VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VIỆT CỘNG
Từ điển ơi là từ điển.
29/05/2014 08:12
Gần như mỗi chữ mỗi sai, mỗi hàng định
nghĩa là một dịp cho mấy văn nô này nói bậy, nói vớ vẩn, than ôi là chữ
nghĩa quàng xiên của chúng nó, đang làm nhục cho tiếng Việt của ông bà
ta biết bao.
trong khi đó thì ở miền nam có từ điển Việt Anh của ông Nguyễn văn
Khôn, 1966; cũng làm cho ta "trúng thực" vì ổng cho vào cả hàng ngàn từ
ngữ Tàu làm ra cái vẻ ta đây thông chữ hán, mà người Việt không ai thèm
nói thèm biết đến những chữ đó cả,
Ai cũng biết Các " danh sĩ" ngoài Bắc tự khoe là đỉnh cao trí tuệHãy xem xét các từ điển của họ1/ Từ điển tiếng Việt của nhà Xuất bản khoa học xã hội Hànôi 1977, khoe là có chỉnh lý và bổ sung [sic] do Văn Tân Nguyễn văn Đạm viết, và ban biên tập có cảNguyễn Lân, Lê khả Kế, Nguyễn Tấn Gi Trọng,Ngô thúc Lanh, Nguỵ như Kontum, Trần văn Giáp,Nguyễn thạc Các, Đoàn Hựu, Co nha cua minh la tốt rôi. Chú sỹ từ CỦAinhf nhéi
.....Cả thảy 12 trí thức xhcnnnày có trình độ viết từ điển thấp kém và dốt nát không ngờ. Ví dụ
Hình ảnh mang tính chất minh họa mà thôi. Photo courtesy: Muachung.vn
miệng là bộ phận hình lỗ ? ở phía dưới của mặt [có thể là lỗ đít chăng]!
miếng là phần của một vật, vật liệu thể rắn hoặc, nói riêng, lượng thức ăn thể rắn từ một khối lớn chia ra, chín hoặc còn sống, gắp một lần [ai mà hiểu nổi!]
mỏi là cảm thấy thân thể hoặc một phần thân thể không muốn / hoặc ít muốn cố gắng ?!sau khi làm việc nhiều hoặc quá sức [quá sức tưởng tượng !]
manh động là hành động phiêu lưu của các nhà cách mạng chủ trương phát động khởi nghĩa khi điều kiện chủ quan và khách quan chưa chín muồi [định nghĩa lòng vòng theo kiểu bởi thế cho nên rằng thì là, vốn là nghề ngổng của mấy chàng
mối là loài sâu bọ thường xông lên đục khoét … [đúng là con "mối" việt cọng]
mờ là sáng rất yếu ! [vậy thì sáng là sáng rất sáng?]
mèo là gái điếm / người con gái quyến rủ trai [trời đất !]
màu là … cảm giác gây ra cho mắt bởi ánh sáng tùy theo bước sóng của những bức xạ tạo thành ánh sáng, hoặc bởi sự phản xạ ánh
sáng tùy theo những bức xạ … [hết biết luôn]
mứt là thứ kẹo làm bằng hoa quả … [vậy thì kẹo là mứt ?]
mất là bị chia ly với ai, thí dụ mất cha [ối zời ơi, mất mạng thì xao ?] là để vương ? thí dụ: mất sạch giấy tờ ! [họ muốn định nghĩa gì đây?]
mập mạp là cũng như mạp [vậy thì mạp là gì ?]
yêu là say mê với người hay vật có sức mạnh thu hút [vậy chớ yêu nước thì sao ?]
miền là vùng đất đai thuộc một nước, xác định đại khái theo phương ?!
[trời ơi đất hởi !]
móc túi là chuyên ăn cắp tiền trong túi người đi đuờng [gì đâu mà chuyên?][cứ gì phải là tiền ?] [cứ gì người đi đuờng ?]
moi là dùng mẹo để nói lên những điều không muốn nói ? thí dụ : moi chuyện [đâu cần dùng mẹo ?!]
mòn là trông chờ lâu quá [mòn giày thì sao ?!]
món là từ đặt trước danh từ ? chỉ đon vị vật cụ thể hoặc khái niệm thường có thành phần không đon giản [nói vòng vo tam quốc thay vì nói : món ăn !
mong là chờ đợi một cách khát khao [cứ gì phải khát khao ?]
mong manh là ít có khả năng xẩy ra ! [số kiếp mong manh thì sao?]
tàn tạ là rụng rời, trơ trụi [vậy thì sắc đẹp, sức khỏe cũng rụng rời trơ trọi sao?]
La là nốt thứ sáu của nhạc mới vậy chứ nhạc xưa cũ không có nốt này sao ?
la liệt là nói ? bày ra nhiều vậy thì không nói là gì ?
la rầy : mắng nhiếc làm cho khổ sở [sic] nhét thêm vào bốn chữ sau để làm gì ?
là lượt : đẹp và sang vậy chiếc xe hơi cũng là lượt sao ?
lá lách : bộ phận chuyên sản xuất [sic] hồng cầu dốt về y học quá chừng !
lả lướt ; dáng đi mệt nhọc trời đất ! lao động nhiều thì lả lướt !
lạ là lắm ? thí dụ : đẹp lạ định nghĩa một cách khốn nạn như thế đấy !
lạc bước là lưu lạc định nghĩa của bọn trí thức cà chớn
lạc loài là bơ vơ nơi xa lạ vậy thì loài là nơi xa lạ ?!
lạc quan là vui tin ở đời vậy thì quan là tin ?!
lạc thú là hoàn cảnh vui vẻ vậy thì thú là hoàn cảnh hay sao?
lai láng là chứa chan tình cảm ! vậy thì nước chảy lai láng có tình cảm không ?
lai lịch là nguyên do của một người [chắc là Mã Viện đa dạy cho họ mấy chữ này]
lai rai là cơn mưa ? nhỏ và ngắn [mấy ông từ điển gia này thật hết nước nói]
lái buôn là người làm nghề buôn bán ngược xuôi [lái là ngược xuôi ?]
làm biếng là không làm việc gì hoặc ít làm[vậy thì ngủ là làm biếng sao]
làm bộ là tỏ thái độ khinh thường [định nghĩa kiểu này đáng khinh thường hơn]
làm cái là đóng vai chính trong cuộc đánh bạc [định nghĩa kiểu người điên đóng kịch]
làm cỏ là nhặt cỏ dại ngoài ruộng [cuốc xẻng chả cần, có mười ngón tay là đủ]
làm dấu.- nói người theo Thiên chúa giáo [ai muốn làm dấu thì phải theo đạo !] đua tay ra trước mặt vẽ thánh giá trong không gian
làm giả là làm hại đến cái chân thực [rất triết lý, mấy ông này làm hại từ điển]
làm kiêu là làm cao [vậy thì làm cao là làm kiêu ? hết sẩy !]
làm loạn là đứng lên chống lại trật tự vậy thì làm tình là nằm xuống làm cái gì ?
[gần như mỗi chữ mỗi sai, mỗi hàng định nghĩa là một dịp cho mấy văn nô này nói bậy, nói vớ vẩn, than ôi là chữ nghĩa quàng xiên của chúng nó, đang làm nhục cho tiếng Việt của ông bà ta biết bao.
trong
khi đó thì ở miền nam có từ điển Việt Anh của ông Nguyễn văn Khôn,
1966; cũng làm cho ta "trúng thực" vì ổng cho vào cả hàng ngàn từ ngữ
Tàu làm ra cái vẻ ta đây thông chữ hán, mà người Việt không ai thèm nói
thèm biết đến những chữ đó cả, thí dụ như
.
sơn thanh thủy tứ, sơn trang , sơn hải,
sơn hệ, sơn kê, sơn lộc, sơn quân,
sơn dân, sơn cốc, sơn công [con khỉ!]
suất chức, suất lược,
súc điện trì, súc nục [đi trễ]… trời đất, ba cái chữ này, chắc Khổng tử cũng chịu thua,
súc oán [?] sung sung /
sung du !
sứ tiết ?
sự do, sương cư, sương khuê
tá lý, tá nghiệm?
tá thải, tá đoan
tả triều, tạ bệnh …
tác khổ, tác náo,
tác phường, tác sắc, tác vật
tạc dược, tạc huyệt,
tạc nhật, tạc vãn
tai dân, tai khu
tái tiêu, tài đoạt, tài khí, tài kỹ
tái mạo, tài quyết,
tài thải, tài tú, tài vọng,
tài sĩ, tài triệt?
tại dã ?
tam giác thuật, tam hồn, tam nghi,
tam xạ ảnh, tam thái, tam thừa,
tam tư, tàm nghiệp, tàm ti
nghe mà cứ tưởng đâu có mấy ông tàu phù thủy Bắc kinh đang tràn qua dạy tiếng tàu cho dân Việt lần nữa, muốn khiếp luôn ! rồi thì ông ấy lại tự ý đặt ra giùm cho tiếng Việt những chữ kỳ quặc như là
sức cười, sức nghe, sức nhìn, sức trông, sức mỏi … trời đất bộ ông tưởng muốn nói chi thì nói sao?
Đó, cái học cái biết cái hiểu ngớ ngẩn, đầu gà đít vịt, kỳ lạ, kỳ cục, kỳ quái, của mấy ông học giả không hề biết học cho thiệt, của cả hai miền nam bắc, thật xấu hổ.
Chỉ
vì cứ tưởng là biết đuợc năm ba chữ thì đem ra khoe, cái gì không biết
thì lại phiạ ra, nói giốc, nói phét, nói tướng, cho bừa phứa cho vào
trong sách.
Người lượm rác trong các từ điển Việt cọng :Bs Nguyễn hy Vọng
Thử lý giải những sai sót để đời của Nhà biên soạn từ điển-GS Nguyễn Lân
Hoàng Tuấn Công
"Học giả hoặc nhà văn, dù đã quá cố, vẫn phải vĩnh viễn
chịu trách nhiệm về những gì họ đã viết" (AN CHI)
chịu trách nhiệm về những gì họ đã viết" (AN CHI)
Kỳ 1
Phương pháp luận
Phương pháp luận là gì ? "Từ điển từ và ngữ Việt Nam"
đồ sộ, dày hơn hai ngàn trang của GS Nguyễn Lân không ghi nhận khái
niệm này. Chúng ta không thể biết chính xác GS Nguyễn Lân "đãng trí",
hay đối với Nhà biên soạn từ điển nổi tiếng Việt Nam, thực tế không có
cái gọi là phương pháp luận. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng,
nguyên nhân đầu tiên dẫn đến những sai sót để đời của GS Nguyễn Lân
trong các cuốn từ điển lại chính là phương pháp luận. GS Nguyễn Lân thiếu phương pháp luận đúng đắn để tiếp cận và giải quyết vấn đề.
Phương pháp luận hiểu đơn giản, ngắn gọn là tổng thể những phương pháp nghiên cứu, vận dụng trong khoa học nói chung.
Khi GS Nguyễn Lân biên soạn từ điển nghĩa là đang bước vào địa hạt ngôn
ngữ học, từ điển học, thành ngữ, tục ngữ học... Công việc này thành
công hay không, phụ thuộc vào phương pháp luận mà GS vận dụng. Và kết
quả cuối cùng chính là thước đo cho phương pháp luận của soạn giả.
Nhìn
lại phần lớn những sai lầm mang tính hệ thống của GS Nguyễn Lân, có vẻ
như phương pháp tiếp cận thành ngữ, tục ngữ của GS Nguyễn Lân là không áp dụng phương pháp nào cả.
Nói đúng hơn là Nhà biên soạn từ điển dùng "phương pháp luận phỏng
đoán", gọi theo ngôn ngữ thường ngày là "đoán mò" ! Nhận xét này có vẻ
như một sự mạo phạm tới bậc thầy ngôn ngữ học. Tuy nhiên, nếu đánh giá,
nhìn nhận cụ thể những sai lầm của GS Nguyễn Lân, bạn đọc sẽ thấy, chúng
tôi đã gọi đúng tên bản chất vấn đề. Và "phương pháp đặc biệt" này được
GS Nguyễn Lân áp dụng khá triệt để trong cả 3 cuốn từ điển "Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam", “Từ điển từ và ngữ Hán Việt” và “Từ điển từ và ngữ Việt Nam”.
Thành ngữ, tục ngữ có quy luật cấu trúc, nguyên tắc ngữ pháp trong cách đặt câu và ngữ nghĩa của
dân gian. Bởi vậy, dù ngắn hay dài, dù đầy đủ hay đã bị tỉnh lược,
thành ngữ, tục ngữ vẫn giữ được cốt lõi vấn đề, giúp người ta nhận ra
những thông điệp dân gian gửi gắm. Mặt khác, thành ngữ, tục ngữ có nhiều
kiểu cấu trúc ngữ pháp, dùng nhiều thủ pháp nghệ thuật để biểu đạt
nhiều góc cạnh ngữ nghĩa. Bởi vậy, trong tay người nghiên cứu phải có cả
"chùm chìa khóa" phương pháp luận. Thông qua việc phân loại, xác định
cấu trúc, ngữ nghĩa của từng câu mà dùng chìa nào để mở. Tuy nhiên, với
GS Nguyễn Lân, dường như thành ngữ, tục ngữ chỉ là những câu nói nôm na,
những tập hợp từ lộn xộn. Bởi thế soạn giả đã tùy tiện thay đổi, gán
ghép và cuối cùng là phỏng đoán, suy diễn nội dung, cách hiểu theo ý chủ
quan của mình, bất chấp “quy luật muôn đời” dân gian đã tổng kết:
-Câu "Áo cứ tràng, làng cứ xã". "Tràng" từ cổ nghĩa là cái cổ áo. Câu này được diễn giải: cổ áo là bộ phận quan trọng nhất của chiếc áo, cũng giống như xã (trưởng)
là người đứng đầu, cấp cao nhất của làng. Muốn nắm cái áo, cứ cổ áo mà
cầm; muốn quản lý được làng, cứ ông xã (trưởng) mà nắm. Do không hiểu
"tràng" là cái gì nên GS đổi thành "Áo cứ chàng, làng cứ xã" và cho rằng "chàng" ở đây là chàng trai, người chồng. Ý
là: việc giặt giũ, vá may quần áo cứ để cho chồng làm nên gọi "áo cứ
chàng"; việc của làng cứ ý vào ông xã (trưởng) nên gọi “làng cứ xã”, rồi giải thích: "Nói tính ỷ lại của người đàn bà, cũng như tính ỷ lại của người dân trong thôn xóm, không thấy được vai trò làm chủ của mình". Như thế, GS đã bất chấp quy luật cấu trúc ngữ pháp, ngữ nghĩa dân gian trong câu tục ngữ, biến chàng (trai) thành một bộ phận của cái áo. Rốt cuộc, câu tục ngữ đề cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu lại bị GS đoán là tính ỷ lại của người đàn bà và người dân trong thôn xóm. (Xin xem bài CHÀNG hay TRÀNG, VẠT ÁO hay CỔ ÁO ? trên Blog tuancongthuphong).
-Câu tục ngữ "Mài mực ru con, mài son đánh giặc" đúc kết kinh nghiệm mài mực (Tàu) và mài son:
Mài mực phải nhẹ nhàng như ru con; mài son phải mạnh mẽ như đánh giặc.
Do không hiểu thủ pháp so sánh, ẩn dụ đặc biệt của dân gian, GS đành
đoán liều, bất chấp sự vô lý trong cách giảng giải: "Nói
các ông đồ ngày xưa ngày thường ngồi dạy học đồng thời giúp vợ làm việc
vặt trong nhà, nhưng khi có giặc thì tham gia phục vụ quân sự" (!)
-Tương tự, câu "Hay ăn nhà bếp, chóng chết quản voi". (Dị bản: No ăn nhà bếp, chóng chết quản voi). Câu tục ngữ này có hai vế đối xứng, cấu trúc từ theo kiểu tiểu đối: "Hay ăn" (tính từ) đi với "chóng chết" (tính từ); "nhà bếp" (danh từ chỉ nghề nghiệp) đi với "quản voi" (danh từ chỉ nghề nghiệp) bị GS Nguyễn Lân đổi thành "Hay ăn vào bếp, chóng chết quản voi". Thế là "vào bếp" (động từ) bị đem đối với "quản voi" (danh từ). Rốt cuộc chính GS Nguyễn Lân trở nên lúng túng khi nhận thấy sự vô lý của nó và thắc mắc: “Hai việc này không ăn khớp với nhau”. Nhưng có lẽ GS liên tưởng tới câu “Muốn ăn thì lăn vào bếp” nên phỏng đoán, giải thích bừa: "Hay ăn vào bếp, chóng chết quản voi" (Quản một con voi dữ thì nguy hiểm) Hai việc này không ăn khớp với nhau, nhưng chỉ có nghĩa là tự mình làm lấy mà ăn là một chuyện tất nhiên".Thế nhưng câu tục ngữ đang xét được hiểu tương tự như câu “Giàu thủ kho, no nhà bếp”. Nhà bếp thì hay được ăn (vì trực tiếp nấu ra đồ ăn thức uống); Quản voi thì dễ gặp nguy hiểm (vì có thể bị voi quật chết bất cứ lúc nào). Nghĩa bóng: Ai gắn bó với nghề nào thì được hưởng lợi trước tiên hoặc cũng bị nguy hiểm trước tiên từ nghề đó. (Có câu “Sinh nghề, tử nghiệp” là vậy).
-Câu "Vịt già, gà tơ" thuộc loại tục ngữ có cấu trúc đối sánh: Vịt với gà; già với tơ (non). Nhưng vì không xét đến quy luật cấu trúc câu, từ của dân gian là gì nên GS sẵn sàng để già (chỉ mức độ già, non) đối với to (chỉ khối lượng to, nhỏ). Rồi giải thích: "Vịt già, gà to Ý nói vịt già thì ăn được, còn gà thì phải to béo, chứ gà già thì thịt dai". Cách giải thích này trở nên vô lý bởi gà "to béo" đâu có nghĩa là gà tơ, thịt không dai ? Ngược lại, con gà "to béo" hoàn toàn có thể là con gà già, đã đẻ nhiều lứa, thịt dai.
-Hoặc câu “Màn hoa lại trải chiếu hoa, bát ngà lại phải chiếu ngà mâm son Tả cái cảnh xa hoa của gia đình giàu sang ngày trước”.
Nếu như GS Nguyễn Lân có phương pháp tiếp cận, tôn trọng nguyên tắc đặt câu, biểu đạt ngữ nghĩa của dân gian, GS đã chẳng đưa ra một dị bản sai, lủng củng, trùng lặp đến vậy. Ví như vế đầu đã có “chiếu hoa”, vế sau không nhắc lại “chiếu ngà” nữa mà phải đũa ngà. (Mà thực tế cũng không có chiếu nào gọi là “chiếu ngà”). Không phải “bát ngà” mà là bát ngọc. Bát ngọc đi với đũa ngà đặt trên mâm son mới đúng. (Màn đi với chiếu, bát đi với đũa). Bỗng dưng cho bát đi với chiếu: “bát ngà lại phải chiếu ngà mâm son” là tùy tiện. Câu Màn hoa lại phải chiếu hoa, Bát ngọc lại phải đũa ngà mâm son, ý nói: cái đẹp phải tương xứng, hài hoà, đồng bộ. Nói như Giáo sư: “tả cảnh xa hoa của gia đình giàu sang ngày trước” là thiếu căn cứ và lạc đề.
Sai
lầm ở dạng chép sai hình thức thành ngữ, tục ngữ rồi đoán mò, suy diễn
thành ngữ, tục ngữ theo ý chủ quan chiếm một phần lớn và rất nghiêm
trọng trong "Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam" của GS Nguyễn Lân (xin xem lại các kỳ Dĩ hư truyền hư)
Đối với cuốn "Từ điển từ và ngữ Hán Việt", “Từ điển từ và ngữ Việt Nam”
GS Nguyễn Lân vẫn “tâm đắc” với phương pháp “xem voi” để giải nghĩa từ
nguyên. Kết quả là "trật" nhiều hơn "trúng". Xin lấy vài ba ví dụ trong
hàng trăm trường hợp "đoán trật" khi giải nghĩa từ nguyên của GS Nguyễn Lân (phần gạch đầu dòng là của GS Nguyễn Lân):
- Bắc thần (bắc: phương bắc; thần: tinh thần) Ngôi sao sáng nhất trong chùm sao tiểu hùng tinh, giúp người ta xác định hướng chính bắc.
Chữ thần (辰) ở đây chỉ chung mặt trời, trăng, sao. Chữ thần (辰) này khi đọc là thìn lại có nghĩa là rồng - chi thứ năm trong thập nhị chi. Còn chữ thần trong tinh thần có tự dạng là (神), không liên quan gì đến bắc thần (北辰).
-Thủy tạ (tạ: ngôi nhà xinh) Ngôi nhà xây trên mặt nước để làm nơi giải trí: Nhà thủy tạ ở Hồ Tây.
Chữ “tạ” (榭) trong thủy tạ có nghĩa là “cái đài có nhà ở”. Nhưng phải chăng do soạn giả ngắm nhà thủy tạ ở Hồ Tây thấy nó xinh xắn quá nên đoán rằng chữ tạ ở đây (có lẽ) nghĩa là ngôi nhà xinh (!?)
Nếu không phải là GS Nguyễn Lân “đoán mò”, tại sao chữ với nghĩa vốn rành rành ra đó lại "trật lất hết trơn", "Râu ông nọ cắm cằm bà kia” như vậy ? (Xin xem lại bài "Từ điển từ và ngữ Việt Nam" mục chữ cái nào cũng có sai sót" của Hoàng Tuấn Công trên tuancongthuphong)
Cũng
vì sai lầm trong phương pháp luận mà GS Nguyễn Lân chủ trương giải
thích từ nguyên một cách triệt để. Đến mức, GS tìm nghĩa từ nguyên cho
cả những từ vay mượn ghi âm Hán Việt. Ví dụ: “Câu lạc bộ (Câu: đều; lạc: vui; bộ: bộ phận - Do từ Anh club phiên âm ra tiếng Trung Quốc” (“Từ điển từ và ngữ Việt Nam”). Đã là từ phiên âm tiếng Anh thì từng từ đơn lẻ chỉ làm nhiệm vụ ghi âm chứ không ghi nghĩa. Việc giải nghĩa từng từ
như trên là hoàn toàn sai về phương pháp luận. Bởi thế cái sai kiểu này
của GS Nguyễn Lân mang tính hệ thống. Ta còn gặp một số từ phiên âm
khác được GS Nguyễn Lân đem ra “giải nghĩa từ nguyên” như: bồ đề, nha phiến, bạch phiến....
Kiến
thức, hiểu biết thấu đáo sẽ giúp soạn giả tìm ra phương pháp luận. Và
phương pháp luận đúng đắn sẽ giúp soạn giả sử dụng hiệu quả kiến thức,
hiểu biết. Nhưng có phương pháp luận trong tay mà thiếu kiến thức vẫn
thất bại như thường. Bằng chứng là trong "Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam", GS Nguyễn Lân cũng đưa ra tiêu chí xác định, nhận diện thành ngữ: "Thành ngữ là những cụm từ cố định dùng để diễn đạt một khái niệm". Thế nhưng, do quan niệm đơn giản, máy móc rằng "thành ngữ là những cụm từ dùng để diễn đạt một khái niệm" nên GS Nguyễn Lân thu thập cơ man những cụm từ, thuật ngữ kinh tế, chính trị, ngoại giao, thể thao,...những danh từ, tổ hợp danh từ, quán ngữ...để đưa vào từ điển làm "thành ngữ tục ngữ". Như: Cách mạng xanh; Chạy đua vũ trang, Chiến
tranh cân não; Chiến tranh chớp nhoáng; Chiến tranh lạnh; Chiến tranh
tâm lý, Lãnh sự tài phán; Đấu vòng tròn; Khủng bố trắng; Khăn chữ nhất;
Khăn đầu rìu; Khăn mỏ quạ; Khăn quàng đỏ; Khăn vành dây; Không chán mắt; Không chê được; Không tài gì; Không thể nào; Rất chi là; Rinh tùng rinh; Lễ lại mặt; Tuổi dậy thì,... (xin xem lại bài Dĩ hư truyền hư kỳ cuối).
Về hình thức, thành ngữ là một cụm từ, chưa phải là một câu như tục ngữ. Điều này đã được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa dân gian nói đến. Tuy nhiên, cần hiểu thêm: thành ngữ không phải là cụm từ bình thường mà là một cụm từ đặc biệt, có kết cấu chặt chẽ, tính khái quát, so sánh, gợi tả cao và đầy ẩn ý. Bởi thế, khái niệm mà thành ngữ diễn đạt cũng không phải là khái niệm bình thường mà là khái niệm đặc biệt. Nói cách khác, khái niệm mà thành ngữ nói đến không phải “khái niệm chết" chỉ để gọi tên sự vật hiện tượng nào đó mà có nghĩa hàm ẩn, nghĩa suy ra
từ nghĩa đen của cụm từ được gọi là thành ngữ. Ví dụ câu "Ếch ngồi đáy
giếng". Nội dung, khái niệm thành ngữ nói đến không dừng ở nghĩa đen con ếch ngồi ở dưới đáy giếng mà
nhằm so sánh, ám chỉ một người hiểu biết nông cạn, hạn chế, nên nhận
thức sai về sự vật xung quanh. Trong khi cũng là cụm từ, cũng nhằm diễn
đạt một khái niệm với lối ấn dụ, so sánh, nhưng "Chiến tranh lạnh" hay "Cách mạng xanh" mà GS Nguyễn Lân đưa ra không được xem là thành ngữ. Bởi nội dung cụm từ này chỉ dừng ở việc gọi tên một dạng chiến tranh, một kiểu cách mạng trong nông nghiệp. Hoặc Khăn chữ nhất, Khăn đầu rìu, Khăn mỏ quạ ngoài ý nghĩa gọi tên các loại khăn theo hình dáng của nó thì các cụm từ này không mang nghĩa hàm ẩn nào khác. Hay Không chán mắt, Không chê được; Không tài gì; Không thể nào...các nhà nghiên cứu xếp vạo loại “quán ngữ” (từ quen dùng) chứ không phải thành ngữ.
Trong “Đôi lời tâm sự thay lời tựa” của sách “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” GS Nguyễn Lân viết: “Nhận
thấy rằng sinh viên và học sinh các trường không có một từ điển tiếng
Việt nào để tra cứu, một số chúng tôi đã quyết định cùng họp lại để giải
quyết sự thiếu thốn ấy. Vì thế năm 1969, quyển Từ điển tiếng Việt đầu tiên của chế độ ta đã được ra mắt bạn đọc”. Từ điển là khoa học. Bởi thế, dù được biên soạn bởi ai, dưới chế độ nào đều phải đảm bảo tính khoa học, khách quan. Không rõ GS Nguyễn Lân quan niệm từ điển “của chế độ ta” khác những gì với từ điển của những chế độ trước đó ? Ví như “Việt Nam tự điển”
của Hội Khai Trí Tiến Đức xuất bản năm 1931 đến bây giờ vẫn là công cụ
hữu ích của các nhà nghiên cứu. Trong đó, chúng ta tìm thấy dấu ấn lịch
sử của ngôn ngữ mà không thấy dấu ấn, bàn tay của chế độ thực dân phong
kiến. Ở một khía cạnh nào đó, dường như GS Nguyễn Lân bị quan điểm giai
cấp chi phối công việc của người làm khoa học. Ví như dân
gian có tư duy, nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng theo kiểu của
dân gian. Tư duy đó tiến bộ, khoa học hay hạn chế đều mang dấu ấn lịch
sử của quá trình nhận thức thế giới tự nhiên và mối quan hệ xã hội.
Nhiệm vụ của người làm từ điển là tập hợp và giải thích nghĩa đen, nghĩa
bóng, cách hiểu, cách dùng thành ngữ, tục ngữ dân gian một cách khách
quan, đúng như nó vốn được đúc kết, được hiểu, được dùng trong thực tế.
Thế nhưng, GS Nguyễn Lân lại vi phạm nguyên tắc khách quan, khoa học đó
khi đứng trên quan điểm giai cấp, cá nhân cực đoan, đả phá, phản đối
nội dung nhiều câu thành ngữ, tục ngữ:
Đắng cay cũng thể ruột rà, ngọt ngào cho lắm cũng là người dưng Quan niệm cũ kỹ cho rằng người có họ với mình, dù ăn ở không tốt, cũng hơn là ngừơi dưng tử tế với mình.
Máu loãng còn hơn nước lã Quan niệm cũ cho rằng dù là họ hàng xa cũng còn hơn người dưng.
Máu mủ chẳng thương, thương thiên hạ hàng xứ Lời trách móc theo quan niệm cũ cho rằng có họ hàng với nhau thì phải đùm bọc, thương yêu hơn là đối với người dưng.
Ba
câu trên khuyên người ta phải biết yêu thương người thân, máu mủ, ruột
thịt; đề cao tình cảm huyết thống, dòng tộc. Điều đó không có gì là xấu,
là “quan niệm cũ kỹ”. Bởi “Gia đình là tế bào của xã hội”, con
người trước tiên phải ý thức được tình cảm máu mủ, ruột thịt, phải biết
yêu thương ông bà, cha mẹ mới có thể yêu thương anh em, bạn bè, đồng
chí. Rộng hơn nữa là ý thức đồng bào, dân tộc rất đáng được trân trọng.
Và thương yêu người thân không có nghĩa ghét bỏ người dưng. Người trong
một nước thương yêu nhau không có nghĩa là ghét bỏ nhân loại. Như câu ca
dao “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Vậy GS nghĩ sao ?
Với GS, tất cả những gì dính dáng tới xã hội cũ, phong kiến, quan lại, đàn ông đều là xấu xa, đều là cũ kỹ, lạc hậu. Ngược lại, những cái thuộc về ngày nay đều muôn phần tốt đẹp:
- Bạc thì dân, bất nhân thì lính. Lời phàn nàn của bọn quan lại trong chế độ phong kiến, khi người ta đối xử không hậu hĩ với chúng.
-Mẹ chồng không ai nói tốt nàng dâu Đó là hiện tượng khá phổ biến trong xã hội cũ, nhưng ngày nay trái lại, nhiều khi mẹ chồng yêu con dâu như con đẻ của mình.
-Tài trai lấy năm lấy bảy, gái chính chuyên chỉ lấy một chồng Luận điệu ích kỷ của bọn đàn ông trong chế độ phong kiến.
-Trai làm nên, năm thê bảy thiếp; gái làm nên thủ tiết thờ chồng Nói lên cái tính ích kỷ của bọn đàn ông trong chế độ đa thê thời phong kiến.
-Mấy đời gỗ mục đóng nên thuyền rồng ý nói Bản chất xấu thì không thể trở nên người tốt. Tuy nhiên trong xã hội ta, nhiều người xấu được cải tạo cũng trở nên tốt.
Đọc
những lời trên, chúng ta có cảm giác GS Nguyễn Lân đang lên lớp trong
một tiết học có nội dung chống đế quốc phong kiến chứ không phải đang
làm từ điển. Mặt khác, cách phê phán của GS cũng không đúng. Ví dụ câu "Mấy đời gỗ mục đóng nên thuyền rồng" tục ngữ không nói đến việc "bản chất xấu không thể cải tạo thành người tốt",
mà ý nói vật cũ nát, tầm thường thì không thể sử dụng vào việc lớn.
Điều này có thực tế nghĩa đen và rất biện chứng. Thế nên sách Luận ngữ ra đời cách nay hàng ngàn năm đã viết: “Hủ mộc bất khả điêu dã, phấn thổ chi tường bất khả ô dã” Nghĩa là: Gỗ mục không thể chạm khắc, vách đất không thể tô vẽ (Luận ngữ - Công Dã Tràng).
Thậm
chí GS Nguyễn Lân còn đứng trên quan điểm duy vật biện chứng của triết
học Mác-Lê nin để áp đặt cho tư duy dân gian và phê phán nội dung nhiều
câu thành ngữ, tục ngữ. Ví dụ câu: “Dương làm sao, âm làm vậy”
phần nào thể hiện tín ngưỡng, tôn giáo, thế giới quan của người xưa, đã
không được GS giải thích, ngược lại bị “sổ toẹt” bằng một câu: “lời tin nhảm của kẻ mê tín” !
Thực
tế, dù làm nghề đào đất cũng phải nắm được thân đất mình đào là đất sét
hay đất cát, đất sỏi đá hay đất tơi xốp, rồi mới tính chuyện nên sử
dụng mai, thuổng, hay xẻng, xà beng để đào cho hiệu quả. Thật khó cho GS
Nguyễn Lân bởi một khi chưa có hiểu biết cần thiết về cơ sở ngôn ngữ học nói chung và thành ngữ tục ngữ nói riêng làm sao có thể nói đến việc lựa chọn phương pháp tiếp cận nào cho đúng ? Những sai lầm mang tính hệ thống trong các sách từ điển do GS Nguyễn Lân biên soạn có nguyên nhân chủ quan và khách quan. Phương pháp luận chỉ là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại của GS Nguyễn Lân ở lĩnh vực biên soạn từ điển.
Kỳ sau
Thử lý giải những sai sót để đời
của Nhà biên soạn từ điển-GS Nguyễn Lân
Kỳ 2
Thử lý giải những sai sót để đời
của Nhà biên soạn từ điển-GS Nguyễn
Lân
Kỳ 7
Một đời chính tả
Học sai nên hành sai
(Phần I)
Hoàng Tuấn Công
Đất anh hùng có huyền thoại anh hùng. Người thông minh có giai
thoại thông minh. Kẻ ngốc ngếch có giai thoại ngốc ngếch... Giáo sư Nguyễn Lân
nổi tiếng là người yêu đến “say mê tiếng mẹ đẻ” (Thứ tiếng
chúng tôi đã nói đến trong Kỳ 6-Tiếng mẹ đẻ). GS còn là một
“huyền thoại” về chính tả và ý thức chính tả.Giai thoại “Chớ vào hầm chú ẩn” kể
về GS Nguyễn Lân, được nhiều người cầm bút khai thác dưới nhiều dị bản:
-"Hồi đó, giặc Mỹ đang đánh phá miền Bắc. Một hôm có báo
động, GS Nguyễn Lân ra hầm theo mũi tên chỉ, nhưng ở mũi tên, ai đó lại viết
sai chính tả: “hầm chú ẩn” chứ không phải là “hầm trú
ẩn”.
Ông thấy như bị ai đó xúc phạm và kiên quyết không chịu vào hầm!
Rồi nữa, có lần, ông cần đi vệ sinh, nhưng ở cửa lại ghi “nhà vệ xinh”,
thế là Giáo sư cũng… không vào ! Có thể đó chỉ là những câu chuyện ai đó
thêu dệt vì quý mến ông, nhưng đã phần nào nói được tấm lòng của nhà giáo
Nguyễn Lân đối với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt mà ông trọn đời
tâm huyết”. (Trọn đời vì sự nghiệp trồng người- Báo Công an nhân dân)
- “Lâu nay mọi người vẫn nghe
lưu truyền câu chuyện trong chiến tranh giáo sư Nguyễn Lân không chịu vào hầm
dù máy bay Mỹ đã tới trên đầu, chỉ vì ngoài cửa đề chữ: Hầm “chú ẩn”. Hoặc từ
chối vào “nhà vệ xinh” khi “nhu cầu đã rất cấp thiết”. Đó là những giai thoại
nhưng nó cũng phần nào nói lên được sự đam mê và tấm lòng của nhà giáo Nguyễn
Lân với tiếng Việt”(GS Nguyễn Lân qua ký ức những người con - Báo Quân đội nhân dân).
-“Sự quan tâm của GS Nguyễn Lân đến chính tả đạt đến mức
mà có người, do mến yêu cụ, đã sáng tác ra một bức tranh hài hước trên một tờ
báo tường. Bức tranh tả cảnh Hà Nội đang có báo động, máy bay Mỹ đã bay vào bầu
trời Hà Nội, loa truyền thanh đang thúc giục mọi người nhanh chóng vào hầm trú
ẩn nhưng cụ Lân, tuy đã đứng trước cửa hầm vẫn chưa chịu vào hầm để phản ứng
trước việc ai đó đã viết sai chính tả trên một tấm biển chỉ đường ra hầm trú ẩn
là: Hầm chú ẩn”.(GS Nguyễn Lân và “tư cách một người dân yêu nước" -
Báo Tiền phong:).
Nhà thơ Trần Đăng Khoa chưa đầy mười tuổi đã biết vắt óc
“thôi xao”, sành ngôn từ mẹ đẻ đến thành “Thần”. Có lẽ bởi vậy mà với “Người
thường gặp” GS Nguyễn Lân, góc nhìn thú vị về “Vua chính tả” đã được Trần Đăng
Khoa khai thác triệt để. Không những thế. Dưới ngòi bút tài hoa và cái duyên kể
chuyện hiếm thấy của một Nhà thơ, giai thoại về người luôn nổi giận với những
ai viết sai chính tả tiếp tục được “thêu hoa, dệt gấm” thật ly kỳ. Chúng tôi
cho đây là dị bản hay nhất: “Ông không tiếc sức mình trong việc giữ gìn
sự trong sáng của tiếng Việt. Thấy ai nói ngọng, hoặc viết sai tiếng Việt là
ông đau đớn lắm, bứt rứt lắm....Ví như có lần, người ta mời Giáo sư Nguyễn Lân
đến dự một bữa tiệc linh đình. Mọi người đã ngồi vào bàn. Rượu đã rót ra cốc.
Nhưng rồi Giáo sư Nguyễn Lân thấy chén rượu đắng ngắt khi nhìn thấy trên tường
có một dòng khẩu hiệu viết sai đến mấy lỗi chính tả. Thế là ông đùng đùng bỏ
tiệc ra về. Ông không còn bụng dạ nào ăn nổi bữa tiệc ấy . Rồi lại một lần khác
nữa, lần này còn ác chiến hơn. Máy bay Mỹ nhào tới. Bom nổ dữ dội. Giáo sư
Nguyễn Lân chạy ra căn hầm công cộng của khu phố, thấy trên nóc hầm lô lố một
dòng chữ cũng lại viết sai chính tả: Hầm chú ẩn. Ông đâu có
phải là chú. Thế là ông nhất quyết không chịu xuống hầm, mặc
cho bom nổ xung quanh...”(Người thường gặp-Giáo sư Nguyễn Lân-Trần
Đăng Khoa)
Giai thoại hay thần thoại cũng thường dựa trên sự thật, có cốt lõi
của sự thật. Giai thoại về "Vua chính tả” Việt Nam dĩ nhiên cũng có cơ sở,
ngọn nguồn của nó. Trong "Đôi lời tâm sự thay lời tựa" của “Từ
điển từ và ngữ Việt Nam”, GS Nguyễn Lân bức xúc: “Gần đây, tôi
nhận thấy trong sách báo và cả trên đài tiếng nói Việt Nam, đồng bào dùng sai
nhiều từ, nhất là những từ Hán Việt...Mặt khác, trong các sách báo, lỗi
chính tả tràn lan, rất ảnh hưởng tới sự trong sáng của tiếng Việt”. GS
Nguyễn Lân còn là tác giả của các sách “Muốn đúng chính tả”; “Tôi
yêu tiếng Việt”; đồng tác giả của “Từ điển chính tả phổ thông”;
“Viết thế nào cho đúng”...tổng cộng tới 10 cuốn từ điển liên quan tới tiếng
Việt. Lúc nào GS cũng đau đáu "vì sự trong sáng của tiếng
Việt". Ở tuổi 90 Giáo sư vẫn còn "suốt ngày viết
viết, xóa xóa” để “tạo ra một tác phẩm rất có giá trị mà cả xã
hội mong đợi” (Lời giới thiệu Từ điển từ và ngữ Việt Nam-GS
Vũ Khiêu). Điều này lý giải tại sao Giáo sư Nguyễn Đình Chú
cũng đã suy tôn "GS Nguyễn Lân là Nhà biên soạn từ điển vô
địch"(5) Đó chính là cốt
lõi, là sự thật của giai thoại về một người thà "nhịn đói",
"nhịn đau" hay “tử" vì chính tả !
Chúng ta cảm ơn "cha đẻ" của những giai thoại. Họ chính
là hiện thân của dân gian: thông minh-tốt bụng-công bằng và hài hước. Dân gian
ưa nói thẳng, nói thật. Nhưng dân gian cũng chính là bậc thầy nói ngược,
“nghịch ngầm”. “Nói zậy mà hổng phải zậy” !
Khi đăng
bài “Từ điển từ và ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân-mục chữ cái nào
cũng có sai sót”, ("xem ở đây) chúng tôi có nhắc đến
một số lỗi chính tả của GS. Một bạn đọc hồi đáp, “thử lý giải” hộ chúng tôi: “Phải
chăng GS Nguyễn Lân có dấu hiệu của tuổi già ?” Vâng ! Quả thật, với “Từ
điển từ và ngữ Việt Nam” (GS chuẩn bị 50 năm, hoàn thành trong 5 năm ở
độ tuổi 90) bạn đọc cần khách quan để không loại trừ nguyên nhân
này. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể chủ quan loại trừ bằng một cách khác. Đó là
tìm đến một cuốn sách chuyên chính tả hơn, lại được Giáo sư viết ở độ tuổi 40.
Cuốn “Muốn đúng chính tả”.
Trong thư
mục Cùng một tác giả, sách “Muốn đúng chính tả” (xuất
bản lần đầu 1949-NXB Thịnh Đức-Chiến Khu 10) được GS Nguyễn Lân xếp vào loại “Từ
điển chính tả”. Sách được NXB Văn hóa thông tin xuất
bản vào các năm 2010 và 2012. Chúng tôi có trong tay cả hai bản này. Điều đáng
chú ý, trước khi viết “Muốn đúng chính tả”, Nguyễn Lân đã là “GS
của ba trường đại học ở Huế: Quốc Học, Đồng Khánh, Bách Công”; từng làm “Giám
đốc giáo dục Liên khu 10 và Liên khu Việt Bắc”; từng xuất bản 4 cuốn
tiểu thuyết và hai đầu sách khảo cứu. Như thế, GS viết “Muốn đúng chính
tả” ở độ tuổi trí tuệ đang nở rộ và tinh thần minh mẫn nhất của một
đời người. Của chính Giáo sư !
Các cụ nhà
ta dạy: "Nói có sách, mách có chứng". Cái "chứng" sai chính
tả đang bò lổm ngổm trong "rừng từ" của Giáo sư Nguyễn Lân. Ta không
quá khó để nhận ra chúng. Tuy nhiên, chính tả tiếng Việt là vấn đề phức tạp.
Đôi khi “Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay”. Thế nhưng, dù còn có những bất đồng,
nhưng chính tả tiếng Việt không phải không tìm được cái “chính” đồng thuận.
Khi viết,
người ta có quyền chọn từ nào đó mình ưa dùng, kể cả từ “tối cổ”. Hiểu đến đâu
phụ thuộc vào trình độ người đọc. Nhưng với chính tả, người viết lại luôn có xu
hướng và cố gắng nương theo chuẩn chính tả hiện hành, được số đông thừa nhận.
Cuốn “Muốn đúng chính tả” chúng tôi có trong tay xuất bản
2012. Bởi vậy, trước tiên chúng tôi sẽ căn cứ vào các sách Từ điển tiếng Việt,
Từ điển chính tả hiện đại để so sánh. Mặt khác, chúng tôi cũng căn cứ theo số
đông. Tức cách nói, cách viết phổ thông của sách giáo khoa giảng dạy trong nhà
trường, trong đời sống cũng như sách báo hàng ngày để đi đến sự thống nhất,
đồng thuận. Ngoài ra, để bổ sung thêm chứng cứ, chúng tôi cũng dẫn thêm các cuốn
từ điển như: “Từ điển Việt-Bồ-La”, "Đại Nam quấc âm tự
vị" "Việt Nam tự điển" (đều xuất bản trước
1945). Qua đó, ta có thể biết cha ông ta vốn có nói và viết như GS Nguyễn Lân
không. Đối với những chữ còn tồn tại hai cách viết hoặc gây tranh cãi, chúng tôi
bỏ qua.
Không để
bạn đọc phải chờ đợi lâu. Sau đây là một số “trắc nghiệm” chính tả của GS
Nguyễn Lân trong “Muốn đúng chính tả”:
Muốn đúng
chính tả:
+Chảo: sanh chảo, lòng chảo.
+Sanh: xương quai sanh, sắm sanh, sạch sành
sanh.
*Sai lần 1: Xanh chảo chứ không
phải “Sanh chảo”.
-Từ điển
Việt-Bồ-La: “Xanh gang: nồi
lớn, vạc, chảo, cái xanh gang”.
-Quốc âm
tự vị: “Xanh: thứ chảo đứng vành”.
-Việt
Nam tự điển: “Xanh. Đồ làm bếp, sâu lòng, thành
đứng, thường làm bằng đồng. Văn liệu: Xanh
không thủng cá đi đằng nào (tục ngữ) Thịt một Xanh
không hành cũng không thơm (T-ng).
-Từ điển
chính tả-Hoàng Phê (gọi tắt 1) Từ điển chính tả tiếng Việt-Nguyễn
Thế Truyền (gọi tắt 2): Xanh (bắc xanh lên bếp).
*Sai lần 2: Viết đúng Xương quai Xanh (vần
X), không phải “xương quai Sanh”
(vần S). Xương quai xanh chính là cách gọi xương
đòn, do nó ở hai bên vai người, hình dáng giống như hai cái quai của cái
xanh (chảo). Các sách từ điển trước 1945 và một số từ điển chính tả hiện đại
không thấy ghi nhận “xương quai xanh”. Nhưng TĐTViệt cho biết: “Xương
quai Xanh đồng nghĩa xương đòn”. Ngoài ra,
trong đời sống hàng ngày cũng như sách báo, y học đều ghi nhận là xương
quai Xanh chứ không phải “quai Sanh”.
“Muốn đúng
chính tả”:
- Chỗi. Chỗi dậy, chỗi gót.
*Sai: Viết đúng là TRỗi dậy (vần TR), không phải
“CHỗi dậy” vần CH. Đây là cái sai theo kiểu của chữ viết ở hầm
"chú ẩn" mà GS Nguyễn Lân từng phản đối (theo giai thoại).
-Từ điển
tiếng Việt: “TRỗi: 1.nhổm
người dậy không nằm nữa. trỗi dậy: đang nằm bỗng trỗi
người lên nhìn; 2. dấy lên, nổi lên mạnh mẽ. nỗi nhớ trỗi
lên.
-Từ điển
chính tả (1 + 2) trỗi dậy; âm
nhạc trỗi lên, tình cảm trỗi lên, tiếng
hát trỗi lên.
“Muốn đúng
chính tả”:
- Dãi. dãi nắng, dãi dầu, Dãi thể...
*Sai: GIải
thể (vần GI) không phải “Dãi thể” (vần D). Chứng cứ: Từ điển tiếng
Việt, Từ điển chính tả (1+2) đều ghi nhận GIải thể. Sách
báo hàng ngày đều đồng thuận.
“Muốn đúng
chính tả”:
-Giấn. giấn xuống, giấn thân, giấn mình.
*Sai: Ta có thể chấp nhận “giấn xuống” đồng nghĩa
với động từ nhấn hay nhận, dìm cái gì xuống
(theo quy luật biến âm như: giăn-nhăn (nhăn nheo) gián-nhán (con
gián). Tuy nhiên Dấn trong “dấn thân”, “dấn
mình” phải là vần D, không phải GIấn vần GI. Trong thực tế cũng không thấy biến
âm “giấn thân” thành “nhấn thân” hay “nhấn mình”.
-TĐTViệt:
Dấn 2. tiến mạnh, vươn mạnh tới,
bất chấp nguy hiểm. dấn thân: Dấn thân vào con đường tội
lỗi.
-Từ điển
chính tả (1+2) đều ghi nhận: dấn thân, dấn
mình.
“Muốn đúng
chính tả”:
+Giộp: bỏng giộp da, giộp vỏ.
*Sai: Bỏng Rộp, Rộp
vỏ (vần R) không phải “GIộp” (vần GI).
-TĐTViệt: “rộp [lớp da hoặc lớp vỏ mỏng bên ngoài] phồng lên, thường
vì nóng quá. bàn tay rộp lên. lớp sơn đã rộp.
-Từ điển
chính tả (1+2): Rộp: tay bỏng rộp, rộp da; bỏng
rộp cả da.
“Muốn đúng
chính tả”:
+Dơm: Dơm dớm
+Dớm: Dớm máu, dơm dớm.
*Sai: Rơm rớm, Rớm máu (vần R)
không phải Dơm, Dớm (vần D).
- TĐTViệt: “Rơm
rớm: rớm ra chút ít trên bề mặt. tay rơm rớm máu; rơm rớm nước mắt.
-Từ điển chính tả (1+2) Rơm:
rơm rớm; Rớm: rớm nước mắt, rớm máu; vết thương rớm máu.
“Muốn đúng
chính tả”:
-Rú: rú
lên, mừng rú.
-Giu: GIu giú trong xó nhà.
-Giú: ngồi GIú một xó, ngồi GIu giú.
*Sai: Ru Rú (vần R), không phải "GIu GIú"
(vần GI). Cái sai của GS nhất quán ở cả hai mục từ "giu" và
"giú" chứ không phải lầm lỡ một lần. Việt Nam tự điển:
"Rú: trỏ bộ co ro một chỗ. Ngồi Ru Rú trong xó
nhà". Các sách từ điển như: Từ điển tiếng Việt, Từ điển chính tả (1+2)
ở cả hai mục từ ru và rú đều ghi nhận cách
viết "ru rú" chứ không phải "giu giú".
“Muốn đúng
chính tả”:
-Dũ: quyến dũ.
*Sai:
Chỉ có quyến Rủ hoặc quyến Rũ,
không có "quyến dũ". Ví dụ: Quyến anh rủ én
sự này tại ai ?(Kiều).
- Từ
điển tiếng Việt: "quyến Rũ: làm cho
người ta mê mẩn mà theo. Bị sắc đẹp quyến rũ. giọng hát
quyến rũ".
-Từ điển
chính tả (1+2) đều ghi nhận: quyến rũ.
“Muốn đúng
chính tả”:
-Rúi: con rúi.
*Sai: con Dúi (vần D), không phải con Rúi
(vần R). Các sách Việt Nam tự điển, Quốc âm tự vị không
ghi nhận từ "dúi" trong con dúi. Tuy nhiên Từ điển tiếng Việt và Từ
điển chính tả (1+2) đều ghi nhận: con Dúi; con Dúi ăn rễ cây.
“Muốn đúng
chính tả”:
-Trạnh: trạnh lòng, trạnh thương, trạnh niềm,
cá trạnh.
*Sai cả 3
từ: Viết đúng phải là: CHạnh lòng, chạnh
thương, chạnh niềm (vần CH) không phải TRạnh (vần TR).
-Việt
Nam tự điển: CHạnh: cảm động: chạnh thương, chạnh
nhớ, chạnh tưởng. Chạnh lòng: cảm động.
-Từ điển
chính tả (1+2) chạnh lòng.
-Từ điển
Truyện Kiều: CHạnh: cảm động. Vd Nỗi niềm riêng chạnh. Chạnh
niềm: Chạnh lòng, động lòng mà nghĩ nhớ. Ví dụ: Chạnh
niềm nhớ cảnh giang hồ.
“Muốn đúng chính tả”:
-Trèn. cá trèn, nông trèn trẹt.
*Sai: CHoèn choẹt vần
(CH) không phải TRèn trẹt (vần TR); Mặt khác, vần oèn và oẹt không
phải vần “...èn” và “...ẹt”.
-Việt
Nam tự điển: Choèn: giếng nông choèn choèn.
-Từ điển chính tả 1: Choèn:
choèn choèn, nông choèn.
-Từ điển chính tả 2:Choèn: hầm
nông choèn; choèn choèn, choèn choẹt.
“Muốn đúng
chính tả”:
-Xàm: nói Xàm, xàm xĩnh, Xàm Xỡ,
cái xàm xạp.
-Xỡ: Xàm Xỡ.
*Sai: Sàm sỡ (vần S), không phải “Xàm xỡ” (vần X).
-Quốc âm tự
vị: Sàm: gièm. Sàm nịnh, Sàm siểm, sàm dua, sàm ngôn.
-Việt Nam
tự điển: “Sàm nói dèm: Miệng sàm
dệt gấm thêu hoa. Sàm báng: dèm pha: nghe lời sàm
báng mà làm hại kẻ trung lương”.
-Từ điển
tiếng Việt: “Sàm sỡ. ăn
nói sàm sỡ. cử chỉ sàm sỡ”; sàm
ngôn. lời gièm pha, nói xấu. lời sàm ngôn.
-Từ điển
Truyện Kiều: Sàm sỡ: Sỗ
sàng, thô bỉ. Vd Sợ lần khân quá ra sàm sỡ
chăng ?
-Từ điển
chính tả (1 và 2) Sàm: sàm
báng, sàm nịnh, sàm sỡ.
-Hán Việt
tự điển (Thiểu Chửu) Sàm:
Gièm pha, thêu dệt các lời nói bậy làm cho mất cái hay cái phải của người đi
gọi là sàm”.
“Muốn
đúng chính tả”:
-Xạm: xạm mặt, đen xạm.
*Sai lần 1: Sạm mặt (vần S) không phải “Xạm mặt” (vần X).
-Quốc âm tự
vị: Sặm: sặm màu: màu đậm. Sặm
nước da: màu da có màu nhiều.
-Việt Nam
tự điển: Sạm: xám đen
lại. đi nắng sạm da. Sạm mặt nghĩa bóng: làm cho
phải xấu hổ. Bị mắng sạm mặt.
Như vậy
“Sặm” hay “Sạm” đều có sự thống nhất trong cách phát âm và viết làvần S,
không phải vần X.
“Muốn đúng
chính tả”:
-Xì: xì hơi, pháo xì, đen Xì
*Sai: Đen Sì (vần S) không phải đen Xì (vần
X).
-Việt nam
tự điển: Sì: nói cái sắc đen lắm: Người đen Sì, Trời
tối đen Sì.
-TĐTViệt: Sì. đen sì; mặt gỗ nhám sì; môi thâm sì.
-Từ điển
chính tả (1+2) đều ghi nhận đen Sì, không
phải đen Xì.
“Muốn đúng
chính tả”:
-Soe: bộ sun soe.
* Sai: Xun xoe (vần X) không phải Sun soe (vần S).
-Việt Nam
tự điển: Xun xoe: trỏ bộ chạy đi
chạy lại loanh quanh một chỗ: thằng bé chạy xun xoe.
-TĐTViệt: Xun xoe: từ gợi tả dáng vẻ, cử chỉ săn đón, vồn vã
quá đáng nhằm nịnh nọt. Bộ dạng xun xoe; chỉ giỏi xun xoe
nịnh bợ.
-Từ điển
chính tả (1+2): đều ghi nhận Xun Xoe
“Muốn đúng
chính tả”:
-Xóng: ngã Xóng xoài.
*Sai: Vẫn là kiểu sai ở nhà “vệ xinh”: Sóng Soài (vần
S) không phải Xóng Xoài (vần X).
-Việt Nam
tự điển: Sóng sượt: nói cái bộ nằm dài
thẳng cẳng ra. Ngã sóng sượt, nằm sóng sượt.
-TĐTViệt: Sóng soài như Sóng sượt. Ngã sóng soài.
-Từ điển
chính tả (1+2) đều ghi nhận Sóng soài, không
có “xóng xoài”.
“Muốn đúng
chính tả”:
-Sỡ: Xặc sỡ
* Sai: Sặc
sỡ (sặc vần S) không phải “Xặc sỡ” (vần X).
-Từ điển Việt-Bồ-La: Hoa
sắc sỡ; nhiều màu sắc.
-Quốc âm
tự vị: Sặc sờ: có nhiều sắc xen lộn không đều. Lao xao đáy biếc sặc
sờ dòng xanh. Sỡ: sắc sỡ: Màu sắc khác nhau. Rỡ: Cùng
một nghĩa. Rắn hoa sắc sỡ: Rắn nhiều màu sắc khác
nhau.
-Việt nam
tự điển: “Sặc sờ: cũng như sặc
sỡ. Sặc sỡ: nói về nhiều màu, nhiều sắc không đều chen lẫn
nhau và khó coi: quần áo sặc sỡ.
“Muốn đúng
chính tả”:
-Sực: sực nhớ, sực nức, nó sực hết rồi.
*Sai: Từ
“Xực” vốn là chữ 吃(ngật) gốc Hán nghĩa là ăn uống nói chung. Khi Việt hóa
được đọc là “Xực” cũng chỉ ăn uống nhưng với nghĩa xấu, thô tục.
- TĐTViệt: Xực:
ăn [hàm ý thô tục] đồng nghĩa đớp, hốc, tọng.
-Từ điển
chính tả (1+2) đều ghi nhận “Xực”: Xực = ăn. Xực
hết nồi cơm nguội.
“Muốn đúng
chính tả”:
-Chun: có người dùng lầm thay
chui.
Về nghĩa từ vựng, GS Nguyễn Lân lầm chứ không phải “có người dùng lầm”. Ở
Thanh Hóa (ví dụ vùng Nông Cống) từ “chun” được dùng với nghĩa là chui. “Chun” cũng
được Việt Nam tự điển, TĐTViệt ghi nhận là phương ngữ với
nghĩa “chui”(chui ra chui vào).
“Muốn đúng chính tả”:
-Trun: dây TRun, trun giãn.
-Giãn: TRun giãn, giãn thợ.
*Sai: Dây CHun
(vần CH), không phải dây “trun” (vần TR); Chun
giãn không phải “Trun giãn”. Đây có vẻ
giống như trường hợp “đá bóng ra ngoài còn khó hơn đá vào trong”.
-Từ điển
tiếng Việt: “CHun. danh từ: dây chun [nói tắt] đứt
chun quần. sợi chun buộc hàng; động từ [vật có
khả năng co giãn] tự co lại, thu ngắn lại. sợi đã chun lại. đỉa chun
mình. “Mắt hắn chun ngay lại, miếng cám đắng ngắt và nghẹn bứ trong
cổ” (Kim Lân) đồng nghĩa: thun.
-Từ điển
chính tả (1+2) đều ghi nhận dây CHun, CHun
giãn.
Phần “trắc
nghiệm” trình độ chính tả của GS Nguyễn Lân trong cuốn sách được chính tác giả
xếp vào loại “từ điển chính tả” xin được tạm dừng ở đây. Nhiều vấn đề trong "Muốn
đúng chính tả" vẫn còn là câu chuyện dài. Chúng tôi xin được nói
đến vào một dịp khác.
Như vậy,
vẫn là cách làm ngược thường thấy của GS Nguyễn Lân: sách "Muốn
đúng chính tả" đã trở thành "Muốn sai chính tả"!
HTC
(Hết phần I)
Đón xem
phần II
Năm mươi năm sau
- Những sách đã dẫn và
tham khảo:
1,“Đại
Nam quấc âm tự vị”
(Dictionnaire ANNAMMITE) Huình Tịnh Paulus Của - Sài Gòn 1895.
2,Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam -
GS Nguyễn Lân (NXB Văn Hóa - 1989)
3,Việt Nam tự điển - Hội
Khai Trí Tiến Đức - Nhà in Trung Bắc Tân Văn - 1931 (bản Scan của
vietnamtudien.org )
4, Từ điển
An Nam-Lusitan-La tinh (Thường
gọi Từ điển Việt - Bồ - La) Alexandre De Rhodes - Phiên dịch: Thanh Lãng, Hoàng
Xuân Việt, Đỗ Quang Chính - NXB Khoa Học Xã Hội - 1991.
5, Hán
Việt tự điển - Thiều Chửu - NXB Thành phố Hồ Chí Minh - 2004.
6. Hán
Việt Từ điển - Đào Duy Anh biên soạn - Hãn Mạn Tử hiệu đính - NXB Trường
Thi - Sài Gòn 1957.
7. Từ điển
truyện Kiều-Đào Duy Anh-NXB Khoa học xã hội-1974.
8. Từ điển
chính tả-Hoàng Phê-NXB Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học-2006.
9.Từ điển
tiếng Việt-Hoàng Phê chủ biên-In lần thứ 5 có sửa chữa bổ sung-NXB Đà Nẵng-2013.
10.Từ điển
chính tả tiếng Việt-Nguyễn Thế Truyền-NXB Thanh Niên-2012.
11.Từ điển
từ láy tiếng Việt-Viện ngôn ngữ học-NXB Khoa học xã hội-2011.
Cùng nhiều loại từ điển,
nguồn sách báo khác.
Kỳ 6 Tiếng mẹ đẻ
(Phần 2)
Ở Phần I Tiếng mẹ đẻ, bạn đọc còn nhớ GS Nguyễn Lân giải thích từ Ngồn ngộn: “Nói người phụ nữ
trắng và đẹp: Cô
ta mới lớn lên trông ngồn ngộn”. Chúng tôi không đồng ý với cách giải thích này và cho rằng: Khi
nhìn phụ nữ mà thốt lên hai từ “ngồn
ngộn” chỉ có thể là cái nhìn chằm chằm vào bộ ngực lồ lộ, căng đầy lên chứ
không phải cách cảm nhận sắc đẹp nói chung. Nói cách khác, đó là cái nhìn thiên
về nhục dục hơn là sự rung động trước vẻ đẹp của một phụ nữ hay cô gái “mới lớn” “trắng và đẹp”.
Sau
đây, câu chuyện Tiếng mẹ đẻ của GS
Nguyễn Lân xin được tiếp tục:
-Trắng
ngồn ngộn Vừa trắng vừa mập mạp: Ngực anh ta trắng ngồn ngộn.
Người
Việt rất khó chấp nhận dùng từ “mập mạp”
(béo chắc, khỏe nói chung) để hình dung sự “ngồn
ngộn” (đầy lên, trông sướng mắt). Thứ hai, trước đó Giáo sư cho rằng từ “ngồn ngộn” đã bao hàm nghĩa “trắng”: “nói phụ nữ trắng mà đẹp”. Thế nhưng ở mục “trắng ngồn ngộn” GS lại dẫn bạn đọc đi theo cuộc “phiêu lưu” ngôn
từ khác. Đó là “nhan sắc” đàn bà bỗng thành vẻ đẹp đàn ông: “Ngực anh ta trắng ngồn ngộn”. Chúng tôi
cố lý giải: Có thể đây là bộ ngực của nhà vô địch thể hình "hạng nặng". Bởi thế, GS e rằng nếu
không dùng “ngồn ngộn” sẽ không lột tả hết được sự “vạm vỡ” của bộ ngực. Tuy nhiên, nghĩ đi rồi cũng nghĩ lại. Dùng “ngồn ngộn” để cảm nhận về bộ ngực kiểu Lý
Đức hay Phạm Văn Mách sợ rằng không “lành mạnh”. Vả lại, ngực các vị này thường
có màu đồng hun, bóng nhẫy, cuồn cuộn những múi cơ chắc nịch. Đâu có ngồn ngộn trắng, căng đầy, vẻ mềm mại, “ngon
ăn” khêu gợi như của giới nữ ? Có lẽ hợp lý hơn cả: Hình như GS đang nói đến bộ ngực trần của “người đẹp chuyển giới”.
Về hình thức đã là “cô” hoàn hảo với “núi đôi” “trắng ngồn ngộn”. Chỉ mỗi cái tên trong chứng minh thư vẫn còn là “anh ta” mà thôi !
4.Nấu nướng, ăn uống, cảm
nhận hương vị:
Người ta hay dùng từ
"cơm bữa" để nói những gì diễn ra thường xuyên, quá quen thuộc. Bởi
thế, dẫu không bao giờ vào bếp, nhưng khi ăn uống, ta vẫn biết gọi tên những món mình ăn là gì. Vậy sự
nhận biết từ bếp nấu đến bàn ăn của GS Nguyễn Lân thế nào ?
-Xào xáo
Nấu
thức ăn bằng dầu mỡ và mắm muối: Tính
anh ấy dễ dãi, vợ xào xáo thứ gì thì ăn thứ ấy.
Dầu mỡ, mắm muối
là cách nói khái quát những gia vị thiết yếu. Thế nên có rất nhiều món ăn nấu "bằng dầu mỡ mắm muối", cứ gì phải “xào xáo” ? Hơn nữa, Việt Nam không có món ăn nào gọi là
món “xào xáo”. Việc đưa ra định nghĩa
“xào xáo” nấu bằng những gia vị gì là
không đúng.
"Xào xáo"
theo nghĩa "vợ
xào xáo thứ gì ăn thứ ấy" là kiểu nấu qua loa, tùy tiện, nấu
cho nhanh, không thành món xào cũng
chẳng phải món xáo. Ví như cần dầu mỡ mà không cho dầu mỡ; cần cả mắm, muối
nhưng lại chỉ có muối. Hoặc giả món xào bao giờ cũng chỉ tạo một ít nước cốt. Khi
múc ra thì đọng một chút ở lòng đĩa để món ăn thêm đậm đà. Đằng này do vụng về
hoặc làm ẩu lại đổ “chõm” nước vào. Thế là canh
chẳng ra canh, xáo chẳng ra xáo, mà xào lại càng không phải. Bởi vậy, chỉ có
anh chồng nào tính "dễ dãi", (hay quá “yêu vợ” ?) thì “vợ xào xáo thứ gì” mới “ăn thứ ấy”.
-Xáo Nấu thịt với các gia vị: Ông ơi ông vớt tôi nao, Tôi có lòng nào ông
hãy xáo măng (cd); Mười voi không được
bát nước xáo (tng).
Giống
như “xào xáo”, từ “xáo” GS cũng giải thích rất mơ hồ !
Thịt kho tàu, kho nghệ hay nấu với cà chua, thêm mắm muối, hành, tỏi gì đó đều
có thể gọi là cách "nấu thịt với các
gia vị". Trong khi tính chất của món "xáo" phải có nhiều nước. Thế nên hai câu tiếp theo
trong bài ca dao mới là: Có xáo thì xáo
nước trong, Đừng xáo nước đục đau lòng cò con". Câu "Ba voi không được bát nước xáo"
cũng nói về món nấu phải có nhiều nước đấy, thưa GS !
Tham khảo: TĐTViệt (1): “Xáo: nấu
thịt với nhiều nước và các loại rau, gia vị riêng”.
-Béo ngấy. Thức ăn có nhiều mỡ quá.
-Béo ngậy. Như béo ngấy.
“Béo ngậy”
không thể đồng nghĩa (như) “béo ngấy”. "Béo ngậy" = Béo có vị
ngọt, bùi, dậy mùi thơm ngon quyện lẫn nhau (1). Còn “béo ngấy” = béo khiến người ta không muốn ăn nữa vì quá
nhiều mỡ (2). Cùng là “béo” cả nhưng nó khác nhau căn bản ở chỗ “ngậy” hay
ngấy. “Béo” (1) khiến cho ta muốn ăn, còn “béo” (2) lại khiến ta ngán đến tận
cổ.
Việt Nam tự điển (2):
“Ngấy. Chán vì mỡ, vì béo: Trông thấy mỡ mà ngấy; Ngậy. Nói
món đồ ăn béo thơm: Chân giò ăn
béo ngậy”
TĐTViệt: Ngấy: Có cảm giác sợ đối với một
loại thức ăn nào đó [thường là chất béo hay chất ngọt]. Ngậy: [món ăn] béo và thơm, ngon. lạc
ăn vừa ngậy vừa bùi; mùi cá nướng
thơm ngậy.
-Béo mầm. Béo và khoẻ.
Chưa
chính xác. Từ này không hàm ý béo khỏe. "Béo
mầm" = Béo mềm và mũm mĩm
những thịt mới đúng. Nó là kiểu béo cho sản phẩm thịt ngon của vật nuôi; và béo
do an nhàn sung sướng; béo chỉ để sướng bản thân (chứ không phải để có sức khỏe
lao động) trong câu ca dao: "Chồng
con là cái nợ nần, Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm".
-Nốc: Uống nhanh một cách tham lam (Rượu nốc lời ra hăng hái lạ (Tú Mỡ)
Chưa
chính xác. Uống ừng ực, tu ừng ực
cũng là kiểu uống nhanh, có vẻ tham lam. Ở đây "nốc" phải được hiểu là cách uống thô tục, vô độ; uống để thỏa mãn cơn nghiện thèm chứ không
phải để thưởng thức.
-Lạ miệng
Nói
món ăn mới được ăn lần đầu: Đến
Vịnh Hạ Long được ăn sò, lạ miệng ăn nhiều.
GS
hiểu không đầy đủ từ "lạ
miệng". Người ốm đắng miệng không muốn ăn. Nếu đổi món khác không
thường được ăn, hoặc đã lâu không ăn, “lạ
miệng” lại ăn được nhiều. Thế nên, nếu hiểu “lạ miệng” là món mới "ăn
lần đầu" như GS là phiến diện. TĐTViệt
giải nghĩa "Lạ miệng: Không thường được ăn hoặc lần đầu được ăn, cho nên có cảm giác lạ,
cảm thấy thích thấy ngon".
5.Động tác, tư thế, hành động, tính chất:
Có thể nói, không gì liên quan trực tiếp, gần gũi với ta bằng
những động tác, tư thế hàng ngày của chính ta. Ngay từ lúc chập chững, ta đã
phải "thực hành": ngã sấp, ngã ngửa, ngã bổ chửng...Suốt chặng đường
đời, đến khi về già lắm lúc cũng phải "ôn lại". Những hành động như “lẵng
nhẵng” chạy theo mẹ, ngồi vắt vẻo, “lắt lẻo” trên cành cây, “khều”, chọc ổi
cũng đã quen từ bé. Chính mẹ ta là người đầu tiên dạy cho ta gọi tên, phân biệt
những tư thế, động tác ấy.
Vậy,
GS Nguyễn Lân ?
-Ngã bổ chửng:
Ngã
đâm đầu xuống trước: Bị
trượt chân, ngã bổ chửng.
Giáo
sư hiểu sai hoàn toàn kiểu ngã "bổ
chửng": ngã ngửa thành ngã sấp ! TĐTViệt:
"Bổ chửng [ngã] ngửa người ra vì bất ngờ bị trượt.
ngã bổ chửng; trượt chân bổ chửng".
-Ngã chúi
Ngã đầu đập xuống trước.
Không
chính xác. "Ngã chúi" là
kiểu ngã về đằng trước nhưng đầu lộn, cắm, chúi từ trên cao xuống đất
hoặc sông, suối, ao hồ... Còn “ngã đầu
đập xuống trước” thì ngã về trước,
sau, hai bên, tứ phía đều có thể dẫn đến... “đập đầu xuống trước”.
-Lẵng nhẵng
Cứ
kéo dài, không giải quyết được: công
việc lẵng nhẵng
thế này, sốt ruột lắm.
-Lẵng
nhà lẵng nhẵng Lôi thôi kéo dài, không giải quyết được:
Công việc cứ lẵng nhà lẵng nhẵng mãi, chưa xong.
Hình
như soạn giả nhầm từ “lẵng nhẵng” với
lằng nhằng thì phải ? Bởi vì nếu ta thay “lẵng nhẵng”
trong cách diễn đạt của GS: “công việc lẵng nhẵng
thế này, sốt ruột lắm” bằng : công việc lằng
nhằng thế này, sốt ruột lắm, lúc này mẹ đẻ ta mới thực sự hiểu
ý ta muốn nói gì.
Hãy
xem Việt Nam tự điển phân biệt:
- “Lẵng nhẵng: Theo
lẽo đẽo vướng víu: đàn con theo
lẵng nhẵng”.
-“Lằng nhằng: Lôi
thôi dai dẳng: Việc lằng nhằng
mãi không xong”.
TĐTViệt giải nghĩa: "Lẵng nhẵng: Ở tình trạng không chịu rời ra, dứt ra, làm
vướng víu mãi. Lẵng nhẵng chạy
theo sau".
-Nằm.
Đặt
mình trên một vật dài: Ăn cơm
nguội, nằm nhà ngoài.
Giải
thích từ “nằm” sao mà cầu kỳ, nguyên
tắc đến thế ? Và quan trọng nó không đúng ! Nếu chỗ nằm dài rộng thì nằm ườn,
nằm thẳng cẳng. Chỗ nằm ngắn, hẹp, tròn thì nằm co, nằm cong. Nằm mèo xó bếp; Nằm đất với mụ hàng hương, hơn nằm giường
với mụ hàng ruốc,... đều là nằm
cả mà thôi.
-Lắt lẻo
Lung
lay, không vững: Lắt lẻo cành
thông cơn gió thốc (HXHương) Ngồi lắt
lẻo thế này ngã bây giờ.
Một
cái cọc chôn dưới đất "lung lay,
không vững" nhưng không bao giờ được gọi là "lắt lẻo". "Lắt
lẻo" (hay vắt vẻo) có sự hình dung về độ cao, tư thế chênh vênh, dễ
rơi, dễ ngã. TĐTViệt: “Lắt lẻo: Trạng
thái đung đưa trên cao do không được cố định chắc vào điểm tựa. Ngồi lắt lẻo trên
cành cây. Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi (Cd)”.
-Khều
đgt: 1. Lấy cái gì từ trong ra ngoài: Khều ốc 2. Lấy
cái gì từ trên xuống dưới: khều
ổi; khều táo 3. Lấy cái gì từ ngoài vào: Khều
bèo.
Giáo
sư giải thích có vẻ rất thành thạo, rõ ràng, mạch lạc. Nhưng thực chất đó là sự
lúng túng trong mô tả, hiểu nghĩa của từ. Đã “lấy” (cầm lấy vật gì trong tầm tay) sao còn gọi là “khều” (cách lấy vật gì ngoài tầm tay với). Vậy, lấy điện thoại “từ trong” túi quần ra; lấy cuốn sách “từ trên” giá xuống; lấy đôi giầy “từ ngoài” cửa vào có gọi là “khều” được không thưa GS ? Sau đây là
giải thích của TĐTViệt: “Khều: Dùng que, sào hoặc chân cho mắc vào một vật rồi đưa, kéo vật đó về phía mình: Lấy que khều ổi, Khều quả
bóng vào bờ”.
-Cụng
đầu
Ngoài
nghĩa đen, còn có nghĩa như chạm trán: Hai chàng tình địch cụng đầu nhau ở nhà cô ả.
Có
vẻ như Giáo sư lại nhầm từ “cụng đầu”
với “đụng đầu”
? Vì “chạm trán” hay “đụng đầu” chỉ trạng thái đối kháng, thù địch. Còn
động tác “cụng đầu” giữa hai người
lại là cách thể hiện tình cảm yêu thương, hoặc yêu đương giữa người với người. Thế
nên trong bài “Khoảnh khắc nồng thắm của
vợ chồng Obama” mới đăng bức ảnh hai vị này “cụng đầu” nhau và chú thích: “Vợ
chồng Obama cụng đầu nhau trước khi ông phát
biểu trước đám đông ủng hộ ở Bang Michigan” (Theo Vietbao.vn). Bởi vậy, "hai chàng tình địch” gặp nhau ở "nhà cô ả", thay vì "đụng đầu", “chạm
trán” mà lại trở ra “cụng
đầu” với nhau, nhiều khả năng là “GAY” rồi !
-Cứa
Cắt
bằng cách đưa đi đưa lại nhiều lần một con dao
không được sắc. Cứa mãi mà không đứt được cái chão.
“Cứa”
có khi do cả hai nguyên nhân: con dao thì
cùn mà vật cần cắt, cứa lại quá dai ! Ví như dao sắc đến mấy mà dùng
để cắt sợi dây da bò thì vẫn phải “cứa” đi, “cứa” lại như thường. Ngược lại, con dao tuy cùn nhưng với những
thứ như sống chuối, tàu dọc mùng, vẫn
có thể cắt xoẹt một cái mà không cần
phải cứa. Mặt khác, mục đích “cứa” có
khi còn do cả nguyên nhân thứ ba: cần cắt chính xác điểm nào đó. Thế nên, ban
đầu “cứa” (đưa đi đưa lại từ từ) cho
lưỡi dao bám vào điểm cần cắt rồi mới “xoẹt” một cái. Lại nữa: không dứt khoát
cứ phải dùng "một con dao" mới là “cứa”.
Đây là động tác tối cổ loài người. Trước khi biết đến kim loại, người nguyên
thủy đã dùng các công cụ ghè đẽo thô sơ bằng đá như mảnh tước, troppơ để cứa, cắt xẻ thịt thú rừng. Cho đến bây giờ,
khi không có dụng cụ (dao, kéo), ta
vẫn học cách sử dụng các công cụ thô
sơ của tổ tiên như mảnh sành, mảnh chai,
cật nứa mỏng hoặc bất cứ vật gì có cạnh
sắc để “cứa”. Thế nên, chúng tôi đồng ý với cách giải nghĩa tổng quát của TĐTViệt: “Cứa:
làm
đứt bằng vật có cạnh sắc, thường bằng cách day đi day lại nhiều lần trên bề
mặt”.
Nói thêm:
Cắt và cứa là hai từ Hán-Việt đã
được Việt hóa hoàn toàn. Cắt vốn là
chữ cát 割=cắt đứt (trong
từ cát cứ 割据-chia cắt,
chiếm giữ). “Cứa”-
biến âm của cư 鋸 (hoặc
cứ)
nghĩa là: cưa- cái cưa (theo quy luật biến âm lư thành lừa-con lừa; cự thành cựa-cựa gà...). Đáng chú ý, tuy vay mượn nhưng mẹ đẻ
chúng ta rất sáng tạo trong quá trình Việt hóa. Đó là dùng chữ cư 鋸
trong
cưa
gỗ biến âm thành “cứa” để diễn
tả động tác “cứa” (đưa đi đưa lại
công cụ như thể là cưa, mà lại không phải cưa). Qua đó phân biệt rõ giữa hai
động tác cưa, cắt và cứa. Trong khi tiếng Hán, động tác cứa
được dùng bởi từ ghép đẳng lập cát thiết
割切(cát=cắt
đứt; thiết=cắt). Còn cắt nói chung thì
gọi là thiết 切; cắt
bằng kéo thì gọi là tiễn thiết 剪切(tiễn=cái
kéo).
6. Một số ngôn từ giao tiếp hàng ngày:
Ban đầu, chúng ta học
tiếng mẹ đẻ theo cách của một con vẹt. Nhắc lại nguyên xi lời mẹ nói mà không hiểu gì.Chính cách học bản năng này
khiến khi lớn lên tiếng mẹ thấm sâu vào máu thịt. Những từ ta thốt lên đầu tiên
trong đời chính là ngôn từ giao tiếp. Bởi vậy, đối với bất cứ ngôn ngữ nào,
tiếng mẹ đẻ hay ngôn ngữ thứ hai, trình độ giao tiếp hàng ngày được xem là cơ
bản, phổ thông, dễ dàng nhất, trước khi đến với ngôn ngữ chuyên ngành, nâng
cao.
Vậy GS Nguyễn Lân đã hiểu
hết những từ thông dụng này ?
-Cho vay Chuyển tiền hay thóc của mình cho
người khác dùng trong một thời gian và đòi
phải trả lãi.
Thực
ra trong ngôn ngữ hàng ngày, chúng ta vẫn nói đi vay gạo về nấu mà không nói đi mượn
gạo. Hoặc nói vay tiền của nhau
với nghĩa chỉ phải hoàn trả bằng giá trị tương đương đấy thôi. Cách hiểu của GS
Nguyễn Lân chỉ đúng khi đó là cụm từ cho vay
lấy lãi chứ không phải hai từ “cho
vay” đơn thuần.
Việt Nam tự điển: “Vay: mượn tiền hay
vật gì của ai để rồi phải trả lại nguyên số: Vay tiền, vay gạo”
TĐTViệt: “Vay: mượn tiền hay cái gì của người khác để sử dụng với điều
kiện sẽ trả lại bằng cái cùng loại có số lượng hoặc giá trị tương đương. Vay
tiền; vay tạm mấy cân gạo”.
Từ điển học sinh (NXB Giáo dục 1971) Vay.
Mượn
tạm (tiền; đồ vật) để dùng sau sẽ trả lại thứ tương đương:
Vay ít tiền mua sách”.
Thế
nên trong phần lời giới thiệu băng nhạc “Chế Linh Tình bơ vơ” (còn gọi Chế
Linh 18 ca khúc) mới có đoạn: “...Tình bơ vơ, một nhạc phẩm của nhạc sĩ Lam Phương được vay làm chủ đề”. Từ vay ở đây là vay mượn, vay đồng nghĩa mượn.
-Chôn chặt.
Để
sâu vào trong đất:Chôn chặt văn
chương ba thước đất (HX Hương)
“Để sâu vào
trong đất” mà không lấp đất lại thì sao được gọi là chôn
? Như thế gọi là "để" dưới
hố sâu thì đúng hơn. Huống gì ở đây là “chôn
chặt” cơ mà ? Từ điển cần chính xác đầy đủ: Chôn chặt = chôn sâu và lèn
chặt. Ngoài ra từ “chôn chặt” còn
được hiểu theo nghĩa bóng “chôn chặt trong lòng” với ý giấu kín, không bao giờ
để lộ.
Tham
khảo: Việt Nam tự điển: “Chôn:
đào đất mà vùi vật gì xuống: chôn
xác, chôn của, chôn cột...”
TĐTViệt:
“Chôn: đặt xuống lỗ đào dưới đất và lấp đất lại”
-Chơi gái. Có quan hệ sinh lý với phụ nữ (thông tục):
Hắn có học hành gì đâu, chỉ nghĩ đến
chuyện chơi gái mà thôi.
“Gái” ở đây không thể hiểu là “phụ nữ” nói chung mà là hạng gái điếm, kỹ nữ (mà gần đây còn gọi bớp, ca ve, gái gọi, gái bao, v.v...)
Còn “quan hệ sinh lý” là nói nhu cầu
chính đáng của đời sống tình dục và hàm chứa hoạt động duy trì nòi giống của
con người. Trong khi “chơi gái” lại
nói về kiểu chơi bời trác táng, thiên về trải nghiệm nhục dục, thỏa mãn xác
thịt. Kẻ đi “chơi gái” thì phải có “gái chơi”. Thế nên, gái điếm, kỹ nữ còn
được gọi là “gái làng chơi” là vậy.
Về từ “chơi gái”, trong bài
Đọc lướt «Từ điển từ và ngữ Việt Nam» của Nguyễn Lân
An Chi bình luận ngắn gọn như sau: “Cứ như lời giảng trên đây của ông Nguyễn Lân thì, trừ những đàn ông bất lực, có ông chồng nào lại chẳng “chơi gái” (Mỗi lần...với vợ là một lần “có quan hệ sinh lý với phụ nữ”)
Đọc lướt «Từ điển từ và ngữ Việt Nam» của Nguyễn Lân
An Chi bình luận ngắn gọn như sau: “Cứ như lời giảng trên đây của ông Nguyễn Lân thì, trừ những đàn ông bất lực, có ông chồng nào lại chẳng “chơi gái” (Mỗi lần...với vợ là một lần “có quan hệ sinh lý với phụ nữ”)
- Chơi hoa. Giao thiệp với phụ nữ. Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa (Kiều)
Ở đây có sự “ngây thơ” trong ý nghĩ, hay là sự thiếu hụt
về vốn từ tiếng mẹ đẻ ? “Hoa” thường
được ví với phụ nữ. Nhưng “hoa” trong
“chơi hoa” lại ám chỉ gái lầu xanh,
kỹ nữ, đĩ điếm. Và “chơi” ở đây không
phải “giao thiệp” hay “quan hệ” giao
tiếp mà là “chơi gái” đó thưa soạn
giả. Việt Nam tự điển giải nghĩa thứ tư của “chơi”: “Nói về cách du đãng: chơi cờ
bạc, chơi gái”. Từ điển Truyện Kiều - Đào Duy Anh chú giải cụ thể: “Chơi hoa: Lấy hoa làm vui; nghĩa bóng là chơi gái. Vd: Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa”(Kiều)
Giáo sư Nguyễn Lân là tác giả cuốn sách “Tôi yêu tiếng Việt” (NXB Khoa học xã
hội-1995). Thật đáng thương cho anh chàng nào đi tán gái, lại học mót được hai
từ “chơi hoa” trong từ điển của GS
Nguyễn Lân rồi tự tin buông lời “có cánh”: Anh
chơi hoa đã nhiều, nhưng em mới là
bông hoa đẹp nhất mà anh từng... (!)
Thật
là “Yêu nhau như thế bằng mười phụ nhau”
!
Tham khảo: Có ý kiến cho rằng: Nguồn
gốc từ “hoa” trong “chơi
hoa”, “bán hoa” xuất phát từ cách
mời khách của gái làng chơi xưa kia bên Tàu. Có khách đến “chơi”. Một nhóm các
cô gái lầu xanh quần áo, trang điểm thướt ta, niềm nở ra chào. Mỗi cô cầm trên
tay một cái khay. Mỗi khay đựng một bông hoa, màu sắc, chủng loại hoa khác nhau.
Thế rồi múa hát vòng quanh. Đong đưa, uốn éo, đầu mày cuối mắt đưa tình. Khách
cảm thấy ưng cô nào sẽ đưa tay chọn lấy bông hoa để trong khay của cô đó. Chủ
khách hiểu ý cùng lui vào “hậu trường”. Kiểu “giới thiệu”, “chọn hàng tao nhã”
này đã sinh ra hai từ cũng rất “tao nhã” là kẻ “bán hoa” và người “chơi hoa” (điều này HTC đọc được từ hồi nhỏ, nay không
còn nhớ ở tài liệu nào. Xin chép lại đại khái nội dung hầu bạn đọc. Rất mong
các bậc cao minh chỉ bảo, phản hồi)
-Dáng vóc. Thân hình khỏe mạnh.
Sai
! "Dáng vóc” chỉ ngoại hình cao thấp, gầy, béo. Ai cũng
có dáng vóc của người đó, không cứ gì người "thân
hình khỏe mạnh". TĐTViệt: “Dáng vóc Dáng người, nhìn về mặt thân hình to nhỏ,
cao thấp”.
-Lạ nhà
Đến
một nơi chưa bao giờ đến: Lạ nhà,
cả đêm không sao ngủ được.
"Lạ
nhà" có khi là chỗ đã từng đến, thậm chí đến
nhiều lần, nhưng ít khi hoặc lần đầu tiên ngủ lại. Một số tác động như: không gian, giường chiếu, mùi vị, âm thanh
lạ xung quanh, sự gò bó, thiếu tự do thoải mái khiến người ta cảm thấy khó
ngủ, gọi là lạ nhà. TĐTViệt giải nghĩa "Lạ nhà: Không quen nhà, không quen chỗ. Lạ nhà không ngủ được".
-Lên mâm:
Đến
lượt mình phải làm việc gì trước quần chúng (thtục) Sắp đến lượt mình phải lên mâm rồi.
Cái
tính hay nói ngược của Giáo sư thiệt lạ ! Đúng ra là "lên thớt" chứ,
sao lại “lên mâm” ? Được “lên mâm” lại sướng quá ! "Lên thớt" là khẩu ngữ ý nói
bản thân sắp phải trải qua, đối mặt một thử thách gì đó khó khăn thực sự. Các
bạn trẻ hay dùng từ này để nói về việc thi
cử, phỏng vấn tìm việc.v,v...
-Lắng đọng:
Dồn góp dần dần lại một nơi:
Những tình cảm sâu đậm, lắng đọng trong
lòng.
Hiểu
như GS thành vun lại hoặc dồn lại, chứ không phải "lắng đọng". Vì "lắng đọng" theo nghĩa đen là
những vật nhỏ lắng xuống đáy nước theo chiều đứng, chứ không phải sự "dồn góp" đa chiều về "một nơi". TĐTViệt: "Lắng đọng: 1.Lắng dần xuống và đọng lại. Phù sa lắng đọng. 2.Lưu lại, lắng lại trong chiều
sâu tình cảm. hình ảnh lắng đọng
trong tâm tưởng".
-Xăm xắp
Nói
nước gần đến miệng vật đựng hoặc đến gần mặt đê: Đổ nước xăm xắp miệng nồi. Nước lụt đã đến xăm xắp mặt đê.
Nếu
"nước gần đến miệng vật đựng"
hoặc gần mặt đê người ta nói ngấp nghé
chứ không nói nước "xăm xắp". Khi nói nước "xăm xắp" có nghĩa nó đã ngập lên rồi nhưng chỉ ở độ vừa lút nhiều vật gì đó đang nằm trong
vùng (hoặc dụng cụ) chứa nước. Ví dụ nước xăm xắp mặt ruộng là nước chỉ vừa
ngập các hòn đất nhấp nhô và cây cỏ trong ruộng (có chỗ chưa lút hẳn). Với mặt
đê, nếu nói nước "xăm xắp"
thì có nghĩa nước đã bắt đầu tràn lên đê rồi, nhưng chưa đủ ngập sâu và chảy
mạnh. TĐTViệt: "Xăm xắp: (nước) ở mức không đầy lắm, chỉ đủ phủ kín khắp bề mặt. Nước xăm xắp mặt ruộng.
-Mù trời
Nói
trời nhiều mây đen kịt: Mù trời
mới bắt được két. Hiện nay mù trời, có lẽ sắp mưa.
Giáo
sư nhầm "mù trời" với kiểu
trời động giông, "mây đen kịt" kéo đến báo hiệu "sắp mưa". “Mây”
và “mù” là hai hiện tượng khác nhau. "Mù trời" là kiểu sương mù giăng
phủ khắp không gian (Thế nên, người ta mới lợi dụng màn sương này để đánh bắt,
bẫy con két) Khi sương mù dày đặc có khi cũng sẽ rơi xuống thành hạt như mưa,
nhưng đó là "quá mù ra mưa". Còn động giông “mây đen kịt” kéo đến mới báo hiệu một trận mưa lớn.
Sự
lệch lạc trong tiếng mẹ đẻ của Nhà biên soạn từ điển khiến cho những từ rất phổ
thông trong tiếng Việt cũng trở nên “bất đồng” như vậy đó.
-Lụng thụng. Nói quần áo rộng quá.
Thực
ra“lụng thụng” là nói quần áo vừa rộng, vừa dài mới đúng. Nếu chỉ là rộng thôi phải là “thùng thình” chứ không phải“lụng thụng”.
-Quần ống sớ: (Ống sớ là vỏ hình hộp rất phẳng dùng để đựng sớ cúng trước
khi đốt) Quần là có nếp rất phẳng.
Không
hề có loại quần nào có ống “hình hộp”
(lập phương). Giáo sư đã hình dung sai hình dáng cái ống sớ. Bởi gọi “ống sớ” nhưng nó tựa cái phong bì hình
chữ nhật bẹt. "Ống sớ" khác
phong bì thư ở chỗ một đầu dán kín, đầu kia có miệng bỏ sớ vào và gấp mép lại. Theo
daitudien.net “quần ống sớ” là “loại
quần dân tộc Việt Nam xưa kia của người đàn ông bằng vải trúc bâu trắng, ống
rộng, thẳng, sau mỗi lần giặt phải hồ, là phẳng cho cứng mặt vải. Khi mặc ống
thẳng như hai ống đựng sớ”.
-Chằn chặn. Từ dùng sau từ bằng và từ vuông để tỏ ý tuyệt đối: Đôi đũa bằng chằn chặn; Cái bàn vuông chằn
chặn.
Không
hẳn chỉ đứng sau từ bằng và từ vuông. Vậy đều chằn chặn thì sao ? Mặt khác lấy ví dụ “Cái bàn vuông chằn chặn” là chưa chính xác.Vì từ “chằn chặn” ý chỉ những vật gì đó có
cùng hình dáng, kích thước, khi đặt cạnh nhau thì thấy bằng, đều chằn chặn.
-Lây lất:
lộn
xộn và bừa bãi: sống lây lất ở
vỉa hè.
Sống
ở nhà đường hoàng, chỉ tội đồ đạc “lộn
xộn, bữa bãi” không ai có thể gọi là “lây
lất”. TĐTViệt: “Lay lắt như Lây lất: Ở trạng thái tồn tại một cách yếu
ớt, mỏng manh, không ổn định kéo dài. Lay lắt như ngọn đèn trước gió; sống lay lắt qua ngày.
-Thúng thắng:
Nói
ho từng cơn một.
Ho
từng tiếng một khác hẳn với “ho từng cơn một”. Chính xác ho“thúng thắng”, hay húng hắng là ho từng tiếng ngắt quãng, lúc nhặt lúc khoan chứ không
thành cơn. TĐTViệt: “Thúng thắng
như húng hắng [ho] từng tiếng nhẹ, ngắn và thưa”.
-Ngắn gọn
Nói
bài văn không dài và không rườm rà: Văn
của người thường ngắn gọn (TrChinh)
Giáo
sư quen kiểu giải nghĩa từ vựng rất sai lầm. Đó là chỉ căn cứ nghĩa của từ
trong văn cảnh ví dụ cụ thể nào đó. Cách làm này đã triệt tiêu sự phong phú, đa
dạng nghĩa của từ. “Ngắn gọn” đâu
phải giành riêng để nói về bài văn ngắn gọn ? Vậy cuộc họp “ngắn gọn”, câu chuyện “ngắn
gọn”, câu hỏi “ngắn gọn”, câu trả
lời “ngắn gọn” thì sao ?
-Nghiện ngập:
Nghiện
thuốc phiện: vì nghiện ngập anh ta
phải bán cả nhà.
“Nghiện ngập” cũng
không phải chỉ nói “nghiện thuốc phiện”.Chúng
tôi đồng ý với cách giải nghĩa ngắn gọn, chính xác của TĐTViệt: “Nghiện ngập: Nghiện
nói khái quát, nghiện ngập rượu
chè”.
-Xâu chuỗi Từ dùng trong phong trào cải cách ruộng đất
là bắt liên lạc với nhiều bần cố nông sau khi đã bắt rễ với một người cốt cán.
Đó là cách hiểu từ “xâu chuỗi” do trải nghiệm nào đó của
Giáo sư. Còn “xâu chuỗi” trong tiếng
Việt được hiểu là: “tập hợp liên kết lại thành một chuỗi, một
tuyến. Xâu chuỗi các sự kiện”
(TĐTViệt)
-Cầy Con chó dùng để ăn thịt: Chén
một bữa thịt cầy.
“Cầy” không
phải “chuyên dùng” để gọi “con chó dùng
để ăn thịt”. Cách hiểu của soạn giả xuất phát từ các tấm biển ở cửa hàng
“Cầy tơ” hoặc “Thịt cầy 7 món” chăng ? Thế nhưng, người ta vẫn gọi các món từ“con chó dùng để ăn thịt” là dồi chó, chả chó, chứ không gọi là dồi cầy, chả cầy. Thực ra cày (cầy) là cách gọi khác chỉ con chó
(bất kể để nuôi hay làm thịt) ở nhiều địa phương. Riêng vùng nông thôn Thanh
Hóa như các huyện Quảng Xương, Tĩnh Gia, Nông Cống, người ta gọi con chó là con cày. Mãi đến khoảng vài chục năm gần
đây, cách gọi con chó mới phổ biến.
Tất
cả những từ, ngữ chúng tôi nêu ra trên đây có tới gần trăm phần trăm là từ
thuần Việt hoặc đã Việt hóa hoàn toàn và rất thông dụng trong đời sống hàng
ngày. Thế nhưng, sự thiếu hụt về vốn từ tiếng mẹ đẻ không chỉ khiến GS Nguyễn
Lân hiểu sai hàng loạt từ ngữ trong “Từ
điển từ và ngữ Việt Nam” mà còn trở thành nguyên nhân chính trong việc giải
thích sai rất nhiều thành ngữ, tục ngữ trong sách “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam” mà chúng tôi từng nêu.
“Một ngàn năm độ hộ giặc Tàu, Một trăm năm đô
hộ giặc Tây (7) Tiếng mẹ đẻ của ta mười phần, đã
mất tới hơn nửa chẳng còn thuần hậu. Những từ, ngữ ta vừa nói trên thuộc số ít
ỏi “đồ tư trang” vô cùng quý báu của Mẹ Việt Nam “thời con gái”. Thế mà Của riêng còn một chút này, Chẳng cầm cho
vững lại giày cho tan (8). Giống như Mẹ, tiếng mẹ đẻ mỗi người
chỉ có một. Tiếng mẹ đẻ là nền tảng ngôn ngữ cơ bản, hành trang vô cùng quan
trọng để chúng ta bước vào thế giới tri thức, trước khi đến với ngôn ngữ thứ
hai. Giáo sư Nguyễn Lân chưa hiểu hết tiếng mẹ đẻ, chưa dùng đúng tiếng dân
tộc. Việc GS trong biên soạn ra các loại Từ điển “rất có hại cho tiếng Việt”(9)
là điều hoàn toàn dễ hiểu.
HTC
Kỳ
sau
Một đời chính tả
Học sai nên hành sai
Một số tài liệu tham
khảo và chú thích:
1.Từ điển tiếng Việt-Hoàng
Phê chủ biên-NXB Đà Nẵng-2013
2.Từ điển từ láy tiếng
Việt-Hoàng Văn Hành chủ biên-NXB khoa học xã hội-2011.
3.Việt Nam tự điển-Hội
Khai trí Tiến đức-vietnamtudien.org
4.Từ điển Việt Hán-NXB
Giáo dục-2003.
5.Việt ngữ tinh nghĩa từ
điển-Long Điền-Nguyễn Văn Minh-NXB Quảng Vạn Thành-1950.
6. Ngữ pháp tiếng Việt-Diệp
Quang Ban-NXB Giáo dục 2013.
7. Lời ca khúc: “Gia tài của
Mẹ”-Trịnh Công Sơn.
8. Lẩy Kiều: “Chữ trinh còn
một chút này, Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan”.
9. Chữ của Lê Mạnh Chiến trong bài Hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt
Kỳ 6 Tiếng mẹ đẻ
(Phần 2)
Ở Phần I Tiếng mẹ đẻ, bạn đọc còn nhớ GS Nguyễn Lân giải thích từ Ngồn ngộn: “Nói người phụ nữ
trắng và đẹp: Cô
ta mới lớn lên trông ngồn ngộn”. Chúng tôi không đồng ý với cách giải thích này và cho rằng: Khi
nhìn phụ nữ mà thốt lên hai từ “ngồn
ngộn” chỉ có thể là cái nhìn chằm chằm vào bộ ngực lồ lộ, căng đầy lên chứ
không phải cách cảm nhận sắc đẹp nói chung. Nói cách khác, đó là cái nhìn thiên
về nhục dục hơn là sự rung động trước vẻ đẹp của một phụ nữ hay cô gái “mới lớn” “trắng và đẹp”.
Sau
đây, câu chuyện Tiếng mẹ đẻ của GS
Nguyễn Lân xin được tiếp tục:
-Trắng
ngồn ngộn Vừa trắng vừa mập mạp: Ngực anh ta trắng ngồn ngộn.
Người
Việt rất khó chấp nhận dùng từ “mập mạp”
(béo chắc, khỏe nói chung) để hình dung sự “ngồn
ngộn” (đầy lên, trông sướng mắt). Thứ hai, trước đó Giáo sư cho rằng từ “ngồn ngộn” đã bao hàm nghĩa “trắng”: “nói phụ nữ trắng mà đẹp”. Thế nhưng ở mục “trắng ngồn ngộn” GS lại dẫn bạn đọc đi theo cuộc “phiêu lưu” ngôn
từ khác. Đó là “nhan sắc” đàn bà bỗng thành vẻ đẹp đàn ông: “Ngực anh ta trắng ngồn ngộn”. Chúng tôi
cố lý giải: Có thể đây là bộ ngực của nhà vô địch thể hình "hạng nặng". Bởi thế, GS e rằng nếu
không dùng “ngồn ngộn” sẽ không lột tả hết được sự “vạm vỡ” của bộ ngực. Tuy nhiên, nghĩ đi rồi cũng nghĩ lại. Dùng “ngồn ngộn” để cảm nhận về bộ ngực kiểu Lý
Đức hay Phạm Văn Mách sợ rằng không “lành mạnh”. Vả lại, ngực các vị này thường
có màu đồng hun, bóng nhẫy, cuồn cuộn những múi cơ chắc nịch. Đâu có ngồn ngộn trắng, căng đầy, vẻ mềm mại, “ngon
ăn” khêu gợi như của giới nữ ? Có lẽ hợp lý hơn cả: Hình như GS đang nói đến bộ ngực trần của “người đẹp chuyển giới”.
Về hình thức đã là “cô” hoàn hảo với “núi đôi” “trắng ngồn ngộn”. Chỉ mỗi cái tên trong chứng minh thư vẫn còn là “anh ta” mà thôi !
4.Nấu nướng, ăn uống, cảm
nhận hương vị:
Người ta hay dùng từ
"cơm bữa" để nói những gì diễn ra thường xuyên, quá quen thuộc. Bởi
thế, dẫu không bao giờ vào bếp, nhưng khi ăn uống, ta vẫn biết gọi tên những món mình ăn là gì. Vậy sự
nhận biết từ bếp nấu đến bàn ăn của GS Nguyễn Lân thế nào ?
-Xào xáo
Nấu
thức ăn bằng dầu mỡ và mắm muối: Tính
anh ấy dễ dãi, vợ xào xáo thứ gì thì ăn thứ ấy.
Dầu mỡ, mắm muối
là cách nói khái quát những gia vị thiết yếu. Thế nên có rất nhiều món ăn nấu "bằng dầu mỡ mắm muối", cứ gì phải “xào xáo” ? Hơn nữa, Việt Nam không có món ăn nào gọi là
món “xào xáo”. Việc đưa ra định nghĩa
“xào xáo” nấu bằng những gia vị gì là
không đúng.
"Xào xáo"
theo nghĩa "vợ
xào xáo thứ gì ăn thứ ấy" là kiểu nấu qua loa, tùy tiện, nấu
cho nhanh, không thành món xào cũng
chẳng phải món xáo. Ví như cần dầu mỡ mà không cho dầu mỡ; cần cả mắm, muối
nhưng lại chỉ có muối. Hoặc giả món xào bao giờ cũng chỉ tạo một ít nước cốt. Khi
múc ra thì đọng một chút ở lòng đĩa để món ăn thêm đậm đà. Đằng này do vụng về
hoặc làm ẩu lại đổ “chõm” nước vào. Thế là canh
chẳng ra canh, xáo chẳng ra xáo, mà xào lại càng không phải. Bởi vậy, chỉ có
anh chồng nào tính "dễ dãi", (hay quá “yêu vợ” ?) thì “vợ xào xáo thứ gì” mới “ăn thứ ấy”.
-Xáo Nấu thịt với các gia vị: Ông ơi ông vớt tôi nao, Tôi có lòng nào ông
hãy xáo măng (cd); Mười voi không được
bát nước xáo (tng).
Giống
như “xào xáo”, từ “xáo” GS cũng giải thích rất mơ hồ !
Thịt kho tàu, kho nghệ hay nấu với cà chua, thêm mắm muối, hành, tỏi gì đó đều
có thể gọi là cách "nấu thịt với các
gia vị". Trong khi tính chất của món "xáo" phải có nhiều nước. Thế nên hai câu tiếp theo
trong bài ca dao mới là: Có xáo thì xáo
nước trong, Đừng xáo nước đục đau lòng cò con". Câu "Ba voi không được bát nước xáo"
cũng nói về món nấu phải có nhiều nước đấy, thưa GS !
Tham khảo: TĐTViệt (1): “Xáo: nấu
thịt với nhiều nước và các loại rau, gia vị riêng”.
-Béo ngấy. Thức ăn có nhiều mỡ quá.
-Béo ngậy. Như béo ngấy.
“Béo ngậy”
không thể đồng nghĩa (như) “béo ngấy”. "Béo ngậy" = Béo có vị
ngọt, bùi, dậy mùi thơm ngon quyện lẫn nhau (1). Còn “béo ngấy” = béo khiến người ta không muốn ăn nữa vì quá
nhiều mỡ (2). Cùng là “béo” cả nhưng nó khác nhau căn bản ở chỗ “ngậy” hay
ngấy. “Béo” (1) khiến cho ta muốn ăn, còn “béo” (2) lại khiến ta ngán đến tận
cổ.
Việt Nam tự điển (2):
“Ngấy. Chán vì mỡ, vì béo: Trông thấy mỡ mà ngấy; Ngậy. Nói
món đồ ăn béo thơm: Chân giò ăn
béo ngậy”
TĐTViệt: Ngấy: Có cảm giác sợ đối với một
loại thức ăn nào đó [thường là chất béo hay chất ngọt]. Ngậy: [món ăn] béo và thơm, ngon. lạc
ăn vừa ngậy vừa bùi; mùi cá nướng
thơm ngậy.
-Béo mầm. Béo và khoẻ.
Chưa
chính xác. Từ này không hàm ý béo khỏe. "Béo
mầm" = Béo mềm và mũm mĩm
những thịt mới đúng. Nó là kiểu béo cho sản phẩm thịt ngon của vật nuôi; và béo
do an nhàn sung sướng; béo chỉ để sướng bản thân (chứ không phải để có sức khỏe
lao động) trong câu ca dao: "Chồng
con là cái nợ nần, Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm".
-Nốc: Uống nhanh một cách tham lam (Rượu nốc lời ra hăng hái lạ (Tú Mỡ)
Chưa
chính xác. Uống ừng ực, tu ừng ực
cũng là kiểu uống nhanh, có vẻ tham lam. Ở đây "nốc" phải được hiểu là cách uống thô tục, vô độ; uống để thỏa mãn cơn nghiện thèm chứ không
phải để thưởng thức.
-Lạ miệng
Nói
món ăn mới được ăn lần đầu: Đến
Vịnh Hạ Long được ăn sò, lạ miệng ăn nhiều.
GS
hiểu không đầy đủ từ "lạ
miệng". Người ốm đắng miệng không muốn ăn. Nếu đổi món khác không
thường được ăn, hoặc đã lâu không ăn, “lạ
miệng” lại ăn được nhiều. Thế nên, nếu hiểu “lạ miệng” là món mới "ăn
lần đầu" như GS là phiến diện. TĐTViệt
giải nghĩa "Lạ miệng: Không thường được ăn hoặc lần đầu được ăn, cho nên có cảm giác lạ,
cảm thấy thích thấy ngon".
5.Động tác, tư thế, hành động, tính chất:
Có thể nói, không gì liên quan trực tiếp, gần gũi với ta bằng
những động tác, tư thế hàng ngày của chính ta. Ngay từ lúc chập chững, ta đã
phải "thực hành": ngã sấp, ngã ngửa, ngã bổ chửng...Suốt chặng đường
đời, đến khi về già lắm lúc cũng phải "ôn lại". Những hành động như “lẵng
nhẵng” chạy theo mẹ, ngồi vắt vẻo, “lắt lẻo” trên cành cây, “khều”, chọc ổi
cũng đã quen từ bé. Chính mẹ ta là người đầu tiên dạy cho ta gọi tên, phân biệt
những tư thế, động tác ấy.
Vậy,
GS Nguyễn Lân ?
-Ngã bổ chửng:
Ngã
đâm đầu xuống trước: Bị
trượt chân, ngã bổ chửng.
Giáo
sư hiểu sai hoàn toàn kiểu ngã "bổ
chửng": ngã ngửa thành ngã sấp ! TĐTViệt:
"Bổ chửng [ngã] ngửa người ra vì bất ngờ bị trượt.
ngã bổ chửng; trượt chân bổ chửng".
-Ngã chúi
Ngã đầu đập xuống trước.
Không
chính xác. "Ngã chúi" là
kiểu ngã về đằng trước nhưng đầu lộn, cắm, chúi từ trên cao xuống đất
hoặc sông, suối, ao hồ... Còn “ngã đầu
đập xuống trước” thì ngã về trước,
sau, hai bên, tứ phía đều có thể dẫn đến... “đập đầu xuống trước”.
-Lẵng nhẵng
Cứ
kéo dài, không giải quyết được: công
việc lẵng nhẵng
thế này, sốt ruột lắm.
-Lẵng
nhà lẵng nhẵng Lôi thôi kéo dài, không giải quyết được:
Công việc cứ lẵng nhà lẵng nhẵng mãi, chưa xong.
Hình
như soạn giả nhầm từ “lẵng nhẵng” với
lằng nhằng thì phải ? Bởi vì nếu ta thay “lẵng nhẵng”
trong cách diễn đạt của GS: “công việc lẵng nhẵng
thế này, sốt ruột lắm” bằng : công việc lằng
nhằng thế này, sốt ruột lắm, lúc này mẹ đẻ ta mới thực sự hiểu
ý ta muốn nói gì.
Hãy
xem Việt Nam tự điển phân biệt:
- “Lẵng nhẵng: Theo
lẽo đẽo vướng víu: đàn con theo
lẵng nhẵng”.
-“Lằng nhằng: Lôi
thôi dai dẳng: Việc lằng nhằng
mãi không xong”.
TĐTViệt giải nghĩa: "Lẵng nhẵng: Ở tình trạng không chịu rời ra, dứt ra, làm
vướng víu mãi. Lẵng nhẵng chạy
theo sau".
-Nằm.
Đặt
mình trên một vật dài: Ăn cơm
nguội, nằm nhà ngoài.
Giải
thích từ “nằm” sao mà cầu kỳ, nguyên
tắc đến thế ? Và quan trọng nó không đúng ! Nếu chỗ nằm dài rộng thì nằm ườn,
nằm thẳng cẳng. Chỗ nằm ngắn, hẹp, tròn thì nằm co, nằm cong. Nằm mèo xó bếp; Nằm đất với mụ hàng hương, hơn nằm giường
với mụ hàng ruốc,... đều là nằm
cả mà thôi.
-Lắt lẻo
Lung
lay, không vững: Lắt lẻo cành
thông cơn gió thốc (HXHương) Ngồi lắt
lẻo thế này ngã bây giờ.
Một
cái cọc chôn dưới đất "lung lay,
không vững" nhưng không bao giờ được gọi là "lắt lẻo". "Lắt
lẻo" (hay vắt vẻo) có sự hình dung về độ cao, tư thế chênh vênh, dễ
rơi, dễ ngã. TĐTViệt: “Lắt lẻo: Trạng
thái đung đưa trên cao do không được cố định chắc vào điểm tựa. Ngồi lắt lẻo trên
cành cây. Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi (Cd)”.
-Khều
đgt: 1. Lấy cái gì từ trong ra ngoài: Khều ốc 2. Lấy
cái gì từ trên xuống dưới: khều
ổi; khều táo 3. Lấy cái gì từ ngoài vào: Khều
bèo.
Giáo
sư giải thích có vẻ rất thành thạo, rõ ràng, mạch lạc. Nhưng thực chất đó là sự
lúng túng trong mô tả, hiểu nghĩa của từ. Đã “lấy” (cầm lấy vật gì trong tầm tay) sao còn gọi là “khều” (cách lấy vật gì ngoài tầm tay với). Vậy, lấy điện thoại “từ trong” túi quần ra; lấy cuốn sách “từ trên” giá xuống; lấy đôi giầy “từ ngoài” cửa vào có gọi là “khều” được không thưa GS ? Sau đây là
giải thích của TĐTViệt: “Khều: Dùng que, sào hoặc chân cho mắc vào một vật rồi đưa, kéo vật đó về phía mình: Lấy que khều ổi, Khều quả
bóng vào bờ”.
-Cụng
đầu
Ngoài
nghĩa đen, còn có nghĩa như chạm trán: Hai chàng tình địch cụng đầu nhau ở nhà cô ả.
Có
vẻ như Giáo sư lại nhầm từ “cụng đầu”
với “đụng đầu”
? Vì “chạm trán” hay “đụng đầu” chỉ trạng thái đối kháng, thù địch. Còn
động tác “cụng đầu” giữa hai người
lại là cách thể hiện tình cảm yêu thương, hoặc yêu đương giữa người với người. Thế
nên trong bài “Khoảnh khắc nồng thắm của
vợ chồng Obama” mới đăng bức ảnh hai vị này “cụng đầu” nhau và chú thích: “Vợ
chồng Obama cụng đầu nhau trước khi ông phát
biểu trước đám đông ủng hộ ở Bang Michigan” (Theo Vietbao.vn). Bởi vậy, "hai chàng tình địch” gặp nhau ở "nhà cô ả", thay vì "đụng đầu", “chạm
trán” mà lại trở ra “cụng
đầu” với nhau, nhiều khả năng là “GAY” rồi !
-Cứa
Cắt
bằng cách đưa đi đưa lại nhiều lần một con dao
không được sắc. Cứa mãi mà không đứt được cái chão.
“Cứa”
có khi do cả hai nguyên nhân: con dao thì
cùn mà vật cần cắt, cứa lại quá dai ! Ví như dao sắc đến mấy mà dùng
để cắt sợi dây da bò thì vẫn phải “cứa” đi, “cứa” lại như thường. Ngược lại, con dao tuy cùn nhưng với những
thứ như sống chuối, tàu dọc mùng, vẫn
có thể cắt xoẹt một cái mà không cần
phải cứa. Mặt khác, mục đích “cứa” có
khi còn do cả nguyên nhân thứ ba: cần cắt chính xác điểm nào đó. Thế nên, ban
đầu “cứa” (đưa đi đưa lại từ từ) cho
lưỡi dao bám vào điểm cần cắt rồi mới “xoẹt” một cái. Lại nữa: không dứt khoát
cứ phải dùng "một con dao" mới là “cứa”.
Đây là động tác tối cổ loài người. Trước khi biết đến kim loại, người nguyên
thủy đã dùng các công cụ ghè đẽo thô sơ bằng đá như mảnh tước, troppơ để cứa, cắt xẻ thịt thú rừng. Cho đến bây giờ,
khi không có dụng cụ (dao, kéo), ta
vẫn học cách sử dụng các công cụ thô
sơ của tổ tiên như mảnh sành, mảnh chai,
cật nứa mỏng hoặc bất cứ vật gì có cạnh
sắc để “cứa”. Thế nên, chúng tôi đồng ý với cách giải nghĩa tổng quát của TĐTViệt: “Cứa:
làm
đứt bằng vật có cạnh sắc, thường bằng cách day đi day lại nhiều lần trên bề
mặt”.
Nói thêm:
Cắt và cứa là hai từ Hán-Việt đã
được Việt hóa hoàn toàn. Cắt vốn là
chữ cát 割=cắt đứt (trong
từ cát cứ 割据-chia cắt,
chiếm giữ). “Cứa”-
biến âm của cư 鋸 (hoặc
cứ)
nghĩa là: cưa- cái cưa (theo quy luật biến âm lư thành lừa-con lừa; cự thành cựa-cựa gà...). Đáng chú ý, tuy vay mượn nhưng mẹ đẻ
chúng ta rất sáng tạo trong quá trình Việt hóa. Đó là dùng chữ cư 鋸
trong
cưa
gỗ biến âm thành “cứa” để diễn
tả động tác “cứa” (đưa đi đưa lại
công cụ như thể là cưa, mà lại không phải cưa). Qua đó phân biệt rõ giữa hai
động tác cưa, cắt và cứa. Trong khi tiếng Hán, động tác cứa
được dùng bởi từ ghép đẳng lập cát thiết
割切(cát=cắt
đứt; thiết=cắt). Còn cắt nói chung thì
gọi là thiết 切; cắt
bằng kéo thì gọi là tiễn thiết 剪切(tiễn=cái
kéo).
6. Một số ngôn từ giao tiếp hàng ngày:
Ban đầu, chúng ta học
tiếng mẹ đẻ theo cách của một con vẹt. Nhắc lại nguyên xi lời mẹ nói mà không hiểu gì.Chính cách học bản năng này
khiến khi lớn lên tiếng mẹ thấm sâu vào máu thịt. Những từ ta thốt lên đầu tiên
trong đời chính là ngôn từ giao tiếp. Bởi vậy, đối với bất cứ ngôn ngữ nào,
tiếng mẹ đẻ hay ngôn ngữ thứ hai, trình độ giao tiếp hàng ngày được xem là cơ
bản, phổ thông, dễ dàng nhất, trước khi đến với ngôn ngữ chuyên ngành, nâng
cao.
Vậy GS Nguyễn Lân đã hiểu
hết những từ thông dụng này ?
-Cho vay Chuyển tiền hay thóc của mình cho
người khác dùng trong một thời gian và đòi
phải trả lãi.
Thực
ra trong ngôn ngữ hàng ngày, chúng ta vẫn nói đi vay gạo về nấu mà không nói đi mượn
gạo. Hoặc nói vay tiền của nhau
với nghĩa chỉ phải hoàn trả bằng giá trị tương đương đấy thôi. Cách hiểu của GS
Nguyễn Lân chỉ đúng khi đó là cụm từ cho vay
lấy lãi chứ không phải hai từ “cho
vay” đơn thuần.
Việt Nam tự điển: “Vay: mượn tiền hay
vật gì của ai để rồi phải trả lại nguyên số: Vay tiền, vay gạo”
TĐTViệt: “Vay: mượn tiền hay cái gì của người khác để sử dụng với điều
kiện sẽ trả lại bằng cái cùng loại có số lượng hoặc giá trị tương đương. Vay
tiền; vay tạm mấy cân gạo”.
Từ điển học sinh (NXB Giáo dục 1971) Vay.
Mượn
tạm (tiền; đồ vật) để dùng sau sẽ trả lại thứ tương đương:
Vay ít tiền mua sách”.
Thế
nên trong phần lời giới thiệu băng nhạc “Chế Linh Tình bơ vơ” (còn gọi Chế
Linh 18 ca khúc) mới có đoạn: “...Tình bơ vơ, một nhạc phẩm của nhạc sĩ Lam Phương được vay làm chủ đề”. Từ vay ở đây là vay mượn, vay đồng nghĩa mượn.
-Chôn chặt.
Để
sâu vào trong đất:Chôn chặt văn
chương ba thước đất (HX Hương)
“Để sâu vào
trong đất” mà không lấp đất lại thì sao được gọi là chôn
? Như thế gọi là "để" dưới
hố sâu thì đúng hơn. Huống gì ở đây là “chôn
chặt” cơ mà ? Từ điển cần chính xác đầy đủ: Chôn chặt = chôn sâu và lèn
chặt. Ngoài ra từ “chôn chặt” còn
được hiểu theo nghĩa bóng “chôn chặt trong lòng” với ý giấu kín, không bao giờ
để lộ.
Tham
khảo: Việt Nam tự điển: “Chôn:
đào đất mà vùi vật gì xuống: chôn
xác, chôn của, chôn cột...”
TĐTViệt:
“Chôn: đặt xuống lỗ đào dưới đất và lấp đất lại”
-Chơi gái. Có quan hệ sinh lý với phụ nữ (thông tục):
Hắn có học hành gì đâu, chỉ nghĩ đến
chuyện chơi gái mà thôi.
“Gái” ở đây không thể hiểu là “phụ nữ” nói chung mà là hạng gái điếm, kỹ nữ (mà gần đây còn gọi bớp, ca ve, gái gọi, gái bao, v.v...)
Còn “quan hệ sinh lý” là nói nhu cầu
chính đáng của đời sống tình dục và hàm chứa hoạt động duy trì nòi giống của
con người. Trong khi “chơi gái” lại
nói về kiểu chơi bời trác táng, thiên về trải nghiệm nhục dục, thỏa mãn xác
thịt. Kẻ đi “chơi gái” thì phải có “gái chơi”. Thế nên, gái điếm, kỹ nữ còn
được gọi là “gái làng chơi” là vậy.
Về từ “chơi gái”, trong bài
Đọc lướt «Từ điển từ và ngữ Việt Nam» của Nguyễn Lân
An Chi bình luận ngắn gọn như sau: “Cứ như lời giảng trên đây của ông Nguyễn Lân thì, trừ những đàn ông bất lực, có ông chồng nào lại chẳng “chơi gái” (Mỗi lần...với vợ là một lần “có quan hệ sinh lý với phụ nữ”)
Đọc lướt «Từ điển từ và ngữ Việt Nam» của Nguyễn Lân
An Chi bình luận ngắn gọn như sau: “Cứ như lời giảng trên đây của ông Nguyễn Lân thì, trừ những đàn ông bất lực, có ông chồng nào lại chẳng “chơi gái” (Mỗi lần...với vợ là một lần “có quan hệ sinh lý với phụ nữ”)
- Chơi hoa. Giao thiệp với phụ nữ. Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa (Kiều)
Ở đây có sự “ngây thơ” trong ý nghĩ, hay là sự thiếu hụt
về vốn từ tiếng mẹ đẻ ? “Hoa” thường
được ví với phụ nữ. Nhưng “hoa” trong
“chơi hoa” lại ám chỉ gái lầu xanh,
kỹ nữ, đĩ điếm. Và “chơi” ở đây không
phải “giao thiệp” hay “quan hệ” giao
tiếp mà là “chơi gái” đó thưa soạn
giả. Việt Nam tự điển giải nghĩa thứ tư của “chơi”: “Nói về cách du đãng: chơi cờ
bạc, chơi gái”. Từ điển Truyện Kiều - Đào Duy Anh chú giải cụ thể: “Chơi hoa: Lấy hoa làm vui; nghĩa bóng là chơi gái. Vd: Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa”(Kiều)
Giáo sư Nguyễn Lân là tác giả cuốn sách “Tôi yêu tiếng Việt” (NXB Khoa học xã
hội-1995). Thật đáng thương cho anh chàng nào đi tán gái, lại học mót được hai
từ “chơi hoa” trong từ điển của GS
Nguyễn Lân rồi tự tin buông lời “có cánh”: Anh
chơi hoa đã nhiều, nhưng em mới là
bông hoa đẹp nhất mà anh từng... (!)
Thật
là “Yêu nhau như thế bằng mười phụ nhau”
!
Tham khảo: Có ý kiến cho rằng: Nguồn
gốc từ “hoa” trong “chơi
hoa”, “bán hoa” xuất phát từ cách
mời khách của gái làng chơi xưa kia bên Tàu. Có khách đến “chơi”. Một nhóm các
cô gái lầu xanh quần áo, trang điểm thướt ta, niềm nở ra chào. Mỗi cô cầm trên
tay một cái khay. Mỗi khay đựng một bông hoa, màu sắc, chủng loại hoa khác nhau.
Thế rồi múa hát vòng quanh. Đong đưa, uốn éo, đầu mày cuối mắt đưa tình. Khách
cảm thấy ưng cô nào sẽ đưa tay chọn lấy bông hoa để trong khay của cô đó. Chủ
khách hiểu ý cùng lui vào “hậu trường”. Kiểu “giới thiệu”, “chọn hàng tao nhã”
này đã sinh ra hai từ cũng rất “tao nhã” là kẻ “bán hoa” và người “chơi hoa” (điều này HTC đọc được từ hồi nhỏ, nay không
còn nhớ ở tài liệu nào. Xin chép lại đại khái nội dung hầu bạn đọc. Rất mong
các bậc cao minh chỉ bảo, phản hồi)
-Dáng vóc. Thân hình khỏe mạnh.
Sai
! "Dáng vóc” chỉ ngoại hình cao thấp, gầy, béo. Ai cũng
có dáng vóc của người đó, không cứ gì người "thân
hình khỏe mạnh". TĐTViệt: “Dáng vóc Dáng người, nhìn về mặt thân hình to nhỏ,
cao thấp”.
-Lạ nhà
Đến
một nơi chưa bao giờ đến: Lạ nhà,
cả đêm không sao ngủ được.
"Lạ
nhà" có khi là chỗ đã từng đến, thậm chí đến
nhiều lần, nhưng ít khi hoặc lần đầu tiên ngủ lại. Một số tác động như: không gian, giường chiếu, mùi vị, âm thanh
lạ xung quanh, sự gò bó, thiếu tự do thoải mái khiến người ta cảm thấy khó
ngủ, gọi là lạ nhà. TĐTViệt giải nghĩa "Lạ nhà: Không quen nhà, không quen chỗ. Lạ nhà không ngủ được".
-Lên mâm:
Đến
lượt mình phải làm việc gì trước quần chúng (thtục) Sắp đến lượt mình phải lên mâm rồi.
Cái
tính hay nói ngược của Giáo sư thiệt lạ ! Đúng ra là "lên thớt" chứ,
sao lại “lên mâm” ? Được “lên mâm” lại sướng quá ! "Lên thớt" là khẩu ngữ ý nói
bản thân sắp phải trải qua, đối mặt một thử thách gì đó khó khăn thực sự. Các
bạn trẻ hay dùng từ này để nói về việc thi
cử, phỏng vấn tìm việc.v,v...
-Lắng đọng:
Dồn góp dần dần lại một nơi:
Những tình cảm sâu đậm, lắng đọng trong
lòng.
Hiểu
như GS thành vun lại hoặc dồn lại, chứ không phải "lắng đọng". Vì "lắng đọng" theo nghĩa đen là
những vật nhỏ lắng xuống đáy nước theo chiều đứng, chứ không phải sự "dồn góp" đa chiều về "một nơi". TĐTViệt: "Lắng đọng: 1.Lắng dần xuống và đọng lại. Phù sa lắng đọng. 2.Lưu lại, lắng lại trong chiều
sâu tình cảm. hình ảnh lắng đọng
trong tâm tưởng".
-Xăm xắp
Nói
nước gần đến miệng vật đựng hoặc đến gần mặt đê: Đổ nước xăm xắp miệng nồi. Nước lụt đã đến xăm xắp mặt đê.
Nếu
"nước gần đến miệng vật đựng"
hoặc gần mặt đê người ta nói ngấp nghé
chứ không nói nước "xăm xắp". Khi nói nước "xăm xắp" có nghĩa nó đã ngập lên rồi nhưng chỉ ở độ vừa lút nhiều vật gì đó đang nằm trong
vùng (hoặc dụng cụ) chứa nước. Ví dụ nước xăm xắp mặt ruộng là nước chỉ vừa
ngập các hòn đất nhấp nhô và cây cỏ trong ruộng (có chỗ chưa lút hẳn). Với mặt
đê, nếu nói nước "xăm xắp"
thì có nghĩa nước đã bắt đầu tràn lên đê rồi, nhưng chưa đủ ngập sâu và chảy
mạnh. TĐTViệt: "Xăm xắp: (nước) ở mức không đầy lắm, chỉ đủ phủ kín khắp bề mặt. Nước xăm xắp mặt ruộng.
-Mù trời
Nói
trời nhiều mây đen kịt: Mù trời
mới bắt được két. Hiện nay mù trời, có lẽ sắp mưa.
Giáo
sư nhầm "mù trời" với kiểu
trời động giông, "mây đen kịt" kéo đến báo hiệu "sắp mưa". “Mây”
và “mù” là hai hiện tượng khác nhau. "Mù trời" là kiểu sương mù giăng
phủ khắp không gian (Thế nên, người ta mới lợi dụng màn sương này để đánh bắt,
bẫy con két) Khi sương mù dày đặc có khi cũng sẽ rơi xuống thành hạt như mưa,
nhưng đó là "quá mù ra mưa". Còn động giông “mây đen kịt” kéo đến mới báo hiệu một trận mưa lớn.
Sự
lệch lạc trong tiếng mẹ đẻ của Nhà biên soạn từ điển khiến cho những từ rất phổ
thông trong tiếng Việt cũng trở nên “bất đồng” như vậy đó.
-Lụng thụng. Nói quần áo rộng quá.
Thực
ra“lụng thụng” là nói quần áo vừa rộng, vừa dài mới đúng. Nếu chỉ là rộng thôi phải là “thùng thình” chứ không phải“lụng thụng”.
-Quần ống sớ: (Ống sớ là vỏ hình hộp rất phẳng dùng để đựng sớ cúng trước
khi đốt) Quần là có nếp rất phẳng.
Không
hề có loại quần nào có ống “hình hộp”
(lập phương). Giáo sư đã hình dung sai hình dáng cái ống sớ. Bởi gọi “ống sớ” nhưng nó tựa cái phong bì hình
chữ nhật bẹt. "Ống sớ" khác
phong bì thư ở chỗ một đầu dán kín, đầu kia có miệng bỏ sớ vào và gấp mép lại. Theo
daitudien.net “quần ống sớ” là “loại
quần dân tộc Việt Nam xưa kia của người đàn ông bằng vải trúc bâu trắng, ống
rộng, thẳng, sau mỗi lần giặt phải hồ, là phẳng cho cứng mặt vải. Khi mặc ống
thẳng như hai ống đựng sớ”.
-Chằn chặn. Từ dùng sau từ bằng và từ vuông để tỏ ý tuyệt đối: Đôi đũa bằng chằn chặn; Cái bàn vuông chằn
chặn.
Không
hẳn chỉ đứng sau từ bằng và từ vuông. Vậy đều chằn chặn thì sao ? Mặt khác lấy ví dụ “Cái bàn vuông chằn chặn” là chưa chính xác.Vì từ “chằn chặn” ý chỉ những vật gì đó có
cùng hình dáng, kích thước, khi đặt cạnh nhau thì thấy bằng, đều chằn chặn.
-Lây lất:
lộn
xộn và bừa bãi: sống lây lất ở
vỉa hè.
Sống
ở nhà đường hoàng, chỉ tội đồ đạc “lộn
xộn, bữa bãi” không ai có thể gọi là “lây
lất”. TĐTViệt: “Lay lắt như Lây lất: Ở trạng thái tồn tại một cách yếu
ớt, mỏng manh, không ổn định kéo dài. Lay lắt như ngọn đèn trước gió; sống lay lắt qua ngày.
-Thúng thắng:
Nói
ho từng cơn một.
Ho
từng tiếng một khác hẳn với “ho từng cơn một”. Chính xác ho“thúng thắng”, hay húng hắng là ho từng tiếng ngắt quãng, lúc nhặt lúc khoan chứ không
thành cơn. TĐTViệt: “Thúng thắng
như húng hắng [ho] từng tiếng nhẹ, ngắn và thưa”.
-Ngắn gọn
Nói
bài văn không dài và không rườm rà: Văn
của người thường ngắn gọn (TrChinh)
Giáo
sư quen kiểu giải nghĩa từ vựng rất sai lầm. Đó là chỉ căn cứ nghĩa của từ
trong văn cảnh ví dụ cụ thể nào đó. Cách làm này đã triệt tiêu sự phong phú, đa
dạng nghĩa của từ. “Ngắn gọn” đâu
phải giành riêng để nói về bài văn ngắn gọn ? Vậy cuộc họp “ngắn gọn”, câu chuyện “ngắn
gọn”, câu hỏi “ngắn gọn”, câu trả
lời “ngắn gọn” thì sao ?
-Nghiện ngập:
Nghiện
thuốc phiện: vì nghiện ngập anh ta
phải bán cả nhà.
“Nghiện ngập” cũng
không phải chỉ nói “nghiện thuốc phiện”.Chúng
tôi đồng ý với cách giải nghĩa ngắn gọn, chính xác của TĐTViệt: “Nghiện ngập: Nghiện
nói khái quát, nghiện ngập rượu
chè”.
-Xâu chuỗi Từ dùng trong phong trào cải cách ruộng đất
là bắt liên lạc với nhiều bần cố nông sau khi đã bắt rễ với một người cốt cán.
Đó là cách hiểu từ “xâu chuỗi” do trải nghiệm nào đó của
Giáo sư. Còn “xâu chuỗi” trong tiếng
Việt được hiểu là: “tập hợp liên kết lại thành một chuỗi, một
tuyến. Xâu chuỗi các sự kiện”
(TĐTViệt)
-Cầy Con chó dùng để ăn thịt: Chén
một bữa thịt cầy.
“Cầy” không
phải “chuyên dùng” để gọi “con chó dùng
để ăn thịt”. Cách hiểu của soạn giả xuất phát từ các tấm biển ở cửa hàng
“Cầy tơ” hoặc “Thịt cầy 7 món” chăng ? Thế nhưng, người ta vẫn gọi các món từ“con chó dùng để ăn thịt” là dồi chó, chả chó, chứ không gọi là dồi cầy, chả cầy. Thực ra cày (cầy) là cách gọi khác chỉ con chó
(bất kể để nuôi hay làm thịt) ở nhiều địa phương. Riêng vùng nông thôn Thanh
Hóa như các huyện Quảng Xương, Tĩnh Gia, Nông Cống, người ta gọi con chó là con cày. Mãi đến khoảng vài chục năm gần
đây, cách gọi con chó mới phổ biến.
Tất
cả những từ, ngữ chúng tôi nêu ra trên đây có tới gần trăm phần trăm là từ
thuần Việt hoặc đã Việt hóa hoàn toàn và rất thông dụng trong đời sống hàng
ngày. Thế nhưng, sự thiếu hụt về vốn từ tiếng mẹ đẻ không chỉ khiến GS Nguyễn
Lân hiểu sai hàng loạt từ ngữ trong “Từ
điển từ và ngữ Việt Nam” mà còn trở thành nguyên nhân chính trong việc giải
thích sai rất nhiều thành ngữ, tục ngữ trong sách “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam” mà chúng tôi từng nêu.
“Một ngàn năm độ hộ giặc Tàu, Một trăm năm đô
hộ giặc Tây (7) Tiếng mẹ đẻ của ta mười phần, đã
mất tới hơn nửa chẳng còn thuần hậu. Những từ, ngữ ta vừa nói trên thuộc số ít
ỏi “đồ tư trang” vô cùng quý báu của Mẹ Việt Nam “thời con gái”. Thế mà Của riêng còn một chút này, Chẳng cầm cho
vững lại giày cho tan (8). Giống như Mẹ, tiếng mẹ đẻ mỗi người
chỉ có một. Tiếng mẹ đẻ là nền tảng ngôn ngữ cơ bản, hành trang vô cùng quan
trọng để chúng ta bước vào thế giới tri thức, trước khi đến với ngôn ngữ thứ
hai. Giáo sư Nguyễn Lân chưa hiểu hết tiếng mẹ đẻ, chưa dùng đúng tiếng dân
tộc. Việc GS trong biên soạn ra các loại Từ điển “rất có hại cho tiếng Việt”(9)
là điều hoàn toàn dễ hiểu.
HTC
Kỳ
sau
Một đời chính tả
Học sai nên hành sai
Một số tài liệu tham
khảo và chú thích:
1.Từ điển tiếng Việt-Hoàng
Phê chủ biên-NXB Đà Nẵng-2013
2.Từ điển từ láy tiếng
Việt-Hoàng Văn Hành chủ biên-NXB khoa học xã hội-2011.
3.Việt Nam tự điển-Hội
Khai trí Tiến đức-vietnamtudien.org
4.Từ điển Việt Hán-NXB
Giáo dục-2003.
5.Việt ngữ tinh nghĩa từ
điển-Long Điền-Nguyễn Văn Minh-NXB Quảng Vạn Thành-1950.
6. Ngữ pháp tiếng Việt-Diệp
Quang Ban-NXB Giáo dục 2013.
7. Lời ca khúc: “Gia tài của
Mẹ”-Trịnh Công Sơn.
8. Lẩy Kiều: “Chữ trinh còn
một chút này, Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan”.
9. Chữ của Lê Mạnh Chiến trong bài Hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt
THỬ LÝ GIẢI NHỮNG SAI SÓT ĐỂ ĐỜI
của Nhà biên soạn từ điển-GS Nguyễn Lân
Hoàng Tuấn Công
Kỳ 3 Lỗ hổng kiến thức Hán Nôm
Trong "Đôi lời tâm sự thay lời tựa" của "Từ điển từ và ngữ Việt Nam", GS Nguyễn Lân viết: "Gần
đây, tôi nhận thấy trong các sách báo và cả trên đài tiếng nói Việt
Nam, đồng bào dùng sai nhiều từ, nhất là những từ Hán-Việt (...)Để tránh
sai lầm khá phổ biến trong việc dùng các từ Hán -Việt, tôi đã chú ý giải thích các từ nguyên". Thế nhưng, "vì sự trong sáng của tiếng Việt"
mà chỉ có lòng nhiệt tình thì chưa đủ. Lỗ hổng lớn về kiến thức Hán Nôm
đã khiến GS Nguyễn Lân không thể thực hiện ý tưởng tốt đẹp và hết sức ý
nghĩa đó(1).
Ngược lại, cái gọi là "giải thích các từ nguyên" của GS đã trở thành một trong những phần việc sai sót nghiêm trọng nhất của "Từ điển từ và ngữ Việt Nam".
Ngược lại, cái gọi là "giải thích các từ nguyên" của GS đã trở thành một trong những phần việc sai sót nghiêm trọng nhất của "Từ điển từ và ngữ Việt Nam".
Vậy lỗ hổng kiến thức Hán Nôm của GS Nguyễn Lân lớn tới mức nào ?
Xin bạn đọc cùng chúng tôi điểm lại một vài dạng sai sót phổ biến nhất của GS Nguyễn Lân trong giải nghĩa từ Hán Việt. Mỗi loại chúng tôi chỉ lấy dăm ba ví dụ để minh chứng. (Nếu không sẽ dài tới cả trăm trang). Phần in đậm, nghiêng đậm và nghiêng trong ngoặc kép là của GS Nguyễn Lân; phần gạch đầu dòng là trao đổi của Hoàng Tuấn Công:
1. Sai do không phân biệt được từ đồng âm, dị tự, dị nghĩa, (tức từ cùng âm đọc, nhưng khác tự dạng và khác nghĩa).
“Hàn mặc dt (hàn: lạnh, nghèo khổ; mặc: mực-Nghĩa đen là bút mực) Văn chương (cũ)”.
- Ở đây, GS Nguyễn Lân lầm giữa hai chữ "hàn". Chữ hàn trong "hàn mặc" tự dạng là (翰)có nhiều nghĩa; một nghĩa là lông cánh chim (cấu tạo chữ có bộ vũ 羽 chỉ nghĩa lông chim). Vì ngày xưa dùng lông cánh chim làm bút viết chữ nên hàn (翰)còn có là nghĩa cái bút. "Hàn mặc" (翰墨)là bút và mực, nên nghĩa bóng mới được hiểu là văn chương (như chính GS Nguyễn Lân đã giảng). Còn chữ hàn với nghĩa lạnh, nghèo khổ, tự dạng là (寒), có bộ băng (冫) chỉ nước đóng băng; lạnh; nghè;, run sợ..., không liên quan gì đến kết hợp từ "hàn mặc" nghĩa bóng là văn chương. Nếu GS dùng hàn (寒) nghĩa là "lạnh"; "nghèo khổ" trong kết hợp từ "hàn mặc" ("寒墨") thì nghĩa của nó phải hiểu là "bút lạnh" hoặc "bút nghèo khổ" (!), sao có thể giảng là "văn chương" ?
“Âm vị (âm: tiếng; vị: nói) Đơn vị ngữ âm nhỏ nhất có tác dụng phân biệt ý nghĩa của từ”.
-Ở đây, "vị" có nghĩa là đơn vị, tự dạng là (位) chứ không phải tự dạng vị (謂) là "nói". Chính GS Nguyễn Lân đã giảng “âm vị” là “đơn vị ngữ âm nhỏ nhất...” thì "vị" (位) phải là "đơn vị", sao lại "vị" (謂) lại nghĩa là nói ?
“Chuyên đề (đề: đưa ra)”
-Cùng âm đọc là đề, nhưng chữ "đề" trong chuyên đề có bộ hiệt (頁) tự dạng là (題)với nghĩa đề mục, luận đề. Còn chữ đề nghĩa là “đưa ra” có bộ thủ (扌) tự dạng là (提) không liên quan gì đến "chuyên đề" (專題).
"Cùng khổ (cùng: khốn khổ; khổ: khổ sở)"
Thực ra “cùng” (窮)ở đây có nghĩa là cùng cực, đỉnh điểm, “cùng khổ” là khổ đến mức tột cùng, khổ quá.
“Cốt cách (cốt: xương; cách: cách thức)”
Ở đây “cốt”(骨)là xương mà “cách”(骼) cũng có nghĩa là xương.Chữ “cách” mà GS nhầm lẫn có tự dạng là 格 (bộ mộc), được dùngtrong cách thức, khác với chữ cách 骼 (bộ cốt), dùng trong "cốt cách" (骨骼) (Xem Tự điển Hán Việt-Trần Văn Chánh)
“Cốt cách (cốt: xương; cách: cách thức)”
Ở đây “cốt”(骨)là xương mà “cách”(骼) cũng có nghĩa là xương.Chữ “cách” mà GS nhầm lẫn có tự dạng là 格 (bộ mộc), được dùngtrong cách thức, khác với chữ cách 骼 (bộ cốt), dùng trong "cốt cách" (骨骼) (Xem Tự điển Hán Việt-Trần Văn Chánh)
"Đèn huỳnh quang (Huỳnh: đom đóm; quang: ánh sáng)".
Chữ “huỳnh” 熒 (bộ hỏa) nghĩa là soi sáng, sáng sủa (theo Hán Việt tự điển - Thiều Chửu). Còn chữ "huỳnh" (hoàng) với nghĩa đom đóm lại có tự dạng là 螢 (bộ trùng). Không ai mượn hình ảnh ánh sáng lập lòe của con đom đóm để đặt tên cho bóng đèn điện cả. GS suy diễn ánh sáng trắng của đèn huỳnh quang giống ánh sáng trắng xanh của con đom đóm, nên cho rằng chữ “huỳnh” này có nghĩa là “đom đóm”chăng ?
"Bắc thần (bắc: phương bắc; thần: tinh thần) Ngôi sao sáng nhất trong chùm sao tiểu hùng tinh, giúp người ta xác định hướng chính bắc".
Chữ thần (辰) ở đây chỉ chung mặt trời, trăng, sao; khi đọc là thìn lại có nghĩa là rồng - chi thứ năm trong thập nhị chi. Còn chữ thần trong tinh thần có tự dạng là (神), không liên quan gì đến bắc thần (北辰).
Đã mang tiếng là người "có chữ", lại đứng ra biên soạn từ điển chuyên
về "từ và ngữ Hán Việt" sao có thể phạm sai sót sơ đẳng như vậy, thưa GS
?
Và còn nhiều, nhiều nữa những sai sót kiểu này của GS Nguyễn Lân...
Ông bà ta xưa có câu "Chữ tác (作) đánh chữ tộ (祚), chữ ngộ (遇) thành chữ quá (過)"
chế giễu sự nhầm lẫn của học trò, chữ nghĩa không đến nơi đến chốn. Của
đáng tội ! Đó là những chữ khá giống nhau. Rất dễ nhầm ! (Không ít
những bản văn khắc Hán Nôm nhầm kiểu này). Tuy nhiên, những chữ GS
Nguyễn Lân "nhầm" lại khác nhau một trời một vực về tự dạng. Ví như hàn 寒 (lạnh) với hàn 翰(bút lông); vị 位 (đơn vị) với vị 謂 (nói). Chúng khác nhau như so con trâu với con ngựa vậy. Đâu có như tác (作) với tộ (祚), ngộ (遇) với quá (過) ? Thế mà vẫn sai, vẫn nhầm ! Vì sao nên nông nỗi ấy ? Điều này không khó lý giải ! Chính là do Nhà biên soạn từ điển đi giảng nghĩa "nghĩa từ nguyên"
Hán Việt nhưng lại không biết "mày ngang mũi dọc " của chữ Hán đó ra
sao. Vì không biết mặt chữ nên lắp ghép sai, "râu ông nọ cắm hàm bà kia"
là điều hoàn toàn dễ hiểu.
2. Sai do từ đồng âm, đồng tự, nhưng đa nghĩa (cùng một từ, một tự dạng, một âm đọc nhưng mang nhiều nghĩa khác nhau):
“Hàn gia dt (hàn: lạnh; gia: nhà) Nói nhà nghèo khó một cách khiêm tốn”.
“Hàn sĩ dt (hàn: lạnh; sĩ: học trò) Người học trò nghèo”.
Chữ "hàn" (寒) có một số nghĩa như: lạnh; rét; nghèo khổ; run sợ....Phải tuỳ văn cảnh, kết hợp từ mà chọn nghĩa nào. Ví dụ "Hàn" trong "Hàn gia", "Hàn sĩ" phải chọn nghĩa là nghèo khổ. Còn "hàn"(寒) trong hàn ôn, hàn đới, hàn phong lại có nghĩa là: rét, lạnh. Hàn (寒) trong hàn tâm (lòng run sợ) lại phải chọn nghĩa là run sợ. Thế nhưng cả "Hàn gia" và "Hàn sĩ", "Hàn mặc" GS Nguyễn Lân đều cho chúng "xài" chung một chữ "hàn" nghĩa là "lạnh". (!)
“Chức vị (vị: đơn vị) Đơn vị phù hợp với chức vụ”.
Mặc dù có cùng tự dạng, cùng đọc là "vị" (位), nhưng kết hợp từ “chức vị” không phải phép tính hay số đếm, nên không thể chọn nghĩa là “đơn vị” ? "Hán Việt tự điển" của Thiều Chửu giải nghĩa chữ “vị” trong “chức vị” là: “Ngôi, cái chỗ ngồi của mình được ở gọi là vị, như địa vị (地位), tước vị (爵位), v.v”.
“Chung thân (chung: trọn vẹn; thân: thân mình) Suốt đời”.
-Chữ “thân” (身)có nhiều nghĩa như: thân mình, bản thân; gốc cây; tuổi; đời... Ở đây, “thân” không phải là “thân mình” mà là đời. "Chung thân" là hết đời, như “tiền thân 前身 đời trước” (Hán Việt tự điển-Thiều Chửu).
“Âm sắc (âm: tiếng; sắc: màu) Tính chất khác nhau giữa hai âm cùng độ cao và độ to hơn: Âm sắc của hai nhạc cụ khác nhau.
Không đúng ! “sắc” đây nghĩa là sắc thái, tính chất chứ không phải là “màu”, cho dù hai nghĩa đều xuất phát từ chữ sắc có cùng tự dạng là (色).
“Anh hùng nhất khoảnh (khoảnh: thời gian ngắn) Nói người tự cho mình là hơn cả mọi người trong một thời gian: Ở bến xe có tên lưu manh tự mình cho là anh hùng nhất khoảnh”.
Chữ “khoảnh” trong câu thành ngữ gốc Hán này tự dạng là (頃), có nhiều nghĩa: khoảng ruộng 100 mẫu; thoáng chốc, khoảnh khắc... Ở đây, khoảnh (nghĩa đen = khoảng rộng100 mẫu) được hiểu là một vùng, một địa phận, khu vực (chỉ không gian) chứ không phải khoảnh khắc (chỉ thời gian) như GS lầm tưởng. Thành ngữ nói kẻ chỉ (dám) xưng hùng, xưng bá, làm mưa làm gió trong một khu vực nhất định. Cái “bến xe” mà tên lưu manh tự xưng anh hùng trong câu dẫn chứng của GS chính là“nhất khoảnh” (chỉ không gian) đâu phải phải thời gian ?
Kiểu sai do đồng âm, đồng tự, đa nghĩa mà chúng tôi vừa nêu do kiến thức, hiểu biết lỗ mỗ, lơ mơ về chữ nghĩa của Nhà biên soạn từ điển. Ví như đối với chữ "hàn": GS Nguyễn Lân chỉ biết được nghĩa phổ thông là "lạnh". Bởi vậy, từ "hàn mặc" dù GS hiểu nghĩa bóng là "văn chương", nhưng khi giảng nghĩa "từ nguyên", lại đem nghĩa phổ thông nhất của chữ "hàn" là "lạnh" ra mà ghán ghép. Thế rồi những hàn mặc, hàn gia, hàn sĩ, hàn nho, hàn đới, hàn thử biểu, với GS Nguyễn Lân, tất cả những chữ âm đọc là "hàn" ấy đều chỉ có một nghĩa duy nhất là rét, lạnh (!). Tương tự đối với các trường hợp như "âm sắc". Chữ "sắc" này là sắc thái, tính chất (của âm thanh). Nhưng vì "sắc" với nghĩa "sắc màu" thông dụng hơn, vốn đã sẵn trong đầu nên GS không ngần ngại đặt bút "giải thích từ nguyên", biến chữ "sắc" là sắc thái, tính chất, thành sắc là "sắc màu". Hay, chữ "khoảnh" trong "Anh hùng nhất khoảnh" có nghĩa là một khu vực, một lãnh địa. Thế nhưng với GS Nguyễn Lân, "khoảnh" với nghĩa khoảnh khắc, dường như thông dụng hơn nên chọn ngay "nghĩa từ nguyên" của "khoảnh" là "thời gian ngắn" rồi xuyên tạc câu thành ngữ Hán Việt trên thành: "Nói người tự cho mình là hơn cả mọi người trong một thời gian" v.v...
Chúng tôi tưởng chỉ với mấy ví dụ trên đây, bạn đọc (đặc biệt
là những người đã được học, hoặc tự học có chút kiến thức Hán Nôm) cũng
đã tự mình hình dung, đánh giá lỗ hổng kiến thức Hán Nôm của GS Nguyễn
Lân lớn tới mức nào. Tuy nhiên, trước khi đi đến kết luận, chúng tôi xin
làm thêm vài trắc nghiệm nhỏ. Tức xem trong “Từ điển từ và ngữ Việt Nam”, GS Nguyễn Lân hiểu và giải thích như thế nào một số từ, ngữ liên quan đến Hán học:
-Hán văn là gì ?
GS Nguyễn Lân giải thích: "Hán văn dt (Hán: chữ Hán; văn: văn chương) Văn chương chữ Hán: một học giả đi sâu vào kho tàng Hán văn".
Cách hiểu trên của GS gần như không được dùng trong tiếng Việt. Chúng ta có thể tạm chấp nhận “văn” là “văn chương” theo cách hiểu của GS Nguyễn Lân. Tuy nhiên, với điều kiện từ điển của GS phải thu nhận thêm một chữ văn nữa với nghĩa là văn tự. Và "Hán văn" được hiểu là (thể) văn Hán cổ, Văn ngôn (văn viết) phân biệt với Hán ngữ hiện đại, tức tiếng Phổ thông Trung Quốc,
văn Bạch thoại (một số người quen gọi là Trung văn). "Hán văn" bao gồm
văn tự Hán cổ (chữ, nghĩa, văn phạm...) trước tác bằng Hán văn (văn, sử,
triết, thiên văn, địa lý, y học...) chứ không phải (chính là, chỉ là)
những tác phẩm "văn chương chữ Hán". Nếu “Hán văn” chỉ là “văn chương chữ Hán”, GS Nguyễn Lân giải thích như thế nào hai chữ "Hán văn" trong các sách học chữ Hán đã từng được phát hành từ trước năm 1975 và hiện đã và đang được in lại, phát hành rộng rãi như: "Hán văn giáo khoa thư" (Võ Như Nguyện, Nguyễn Hồng Giao) "Hán văn" (Trần Trọng San) "Tự học Hán văn" (Nguyễn Khuê)...và môn học Hán văn ở một số khoa Văn, Sử,...ở nhiều trường Đại học nước ta ?
Với từ "Hán văn" chúng tôi xin trích hai cách giải thích để bạn đọc so sánh: 1."Hán văn: chữ Hán, chữ Trung Quốc (nói chung) Học Hán văn. Bài "Cáo bình Ngô" là một tác phẩm viết bằng Hán văn" (Từ điển học sinh-Chủ biên: Nguyễn Lương Ngọc-Lê Khả Kế-NXB Giáo dục 1971); 2. "Hán văn: văn tự Trung Quốc" (Hán Việt từ điển-Đào Duy Anh).
-Hán học là gì ?
GS Nguyễn Lân giải thích: "Hán học dt (Hán: chữ Hán; học: sự học) Học thuật Trung Quốc thời xưa. Một học giả đã đi sâu vào Hán học".
"Hán" ở đây không phải là "chữ Hán" mà là nền học thuật Trung Hoa cổ đại thể hiện và lưu giữ qua các tác phẩm, văn bản Hán cổ; "học" không phải "sự học" mà là sự nghiên cứu khoa học về nền học thuật đó. Bởi vậy, "Hán học" không phải là "học thuật Trung Quốc thời xưa" mà là ngành khoa học nghiên cứu về nó. Từ thời nhà Thanh, Hán học đã rất thịnh hành. Ngày nay, Hán học còn được gọi là Trung Quốc học, phạm vi nghiên cứu rộng hơn nhiều. Có thể ví dụ thế này cho dễ hiểu: Nếu có một bộ môn nghiên cứu hệ thống về Nhà biên soạn từ điển - GS Nguyễn Lân, gọi là “Nguyễn Lân học”-đó là khoa học nghiên cứu về GS Nguyễn Lân, chứ không phải chính GS Nguyễn Lân.
Từ nguyên là gì ?
GS Nguyễn Lân giải thích: "Từ nguyên dt (từ: từng từ; nguyên: nguồn) Nguồn gốc của từ".
Giải nghĩa đại ý không sai. Nhưng giải nghĩa từ tố không chính xác. "Từ" ở đây không phải là "từng từ" mà là chữ và nghĩa của từ. "Nguyên" không phải là "nguồn" mà là nguồn gốc, ngọn nguồn. Hơn nữa, cái mà GS Nguyễn Lân gọi là "giải thích các từ nguyên" trong "Từ điển từ và ngữ Việt Nam" thực chất là giải nghĩa từ Hán Việt, không phải từ nguyên ? Ví dụ: "Yên cư lạc nghiệp (Hán: cư: ở; lạc: vui; nghiệp: nghề nghiệp)", hay “Học cụ (học: học, cụ: đồ dùng)”. Tất cả nghĩa của từ đang rành rành ra đó. Có gì là “từ nguyên” (nguồn gốc, nghĩa gốc và quá trình phát triển, biến đổi nghĩa của từ) đâu ? Chỉ khi nào GS Nguyễn Lân giải thích được tại sao từ ấy lại có nghĩa như vậy, nghĩa ban đầu của nó là gì, khi ấy mới gọi là "giải thích từ nguyên". "Từ nguyên" là nguồn gốc của từ ngữ kia
mà ? Ngay tại xứ sở cội nguồn của chữ Hán (bên Tàu) không phải từ nào
cũng tìm được nghĩa “từ nguyên”. Ý tưởng giải thích từ nguyên tất cả từ
Hán Việt của GS là không tưởng. Và nếu việc giải nghĩa gần 100% các từ
Hán Việt trong “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” đúng là “giải thích các từ nguyên”, chắc chắn GS Nguyễn Lân xứng đáng với tên gọi một “Nhà” nữa, đó là: “Nhà từ nguyên học Nguyễn Lân” !
Nói đến “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” của GS Nguyễn Lân, chính là nói đến hai cuốn từ điển khác cùng tác giả: “Từ điển từ và ngữ Hán Việt” và “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam” (cùng
xuất bản lần đầu năm 1989). Gần như toàn bộ nội dung và những sai sót
của hai cuốn từ điển này được GS Nguyễn Lân "bê" nguyên sang, cộng thêm
một lượng từ, ngữ biên soạn mới, làm nên "đại từ điển" “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” đồ sộ, hơn hai ngàn trang, với 51.700 từ và ngữ (2) Trong loạt bài "Những sai lầm mang tính hệ thống trong “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam” bạn đọc và chúng tôi đã từng phát hiện thấy GS Nguyễn Lân không hề biết trong Hán tự có chữ "đoài" (兌)-một quẻ trong Bát quái, chỉ hướng Tây (Xin xem lại Dĩ hư truyền hư kỳ 4). Thế nên GS Nguyễn Lân mới khẳng định như đinh đóng cột rằng trong câu "Làm trai cho đáng nên trai, Đánh đông, đông tĩnh đánh đoài, đoài tan" thì "đoài là từ địa phương có nghĩa là phía tây" (!) Hay từ "tải" trong câu "Thiên tải nhất thì" nghĩa gốc là "chở", lại được GS giảng "nghĩa đen là chở đi".
Trong "Từ điển từ và ngữ Việt Nam" GS Nguyễn Lân có mô tả cách viết một chữ Hán, đó là chữ "đinh": "Chữ đinh (chữ Hán có nét ngang và nét sổ dọc)". Dường như GS không nắm được các nét cơ bản của chữ Hán. Bởi cách mô tả trên đích thị là chữ T in hoa chứ không phải chữ "đinh".Vì chữ đinh 丁gồm nét ngang và sổ móc chứ không phải “sổ dọc”.
Nhà biên soạn "Từ điển từ và ngữ Hán Việt", "Từ điển từ và ngữ Việt Nam" mà không biết trong Hán tự có chữ "đoài"; không phân biệt được nghĩa gốc với nghĩa đen khác nhau thế nào. Lại đánh đồng chữ thần (神)trong tinh thần với chữ thần (辰)trong Bắc thần; chữ hàn (翰) trong “hàn mặc” với chữ hàn (寒) trong “hàn sĩ”, không phân biệt được chữ tọa (坐) là ngồi với chữ tọa (座) là chỗ ngồi
khác nhau thế nào, đến chữ "đinh" có hai nét cũng không biết nó gồm
những nét gì,v.v...Người ấy nên được đánh giá, nhìn nhận ra sao về trình
độ Hán Nôm ?
Căn cứ những sai sót nghiêm trọng, có hệ thống về giải nghĩa từ Hán Việt trong cuốn từ điển "3 in 1": "Từ điển từ và ngữ Việt Nam" của GS Nguyễn Lân, chúng tôi không sợ mang tiếng chủ quan mà đi đến kết luận rằng: Nhà
biên soạn từ điển-GS Nguyễn Lân có trình độ Hán Nôm rất hạn chế. Kiến
thức của GS nông cạn, lỗ mỗ tựa người không được học (kể cả tự học) Hán
Nôm đến nơi đến chốn. Thậm chí có thể nói là chưa qua bước nhập môn. Điều này có vẻ như là một kết luận gây “sốc”. Tuy nhiên, sự thật vẫn cứ phơi bày trong các sách từ điển của GS. Chúng tôi tin với
bạn đọc đã được học chữ Hán trong nhà trường hoặc tự học Hán văn sẽ dễ
dàng nhận ra điều này và đồng ý với chúng tôi. Tuy nhiên, kết luận của
chúng tôi có thể khó hiểu đối với nhiều người. Bởi trong lời nói đầu “Từ điển từ và ngữ Việt Nam”,
(cũng như phần tiểu sử), GS Nguyễn Lân luôn nhắc lại thời gian 5 năm ở
Học xá Trung ương-Trung Quốc. Một người học ở Trung Quốc với thời gian
dài như vậy lẽ nào không biết chữ Hán ? Điều này không khó lý giải. Bởi
theo chúng tôi, thứ ngôn ngữ mà GS Nguyễn Lân được tiếp xúc là ngôn ngữ Bạch thoại (Hán ngữ hiện đại), rất khác Hán cổ. Ngay cả người Tàu có trình độ Đại học, nếu không được học Hán cổ, khi xem Luận ngữ,
dù miệng đọc vanh vách nhưng chẳng hiểu sách nói gì. Ấy là chưa nói đến
nhiều trường hợp người Việt Nam sinh sống, làm việc bên Tàu, giao tiếp
làu làu như người bản địa, nhưng không hề biết chữ. Cũng có người đọc
được một số chữ Hán giản thể. Nhưng bất chợt bảo cầm bút viết lại, hay
giải nghĩa từ, ngữ Hán Việt thì đành chịu cứng ! Hán ngữ hiện đại đã khác Hán cổ. Nếu so với cách dùng từ Hán Việt trong tiếng Việt lại càng có nhiều điểm khác. Thế nên, sự vận dụng những gì thu được từ Hán ngữ hiện đại vào nghiên cứu tiếng Việt rất nhiều hạn chế. Đối với người không nhớ mặt chữ Hán như GS Nguyễn Lân càng muôn phần khó khăn.
Ông bà ta xưa có câu “Dốt lại hay nói chữ”. Ấy mới chỉ là "nói chữ" thôi. Nếu phải viết chữ Hán
thì dù cố tình giấu dốt cũng chẳng xong. Ví như câu chuyện về ông Thầy
cúng nọ ít chữ. Gia chủ tên Tròn, nhưng Thầy không nhớ chữ tròn
(Nôm) viết ra sao, đành khoanh một đường tròn vào bài văn cúng để ghi
nhớ. Có kẻ trong đám lễ biết được bèn chơi khăm, lấy bút nối thêm cái
gạch vào một bên hình tròn. Đến khi lễ, Thầy quên bẵng, cứ xướng tên
“Gáo” ra mà đọc. Gia chủ phản ứng. Thầy mới nhớ lại. Dù rất xấu hổ,
nhưng Thầy bực mình gắt lên: “Thế thằng nào mới thêm cái chuôi vào đây ?”. Câu chuyện Dốt lòi chuôi (hay Dốt có đuôi) người ta cho rằng bắt nguồn từ chuyện chữ nghĩa Hán Nôm mà ra.
Đã
cố tình giấu dốt như ông Thầy cúng nọ mà cuối cùng vẫn bị "lòi đuôi" ra
với chữ nghĩa. Huống chi, GS Nguyễn Lân không biết lượng sức mình, lấy
"sở đoản" làm "sở trường", chủ quan, xem thường chữ nghĩa, việc phô bày
kém dốt là điều không thể tránh khỏi.
Hán
học là bể học vô bờ. Chẳng ai dám tự phụ khoe tài. Với các công trình
từ điển, học thuật phức tạp, nhiều vị Hán học uyên thâm vẫn có thể mắc
sai sót như thường. Tuy nhiên, đó là những sai sót khó tránh khỏi trong quá trình làm sách. Với một Nhà biên soạn từ điển đã dám cầm bút để làm “Từ điển từ và ngữ Hán Việt”, “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” (có
giải nghĩa từ nguyên) mà trình độ kiến thức nông cạn, tra cứu sơ sài,
cẩu thả, để lại những sai sót nghiêm trọng, đến mức “xuyên tạc” tiếng
Việt như GS Nguyễn Lân là điều không thể chấp nhận.
Những
sai sót “Hai năm rõ mười”, sai sót có hệ thống của GS Nguyễn Lân sẽ còn
được người ta nhắc nhớ như một hiện tượng có một không hai trong lịch
sử biên soạn từ điển tiếng Việt. Ít nhất là chừng nào, những cuốn từ
điển chứa đựng vố số sai lầm mang tên GS Nguyễn Lân vẫn còn tiếp tục tái
bản và hiện diện trên giá sách, khiến người sử dụng "Tiền mất tật
mang".
Hoàng Tuấn Công
Chú thích:
(1)-
Khái niệm “kiến thức Hán Nôm” ở đây chúng tôi “quy ước” là sự hiểu biết
cơ bản về từ, ngữ Hán Việt trong tiếng Việt. Nghĩa là kiến thức tối
thiểu người làm "Từ điển từ và ngữ Hán Việt” như GS Nguyễn Lân phải có. Phân biệt với kiến thức Hán học, hay trình độ Hán văn cao hơn, có thể đọc, dịch, nghiên cứu những văn bản Hán cổ, di sản văn hóa Trung Hoa và Việt Nam cổ đại nói chung.
(2)-Bạn đọc có thể tham khảo thêm các bài: "Đọc lướt "Từ điển từ và ngữ Việt Nam" của Nguyễn Lân" của An Chi; "Hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt" của Lê Mạnh Chiến; "Từ điển từ và ngữ Việt Nam" của GS Nguyễn Lân, mục chữ cái nào cũng có sai sót" của Hoàng Tuấn Công trên một số trang mạng.
Kỳ sau
THỬ LÝ GIẢI NHỮNG SAI SÓT ĐỂ ĐỜI
của Nhà biên soạn từ điển-GS Nguyễn Lân
Kỳ 4
Sách của GS Nguyễn Lân giới thiệu tại Hội thảo |
Hoàng Tuấn Công
Một đời chính tả
Học sai nên hành sai
( Kỳ 7-phần II)
TCTP: Nhiều bạn đọc gửi thư hỏi, HTC là “Học giả, Nhà nghiên cứu, hay Nhà ngôn ngữ...” ? Xin thưa rằng KHÔNG ! HTC không phải và không hề dám nghĩ mình là một “nhà” nào trong số đó. HTC chỉ là người đọc sách nhưng không hoàn toàn tin vào sách. Nay cóp nhặt mấy điều không tin ấy chia sẻ cùng bạn đọc mà thôi.
Ngày thường, HTC phải “cùng nông dân ra đồng”, lại làm thêm lo chuyện cơm áo. Thời gian dành cho viết chỉ là tranh thủ. Bởi thế, thư trả lời hay bài đăng các kỳ có “chậm ra lò” (chữ của bạn Tam Ngo ) mong bạn đọc thông cảm.
Sau đây là kết quả của những giờ tranh thủ. Mời các bạn cùng xem !
Cuối
năm con Rắn (2013) ngay sau khi “Dĩ hư
truyền hư...” (loạt bài thứ 1) đăng được kỳ I, có độc giả gửi thư cho chúng
tôi. Đại ý hỏi: GS Nguyễn Lân trong bài
viết có phải là NGND, GS Nguyễn Lân, người
vừa được tổ chức Hội thảo khoa học về cuộc
đời và sự nghiệp, được vinh danh là “sư biểu của thời đại mới” và Hà Nội có
kế hoạch sẽ đặt tên ông cho một con đường dài 2000m ở nội thành Thủ đô không ?
Chúng tôi (khi ấy) đã thưa rằng: Dạ, không phải ! GS Nguyễn Lân chúng tôi nói
đến ở đây là một người khác. Đó là Nguyễn Lân (với tư cách) là tác giả của các
cuốn từ điển “Từ điển thành ngữ tục ngữ
Việt Nam”; “Từ điển từ và ngữ Hán Việt”; “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” và
nhiều sách công cụ khác. Vì trên các sách đều ghi tên tác giả là “GS
Nguyễn Lân” nên chúng tôi tôn trọng gọi y nguyên như thế. Với sự nghiệp
đào tạo, giảng dạy của GS, NGND Nguyễn Lân, hay chuyện Hà Nội sẽ có đường
Nguyễn Lân dài mấy mét mà bạn đọc nói đến, chúng tôi không biết rõ và cũng
không dám bàn tới. Nhưng chúng tôi luôn tin rằng, những người được đặt tên cho
đường phố, dù ở Thu đô hay tỉnh lẻ, ngoại thành hay nội thành, dù dài hay ngắn,
họ đều có công trạng cụ thể và xứng đáng với điều đó.
Đến
hôm nay (đã tới kỳ 7 của loạt bài thứ hai), mục đích duy nhất của chúng tôi vẫn
là chỉ ra những "sai lớn sai nhỏ" của GS Nguyễn Lân “rất có hại cho tiếng Việt” (chữ của Lê
Mạnh Chiến) đang còn nằm trên giấy trắng mực đen. Ví như sách “Muốn đúng chính tả” của GS lại thành “muốn
sai chính tả”chẳng hạn. Đó cũng chính là nhận xét của chúng tôi khi kết
thúc “trắc nghiệm” chính tả của GS Nguyễn Lân
thời soạn giả ở tuổi 40 tràn đầy trí lực.
NĂM
MƯƠI NĂM SAU
Năm
mươi năm sau, ở độ tuổi 90, GS Nguyễn Lân dồn hết tâm trí cho sách “Từ điển từ và ngữ
Việt Nam".
Dân gian hay nói “Thầy già con
hát trẻ”, “Gừng càng già càng cay”. Quả thật, đối với người lao động trí óc,
kinh nghiệm và sự tích lũy kiến thức vô cùng quan trọng. Thế nhưng, dường như cái “bóng ma” quái gở ở “nhà vệ xinh” và “hầm chú
ẩn” thời chiến tranh vẫn tiếp tục “ám" vào những con chữ của soạn giả. Bởi
kiểu sai chủ yếu của Nhà biên soạn từ điển vẫn là S thành X,; TR thành CH, R thành GI, R thành D... và ngược lại. Tuy nhiên, nếu "Muốn đúng chính tả" chỉ dừng
lại ở vấn đề chính tả, thì trong “Từ điển từ và ngữ Việt Nam" cái sai của GS
nghiêm trọng hơn nhiều: Từ chỗ viết sai
dẫn đến giảng sai luôn nghĩa của từ:
“Từ điển từ và ngữ Việt Nam":
-Bất chắc. Không chắc nhưng có thể cũng sẽ diễn ra: Phòng khi bất chắc dụng binh (Tú-mỡ)
*Sai: GS Nguyễn Lân
đã lẫn lộn giữa bất chắc (từ
do GS tự nghĩ ra) có nghĩa không chắc
và bất trắc với nghĩa không lường được trong câu thơ của Tú
Mỡ. -Việt Nam tự điển: "Trắc : Lường: trắc lượng. Nhân tâm nan trắc;
Người bất trắc không tin được”.
-Các
sách Từ điển tiếng Việt, Từ điển chính tả đều ghi nhận “bất TRắc”. Không có sách nào ghi nhận “bất chắc” như GS Nguyễn Lân.
Người
Việt chỉ nói không chắc chứ không
dùng kết hợp từ: bất (không) + chắc (chắc chắn) = không chắc. Sai sót này xuất
phát từ lỗi phát âm không phân biệt “ch”
và “tr” dẫn đến lỗi chính tả, và cuối cùng là lỗi từ vựng của Nhà biên soạn từ điển.
“Từ điển từ và ngữ Việt Nam":
-Chung kiếp
(chung: cuối cùng; kiếp: thời vận) Cuối
đời: đến Chung kiếp vẫn còn giữ tròn
được nhân phẩm.
*Sai: Vì
không hề biết đây là "sản phẩm" của sai chính tả, TR thành CH nên GS đưa ra một kết hợp từ hoàn toàn xa lạ và nghĩa hoàn toàn
mâu thuẫn. Nếu "kiếp" = "thời vận" như cách giảng của
soạn giả thì "chung kiếp"
phải hiểu là thời vận cuối cùng, sao
lại có nghĩa là "cuối đời"
? Mặt khác, chỉ có khái niệm TRung kiếp (中劫),
không có “CHung kiếp”.“Kiếp” ở đây
không phải là "thời vận" mà
là số kiếp, đời kiếp, tiếng Phạn là kiếp ba (劫
波). Hán Việt tự điển (Thiều
Chửu): “Tính từ lúc người ta thọ được 84.
000 tuổi, trải qua một trăm năm, lại giảm đi một tuổi, giảm mãi cho đến lúc chỉ
còn thọ được có mười tuổi, rồi cứ một trăm năm tăng thêm một tuổi, tăng cho đến
84.000 tuổi, trong một thời gian tăng giảm như thế gọi là một tiểu kiếp小劫. Hai mươi lần tăng giảm như thế
gọi là trung kiếp中劫.
Trải qua bốn trung kiếp thành, trụ, hoại, không là một đại kiếp大劫 (tức là 80 tiểu kiếp)”. Theo
Phật
học từ điển (Đoàn Trung còn): "Trung kiếp: Thường thì kêu
kiếp, tức là trung kiếp (kiếp
vừa vừa). Một trung kiếp có 20 tiểu kiếp,
tính ra có 336.000.000 năm".
-Việt Nam tự điển, Từ điển tiếng Việt, Từ
điển chính tả (1+2) không ghi nhận “chung
kiếp”với nghĩa “cuối đời”, chỉ có
chung thân nghĩa là suốt đời, hết đời.
“Từ điển từ và ngữ Việt Nam":
-Chiêu mộ1 (Chiêu: sáng; mộ buổi chiều) sáng và chiều:
Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng
(HXHương).
*Viết sai “TRiêu” thành “CHiêu”. Chữ “TRiêu” 朝 (bộ nguyệt vần TR) mới có nghĩa là buổi
sáng. Còn “CHiêu” 招 (bộ thủ vần CH) lại có nghĩa là vời, vẫy, tuyển mộ. Chiêu (招) mới chính là chữ có nghĩa như GS đã giảng trong mục Chiêu mộ2 (Chiêu: vời tới; mộ: cầu tìm).Tuy
nhiên, việc đặt chiêu mộ1
và chiêu mộ2 là cũng sai
nốt.Vì cách trình bày này chỉ đúng khi cả triêu
và mộ đều là những cặp từ cùng tự
dạng, đồng âm nhưng dị nghĩa. Cuối cùng và tất nhiên, phải trả lại cho câu thơ
của Hồ Xuân Hương là "Ba hồi triêu mộ chuông gầm sóng".
-Việt Nam tự điển:
“Triêu: buổi sớm (không dùng một mình). Triêu mộ: buổi sớm-buổi tối. Tiếng
chuông triêu mộ”.
-Các
sách Từ điển tiếng Việt, Từ điển chính
tả (1+2) đều ghi nhận TRiêu mộ với nghĩa là buổi sáng và chiều tối. Hồ Chí Minh có bài thơ “Triêu cảnh” (Cảnh buối
sớm). Không ai viết “chiêu mộ” như
GS Nguyễn Lân. Đây chính là kiểu sai ở “hầm chú ẩn”.
“Từ điển từ và ngữ Việt Nam":
-Con Dạ: Con đẻ ra từ lần thứ hai trái
với con so là con đẻ lần thứ nhất.
*Sai: con Rạ
(vần R) không phải con Dạ (vần D)
-Việt Nam tự điển:
Rạ: nói về những đứa con đẻ từ lần
thứ hai trở đi: con so, con rạ.
-Từ điển tiếng Việt, Từ điển chính tả
(1+2) đều ghi nhận con rạ.
“Từ điển từ và ngữ Việt Nam":
-Khịu:
Ngã xuống vì yếu hay vì đau: ôm chặt lấy
ngang lưng cho đỡ khịu.
*Sai:
Khuỵu chứ không phải “khịu”. Cái vần uỵu, khiến người ta phải đánh lưỡi, vừa vẹo môi vừa chu mồm như
huýt sáo để đọc ấy nó có tác dụng biểu ý co gấp của đôi chân hơn “khịu” nhiều. Cũng giống như khúc
khuỷu vậy. Vần uỷu thể
hiện sự hiểm trở quanh co gấp nhiều lần "khúc khỉu": "Dốc lên khúc
khuỷu dốc thăm thẳm, Heo hút cồn mây
súng ngửi trời" (Quang Dũng). Chính tả tiếng Việt nhiều khi không chỉ
phụ thuộc vào việc chúng ta quy ước với nhau viết như thế nào (dì hay gì; ti hay ty) mà còn phải viết đúng như vậy (khuỵu, chứ không phải khịu). Điều này phục thuộc vào sự gợi
nghĩa, biểu cảm của chữ nghĩa, âm đọc.
-Việt Nam tự điển:
không ghi nhận “khịu”. Chỉ có “Khuỵu: Gập khớp xương lại: Ngã khuỵu đầu gối”.
-Từ điển tiếng Việt:
Không ghi nhận "khịu". Chỉ có “Khuỵu:
Gập chân lại, không đứng thẳng nữa: khuỵu
chân lấy đà; hơi khuỵu gối xuống để chào. 2.Gập hẳn chân xuống, không đứng
thẳng lên được nữa, do bị trượt ngã hoặc do không còn sức. Ngã khuỵu”.
“Từ điển từ và ngữ Việt Nam":
-Sơ cứng:
Không linh hoạt: Giải quyết vấn đề một cách sơ cứng.
*Sai:
Xơ cứng (vần X), không phải "Sơ cứng" (vần S).
-Việt Nam tự điển không
ghi nhận từ "sơ cứng" hoặc xơ cứng.
-Từ điển tiếng Việt, Từ điển chính
tả tiếng Việt chỉ ghi nhận "xơ cứng", không
có “sơ cứng”.
“Từ điển từ và ngữ Việt Nam":
-Sềnh sệch
trạng từ Nói kéo thứ gì sát mặt đất.
Viết
đúng là Xềnh xệch, không phải
"sềnh sệch". Mặt khác, đây là động từ, không phải “trạng từ.”
-Từ điển tiếng Việt:
“Xềnh xệch: từ gợi tả dáng điệu lôi kéo lết mạnh trên mặt đất một cách không thương
tiếc.
-Từ
điển từ láy tiếng Việt: “Xềnh xệch”. Không ghi nhận “sềnh sệch”.
-Từ điển chính tả
(1+2): Xềnh xệch.
“Từ điển từ và ngữ Việt Nam":
-Khum lưng uốn gối: Chê kẻ có thái độ
quỵ luỵ: Không chịu khum lưng uốn gối trước kẻ cầm quyền.
*Sai:
KhOm lưng, không phải "khUm lưng". Trường hợp này có thể
sai do chính tả, có thể sai do khả năng tiếng mẹ đẻ hạn chế, không phân biệt
được ý nghĩa của "khum"
với khom. “Khum” có thể là khum xuống (như mui thuyền) hoặc khum lại, khum lên (như đôi bàn tay khum
lại để vốc nước, vốc gạo...) Nhưng khom lại
là hành động rất “người” liên quan đến cái lưng. Và vần om ở đây cũng rất quan trọng. Bởi om trong từ “khom” gợi
tả dáng điệu mang nghĩa gốc, âm gốc cho hàng loạt cấu tạo từ, biến âm khác xoay
quanh nó như: lom khom, lọm khọm, khom
khom, lòm khòm, khòm khòm... Nếu là "khum
lưng" như GS Nguyễn Lân, chắc hẳn từ láy "lom khom" sẽ biến
thành "lum khum". Và Bà Huyện Thanh Quan hẳn phải tái thế để sửa lại
thơ cho mình: "Lom khom dưới núi
tiều vài chú" thành: "Lum khum" dưới núi tiều vài chú (!)
-Việt Nam tự điển phân biệt rõ
giữa khum và khom: "Khum: cong vồng
lên: khum như mui thuyền; Khom: cúi cong lưng xuống: khom lưng. Văn liệu: Rặng cây khuất khuất, lưng cầu khom
khom". Trong trường hợp này nếu "văn liệu": "Rặng
cây khuất khuất, lưng cầu khum khum"
chỉ là một câu nói tầm thường. Nhưng khi nhân cách hóa "lưng cầu khom khom"
lại làm toát lên cả ý thơ, tạo nên một bức tranh ký họa cảnh tình bằng ngôn từ
rất sinh động. Việt Nam tự điển không
ghi nhận “khum lưng”.
-Từ điển tiếng Việt: "Khom lưng uốn gối:
tả thái độ khúm núm, quỵ luỵ". Từ điển này không ghi nhận "khum lưng".
Từ điển chính tả (1+2) cho kết quả
tương tự.
“Từ điển từ và ngữ Việt Nam":
-Lâm dâm 1.
Nói
nhỏ trong miệng không ra tiếng: Khấn vái lâm dâm 2. Nói mưa nhỏ mà lâu: Mưa
lâm dâm ướt dầm hoa sói (cd) Nói đau ít và kéo dài ở trong bụng: Đau bụng lâm dâm.
*Sai: Lâm Râm (vần R), không phải “lâm Dâm” (vần D).
-Từ điển tiếng Việt
không ghi nhận lâm Dâm. Chỉ có "Lâm Râm: [mưa] nhỏ hạt và kéo dài, không thành cơn. [đau] âm ỉ
kéo dài, không thành cơn. đau bụng lâm Râm". Riêng với khấn vái, chỉ có
"khấn vái lầm rầm" không có khấn vái "lâm râm" càng không
có khấn vái "lâm dâm".
“Từ điển từ và ngữ Việt Nam":
-Muỗi như CHấu:
Muỗi nhiều quá: Ở vùng đó, muỗi như CHấu.
*Sai:
TRấu (vần TR) không phải “CHấu” vần (CH). Có nghĩa, TRấu đây là vỏ ngoài của hạt thóc khi xay ra, không phải con châu CHấu ngoài đồng.
Viết
sai chính tả, nhưng có thể GS Nguyễn Lân sẽ đưa ra lý giải: muỗi nhiều giống
như đàn châu chấu. Tuy nhiên, sự xuất
hiện của châu chấu có khi nhiều, khi ít. Mà nó ở tận ngoài đồng, có tập tính
vừa bay vừa nhảy, không hút máu người, hình dáng cũng khác xa con muỗi. Bởi
thế, rất khó để so sánh châu chấu với con muỗi hoặc đồng nghĩa châu chấu với sự
gì rất nhiều. Nhưng muỗi là sinh vật biết bay, trấu không biết bay. Trấu cũng
chẳng đốt người ? Vậy tại sao muỗi lại được so sánh với trấu ? Xưa kia, nông
dân hay dùng bổi (hạt thóc lép, lẫn gié lúa, cọng rơm nát-phụ phẩm của quá
trình tuốt lúa) vãi thêm trấu lên trên và xung quanh để làm đống nhấm (dấm) tạo
khói hun muỗi. Bởi thế, khi vãi, muôn ngàn mảnh vỏ trấu bay xuống, xung quanh
đàn muỗi vẫn vo ve, hung hăng, thậm chí bay lẫn cả với trấu, khiến người ta
liên tưởng bầy muỗi cũng nhiều như trấu. Nhiều như chính những vỏ trấu đem ra
để tiêu diệt muỗi. Người Thanh Hóa nói rõ hơn: “Muỗi nhiều như trú (trấu) xay”. Trong khi Từ điển tiếng Việt cũng ghi nhận: "Muỗi nhiều như vãi
TRấu".
Nói
thêm: Có một thứ cũng được người ta ví với muỗi, đó là
ong: "Muỗi như ong". Vì ong
cũng đốt người, cũng kêu vo vo, vu vu, cũng có hình dạng, kiểu bay giống như
muỗi nên được ví như muỗi. (Trong tự nhiên còn có giống ong gọi là ong muỗi. Chúng có kích thước, hình dáng
tựa con muỗi). Để nói muỗi nhiều, còn có một hình ảnh được so sánh nữa, đó là
tiếng sáo. "Muỗi kêu mà như sáo
thổi, Đỉa lềnh tựa bánh canh" (Lời bài hát “Em về miệt thứ”, Ý nói đất Cà Mau thời còn hoang vu, điều kiện
sống và lao động rất khổ cực). Tiếng bầy muỗi đói kêu vu vu, vo vo rất hung
hăng nên được ví như tiếng sáo. Đỉa lượn dưới nước như thể bánh canh, vì kích
thước sợi bánh canh cũng mong mỏng, mềm mềm, lượn lượn như thể con đỉa.
Mọi
hình tượng được dân gian lấy để so sánh cái này với cái kia đều có lý do của
nó. Đâu phải muốn gán ghép thế nào cũng được ?
“Từ điển từ và ngữ Việt Nam":
-Rắn GIáo Thứ rắn
đầu nhọn, mình dài: Thằn lằn, rắn
giáo.
Cái
sai này xuất phát từ chỗ phát âm không phân biệt được Gi và R, dẫn đến viết
sai chính tả rồi suy diễn. Ở nước ta không có loại rắn nào tên là “rắn GIáo”, mà chỉ có rắn ráo. Trường hợp ở địa phương nào đó có
một giống rắn gọi là ‘rắn giáo” (do “đầu nhọn, mình dài”) thì bên
cạnh loài “rắn giáo” này, GS phải có thêm
mục từ phổ thông cho con “rắn ráo” chứ ? Nhân tiện cũng nói về mặt từ ngữ mô tả
rắn của GS Nguyễn Lân. Theo chúng tôi được biết, ở Việt Nam chỉ có một loài “rắn
vuông”, “đặc hữu” cùng quê với anh chàng nói khoác trong truyện cười “Con rắn
vuông”. Còn đã là rắn, con nào cũng “mình
dài”, đâu phải chỉ con “rắn giáo”
của Giáo sư Nguyễn Lân mới có đặc điểm nhận biết “mình dài” ?
Thơ
Lê Quý Đôn: “Rắn đầu biếng học”: “Ráo
mép chỉ quen lời lếu láo”. Thường ngày, nếu muốn nói phích nước hay ấm
không còn giọt nào, người ta cũng hay chơi chữ là “có con rắn ráo ở trong đó”. Dược điển Đỗ Tất Lợi
(mục nói về “Rắn”): Rắn ráo
hay rắn hổ chuối. Sách không ghi nhận “rắn giáo”. Các sách từ điển tiếng Việt cũng không sách nào ghi nhận “rắn
giáo” mà chỉ có “rắn ráo”.
“Từ điển từ và ngữ Việt Nam":
-Sả:
lá sả, chim sả, lăn sả vào.
*Sai:
Lăn Xả (vần X), không phải "lăn Sả"
(vần S). “Xả” ở đây chính là trong từ “Xả thân vì nước”.
“Từ điển từ và ngữ Việt Nam":
-Xàm:
Tầm bậy: Tính nó hay nói xàm.
-Xàm bậy:
Bậy bạ lắm: Những lời nói xàm bậy.
-Xàm xỡ:
Sỗ sàng đối với phụ nữ: Chày sương chưa
nện cầu Lan, Sợ lần khân quá ra xàm xỡ chăng (Kiều)
*Đây
là kiểu sai S thành X, (kiểu nhà "vệ sinh" thành nhà "vệ xinh") lỗi chính tả Giáo sư từng mắc 50 năm trước đây trong “Muốn đúng chính tả” và đã được chúng
tôi nêu ra trong phần I của “Một đời chính tả...”.
-Quốc âm tự vị (Xuất
bản 1895): Sàm: gièm. Sàm nịnh, Sàm siểm, sàm dua, sàm ngôn.
-Việt Nam tự điển (Xuất
bản 1931): “Sàm nói dèm: Miệng sàm dệt gấm thêu hoa. Sàm báng: dèm pha: nghe lời sàm báng mà làm hại kẻ trung lương”.
-Từ điển tiếng Việt (Bản
mới 2013): “Sàm sỡ. ăn nói sàm
sỡ. cử chỉ sàm sỡ”; sàm
ngôn. lời gièm pha, nói xấu. lời sàm
ngôn.
-Từ điển Truyện Kiều (xuất
bản 1974): Sàm sỡ: Sỗ sàng, thô bỉ. Vd Sợ
lần khân quá ra sàm sỡ chăng ?
-Từ điển chính tả
(1 và 2) Sàm: sàm báng, sàm nịnh, sàm sỡ.
-Hán Việt tự điển
(Thiểu Chửu) Sàm: Gièm
pha, thêu dệt các lời nói bậy làm cho mất cái hay cái phải của người đi gọi là sàm”.
“Từ điển từ và ngữ Việt Nam":
-Sâu đặm:
Rất thắm thiết. tình cảm sâu đặm.
*Sai,
đẬm chứ không phải "đẶm"
-Việt nam tự điển:
Đậm: Hơi mặn, không nhạt: canh hơi đậm. 2.Hơi
đẫy: cô kia hơi đậm người. Đậm
đà: cũng nghĩa như trên: câu chuyện đậm đà, người coi đậm đà.
-Từ điển tiếng Việt:
có ghi nhận “sâu đặm” nhưng xếp vào phương
ngữ, từ ít dùng và hướng dẫn xem, sử dụng “sâu đậm”. Một cuốn từ điển biên
soạn và in ấn ở thế kỷ 21 như sách của GS Nguyễn Lân, “sâu đậm” viết thành “sâu
đặm” có thể xem như sai chính tả. Vì trong thực tế không ai viết như vậy.
“Từ điển từ và ngữ Việt Nam":
-Trôm trôm:
danh từ (thực vật) Loài cây lớn, hoa đỏ, quả ăn được: Quả trôm trôm có dầu.
*Việt
Nam không có giống thực vật nào tên gọi “trôm trôm”, dù là thân gỗ hay thân
thảo, là hoa hay quả. Có sự lầm lẫn “nửa nọ nửa kia” ở đây chăng ? Nếu nói đến
tinh dầu thì đó là quả cây trôm,
không phải là “trôm trôm”. Còn nói về
“quả ăn được”, thuộc họ Bồ hòn, đó là quả “chôm chôm” không phải “trôm trôm”. Giáo sư là người Việt, làm
từ điển cho người Việt dùng sao ngôn ngữ lại bất đồng đến thế ?
Sai
chính tả không chỉ khiến GS Nguyễn Lân đưa ra những từ không hề có trong tiếng
Việt mà còn tạo ra một dị bản “không giống ai”, kèm theo cách hiểu, cách giải
thích không thể chấp nhận. Đó là trường hợp “Áo cứ tràng...” thành “Áo cứ
chàng...”
Áo cứ chàng, làng cứ xã. Chê người có tính ỷ lại không biết tự mình
lo việc cho mình: Chị
ta dạo này thì áo cứ chàng, làng cứ xã, chẳng muốn làm ăn gì.
Chính
xác hình thức của câu này phải là “Áo cứ tràng,
làng cứ xã”. “Tràng” là cái cổ áo, bộ phận quạn trọng nhất của cái áo. Cũng như
“xã” (xã trưởng, lý trưởng) là bộ phận chủ chốt, quan trọng nhất của làng (xin
xem bài CHÀNG hay TRÀNG, ).
Đây là một trong những sai sót được soạn giả bê nguyên xi từ cuốn Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam.
“Từ điển thành ngữ tục
ngữ Việt Nam":
-Ăn
Sổi
ở thì.
*Sai:
Ăn Xổi (vần X) không phải “ăn Sổi” (vần S). Đáng chú ý là lỗi chính tả này GS
Nguyễn Lân mắc ngay trong phần lời nói đầu của sách “Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam”. Chắc soạn giả chưa bao giờ
được ăn hay nếm thử. “Xổi” là món ăn
dân gian phổ biến: Dưa muối xổi, cà muối
xổi.
-Quốc âm tự vị:
“Xổi: mới, xắp thì. Làm
xổi: làm liền bây giờ. Bóp
xổi: dụng bóp muối mà ăn liền bây
giờ (dưa, cải). Ăn xổi: Ăn đồ làm theo
cách ấy".
-Việt Nam tự điển:
“Xổi: tạm bợ cho có để mà dùng ngay.
Dưa muối xổi; Ăn xổi ở thì; buôn xổi; làm
xổi".
Trong sách “Tôi yêu tiếng Việt”, GS Nguyễn Lân viết: “Chính tả có nghĩa là viết đúng. Ở bất cứ nước nào, người ta cũng coi việc đúng chính tả là một sự chứng tỏ trình độ văn hóa của người viết (...) Ở miền Bắc, người ít học khó phân biệt các phụ âm CH và TR, S
và X; D, GI và R;
còn có địa phương lẫn lộn cả l và n”(**). Đã qua 12 kỳ, với hai loạt bài
phê bình (16 bài đăng) dài tới cả trăm trang viết, chúng tôi luôn đưa ra ý kiến
phản bác GS Nguyễn Lân. Nhưng lần này, với kết luận chắc nịch về lĩnh vực thế
mạnh của Giáo sư, chúng tôi thấy có thể tin được. Ít nhất cũng là nửa tin nửa
ngờ. Thậm chí, tin nhiều hơn ngờ !
Trên đây là một phần “cốt lõi của cốt
lõi; sự thật của sự thật” về "huyền thoại" chính tả-GS Nguyễn Lân. Theo
chúng tôi, tác giả "Muốn đúng chính
tả" và "Từ điển từ và ngữ
Việt Nam" vẫn sẽ mãi mãi đi vào “huyền thoại”. Tuy nhiên lịch sử biên
soạn từ điển Việt Nam
sẽ phải vẽ lại chân dung một "học
giả". Bởi “Nhà biên soạn từ điển vô
địch”, “ông vua chính tả” đã khước từ "ngôi vương" danh giá mà
thiên hạ yêu mến suy tôn. Âm thầm và lặng lẽ, người đã lựa chọn chiếc
"ngai vàng" khiêm tốn mà "thần dân" không hề phù ủng để “đăng
cực”: Chiếc "ngai" giành cho những ông "Chúa" viết sai
chính tả !
HTC
(Hết phần II)
Mời đón xem
phần III
Học sai nên hành sai
(**)
Dẫn theo:“Một số trở ngại trong sự thống nhất chính tả của ta”-GS.NGND
Nguyễn Lân- Rút trong cuốn “Tôi yêu
tiếng Việt” -NXB Khoa học Xã hội-1995, Tạp chí Tác phẩm mới-số 3/2013 đăng lại ở Mục Chuyện ngôn ngữ.
Những tài liệu đã dẫn
và tham khảo:
1,“Đại
Nam quấc âm tự vị”
(Dictionnaire ANNAMMITE) Huình Tịnh Paulus Của - Sài Gòn 1895.
2,Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam -
GS Nguyễn Lân (NXB Văn Hóa -
1989)
3,Việt Nam tự điển
-
Hội Khai Trí Tiến Đức - Nhà in Trung Bắc Tân Văn - 1931 (bản Scan của
vietnamtudien.org )
4, Từ điển An Nam-Lusitan-La tinh (Thường gọi Từ điển Việt - Bồ - La)
Alexandre De Rhodes - Phiên dịch: Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính -
NXB Khoa Học Xã Hội - 1991.
5, Hán Việt tự điển - Thiều Chửu - NXB
Thành phố Hồ Chí Minh - 2004.
6. Hán Việt Từ điển - Đào Duy Anh biên
soạn - Hãn Mạn Tử hiệu đính - NXB Trường Thi - Sài Gòn 1957.
7. Từ điển truyện Kiều-Đào
Duy Anh-NXB Khoa học xã hội-1974.
8. Từ điển chính tả-Hoàng
Phê-NXB Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học-2006.
9.Từ điển tiếng Việt-Hoàng Phê chủ
biên-In lần thứ 5 có sửa chữa bổ sung-NXB Đà Nẵng-2013.
9.Từ điển chính tả tiếng Việt-Nguyễn
Thế Truyền-NXB Thanh Niên-2012.
10.Từ điển từ láy tiếng Việt-Viện
ngôn ngữ học-NXB Khoa học xã hội-2011.
11.Từ điển Nho Phật Đạo-Lao Tử- Thịnh Lệ
(chủ biên) -NXB Văn Học-2001
12.Những cây
thuốc và vị thuốc Việt Nam-Đỗ Tất Lợi-NXB Khoa học kỹ
thuật-1977.
Thứ Tư, ngày 09 tháng 7 năm 2014
Nguyễn Cừ đã “GIẢI NGHĨA TỤC NGỮ VIỆT NAM” như thế nào ? (phần I)
Hoàng Tuấn Công
Chúng tôi có trong tay cuốn “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” của Nguyễn Cừ khi đang viết dở loạt bài thứ nhất “Dĩ hư truyền hư-Những sai lầm mang tính hệ thống trong từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân” (cuối năm 2013). Lần đầu tiên thấy một cuốn sách có cái tên tự tin, hấp dẫn như vậy nên tôi xem ngay. Tuy nhiên, chỉ 15-20 phút lật giở đã thấy sách có quá nhiều “vấn đề”. Mà những “vấn đề” ấy lại khá giống với GS Nguyễn Lân!
Ví dụ “Chuyên gia tiếng Việt tại Liên xô, Giám
đốc, Tổng biên tập NXB Văn học"-tác giả “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” không phân biệt được thế nào là thành
ngữ, thế nào là tục ngữ; thế nào là ngữ danh từ, quán ngữ; giảng sai, hiểu sai
thành ngữ, tục ngữ; chép sai văn bản, viết sai chính tả tràn lan,v.v... trong cuốn
sách có độ dày gần 500 trang(1).
Xin
được trao đổi cùng tác giả và độc giả:
Phần I
KHÔNG PHẢI TỤC NGỮ
Nguyễn
Cừ làm sách "Giải nghĩa tục ngữ
Việt Nam" nhưng lại chưa hiểu tục ngữ là gì. Đó là chuyện khó tin nhưng
có thật. Xin dẫn chứng:
Ngay
phần “Lời giới thiệu”, tác giả "Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam"
viết:
-“...nhìn
hình thức bề ngoài thì tục ngữ chỉ là những tập hợp từ có cấu trúc ngôn ngữ
bền vững, chặt chẽ, được dùng như lời ăn tiếng nói giao tiếp hàng
ngày, rất ngắn gọn, xúc tích, (HTC nhấn mạnh) có vần điệu và nhịp
điệu...” (đoạn 1).
-
“Tục ngữ là biểu hiện cao nhất của lời ăn
tiếng nói của dân tộc Việt Nam, biểu hiện sự sử dụng ngôn từ, vốn từ vựng phong
phú của tiếng Việt. Thông qua tục ngữ, tiếng Việt đã phát triển ở một trình độ
cao, xứng đáng là ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam” (đoạn 2).
Ở
đây (đoạn 1) Nguyễn Cừ đã nhận lầm thành ngữ ra tục ngữ. Bởi “những tập hợp từ có cấu trúc ngôn ngữ bền
vững, chặt chẽ...” là đặc điểm hình thức của thành ngữ chứ không phải tục
ngữ. Về (đoạn 2) khi Nguyễn Cừ nói đến “biểu
hiện sự sử dụng ngôn từ, vốn từ vựng phong phú của tiếng Việt”, rồi “tiếng Việt đã phát triển ở một trình độ
cao, xứng đáng là ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam” chính là nói đến “hiện tượng ngôn ngữ” của thành ngữ mà
các nhà nghiên cứu đã thống nhất, chứ không phải là “hiện tượng ý thức xã hội” của tục ngữ. Xin được nói rõ hơn:
Về
hình thức: tục ngữ là một câu, dù ngắn đến đâu cũng diễn tả một ý trọn vẹn; thành ngữ chưa phải là một câu mà chỉ là một phần câu, một tập hợp từ bền vững. Về nội dung: tục ngữ là kinh nghiệm,
tri thức được diễn đạt theo lối khẳng
định, tổng kết quy luật, chân lý của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội;
còn thành ngữ mới chỉ dừng ở mức độ so
sánh, ví von, nhận xét, diễn đạt một
cách hình ảnh về sự vật, hiện tượng nào đó mà thôi(2).
Bởi
vậy, trong tục ngữ có thành ngữ, nhưng trong thành ngữ không có tục ngữ. Nói
cách khác, thành ngữ là một tập hợp từ
gợi tả, giàu hình ảnh (thường dùng phép so sánh) mà (đôi khi) tục ngữ, ca dao lấy
làm chất liệu để cấu thành chứ không phải chính là tục ngữ. Nếu thành ngữ giống
như cái túi áo trên ngực áo, thì tục ngữ là cả cái áo. Cái túi áo chỉ làm phong
phú thêm chức năng và góp phần tô điểm cho cái áo chứ không phải là chính cái
áo. Ví dụ, trong câu tục ngữ: “Gái phải
hơi trai như thài lài gặp cứt chó”, thì “như
thài lài gặp cứt chó” là thành ngữ nằm trong tục ngữ. Hoặc “Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ”, “như kiến thấy mỡ” là thành ngữ; “Rẻ như bèo nhiều heo cũng hết”, “rẻ như bèo” là thành ngữ; “Đẹp như tiên, lo phiền cũng xấu”, “đẹp như tiên” là thành ngữ, được tục
ngữ dùng làm văn liệu, trở thành một phần
trong câu tục ngữ. Hoặc câu ca dao: “Chẳng
tham ruộng cả ảo liền, Tham vì cái bút, cái nghiên ông đồ” thì “Ruộng cả, ao liền” là thành ngữ được ca
dao lấy làm văn liệu.
Về
cách dùng: khi vận dụng tục ngữ vào lời ăn tiếng
nói, người ta muốn tăng thêm sức thuyết phục cho lời nói của mình, qua đó chứng
minh, khẳng định một kinh nghiệm, một quy luật nào đó đã được tổng kết, đúc rút
một cách chắc chắn. Ví dụ, khi nói: “Quá
trưa sang chiều trời sẽ tạnh cho mà xem” sẽ không thuyết phục bằng cách nói
vận dụng thêm câu tục ngữ: “Quá trưa sang chiều trời sẽ tạnh, vì Mưa chẳng qua ngọ, gió chẳng qua mùi mà
!”. Trong đó, Mưa chẳng qua ngọ, gió
chẳng qua mùi là một đúc kết, một kinh nghiệm, sự khẳng định dựa trên quy
luật thời tiết của nhân dân. Còn khi vận dụng thành ngữ, người ta chỉ có thể
làm cho lời nói của mình hay hơn, giàu hình ảnh, hấp dẫn hơn mà thôi. Ví dụ,
thay vì nói: “Buổi sáng trời mưa tầm tã”, người ta nói: “Buổi sáng trời mưa như trút nước”. Câu nói thứ hai hay
hơn, giàu hình ảnh hơn vì đã vận dụng thành ngữ “Mưa như trút nước”.
Tuy nhiên, “Mưa
như trút nước” hoàn toàn không phải là tri thức, là kinh nghiệm hay quy
luật của tự nhiên. Hoặc thay vì nói: “Người anh hôi lắm”, ta nói: “Người anh hôi như cú ấy”; Thay vì nói: “Anh đi
chậm quá” ta nói: “Anh đi chậm như rùa
ấy”. Thì “Hôi như cú” (hoặc Hôi như tổ cú), “Chậm như rùa” là những thành ngữ mà khi ta vận dụng sẽ khiến lời
nói, câu viết giàu hình ảnh hơn cách nói thông thường. Bản thân “hôi như cú”, “chậm như rùa” không phải
là một đúc kết, kinh nghiệm (đặc
trưng của nội dung tục ngữ), mà chỉ là nhận
xét, so sánh, phán đoán (đặc trưng nội dung thành ngữ). Bởi vì rùa không
phải là chậm nhất (thế nên còn nói Chậm như sên),
cú không phải là hôi nhất (mà chắc gì cú đã hôi ? Chẳng qua cú ăn thịt những
con vật bẩn thỉu như chuột bọ, côn trùng, hình thức lại xấu xí nên người ta cảm
tưởng như vậy. Người viết bài này từng tiếp xúc với cú muỗi, cú vọ, thấy chúng
không hề hôi tí nào. Ngược lại chúng sạch sẽ như rất nhiều loài chim khác). Hay
câu thành ngữ “Xấu như ma”, có ai
trông thấy ma bao giờ đâu mà biết nó xấu hay đẹp ? Rõ ràng, sự bóng bẩy trong
diễn đạt, tính phán đoán, tính tương đối trong nội dung của thành ngữ rất khác so
với sự chuẩn mực, khoa học, tri thức qua lối diễn đạt mang tính khẳng định của
tục ngữ.
Do
nhận lầm thành ngữ ra tục ngữ nên trong "Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam" chủ
yếu Nguyễn Cừ tập hợp các đơn vị thành ngữ là chính. Chúng tôi không thể nhặt
hết số thành ngữ này mà chỉ nêu ra làm ví dụ:
Cả nhà, cả ổ; Bạc tình, bạc nghĩa;
Công chúa phải gai mồng tơi; Tai to, mặt lớn; Tan xương, nát thịt; Sưu cao,
thuế nặng; Tác oai, tác quái; Quyền sinh, quyền sát; Quan cao lộc hậu; Quân sư
quạt mo; Đứng núi này trông núi nọ; Kén cá, chọn canh; Liễu chán hoa chê; Kiễu
ép, nài hoa. Nam thanh nữ tú; Phận bạc như vôi;
Tài tử giai nhân; Trâm gãy bình rơi; Bán sấp, bán ngửa; Hòa
cả làng; Hoa trôi, bèo dạt; Rồng đến nhà tôm; Rừng thiêng, nước độc; Ruộng cả
ao liền; Trêu hoa, ghẹo nguyệt; Trên bến, dưới thuyền; Trên đe, dưới búa; Trơn
lông, đỏ da; Ăn bớt, ăn xén; Ăn chẳng bõ dính răng; Ăn chẳng bõ nói; Ăn đậu ở
nhở; Ăn hương ăn hoa; Anh hùng lỡ vận; Anh hùng mạt lộ; Bé xé ra to; Chán đến
mang tai; Chán ngắt, chán ngơ; Châu chấu đá voi; Chết cay, chết đắng; Chưa ăn
đã lo đói; Chung lưng, đấu cật; Cổ cày vai bừa; Có nếp, có tẻ; Của chìm của
nổi; Đa sầu đa cảm...
Thậm
chí, dạng thành ngữ rất dễ nhận biết, với cấu trúc có liên từ “như” vẫn được
Nguyễn Cừ “tuyển” vào sách “giải thích
tục ngữ” rất nhiều. Ví dụ:
Da như trứng gà bóc; Da trắng như
ngà voi; Mê như điếu đổ; Tóc mây, mày nguyệt; Trơ như đá, vững như đồng; Xấu
như ma; Xấu như dạ xoa; Xấu như cú; Xấu như ma lem; Xấu như quỷ; Xấu như ma
mút. Câm như thóc trầm ba mùa. Chậm như rùa; Chậm như sên; Yếu như sên. Dại như
vích; Dày như mo cau; Gắt như mắm tôm; Giấu như mèo giất cứt; Chắc như cua
gạch; Chán như cơm nếp nát; Dai như đỉa đói; Nợ như chúa Chổm; Oai oái như phủ
Khoái xin cơm; Chắc như đinh đóng cột; Chạy như đèn cù; Chạy như cờ lông công;
Chạy như chạy loạn; Chết đuối vớ được cọc (nói gọn từ: Như chết đuối vớ được cọc-HTC) Chết mê, chết mệt; Chở củi về rừng (nói
tắt của: Như chở củi về rừng-HTC) Dễ như trở bàn tay,v.v...
Như
vậy,
trên đây chúng ta thấy Nguyễn Cừ đã sai lầm khi đem khái niệm thành ngữ
để
định nghĩa cho tục ngữ, và đem tiêu chí thành ngữ để lựa chọn “tục ngữ”.
Làm thế khác nào muốn đi chọn mua một đàn cừu nhưng lại căn cứ vào mô
tả về con dê để mua ? Cách làm trái khoáy này của Nguyễn Cừ khiến sách
giới hạn “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” nhưng
thực tế nội dung lại có cả thành ngữ lẫn tục ngữ. Thậm chí số lượng thành ngữ
nhiều hơn tục ngữ. (Với GS Nguyễn Lân, chúng ta không biết Nhà biên soạn từ
điển có phân biệt được thành ngữ với tục ngữ hay không. Vì sách “Từ
điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam” sưu tầm và trộn lẫn cả hai loại này theo vần ABC).
Tuy
nhiên, “vấn đề” không chỉ dừng ở đó. Xác định sách chỉ “giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” và trong lời giới thiệu, Nguyễn Cừ cũng
đưa ra định nghĩa để làm tiêu chí tuyển chọn “tục ngữ”. Tuy nhiên, phần cuối
lời giới thiệu, tác giả lại bất ngờ tuyên bố: “Một điều dễ nhận thấy trong cuốn sách này là có nhiều câu thành ngữ,
thậm chí cả ca dao cũng được đưa vào, mong bạn đọc thông cảm và hiểu cho rằng,
tục ngữ và thành ngữ có nhiều nét giống nhau ở cả hình thức cấu tạo và nội
dung. Nếu tục ngữ là những câu ngắn gọn, có vần điệu, đúc kết tri thức,
kinh nghiệm sống về tự nhiên, xã hội thì thành ngữ cũng là tập hợp từ cố định
dùng quen hàng ngày có vần, có ngắt nhịp cũng mang nội dung xã hội, đạo lý, đạo
đức.” (HTC nhấn mạnh)
Phải chăng, Nguyễn Cừ không chắc chắc những đơn vị tục ngữ được tuyển vào "Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam" là thuần tục ngữ nên đã "gài" vào những câu như vậy ? Qua đó, xóa nhòa đi ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ, giữa tục ngữ và ca dao ?
Phải chăng, Nguyễn Cừ không chắc chắc những đơn vị tục ngữ được tuyển vào "Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam" là thuần tục ngữ nên đã "gài" vào những câu như vậy ? Qua đó, xóa nhòa đi ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ, giữa tục ngữ và ca dao ?
Như vậy, đọc
những gì Nguyễn Cừ viết, chúng ta thấy rõ: tác giả lẫn lộn lung tung khái niệm
thành ngữ, tục ngữ, cuối cùng đánh đồng tục ngữ với thành ngữ là một. (Đó là
cách hiểu thành ngữ, tục ngữ theo lối sơ khai của một vài người các đây ngót
trăm năm !) (3)
Với
độc giả, việc lẫn lộn hoặc không phân biệt được thành ngữ với tục ngữ là chuyện
thường. Thế nhưng, với nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, hoặc người đã có thể
vững tin cầm bút viết nên sách “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” lại là
điều đáng ngạc nhiên.
Xem
“Giải
nghĩa tục ngữ Việt Nam”, chúng ta từ ngạc nhiên chuyển sang kinh
ngạc. Bởi
Nguyễn Cừ đã “tuyển” rất nhiều những đơn vị không phải thành ngữ, cũng
chẳng phải tục ngữ. Những ví dụ sau đây chỉ là cụm từ đơn thuần, ngữ
danh từ, câu đố hoặc từ láy:
Uốn a uốn éo; Õng à õng ẹo; Đú đa
đú đởn; Lép ba, lép bép; Lệt bà lệt bệt; Núng na núng nính; Thưa thưa bẩm bẩm; Bỏ vật, bỏ vạ; Chán ngấm, chán ngẩm; Ngẩn ngẩn ngơ ngơ; Chán chê, mê mỏi; Da trắng, tóc dài; La lối om sòm; Làm
tình làm tội; Anh em đường ai nấy đi; Cao tằng tổ khảo; Thờ chồng, nuôi con; Con
dì, con già; La làng la xóm; Khai quốc công thần, Sách gối, đầu giường; Làm
duyên, làm dáng; Nạp thái vu quy; Làm nũng, làm nịu; Lòng xuân phơi phới; Chó
huyền đề; Cổ cao ba ngấn; Tam tòng, tứ đức; Má lúm đồng tiền; Thắt đáy lưng
ong; Tuần trăng mật; Chín tháng mười ngày; Trong quan; ngoài quách; Nơi chôn nhau, cắt rốn; Nói chuyện
đường dài; Núi Tản, sông Đà; Nói chuyện tầm phào; Mưa bóng mây; Con đóng khố, bố cởi truồng (đây
là câu đố về cây măng, cây tre-HTC) Long,
ly, quy, phượng; Rét nàng Bân; Tăng gia sản xuất; Ái nam, ái nữ; Cạo đầu
đi tu; Ăn canh rau má; Ăn cho sướng miệng; Ăn được, ngủ được; Bưng cơm,
rót nước; Bớt mồm, bớt miệng; Chán ngắt, chán
ngơ; Cấu xé lẫn nhau; Có chừng, có mực; Cạy răng không nói; ...
Sai
lầm trên đây của Nguyễn Cừ chính là sai lầm mà GS Nguyễn Lân từng mắc trong “Từ
điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam...(Chúng
tôi từng nêu trong loạt bài Những sai lầm mang tính hệ thống trong Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân) Nguyên nhân của sai lầm này không gì
khác ngoài việc tác giả không nhận diện được thành ngữ, tục ngữ, không biết
đích xác thành ngữ tục ngữ là gì. Với Nguyễn Cừ, điều này càng được khẳng định bởi
có những câu chỉ là cách nói vui thời hiện đại, ghán ghép kiểu đầu Ngô mình Sở, hoặc cùng lắm là câu hát đồng dao, ca dao cười: Làm trai cho đáng nên trai, Pari cũng tới,
Ha-Oai cũng từng; Tình yêu chớp bể mưa nguồn, Em châu chấu đá anh chuồn chuồn
bay; Yểu điệu thục nữ, quân tử mê ly, Băm bầu, băm bí, băm chị thằng Ngô, băm cô bán dầu, cô bán cho tao, mấy tiền một lít...cũng được Nguyễn Cừ “tuyển” vào làm “tục ngữ Việt Nam” !
"Tục ngữ Việt Nam" là như vậy sao ?
Mặt
khác, chuyện phân loại “tục ngữ” của Nguyễn Cừ cũng thuộc diện “vô tiền khoáng
hậu”. Đó là chia thành ngữ, tục ngữ thành loại có 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ... rồi cứ thế phân
tách cấu trúc bằng dấu phẩy một cách máy móc, tạo ra những hình thức thành ngữ,
tục ngữ “chẳng giống ai”. Bởi vậy, đọc những câu "thành ngữ, tục ngữ"
kiểu này của Nguyễn Cừ, người ta có cảm tưởng như mình đang hăm hở bước tới,
bỗng đâu có kẻ chơi xỏ, bất ngờ ngáng chân lại. Ví dụ:
Đường ở, cửa miệng; Con gái, là cái
bòn; Lụt thì lút, cả làng; Có bột mới, gột nên hồ; Dốt đặc, cán mai; Của đi,
thay người; Của bền, tại người. Dạy bà lang, bốc thuốc; Mắc bẫy, cò ke; Mạnh
ai, nấy được; Nuôi ong, tay áo; Trông gà, hóa cuốc; Trứng khôn, hơn vịt; Vua
thua, thằng liều; Cá nằm, trên thớt; Châu chấu, đá xe; Coi trời,bằng vung; Phú quý, giật lùi; Đò
nát, đụng nhau; Chó ngáp; phải ruồi; Chở củi; về rừng; Gửi trứng, cho ác; Giơ
đầu, chịu báng; Nối dáo, cho giặc; Sách gối, đầu giường; Thay ngựa, giữa dòng;
Con gà, tức nhau tiếng gáy; Cú kêu, ra ma; Tầm gửi, lấn cành; Bán hàng, chiều
khách; Đàn gảy, tai trâu; Nước chảy, chỗ trũng; Cầm dao, đằng
lưỡi; Cầm gậy, chọc trời; Câu chuyện, làm quà; Cố đấm, ăn xôi; Của đi,
thay người, Áo gấm, đi đêm; Áo gấm, về làng; Ngựa quen, đường cũ; Sắc
nanh chuột, cắn được cổ mèo, Dạy bà lang, bốc thuốc; Gái đĩ, già mồm;
Hai tay nuôi, một lỗ miệng; Mắc bẫy, cò ke; Mặt nặng, như đá đeo; Vua
thua, thằng liều, Chọc gậy, xuống nước v.v...
Những
câu chúng tôi vừa liệt kê trên đây cũng phần lớn là thành ngữ
chứ không phải tục ngữ (Câu có gạch chân là tục ngữ). Thực tế cho thấy, Nguyễn Cừ không phân biệt được loại
thành ngữ, tục ngữ 4 chữ, chia làm hai vế, có quan hệ đối sánh kiểu: Trên bến, dưới thuyền; Lên voi, xuống chó;
Vịt già, gà tơ... hoàn toàn khác với loại 4 chữ chỉ là cụm từ diễn xuôi
theo trật tự của câu kể đơn thuần: Cầm
dao đằng lưỡi; Câu chuyện làm quà ? Thế nên các câu thành ngữ này qua tay
Nguyễn Cừ mới biến thành: Cầm dao, đằng
lưỡi; Câu chuyện, làm quà...Hoặc đối với câu 5 chữ Lụt thì lút cả làng” lại được viết thành: “Lụt thì lút, cả làng” !
Vậy,
những sai lầm của Nguyễn Cừ mà chúng tôi kể trên nói lên điều gì ? Có ảnh hưởng
gì đến cách hiểu tục ngữ, thành ngữ hay không ? Thưa rằng có. Từ chỗ nhận lầm
tục ngữ ra thành ngữ, không phân biệt được thành ngữ, tục ngữ với ngữ danh từ;
từ láy; quán ngữ; cụm từ đơn thuần; không xác định được cấu trúc câu thành ngữ,
tục ngữ, Nguyễn Cừ đã đi đến thất bại trong “giải
nghĩa tục ngữ Việt Nam”. Đó cũng chính là nội dung cơ bản, đáng kể nhất
chúng tôi sẽ nói đến trong phần II “Nguyễn Cừ đã “giải nghĩa tục ngữ Việt Nam”
như thế nào ?”(3)
HTC
Chú thích:
(1) Sách “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” Nguyễn
Cừ-NXB Văn học-2012 . Bìa trong cuốn sách, tác giả cho biết thêm: “Nguyễn Cừ (Nguyễn Văn Cừ) Bộ đội, Khoa
Văn-Đại học Tồng hợp khóa 17, chuyên gia tiếng Việt tại Liên Xô, đã công tác
tại NXB Khoa học xã hội, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc, Tổng biên tập
NXB Văn học”. Bìa 3, Nguyễn Cừ cũng cho biết, ông là tác giả và đồng tác
giả của 11 cuốn sách khảo cứu, sưu tầm, biên soạn, tuyển chọn khác. Như “Tục ngữ Việt Nam” (Nguyễn Cừ-NXB Văn học-2008)
“Tuyển tập tục ngữ-ca dao Việt Nam”
(Nguyễn Cừ-NXB Văn học) “Tuyển tập văn
học dân gian Việt Nam” (Nguyễn Cừ-in chung NXB Giáo dục), “Kho tàng truyện tiếu lâm Việt Nam”
(Nguyễn Cừ-NXB Văn học) “Truyện cười
Việt Nam hiện đại” (Nguyễn Cừ-NXB Văn học) v.v...
(2) Đã từ lâu, các nhà
nghiên cứu văn hóa dân gian đã thống nhất về cơ bản trong việc phân biệt thành
ngữ, tục ngữ. Về hình thức, tục ngữ là:
- “một câu tự nó đã diễn tả trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh
nghiệm...”, còn “thành ngữ là một phần câu sẵn có, nó là một
bộ phận của câu mà nhiều người đã quen dùng, nhưng tự riêng nó không diễn
tả được một ý trọn vẹn. Về hình thức ngữ pháp, mỗi thành ngữ chỉ là một nhóm
từ, chưa phải là một câu hoàn chỉnh; còn tục ngữ dù ngắn đến đâu cũng đã là một
câu hoàn chỉnh...” (theo Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam-Vũ
Ngọc Phan-1977).
-“Có thể nói, nội dung của thành ngữ manh tính hiện tượng,
còn nội dung của tục ngữ nói chung là mang tính chất quy luật. Từ sự khác nhau
cơ bản về nội dung dẫn đến sự khác nhau về hình thức ngữ pháp, về năng lực hoạt
động trong chuỗi lời nói...Về hình thức ngữ pháp, mỗi thành ngữ chỉ là một cụm
từ, chưa phải là một câu hoàn chỉnh. Tục ngữ thì khác hẳn. Mỗi tục ngữ tối
thiểu là một câu” (Nguyễn Văn Mệnh-Tạp chí Ngôn ngữ số 3 năm 1972-dẫn
theo Tục
ngữ Việt Nam-Chu Xuân Diên-Lương Văn Đang-Phương Tri-NXB Khoa học xã
hội-1975)
- Thành ngữ là: “tập
hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa của nó thường không thể giải thích một
cách đơn giản bằng nghĩa của từ tạo nên” (theo Từ điển Tiếng Việt-Hoàng
Phê).
(2) Tiêu biểu cho quan
niệm này là Nguyễn Văn Tố, trong bài “Tục
ngữ ta đối với tục ngữ Tàu và tục ngữ Tây”, đã đồng nghĩa về mặt thuật ngữ
khi nói về thành ngữ, tục ngữ. Ông viết: “Tục
ngữ là câu thành ngữ nói đã quen, trong thế tục, nhiều câu nghĩa lý thâm thúy,
ý tứ cao xa, câu nào từ đời xưa truyền lại gọi là ngạn ngữ, cũng có khi gọi là
tục ngạn. Nhưng dù là ngạn ngữ, tục ngữ hay tục ngạn, thì nghĩa cũng gần giống
nhau...” (Dẫn theo Tục ngữ Việt Nam-
Nhóm Chu Xuân Diên).
-Sách "Từ điển tục ngữ Việt" của Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương làm khá tốt việc nhận diện tục ngữ. Theo Nguyễn Đức Dương, tác giả đã vận dụng phương pháp nhận diện tục ngữ của Cao Xuân Hạo. Tuy nhiên việc nhận diện đúng tục ngữ chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để đảm bảo việc giải thích sẽ chính xác. Bạn đọc có thể tham khảo bài phê bình cuốn "Từ điển tục ngữ Việt" tại đường link: AI LÀM HỎNG “DI SẢN TỤC NGỮ” ?
(3) Sách “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” do anh Lê
Thanh Thảo-Công ty thuốc BVTV Trung ương
I tại Thanh Hóa đem đến giới thiệu và cho chúng tôi mượn đọc trong
nửa năm qua. Nhân đây xin được cảm ơn Anh và mong Anh thông cảm việc
mượn sách lâu đến vậy.
http://tuancongthuphong.blogspot.ca/2014/07/nguyen-cu-giai-nghia-tuc-ngu-viet-nam.html
Hoàng Tuấn Công
Nguyễn Cừ đã “Giải Nghĩa Tục Ngữ Việt Nam” như thế nào ? (phần III)
Ngoài “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam”, Nguyễn
Cừ còn là tác giả của “Tuyển tập tục
ngữ-ca dao Việt Nam” (NXB Văn học); “Tục
ngữ Việt Nam” (NXB Văn học) và là đồng tác giả của “Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam” (trọn bộ 7 tập-NX Giáo Dục).
Như vậy, Nguyễn Cừ là người có nhiều kinh nghiệm và lợi thế trong việc lựa chọn
các đơn vị tục ngữ Việt Nam để đưa vào “Giải
nghĩa tục ngữ Việt Nam”.
Tuy nhiên, xem “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” chúng tôi thấy Nguyễn Cừ giống như người
“Vào rừng không biết lối ra...” chẳng hề có biểu hiện gì của một người thợ sơn
tràng dày dạn kinh nghiệm. Bởi tác giả chép sai rất nhiều câu thành ngữ, tục
ngữ, phá hỏng cả kết cấu, gieo vần, từ ngữ đăng đối của dân gian. Mặt khác,
Nguyễn Cừ cũng giải thích sai luôn nội dung câu thành ngữ, tục ngữ đó. Sau đây
là một số ví dụ:
Thứ
nhất thì chết mất cha, thứ nhì gánh rã, thứ ba ngược đò.
Chính
xác là “gánh vã” chứ không phải “gánh
rã”. Gánh vã tức là gánh bộ, vất vả nặng nhọc. (Nên có câu “Buôn thuyền (hoặc buôn vai) gánh vã, chẳng
đã hà tiện.”)
Sớm
trực, trưa chầu.
Lỗi
(không biết lỗi văn bản hay lỗi chính tả ?): “chực” (trong chầu chực) chứ không phải “trực”
(trong túc trực). Ở đây chơi chữ “chầu”
và “chực”
Đồng
bạc đâm toạc tờ giấy.
Chính
xác là: “Nén bạc đâm toạc tờ giấy”. Hình cái nén bạc nhọn hai đầu mới
gợi nên sức mạnh của thế lực đồng tiền có thể “đâm toạc tờ giấy” chứ ? Mà phải là dạng “Vàng thoi, bạc nén” mới
có giá trị.
Ném
chuột còn ghê cùi bát.
Lỗi.
“Cũi bát” chứ không phải “cùi bát”.
“Cũi bát” tức cái giá, cái tủ làm bằng tre, gỗ đựng bát đĩa.
Hơi
có mã đã khoe mình đẹp.
Sai
từ ngữ: “có mẽ” chứ không phải “có mã”.
Vần “ẽ” gieo với vần “oe” mới đúng. Ta cũng hay nói “khoe mẽ” chứ không nói
“khoe mã.”
Tối
đâu là nhà, ngã đâu là giường.
Tác
giả viết sai dấu: “ngả đâu là giường” (ngả
lưng nằm ngủ một cách tạm bợ); còn “ngã đâu là giường” là say xỉn mất rồi !
Tránh
voi không xấu mặt nào.
“Chẳng
xấu” chứ không phải “không xấu”. Hiệu
quả của hai từ “chẳng” và “không”
khác hẳn nhau, không thể tùy tiện dùng mà được.
Ba
quan tha hồ mở bát:(
....) đặt tiền chọn mặt xấp
ngửa.
Sai
chính tả. “Sấp ngửa” chứ không phải “xấp
ngửa.”
Thương
thì thương cho chót, vót thì vót cho nhọn.
Lỗi
chính tả: “thương cho trót” chứ không phải “cho
chót”.
Giặc
đến nhà đàn bà phải đánh.
“Cũng
đánh” chứ không phải là “phải đánh”.
Đánh giặc vốn không phải “nghiệp” của đàn bà. Thế mà “Giặc đến nhà, đàn bà cũng
đánh”, ấy mới là đề cao tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm của giới “cân
quắc anh hùng” chứ, thưa ông Nguyễn Cừ ?
Đắng cay cũng thể ruột già, ngọt ngào
cho lắm vẫn là người dưng. Coi
trọng tình nghĩa anh em họ hàng.
Chẳng
có “ruột già” ruột non gì ở đây đâu,
thưa ông Nguyễn Cừ. Nó là từ láy “ruột rà” đó. (Ý nói có quan hệ anh em, máu
mủ, dòng tộc huyết thống nói chung). Vế sau: “cũng là người dưng” chứ không phải “vẫn là người dưng”.
Trẻ
được manh áo, già được bát canh.
Viết
như Nguyễn Cừ là phá hỏng hoàn toàn hiệu quả gieo vần trong phương pháp sáng
tác của dân gian. Hình thức đúng của câu tục ngữ này là: “Già mong mát canh, trẻ mong manh áo mới.” hoặc “Già được bát canh, trẻ
được manh áo.
“Mấy ai biết lúa ven, mấy ai
biết con hư: Lúa
nhà mình, con nhà mình làm sao mà xấu mà hư được, phê phán tâm lý luôn cho mình
là nhất, quá thương con mà không biết con hư.”
Lúa
“von” chứ không phải lúa “ven”. “Von” gieo vần với “con”. Hơn nữa “lúa von” là thuật ngữ nông học chỉ một loại bệnh do loài nấm Fusarium moniliforme gây nên bởi
nguyên nhân truyền nhiễm hoặc lây nhiễm. Cây lúa (có thể bắt đầu từ thời kỳ mạ)
bị bệnh này sẽ mọc cao hơn các cây bình thường, lá lúa nhỏ, dài, ngả màu vàng
nên gọi là “von”, (“von” trong từ chon
von). Trước đây công tác giống kém, đa số giống không thuần, độ đồng đều
trên ruộng không cao. Ruộng lúa có khi chia làm mấy tầng cao thấp, nên khó phát
hiện sớm lúa von. Nông dân chăm sóc mãi nhưng chỉ đến thời kỳ trổ bông, kết
hạt, thấy lúa không trổ được hoặc có trổ nhưng hạt bị lép, mới biết là lúa bị
“von”. Cũng như đứa trẻ mới sinh ra rất ngoan ngoãn, cha mẹ nuôi nấng trong bao
niềm hy vọng, nhưng khi lớn lên nó bỗng sinh hư hỏng. (Cha mẹ sinh con trời sinh tính -tục ngữ). Lý do dân gian so sánh
“lúa von” với “con hư” là như vậy. Không phải “Lúa nhà mình, con nhà mình làm sao mà xấu mà hư được, phê phán tâm lý
luôn cho mình là nhất, quá thương con mà không biết con hư” như Nguyễn Cừ
giải thích.
Mua trâu xem sừng, mua chó xem
chân: Kinh nghiệm
mua gia súc, chọn con trâu tốt là phải xem sừng, còn mua chó phải xem chân.
Sừng
cũng là một tiêu chuẩn quan trọng khi xem tướng trâu (“Sừng mau cánh ná hiên ngang”-Các khía trên sừng dày, hai sừng phát
triển đều, cong cong như cánh ná). Tuy nhiên, câu tục ngữ đang xét phải là “Mua
trâu xem vó” chứ không phải “mua trâu xem
sừng”, vì ở đây dân gian gieo vần “ó”: “Mua
trâu xem vó, mua chó xem chân”. Mặt khác tục ngữ đang nói đến
chân của hai loài vật nuôi. Với trâu, phải “xem vó” vì:“Bốn chân một vó ai bì/Móng tròn bát úp khi đi vững vàng” (Tục ngữ
có hình thức ca dao) Trâu dù kéo cày hay kéo xe đều cần có bộ móng tròn đầy như
bát úp làm việc mới khỏe. Nếu móng cong queo, hở, tõe hoặc móng tréo lên nhau
sẽ không tốt khi lội ruộng, không vững khi bám mặt đất. Đối với chó, “xem chân” vì: “Tứ túc huyền đề” (bốn chân đều có móng đeo, kinh nghiệm dân gian là
con chó khôn, quý). Như vậy, chẳng những Nguyễn Cừ chép sai về mặt hình thức
câu tục ngữ mà cách giải thích “Kinh
nghiệm mua gia súc, chọn con trâu tốt là phải xem sừng, còn mua chó phải xem
chân” cũng rất chung chung, hời hợt, chẳng “đáng mặt” “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” tí
nào.
Bìm
bịp lại muốn leo nhà gạch: Không biết thân phận lại muốn chơi chèo
với người cao hơn.
Câu
này Nguyễn Cừ phạm hai lỗi: 1.Lỗi văn bản, từ ngữ: “Bìm bìm”
(loài thực vật thân leo) chứ không phải “bìm
bịp” (động vật lông vũ). Bởi vậy, hình thức đúng của câu thành ngữ là: “Bìm bìm đâu dám leo nhà gạch”. 2.Lỗi
chính tả: “trèo” (trong leo trèo)
chứ không phải “chèo” (trong chèo lái).
Nói thêm:
Cây bìm bìm thường mọc nơi hoang dại, phát triển rất mạnh. Vì bìm bìm vô dụng
nên hay bị người ta tiêu diệt, phá bỏ để tránh ảnh hưởng đến cây trồng khác.
Thậm chí, chỉ ở nơi bờ dậu đổ nát, hoang tàn, không ai quan tâm, bìm bìm mới có
cơ hội leo lên và tồn tại (Dậu đổ bìm
leo-tục ngữ). Bởi vậy, nhà gạch (ngày xưa quý, hiếm) đâu có chỗ dành cho
bìm bìm ? (Gạch ngày xưa nung thủ công, tường xây vôi cát, nếu để loài cây phát
triển mạnh, um tùm nhiều lớp như bìm bìm leo lên sẽ làm ẩm ướt, hỏng, thối
gạch. Do đó, không bao giờ người ta để bìm bìm leo nhà gạch). Có dị bản “Bìm bìm đâu dám leo nhà gạch”, ý là tự
biết thân phận mình, không dám đua đòi tới chốn cao sang. Dị bản này “Từ điển tục ngữ Việt” của Tiến sĩ Ngữ
học Nguyễn Đức Dương giải thích nghĩa đen: “Bìm
bìm là thứ dây leo rất e ngại khi leo vào các tòa nhà gạch (vì cái nóng kinh
khủng tỏa ra từ nó có thể thiêu cháy dễ dàng cả dây bìm bìm tươi)”. Điều
này vừa phi thực tế vừa phi logic. Vì bìm bìm phát triển cực mạnh, chẳng ngán
gì nắng nóng. Nên ngày nay nó thường được trồng để chống nóng cho các mái lán,
chuồng trại chăn nuôi gia súc lợp bằng Fibro xi-măng. Bìm bìm chẳng những không
hề “e ngại” thứ vật liệu hấp nhiệt nóng bỏng này mà còn kết thành tấm thảm xanh
tươi, rung rinh hoa tím...Và nếu bìm bìm “e ngại” không thích nhà gạch, phải
nói “Bìm bìm không thèm leo nhà gạch”
mới đúng nghĩa đen.
Gà
con ấp mẹ:
Đặc tính của gà nuôi
con bao giờ cũng ấp cũng như con người yêu con lúc nào cũng bế cũng bồng trên
tay.
Câu
này phải sửa lại thành “Gà con nấp
mẹ”, hoặc “Gà mẹ ấp con” chứ không thể là “Gà
con ấp mẹ”. Bởi gà con bé tí làm
sao “ấp” được gà mẹ to xù ?
Trời
nắng chóng mưa, trời mưa chóng tối:
Kinh nghiệm dự báo thời gian có căn cứ
khoa học, trời nắng nhiều thì hơi nước bốc lên nhiều sẽ nhanh có mưa. Trời mưa,
mây che mặt trời, lúc nào trời cũng như tối vậy.
Nguyễn
Cừ giải nghĩa chỉ đúng nửa sau câu tục ngữ. Vế trước bị tác giả ghi sai: “Trời
nắng chóng trưa” chứ không phải “Trời nắng chóng mưa”. Trời nắng, ánh mặt trời chói chang khiến người ta
có cảm giác rất nhanh đến “trưa”. Thế
nên, “chóng trưa” mới đối với “chóng tối” là vậy. Từ ghi sai, Nguyễn
Cừ giải thích sai luôn. Dù dân gian tổng kết quy luật “Nắng lắm mưa nhiều”,
nhưng không phải“trời nắng nhiều thì hơi
nước bốc lên nhiều sẽ nhanh có mưa” như Nguyễn Cừ suy diễn. Vì có
khi nắng hạn kéo dài hàng tháng trời mà chẳng có nổi hạt mưa.
Cua
nóng
nước đã đỏ gọng: Cua
biển bỏ vào nồi luộc, nước chưa sôi đôi gọng đã đỏ, ám chỉ người dễ mất bình
tĩnh, dễ nóng tính chưa biết đầu cuối câu chuyện đã đùng đùng nóng giận.
“Chưa nóng nước đã đỏ gọng”, chứ không
phải là “Cua nóng nước đã
đỏ gọng”. Về phương diện khoa học: Thân cua có màu đỏ tôm trộn lẫn với các sắc tố khác nên bình thường
không thể hiện rõ sắc đỏ tươi vốn có của nó. Nhưng sau khi luộc chín, các sắc
tố khác bị phá huỷ và phân giải dưới nhiệt độ cao thì màu đỏ sẽ hiện ra. Do
vậy, tất cả cua nấu chín đều sẽ biến thành màu đỏ. Và cua chỉ có màu đỏ tôm
trong môi trường nước nóng. Vậy mà “chưa
nóng nước đã đỏ gọng” rồi ! Thành ngữ ám chỉ kẻ nhát gan, giống như con cua
trong nồi, nước chưa nóng, chưa sôi đã sợ, gọng đỏ lên tựa như thể đã bị người
ta luộc chín. Nếu nói như Nguyễn Cừ: “Cua
nóng nước đã đỏ gọng” là điều hiển nhiên, có gì lạ ? Và nghĩa bóng của nó
không phải “ám chỉ người dễ mất bình tĩnh, dễ nóng tính
chưa biết đầu cuối câu chuyện đã đùng đùng nóng giận” như Nguyễn Cừ võ
đoán.
Một tằm cũng phải hái dâu, một con
trâu cũng phải thả đúng đồng: Một vợ chồng có một con cũng phải sắm sửa, tốn kém như sinh nở nhiều
con vậy. Câu này xuất phát từ thực tế trước đây nghèo khổ nên sau khi đẻ đứa
đầu thì toàn bộ đồ lót, đồ trẻ đều giữ lại cho đứa sau dùng, đỡ tốn kém rất
nhiều.
Sai
toàn phần ! “Một con trâu cũng phải đứng đồng” chứ không phải “một con trâu cũng phải thả đúng đồng.” “Đứng đồng” nghĩa là đi chăn trâu, lẽo
đẽo đi theo chăn dắt nó. Còn “thả đúng
đồng” là thả trâu đúng ở cánh đồng
cần thả chứ đâu có chăn dắt ? Về nghĩa bóng, cách giải thích của Nguyễn Cừ
cũng rất khó thuyết phục. Bởi tục ngữ đang nói chuyện số lượng cùng một lúc,
chứ không phải số lượng trước, sau kế tiếp. Hơn nữa, đâu phải đẻ nhiều con thì
sẽ tận dụng được đồ dùng (quần áo) của đứa trước ? Ở đây, ý dân gian: nuôi một
con tằm cũng mất công hái dâu để nuôi, chăn một con trâu cũng mất công một
người đi theo chăn dắt. Bởi vậy, nên đầu tư chăn nuôi với số lượng lớn cho đỡ
phí công lao động và thu được lãi lớn. (Ngày nay gọi là sản xuất hàng hóa, hoặc
sản xuất lớn.)
Mua
áo thì rẻ, mua rẻ thì đắt: Mua bán lúc cần thiết thì bao giờ cũng bị đắt hơn.
Vì
viết nhầm “mua giẻ” thành “mua rẻ”
nên câu của Nguyễn Cừ rất vô nghĩa. Hình thức đúng là: “Mua áo thì rẻ, mua giẻ thì đắt”. Nghĩa là cũng với giá trị đồng
tiền đó, nhưng được xem là rẻ hay đắt còn phụ thuộc vào chất lượng mặt hàng
mình mua.
Được
cãi cầm, thua cãi cố: Được
cuộc, cãi vừa phải cho xong mang về, còn thua thì cãi đến cùng, sai cũng cố
cãi.
Tác
hại của “chữ tác thành chữ tộ” là vậy đó. Hình thức đúng của câu tục ngữ là: “Được
cãi cùng, thua cãi cố”. Đó là tâm lý chung trong các cuộc tranh luận. Bên nắm
được lý lẽ, phần thắng thì muốn làm cho tới nơi; phía đuối lý, ở vào thế thua,
biết mình sai, mình thua nhưng vẫn bảo thủ, cố cãi cho bằng được. Nếu “giải
thích” như Nguyễn Cừ: “Được cuộc, cãi vừa
phải cho xong mang về”, vậy chỉ còn kẻ thua đứng lại một mình thì còn cãi với ai nữa ?
Rượu
treo, cháo thí, nghe hát nhờ: Đói nghèo, sống toàn phải dựa vào người khác.
Sai
chính tả (hay kiến thức từ ngữ ?): Chỉ có “rượu
cheo” mới có thể “uống theo” được chứ “rượu
treo” lủng lẳng thì chỉ có nước ngửa cổ nhìn mà thèm ! Rượu “cheo” là rượu nộp cho làng về việc cưới xin, kẻ được
dự phần uống không mất tiền; “cháo thí” là cháo bố thí, “nghe hát nhờ” không
mất vé (Cũng ăn uống, chơi bời nhưng là lợi dụng để không phải bỏ ra đồng nào)
Thua
trời một vạn, không bằng thua bạn một ly: Tâm lý của con người luôn cố gắng không thua
kém bạn bè.
Sai
văn bản. “Thua thầy” chứ không phải “thua
trời”. Ai dám đem người ra so sánh với trời ? Thầy giỏi hơn trò, nên trò
thua thầy đến mấy cũng là chuyện bình thường. Nhưng bạn bè cùng trang lứa, cùng
đi học một thầy mà “thua bạn, kém bè”, dẫu một chút cũng là điều nên lấy làm
xấu hổ mà phấn đấu.
Muốn
tu chùa ngói, bụt vàng, chùa tranh, chùa đất ở làng thiếu chi.
Sai
văn bản. Vế đầu “chùa ngói, bụt vàng” thì vế sau phải là
“chùa tranh, bụt đất” chứ ?
(Bụt vàng đối với Bụt đất) Ngày xưa thường có hai loại
chùa:
“Chùa ngói, Bụt vàng” là chùa
sang trọng, kết cấu gỗ, lợp ngói, tượng Phật bằng vàng ròng (hiếm) hoặc điêu
khắc gỗ sơn son thếp vàng. Tu ở “chùa
ngói, Bụt vàng” dĩ nhiên có nhiều Phật tử, thiện nam tín nữ, được cúng dàng
nhiều vật phẩm. Loại chùa nghèo, có khi tranh tre, mái lá, tượng Phật nặn bằng
đất luyện kỹ rồi sơn son thếp vàng. Loại tượng này khá bền đẹp. (Thế nên có câu
“Để là hòn đất, cất nên ông Bụt” hoặc
“Chưa nặn Bụt đã nặn bệ”- Tượng nặn
là tượng bằng đất) Có lẽ Nguyễn Cừ không hiểu “Bụt đất” là gì nên mới chữa thành
“chùa đất” chăng ?
Chó
chê khỉ lắm lông, khỉ chê chó ăn rông ăn dài:
Không
biết Nguyễn Cừ lấy đâu ra dị bản rất “kỳ dị” này ? Chỉ có câu “Chó chê mèo lắm
lông, chó cũng cùng tông với mèo.” (“Ghét nhau như chó với mèo.”-Hai con cùng ở
một nhà, chủ cho chế độ ăn uống khác nhau. Mèo được ăn trong đĩa bát, thức ăn
ngon. Chó ăn thức ăn đổ dưới đất, đồ ăn chỉ có lượng, ít ngon, nên chó mèo hay
gầm gừ, tranh giành thức ăn của nhau) Ý nói: Không ưa nhau thì chê bai
nhau, chứ thực chất có hơn gì nhau, cũng giống nhau (cùng “tông”) cả thôi. Còn
con khỉ với con chó, một con ở rừng, một con ở nhà liên quan gì mà chê bai nhau
? Cùng “lắm lông” như nhau mà lại chê nhau mới đáng nói, chứ một đằng “lắm lông”,
một đằng “ăn rông...”, tuy là vần vè đấy nhưng có gì đặc biệt ? Hơn
nữa, “ăn rông ăn dài” là gì, thưa tác giả “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” ? Phải chăng ý tác giả là “ăn rông ăn
rài” ?
Cua
thâm càng, người thâm môi.
Nguyễn
Cừ lại phá hỏng vần điệu. “Tục ngữ Việt
Nam”của Nhóm Chu Xuân Diên đưa ra một số dị bản đúng: “Cua thâm còng, đàn ông thâm môi”; “Cua thâm càng, nàng thâm môi”; “Trai bạc mắt, gái thâm môi, những người
lông bụng chớ chơi bạn cùng”
Lá
lành đùm lá rách, lá rách bọc lá lành: Tình
thương yêu đoàn kết cả trong gia đình và xã hội, đây là truyền thống tốt đẹp
của dân tộc ta.
Vế
sau: “Lá rách bọc lá lành” (hay “lá
rách ít bọc lá rách nhiều” như nhiều người thường nói) chẳng qua là kiểu vẽ rắn
thêm chân, tác giả làm sách không nên bắt chước hay thu thập. Nhân đây cũng nên
nói thêm, Nhà nghiên cứu không nên cho rằng “Tình thương yêu đoàn kết cả trong gia đình và xã hội, đây là truyền
thống tốt đẹp của dân tộc ta.” Vậy, các dân tộc, đất nước khác họ không có
chắc ? Thông thường ở đâu có “khẩu hiệu”, ở đó có vấn đề: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” rồi
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người
trong một nước phải thương nhau cùng”... Đó là những lời kêu gọi,
nhắc nhở
hãy biết thương yêu nhau như anh em ruột thịt chứ không phải phản ánh sự
thương
yêu đùm bọc nhau trong thực tế. Nếu anh em cùng nòi giống, con người đã
thực sự đùm bọc, thương yêu nhau rồi, chắc hẳn sẽ không xuất hiện những
câu
ca dao kêu gọi khẩn thiết như vậy.
Mười
hũ vàng trôn không bằng cái trôn con lợn:
đề cao ngành nghề chăn nuôi.
“Trôn”
ở đâu ra mà lắm vậy thưa ông Nguyễn Cừ ? “Mười hũ vàng chôn” (vàng chôn xuống
đất để cất giữ) chứ không phải vàng “trôn”. Tục ngữ cũng không “đề cao ngành nghề chăn nuôi” nói chung
mà cụ thể là nghề chăn nuôi lợn nái. Cái
“trôn” là cách gọi tránh bộ phận sinh dục con lợn mà vẫn giữ được vần. Lợn nái đẻ ra lợn con giống như
của cải sinh sôi vậy (Giàu lợn nái, lãi
gà con). Trong khi hũ vàng có quý thật nhưng đem chôn xuống đất sẽ không đẻ
thêm được...
Viết
đến đây, chúng tôi chợt nhớ thông tin ở bìa 2 của sách “Giải nghĩa tục ngữ Việt”, Nguyễn Cừ tự giới thiệu từng là “Chuyên gia tiếng Việt tại Liên xô”. Có
lẽ không ai nghi ngờ việc ông đã hoàn thành tốt nhiệm vụ ấy ở nước bạn. Tuy
nhiên, chúng tôi lại trộm nghĩ: khi về Việt Nam, sao Nguyễn Cừ không
lựa chọn công việc ngược lại trước đây để tùy đất mà dụng võ, khai thác sở
trường, tránh sở đoản ?
HTC/8/2014
Mời các bạn đón đọc “Nguyễn Cừ đã giải nghĩa tục ngữ
Việt Nam như thế nào ?” phần
cuối, chủ đề “Tham mà không khảo”
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 324
NGUYỄN AN DÂN * THƯ GỬI HỘI NHÀ BÁO ĐỘC LẬP
Nguyễn An Dân – Thư góp ý gửi Hội Nhà báo Độc lập
Filed Under Nguyễn An Dân
Ban biên tập Việt Nam Thời Báo:Đáng tiếc là Ban biên tập VNTB không nhận được bức thư góp ý của Nguyễn An Dân – một tác giả mới xuất hiện gần đây – gửi trực tiếp cho VNTB. Tuy vậy đánh giá bức thư này có chiều sâu, tính phản biện văn hóa cùng những phân tích đa chiều, VNTB (ijavn.org) – cơ quan ngôn luận chính thức của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam và không chịu sự chi phối của bất cứ lực lượng chính trị nào – quyết định đăng tải nguyên văn từ nguồn Tin Tức Hàng Ngày để bạn đọc có thêm thông tin cùng trao đổi.
Xin chân thành cám ơn tác giả Nguyễn An Dân và trang Tin Tức Hàng Ngày.
————-
Hội nhà báo Độc Lập Việt Nam mới ra đời hơn một tháng đã được đón nhận sự quan tâm của đông đảo dư luận.Có nhiều ý kiến được gửi tới, ngoài những ý kiến động viên khen ngợi, cũng có những ý kiến tỏ ý thắc mắc về về Hội, về hai tờ báo, về sự khác nhau trong việc thể hiện quan điểm ngay trên các bài viết….
THƯ GÓP Ý
GỬI HỘI NHÀ BÁO ĐỘC LẬP VIỆT NAM
Nguyễn An Dân
Trước tiên, tôi gửi quý Hội lời chào sức khỏe, thân ái và trân trọng.
Tôi viết thư này trong vị thế một người quan tâm đến quý Hội, đến tự do
tư tưởng và đến không gian xã hội dân sự Việt Nam. Sau nhiều ngày quan
sát, trò chuyện cùng những người quan tâm, tôi tổng hợp các góp ý phản
hồi gửi đến quý Hội.
Tôi tán thành và chúc mừng việc ra đời Hội Nhà Báo Độc Lập (HNBĐL),
như một nơi quy tụ những người viết báo (dù có thể chưa phải nhà báo
chuyên nghiệp) muốn nói thẳng, nói thật trong tinh thần trung thực, khách quan và đa chiều, một điều đáng quý và cần nhân rộng trong hiện thực đất nước hôm nay.
Tôi hiểu hết những gì các anh chị trong Hội phải chịu đựng và nỗ lực
vượt qua vì một quyền tư do tư tưởng đúng nghĩa, theo các chuẩn mực mà
quốc tế đã công nhận từ lâu, cho mình và cho cộng đồng những người cầm
bút và viết báo tại Việt Nam hôm nay và ngày mai.
Tôi cũng hiểu rõ những áp lực mà quý anh chị em đang phải chịu, sự
đánh giá của dư luận, sự khó khăn về tài chính, sự đe dọa của đảng
quyền, sự trăn trở cho tương lai của Hội…Đó là những áp lực không nhẹ,
nhưng các anh chị đã vượt qua, tôi thật sự thán phục và ngưỡng vọng.
Trong tinh thần đó tôi viết Thư này góp ý củng quí anh chị trong Hội.
Ngã rẽ cần xem xét lại
Bên cạnh thành công đã có trong việc cho ra đời Hội đúng lúc và đáp ứng mong
đợi của mọi người, cũng có những điều cần phải xem xét lại. Có những
điều tuy không thể sửa chữa nhưng thay thế được, có những điều mang tính
chiến lược có thể làm tan vỡ Hội, nếu các anh chị không dũng cảm và
sáng suốt để vượt qua. Một trong những điều mang tính chiến lược này là,
theo tôi, gần đây, dường như Hội đã đi vào ngã rẽ, trở thành một tổ
chức chính trị nhiều hơn là một hội nghề nghiệp đúng nghĩa.
Dường như có sự “mất kết nối” nào đó trong Hội, nên tôi thấy trong thời gian khoảng 2 tuần qua, cơ quan ngôn luận của Hội ở website www.ijavn.org và trang Việt Nam Thời Báo trên mạng xã hội facebook (facebook.com/vietnamtimes01 khác nhau nhiều về nội dung và thành phần cầm bút.
Trước hết, có những xu hướng “hơi quá đà” trong việc đưa các bài viết của Hội trên trang www.ijavn.org,
ví dụ như về việc của ông Phạm Quang Nghị đi Mỹ mà có tới 7 bản tin và 5
bài bình luận, và cũng mất cân đối khi số bài ca ngợi ông Nghị chiếm
khoảng 80% tổng số tin liên quan. Việc này làm tôi và nhiều người khác
nghĩ rằng trang Việt Nam Thời Báo (www.ijavn.org)
ủng hộ ông Nghị và nhóm của ông Nghị. Tôi nghe nhiều người đặt câu hỏi:
“Phải chăng Hội Nhà Báo Độc Lập ủng hộ ông Nghị và nhóm của ông Nghị
trong Đảng CSVN nên số bài tô hồng kể công cho ông Nghị và nhóm bảo thủ
trong đảng nhiều như thế”???
Tôi thiết nghĩ rằng ủng hộ một phe nhóm trong nội bộ Đảng CSVN, nhất
là phe mà ai cũng biết là bảo thủ-giáo điều, không phải là việc của cơ
quan ngôn luận của Hội và của Ban lãnh đạo”. Tôi nghĩ quý anh chị nên
điều chỉnh lại để duy trì uy tín và vị thế độc lập của Hội như mong đợi
của mọi người, cũng như đúng tiêu chí hoạt động của Hội. Nên tập trung
Hội vào những hoạt động đúng như nó là một Hội nghề nghiệp hơn là “vô
tình” sa vào cuộc “nội chiến” trong đảng, mà còn biến nó thành một diễn
đàn đầy các quan điểm ủng hộ cho một phe phái nào đó của đảng cầm quyền.
Việc này nên để các tổ chức chính trị làm thì đúng hơn.
Có anh em trong Hội nói với tôi rằng đó là chiến thuật chiến lược gì
đó mà tôi không hiểu thấu, nhưng tôi nghĩ chắc không hẳn như thế. Quý
Hội là Hội nghề nghiệp chứ không phải tổ chức chính trị mà đưa chiến
thuật chính trị vào hoạt động sự vụ. Huống hồ chiến thuật này là gì tôi
không rõ, nhưng biểu hiện ra bên ngoài là bất lợi, nó công kích cả nhóm
bảo thủ lẫn nhóm cải cách trong đảng. Cũng công kích cả nhóm thân Mỹ
quyết liệt, làm quần chúng có cảm giác là ban chủ tịch Hội tiếp tay cho
nhóm thân Trung Quốc, khiến tạo dư luận rằng cả Ban Chủ tịch Hội là “dư
luận viên chiến lược của đảng” –điều tôi tin là không đúng.
Dù sao cũng
đã có dư luận như vậy, và tôi nghĩ đó là không khôn ngoan khi tự đưa
mình ra hứng 3 làn đạn từ cả ba phía (đảng quyền-chính quyền-dân quyền).
Theo tôi trong ba phía đó, Hội nên đặt ưu tiên 1 vào dân quyền, còn
giữa chính quyền và đảng quyền, thì không nên chọn đảng quyền, lực lượng
đang mất uy tín và bảo thủ nhất tại Việt Nam hiện nay. Chọn lựa ủng hộ
phe bảo thủ đảng quyền thật thiếu “tầm”, vì làm sao có thể tin được là
phe này thật sự muốn cải cách chính trị khi ngay sau chuyến đi của Phạm
Quang Nghị, vẫn chủ trương “chống âm mưu diễn biến hòa bình” (1). Đấy là
chưa kể trong thực tế, việc ủng hộ đó có thể dẫn đến hậu quả làm giảm
uy tín của Hội và tác hại đến sự an toàn của anh em trong Hội.
Cần nhanh chóng chấn chỉnh
Từ nhận xét đó, tôi sợ rằng quý Hội đang “bị chuyển hướng” từ một hội
nghề nghiệp trở thành một tiếng nói hỗ trợ cho đảng quyền. Vì yêu quí
Hội, muốn bảo vệ một thành quả hiếm có trong cuộc đấu tranh giành quyền
tự do ngôn luận hiện nay, tôi mong Ban chấp hành Hội nên sớm đưa Hội trở
về đúng các giá trị của một hội nghề nghiệp độc lập, tự quản. Tất nhiên
nhiều thành viên Hội là người bất đồng chính kiến và tranh đấu chính
trị, nhưng không nên vì thế mà biến Hội thành một tổ chức chính trị,
nhất là chính trị theo nghĩa tham gia vào cuộc “nội chiến” trong đảng
cầm quyền.
Hội NBĐL nên là một môi trường tập hợp những người tôn vinh những giá trị của nghề báo chân chính, hướng đến tương lai là một hội quy tụ những người viết báo có tâm, có tầm, có tài năng phụng sự xã hội và cổ vũ dân chủ pháp trị qua ngòi bút. Không nên là nơi tuyên truyền cho đảng quyền, nhất là cho những ủy viên Bộ CT vốn nổi tiếng là bảo thủ giáo điều, làm sai lạc dư luận, vô tình hỗ trợ cho âm mưu “đánh lận con đen”, khiến quần chúng không phân biệt được “vàng thau”, “cải cách và giả cải cách”.
Hội NBĐL nên là một môi trường tập hợp những người tôn vinh những giá trị của nghề báo chân chính, hướng đến tương lai là một hội quy tụ những người viết báo có tâm, có tầm, có tài năng phụng sự xã hội và cổ vũ dân chủ pháp trị qua ngòi bút. Không nên là nơi tuyên truyền cho đảng quyền, nhất là cho những ủy viên Bộ CT vốn nổi tiếng là bảo thủ giáo điều, làm sai lạc dư luận, vô tình hỗ trợ cho âm mưu “đánh lận con đen”, khiến quần chúng không phân biệt được “vàng thau”, “cải cách và giả cải cách”.
Cũng thế, Hội cần quan niệm mình như chiếc nấm lớn che chở những
chiếc nấm nhỏ là hội viên bên dưới. Hội tranh đấu cho quyền tự do lập
hội, còn hội viên tranh đấu cho quyền tự do viết lách, cầm bút đúng và
đủ theo chuẩn mực báo chí quốc tế.
Cách thiết chế vận hành nhân sự cũng thế, hội nên bỏ đi mô hình thiết
kế kiểu đảng phái (đang giống một đảng chính trị quá, nào là cần 2 hội
viên giới thiệu và được ông này bà kia ở chủ tịch đoàn chấp nhận ??) .
Các sáng lập viên nên ngồi lại, soạn ra thỏa ước luân lý (tiêu chí và
điều lệ) cho hình ảnh nhà báo độc lập là như thế nào, và các thành viên
gia nhập sau tự nguyện cam kết chấp hành các chuẩn mực đó, phù hợp thì
làm thành viên, không phù hợp được thì đào thải.
Hội cũng nên xác định vai trò của mình là môi trường gắn kết, sinh
hoạt của các nhà báo theo tiêu chuẩn nghề nghiệp do hội đề ra, chứ không
phải Hội là nơi làm báo. Hội khuyến khích và hỗ trợ hội viên viết báo
phụng sự lợi ích xã hội, chứ hội không viết thay hội viên, hay “chỉ đạo”
các hội viên viết để phụng sự cho lợi ích của Hội. Cụ thể, trang báo
VNTB hiện nay không nên là “cơ quan ngôn luận của Hội”.
Hội có thể để một nhóm hội viên nào đó làm, còn Hội chỉ nên có bản tin nghề báo nội bộ. Còn nếu muốn giữa trang báo này như tiếng nói của Hội, thi nó phải thật sự phản ánh các quan điểm và thông tin đa chiều, do các hội viên viết trong tinh thần tự do và tự chịu trách nhiệm về nội dung, miễn không đi ngược mục đích và các tiêu chí nghề nghiệp của Hội. Trang báo VNTB hiện nay vừa không phản ảnh điều này lại vừa tạo “phản cảm”, có vẻ Mỹ một cách hình thức (sao chép gần như hoàn toàn “banner” của tờ New York Times). (2)
Hội có thể để một nhóm hội viên nào đó làm, còn Hội chỉ nên có bản tin nghề báo nội bộ. Còn nếu muốn giữa trang báo này như tiếng nói của Hội, thi nó phải thật sự phản ánh các quan điểm và thông tin đa chiều, do các hội viên viết trong tinh thần tự do và tự chịu trách nhiệm về nội dung, miễn không đi ngược mục đích và các tiêu chí nghề nghiệp của Hội. Trang báo VNTB hiện nay vừa không phản ảnh điều này lại vừa tạo “phản cảm”, có vẻ Mỹ một cách hình thức (sao chép gần như hoàn toàn “banner” của tờ New York Times). (2)
Các hội viên được tự do hành nghề báo mà không bị ảnh hưởng bất kỳ tư
tưởng ý thức hệ nào, chỉ phải hành nghề theo luật và theo điều lệ của
Hội. Hội viên có thể thích đảng dân chủ hay đảng cộng hòa hay đảng cộng
sản…, nhưng khi viết là viết đúng luật và điều lệ của Hội. Khi hội viên
bị xâm hại vì thực thi đúng như thế, Hội sẽ đứng ra lên tiếng, bảo vệ và
giúp đỡ.
Hội nên đặt ra những mục tiêu có giá trị nâng cao uy tín Hội, ví dụ
như một năm thì đạt được bao nhiêu hội viên đủ chuẩn, có bao nhiêu bài
báo, bài viết có tiếng vang, có hiệu quả xã hội, có giá trị thiết thực
cho cộng đồng, có bao nhiêu hội viên là chủ bút các tờ báo riêng…đại
loại như thế, từ thấp đến cao.
Về mô hình tổ chức, tôi nghĩ hội nên tổ chức theo nhu cầu chức năng
cần có của hội. Chức năng của Ban Chủ tịch chỉ để làm việc định hướng,
các sự vụ nên có các ban giúp việc. Chủ tịch đoàn chỉ nên lo đối ngoại,
quốc tế vận, liên kết, đối trọng và đối thoại với chính quyền. Các ban
giúp việc làm theo yêu cầu chuyên môn.
Mô thức bao trùm của các chi tiết về cơ cấu nêu trên chính là: Hội là
nơi cung cấp được (từ ít đến nhiều) sự bảo vệ, che chở cho các hội
viên; là nơi ươm mầm các người viết báo thành nhà báo chuyên nghiệp; là
nơi để các hội viên bên trong và nhà báo bên ngoài tìm đến khi quyền
chính đáng của nhà báo bị tước đoạt và xâm hại phi pháp, phi lý. Phạm vi
tranh đấu của Hội chỉ nên dừng lại ở mức bảo vệ quyền tự do lập hội của
XHDS và quyền tự do ngôn luận và tư tưởng của nhà báo. Khi hội viên của
Hội và các nhà báo khác tại Việt Nam bị nhà cầm quyền đàn áp, Hội sẽ
vận động sự ủng hộ của các hội đoàn dân sự khác có liên quan bên ngoài
Hội, cả trong nước và quốc tế.
Tôi cũng cho rằng tranh đấu chống lại sự đàn áp của đảng quyền để bảo
vệ quyền tự do ngôn luận và tư tưởng là cần thiết, nhưng chỉ là một mục
tiêu gần. Quý Hội nên có một Tầm nhìn xa dài hơn, tương xứng với vị thế
của Hội, đó là góp phần xây dựng 1 xã hội dân chủ pháp trị và phụng sự
cho dân tộc lớn mạnh, cùng các hội đoàn khác như hội nhà văn, hội luật
sư, hội khoa học…cùng đạt mục tiêu này. Mục đích xa dài là đóng được vai
trò của một trong những hội đoàn dân sự quan trọng trong sứ mệnh cao cả
đó, từ đó xây dựng kế hoạch và lộ trình để thực thi –mục tiêu gần nằm
trong mục đích xa dài, mục đích xa dài hướng dẫn phương thức hành động
nhằm đạt mục tiêu gần.
Đó là một số góp ý đại cương như thế của tôi. Tôi tin rằng các hội
viên sáng lập của Hội đều là những nhà báo có thâm niên và kinh nghiệm
nghề nghiệp, sẽ còn có những ý kiến hay hơn và xác đáng hơn để phát
triển Hội.
Tôi viết thư trên đây đúng theo chức trách và lương tâm người cầm
bút, không vì mong cầu danh tiếng hay lợi ích, và cũng không chịu sự chi
phối của bất kỳ đảng phái, phe nhóm nào. Nên xin phép chỉ góp ý mà
không tranh luận. Nếu có sai sót gì đó so với thực tế hay các cách nhìn
khác, xin quý vị miễn thứ và tùy nghi định liệu sao cho phù hợp với tôn
chỉ và sự hoạt động hữu hiệu của Hội, và nhất là cho sự phát triển vững
mạnh của nền báo chí tự do tại nước ta –điều mà tất cả chúng ta đều đang
nhắm tới.
Trân trọng,
Nguyễn An Dân
(11/08/2014)
_________________
_________________
Ghi chú:
* Bài của tác giả gửi tới TTHN
********
Nguồn:
Tin Tức Hàng Ngày: http://www.tintuchangngayonline.com/2014/08/nguyen-dan-thu-gop-y-gui-hoi-nha-bao-oc.html
VNTB Facebook: https://www.facebook.com/vietnamtimes01
Việt Nam Thời Báo: http://www.ijavn.org/2014/08/nguyen-dan-thu-gop-y-gui-hoi-nha-bao-oc.html
BÌNH LUẬN
Chưa chi Việt Cộng đã ló mòi gian xảo của dân
chủ giả hiệu. Có thể ban đầu những người khởi xuớng tổ chức nhà báo độc
lập là có mục đich tranh đấu cho tự do, dân chủ, mong thoát ách độc tài
cộng sản, nhưng trong đám này có Việt cộng trà trộn để lèo lái nhóm này
trở thành công cụ cho bọn Việt cộng bán nước, hại dân. . Hoặc họ bị
Việt Cộng khủng bố, bắt buộc tuyên truyền cho Cộng sản, cho bọn tay sai
Trung cộng. ÔI, TPP, Vũ khí sát thương vào tay Việt cộng thì chúng sẽ
lươn lẹo bán nước buôn dân. Còn cộng sản lả còn gian manh, cướp bóc.
Chúng ta phải diệt cỏ dại trước khi làm nông vụ mới
LÊ NGUYÊN * CỘNG SẢN BỊ TIÊU DIỆT
Do đâu lý tưởng cộng sản chết thảm?
Le Nguyen (Danlambao) - Tư tưởng lãng mạn cách mạng cốt lõi của triết thuyết cộng sản do ông “tổ” Karl Max nghĩ ra là “...đấu
tranh giai cấp, đấu tranh chống bất công xã hội, đấu tranh giải phóng
các dân tộc bị trị, xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân... xóa
bỏ tư hữu để xây dựng xã hội chủ nghĩa, để không còn cảnh người bóc lột
người, để giai cấp nông dân có ruộng cày, công nhân được làm chủ nhà
máy... xóa bỏ biên giới quốc gia để thực hiện thế giới đại đồng, để
người dân làm chủ đất nước, để mọi người làm theo năng lực hưởng theo
nhu cầu...” và còn nhiều lý luận, chứng minh khoa học lẫn phi khoa
học được ngưỡng mộ lẫn phản bác cho là không tưởng trong một thời gian
dài cả thể kỷ, trước khi lý tưởng cộng sản bị loài người tiến bộ vất vào
thùng rác lịch sử.
Ý tưởng cách mạng “cao đẹp” có phần lãng mạn của Karl Marx đã bị Lenin
“lợi dụng” đưa vào thực hiện tổ chức đấu tranh cách mạng và lý thuyết
với thực hành của hai ông Marx, ông Lenin “giao phối” được gọi chung là
chủ nghĩa Max- Lenin. Chủ nghĩa này được các nước bị trị du nhập về nước
họ, làm cuộc cách mạng lật đổ quân chủ chuyên chế, đánh đuổi thực dân,
đế quốc và “bị” Hồ Chí Minh là tình báo, là cán bộ của quốc tế cộng sản
đệ tam du nhập vào Việt Nam, núp dưới chiêu bài cách mạng dân tộc, dân
chủ nhân dân nhằm thực hiện nhiệm vụ nhuộm đỏ Việt Nam nằm trong mưu đồ
nhuộm đỏ toàn cầu của cộng sản quốc tế.
Để lý thuyết cộng sản của Karl Marx có thể trở thành hiện thực trong đấu
tranh cách mạng, Lenin tiến hành tổ chức, xây dựng lực lượng nồng cốt
“chuyên chính vô sản” dựa trên giai cấp công nông làm cuộc cách mạng lật
đổ Nga hoàng, tiến hành cải tạo xã hội và đơn giản hóa tư tưởng triết
học hào nhoáng cộng sản qua các khẩu hiệu tuyên truyền bình dân dễ đọc,
dễ hiểu đã thu hút nhiều thành phần xã hội - từ tầng lớp bình dân lao
động, tầng lớp trí thức tinh hoa, ngay cả ảnh hưởng đến các viên chức
tiến bộ trong tổ chức cai trị của nhà nước đương thời.
Thật ra không hẳn hệ thống tư tưởng triết học của Karl Marx, tất cả đều
là hoang tưởng vô giá trị trong nghiên cứu học thuật lẫn đời sống xã hội
loài người. Nhìn chung tư tưởng của Karl Marx cũng có ý tương đối đúng,
có ý chưa đúng, có ý hoàn toàn sai và tư tưởng Marx chỉ trở thành hoang
tưởng, trở thành thảm họa khi bị Lenin cùng các đồng chí của ông ta lợi
dụng làm công cụ thực hiện mưu đồ thu tóm quyền lực chính trị về cho
phe nhóm tiền cách mạng của Nga Xô. Nhóm cộng sản này đã xa rời nguyên
tắc đạo đức truyền thống, bất chấp mọi thủ đoạn để cướp lấy quyền lãnh
đạo nhà nước với phương châm hành động bạo tàn “...giết lầm hơn bỏ
sót... cứu cánh biện minh cho phương tiện...” đã cướp đi mạng sống của
cả trăm triệu nhân mạng ở những nơi cộng sản đi qua, cho tham vọng vĩ
cuồng hơn là mục tiêu cách mạng chân chính của phe nhóm Lenin và đồng
đảng.
Đối với cộng sản Việt Nam, người dân Việt Nam ít nhiều, trực tiếp hay
gián tiếp đã kinh qua chủ trương, chính sách “giết lầm hơn bỏ sót... cứu
cánh biện minh cho phương tiện...” một hình thức ngụy biện, bào chữa
cho bản chất khát máu dã man, giết người bừa bãi man rợ của cộng sản. Cụ
thể như chuyện nửa đêm gõ cửa bắt người dẫn đi biệt tích, chuyện nhét
người bỏ vào bao bố thả trôi sông, chuyện đập đầu, đâm bắn treo bản án
vào ngực những người ai bị nghi ngờ lẫn tỏ thái độ chống đối hoặc không
ủng hộ chủ trương hung tàn của cộng sản...
Nội dung bài viết này không có mục đích chứng minh tội ác lẫn các cách
giết người man rợ của cộng sản Việt Nam mà chỉ muốn chỉ ra một số nguyên
nhân tại sao quốc tế cộng sản không thể hiện thực hóa một số ý tưởng
cách mạng “cao đẹp” của Karl Marx vào cuộc sống loài người?
Trước khi đi tìm nguyên nhân tại sao quốc tế cộng sản đệ tam không thực
hiện được những tư tưởng phi khoa học là điều đương nhiên mà lại còn
không thực hiện được cả ý tưởng khoa học lẫn có gíá trị nhân văn của
Marx về công bằng xã hội, về nhà nước của dân, do dân, vì dân?...
Hẳn những người lương thiện ai cũng thấy cộng sản không thực hiện được
mục tiêu cách mạng cao đẹp của Karl Marx là bởi cơ cấu tổ chức đảng, hệ
thống cai trị của nhà nước đã chống lại quy luật phát triển tự nhiên của
con người và xã hội như: tư hữu là động lực thúc đẩy tiềm năng con
người phát triển đã bị cộng sản triệt tiêu; phản biện là vũ khí chống
bất công xã hội hữu hiệu đã bị cộng sản ngăn chận; độc tài cộng sản, độc
quyền đảng lãnh đạo là độc tố triệt tiêu nhà nước của dân, do dân, vì
dân...
Quan sát cộng sản từ góc nhìn tổ chức độc quyền lãnh đạo nhà nước, xã
hội và từ thực tiễn đời sống của tư duy con người cộng sản cho chúng ta
thấy - độc đảng độc quyền quyền lực lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo phủ trùm
lên mọi mặt đời sống con người dễ đưa cá nhân nắm giữ quyền lực đến hư
hỏng, tha hóa và làm hệ thống tổ chức hư hoại, mục ruỗng như nhà báo,
chính trị gia người Anh Lord Acton nói: “Quyền lực tuyệt đối dẫn đến tha
hóa tuyệt đối.”
Qua đó cho chúng ta thấy cán bộ đảng viên cộng sản là những con người
như thế? Họ những người sử dụng sức mạnh của nòng súng, nhà tù để thu
tóm quyền lực tuyệt đối như các ông vua con: họ tự tiện tuyên bố luật là
tao tao là luật, họ tự quyền làm luật, biến luật pháp thành vũ khí
khủng bố, trấn áp người dân; họ tự cho phép băng đảng cộng sản đứng
trên, đứng ngoài luật pháp; họ tự đặt ra luật tự khiển trách phê bình và
tự phê bình; tự quyền xử lý nội bộ các cán bộ, đảng viên vi phạm luật
pháp với “hình phạt”chuyển công tác và nghiêm khắc cảnh cáo(?)...
Từ quyền lực tuyệt đối đó đã làm cho cán bộ quan chức cộng sản tha hóa
tuyệt đối và quan chức đảng viên cộng sản từ bé tới lớn thằng nào cũng
quan liêu hống hách, cũng tham nhũng, hối lộ... Thằng nào cũng quan hệ
bất chính, cũng dối lem lẻm, cũng suy thoái đạo đức lối sống nhưng mở
miệng ra là rao giảng đạo đức cách mạng, đạo đức bác hồ... Đó chính là
một trong những nguyên nhân khiến cho cộng sản không thể chống bất công
xã hội, không thể xây dựng được nhà nước của dân, do dân, vì dân như ước
mơ của Marx(?)
Không chỉ cá nhân đảng viên cộng sản là rào chắn làm cản trở con đường
tiến lên tiến bộ xã hội mà ngay cả tổ chức đảng cộng sản cũng là lực cản
khiến cho công bằng xã hội không thể thực hiện và khẩu hiệu tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mãi mãi là chiếc bánh vẽ, không thể
trở thành hiện thực trong mô hình tổ chức nhà nước cộng sản như Lenin
chờ đợi(?)
Điển hình của mô hình tổ chức nhà nước cộng sản là quyền lực nhà nước
tập trung vào tay một đảng chính trị duy nhất là đảng cộng sản. Đảng này
sử dụng mọi hình thức bạo lực giành độc quyền lãnh đạo nhà nước – xã
hội và với quyền lực lãnh đạo tuyệt đối bao trùm lên mọi mặt đời sống
con người từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tín ngưỡng, luật pháp,
tài chánh, giáo dục, y tế, quân đội, công an... cho đến các đoàn thể xã
hội trực thuộc chính phủ hay phi chính phủ đều phải nằm dưới sự chỉ
đạo, chi phối của đảng viên cộng sản như nhà thương, trường học, cơ sở
tôn giáo, tổ chức từ thiện, hội nghề nghiệp... Tất cả đều có bàn tay
lông lá của đảng viên cộng sản xen vào công việc nội bộ, dưới mỹ từ
“lãnh đạo” các tổ chức nhà nước lẫn các tổ chức xã hội dân sự này. Nói
theo ngôn ngữ nôm na, bình dân là đảng lãnh đạo tất tần tật, không chừa
thứ gì... từ nhà Chùa, nhà Chúa... cho đến nhà chứa... đảng cũng không
chừa.
Thế thì lãnh đạo của đảng đến chỉ đạo của đảng viên cộng sản là gì? Đơn
giản lãnh đạo, chỉ đạo cộng sản chỉ là tuyên truyền phổ biến chủ trương,
đường lối của đảng cộng sản. Lãnh đạo, chỉ đạo cũng chỉ là cài cắm tai
mắt canh chừng tố cáo lẫn nhau, tố cáo thành phần không chịu “khom lưng”
chống lại “chủ trương buôn dân” của đảng và tố cáo lực lượng không biết
“quỳ gối” chống lại “đường lối bán nước” của nhà nước độc tài cộng
sản... Nói chung lãnh đạo, chỉ đạo mang màu sắc cộng sản chỉ là rình mò,
nghe lén, canh chừng lẫn nhau, canh chừng xem ai không phục tùng đảng,
không tuân thủ, thậm chí chống lại chủ trương chính sách tàn dân hại
nước để báo cáo lên lãnh đạo đảng, nhà nước.
Để th ấy rõ hơn, hiểu cụ thể hơn về cái gọi là lãnh đạo của đảng, chỉ
đạo của đảng viên cộng sản qua hồi ức của tác giả Phan Châu Thành - một
nhân chứng sống, lớn lên trong môi trường tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo
“giết lầm hơn bỏ sót... cứu cánh biện minh cho phương tiện” của cộng sản
Việt Nam, có đoạn như sau:
“...Từ bé tôi ra đường luôn tập đọc, vì nhà thì thiếu sách, mà ngoài
đường thì đầy ắp các câu khẩu hiệu. Tôi học thuộc hầu hết và vẫn nhớ câu
này được viết sơn đỏ trên vách tường... “Ở đây tai vách, mắt rừng...”
Tôi đã rất tò mò tại sao vách có tai, rừng có mắt... Lớn lên chút nữa
tôi mới hiểu vì ba tôi giải thích: “tai vách” là tai nghe rình mò của
người khác sau bức vách, và “mắt rừng” là mắt của người khác đang nấp
kín trong rừng theo dõi con đó...
...Tôi rất ghét và sợ những tai mắt luôn rình mò mọi người... trong
đội thiếu niên, ở nhà trường, rồi sau là đoàn, là cả xã hội... luôn dậy
dỗ và ép buộc chúng tôi làm những “tai-mắt” như thế đối với nhau, đối
với người khác. Xã hội luôn khuyến khích và khen thưởng những đứa nào
trong đám trẻ chúng tôi nghe lỏm hay nhìn thấy việc gì “bí mật” của
người lớn và báo cáo lại cho chính quyền, cán bộ, thầy cô trong các cuộc
họp, các cuộc tự kiểm điểm hàng tuần, hay báo cáo riêng càng tốt...”(*)
Thế thì một băng đảng khoác áo đảng chính trị cướp chính quyền giành độc
quyền lãnh đạo, chỉ đạo lập ra bộ máy nhà nước cai trị nhân dân, sản
sinh các tổ chức công cũng như tư “giả vờ” phục vụ cho mục tiêu “an ninh
chính trị” bảo vệ đảng, bảo vệ chế độ, với chủ trương “giết lầm hơn bỏ
sót” thì còn sức lực đâu để thực hiện lý tưởng cao đẹp của Karl Marx?
Nói cách khác là đảng, nhà nước cộng sản cứ chăm chăm tập trung mọi
nguồn lực trí tuệ, tài nguyên quốc gia chỉ để rình rập, theo dõi ngăn
chận mầm móng chống đối đảng, âm mưu lật đổ chế độ và vận động xảo thuật
lôi kéo toàn xã hội vào cuộc giám sát, canh chừng lẫn nhau thì còn đâu
tài năng trí tuệ, còn đâu là tâm, là tầm cho mục tiêu thực hiện công
bằng xã hội, thiết lập nên nhà nước dân chủ để tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân?
Cộng sản thừa hiểu vì sao người dân bị trị chống lại giai cấp thống trị
và nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, ngó đâu cũng thấy người dân lúc nào cũng
muốn đứng lên lật đổ chế độ do đảng cộng sản lãnh đạo?
Nếu ai quan tâm đến đất nước, tìm hiểu về cộng sản đều nhận thấy cộng
sản không chỉ có chuyện độc đảng, độc quyền lãnh đạo làm cản trở các
nhân tài đóng góp tài năng, phát kiến cải cách xã hội và ngăn cản toàn
dân tham gia chống bất công xã hội. Đảng cộng sản còn nắm giữ quyền lực
tuyệt đối làm tha hóa con người, tha hóa tổ chức đảng nên cộng sản không
thể xây dựng nhà nước dân chủ của dân, do dân, vì dân.
Cũng như với hệ thống tổ chức trong thời gian dài tồn tài, phát triển bởi quyền lực tuyệt đối làm tha hóa tuyệt đối con người và tổ chức cộng sản. Thế cho nên mục tiêu công bằng xã hội hay nhà nước dân chủ đối với đảng cộng sản Việt Nam chỉ là trò bịp chứ đảng không hề có thực tâm lẫn bày tỏ thiện chí thực hiện công bằng, thiết chế nhà nước dân chủ đúng chuẩn dân chủ như các nhà nước dân chủ tiên tiến đã đưa đất nước họ tiến lên hùng cường thịnh vượng và người dân được sống trong xã hội công bằng, văn minh.
Cũng như với hệ thống tổ chức trong thời gian dài tồn tài, phát triển bởi quyền lực tuyệt đối làm tha hóa tuyệt đối con người và tổ chức cộng sản. Thế cho nên mục tiêu công bằng xã hội hay nhà nước dân chủ đối với đảng cộng sản Việt Nam chỉ là trò bịp chứ đảng không hề có thực tâm lẫn bày tỏ thiện chí thực hiện công bằng, thiết chế nhà nước dân chủ đúng chuẩn dân chủ như các nhà nước dân chủ tiên tiến đã đưa đất nước họ tiến lên hùng cường thịnh vượng và người dân được sống trong xã hội công bằng, văn minh.
Tóm lại, có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân cốt lõi khiến cho tư
tưởng Karl Marx, lý tưởng cộng sản chết thảm dưới chính tay người cộng
sản - nói thế nghe có vẻ nghịch lý và rất hài nhưng đó là sự thật.
Nguyên nhân cốt lõi, nguyên nhân của mọi nguyên nhân làm cho tư tưởng
cách mạng cao đẹp trở thành hoang đường là do độc quyền quyền lực lãnh
đạo của tổ chức đảng cộng sản phủ trùm lên mọi ngõ ngách đời sống con
người và xã hội.
Độc quyền quyền lực cộng sản là độc quyền quyền lực tuyệt đối nên nó đã tạo môi trường “thuận lợi” cho con người lẫn tổ chức đảng cộng sản tha hóa tuyệt đối. Tha hóa đến mức vô đạo đức, vô nhân cách biến cả thế giới cộng sản trở thành giả chỉ có giả dối, bịp bợm là thật và bịp bợm tiêm nhiễm đến cả ông tổng bí thư đảng “dù biết đến hết thế kỷ này đã có xã hội chủ nghĩa chưa?” Thế mà ông ta vẫn hô hào giữ vững ngọn cờ xã hội chủ nghĩa để thực hiện mục tiêu công bằng xã hội và nhà nước của dân, do dân, vì dân?
Độc quyền quyền lực cộng sản là độc quyền quyền lực tuyệt đối nên nó đã tạo môi trường “thuận lợi” cho con người lẫn tổ chức đảng cộng sản tha hóa tuyệt đối. Tha hóa đến mức vô đạo đức, vô nhân cách biến cả thế giới cộng sản trở thành giả chỉ có giả dối, bịp bợm là thật và bịp bợm tiêm nhiễm đến cả ông tổng bí thư đảng “dù biết đến hết thế kỷ này đã có xã hội chủ nghĩa chưa?” Thế mà ông ta vẫn hô hào giữ vững ngọn cờ xã hội chủ nghĩa để thực hiện mục tiêu công bằng xã hội và nhà nước của dân, do dân, vì dân?
_______________________________________
Chú thích:
NGUYÊN THẠCH * CỘNG SẢN THAY ĐỔI
Con Tắc Kè CSVN sẽ đổi mầu?
Nguyên Thạch (Danlambao)
- Trong tình thế tứ bề thọ địch, đảng CSVN, một đảng mà sở trường của
nó là thói gian manh và lừa bịp cố hửu, tập đoàn này sẽ giở trò đổi mầu
để cho phù hợp với tình hình thực tế hầu mong cứu vãn để duy trì quyền
lực cùng sự cai trị của một chế độ đã hoàn toàn đánh mất sự tin tưởng
của người dân.
Sự đổi mầu đó gồm những gì? Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu và phân tách
để có những cái nhìn cụ thể trong công cuộc đấu tranh và cũng từ đó,
chúng ta có thể vạch ra cho tất cả nhân dân cùng thấy.
1- Kinh tế: Đây được xem là vấn đề quan trọng và cấp bách
nhất bởi sự suy sụp của nền kinh tế, tự nó sẽ kéo theo sự sụp đổ của chế
độ. Hiện tại, mức độ nợ nần của chính phủ với các nguồn vốn nước ngoài
cùng lãi suất hàng năm của nó đã khiến kho bạc nhà nước đã và đang gặp
phải sự bế tắc. Với những ngân sách khủng phải chu chi cho guồng máy
cồng kềnh kém hiệu năng, kèm theo là sự vỡ bong bóng nhà đất, tham nhũng
thi nhau rút ruột... khiến hệ thống ngân hàng phải dính líu theo một
cách kèn cựa để rồi phải đối mặt với sự khánh tận dây chuyền chuyển biến
theo hiệu ứng Domino (1) (2) (3), mà bài học Vinashin, Vinalines là
những đầu mối gây tác động.
Hãy đơn cử một ví dụ mà nhiều người cũng đã nắm được rằng Agribank là
Ngân hàng thương mại quốc doanh, Nhà nước làm chủ sở hữu 100% vốn điều
lệ. Tổng vốn điều lệ của Agribank là 29.605 tỷ đồng và trên thực tế số
vốn này đã bị mất hết, không những thế tổng nợ xấu và nợ khó đòi còn
vượt vốn điều lệ khoảng 10.000 tỷ.
Tưởng cũng nên nhắc lại, ngoại hối hàng năm được thu nhận miễn hoàn trả,
trung bình là 12 tỉ USD. Nếu vì lý do nào đó, lượng tiền khổng lồ này
bị ngưng thì tình trạng thiếu ngoại tệ của VN càng thêm thê thảm. Điều
này có nghĩa là ngưng nhập ngoại tệ thì tác động vào sự sụp đổ của CSVN
càng sớm hơn.
2- Xã hội và niềm tin: Có quá nhiều chỉ dấu cho thấy rằng
cuộc sống, trong đó gồm có giá cả sinh hoạt như xăng dầu, thực phẩm tăng
vọt một cách khủng khiếp, đồng lương của công nhân viên không phù hợp
với tỉ lệ với giá hàng hóa gia tăng, sự khan hiếm công việc... Bên cạnh,
nạn cướp giựt, chém giết đang ngày càng thêm hỗn loạn, hố cách biệt
giàu nghèo quá lớn, tham ô nhũng nhiễu trắng trợn, tham nhũng bất trị...
Những tiêu cực đó đã đánh mất đi những niềm tin (nếu có) cho một tương
lai vốn đã không có gì để gọi là hứa hẹn.
Đời sống không còn niềm tin sẽ đưa đến xã hội điên loạn, một cuộc sống
không hứa hẹn là một cuộc sống thác loạn bất cần. Những biến thái gần
đây của xã hội, cho thấy Việt Nam đã và đang bị xem là một trong những
quốc gia có đầy dẫy bất ổn và dĩ nhiên đây không phải là nơi đáng để
sống! Dân là nước, nước làm cho thuyền nổi và cũng là làm cho thuyền
đắm.
3- Những biến chuyển chung quanh: Như nhiều người đã rất
ngạc nhiên là mới gần đây, Tập Cận Bình đã đột ngột xuất chiêu qua những
vụ như Chu Vĩnh Khang và một số quan lớn khác mà Giang Trạch Dân là
nhân vật đang trong tầm ngắm cùng 25.000 cán bộ lớn nhỏ khắp từ trung
ương cho đến địa phương, từ nguyên Ủy viên BCT cho đến bí thư chủ tịch
phường xã.
Theo tập quán, những gì xảy ra ở nước đàn anh, hay theo cách gọi văn
chương hơn là những chính sách của thiên triều thì nước đàn em cũng phải
rập khuôn, hoặc đúng nghĩa hơn là phải tuân theo chiếu chỉ. Từ "chiến
dịch" đột ngột này, những con sâu khủng trong Bộ Cá Tra, TW đảng, Các
quan chức cấp Thứ Bộ trưởng đang nơm nớp run sợ, không biết thân phận
của mình chừng nào thì bị sờ gáy, tiền bạc, tài sản kếch xù của mình và
gia đình, bao giờ thì bị tịch thu!
Vấn đề lo sợ này, thoạt nhìn có nhiều người cứ cho là "Điểm", nhưng thực
chất tận thâm tâm của các quan tham mà tay đã nhúng tràm, hồ sơ của Hoa
Nam đã ghi nhận đầy đủ thì đối với tập thể tham quan này, đó là "Diện".
Đối với họ, đây là nồi cơm, là thành tích mà họ đã miệt mài bao năm cố
gắng phấn đấu cho mục đích "Hy sinh đời bố, củng cố đời con". Thế mà nếu
bỗng chốc tất cả đều biến thành tiêu tan, thân bại danh liệt?. Thì đây
là dấu hỏi rất lớn, thế nên bằng mọi phương pháp, họ phải tìm cách lẫn
trốn hay phủ nhận, mà một trong những cách lẫn tránh này là: Nín thở qua
sông, tạm Thoát Trung.
4- Quan hệ ngoại giao: Tài liệu lịch sử cận đại của đảng
CSVN đã cho thấy rằng Trung Cộng là quốc gia duy nhất có mối quan hệ mật
thiết với đảng và nhà nước VN, tuy có mối quan hệ mật thiết với nhau
nhưng 2 đảng đã vì những lý do rất "tế nhị" nên cả hai đều có những mật
ước ngấm ngầm mà phần thua thiệt luôn nghiêng về phía VN, bởi thế đảng
và nhà nước hèn mạt VN luôn cố giấu kín.
Cho đến khi nào họ bị đặt vào những thế chẳng đặng đừng, không thể nào
che giấu được nữa thì CSVN mới có những kế hoạch chấn chỉnh, đổi màu để
hy vọng phần nào hợp thức hóa hầu cứu vãn tình hình. Sau khi chấn chỉnh
để tạo mức an toàn, rồi sau đó thì đâu cũng sẽ vào đấy.
Kết luận: Qua nhiều biến cố của lịch sử với vô vàn đau
thương đã xảy ra dưới trào cộng sản, người dân Việt đã từng trải quá
nhiều kinh nghiệm. Cộng sản? Theo cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã căn
dặn: Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm.
Hoặc Nhà văn Nga Alexandre Soljenitsym nói:
"Khi thấy thằng CS nói láo, ta phải đứng lên nói nó nói láo. Nếu ta
không có can đảm nói nó nói láo, ta phải đứng lên ra đi, không ở lại
nghe nó nói láo. Nếu ta không can đảm bỏ đi, mà phải ngồi lại nghe, ta
sẽ không nói lại những lời nó nói láo với người khác."
Hay Đức Dalai Lama lãnh tụ tinh thần Phật giáo Tây Tạng nói:
"Cộng Sản là loài cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh, là loài trùng độc, sinh sôi, nẩy nở, trên rác rưởi của cuộc đời."
Và mới đây nhất, nhân chuyến viếng thăm VN của hai Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain và Sheldon Whitehouse, ông Nguyễn Phú Trọng: Tổng Bí thư khẳng định, Đảng và Nhà nước Việt Nam coi Hoa Kỳ là một đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam; - Nguyễn Phú Trọng.
Người Mỹ và chính phủ của họ đã hiểu cũng như đã có quá nhiều kinh
nghiệm với cộng sản. Thiết nghĩ, có nhắc nhở cũng chỉ bằng thừa, nhưng
thà thừa còn hơn là thiếu rằng người cộng sản, ví như những con Tắc kè
(Gekko gecko), nó biết đổi màu để thích ứng với môi trường hay điều kiện
xung quanh. Nhưng con Tắc kè, thì bao giờ cũng là con Tắc kè chứ không
thể là con khủng long được.
Cho nên, tốt nhất là hãy như cựu Tổng thống Nga Boris Yeltsin:
"CS không thể nào sửa chữa, mà cần phải đào thải nó".
______________________________________________
Ghi chú:
(1) nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=192522&zoneid=97#.U-nWylIg96o
(2) nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=192522&zoneid=97#.U-nWylIg96o
Tuesday, August 12, 2014
THƯ HỒ NGỌC NHUẬN
THƯ GỞI BẠN
Kính gởi quý anh :
Huỳnh Kim Báu, Lê Công Giàu ,Tô Hòa, Cao Lập,
Trần văn Long , Huỳnh Tấn Mẫm, Kha Lương Ngãi, Hà Đình Nguyên, Lữ Pương , Võ Văn Thôn
Các bạn quý mến,
Thoáng cái mà đã là tháng 8. Môt tháng vốn có nhiều kỷ niệm đối với
chúng ta và với tôi. Đặc biệt tháng 8 năm 2013 vừa qua , với lời kêu gọi
thống thiết dấn thân cứu nguy đất nước của anh Lê Hiếu Đằng, khi nằm
trên giường bệnh, trước khi vĩnh biệt chúng ta. Và với bài “Phá xiềng”
của tôi, hưởng ứng lời kêu gọi của anh Đằng, đề ngày 15-8-2013.
Vì quen có nhau với anh Đằng từ gần 40 chục năm qua, đặc biệt trong
Mặt Trận Tổ Quốc, anh Đằng ở trong đảng, tôi ở ngoài, lúc vui cũng như
lúc buồn, mà buồn thì nhiều hơn, cùng đấu tranh chung chống lại bất công
áp bức, nhất là hồi năm 1987, khi cả tháng trời tôi phải vào ra công
an, vì bị vu tội nằm trong kế hoạch hậu chiến của Mỹ, theo báo cáo
trong hồ sơ của Ban Bí Thư /TƯ đảng, và vu tội liên kết với “tập đoàn
phản động Hoàng Cơ Minh” , tôi luôn được anh Đằng thường xuyên lui tới
ủng hộ tinh thần, nên khi anh ra đi, tôi có cảm giác như bị hụt hẩng.
Rồi tôi nhớ đến quý anh , những đảng viên khá gần gũi với anh Đằng, mà
tôi biết, từng ít nhiều có quan hệ hợp tác đấu tranh trên nhiều mặt với
nhau, trong nhiều thời kỳ khác nhau, đặc biệt ở Sài Gòn.
Tôi định nhân kỷ niệm tháng 8 đáng nhớ nầy, sẽ có vài lời tâm sự với
quý anh.Nhưng chưa kịp viết thì được đọc “Thư ngỏ của 61 đảng viên”,
trong đó có quý anh.Nhân đó tôi xin có thư nầy đến quý anh. Và qua quý
anh , đến quý anh chị còn lại trong “Thư ngỏ”, mà tôi từng biết tiếng
và quý trọng.
Còn nhớ cách đây vài tháng , nhân được anh Huỳnh Kim Báu và mấy bạn ân
cần hỏi thăm sức khỏe, tôi đã thố lộ đôi điều với anh Báu và anh Hà
Đình Nguyên, rằng chúng ta phải trả giá. Và hai anh cũng tán đồng.
Giá gì ?
Giá cuộc đời chúng ta mà dân tộc, mà đất nước đã cho, mà không ai là
toàn vẹn. Giá những gì chúng ta đã làm, không chỉ là có đúng. Cuộc đời
chúng ta đã phải có nhiều lưa chọn, dù đúng dù sai.Nhưng trong cái thế
kỷ mà chúng ta đã sanh ra, trên cái đất nước mà chúng ta đã sanh ra,cuộc
đời cũng đã mặc ý dành sẳn cho ta những lựa chọn không hoàn toàn tùy
thuộc vào chúng ta : trong từng miền, trong từng vùng, trong từng làng,
trong từng dòng họ, trong từng gia đình. Và trong từng thời điểm, hoàn
cảnh.
Người cùng dòng họ, cùng gia đình, cuối cùng có thể ngồi chung trên một
bàn thờ, chứng kiến chung một đám giỗ, nhưng có thể không nằm chung
trong một chiến hào khi ngã xuống , là chuyện thường. Hay ít nhất là
trong họ nội, họ ngoại nhà tôi, và trong rất nhiều nhà khác. Giá của bổn
phận làm người Việt Nam trong thời quốc biến. Giá của tự do và độc lập
của Tổ Quốc. Giá của chủ quyền quốc gia có kẻ đã và đang manh tâm đem
hiến cho người ngoài. Giá máu xương của bao anh hùng liệt sĩ và nhân dân
đã đổ ra để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Cái giá của ngần thứ đó là cao hơn mạng sống của mỗi chúng ta, của tất cả chúng ta gấp nhiều lần.Có trả giá là có đấu tranh.
Và đấu tranh với các tổ chức đảng thuộc loại xừng xỏ, quỹ quyệt nhất như
các đảng toàn trị cầm quyền đó đây, thì không thể không có tổ chức. Các
đảng cộng sản cầm quyền sở dĩ mạnh , và gây nhiều tai họa, là nhờ có tổ
chức tinh ma nhất. Chớ không phải do cái gì khác, cả cái ý thức hệ.Vì
chính cái ý thực hệ cộng sản thì đó đây, và cả ở đây, từ lâu, người ta
đã phá nó ra, như phá một món đồ cổ không ai còn màng đến, mà đổi lấy
nhiều thứ khác đáng giá hơn gấp bội phần cho từng cá nhân, gia đinh,
dòng họ, và cả tập đoàn thống trị của họ.
Đấu tranh chớ không yêu cầu , kêu gọi. Hay không yêu cầu kêu gọi nữa. Vì
đảng cầm quyền đã thành gổ đá từ lâu.Và vì “Tổ quốc đang lâm nguy” ,
như quý bạn đã viết.
Nhưng Tổ quốc đang lâm nguy chớ đảng cộng sản không lâm nguy. Mọi người đểu biết : tôn chỉ của đảng từ lâu là “còn đảng còn mình”. Để “giữ đảng giữ mình”, dù phải mất hết thì đảng, chí ít là tập đoàn lãnh đạo đảng, vẫn sẵn sàng.
Tổng bì thư Nguyễn văn Linh , khi tại vị, đã từng chủ trương và rêu rao
trên các báo đảng “Những việc cần làm ngay”. Để đi đến việc cần làm ngay
cuối cùng là hội nghị Thành Đô năm 1990 .Mà hội nghị Thành Đô là gì ?
Nếu không là kết ước thề nguyền để đảng cộng sản Việt Nam mãi mãi
trường tồn trong vòng tay của đảng cộng sản Trung Quốc anh em, dù phải
mất nước ? Y như lời phán của Giang Trach Dân sau Hội Nghị : “ Sau kiếp
nạn anh em còn đó, Trông nhau cười thù oán sạch không.”
Và từ đó đến nay, trong suốt một phần tư thế kỷ, người dân Việt Nam đã
phải hằng ngày uất nghẹn chứng kiến những gì ? Ở biên giới hai nước ? Ở
Cao nguyên? Trên cả nước và ở Biển Đông ? Ai đang làm chủ , ai đang
thao túng đất nước nầy ? Ai đang đẩy dần , và ngày càng nhanh, càng
sâu, đất nước nầy vào vòng lệ thuộc Trung Quốc ? Mà lần nầy sẽ phải
tính bằng mấy trăm năm, khi mà “cái biểu tượng đáng sợ”, dù đã biến mất
từ hơn 20 năm nay ở Nga và nhiều nơi khác trên thế giới, cả trên các
thẻ đảng viên của đảng cộng sản Pháp, vẫn đang được hai đảng Trung Quốc
và Việt Nam cấm chặt trên đầu dân tộc ?
Khi mà lá cờ Trung Quốc , với thêm một ngôi sao thứ 6 tượng trưng cho
dân tộc Việt, đã từng nghiễm nhiên phất phới trên nền trời Hà Nội và
trong tay các học sinh thủ đô nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
trong một buổi quốc lễ long trọng đón tiếp người đứng đầu đảng và Nhà
Nước Trung Quốc?
Khi mà các sách giáo khoa từ lớp nhỏ tới lớp lớn, không biết từ đời thuở nào, đều có nguồn gốc soạn thảo, ấn hành hay tài trợ từ Trung Quốc ? Khi mà hầu hết các công trường , nhà máy, tập đoàn, cả bãi biển phố xá trên cả nước đều do các lực lượng Trung Quốc đù loại chiếm lĩnh ?Khi mà không thiếu làng mạc Việt Nam đang biến dần thành thôn ổ của Trung Quốc ? Không kể hàng hàng lớp lớp người Trung Quốc không ngớt kéo sang định cư lập nghiệp ở Campuchia và Lào, bao vây Việt Nam? Không kể bộ máy lãnh đạo cầm quyền ở hai nước nầy đã bị Trung Quốc lũng đoạn,vô hiệu hóa từ lâu để khống chế Việt Nam ?
Khi mà các sách giáo khoa từ lớp nhỏ tới lớp lớn, không biết từ đời thuở nào, đều có nguồn gốc soạn thảo, ấn hành hay tài trợ từ Trung Quốc ? Khi mà hầu hết các công trường , nhà máy, tập đoàn, cả bãi biển phố xá trên cả nước đều do các lực lượng Trung Quốc đù loại chiếm lĩnh ?Khi mà không thiếu làng mạc Việt Nam đang biến dần thành thôn ổ của Trung Quốc ? Không kể hàng hàng lớp lớp người Trung Quốc không ngớt kéo sang định cư lập nghiệp ở Campuchia và Lào, bao vây Việt Nam? Không kể bộ máy lãnh đạo cầm quyền ở hai nước nầy đã bị Trung Quốc lũng đoạn,vô hiệu hóa từ lâu để khống chế Việt Nam ?
Tình thế hiểm nghèo là của đất nước, không là hiểm nghèo của đảng cộng
sản cầm quyền .Vì không ai khác hơn là chính đảng cộng sản cầm quyền và
độc quyền đã âm mưu đưa đất nước đến tình thế đó. Vậy thì làm sao
ĐCSVN có thể “tự giác và chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối
sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc
và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang
dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa” ?
Làm sao “Lãnh đạo đảng và nhà nước thống nhất nhận định về mưu đồ và
hành động của thế lực bành trướng Trung Quốc đối với nước ta, từ bỏ
những nhận thức mơ hồ, ảo tưởng; và có đối sách trước mắt và lâu dài bảo
vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống,
thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc” khi mà tất cả những thứ đó đều
nằm trong ý đồ mật ước của hai đảng cộng sảnViệt Nam và Trung Quốc ?
Vì vậy, tôi hoàn toàn đồng ý với quý anh : “Trách nhiệm của các đảng
viên yêu nước là phải cùng toàn dân nắm lấy thời cơ này”. Trong đó có
quý anh. Trong đó có quý bạn trong “thư ngỏ 61”. Và còn nhiều bạn nữa
đã và sẽ ra khỏi đảng.
Các bạn sẽ là những người đi đầu. Không nhường cho ai khác. Càng
không thể trông chờ ở đảng cầm quyền, từ nhiều chục năm nay đã thâu tóm
“hết mọi lợi quyền vô trong tay mình”, mà trên hết là mọi quyền tự do
dân chủ của nhân dân, lại còn hứa đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội từ
nay đến hết thế kỷ, qua lời tuyên bố của Tổng bí thư đảng.
“Nắm lấy thời cơ , vượt qua thách thức, mở ra một thời kỳ mới” chính là
dứt khoát đáp lại lời kêu gọi của anh Lê Hiếu Đằng, trước lúc lâm
chung,đứng ra thành lập một Tổ chức chánh trị, một Đảng tự do dân chủ,
một Phong trào toàn dân cứu nước, có tổ chức chặt chẻ, có chủ trương
đường lối cương lĩnh hẳn hòi, công khai đấu tranh chánh trị không bạo
động với đảng cầm quyền.Biến kỳ vọng của đa số đảng viên yêu nước, của
toàn thể đồng bào thành hiện thực.
“Tổ quốc lâm nguy”. Trước cái nguy tột cùng là mối nguy mất nước ,
không có con đường nào khác là xong thẳng vào mối nguy để tìm lối thoát.
Không có bạo lực đàn áp nào sau cùng không khiếp phục trước lẽ phải,
trước ỳ chí của nhân dân.
Lịch sử sẽ không quên quý anh, và 61 quý bạn trong Thư ngỏ.
Xin đừng “Bỏ lỡ cơ hội này”.
Thân ái,
SàiGòn-Thành phố Hồ chí Minh,ngày 10-8-2014,
Hồ ngọc Nhuận .
BÌNH:
Còn gọi là thành phố Hồ Chí Minh thì chưa thật sự giác ngộ. Vừa
dùng tên Saigon lại dùng tên Hồ Chí Minh là chưa dứt khoát tư tưởng.
Chưa hiểu nghĩa trả giá. Trả giá và trả nợ khác nhau. Mọi con dân nước
Việt phải trả nợ cho tiền nhân vì tiền nhân đã hy sinh xương máu bảo
vệ đất nước này. Nhưng các anh phải trả giá cho lỗi lầm của các anh
vì đã đi theo cộng sản đánh phá quốc gia , phản bội dân tộc, đưa đến
cảnh ngộ hôm nay.
Khi nói đến trả giá là nói đến sự thiệt hại. Nay các anh có thiệt hại gì đâu? Các anh theo cộng sản, trở thành đảng viên, thành tư sản đỏ, thành giai cấp thống trị, cũng ông nọ bà kia chứ có thiệt thòi gì đâu mà nói trả giá, trừ những đồng chí bồ nhìn tay sai Mặt trận đào thoát như Trương Như Tảng, Châu Tâm Luân, Đoàn Văn Toại.vv.. Nhưng trong chỗ quần chúng âm thầm, nhất là quần chúng miền Nam, người ta đã căm thù , đã khinh bỉ những tên phản bội quê hương. Và trong tương lai, các anh phải công khai trả giá cho tội ác của các anh theo cộng sản khi toàn dân đứng lên vạch tội ác của các anh và trừng trị các anh. Đó là lúc các anh phải trả giá cho những tội ác theo cộng sản, theo Mao, theo Hồ, giết hại nhân dân và phá hoại nền tự do, dân chủ của Miền Nam.
Nhưng dân tôc này cũng phải trả giá vì một số con dân bất trung bất hiếu cam tâm làm tay sai cho Trung Cộng, bán nước cho Trung cộng. Ngày trước, các các anh và cha chú các anh cầu đại thắng nên đã bán nhà, bán nước, bán vợ đợ con cho Trung Cộng, nay đến lúc họ đến thâu nhà, thâu đất, đuổi các anh và con cháu các anh ra khỏi nhà, khỏi nước, hoặc bắt dân tộc này phải làm nô lệ để trả nợ súng đạn, lương thực, tiền bạc của Trung Cộng.
Dẫu sao, chúng tôi cũng hoan hô các anh đã lên tiếng còn hơn bọn Nguyễn Phú Trọng cúi đầu ngậm miệng trong lúc tổ quốc lâm nguy. Nếu các anh biến tư tưởng thành hành động cụ thể và chân thật thì là một điều đại hạnh cho Tổ Quốc và dân tộc chúng ta. BKBDD.
Khi nói đến trả giá là nói đến sự thiệt hại. Nay các anh có thiệt hại gì đâu? Các anh theo cộng sản, trở thành đảng viên, thành tư sản đỏ, thành giai cấp thống trị, cũng ông nọ bà kia chứ có thiệt thòi gì đâu mà nói trả giá, trừ những đồng chí bồ nhìn tay sai Mặt trận đào thoát như Trương Như Tảng, Châu Tâm Luân, Đoàn Văn Toại.vv.. Nhưng trong chỗ quần chúng âm thầm, nhất là quần chúng miền Nam, người ta đã căm thù , đã khinh bỉ những tên phản bội quê hương. Và trong tương lai, các anh phải công khai trả giá cho tội ác của các anh theo cộng sản khi toàn dân đứng lên vạch tội ác của các anh và trừng trị các anh. Đó là lúc các anh phải trả giá cho những tội ác theo cộng sản, theo Mao, theo Hồ, giết hại nhân dân và phá hoại nền tự do, dân chủ của Miền Nam.
Nhưng dân tôc này cũng phải trả giá vì một số con dân bất trung bất hiếu cam tâm làm tay sai cho Trung Cộng, bán nước cho Trung cộng. Ngày trước, các các anh và cha chú các anh cầu đại thắng nên đã bán nhà, bán nước, bán vợ đợ con cho Trung Cộng, nay đến lúc họ đến thâu nhà, thâu đất, đuổi các anh và con cháu các anh ra khỏi nhà, khỏi nước, hoặc bắt dân tộc này phải làm nô lệ để trả nợ súng đạn, lương thực, tiền bạc của Trung Cộng.
Dẫu sao, chúng tôi cũng hoan hô các anh đã lên tiếng còn hơn bọn Nguyễn Phú Trọng cúi đầu ngậm miệng trong lúc tổ quốc lâm nguy. Nếu các anh biến tư tưởng thành hành động cụ thể và chân thật thì là một điều đại hạnh cho Tổ Quốc và dân tộc chúng ta. BKBDD.
BẢO DÂN * NHỮNG QUÁI THAI CỦA TRUNG CỘNG XÂM LƯỢC
NHỮNG QUÁI THAI CỦA TRUNG CỘNG XÂM LƯỢC
BẢO DÂN
BẢO DÂN
Thế là Việt Nam ta nay hiện rõ hai phe: phe chống Trung Cộng và phe đầu hàng Trung Cộng. Phe đầu hàng Trung Cộng, cam tâm bán nước cho Trung Cộng thì danh sách rất dài và toàn là những người nắm địa vị then chốt trong đảng và chính phủ Việt Cộng như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng,Trường Chinh, Hoàng Văn Hoan, Lê Duẩn, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng ... Còn phe chống Trung Cộng thì nhiều nhưng toàn là tướng hồi hưu, văn nghệ sĩ hết thời và bình dân bá tánh nghèo khổ.
Khi Trung Cộng đem dàn khoan HD 918 vào hải phận Việt Nam thì bọn Nguyễn Phú Trọng im miệng, nhưng lại ra sức cấm đoán, khủng bố dân chúng biểu tình và các nhà yêu nước phát biểu tinh thần chống Trung cộng xâm lược. Tại hội nghị Singapore trong khi các ngoại trưởng Mỹ Nhật tấn công Trung Cộng, Phùng Quang Thanh ca tụng tình đồng chí anh em với 16 chữ vàng, cương quyết cúi rạp đầu mặc cho Trung cộng dày xéo thân thể chúng và vợ con chúng. Chúng ngăn Phạm Bình Minh đi Mỹ, chúng cản việc đưa Trung Cộng ra tòa án LHQ. Chúng ngăn công việc chống Trung Cộng của Nguyễn Tấn Dũng, và nhiều lần mưu toan hạ bệ Nguyễn Tấn Dũng để chúng toàn quyền bán nước cho Trung cộng. Hiện nay chúng mưu toan đưa Phạm Quang Nghị, một tay ac ôn ở Hà Nội làm làm tổng bí thư thay Nguyễn Phú Trọng và đá văng phe Nguyễn Tấn Dũng. Nhiều người cho rằng Nguyễn Tấn Dũng thuộc phe Võ văn Kiệt thiên tây phương . Nguyễn Tấn Dũng cũng đã đi vài ngọn quyền cước ngoạn mục nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân và đất nước vì ông không thật dạ yêu nước hoặc bị phe Trung Cộng kiềm tỏa.
Phe Trung cộng thì hèn nhát, đã ăn xôi chùa ngọng miệng nên cúi đầu thần phục Trung Quốc với các lý lẽ nào tình quốc tế cộng sản, yêu chuộng hòa bình với 4 tốt và 16 chữ vàng, tránh chiến tranh, nên đầu hàng Trung Cộng hơn là chiến đấu.
Lý luận này được bọn trí thức hải ngoại có thành tich phản chiến, đã từng phục vụ Việt Cộng hoặc Trung cộng phụ họa.
Tiến sỹ Vũ Quang Việt, cựu quan chức thống kê cao cấp của Liên Hiệp Quốc, có hợp đồng tư vấn với Trung Quốc, cho rằng Hà Nội không nên có quan điểm quá cứng rắn về Hoàng Sa và Trường Sa, điều mà ông xem là không đảm bảo lợi ích tối đa cho Việt Nam . Ông cho rằng theo Trung quốc đi thì có quyền lợi, còn chọc giận Trung quốc thì nó chiếm hết, không còn gì. Tóm lại ông khuyên "đầu hàng thì sống, chống thì chết."
Là người Việt nam hay Trung quốc mà ông khuyên như vậy? Ông có đọc lịch sử Việt Nam hay không? Ông bà, cha mẹ ông dạy ông yêu nước hay đầu hàng và bán nước? Ông có chắc đầu hàng mà được ăn cơm thừa canh cặn không hay phải mất mạng?
Ngày nay các nước muốn thảo luận đa phương nhưng Trung cộng muốn họp song phương để bẻ từng chiếc đũa. Ông tiến sĩ có hiểu vấn đề này không? Trong hợp tác, kẻ mạnh bao giờ cũng cướp đoạt và tàn sát kẻ yếu, hợp tac chỉ là một danh từ hoa mỹ mà xảo trá. Chuột không thể hợp tác với Mèo, Cừu không thể hơp tác với sói. Ông tiến sĩ đã đọc qua ngụ ngôn của La Fontaine chưa? Những kẻ muốn hợp tác, hô hào hợp tác với ác quỷ vì họ đã bán linh hồn cho quỷ! Trong khi bọn Trung cộng và Việt cộng che đậy với danh nghĩa họp song phương, đôi bên hợp tác ấy thế mà bọn Việt gian lại mạnh miệng bào ta đầu hàng! Nếu có Thượng phương kiếm, ta phải chém đầu bọn gian tặc này!
Giữa hai phe tranh chấp phải có trọng tài phân xử. Việc hợp lý là phải đưa ra LHQ phân xử. Nhưng với lý luận ngang ngược của Trung Cộng, 90% biển đông là đất của Trung cộng. Nay mai sẽ là 100% và tiến tới cả thế giới là của Trung cộng. Các ông không cần phải học chi nhiều, chỉ cần chút hiểu biết tầm thường và có chút lương tri, biết công bằng và lẽ phải là sẽ hiểu ngay vấn đề. Đất đai nhà ông, tên láng giềng nó bảo là của nó, vợ con ông cũng là của nó. Nó bảo ông ra khỏi nhà. Nó bảo nó hợp tác cai quản nhà cửa, vợ con ông thì các ông tính sao?
Hai giáo sư Trần Hữu Dũng và Ngô Vĩnh Long trả lời Nguyễn Hùng theo giọng điệu dư luận viên cộng sản và bọn Trung cộng rằng đừng tin Mỹ, đừng hy vọng Mỹ vì Mỹ bận nhiều việc, ( Mỹ chỉ là cọp giấy, kinh tế xât bât xang bang, nội bộ mâu thuẫn...) không quan tâm đến Việt nam đâu ( tốt nhất là theo Trung Cộng đi, đừng dại dột theo Mỹ chống Trung Cộng). Và đừng đòi chủ quyền đảo, hãy nghĩ đến biển vì biển bao la đâu phải của mình mà đòi chủ quyền. Mặc Trung quốc xâm chiếm.
Cái ý tưởng này cũng giống ông Hồ bảo Phạm Văn Đồng dâng hải đảo vì mấy hòn đảo xa xôi đó có ai ở đâu, cứ dâng cho Trung Cộng để lấy vũ khí, lương thực. Cứ bán đi.!
Trong khi các chính trị gia Mỹ lên tiếng ủng hộ chủ quyền Viêt Nam và lưu thông trên biển cả thì các ông này cha sinh mẹ đẻ cho ăn cái giống gì mà suy nghĩ như vậy? Không biết tổ tiên họ là Mã Viện hay Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt? Nếu tổ tiên họ là người Việt nay họ theo Trung cộng cũng là điều dễ hiểu!
PHỤ LỤC I
Hoàng Sa- Trường Sa: Hợp tác để chia sẻ?
Cập nhật: 15:17 GMT - thứ sáu, 8 tháng 8, 2014
Một trong những nhà quan
sát Việt Nam có uy tín nói Hà Nội không nên có quan điểm quá cứng rắn
về Hoàng Sa và Trường Sa, điều mà ông xem là không đảm bảo lợi ích tối
đa cho Việt Nam.
Tiến sỹ Vũ Quang Việt, cựu quan chức thống kê
cao cấp của Liên Hiệp Quốc, nói ông đã nghĩ tới chuyện hủy hợp đồng tư
vấn với Trung Quốc khi có diễn biến giàn khoan hồi tháng Năm.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Nhưng ông cũng không ủng hộ cách tiếp cận Biển Đông nói chung của Việt Nam.
Vị Tiến sỹ nói:
"Trong Á châu ít nhất có bốn nước có lợi ích đối
với Trường Sa, đó là Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai, Brunei và một phần
liên quan tới Indonesia.
"Ngoài lợi ích của mấy nước này còn có lợi ích
của các cường quốc trong đó có Mỹ, có Trung Quốc, có Nhật và nhiều nước
khác phải buôn bán, phải đưa hàng hóa qua Biển Đông và phải có quyền tự
do đi lại.
"Do đó hòa bình ở khu vực là quan trọng. Vì vậy
bắt buộc những nước trong khu vực nếu có tranh chấp phải đặt lợi ích
không chỉ của mình mà của nhiều người [lên bàn cân] mà đặc biệt đối với
Trường Sa là lợi ích của những nước ASEAN nữa.
"Còn nêu khẩu hiệu Trường Sa là của ta thì còn gì mà nói chuyện với các nước khác nữa."
'Hợp tác để có hòa bình'
Ông Việt cho rằng Hà Nội nên theo đuổi chính sách "liên minh để quyền lợi của mọi người được tôn trọng" và nói thêm:
"Chuyện không phải chỉ có đảo nhỏ mà là sự đi
lại. Nếu Trung Quốc lấy hết Biển Đông theo đường lưỡi bò thì tất cả
quyền lợi của các nước khác đều không còn ngoại trừ quyền lợi của Trung
Quốc.
"Như vậy quyền lợi của mình gắn liền với các nước khác chứ không phải là mấy cái đảo.
"Giả dụ mình mất một hai đảo mà giờ mình gọi là
của mình thì nếu mình được khai thác khi đường lưỡi bò không còn hiện
diện ở đó nữa, rồi EEZ xung quanh mình được khai thác thì có phải là
nhiều hơn không."
"...Nếu muốn có hòa bình thì phải hợp tác để chia sẻ chứ không thể mỗi người tự bảo của mình được.
"Trung Quốc bảo của họ hết, Việt Nam bảo của
mình hết thì không giải quyết được gì và cũng không anh nào ủng hộ
mình," ông Việt nói.
'An ninh khu vực'
Chia sẻ quan điểm với ông Việt, giáo sư kinh tế có hơn 30 năm giảng dạy ở Hoa Kỳ, ông Trần Hữu Dũng nói:
"Tôi nghĩ rằng Việt Nam hơi sai khi đặt nặng vấn đề về chủ quyền hơn là vấn đề an ninh khu vực và tự do khu vực."
Trong khi đó giáo sư Ngô Vĩnh Long, giáo sư sử học ở Đại học Maine từ năm 1985, nói rõ hơn về cách nhìn Biển Đông từ Hoa Kỳ
"Mỹ không để ý tới Việt Nam quá đâu nhưng vấn
đề Biển Đông ấy, nơi đó là 60% tất cả mậu dịch đi trên biển qua bên đo
cho nên sự đe dọa trên Biển Đông không chỉ đe dọa Việt Nam mà đe dọa cả
các nước khác trên thế giới.
"Nếu Việt Nam nhìn vấn đề Biển Đông qua vấn đề
chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa thì không có thể thuyết phục Mỹ hay
các nước khác ủng hộ Việt Nam.
"Nhưng nếu Việt Nam thấy rằng an ninh hàng hải
trong khu vực thật là quan trọng và đẩy Mỹ và các nước khác chú ý thêm
thì Việt Nam lúc đó mới được người ta chú ý.
Ông Long nhấn mạnh quan tâm của Mỹ và đồng minh là vấn đề thông thương trên biển:
"Gần như 100% dầu cho Nhật qua vùng đó, gần như 100% dầu cho Đài Loan qua vùng đó, 80% dầu cho Hàn Quốc qua vùng đó.
"Những nước này là những nước đồng minh với Mỹ.
"Thành ra nếu muốn Mỹ mà để ý là Việt Nam bị
Trung Quốc đe dọa vì đường lưỡi bò thì Việt Nam phải thuyết phục các
đồng minh của Mỹ cũng như Mỹ rằng an ninh trên biển rất quan trọng và vì
có sự tranh chấp ở các hòn đảo đó nên sự tranh chấp đó có thể gây mất
an ninh thì như vậy ta mới có thể kéo vấn đề biển vào đảo chung được.
"Chứ còn nếu chỉ nói về đảo thì người ta không
để ý đấy. Thì Việt Nam bây giờ chỉ nói tới vấn đề đảo thôi, rằng Trường
Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam."
'Một phần trong bàn cờ'
Giáo sư Trần Hữu Dũng nhận định "Việt Nam chỉ là một phần trong cả bàn cờ Đông Á" và nói:
"Tôi hy vọng các nhà lãnh đạo Việt Nam có cái
nhìn xa về địa chính trị hơn là chỉ một vài hòn đảo, địa chính trị thế
nào, liên minh về lâu về dài cho Việt Nam, cũng như khu vực và thế giới.
"... Trước hết phải nhận thấy Hoa Kỳ có nhiều
quyền lợi ở khắp nơi trên thế giới, thí dụ hôm nay chẳng hạn thì có bao
nhiêu chuyện từ Ukraine tới Syria… biết bao nhiêu chuyện
;;;... Trước hết phải nhận thấy Hoa Kỳ có nhiều quyền lợi ở khắp nơi
trên thế giới, thí dụ hôm nay chẳng hạn thì có bao nhiêu chuyện từ
Ukraine tới Syria… biết bao nhiêu chuyện
"Thành ra Biển Đông, mặc dù quan trọng, nhưng chỉ là một phần nhỏ thôi."Một trong những nhận định có thể hơi sai lầm của đa số các quan sát viên là tưởng Mỹ tối ngày nghĩ tới Việt Nam.
"Tôi hy vọng các nhà lãnh đạo Việt Nam có cái nhìn xa về địa chính trị hơn là chỉ một vài hòn đảo, địa chính trị thế nào, liên minh về lâu về dài cho Việt Nam, cũng như khu vực và thế giới."
Giáo sư Trần Hữu Dũng
"Không phải họ không chú ý tới Việt Nam hay
không chú ý tới Biển Đông nhưng mà có rất nhiều vấn đề quan trọng khác
để lo, chú ý tới bất kỳ lúc nào đó," ông Dũng nói.
Còn giáo sư Ngô Vĩnh Long cho rằng thời thế đã
thay đổi so với thời mà Hoa Kỳ bị xem là đã "đứng nhìn" Trung Quốc lấy
phần đảo Hoàng Sa mà Việt Nam Cộng hòa lúc đó đang chiếm giữ hồi năm
1974.
Ông nói: "Xin nói hai thời điểm nó khác nhau.
Cái thời điểm Trung Quốc lấy Hoàng Sa là thời điểm sau khi cựu Ngoại
trưởng Hoa Kỳ Kissinger và Tổng thống Nixon sang Trung Quốc.
"Lúc đó Mỹ chơi lá bài Trung Quốc và Mỹ thương
lượng với Trung Quốc cả một dãy hòn đảo từ Điếu Ngư/Senkaku cho đến Đài
Loan và cho đến vùng Hoàng Sa và Trường Sa phía dưới này, một sự nhượng
bộ, không phải là nhượng bộ hẳn, nhưng để Trung Quốc ủng hộ chính sách
của Mỹ lúc đó.
"Bây giờ nó khác rồi. Mỹ đã thấy vì Mỹ nhượng bộ
Trung Quốc như vậy mà bây giờ nó gây ra một số khó khăn chưa thể giải
quyết được."
PHỤ LỤC II
lundi 11 août 2014
Góp ý với ba vị giáo sư có 30 năm kinh nghiệm giảng dạy ở Hoa Kỳ
Thật tình tôi không thể chia sẻ bất kỳ ý tứ nào của của ba vị (giáo sư
tiến sĩ có hơn 30 năm giảng dạy ở Hoa Kỳ) trong bài phỏng vấn của BBC ở đây.
Bài phỏng vấn có tựa đề: “Hoàng Sa-Trường Sa : hợp tác để chia sẻ”.
Ý kiến của ba vị này, như theo ông GS Trần Hữu Dũng :
“Tôi nghĩ rằng Việt Nam hơi
sai khi đặt nặng vấn đề về chủ quyền hơn là vấn đề an ninh khu vực và tự do khu
vực.”
Vấn đề đặt ra là : VN hợp tác với ai, về cái gì và chia sẻ với ai, về
cái gì ?
Nói về Hoàng Sa. TQ đã chiếm quần đảo này (trên tay VNCH) từ năm 1974.
Nếu chỉ tính từ biến cố giàn khoan 981, lý do mà TQ đưa ra trước quốc tế
để bào chữa cho hành động đặt giàn khoan này là : 1/ Hoàng Sa là lãnh thổ của
TQ. 2/ Vị trí đặt giàn khoan 981 thuộc về thềm lục địa của các đảo HS.
Ban đầu TQ cho rằng vị trí giàn khoan nằm trong “lãnh hải” của đảo Tri
Tôn. Sau đó họ nhận ra rằng việc này là không đúng, vì vị trí giàn khoan nằm
cách đảo Tri Tôn đến 17 hải lý (trong khi bề rộng lãnh hải theo luật định chỉ
có 12 hải lý). Vì vậy họ mới chữa là giàn khoan nằm trong vùng “tiếp cận lãnh
hải” của đảo Tri Tôn. TQ còn nói thêm rằng, dầu thế nào thì giàn khoan cũng nằm
trong hải phận của các đảo HS (nếu tính hiệu lực các đảo như Phú Lâm…)
Thử đặt giả thuyết, VN không đặt nặng vấn đề chủ quyền như ý kiến của
các giáo sư : (Hoàng Sa là của VN), thì VN chỉ có lý do duy nhất để phản bác
hành vi của TQ (khi đặt giàn khoan 981) là các đảo Hoàng Sa quá nhỏ (để có hải
phận kinh tế độc quyền).
Nhưng khi nói vậy, thứ nhứt VN mặc nhiên nhìn nhận HS thuộc chủ quyền
của TQ. Thứ hai, tranh chấp giữa VN và TQ trở thành tranh chấp về việc cách
diễn giải điều 121 của Luật Biển 1982 về hiệu lực các đảo, mà điều này phần
thua 99% thuộc về VN. Bởi vì Luật Biển 1982 không hề phân biệt đảo nhỏ hay đảo
lớn (để có vùng kinh tế độc quyền 200 hải lý) mà chỉ phân biệt đảo mà con người
có thể sinh sống và có nền kinh tế tự túc hay không.
Quan niệm như vậy, TQ sẽ không cho VN “hợp tác” và “chia sẻ” bất cứ cái
gì (như hiện nay) ở Hoàng Sa (và vùng biển chung quanh).
Tức là nếu VN không đặt nặng vấn đề chủ quyền (Hoàng Sa là của VN), có
nghĩa là VN sẽ phải “chia sẻ” và “hợp tác” với TQ vùng biển (và thềm lục địa) của mình, từ bờ
biển miền Trung cho đến đảo Tri Tôn.
Phải chăng ý kiến của ba vị giáo sư “có 30 năm kinh nghiệm giảng dạy tại
Hoa Kỳ” (sic!) là vậy ?
Còn về an ninh và tự do hàng hải, thực ra, nếu nhìn sâu xa, thì hiện nay
VN mới là bên có thể đe dọa “an ninh” và “tự do hàng hải” trong Biển Đông hơn
cả TQ. Trong một mức độ chiến thuật, nếu khủng hoảng giàn khoan 981 bùng nổ,
thì chỉ phía VN là bên có khả năng “ngăn chặn” tất cả các tàu buôn, của TQ hay
của các nước khác, qua lại. Hải quân TQ chưa đủ mạnh để có thể kiểm soát Biển
Đông. Trong khi vùng biển Hoàng Sa thì không hề nằm trên trục qua lại của tàu
bè các nước. Do đó, khi Hoa Kỳ cũng như các nước lo ngại vụ giàn khoan 981 sẽ
đe dọa an ninh khu vực, phần lớn là do từ khả năng “du kích đại dương” của VN
mà ra, chứ không phải đe dọa từ TQ.
Cá nhân tôi nhận thấy rằng, trong vấn đề giàn khoan 981, phản ứng của VN
như vậy là khá hợp lý, trong khi phía TQ có lẽ đã phạm sai lầm. VN đã sử dụng
thành công các mặt vận động dư luận, vận động về pháp lý, kể cả việc răn đe… Điều
còn lại là VN nên nắm lấy cơ hội để đưa tranh chấp Hoàng Sa ra một trong tài
quốc tế.
Câu hỏi đặt ra, ở Hoàng Sa, điều hợp lý là VN phải “đặt nặng” hay “đặt
nhẹ” vấn đề chủ quyền ?
Còn ở khu vực Trường Sa, vấn đề cũng đặt ra là : VN hợp tác với ai, về
cái gì và chia sẻ với ai, về cái gì ?
Giả sử nếu không có TQ, thì tranh chấp Trường Sa giữa VN với các nước
Phi, Mã Lai, Indonésie… sẽ không là việc khó. VN có thể tuyên bố các đảo này
quá nhỏ để có hiệu lực về ZEE, hoặc đề nghị một vùng khai thác chung trong vùng
biển thuộc Trường Sa. Các đề nghị này đều có thể được người dân VN dễ dàng chấp
nhận.
Vấn đề nổi cộm là đòi hỏi phi lý của TQ về chủ quyền các đảo TS cũng như
vùng biển chung quanh (và vùng biển theo đường chữ U).
VN và các nước liên quan có thể “hợp tác” và “chia sẻ” cái gì ở Trường
Sa với Trung Quốc ?
Vấn đề là TQ muốn gì ?
Đối với VN, trong quá khứ, TQ chiếm
một số đảo của VN năm 1988, thảm sát gần trăm binh lính VN (không cầm khí
giới). Thập niên 90, TQ đã cho các tập đoàn dầu khí (của Hoa Kỳ) khai thác trên
thềm lục địa của VN, thuộc vùng Tư Chính- Vũng Mây (mà TQ gọi là Vạn An Bắc),
cách bờ biển VN khoảng 300km. Gần đây TQ cho gọi đấu thầu khai thác dầu khí trên
các lô thuộc thềm lục địa của VN, cách bờ biển các tỉnh miền Trung chỉ hơn
100km. Ngoài ra còn có các hành vi ngang ngược như cắt cáp tàu Bình Minh, ra
lệnh cấm đánh cá…
Đối với Phi, TQ chiếm đảo Vành Khăn
(thập niên 90). Gần đây chiếm bãi cạn Scarborough, đe dọa chiếm bãi Cỏ Rong…
Đối với Indonésie, TQ mở tranh chấp
lãnh thổ ra tới đảo Natuna. Với Mã Lai thì cho tàu bè chiếm đóng các bãi cạn…
Bỏ các nước kia ra một bên, VN có
thể « chia sẻ » cái gì với TQ ? Vùng Tư Chính – Vũng Mây ? Hay
thềm lục địa miền Trung (khu vực giữa đá Gạc Ma và bờ biển VN) ?
Không thấy quí vị giáo sư “có 30
năm kinh nghiệm giảng dạy tại Hoa Kỳ” (sic!) nói rõ ý kiến « chia sẻ và
hợp tác », trường hợp với TQ, là chia ở đâu, và chia như thế nào ?
Theo tôi, nếu VN không đặt nặng vấn
đề chủ quyền : Trường Sa là của Việt Nam, thì VN sẽ không có cách nào khả
dĩ bảo vệ được quyền lợi chính đáng của mình trước những yêu sách ngang ngược
của TQ.
http://nhantuantruong.blogspot.ca/
PHỤ LỤC III
Trich đoạn TRẦN NHU TƯỚNG ĐI ĐÊM.
- Thì tôi bảo ông phải cẩn trọng, mà bao nhiêu lần nó làm nhục ông rồi! Nhưng những cái nhục đó cũng không đáng kể đâu.
- Thì cái nhục gì đáng kể, bà nói tôi nghe ? - Không những nhục mà còn là tội tầy đình. - Tội gì ? - Tôi hỏi ông, việc để mất Hoàng Sa, Trường Sa không phải trách nhiệm của ông sao ?
- Không. - Thế ông làm tướng để làm gì ? Và còn những ai trách nhiệm nữa ?
- Bà không biết việc này, chính cụ Hồ khi họp Bộ Chính Trị vào ngày mùng 7 tháng 9 năm 58 bàn về vấn đề Trường Sa, Hoàng Sa, cụ nói: "Các đồng chí Trung Quốc đã giúp ta từ đầu đến cuối cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi là nhờ ở họ. Nay họ muốn một vài hòn đảo nhỏ, sao có thể từ chối ? Vả lại, mảnh đất hoang dã ấy chẳng có gì ngoài cứt chim..."
- Đồ ngu, tôi muốn ỉa vào mặt nó, nợ thì trả, còn đất đai sông núi tổ tiên ta đổ xương máu ra để bảo vệ, gìn giữ. Không một cá nhân nào, một tập đoàn đảng phái nào có quyền sang nhượng cho nước ngoài.
Trich đoạn TRẦN NHU TƯỚNG ĐI ĐÊM.
- Thì tôi bảo ông phải cẩn trọng, mà bao nhiêu lần nó làm nhục ông rồi! Nhưng những cái nhục đó cũng không đáng kể đâu.
- Thì cái nhục gì đáng kể, bà nói tôi nghe ? - Không những nhục mà còn là tội tầy đình. - Tội gì ? - Tôi hỏi ông, việc để mất Hoàng Sa, Trường Sa không phải trách nhiệm của ông sao ?
- Không. - Thế ông làm tướng để làm gì ? Và còn những ai trách nhiệm nữa ?
- Bà không biết việc này, chính cụ Hồ khi họp Bộ Chính Trị vào ngày mùng 7 tháng 9 năm 58 bàn về vấn đề Trường Sa, Hoàng Sa, cụ nói: "Các đồng chí Trung Quốc đã giúp ta từ đầu đến cuối cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi là nhờ ở họ. Nay họ muốn một vài hòn đảo nhỏ, sao có thể từ chối ? Vả lại, mảnh đất hoang dã ấy chẳng có gì ngoài cứt chim..."
- Đồ ngu, tôi muốn ỉa vào mặt nó, nợ thì trả, còn đất đai sông núi tổ tiên ta đổ xương máu ra để bảo vệ, gìn giữ. Không một cá nhân nào, một tập đoàn đảng phái nào có quyền sang nhượng cho nước ngoài.
Monday, August 11, 2014
MỸ- VIỆT NAM & BIỂN ĐÔNG
Căng thẳng Mỹ-Trung gia tăng vì vấn đề Biển Đông
Ngoại
trưởng Mỹ John Kerry gặp Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị tại Hội
nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 47 tại Naypyitaw, Myanmar, ngày
9/8/2014.
13.08.2014
BẮC KINH—
Truyền thông nhà nước Trung
Quốc tố cáo Hoa Kỳ khuấy động căng thẳng ở Biển Đông trong lúc Ngoại
trưởng Mỹ John Kerry kết thúc chuyến công du Đông Nam Á, trong đó
Washington và Bắc Kinh đã lời qua tiếng lại với nhau về vụ tranh chấp
lãnh thổ trong khu vực. Từ Bắc Kinh, thông tín viên Shannon Van Sant của
đài VOA gởi về bài tường thuật sau đây.
Trung Quốc và Hoa Kỳ đã tố cáo lẫn nhau về những hành động liên quan tới Biển Đông, nơi Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền với nhiều nước vùng Đông Nam Á. Tờ Nhân dân Nhật báo do nhà nước điều hành nói rằng Hoa Kỳ làm cho các nước láng giềng của Trung Quốc trở nên táo bạo hơn trong những yêu sách chủ quyền ở vùng biển trọng yếu này.
Trung Quốc và Hoa Kỳ đã tố cáo lẫn nhau về những hành động liên quan tới Biển Đông, nơi Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền với nhiều nước vùng Đông Nam Á. Tờ Nhân dân Nhật báo do nhà nước điều hành nói rằng Hoa Kỳ làm cho các nước láng giềng của Trung Quốc trở nên táo bạo hơn trong những yêu sách chủ quyền ở vùng biển trọng yếu này.
Tờ Nhân dân Nhật báo, cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng Cộng Sản
Trung Quốc, nói rằng “lập trường của Hoa Kỳ làm cho Philippines tin là
họ sẽ thắng trong vụ tranh chấp Biển Đông.” Báo này tố cáo Hoa Kỳ khuấy
động căng thẳng để “đục nước béo cò” và khuyến khích “những nước như
Philippines và Việt Nam có những hành động táo tợn.”
Ông Thành Hiểu Hà, giáo sư môn quan hệ quốc tế của Đại học Nhân dân ở
Bắc Kinh, nói rằng tranh chấp Biển Đông đang trắc nghiệm các mối quan
hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
"Đó là những dấu hiệu không tốt cho các mối quan hệ Mỹ-Trung, đặc
biệt là trong lúc hai nước đang cố gắng rất nhiều để xây dựng điều được
gọi là mô hình mới của quan hệ nước lớn. Những lời lẽ mà Washington và
Bắc Kinh sử dụng để chống lại nhau đang trở nên kịch liệt hơn."
Hồi đầu tuần này Hoa Kỳ tố cáo Trung Quốc gây bất ổn ở Châu Á bằng
những hành động hung hăng và đề nghị các nước tự nguyện đình chỉ các
hành vi khiêu khích.
Trung Quốc bác bỏ đề nghị đó và tố cáo chính sách xoay trục Châu Á
của Mỹ đã gieo rắc những mầm móng của sự bất ổn. Hơn 1.000 binh sĩ Thủy
quân Lục chiến Mỹ đang được bố trí ở Australia, và con số đó dự kiến sẽ
tăng tới 2.500 vào năm 2017. Giáo sư Thành Hiểu Hà giải thích như sau về
cái nhìn của Trung Quốc đối với những hành động của Mỹ.
"Hoa Kỳ vừa ký kết những hiệp định an ninh mới với Australia và Mỹ
đang tìm cách thiết lập một căn cứ quân sự vĩnh viễn ở Australia. Và tất
cả những ngôn từ và những hành động này đã được người Trung Quốc xem là
một hành động nhằm ngăn chận sự trỗi dậy của Trung Quốc."
Nhưng ảnh hưởng mỗi ngày một tăng của Trung Quốc trong khu vực cũng
gây ra những mối căng thẳng với các nước láng giềng. Mới đây nhiều đảng
viên có uy tín của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã viết một lá thư cho giới
lãnh đạo ở Hà Nội để kêu gọi thực hiện những biện pháp cải cách nhằm
giảm bớt sự lệ thuộc vào Trung Quốc. Hồi tháng 5, việc Trung Quốc mang
một giàn khoan dầu trị giá một tỉ đô la đến hoạt động ở Biển Đông đã làm
bùng ra những vụ phản kháng có bạo động ở Việt Nam.
Ông Thành Hiểu Hà cho biết căng thẳng giữa đôi bên vẫn còn tồn tại.
"Theo tôi thì có lẽ hãy còn quá sớm để nói rằng cơn ác mộng giữa Trung Quốc với Việt Nam đã chấm dứt."
Bộ Ngoại giao Mỹ đang kêu gọi giảm thiểu căng thẳng và thúc giục các
bên liên quan hãy nhanh chóng đạt được một Bộ Qui tắc Hành xử Biển Đông.
Trung Quốc và ASEAN đã thương thảo với nhau về một bộ qui tắc hành xử
trong hơn 10 năm qua.
Mỹ-Úc nhất trí mở rộng liên minh quốc phòng với Nhật Bản và Ấn Độ
DR
Trong một động thái chắc chắn sẽ khiến cho Trung Quốc phật ý,
Hoa Kỳ và Úc vào hôm qua 12/08/2014 đã chính thức ký Hiệp ước tăng
cường hợp tác quân sự, đặc biệt là chính thức hóa việc triển khai 2500
lính thủy quân lục chiến Mỹ tại căn cứ Darwin, miền Bắc Úc, sát Biển
Đông. Bên cạnh đó, hai đồng minh thân thiết còn đồng ý mở rộng liên minh
quốc phòng với Nhật Bản ở vùng Đông Bắc Á, và Ấn Độ ở vùng Nam Á.
Hiệp ước đã được hai bên ký kết vào hôm qua nhân Hội nghị Tham
vấn thường niên Mỹ-Úc cấp Bộ trưởng Ngoại giao và Quốc phòng – AUSMIN
2014 - với sự tham gia của các ông John Kerry và Chuck Hagel, phía Mỹ,
và bà Julie Bishop cùng ông David Johnston, phía Úc.
Hiệp ước có hiệu lực trong vòng 25 năm này đã chính thức hóa yếu tố
nổi nhất trong chính sách xoay trục của Mỹ qua Châu Á Thái Bình Dương :
tăng cường sự hiện diện quân sự của Mỹ trong khu vực. Theo hiệp ước
Mỹ-Úc, Hoa Kỳ có quyền cho đồn trú thường xuyên 2.500 lính Thủy quân lục
chiến tại căn cứ Darwin để sẵn sàng can thiệp khi cần thiết. Không quân
và Hải quân Mỹ cũng được quyền tiếp cận các căn cứ Úc một cách rộng rãi
hơn
Bên cạnh đó, hai bên cũng quyết định hợp tác với nhau trong việc hình
thành hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo tại khu vực Đông Bắc Á, cũng
như tăng gia hợp tác và thao dượt hải quân.
Khía cạnh song phương Mỹ-Úc dĩ nhiên đã được hầu hết các nhà quan sát
chú ý, nhưng kết quả các cuộc đàm phán Mỹ Úc vào hôm qua còn bao hàm
một yếu tố khác quan trọng không kém : Đó là việc cả Canberra lẫn
Washington đều nhất trí dùng hợp tác quân sự-quốc phòng của mình làm
nòng cốt để mở rộng liên minh.
Trước hết là liên minh với Nhật, từng được dự báo sau chuyến thăm Úc
lịch sử gần đây của Thủ tướng Shinzo Abe. Trong lãnh vực này, bản Thông
cáo chung của AUSMIN nói rõ : « Úc và Hoa Kỳ hoan nghênh nỗ lực của
Nhật Bản nhằm đóng góp lớn hơn vào hòa bình và ổn định quốc tế, bao gồm
cả quyết định của Nhật hành xử quyền tự vệ tập thể theo tinh thần Hiến
chương Liên Hiệp Quốc. Hai nước (Mỹ và Úc) cam kết duy trì các quan hệ
an ninh song phương mạnh mẽ với Nhật Bản, phát huy hợp tác an ninh và
quốc phòng ba bên, trong đó có cơ chế Đối thoại Chiến lược Ba bên, và
phát triển hơn nữa các cuộc tập trận ba bên hiện hữu ».
Đối với Ấn Độ cũng thế, Mỹ và Úc đều công nhận tư cách « nền dân chủ lớn nhất thế giới » và « cường quốc kinh tế và chiến lược quan trọng trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương » của New Delhi.
Trên cơ sở đó, Mỹ và Úc xác nhận ý định mở rộng hợp tác ba bên với Ấn
Độ, trong những lãnh vực như an ninh hàng hải, an ninh năng lượng, tăng
trưởng kinh tế, cũng như thông qua hợp tác với Ấn Độ trong các tổ chức
khu vực.
Những sức ép trước đại hội đảng
Việt Hà và Kính Hòa phỏng vấn GS Nguyễn Mạnh Hùng, giảng dạy môn quan hệ quốc tế trường đại học George Mason, Hoa Kỳ.
Việt Hà: Thưa giáo sư câu hỏi đầu tiên muốn hỏi giáo sư là
trước đại hội lần này thì những thuận lợi và thách thức của đảng cộng
sản Việt Nam là gì?
GS. Nguyễn Mạnh Hùng: Mình chỉ nên nói đến thách thức thôi.
Thách thức của đảng cộng sản là lần đầu tiên đảng cộng sản đứng trước
thách thức là sự chính thống của đảng cộng sản bị đe dọa vì người trong
nước cho rằng phản ứng của họ với Trung Quốc là chưa đủ. Và cái quan
niệm đó tôi nghĩ không phải chỉ ở trong dân chúng, trong những người trí
thức, trong những phần tử gọi là bất đồng chính kiến và còn khá nhiều
những người trong đảng nữa, bởi tôi nghĩ cơ quan lý luận của đảng cũng
có thái độ tôi nghĩ là tương đối cứng rắn hơn với Trung Quốc.
Kính Hòa: Như giáo sư vừa đề cập thì giáo sư có đánh giá cao lá thư của 61 vị đảng viên kêu gọi đảng cải tổ vừa rồi không?
GS. Nguyễn Mạnh Hùng: Theo tôi nghĩ là cứ kiến nghị nào thì
cũng tốt thôi nhưng người ta có nghe hay không lại là chuyện khác. Tuy
nhiên tôi thấy các quý vị đó cũng thúc đẩy, kêu gọi… theo tôi biết là họ
còn muốn có nhiều chữ ký hơn nhưng mà chỉ có được 61 chữ ký thôi. Họ có
những chữ ký của đảng viên ngay trong đảng nữa cơ nhưng mà người ta
chưa ký có lẽ bởi vì hiện nay cái việc quyết định nhân sự chưa xong nên
chẳng ai muốn lộ văn bản mình đánh cả.
Việt Hà: Như giáo sư nói thì ngay trong đảng cũng có người
ủng hộ cái kiến nghị 61 đó như vậy thì vấn đề chia rẽ trong nội bộ đảng
cộng sản trước đại hội đảng này thế nào?
GS. Nguyễn Mạnh Hùng: Chia rẽ thì thực sự không phải chia rẽ
về ý thức hệ. Tôi nghĩ chia rẽ mâu thuẫn… người ta có sự khác biệt về
chính sách, một phần nhỏ thôi. Tôi nghĩ không ai hoàn toàn chịu chấp
nhận áp lực hay sự lấn lướt của Tàu nhưng có sự tranh giành quyền lực.
Sự tranh giành này thể hiện qua cách người ta nói về vấn đề Trung Quốc.
Kính Hòa: Thông thường trước một đại hội lớn như vậy người
ta đã chuẩn bị nhân sự rồi. Giáo sư có thấy là vấn đề nhân sự có cái gì
thể hiện ra chưa.
GS. Nguyễn Mạnh Hùng: Thực ra thì còn sớm vì chuẩn bị nhân sự
nhiều khi quyết định vào phút cuối. Bây giờ người ta chuẩn bị những
người đi họp đảng. Hiện nay chúng ta thấy có một số vấn đề, như là báo
cáo chính trị, thường là người ta đưa ra trước cả năm để thảo luận thì
lần này còn hai năm nữa. Vấn đề thảo luận nhân sự thì tương đối có sự
rục rịch. Gần đây có việc cơ cấu cho những người trẻ giữ những chức vụ
mà họ có thể có triển vọng vào trung ương đảng, hoặc dự khuyết hoặc
chính thức. Lần này chúng ta có sự cơ cấu cái mà ta gọi là hạt giống đỏ.
Chúng ta thấy con của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng được cơ cấu, con
rể của ông Nghị cũng được cơ cấu, con ông Đặng Xuân Kỳ, cháu ông Đặng
Xuân Khu cũng được cơ cấu… Những người này có thể là những thành phần
lãnh đạo trẻ của đảng cộng sản. Nếu nhìn vào những cái đó thì mình thấy
một điều là dĩ nhiên là họ phải trẻ hơn rồi, thứ hai là đa số học ở Tây
phương. Thứ ba nữa là tuy họ không có kinh nghiệm đấu đá chính trị như
các ông cha của họ nhưng sự tương đối về kiến thức chuyên môn của họ có
nhiều hơn.
Việt Hà: Thường thì vào lúc này mọi người cũng đã bắt đầu
nói về một số gương mặt sáng giá cho các chức vụ quan trọng. Giáo sư đã
thấy gương mặt nào sáng giá chưa mà mọi người đang nói đến?
Gs. Nguyễn Mạnh Hùng: Tôi thấy thì cả ở Việt Nam lẫn ngoại
quốc tôi thấy phần lớn là suy đoán nhiều hơn là sự thật. Bây giờ mình
nhìn vào những thành phần lãnh đạo mới, có thể gọi là mới thì những ông
lãnh đạo hiện tại các ông đều ở tuổi từ 67 đến 70 hay ngoài 70 và đã hai
nhiệm kỳ rồi. Trên nguyên tắc là các ông phải đi hết. Nhưng có thể có
quyết định ở lại. Một ông ở lại thì ngần ấy ông đều ở lại hết. Chúng ta
thấy một người khác mà người ta cứ nói mãi là ông PHạm Quang Nghị có
triển vọng thay thế. Tôi nghe không những ở ngoại quốc mà ở cả Việt Nam
cũng nhiều. Nhưng trong trường hợp ông Nghị thì ông Nghị cũng đã 67 tuổi
rồi, đến lúc đó là ông 67 tuổi rồi. trên nguyên tắc, thể thức của đảng
là không đúng để ở lại. Nhưng mà chuyện các ông quyết định ở lại thì đã
từng xảy ra chứ không phải là chưa từng xảy ra. Nhưng một ông ở lại thì
các ông khác cũng ở lại.
Việt Hà: Vậy thì theo giáo sư, với những sức ép trong nước
và những thay đổi ở bên ngoài, vấn đề về Trung Quốc thì chúng ta có thể
có hy vọng có đột phá nào trong đại hội đảng lần này như đại hội 6
không?
GS. Nguyễn Mạnh Hùng: Tôi nghĩ cái đó nó không mạnh. Năm 1986
thì Việt Nam đã đến đáy rồi. Người ta thường nói khi đảng cộng sản bị
dồn vào chân tường thì đảng cộng sản mới hành động. Năm đó thì Việt Nam
đã bị rớt đến đáy đến nỗi ông Trường Chinh nói rằng cải tổ hoặc là chết.
Hiện nay thì mình chưa thấy nguy cơ đến như vậy. Tình hình kinh tế
không được tốt lắm. Tiền ngoại quốc cứ đổ vào cứ 10 tỷ thì họ vẫn sống
ngất ngư được. Thành ra nó không nguy hiểm như thế. Nhưng mà có một cái
thách thức lớn là Trung Quốc. Trung quốc một đằng bên ngoài lớn mạnh như
vậy nhưng bên trong nhân dân và nội bộ đảng viên không thích. Thành ra
tôi nghĩ khó mà có thể lờ cái vấn đề Trung Quốc trong cái đại hội. Nếu
mà Trung Quốc không có nhân nhượng thỏa đáng thì vấn đề sẽ được đặt ra.
Cái đó tôi nghĩ là vấn đề chính. Còn những thay đổi mà thực sự có những
đột phá lớn thì cái đó là có tính cách mạng.
Vấn đề nhân sự
Kính Hòa: Giáo sư có nói đến quan hệ với Trung Quốc. Trong
quan hệ Việt Nam Trung Quốc thì bao giờ nó cũng được đặt bên cạnh quan
hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Gần đây thì có chuyến thăm của ông Phạm
Quang Nghị sang Hoa Kỳ thay vì ông Phạm Bình Minh, thì giáo sư thấy vấn
đề đó thế nào?
GS. Nguyễn Mạnh Hùng: Trước hết về ông Minh thì người ta chỉ
có thể phỏng đoán thôi. Trước hết ông Minh sang về ngoại giao thì ông
phải có một cái gói nào đó. Nếu không có gói điều đình nào đó thì sự
thăm đó chỉ có tính cách lễ nghi và kiểu mà ông biểu diễn cho người ta
thấy thì người Mỹ không thích chuyện đó. Chuyện ông Nghị sang thì không
có tư cách chính thức chính phủ thì có thể ông mang gói quà hay gói hàng
nào mà ông điều đình thì mình không biết được. Ông Nghị là người của Bộ
chính trị nữa, có khả năng lớn nói chuyện. Ông nói cái gì mình không
biết nhưng có điều chắc chắn là hai bên đã đạt được một thỏa thuận tiên
khởi nào đó thì ông McCain mới sang Việt Nam bởi ông mới ở Việt Nam về
ông lại sang ngay. Cái đó là chỉ dấu là có thể có những bước tiến. Vì
ông McCain trong bài diễn văn ở Việt Nam ông có nói ông kỳ vọng về bước
nhảy vọt chiến lược trong bang giao giữa Việt Nam và Mỹ.
Việt Hà: Giáo sư có nói về chuyến thăm của ông McCain đến
Việt Nam, trong chuyến thăm vừa rồi ông McCain có nói đến việc dỡ bỏ
lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, theo giáo sư khả năng quan
hệ Việt Nam Mỹ được nâng lên quan hệ chiến lược thế nào?
GS. Nguyễn Mạnh Hùng: Hiện nay triển vọng thì có nhưng có
nhiều bước tiến trước khi đó lắm. Nói thí dụ bước đầu từ cấm vận bán vũ
khí sát thương thì ngay ông McCain cũng nói là phải từ từ, từng bước
một. Thành ra cái đó là từ từ. Những cái đó phải từ từ mới tiến đến quan
hệ chiến lược. Và những cái đó để chuẩn bị và ông cũng nhắc đến thời
điểm rất quan trọng là kỷ niệm 20 năm. Việt Nam cũng muốn mời ông Obama
sang. Nếu thời điểm đó xảy ra và một chuyến thăm như vậy thì có thể có
kết quả tốt và quan trọng trong mối quan hệ bang giao Việt Nam, có thể
đẩy lên tầm quan hệ chiến lược. Nhưng cái đó đòi hỏi một sự chuẩn bị rất
lâu, điều đình thương lượng giữa hai bên rất kỹ, và dĩ nhiên phải có sự
tương nhượng. Về phía Mỹ thì ta thấy ông McCain thì lần này ông không
đi một mình mà ông đi với một đồng nghiệp nữa trong đảng dân chủ, có
nghĩa là ông muốn nói là có sự đồng ý của hai đảng ở thượng viện. Nếu mà
chúng ta nhìn về chính sách ngoại giao của Mỹ thì ở Syria hay Ukraine
cũng chẳng có lưỡng đảng. Riêng trường hợp Việt Nam ở cái vụ giàn khoan
này thì chúng ta thấy cái nghị quyết của thượng viện. Rồi cái vụ đi này
của ông McCain thì ít nhất về phía các dân biểu nghị sĩ họ muốn cho
thấy là ở Á châu có sự đồng thuận lưỡng đảng để đối phó với Trung Quốc.
Họ nói là họ không vây chặn Trung Quốc nhưng họ không đồng ý với
những hành động của Trung Quốc thì cái đó là điểm chính, là cái thông
điệp của ông McCain. Tức là ông nói ông sẵn sàng hai điểm mà Việt Nam
muốn, thứ nhất là sẵn sàng về TPP, để Việt Nam được công nhận có cơ chế
thị trường, thứ hai là đẩy tầm chiến lược lên cao và bán vũ khí. Cái này
là những điều này là những điều mà Việt Nam muốn mà Mỹ cũng muốn nhưng
nó còn tùy thuộc, mà ông McCain nói rõ và ông đại sứ mới cũng nói rõ là
nó tùy thuộc vào tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Ông nói là đã có tiến
triển thì mới đi đến đoạn này và ông nói muốn có tiến triển hơn nữa.
Trong cái bài của ông McCain ông cũng nhắc luôn thông điệp đầu năm của
Thủ tướng Dũng mà trong đó ông Dũng nói không chỉ vấn đề nhân quyền mà
còn dân chủ là xu thế của thời đại. Đó là nguyện vọng của Mỹ, cái phối
cảnh để Việt Nam đàm phán với họ, để tăng cường quan hệ đến mức chiến
lược.
Kính Hòa: Giáo sư nghĩ thế nào về vai trò của ASEAN, vừa
kết thúc hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN và ngày hôm nay ông Chuck
Hagel nói ở bên Úc về khả năng hợp tác quốc phòng giữa Úc, Mỹ Nhật bản
và ASEAN thì trong đó giáo sư thấy Việt Nam có thể có vai trò gì không?
GS. Nguyễn Mạnh Hùng: Nếu mà hợp tác ASEAN thì Việt Nam là
một phần của ASEAN thì hợp tác được. Việt Nam rất biết là nó rất nhạy
cảm trong quan hệ quốc phòng giữa Việt Nam với Mỹ và Việt Nam nói rõ là
không có liên minh quân sự với ai, không có ai đặt căn cứ quân sự trong
nước mình, nhưng đi một cách gián tiếp qua ASEAN thì tương đối nhẹ nhàng
hơn. Vì đó là tổ chức ASEAN và chính Trung Quốc, Mỹ đều muốn có vai trò
trung tâm của ASEAN ở Á châu thì cái đó làm được như vậy thì tương đối
dễ dàng cho Việt Nam hơn.
Việt Hà: Xin cảm ơn giáo sư.
Mỹ khẳng định : Chính hành động hung hăng của Trung Quốc làm Biển Đông căng thẳng
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry họp báo cùng ngoại trưởng Úc Julie Bishop tại Sydney, ngày 12/08/2014.
Reuters
Khẩu chiến Mỹ-Trung về Biển Đông vẫn tiếp diễn gay gắt sau
Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Miến Điện. Ngoại trưởng Mỹ John Kerry
vào hôm nay, 12/08/2014, đã kêu gọi Trung Quốc hành xử như một đối tác
có thiện chí. Trước đó, Bộ Ngoại giao Mỹ đã phản bác cáo buộc của hãng
tin chính thức Trung Quốc, theo đó Hoa Kỳ là kẻ gây rối ở Biển Đông.
Theo phát ngôn viên bộ Ngoại giao Mỹ, chính các hành động hung hăng của
Trung Quốc là nguyên do gây bất ổn định.
Phát biểu từ nước Úc, nơi ông tham dự Đối thoại thường niên
Mỹ-Úc về an ninh và ngoại giao, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã nhắc lại
quan điểm của Hoa Kỳ là không hề tìm cách gây sự hay đối đầu với Trung
Quốc. Theo ông Kerry, Washington hoan nghênh « sự vươn lên của Trung
Quốc như một đối tác toàn cầu…, một nền kinh tế cường thịnh, một thành
viên tham gia một cách toàn diện và xây dựng vào cộng đồng quốc tế ».
Trên cơ sở đó, Ngoại trưởng Mỹ xác định rằng Hoa Kỳ mong muốn là
Trung Quốc đóng góp một cách xây dựng vào việc giải quyết các vấn đề, «
cho dù là ở Biển Đông, hoặc đối với Nhật Bản, Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên
», cũng như đối với các vấn đề khác mà hai bên phải đối phó.
Lời nhắc nhở Bắc Kinh là nên hành xử một cách có thiện chí được ông
John Kerry đưa ra một hôm sau khi Trung Quốc lớn tiếng tố cáo Mỹ là đã
cố tình khuấy động những mối căng thẳng tại Biển Đông.
Tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN ở Miến Điện vào tuần trước, Trung
Quốc đã bác bỏ một đề nghị của Mỹ, kêu gọi mọi bên tranh chấp ở Biển
Đông « đóng băng » - tức là đình chỉ các hoạt động khiêu khích trong khu
vực.
Ngay sau hội nghị ASEAN Trung Quốc lập tức mở cuộc tấn công vào đề
nghị của Mỹ, với Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị vào hôm qua đã công
khai ám chỉ rằng Mỹ có âm mưu gây hỗn loạn trong khu vực, trong lúc Tân
Hoa Xã đích danh cáo buộc Hoa Kỳ là kẻ gây rối, từ việc đưa ra những đề
nghị « không xây dựng » và « phản tác dụng », cho đến việc xúi giục
Philippines và Việt Nam cứng rắn chống Trung Quốc.
Tại Washington, Phó phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ Marie Harf đã cực
lực phản bác các lời tố cáo của Trung Quốc. Phát biểu với báo giới, bà
Harf khẳng định : « Hoa kỳ không phải là bên gây nên tình trạng bất ổn
tại nơi đó (tức là Biển Đông). Chính các hành động hung hăng mà Trung
Quốc tiến hành đã tạo ra tình hinh như vậy ».
Theo bà Marie Harf : « Tất cả những gì Mỹ đang làm đều nhằm mục tiêu
giảm căng thẳng, để mọi người để có thể giải quyết bất đồng bằng con
đường ngoại giao, chứ không phải là thông qua các biện pháp cưỡng chế
hoặc gây mất ổn định như ta thấy Trung Quốc làm càng lúc càng nhiều
trong vài tháng vừa qua ».
McCain nhắc nhở VN về dân chủ
Cập nhật: 07:53 GMT - thứ hai, 11 tháng 8, 2014
Thượng nghị sỹ Mỹ John
McCain đã nhắc nhở Việt Nam về dân chủ trong bài phát biểu
trước báo giới tại Hà Nội hôm thứ Sáu ngày 8/8 nhân chuyến
thăm Việt Nam của ông và người đồng nhiệm Sheldon Whitehouse.
Chính trong bài phát biểu này, vị thượng
nghị sỹ hàng đầu của Đảng Cộng hòa đã đề cập đến khả năng
Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam nhưng
nhấn mạnh rằng việc này tùy thuộc rất lớn vào thành tích
nhân quyền của Chính phủ Việt Nam.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Nhắc lại lời thủ tướng
“Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã nhìn nhận
rằng cần phải làm nhiều hơn (về nhân quyền) chỉ vì một lý do
trên hết: điều này tốt cho Việt Nam, có lợi cho ổn định, thịnh
vượng và thành công của đất nước,” theo toàn văn bài phát
biểu được đăng trên trang web riêng của ông McCain.
Nhắc lại thông điệp Năm Mới của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng rằng ‘dân chủ là xu thế tất yếu trong quá
trình phát triển’ và rằng ‘Đảng phải giương cao ngọn cờ dân
chủ’, ông McCain nói:
“Chúng tôi mong là Việt Nam sẽ đưa những
lời nói ấn tượng này thành hành động táo bạo chẳng hạn như
thả tù nhân lương tâm, tạo không gian cho xã hội dân sự và cuối
cùng là ghi rõ vào luật và chính sách rằng quyền lực nhà
nước là giới hạn và những quyền con người phổ quát – quyền
tự do phát biểu, hội họp, tín ngưỡng, xuất bản và tiếp cận
thông tin – cần phải được đảm bảo cho mọi công dân.”
Ông nói ông tin rằng Việt Nam có thể ‘là
một tấm gương đáp ứng được những mong đợi ngày càng tăng của
người dân về dân chủ, quản trị tốt và pháp trị, thịnh vượng
và phát triển xã hội, môi trường trong sạch và sức mạnh quốc
gia để bảo vệ nền độc lập’.
"Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã nhìn nhận rằng cần phải làm nhiều hơn (về nhân quyền) chỉ vì một lý do trên hết: điều này tốt cho Việt Nam, có lợi cho ổn định, thịnh vượng và thành công của đất nước."
Thượng nghị sỹ Mỹ John McCain
“Đó sẽ là một tấm gương có thể khuyến
khích những nước khác trong khu vực, bao gồm láng giềng của
quý vị ở phương Bắc, phải tự hỏi: tại sao chúng ta không làm
giống như Việt Nam?”
Cựu ứng viên tổng thống Mỹ bày tỏ mong
muốn quan hệ Việt-Mỹ trong những năm tới sẽ dựa trên ‘những
giá trị chung’ sau gần 20 năm dựa trên ‘những mục tiêu và lợi
ích chung’.
Ông McCain cũng hứa hẹn Mỹ sẽ có ‘tư duy và hành động mới’ trong quan hệ với Việt Nam.
“Chúng tôi sẵn sàng đàm phán xong hiệp
định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), làm việc với Việt Nam
để đáp ứng các tiêu chuẩn để được Mỹ công nhận là nền kinh
tế thị trường,” ông nói.
“Chúng tôi sẵn sàng tăng cường hợp tác
quân sự và tăng các chuyến viếng thăm của tàu chuyến đến mức
mà Việt Nam cho phép – không phải bằng cách thiết lập căn cứ,
điều mà chúng tôi không có ý định – mà bằng các thỏa thuận
giữa hai nước,” ông nói thêm.
“Chúng tôi cũng sẵn sàng tăng hỗ trợ an
ninh để giúp Việt Nam cải thiện khả năng nhận thức về lãnh
hải và xây dựng năng lực bảo vệ quyền chủ quyền.”
Tại ARF : Mỹ tiếp tục gây sức ép với Trung Quốc trong hồ sơ Biển Đông
Tại diễn đàn an ninh khu vực (Asia Region Forum – ARF) được
tổ chức ngày 10/08/2014 ở Miến Điện, Trung Quốc sẽ chịu sức ép ngoại
giao yêu cầu Bắc Kinh kiềm chế các động thái đòi hỏi về chủ quyền lãnh
thổ. Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tranh thủ diễn đàn này để vận động các
nước ủng hộ kế hoạch kêu gọi ngừng mọi hành động khiêu khích tại các
vùng biển đang có tranh chấp, như không đưa ra các đòi hỏi chủ quyền
lãnh thổ, đình chỉ việc xây dựng trên các đảo, bãi đá đang có tranh
chấp.
Thứ hai, 11/08/2014
Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry
REUTERS/Gary Cameron
Tại diễn đàn an ninh khu vực (Asia Region Forum – ARF) được
tổ chức ngày 10/08/2014 ở Miến Điện, Trung Quốc sẽ chịu sức ép ngoại
giao yêu cầu Bắc Kinh kiềm chế các động thái đòi hỏi về chủ quyền lãnh
thổ. Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tranh thủ diễn đàn này để vận động các
nước ủng hộ kế hoạch kêu gọi ngừng mọi hành động khiêu khích tại các
vùng biển đang có tranh chấp, như không đưa ra các đòi hỏi chủ quyền
lãnh thổ, đình chỉ việc xây dựng trên các đảo, bãi đá đang có tranh
chấp.
Cuộc tấn công ngoại giao của Mỹ tại ARF thể hiện một bước tiến
mới trong việc Washington can dự vào các tranh chấp lãnh thổ, trong lúc
các nước liên quan trong vùng ngày càng lo ngại về những hành động hung
hăng, đơn phương xác quyết chủ quyền của Trung Quốc.
Ngay lập tức, Trung Quốc đã bác bỏ kế hoạch của Mỹ. Tuy vậy, một nhà ngoại giao cao cấp của Hoa Kỳ nói : « Ngoại trưởng Mỹ không tìm cách đọ sức. Đây không phải là cuộc đấu đá giữa các siêu cường » và giải thích, ông Kerry có thể kêu gọi tất cả các bên đang có tranh chấp cần phải kiềm chế.
Thế nhưng, trước đó, Washington đã điểm mặt chỉ tên Bắc Kinh. Ngày 28/07, ông Daniel Russel, quan chức cao cấp của Bộ Ngoại giao Mỹ phụ trách khu vực Bắc Á, đã nói rằng có những bằng chứng cho thấy Trung Quốc đang tiến hành xây dựng trên các đảo nhỏ và bãi đá ở Biển Đông, và quy mô các hoạt động này vượt xa những gì mà các nước cũng có tranh chấp đã làm.
Hôm qua, 07/08, Trung Quốc tuyên bố có kế hoạch xây 5 ngọn hải đăng trong vùng quần đảo Hoàng Sa, nơi đang có tranh chấp chủ quyền với Việt Nam.
Theo giới phân tích, lập trường cứng rắn không bình thường này của Mỹ nhằm gây sức ép với Trung Quốc, đáp ứng những lo ngại ngày càng gia tăng trong khu vực và khuyến khích các nước ASEAN thúc đẩy nhanh chóng đạt được các kết quả trong tiến trình thương lượng xây dựng một bộ luật ứng xử có tính ràng buộc, để làm giảm căng thẳng ở Biển Đông.
Chuyên gia Ernest Bower, thuộc Trung tâm nghiên cứu quốc tế và chiến lược, trụ sở tại Washington, nhận định : « Hoa Kỳ không dựa vào những gì mà Trung Quốc nói mà nhìn vào những gì Trung Quốc làm, và quyết định sẽ can dự » và « lời kêu gọi ngừng các hành động khiêu khích cần được coi như một mức độ can dự ngoại giao mới của Hoa Kỳ trong hồ sơ này ».
Áp lực của Mỹ đối với Trung Quốc sẽ tăng lên gấp bội nếu như sáng kiến do Ngoại trưởng John Kerry đưa ra, có được sự ủng hộ của ASEAN. Thế nhưng, nội bộ ASEAN vẫn thường xuyên bị chia rẽ trong vấn đề Biển Đông. Ngoại trưởng Indonesia, Marty Natalegawa tuyên bố ủng hộ việc ngừng mọi hành động khiêu khích và sẽ hỏi cụ thể các thành viên liên quan xem họ ngừng loại hoạt động nào.
Theo một dự thảo thông cáo chung của Hội nghị các Ngoại trưởng ASEAN, mà phóng viên Reuters tại Miến Điện đọc được thì văn bản này kêu gọi ngừng « các hành động gây mất ổn định ». Chưa rõ một số nước như Cam Bốt, Lào, thậm chí Miến Điện, vốn có quan hệ chính trị và kinh tế chặt chẽ với Trung Quốc, có chấp nhận lời kêu gọi nhắm vào Bắc Kinh hay không.
Về phần mình, chuyên gia về Châu Á, giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện quốc phòng Úc nhận định, như thông lệ, ARF không giúp giải quyết được gì nhiều cho vấn đề Biển Đông : « Các Ngoại trưởng dường như sẽ ra một thông cáo, nhấn mạnh đến các quan ngại, kêu gọi tìm kiếm giải pháp, đó chỉ là một công thức chung chung, luôn được lặp lại và không có hiệu quả ».
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20140808-tai-arf-my-tiep-tuc-gay-suc-ep-voi-trung-quoc-trong-ho-so-bien-dongNgay lập tức, Trung Quốc đã bác bỏ kế hoạch của Mỹ. Tuy vậy, một nhà ngoại giao cao cấp của Hoa Kỳ nói : « Ngoại trưởng Mỹ không tìm cách đọ sức. Đây không phải là cuộc đấu đá giữa các siêu cường » và giải thích, ông Kerry có thể kêu gọi tất cả các bên đang có tranh chấp cần phải kiềm chế.
Thế nhưng, trước đó, Washington đã điểm mặt chỉ tên Bắc Kinh. Ngày 28/07, ông Daniel Russel, quan chức cao cấp của Bộ Ngoại giao Mỹ phụ trách khu vực Bắc Á, đã nói rằng có những bằng chứng cho thấy Trung Quốc đang tiến hành xây dựng trên các đảo nhỏ và bãi đá ở Biển Đông, và quy mô các hoạt động này vượt xa những gì mà các nước cũng có tranh chấp đã làm.
Hôm qua, 07/08, Trung Quốc tuyên bố có kế hoạch xây 5 ngọn hải đăng trong vùng quần đảo Hoàng Sa, nơi đang có tranh chấp chủ quyền với Việt Nam.
Theo giới phân tích, lập trường cứng rắn không bình thường này của Mỹ nhằm gây sức ép với Trung Quốc, đáp ứng những lo ngại ngày càng gia tăng trong khu vực và khuyến khích các nước ASEAN thúc đẩy nhanh chóng đạt được các kết quả trong tiến trình thương lượng xây dựng một bộ luật ứng xử có tính ràng buộc, để làm giảm căng thẳng ở Biển Đông.
Chuyên gia Ernest Bower, thuộc Trung tâm nghiên cứu quốc tế và chiến lược, trụ sở tại Washington, nhận định : « Hoa Kỳ không dựa vào những gì mà Trung Quốc nói mà nhìn vào những gì Trung Quốc làm, và quyết định sẽ can dự » và « lời kêu gọi ngừng các hành động khiêu khích cần được coi như một mức độ can dự ngoại giao mới của Hoa Kỳ trong hồ sơ này ».
Áp lực của Mỹ đối với Trung Quốc sẽ tăng lên gấp bội nếu như sáng kiến do Ngoại trưởng John Kerry đưa ra, có được sự ủng hộ của ASEAN. Thế nhưng, nội bộ ASEAN vẫn thường xuyên bị chia rẽ trong vấn đề Biển Đông. Ngoại trưởng Indonesia, Marty Natalegawa tuyên bố ủng hộ việc ngừng mọi hành động khiêu khích và sẽ hỏi cụ thể các thành viên liên quan xem họ ngừng loại hoạt động nào.
Theo một dự thảo thông cáo chung của Hội nghị các Ngoại trưởng ASEAN, mà phóng viên Reuters tại Miến Điện đọc được thì văn bản này kêu gọi ngừng « các hành động gây mất ổn định ». Chưa rõ một số nước như Cam Bốt, Lào, thậm chí Miến Điện, vốn có quan hệ chính trị và kinh tế chặt chẽ với Trung Quốc, có chấp nhận lời kêu gọi nhắm vào Bắc Kinh hay không.
Về phần mình, chuyên gia về Châu Á, giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện quốc phòng Úc nhận định, như thông lệ, ARF không giúp giải quyết được gì nhiều cho vấn đề Biển Đông : « Các Ngoại trưởng dường như sẽ ra một thông cáo, nhấn mạnh đến các quan ngại, kêu gọi tìm kiếm giải pháp, đó chỉ là một công thức chung chung, luôn được lặp lại và không có hiệu quả ».
Thứ hai, 11/08/2014
Mỹ sẽ giám sát Biển Đông
Trung Quốc bị tố cáo lấp biển để lấy đất trên một hòn đảo san hô đang có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Tin liên hệ
- Hoa Kỳ mô tả Hội nghị ASEAN là trở ngại đối với Trung Quốc
- TQ bác bỏ kêu gọi ngưng hành động khiêu khích ở Biển Đông
- Việt Nam trông chờ gì vào Diễn đàn Khu vực ASEAN?
- Ngoại trưởng Kerry thảo luận với ASEAN về căng thẳng Biển Đông
- Trung Quốc khảo sát thực địa để xây nhiều ngọn hải đăng tại Hoàng Sa
- ASEAN kêu gọi hành động để xoa dịu căng thẳng ở Biển Đông
Ðường dẫn
11.08.2014
Một giới chức cao cấp của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ngày 11/8 cho hay Mỹ
sẽ giám sát các hành động ở Biển Đông để theo dõi xem các bước giảm
căng thẳng có được thực hiện hay không.
Phát biểu của giới chức không muốn nêu tên do Reuters thuật lại được
đưa ra 1 ngày sau khi Trung Quốc kháng cự áp lực của Mỹ muốn kiềm chế
các động thái của Bắc Kinh trên Biển Đông.
Tại thượng đỉnh khu vực cuối tuần qua ở Miến Điện quy tụ sự tham dự
của 27 nước kể cả Trung Quốc, Mỹ, Nga, Nhật, Ấn và Australia, Trung Quốc
và vài nước Đông Nam Á đã đáp ứng không mấy tích cực trước đề nghị của
Mỹ về việc ngưng các hành động khiêu khích tại các vùng biển có tranh
chấp. Đây là một bước lùi đối với các nỗ lực của Washington trong việc
ngăn cản các bước gây hấn của Bắc Kinh.
ASEAN hôm qua bày tỏ quan ngại về tình trạng gia tăng căng thẳng ở
Biển Đông và kêu gọi các cuộc thảo luận tăng cường với Trung Quốc.
Tuy nhiên, thông cáo chung cuộc của cuộc họp ASEAN không đề cập cụ thể tới Trung Quốc và 10 nước Đông Nam Á cũng không đáp ứng lời kêu gọi của Hoa Kỳ và Philippines về việc ngưng các hành động gây hấn như khai hoang lấp biển hay đưa giàn khoan vào khu vực có tranh chấp.
Tuy nhiên, thông cáo chung cuộc của cuộc họp ASEAN không đề cập cụ thể tới Trung Quốc và 10 nước Đông Nam Á cũng không đáp ứng lời kêu gọi của Hoa Kỳ và Philippines về việc ngưng các hành động gây hấn như khai hoang lấp biển hay đưa giàn khoan vào khu vực có tranh chấp.
Tàu Cảnh sát biển Trung Quốc phía trước giàn khoan dầu gần Hoàng Sa, ngày 13/6/2014.
Thông cáo báo chí của ASEAN sau cuộc họp kết thúc ở thủ đô Naypitaw
thúc giục các bên liên quan tự chế, tránh những hành động có thể làm
phức tạp thêm tình hình, gây phương hại hòa bình-ổn định-an ninh Biển
Đông và chung quyết Bộ Quy tắc Ứng xử mang tính ràng buộc pháp lý gồm
các thành tố cụ thể để phát huy sự tin cậy lẫn nhau và xoa dịu căng
thẳng.
Giới chức cấp cao không nêu tên cho Reuters biết thêm rằng Australia,
đồng minh thân cận của Mỹ, hậu thuẫn lời kêu gọi của Hoa Kỳ đưa ra ở
thượng đỉnh ASEAN và sau các cuộc thảo luận ở Miến Điện, đôi bên dự định
tìm kiếm các hành động kế tiếp bao gồm một cuộc họp tới đây giữa các
nước ASEAN với Trung Quốc.
Nguồn tin vừa kể nói rằng bước tức thời tiếp theo là đánh giá cuộc
họp ASEAN-Trung Quốc diễn ra trong vài tuần tới nhằm thảo luận lệnh
ngưng xây dựng mới sẽ bao gồm các hoạt động cụ thể nào. Vẫn theo giới
chức này, Hoa Kỳ sẽ theo dõi tình thình thực tế diễn ra xung quanh các
bãi cạn, bãi đá, và bãi san hô ở Biển Đông.
Rời Miến Điện, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry lên đường sang Australia để
thảo luận về hợp tác quốc phòng, an ninh mạng và an ninh hàng hải.
Hai bên sẽ ký thỏa thuận về việc điều động binh sĩ thủy quân lục
chiến Mỹ tới Australia tham gia các cuộc diễn tập chung và các buổi huấn
luyện trong các lĩnh vực bao gồm cứu hộ thiên tai.
Hiện có khoảng 1.150 binh sĩ thủy quân lục chiến Mỹ đóng ở Darwin,
Bắc Australia, theo thỏa thuận năm 2011 mở ra chính sách ‘xoay trục về
Châu Á’ của Tổng thống Barack Obama.
Chính sách này khiến Trung Quốc khó chịu vì Bắc Kinh xem đây là nỗ
lực nhằm ngăn cản ảnh hưởng đang lên về ngoại giao, quân sự, và chính
trị của Trung Quốc ở khu vực
.
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị tuyên bố tình hình chung ở Biển Đông ổn định, không có vấn đề về tự do hàng hải tại khu vực.
Tân Hoa xã của nhà nước Trung Quốc hôm nay tố cáo Mỹ ‘bằng cách châm
dầu vào lửa, Washington đang khuyến khích các nước như Việt Nam và
Philippines có lập trường cứng rắn chống lại Trung Quốc, làm tăng ngờ
vực về ý định thật sự của Mỹ, đồng thời khiến cho một giải pháp hòa giải
trong tranh chấp Biển Đông khó lòng đạt được.’
Trước đó 2 ngày, Ngoại trưởng Vương Nghị của Trung Quốc tuyên bố tình
hình chung ở Biển Đông ổn định, không có vấn đề về tự do hàng hải tại
khu vực.
Ông Vương cũng đồng thời nhấn mạnh đến phương thức kép. Qua đó, tranh
chấp được giải quyết trực tiếp giữa các nước liên quan thông qua các
cuộc tham vấn ôn hòa và thương lượng hữu nghị, đồng thời Trung Quốc và
các nước ASEAN có nghĩa vụ cùng nhau giữ gìn hòa bình-ổn định Biển Đông.
Đáp lại, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, Chuck Hagel, nhấn mạnh các hành động của Trung Quốc rõ ràng đã tự nói lên tất cả và rằng Mỹ không thay đổi quan điểm giải quyết tranh chấp thông qua luật lệ quốc tế.
Phát biểu với báo giới tại Sydney, ông Hagel nói thêm rằng Hoa Kỳ quyết giữ vững cam kết tái cân bằng lực lượng trong khu vực.
Đáp lại, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, Chuck Hagel, nhấn mạnh các hành động của Trung Quốc rõ ràng đã tự nói lên tất cả và rằng Mỹ không thay đổi quan điểm giải quyết tranh chấp thông qua luật lệ quốc tế.
Phát biểu với báo giới tại Sydney, ông Hagel nói thêm rằng Hoa Kỳ quyết giữ vững cam kết tái cân bằng lực lượng trong khu vực.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ khẳng định Hoa Kỳ có và sẽ tiếp tục có lợi
ích quốc gia trong khu vực vì
Mỹ là một cường quốc Thái Bình Dương.
có lợi ích quốc gia trong khu vực vì Mỹ là một cường quốc Thái Bình Dương.
Thứ hai, 11/08/2014
Ấn Độ kêu gọi tự do hàng hải ở Biển Đông
Ngoại
trưởng Ấn Ðộ Sushma Swaraj nói tranh cãi gần đây ở khu vực cho thấy các
nước có liên quan cấp thiết phải giải quyết vấn đề chủ quyền ôn hòa
theo luật quốc tế.
11.08.2014
Ngoại trưởng Ấn Ðộ Sushma Swaraj nói tranh cãi gần đây ở khu vực cho thấy các nước có liên quan cấp thiết phải giải quyết vấn đề chủ quyền ôn hòa theo luật quốc tế.
Trong quá khứ, Ấn Độ từng đối mặt với thái độ ‘giương oai diễu võ’
của Trung Quốc khi Bắc Kinh phản đối dự án thăm dò dầu khí của công ty
Ấn Ðộ ONGC Videsh, ngoài khơi bờ biển Việt Nam.
Ngoại trưởng Ấn Ðộ nhấn mạnh quan điểm của New Delhi là phản đối việc
đe dọa hay dùng võ lực và ủng hộ quyền tự do hàng hải, tự do tiếp cận
các nguồn tài nguyên theo luật quốc tế bao gồm Công ước Liên hiệp quốc
về Luật biển 1982.
Bà Swaraj nói Ấn Ðộ mong muốn thấy tiến bộ trong việc thực thi Tuyên
bố Ứng xử và thông qua Bộ quy tắc Ứng xử cưỡng hành dựa trên sự đồng
thuận của tất cả các bên.
Ngoài việc đầu tư thăm dò một số lô dầu khí mà Việt Nam mời thầu tại
các vùng biển Hà Nội tuyên bố chủ quyền, Ấn cũng triển khai tàu chiến
đến Biển Đông và khu vực Thái Bình Dương trong chính sách “Hướng Đông”
trước sức mạnh đang lên của Trung Quốc.
Nguồn: PTI, Ddeccanchronicle.com
Mỹ tự nhận thúc đẩy « thành công » hồ sơ Biển Đông tại Hội nghị ASEAN
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry trong Hội nghị ngoại trưởng Mỹ-Asean tại Naypyidaw, MiếnĐiện ngày 9/08/2014.
REUTERS/Nicolas Asfouri
Ngoại trưởng Vương Nghị vào hôm nay, 11/08/2014 đã phản ứng
gay gắt trước đề nghị « đóng băng » các hành vi khiêu khích tại Biển
Đông đã được Ngoại trưởng Mỹ John Kerry thúc đẩy tại Hội nghị Ngoại
trưởng ASEAN vừa kết thúc hôm qua. Phải chăng đây là một biểu hiện tức
tối khi thấy Trung Quốc bị lép vế trên vấn đề Biển Đông ?
Đây là một câu hỏi vẫn còn để ngỏ, nhưng đối với phía Mỹ, cuộc
vận động ngoại giao mà ông John Kerry đã tiến hành tại hội nghị ASEAN là
một thành công. Thành công này được thể hiện qua một số điểm cụ thể đã
được hai quan chức Mỹ cao cấp – xin giấu tên - giải mã trong một cuộc
tiếp xúc với báo chí tại Naypyidaw, thủ đô Miến Điện vào hôm qua,
10/08/2014.
Trước hết, về các hoạt động của Ngoại trưởng Mỹ liên quan đến hồ sơ Biển Đông, một quan chức thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết là ông John Kerry đã nêu lên vấn đề này trong các buổi tiếp xúc với các đồng nhiệm, mà đặc biệt là trong cuộc gặp song phương với Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị cũng như trong Hội nghị Ngoại trưởng Mỹ-ASEAN. Về nội dung cuộc gặp song phương với Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị, quan chức ngoại giao Mỹ xác nhận :
« Ngoại trưởng (John Kerry) đã nêu lên vấn đề Biển Đông, mô tả chiến lược của Hoa Kỳ, nói rõ về các khuyến nghị của Mỹ, về đề nghị « đóng băng », và giải tỏa một số câu hỏi và mối quan ngại của Trung Quốc… Hiệu quả của cuộc họp đặc biệt này, cũng như thông lệ tham vấn Mỹ-Trung trong bối cảnh này, cho thấy rằng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc không có sự tranh đua… và không hề có đọ sức tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN... mà là một cuộc thảo luận nghiêm túc về những vấn đề cấp bách ».
ASEAN quyết tâm hơn trong hồ sơ Biển Đông
Về diễn biến của hồ sơ Biển Đông tại Hội nghị ASEAN, quan chức cao cấp tại Bộ Ngoại giao Mỹ đã ghi nhận một chuyển biến được coi là tích cực trong nội bộ khối ASEAN, được cho là đã thể hiện được một sự nhất trí cũng như quyết tâm cao hơn để làm giảm nhiệt tại Biển Đông.
« Báo chí đã ghi nhận là các Ngoại trưởng ASEAN khi họp lại cách nay hai hôm (ngày 08/08) đã nắm bắt một số đề xuất khác nhau nhằm thúc đẩy việc xuống thang căng thẳng tại Biển Đông. Và một trong những đề xuất đó hiển nhiên đề nghị của Mỹ về việc « tự nguyện đóng băng »… Các ngoại trưởng ASEAN đã công bố một bản Thông cáo chung, trong đó… họ công nhận là đang hết sức quan ngại trước các diễn biến gần đây trong khu vực.
Họ đã trực tiếp gợi đến bản tuyên bố ứng xử mà ASEAN và Trung Quốc đã thông qua vào năm 2002, với Bản Thông cáo chung bao gồm nguyên văn một số đoạn quan trọng. Bản Thông cáo rất rõ ràng trong việc nhấn mạnh sự cần thiết phải tự kiềm chế, rõ ràng trong việc khẳng định rằng các bên cần tránh các hành động có thể làm phức tạp thêm tình hình hoặc làm suy yếu hòa bình và an ninh.
Thông cáo đó cũng hậu thuẫn một cách rõ ràng cho các biện pháp và cơ chế để thực hiện các yếu tố mà họ muốn thấy trong một bộ quy tắc ứng xử. Họ kêu gọi tăng tốc độ và cường độ của các cuộc đàm phán, và trong thông cáo, họ nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc phải giải thích rõ ràng bản chất của các yếu tố cụ thể sẽ được ghi trong bộ quy tắc. »
Đối với quan chức cao cấp của Bộ Ngoại giao Mỹ này, thì điểm đáng chú ý là 10 nước ASEAN đã thay đổi cách xử lý hồ sơ Biển Đông khi quan hệ với Trung Quốc:
« Chúng ta đang thấy một sự thay đổi đáng kể trong cách tiếp cận ngoại giao của các nước ASEAN đối với Trung Quốc liên quan đến Biển Đông. Họ đã quyết định rằng nếu chỉ nêu bật các khía cạnh tích cực mà thôi thì không còn đủ nữa. Hiện giờ, họ đã cho thấy rõ là họ ngày càng quan ngại trước các hành vi leo thang, và việc tập trung vào hành vi thay vì vào tiến trình, chính là tâm điểm trong tính toán của Mỹ khi đề xuất ý tưởng về việc ‘tự nguyện đóng băng’".
Theo quan chức ngoại giao này, khi đề xuất khái niệm về sự đóng băng, Hoa Kỳ không tìm cách áp đặt bất kỳ công thức có sẵn nào cho các nước trong khu vực, mà chỉ muốn cho các bên tranh chấp ở Biển Đông thấy rõ hai điểm : Một là xác định được là cái gì cần được giải quyết trước tiên, bước đi cụ thể mà các bên tranh chấp có thể theo hay không theo, để ngăn chặn căng thẳng xảy ra. Và hai là không cần phải chờ cho đến đạt được bộ quy tắc ứng xử rồi mới hành động. Thành công của Mỹ tại ASEAN lần này, theo nguồn tin trên, chính là ở các điểm đó.
« Rõ ràng là chúng ta đã thành công trong nhiệm vụ… cố gắng để gieo mầm cho những cuộc thảo luận giữa các nước ASEAN với nhau, giữa ASEAN với Trung Quốc, và tại hai diên đàn ARF và EAS, để tập trung vào hành vi, không chỉ đơn thuần là vào quá trình. Và tôi nghĩ rằng ngôn từ cụ thể (trong bản thông cáo chung) của ASEAN đã cho thấy rõ điều đó.
Cũng là một điều tốt khi mà những nước khác, như Philippines đã tiếp thu đề nghị của chúng ta và tái tạo lại theo điều kiện riêng của họ. Và điều đó (kế hoạch hành động của Philippines) cũng đã được thảo luận và đã được đề cập một cách rõ ràng trong Thông cáo chung của ASEAN ».
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20140811-my-tu-nhan-thuc-day-%C2%AB-thanh-cong-%C2%BB-ho-so-bien-dong-tai-hoi-nghi-asean
MỸ-ÚC -
Trước hết, về các hoạt động của Ngoại trưởng Mỹ liên quan đến hồ sơ Biển Đông, một quan chức thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết là ông John Kerry đã nêu lên vấn đề này trong các buổi tiếp xúc với các đồng nhiệm, mà đặc biệt là trong cuộc gặp song phương với Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị cũng như trong Hội nghị Ngoại trưởng Mỹ-ASEAN. Về nội dung cuộc gặp song phương với Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị, quan chức ngoại giao Mỹ xác nhận :
« Ngoại trưởng (John Kerry) đã nêu lên vấn đề Biển Đông, mô tả chiến lược của Hoa Kỳ, nói rõ về các khuyến nghị của Mỹ, về đề nghị « đóng băng », và giải tỏa một số câu hỏi và mối quan ngại của Trung Quốc… Hiệu quả của cuộc họp đặc biệt này, cũng như thông lệ tham vấn Mỹ-Trung trong bối cảnh này, cho thấy rằng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc không có sự tranh đua… và không hề có đọ sức tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN... mà là một cuộc thảo luận nghiêm túc về những vấn đề cấp bách ».
ASEAN quyết tâm hơn trong hồ sơ Biển Đông
Về diễn biến của hồ sơ Biển Đông tại Hội nghị ASEAN, quan chức cao cấp tại Bộ Ngoại giao Mỹ đã ghi nhận một chuyển biến được coi là tích cực trong nội bộ khối ASEAN, được cho là đã thể hiện được một sự nhất trí cũng như quyết tâm cao hơn để làm giảm nhiệt tại Biển Đông.
« Báo chí đã ghi nhận là các Ngoại trưởng ASEAN khi họp lại cách nay hai hôm (ngày 08/08) đã nắm bắt một số đề xuất khác nhau nhằm thúc đẩy việc xuống thang căng thẳng tại Biển Đông. Và một trong những đề xuất đó hiển nhiên đề nghị của Mỹ về việc « tự nguyện đóng băng »… Các ngoại trưởng ASEAN đã công bố một bản Thông cáo chung, trong đó… họ công nhận là đang hết sức quan ngại trước các diễn biến gần đây trong khu vực.
Họ đã trực tiếp gợi đến bản tuyên bố ứng xử mà ASEAN và Trung Quốc đã thông qua vào năm 2002, với Bản Thông cáo chung bao gồm nguyên văn một số đoạn quan trọng. Bản Thông cáo rất rõ ràng trong việc nhấn mạnh sự cần thiết phải tự kiềm chế, rõ ràng trong việc khẳng định rằng các bên cần tránh các hành động có thể làm phức tạp thêm tình hình hoặc làm suy yếu hòa bình và an ninh.
Thông cáo đó cũng hậu thuẫn một cách rõ ràng cho các biện pháp và cơ chế để thực hiện các yếu tố mà họ muốn thấy trong một bộ quy tắc ứng xử. Họ kêu gọi tăng tốc độ và cường độ của các cuộc đàm phán, và trong thông cáo, họ nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc phải giải thích rõ ràng bản chất của các yếu tố cụ thể sẽ được ghi trong bộ quy tắc. »
Đối với quan chức cao cấp của Bộ Ngoại giao Mỹ này, thì điểm đáng chú ý là 10 nước ASEAN đã thay đổi cách xử lý hồ sơ Biển Đông khi quan hệ với Trung Quốc:
« Chúng ta đang thấy một sự thay đổi đáng kể trong cách tiếp cận ngoại giao của các nước ASEAN đối với Trung Quốc liên quan đến Biển Đông. Họ đã quyết định rằng nếu chỉ nêu bật các khía cạnh tích cực mà thôi thì không còn đủ nữa. Hiện giờ, họ đã cho thấy rõ là họ ngày càng quan ngại trước các hành vi leo thang, và việc tập trung vào hành vi thay vì vào tiến trình, chính là tâm điểm trong tính toán của Mỹ khi đề xuất ý tưởng về việc ‘tự nguyện đóng băng’".
Theo quan chức ngoại giao này, khi đề xuất khái niệm về sự đóng băng, Hoa Kỳ không tìm cách áp đặt bất kỳ công thức có sẵn nào cho các nước trong khu vực, mà chỉ muốn cho các bên tranh chấp ở Biển Đông thấy rõ hai điểm : Một là xác định được là cái gì cần được giải quyết trước tiên, bước đi cụ thể mà các bên tranh chấp có thể theo hay không theo, để ngăn chặn căng thẳng xảy ra. Và hai là không cần phải chờ cho đến đạt được bộ quy tắc ứng xử rồi mới hành động. Thành công của Mỹ tại ASEAN lần này, theo nguồn tin trên, chính là ở các điểm đó.
« Rõ ràng là chúng ta đã thành công trong nhiệm vụ… cố gắng để gieo mầm cho những cuộc thảo luận giữa các nước ASEAN với nhau, giữa ASEAN với Trung Quốc, và tại hai diên đàn ARF và EAS, để tập trung vào hành vi, không chỉ đơn thuần là vào quá trình. Và tôi nghĩ rằng ngôn từ cụ thể (trong bản thông cáo chung) của ASEAN đã cho thấy rõ điều đó.
Cũng là một điều tốt khi mà những nước khác, như Philippines đã tiếp thu đề nghị của chúng ta và tái tạo lại theo điều kiện riêng của họ. Và điều đó (kế hoạch hành động của Philippines) cũng đã được thảo luận và đã được đề cập một cách rõ ràng trong Thông cáo chung của ASEAN ».
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20140811-my-tu-nhan-thuc-day-%C2%AB-thanh-cong-%C2%BB-ho-so-bien-dong-tai-hoi-nghi-asean
MỸ-ÚC -
Bài đăng : Thứ hai 11 Tháng Tám 2014 -
Sửa đổi lần cuối Thứ hai 11 Tháng Tám 2014
Mỹ và Úc tiến tới hợp tác quân sự chặt chẽ
Bộ
trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel (trái) và đồng nhiệm Úc David
Johnston họp báo ngày 11/82014 tại Sydney, một ngày trước cuộc gặp cấp
cao Quốc phòng hai nước.
REUTERS/Rob Griffith
Tăng cường hợp tác sẽ là chủ đề chính trong cuộc gặp cấp cao
Úc – Mỹ, diễn ra vào ngày mai, 12/08/2014, tại Sydney và giới phân tích
nhận định, động thái này có thể dẫn đến việc gia tăng sự hiện quân sự
của Mỹ tại Úc.
Trong khuôn khổ Hội nghị tham vấn cấp bộ trưởng ngoại giao-quốc
phòng Hoa Kỳ-Úc (AUSMIN), Ngoại trưởng Mỹ John Kerry và Bộ trưởng Quốc
phòng Chuck Hagel hội đàm với các đồng nhiệm Úc, Ngoại trưởng Julie
Bishop và Bộ trưởng Quốc phòng David Johnston, với trọng tâm là an ninh
khu vực và đẩy mạnh hợp tác quân sự song phương.
Theo các nhà phân tích, cuộc gặp lần này có mục đích bàn bạc cụ thể thỏa thuận cho phép thủy quân lục chiến Mỹ luân phiên đóng quân tại miền bắc nước Úc, mà đích thân Tổng thống Barack Obama đã thông báo năm 2011, và được coi là một thành tố trong chiến lược xoay trục sang Châu Á của Washington.
Trong khuôn khổ chiến lược này, sau khi giảm các cam kết đối với các cuộc chiến ở Trung Đông, Hoa Kỳ tái triển khai binh sĩ và các nguồn kinh tế, nhân lực sang Châu Á – còn gọi là « tái cân bằng ». Do vậy, Washington có kế hoạch đưa hơn 2500 thủy quân lục chiến đến miền bắc thành phố Darwin, vùng Lãnh thổ phía Bắc vào năm 2016-2017. Thế nhưng, hàng trăm binh sĩ Mỹ đã có mặt tại đây.
Chuyên gia Ben Schreer, thuộc Viện Chính sách chiến lược Úc, ở Canberra nhận định, số lính Mỹ tại Úc sẽ không tăng, chỉ vào khoảng 2500 binh sĩ luân phiên. Cuộc thảo luận có thể xoay quanh việc sử dụng số binh sĩ này, nâng cấp hạ tầng để tiến hành các hoạt động trên bộ và trên biển, tăng cường phối hợp huấn luyện giữa các lực lượng tinh nhuệ của hai nước. Tuy nhiên, chuyên gia này cho rằng, vẫn còn quá sớm để hai nước có thể đạt thỏa thuận về việc các khu trục hạm hoặc tàu chiến nhỏ của Mỹ tới hiện diện luân phiên tại căn cứ Stirling ở miền tây nước Úc. Hiện nay, hai bên mới trong giai đoạn đàm phán, chuẩn bị cho việc này.
Theo ông Bates Gill, Giám đốc điều hành Trung tâm nghiên cứu Mỹ, trường đại học Sydney, cuộc thảo luận lần này là một bước tiến quan trọng hướng tới việc gia tăng « sự tiếp cận và hiện diện của binh sĩ và phương tiện quân sự Mỹ trên lãnh thổ Úc ». Tiến trình đàm phán đã diễn ra chậm và thận trọng, bởi vì kể từ khi có thông báo về việc thủy quân lục chiến Mỹ luân phiên có mặt tại Darwin, Trung Quốc rất bực tức, thậm chí một số nước Châu Á cũng lo ngại vì cho rằng Washington chỉ quan tâm đến việc bảo vệ các lợi ích của mình trong khu vực, trong lúc Bắc Kinh ngày càng hung hăng đưa ra các đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ. Tuy nhiên, các quan chức Hoa Kỳ đã trấn an là chiến lược tái cân bằng của Mỹ nhắm tới toàn vùng Châu Á.
Ông Gill nhấn mạnh, nếu nhìn vào những gì mà Mỹ đang làm, thì rõ ràng là việc tái cân bằng đang diễn ra trong các lĩnh vực quân sự và ngoại giao. Hiện nay, Mỹ và Úc « đang tính xem sẽ làm gì trong tương lai, cần phải có những dàn xếp nào để đẩy mạnh sự cam kết của Mỹ và Úc ngay trên lãnh thổ Úc ».
Đây cũng là nhận định của chuyên gia quân sự James Brown, thuộc Viện nghiên cứu chính sách quốc tế Lowy, Sydney. Theo ông, Mỹ và Úc đã thảo luận về chiến lược tái cân bằng trong các cuộc gặp trước đây, bây giờ, hai bên « bàn bạc thực hiện thế nào và cần phải có những chiến lược nào đối với khu vực, Mỹ và Úc có thể hợp tác ra sao về việc này. Họ thực sự bắt đầu thảo luận vào chi tiết ».
Cho đến nay, Mỹ mới chỉ có một sự hiện diện quân sự hạn chế tại Úc, đồng minh lâu đời của Washington, trong đó có trạm do thám, theo dõi vệ tinh Pine Gap, ở phía tây nam thành phố Alice Springs, thuộc vùng Lãnh thổ phía Bắc nước Úc.
http://www.viet.rfi.fr/quoc-te/20140811-my-va-uc-tinh-chuyen-hop-tac-quan-su-chat-cheTheo các nhà phân tích, cuộc gặp lần này có mục đích bàn bạc cụ thể thỏa thuận cho phép thủy quân lục chiến Mỹ luân phiên đóng quân tại miền bắc nước Úc, mà đích thân Tổng thống Barack Obama đã thông báo năm 2011, và được coi là một thành tố trong chiến lược xoay trục sang Châu Á của Washington.
Trong khuôn khổ chiến lược này, sau khi giảm các cam kết đối với các cuộc chiến ở Trung Đông, Hoa Kỳ tái triển khai binh sĩ và các nguồn kinh tế, nhân lực sang Châu Á – còn gọi là « tái cân bằng ». Do vậy, Washington có kế hoạch đưa hơn 2500 thủy quân lục chiến đến miền bắc thành phố Darwin, vùng Lãnh thổ phía Bắc vào năm 2016-2017. Thế nhưng, hàng trăm binh sĩ Mỹ đã có mặt tại đây.
Chuyên gia Ben Schreer, thuộc Viện Chính sách chiến lược Úc, ở Canberra nhận định, số lính Mỹ tại Úc sẽ không tăng, chỉ vào khoảng 2500 binh sĩ luân phiên. Cuộc thảo luận có thể xoay quanh việc sử dụng số binh sĩ này, nâng cấp hạ tầng để tiến hành các hoạt động trên bộ và trên biển, tăng cường phối hợp huấn luyện giữa các lực lượng tinh nhuệ của hai nước. Tuy nhiên, chuyên gia này cho rằng, vẫn còn quá sớm để hai nước có thể đạt thỏa thuận về việc các khu trục hạm hoặc tàu chiến nhỏ của Mỹ tới hiện diện luân phiên tại căn cứ Stirling ở miền tây nước Úc. Hiện nay, hai bên mới trong giai đoạn đàm phán, chuẩn bị cho việc này.
Theo ông Bates Gill, Giám đốc điều hành Trung tâm nghiên cứu Mỹ, trường đại học Sydney, cuộc thảo luận lần này là một bước tiến quan trọng hướng tới việc gia tăng « sự tiếp cận và hiện diện của binh sĩ và phương tiện quân sự Mỹ trên lãnh thổ Úc ». Tiến trình đàm phán đã diễn ra chậm và thận trọng, bởi vì kể từ khi có thông báo về việc thủy quân lục chiến Mỹ luân phiên có mặt tại Darwin, Trung Quốc rất bực tức, thậm chí một số nước Châu Á cũng lo ngại vì cho rằng Washington chỉ quan tâm đến việc bảo vệ các lợi ích của mình trong khu vực, trong lúc Bắc Kinh ngày càng hung hăng đưa ra các đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ. Tuy nhiên, các quan chức Hoa Kỳ đã trấn an là chiến lược tái cân bằng của Mỹ nhắm tới toàn vùng Châu Á.
Ông Gill nhấn mạnh, nếu nhìn vào những gì mà Mỹ đang làm, thì rõ ràng là việc tái cân bằng đang diễn ra trong các lĩnh vực quân sự và ngoại giao. Hiện nay, Mỹ và Úc « đang tính xem sẽ làm gì trong tương lai, cần phải có những dàn xếp nào để đẩy mạnh sự cam kết của Mỹ và Úc ngay trên lãnh thổ Úc ».
Đây cũng là nhận định của chuyên gia quân sự James Brown, thuộc Viện nghiên cứu chính sách quốc tế Lowy, Sydney. Theo ông, Mỹ và Úc đã thảo luận về chiến lược tái cân bằng trong các cuộc gặp trước đây, bây giờ, hai bên « bàn bạc thực hiện thế nào và cần phải có những chiến lược nào đối với khu vực, Mỹ và Úc có thể hợp tác ra sao về việc này. Họ thực sự bắt đầu thảo luận vào chi tiết ».
Cho đến nay, Mỹ mới chỉ có một sự hiện diện quân sự hạn chế tại Úc, đồng minh lâu đời của Washington, trong đó có trạm do thám, theo dõi vệ tinh Pine Gap, ở phía tây nam thành phố Alice Springs, thuộc vùng Lãnh thổ phía Bắc nước Úc.
Mỹ đi lại được mời về?
Nguyễn Giang
bbcvietnamese.com
Cập nhật: 13:06 GMT - thứ hai, 11 tháng 8, 2014
Câu chuyện về hai
điểm nóng đang bùng phát dữ dội, một ở Iraq, một ở Nigeria
khiến người ta lại có dịp phàn nàn về Hoa Kỳ.
Đài ITV ở Anh còn có vẻ trách cứ Tổng thống Barack Obama sao không ‘hung hăng hơn’ (more aggressive) mà bỏ đi nghỉ hè với gia đình sau khi tuyên bố Mỹ chỉ giúp Iraq không kích quân IS chứ nhất định không đổ bộ trở lại.
Đuổi đi rồi cố gọi về?
Trên truyền hình BBC tối hôm qua, Chủ Nhật, người ta cũng trích lời lực lượng Kurdistan yêu cầu Hoa Kỳ phải giúp bắn phá quân IS hơn nữa.Chính quyền Mỹ còn bị phê đã không vũ trang cho lực lượng du kích peshmergas của người Kurd để họ đủ sức chống lại các nhóm Hồi giáo cực đoan.
Khổ nỗi, sau cuộc chiến Iraq, chính Hoa Kỳ vì tôn trọng tính thống nhất lãnh thổ của Iraq - gồm ba phần khác nhau rõ rệt, Hồi giáo Sunni, Shia và Kurdistan - nên đã không trao vũ khí hạng nặng cho quân Kurd.
"Hoa Kỳ can thiệp quá thì đương nhiên bị chỉ trích, nhưng muốn tách ra, không dính líu nữa thì lại bị phê là thiếu trách nhiệm"
Thực ra tôi không lạ với giọng văn phê phán Mỹ đã thành truyền thống ở những nước châu Âu như Pháp.
Nhưng có vẻ như ở cả các nước từng muốn Hoa Kỳ đi cho nhanh như Iraq nay lại có ‘trào lưu’ mong họ trở lại.
Philippines cũng từng mời Hoa Kỳ rút khỏi căn cứ ở Subic Bay hồi năm 1991, nhưng gần đây nay lại ký thỏa thuận để thủy quân lục chiến Hoa Kỳ luân chuyển qua, giúp họ luyện quân, bảo vệ biển đảo.
Việt Nam, dù còn khác biệt nhiều về quan niệm nhân quyền và thể chế chính trị, cũng muốn Hoa Kỳ trở lại và có sự hiện diện rõ rệt hơn ở Biển Đông để cân bằng lại với Trung Quốc.
Một số cây bút như Bấm Steve Hunley cho rằng ngoại giao Mỹ đang 'thoái lui', thậm chí 'gần sụp đổ' (near collapse), hay gần đây nhất là bà Bấm Hillary Clinton lên tiếng nói ông Obama quá lưỡng lự ở Syria, gửi ra tín hiệu 'Mỹ yếu' cho cả thế giới.
Bà nói lời của ông Obama chỉ 'khuyên bảo đừng làm việc dại dột' với các nước không thể là chính sách ngoại giao có nguyên tắc cho Mỹ được.
Nhưng đó là chuyện của Hoa Kỳ.
Còn nhìn ra bên ngoài, phê phán Mỹ không đơn thuần là một phản ứng tình thế mà còn có gốc rễ trong lịch sử, khiến cách nhìn mọi hành vi tốt hay xấu của Washington cũng rất đa dạng.
Nhiều kiểu bài Mỹ
Các nước lớn như Nga và Trung Quốc nếu có bài Mỹ cũng là chuyện dễ hiểu vì tầm vóc và vị thế khiến họ là đối thủ cạnh tranh 'tự nhiên' của Hoa Kỳ.Pháp thì từ thời Charles de Gaulle đã luôn phản ứng lại Mỹ vì mặc cảm tự cao văn hóa và vì mất vị thế đế quốc.
Một số giới tại Anh đến nay vẫn không ưa Hoa Kỳ vì cho rằng Anh có truyền thống sâu sắc, tinh tế hơn.
Nhưng đây là một phần chưa hết của nỗi ngậm ngùi mà Anh rơi xuống hàng đồng minh nhỏ hơn Mỹ từ Thế Chiến 2 vì mất hết các thuộc địa.
Nhưng trên bình diện rộng hơn, ý thức hệ và tư duy chính trị của một nước cũng giúp thói bài Mỹ nảy nở.
Các đảng cộng sản và thiên tả thường rơi vào bệnh 'left-wing paranoia', một chứng hoang tưởng có màu sắc giai cấp và đổ cho giới tư bản Mỹ mọi tội lỗi trên đời này.
Họ tin rằng tư bản Mỹ - từ các tay buôn chứng khoán đến giới sản xuất vũ khí, dầu lửa - luôn có mục tiêu tối thượng là chiếm đoạt thị trường toàn cầu.
Từ đó, người ta tin vào các thuyế́t âm mưu rằng tư bản Mỹ dùng các dạng luật lệ bất chính để kiểm soát vốn liếng, tỷ giá tiền tệ, và chính quyền Hoa Kỳ ra chính sách gì thì cũng để phục vụ cho tư bản Mỹ.
Cũng vì thế, họ thường không trả lời được câu hỏi Hoa Kỳ đầu tư là để giúp một chính quyền 'xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội', 'bảo vệ Hồi giáo', hay để thúc đẩy nước này giống Mỹ hơn.
Các nước có chế độ độc đoán thiên hữu thì lại dễ dị ứng với 'văn hóa Mỹ' vì đầu óc dân tộc chủ nghĩa và vì lý do tôn giáo.
Đôi khi họ ngăn chặn hiện đại hóa vì coi đó là biểu hiện của thói bá quyền văn hóa (cultural hegemony) từ Mỹ.
Họ sẵn sàng nhận viện trợ từ nhưng không phải để mở rộng dân chủ, tự do theo mô hình Mỹ mà để củng cố vị trí 'khách hàng duy nhất' của mối quan hệ với Hoa Kỳ.
Điểm chung của lãnh đạo cả phe tả và hữu ở mọi nước là đều muốn giáo dục Mỹ cho thế hệ trẻ của họ và không ai từ chối các thành quả văn minh 'Made in USA'.
Nếu gộp cả bệnh bài Mỹ của phe tả và phe hữu lại thì ta có thể thấy hiện ra một nghịch lý: cả hai đều cần nước Mỹ nhưng chỉ cần những phần phù hợp với nhu cầu của họ.
Người ta cũng nói về 'khả năng' chơi với Mỹ, hàm ý Hoa Kỳ vốn thực dụng và điều quan trọng là tầm của bạn đến đâu thì nước Mỹ chơi với bạn đến đó.
Chuyện Hoa Kỳ bỏ Nam Việt Nam vẫn đang được nhắc đến trong bối cảnh hậu Afghanistan, Iraq và bài của tác giả Bấm Nguyễn Tiến Hưng 'Từ Watergate tới sụp đổ Sài Gòn' vẫn thu hút nhiều bạn đọc Việt Nam trên trang nhà của chúng tôi.
Nhưng tôi chưa thấy ai đặt câu hỏi nếu vào lúc này mà không còn nước Mỹ nữa thì tình hình thế giới sẽ diễn biến ra sao?
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/blogs/2014/08/140811_us_role_dilemma_for_others.shtml
2014: Ai sẽ diện kiến Barack Obama?
TS PHẠM CHÍ DŨNG
Kính chuyển :
*Một bài bình luận thật sâu sắc.
*Giáo sư Carl Thayer đoán không sai. Bọn đầu nậu Nguyễn Phú Trọng thân Tàu sẽ không đời nào chịu bỏ Tàu. Nếu muốn “thoát Trung” thì chúng đã nộp đơn kiện Tàu từ lâu rồi. Đó là một thực tế mà ai cũng biết.
*Không nộp đơn kiện, có nghĩa là chúng đã “bán nước” cho Tàu Khựa rồi nên NGỌNG cả lũ.
*Phe Nguyễn Tấn Dũng thân Mỹ (nếu có) cũng bị thất thế vì cả nước đã lọt vào gọng kềm của Tàu. Nhìn chung, CS Hànội cứ chơi trò lăng ba vi bộ… cố kéo dài thời gian chờ tới Đại hội Đảng 2006 ? Qua đó ta thấy rằng CS Hànội sẽ không bao giờ chịu THAY ĐỔI bao lâu bọn Tàu Khựa vẫn… chưa chết !
*Bởi vậy, cần vận động mạnh với chánh phủ Hoa Kỳ áp dụng biện pháp trừng phạt bọn đầu gấu CS Hànội bằng kinh tế. Đừng sợ VC theo Tàu. Thực tế nó đã bán nước cho Tàu từ năm 1990 rồi.
(GÓPGIÓ)
2014: Ai sẽ diện kiến Barak Obama?
TS Phạm Chí Dũng
Có lẽ Giáo Sư Carl Thayer của Học Viện Quốc Phòng Úc là một trong số ít ỏi học giả quốc tế có được nguồn thông tin tương đối xác thực về tình hình và những biến động trong triều chính Việt Nam. Cuộc trả lời phỏng vấn của ông với đài RFI Việt ngữ mới đây lại một lần nữa biểu tả những gì mà dư luận đang rất nghi ngại và nghi ngờ về “diễn biến nội bộ.”
“Nguyễn Tấn Dũng bị gạt qua một bên”?
Ngay sau cuộc rút lui không kèn trống của giàn khoan HD 981 của Trung Quốc khỏi khu vực Biển Đông với lý sự “tránh bão Rammasun,” Giáo Sư Carl Thayer đã nêu ra một nhận định mà có thể làm nhiều người sửng sốt: “Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng có nguy cơ bị gạt qua một bên.” Cơ sở của nhận định này được ông Thayer dẫn luận: Phe gọi là ủng hộ Trung Quốc, hoặc là thỏa hiệp (accommodationist), sẽ chống lại bất kỳ hành động nào có thể sẽ làm xấu thêm quan hệ với Trung Quốc. Điều này có nghĩa là phương án pháp lý và việc nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ không có khả năng xảy ra trong tương lai gần.
Còn trong quá khứ gần, trước tháng 5, 2014 – thời điểm Trung Quốc bắt đầu khai triển giàn khoan HD 981 ở Biển Đông, vị thế và thế lực của ông Nguyễn Tấn Dũng có vẻ khá ổn, đặc biệt là tỷ lệ khá cao trong số 175 ủy viên trung ương đảng mà ông nắm được, theo đánh giá chung của giới quan sát quốc tế và trong nước. Tuy nhiên cũng theo nhận định của một số quan sát viên, gần đây bắt đầu xuất hiện dấu hiệu quyền lực của ông thiếu tính thăng bằng. Ngay cả một tuyên bố có vẻ ngẫu hứng của Nguyễn Tấn Dũng về “hữu nghị viễn vông” ám chỉ Bắc Kinh, cho tới nay vẫn luôn bị dư luận phê phán là “thiếu tính thực tiễn.”
Không thể nói khác hơn là sự vụ giàn khoan HD 981 của Trung Quốc đã làm lộ ra những bí ẩn nơi chốn cung đình Việt Nam. Một sự thật mười mươi hiện rõ trong tâm não toàn dân là sau gần ba tháng “kiên định đấu tranh mềm dẻo,” vẫn chẳng lộ ra một mảnh hồ sơ kiện cáo nào của nhà nước Việt Nam đối với kẻ vi phạm trắng trợn Công Ước Quốc Tế Về Luật Biển. Ngược lại như một trò ú tim, chỉ mỗi lúc bị dồn vào thế cùng quẫn, Hà Nội mới khe khẽ vén áo cho Washington.
Bài phân tích của Giáo Sư Carl Thayer là đáng chú ý về cả hai mặt ẩn dụ cũng như lộ thiên, sau khi những người bảo thủ ý thức hệ lẫn lợi ích hệ được Bắc Kinh động viên tối đa qua chuyến “thăm và làm việc” của ủy viên quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì tại Hà Nội vào cuối tháng 6, 2014, tức thời điểm sau cuộc bạo động Bình Dương, Đồng Nai và Hà Tĩnh mà đã khiến Bộ Chính Trị Trung Hoa tỏ ra khá bối rối.
Nhưng sau chuyện Trung Quốc bất ngờ rút giàn khoan HD 981 trước thời hạn “thăm dò dầu khí” một tháng, nếu “nguy cơ” đối với Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng là có thực như giả thiết của ông Thayer, chính trường Hà Nội có thể xoay chuyển sang một khúc ngoặc phức hợp hơn nhiều.
Một minh chứng sống động cho mối quan hệ “môi răng” vẫn tiếp tục tỏ ra gắn bó là lời tuyên bố ngập ngừng “không loại trừ Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục hợp tác khai thác dầu khí ở Biển Đông” của Đại Sứ Lê Hoài Trung – Việt Nam – tại Liên Hiệp Quốc. Và lần này, không phải Thông Tấn Xã Việt Nam, cũng không phải do người phát ngôn hay trang web của Bộ Ngoại Giao Việt Nam, mà lại là đài Tiếng Nói Nước Nga (Voice of Russia) phát đi thông tin nóng sốt đến mức quay quắt này.
Cung cách khá điển hình cho tính không chính danh như thế khiến người ta lập tức liên tưởng đến tư thế né tránh và còn có vẻ lén lút của giới ngoại giao đoàn Việt Nam trước con mắt quốc tế, và dĩ nhiên trước cả 90 triệu người dân quốc gia này. Ngay sau hành sự được xem là “cái tát” của HD 981 vào mặt Hà Nội, tuyên bố của ông Lê Hoài Trung lại như bồi thêm một cái tát vào mặt những trí thức và quan chức còn quá trông chờ vào thái độ hồi tâm dân tộc của những người “đu dây.”
“Tam quốc”
Những tin đồn về một cuộc họp trung ương bất thường sẽ diễn ra trong thời gian sớm nhất có vẻ đang dần hợp lý. Nghe nói Bộ Chính Trị họp liên tục. Và cũng nghe nói vẫn chưa thống nhất được một quan điểm về việc “hướng Bắc” hay “sang Tây.” Điều này cũng phù hợp với tin tức mà Giáo Sư Carl Thayer nhận được: “Một cuộc họp của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng dự kiến sẽ cân nhắc lợi hại của hành động pháp lý chống Trung Quốc. Cuộc họp đó sẽ chuyển khuyến nghị lên Bộ Chính Trị,” cũng như một nhận định khác của ông: “Sự kiện Trung Quốc rút giàn khoan sẽ dẫn đến việc giảm căng thẳng và làm tăng khả năng các cuộc đàm phán song phương cấp cao Việt-Trung. Điều đó sẽ có lợi cho những người muốn thỏa hiệp với Trung Quốc. Đấu đá trong nội bộ Đảng có khả năng tăng cường độ trên những bất đồng về lợi ích ngắn hạn so với lợi ích lâu dài.”
Không chỉ nhân dân, mà cả các chính khách thâm sâu đều khó bỏ qua một sự kiện buồn thảm: khi nhìn lại là từ thời điểm nêu ra Thông điệp đầu năm 2014 với hàng loạt khái niệm mới mẻ như “đổi mới thể chế,” “nắm chắc ngọn cờ dân chủ,” “xóa độc quyền” và cả “nhà nước kiến tạo phát triển,” cho đến nay vẫn chưa có bất kỳ nội dung nào được thủ tướng Việt Nam hóa giải thành hành động.
Bởi thế, cung đường mà ông Nguyễn Tấn Dũng muốn vượt qua để tiến tới đại hội đảng 12 vào năm 2016 chắc chắn sẽ biến thành một con đường và mang tính thử thách hơn cả một lý thuyết. Khái niệm “lợi ích ngắn hạn” nhiều khả năng sẽ bao trùm cho một cuộc chạy đua vai trò lãnh đạo thay cho lợi ích lâu dài của quê hương.
Vậy tình hình đó sẽ dẫn đến hệ quả xung khắc nào?
Có lẽ không phải vô căn cứ mà Giáo Sư Carl Thayer cho rằng, “Nếu lãnh đạo Việt Nam tiếp tục chia rẽ giữa phe thân Trung Quốc và phe thân Mỹ, điều đó có nghĩa là Việt Nam sẽ không thể đẩy mạnh quan hệ với Hoa Kỳ trong các lĩnh vực quốc phòng và an ninh. Việt Nam sẽ thận trọng tiến hành việc này và một cách thất thường.”
Không chỉ tiến đến đại hội 12, mà trong tình thế “thù trong giặc ngoài” như hiện nay, ông Nguyễn Tấn Dũng còn phải tìm cách chinh phục cảm tình của Washington. Nhưng không chỉ người đại diện cho chính phủ, thậm chí những lãnh đạo tượng trưng cho nhà nước và điểm xuyết cho khối đảng cũng có thể muốn hiện diện tại xứ Cờ Hoa, với mong muốn ít nhất để diện kiến vị tổng thống chưa hề đặt chân đến Việt Nam nhưng đã công du gần hết Châu Á.
Năm 2013, đã chỉ có Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang bước qua ngưỡng cửa tòa Bạch Ốc.
Thế “tam quốc” như thế lại càng khiến cho tình thế triều chính thêm phức hợp và hấp dẫn, dù cho triển vọng “đối tác chiến lược toàn diện” và nhu cầu dinh dưỡng của Việt Nam về “hiệp ước tương trợ quốc phòng” với người Mỹ vẫn không bớt trừu tượng.
No comments:
Post a Comment