sự hiếu học và thành công, như
một món quà đáp lại tấm lòng hào hiệp bao dung của những ai đã giúp đỡ
mình. Trong hoàn cảnh đó, anh Hà thúc Sinh, ngày nào mướt mồi hôi trong
sinh kế để nuôi dạy một đàn con, lớn thi chưa quá 15, nhỏ thì còn phải
cầm bình sữa. Nay tất cả đều đã xong đại học. Chị Hà thúc Sinh cho biết
:“Khi các cháu lớn cả, tôi đã đi học lại kiếm một cái nghề để dưỡng
già”. Và cậu con út theo chân
mẹ, cũng học xong dược, đi làm, ra ở riêng. Thế là cả hai mẹ con cùng là
Tiến Sỹ dược khoa. Và người bạn tôi, một thời gian nan như thế, nay anh
nói :” Cuộc sống ào ạt trôi đi, dù không muốn, tóc đã bạc”. Và anh đã viết :
Thế sự quanh ta một trận cười
Trần gian cũng chỉ dưới chân thôi
Phút vui mấy nét đùa nghiên bút
Tàn mộng trăm năm để tiếng đời.
( Thơ tặng Lão Tử, Hà thúc Sinh)
Vâng, anh bạn tôi đã “đùa nghiên bút” nhưng trong đùa vui ấy tôi đã thấy tràn ngập một tấm lòng. Và
từ những âm vang của tấm lòng ấy đã có bao nhiêu tấm lòng khác cùng hoà reo làm nên cả một phong
trào,
giúp cho việc nghiã. Thảm nạn Thuyền Nhân đã hết, nhưng Hưng Ca vẫn còn
và vẫn không ngừng sinh hoạt. Nhưng anh bạn tôi thì như một người Huớng
Đạo, thấy việc phải thì làm. Làm xong thì buông. Anh không còn sinh
hoạt trong Hưng Ca nữa. Trở lại với những con chữ, với tuổi trời, anh
hàng ngày làm bạn với cỏ cây, với Lảo Đam, với Trang Tử mà từ những ngày
còn rất trẻ anh đã muốn “Dạo Núi Mình Ta”. ( Tên tập thơ của anh từ
những năm trước 1975). Tôi khép mắt lại, nhớ lại những ngày cùng nhau
vận động, cứu vớt Thuyền Nhân, tiếng hát của anh em Hưng Ca bỗng như oà
vỡ trong không gian vắng lặng của lòng tôi :
“ Thà chết trên Biển Đông
Một ngày cũng hào hùng
Em căng buồm thách thức biển gầm…”
Phan Lạc Tiếp
12/9/2010.
NGUYỄN VĂN CANH * ĐỌC CUỐN HỒI KÝ CỦA HÀ THÚC KÝ
ĐỌC CUỐN HỒI KÝ
CỦA HÀ THÚC KÝ
Nguyễn Văn Canh
PHẠM VI BÀI VIẾT:
1.Tôi
viết bài này không phải với tư cách một đảng viên Đại Việt, lại càng
không phải trên cương vị một Tổng Thư Ký Chính Trị Bộ, Đại Việt Cách
Mạng trước thời kỳ 1975, viết về cuốn Hồi ký của Chủ Tịch Đảng. Bài
viết được soạn thảo với danh nghĩa một người đứng ở vị trí làm nghiên
cứu để cho được vô tư. Trong một giới hạn nào đó, một số ít những gì có
liên hệ với hoạt động của tôi sẽ được nhắc tới ở đây, chỉ với mục đích
là để chứng minh những gì đã xảy ra mà tác giả đã kể lại là đúng.
2.
Trong một phạm vi có giới hạn, tôi lược duyệt, có khi khai triển thêm
những điều mà tác giả trình bày trong cuốn Hồi Ký "Sống Còn Với Dân Tộc"
súc tích này, với ý định là để giúp cho người đọc có một cái nhìn đầy
đủ hơn, để từ đó hiểu được nội dung của nó.
Qua tóm lược cuốn
Hồi Ký này, độc giả đã hình dung ra hình ảnh sự cố gắng đóng góp của các
đảng cách mạng quốc gia trong sứ mạng cứu nước trước các nguy biến,
nhất là những hi sinh vô bờ bến của các cá nhân đã dấn thân vào con
đường hiểm nguy vì mục đích cao cả này. Tất nhiên, những gì mà tác giả
cuốn Sống Còn Với Dân Tộc thực hiện là biểu tượng cho một số đóng góp
ấy.
3. Hồi Ký chính trị là tài liệu ghi lại các sự kiện như
hoạt động của một người trong bối cảnh lịch sử mà tác giả đã trực tiếp
hay gián tiếp tham dự. Dĩ nhiên, trong phạm vi này, nó gồm cả những giải
thích sự việc trong phạm vi hiểu biết của tác giả. Độc giả thế hệ này
hay mai sau nhờ thế biết được những gì đã xảy ra, chiêm nghiệm để rút ra
một bài học về một giai đoạn lịch sử, để sử dụng hay ứng dụng khi phải
đối phó ngay cả trong trường hợp cá biệt, riêng của mình.
Điều
đặc biệt là cuốn Hồi Ký của Hà Thúc Ký không phải là tài liệu biện bạch
cho những hoạt động của mình như đã thấy một số hồi ký xuất hiện tại hải
ngoại trong vòng mấy chục năm nay.
Cụ Hà Thúc Ký
01/01/1919--16/10/2008
I. CUỘC ĐỜI
Sau
khi tốt nghiệp Kỹ Sư Thủy Lâm tại Đại Học Hà Nội năm 1943, tác giả đã
được nhà cầm quyền Pháp bổ nhiiệm làm Phó Quận Trưởng Thủy Lâm tại Năm
Căn, Cà Mau. Tác giả đã chiếm được địa vị cao và lương bổng ưu đãi trong
xã hội thời bấy giờ. Đó là chưa kể đến các lợi lộc mà ngành thủy lâm
mang lại cho cá nhân. Dù có điều kiện đi theo con đường hoạn lộ để vinh
thân phì gia, vì tác giả đã lọt vào guồng máy hành chính khép kín của
chính quyền bảo hộ thời đó, tác giả có thể không cần phải đổ mồ hôi,
nước mắt thêm nữa để được thụ hưởng thành quả những cố gắng của mình;
nhưng bầu huyết nóng của một thanh niên có lý tưởng phụng sự như tác
giả, nên tình hình đất nước diễn biến trong thời điểm ấy là những quan
tâm canh cánh bên lòng của tác giả.
Tình hình miền Nam vào lúc
đó có nhiều biến chuyển dồn dập. Trước hết là Nhật đảo chính, loại Pháp
ra khỏi vị trí đô hộ Đông Dương vào ngày 9 tháng 3, 1945. Kế đó, mấy
tháng sau, ngày 15 tháng 8, Nhật đầu hàng đồng minh. Tại miền Nam, tháng
9, 1945, quân đội Anh đến Sài gòn để tước khí giới quân đội Nhật theo
kế hoạch Postdam của các đại cường thắng trận. Việt Minh cướp chính
quyền ở Hà Nội vào ngày 18 tháng 9, 1945. Sau khi vào miền Nam, Quân đội
Anh tái võ trang cho 1,400 quân nhân Pháp mà trước đây Nhật bắt làm tù
binh. Việt Minh thiết lập Ủy Ban Hành Chánh và Kháng Chiến Nam Bộ. Ngày
22 tháng 9, quân Pháp nổ súng chiếm Sài gòn.
Chiến tranh chống
Pháp bắt đầu tại miền Nam. Trước tình trạng rối rắm này, tác giả trở về
Thừa Thiên - Huế. Ưu tư trước sự xâm lăng của thực dân Pháp trở lại đặt
ách thống trị trên quê hương, tác giả quyết định không trở về Cà Mau
nữa, và cũng như nhiều thanh niên thời đó đã ồ ạt hăng hái tham gia
phong trào chống Pháp.
GIA NHẬP GIẢI PHÓNG QUÂN
Tác giả
tìm cách gia nhập "Giải Phóng Quân" (lực lượng quân sự Việt Minh), với
một tinh thần giống như của bao nhiêu thanh niên cùng thế hệ là "lăn xả
vào công cuộc đấu tranh cho dân tộc" và "tin tưởng vào vận hội mới của
đất nước." Như tác giả đã nói "vừa qua thời kỳ bút nghiên, lại quẳng hết
sự nghiệp để đầu quân… giải phóng".
Đó là những hi sinh cao
quí của các chàng trai thế hệ xung phong lên đường cứu nước. Ngay khi
xin gia nhập "Giải Phóng Quân", tác giả được bạn bè hướng dẫn vào Ban
Đặc Vụ Quân Sự, để làm thủ tục. Lúc này, Ban Đặc Vụ đang cần một chỉ huy
trưởng cho đơn vị "Đặc Vụ Quân Sự Lào, đường số 9". Đơn vị này thuộc
lực lượng Việt Minh mà Ủy Ban Hành Chính và Kháng Chiến Trung Bộ cử sang
trợ giúp lực lượng "Lào Độc Lập" của hoàng thân Souphanouvong (sau này
là lãnh tụ Lào cộng), đối đầu với quân đội Pháp. "Pháp muốn lật lại thế
cờ, chuẩn bị mở lại chiến trường Lào…Nếu giữ được quốc lộ 9 là ngăn
chặn quân Pháp kéo về chiếm Khe Sanh và Lao Bảo, uy hiếp Đông Hà, Quảng
Trị."
Dù chưa làm giấy tờ gia nhập, tác giả đã nhận nhiệm vụ khó
khăn này trong khi không có một kiến thức quân sự và tình báo tối
thiểu, gồm cả đến cách sử dụng võ khí, cũng như chưa từng bắn một phát
súng nào từ trước. Khi đảm nhiệm chức vụ chỉ huy một trung đội Đặc Vụ
quân sự, tác giả và đơn vị lập tức lên đường đi Tchepone, Lào.
Tại
đây, tác giả và những thành viên trung đội được cố vấn của lực lượng
Việt Minh huấn luyện về quân sự. Họ là cựu sĩ quan Nhật không chịu đầu
hàng đồng minh, ở lại phục vụ trong hàng ngũ Việt Minh.
Nhiệm vụ
của đơn vị này là thu thập và cung cấp tin tức về hoạt động của quân
Pháp, còn đóng rải rác dọc quốc lộ 9, cho lực lượng Việt Minh. Tác giả
bắt tay vào việc thiết lập mạng lưới thu thập tin tức trong khu vực cho
quân giải phóng.
Lực lượng Việt Minh quyết định tấn công quân
Pháp ở NaKoi. Quân số của Việt Minh có chừng một tiểu đoàn hành quân
trong khu vực này, trong khi đó lực lượng của Pháp là một trung đoàn
đóng rải rác trong khu vực. Việt Minh tấn công trước. Vì quân Pháp rất
mạnh, nên cuối cùng, Việt Minh yếu thế, phải rút lui, chạy về Mường
Phin. Bất ngờ quân Pháp truy kích và bao vây căn cứ. Bộ đội Việt Minh
chỉ chống đỡ cầm chừng, rồi tìm cách chạy trốn, rồi phân tán trú ẩn
trong các nhà của dân chúng địa phương.
Vào tháng 12 năm 1945,
Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Trung Bộ cử viên chính ủy đến Khe Sanh để
họp với các chỉ huy lực lượng Việt Minh từ Lào về. Kết thúc buổi họp,
tác giả đưa ra một nhận xét trái ý viên chính ủy ấy, và ngay sau đó
được chỉ huy trưởng lực lượng Việt Minh cảnh giác rằng tác giả sẽ bị rắc
rối về sau và cùng với lời khuyên của viên cố vấn quân sự người Nhật
rằng tác giả nên rời khỏi Lào "càng sớm càng tốt, và nên vào Nam hay ra
Bắc, chứ đừng về Huế, vì nơi đó nằm trong vòng kiềm tỏa của viên chính
ủy và tay chân bộ hạ của anh ta". Đồng thời, tác giả nhận được điện tín
bằng mật mã của người bạn, làm trong Ban Đặc Vụ ở Huế khuyên tác giả
phải rởi khỏi Lào gấp, vì "viên chính ủy đã vu cáo tác giả là đảng viên
Việt Nam Quốc Dân Đảng". Đó là một "thành phần phản động, vô cùng nguy
hiểm". Như vậy, tính mạng tác giả đã thực sự bị đe dọa trước mắt.
Tác giả rời Lào vào tháng 1 năm 1946, rồi trở lại Hà Nội.
II. DẤN THÂN VÀO HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
Trở
ra Hà Nội lần này, tác giả ghi danh vào trường Dược để tránh dòm ngó và
theo dõi của Việt Minh Cộng Sản. Với ngụy trang đó, được sống tại Đông
Dương Đại Học Xá như khoảng 5 hay 6 năm về trước, tác giả đã lăn xả vào
họat động tiếp tục.
Từ tháng 2 năm 1946, tác giả tuyên thệ gia nhập Đại Việt Quốc Dân Đảng tại Hà Nội.
Công
tác đầu tiên được giao làm Trưởng Ban Báo Chí Nội Thành. Nhiệm vụ là
thu góp, biên soạn, sản xuất và phân phối các tài liệu huấn luyện cho
đảng viên, và tuyên truyền ra ngoài quần chúng. Ngoài ra, tác giả còn
được giao công tác đặc biệt mà Đảng Trưởng ra lệnh.
Vào thời đểm
này, Việt Cộng hoạt động mạnh và có ưu thế tại Hà Nội kể từ khi chúng
cướp được chính quyền ngày 19 tháng 8 năm 1945. Lực lượng tình báo của
chúng rải ra khắp nơi để ám sát, bắt cóc, và đem thủ tiêu những người mà
chúng cho là kẻ thù hoặc chống lại chúng. Tại Đông Dương Đại Học Xá, có
một chi bộ Cộng Sản chuyên lo công tác này, dưới danh nghĩa Sinh Viên
Cứu Quốc. Một số bị sa bẫy và bị thủ tiêu. Đó là trường hợp Phan Thanh
Hòa, sinh viên Nha Khoa, bị Sinh Viên Cứu Quốc dụ lên Phú Thọ và thủ
tiêu tại đó. Phan Thanh Hòa là anh ruột chị Phan Thanh Bình, về sau là
chị Nguyễn Tôn Hoàn. Ngoài khuôn viên đại học, biết bao nhiêu trí thức
yêu nước, không chịu hợp tác với Cộng Sản, hay thuộc Đại Việt hoặc Việt
Nam Quốc Dân Đảng cũng bị Hồ Chí Minh áp dụng các biện pháp tương tự.
Đảng Trưởng Đại Việt là Trương Tử Anh có tin cho biết là bị mất tích tại
Hà Đông và bị thủ tiêu vào thời gian tháng 12 năm đó (1946). Lãnh tụ Lý
Đông A của Đại Việt Duy Dân cũng ở trong tình trạng như thế. Đặng Vũ
Trứ, con trai BS Đặng Vũ Lạc cũng bị mất tích v.v...
Hoạt động
báo chí kể cả phân phối tài liệu học tập trong hoàn cảnh này rất khó
khăn, phải được ngụy trang cẩn thận tránh sự phát hiện của tình báo Cộng
Sản. Ngay khi di chuyển trên đường phố, cũng phải canh chừng bọn chúng
theo dõi. Sinh sống hàng ngày, nhất là ở khu tập thể như Đại Học Xá,
cũng phài tính toán như thế nào để Sinh Viên Cứu Quốc, không nghi ngờ,
dù chúng thường xuyên rình mò.
Nhân dịp này, tôi thấy cần nhấn
mạnh đến phương thức liên lạc để hiểu biết các khó khăn, gian khổ của
các nhà cách mạng Việt Nam trong giai đoạn lịch sử này. Mọi liên lạc để
báo cáo lên hay nhận chỉ thị từ cấp trên xuống đều được bố trí nghiêm
ngặt để sống còn. Và chỉ có một đường dây duy nhất với một người được
chỉ định để tránh tiết lộ và đề phòng cả trường hợp phản bội.
Trường
hợp của tác giả, thì chỉ nhận lệnh của Đảng Trưởng Trương Tử Anh qua
phái viên duy nhất phụ trách liên lạc, Nguyễn Tất Ứng (về sau là Bộ
Trưởng Xây Dựng Nông Thôn của Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, bị tử nạn máy
bay sau ít tuần lễ nhậm chức). Chỉ thị là lên đường về Huế làm phụ tá
Xứ Ủy cho Bác Sĩ Bửu Hiệp. BS Hiệp đã được cử vào Trung phục vụ với
cương vị Xứ Ủy trước đó. Cùng một phương thức liên lạc qui định trước,
Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn cũng nhận được lệnh mật như vậy để trốn tránh VC
vì "đang bị theo dõi để ám sát". Một hôm đang khám bệnh tại bệnh viện
Phủ Doãn nằm trên đường Quán Sứ, Hà Nội, BS Hoàn được lệnh của chính
Đảng Trưởng Trương Tử Anh qua phái viên phụ trách liên lạc là phải rời
bỏ công việc tức khắc và được người hướng dẫn đưa đến một ngôi nhà ở
đường Quan Thánh, vì Việt Cộng đang theo dõi khắt khe. Nằm trên căn gác
của ngôi nhà ấy vài ngày, BS Hoàn được bí mật đưa đến Hải Phòng và từ
nơi đây, người đồng chí tên Minh đưa BS Hoàn xuống một chiếc thuyền đi
Hồng Kông, và sau đó BS Hoàn được đưa đến Nam Ninh, Trung Hoa.
Cũng
như trước đó không bao lâu, vào cuối năm 1945, Đảng Trưởng Trương Tử
Anh bí mật cử 2 đồng chí đầu tiên là Nhân và Tín vào Nam Kỳ để lập cơ sở
và phát triển Đảng. Nhân là bí danh của GS Phạm Đăng Cảnh, có một thời
gian làm Giám Đốc Nha Tư Thục Bộ Quốc Gia Giáo Dục của Việt Nam Cộng Hòa
trước 1975. GS Cảnh hiện ở Rennes, Pháp. Tín là bí danh của GS Nguyễn
Tấn Thành, thuộc trường Đại Học Luật Khoa, Sài Gòn. GS Thành đã qua đời
tại Niles, Pháp, hơn 10 năm trước đây. Một người thứ 3 được cử vào Nam
là Lễ. Lễ hay Mười Lễ là bí danh của Nguyễn Văn Hướng, về sau, năm 1967,
làm Tổng Thư Ký Phủ Tổng Thống cho TT Thiệu, trong những ngày đầu của
chế độ nền đệ II Cộng Hòa. Có một người khác được đưa vào sau là Nghĩa,
được nói là bí danh của Nguyễn Văn Kiểu, anh ruột của TT Thiệu, làm Đại
Sứ tại Đài Loan cho đến khi Việt Cộng chiếm miền Nam Việt Nam.
LÀM XỨ ỦY TRUNG KỲ.
Ngày
19 tháng 11 năm 1950, Việt Minh ám sát BS Bửu Hiệp. Đóng vai là một
bệnh nhân, cán bộ ám sát Việt Minh xin vào khám bệnh mà phòng mạch đặt
tại nhà ở Huế. Tên sát nhân bắn nạn nhân vào đầu trong lúc đang ăn cơm,
và BS Hiệp gục chết tại chỗ. Tên sát nhân về sau đã đền mạng. Tác giả
được lệnh thay thế BS Hiệp, để phát triển Xứ Ủy Trung Kỳ từ đó.
Cho
đến 1950, Đại Việt đã phát triển rất mạnh ở Huế. Nhiều người theo Việt
Minh đã nhận ra được âm mưu của họ Hồ. Nhiều thanh niên, trí thức biết
rõ Việt Minh, nên đã bỏ hàng ngũ Việt Minh và gia nhập Đại Việt. Đó là
nguyên do VC ám sát BS Bửu Hiệp. Đây là biện pháp khủng bố "làm nhụt
nhuệ khí của Đảng Đại Việt."
Xứ Ủy Trung Kỳ "nhắm vào giới trẻ
là thành phần tràn đầy năng lực để lôi cuốn giới sinh viên, đồng thời
tìm cách đưa người vào các cơ quan chính phủ, nhất là chú trọng vào vấn
đề an ninh tình báo để đối đầu với Cộng Sản nằm vùng". Chính vì thế mà
chương trình bình định tại tỉnh Quảng Trị do cán bộ Đại Việt hỗ trợ dưới
thời hai Tỉnh Trưởng Trần Điền (bị VC bắt và giết vào dịp Tết Mậu Thân ở
Huế) và GS Nguyễn Văn Mân (hiện ở Texas, Hoa Kỳ) là hai tỉnh trưởng
được ca ngợi rất thành công. Quảng Trị là tỉnh địa đầu của miền Nam, và
dĩ nhiên là mục tiêu ưu tiên của Cộng Sản Bắc Việt nhắm vào, đặt hạ tầng
cơ sở, để từ đó dùng Quảng Trị làm đầu cầu thôn tính miền Nam.
Đảng ủy Huế -Thừa Thiên được phát triển mạnh để làm bàn đạp cho Đại Việt phát triển ở miền Trung.
III. VỤ BIẾN ĐỘNG VÀ CHIẾN KHU BA LÒNG
NGUYÊN NHÂN: tranh giành ảnh hưởng trong nội bộ gia đình họ Ngô.
Hiệp định Genève được ký vào 21 tháng 7 năm 1954. Việt Nam bị chia làm
hai. Hiệp định qui định Việt Minh Cộng Sản (Cộng Sản) phải rút về bên
kia vĩ tuyến 17, và ranh giới phân chia hai miền là cầu Hiền Lương, nằm
trên sông Thạch Hãn, Quảng Trị. Để thi hành hiệp định, CS phải rút quân
đội ra khỏi căn cứ của chúng, tập trung lại để di chuyển ra Bắc (tập kết
ra Bắc). Cũng nên để ý đến một sự kiện là tại một số nơi như ở Quảng
Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam v.v… quân Việt Cộng đã chống trả quân đội
quốc gia đến tiếp thu. "Máu đã đổ để thu hồi đất đai cho tổ quốc ".
Thời
gian này, Trần Điền là tỉnh trưởng Quảng Trị. Cán bộ Đại Việt ở địa
phương "xung phong" hợp tác với tỉnh trưởng để tiếp thu các căn cứ địa
ấy. "Chủ trương này được Thủ Tướng Ngô Đình Diệm (lúc đó mới lên cầm
quyền) chấp thuận, khi ông đi kinh lý miền Trung hồi đầu năm 1955", tuy
nhiên lại bị ngấm ngầm chống đối bởi một số người tại địa phương". Hồi
Ký nhấn mạnh rằng họ là "chân tay của Cố Vấn Chỉ Đạo miền Trung, ông Ngô
Đình Cẩn"…Mâu thuẫn này là nguyên nhân chính đưa dẫn tới sự đụng độ về
mặt quân sự giữa hai bên, về sau này được gọi là Biến Động Ba Lòng". Vì
tại địa phương, "cấp trên của tỉnh trưởng Trần Điền là Đại Biểu Chính
Phủ Trung Phần có những tính toán khác và bất thần quyết định hủy bỏ kế
hoạch tiếp thu Ba Lòng, dù đã bắt đầu thực hiện.
Ba Lòng là một
chiến khu quan trọng của Việt Minh Cộng Sản thuộc tỉnh Quảng Trị, nằm
sát biên giới Lào. Kế hoạch tiếp thu ấy đã được chấp thuận, và đã được
các sĩ quan gốc Đại Việt thi hành một phần. Hai đại đội Cảnh Bị do sĩ
quan gốc Đại Việt chỉ huy đã vào chiếm giữ chiến khu. Còn hai đại đội
khác chờ ngày xuất quân là lên đường. Đúng sáng ngày xuất quân, trong
một buổi lễ trọng thể trước tòa Hành Chánh Tỉnh đang cử hành, Tòa Đại
Biểu Trung Phần gủi cho tỉnh trưởng Quảng Trị một công điện hủy bỏ kế
hoạch tiếp thu Ba Lòng.
Vì quyết định quá đột ngột này làm cho
những sĩ quan gốc Đại Việt phụ trách đi tiếp thu Ba Lòng "ngỡ ngàng và
đẩy họ vào hoàn cảnh không biết phải hành động thế nào cho phải. Rồi họ
phản ứng theo cảm tính và chống trả ..."
Hồi ký có nói rằng
"Đại Việt khi chống trả lại nhà cầm quyền địa phương và tuyên bố ly khai
quả thật là sai trái". Hà thúc Ký viết: "Một số chi tiết không được
giải thích, tại sao chính quyền địa phương lại đi ngược lại hẳn với
chính quyền trung ương?. Họ không được giải thích?. Rồi đến khi (quân
đội) tấn công, họ không được một cơ hội biện bạch !"
Kế hoạch tiếp thu các căn cứ của VC gồm cả chiến khu Ba Lòng như thế nào?
"Tỉnh
Trưởng đề nghị lên Trung Ương qua Tòa Đại Biểu Chính Phủ Trung Phần kế
hoạch phối trí lực lượng và đã được chấp thuận như sau: Tỉnh có 10 đại
đội Cảnh Bị (sau này gọi là Bảo An, rồi sau cùng là Địa Phương Quân)
được sử dụng để tiếp thu căn cứ của VC. Mỗi đại đội gồm 150 người. Riêng
tại căn cứ Cùa và Ba Lòng, lực lượng tiếp thu là 4 đại đội. Sau khi
tiếp thu, Ba Lòng sẽ trở thành một quận hành chánh kiểu mẫu. Đại Úy
Nguyễn Ngọc Cứ được tỉnh trưởng cử làm Quận Trưởng, kiêm Tiểu Đoàn
Trưởng. Sau Tết Nguyên Đán (1955), trong khi chờ đợi sự vụ lệnh chính
thức làm Quận Trưởng, Đại Úy Cứ được lệnh Tỉnh Trưởng đem hai đại đội
lên Ba Lòng trước để chuẩn bị tiếp thu và gây dựng cơ sở. Đại Úy Cứ chia
lực lượng ra làm hai cánh: một đại đội đi đường thủy, ngược sông Thạch
Hãn và một đại đội đi đường bộ lên Cam Lộ, vào Ba Lòng qua ngả Kho Muối.
Hai đại đội còn lại tiếp tục ở Thị Xã, chờ làm lễ xuất quân chính thức, rồi lên đường.
Sau
đó ít hôm, Tỉnh Trưởng Trần Điền ký sự vụ lệnh bổ nhiệm Đại Úy Cứ làm
Quận Trưởng, kiêm Tiểu Đoàn Trưởng Cảnh Bị Ba Lòng, đồng thời ấn định
ngày 19 tháng 2, năm 1955 làm lễ xuất quân. Buổi lễ được tổ chức trọng
thể trước tòa Hành chánh Tỉnh, dưới sự chủ tọa của Tỉnh Trưởng Trần Điền
để tiễn đưa tân Quận Trưởng và 2 đại đội Cảnh Bị còn lại lên đường.
Vào
8 giờ sáng ngày 19 tháng 2 năm 1955, trong lúc đang làm lễ xuất quân
trước Tòa Hành Chánh Tỉnh Quảng Trị, đột ngột nhận được công điện từ Huế
đánh ra, ra lệnh đình chỉ chiếm đóng Ba Lòng. Tỉnh Trưởng Trần Điền
quyết định rằng đoàn quân cứ tiến hành theo chương trình đã định. Ông sẽ
thương nghị với thượng cấp".
Tỉnh Trưởng Trần Điền và Thiếu Tá
Hoàng Văn Hiền, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Bị (Bảo An) Tỉnh về trình diện Tòa
Đại Biểu Chính Phủ ở Huế. Quyết định của Trần Điền bị Đại Biểu Chính Phủ
coi là "bất tuân thượng lệnh'. Sau đó, Tỉnh Trưởng được ra về, còn
Thiếu Tá Hiền bị đưa sang Nha Bình Trị giam lỏng. Trần Điền phản đối và
đòi ở tù tại Huế cùng với Thiếu Tá Hiền.
LỆNH GIẢI GIỚI TRỰC TIẾP BAN RA CỦA CỐ VẤN NGÔ ĐÌNH CẨN
Ông
Ngô Đình Cẩn cho mời GS Nguyễn Văn Mân của Đại Việt đến, ra một tối hậu
thư là các đơn vị ở Ba Lòng phải trở về thị xã và nộp tất cả võ khí.
Ông Cẩn còn nặng lời rằng không tuân lệnh, thì sẽ bị dẹp, tới lúc đó tất
cả sẽ vào ngồi tù. GS Mân khẳng khái trả lời: "Chúng tôi hân hạnh ở tù
dưới chế độ cụ Ngô."
Năm ngày sau, Bộ Tư Lệnh Quân Khu II ra
lệnh cho một tiểu đoàn Bộ Binh, một đại đội Thiết Giáp đưa Thiếu Tá Hiền
về Quảng Trị, đến thẳng văn phòng Tỉnh Đoàn Bảo An, buộc ký lệnh thu
hồi tất cả võ khí của các đại đội ở các quận và thị xã đem về nộp vào
kho của tỉnh đoàn, buộc Thiếu Tá Hiền ra lệnh cho tiểu đoàn ở Ba Lòng
trở về thị xã. Sau đó Thiếu Tá Hiền được trả tự do và tước hết quyền
hành. Ngay chiều hôm đó, Thiếu Tá Hiền đi thẳng lên Ba Lòng. Ngoài ra,
vì thấy chính quyền quyết định như vậy, Thiếu Tá Phạm Văn Bôn, Chỉ Huy
Trưởng Tiểu Đoàn Khinh Quân 610 đang đóng quân ở Quảng Nam và Đại Úy dù
Phạm Văn Đồng với một trung đội Dù nghe tin như vậy, tuyên bố ly khai
và kéo quân về Ba Lòng.
"Chính quyền đã dồn họ vào thế phải
chống đối dù biết rằng đằng nào cũng gặp nguy hiểm". Anh em sĩ quan gốc
Đại Việt quyết định "đã bị dồn vào chân tường, thì chỉ còn cách là 'họ
đánh thì mình đỡ'. Đằng nào cũng vào tù, nhưng ngẩng mặt mà vào tù,
không chịu áp bức, không chấp nhận sự bất công."
QUÂN ĐỘI TẤN CÔNG BA LÒNG
Đệ
Nhị Quân Khu điều động 3 tiểu đoàn thiện chiến nhất để lập thành Đòan
Quân Thứ Lưu Động lên Ba Lòng. Sau đợt tấn công đầu tiên không vào được
mục tiêu, vì Chỉ Huy Trưởng chiến dịch là Trung Tá Phan Văn Cách không
có ý định 'tàn sát lẫn nhau'. Bộ Tư Lệnh đệ II Quân Khu đưa Trung Tá Lê
Văn Nghiêm lên thay thế. Quân đội dùng công binh mở đường để đem đại bác
vào tận Đá Nổi để tác xạ vào Ba Lòng. Cầm cự đến ngày 9 tháng 3, năm
1955, quân trú phòng bị bất ngờ khi quân chính phủ tiến vào phía sau,
chiếm kho đạn và lương thực. Ba Lòng thất thủ. Lực lượng Đại Việt rút về
Ba Hi, bên kia biên giới Lào.
Ngày 10 tháng 3, Ban chỉ huy
quyết định giải tán lực lượng. Th. Tá Hiền và Đại Úy Cứ dẫn một số anh
em về Quảng Trị. Họ bị giam ỏ nhà lao Thừa Thiên cho đến 1977, Tòa quân
sự Huế mới đưa ra xét xử. Còn chừng 100 người ở lại và lén về ẩn náu tại
làng Ven. Tại đây, một số chết dần vì bệnh tật, hoặc sa vào tay Việt
cộng. Ít người khác lẻn về Huế, rồi cuối cùng cũng bị bắt.
Chung
cuộc,Tỉnh trưởng Trần Điền bị cách chức và loại ra khỏi ngạch công chức.
Những sĩ quan chỉ huy Ba Lòng, người thì bị án tù, khổ sai và một số
vắng mặt bị khổ sai chung thân.
Nhận xét về biến cố Ba Lòng:
Dựa
trên các sự kiện được trình bày trong cuốn Sống Còn Với Dân Tộc, người
đọc thấy rõ được sự mẩu thuẫn giữa chính quyền Trung Ương với chính
quyền địa phương. Sự việc này bắt nguồn từ ở mối nguy cơ mất chức của
viên Đại biểu Chính Phủ tại Trung Phần Việt nam: Nguyễn đôn Duyến.
Trong cuộc viếng thăm Quảng Trị vào đầu năm 1955, Thủ tướng Diệm ngợi
khen Tỉnh Trưởng Trần Điền về thành quả đã đạt được, ban cấp Bảo Quốc
Huân Chương, chấp thuận kế họach tiếp thu các căn cứ VC, và lại công
khai nói rõ ý định của Thủ Tướng Diệm là sẽ đưa Trần Điền làm Đại Biểu
Trung Phần.
Kẻ sắp bị mất chức trong trường hợp như vậy như Nguyễn
đôn Duyến phải tìm cách diệt kẻ "thù" của mình. Có như thế, thì mới giữ
được ghế của mình. Dưới triều Ngô, ai cũng biết có nhiều trung tâm quyền
lực trong nội bộ gia đình của TT Diệm :Giám Mục Ngô đình Thục, Ngô đình
Nhu, Ngô đình Cẩn. Những nhân vật này được coi là trung tâm quyền lực
thực tại ( de-facto), nghĩa là không có chức vụ chính thức trong chính
quyền, ngay cả đến luật pháp căn bản để thiết lập ra quyền lực ấy cũng
không có. Và mọi người đều hiểu rằng họ là Cố Vấn của Ông Diệm. TT Diệm
là người nắm quyền chính thống , được Hiến Pháp ban cấp quyền hành.
Chính ông nhiều khi lại không hành sừ quyền của mình liên quan đến những
vấn đề của quốc gia. Quyền hành của TT Diệm bị chi phối bởi những
người thân trong gia đình của ông. Chi phối ở đây không có nghĩa là anh
em ông Diệm gây ảnh hưởng đối với trung tâm quyền lực chính thống là ông
Diệm, mà là hạn chế quyền hành của ông, có khi thay thế hay vướt quá cả
quyền hành của ông. Vì nhu nhược trước các hành động của các trung tâm
quyền lực khác của gia đình, mà nhất là gia đình có truyền thống phong
kiến, Ông Diệm không dám hay không thể nắm hay hành sử quyền hành mà
Hiến Pháp, hay là gọi là do quốc dân giao phó.
Trường hợp vụ Biến
Động Ba Lòng là một thí dụ. Kẻ sắp mất chức là Nguyễn đôn Duyến. Làm
Đại biểu chính phủ ở Trung Phần Việt nam, Ông Duyến đã phải được che chở
của trung tâm quyền lực ở địa phương là ông Ngô đình Cẩn. Nếu không có
sự chấp thuận của ông Cẩn, ông Duyến hay bất cứ ai không thể có địa vị
nào ở Miền Trung. Trong thời gian nhà Ngô cai trị, người ta đã chứng
kiến nhiều trường hợp sự lạm quyền đã xảy ra và ông Diệm đều lặng thinh.
Thí dụ Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung dưới quyền điều khiển của
Dương văn Hiếu hoạt động tài Sài gòn. Đoàn này do Ông Cẩn từ Huế lập ra,
chỉ đạo và không thống thuộc hệ thống An ninh của Trung Ương. Quyền
hành của nhóm này còn mạnh hơn hay cao hơn cả hệ thống an ninh chính
thức cuả quốc gia.Như vậy phạm vi "ảnh hưởng" của ông Cẩn không chỉ giới
hạn ở Miền Trung. Hậu quả là có nhiều tướng lãnh, bộ trưởng v.v. từ Sài
gòn bay ra Huế để chúc tết hay dự ngày sinh nhật của ông Cố Vấn Miền
Trung để mưu cầu một ân huệ.
Nhờ quyền hành rất lớn như thế của
ông Cố vấn và là người đỡ đầu, ông Duyến đi tới quyết định chấm dứt kế
hoạch tiếp thu Ba Lòng đã được ông Diệm chấp thuân từ trước và đã bắt
đầu thi hành một phần rồi. Lại ra lệnh chấm dứt vào đúng phút chót là
lúc tổ chức "lễ xuất quân" để đánh vào mặt và hạ uy tín Trần Điền. Lệnh
của ông Duyến dù có trái với quyết định trước đó của chính ông Diệm,
nhưng lệnh ấy vẫn được ông Diệm hợp thức hóa bằng cách trừng phạt, và
bắt bớ, truy tố "các kẻ thù" của ông Duyến về tội "phá rối trị an", và
"vi phạm an ninh quôc gia". Tỉnh trưởng Trần Điền là mục tiêu của ông
Duyến. Ông Trần Điền và các sĩ quan Đại Việt trong công tác tiếp thu
chiến khu Ba Lòng, dù sẵn sàng chấp nhận phải đổ máu, là nạn nhân của
tranh chấp quyền hành trong gia đình Nhà Ngô. Lệnh hủy bỏ kế hoạch tiếp
thu Ba Lòng của ông Duyến được ông cố vấn Cẩn chính thực "bao yểm" khi
ông Cẩn mời GS Nguyễn văn Mân tới "nhà", để "chỉ thị" rằng sĩ quan Đại
Việt phải giải giới về trình diện tại Quảng trị, nếu không sẽ bị bỏ tù.
Tôi có gọi điện thoại nói chuyện với cựu Thượng Nghị Sĩ Mân ,
hiện tại ở Texas về vấn đề này. TNS Mân xác nhận rằng có trả lời ngay
ông Cẩn rằng " Đại Việt chúng tôi rất vui mừng ở tù dưới triều đại cụ
Ngô". Hành động của chính quyền địa phương đã dồn sĩ quan Đại Việt vào
vị trí phải chống trả lại , nghĩa là họ quyết định "ngẩng đầu lên mà
đi". Cũng vì hành vi "ngẩng đầu mà đi" này đối với người em của ông
Diệm, là Cố Vấn Cẩn, mà GS Mân bị tòa án quân sự phạt tù 6 năm, dù GS
Mân không có một hoạt động nào dính líu đến vụ Ba Lòng. Lý do được viện
dẫn trong bản án là : phá rối trị an và vi phạm an ninh quốc gia.
IV. NHÀ NGÔ ĐÀN ÁP ĐẠI VIỆT
Hồi
ký nói: "Từ 1956, Đại Việt bị chính quyền dồn vào tình thế bất lợi. Các
hoạt động của Đảng không những bị ngưng trệ và càng ngày càng lâm vào
bế tắc".
Đẩ làm sáng tỏ vấn đề này, hồi 1992 , BS Nguyễn tôn
Hoàn kể với tôi rằng " sau khi ông Diệm ở Mỹ về, thì thái độ của ông ấy
thay đổi hẳn. Trước khi xuất ngoại, vì tôi là người đứng đầu phong
trào Đại Đoàn Kết và Hòa Bình để vận động yểm trợ ông ấy. Ông ấy còn
dặn ông Nhu rằng cần phải vận động khối Hòa Hảo và Cao Đài và phải nhờ
BS Hoàn giúp liên lạc và giới thiệu. Ông Diệm còn nói rằng hai giáo phái
đó không chấp nhận hợp tác với ông Nhu. BS Hoàn phải đích thân đưa ông
Nhu đến gập các nhà lãnh đạo của hai khối này để giải quyết vấn đề hợp
tác để ủng hộ ông Diệm. Nay thấy ông Diệm tỏ vẻ thờ ơ và có thêm được
tin tức về âm mưu đàn áp đối lập đã lộ rõ. Ngay trong giai đoạn đầu cũng
đã có tin việc thủ tiêu Nguyễn bảo Toàn, Vũ tam Anh (1)…. Tôi thấy có
một mối nguy hiểm cho tôi. Tôi đến gập ông Diệm và nói rằng tôi cần đi
ngoại quốc. Ông Diệm hỏi tai sao tôi muốn đi như vậy. Tôi trả lời thẳng
với ông Diệm rằng: " Nêu tôi ở lại, có ngày anh sẽ giết tôi." Kế đó, ông
Diệm gọi ông Nhu vào văn phòng, bảo ông Nhu: " làm thủ tục để BS Hòan
xuất ngoại."
Rồi, ngày 3 tháng 4 năm 1957, Tòa án quân sự Sài
gòn xử tù một số đảng viên Đại Việt thuộc Xứ Bộ Miền Nam trong số này
có ông Phan thông Thảo; và ngày 7 tháng 10,1958 , tòa quân sự Nha Trang
cũng xử một số Đảng viên Đại Việt. Thí dụ Bà Trương thị Thỉnh, em ruột
của Đảng trưởng là một nạn nhân, bị 3 năm tù. Tất cả bị qui tội "phá rối
trị an" và bị án tù, dù họ không có liên hệ gì đến vụ Ba Lòng. Ngoài
ra, Trương tử An, một em ruột khác của Đảng trưởng Đại Việt bị thủ tiêu
vào giai đoạn này. (2).
V. ĐÓNG GÓP VÀO CÔNG VIỆC XÂY DỰNG DÂN CHỦ, TỰ DO Ở THƯỢNG TẦNG
A).
CỦNG CỐ LỰC LƯỢNG QUỐC GIA TRONG CÔNG CUỘC GIÀNH CHỦ QUYỀN DÂN TỘC KHỎI
TAY NGƯỜI PHÁP, VÀ THAM DỰ VÀO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG PHÁT HUY CHÍNH NGHĨA
QUỐC GIA
1. PHONG TRÀO ĐẠI ĐOÀN KẾT VÀ HÒA BÌNH, 1953.
Tình
hình đất nước vào năm 1953 rất bấp bênh, lòng dân phân tán. Các phe phái
dằng co, những người chủ trương Nam Kỳ tự trị sau khi thất bại âm mưu
của họ tỏ ra bất mãn và chống đối tích cực. Thục dân Pháp đã được người
Anh thỏa hiệp cho vào Sàigon, và Tàu nhượng cho Pháp vào Miền Bắc và nay
ở trong vị thế lăm le đặt ách thống trị trở lại, dù Pháp đã ký hiệp
ước trao trả độc lập cho Việt nam.
Về phía Việt minh, thì Hồ chí
Minh đã được Mao viện trợ quân trang, quân dụng để phát động đấu trang
võ trang qui mô. Mao cử Trần Canh sang làm cố vấn về mặt quân sự, viện
trợ quân trang quân dụng cho Hồ để đánh Pháp. Dưới sự chỉ đảo của Trần
Canh, quân Việt Minh thắng trận đầu tiên tại Cao bằng, Lạng sơn (1950),
rồi những năm kế đó, dồn quân Pháp lui vào vùng Trung Châu, Bắc Phần,
gây rối tại nhiều khu vực do Pháp kiểm soát. Dưới sụ lãnh đạo chính trị
của Lã quí Ba, Hồ cải tổ chính quyền, chuẩn chị công cuộc Cải Cách Ruộng
Đất, thiết lập hệ thống thuế để củng cố thế lực. Tại Miền Bắc Trung
Phần, Việt minh cộng sản kiểm soát được nhiều nơi và các vùng phía Nam
Trung Phần trở thành các khu vực tranh chấp giữa Pháp và Việt minh.
Trước tình thế đó, các lãnh tụ Đại Việt quốc dân Đảng của ba miền: BS
Nguyễn đình Luyện thuộc Xứ ủy Bắc Kỳ, BS Nguyễn tôn Hòan, Xứ ủy Nam Kỳ,
và Kỹ sư Hà thúc Ký, Xứ ủy Trung Kỳ họp và quyết định ra thành lập Phong
trào Đại Đoàn Kết và Hòa Bình. Mùa thu năm 1953, phong trào ra đời. Mục
đích là kêu gọi Quốc trưởng Bảo Đại "cải tổ định chế (cơ cấu chính
quyền), thay đổi nhân sự để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của tình thế và áp
lực với Pháp trao trả độc lập thực sư cho Việt nam."
Phong trào được
thành lập và tại 3 Miền Nam Trung Bắc, mỗi miền có một Ban Đại Diện.
Tại Trung Phần, Ngô đình Nhu làm chủ tịch và tác giả làm Phó. Sự việc
này chứng tỏ một điều là Đại việt nói chung và tác giả nói riêng , vì ý
thức quyền lợi và tương lai của dân tộc, đã vận động thành lập Phong
trào với mục đích đòi lại chủ quyền thực sự cho dân tộc khỏi tay của
thực dân Pháp. Chúng có âm mưu đặt ách thống trị trở lại, sau khi chúng
đã bị Nhật bản đảo chánh chừng một thập niên trước đó. Hơn thế nữa, tập
hợp này sẽ tạo một sức mạnh của toàn dân chống lại sự bành trướng của
Công sản Việt nam có sự tiếp sức và chỉ đạo của Cộng sản quốc tế, nhất
là của Tàu cộng. Ngô đình Nhu với tư cách là Chủ Tịch Phong Trào tại
Trung Phần lại lập thêm một bộ phận tham mưu riêng gồm một số tay chân
thân tín tại Sài gòn (Nam Phần), ở nơi đây là phạm vi hoạt động đã được
giao cho BS Nguyễn tôn Hoàn chịu trách nhiệm. Bộ phận này của Ngô đình
Nhu chống lại một số người Ban chỉ đạo Phong trào của Miền Trung và như
đã nói, chính Ngô đình Nhu làm Chủ tịch. Để giải quyết mâu thuẫn nội bộ
này, Đại Việt cử ông Đoàn Thái ( hiện cư ngụ tại Fort Smith, AR) làm
trung gian, tiếp tay hòa giải.
Ngày 6 tháng 1, 54 Phong trào ra mắt
tại Sài gòn với 100 đại biểu của các tố chưc thành viên. Tại buổi họp
này, Phong trào biểu quyết một lá thư gửi Quốc trưởng Bảo Đại thỉnh
nguyện cải tổ định chế, triệu tập Quốc Hội và ban hành Hiến pháp. Phong
trào 'hậu thuẫn cho Ngô đình Nhu và nhóm công giáo ủng hộ Ngô đình Diệm,
vả gây được tiến vang khắp ba Kỳ'.
Về mục tiêu giành lại chủ
quyền, thì "ngày 4 tháng 6 năm 1954, Thủ tướng Pháp Lauriel và Thủ tướng
Việt nam Bửu Lộc ký thỏa ước thi hành Hiệp Định Elysée để kiện toàn độc
lập cho Việt nam."
Phong trào Đoàn Kết và Hòa Bình lúc đầu gồm nhiều
nhận vật, gồm cả những người thân Pháp. Về sau, Phong trào chỉ còn gồm
có Đại Việt Quốc Dân Đảng, Việt nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Phục Quốc
Hội, Phục Quốc Quân,các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo và các tổ chức Công
Giáo.
2. MẶT TRẬN DÂN CHỦ XÃ HỘI QUỐC GIA,1969.
Vào thời kỳ
sau Tết Mậu Thân (1968), phong trào phản chiến tại Mỹ lên cao, gây một
áp lực mạnh đối với chính quyền Hoa Kỳ. Mục tiêu của chúng là đòi hỏi
cắt đứt mọi hỗ trợ tài chánh cho Việt nam Công Hòa, và rút quân đội Mỹ
ra khỏi Miền Nam, để Miền Nam tự chống đỡ lấy, tự mình chống lại sự xâm
lăng của Cộng Sản quốc tế mà Cộng sản Việt nam là một thừa sai.
Để
làm nhẹ bớt áp lực đó, Đại sứ Bunker, đại diện chính quyền Hoa Kỳ kêu
gọi các đảng phái quốc gia tập hợp xung quanh chính quyền của TT Thiệu
thành một tập thể rộng lớn, hỗ trợ cho mục tiêu chống lại Cộng sản mưu
toan đánh chiếm Miền Nam.
Tôi và chủ tịch Hà thúc Ký đi họp một số buổi họp với các chính đảng có biểu lộ ý định ngồi lại với nhau trong Mặt Trận.
Tromg
buổi cuối cùng, mở rộng gọi là khoáng đại hội nghị của các chính đảng
gồm khoảng 100 đại biểu của các chính đảng ấy do Nguyễn văn Hướng triệu
tập, các đại biểu bầu 3 đại diện lên làm chủ tọa đoàn để điều khiển Hội
Nghị. Ba đại diện đó là Trịnh quốc Khánh, Ngô Khắc Tỉnh và tôi. Tôi đề
nghị một cuộc hội ý riêng, tại chỗ giữa 3 người chúng tôi để xác định
qui tắc và phương pháp sinh hoạt cho hữu hiệu, cũng như đề cử một
người làm đại diện của chủ tọa đoàn đứng ra điền khiển hội nghị. Chủ
tịch Khánh và Dược sĩ Tỉnh đồng thanh cử tôi lãnh trách nhiệm này, vì
lý do " trẻ hơn và năng động…"
Chúng tôi đã hoàn tất nhiệm vụ một cách tốt đẹp và Mặt Trận đã ra đời.
Chủ
đích của Đại Việt Cách Mạng tham gia Mặt Trận, không phải chỉ để tiếp
tay cho chính quyển Hoa Kỳ phản ứng lại phong trào phàn chiến tại Mỹ.
Đại Việt Cách Mạng còn muốn đóng góp thực sự vào công tác bảo vệ "hạ
tầng " chống lại sự khuynh loát của Cộng sản. Đó là loại các phần tử VC
nằm vùng tại nông thôn ra khỏi thôn ấp, củng cố và lành mạnh chính quyền
nông thôn để từ đó xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
Vào thời điểm
này, tài liệu nghiên cứu của tôi cho biết rằng với trận Tổng Công Kích
Tết Mậu Thân, hạ tầng cơ sở của Việt Cộng đã bị vỡ nát. Con số chi bộ VC
được ước tính chỉ còn độ 400 trên toàn quốc. Tuy nhiên các chi bộ này
không toàn vẹn. Có chi bộ chỉ còn bí thư. Chi bộ khác còn một vài ủy
viên… Chúng phải lẩn trốn, y như thời kỳ sau hiệp định Genève.
Tôi
là người viết kế hoạch để Chủ Tịch Ký đưa ra cho Hội Đồng Chỉ Đạo của
Mặt Trận có trụ sở ở đường Bà Lê Chân, Sàigon, thuyết phục các thành
viên đóng góp sức mình vào công tac trọng đại này.
Không một chính
đảng trong Mặt Trận có thực lực dải rộng trên toàn lãnh thổ. Vì thế kế
hoạch trù liệu sự phối trí nhân sự và hoạt động linh động. Ở nơi nào một
đảng nào mạnh nghĩa là nhiều đảng viên đảm nhiệm công việc nặng nhọc
hơn, với sự hỗ trợ của cá đảng khác. Ở những nơi không có hiện diện của
một đảng nào, chính quyền địa phương phải lo bố trí nhân sự thay thế.
Điểm quan trọng là các cơ sở của Mặt Trận ở địa phương có nghĩa vụ cung
cấp tin tức về 'hạ thầng cơ sở 'của VC để chính quyền quyết định. Như
vậy, Mặt Trận không dẫm chân lên chính quyền, hay cản trở hoạt động của
chính quyền..
Trong cái gọi là chiến tranh nhân dân của Mao trạch
Đông mà Hồ được huấn luyện để thực hiện, thì đơn vị đảng CS ở hạ tầng
đóng vai trò quan trọng. Ngoài công tác kiểm soát dân chúng bằng bạo lực
( khủng bố), hạ tầng cơ sở của VC là các chi bộ đảng thu thuế bằng nhất
là hiện vật ( như lúa gạo) và huy động ( bắt buộc) nông dân vận chuyển
lúa gạo để tồn trữ ở một nơi nào đó khi quân đội hành quân đi qua có
lương thực để ăn. Hạ tầng cơ sở VC còn làm nhiệm vụ tình báo, nghĩa là
tìm kiếm và cung cấp tin tức cần thiết để cho quân đội hành quân…. Muốn
lảm được hai công tác này (
dĩ nhiên còn nhiều công tác khác), đơn
vị Đảng ấy ở nông thôn luôn sử dụng mọi biện pháp có thể có để đạt mục
tiêu của chúng. Hạ tầng VC là người trong thôn xóm. Chúng biết từng
người trong thôn ấp. Chúng dùng mọi thủ thuật để vận động mỗi cá nhận,
từng cá nhân vào họat động mà chúng muốn, quan trọng hơn hết bằng là bạo
lực, kể cả khủng bố: ám sát, giết chóc v.v.. nếu cần. Mọi cá nhân đều
sợ, nên phải 'thi hành.' Nhiều cá nhân bị áp lực nhận công tác nhỏ như
vậy, góp vào thành công việc lớn. Tuy nhiên, ở nơi nào VC không xâm nhập
được, vì không có 'hạ tầng cơ sở nằm vùng", VC không làm gì được. Đó là
vùng Hòa Hảo. Đó là vùng người công giáo sống tập trung. Nhiều khu vực
Quảng trị, Thừa thiên, Quảng nam, Quảng ngãi, Qui nhơn, Phú yên, ở
những nơi Đại Việt và VNQDD mạnh, lả những thí dụ khác. Điều quan trọng
trong Kế hoạch này là các đảng phái tại nông thôn là một tập thể bảo
trợ cho các cá nhân, nên VC không thể hay khó có thể vận dụng được. Hơn
nữa, mỗi cá nhân biết được có đoàn thể của mình hậu thuẫn, hướng dẫn,
nên có can đảm đứng ra 'tố cáo' các phần tử khả nghi hay nằm vùng (các
vùng Hòa Hảo và Công giáo cũng vậy) qua tập thể của mình. Còn mỗi cá
nhân riêng rẽ ở nông thôn bị VC tiếp xúc, thường giữ kin đáo, lặng yên
vì sợ, nhất là ám sát hay bắt cóc là biện pháp VC thường sử dụng Trong
tình thế này, họ thường bị lôi cuốn vào vòng ảnh hưởng của VC. Đó là
điểm mấu chốt cho sư thành công trong công tác vận động của CS.
Kế
hoạch này chẳng bao giờ được mang ra thi hành. Khi viết kế hoạch, tôi
không có ảo tưởng rằng Chủ tịch Đoàn, dĩ nhiên TT Thiệu lả Chủ tịch của
chủ tịch đoàn, có thể hiểu được tầm quan trọng của vấn đề để giải quyết
cuộc chiến do CSVN xâm lược. Hơn nữa, những kẻ được đưa vào ngồi trong
chính quyền, trung ương cũng như địa phương , dù bằng phương cách nào đi
chăng nữa cũng chỉ muốn độc quyền hành động, không muốn chia sẻ quyền
hành với bất cứ ai, kể cả e ngại những dòm ngó của kẻ khác…, dù kế hoạch
này qui định các ủy ban Mặt Trận địa phương là một bộ phận tư nhân,
đóng góp cho chính quyền bằng cách thu lượm, đánh giá tin tức về VC nằm
vùng, giúp cho chính quyền thực hiện công tác bình định trong phạm vi
trách nhiệm của họ.
Tác giả cuốn Sống Còn Với Dân Tộc khi nói
về Mặt Trận bị giải thể, nhấn mạnh rằng các thành viên trong Chủ Tịch
Đoàn ra đi "không kèn , không trống" . Trái lại, lễ khai mạc được tổ
chức tại rạp Rex ở Sàigòn, long trọng, 'rầm rộ'.
Tại sao như vậy,
tôi nghĩ rằng TT Nguyễn văn Thiệu , chủ tịch Mặt Trận cảm thấy đã đạt
mục tiêu về phía Mỹ đòi hỏi rồi, và không cần có lực lượng nào hẫu
thuẫn nữa. Đó là chưa kể đến sự kiện là suốt trong thời gian gọi là hoạt
động của Mặt Trận, chẳng có gì xảy ra, ngoài một số buổi họp chiếu lệ,
tẻ nhạt, của các chủ tịch trong Chủ tịch đoàn chỉ có tính cách tượng
trưng để quảng cáo hay tô vẽ vẻ đẹp cho chế độ. Ông Thiệu cũng chẳng đến
họp. Người ta có cảm tưởng rằng các chính đảng tham dự bị TT Thiệu cầm
chân. Sau đó, hầu hết các chính đảng có chân tromg Mặt Trận đứng vào vị
trí chống đối với TT Thiệu.
Các sự kiện này đưa đến một giải thích
thứ hai là âm mưu của TT Thiệu là tiến tới độc tài. Ông Thiệu cho lập
đảng Dân Chủ với phương tiện của chính quyền để nắm trọn quyền hành
trong tay, dù trước đó đã phải ứng cử độc diễn. Với Luật ủy Quyền được
Quốc Hội thông qua để chuẩn bị ứng cử nhiệm kỳ 3, với qui chế chính
đảng mới thay thế qui chế đã ban hành trước, TT Thiệu đã lộ rõ âm mưu
này. Sắc Luật 060 vào ngày 27 tháng 12, 1972 ( trước ngày hết hạn ủy
quyền), đòi hỏi các chính đảng phải tái tổ chức trên phạm vi toàn quốc
hay là bị giái tán. Rồi đến các luật lệ tiếp theo ban hành vào tháng 5,
1973, giải tán 26 chính đáng hợp pháp. Các đảng đó đã hội đủ điều kiện
và đã đăng ký ở Bộ Nội Vụ theo luật Qui Chế Chính Đảng và đang hoạt
động. Nay chỉ để một mình Đảng Dân Chủ của TT Thiệu hoạt động mà thôi.
(3)
Từ 1969, TT Thiệu quá say mê củng cố quyền hành, tập trung nỗ
lực quốc gia vào mục tiêu này để tiến tới nắm trọn quyền hành trong tay.
TT Thiệu đồng thời cố gắng làm sói mòn lực lương chính trị quốc gia,
đến nỗi vào tháng tư 1975, không còn ai cộng tác vào lúc phải huy động
mọi lực lượng chính trị, cải tổ nội các để đối đầu với Tổng Công Kích
của VC nhằm chiếm đoạt Miền Nam.
Thực là thảm thương cho quân dân Miền Nam.
Mặt
Trận gồm 6 đoàn thể: Việt nam Quốc Dân Đảng (gồm phân bộ Vũ hồng Khanh
( Bắc) hợp tác với phân bộ Nguyễn hòa Hiệp ( Nam, có sự tham dự của LS
Trần văn Tuyên), Lực lượng Đại Đoàn Kết (Nguyễn gia Hiến), Nhân Xã
Đảng (Trương Công Cừu), Lực Lương Tự Do Dân Chủ (Nguyễn văn Hướng), và
Dân Chủ Xã Hội Đảng (Trình Quốc Khánh của Hòa Hảo) và Đại Việt Cách
Mạng.
Về sức mạnh của Mặt Trận, GS John C. Donnell trong bài
thượng dẫn của cuốn sách trên, trang 156, có trích dẫn từ tài liệu "
South Vietnam: Neither War nor Peace" của Allan E. Goodman đăng trong
Asian Survey (Feb 1970), nói rằng tập hợp này tượng trưng cho 40% lực
lượng quốc gia dựa trên kết quả bầu cử 1967.
B). ĐÓNG GÓP VÀO XÂY DỰNG NỀN TẢNG CHO CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ PHÁP TRỊ
1. DẠI VIỆT CÁCH MẠNG VÀ HIẾN PHÁP VNCH 1967.
Hiến Pháp là văn kiện căn bản thiết lập cơ quan chính quyền của quốc gia trong một chế độ dân chủ pháp trị.
Trước sự xáo trộn gây ra do các tướng lãnh tranh giành quyền lực, và sự
lủng củng của chính phủ dân sự Phan khắc Sửu- Phan huy Quát để tiến tới
chính phủ quân nhân nắm quyền. Ban lãnh đạo Đại Việt Cách Mạng đưa ra
kế hoạch 9 điểm để đối phó với tình hình: tuyên bố lập trường đối với
quốc tế, đối với Cộng sản , kêu gọi áp dụng các biện pháp cần thiết để
chống lại Cộng sản. Kế hoạch ấy được công bố vào tháng 5 1965. Điểm 3
của kế họach nói " Để có chính nghĩa đấu tranh, chính phủ phải nỗ lực
tạo dựng điều kiện tiến tới việc tổ chức bầu cử một Quốc Hội Lập Hiến,
soạn thảo một Hiến Pháp dân chủ. Sau khi Hiến Pháp được ban hành, phải
tổ chức bầu cử các cơ cấu quyền lực quốc gia, thành lập chính quyền dân
cử". Mục đích điều 3 này là ngăn ngừa cánh quân nhân có tham vọng nắm
trọn quyền hành trong tay ngõ hầu tiến tới độc tài quân phiệt. Như thế
là một thảm họa cho Miền Nam. Tránh được độ tài nọ, dân tộc lại phải
gánh chịu một độc tài khác, để rồi sẽ dẫn đến độc tài toàn trị của Cộng
sản. Hai phương pháp được áp dụng: Một mặt phải vận động với tướng lãnh
có ảnh hưởng trong chính quyền quân nhân, vì tất cả thành viên đều là
quân nhân chuyên nghiệp, và mặt khác phải phát biểu quan điểm để làm áp
lực. Do đó, có một số cuộc biểu tình đã được tổ chức tại Miền Trung (10
tháng 5, 1965: Tam Ký, Quảng Tín; 17 tháng 5: Hương Trà, Thừa Thiên; 24
tháng 5: Triệu Phong), và tại Miền Nam, ngày 7 tháng 5: Phước Ninh (
quận ChâuThành) Tây Ninh, 31 tháng 5: thị xã Sóc Trang, Ba Xuyên để đòi
hỏi ban hành một đạo luật bầu cử quốc hội lập hiến. Chính quyền quân
nhân nhượng bộ, tỏ thiện chí muốn cải tiến chế độ. Vì vậy, các cuộc biểu
tình tiếp theo bị hủy bỏ.
Tham dự Bầu Cử Quốc Hội Lập Hiến
Đại
Việt Cách Mạng đã tham dự bầu cuộc cử Quốc Hội được tổ chức ngày 11
tháng 9, 1966 để làm ra một Hiến pháp làm căn bản cho sinh hoạt quốc
gia. Trong tổng số 117 dân biểu được bầu, Đại Việt có được 9 dân biểu và
2 cảm tình viên.
Trong Quốc Hội này có 3 Khối, một dân biểu của Đại
Việt Cách Mạng là GS Nguyễn văn Ngải được bầu làm Trưởng Khối của một
trong 3 Khối. Đó là Khối Đại Chúng. Ngay trong giai đoạn đầu, đó là một
Khối có đa số áp đảo gồm hơn 60 ghế. Khối này có khuynh hướng độc lập.
Các dân biểu khác của Đại Việt được bầu nắm chức vụ trong ban lãnh đạo
Quốc Hội Lập Hiến là: Hoàng xuân Tửu, đệ II Phó Chủ Tịch; Mai đức
Thiệp, Chủ Tịch Ủy Ban Kiểm Tra Kế Toán; Nguyễn hữu Đức, Thuyết trình
viên Dự Luật Qui Chế Chính Đảng. Một Dân biểu khác là LS Đinh thành
Châu, hiện làm chủ nhà hàng Kobe ở Santa Clara, CA được bầu là Chủ Tịch
Ủy Ban Thảo Hiến.
Sau 6 tháng làm việc, ngày 1 tháng 4 năm 1967
Quốc Hội này đã cho ra đời một bản Hiến Pháp làm nền tảng xây dựng nền
đệ II Cộng Hòa(4)
2. THAM DỰ VÀO SINH HOẠT TRONG NGÀNH HÀNH PHÁP VÀ LẬP PHÁP.
HIẾN PHÁP VNCH 1967 thiết lập Tổng Thống Chế và quốc hội theo chế độ lưỡng viện, gồm Thượng Nghị Viện và Hạ Nghị Viện.
A. Bầu cử Tổng Thống: Hiến pháp qui định nhiệm kỳ Tổng Thống là 4 năm.
Bấu cử Tổng Thống đầu tiên của đệ II Cộng Hòa được tỗ chức ngày 3 tháng
9 năm 1967. ĐVCM có liên danh Hà thúc Ký- Nguyễn văn Định với danh
hiệu Bông Lúa. Về kết quả bầu cử, thì trong tổng số 11 liên danh, Liên
danh Bông Lúa đứng hàng thứ 5.
B. Thượng Viện:
Hiến Pháp 1967
qui định Thượng Nghị Viện VNCH gồm 60 Nghị sĩ. Để bầu 60 nghị sĩ này,
các ứng viên phải được tập hợp thành từng liên danh 10 người. Như vậy,
cuộc bầu cử đầu tiên sẽ chọn 6 liên danh. Nhiệm kỳ của Thượng viện là 6
năm. Thượng viện cũng được tổ chức bầu cử vào ngày 3 tháng 9 năm
1967. Đại Việt Cách mạng có một liên danh đắc cử. Đó là liên danh Bông
Lúa. Tại cơ quan này, Hoàng xuân Tửu được bầu làm đệ II Phó Chủ tịch;
Nguyễn văn Ngải , Chủ tịch Ủy Ban Kinh tế; Phạm nam Sách, Chủ tịch Ủy
ban Định Chế Tư Pháp; Nguyễn văn Kỷ Cương, Chủ Tịch Ủy Ban Văn Hóa Giáo
Dục.
C. Hạ Viện: Trong các nhiệm kỳ 1967-1971, 1971-1975 có 18 dân biểu.
Về
cuộc bầu cử bán phần Thượng Viện, được tổ chức vào tháng 9 1970. Nhiệm
kỳ Thượng Viện là 6 năm. Để cho sinh hoạt Thượng viện không bị gián
đoạn, Hiến Pháp 1967 qui định rằng cuối năm thứ 3 của pháp nhiệm I, sẽ
có một cuộc rút thăm để giữ lại 1/2 là 30 thành viên và 1/2 phải ra
đi . Như vậy vào năm 1970, sẽ có cuộc bầu cử bán phần để thay 30 người
phải ra đi. Chủ tịch Hà thúc Ký cử tôi đứng đầu liên danh cũng lấy danh
hiệu Bông Lúa. Liên danh gồm 10 đảng viên: Nguyễn văn Canh; Đặng văn An (
trung tá Quân đội); Đoàn Ý ( Luật sư); Nguyễn Bào ( Giáo sư Đại Học);
Nguyễn đình Hoan ( Giáo sư Đại Học); Nguyễn văn Mân ( cựu Giáo sư, cựu
Thượng Nghị sĩ, pháp nhiệm I); Tôn thất Uẩn ( Kỹ sư Điện, cựu Thượng
Nghị sĩ , pháp nhiệm I); Mai đức Thiệp ( Đốc sự, cựu Thượng nghị sĩ,
pháp nhiệm I); Nguyễn văn Đại ( Luật sư) và Nguyễn văn Kỷ Cương ( Giáo
sư Đại Học, cựu Thượng nghị sĩ Pháp nhiệm I).
Kết quả được Hội Đồng
Bầu Cử tuyên bố ngày 14 tháng 9, 1970: liên danh Bông Lúa được 628,992
phiếu, đứng thứ 6, trong khi đó theo Hiến pháp qui định, thì chỉ chọn 3
liên danh đứng đầu mà thôi.
Ngoài ra, nhiều đảng viên ĐVCM tham dự
vào các cơ quan quyết nghị tại các cấp địa phương như Hội Đồng Tỉnh, Thị
Xã, và các Xã khắp nơi trên toàn quốc.
Chủ tịch Hà thúc Ký làm
Tổng trưởng Bộ Nội Vụ trong một thơi gian ngắn vào 1964 và Hồ văn Châm
được cử làm Tổng trưởng Chiêu Hổi (1969).
3. THAM DỰ VÀO CÔNG TÁC BẢO VỆ VÀ CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG CƠ SỞ MÀ MỤC TIÊU LÀ LOẠI TRỪ VC NẰM VÙNG RA KHỎI NÔNG THÔN.
TẠI MIỀN TRUNG:
A) CÔNG TÁC BÌNH ĐỊNH TẠI QUẢNG TRỊ dưới thời Trần Điền làm Tỉnh trưởng
Quảng
Trị là một tỉnh địa đầu giới tuyến đầy dãy cán bộ cộng sản nằm vùng.
Trần Điền, xuất thân là Tri Huyện, được Ngô đình Diện khi chấp chánh bổ
nhiệm làm tỉnh trưởng. Biết tới khả năng và thực lực của Đại Việt, Trần
Điền tìm đến sự hợp tác của Đại Việt, nhất là phải đối phó với Việt
Minh Cộng Sản trong thời gian chuyển tiếp sau Hiệp Định Genève được ký
kết. Tỉnh đã đạt: "kết quả vô cùng tốt đẹp là mới hơn nửa năm, tỉnh
Quảng trị đã vãn hồi an ninh và phát triển kinh tế, ổn định đời sống."
Thủ tướng Diệm đến kinh lý Quảng trị vào đấu tháng 1 năm 1955 đã "khen
ngọi và ban thưởng Bảo Quốc Huân Chương cho Trần Điền."
B). CÁN BỘ ĐẠI VIỆT TRONG TỔNG ĐOÀN XÂY DỰNG NÔNG THÔN VÀ CẢNH SÁT THỪA THIÊN, VỚI VỤ BIẾN ĐỘNG MIỀN TRUNG.
Vào
tháng 4 năm 1966, Việt cộng lợi dụng thay đổi phương vị Tư Lệnh Quân
Đoàn I của Tướng Nguyễn chánh Thi ( bị bãi chưc ngày 10 thảng 3, 66) xúi
dục nhóm phản động Miền Trung dưới danh nghĩa Phật Giáo đấu tranh,
chống lại chính quyền trung ương. Chúng đốt phá thư viện của Hoa Kỳ tại
Huế, đốt luôn cả tư gia của Tỉnh trưởng, Trung tá Phan văn Khoa, xúi
dục đồng bào Phật tử đưa bàn thờ Phật xuống đường gây xáo trộn, cản trở
lưu thông làm mất trật tự của thành phố Huế. Tình trạng hỗn loạn, có thể
nói là vô chính phủ, bất chấp luật pháp của nhóm đấu tranh lan tràn.
Vào lúc này, tinh thần của Tỉnh trưởng Thừa Thiên đã nao núng, có vẻ đã
chùn bước, mất tinh thần muốn xuống nước nhường nhóm đấu tranh. Các cơ
quan hành chánh, quân sự tỉnh đã đồng loạt rút về cố thủ tại Hương Thủy
do một Đảng Viên Đại Việt làm quận trưởng.
Trong hoàn cảnh đó,
cán bộ Đại Việt Cách Mạng (ĐVCM) được lệnh công khai quyết liệt chống
lại chúng. Hơn nữa, ĐVCM được chính quyền trung ương triệt ủng hộ: Ty
Cảnh Sát Thừa Thiên được giao cho một Đảng Viên ĐVCM là Trần công Lập
chỉ huy để chế ngự nhóm đấu tranh tại thành phố. Đồng thời, với sự đồng
ý của chính quyền, một đảng viên khác là Phùng ngọc Sa, lúc đó đang
phục vụ tại sở Ngoại Viện, Bộ Xây Dựng Nông Thôn đã được điều động ra
Thừa Thiên làm Tổng Đoàn trưởng Xây Dựng Nông Thôn. Với trên 1,000 cán
bộ trong tay, Phùng ngọc Sa đã góp phần tích cực phối hợp với Đoàn công
Lập của Cảnh Sát đễ giữ vững tình hình tại thị xã cũng như tại nông
thôn. Ngoài lực lượng cảnh sát Thừa Thiên và tổng đoàn Xây Dựng Nông
Thôn ra, các quận quanh thành phố như Hương Trà, Phú vang, Hương Thủy
từ trước đã đều do cán bộ ĐVCM chỉ huy. Tất cả đều nhận lệnh của Đảng
là phải cương quyết chống lại bọn đấu tranh.
Hai bên, Cộng sản Bắc
Việt và các can bộ quốc gia cầm cự từ tháng 4 cho đến tháng 5, 1966, lực
lượng chính phủ Trung Ương gốn 1500 Thủy Quân Lục Chiến và các biệt
đoàn Cảnh Sát Dã Chiến từ Sài gòn do Tướng Nguyễn ngọc Loan chỉ huy được
điều động ra trực tiếp can thiệp và dẹp tan cái gọi là Khối Phật Giáo
Đấu Tranh.
Công tác dẹp bỏ bàn Thờ Phật đã " xuống đường" là công
tác tế nhị, cũng đã được cán bộ Đại Việt dẹp bỏ một cách khôn khéo và
êm đẹp.
Cũng cần nói thêm rằng, vào thời điểm này,Tổng Đoàn Xây Dựng
Nông Thôn còn thành công tham dự vào công tác ngăn cản sự bành trướng
của VC ở nông thôn, và rồi từ tình trạng thôn xã bị sa sút nhất, mất an
ninh, vùng xôi đậu …đã trở thành những thôn xã có an ninh đúng tiêu
chuẩn mà Bộ Xây Dựng Nông Thôn đề ra.
Một chi tiết cần thêm ở
đây rằng trong cuộc ứng cử Tỗng Thống năm 1967, có cuộc tranh luận diễn
ra tại trường Đồng Khánh, Huế , và liên danh Bông Lúa (của Hà thúc Ký)
được nhiệt liệt hoan hô, trái lại liên danh Thiệu Kỳ bị đả kích nặng nề.
"Ngay buổi chiều hôm đó, tỉnh đoàn trưổng ( Xâ Dựng Nông Thôn) Phùng
ngọc Sa bị cách chức và trả về Bộ và Nguyễn ngọc Cứ bị trung tá tỉnh
trưởng Phan văn Khoa giải nhiệm chức vụ Tỉnh Đoàn Phó và không cho hưởng
bất cứ một trợ cấp nào."…..
"Sau Tết Mậu Thân, Tỉnh Đoàn (Xây Dựng
Nông Thôn) bị thiệt hại nặng. Trong tình trạng đen tối đó, tỉnh trưởng
Thừa Thiên lại tìm Nguyễn ngọc Cứ để giao quyền chỉ huy lại cho Đại Việt
Cách Mạng.
Tác giả mạnh mạnh đến một nguyên tắc chỉ hướng là :
"nếu muốn thành công phải có sự chỉ đạo sáng suốc của chính trị, dưới sự
lãnh đạo của đảng phái chân chính, một công cụ để đấu tranh. Ngược lại
muốn áp dụng hay quảng bá một đường lối có lợi cho quần chúng trong một
vùng thiếu an ninh, đều kiện cần thiết là phải có sự yểm trợ của bộ phận
võ trang. Lý do đó, chính trị và quân sự phải liên hoàn và được phối
hợp chặt chẽ".
C) TẠI MIỀN BẮC.
Nhân dịp này cũng cần thêm
vào công tác bình định và xây dựng nông thôm của Đại Việt ở Miền Bắc,
trước năm 1954. Có 3 công tác lớn theo đuổi mục tiêu này.
Tại Bắc
Việt, Thanh Niên Bảo Quốc Đoàn (TNBQĐ) do Đỗ văn Năng làm thủ lãnh.
Thanh niên BQĐ có cơ sở ở nhiều nơi ở nông thôn. Nha Công An Bắc Phần là
do Giám Đốc Nguyễn đình Tại, xuất thân là Tri Huyện điều khiển. Đoàn
Quân Thứ Lưu Động (GAMO: Groupements Administratifs Mobiles
Operationnels) dưới sự điều động của Đỗ đình Đạo , rồi Trần như Thuần
(cựu Tri Huyện). Công tác của Đoàn Quân Thứ Lưu Động gồm cả quân sự
lẫn chính trị: tổ chức lại và bảo vệ cơ quan hành chánh tại xã ấp sau
khi Pháp đã giải phóng khỏi tay Việt Minh Cộng sản. 15 Đoàn Quân Thứ
Lưu Động hoạt động mạnh tại nhiều tỉnh ở Miền Bắc.
Vào giữa thập
niên 1990, tôi có gập một sinh viên người Pháp đến xin phỏng vấn để
viết luận án tiến sĩ với Đại Học ở Paris về thời kỳ trước Hiệp Định
Genève ở Bắc Việt. Anh này cho biết rằng anh ấy có tìm thấy một báo cáo
của một Đại Úy Pháp thuộc Tâm Lý Chiến, khuyến cáo Tổng Tư Lệnh Pháp ở
Đông Dương đừng ngăn cản Đại Việt mà trái lại phải trợ lực cho họ hoạt
động và thực hiện công tác của họ.
x
Hơn 30
trang cuối, tác giả nói về những ngày cuối cùng của VNCH. Những chi tiết
liên hệ cũng là những tài liệu quí báu để cho những ai muốn biết về sự
kiện trong giai đoạn đen tối của lịch sử dẫn đến Miền Nam lọt vào tay
Cộng sản, thay vì Miền Nam phải giải cứu Đồng Bào Miền Bắc khỏi gông cùm
của Cộng Sản.
x x x x
Dưới chế độ Ngô đình
Diệm, tác giả sa vào vòng tù tội từ tháng 10 năm 1956 mãi cho tới ngày 3
tháng 11 năm 1963 ( hơn năm năm, kể cả biệt giam tại sà lim), sau ngày
đảo chính, mới được thả. Với cách thức đối đãi với tù nhân (như đã mô tả
trong cuốn hồi ký này)- một người đã từng cộng tác trong một số phong
trào trước đó, để chống lại thực dân và cộng sản, có cả phong trào Đại
Đoàn Kết và Hòa Bình là để ủng hộ chính Ngô đình Diệm giành đoạt chính
quyền với mục đích xây dựng một quốc gia độc lập và tự do, ngoài ra, vợ
và con út của tác giả ( mới chỉ có 3 tháng tuổi) cũng bị giam cầm gần 3
năm, chỉ vỉ chồng và cha tham gia chống đối chế độ, tác giả trong suốt
cuốn hồi ký không có một chữ hay câu văn ngụ ý đến oán hận nhà Ngô mà
ngược lại còn ca tụng, thương tiếc (tr.360). Đó là một điểm mà người
đọc cần nhận diện qua cuốn tài liệu này.
x
Về
hình thức, lời văn rất thông thoáng, nhẹ nhàng, dễ đọc. Sắp xếp bố cục
có lớp lang. Tác giả đã tài tình dùng một số câu tục ngữ hay cao dao,
hay trong văn chương bình dân để diễn tả một hình nào đó. Thí dụ như
"đường dài ngựa mỏi chân bon"; "vật đổi sao dời"; "cảnh cũ còn đó, những
người xưa nay đâu?", "tuyệt tích giang hồ"….
Sống Còn Với Dân Tộc là cuốn hồi ký có giá trị../.
GIA NHẬP GIẢI PHÓNG QUÂN
Tác
giả tìm cách gia nhập "giải phóng quân" (lực lượng quân sự Việt Minh),
với một tinh thần giống như của bao nhiêu thanh niên cùng thế hệ là "
lăn xả vào công cuộc đấu tranh cho dân tộc" và "tin tưởng vào vận hội
mới của đất nước." Như tác giả nói " vừa qua thời kỳ bút nghiên, lại
quẳng hết sự nghiệp để đầu quân… giải phóng".
Đó là những hi sinh cao quí của các chàng trai thế hệ xung phong lên đường cứu nước.
Ngay
khi xin gia nhập "giải phóng quân", tác giả được bạn bè hướng dẫn vào
Ban Đặc Vụ Quân Sự, để làm thủ tục. Lúc này Ban Đặc Vụ đang cần một chỉ
huy trưởng cho đơn vị "Đặc Vụ Quân Sự Lào, đường số 9" . Đơn vị này
thuộc lực lượng Việt Minh mà Ủy Ban Hành Chính và Kháng Chiến Trung Bộ
cử sang trợ giúp lực lượng "Lào Độc Lập" của hoàng thân Souphanouvong
(sau này là lãnh tụ Lào cộng), đối đầu với quân đội Pháp : "Pháp muốn
lật lại thế cờ, chuẩn bị mở lại chiến trường Lào….
Nếu giữ được quốc lộ 9 là ngăn chặn quân Pháp kéo về chiếm Khe Sanh và Lao Bảo, uy hiếp Đông Hà, Quảng Trị."
Dù
chưa làm giấy tờ gia nhập, tác giả đã nhận nhiệm vụ khó khăn này trong
khi không mảy may có một kiến thức quân sự và tình báo tối thiểu, gồm cả
đến cách sử dụng võ khí, cũng như chưa từng bắn một phát súng nào từ
trước. Khi đảm nhiệm chưc vụ chỉ huy một trung đội Đặc Vụ quân sự, tác
giả và đơn vị lập tức lên đường đi Tchepone, Lào.
Tại đây, tác
giả và thành viên trung đội được cố vấn của Lực Lượng Việt Minh huấn
luyện về quân sự. Họ là cựu sĩ quan Nhật không chịu đầu hàng đồng minh, ở
lại phục vụ trong hàng ngũ Việt Minh.
Nhiệm vụ của đơn vị này
là thu thập và cung cấp tin tức về hoạt động của quân Pháp, còn đóng rải
rác dọc quốc lộ 9, cho lực lượng Việt Minh. Tác giả bắt tay vào việc
thiết lập màng lưới thu thập tin tức trong khu vực cho quân giải phóng.
Lực
lượng Việt Minh quyết định tấn công quân Pháp ở NaKoi. Quân số của Việt
Minh có chừng một tiểu đoàn hành quân trong khu vực này, trong khi đó
lực lương của Pháp là một trung đoàn đóng rải rác trong khu vực. Việt
Minh tấn công trước. Quân Pháp rất mạnh. Cuối cùng, Việt Minh yếu thế,
phải rút lui, chạy về Mường Phin. Bất ngờ quân Pháp truy kích và bao vây
căn cứ. Bộ đội Việt Minh chỉ chống đỡ cầm chừng, rồi tìm cách chạy
trốn, rồi phân tán trú ẩn trong các nhà của dân chúng địa phương.
Vào
tháng 12 năm 1945, Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Trung Bộ cử viên chính
ủy đến Khe Sanh để họp với các chỉ huy lực lương Việt Minh từ Lào về.
Kết thúc buổi họp, tác giả đưa ra một nhận xét trái ý viên chính ủy ấy,
và ngay sau đó được chỉ huy trưởng Lực lượng Việt Minh cảnh giác rằng
tác giả sẽ bị rắc rối về sau và cùng với lời khuyên của viên cố vấn quân
sự người Nhật rằng tác giả nên rời khỏi Lào "càng sớm càng tốt, và nên
vào Nam hay ra Bắc, chứ đừng về Huế, vì nơi đó trong vòng kiềm tỏa của
viên chính ủy và tay chân bộ hạ của anh ta". Đồng thời, tác giả nhận
được điện tín bằng mật mã của người bạn, làm trong Ban Đặc Vụ ở Huế
khuyên tác giả phải rời khỏi Lào gấp, vì "viên chính ủy đã vu cáo tác
giả là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng." Đó là một 'thành phần phản
động, vô cùng nguy hiểm". Như vậy, tính mạng tác giả đã thực sự bị đe
dọa trước mắt.
Tác giả rời Lào vào tháng 1 năm 1946, rồi trở lại Hà nội.
II. DẤN THÂN VÀO HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
Trở
ra Hà nội lần này, tác giả ghi danh vào trường Dược để tránh nhòm ngó
và theo dõi của Việt Cộng. Với ngụy trang đó, được sống tại Đông Dương
Đại Học Xá khoảng 5 hay 6 năm về trước, tác giả lăn xả vào họat động.
Từ tháng 2 năm 1946, tác giả tuyên thệ gia nhập Đại Việt Quốc Dân Đảng tại Hà nội.
Công
tác đầu tiên được giao là làm Trưởng Ban Báo Chí Nội Thành. Nhiệm vụ là
thu góp, biên soạn, sản xuất và phân phối các tài liệu tuyên truyền,
huấn luyện cho đảng viên và ra ngoài quần chúng. Ngoài ra, tác giả còn
được giao công tác đặc biệt mà Đảng Trưởng ra lệnh.
Vào thời
đểm này, Việt cộng hoạt động mạnh và có một ưu thế tại Thủ Đô kể từ khi
chúng cướp được chính quyền từ 19 tháng 8 năm 1945. Lực lượng tình báo
của chúng rải ra khắp nơi để ám sát bắt cóc, rồi đem thủ tiêu những
người mà chúng cho là kẻ thù hoặc chống lại chúng. Tại Đại Học Xá, có
một chi bộ Cộng Sản chuyên lo công tác này, dưới danh nghĩa Sinh Viên
Cứu Quốc. Một số bị sa bẫy và bị thủ tiêu. Đó là trường hợp Phan Thanh
Hòa, sinh viên Nha Khoa, bị Sinh Viên Cứu Quốc dụ lên Phú Thọ và thủ
tiêu tại đó. Phan Thanh Hòa là anh ruột chị Phan Thanh Bình, về sau là
chị Nguyễn Tôn Hoàn. Ngoài khuôn viên Đại Học, biết bao nhiêu trí thức
yêu nước, không chịu hợp tác với Cộng Sản, hay thuộc Đại Việt hoặc Việt
Nam Quốc Dân Đảng cũng bị Hồ Chí Minh áp dụng các biện pháp tương tự.
Đảng Trưởng Đại Việt là Trương Tử Anh có tin cho biết là bị mất tích
tại Hà Đông và bị thủ tiêu vào thời gian tháng 12 năm đó (1946). Lãnh tụ
Lý Đông A của Đại Việt Duy Dân cũng ở trong tình trạng như thế. Đặng Vũ
Trứ, con trai BS Đặng Vũ Lạc bị mất tích v.v..
Hoạt động báo
chí kể cả phân phối tài liệu học tập trong hoàn cảnh này rất khó khăn,
phải được ngụy trang cẩn thận tránh sự phát hiện của tình báo Cộng Sản.
Kể cả khi di chuyển trên đường phố, cũng phải canh chừng. Sinh sống hàng
ngày, nhất là ở khu tập thể như Đại Học Xá cũng phài tính toán như thế
nào để Sinh Viên Cứu Quốc, không nghi ngờ, dù chúng thường xuyên rình
mò, theo dõi.
Nhân dịp này, tôi thấy cần nhấn mạnh đến phương thức
liên lạc để hiểu biết các khó khăn, gian khổ của các nhà cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn lịch sử này. Mọi liên lạc để báo cáo hay nhận chỉ
thị lên hay từ cấp trên xuống được bố trí nghiêm ngặt để sống còn. Và
chỉ có một đường dây duy nhất với một người được chỉ định để bị tránh
tiết lộ và đề phòng cả trường hợp phản bội.
Trường hợp của tác
giả, thì chỉ nhận lệnh của Đảng Trưởng Trương Tử Anh qua phái viên duy
nhất phụ trách liên lạc, Nguyễn Tất Ứng, (về sau là Bộ Trưởng Xây Dựng
Nông Thôn của Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, và bị tử nạn máy bay sau ít
tuần lễ nhậm chức). Chỉ thị là lên đường về Huế làm phụ tá Xứ Ủy cho BS
Bửu Hiệp. BS Hiệp đã được cử vào Trung phục vụ với cương vị Xứ Ủy trước
đó. Cùng một phương thức liên lạc qui định trước, BS Nguyễn Tôn Hoàn
cũng nhận được lệnh mật như vậy để trốn tránh VC vì "đang bị theo dõi để
ám sát". Một hôm đang khám bệnh tại bệnh viện Phủ Doãn nằm trên đường
Quán Sứ Hà Nội, BS Hoàn được lệnh của chính Đảng Trưởng qua một phái
viên phụ trách liên lạc là phải rời bỏ công việc tức khắc và được một
người hướng dẫn ngay đến một ngôi nhà ở đường Quan Thánh, vì VC đang
theo dõi khắt khe. Nằm trên căn gác một ngôi nhà được vài ngày, BS Hoàn
được bí mật đưa xuống Hải Phòng và từ ở nơi đây một người đồng chí tên
là Minh đưa xuống một chiếc thuyền đi Hồng Kông và được đưa lên Nam
Ninh, Trung Hoa.
Cũng như trước đó không bao lâu, vào năm 1945,
Đảng Trưởng Trương Tử Anh bí mật cử 2 đồng chí đầu tiên là Nhân và Tín
vào Nam Kỳ để lập cơ sở và phát triển Đảng. Nhân là bí danh của GS Phạm
Đăng Cảnh, có một thời gian làm Giám Đốc Nha Tư Thục Bộ Quốc Gia Giáo
Dục của Việt Nam Cộng Hòa trước 1975. GS Cảnh hiện ở Rennes, Pháp. Tín
là bí danh của GS Nguyễn Tấn Thành, thuộc trường Đại Học Luật Khoa, Sài
gòn. GS Thành đã qua đời tại Niles, Pháp hơn 10 năm trước đây. Một người
thứ 3 được cử vào Nam là Lễ. Lễ hay Mười Lễ là bí danh của Nguyễn Văn
Hướng, về sau, năm 1967, làm Tổng Thư Ký Phủ Tổng Thống cho TT Thiệu,
trong những ngày đầu của chế độ đệ II Cộng Hòa. Có một người khác được
đưa vào sau là Nghĩa, được nói là bí danh của Nguyễn Văn Kiểu, anh ruột
của TT Thiệu, làm Đại Sứ tại Đài Loan cho đến khi Việt cộng chiếm Miền
Nam Việt Nam.
LÀM XỨ ỦY TRUNG KỲ.
Ngày 19 tháng 11 năm
1950, Việt Minh ám sát BS Bửu Hiệp. Đóng vai trò một bệnh nhân, cán bộ
ám sát Việt Minh xin vào khám bệnh mà phòng mạch đặt tại nhà ở Huế. Tên
sát nhân bắn nạn nhân vào đầu trong lúc đang ăn cơm và BS Hiệp gục chết
tại chỗ. Tên sát nhân về sau đã đền mạng.
Tác giả được lệnh
thay thế BS Hiệp, để phát triển Xứ Ủy Trung Kỳ từ đó. Cho đến 1950, Đại
Việt đã phát triển rất mạnh ở Huế. Nhiều người theo Việt Minh đã nhận ra
được âm mưu của họ Hồ, nhiều thanh niên, trí thức biết rõ Việt Minh,
nên đã bỏ hàng ngũ Việt Minh và gia nhập Đại Việt. Đó là nguyên do VC ám
sát BS Bửu Hiệp. Đây là biện pháp khủng bố "làm nhụt nhuệ khí của Đảng
Đại Việt."
Xứ Ủy Trung Kỳ "nhắm vào giới trẻ là thành phần tràn
đầy năng lực để lôi cuốn giới sinh viên, đồng thời tìm cách đưa người
vào các cơ quan chính phủ, nhất là chú trọng vào vấn đề an ninh tình báo
để đối đầu với Cộng Sản nằm vùng". Chính vì thế mà chương trình bình
định tại tỉnh Quảng Trị do cán bộ Đại Việt hỗ trợ dưới thời hai tỉnh
trưởng Trần Điền (bị VC bắt và giết vào dịp Tết Mậu Thân ở Huế) và GS
Nguyễn Văn Mân (hiện ở Texas) được ca tụng là rất thành công. Quảng Trị
là một tỉnh địa đầu của Miền Nam, và dĩ nhiên cũng là mục tiêu ưu tiên
của Cộng sản Bắc Việt nhắm vào, đặt hạ tầng cơ sở VC để từ đó làm đầu
cầu thôn tính Miền Nam.
Đảng ủy Huế-Thừa Thiên được phát triển mạnh để làm bàn đạp cho Đại Việt phát triển.
III. VỤ BIẾN ĐỘNG VÀ CHIẾN KHU BA LÒNG
NGUYÊN NHÂN: tranh giành ảnh hưởng trong nội bộ gia đình họ Ngô.
Hiệp
định Genève được ký vào ngày 21 tháng 7 năm 1954. Việt nam bị chia làm
hai. Hiệp định qui định Việt Minh Cộng Sản (Cộng Sản) phải rút về bên
kia vĩ tuyến 17, và ranh giới phân chia hai miền là cầu Hiền Lương, nằm
trên sông Thạch Hãn, Quảng Trị. Để thi hành hiệp định, CS phải rút quân
đội ra khỏi căn cứ của chúng, tập trung lại để di chuyển ra Bắc (tập kết
ra Bắc). Cũng nên để ý đến một sự kiện là tại một số nơi quân đội VC
như Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam v.v.. quân Việt cộng đã chống trả
quân đội quốc gia đến tiếp thu. "Máu đã đổ để thu hồi đất đai cho tổ
quốc "
Thời gian này, Trần Điền là Tỉnh Trưởng Quảng Trị. Cán
bộ Đại Việt ở địa phương "xung phong" hợp tác với tỉnh trưởng để tiếp
thu các căn cứ địa ấy. "Chủ trương này được Thủ Tướng Ngô Đình Diệm (lúc
đó mới lên cầm quyền) chấp thuận, khi ông đi kinh lý Miền Trung hồi đầu
năm 1955", tuy nhiên lại bị ngấm ngầm chống đối bởi một số người ngay
tại địa phương". Hà Thúc Ký nhấn mạnh rằng họ là "chân tay của Cố Vấn
Chỉ Đạo miền Trung, ông Ngô Đình Cẩn"… Mâu thuẫn này là nguyên nhân
chính đưa dẫn tới sự đụng độ về mặt quân sự giữa hai bên, và đây là thực
chất của nội vụ về sau này được gọi là Biến Động Ba Lòng". Vì tại địa
phương, "cấp trên của tỉnh trưởng Trần Điền có những tính toán khác và
quyết định hủy bỏ kế hoạch."
Vì quyết định quá đột ngột này, làm
cho họ ngỡ ngàng và đẩy họ (cán bộ Đại Việt phụ trách đi tiếp thu Ba
Lòng) vào hoàn cảnh không biết phải hành động thế nào cho phải. Rồi họ
phản ứng theo cảm tính và chống trả..." Hồi ký có nói rằng " Đại Việt
khi chống trả lại nhà cầm quyền địa phương và tuyên bố ly khai quả thật
là sai trái."
Hà Thúc Ký viết: "Một số chi tiết không được giải
thích: tại sao chính quyền địa phương lại đi ngược lại hẳn với chính
quyền trung ương?. Họ không được giải thích? Rồi đến khi tấn công, họ
không được một cơ hội biện bạch !"
Kế hoạch tiếp thu các căn cứ
của VC gồm cả chiến khu Ba Lòng như thế nào? Tỉnh Trưởng đề nghị lên
Trung Ương qua Tòa Đại Biểu Chính Phủ Trung Phần kế hoạch phối trí lực
lượng và đã được chấp thuận như sau: Tỉnh có 10 đại đội cảnh bị (sau này
gọi là Bảo An, rồi sau cùng là Địa Phương Quân) được sử dụng để tiếp
thu căn cứ của VC. Mỗi đại đội gồn 150 người. Riêng tại căn cứ Cùa và
Ba Lòng, lực lượng tiếp thu là 4 đại đội. Sau khi tiếp thu, Ba Lòng sẽ
trở thành một quận hành chánh kiểu mẫu. Đại Úy Nguyễn Ngọc Cứ được Tỉnh
Trưởng cử làm Quận Trưởng, kiêm Tiểu Đoàn Trưởng. Sau Tết Nguyên Đán
(1955), trong khi chờ đợi Sự Vụ Lệnh chính thức làm Quận Trưởng, Đại Úy
Cứ được lệnh Tỉnh Trưởng đem hai Đại Đội lên Ba Lòng trước để chuẩn bị
tiếp thu và gây dựng cơ sở. Đại úy Cứ chia lực lượng ra làm hai cánh:
một đại đội đi đường thủy, ngược sông Thạch Hãn và một đại đội đi đường
bộ lên Cam Lộ vào Ba Lòng qua ngả Kho Muối.
Hai đại đội còn lại tiếp tục ở Thị Xã, chờ làm lễ xuất quân chính thức, rồi lên đường.
Sau
đó ít hôm, Tỉnh Trưởng Trần Điền ký sự vụ lệnh bổ nhiệm Đại Úy Cứ làm
Quận Trưởng, kiêm Tiểu Đoàn Trưởng Cảnh Bị Ba Lòng, đồng thời ấn định
ngày 19 tháng 2, năm 1955 làm lễ xuất quân. Buổi lễ được tổ chức trọng
thể trước tòa Hành Chánh Tỉnh, dưới sự chủ tọa của Tỉnh Trưởng Trần Điền
để tiễn đưa tân Quận Trưởng và 2 đại đội Cảnh Bị còn lại lên đường.
Vào
8 giờ sáng ngày 19 tháng 2 năm 1955, trong lúc đang làm lễ xuất quân
trước tòa Hành Chánh, tỉnh Quảng Trị, đột ngột nhận được công điện từ
Huế đánh ra, ra lệnh đình chỉ chiếm đóng Ba Lòng. Tỉnh Trưởng Trần Điền
quyết định rằng đoàn quân cứ tiến hành theo chương trình đã định. Ông
sẽ thương nghị với thượng cấp. Quyết định của Trần Điền bị Đại Biểu
Chính Phủ coi là "bất tuân thượng lệnh'. Tỉnh Trưởng Trần Điền và Thiếu
tá Hoàng Văn Hiền, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Bị (Bảo An) Tỉnh về trình diện
Tòa Đại Biểu Chính Phủ. Sau đó, Tỉnh Trưởng được ra về, còn Thiếu Tá
Hiền bị đưa sang Nha Bình Trị giam lỏng. Trần Điền phản đối và đòi ở tù
tại Huế cùng với Thiếu Tá Hiền.
LỆNH GIẢI GIỚI TRỰC TIẾP BAN RA CỦA CỐ VẤN NGÔ ĐÌNH CẨN
Ông
Ngô Đình Cẩn cho mời GS Nguyễn Văn Mân của Đại Việt đến, ra một tối hậu
thư là các đơn vị ở Ba Lòng phải trở về thị xã và nộp tất cả võ khí.
Ông Cẩn còn nặng lời rằng không tuân lệnh, thì sẽ bị dẹp, tới lúc đó tất
cả sẽ vào ngồi tù. GS Mân khẳng khái trả lời: "Chúng tôi hân hạnh ở tù
dưới chế độ cụ Ngô."
Năm ngày sau, Bộ Tư Lệnh Quân Khu II ra
lệnh cho một Tiểu Đoàn Bộ Binh, một Đại Đội Thiết Giáp đưa Thiếu Tá Hiền
về Quảng Trị, đến thẳng Văn Phòng Tỉnh Đoàn Bảo An, buộc ký lệnh thu
hồi tất cả võ khí của các Đại Đội ở các quận và thị xã đem về nộp vào
kho của tỉnh đoàn, buộc Thiếu Tá Hiền ra lệnh cho tiểu đoàn ở Ba Lòng
trở về thị xã. Sau đó Thiếu Tá Hiền được trả tự do và tước hết quyền
hành. Ngay chiều hôm đó, Thiếu Tá Hiền đi thẳng lên Ba Lòng.
Ngoài
ra, vì thấy chính quyền quyết định như vậy Thiếu tá Phạm văn Bôn,chỉ
huy trưởung Tiểu Đoàn Khinh quân 610 đang đóng quân ở Quảng nam và Đại
Úy dù Phạm văn Đồng với một trung đội Dù nghe tin như vậy, tuyên bố ly
khai và kéo quân về Ba Lòng.
"Chính quyền đã dồn họ vào thế
phải chống đối dù biết rằng đằng nào cũng gặp nguy hiểm", anh em Đại
Việt quyết định "đã bị dồn vào chân tường, thì chỉ còn cách là 'họ đánh
thì mình đỡ'. Đằng nào cũng vào tù, nhưng ngẩng mặt mà vào tù, không
chịu áp bức, không chấp nhận bị sự bất công."
QUÂN ĐỘI TẤN CÔNG BA LÒNG
Đệ
Nhị Quân Khu điều động 3 tiểu đoàn thiện chiến nhất để lập thành Đoàn
Quân Thứ Lưu Động lên Ba Lòng. Sau đợt tấn công đầu tiên không vào được
mục tiêu, và chỉ huy trưởng chiến dịch là Trung Tá Phan Văn Cách không
có ý định 'tàn sát lẫn nhau'. Bộ Tư Lệnh đệ II Quân Khu đưa Trung Tá Lê
văn Nghiêm lên thay thế. Quân đội dùng công binh mở đường để đưa đại bác
vào tận Đá Nổi để tác xạ vào Ba Lòng. Cầm cự đến ngày 9 tháng 3, 1955,
quân trú phòng bị bất ngờ tiến vào phía sau, chiếm kho đạn và lương
thực. Ba Lòng thất thủ. Lực lượng Đại Việt rút về Ba Hi, bên kia biên
giới Lào.
Ngày 10 tháng 3, Ban Chỉ Huy quyết định giải tán lực
lượng. Thiếu Tá Hiền và Đại Úy Cứ dẫn một số anh em về Quảng Trị. Họ bị
giam ỏ nhà lao Thừa Thiên cho đến 1957, Tòa Quân Sự Huế mới đưa ra xét
xử. Còn chừng 100 người ở lại và lén về ẩn náu tại làng Ven. Tại đây,
một số chết dần vì bệnh tật, hoặc sa vào tay Việt Cộng. Ít người khác
lẻn về Huế, rồi cuối cùng cũng bị bắt.
Chung cuộc, Tỉnh Trưởng
Trần Điền bị cách chức và loại ra khỏi ngạch công chức. Những sĩ quan
chỉ huy Ba Lòng, người thì bị án tù, khổ sai và một số vắng mặt bị khổ
sai chung thân.
IV. NHÀ NGÔ ĐÀN ÁP ĐẠI VIỆT
Hồi ký
nói: "Từ 1956, Đại Việt bị chính quyền dồn vào tình thế bất lợi. Các
hoạt động của Đảng không những bị ngưng trệ và càng ngày càng lâm vào bế
tắc".
Để làm sáng tỏ vấn đề này, hồi 1992, BS Nguyễn tôn Hoàn
kể với tôi rằng "sau khi ông Diệm ở Mỹ về, thì thái độ của ông ấy thay
đổi hẳn. Trước khi xuất ngoại, vì tôi là người đứng đầu phong trào Đại
Đoàn Kết và Hòa Bình để vận động yểm trợ ông ấy. Ông ấy còn dặn ông Nhu
rằng cần phải vận động khối Hòa Hảo và Cao Đài và phải nhờ BS Hoàn giúp
liên lạc và giới thiệu. Ông Diệm còn nói rằng hai giáo phái đó không
chấp nhận hợp tác với ông Nhu. BS Hoàn phải đích thân đưa ông Nhu đến
gập các nhà lãnh đạo của hai khối này để giải quyết vấn đề hợp tác để
ủng hộ ông Diệm. Nay thấy ông Diệm tỏ vẻ thờ ơ và có thêm được tin tức
về âm mưu đàn áp đối lập đã lộ rõ. Ngay trong giai đoạn đầu cũng đã có
tin việc thủ tiêu Nguyễn Bảo Toàn, Vũ Tam Anh (1)…. Tôi thấy có một mối
nguy hiểm cho tôi. Tôi đến gặp ông Diệm và nói rằng tôi cần đi ngoại
quốc. Ông Diệm hỏi tại sao tôi muốn đi như vậy. Tôi trả lời thẳng với
ông Diệm rằng: "Nếu tôi ở lại, có ngày anh sẽ giết tôi." Kế đó, ông Diệm
gọi ông Nhu vào văn phòng, bảo ông Nhu: "Làm thủ tục để BS Hoàn xuất
ngoại."
Rồi, ngày 3 tháng 4 năm 1957, Tòa án quân sự Sài Gòn
xử tù một số đảng viên Đại Việt thuộc Xứ Bộ Miền Nam trong số này có
ông Phan Thông Thảo; và ngày 7 tháng 10,1958 , tòa quân sự Nha Trang
cũng xử một số Đảng viên Đại Việt. Thì dụ Bà Trương Thị Thỉnh, em ruột
của Đảng Trưởng là một nạn nhân, bị 3 năm tù. Tất cả bị qui tội "phá rối
trị an" và bị án tù, dù họ không có liên hệ gì đến vụ Ba Lòng. Ngoài
ra, Trương Tử An, một em ruột khác của Đảng Trưởng Đại Việt bị thủ tiêu
vào giai đoạn này. (2).
V. ĐÓNG GÓP VÀO CÔNG VIỆC XÂY DỰNG DÂN CHỦ, TỰ DO Ở THƯỢNG TẦNG
A).
CỦNG CỐ LỰC LƯỢNG QUỐC GIA TRONG CÔNG CUỘC GIÀNH CHỦ QUYỀN DÂN TỘC KHỎI
TAY NGƯỜI PHÁP, VÀ THAM DỰ VÀO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG PHÁT HUY CHÍNH NGHĨA
QUỐC GIA
1. PHONG TRÀO ĐẠI ĐOÀN KẾT VÀ HÒA BÌNH, 1953.
Tình
hình đất nước vào năm 1953 rất bấp bênh, lòng dân phân tán. Các phe
phái dằng co, những người chủ trương Nam Kỳ tự trị sau khi thất bại âm
mưu của họ tỏ ra bất mãn và chống đối tích cực. Thục dân Pháp đã được
người Anh thỏa hiệp cho vào Sàigon, và Tàu nhượng cho Pháp vào Miền Bắc
và nay ở trong vị thế lăm le đặt ách thống trị trở lại, dù Pháp đã ký
hiệp ước trao trả độc lập cho Việt nam.
Về phía Việt minh, thì Hồ
chí Minh đã được Mao viện trợ quân trang, quân dụng để phát động đấu
trang võ trang qui mô. Mao cử Trần Canh sang làm cố vấn về mặt quân sự,
viện trợ quân trang quân dụng cho Hồ để đánh Pháp. Dưới sự chỉ đảo của
Trần Canh, quân Việt Minh thắng trận đầu tiên tại Cao bằng, Lạng sơn
(1950), rồi những năm kế đó, dồn quân Pháp lui vào vùng Trung Châu,
Bắc Phần, gây rối tại nhiều khu vực do Pháp kiểm soát. Dưới sụ lãnh đạo
chính trị của Lã quí Ba, Hồ cải tổ chính quyền, chuẩn chị công cuộc Cải
Cách Ruộng Đất, thiết lập hệ thống thuế để củng cố thế lực. Tại Miền Bắc
Trung Phần, Việt minh cộng sản kiểm soát được nhiều nơi và các vùng
phía Nam Trung Phần trở thành các khu vực tranh chấp giữa Pháp và Việt
minh.
Trước tình thế đó, các lãnh tụ Đại Việt quốc dân Đảng của ba
miền: BS Nguyễn đình Luyện thuộc Xứ ủy Bắc Kỳ, BS Nguyễn tôn Hòan, Xứ ủy
Nam Kỳ, và Kỹ sư Hà thúc Ký, Xứ ủy Trung Kỳ họp và quyết định ra thành
lập Phong trào Đại Đoàn Kết và Hòa Bình. Mùa thu năm 1953, phong trào ra
đời. Mục đích là kêu gọi Quốc trưởng Bảo Đại "cải tổ định chế (cơ cấu
chính quyền), thay đổi nhân sự để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của tình thế
và áp lực với Pháp trao trả độc lập thực sư cho Việt nam."
Phong
trào được thành lập và tại 3 Miền Nam Trung Bắc, mỗi miền có một Ban Đại
Diện. Tại Trung Phần, Ngô đình Nhu làm chủ tịch và tác giả làm Phó. Sự
việc này chứng tỏ một điều là Đại việt nói chung và tác giả nói riêng ,
vì ý thức quyền lợi và tương lai của dân tộc, đã vận động thành lập
Phong trào với mục đích đòi lại chủ quyền thực sự cho dân tộc khỏi tay
của thực dân Pháp. Chúng có âm mưu đặt ách thống trị trở lại, sau khi
chúng đã bị Nhật bản đảo chánh chừng một thập niên trước đó. Hơn thế
nữa, tập hợp này sẽ tạo một sức mạnh của toàn dân chống lại sự bành
trướng của Công sản Việt nam có sự tiếp sức và chỉ đạo của Cộng sản quốc
tế, nhất là của Tàu cộng. Ngô đình Nhu với tư cách là Chủ Tịch Phong
Trào tại Trung Phần lại lập thêm một bộ phận tham mưu riêng gồm một số
tay chân thân tín tại Sài gòn (Nam Phần), ở nơi đây là phạm vi hoạt động
đã được giao cho BS Nguyễn tôn Hoàn chịu trách nhiệm. Bộ phận này của
Ngô đình Nhu chống lại một số người Ban chỉ đạo Phong trào của Miền
Trung và như đã nói, chính Ngô đình Nhu làm Chủ tịch. Để giải quyết mâu
thuẫn nội bộ này, Đại Việt cử ông Đoàn Thái ( hiện cư ngụ tại Fort Smith
, AR ) làm trung gian, tiếp tay hòa giải.
Ngày 6 tháng 1, 54
Phong trào ra mắt tại Sài gòn với 100 đại biểu của các tố chưc thành
viên. Tại buổi họp này, Phong trào biểu quyết một lá thư gửi Quốc trưởng
Bảo Đại thỉnh nguyện cải tổ định chế, triệu tập Quốc Hội và ban hành
Hiến pháp. Phong trào 'hậu thuẫn cho Ngô đình Nhu và nhóm công giáo ủng
hộ Ngô đình Diệm, vả gây được tiến vang khắp ba Kỳ'.
Về mục tiêu
giành lại chủ quyền, thì "ngày 4 tháng 6 năm 1954, Thủ tướng Pháp
Lauriel và Thủ tướng Việt nam Bửu Lộc ký thỏa ước thi hành Hiệp Định
Elysée để kiện toàn độc lập cho Việt nam."
Phong trào Đoàn Kết và
Hòa Bình lúc đầu gồm nhiều nhận vật, gồm cả những người thân Pháp. Về
sau, Phong trào chỉ còn gồm có Đại Việt Quốc Dân Đảng, Việt nam Quốc Dân
Đảng, Việt Nam Phục Quốc Hội, Phục Quốc Quân,các giáo phái Cao Đài, Hòa
Hảo và các tổ chức Công Giáo.
2. MẶT TRẬN DÂN CHỦ XÃ HỘI QUỐC GIA,1969.
Vào
thời kỳ sau Tết Mậu Thân (1968), phong trào phản chiến tại Mỹ lên cao,
gây một áp lực mạnh đối với chính quyền Hoa Kỳ. Mục tiêu của chúng là
đòi hỏi cắt đứt mọi hỗ trợ tài chánh cho Việt nam Công Hòa, và rút quân
đội Mỹ ra khỏi Miền Nam, để Miền Nam tự chống đỡ lấy, tự mình chống lại
sự xâm lăng của Cộng Sản quốc tế mà Cộng sản Việt nam là một thừa sai.
Để làm nhẹ bớt áp lực đó, Đại sứ Bunker, đại diện chính quyền Hoa
Kỳ kêu gọi các đảng phái quốc gia tập hợp xung quanh chính quyền của TT
Thiệu thành một tập thể rộng lớn, hỗ trợ cho mục tiêu chống lại Cộng
sản mưu toan đánh chiếm Miền Nam.
Tôi và chủ tịch Hà thúc Ký đi họp một số buổi họp với các chính đảng có biểu lộ ý định ngồi lại với nhau trong Mặt Trận.
Tromg
buổi cuối cùng, mở rộng gọi là khoáng đại hội nghị của các chính đảng
gồm khoảng 100 đại biểu của các chính đảng ấy do Nguyễn văn Hướng triệu
tập, các đại biểu bầu 3 đại diện lên làm chủ tọa đoàn để điều khiển Hội
Nghị. Ba đại diện đó là Trịnh quốc Khánh, Ngô Khắc Tỉnh và tôi. Tôi đề
nghị một cuộc hội ý riêng, tại chỗ giữa 3 người chúng tôi để xác định
qui tắc và phương pháp sinh hoạt cho hữu hiệu, cũng như đề cử một
người làm đại diện của chủ tọa đoàn đứng ra điền khiển hội nghị. Chủ
tịch Khánh và Dược sĩ Tỉnh đồng thanh cử tôi lãnh trách nhiệm này, vì
lý do " trẻ hơn và năng động…"
Chúng tôi đã hoàn tất nhiệm vụ một cách tốt đẹp và Mặt Trận đã ra đời.
Chủ
đích của Đại Việt Cách Mạng tham gia Mặt Trận, không phải chỉ để tiếp
tay cho chính quyển Hoa Kỳ phản ứng lại phong trào phàn chiến tại Mỹ.
Đại Việt Cách Mạng còn muốn đóng góp thực sự vào công tác bảo vệ "hạ
tầng " chống lại sự khuynh loát của Cộng sản. Đó là loại các phần tử VC
nằm vùng tại nông thôn ra khỏi thôn ấp, củng cố và lành mạnh chính quyền
nông thôn để từ đó xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
Vào thời điểm
này, tài liệu nghiên cứu của tôi cho biết rằng với trận Tổng Công Kích
Tết Mậu Thân, hạ tầng cơ sở của Việt Cộng đã bị vỡ nát. Con số chi bộ VC
được ước tính chỉ còn độ 400 trên toàn quốc. Tuy nhiên các chi bộ này
không toàn vẹn. Có chi bộ chỉ còn bí thư. Chi bộ khác còn một vài ủy
viên… Chúng phải lẩn trốn, y như thời kỳ sau hiệp định Genève.
Tôi
là người viết kế hoạch để Chủ Tịch Ký đưa ra cho Hội Đồng Chỉ Đạo của
Mặt Trận có trụ sở ở đường Bà Lê Chân, Sàigon, thuyết phục các thành
viên đóng góp sức mình vào công tac trọng đại này.
Không một chính
đảng trong Mặt Trận có thực lực dải rộng trên toàn lãnh thổ. Vì thế kế
hoạch trù liệu sự phối trí nhân sự và hoạt động linh động. Ở nơi nào
một đảng nào mạnh nghĩa là nhiều đảng viên đảm nhiệm công việc nặng nhọc
hơn, với sự hỗ trợ của cá đảng khác. Ở những nơi không có hiện diện của
một đảng nào, chính quyền địa phương phải lo bố trí nhân sự thay thế.
Điểm quan trọng là các cơ sở của Mặt Trận ở địa phương có nghĩa vụ cung
cấp tin tức về 'hạ thầng cơ sở 'của VC để chính quyền quyết định. Như
vậy, Mặt Trận không dẫm chân lên chính quyền, hay cản trở hoạt động của
chính quyền..
Trong cái gọi là chiến tranh nhân dân của Mao trạch
Đông mà Hồ được huấn luyện để thực hiện, thì đơn vị đảng CS ở hạ tầng
đóng vai trò quan trọng. Ngoài công tác kiểm soát dân chúng bằng bạo lực
( khủng bố), hạ tầng cơ sở của VC là các chi bộ đảng thu thuế bằng nhất
là hiện vật ( như lúa gạo) và huy động ( bắt buộc) nông dân vận chuyển
lúa gạo để tồn trữ ở một nơi nào đó khi quân đội hành quân đi qua có
lương thực để ăn. Hạ tầng cơ sở VC còn làm nhiệm vụ tình báo, nghĩa là
tìm kiếm và cung cấp tin tức cần thiết để cho quân đội hành quân…. Muốn
lảm được hai công tác này (
dĩ nhiên còn nhiều công tác khác), đơn
vị Đảng ấy ở nông thôn luôn sử dụng mọi biện pháp có thể có để đạt mục
tiêu của chúng. Hạ tầng VC là người trong thôn xóm. Chúng biết từng
người trong thôn ấp. Chúng dùng mọi thủ thuật để vận động mỗi cá nhận,
từng cá nhân vào họat động mà chúng muốn, quan trọng hơn hết bằng là bạo
lực, kể cả khủng bố: ám sát, giết chóc v.v.. nếu cần. Mọi cá nhân đều
sợ, nên phải 'thi hành.' Nhiều cá nhân bị áp lực nhận công tác nhỏ như
vậy, góp vào thành công việc lớn. Tuy nhiên, ở nơi nào VC không xâm nhập
được, vì không có 'hạ tầng cơ sở nằm vùng", VC không làm gì được. Đó là
vùng Hòa Hảo. Đó là vùng người công giáo sống tập trung. Nhiều khu vực
Quảng trị, Thừa thiên, Quảng nam, Quảng ngãi, Qui nhơn, Phú yên, ở
những nơi Đại Việt và VNQDD mạnh, lả những thí dụ khác. Điều quan trọng
trong Kế hoạch này là các đảng phái tại nông thôn là một tập thể bảo
trợ cho các cá nhân, nên VC không thể hay khó có thể vận dụng được. Hơn
nữa, mỗi cá nhân biết được có đoàn thể của mình hậu thuẫn, hướng dẫn,
nên có can đảm đứng ra 'tố cáo' các phần tử khả nghi hay nằm vùng (các
vùng Hòa Hảo và Công giáo cũng vậy) qua tập thể của mình. Còn mỗi cá
nhân riêng rẽ ở nông thôn bị VC tiếp xúc, thường giữ kin đáo, lặng yên
vì sợ, nhất là ám sát hay bắt cóc là biện pháp VC thường sử dụng Trong
tình thế này, họ thường bị lôi cuốn vào vòng ảnh hưởng của VC. Đó là
điểm mấu chốt cho sư thành công trong công tác vận động của CS.
Kế
hoạch này chẳng bao giờ được mang ra thi hành. Khi viết kế hoạch, tôi
không có ảo tưởng rằng Chủ tịch Đoàn, dĩ nhiên TT Thiệu lả Chủ tịch của
chủ tịch đoàn, có thể hiểu được tầm quan trọng của vấn đề để giải quyết
cuộc chiến do CSVN xâm lược. Hơn nữa, những kẻ được đưa vào ngồi trong
chính quyền, trung ương cũng như địa phương , dù bằng phương cách nào đi
chăng nữa cũng chỉ muốn độc quyền hành động, không muốn chia sẻ quyền
hành với bất cứ ai, kể cả e ngại những dòm ngó của kẻ khác…, dù kế hoạch
này qui định các ủy ban Mặt Trận địa phương là một bộ phận tư nhân,
đóng góp cho chính quyền bằng cách thu lượm, đánh giá tin tức về VC nằm
vùng, giúp cho chính quyền thực hiện công tác bình định trong phạm vi
trách nhiệm của họ.
Tác giả cuốn Sống Còn Với Dân Tộc khi
nói về Mặt Trận bị giải thể, nhấn mạnh rằng các thành viên trong Chủ
Tịch Đoàn ra đi "không kèn , không trống" . Trái lại, lễ khai mạc được
tổ chức tại rạp Rex ở Sàigòn, long trọng, 'rầm rộ'.
Tại sao như
vậy, tôi nghĩ rằng TT Nguyễn văn Thiệu , chủ tịch Mặt Trận cảm thấy đã
đạt mục tiêu về phía Mỹ đòi hỏi rồi, và không cần có lực lượng nào hẫu
thuẫn nữa. Đó là chưa kể đến sự kiện là suốt trong thời gian gọi là hoạt
động của Mặt Trận, chẳng có gì xảy ra, ngoài một số buổi họp chiếu lệ,
tẻ nhạt, của các chủ tịch trong Chủ tịch đoàn chỉ có tính cách tượng
trưng để quảng cáo hay tô vẽ vẻ đẹp cho chế độ. Ông Thiệu cũng chẳng đến
họp. Người ta có cảm tưởng rằng các chính đảng tham dự bị TT Thiệu cầm
chân. Sau đó, hầu hết các chính đảng có chân tromg Mặt Trận đứng vào vị
trí chống đối với TT Thiệu.
Các sự kiện này đưa đến một giải thích
thứ hai là âm mưu của TT Thiệu là tiến tới độc tài. Ông Thiệu cho lập
đảng Dân Chủ với phương tiện của chính quyền để nắm trọn quyền hành
trong tay, dù trước đó đã phải ứng cử độc diễn. Với Luật ủy Quyền được
Quốc Hội thông qua để chuẩn bị ứng cử nhiệm kỳ 3, với qui chế chính
đảng mới thay thế qui chế đã ban hành trước, TT Thiệu đã lộ rõ âm mưu
này. Sắc Luật 060 vào ngày 27 tháng 12, 1972 ( trước ngày hết hạn ủy
quyền), đòi hỏi các chính đảng phải tái tổ chức trên phạm vi toàn quốc
hay là bị giái tán. Rồi đến các luật lệ tiếp theo ban hành vào tháng 5,
1973, giải tán 26 chính đáng hợp pháp. Các đảng đó đã hội đủ điều kiện
và đã đăng ký ở Bộ Nội Vụ theo luật Qui Chế Chính Đảng và đang hoạt
động. Nay chỉ để một mình Đảng Dân Chủ của TT Thiệu hoạt động mà thôi.
(3)
Từ 1969, TT Thiệu quá say mê củng cố quyền hành, tập trung nỗ
lực quốc gia vào mục tiêu này để tiến tới nắm trọn quyền hành trong tay.
TT Thiệu đồng thời cố gắng làm sói mòn lực lương chính trị quốc gia,
đến nỗi vào tháng tư 1975, không còn ai cộng tác vào lúc phải huy động
mọi lực lượng chính trị, cải tổ nội các để đối đầu với Tổng Công Kích
của VC nhằm chiếm đoạt Miền Nam.
Thực là thảm thương cho quân dân Miền Nam .
Mặt
Trận gồm 6 đoàn thể: Việt nam Quốc Dân Đảng (gồm phân bộ Vũ hồng Khanh
( Bắc) hợp tác với phân bộ Nguyễn hòa Hiệp ( Nam, có sự tham dự của LS
Trần văn Tuyên), Lực lượng Đại Đoàn Kết (Nguyễn gia Hiến), Nhân Xã
Đảng (Trương Công Cừu), Lực Lương Tự Do Dân Chủ (Nguyễn văn Hướng), và
Dân Chủ Xã Hội Đảng (Trình Quốc Khánh của Hòa Hảo) và Đại Việt Cách
Mạng.
Về sức mạnh của Mặt Trận, GS John C. Donnell trong
bài thượng dẫn của cuốn sách trên, trang 156, có trích dẫn từ tài liệu
" South Vietnam: Neither War nor Peace" của Allan E. Goodman đăng
trong Asian Survey (Feb 1970), nói rằng tập hợp này tượng trưng cho 40%
lực lượng quốc gia dựa trên kết quả bầu cử 1967.
B). ĐÓNG GÓP VÀO XÂY DỰNG NỀN TẢNG CHO CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ PHÁP TRỊ
1. DẠI VIỆT CÁCH MẠNG VÀ HIẾN PHÁP VNCH 1967.
Hiến Pháp là văn kiện căn bản thiết lập cơ quan chính quyền của quốc gia trong một chế độ dân chủ pháp trị.
Trước sự xáo trộn gây ra do các tướng lãnh tranh giành quyền lực, và sự
lủng củng của chính phủ dân sự Phan khắc Sửu- Phan huy Quát để tiến tới
chính phủ quân nhân nắm quyền. Ban lãnh đạo Đại Việt Cách Mạng đưa ra
kế hoạch 9 điểm để đối phó với tình hình: tuyên bố lập trường đối với
quốc tế, đối với Cộng sản , kêu gọi áp dụng các biện pháp cần thiết để
chống lại Cộng sản. Kế hoạch ấy được công bố vào tháng 5 1965. Điểm 3
của kế họach nói " Để có chính nghĩa đấu tranh, chính phủ phải nỗ lực
tạo dựng điều kiện tiến tới việc tổ chức bầu cử một Quốc Hội Lập Hiến,
soạn thảo một Hiến Pháp dân chủ. Sau khi Hiến Pháp được ban hành, phải
tổ chức bầu cử các cơ cấu quyền lực quốc gia, thành lập chính quyền dân
cử". Mục đích điều 3 này là ngăn ngừa cánh quân nhân có tham vọng nắm
trọn quyền hành trong tay ngõ hầu tiến tới độc tài quân phiệt. Như thế
là một thảm họa cho Miền Nam . Tránh được độ tài nọ, dân tộc lại phải
gánh chịu một độc tài khác, để rồi sẽ dẫn đến độc tài toàn trị của Cộng
sản. Hai phương pháp được áp dụng: Một mặt phải vận động với tướng lãnh
có ảnh hưởng trong chính quyền quân nhân, vì tất cả thành viên đều là
quân nhân chuyên nghiệp, và mặt khác phải phát biểu quan điểm để làm áp
lực. Do đó, có một số cuộc biểu tình đã được tổ chức tại Miền Trung (10
tháng 5, 1965: Tam Ký, Quảng Tín; 17 tháng 5: Hương Trà, Thừa Thiên; 24
tháng 5: Triệu Phong), và tại Miền Nam, ngày 7 tháng 5: Phước Ninh (
quận ChâuThành) Tây Ninh, 31 tháng 5: thị xã Sóc Trang, Ba Xuyên để đòi
hỏi ban hành một đạo luật bầu cử quốc hội lập hiến. Chính quyền quân
nhân nhượng bộ, tỏ thiện chí muốn cải tiến chế độ. Vì vậy, các cuộc biểu
tình tiếp theo bị hủy bỏ.
Tham dự Bầu Cử Quốc Hội Lập Hiến
Đại
Việt Cách Mạng đã tham dự bầu cuộc cử Quốc Hội được tổ chức ngày 11
tháng 9, 1966 để làm ra một Hiến pháp làm căn bản cho sinh hoạt quốc
gia. Trong tổng số 117 dân biểu được bầu, Đại Việt có được 9 dân biểu và
2 cảm tình viên.
Trong Quốc Hội này có 3 Khối, một dân biểu của
Đại Việt Cách Mạng là GS Nguyễn văn Ngải được bầu làm Trưởng Khối của
một trong 3 Khối. Đó là Khối Đại Chúng. Ngay trong giai đoạn đầu, đó là
một Khối có đa số áp đảo gồm hơn 60 ghế. Khối này có khuynh hướng độc
lập. Các dân biểu khác của Đại Việt được bầu nắm chức vụ trong ban
lãnh đạo Quôc Hiệp Lập Hiến là: Hoàng xuân Tửu, đệ II Phó Chủ Tịch; Mai
đức Thiệp, Chủ Tịch Ủy Ban Kiểm Tra Kế Toán, Nguyễn hữu Đức, Thuyết
trình viên Dự Luật Qui Chế Chính Đảng. Một Dân biểu khác là LS Đinh
thành Châu, hiện làm chủ nhà hàng Kobe ở Santa Clara, CA được bầu là Chủ
Tịch Ủy Ban Thảo Hiến.
Sau 6 tháng làm việc, ngày 1 tháng 4 năm
1967 Quốc Hội này đã cho ra đời một bản Hiến Pháp làm nền tảng xây dựng
nền đệ II Cộng Hòa(4)
2. THAM DỰ VÀO SINH HOẠT TRONG NGÀNH HÀNH PHÁP VÀ LẬP PHÁP.
HIẾN PHÁP VNCH 1967 thiết lập Tổng Thống Chế và quốc hội theo chế độ lưỡng viện, gồm Thượng Nghị Viện và Hạ Nghị Viện.
A.
Bầu cử Tổng Thống: Hiến pháp qui định nhiệm kỳ Tổng Thống là 4 năm. Bấu
cử Tổng Thống đầu tiên của đệ II Cộng Hòa được tỗ chức ngày 3 tháng 9
năm 1967. ĐVCM có liên danh Hà thúc Ký- Nguyễn văn Định với danh hiệu
Bông Lúa. Về kết quả bầu cử, thì trong tổng số 11 liên danh, Liên danh
Bông Lúa đứng hàng thứ 5.
B. Thượng Viện:
Hiến Pháp 1967
qui định Thượng Nghị Viện VNCH gồm 60 Nghị sĩ. Để bầu 60 nghị sĩ này,
các ứng viên phải được tập hợp thành từng liên danh 10 người. Như vậy,
cuộc bầu cử đầu tiên sẽ chọn 6 liên danh. Nhiệm kỳ của Thượng viện là 6
năm. Thượng viện cũng được tổ chức bầu cử vào ngày 3 tháng 9 năm
1967. Đại Việt Cách mạng có một liên danh đắc cử. Đó là liên danh Bông
Lúa. Tại cơ quan này, Hoàng xuân Tửu được bầu làm đệ II Phó Chủ tịch;
Nguyễn văn Ngải , Chủ tịch Ủy Ban Kinh tế; Phạm nam Sách, Chủ tịch Ủy
ban Định Chế Tư Pháp; Nguyễn văn Kỷ Cương, Chủ Tịch Ủy Ban Văn Hóa Giáo
Dục.
C. Hạ Viện: Trong các nhiệm kỳ 1967-1971, 1971-1975 có 18 dân biểu.
Về
cuộc bầu cử bán phần Thượng Viện, được tổ chức vào tháng 9 1970. Nhiệm
kỳ Thượng Viện là 6 năm. Để cho sinh hoạt Thượng viện không bị gián
đoạn, Hiến Pháp 1967 qui định rằng cuối năm thứ 3 của pháp nhiệm I, sẽ
có một cuộc rút thăm để giữ lại 1/2 là 30 thành viên và 1/2 phải ra
đi. Như vậy vào năm 1970, sẽ có cuộc bầu cử bán phần để thay 30 người
phải ra đi. Chủ tịch Hà thúc Ký cử tôi đứng đầu liên danh cũng lấy danh
hiệu Bông Lúa. Liên danh gồm 10 đảng viên: Nguyễn văn Canh; Đặng văn An (
trung tá Quân đội); Đoàn Ý ( Luật sư); Nguyễn Bào ( Giáo sư Đại Học);
Nguyễn đình Hoan ( Giáo sư Đại Học); Nguyễn văn Mân ( cựu Giáo sư, cựu
Thượng Nghị sĩ, pháp nhiệm I); Tôn thất Uẩn ( Kỹ sư Điện, cựu Thượng
Nghị sĩ , pháp nhiệm I); Mai đức Thiệp ( Đốc sự, cựu Thượng nghị sĩ,
pháp nhiệm I); Nguyễn văn Đại ( Luật sư) và Nguyễn văn Kỷ Cương ( Giáo
sư Đại Học, cựu Thượng nghị sĩ Pháp nhiệm I).
Kết quả được Hội
Đồng Bầu Cử tuyên bố ngày 14 tháng 9, 1970: liên danh Bông Lúa được
628,992 phiếu, đứng thứ 6, trong khi đó theo Hiến pháp qui định, thì chỉ
chọn 3 liên danh đứng đầu mà thôi.
Ngoài ra, nhiều đảng viên ĐVCM
tham dự vào các cơ quan quyết nghị tại các cấp địa phương như Hội Đồng
Tỉnh, Thị Xã, và các Xã khắp nơi trên toàn quốc.
Chủ tịch Hà
thúc Ký làm Tổng trưởng Bộ Nội Vụ trong một thời gian ngắn vào 1964 và
Hồ văn Châm được cử làm Tổng trưởng Chiêu Hổi (1969).
3. THAM DỰ VÀO CÔNG TÁC BẢO VỆ VÀ CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG CƠ SỞ MÀ MỤC TIÊU LÀ LOẠI TRỪ VC NẰM VÙNG RA KHỎI NÔNG THÔN.
TẠI MIỀN TRUNG:
A) CÔNG TÁC BÌNH ĐỊNH TẠI QUẢNG TRỊ dưới thời Trần Điền làm Tỉnh trưởng
Quảng
Trị là một tỉnh địa đầu giới tuyến đầy dãy cán bộ cộng sản nằm vùng.
Trần Điền, xuất thân là Tri Huyện, được Ngô đình Diện khi chấp chánh bổ
nhiệm làm tỉnh trưởng. Biết tới khả năng và thực lực của Đại Việt, Trần
Điền tìm đến sự hợp tác của Đại Việt, nhất là phải đối phó với Việt
Minh Cộng Sản trong thời gian chuyển tiếp sau Hiệp Định Genève được ký
kết. Tỉnh đã đạt: "kết quả vô cùng tốt đẹp là mới hơn nửa năm, tỉnh
Quảng trị đã vãn hồi an ninh và phát triển kinh tế, ổn định đời sống."
Thủ tướng Diệm đến kinh lý Quảng trị vào đấu tháng 1 năm 1955 đã "khen
ngọi và ban thưởng Bảo Quốc Huân Chương cho Trần Điền."
B). CÁN BỘ ĐẠI VIỆT TRONG TỔNG ĐOÀN XÂY DỰNG NÔNG THÔN VÀ CẢNH SÁT THỪA THIÊN, VỚI VỤ BIẾN ĐỘNG MIỀN TRUNG.
Vào
tháng 4 năm 1966, Việt cộng lợi dụng thay đổi phương vị Tư Lệnh Quân
Đoàn I của Tướng Nguyễn chánh Thi ( bị bãi chưc ngày 10 thảng 3, 66) xúi
dục nhóm phản động Miền Trung dưới danh nghĩa Phật Giáo đấu tranh,
chống lại chính quyền trung ương. Chúng đốt phá thư viện của Hoa Kỳ tại
Huế, đốt luôn cả tư gia của Tỉnh trưởng, Trung tá Phan văn Khoa, xúi
dục đồng bào Phật tử đưa bàn thờ Phật xuống đường gây xáo trộn, cản trở
lưu thông làm mất trật tự của thành phố Huế. Tình trạng hỗn loạn, có thể
nói là vô chính phủ, bất chấp luật pháp của nhóm đấu tranh lan tràn.
Vào lúc này, tinh thần của Tỉnh trưởng Thừa Thiên đã nao núng, có vẻ đã
chùn bước, mất tinh thần muốn xuống nước nhường nhóm đấu tranh. Các cơ
quan hành chánh, quân sự tỉnh đã đồng loạt rút về cố thủ tại Hương Thủy
do một Đảng Viên Đại Việt làm quận trưởng.
Trong hoàn cảnh
đó, cán bộ Đại Việt Cách Mạng (ĐVCM) được lệnh công khai quyết liệt
chống lại chúng. Hơn nữa, ĐVCM được chính quyền trung ương triệt ủng hộ:
Ty Cảnh Sát Thừa Thiên được giao cho một Đảng Viên ĐVCM là Trần công
Lập chỉ huy để chế ngự nhóm đấu tranh tại thành phố. Đồng thời, với sự
đồng ý của chính quyền, một đảng viên khác là Phùng ngọc Sa, lúc đó đang
phục vụ tại sở Ngoại Viện, Bộ Xây Dựng Nông Thôn đã được điều động ra
Thừa Thiên làm Tổng Đoàn trưởng Xây Dựng Nông Thôn. Với trên 1,000 cán
bộ trong tay, Phùng ngọc Sa đã góp phần tích cực phối hợp với Đoàn công
Lập của Cảnh Sát đễ giữ vững tình hình tại thị xã cũng như tại nông
thôn. Ngoài lực lượng cảnh sát Thừa Thiên và tổng đoàn Xây Dựng Nông
Thôn ra, các quận quanh thành phố như Hương Trà, Phú vang, Hương Thủy
từ trước đã đều do cán bộ ĐVCM chỉ huy. Tất cả đều nhận lệnh của Đảng
là phải cương quyết chống lại bọn đấu tranh.
Hai bên, Cộng sản
Bắc Việt và các can bộ quốc gia cầm cự từ tháng 4 cho đến tháng 5, 1966,
lực lượng chính phủ Trung Ương gốn 1500 Thủy Quân Lục Chiến và các biệt
đoàn Cảnh Sát Dã Chiến từ Sài gòn do Tướng Nguyễn ngọc Loan chỉ huy
được điều động ra trực tiếp can thiệp và dẹp tan cái gọi là Khối Phật
Giáo Đấu Tranh. Công tác dẹp bỏ bàn Thờ Phật đã " xuống đường" là công
tác tế nhị, cũng đã được cán bộ Đại Việt dẹp bỏ một cách khôn khéo và
êm đẹp.
Cũng cần nói thêm rằng, vào thời điểm này,Tổng Đoàn Xây
Dựng Nông Thôn còn thành công tham dự vào công tác ngăn cản sự bành
trướng của VC ở nông thôn, và rồi từ tình trạng thôn xã bị sa sút nhất,
mất an ninh, vùng xôi đậu …đã trở thành những thôn xã có an ninh đúng
tiêu chuẩn mà Bộ Xây Dựng Nông Thôn đề ra.
Một chi tiết cần
thêm ở đây rằng trong cuộc ứng cử Tỗng Thống năm 1967, có cuộc tranh
luận diễn ra tại trường Đồng Khánh, Huế , và liên danh Bông Lúa (của Hà
thúc Ký) được nhiệt liệt hoan hô, trái lại liên danh Thiệu Kỳ bị đả kích
nặng nề. "Ngay buổi chiều hôm đó, tỉnh đoàn trưổng ( Xâ Dựng Nông Thôn)
Phùng ngọc Sa bị cách chức và trả về Bộ và Nguyễn ngọc Cứ bị trung tá
tỉnh trưởng Phan văn Khoa giải nhiệm chức vụ Tỉnh Đoàn Phó và không cho
hưởng bất cứ một trợ cấp nào."…..
"Sau Tết Mậu Thân, Tỉnh Đoàn
(Xây Dựng Nông Thôn) bị thiệt hại nặng. Trong tình trạng đen tối đó,
tỉnh trưởng Thừa Thiên lại tìm Nguyễn ngọc Cứ để giao quyền chỉ huy lại
cho Đại Việt Cách Mạng.
Tác giả mạnh mạnh đến một nguyên tắc
chỉ hướng là : "nếu muốn thành công phải có sự chỉ đạo sáng suốc của
chính trị, dưới sự lãnh đạo của đảng phái chân chính, một công cụ để đấu
tranh. Ngược lại muốn áp dụng hay quảng bá một đường lối có lợi cho
quần chúng trong một vùng thiếu an ninh, đều kiện cần thiết là phải có
sự yểm trợ của bộ phận võ trang. Lý do đó, chính trị và quân sự phải
liên hoàn và được phối hợp chặt chẽ".
C) TẠI MIỀN BẮC.
Nhân
dịp này cũng cần thêm vào công tác bình định và xây dựng nông thôm của
Đại Việt ở Miền Bắc, trước năm 1954. Có 3 công tác lớn theo đuổi mục
tiêu này.
Tại Bắc Việt, Thanh Niên Bảo Quốc Đoàn (TNBQĐ) do Đỗ văn
Năng làm thủ lãnh. Thanh niên BQĐ có cơ sở ở nhiều nơi ở nông thôn. Nha
Công An Bắc Phần là do Giám Đốc
Nguyễn đình Tại, xuất thân là
Tri Huyện điều khiển. Đoàn Quân Thứ Lưu Động (GAMO: Groupements
Administratifs Mobiles Operationnels) dưới sự điều động của Đỗ đình Đạo
, rồi Trần như Thuần (cựu Tri Huyện). Công tác của Đoàn Quân Thứ Lưu
Động gồm cả quân sự lẫn chính trị: tổ chức lại và bảo vệ cơ quan
hành chánh tại xã ấp sau khi Pháp đã giải phóng khỏi tay Việt Minh Cộng
sản. 15 Đoàn Quân Thứ Lưu Động hoạt động mạnh tại nhiều tỉnh ở Miền
Bắc.
Vào giữa thập niên 1990, tôi có gập một sinh viên người
Pháp đến xin phỏng vấn để viết luận án tiến sĩ với Đại Học ở Paris về
thời kỳ trước Hiệp Định Genève ở Bắc Việt. Anh này cho biết rằng anh ấy
có tìm thấy một báo cáo của một Đại Úy Pháp thuộc Tâm Lý Chiến, khuyến
cáo Tổng Tư Lệnh Pháp ở Đông Dương đừng ngăn cản Đại Việt mà trái lại
phải trợ lực cho họ hoạt động và thực hiện công tác của họ.
x
Hơn
30 trang cuối, tác giả nói về những ngày cuối cùng của VNCH. Những chi
tiết liên hệ cũng là những tài liệu quí báu để cho những ai muốn biết
về sự kiện trong giai đoạn đen tối của lịch sử dẫn đến Miền Nam lọt vào
tay Cộng sản, thay vì Miền Nam phải giải cứu Đồng Bào Miền Bắc khỏi gông
cùm của Cộng Sản.
x x x x
Dưới
chế độ Ngô đình Diệm, tác giả sa vào vòng tù tội từ tháng 10 năm 1956
mãi cho tới ngày 3 tháng 11 năm 1963 ( hơn năm năm, kể cả biệt giam tại
sà lim), sau ngày đảo chính, mới được thả. Với cách thức đối đãi với tù
nhân (như đã mô tả trong cuốn hồi ký này)- một người đã từng cộng tác
trong một số phong trào trước đó, để chống lại thực dân và cộng sản, có
cả phong trào Đại Đoàn Kết và Hòa Bình là để ủng hộ chính Ngô đình
Diệm giành đoạt chính quyền với mục đích xây dựng một quốc gia độc lập
và tự do, ngoài ra, vợ và con út của tác giả ( mới chỉ có 3 tháng tuổi)
cũng bị giam cầm gần 3 năm, chỉ vỉ chồng và cha tham gia chống đối chế
độ, tác giả trong suốt cuốn hồi ký không có một chữ hay câu văn ngụ ý
đến oán hận nhà Ngô mà ngược lại còn ca tụng, thương tiếc (tr.360). Đó
là một điểm mà người đọc cần nhận diện qua cuốn tài liệu này.
x
Về
hình thức, lời văn rất thông thoáng, nhẹ nhàng, dễ đọc. Sắp xếp bố cục
có lớp lang. Tác giả đã tài tình dùng một số câu tục ngữ hay ca dao,
hay trong văn chương bình dân để diễn tả một hình thái nào đó. Thí dụ
như "đường dài ngựa mỏi chân bon"; "vật đổi sao dời"; "cảnh cũ còn đó,
những người xưa nay đâu?", "tuyệt tích giang hồ"….
Sống Còn Với Dân Tộc là cuốn hồi ký có giá trị.
(1).
Nguyễn bảo Toàn nguyên là Tổng Thư Ký, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng (
gọi tắt là Dân Xã Đảng) từ thời Đức Huỳnh Phú Sổ còn sống, là Chủ Tịch
Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng. Hội Đồng này gồm cả Cao Đài ( Hồ Hán Sơn,
đại diện của cánh Nguyễn Thành Phương , ở bên ngoài về và Nhị Lang của
cánh trong nội thành). Ngoài ra, còn nhiều lực lượng khác. Hội Đồng có
mục đích là truất phế Bảo Đại qua cuộc trưng cầu dân ý, để ông Diệm
thay thế Bảo Đại , và rồi làm Dự Thảo Hiến Pháp để thiết lập nền Cộng
Hòa và Thủ tướng Diệm sẽ là Tổng Thống. Có người cho rằng sở dĩ Nguyễn
bảo Toàn bị thủ tiêu, bắt nguồn từ quan điểm là Hội Đồng chỉ ủy quyền
cho ông Diệm 3 tháng để tổ chức trưng cầu dân ý và lập Hiến Pháp. Riêng
điều này không thôi đã làm cho ông Diệm phật lòng, vì giới hạn quyền
hành của ông ấy, và là nguyên do của sự ra đi và chống đối của Nguyễn
bảo Toàn. Sau đó, ông ta bị thủ tiêu..
(2) Có sự bắt bớ và
giam cầm một số cán bộ Đại Việt. Một vài thí dụ tiêu biểu: a) đảng viên
gốc miền Bắc: Trần việt Sơn, Nguyễn văn Ngải, Đinh văn Lục…; b) đảng
viên gốc Miền trung: Lê phùng Thời, Hà thúc Ký, Đoàn Thái…c) Đảng viên
gốc Miền Nam : Lê Xuyên ( tác giả nhiều tiểu thuyết), Nguyễn kim Vui, Đỗ
văn Thọ…
Những người này là do Ty Đặc Cảnh Miền Đông bắt.
Các
vụ bắt bớ về sau này mới Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung mà Dương
văn Hiếu là người đứng đầu, thực hiện. Cơ quan Mật Vụ của Nhà Ngô đã áp
dụng những hiện pháp tra tấn dã man mà thực dân Pháp để lại đối với các
tù nhân. Cưu Nghị Sĩ Nguyễn văn Ngải cho biết cho đến nay ông vẫn còn
gánh hậu quả của tra tấn. LS Đinh thạch Bích cũng chịu cảnh đó. Riêng,
đối với KS Hà thúc Ký , Nhà Ngô không áp dụng các hình phạt này.
(3)
John C. Donnell , "Prospects for Political Cohesion and Electoral
Competition", in trong cuốn " Electoral Politics in South Vietnam" của
John C. Donnell & Charles A. Joiner , tr.160, Lexington Book, 1974
(4)
Về tài liệu liên quan đến Hiến Pháp đệ II Cộng Hòa, trong thời gian tôi
làm Đồng Giám Đốc với Doug. Pike, Dự Án Oral Life History, Văn Khố Đông
Dương thuộc Viện nghiên Cứu Đông Á, Đại học Berkeley, tôi có nhờ anh
Ngô ngọc Trung, một Viên Chức được cử làm Giám Đốc Điều Hành Dự Án cho
sắp xếp lại biên bản của Ủy Ban. Tài liệu này rất dày, lên tới 1 thước
tây. Vào khoảng giữa thập niên 1990, khi Doug. Pike chuyển sang Vietnam
Center, Tech. Texas University, ông ấy cho chuyển rất nhiều tài liệu của
Văn Khố Đông Dương sang Texas. Tôi có lưu ý rằng tập tài liệu này cần
được lưu trữ tại Đại Học Berkeley và nay dù Văn Khố này đã giải tán, tập
hồ sơ quan trọng này được giao cho Steve Denney cất giữ. Hiện nay Steve
đã chuyển sang làm việc tại Tổng Thư Viện của Đại Học Berkeley.
Nguyễn Văn Canh
10 tháng 9 năm 2009
Posted by
Dr. Nguyen Van Canh