Kịch tác gia Vi Huyền Đắc qua lời kể của người con trai
13:30 11/06/2009
Vi Huyền Đắc rất quý sách. Sách tới tay ông, của các tác giả
trong nước như các nhà văn trong nhóm Tự Lực văn đoàn và bạn bè hay các
tác giả nước ngoài… ông đều đóng bìa cứng, bìa da bày ngay ngắn trong
các giá sách. Ông mê các tấm gương tự lập, những người tạo sự nghiệp từ
hai bàn tay trắng như các nhà tư bản Rockfeller, Canergie nhưng lại
không ưa bóc lột. Ông phục hoàng đế nước Pháp Napoléon nhưng ghét Tây
thực dân.
Kịch tác gia Vi Huyền Đắc qua nét vẽ của Tạ Tỵ
Giáo sư bác sĩ y khoa Vi Huyền Trác, con trai kịch tác gia Vi Huyền Đắc
năm nay đã bước vào tuổi 87. Ông Trác dạy môn Giải phẫu bệnh lý. Năm tôi
theo học ngành Y ở Hà Nội (1959 -1965), tôi có được học ông. Ông dáng
vóc cao ráo, gương mặt đẹp. Giảng bài khúc triết. Mãi khi tốt nghiệp,
tôi mới biết ông là con trai nhà viết kịch Vi Huyền Đắc (một trong những
người khai sinh nền kịch nói Việt Nam).
Hồi đó, tôi đã rất ngạc nhiên thích thú trước mối liên hệ huyết mạch
giữa ông thầy thân gần của mình với nhà viết kịch nổi tiếng nhưng xa vời
như trong cổ tích. Lúc đó cụ Vi Huyền Đắc sống ở Sài Gòn. Mấy chục năm
trôi qua, vừa rồi, một bạn bác sĩ mang nhờ tôi đọc tập thơ, do anh chọn
từ ngót một nghìn bài thơ của thầy Vi Huyền Trác. Giáo sư Trác làm thơ
không đặt đầu đề, anh bạn tôi đặt đề giúp thầy và làm mục lục cho hơn
một trăm bài.
Mỗi bài như một thoáng ý nghĩ. Chất thơ hơi mơ hồ kiểu thơ Haiku Nhật
Bản, nhưng tôi thì lại bị hấp dẫn vì chính chất mơ hồ ấy. Điều đặc biệt
là thơ không có ý định thành bài, chỉ ghi như chộp lấy nội tâm mình.
Không thấy sự kiện xã hội, không thấy công việc ngoài đời nhưng lại thấy
rõ buồn vui, nghĩ ngợi của tâm trạng, đôi khi thoáng một triết lý
Thiền. Nhà thơ nghiệp dư và hồn nhiên này hoá ra nhằm tới lối thơ "cao
cấp": Chỉ quan tâm tới những vấn đề của tâm hồn con người, dùng thơ để
khám phá rồi cố định chất tâm hồn ấy lên trang giấy, như noi gương thơ
các nhà sư đời Lý.
Tôi đến thăm ông với ý định hỏi thêm cung cách làm thơ của nhà khoa học
cao niên. Câu chuyện lại dẫn tôi đến những hiểu biết thú vị về nhà soạn
kịch Vi Huyền Đắc.
Cụ Vi Huyền Đắc sinh năm 1899, cách đây vừa đúng 110 năm, và mất năm 1976.
Tôi được ông Trác đưa xem mấy tờ "gia phổ" do chính cụ Vi Huyền Đắc viết ở Gia Định ngày 22/10/1974.
Ông thân sinh Vi Huyền Đắc, cụ Vi Hồi Ngọ, làm thầu khoán, là một trong
những nhà tư sản có sức cạnh tranh hồi đó. Nhưng đến năm ngót 60, cụ
giao việc kinh doanh cho ông con trai độc nhất là Vi Huyền Đắc để nghỉ
ngơi. Ông Vi Huyền Đắc lại thích lãng du hơn kinh doanh. Sau khi có bằng
Thành chung ở Hải Phòng, ông lên Hà Nội học Trường Mỹ Nghệ rồi vào Sài
Gòn làm nghề lái xe. Có bài báo sau này viết ông còn mở hiệu phở Bắc,
giới thiệu quà Hà Nội với bà con lục tỉnh. Nhận cơ ngơi và tiếp tục công
việc kinh doanh của bố nhưng Vi Huyền Đắc không toàn tâm toàn ý kinh
doanh.
Ông ham văn chương. Có nhiều điều kiện tiếp xúc với thợ thuyền lam lũ
vất vả, ông hiểu sâu thêm các ngón bóc lột của giới chủ. Chính ông cũng
là một ông chủ. Trong thâm tâm, ông không thể không thấy tính chất tàn
bạo của các mánh khóe làm giàu. Ông viết kịch, đề cao người lương thiện,
tình chung thủy. Kịch không có đoàn diễn, ông lập nhà xuất bản "Thái
dương văn khố" cũng chỉ để in kịch của mình: "Hoàng mộng điệp" (viết năm
1922),"Uyên ương" (viết năm 1927), "Hai tối tân hôn" (viết 1929),
""Nghệ sĩ hồn" (viết 1932), "Kinh kha" (viết 1934), "Kim tiền" (giải
thưởng Tự Lực văn đoàn 1937, diễn ở Hải Phòng 29/2/1938), "Ông ký Cóp"
(diễn ở Hải Phòng 8/10/1938), "Trường hận" (viết bằng tiếng Pháp, được
giải thưởng của Viện Hàn lâm Nice, Pháp), "Lệ Chi Viên" (diễn tại Hà Nội
1943), "Khóc lên tiếng cười" (diễn Hà Nội 1943). Trước sau ông có
khoảng 20 vở kịch
Qua các vở kịch, quan điểm xã hội tiến bộ và lòng yêu tự do, chống lễ
giáo phong kiến của Vi Huyền Đắc ngày càng rõ nét. Vở "Kinh Kha" đã thấp
thoáng lòng yêu nước. Hai vở "Kim tiền" và "Ông ký Cóp" được trình diễn
trên sân khấu thu được thành công lớn, có tiếng vang trong xã hội, và
góp phần khai sinh kịch nghệ Việt Nam.
Mải mê văn chương, ông bán dần tài sản.
Trong nhà nhiều khách văn chương. Tiếp khách, ông cho các con được ngồi
dự. Ông Trác còn nhớ: Ông Nhất Linh đang nói chuyện thì hu hu khóc (sau
này đọc báo Sài Gòn về cuộc tự tử của ông Nhất Linh, bác sĩ Vi Huyền
Trác càng thấy nhớ tiếng khóc này), ông Lê văn Trương hay nói to và nói
liên tục từ lúc tới đến lúc về, trẻ hàng xóm kéo đến xem, ông xin chậu
nước hắt vào lũ trẻ, rồi ngồi cười nhìn chúng nó chạy. Ông Thế Lữ nhỏ
nhẹ, khi "Kim tiền" được dựng ở Hải Phòng, ông thường hướng dẫn diễn
viên tỉ mỉ và rất từ tốn. Ông Lê Đại Thanh thủ vai chính trong Kim Tiền,
rất hào hứng.
Buổi sáng trong nhà, ông Vi Huyền Đắc thường pha ấm trà ngon, gọi hai
con là Vi Giác và Vi Huyền Trác đến uống và đọc các bài thơ hay cho
nghe. Ông thích thơ Thế Lữ, thơ Đường.
Vi Huyền Đắc rất quý sách. Sách tới tay ông, của các tác giả trong nước
như các nhà văn trong nhóm Tự Lực văn đoàn và bạn bè hay các tác giả
nước ngoài… ông đều đóng bìa cứng, bìa da bày ngay ngắn trong các giá
sách. Ông mê các tấm gương tự lập, những người tạo sự nghiệp từ hai bàn
tay trắng như các nhà tư bản Rockfeller, Canergie nhưng lại không ưa bóc
lột. Ông phục hoàng đế nước Pháp Napoléon nhưng ghét Tây thực dân.
Ông viết báo tiếng Pháp "Tổ quốc An Nam" (Patrie Anamite), có quan điểm
chống thực dân. Vì tờ báo này và vì việc giao tiếp thường xuyên với
Nguyễn Triệu Luật, một nhà văn và là anh họ, hoạt động trong Quốc Dân
đảng mà ông bố Vi Huyền Đắc nhiều lần bị khám nhà và ông con Vi Huyền
Trác bị từ chối vào học trường Tây Anbe Xarô (Albert Sarraut).
Ông Đắc rất chịu học: học thêm tiếng Anh từ các con. Học Hán văn từ các
cụ cử. Hồi còn ở Hải Phòng, ông chí thú làm Bách khoa tự điển Việt Nam,
đã được 5.000 mục từ. Sách chưa in, nay đã mất bản thảo. Ông ham chơi
ảnh. Có bộ đồ nghề làm ảnh khá lỉnh kỉnh. Ăn mặc đàng hoàng, sang trọng,
lúc nào cũng tề chỉnh, cổ cồn ca vát. Ông Trác kể: Hồi Mậu thân 1968,
hàng xóm gọi ông đi ẩn nấp tránh hòn tên mũi đạn, ông cũng ca vát com
lê. Người ta giục. Ông nói: "Có chết, cũng phải quần áo đàng hoàng".
Hai anh em ông Trác ít được gần bố. Lúc bé chủ yếu sống với bà nội. Bà
nội là con cụ Nguyễn Tư Giản, Thượng thư Bộ Lại triều Tự Đức, cũng là
một nhà thơ. Bà nội bán hàng nước nuôi cháu, lúc Lạng Sơn, lúc Hà Đông.
Bà nền nếp nhưng không có điều kiện chăm sóc các cháu. Hai anh em Giác
và Trác tự lớn.
Những ngày được gần bố ở căn nhà bên sông Tam Bạc, Hải Phòng, hai anh em
ít khi được ngồi ăn cơm với bố. Ông Vi Huyền Đắc đối xử với các con
thân ái, bình đẳng, rất Tây, nhưng ông có những thói quen riêng. Không
ăn cơm với gia đình cũng là một thói quen.
Giáo sư Vi Huyền Trác ngẫm nghĩ quá khứ, ngậm ngùi thấy những người thân
trong gia đình luôn phải sống xa cách nhau. Ông nội, sau khi giao kinh
doanh cho con, sống một mình rồi chết cũng một mình trên một ấp ở Hải
Dương. Còn riêng ông, mẹ mất sớm, bố hay vắng nhà, từ 1946, khi gia đình
đi tản cư ở Nho Quan thì ông theo các trạm phẫu thuật của bác sĩ Tôn
Thất Tùng làm cấp cứu chiến thương, rồi sống cuộc đời bộ đội nay đây mai
đó...
Sau năm 1975, ông Trác mới gặp lại bố ở Sài Gòn. Năm 1976, ông đón bố ra
Hà Nội, hy vọng được phụng dưỡng bố lúc tuổi già. Khi ông ra ga Sài Gòn
mua vé, thì ở nhà cụ Vi Huyền Đắc ngã gãy cổ xương đùi. Gãy cổ xương
đùi thì phải phẫu thuật, ở người cao tuổi, xương loãng, không hy vọng
liền. Ông Trác, với sự giúp đỡ của hai Bộ trưởng Y tế hồi ấy là Vũ Văn
Cẩn và Dương Quỳnh Hoa mà có được một máy bay quân sự chuyển ông cụ ra
sân bay Gia Lâm.
Đang lo cách chuyển cụ về nhà ở phố Lê Thành Tôn, cạnh trường Y, thì gặp
Chủ tịch Hà Nội Trần Duy Hưng. Ông Trần Duy Hưng không biết quen cụ Vi
Huyền Đắc tự bao giờ mà ân cần cho xe đưa cụ về. Ông Trác đến nay còn
cảm động vì may mắn ấy và cho rằng, đấy là cái "lộc" của người làm nghệ
thuật. Hồi đó phương tiện vận chuyển người ốm trong Hà Nội khó tìm lắm.
Cụ Vi Huyền Đắc mất sau một tháng điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai, thọ
78 tuổi.
Ông Trác ngậm ngùi: "Như vậy ông cụ tôi chỉ được ở nhà con trai mình có
một đêm sau ba mươi năm xa cách, rồi vĩnh viễn ra đi. Thời đất nước cắt
chia, ông cụ sống một mình ở Sài Gòn. Không viết nhiều, có dịch thuật.
Còn ông anh duy nhất của tôi, khi tôi tới được Sài Gòn thì anh đã ở
Pháp. Lúc tôi có dịp qua Pháp thì anh đã sang Mỹ. Tôi sang được Mỹ thì
chỉ còn được thăm mộ anh tôi thôi”.
Ông Vi Huyền Trác ngẫm đời mình lắm cái ngẫu nhiên. Ông kế thừa "gien"
thông minh của ông cha nhưng không kế thừa sự ham học, ít nhất là vào
thời trẻ. Ấy thế mà thi đâu đều đủ để đỗ. Nhiều cái may lắm.
Lần thi Tú tài I ở Hải Phòng, đề thi toán về hình học không gian là môn
ông ghét, không học, đã tính nộp bài giấy trắng, chịu điểm liệt, thì lại
có báo động. Ra hầm vào thì đổi đầu bài sang đại số là môn ông sở
trường. Thế là đỗ. Thi Tú tài II, đang sợ viết bài bằng Pháp văn, thì
chính quyền cách mạng lại cho thi bằng tiếng Việt. Ông lại đỗ. Năm sau,
1946, vào trường y thì năm ấy lại không phải thi, cứ ghi tên vào học.
Rồi thành bác sĩ quân y, thành giảng viên đại học y, thành giáo sư. Bây
giờ lại làm thơ.
Ông Vi Huyền Trác nói: Văn là môn ông học khá, nhưng mãi năm 60 tuổi,
một biến động mới trong tình cảm làm ông thấy thêm yêu cuộc đời này,
thích ngẫm nghĩ về hạnh phúc của sự sống. Ông tập Thiền, nghiên cứu
Trung y (có đề xuất một số phương pháp chữa bệnh có hiệu quả) và làm
thơ, đúng ra là ghi lại những ý thơ chợt đến...
29/5/2009
Vũ Quần Phương
VAN MỘC CƯ SĨ BÌNH
Thủở miền Nam nổi cơn gió bụi
Dân Miền Nam lắm nỗi gian truân.
Chuyến hồi hương của ông Vy Huyền Đắc là do
tự nguyện hay cưỡng bách? Cái té gãy xương là bình thường hay bất bình
thường.? Ông bác sĩ con hiếu với cha hay hiếu với đảng?
Dẫu sao, Vy Huyền Đắc là kịch tác gia lớn và cuối cuộc đời ông cũng là một bi kịch lớn!
Lý Toét ốm. Lý Toét ốm đã mấy tháng, nhưng độ mươi hôm nay, bệnh tình
xem ra trầm trọng. Lang Băm, một danh y trong xóm, đến thăm bệnh. Bắt
mạch xong, Băm gọi bà Lý ra ngoài hiên, thì thầm nói nhỏ. Bà Lý ra chiều
thất vọng, mượn người đánh dây thép nhời cho cô Ba Vành ở ngoài mỏ.
Được tin bố sắp chết, cô Ba Vành lật đật thu xếp về ngay.
Xã Xệ mấy hôm nay ở luôn bên nhà Lý Toét. Nhà neo người, bà Lý và cô Ba
Vành là đàn bà, người con cả Lý Toét đi Tân Thế Giới đã lâu, không thấy
tin tức, chưa rõ sống chết ra sao. Còn đứa nhỏ, thằng Toe, thì hãy còn
là đứa trẻ ranh thò lò mũi, cả ngày chơi đùa với trẻ con ngoài đường.
Thằng Toe mới lên bảy, nhưng đã giống bố về hai con mắt.
Xã Xệ sang trông nom giùm. Ngày thường, hai người vẫn không ưa nhau, hay
khích bác, xỏ xiên, hoặc nói cạnh khóe. Nhưng thực ra cả hai cùng tốt.
Lúc này Xã Xệ cũng quên những mối hiềm cũ. Vả lại cả hai còn có một
nhược điểm chung nó dễ làm gần nhau: chén rượu. Xã Xệ sang, mỗi ngày bà
Lý phải mua một chai bố.
Tin Lý Toét sắp chết lan ra khắp xóm, ai ai cũng để ý. Bà Lý ra ngõ
thường gặp nhiều người hỏi thăm. Có người lại hỏi thăm qua hàng rào. Với
ai, bà cũng trả: "Cảm ơn bà - ông, hoặc bác - ông Lý nhà tôi đã khá".
Tuy vậy, họ cũng biết thừa là ông Lý sắp chết. Lang Băm đã bảo ông Lý
khó qua được đêm nay. Chiều nào Băm cũng cả quyết như vậy mà ông Lý vẫn
dai dẳng sống hơn một tuần lễ rồi. Có người độc miệng mỉa mai: "Đã chết
được kia à? Còn là khổ! Lúc giữ triện đồng, đục khóet lắm, bây giờ khó
lòng mà nhắm được mắt."
Họ đã sửa soạn cả. Nhiêu Còm đã mở chiếc hòm mục lấy cái áo the cũ bạc
vai, vá khuỷu tay, sắp sửa để đi đưa ma ông Lý và đánh chén. Bọn trẻ con
cũng vui vẻ; chúng thấy trong xóm có sự lạ, và như chúng ngửi thấy mùi
xôi thịt. Bác Ngọ, bán hàng sũ ở đầu xóm, đã sắp sẵn một cỗ ván tốt, và
nhấm nháy Xã Xệ, để ông Xã khỏi mua hàng của bác Mùi, dưới cuối xóm. Xã
Xệ ngắm nghía cỗ ván, vuốt chiếc tóc trên đầu, hoặc gãi vào cái bướu gần
thái dương, trả lời viển vông: "Được, để tôi hỏi bà Lý xem". Rồi đến
lượt Khán Thân làm hàng mã, Nhiêu Tuất bán hàng vải. Xã Xệ thấy ai cũng
tử tế, cũng có ý ngầm mời đánh chén. Mọi khi bọn này, mỗi khi chàng đi
qua, thường chỉ lên đầu cười rúc rích, hoặc nói cạnh đến cái tóc. Mấy
hôm nay, mỗi lần về nhà, Xã Xệ thường phàn nàn với vợ: "Bác Lý ốm, thành
mình cũng vất vả lây". Bác Xã gái an ủi chồng, rồi lại giục sang nhà Lý
Toét. Vợ Xã Xệ muốn tống chồng đi cho khỏi tốn rượu. Mà Xã Xệ cũng
chẳng muốn ở nhà.
II
Nằm dúm trên giường, Lý Toét mở thao láo hai mắt nhìn lên đình màn.
Người khô đét như con mắm, tuy đắp chăn mà các đầu xương vẫn hằn ra
ngoài, mặt võ vàng, gò má lồi ra, hai mắt sâu thành to thêm. Tóc hai bên
thái dương lốm đốm bạc và rụng dần, búi tóc chỉ còn bằng củ hành to.
Đầu giường có vài chiếc bát không, cơ chừng bát uống thuốc; một đĩa mía
tiện sẵn, toàn khẩu nạc, mấy quả cam, táo. Cô Ba Vành hết lòng săn sóc
bố, nhưng nào bố có ăn được! Hai con mắt vẫn tỉnh lắm, rất tinh nhanh.
Có lúc râu mép vểnh lên, mấp máy. Khi mệt yếu quá, Lý Toét rên khừ khừ
hay thở dài những tiếng thực mạnh, làm Xã Xệ giật mình chạy lại. Lý Toét
nhìn Xã Xệ, dáng tức tối, có lẽ vì Xã Xệ đang uống rượu gian bên.
Trong nhà im lặng. Ai nấy đi lại rón rén, không động mạnh guốc. Cạnh
chân giường Lý Toét, mấy cái củi gộc lom dom trong chiếc bếp kê tạm để
hâm thuốc, và để cho ấm nhà. Thỉnh thỏang Xã Xệ đến cạnh bếp, cúi lom
khom cời lửa. ánh sáng chiếu vào cái đầu mập lù, bóng nhoáng. Cô Ba Vành
ngồi trong buồng khâu vội mấy chiếc áo trắng. Bà Lý bận cơm nước, thằng
Toe vẫn đi chơi với trẻ. Hai con chó, con Vàng và con Vện, nằm ép dưới
gầm cũi, chẳng buồn cắn những người tới hỏi thăm.
III
Vào khỏang mười giờ đên, Lý Toét qua đời. Đến sáng hôm sau thì khâm liệm
xong xuôi, trong nhà đã sẵn sàng cả. Con mèo tam thể đã bị nhốt chặt
trong cũi. Mờ mờ sáng, bác Ngọ đã cho khiêng cỗ ván đến, một cỗ ván gỗ
dổi, hai đầu có chữ thọ bôi đen. Rồi cả bọn tuần phiên kéo đến. Lúc nhập
quan là lúc thê thảm nhất; bà Lý và cô Ba Vành khóc vang, tiếng đập
thình thình làm hàng xóm cũng thương xót. Thằng Toe chẳng hiểu gì, thấy
người nhớn khóc cũng khóc theo, và xán quanh chỗ bàn thờ.
Suốt ngày tấp nập những người đến viếng. Họ mang theo vàng hương, nến,
rượu hay những câu đối bằng vải trắng viết chữ lơ. Họ lễ trước linh
sàng, phường kèn cử những bài thê thảm. Bà Lý ở dưới bếp vội chạy lên
đáp lễ, khóc hu hu kêu ông Lý. Lễ xong, bà lấy vạt áo chùi mắt rồi chạy
xuống bếp sửa sang mâm cơm rượu đãi các người đến giúp.
Họ sang giường bên nói chuyện với Xã Xệ ngồi chĩnh chện, đầu quấn khăn
và cái tóc vẫn lắc lư. Bây giờ Lý Toét chết, ai cũng thương xót. Họ nhắc
lại khi sinh thời, ông đã hết lòng với hàng xóm. Họ khen ông tinh
nhanh, thông minh, lanh lợi, thôi thì đủ các đức tính. Xã Xệ kể lại hàng
trăm lần bệnh tình ông Lý, lúc nguy kịch, khi lâm chung.
Sáng hôm sau đưa đám, trời lại mưa. Người ta nói trời mưa là vì cô Ba
Vành, lúc rửa ráy cho ông Lý lần cuối cùng xong, không sẽ đổ úp chậu
nước xuống gậm giường, mà lại đem hắt tung tóe ra sân. Trong xóm đủ các
người tai mặt đến đưa ông Lý ra đồng. Trẻ con theo cũng đông. Đám ma
chẳng có gì lạ, đại khái như mọi đám ma ở nhà quê. Linh xa, bộ đòn sơn
son có nhà táng sặc sỡ, và ít câu đối, một phường kèn. Đằng sau bộ đòn
có treo lủng lẳng một cái gậy, biểu hiện một người con trai vắng mặt:
thằng đi Tân Thế Giới. Cô Ba Vành lăn đường lấm như vùi.
Lúc hạ huyệt, không có điếu văn, không có hoa. Họ lấp đất cho nhanh, đốt
nhà táng cho chóng, vì trời mưa nặng hạt. Bà Lý, cô Ba Vành kể lể, khóc
bù lu bù loa. Mấy viên hương chức che ô đứng ở bờ ruộng, đứng đắn và
trầm ngâm. Thằng Toe, không ai để ý đến, đã chạy ra chỗ đốt nhà táng
nhặt mặt kính. Bọn đô tùy hắt từng xẻng đất xuống huyệt, chẳng mấy lúc
đã đầy. Họ vội vàng, vì về còn rửa chân tay để đi uống rượu.
IV
Trước lúc đưa đám, bà Lý đã cẩn thận giao phó cho người ở nhà trông nom
xôi thịt, sửa soạn cơm rượu đãi làng. Vậy mà lúc về vẫn thấy mất mát,
suy suyển. Đại khái năm miếng thịt bỏ vào luộc thì lúc vớt ra còn bốn,
hay ba. Nhiều mâm xôi bị khoét giữa hay vẹt cạnh. Một thúng gạo mang ra
ao vo thì lúc về còn nửa. Những người làm giúp được dịp ăn cắp. Người
coi có biết cũng phải ngơ, sợ mất lòng, họ bỏ về. Trong khi có việc, họ
đến cho là quý.
Chẳng mấy lúc làng đã họp đông. Trong nhà, ngoài sân đông chật, từ các
bô lão sáu bảy mươi, cho tới lũ trẻ lên sáu, lên bảy. Đứa nhỏ quá thì đã
có người nhà, hoặc anh nhớn bế đi. Họ khỏa chân ở cầu ao trước cửa rồi
vào nhà ngồi đợi. Mấy hồi lệnh inh ỏi giục người đi chậm. Trong nhà
không đủ chỗ, phải giải chiếu ra hè cho lũ trẻ; không đủ chiếu, chúng
ngồi ngay xuống đất.
Tiệc rượu bắt đầu. Trẻ con xúm quanh những mâm gỗ vuông, đầy những đĩa
thịt luộc còn đỏ, đĩa xôi đơm điêu, bát nước dùng trắng nhợt và vẩn đục,
đĩa rau cải xanh. Chúng ăn ngốn ngấu, gọi cơm om sòm. Chúng chỉ ăn dưa
và nước canh, xôi thịt để dành phần mang về. Bên cạnh mâm đã sẵn ít tầu
lá chuối. Chẳng mấy lúc, bụng lũ trẻ đã thẳng căng, chúng lẻ tẻ ra về.
Bên trong, người nhớn đứng đắn, ăn uống lâu hơn, vì còn kề cà chén rượu.
Câu chuyện bắt đầu từ tốn. Khi chai không xếp bàn bên đã nhiều thì
tiếng nói to thêm, rồi thành những cuộc tranh biện hùng hồn của các ông
Lý, ông Hương, về việc làng, việc nước, hay việc trời đất. Các ông quên
hẳn là đang ở trong nhà có tang. Một người to tiếng, người nữa to tiếng
hơn. Trong nhà ồn ào, bà Lý vừa cô Ba chúi ở dưới bếp. Xã Xệ im lìm uống
rượu, mặt và đầu đã đỏ hồng như quả táo chín, cái tóc xoắn tròn và vểnh
ngược lên.
Mãi đến chiều mới tan. Ai nấy đều say mềm, có người loạng choạng đi
không vững. Hương Dần vịn vào vai Xã Quít. Vừa khỏi cổng, có lẽ vì
thoáng gió, Dần nôn thốc tháo cả những thức vừa ăn. Hơi rượu sặc sụa,
trẻ con xúm lại xem đông. Quít thụt ngay chân xuống rãnh nước, gói phần
tung xuống bùn. Dần cũng xuống theo. Nếu không có người giữ thì không
hiểu hai người làm sao ra khỏi rãnh nước. Nhiêu Mão đâm vào hàng rào,
lưỡi líu lại mà vẫn ba hoa nhất định cãi mình không say. Thỉnh thỏang
gió đánh lật cái áo lương lên, bọn trẻ con thấy quần chàng ướt suốt từ
đũng xuống gấu.
V
Mấy hôm sau, dân trong xóm đã quên hẳn Lý Toét. Xã Xệ về uống rượu ở
nhà. Cô Ba Vành đi với ông Tây mỏ. Trừ có bà Lý, đêm nào cũng sụt sịt
khóc chồng.
Rút từ tập truyện ngắn Vỡ lòng,
Nxb. Đời Nay, Hà Nội, 1940
TODAY Today I will watch the sun
As it leaves the velvet sky.
Today I will gaze at the moon
As it shines throughout the night.
Today I will not let my fears
Control my hopes and dreams.
Today I will not judge people
For how they look or seem.
Today I will smile at my enemies
And walk away with pride.
Today I will speak my mind
And not keep everything inside.
Today I will sing as loud as I can
And really hear my voice.
Today I will make my own decision
And be able to live with that choice.
Today I will take a chance
Rather than being afraid.
Today I will try not to hurt
People with what I say.
Today I will listen
To that voice in my heart,
And not confuse it with my head.
Today I will follow
The road less traveled by
Than the one that's already been led.
And if Today ever die
If Today ever end,
Then tomorrow I will wait
Tomorrow I will try again.
Ý
NHI THỊ THÁI
HÔM NAY
Hôm Nay tôi ngắm vầng dương
Rời bầu trời đẹp êm nhường như nhung.
Hôm Nay tôi ngắm vầng trăng
Toả soi ánh sáng vặc-vằng đêm thâu .
Hôm Nay tôi quẳng lo âu,
Ðể tim hy-vọng, để đầu mộng-mơ .
Hôm Nay tôi xét người ta
Không qua định-kiến, không qua ngoại-hình.
Hôm Nay tôi cười tươi xinh
Với kẻ thù, hãnh diện mình bước đi .
Hôm Nay tôi nói điều gì
Mình thật-sự nghĩ, chẳng chi giấu nào .
Hôm Nay tôi hát như gào,
Nghe mình thực-sự cất cao tiếng mình.
Hôm Nay tôi quyết phân minh,
Giữ sự chọn-lựa đinh-ninh trọn đời .
Hôm Nay tôi chớp cơ thời,
Không còn sợ-sệt ngại lời nói ra .
Hôm Nay tôi gắng ngâm-nga
Từ hay, ý đẹp, tránh va-chạm người .
Hôm Nay tôi lắng lòng tôi
Ðể nghe tình-cảm sục-sôi trong hồn,
Ðừng cho lý-trí ép dồn!
Hôm Nay tôi chọn con đường của tôi,
Dù đường thưa vắng bóng người,
Còn hơn nẻo cũ: lề xoi, lối mòn!
Và Hôm Nay nếu không tròn,
Nếu Hôm Nay cũng chẳng còn Hôm Nay,
Thì tôi sẽ đợi Ngày Mai,
Tôi lại gắng nữa, không phai chí mình...
Theo
đoàn quân tiếp thu Sài gòn mà lòng ông Hai Chi rối như tơ vò. Ông và
hầu hết các đồng chí của ông ngơ ngác tưởng như chuyện mộng mị không thể
nào xảy ra. Chính đơn vị của ông bị đánh tan tác gần như phải xóa sổ
trong mùa hè 1972, đến nay vẫn chưa bổ sung xong, và đám bộ đội còn sống
sót cũng chưa kịp hoàn hồn. Vậy mà Ban Mê Thuột mất, Tây Nguyên, Vùng
2, đến Vùng 1 có lệnh bỏ, để rồi cả miền Nam thất thủ chỉ trong vòng bốn
mươi lăm ngày. Có lẽ những người ngồi trong Bộ Chính Trị ngoài Hà Nội
cũng còn bất ngờ, huống hồ Hai Chi, chỉ mang quân hàm thiếu tá, làm sĩ
quan hậu cần của một sư đoàn nằm tận vùng rừng núi Tây Nguyên heo hút.. Từ
ngày vào bộ đội, ông Hai Chi luôn bị điều về những đơn vị chiến đấu.
Nhờ phước đức mấy đời nên còn sống cho đến ngày tàn cuộc chiến. Không
chết, nhưng trên người, và có thể cả trong lòng ông còn mang nhiều
thương tích. Vết thương nặng nhất khi đơn vị ông bị B.52 dội bom trong
trận Hạ Lào. Tiểu đoàn do ông làm thủ trưởng chỉ còn lại dưới 50 người.
Nhờ thương tích ấy ông được điều về Sư Đoàn 320 làm cán bộ hậu cần. Mùa
hè năm 1972, cả sư đoàn từng mang danh là Sư Đoàn Điện Biên hay Sư Đoàn
Thép này gần như bị xóa sổ, khi tướng Hoàng Minh Thảo tung vào trận địa
Kontum với ý đồ chiếm lấy Tây Nguyên, làm bàn đạp tiến xuống đồng bằng.
Nhờ làm việc ở hậu cần nên ông Hai Chi sống sót để cuối tháng 4/75 có
mặt trong đoàn quân ngơ ngác về tiếp thu Sài gòn. Hai
Chi chỉ là bí danh. Tên thật của ông là Nguyễn Công Chính, con cả của
một gia đình gốc tiểu tư sản. Quê ở Hải Phòng. Trước 54 gia đình làm chủ
một tiệm bán xe đạp và sản xuất găm bánh xe. Bố mẹ sinh được năm người
con, nhưng cả ba cô con gái mất sớm, chỉ còn hai cậu con trai, Hai Chi
và người em út, nhỏ hơn đến mười một tuổi. Khi ông đang học Y khoa ở Đại
Học Hà Nội, thì trận chiến Điện Biên Phủ kết thúc với sự thắng lợi của
phe Việt Minh để Pháp phải ký Hiệp Định Genève, chia đôi đất nước. Từ vỉ
tuyến 17 trở ra cả miền Bắc thuộc về Cộng Sản. Làn sóng di cư đổ xô về
Hải Phòng, quê ông, nơi có những chiếc tàu há mồm chở họ vào Nam. Bị lực
lượng Việt Minh tìm mọi cách ngăn chặn, nên khi ông về đến được Hải
Phòng, thì nhà cửa đã bị tich thu, không tìm được bố mẹ và người em trai
của mình. Ông phải bỏ Hải Phòng, bỏ cả con đường trở thành bác sĩ, lên
sống với một bà dì trên Ý Yên, Nam Định. Nhờ
có trình độ học vấn và phấn đấu liên tục để giấu đi gốc gác con nhà
tiểu tư sản, ông được cho theo học khóa sĩ quan. Nhưng sau này, khi hầu
hết bạn bè cùng khóa lên đến cấp đại tá, thiếu tướng, giữ nhiều chức vụ
quan trọng trong quân đội hay công an, có người còn lọt vào Bộ Chính
Trị, thì ông Hai Chi cứ vẫn là thiếu tá tiểu đoàn trưởng và cuối cùng,
sau khi bị thương, được điều về làm cán bộ hậu cần của một đơn vị bại
trận, cần thời gian để “biên chế”, bổ sung. Giữa
tháng 3/75 Ban Mê Thuột mất, rồi Quân Đoàn II và Quân Đoàn I gần như
xóa sổ, sau những kế hoạch triệt thoái tồi tệ nhất trong lịch sữ chiến
tranh, để cuối cùng ngày 30/4/75 cả miền Nam rơi vào tay Cộng sản. Sư
Đoàn 320 từ Tây Nguyên cũng được tăng cường cho đoàn quân tiến về Sài
gòn, khi Cộng quân bị các đơn vị VNCH chặn đánh tại tuyến Long Khánh gần
hai tuần lễ gây tổn thất khá nặng nề. Chiến tranh kết thúc, ông Hai Chi
được chỉ định bổ sung cho đoàn cán bộ tiếp thu Tổng Kho Long Bình của
QLVNCH bỏ lại. Sau thời gian quân quản, ông là một trong số những cán bộ
may mắn được “biên chế” ở lại miền Nam. Nhiệm vụ của ông là kiểm kê và
tổ chức chuyển hàng trong các kho về miền Bắc. Từng đoàn xe liên tục từ
Nam ra Bắc suốt ngày đêm, chở theo các loại chiến lợi phẩm, không những
đã tịch thu được của Quân Đội hay Chính Phủ mà của cả dân chúng miền
Nam, nhất là sau kế hoạch “Đánh Tư Sản”. Lúc này trong dân gian truyền
miệng một câu nói khá đau lòng mà lý thú: Đất nước thống nhất để miền
Nam thì nhận họ, còn miền Bắc thì nhận “hàng”. Như con chuột gầy sa hủ
nếp, ông Hai Chi trở nên giàu có. Ngôi biệt thự tại thành phố Biên Hòa
tịch thu từ gia đình một tư sản gốc Hoa được cấp cho ông, cũng là nơi để
ông cất giấu hàng ngàn cây vàng kiếm được. Một năm sau, vợ và đứa con
trai của ông cũng từ ngoài Bắc được chuyển vào ở với ông. Học đòi một
chút vương giả, bà vợ muốn có người ở, phụ bà lau nhà rửa bát và để cho
bà có người sai vặt. Nhưng ngại nếu thuê mướn một người lớn, chuyện “làm
ăn” và cả sinh hoạt trong nhà dễ bị “tai vách mạch rừng” lọt ra ngoài,
nên sau khi bàn tán kỹ lưỡng, vợ chồng Hai Chi quyết định đi xin một đứa
con nuôi. Vừa có một đứa đầy tớ không mất tiền thuê, vừa được tiếng
nhân từ, giữ “truyền thống đạo đức cách mạng”. Vợ
chồng ông Hai Chi tìm đến các viện cô nhi để tuyển lựa “đối tượng”. Ông
bà muốn có một đứa con gái khoảng 7-8 tuổi, khỏe mạnh và mặt mày sáng
sủa. Cuối cùng vợ chồng cũng được như ước muốn. Khi bà sœur “quản nhiệm”
Cô nhi viện Biên Hòa dắt con bé ra giao, bà chỉ cho biết con bé tên
Phượng, 8 tuổi. Bố mẹ đã chết trong trận đánh Long Khánh. Có người thấy
nó ngồi khóc trên vỉa hè nên mang về nhà nuôi. Một thời gian sau “giải
phóng” gia đình này trở nên túng quẩn, không có đủ cơm ăn, đúng lúc con
bé lại bệnh hoạn không sai bảo gì được, nên đã mang cháu đến giao cho cô
nhi viện. Lúc ấy cô nhi viện cũng lâm vào cảnh khốn khó, nhưng các sœur
không nở chối từ, chia bớt phần ăn của mình, lo chữa trị và nuôi dưỡng
cháu lành bệnh, ngày một khỏe mạnh, xinh xắn. Thực
ra, thì sœur quản nhiệm biết bố của Phượng là lính Cộng Hòa, qua lời kể
dù không rõ ràng lắm của cháu, nhưng trong thời buổi nhá nhem còn đầy
không khí hận thù lúc ấy, sœur luôn dặn dò Phượng phải giấu kín điều này
không cho ai biết. Ông Hai Chi làm khai sanh cho con bé, đặt tên Nguyễn
Thị Hồng Phượng, để nhớ tới thành phố “Hoa Phượng Đỏ” Hải Phòng, quê
hương ông. Những năm 1978 – 1979, bọn
cầm quyền cộng sản muốn đuổi những người Viêt gốc Hoa ra khỏi nước nhằm
cướp hết tài sản của họ, bày ra chiến dịch quái đản, được người ta đặt
tên là “Ra đi bán chính thức”. Nhờ biết tiếng Hoa và có nhiều kinh
nghiệm trong các đường giây mua bán, ông Hai Chi lại được “đồng chí”
Mười Vân ( tên trên giấy tờ là Nguyễn Hữu Giộc) , Giám đốc công an tỉnh
Đồng Nai móc nối vào tổ chức “đen”, vừa đi tìm những người Việt gốc Hoa
giàu có (và cả những người không phải gốc Hoa nhưng chịu chi nhiều vàng
để nhận hồ sơ Hoa kiều giả), vừa cho đám đàn em lập ra những toán “lâm
tặc” chiếm cứ, làm chủ các khu rừng, chặt hết gỗ quý đóng tàu bán với
giá rất cao cho các nhóm người Hoa “ra đi bán chính thức”. Bọn họ mở
nhiều xưởng cưa, nhiều cơ sở đóng tàu. Chỉ sau một thời gian ngắn, Hai
Chi đã trở thành đại gia, một nhà tư bản đỏ đầy quyền lực. Bé
Hồng Phượng lớn lên theo nhịp độ phát đạt của gia đình ông Hai Chi cùng
nỗi cơ cực của một ô-sin. Điều may mắn duy nhất, cũng có thể do ông bà
Hai Chi muốn tránh tiếng xấu, Phượng được cho đi học lớp đêm, và nhờ vào
tính thông minh cần mẫn, Phượng học rất giỏi. Điều
may mắn khác, nhưng lại trở thành tai họa cho Phượng, là càng lớn
Phượng càng xinh đẹp. Năm lên 16, nhan sắc của Phượng đã làm si mê bao
cậu học trò. Và người say mê nhất lại là Diệp, thằng con trai duy nhất
của ông bà Hai Chi. Diệp lớn hơn Hồng Phượng 3 tuổi và khi ấy đang là
sinh viên của Trường Đại Học Bách Khoa. Mỗi lần Phượng ra ngoài, Diệp
tìm mọi cách đi theo, ngăn chặn bất cứ gã con trai nào muốn tán tỉnh
Phượng, lấy cớ là anh trai của Phượng. Ở nhà, Diệp thường bênh vực
Phượng, trách cứ mẹ đã bắt cô em nuôi phải làm quá nhiều công việc. Chưa
bao giờ Diệp tỏ ra mình là một ông anh nhân từ tốt bụng như lúc này.
Hơn nữa cậu ta cũng nể nang, tôn trọng nết na hiền thục cùng sự khôn
ngoan của Phượng. Bà Hai Chi vốn nuông chiều cậu quí tử nên không dám
làm Diệp buồn lòng. Điều này làm bà khó chịu, nhưng đó không phải là
điều mà bà quan ngại. Điều lo âu nhất của bà chính là ông Hai Chi, mỗi
lần bà bất ngờ bắt gặp đôi mắt của ông chồng say đắm nhìn cô con gái
nuôi trong tuổi dậy thì xinh đẹp, cũng là con bé ô-sin của nhà bà. Ngày
xưa, sau khi kết thúc chiến tranh, ông cũng nể nang cái tình bao năm
chờ đợi và thương cảm cảnh khổ của bà, nhưng kể từ ngày kiếm ra nhiều
tiền, ông tỏ ra uy quyền và lơ là chăn gối với bà. Bà tìm mọi cách để
giữ chồng. Nhờ người giới thiệu một số bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ tiếng
tăm ở Sài gòn, chịu bỏ ra một số tiền khá lớn, bà là một trong những
người Hà Nội 75 sửa sắc đẹp sớm nhất. Nhờ tài năng của mấy ông bác sĩ
miền Nam còn sót lại, nhan sắc của bà có khá hơn nhiều lắm, nhưng so với
những cô gái miền Nam, thì bà vẫn chỉ thuộc loại hàng phế thải được
“tân trang” phần bên ngoài. Không đủ hấp dẫn ông chồng đang trên đà “đổi
mới tư duy” Vốn là con gái của một gia
đình cộng sản, và sống bao nhiêu năm dưới chế độ tàn ác man rợ này, bà
đã học được biết bao mưu chước và thủ đoạn để hại người. Trước mắt chồng
con, bà luôn tỏ ra thương yêu nhỏ nhẹ với Phượng, nhưng trong đầu đang
bày mưu tính kế để hãm hại cô bé mồ côi tội nghiệp này. Ban
đầu bà tính tạo cơ hội cho Diệp, thằng con trai duy nhất của bà cướp đi
đời con gái của Phượng, để cho ông chồng già chứng kiến, bỏ cuộc, rồi
lấy cớ đuổi Phượng đi, nhưng ngẫm nghĩ thấy mưu kế này có thể là con dao
hai lưởi, không chừng thằng quý tử của bà mê luôn Phượng và quyết lấy
Phượng làm vợ thì quả là tai họa, gậy bà lại đập đúng lưng bà! Không thể
nào để con trai một của cán bô đại gia đi lấy con ô-sin. Cuối cùng bà
nghĩ tới tay đàn em thân tín của ông. Bà để ý mỗi lần đến nhà, thấy
Phượng là anh chàng này như kẻ mất hồn, nhìn chăm chăm vào Phượng rồi
bất ngờ giật mình, sượng sùng quay đi chỗ khác. Hắn e ngại vì dù gì
Phượng cũng là con gái nuôi của ông Hai Chi. Hắn tên Đạt, thượng úy công
an, tay chân đắc lực của gã Mười Vân, giám đốc công an tỉnh, được “đặc
phái” tới làm việc bên cạnh ông Hai Chi trong tổ chức “đen”, móc nối đưa
người Hoa ra đi và phá rừng lấy gỗ. Đạt
có vợ, một con mang từ miền Bắc vào. Nghe nói cô vợ, trước kia là một
“bộ đội gái”, từng mấy năm ở trạm giao liên trên miệt Trường Sơn trong
thời “chống Mỹ”, phục viên khi chiến tranh kết thúc, nhưng con vi trùng
bệnh sốt rét rừng vẫn còn mai phục trong máu, nên trông khá xanh xao
vàng vọt. Bà Hai Chi biết Đạt mê mệt cả
nhan sắc lẫn thân hình của cô con gái nuôi đang độ dậy thì, nên đã dễ
dàng dụ chàng ta vào kế hoạch. Hắn ta bất ngờ như trúng số độc đắc cặp
mười, đưa tay thề xin hứa sau này sẵn sàng làm bất cứ mệnh lệnh nào của
bà. Bà đích thân ra chợ trời tìm mua mấy gói thuốc ngủ. Tổ chức buổi cơm
cuối tuần, gọi Đạt đến nhậu nhẹt cùng chồng như mọi khi. Trong bữa ăn,
ông Hai Chi, Đạt và cả thằng Diệp thi nhau uống rượu ngoại. Chỉ có bà và
Phượng uống nước cam vắt do chính tay bà làm. Trong bếp, bà đã lén bỏ
vào ly nước của Phượng mấy gói thuốc ngủ mà bà đã tán nhỏ ra bột. Khuya
hôm đó sau khi thấy Phượng thắm thuốc, ngủ say, bà mở cửa gọi Đạt vào để
hiếp Phượng. Bà giả vờ vào phòng nằm với chồng, chờ tiếng ho, như là
một ám hiệu của Đạt, sau khi đã thỏa mãn cơn dục tình thèm khát bấy lâu
nay. Bà chuẩn bị lấy giọng để la lên cho cả ông Hai Chi và thằng Diệp
chứng kiến cảnh Phượng đang lõa lồ sau khi ân ái với thằng đàn em thân
tín của ông. Bỗng dưng bà nghe nhiều tiếng động và sau đó là một tiếng
súng nổ chát chúa từ phòng của Phượng. Không cần gọi, tất cả ông Hai
Chi, thằng Diệp và bà vội vàng chạy ùa vào. Một cảnh tượng kinh hoàng.
Đạt nằm trần truồng trên vũng máu, còn Phượng nép vào góc phòng hai tay
còn cầm chặt khẩu súng K54 sẵn sàng nhả đạn tiếp. Ông
Hai Chi năn nỉ dụ dỗ mãi, Phượng mới đưa khẩu súng cho ông. Nhưng thằng
Diệp vội vàng giật lấy khẩu súng từ tay cha với ý định xử tội Đạt.
Trong lúc giằng co, một phát đạn nổ, may mắn không gây thêm thương tích.
Tay thượng úy Đạt bị thương rất nặng ở vùng bụng, được xe cứu thương
chở vào bệnh viện Biên Hòa cứu chữa, sau khi ông bà Hai Chị vội vã mặc
áo quần vào cho hắn. Thằng Diệp hò hét chạy theo đòi giết hắn ta. Bà Hai
Chi thì rất đỗi ngạc nhiên, cứ nghĩ rằng mấy gói thuốc như vậy, nhất
định sẽ làm Phượng say ngủ mê man tới sáng, tại sao lại có thể giật súng
bắn thằng Đạt. Sau này, bà nhờ bác sĩ thử nghiệm, kết quả: bình thường.
Hóa ra thuốc bán ngoài chợ trời chỉ là thuốc giả. Tay
Đạt thoát chết nhưng bị cắt đi một khúc ruột và mất khá nhiều máu.
Phượng bị bắt giam. Thằng Diệp đòi ra công an làm chứng, tố cáo Đạt chủ
động hiếp dâm và Phượng chỉ tự vệ. Nhưng ông bà Hai Chi vừa quyết liệt
ngăn cản vừa năn nỉ. sợ mang thêm tai họa. Bà Hai Chi lo lắng bị lộ ra
cái quỷ kế ác độc của bà. Còn ông Hai Chi thì nghĩ Đạt là đàn em thân
tín của tay Mười Vân, giám đốc công an tỉnh, quyền uy như ông vua một
cõi. Đến các “đồng chí” phó bí thư, ủy viên thành ủy còn bị hắn ta lập
kế bắt giam năm ngoái. Vả lại tay Đạt cũng chưa làm gì được thì đã ăn
đạn rồi. Hắn ta chủ quan, cứ tưởng là Phượng đã say thuốc ngủ. Trút bỏ
hết áo quần và cả khẩu “súng ngắn” để trên giường, trước khi đưa hai bàn
tay sàm sở lên người Phượng. Chưa kịp bàng hoàng khi bất ngờ bị Phượng
đạp mạnh xuống giường thì một phát súng đã nổ vào bụng. Cuối cùng Phượng
bị tạm giam để đưa ra tòa án nhân dân, với cái tội “phản động”đã định
sẵn. Các báo Sài Gòn Giải Phóng, Thanh Niên cho đăng tải tin tức này
theo chỉ thị: “tàn dư Mỹ Ngụy dùng mỹ nhân kế ám sát cán bộ cách mạng” **** Trận
chiến Long Khánh, dưới tài chỉ huy của Tướng Lê Minh Đảo, đại quân CS
bị các đơn vị VNCH chặn đánh tan tác. Đặc biệt hai quả bom CBU được thả
xuống địa điểm “tập kết” của địch, giết cả hai trung đoàn “sinh Bắc tử
Nam”. Mang hận thù này, nên sau khi chiếm được Long Khánh, bọn chúng đã
bắn giết dã man bao người dân vô tội, trong đó có mẹ của Phượng. Khi
xông vào nhà, thấy tấm ảnh của bố Phượng treo trên vách, mang quân phục
và cấp bậc VNCH, chúng đã bắt trói mẹ Phượng dẫn đi. Phượng chạy theo
khóc kể, rồi lạc vào một nơi xa lạ đầy những xác người, sợ hãi, không
còn biết đường về. Bố của Phượng là sĩ quan thuộc một Liên Đoàn Biệt
Động Quân từ Vùng 3 tăng phái cho Vùng 2, bị bắt lúc bị thương trên
đường di tản theo Tỉnh Lộ 7B từ Pleiku vào giữa tháng 3.75. Ông bị cầm
tù qua rất nhiều trại. Nhiều năm sau không hề biết được tin tức vợ con,
ông nghĩ là tất cả đã chết vì biết có những trận đánh lớn tại Long Khánh
trước ngày mất nước. Ngày 2/ 9 năm
1984, ông được thả. Ra tù, ông vội vã tìm về Long Khánh. Ngôi nhà của
cha mẹ để lại, nơi vợ con ông đã sống từ ngày sinh ra Phượng, đã bị
“cách mạng” tịch thu. Người chủ mới là một gã công an. Khi nghe ông hỏi
thăm vợ con mình, những người chủ đích thực của căn nhà này, gã công an
trợn mắt nhìn chằm chặp vào ông rồi thốt ra mấy tiếng cộc lốc, lạnh
lùng: “tôi không biết, hỏi làm gì?”, bằng giọng đặc sệt Nghệ Tĩnh rất
khó nghe. Khi đến trình diện công an xã, ông bị chỉ định về trình diện
chính quyền trong một Khu Kinh Tế Mới nằm sâu trong núi để được tạm trú
và quản chế. Một nơi ông hoàn toàn xa lạ, không có bất cứ một người thân
quen nào. Ông đón xe đi Biên Hòa, nơi
có trại gia binh nằm bên cạnh doanh trại của đơn vị ngày xưa. Chắc chắn
là trại gia binh đã bị tịch thu, nhưng hy vọng tìm được người tài xế và
vài người lính cũ có thể còn ở lại gần đâu đó. Họ là những người thân
thiết cuối cùng còn lại trong đời ông. Ông muốn đến thăm và tìm hiểu
tình hình hầu tìm một con đường sống. May
mắn, anh tài xế vẫn còn ở căn nhà cũ phía ngoài trại gia binh. Căn nhà
tôn mà trước kia vợ chồng anh đã hốt hai đầu hụi và mượn thêm cả một
tháng lương của ông để mua với giá rẻ, mở cái quán nước nhỏ, bán cho anh
em lính. Bây giờ cái quán không còn, nhưng anh hành nghề xe ôm với
chiếc Honda từ đời 70 còn lại, nên cuộc sống cũng đáp đổi qua ngày. Thầy
trò gặp nhau bất ngờ như từ cõi chết trở về, vừa vui mừng vừa cảm động.
Anh tài xế ôm chầm lấy ông, bảo hết mình lo lắng cho ông Thầy. Anh bảo
vợ và thằng con trai lớn chạy đi báo tin, gọi thêm hai anh em cùng đơn
vị cũ còn ở lại trong vùng. Mỗi người góp một tay, làm mấy món nhậu uống
mừng được gặp lại ông Thầy. Men rượu
ngà ngà, nước mắt ông cũng đầm đìa vì cảm kích cái tình huynh đệ, và nhớ
tới những anh em đồng đội đã vĩnh viễn nằm lại trên con đường 7 B oan
nghiệt, tất cả đều chết trong tức tưởi. Bỗng tất cả im lặng hướng về
chiếc máy truyền hình nhỏ để trên tủ thờ trước mặt, khi nghe giọng nói
sắc máu của người nữ xướng ngôn viên thông báo trực tiếp phát sóng: Tòa
Án Nhân Dân tỉnh Đồng Nai xét xử một cô gái mang tội “phản động, âm mưu
ám sát cán bộ cách mạng”. Ông há hốc miệng, đôi mắt ráo hoảnh, khi nhìn
thấy cô con gái đứng trước vành móng ngựa, hai tay bị còng, phía sau là
một đám công an cả nam lẫn nữ mặt mày đằng đằng sát khí. Cô bé giống vợ
ông như đúc. Khuôn mặt hiền lành xinh đẹp này ông đã gặp bao nhiêu lần
trong giấc mộng, suốt hơn chín năm tù. Không kịp giải thích, ông bảo anh
tài xế tìm mọi cách giúp chở ông thật nhanh đến tòa án Biên Hòa, nơi
phiên xử mới bắt đầu. Chỉ hơn 10 phút
sau anh tài xế và ông đã có mặt. Phiên tòa đang tiếp tục phần “buộc tội”
của một bà được gọi là đại diên Viện Kiểm Sát Nhân Dân. Ông giật mình
khi nghe tên cô con gái “thủ phạm” là Nguyễn Thị Hồng Phượng. Đứa con
gái duy nhất của ông có tên Nguyễn Lê Tuyết Phượng. Chưa kịp hình dung
trọn vẹn hình ảnh người vợ và đứa con gái năm tuổi, khi ông được ba ngày
phép về nhà đưa cháu vào bệnh viện mỗ tim rồi vội vàng chia tay lần
cuối cùng để ra đơn vị, thì một điều bất ngờ khác làm ông bàng hoàng
hơn: Người nhân chứng được gọi lên cung khai có tên là Nguyễn Công
Chính, trùng tên với ông anh cả, đã thất lạc trên ba mươi năm, sau ngày
ông cùng bố mẹ di cư vào Nam. Khi nhìn kỹ Nguyễn Công Chính bước lên vị
trí nhân chứng, ông sững sờ nhận ra ngay, đó đúng là người anh ruột của
mình. Dù dung mạo có đổi thay, nhưng ông không thể nào nhầm lẫn được.
Với con mắt hơi lồi và hàm răng vễnh của bao năm trước. Lúc còn bé, ông
anh còn có tên gọi trong nhà là cu Tun. Ông đứng bật dậy, định gọi lớn
tên anh mình, nhưng kịp nhớ ra đang ở trong phiên tòa, và bản thân mình
cũng là người tù chưa trình diện nơi quản chế. Lòng dạ rối bời, ông chưa
kịp trấn tỉnh để nghe nhân chứng vừa nói điều gì, thì bỗng có tiếng la
từ hàng ghế phía trước. Một cậu thanh niên đứng bật dậy, hét to: -Tôi
là Nguyễn Công Diệp đã đủ tuổi để xin làm nhân chứng. Tôi chứng kiến
tận mắt, ông thượng úy Đạt định hiếp Phượng, cô em nuôi của tôi. Em tôi
chỉ phải tự vệ bằng chính khẩu súng của ông Đạt. Bất chấp tiếng búa gõ và phản đối ra lệnh ngồi xuống của chủ tọa phiên tòa, cậu thanh niên vẫn tiếp tục:
-Khi
bị bắn, ông Đạt nằm trần truồng ngay dưới giường ngủ của em tôi, chứ
không phải mặc nguyên áo quần công an như bố tôi vừa nói. Tôi phản đối.
Tất
cả nhốn nháo. Có lệnh tạm ngưng phiên tòa, buổi chiều sẽ nghị án. Ông
Trực vội vàng chạy tới Phượng, nhưng chưa kịp nói điều gì thì mấy gã
công an đã đẩy Phượng đi. Ông chạy ra hành lang tìm gặp Hai Chi. Ông ta
bỏ đi trước một mình khi vợ và đứa con trai đang còn lớn tiếng cãi nhau
Khi
thấy có người đập mạnh trên vai, ông Hai Chi quay lại, nhưng chưa kịp
nhận ra ai. Nước mắt ràn rụa, giọng nói dường như nghẽn lại, ông Trực cố
gắng lắm mới thốt ra lời:
-Anh Cu Tun ơi! Em là Trực, Nguyễn Công Trực, em út của anh đây. Cháu Phượng là con gái của em!
Ông
Hai Chi khựng lại, sững sờ, trố mắt nhìn. Trời đất như quay cuồng trước
mặt khi ông vừa nhận ra đứa em thất lạc đã gọi đúng cái tên cúng cơm
của mình mà cả vợ con ông cũng chưa hề biết. Ông kéo tay ông Trực ra xa,
đến dưới một bóng cây bên kia đường vắng. Trời đang vần vũ một cơn mưa.
Cả hai đều chưa biết tung tích của nhau, nhưng riêng ông Trực thì đã
đoán ông anh của mình phải là một cán bộ cộng sản cao cấp, với cái vẽ bệ
vệ của ông cùng sự sang trọng của bà vợ và đứa con trai. Một cảm giác
rờn rợn lẫn một chút xót xa thoáng qua trong đầu ông Trực. Ông Hai Chi
căn dặn Trực tạm thời đừng tiết lộ điều gì với vợ và con trai ông. Bởi
vợ ông là một người cộng sản thực thụ, có thể gây bất lợi cho em mình.
Ông sẽ bảo vợ, Trực là một đàn em thân tín nhưng hoạt động trong bí mật. Đưa
Trực về nhà. Cả một buổi trưa, ông Hai Chi tưởng mình như đang rơi
xuống chín tầng địa ngục. Ngoài trời mưa tầm tã, nhưng trong lòng ông
nóng còn hơn lửa đốt. Ông nhắm mắt ngữa mặt lên trần nhà khi nghe người
em của mình cho biết:
-Bố mẹ đã chết
trong Tết Mậu Thân do pháo kích của các anh. Em bị các anh bắt giam cầm
hành hạ hơn 9 năm trời, tưởng đã bỏ xác trong tù, vợ em có lẽ cũng bị
các anh giết tập thể ở Long Khánh, và cháu Phượng là đứa con duy nhất
của em, mới mấy tuổi đầu mà phải bị ức hiếp tù đày.
Là
một người Cộng sản “theo thời thế”, ông Chính vẫn còn ít nhiều cái gốc
tiểu tư sản. Một chút lương tâm còn sót lại bỗng làm ông bật khóc. Thực
ra thì ông cũng đã từng bao lần khóc thầm, khi suýt bỏ mạng ở các chiến
trường Hạ Lào, Tây Nguyên, chứng kiến những cái chết kinh hoàng và vô
nghĩa của hàng vạn thanh niên nam nữ từ miền Bắc bị cưỡng bách đi B. Vài
lần thoáng hiện trong đầu ông hai chữ “hồi chánh”, nhưng phân vân vì
khi ấy vợ con ông ở ngoài Bắc, chắc chắn sẽ phải khốn khổ với đám cường
quyền. Ý tưởng chưa ngã ngũ thì chiến cuộc kết thúc nhanh chóng đến bất
ngờ. Ông tiếp tục “nín thở qua sông”, cố đóng cho thật khéo vai trò
“đảng viên trung kiên”, để hưởng cho tròn cái lợi danh của người “bên
thắng cuộc”.
Buổi chiều, phiên tòa tái
nhóm. Ông Hai Chi xin được phản cung, thay đổi lời khai nhân chứng. Là
một đảng viên có chức quyền, lại là bạn thân của “đồng chí” Mười Vân
giám đốc ông an tỉnh, ông cũng được mấy ông bà “quan tòa” vị nễ. Nhưng
tất cả đều ngỡ ngàng khi nghe ông tuyên bố:
-Lời
nói của cậu con trai tôi sáng nay là đúng. Chính đồng chí thượng úy Đỗ
Hữu Đạt đang thực hiện ý đồ hiếp dâm cháu Nguyễn Thị Hồng Phượng, là con
gái nuôi của chúng tôi, còn đang tuổi vị thành niên. Với tư cách là một
đảng viên và cán bộ nhà nước, tôi cam kết những lời xác nhận này là
hoàn toàn chính xác. Sáng nay, vì muốn giữ danh dự cho chiến sĩ ngành
công an, tôi có ý che giấu cho anh Đạt, nhưng rồi tôi đã kịp nghĩ ra,
làm như vậy trước tòa là phạm pháp, có tội với đảng, với nhân dân.
Bà
Hai Chi tròn mắt ngạc nhiên, tức giận, trước thái độ thay đổi bất ngờ
của ông chồng.Tay thượng úy Đạt được tòa gọi đứng lên đối chất. Hắn ta
không phản biện, vì biết tội đã quá rõ ràng, nhưng lại trút tội lên đầu
bà Hai Chi. Hắn ta khai ra tất cả kế hoạch bỉ ổi của bà. Nội vụ lại
chuyển sang một hướng khác, hoàn toàn ngoài dự trù của Viện Kiểm Sát.
Phiên tòa tạm ngưng để tiếp tục điều tra.
Không
khí trong nhà ông Hai Chi trở nên ngột ngạt, nhưng ông Trực cố nán lại
đây để mong được sớm gặp con gái của mình và cũng tránh bị xét hỏi giấy
tờ. Ông Hai Chi đích thân làm đơn bảo lãnh Phượng được tại ngoại. Cha
con gặp nhau trong ngỡ ngàng. Phượng không nhận ra cha mình. Nhưng huyết
thống phụ tử rất nhiệm màu, hơn nữa khi nghe ông Trực bảo “phía dưới
ngực bên trái của con có một vết sẹo dài khi con mỗ tim”, Phượng òa khóc
và ôm chặt lấy cha. Trong lòng Phượng như vừa mới nở ra một đóa hoa
tươi thắm nhất.
Giữa tháng 10/ 1984,
khi phiên tòa chưa tái nhóm thì tại tỉnh Đồng Nai xảy ra một biến cố
lớn, làm xôn xao cả nước, đặc biệt đối với dân chúng miền Nam, sau hơn
chín năm vẫn chưa kịp nhận ra hết bộ mặt thật của những người cộng sản:
Mười
Vân Nguyễn Hữu Giộc, đảng viên cao cấp, con hùm xám Nam Bộ một thời,
đang là Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai bị bắt. Đích thân “đồng chí” bộ
trưởng công an, âm thầm đưa cả một lực lượng công an chuyên nghiệp và
tin cẩn từ Hà nội vào Sài gòn lập kế bắt Mười Vân ngay trong phòng họp.
Lục soát tư dinh và nhiều nơi khác, công an tịch thu hơn hai ngàn cây
vàng và cả trên 500 kg vàng cùng hột xoàn các loại.
Ngày
1.11.1984, một phiên tòa đặc biệt được khẩn cấp triệu tập tại thành phố
Biên Hòa, dưới sự “chủ trì” và xét xử của Viện Kiểm Sát Nhân Dân và Tòa
Án Nhân Dân Tối Cao. Phiên tòa đặt dưới sự chỉ đạo nghiệp vụ của “đồng
chí” Trần Quyết, Bí Thư Trung Ương Đảng, Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân
Dân Tối Cao.
Mười Vân bị xử tử hình. Bản án sơ thẩm cũng là chung thẩm, được thi hành cấp kỳ sau một tuần tại trường bắn Long Bình.
Lần
đầu tiên báo chí tại Sài gòn được đăng tải tin tức phiên tòa mà thủ
phạm là một ông lớn, đảng viên cao cấp. Người ta cũng biết được có những
chiếc tàu chở người Hoa đã bị bỏ đói, nhận chìm, ngoài bờ biển Cát Lái,
Rạch Giá ,Phú Quốc và vài nơi khác ở miền Trung, làm chết rất nhiều
người. Và khắp cả nước bàn tán về chuyện cướp bóc, tham nhũng, ăn chia
không đều giữa những người cộng sản!
Sau
đó nhiều phiên tòa đặc biệt khác được tiếp tục, xử những người đồng
lõa, trong đó có cả mấy ông bà trong Tòa án nhân dân Đồng Nai. Nhờ đó,
vụ án của Phượng bị bỏ quên, không còn ai nhắc tới. Nhưng ông Hai Chi và
cả tay thượng úy công an Đỗ Hữu Đạt lại dính vào vụ án lớn. Bởi cả hai
đều là cánh tay đắc lực của gã Mười Vân.
Biết
không thể nào vượt qua số phận, ông Hai Chi tự động đến trình diện
trưởng ban điều tra của “ban chuyên án”, và xin giao nộp 800 cây vàng,
ông khai là Mười Vân nhờ giữ hộ. Và cũng nhờ ông khai thêm những đường
giây làm ăn của Mười Vân, nên ủy ban bắt thêm một số đàn em, trong đó có
thượng úy công an Đỗ Hữu Đạt, tịch thu thêm cả ba ngàn cây vàng, gồm cả
800 cây được giấu kỹ dưới hồ nước sau nhà một đàn em thân tín của Mười
Vân, phải điều xe cần trục câu lên.
Tất
nhiên với dạn dày kinh nghiệm, ông Hai Chi kịp thời tẩu tán một số
vàng. Ông vội vàng móc nối một đường giây quen biết cũ, tung vàng ra để
gởi cha con ông Trực, dắt theo Diệp, thằng con trai duy nhất của ông
vượt biển khẩn cấp ra khỏi nước.
Nhờ tàu Cap Anamur cứu vớt trên biển, bố con ông Trực và Diệp được đến định cư tại Tây Đức.
****
Mùa
Hè năm 1990, trong một dịp sang thăm người bạn thân cùng tù Hoàng Liên
Sơn lúc trước, tôi được gặp anh Nguyễn Công Trực, một cựu sĩ quan Biệt
Động Quân, là bạn láng giềng thân thiết với người bạn tù của tôi. Anh đã
kể cho tôi nghe về những ngày cuối cùng của đơn vị anh trên Tỉnh Lộ 7B –
từ Pleiku di tản xuống Tuy Hòa, và cả câu chuyện trùng phùng bi thảm
này. Tôi cũng được nói chuyện với cháu Phượng, cô con gái hiền thục xinh
xắn của anh, vừa mói tốt nghiệp dược sĩ. Chúng tôi cũng đến thăm cậu
Diệp, con trai của ông bà Hai Chi, cũng là cháu ruột của anh. Diệp đang
sống chung với cô vợ người Đức và đứa con trai hai tuổi.
Tôi
cũng được biết ông Hai Chi, nhờ “thành khẩn khai báo”, nên được hưởng
khoan hồng với hai mươi năm tù. Vợ ông, bà Hai Chi bị án sáu năm tù về
tội đồng lõa và tàng trữ vũ khí, vàng bạc phi pháp. Bà chết trong tù sau
hai năm thụ án, do chính tay công an Đỗ Hữu Đạt, người bị giam cùng
trại, đánh lén bằng cuốc trong giờ lao động, để trả mối thù xưa. Hắn ta
nghĩ rằng chính bà đã lập mưu để hại hắn, chứ Phượng không hề bị bà cho
uống thuốc ngủ. Hắn ta cũng nghi ngờ ông Hai Chi đã khai hắn là tay chân
đắc lực của Mười Vân, đã từng giết người bịt miệng, nên nhà cửa bị tịch
thu cùng với bản án bốn mươi chín năm tù. Và
sở dĩ có phiên tòa và vụ án làm xôn xao cả nước thời ấy, hoàn toàn
không phải chống tham nhũng mà chỉ vì bọn chúng không ăn chia đồng đều.
Tay Mười Vân đã dành riêng cho mình một số vàng quá lớn, và từng làm mưa
làm gió, qua mặt đám đàn anh, không còn xem trung ương ra thể thống gì. Về
sau tôi còn biết thêm: Sau khi ông Hai Chi giảm án ra tù, được con trai
bảo lãnh sang Đức. Nhưng ông đã quẫn trí, thường ngồi thẫn thờ nhìn lên
trời cao, lúc khóc lúc cười. Ông qua đời năm 2006.
Đang
ngồi chờ cạo mặt ráy tai ở một quán hớt tóc đầu con hẻm, bỗng nghe lệnh
của tổ dân phố phát ra oang oang trong loa phóng thanh: “Để mừng Đảng mừng xuân, mọi nhà đều phải treo cờ tổ quốc!”
Chợt
nhớ ra ngày mai, mồng ba tháng hai là ngày sinh của Đảng. Và Đảng 85
tuổi. Như thế cũng đã gần thượng thọ rồi. Đảng hơn tôi 10
tuổi. Nếu là trong giới viết lách, có thể gọi thân mật bằng anh, rủ
nhau đi cà-phê tán gẫu. Nhưng Đảng không phải là người, không hình thù
mặt mũi, chỉ “văn kỳ thanh chứ bất kiến kỳ hình”, có muốn nâng ly chúc
mừng cũng không biết chúc ai.
Nhưng
Đảng cũng không phải là ma. Đảng có mặt ở mọi nơi, mọi chỗ. Gần, thì tổ
trưởng dân phố, công an khu vực. Xa, thì chủ tịch tỉnh, chủ tịch nước.
Chót vót là tổng bí thư. Đảng là một tổ chức chính trị trùm cả nước. Cái bóng của Đảng to đến nỗi trông lên chỉ thấy Đảng chứ không thấy Trời.
Sức
mạnh của Đảng thì khỏi phải nói. Nào đánh Pháp, đuổi Mỹ... Ơn Đảng còn
hơn cả ơn Chúa! Nhưng Đảng cũng là một cái gì chưa trọn, cứ phải xây
dựng hoài mà chưa xong. Đảng cũng thối tha không kém, nên cứ phải làm
trong sạch mãi.
Giả
sử, Đảng được sinh ra trong một gia đình nào đó, có nghĩa là một sinh
vật hẳn hoi, thì chẳng biết Đảng đực hay cái. Đảng không có chim, cũng
không có bướm, vậy mà trong 85 năm, Đảng sinh ra đến hàng triệu đảng
viên. Đảng hơn cả mẹ Âu Cơ, sinh đẻ cứ như cua, cá. Mà cua cá thì anh cứ
việc xơi, chứ đảng viên, đụng vào là bỏ
mẹ.
Trong
số hàng triệu đảng viên, có nhiều người cùng tuổi với Đảng. Nghĩa là
Đảng mới chào đời đã kịp sinh con, như cụ bà Phạm Thị Trinh, cũng đã 85
tuổi Đảng (101 tuổi đời). Đảng thì lớn mạnh vẻ vang, còn cụ thì tù đày
bầm giập. Cùng tuổi với Đảng nhưng chẳng được ai chúc mừng, kể cả con
cháu.
Vậy
thì Đảng là cái gì mà mọi nhà đều phải treo cờ? Đến nỗi, hơn 50 năm
trước, Trần Dần phải kêu lên: Tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà/
chỉ thấy
mưa sa trên màu cờ đỏ. Lá cờ mà sau đó ông gọi là lá cờ trừ ma.
Khi
tôi cạo mặt ráy tai xong, ra về, cũng chưa thấy cờ như thời Trần Dần,
cũng chẳng thấy ai tới hạch hỏi “người ta đổ xương máu để có được cây
cờ, chỉ có mỗi một việc treo lên mà không treo, phản động à?” như hồi
75.
Bật
TV, thấy Tổng bí thư đọc lê thê một bài mừng Đảng giữa một hội trường
to rộng, trước những đảng viên ưu tú, áo quần sang trọng tinh tươm,
nhưng người đọc thì giọng
buồn mệt mỏi, người nghe thì mặt cứ trơ ra, chẳng một chút xúc động cứ
như những tượng sáp.
Người
ta bảo Đảng bây giờ cũng như cái xác trong lăng kia, chỉ chờ ngày chôn
thôi. Tôi thì tôi không dám tin như vậy. Chẳng những thế tôi còn đâm ra
sợ Đảng như nhân vật của Kafka, có thể đang hoá thân thành một con gì đó
hơn cả con sâu. Bởi thế, cứ tới ngày sinh của Đảng thì tôi (và 85 triệu
người không Đảng) lại buồn. Còn buồn hơn chiều chủ nhật buồn nằm trong
căn gác đìu hiu!
Bác tôi có bốn người con, đều là gái. Nói theo kiểu miền Bắc là vịt
giời, nói theo xứ này là ngao. Toàn là những tiếng dè biểu, chê bai.
Chờ mãi mà chẳng có một thằng cu, nên bác trai cảm thấy cái chức trưởng
họ của mình nó lỏng chỏng cứ như một tổng thống được chỉ định chứ không
phải do dân bầu lên. Còn bác gái, cứ mỗi lần nghe bà mụ bảo “Ơ lại là
con gái” là thở dài; lần sau dài hơn lần trước, và lần sau cùng thì
khóc. Chẳng phải bác lo chồng cưới vợ bé để kiếm con trai (có cho cũng
không dám), mà vì như bác nói, làm đàn bà khổ lắm, vui vẻ gì mà sinh ra
cả lũ!
Tuy vậy, nhìn bốn cô con gái xinh xinh hai bác cũng yên ủi ít nhiều. Bác
trai vốn là người sinh ra chỉ biết làm thơ chứ không làm gì khác, đã
rất lạc quan, tự hào. Bác nói, “Nhà có con gái như có ngọc, sáng hẳn ra.
Mình được đến những bốn viên, sang quá chớ bộ!”
Bác gái thì nguýt: “Ở đó mà sang, ông không nghe người ta nói, đó là bom
nổ chậm à? Một trái đã mất ăn mất ngủ, đến những bốn trái thì biết làm
sao đây?”
“Vớ vẩn!”, bác tôi cãi lại, “bà có biết làm thơ không đấy, mỗi đứa là
một câu thơ, bốn đứa làm thành một bài thơ tứ tuyệt. Ôi chao, Lý Bạch,
Đỗ Phủ cũng phải thua tôi nữa kìa.”
“Hay nhỉ”, bác gái cười, “vậy ông thử đọc bài thơ đó nghe xem nào.”
Ông trợn mắt ngạc nhiên: “Thơ nào nữa. Bốn đứa là bốn câu thơ, tròn
trịa, xinh xắn. Sống động như thế, nhìn chưa đã con mắt hay sao mà còn
đòi đọc cho nghe nữa?”
Rồi mỉm cười ý nhị, bác hạ thấp giọng như chỉ đủ cho bà nghe: “Mà bài
thơ tuyệt tác đó, chính bà là tác giả. Bà chẳng biết vần điệu gì ráo,
nhưng đã sáng tạo ra chúng trong những phút xuất thần, đúng là thiên
tài!”
Mặc dù được bác trai bốc lên đến tận giời, nhưng bác gái tôi chỉ cười.
Một lúc, bác nói như thể kéo bác trai xuống mặt đất. “Tôi thì tôi lo
lắm. Thời buổi này, kiếm được một thằng rể đã là khó. Mà đến những bốn
đứa thì biết kiếm đâu cho ra. Bọn con trai, nếu không suốt ngày say xỉn
thì bài bạc hút xách. Những đứa coi được được lại vô công rồi nghề, cứ
ngồi chảy thây ra ở các quán cà phê! Ông hãy liều liệu mà ăn với ở. Con
gái nhờ đức cha kia đấy.”
“Bà khỏi phải lo”, bác tôi cao giọng, “ăn ở như tôi đấy à? Đến mười đứa
còn chưa hết đức, nói gì bốn đứa. Này nhé, tôi không tham nhũng thụt
két, không bóp hầu bóp họng ai, không nịnh trên nạt dưới… Tôi chỉ là nhà
thơ, một nhà thơ chân chính không thèm vào hội nhà văn, thì đứa nào bẻ
cong ngòi bút tôi được.”
“Thì đấy”, bác gái đãi giọng ra, “điều tôi lo là ông thừa cái đức của các cụ xưa mà thiếu cái đức của bọn trẻ ngày nay.”
“Đức của bọn trẻ ngày nay là đức thế nào?”
“Là tiền!”
“Ơ!” Bác tôi kêu lên như từ trên trời rơi xuống, “Là tiền à? Đức mà lại
là tiền à? Thế cái bọn bán rừng bán biển, cướp đất cướp ruộng của dân,
bọn vun quén tài sản rồi chuồn ra nước ngoài với cả đống đô la, là đức
đó à?»
“Cũng gần như vậy.”
“Đó là cái đức cống, thối hoắc!” Bác tôi phẫn nộ.
“Nhưng đời này thì nó thơm lắm. Không thối như ông tưởng đâu. Này tôi
hỏi ông, khi ông đi ra đường với chiếc áo xệch xạc, chiếc mũ bèo nhèo,
đôi giày vẹt gót, thì đúng là nhà thơ đó, nhưng có ai chào nhà thơ
không? Hay là người ta chỉ chào ông giám đốc này, ông chủ doanh nghiệp
nọ, ngay cả một chú công an đứng đường, cũng được thưa gửi kính cẩn. Nói
đâu xa, anh em trong họ nhà này, dù ông là trưởng họ nhưng có ai coi
ông ra gì. Ông còn thua cả thằng Bang, làm chủ hàng trăm con vịt đẻ, là
cháu ông nữa đấy!”
Bác gái tôi nói tới đó thì nghèn nghẹn, rơm rớm nước mắt. Một lúc, bác
thở ra: ”Tôi nghĩ mà thương cho tụi nó. Bốn chị em mà có mỗi chiếc xe cà
tàng, thì ai mà thèm vào. Tụi nó nói, mỗi đứa một chiếc tay ga, còn
chưa chắc nữa là. Làm cha làm mẹ mà để con cơ cực như thế, tôi xấu hổ
quá!” Và, bà khóc thành tiếng.
Bác trai cứ trợn trừng ngó lên trần nhà, miệng lẩm nhẩm hai tiếng “đức”
và “tiền” như người bị ma nhập; rồi bất ngờ nắm lấy vai bác gái, nói như
reo: ”Tiền cả đống kia đấy! Hơ hơ!”
Bác gái mệt mỏi đứng dậy định đi, nhưng bác trai giữ lại.
“Nhiều tiền thật mà. Bốn đứa con gái là bốn cục vàng, hà hà. Này nhé,
con Phong mà ai cũng kêu là cây sào, thử hỏi ở cái xứ dân lùn này có ai
chân dài bằng nó không. Nó mà đi thi hoa hậu thì đoạt vương miện là cái
chắc. Còn con Hoa suốt ngày hát hò, cứ ghi tên mà thi Idol hay Giọng hát
Việt. Con Tuyết dù còn đi học nhưng cái làn da trời cho đúng như tên
nó, thì thi người đẹp sinh viên. Con Nguyệt lém lỉnh giỏi ngoại ngữ, làm
phóng viên cho Việt tấn xã, đi nước ngoài như đi chợ, miễn là đừng có
chỉa hàng. Bốn đứa là bốn cái máy in tiền. Bà là mẹ, rồi sẽ được đăng
hình lên báo, còn tôi, khi được phỏng vấn, chúng nó thỏ thẻ: dạ bố em là
nhà thơ ạ, nghe còn oách hơn cả giám đốc ngân hàng đấy chứ! Ơ kìa,
nhưng bà sao thế, bà ngất đấy à? Này cháu, giúp bác đưa bác gái vào
giường, bà ấy vui quá, ngất đi đấy.”
Đúng là bác gái tôi đang ngất, nhưng chẳng phải vì vui. Sau này bác nói:
“Chán bác giai mày quá! Toàn những chuyện không đâu. Cầu trời cho tụi
nó không đứa nào vớ phải một thằng chồng như bác mày!”
Cũng vì không thể tin được một ông chồng cứ mãi nghĩ chuyện đâu đâu, nên
bác gái dẹp bốn cái máy in tiền qua một bên. Bác bảo: “Ai thì mơ chứ
bác không mơ. Hay ho gì cái trò thi hoa hậu với thần tượng. Cứ phơi tồng
tộc ra trước bàn dân thiên hạ như phơi bánh tráng ấy, thì là con gì chứ
đâu phải con gái!”
Cái nỗi lo ế chồng cứ mãi ám ảnh bác gái tôi, như một người chèo đò lo
thuyền chìm khi phải chở nặng. Mỗi khi nhìn cái Phong, đã hơn ba mươi
tuổi đầu mà chẳng thấy tăm hơi động tĩnh gì cả, bác cứ thở dài thườn
thượt. Nhưng bác trai, lúc nào cũng lạc quan tin tưởng: “Sao mà ế được.
Chẳng qua là, nó phải chịu cái dớp của một câu thơ hay, thế thôi. Mà thơ
hay cũng như ngọc trong đá. Phải mất một thời gian đẽo gọt người ta mới
tìm ra được ngọc. Bốn đứa là một bài thơ toàn bích. Thì bốn thằng rể
cũng phải vậy. Bà làm thơ xướng thì tôi làm thơ họa. Nhất định tôi sẽ
làm. Tôi sẽ tìm ra đủ bốn đứa để họa lại. Phong, Hoa, Tuyết, Nguyệt thì
họa lại phải là Cầm, Kỳ, Thi, Họa. Tôi ví dụ là vậy, chứ không phải đốt
đuốc đi tìm bốn cái thằng có tên như thế. Nhỡ cầm mà không biết đàn thì
sao. Nhỡ kỳ mà không biết đánh cờ cũng hỏng. Nhỡ thi mà nói một câu
chẳng nên lời thì thi cái nỗi gì. Còn họa mà vụng về làm gì cũng không
nên thì chỉ có nước là tai họa. Những câu thơ tôi chọn phải thật giàu
hình tượng, nhiều ý tưởng ; nói rõ hơn là phải đẹp giai này, chỉ số IQ
thông minh phải cao đến tận nóc!”
“Thôi, thôi, bác gái kêu lên như hét, một mình ông là thơ, tôi đã đủ mệt
quá rồi. Thêm bốn đứa con gái ông cũng gọi là thơ. Giờ thêm bốn thằng
rể, ông lại gọi là thơ nữa, có mà tôi chết sớm.”
“Bà không việc gì phải chết sớm đâu. Hãy cứ sống mà xem tôi chọn rể. Đẻ
như bà thì tôi không làm được, nhưng người khác đẻ để tôi chọn, thì là
nhất.”
Thế là bác tôi, với bổn phận nặng nề làm cha, cộng với nguồn thi hứng
dạt dào, đã lùng sục trong đám con cháu bạn bè quen biết, đưa về một “lũ
bốn tên” như bác gái tôi mỉa mai. “Một lũ người không ra người, ngợm
không ra ngợm, nhưng ăn thì như ngạ quỷ, bao nhiêu cơm, phở, bún, bánh
đều sạch nhẵn. Rể như thế thì chỉ có nước bán nhà!”
Nhưng bác tôi cãi lại: ”Có như thế chúng mới là đàn ông. Chúng ăn như
hổ, uống như rồng, bà không thấy là đối quá chỉnh với thực như miêu của
các con mình à? Còn cái bề ngoài, bà phải nhớ chiếc áo không làm nên
thầy tu, đừng tưởng chúng khùng, chúng là những nhà thơ đương đại, có
điều chưa kịp nổi danh đấy thôi.”
Bác gái tôi lại buông một câu quen thuộc: “Chán bác giai mày quá!” Còn
các câu thơ trong bài tứ tuyệt, khi thấy các “câu thơ” nửa như tân hình
thức nửa như hậu hiện đại mà ông đem về, thì đồng loạt kêu lên: “Thôi,
bố gả chúng con cho Đại Hàn hay Trung Quốc đi. May ra bố mẹ còn được vài
trăm đô!”
Cuộc chiến về thơ cứ nhùng nhằng như thế thì đùng một cái, bác tôi lăn
ra chết! Không phải chết trong một đêm trăng huyền hoặc như Lý Bạch, mà
là chết trong một đêm ba mươi tối đen như mực. Bác chết ngoài hiên, bác
gái nói đi giải ngã đấy thôi, trong khi các thi hữu thì bảo bác đi tìm
vần thơ. Dù sao thì bác cũng đã chết rồi. Cái nỗi buồn mất cha, mất
chồng không đủ che lấp cái nỗi nhẹ người, tôi không dám nói nỗi vui, khi
trong nhà bớt đi một bóng người mà ai cũng cho là lẩn thẩn.
Di cảo của bác để lại là những tập vở học trò đề bên ngoài là thi phẩm,
nhưng lật bên trong chẳng có bài thơ nào, ngay cả một câu cũng không!
Nhớ lúc sống bác bảo, tác phẩm chưa hoàn thành là tác phẩm hay nhất, đạt
nhất. Tiếc rằng, bác không sống đủ lâu để hoàn thành, cho dù khi ấy nó
không còn là hạng nhất nữa. Cái hay, cái đạt ấy bác đã đột ngột đem theo
xuống mồ.
Như thế, cả một đời làm thơ, bác chỉ còn để lại duy nhất một bài thơ tứ
tuyệt. Tiếc rằng, (cũng lại tiếc) bài thơ còn sống lâu hơn bác đó, không
phải bác làm một mình mà đồng tác giả cùng với bác gái.
Bốn câu thơ ấy, sau khi mãn tang cha cũng lần lượt đi lấy chồng. Người
chèo đò chở khẳm là bác gái tôi cũng cặp được bến. Bác đã có thể thở
phào nhẹ nhõm.
Có điều bốn chàng rể chưa chắc đã làm nên một bài thơ họa đắc ý như bác
trai tôi mong muốn. Nếu còn sống, thế nào bác cũng chê là sai niêm luật,
lạc vần lạc điệu, chỉ được cái đối nhau chan chát.
Cô chị cả tên Phong, cao một thước tám thì lấy một anh chàng mà chiều
cao khiêm nhường của anh ta, chỉ vừa đúng cái chân dài của cô. Ngày
cưới, cô dâu mặc váy trắng trông như nàng Bạch Tuyết, còn chú rể tuy vậy
mà rất tự tin, tự cho mình là một trong bảy chú lùn.
Cô hai Hoa, thì lấy một anh mặt mụn nhiều như cám. Cô không đủ tự tin để
chụp hình bên anh, nhưng cô rất thích khi thấy anh chường mặt ra quảng
cáo đủ kiểu trên truyền hình. Anh sẽ đem về cho cô ngoài những tấm ngân
phiếu còn có cả đống kem dưỡng da, thuốc tẩy trắng.
Cô ba Tuyết, không thể tìm đâu ra cách đối nào hoàn chỉnh hơn, khi sánh
duyên với một cầu thủ bóng đá người Ghana. Cô tự hào mà bảo rằng, anh ấy
là đêm, cô là ngày, có như thế cuộc sống lứa đôi mới không buồn chán.
Cô út Nguyệt, có lẽ là xấu số nhất, lấy một ông chồng già những mong
được cưng chiều, nhưng chưa hết tuần giăng mật thì chồng bị đột quỵ,
chữa chạy lắm cũng chỉ lập bà lập bập tiếng được tiếng mất.
Các thi hữu của bác tôi khi dự lễ cưới, đều khề khà phẩm bình những câu
thơ “đực” không hợp vì chúng mới quá, lạ quá, ráp với các câu thơ “cái”
nghe trúc trắc làm sao! Nhưng các cụ cũng gật gù mà khen rằng, bày ra
được một cuộc trình diễn nghệ thuật có một không hai như thế này: nào có
cao có thấp, có trắng có đen, có xấu có đẹp, có già có trẻ, thì chỉ có
mỗi một nghệ sĩ bậc thầy duy nhất, là số phận mới tạo dựng được mà thôi.
Bác gái tôi, suýt chết ngộp vì thơ, nên chẳng ưa gì bốn câu thơ mới. Chỉ
có một điều làm bác nguôi ngoai, ấy là cả bốn đều nhiều đức, tức là
nhiều tiền.
Thôi, nói nhiều thêm tội cho cái linh hồn thanh cao của bác giai tôi!
01/4/2014
Có hai bác tính hay sợ vợ, cùng ở láng giềng với nhau.Một hôm, bác nọ,
vợ đi vắng; ở nhà trời mưa, có váy vợ phơi quên không cất vào, để mưa
ướt cả. Khi vợ về, nó chửi cho một trận đê nhục; chán rồi, nó đánh cu
cậu tối tăm cả mắt mũi lại.Bác bên cạnh thấy bác kia vợ đánh chửi tệ như
vậy, mới lẩm bẩm rằng:- Đ... mẹ kiếp! Chẳng phải tay ông!...Vợ nghe
thấy, trợn mắt lên, hỏi dồn rằng:- Phải tay ông, thì ông làm gì, hử? Ông
làm cái gì?- Phải tay ông, thì ông... cất trước lúc trời mưa, chứ gì
!...
2. Thầy đồ nói liều
Một thầy đồ ngồi dạy học ở nhà bà lão già. Bà ấy có người con
gái; đêm đến, mẹ con cùng ngủ với nhau ở dưới bếp, để riêng nhà trên cho
thầy đồ và con trai nằm. Thầy đồ bụng muốn tòm tem. Một đêm, lò dò
xuống bếp. Bà lão thấy động, lên tiếng hỏi:- Ai?- Thưa, tôi.- Tôi là
ai?- Tôi là thầy đồ.- Chứ đêm hôm ông xuống bếp làm gì?- Thưa... tôi...
xuống... lấy vài cái rế để đựng sách!Nào có thế mà thôi đâu! Cách mấy
tối, thầy đồ ta lại lò dò trèo lên mái nhà bếp; đương dỡ rơm để trụt
xuống, bỗng thấy bà lão lại hỏi rằng:- Ai ở trên kia?- Thưa, tôi đây ạ.-
Tôi là ai?- Tôi là thầy đồ.- Chứ ông làm gì ở trên ấy thế?- Thưa,...
tôi... hỏi thế này thì khí không phải: đường này có lên trời được
không?...
3. Túng thế, nói liều
Một anh đã phải vợ có máu hay ghen lại còn đi rước một cô vợ lẽ về nhà;
để đến nỗi vợ cả sinh chuyện lôi thôi, đêm đêm mang nhốt vợ lẽ vào trong
buồng, bắc chõng nằm ngang cửa, canh giữ, không cho anh chồng bén mảng
đến.Anh ta tức quá, chẳng biết làm thế nào mà vào lọt được.Một đêm,
tưởng chừng vợ cả nó ngủ đã say, mới thừa cơ chui qua chõng lẻn vào,
thầm thì với vợ lẽ.Vợ cả thấy động, giở dậy, đốt đèn đi soi. Anh nọ vội
vàng chui ngay xuống gầm giường, ngồi ẩn. Chẳng may nó soi thấy cậu; nó
mới hỏi ngồi làm gì chồm chỗm ở đấy.Cậu ta túng thế quá, nói liều rằng:-
Ngồi ỉa, chứ ngồi làm gì!- Ỉa thì cứt đâu?- Cứt ăn mất rồi, chứ đâu!...
4. Đáng kiếp
Có một người đàn bà góa đẹp lắm mà hãy còn ít tuổi. Chồng chết sớm chẳng chịu lấy ai, cứ khư khư giữ tiết thờ chồng.
Ông lý trưởng ở trong làng và một ông sư cùng phải lòng người ấy. Hai
ông ganh nhau ve vãn mãi, cũng không được; cho nên lại càng theo đuổi
riết. Hễ gặp thì nói ghẹo, nói cợt. Đi đâu cũng theo đi đấy. Người đàn
bà góa tức lắm, lập mưu để mà trừ hai cái nợ ấy đi; nhất là bác thầy tu
tệ quá.Một hôm, chị ta cho người nhà đến bạch với sư ông rằng:- Sư ông
đã có bụng thương yêu đến, thì cô tôi cũng xin vâng. Vậy tối hôm nay,
đầu trống canh hai, mời sư ông lại chơi; mà sư ông có lại, thì Người lấy
ít vôi bôi lên đầu, rồi đến ngồi ở cạnh cửa; có ai thấy, tưởng là con
chó đá, thì không nghi ngờ gì cả. Tự khắc rồi có người ra đón sư ông
vào. Xin Người cứ y như thế cho!Lại sai người đến thưa với ông Lý rằng:-
Ông đã có lòng thương yêu đến cô tôi, thì còn gì bằng nữa? Tối hôm nay,
cuối trống canh hai, xin mời ông lại chơi nói chuyện. Hễ ông có lại,
thì ông mang cái tay thước đi, giả làm đi tuần, để cho người ta khỏi
nghi. Đến cửa có con chó đá, ông cứ gõ một cái rõ mạnh vào đầu nó, ở
trong nhà nghe thấy, sẽ ra mở cửa mời ông vào. Xin ông cứ y như thế
cho!Ông sư được tin ấy, mừng lắm, vội vàng đi tắm rửa sạch sẽ, cạo đầu
mới mẻ, bôi vôi trắng hếu; rồi chưa hết canh một, đã dò đến ngồi chồm
chỗm ở chổ xó cửa nhà người đàn bà góa.Ông Lý ta cũng mừng lắm; đầu canh
hai, đã vác tay thước ra đi.Đến nơi thấy đầu ông sư trắng hếu, chắc là
đầu con chó đá đấy, mới giơ thẳng cánh đập đánh “chát” một cái. Ông sư
ngất đi một hồi; rồi tỉnh dậy, vội vàng ôm đầu, lui lủi chạy mất.Ông Lý
thấy thế, nghĩ chó đá nhà ấy thánh thần, sợ mất vía, cũng ù té bỏ cả tay
thước mà chạy.
5. Nói một đường, nghe ra một nẻo
Có hai vợ chồng, tối hôm ba mươi tết nấu bánh chưng, cắt nhau
coi nồi bánh: chồng thì canh từ chập tối cho đến nửa đêm, mà vợ thì từ
nửa đêm cho đến sáng.Khi chồng đã canh hết lượt mình rồi, vào đánh thức
vợ dậy thay canh để mình đi ngủ.Vợ, bất đắc dĩ, phải trở dậy, ra ngồi
cạnh bếp lửa coi nồi bánh. Ngồi một mình, nghĩ gần nghĩ xa, tê mê tẩn
mẩn thế nào, lại gọi chồng:- Còn thức đấy hay là đã ngủ rồi?Chồng thức
khuya, quá giấc, chập chà chập chờn, cho nên cũng chưa ngủ đựơc. Thấy vợ
gọi, mới thưa ngay:- Còn thức, gọi gì?- Dậy làm một cái sốt sột
đi!Chồng mơ mơ màng màng, tưởng vợ hỏi mình có muốn ăn một cái bánh
chưng sốt sột chăng, mới nói rằng:- Ấy chết! dại dột! Cái sốt sột để mai
cúng ông vải chứ!Vợ thấy chồng nghe không ra, lại nói:- Không, cái méo
mó kia mà! Chồng vẫn yên trí là nói bánh chưng, lại gạt đi rằng:- Ấy
đừng, phải tội! Cái méo mó để thành kính cúng ông Thổ công đấy!
6. Ăn quen, bén mùi-
Có một ông lão già, đã ngoài bảy mươi.Một hôm, nắng nực, nằm nghỉ trưa;
chợt có chị con gái, trạc mười lăm, mười sáu tuổi, ở bên láng giềng qua
xin lửa.Ông ta chẳng buồn trở dậy, bảo chị kia rằng:- Lửa ở bếp, cứ lại
mà thổi lấy.Chẳng may bếp nguội, thổi mãi không được; chị ấy mới chổng
mông, ghé mồm, lấy hơi, phồng má, thổi một cái rõ mạnh. Không ngờ vãi
ngay ra một cái “bủm”. Ông lão giật mình, ngồi nhỏm dậy, nhìn cô ả, rồi
thở giọng vòi rằng:- Thôi! Chị làm bạt mất vía ông Thổ công nhà tôi rồi!
Tôi bắt đền chị đấy!Chị con gái kia thẹn, đỏ mặt chín nhừ: thấy ông lão
nói bắt đền, thì sợ quá, mới chắp tay van rằng:- Tôi lạy ông, tôi trót
lỡ, ông tha cho tôi.- Tha thế nào! Vía ông Thổ công nhà tôi có phải là
chuyện chơi đâu? Tôi phải đi trình làng mới được. Chị đi xuống ngay ông
lý với tôi.Nói rồi, liền đứng dậy, ra bộ đi thật. Chị con gái thấy thế,
sợ cuống, vội vàng chạy lại nắm áo ông lão mà kêu xin rằng:- Tôi lạy ông
vạn lạy, ông đừng làm thế, mà người ta cười tôi chết!... Ông bảo tôi
thế nào, tôi cũng xin vâng...Ông lão không nghe, cứ làm già; chị kia thì
năn nỉ, van lạy mãi.Ông lão mới bảo rằng:- Thế thì chị phải nằm xuống
để tôi thu vía ông Thổ công nhà tôi lại.Chị con gái túng thế, phải
chịu.Thu một hồi lâu, tha cho cô ả về; còn ông cụ thì nhọc lử cò bợ; nằm
thẳng cẳng như người chết rồi.Cô ả quen mui, trưa hôm sau lại dẫn đến
nhà ông lão, te tái gọi ông lão mà nói rằng:- Ông ơi, ông, tôi lại đánh
rắm!Nhưng mà ông lão mệt quá, thở không ra hơi; nằm từ hôm qua, cũng
chưa lại hồn. Cho nên lắc đầu mà nói rằng:- Mày ỉa ra đấy, ông cũng chịu
thôi!
7. Khóc mẹ chồng
Có một chị, mẹ chồng chết, khóc mãi đến nỗi khô cả cổ.Đương khóc, trông
lên mâm ngũ quả ở trên giường thờ, thấy có mấy quả quít, mới giơ tay với
trộm lấy một quả. Chẳng may với hụt, quả quít rơi xuống đất. Chị ta lấy
chân khều; càng khều, quả quít lại càng lăn xa mãi ra.Cho nên mới khóc
rằng:« Ới mẹ ơi, là mẹ ơi! Từ giờ một ngày một xa, con biết làm sao cho
được? Mẹ ơi là mẹ ơi!... »
8. Ông rậm râu
Có một ông râu rậm che kín cả miệng. Một hôm, đương đi ở ngoài đường,
chợt có đứa bé con trông thấy; nó mới gọi mẹ nó mà bảo rằng:- Mẹ ơi, ra
mau mà xem người không có mồm! Rồi nó cứ vỗ tay, chạy theo mà reo lên
rằng:- A! a! a! Ông này không có mồm!Ông rậm râu tức quá, quay mặt lại,
vạch râu chửi, nó rằng:- Chẳng mồm là l... mẹ mầy đây à!
9. Cả làng sợ vợ
Có một làng, từ ông thủ chỉ cho đến anh cùng đinh, ai ai cũng sợ
vợ cả. Một hôm, họp nhau bàn soạn: có một người đứng lên nói rằng:- Bởi
chưng một mình lẻ loi, cho nên nó bắt nạt được. Giá mà ta họp nhau lại,
như đũa cả nắm, khó bẻ, thì nó không làm gì nổi. Phải đừng có ai bỏ ai
mới được.Mọi người đều vỗ tay khen phải. Tức thì lập thành hội, trọn
ngày sửa lễ tế thần, ăn mừng.Đến hôm được ngày, không dám ở trong làng,
sợ lộ chuyện, mới đem nhau ra tế lễ ở ngoài đồng xa xa. Cắt ba ông sợ vợ
nhất, một ông vào mạnh bái, hai ông vào bồi tế. Xong đâu đấy cả rồi,
nổi trống, đốt pháo, các quan viên aó mũ vào tế.Tế được một tuần, đến
lúc xướng: “Giai quị!” Ba ông kia cùng quì cả xuống.Ngay bấy giờ có mấy
bà đi chợ về qua thấy tế lễ linh đình, rủ nhau đến xem.Các ông thấy bóng
các bà, vội vàng sấp ngửa, ù té chạy cả. Duy chỉ có ba ông nọ còn đương
quì, cho nên không chạy kịp.Bọn kia chạy chừng một quãng, ngoảnh lại
trông, thấy ba ông ấy vẫn cứ quì ở giữa chiếu. Mới lao xao bảo nhau mà
khen rằng: “Ừ, thế chứ lại! Chúng mình cắt những tay thật là xứng đáng
cả!” Bèn rủ nhau trở lại.Ai ngờ đến gần, thì thấy ba ông đã chết cứng cả
tự bao giờ rồi!
10. Thầy đồ mắc lỡm
Có một thầy đồ ngồi dạy học ở một nhà giàu. Nhà ấy nuôi nhiều
chó dữ lắm. Một đêm, thầy đồ muốn đi đồng, nhưng mà tính nhát; phần thì
sợ ma, phần thì sợ chó, cho nên không không dám mở cửa ra. Đến sau mót
quá, không thể nào nhịn được nữa, mới đào một cái hố ở ngay kẽ vách, rồi
ngồi ỉa phứa vào đấy. Sáng mai, thầy đồ ta gọi chủ nhà lại, trỏ cái hố
mà bảo rằng:- Đêm hôm qua, trộm nó đào ngạch nhà ta. Tôi biết. Tôi mới
đợi lúc nó thò đầu vào, tôi ỉa lên đầu nó một bãi. Nó sợ chạy mất.Chủ
nhà vốn đã biết tính thầy nhát và hay nói khóac. Đã ỉa ra nhà nó, mà lại
còn trực thuật nó! Nó mới gọi cả nhà đến đông đủ mà bảo rằng:- Nhà ta
nuôi một đàn chó, rặt là đồ ăn hại cả. Đêm hôm qua có trộm đào ngạch,
thế mà chó không con nào biết gì sốt! May có ông đồ, không thì khốn!
Thôi đem mà đánh chết cả mấy con chó đi! Từ rày đã có ông đồ giữ nhà hộ.
Thất bại tại Biển Đông nhưng Trung Quốc vẫn chìm đắm trong giấc mộng
Thứ ba, 25 Tháng 10 2011 00:00
Về
khía cạnh chiến lược, chính sách ngoại giao, quan hệ quốc tế và truyền
thông trong vấn đề Biển Đông, Trung Quốc đã hoàn toàn bại trận. Dường
như không một quốc gia nào ủng hộ lập trường cũng như lối hành xử của
nước này. Bài viết của Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đông Á, Đại học Quốc
gia Singapore, Trịnh Vĩnh Niên trên Liên hợp Buổi sáng phân tích về nguyên nhân thất bại cũng như đối sách cho Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.
Thời
gian gần đây, mọi người đều vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng,
đã bao nhiêu năm nay, song song với sự trỗi dậy của Trung Quốc là chuỗi
"liên hoàn bại trận" của chính nước này trong các vấn đề về Biển. Đặc
biệt bắt đầu từ năm ngoái, xu hướng này ngày càng hiện ra rõ ràng hơn.
Trung
Quốc đã nỗ lực theo đuổi chiến lược "Trỗi dậy hòa bình" (Phát triển hòa
bình) ngay sau công cuộc cải cách mở cửa. Trên rất nhiều phương diện,
Trung Quốc đã từ bỏ chính sách chủ nghĩa đơn phương vốn đã tuân thủ từ
rất lâu trước đó, đồng thời phát triển quan hệ hữu nghị đa phương với
các nước ASEAN. Khu vực tự do thương mại Trung Quốc-ASEAN cũng đã bắt
đầu có hiệu lực. Trong vấn đề tranh chấp Biển Đông, Trung Quốc đã đề
xuất chủ trương "Gác tranh chấp chủ quyền, cùng khai thác chung". Những
biện pháp này xét từ góc độ lý thuyết đến thực tiễn áp dụng đã hình
thành nên sách lược và kim chỉ nam ngoại giao "Giấu mình chờ thời" của
Trung Quốc suốt từ thời Đặng Tiểu Bình đến nay. Thế nhưng rất nhiều
người đã cảm nhận ra rằng, trên rất nhiều vấn đề có liên quan, nếu như
Trung Quốc không thể trực diện đối mặt thì sẽ góp phần đẩy chính sách
của họ đi theo hướng ngược hẳn lại.
Sự
quan tâm chú ý của toàn bộ khu vực Châu Á và cộng đồng quốc tế cho tới
thời điểm này đều tập trung vào vấn đề Biển Đông, Biển Đông đột nhiên
lại thêm một lần nữa trở thành điểm nóng của thế giới. Chính quyền Trung
Quốc dường như lại không hiểu rõ tình trạng hiện nay. Đối với Trung
Quốc mà nói, chính sách Biển Đông về bản chất không hề có bất cứ một
thay đổi nào, chỉ là các nước có liên quan tiến hành một loạt các hành
động không có lợi cho Trung Quốc, và phản ứng của Trung Quốc theo đó
cũng chỉ tương đương với hình thức "cứu hỏa" mà thôi.
Trên
thực tế, từ rất nhiều năm trở lại đây, chính bởi vì nguyên do Trung
Quốc luôn áp dụng các biện pháp bị động đối phó lại khiến cho vấn đề
Biển Đông ngày một tích tụ chồng chất lại, và rồi dẫn đến cục diện như
ngày hôm nay. Không quan tâm Trung Quốc có muốn hay không, có nắm rõ
tình hình hay không, thì Trung Quốc phải đối mặt với những thách thức
chưa từng có trong vấn đề Biển Đông này.
Thứ nhất, Trung Quốc sớm đã hoàn toàn thất bại tại cuộc chiến công luận quốc tế.
Trong
nhiều năm qua, khi Trung Quốc vẫn còn đắm chìm trong thuyết "Trỗi dậy
hòa bình" do chính họ tạo dựng nên, thì các quốc gia có liên quan đã nỗ
lực với tinh thần cao nhất và chuẩn bị đầy đủ trên trường quốc tế để chờ
đợi vấn đề Biển Đông sẽ nổi lên như trong dự tính đã có sẵn. Xét trên
hệ thống kiến thức (luật pháp), Trung Quốc hiện nay thật khó khăn để tìm
ra được bất kỳ một lực lượng hỗ trợ có hiệu quả nào cho họ. Về xu hướng
các giới truyền thông báo chí không đứng về phía Trung Quốc đã hình
thành như hiện nay thì Trung Quốc cũng không có quyền phát biểu tại đây.
Các nhà bình luận cho rằng dùng "Chính sách cứng rắn" để mô tả thái độ
của Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông là chưa đầy đủ, chính xác phải
gọi đó là "mang tính chất tranh cướp" mới đúng. Trên thực tế, cách nhận
thức tương tự như vậy của Trung Quốc đã trở nên khá phổ biến trong cộng
đồng quốc tế. Bản thân Trung Quốc lại quả quyết cho rằng họ không làm
gì mà lại bị đối xử "oan uổng" như vậy, đây chính là căn nguyên khiến
Trung Quốc bị mất quyền phát biểu trong cuộc chiến công luận quốc tế
này.
Thứ hai, Trung Quốc cũng thua trận trong cuộc chiến chiến lược.
Các
nước liên quan đều có những chiến lược khá rõ ràng trong vấn đề tranh
chấp Biển Đông, cụ thể bao gồm các chiến lược như chủ nghĩa đa phương
tại khu vực, quốc tế hóa, chính trị hóa đại quốc. Thế nhưng chiến lược
của Trung Quốc nếu không dám đối mặt với sự thực thì sẽ là nhập nhằng
không rõ ràng. Trung Quốc từ chối chi tiết hóa vấn đề, sử dụng khái niệm
"phản đối quốc tế hóa" vô cùng vĩ mô này nhằm che lấp vấn đề cụ thể.
Trên thực tế, tranh chấp Biển Đông đã được đa phương hóa, quốc tế hóa từ
rất lâu rồi, hơn nữa sẽ rất nhanh tiến đến giai đoạn "chính trị hóa đại
quốc" trong thời gian tới. Trung Quốc chỉ là không dám thừa nhận sự
thực hiển hiện ra trước mắt này mà thôi.
Thứ
ba, nếu tình hình vẫn tiếp diễn như vậy, Trung Quốc sẽ bị ràng buộc để
cuối cùng rơi vào tình trạng mất chủ quyền trong cuộc chiến.
Như
đã đề cập ở phần trên, từ năm ngoái cho đến năm nay, chính sách Biển
Đông của Trung Quốc về bản chất không hề có bất cứ một thay đổi nào, mà
chủ yếu chỉ là một số hành động mang tính chất phản ứng lại. Thế nhưng
cho đến thời điểm này, bất cứ nước nào cũng đều cho rằng Trung Quốc
chính là nguyên nhân phát sinh của mọi vấn đề. Tình hình thực tế là, các
nước khác có liên quan vẫn đang xúc tiến các hoạt động và hành động
trong khu vực tranh chấp Biển Đông, đặc biệt là trong việc phát triển
nguồn năng lượng.
Trung Quốc chìm đắm trong "giấc mộng".
Đã
nhiều năm nay, trong vấn đề tranh chấp Biển Đông (cũng như trong nhiều
vấn đề khác), Trung Quốc dường như luôn sống trong "giấc mộng" mà chính
bản thân họ tự vạch ra. Nhìn từ góc độ chiến lược, Trung Quốc không phải
là không có cơ hội để chiếm ưu thế trong vấn đề Biển Đông này, mà thay
vào đó lại tự động vứt bỏ những ưu thế đáng lẽ họ chiếm được ... Điều
đáng tiếc là, những hành động của TQ không những không chiếm được sự
đồng cảm của các nước liên quan đến tranh chấp mà cuối cùng dẫn đến kết
quả hoàn toàn ngược lại, gây tổn hại cho chính lợi ích quốc gia của
mình.
Vậy
thì, kết quả cuối cùng sẽ như thế nào đây? Trung Quốc liệu sẽ từ bỏ
chăng? Trong giới báo chí truyền thông vô cùng phát triển như ngày hôm
nay, phạm vi xu hướng thỏa hiệp mà các nhà cầm quyền có thể áp dụng được
ngày một nhỏ,càng không cần nói đến chuyện từ bỏ. Nếu tình hình này vẫn
cứ tiếp diễn thì cuối cùng chắc chắn sẽ dẫn đến các cuộc xung đột xảy
ra.Tuy nhiên xung đột trong thời gian này sẽ vô cùng bất lợi đối với
Trung Quốc.
Vấn
đề đã xuất hiện rồi, thì phái có cách đối phó lại. Nhiệm vụ đầu tiên
cần phải làm là tìm hiểu rõ tại sao lại xuất hiện tình trạng như vậy?
Ngoài các vấn đề xuất phát từ chính bản thân Trung Quốc thì còn có một
số nguyên nhân quan trọng khác nữa. Đối với các nước có liên quan mà nói
thì đây là sản phẩm phát sinh từ "môi trường quốc tế" và "môi trường
nội bộ".
Đầu
tiên đề cập đến môi trường quốc tế. Đối với các quốc gia có liên quan
thì nhân tố quan trọng nhất trong môi trường quốc tế không thể không
nhắc đến sự trỗi dậy kinh tế của Trung Quốc và kéo théo sau đó là hiện
đại hóa nền quốc phòng, quân sự cũng như từ đó tác động đến cục diện địa
chính trị của toàn bộ khu vực Châu Á. Các quốc gia có liên quan đã bắt
đầu cảm thấy rằng thời gian không còn đứng về phía họ nữa. Mặc dù Trung
Quốc luôn nhấn mạnh về sự "trỗi dậy hòa bình" của mình, thế nhưng họ lại
bị coi là đã áp dụng chính sách chậm trễ kéo dài thời gian trong vấn đề
Biển Đông nhằm chờ thời cơ cho đến khi tình hình quốc tế thuận lợi sẽ
ra tay giải quyết tranh chấp. Do vậy, đối với các quốc gia có liên quan
thì vấn đề Biển Đông bắt buộc phải được giải quyết theo hướng có lợi cho
họ trước khi Trung Quốc thực sự trỗi dậy, nếu không, đợi cho đến khi
Trung Quốc đã trỗi dậy rồi, tia hy vọng sẽ trở nên vô cùng mong manh.
Cũng chính vì thế, bắt buộc phải thông qua bất cứ biện pháp nào để đẩy
mạnh hành động, hối thúc phát triển theo khuynh hướng có lợi cho bản
thân họ.
Đối
với Trung Quốc mà nói, môi trường các nước lớn chủ yếu đề cập đến những
biến đổi chính trị trong phạm vi giữa các nước này, đặc biệt là biến
đổi trong mối quan hệ với các nước lớn như Mỹ. Trong vấn đề Biển Đông,
không quản có muốn hay không thì Trung Quốc chắc chắn vẫn phải đối mặt
với Mỹ. Thế nhưng trong quan hệ hai nước Trung-Mỹ thì dù Trung Quốc đã
hao tâm tổn trí rất nhiều nhưng vẫn không biết nên làm như thế nào để có
thể hòa nhập được cùng Mỹ, đặc biệt là mối quan hệ với Mỹ trong khu vực
Châu Á. Rất nhiều người đã từng nghĩ rằng mục tiêu chủ yếu của Mỹ trong
sự hiện diện tại Châu Á này là nhằm đối phó với Trung Quốc, thế nhưng
trên thực tế lại không hề đơn giản như vậy. Lý do Mỹ tồn tại ở khu vực
Châu Á không chỉ để đối phó với riêng một Trung Quốc, mà còn liên quan
đến vấn đề địa chính trị khác. Ví dụ, nếu không có nhân tố Trung Quốc
thì Mỹ vẫn đương nhiên tìm ra được lý do để tạo ra không gian sinh tồn
tại Châu Á. Bất luận là khu vực Đông Bắc Á, Đông Nam Á hay Nam Á, mối
quan hệ phức tạp đan xen giữa các nước đều cần có sự hỗ trợ sức mạnh của
Mỹ để cân bằng lực lượng.
Trung Quốc không tạo dựng không gian cho Mỹ.
Rất
nhiều các quốc gia Châu Á đều cần sự hiện diện của Mỹ chính là do kết
quả không hành động của Trung Quốc. Ví dụ, trong vấn đề Triều Tiên thì
ngoài Triều Tiên ra, hầu hết tất cả các nước Châu Á đều bất mãn với cách
hành xử của Trung Quốc. Tất nhiên là cũng có những điểm khó xử riêng
nhưng không thể vì thế mà chứng minh rằng cách hành xử của Trung Quốc là
hợp lý được. Quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản thường xuyên liệt vào
trạng thái căng thẳng. Hiện nay cùng với sự trỗi dậy của Ấn Độ thì mối
quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ cũng hàm chứa rất nhiều những nhân tố
không xác định. Mặc dù Trung Quốc và các nước khu vực Châu Á luôn có các
lĩnh vực hợp tác chung, thế nhưng những cuộc xung đột dường như phát
sinh ngày một phức tạp hơn. Dù thế nào đi chăng nữa, trong việc giải
quyết các vấn đề khu vực Châu Á thì Mỹ vẫn là quốc gia duy nhất đã từng
nhiều lần thông qua các cuộc trải nghiệm, hơn nữa, tính quan trọng của
nhân tố Trung Quốc mặc dù ngày một tăng lên nhưng chưa hề thông qua bất
kỳ một cuộc trải nghiệm nào cả. Trong bối cảnh như vậy, Mỹ vẫn chính là
môt quốc gia đạt mức độ tin tưởng và được dựa dẫm cao nhất. Điều này
cũng được thể hiện trong vấn đề Biển Đông, những nước có liên quan hy
vọng có sự can thiệp của Mỹ tại khu vực xảy ra tranh chấp này, nhằm nâng
cao tính chắc chắn của họ trong vấn đề Biển Đông. Chính vì thế mà dẫn
tới xu thế "chính trị hóa đại quốc"...
Ở
đây còn có môi trường nội bộ của chính bản thân Trung Quốc. Phiên họp
Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ mười tám sẽ được tổ chức vào năm sau.
Trong thời gian này, nhiệm vụ chính của chính quyền Trung Quốc là giải
quyết công việc nội bộ, sự ổn định sẽ trấn áp tất cả mọi vấn đề khác. Có
một số quốc gia phán đoán rằng trong thời kỳ này thì Trung Quốc sẽ
không thể đưa ra những điều chỉnh lớn nào về chính sách đối ngoại được
cả. Điều này cũng có nghĩa rằng, trước khi một thế hệ lãnh đạo mới được
thành lập, Trung Quốc sẽ không thể có chính sách mới và quan trọng nào
trong lĩnh vực ngoại giao, hay nói rằng phần lớn các chính sách đối
ngoại được đưa ra tất nhiên đều mang tính chất phản ứng là chủ yếu. Cách
phán đoán này khiến cho các nước có liên quan đến tranh chấp sẽ nhận
thấy rằng đây là cơ hội để tiến hành áp dụng những phương pháp triệt để
hơn cho họ.
Trung
Quốc sẽ làm gì khi đối mặt với tình thế hiện tại này? Được coi là một
quốc gia lớn đang trong quá trình trỗi dậy, Trung Quốc chắc chắn sẽ đóng
vai trò ngày càng quan trọng trong các vấn đề về khu vực. Tình thế tại
Biển Đông đối với Trung Quốc mà nói, mặc dù "ngày thế giới tận thế" vẫn
còn cách xa vô cùng, nhưng họ bắt buộc phải thay đổi tính bị động đã tồn
tại cho đến thời điểm hiện tại này để chuyển sang tính chủ động hơn.
Điều đặc biệt quan trọng phải nói đến rằng, vấn đề hiện nay của Trung
Quốc không phải là vấn đề về nguồn tài nguyên, mà là chiến lược, chính
sách và cách huy động nguồn lực. Đơn giản mà nói chính là vấn đề về
đường lối tư duy của Trung Quốc. Trong tranh chấp “Nam Hải” (Biển Đông),
Trung Quốc phải có một đường lối tư duy rõ ràng, minh bạch.
Cần phải suy ngẫm lại đường lối tư duy đã cũ của Trung Quốc.
Khi
đề cập đến đường lối tư duy mới thì cần phải suy ngẫm lại đường lối tư
duy đã cũ của Trung Quốc. Vấn đề cốt lõi trong đường lối tư duy truyền
thống của Trung Quốc chính là phản đối "quốc tế hóa" trong trannh chấp
Biển Đông. Xét trên cơ sở lý thuyết, điều này đương nhiên là không sai.
Nhưng vấn đề phát sinh nằm ở chỗ khái niệm đưa ra này không những không
miêu tả được tình huống khách quan của quá trình tranh chấp Biển Đông mà
lại càng khó khăn hơn khi áp dụng đường lối tư duy này để có thể tìm ra
được biện pháp giải quyết. Điều này liên quan đến nhiều cấp độ bên
trong các vấn đề chính.
Thứ nhất là chủ nghĩa song phương.
Trung Quốc yêu sách gác tranh chấp chủ quyền cùng khai thác chung. Thế
nhưng cho đến nay chính sách này vẫn chỉ dừng lại ở trạng thái khẩu
hiệu, lý thuyết suông. Để có được mối quan hệ với các nước ASEAN, bản
thân Trung Quốc không hề có kế hoạch khai thác Biển Đông nào cả, mà
ngược lại chính là các nước có liên quan trong những năm gần đây tiến
hành tăng cường khai thác. Thế nhưng Trung Quốc không phải đề xuất ra
chủ trương cùng khai thác chung, mà chính xác phải nói là chủ trương
khai thác đơn phương. Trong vấn đề cùng khai thác chung, các quốc gia có
liên quan hoặc là không tự nguyện hoặc là tinh thần tự nguyện không
cao. Hay nói toạc ra thì Trung Quốc không có đủ sức mạnh cũng như cơ chế
quyền lực để thúc đẩy các quốc gia có liên quan công nhận và đi đến
chấp nhận yêu sách cùng khai thác chung mà Trung Quốc đã đề xuất.
Thứ hai là chủ nghĩa đa phương,
chính là mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước ASAEN. Vấn đề tranh
chấp Biển Đông chủ yếu biểu hiện trong "Tuyên bố ứng xửtrên Biển Đông”
mà Trung Quốc cũng đã ký kết. Thế nhưng văn bản này lại không mang bất
cứ tính chất ràng buộc pháp lý nào. Văn bản tuy đã được ký kết rất nhiều
năm qua nhưng không có bất cứ một quốc gia nào đạt hiệu quả trong việc
thúc đẩy cho văn bản trở thành một tài liệu mang tính ràng buộc pháp lý
được. Nên nói rằng chính bản thân Trung Quốc cũng không nỗ lực thực hiện
đầy đủ nhiệm vụ của mình trong đó. Điều quan trọng của vấn đề nằm ở chỗ
Trung Quốc vẫn tuân thủ chủ nghĩa song phương và phản đối đa phương hóa
trong tranh chấp Biển Đông. Thế nhưng bản chất thực sự của rất nhiều
vấn đề trong tranh chấp Biển Đông lại là đa phương, cho nên việc phản
đối chính sách đa phương hóa đã thể hiện rõ thái độ của Trung Quốc không
dám đối mặt với sự thực này.
Thứ ba là quốc tế hóa.
Các quốc gia có liên quan đã đưa vấn đề tranh chấp Biển Đông giao phó
cho Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế. Trung Quốc tỏ ý không chấp
nhận cho lắm, bởi vì nếu cầu cứu đến Liên Hợp Quốc hoặc các tổ chức quốc
tế thì khả năng bại trận của Trung Quốc sẽ lớn hơn cơ hội chiến thắng
rất rất nhiều lần. Như đã thảo luận trong phần trên, Trung Quốc đã thua
trận trong cuộc chiến công luận quốc tế rồi, sẽ không còn bao nhiêu
người có thể thông cảm cho lập trường của Trung Quốc được nữa.
Thứ tư là chính trị hóa đại quốc.
Các quốc gia có liên quan trong khu vực Đông Nam Á hy vọng sẽ có sự can
thiệp của Mỹ tại đây, điều này là dễ hiểu. Thế nhưng mức độ can thiệp
của Mỹ sẽ sâu nông như thế nào thì còn phải xem lợi ích quốc gia của
chính họ trong vấn đề này. Nhân tố Mỹ trong khu vực Đông Nam Á đã luôn
tồn tại từ trước tới nay, hay nói cách khác Mỹ đã luôn là một bộ phận
cấu thành trong cấu trúc khu vực này. Trên thực tế, lợi ích của Mỹ tại
khu vực Đông Nam Á này còn thâm căn cố đế hơn nhiều so với lợi ích của
Trung Quốc. Ngay từ thời kỳ khi mới bắt đầu chiến tranh lạnh thì Mỹ đã
không ngừng thiết lập mối quan hệ với các nước trong khối ASEAN, còn
Trung Quốc chỉ mãi cho đến sau thời kỳ cải cách giải phóng đất nước mới
bắt đầu xây dựng mối quan hệ mang tính thực chất với các nước này. Mối
quan hệ giữa Mỹ và các nước Đông Nam Á là toàn diện trên các lĩnh vực
còn Trung Quốc thì chủ yếu chỉ dựa trên lĩnh vực kinh tế, còn những lĩnh
vực khác mới đang thuộc thời kỳ sơ khai. Do vậy, việc chính quyền Trung
Quốc phản đối "chính trị hóa đại quốc" cũng chính là nguyên do khiến
cho nước này không nhận ra bản chất thật của vấn đề tranh chấp.
Khi
suy ngẫm đến các nhân tố đã được nêu ở phần trên, mọi người sẽ thật dễ
dàng để trả lời câu hỏi rằng "Trung Quốc nên đi những bước tiếp theo như
thế nào đây?", cũng có thể xem xét đánh giá từ nhiều góc độ như sau.
Trước tiên,
Trung Quốc cần đặt mình đứng từ góc độ của các quốc gia láng giềng hoặc
các nước có liên quan đến tranh chấp trong vấn đề Biển Đông để suy xét
vấn đề. Trong suốt thời gian dài đến nay, chính quyền Trung Quốc luôn
tuyên truyền lập trường với những nguyện vọng tốt đẹp của họ ra thế giới
trong và ngoài nước, ví dụ như những khái niệm gọi là "trỗi dậy hòa
bình", "phát triển hòa bình" và "láng giềng tốt", v.v... Những điều này
rất quan trọng nhưng không bao giờ có thể coi là đủ được cả, bởi vì
chính Trung Quốc đã coi nhẹ cách nhìn nhận của các nước xung quanh đối
với sự trỗi dậy của họ như thế nào, hay mối quan tâm của các nước đó ra
sao trước sự trỗi dậy của Trung Quốc. Chỉ cho đến khi thấu hiểu được mối
lo lắng của các nước láng giềng này rồi, thì Trung Quốc mới hoạch định
ra những chính sách thiết thực có hiệu quả được. Nếu không, không quan
tâm nguyện vọng của Trung Quốc có như thế nào đi chăng nữa, hay đại loại
giống như những khái niệm gọi tương tự như là "sự trỗi dậy hòa bình"
v.v... thì cuối cùng vẫn biến thành những lời Trung Quốc tự nói và tự
nghe.
Thứ hai,
Trung Quốc bắt buộc phải phân định rõ ràng giữa vấn đề an ninh hàng hải
và tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông. Mối quan tâm của cộng đồng quốc
tế đặc biệt là Mỹ nói riêng chính là vấn đề an ninh hàng hải, việc Mỹ
can thiệp vào vấn đề Biển Đông cũng chính xuất phát từ căn nguyên này
ra. Đối với vấn đề này, Trung Quốc cần căn cứ vào tình hình thực tế,
thừa nhận và nhấn mạnh rằng an ninh hàng hải là mối quan tâm của tất cả
các bên tham gia, đồng thời cũng là trách nhiệm của tất cả các bên.
Trung Quốc phải tình nguyện gánh vác trách nhiệm này cùng với các quốc
gia khác như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ hay các quốc gia ASEAN. Trên thực tế,
vấn đề an ninh hàng hải quốc tế vẫn luôn do Mỹ đảm nhiệm từ trước tới
nay. Mặc dù Trung Quốc đã bắt đầu có năng lực và sức mạnh trong vấn đề
này, thế nhưng khả năng gánh vác được trách nhiệm thì vẫn còn quá là xa
vời đối với chính họ, cho dù chỉ là vấn đề liên quan đến an ninh hàng
hải trong khu vực mà thôi. Trong lĩnh vực này, hai nước Trung, Mỹ có
không gian để có thể hợp tác cùng với nhau rất lớn, mà sự hợp tác như
vậy cũng phù hợp với lợi ích quốc gia của chính bản thân Trung Quốc.
(Đương nhiên ở đây đề cập đến một vấn đề còn cơ bản hơn, đó là việc
Trung-Mỹ sẽ hợp tác như thế nào để xây dựng nên hệ thống an ninh trong
khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Mà điều này đòi hỏi thể hiện trong một
bài lập luận khác biệt nữa).
Quản lý và kiểm soát sẽ chính là các lựa chọn.
Thứ
ba, một cấp bậc tiếp theo nữa là mối quan hệ giữa Trung Quốc và tổng
thể khối ASEAN. Việt Nam, Philippin, Malaysia và Bruney là những nước
thành viên ASEAN có tuyên bố chủ quyền một phần hoặc toàn bộ đối với một
số đảo trên Biển Đông. Điều này quyết định đến sự cân nhắc của Trung
Quốc về lợi ích tổng thể của khối ASEAN cũng như mối quan hệ giữa Trung
Quốc và tổng thể ASEAN. Mặc dù cho tới thời điểm hiện tại, Trung Quốc
không sẵn sàng chấp nhận chủ nghĩa đa phương, thế nhưng cuối cùng thì họ
bất đắc dĩ cũng phải thừa nhận, hơn nữa sự chấp nhận này càng sớm bao
nhiêu thì sẽ càng có lợi cho Trung Quốc bấy nhiêu. Hãy giả thiết một
chút rằng, nếu như "Tuyên bố ứng xử trên Biển Đông" ngay từ những năm
trước đã có tính ràng buộc pháp lý rồi thì cục diện Biển Đông sẽ không
đến nỗi phát triển như thời điểm hiện tại thế này. Không còn nghi ngờ gì
nữa, nếu Trung Quốc chấp nhận chủ nghĩa đa phương, thì "Tuyên bố ứng
xửtrên Biển Đông" sẽ vẫn là một lối vào đầy thuận tiện.
Thứ
tư, một cấp bậc cuối cùng là nên đối diện với vấn đề tranh chấp chủ
quyền như thế nào. Đây là vấn đề vô cùng thiết yếu, Trung Quốc nên từ bỏ
chủ nghĩa song phương truyền thống và chấp nhận chủ nghĩa song phương
mới, cũng có nghĩa là một chủ nghĩa song phương mới nằm trong cấu trúc
của chủ nghĩa đa phương. Điều này nói lên rằng, Trung Quốc và các nước
có liên quan đến tranh chấp sẽ có thể tiến hành các cuộc họp thảo luận
song phương dưới hình thức cấu trúc đa phương giữa Trung Quốc và ASEAN
khi bàn bạc nghiên cứu về vấn đề Biển Đông. Dưới hình thức cấu trúc đa
phương như vậy, các quốc gia không liên quan đến tranh chấp Biển Đông sẽ
không tỏ rõ thái độ ủng hộ đối với bất cứ một bên nào, lập trường trung
lập sẽ là lợi ích lớn nhất của tất cả các bên. Đồng thời khuôn khổ này
cũng tạo động lực lớn giúp cho các nước có liên quan đến tranh chấp có
thể tiến hành thương lượng thảo luận với Trung Quốc.
Vấn
đề Biển Đông ngày càng trở nên phức tạp gay gắt. Muốn một bước giải
quyết nhanh gọn vấn đề này là không điều không thể xảy ra được. Nếu
không giải quyết được vấn đề tồn tại, thì phương án quản lý và kiểm soát
sẽ trở thành những cách lựa chọn hợp lý. Nhưng muốn quản lý và kiểm
soát được vấn đề tranh chấp Biển Đông thì cần bắt buộc phát triển một
loạt các cơ chế pháp lý. Mặc dù Trung Quốc hiện nay đang nằm trong tình
thế bị động, thế nhưng không gian mà Trung Quốc có thể hoạt động được
lại vô cùng lớn. Là một quốc gia lớn có trách nhiệm thì Trung Quốc cũng
nên tìm kiếm các giải pháp để quản lý và kiểm soát vấn đề tranh chấp
trên Biển Đông bắt đầu ngay từ trong bối cảnh khu vực thậm chí mở rộng
ra quốc tế. Nếu Trung Quốc không thể thay đổi đường lối tư duy truyền
thống một cách có hiệu quả thì không gian hoạt động của Trung Quốc trong
vấn đề này sẽ ngày càng bị thu hẹp nhỏ lại.
“Tổng
Bí thư ‘đặt hàng’ trí thức thực hiện hoạt động tư vấn phản biện chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, còn Thủ tướng thì khẳng định
như đinh đóng cột: ‘Tôi luôn nói các Bộ trưởng nghe trí thức phản biện.
Vắng phản biện, cạnh tranh dễ độc đoán, chuyên quyền’. Đúng là lời vàng ý
ngọc được thốt ra từ miệng các nhà lãnh đạo Quốc gia. Vậy thì, hỡi các
nhà khoa học, các chuyên gia trong mọi lĩnh vực hoạt động, còn chần chừ
gì nữa mà không chớp lấy thời cơ đóng cho trọn vai… quân xanh!”
Trang Beauxite đã kêu gọi một cách mỉa mai về lời “nói dzậy mà không phải dzậy” của chú Tổng Bí Trọng như thế!
Còn mấy ai là trí thức thứ thiệt nghe anh Trọng-người- giầu “nói dzậy mà không phải dzậy” sau vụ IDS bị bức tử?
Nhưng,
đã một tuần trôi qua… chả có ma nào có cái đóng góp, phản biện gì được
các phương tiện truyền thông của đảng độc quyền cho “ra công khai” để
dân biết mà lợi dụng… “ăn theo”! Vẫn chỉ là những ý kiến tung hê lên
mạng, dù là “kính gửi”, dù là “kiến nghị” nhiệt tình, chân thực, nhưng
số phận của những ý kiến này liệu có thoát khỏi số phận những “kính gửi”
của 61 đảng viên tên tuổi, hoặc “thư ngỏ” của những tác giả tự khai
“tôi không phải lực lượng thù địch”, hoặc “tôi… nhân danh một đảng viên
nguyện suốt đời trung thành với Đảng”.
Nhưng,
rõ ràng, lời đại vương – Bí Thơ – Đảng trưởng đã hơn một lần kết luận
các thứ góp ý của mọi đảng viên muốn “đảng chúng ta” thay đổi thật sự từ
đường lối chủ trương, đến tên nước, tên Đảng (đã sai lầm đổi tên trong
cơn “say mê chiến thắng”) để lấy lại lòng tin của nhân dân… là: “Đó
không phải là tự diễn biến hay sao”? Đó chính là lợi dụng góp ý với đảng
để nói xấu, xuyên tạc đường lối của đảng – Nhà Nước” và yêu cầu… “cần
phải xử lý”!?
Trong cái cộng đồng này ngồi nghe anh tổng-vua khuyến dụ, không còn mấy những gương mặt đáng tin cậy của anh Trọng nữa rồi
Của
đáng tội, cũng có một vài đóng góp, phản biện khá sắc sảo, khá chân
thành, thậm chí ôm lấy đảng mà góp ý như: “CƠ HỘI RẤT LỚN CHO CẢ TỔ QUỐC
VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM”
Hoặc cụ thể hơn về đối ngoại có: “KIẾN NGHỊ ĐẶC BIỆT CỦA TIẾN SỸ TRẦN CÔNG TRỤC…
Chẳng
kiến nghị, cũng chẳng kính gửi ai là những bài góp ý gián tiếp khá sắc
sảo và đầy tính thuyết phục như “CÁI CHẾT ĐƯỢC BÁO TRƯỚC của Tiến sỹ Tô
Văn Trường…”
Nhưng
vẫn chỉ là những tiếng vọng tiếp tục của IDS bị bức tử năm nào! MỌI Ý
KIẾN GÓP Ý, PHẢN BIỆN PHẢI GỬI TRỰC TIẾP CHO CÁC CƠ QUAN CÓ TRÁCH NHIỆM,
CẤM ĐƯA LÊN BÁO, LÊN MẠNG!!
Nói
trắng ra rằng: DƯỚI CHẾ ĐỘ ĐẢNG TOÀN TRỊ MÀ MẤY CHÚNG TÔI THAY MẶT
(Nhiều lắm cũng chỉ là 6/16 vị trong Bộ CT đi) chứ gần 200 “chun ươn” do
bọn tui cơ cấu chắc chắn sẽ chỉ có “Em hoàn toàn đồng ý!” thì:
GÓP Ý TỨC LÀ ĐỒNG Ý
PHẢN BIỆN TỨC LÀ….ĐỒNG THUẬN!
Làm gì ở cái thời đại rực rỡ nhất của lịch sử này mà:
Người già lên lớp được người trẻ.
Kẻ bị giật đồ lại góp ý được cho thằng ăn cướp,
Người tử tế lại khuyên nhủ được thằng du côn
Và đặc biệt, mấy cụ cộng sản cuồng tín, kiên trì lại dạy dỗ nổi năm bảy thằng vua-tư-bản-đỏ-mang-thẻ đảng CS!
Hãy
thử xem, các bậc tiền bối, ngồi tù vì chủ nghĩa Mác-Lê, chiến tích huân
chương đầy mình, khi có những ý kiến khác, khi muốn làm “cách mạng”
ngay cái đảng của mình đã nói gì và bị những hậu duệ đối xử như thế nào
để thấy rằng việc vạch trần cái trò “mị quan” của Phú (ông) Trọng của
Beauxite là khó chối cãi:
Bắt
đầu từ bậc đàn anh cộng sản Nguyễn Hộ, người đầu tiên “gút bai” cái chủ
nghĩa cộng sản bịp bợm cuả 2 lão triết ra khùng của Đức, Nga có tên là
Mác và Lê, đọc lên đã… sặc mùi giết chóc. Trong tập hồi ký “Quan điểm và
cuộc sống” ông viết:
–
“Ngày 21/3/1990 tôi rời khỏi Saigòn cũng là ngày tôi rời khỏi Đảng
CSVN. Tôi làm cách mạng đã 56 năm, gia đình tôi có 2 liệt sĩ, Nguyễn Văn
Đào, anh ruột, Đại Tá QĐNDVN, hy sinh ngày 9/1/1966 tại Củ Chi, và vợ
tôi Trần Thị Thiệt bị bắt và chết tại Tổng Nha Cảnh Sát Sài gòn vào tết
Mậu Thân 1968 nhưng phải thú nhận rằng tôi đã chọn sai lý tưởng:
Cộng Sản Chủ Nghĩa. Bởi vì suốt hơn 60 năm trên con đường cách mạng ấy
nhân dân Việt Nam đã chịu hy sinh quá lớn lao nhưng cuối cùng chẳng được
gì, đất nước vẫn nghèo nàn lạc hậu, nhân dân không có ấm no hạnh phúc,
không có dân chủ tự do. Đó là điều sỉ nhục”.
Còn
một Trung Tướng đảng viên lão thành, Trần Độ đánh Tây dẹp… Nam khi thấy
đảng của ông bất lực sai lầm, muốn cùng một vài người thay đổi toàn bộ
về mục đích, đường lối, phương châm, phương pháp… cách mạng tới mức phủ
nhận tất cả những gì ông và đảng ông đã sai lầm và cần sửa chữa. Ông
viết trong “Nhật ký rồng rắn”:
“Nói
thì ‘dân chủ, vì dân’ mà làm thì chuyên chính phát xít. Cái đặc điểm đó
cũng có nghĩa là nói dối, nói láo, lừa bịp, trò hề, ‘nói vậy mà không
phải vậy’. Suốt ngày đóng trò, cả năm đóng trò. Ở đâu cũng thấy các vai
hề, ở đâu cũng thấy các trò lừa bịp… Ôi, cay đắng thay!”
Và,
khác với Đặng Quốc Bảo, Trần xuân Bách, ông đã bị cái bọn cộng sản ở
giờ thứ 25 đối xử tệ bạc, đểu cáng, vô luật pháp, vô luân lý như thế nào
ngay cả trong giờ mọi người đến bên linh cữu của ông về thắp một nén
nhang đưa ông về nơi không có mấy anh Tây râu xồm, đầu hói mà ông đã
quyết liệt phủ nhận… Cả thế giới đều đã rõ!
Và gần đây, mở đường cho những người có chức có quyền mà tuyên bố những điều động trời ngày càng… tăng đáng ngạc nhiên.
Đầu
tiên phải kể đến những ý kiến “mở đột phá khẩu” không chút do dự, e dè
của nguyên Phó Thủ Tướng, Trung Ương Ủy Viên (hiện là Chủ tịch Hội Khoa
học Kinh tế Việt Nam): “Thật ra mà nói, chúng ta nói và chúng ta
biết là chúng ta bịp người khác! Đến tôi bây giờ, tôi cũng không biết
cái CNXH mà chúng ta sẽ đi là cái CNXH gì đây?… Ông bịp thiên hạ với cái
chữ CNXH của ông“.
Gần
đây, cái ý vạch toạc sự bịp bợm của 4 chữ chủ nghĩa xã hội mà đi đâu,
anh ba D cũng phải giấu biến đi để yêu cầu mọi nước tư bản công nhận là
nước VN có “kinh tế thị trường đầy đủ” thì ông bộ trưởng Bùi quang Vinh,
Trung Ủy cũng không ngần ngại đưa ra kết luận tung hê ngay ra trước
quác hụi: “Cái chủ nghĩa xã hội ấy có đâu mà chúng ta cứ mất công đi
tìm!”
Thôi
thì đủ các thứ tự do tư tưởng, đủ kiểu phát huy tinh thần dân chủ đóng
góp đủ kiểu vu vơ, vớ vẩn, vô vọng, vá víu, vô vị được vung vãi tí mẹt
trên nghị trường. Từ ông nhà sư đến ông tướng công an, từ ông tiến sỹ
Mác-Lê đến ông lãnh đạo Hội Nhà Báo Đảng… Tất cả đều lên tiếng góp ý cho
ra cái vẻ người thay mặt nhân dân! Có những ý kiến khá … “liều mạng”
như
1- Ông Nguyễn Xuân Tỷ (ĐBQH đoàn Bến Tre, thiếu tướng – Phó giám đốc Học viện Quốc phòng): “Làm
cán bộ mấy năm mà trong nhà có vài ba trăm tỉ đồng, thậm chí cả ngàn tỉ
đồng thì lấy ở đâu ra nếu không tham nhũng. Có một đội ngũ giàu rất
nhanh, cưỡi lên đầu nhân dân, còn kinh khủng hơn địa chủ, tư sản ngày
xưa“.
2. Ông Trần Văn Độ (ĐBQH đoàn An Giang, trung tướng – Phó Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao, Chánh án Toà án Quân sự Trung ương): “Tội
tham ô, nhận hối lộ chúng ta quy định hình phạt tử hình nhưng thực tế
không xử lý được bao nhiêu cả. Dân bảo các ông hô hào thôi chứ có làm
được đâu? Nghiêm minh tức là tham ô 4 – 5 tỷ đồng trở lên là phải tử
hình”.
Mới
hôm qua thôi, mình đọc một “kính gửi” để vạch trần cái sự vi phạm
nghiêm trọng điều lệ đảng chưa từng có của mấy anh Ban bí thư, Bộ Chính
Trị khi vạch ra những điều mất dân chủ nghiêm trọng trong “Quy chế bầu
cử, ứng cử tại Đại Hội XII của ĐCSVN” qua quyết định số 244-QĐ/TW ký tên
một nữ đảng viên (không ghi rõ tuổi đảng) nguyên phó giám đốc Sở Tư
Pháp t/p HCM, có tên Nguyễn Thu Giang. Dựa vào những điều lệ có sẵn của
đảng cộng sản, bà Giang đã vạch ra toàn bộ những điều “không được” của
quyết định để chứng minh “Đảng cộng sản mà lại tước bỏ quyền ứng cử, đề
cử của đảng viên mình thì còn là đảng cộng sản không?
Đọc
xong, mình bỗng thấy vừa thương, vừa buồn cười cho sự “ngây thơ đến…
già” của bà Thu Giang, cũng như từng bật ngửa vì… ngạc nhiên khi thấy
các vị cộng sản đã đòi… thôi chủ nghĩa cộng sản (!) Thậm chí, đổi tên
đảng nhưng vẫn giữ chặt tấm thẻ đảng để cùng đảng “thoát xác trở thành
một đảng của toàn dân”, lãnh đạo và cai trị cái “trại súc vật” này đến…
muôn đời!
Và
mình bỗng… nhớ lại mà thương cho các ông Nguyễn Mạnh Tường, Trần đức
Thảo, “tưởng Đảng thành thật” nên đã nhiệt tình góp ý cho đảng, sau sai
lầm của cải cách ruộng đất (đã được công khai thừa nhận, khóc lóc như
thật trước công chúng”)… đã bị đối xử tàn tệ như thế nào!
Mình
cũng không thể không nhớ lại, cái phong trào “góp ý bằng tác phẩm” của
Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt… (sau sai lầm chết oan hàng vạn người những
năm 53-56) … đã bị xử lý y hệt bên Tầu phát động “Trăm hoa đua nở” để
tóm cổ hết những tên trồng hoa có “mùi… tư sản”, đã bị lãnh những hậu
quả thê thảm đến mức nào!
Rồi
mình cũng lan man nghĩ ngay đến cái số phận mình, một cựu đảng viên
đảng Lao Động, một cựu sỹ quan quân đội với gần chục huân chương đủ loại
đeo đỏ ngực, một văn nghệ sỹ được trao “giải thưởng nhà nước” ngay đợt
đầu, nên cứ có dịp là phát biểu thẳng thừng, vạch mặt chỉ tên nhựng bọn
cơ hội, bất tài đang làm ô uế 3 chữ thiêng liêng CHÂN, THIỆN, MỸ ngay
khi đối diện với những ông trùm khét tiếng độc tài Sáu Thọ!
Kết quả là được mấy dòng ghi trong lý lịch như sau: “Không có tinh thần bảo vệ đảng, phát biểu mất lập trường, vô trách nhiệm, chống đối cấp ủy có…hệ thống!…” Và
để khỏi “mất cái đầu” có ngày, đầu năm 1986, mình đã tìm cách “tự nhảy
dù an toàn” (về hưu sớm) để về ở ẩn suốt bốn năm tại một vùng biển ngoại
thành Nha Trang để bắt tay … viết “Hồi Ký của một thằng hèn”. Một cách
góp ý kiến cho đám trẻ hậu sinh cách sống sót để làm nghệ thuật dưới sự
lãnh đạo của cái đảng luôn coi Chân, Thiện Mỹ đích thực là… kẻ thù của
văn nghệ vô sản! Cũng là một dịp để xám hối, tạ tội trước đồng bào những
gì mình đã, vì mạng sống, vì miếng cơm, manh áo cho vợ con mà phải làm
nghề nói dối, nói láo và nói bậy bằng cái thứ âm nhạc không son-phe!
Cứ
tưởng nhiệm vụ sám hối cuối đời hoàn thành thì cũng vừa lúc “Thất thập
cổ lai hy”, có thể thanh thản bay về Ca-li ngủ muôn năm bên cha, mẹ…nào
ngở ông Trời lại bắt sống đến hôm nay để phải hàng ngày sống với bứt
rứt, đau buồn, bực bội, tởm lợm… trước thời thế bát nháo đảo lộn
NGƯỜI-CON, CON-NGƯỜI, PHẢI-TRÁI, TỐT-XẤU, ĐÚNG-SAI, lộn nhèo một cục!
Và
trải qua gần mười năm trở thành blogger, chuyên góp ý trái chiều, phản
biện, được trải nghiệm qua thực tế đấu tranh, bị trả giá khá đắt cho sự
tự do góp ý, phát biểu, nhận xét về mọi sự tiêu cực trong hàng ngũ những
tên “ăn mày dĩ vãng” mà chưa đi đến một kết quả mong đợi nào, thú thật,
lắm lúc mình cũng muốn theo chủ nghĩa “kemeisme” nằm đợi “con bệnh ung
thư giai đoạn cuối” trút hơi thở cuối cùng. Nhưng, khốn khổ cho mình,
cái đầu của mình nó bắt trái tim mình phải vùng dậy, phải nói một cái gì
đó trước những điều tởm lợm, trí trá, bịp bợm đang cứ tiếp tục diễn ra
hàng ngày, hàng giờ trước đôi tai còn thính, đôi mắt chưa mờ của mình.
Thế là cái đầu và trái tim của mình nó lại bắt cái miệng mình phải nói,
nói những điều cực kỳ diễn biến hòa bình, cực kỳ thoái hóa, thậm chí…
cực kỳ phản động (với họ) nữa!
Và
lần này, mình lại, xin lỗi những người thân quen nhưng không chung một
tư duy về cái Đảng đang vỗ ngực là tuyệt đối trung thành với chủ nghia
Mác-Lênin này là:
1-KHÔNG THỂ NÀO GÓP Ý KIẾN, Ý CỎ GÌ CHO MỘT NHÚM NGƯỜI ĐÃ CÓ TRÁI TIM HÓA ĐÁ, BỘ NÃO ĐÃ CHAI LÌ VÌ QUYỀN LỰC VÀ LỢI LỘC
(Không phải là góp ý cho đảng, cho gần 4 triệu con người cụ thể mang thẻ đảng đâu)
2-
TẤT CẢ NHỮNG Ý KIẾN ĐÓNG GÓP, DÙ HỌ CÓ THẤY ĐÚNG THÌ HỌ CŨNG SẴN SÀNG
BỎ SỌT RÁC NẾU LÀM THEO Ý KIẾN ĐÚNG ĐÓ MÀ MẤT QUYỀN, MẤT LỢI CỦA HỌ VÀ
GIA ĐÌNH, BĂNG NHÓM LỢI ÍCH CỦA HỌ.
3-
TẤT CẢ NHỮNG Ý KIẾN HAY NHẤT VỚI CHÚNG TA SẼ LÀ NHỮNG PHÁT SÚNG BẮN
TRÚNG TIM ĐEN CỦA BỌN HỌ, NÊN HỌ SẼ PHẢI KIÊN QUYẾT TÌM CÁCH “XỬ LÝ”…
(Ít
nhất cũng là vào “sổ đen” của bộ anh Quang để có dịp thì… “ra tay”
không thương tiếc! Chẳng có “nhân quyền, nhân… cước” gì xất! Những sự
trả thù hèn hạ gần đây đối với giáo sư Nguyễn Huệ Chi, đối với tiến sỹ
Nguyễn Thanh Giang , Trương Duy Nhất, Anh Ba sàm đã chứng minh rõ ràng
không cần bàn cãi.
Cho
nên, thay vì góp ý, kiến nghị, kính gửi Blogger, Facebooker chúng ta cứ
tiếp tục vạch trần mọi vết thương thối khắm của một vài vật thể vô
hình, vô ảnh, vô lý, vô lẽ đang phân rã thảm hại trên 2 cái mảnh đất mà
chúng còn cố tình kéo dài thời kỳ nương náu… là Trung Quốc và Việt Nam
đang mở mắt dần dần…
Vì:
GÓP Ý CHO MỘT NHÓM CỘNG SẢN CỐ TÌNH MÊ MUỘI VÌ LỢI QUYỀN VÔ HẠN ĐANG
NẮM TRONG TAY THÌ CHẲNG KHÁC CHI GÓP Ý CHO MỘT ĐỐNG GỖ MỤC, GÓP Ý CHO
MỘT LŨ… NGỢM KHÔNG ÓC, KHÔNG TIM!
Tôi vẫn thường lân la đến các trụ sở Tòa án cấp huyện, cấp tỉnh, chỉ để xem lịch xét xử trong tuần, trong tháng. Mục đích của tôi là tìm một vài để tài để viết cho một tờ báo tỉnh lẻ.
Một
lần, tôi trông thấy một thanh niên. Nhìn sơ qua là biết anh đã bị viêm
màng não từ thuở nhỏ. Cặp mắt anh vô hồn, miệng mấp máy những câu vô
nghĩa và tay chân cứ động đậy vô thức. Anh ngồi trên chiếc xe lăn, do
một người đàn bà có đôi mắt ti hí đẩy đi. Hỏi người thư ký phiên tòa mới
biết. Anh là người Đài Loan, đến Tòa để tham dự phiên xét xử vụ ly hôn
giữa anh và vợ, một cô gái Việt Nam.
Tôi
thắc mắc: - Luật pháp Việt Nam đâu cho phép người tâm thần kết hôn. Hơn
nữa, đây là một vụ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, phải do Chủ tịch UBND
tỉnh ký giấy kết hôn mới hợp pháp. Vậy mà tại sao... Bà thư ký phiên
tòa lườm tôi một cái sắc lẻm để ngắt ngang câu hỏi, rồi buông ra một câu
nói rất lạnh lùng. - Chuyện đó là do cấp trên quyết, ông là nhà báo nên
giữ mồm giữ miệng.
Tôi chợt nhớ tới
câu nói của ông Thường vụ Tỉnh ủy, phụ trách Ban Tuyên Giáo: "Không phải
sự thật nào cũng viết báo". Nên tôi biết phải làm gì để không làm cho
"bầu trời chính trị ở Việt Nam không trở nên xám xịt". Nhưng tôi vẫn tò
mò vì sao họ phải ly hôn, nên bước vào phòng xử án để dự khán.
Cô
vợ tên là Mai (tôi đã đổi tên thật của cô ta, để tôn trọng vong hồn của
một người đã khuất). Số phận Mai giống như nàng Kiều của thời đại năm
2000. Nhà nghèo, Mai phải đi lấy một người chồng nước ngoài, để cho gia
đình được đổi đời. Cho dù biết rất rõ, người chồng tương lai đang sống
như một người điên dại và hoàn toàn bất lực về sinh lý. Vai trò của Mai ở
xứ người không khác gì một bảo mẫu chăm sóc người bệnh tâm thần. Tôi
nhìn Mai đang đứng gần người chồng cứ lắc lư cái đầu, hai bàn tay cà
kheo của anh ta hết giơ tên trời, rồi lại chỉ xuống đất. Hai con ngươi
trong đôi mắt vô thần mắt hết lác (lé) ra ngoài, sau đó chụm vào gần
nhau một cách tài tình đến mức người bình thường không thể nào bắt chước
được. Trong khi đó, Mai - một cô gái có thân hình nhỏ
nhắn, một gương mặt trái xoan, nước da bánh mật. Đó là vẻ đẹp "hương
đồng gió nội" của các cô gái vùng sông nước Miền Tây Nam bộ.
Hồi nhỏ, tôi vẫn thường hay nghe mẹ tôi hát ru cho em tôi ngủ: Ầu ơ... má ơi đừng gả con xa. Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu?! Còn
đối với cụ Nguyễn Du trong câu chuyện Đoạn Trường Tân Thanh, ngay từ
những câu dạo đầu cũng phải thốt lên: Lạ gì bỉ sắc tư phong Trời xanh
quen thói má hồng đánh ghen.
Nét đẹp
của Mai không qua nổi cặp mắt tinh đời của cha chồng. Ông biết rằng đứa
con tật nguyền của mình không thể nào thực hiện chức năng của người
chồng. Vì thế, ông lén lút vào phòng con dâu để không hoài của. Còn Mai
phải âm thầm chịu đựng để cứu cái gia đình túng thiếu ở quê nhà xa tít.
Một
hôm, người mẹ chồng của Mai bất ngờ vào phòng con trai và tận mắt chứng
kiến cái cảnh cha chồng nàng dâu trên giường trong tư thế không một
mảnh vải che thân. Bà đã nổi điên. Phiên tòa xử vụ ly hôn lần đó là theo
kế hoạch của bà mẹ chồng. Một là để cắt đứt mối quan hệ loạn luân của
cha chồng nàng dâu, hai là đuổi cổ con đĩ về Việt Nam mà không phải phân
chia tài sản. * * * Như thường lệ,
tôi vẫn lân la đến các trụ sở Tòa án để săn tin. Được biết tại xã X, một
xã giáp biên với Canpuchia sắp đưa ra xét xử một vụ án "Lây truyền HIV
cho người khác" theo Điều 117 của Bộ Luật hình sự. Đến nơi, tôi tá hỏa
vì người đứng trước vành móng ngựa lại là Mai.
Sau
khi ly dị chồng, cô không dám về nhà vì sợ tai tiếng. Cô đành phải lên
vùng biên giới để hành nghề bán bia ôm, kiêm luôn nghề bán dâm. Người
mua dâm thường là những người bên kia biên giới. Nghề này đôi khi cũng
túng thiếu, nên thỉnh thoảng Mai về tỉnh, vào bệnh viện để bán máu. Một
ngày kia, sau khi xét nghiệm máu, người ta đã thông báo cho Mai biết: Cô
đã bị nhiễm HIV.
Chán đời, cô sử dụng
cái vốn trời cho của mình một cách hợt, buông thả: Một chầu nhậu cũng
cho, một bát phở cũng cho, thậm chí cho không chỉ vì ông ấy có chức có
quyền ở địa phương.
Tại phiên tòa,
trong phần thẩm vấn, vị Hội thẩm nhân dân đặt ra một câu hỏi hết sức ngu
ngốc: - Tại sao bị cáo biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn có tình lây nhiễm
cho người khác, trong đó có cả đảng viên, cán bộ xã ấp?
Thế
là Mai bị tuyên án 5 năm tù. Có lẽ cô cũng không buồn vì án này vẫn còn
nhẹ so với án tử đang treo lơ lửng trên đầu cô bởi triệu chứng căn bệnh
SIDA ngày càng rõ dần. * * *
Mấy
năm sau. Tôi về Bạc Liêu và được mấy anh bạn đồng nghiệp thết đãi ở Nhà
hàng công tử Bạc Liêu. Một đám ma buồn ngang qua. Mấy ông bạn nhanh
nhảu, chứng tỏ thạo tin. - Chết vì SIDA đó! Hồi trước gia đình, giòng họ
bà này giàu lắm, địa chủ mà! Cháu ba đời của công tử Bạc Liêu. Sau giải
phóng, ông già của bà này là trung úy lính Sài Gòn, phải đi học tập cải
tạo, rồi chết trong rừng. Mấy chục mẫu ruộng bị nhà nước tịch thu trong
đợt cải tạo nông nghiệp ở Miền Nam. Thành ra, đang giàu trở thành nghèo
rớt mùng tơi. Nghe lời thiên hạ! Bả lấy một thằng khùng ở Đài Loan để
có ba ngàn đô cứu cái gia cảnh đang lâm vô cảnh bần cùng.
Tôi
chợt bán tín, bán nghi lao ra xem cái cảnh đưa đám ma. Di ảnh người
chết rõ ràng là Mai. Tôi lặng người một lát. Sau đó tôi quay vô đám nhậu
và uống nhiều đến mức mấy thằng bạn đồng nghiệp phải bái sư. * * * Tổng
Biên tập mời tôi lên phòng ông và trả lại bản thảo. Mắt ông đo đỏ, ươn
ướt: - Bài này không đăng được, anh hiểu rồi đó! Tôi vác bản thảo về nhà
để lên bàn, rồi thắp một nén hương. Đợi cho nhang tàn, tôi đốt bản thảo
và lầm thầm mấy câu: - Mai ơi! Đây chỉ là một chút lòng thành với em. Ở
suối vàng, mong em thảnh thơi. Mai mốt có đầu thai, em nên chọn những
gia đình có công với cách mạng để mà sinh ra. Còn anh, chỉ làm bổn phận
của một người cầm bút.
Một thời gian sau, tôi trả Thẻ nhà báo, trả thẻ hội viên Hội nhà báo để cho lòng được thanh thản.
Một hôm, Chế Lan Viên viết thư cho tôi bằng những
hàng này:
Trời hỡi trời! Hôm nay ta chán hết
Những sắc màu
hình ảnh của Trần Gian!
Thịt bại rồi,
nhãn quan đà lả mệt
Thú điên
cuồng ao ước vẫn khôn ngăn!
Đấy là một thi sĩ của sự Đau Thương.
Những xúc động của tâm hồn (manifestation de l’âme) ở
Chế Lan Viên đã xúi giục thi sĩ viết nên những tiếng than rền rỉ, có
thể vang động ngay đến lòng ta khi đọc nó. Tôi nhận thấy những tiếng
rền rỉ ấy cũng đã có trong người Hàn Mặc Tử, ở một bức thư mà thi sĩ
đã bàn với tôi về chuyện sắp cho xuất bản “Thơ điên”.
Nhưng hai nhà thi sĩ trẻ tuổi ấy − Hàn Mặc Tử mới
được 25, Chế Lan Viên chỉ mới có 17 − khác nhau ở chỗ: Hàn Mặc Tử ca
ngợi sự đau thương của riêng lòng mình, Chế Lan Viên ca ngợi sự đau
thương của điêu tàn, của dân Chiêm quốc nghìn xưa.
Vừa mới một năm nay, trước Ban Thờ văn học Việt Nam
chúng ta đã có thêm ba nhà thơ lẳng lặng dùng toàn những thành ngữ
táo bạo: Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu và Chế Lan Viên.
“Táo bạo” đây không phải có nghĩa là vô nghĩa như thơ
của Huy Thông hay khó chịu như những thi sĩ Parnassiens [a]
đã làm ra lối thơ khó hiểu (vers sibyllins). Cái táo bạo trong lối
dùng chữ của ba nhà thơ này vẫn làm cho người đọc hiểu ngay ý thơ
của mình bằng sự thâm trầm và kín đáo, nó làm giàu cho nền văn học
chúng ta rất nhiều. Và sau cùng, ba người ấy cũng đang đi đến bờ cõi
Triết Lý. (Một điều không ngờ là chính ba nhà thơ ấy cũng đều sinh
trưởng vào một chỗ đất Quy Nhơn, nơi đã tạo ra bao nhiêu văn sĩ, thi
sĩ hiện đang lẫy lừng
[b] trên võ đài Văn Chương).
Charles Plisnier,
[c] nhà văn sĩ đã được phần thưởng Goncourt năm vừa rồi,
có viết: “Với thơ, không ai cấm sự dùng chữ táo bạo. Và tôi có thể
bảo thêm rằng nó lại rất cần nữa…”
Điêu tàn là một áng thơ
tuyệt tác. Với nó tôi thấy tâm hồn tôi rung động một cách khoan
khoái. Đó là một cái rùng mình nhẹ nhàng của nhà du lịch đứng trước
vẻ tang thương của một công nghiệp đã hằng vĩ đại, với lòng cảm động
mến tiếc trong một sự bồi hồi. Người ta thấy rõ và nghe được trong
thơ của Chế Lan Viên những cái dẫy dụa, quằn quại, chuyển động,
những tiếng oán hờn, gào thét, khóc than, những mùi tanh hôi của máu
trào và tuỷ chảy ở vạn cô hồn mất nước đang quờ quạng, rền rỉ để dìu
dắt nhau đi giữa một bãi tha trường. Đọc thơ Chế Lan Viên ta có cái
cảm giác ghê rợn như đang đọc bài Văn chiêu hồn của nhà đại
thi hào Nguyễn Du trong một đêm trăng mờ ở một làng hẻo lánh.
Hồn ma ơi! Trong những đêm u tối
Mi tung mây
về chân trời vòi vọi
Hãy mau
nghiêng cánh lại ở bên mồ
Phủ lòng ta
say đắm chút hương mơ!
Ta hãy nghe
trong mồ sâu lạnh lẽo
Tiếng thịt
người nảy nở tiếng xương rên
Ta hãy nghe
mơ màng trong cỏ héo
Tiếng cô hồn
lặng thở khí giời đêm
Cũng như Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên chỉ thích sống với
Ban Đêm, một Ban Đêm ghê rợn. Ban Đêm của Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên
là cái ban đêm của Baudelaire, Mallarmé, Edgar Poe, Shakespeare. Nó
chẳng mơ màng và huyền diệu cho đôi tình nhân ích kỷ. Những Trăng,
Sao, Bóng Tối, Làn Gió Thoảng, nói chung lại là “Nàng Thơ” của nó,
cũng khác luôn cả những trăng, sao, bóng tối, làn gió thoảng và nàng
thơ của các thi sĩ ly tao. Những cảm giác gì, những âm thanh gì,
những sự vật gì ghê rợn, hãi hùng và bí mật, đều tụ họp lại trong
cái Ban Đêm của họ, của Chế Lan Viên:
Mây chắp lụa dài vây núi biếc
Sương xây mồ
bạc dấu trăng vàng
Thuyền ai dỡn
nước sông Ngân ấy
Mà để sao sa
xuống cõi trần
Phải hay
chăng đêm qua khi thuyền mộng
Của Nàng
Trăng vào đến bến mây xa
Một cô hồn về
đây theo gió lộng
Trên mộ tàn
tìm lại dấu ngày qua?
Điêu tàn là một áng thơ
tuyệt tác của tủ sách Việt Nam.
Tôi đã thành một người dân Chiêm quốc để khóc than,
kêu gào, rền rĩ, khi thấy người ta kể lại một thời vẻ vang nghìn xưa
oanh liệt: lúc đọc Điêu tàn.
Tôi cũng đã đọc nó với một sự Buồn não nuột, một sự
Chán ê chề…
Nhưng những Buồn Phiền não nuột ấy, những Chán Nản ê
chề ấy, tôi lại tìm thấy nó ở trong sự say sưa và mê mẩn.
● Nguồn: Tràng an báo, Huế, số 299, 1er
Mai 1938.
GHI CHÚ (của Lại Nguyên Ân, người sưu tầm)
[a] “những thi sĩ
Parnassiens”: ý nói các nhà thơ Pháp thuộc nhóm “Parnasse” (tên gọi
này được xác lập sau việc xuất bản các tập sách mang nhan đề
“Parnasse hiện thời” vào các năm 1866, 1871, 1876) gồm: Théodore
de Banville (1823-91), Sully Prudhome (1839-1907), François Coppé
(1842-1908), Léon Dierx (1838-1912), Jean Lahor (1840-1909), J.-M.
de Heredia (1842-1905); nhóm này hướng theo các nguyên tắc thẩm mỹ
(“nghệ thuật vị nghệ thuật”) của Théophile Gautier (1811-72); một
thủ lĩnh khác của nhóm là Leconte de Lisle (1818-94).
[b] chỗ này báo gốc là
“lay lừng”, ngờ là in sai, ở đây sửa là “lẫy lừng”.
[c] Charles
Plisnier (1896-1952): nhà báo, nhà văn, nhà thơ Bỉ, đạt giải thưởng
Goncourt năm 1937 với tác phẩm Faux
passeports.
TẠI
SAO VŨ-HOÀNG-CHƯƠNG BỊ VC BẮT VÀO TÙ KHÁM LỚN?
Phạm-công Bạch, CVA 57
Đã là cựu học sinh Chu-văn-An, ai không biết thi sĩ Vũ-hoàng-Chương là
một vị giáo-sư Việt Văn rất đáng mến. Quả thật vậy, trong cuộc đời thi
sĩ, Ông đã từng xuất bản cả chục tập thơ và kịch thơ , cũng như trong
nghề dạy học, ai đã từng là học trò Ông thảy đều thương kính, coi Ông
như một vị giáo sư có đầy đủ tác phong về đạo đức và sư phạm. Hơn thế
nữa, hãy xem nhà văn Song-Thao (cũng là một cựu học sinh Chu-văn-An) mô
tả Ông trong tập truyện “Chốn cũ” vừa xuất bản:
“Thầy đi quanh lớp bằng những bước chân nhẹ nhàng, đầu nghểnh cao, mắt
xa vắng, giảng bài bằng cái giọng nhừa nhựa thanh thanh. Có những lúc
mắt thầy như nhắm hẳn lại, đầu lắc lắc từng chặp. Những lúc đó thầy như
thoát hồn bay về một trời thơ nào đó. Thầy say thơ. Thầy ngâm thơ như
một người đồng thiếp. Như không còn thầy. Như không có trò. Như không
phải là một lớp học. Chỉ có một cõi thơ lồng lộng bát ngát. Chúng tôi
cũng thấm thơ. Vô cùng nồng nàn là những dòng thơ đất Việt. Chỉ có tiếng
chuông báo hết giờ học mới có thể kéo thầy trò ra khỏi cơn mê văn
chương…”
Làm thơ đã hay, dạy học thì say mê như thế, Vũ-hoàng-Chương không hề làm
chính trị. Hồi toàn quốc kháng chiến năm 1946, Ông cũng chỉ tản cư
khỏi thành phố một thời gian rồi lại hồi cư, chứ không ra bưng. Từ năm
1954 khi di cư vào Saigon, Ông cũng không tham gia một đảng phái nào.
Thế nhưng cuộc đổi đời ” tháng tư đen” đã đưa Ông vào tù và chỉ được
tha về khi kiệt lực gần chết. Chúng ta thử tìm hiểu nguyên do nào đã đưa
Ông vào vòng lao lý gần một năm trời. Với thân hình gầy còm và “ả phù
dung” dằn vặt làm sao Ông sống nổi. Kể ra cũng có nhiều lý do xa gần.
Bài thơ hoạt cảnh Tết Con Rồng.
Miền nam ViệtNam bị mất về tay cộng sản tháng tư năm 75 thuộc năm Mão.
Cuộc đổi đời đã gây ra nhiều cảnh éo le cả về hoàn cảnh xã hội lẫn nhân
tình thế thái. Vũ-hoàng-Chương bị kẹt lại và Ông đã mắt thấy tai nghe và
ngay cả chính Ông cũng là nạn nhân của sự thế . Cuối năm bước sang năm
Thìn là tết con rồng, Ông đã làm một bài thơ tức cảnh như sau:
Vịnh tranh gà lợn
Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành, Gà lợn om sòm rối bức tranh. Rằng vách có tai, thơ có hoạ Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh. Mắt gà huynh đệ bao lần quáng Lòng lợn âm dương một tấc thành. Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh.
Đây đích thực là hoạt cảnh của miền Nam sau mấy tháng về tay chủ mới:
Chính quyền tiếp thu vào tay cộng sản chưa hoàn toàn kiểm soát được xã
hội vốn vẫn thoải mái trong nếp sống từ bao năm qua. Dân chúng vẫn hoài
nghi cách mạng cho nên tình thế chưa thấy gì làm sáng sủa. Mặt khác đa
số người thuộc chế độ cũ không tin miền Nam có thể dễ dàng rơi vào tay
cộng sản như vậy nên thầm kín trong lòng vẫn ước mong lật ngược thế cờ
khỏi cảnh tối tăm hiện tại.
Với bối cảnh xã hội như vậy, kẻ hồ hởi, người âm thầm cho nên nẩy sinh
ra lắm vẻ, biết ai là ai bây giờ. Bức tranh xã hội thật là rắm rối. Cộng
sản đi đến đâu thì mạng lưới công an rình rập nhòm ngó tới đó. Kẻ thân
trong nhà cũng còn nghe lén để báo cáo lập công thì còn biết tin ai bây
giờ. Cho nên nhìn bề ngoài đố biết lòng dạ ai thế nào.
Ngay như chính tác giả cũng đã là nạn nhân của lòng người đổi trắng thay
đen. Số là Vũ-hoàng-Chương và gia đình đã từ lâu vẫn ở nhờ trên căn gác
nhỏ trong biệt thự của bà Mộng-Tuyết (phu-nhân thi sĩ Đông-Hồ), Ông đã
từng đặt tên đây là “gác mây” để Ông bạn với “ nàng thơ” và “nàng tiên
nâu”. Thế nhưng từ khi có cán bộ từ ngoài bắc vào, Bà Mộng-Tuyết thì hồ
hởi tiếp đón, còn Vũ-hoàng-Chương thì lặng lờ như không Cho nên Bà muốn
đỡ phiền lụy sau này đã ngỏ ý muốn Ông dời nhà đi ở chỗ khác. Chính vì
vậy mà thi sĩ họ Vũ đã phải dời sang Khánh hội ở nhờ nhà em vợ là thi sĩ
Đinh-Hùng. Ôi tình nghiã bao năm như vậy mà chỉ vì một chút “quáng” đã
làm cho huynh đệ ly tan ! Riêng đối với Ông, con người còn tình người,
chân thật và chất phác thì vẫn “một tấc thành” không a dua xu nịnh với
ai.
Bây giờ xuân và tết đến, thôi hãy quên hết moi sự mà nghe khúc tân thanh
của năm con rồng. Theo tôi, ý giả của câu cuối bài thơ này là như vậy;
nhưng nghĩ kỹ hơn,nếu chúng ta ở Saigon trong thời điểm đó thì “khúc tân
thanh” ở đây chính là những loa tuyên truyền ra rả sáng chiều mà cộng
sản đặt ở khắp phường phố. Cũng có thể nghĩ xa hơn, khúc tân thanh chỉ
là sự rút gọn của “khúc Đoạn trường tân thanh” mà từ nay còn phải ngâm
mãi. Với một bài thơ xuân như thế được phổ biến ra ngoài, thi sĩ
Vũ-hoàng-Chương tránh sao khỏi bị bắt vì tội phản động. Nhưng chưa hẳn
như vậy.
Món quà chiêu dụ bất thành .
Hãy trở lại vài chục năm về trước, chúng ta được biết thi sĩ Vũ sinh năm
1916. Hai chục năm sau vào thời điểm thi sĩ trưởng thành thì phong trào
thi ca lãng mạn nở rộ do ảnh hưởng của văn chương Pháp. Cùng thời với
Vũ-hoàng-Chương còn có rất nhiều văn nhân thi sĩ khác cùng nổi tiếng
trên văn thi đàn, trong đó có Huy-Cận (tên thật là Cù-huy-Cận) sinh năm
1919. Huy-Cận cũng là một nhà thơ nổi tiếng, điển hình là bài “Ngậm
ngùi” đã được phổ nhạc mà chúng ta thường nghe. Huy-Cận kém
Vũ-hoàng-Chương ba tuổi và xuất bản tập thơ đầu “Lửa Thiêng” sau khi
Vũ-hoàng-Chương đã có thi tập “Thơ say” và “Mây” đang sắp phát hành. Vì
thế Huy-Cận coi thisĩ Vũ như anh.
Hai người cũng chơi với nhau khá thân. Một hôm Huy-Cận bất ngờ gặp
Vũ-hoàng-Chương và rủ Ông đi ăn phở. Vì mới ra tập thơ đầu lại cũng có ý
thân mật so sánh nên Huy-Cận nửa đùa nửa thật vỗ vai Vũ-hoàng-Chương
nói rằng:
Vũ-hoàng-Chương cũng hơi khựng một chút, nhưng vui vẻ đáp ngay:
‘ Mây’ kia chẳng chịu xuống trần Lửa ơi theo khói lên gần với ‘Mây’.
Hai người đối đáp với nhau như thế, vừa có ý kiêu ngạo, vừa có ý thân
thiện, thật xứng đôi. Rồi thời gian trôi qua, năm 1946 Huy-Cận ra bưng
theo kháng chiến dùng thi tài của mình để phục vụ bác và đảng, được sủng
ái nên đã có thời leo lên đến chức Thứ trưởng bộ Văn hóa.
Vũ-hoàng-Chương thì chạy tản cư, cũng có làm một số bài thơ ái quốc,
nhưng sau đó hồi cư về lại Hanoi rồi di cư vào Saigon theo hiệp định
Genève năm 1954, vẫn tiếp tục nghiệp thơ và sinh sống bằng nghề dạy học.
Vật đổi sao dời, năm 1975 miền nam bị bỏ rơi và cộng sản thắng đại cái
“đại thắng muà xuân”.Và hai thi nhân lại có dịp gặp nhau trong hoàn cảnh
éo le quốc cộng. Huy-Cận được cử vào Saigon cùng với một phái đoàn với
mục đích thăm dò và chiêu dụ các văn nghệ sĩ miền Nam.
Dĩ nhiên người mà Huy-Cận muốn gặp đầu tiên là Vũ-hoàng-Chương cũng vì
tình bạn cũ và cũng nghĩ rằng nếu chiêu dụ được Vũ theo cách mạng thì
mình lập được công lớn. Vì vậy Huy-Cận đã sửa soạn cuộc thăm viếng rất
trọng thể. Lễ vật đến thăm Vũ-hoàng-Chương gồm một chai rượu quí, một lọ
đầy thuốc phiện và cũng không quên mang theo một bức hình Hồ chí Minh.
Rượu và thuốc thì để biếu bạn, còn bức hình thì Huy-Cận ước mong sẽ được
Vũ-hoàng-Chương đề tặng cho mấy vần ca ngợi để có bằng chứng báo cáo
lấy công đầu.
Cuộc gặp gỡ diễn ra tốt đẹp sau bao năm xa cách. Vũ-hoàng-Chương đón
Huy-Cận như một bạn cố tri nồng nàn vui vẻ. Sau khi Huy-Cận ngỏ ý muốn
Vũ đề thơ thì Ông trầm mặc không nói gì. Huy-Cận khi ra về có hẹn ba
ngày sau sẽ cho người đến xin lại bức hình, Vũ-hoàng-Chương cũng chỉ ậm ừ
tiễn bạn.
Đúng ba ngày sau khi nhân viên của Huy-Cận tới thì thấy trên bàn vẫn còn
y nguyên hai món lễ vật và bức hình, Vũ-hoàng-Chương không hề đụng tới
mặc dù rượu với thuốc phiện đối với Ông là rất quí hiếm. Còn bức hình
thì vẫn chỉ là bức hình như khi đem tới,không một nét chữ đề. Được báo
cáo lại, dĩ nhiên là Huy-Cận tím mặt. Nhưng Ông biết tính họ Vũ là ngưòi
không dễ lung lạc nên cũng đành thôi.
Vũ-hoàng-Chương, ông qủa là một người có khí phách. Ông có một cơ hội an
thân nhưng Ông đã không làm, chỉ vì tấm lòng Ông “một tấc thành” nên
Ông phải giữ tiết tháo không a dua theo thời cuộc. Thế là lại có thêm
một cái ‘họa’. Nhưng như thế vẫn chưa hết.
Chê thơ Tố-Hữu và dạy cộng sản cách làm thơ.
Theo một bài đăng trên “net” của tác giả Sông-Lô viết về
Vũ-hoàng-Chương nhận xét thơ Tố-Hữu, được biết phái đoàn từ bắc vô nam
cùng với Huy-Cận như đã nói ở đoạn trên còn có nhiều nhân vật sáng giá
khác như Tố-Hữu, Hoài-Thanh, Xuân-Diệu, Vũ-đình-Liên…. Phái đoàn được
ký giả nằm vùng Thanh-Nghị tiếp đón và tổ chức một đêm”họp mặt văn nghệ”
với các nhân vật gạo cội miền Nam để cùng đánh giá văn hoá hai miền ngõ
hầu thống nhất tư tưởng về một mối. Buổi họp này Vũ-hoàng-Chương đã
được mời và có tham dự. Đề tài được đưa ra là mấy câu thơ của Tố-Hữu đã
làm để khóc Stalin khi ông trùm đỏ Nga-sô này chết vào năm 1953. Hai
câu thơ đã gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp cùng đầy đủ tiếng khen chê
đối với tên trùm văn nghệ cộng sản này là câu:
Thanh-Nghị với tư cách nằm vùng theo cộng sản từ lâu, coi như đại diện
miền nam, dĩ nhiên ca ngợi thơ Tố-Hữu hết mình. Rồi lần lượt đến
Xuân-Diệu, Huy-Cận, Vũ-đình-Liên từ ngoài bắc vào lên diễn đàn thì khỏi
nói. Cũng cần có một tiếng nói miền nam cho xôm tụ, cho nên Hoài-Thanh
khẩn khoản mời Vũ-hoàng-Chương lên phát biểu với dụng ý là họ Vũ, một
thi bá đương thời, nhưng vốn người trầm mặc hiền hoà chắc cũng chỉ vuốt
theo mà không nói điều gì nghịch ý. Xin trích nguyên văn sau đây một
đoạn của Sông-Lô:
“Ai đã biết Vũ-hoàng-Chương ắt phải biết cái đanh thép bên trong tấm
thân nhỏ bé ọp ẹp của ông. Đôi ba lần tạ từ không được, đành nhảy vào
ưỡn ngực “ hò kéo pháo”, nhưng trước khi vào cuộc họ Vũ đã yêu cầu cử
tọa thông cảm nếu có chỗ nào thất thố vì ông sợ rằng những gì ông muốn
trình bày sẽ làm tổn thương cái ‘sáng giá’ của đêm họp ‘văn nghệ đặc
biệt’ này, bởi vì ‘tất tần tật’ đã thẩm định rồi.”
Sau đây là lời của Vũ-hoàng-Chương;
“Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm
cảnh của mình, để hồn trí phản ứng theo thất tình con người mà vận dụng
thi tứ phổ diễn nên lời một tình tự nào đó, rồi đãi lọc thành thơ. Sự
vận dụng càng xuất thần, việc phổ diễn càng khẩu chiếm, thơ càng có giá
trị cao. Cảm xúc trước cái chết của một thần tượng
được ‘đóng khung’ tự bao giờ trong tâm cảnh mình, Tố-Hữu đã xuất thần
vận dụng nỗi u hoài, phổ diễn nên những lời thơ thật khẩu chiếm, rồi
dùng những từ thật tầm thường, ít thi tính, đãi lọc nỗi u hoài của mình
thành một tiếng nấc rất tự nhiên, đạt đến một mức độ điêu luyện cao. Lời
thẩm định của Thanh-Nghị thật xác đáng,tôi chịu. Nhưng thơ không phải
chỉ có thế.Xuất thần khẩu chiếm thuộc phạm vi kỹ thuật, dù đã có thi
hứng phần nào, và nếu chỉ có thế thì thơ chỉ có khéo mà thôi, chưa gọi
là đạt; tức chưa phải là hay. Thơ hay cần phải khéo như thế vừa phải đạt
thật sự. Thi hứng nằm trong sự thực của tình tự phổ diễn nên lời. Tình
tự mà không thực, lời thơ thành gượng ép. Vấn đề của thơ,nói cho đến
nơi, là ở đây, có nghiã là thơ phải thực. Tố-Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào
miệng một bà mẹ Việtnam, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy
con trẻ Việtnam yêu cụ Stalin thay cho mình. Cũng chẳng sao vì đó cũng
là một kỹ thuật của thi ca; nhưng trước hết phải biết bà mẹ Việtnam có
cùng tâm cảnh với mình không, có chung một mối cảm xúc hay không? Tôi biết chắc là không. Bởi trong đoạn trên
của hai câu lục bát này trong bài ‘Đời đời nhớ Ông’ Tố-Hữu đã đặt vào
lời bà mẹ hai câu:
“Yêu biết mấy nghe con tập nói Tiếng đầu lòng con gọi Stalin “
Chắc chắn là không có một bà mẹ Việtnam
nào, kể cả Bà Tố-Hữu, mà thốt được những lời như vậy một cách chân
thành. Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực hai câu sau
ta đang mổ xẻ. Một tình tự không chân thực, dù đươc luồn
vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ
đẹp,thơ hay, mà chỉ là thơ khéo làm; đó chỉ là thơ thợ chứ không phải
là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng quen
làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là nếu có đòi hỏi một tuyên truyền
nào đó. Tố-Hữu nếu khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một mình. Nhưng bà
mẹ Việtnam trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền
cảm“. Vẫn theo lời kể của Sông-Lô thì lời thẩm
định này đã gây sôi nổi trong đám thính giả có mặt hôm đó. Muốn phản bác
luận điệu của Vũ-hoàng-Chương, có người đã yêu cầu Ông nói về thơ để
hòng bắt bẻ này nọ, nhưng Ông vẫn ôn tồn phát biểu: “Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách
rời thực tế, nhưng mộng trên những tình tự thực. Không chấp nhận loại
thơ tình tự hoang. Có khoa học giả tưởng, không có thơ giả tưởng. Nói
thơ là nói đến thế giới huyễn tưởng, huyễn tưởng trên sự thực để thăng
hoa sự thực, chứ không bất chấp, không chối bỏ sự thực. Nhà thơ không
được láo; nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự thực thành mộng để đưa
hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến chân lý cuộc
sống. Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy. “Tôi xin nhắc ; sự thực muôn đời là cơ sở
duy nhất của thi ca; vì có sự thực cho riêng một người, có sự thực cho
riêng một thời, nhưng vẫn có sự thực cho muôn đời, sự thực bao quát
không gian,thời gian, chân lý cuộc sống.”
Sau đêm hôm ấy, hình như có một buổi họp khẩn cấp của các “nhân vật then
chốt” cộng sản, và Vũ-hoàng-Chương đã bị bắt. Như vậy cái tội phản
động của thi sĩ họ Vũ không phải là một mà có đến ba : bắt đầu từ bài
thơ thời sự , kế đến không nể nang tình bạn và sau cùng là đã dạy khôn
cho kẻ đang thắng thế. Theo Sông-Lô thì Vũ-hoàng-Chương không phải là
người dại, cũng không phải người can đảm mà Ông chính là người của tự do
không phải quị lụy trước bất cứ một áp lực nào.
Niềm hãnh diện cuối đời : Thủ-tướng bưng bô.
Vũ-hoàng-Chương bị bắt vào khám Chí hòa, giam chung cùng một số nhà trí
thức khác. Với thân hình gầy yếu sẵn có, phải ăn cơm tù đạm bạc lại thêm
thiếu thuốc phiện thì làm sao mà Ông chịu nổi. Có thể nói bao nhiêu
ngày trong tù, Ông đau yếu cả bấy nhiêu ngày. Sức lực Ông kiệt quệ dần
dần, đã có lúc phải nằm liệt giường. Chính quyền “giải phóng” biết Ông
không còn sống nổi bao lâu, nên sau thời gian giam giữ đã quyết định thả
Ông về để tránh tiếng Ông bị bức tử trong tù. Về nhà gặp lại vợ con, dĩ
nhiên là Ông mừng rỡ, nhưng trong đáy lòng hình như Ông có điều gì thỏa
mãn vì tuy nằm bẹp trên giường Ông không có vẻ sầu héo bi lụy của một
người gần đất xa trời. Một hôm Ông thố lộ là ở trong tù Ông có phần
thích thú vì đã được Thủ-tướng bưng bô vệ sinh cho mình. Mãi sau người
nhà Ông mới biết bị giam chung cùng với Ông là Bác sĩ Phan-huy-Quát. Bác
sĩ Quát đã có thời làm Thủ-tướng chính phủ dân sự do Cụ Phan-khắc-Sửu
là Quốc trưởng. Vì mến thương Vũ-hoàng-Chương và vì lương tâm của người y
sĩ, trong thời gian bị giam chung, Bác sĩ Quát đã tận tình chăm sóc cho
nhà thi sĩ bất hạnh đau yếu, và không ngần ngại giúp đỡ cả việc vệ sinh
hàng ngày. Đó là niềm vui cuối cùng của thi sĩ họ Vũ trước khi Ông lìa
đời ngày 6 tháng 9 năm 1976.
No comments:
Post a Comment