Friday, May 2, 2014
ALAN PHAN * THÁNG TƯ ĐEN
0-04-2014
Tháng Tư Đen và Đỏ
Alan Phan
26 April 2014
Tôi về lại Nam Cali tuần rồi. Chạy qua con đường Bolsa ở Little
Saigon để đến tiệm phở với vài người bạn Mỹ, ai cũng trố mắt nhìn cờ xí
bay ngập trời (dĩ nhiên là cờ vàng 3 sọc đỏ) và dọc vỉa hè là những
triển lãm hình ảnh về tội ác của “bên thắng cuộc”.
Tôi chắc chắn rằng
cách đây nửa vòng trái đất, tại Saigon và các thành phố lớn của Việt
Nam, một hình ảnh ngược lại đang ngự trị: đại lễ ăn mừng chiến thắng mùa
xuân, cờ đỏ sao vàng ngập phố hẽm và trên TV, những tội ác của Mỹ Ngụy
được phát sóng hàng giờ cùng những bài diễn văn ca ngợi đảng quang vinh.
Hai thái cực này không nói lên điều gì ngoài việc cuộc chiến Bắc Nam
vẫn âm thầm tiếp tục sau 39 năm. Chỉ có một khác biệt là cả 2 phe đều
muốn kéo Mỹ về phía mình. Và trong khi miền Bắc học được vài ba bài học
về chuyện anh em với xứ của 16 chữ vàng (xem hồi ký của Krushchev trên
trang này); dân miền Nam cũng biết rõ hơn về “cam kết” của ông đồng minh
gọi là tư bản Mỹ.
Những bài học quá đắt cho hơn 3 triệu sinh mạng và cả chục triệu mảnh
đời tan nát vì chiến tranh “proxy” của các cường quốc. Những chính trị
gia và gia đình thì dĩ nhiên hưởng lợi trong mọi tình thế, dù phục vụ
ông chủ nào, dưới bất cứ hình thức nào. Trong khi đó, xứ sở bị tụt hậu
khoảng 80 năm so với các nước láng giềng, và thu nhập của người dân tụt
xuống gần cuối bảng của Á Châu. Niềm hãnh diện duy nhất của Việt Nam
hiện nay là thuộc hàng top ten trên thế giới về lượng tiêu thụ bia rượu
và thuốc lá nhiều nhất cho mỗi đầu người.
Độc lập, tự do, hạnh phúc chỉ hiện hữu trên giấy tờ, biểu ngữ… và
dành cho vài phần trăm dân số. Đại đa số người dân âm thầm chịu đựng,
trong thời chiến cũng như thời bình, an phận làm những con tốt thí trong
một bàn cờ họ không quan tâm và không hiểu nổi. Tệ nhất là một nền văn
hóa giáo dục xuống cấp trầm trọng, ngay cà các lãnh đạo cấp cao của đảng
CS cũng phải thừa nhận.
Và cứ thế 39 năm trôi qua, và có lẽ 39 năm sắp tới cũng sẽ sao y nếu
không có một hay hai “con thiên nga đen” nào. Tháng 4 sẽ vẫn “đen” dù
“đỏ”.
Thực sự cá nhân tôi thì đã quên biến cố dâu biển ngày 30/4/1975 ngay
vài ngày sau đó. Nặng gánh vợ con, tôi phải tíu tít đi kiếm việc làm để
gia đình sinh tồn tại một xứ Mỹ bận rộn vì cạnh tranh. Tôi không có cái
luxury để phân tích chính trị lịch sử hay dự đoán về tình hình kinh tế
xã hội của một quê hương đã bỏ lại ngàn dặm. Nhưng sau vài năm ổn định
cuộc sống vật chất, tôi lại phải đối mặt với bao nhiêu nhắc nhở từ một
quá khứ mà mình nghĩ đã an táng dưới mộ sâu. Nào chuyện bạn bè bà con
vượt biển đang nằm ở Mã Lai, Phi…chờ bảo lãnh; nào chuyện người trong
nước viết thơ hàng ngày xin cứu trợ; nào chuyện các tổ chức thiện nguyện
cần người làm trong những ngày nghỉ để hổ trợ cho người mới đến….
Trên hết, chuyện Việt Nam vẫn chiếm những cột báo ngay trang đầu: lần
này thì chuyện thuyền nhân, chuyện chiến tranh với Trung Quốc, với
Kampuchia, chuyện các tay phản chiến ngày xưa phản tỉnh như Joan Baez,
J.P. Sartre, Trương Như Tảng…Không ai để cho tôi quên “ngày xưa”; nhất
là những cuộc biểu tình rầm rộ khắp thế giới của 2 bên “thua’ và “thắng”
vào mỗi tháng tư.
Sau đó, tôi có dịp quay về Á Châu làm ăn; do đó, thường xuyên về Việt
Nam để “ăn chơi” (xin thú thật) và bù khú với các bạn mới cũ hiện rất
rảnh rang. Không tính làm ăn gì, nhưng tôi vẫn bị quê hương lôi kéo. Sau
khi mất vài ba triệu đô trong lần tháo chạy năm 1975, tôi lại mất thêm
vài triệu đô vào những đầu tư mới từ 2007. Tuy nhiên, tiền là “chuyện
nhỏ”; và tôi không có một mất mát gì về “nợ máu” của cả 2 bên. Cho nên,
tôi không có lý do gì để thù hận hay oán ghét ai, và cũng không có nhu
cầu ganh tị vì nghĩ cá nhân mình đã quá may mắn trong cuộc chơi “đen đỏ”
này.
Tôi chỉ biết nhìn với cặp mắt buồn rầu về một quê hương và dân tộc có
đầy đủ điều kiện để “hóa rồng” nhưng chỉ vì vài lựa chọn sai lầm, biến
thành con giun đất. Và nếu thái độ của mọi người vẫn thể hiện như đang
thể hiện ngày 30/4 mỗi năm, thì tương lai con cháu trên quê hương này
vẫn “đen” dù “đỏ”.
Tôi tin là con người sáng tạo ra định mệnh của mình qua tư duy, lựa
chọn, hành động và thói quen. Nhưng mỗi năm vào tháng 4, tôi vẫn buột
miệng theo bạn bè “cái đất nước mình nó thế”.
Tôi có một người anh bà con xa, lớn tuổi hơn làm bác sĩ tại Saigon
trước 1975. Qua đây tị nạn, anh cố gắng đi học lại và sau 5 năm nghèo
khó, thi đậu bằng bác sĩ Mỹ và hành nghề lại ở Cali. Anh thành công và
tạo cho gia đình một cuộc sống khá sung túc. Nhưng chỉ được vài năm,
thằng con trai đầu mới vừa 18 tuổi, nghe lời bạn học khích bác, nổi giận
và đâm chết một tình địch. Nằm tù 16 năm, thằng bé ra tù và suy sụp
hoàn toàn với ma túy và bạo lực.
Trong khi đó, 4 em còn lại, ai cũng thành tài vẻ vang với cách giáo
huấn đầy đạo đức của một gia đình tử tế. Tuy nhiên, anh nói mỗi ngày hai
vợ chồng vẫn lưng tròng nước mắt và tan nát tim đau khi nghĩ đến đứa
con đầu bị “tai nạn”. Mỗi lần anh chị khóc, tôi chỉ biết ngồi im và buồn
rầu nhìn thảm cảnh. Và chợt nhớ lại quê hương ngàn dặm…
Có lẽ vì đại đa số người dân nơi đó vẫn chỉ là những “kẻ thua cuộc” hay những người gặp “tai nạn”?
LÊ XUÂN NHUẬN * NGƯỜI BẠN ĐỒNG-MINH
NGƯỜI
BẠN ĐỒNG-MINH &
TÒA
TỔNG-LÃNH-SỰ HOA-KỲ
VÙNG I
TRONG
suốt thời-gian từ Hiệp-Ðịnh Geneva 1954 đến
Hiệp-Ðịnh Paris 1973, nhất là từ 1962 đến
1975, đã có khoảng vài chục người Mỹ làm
Cố-Vấn (Phối-Trí-Viên, rồi Người Bạn
Đồng-Minh) cho tôi: đa-số họ là viên-chức cơ-quan
Tình-Báo TrungƯơng Hoa-Kỳ (CIA). Mỗi người
đều có những đặc-điểm nào đó,
phần lớn là tốt, về mặt công-tác chung
hoặc về mặt quan-hệ hợp-tác giữa hai bên.
Tôi biết rằng đa-số viên-chức tình-báo
Mỹ đều mang tên giả; nhưng, người nào
đã có một vai trò, một chỗ đứng, thì
đều cần có một cái tên, để phân-biệt
kẻ khác với mình.
Tuy nhiên, người đã đẩy tôi vào một
cuộc chiến-đấu gay-gắt, cùng một lúc
với cả ba kẻ thù theo nguyên-tắc tình-báo―đối-phương,
công-chúng, và đồng-nghiệp―lại
là một trong các Người Bạn Ðồng-Minh
hậu-chiến của tôi, trong một năm rưỡi tôi
được Trung-Ương đưa trở về
Miền Trung, cũng là giai-đoạn lịch-sử
cuối-cùng của Việt-Nam Cộng-Hòa. Dù sao, anh
bạn này cũng đã ghi lại một dấu ấn sâu-đậm
trong trí nhớ của tôi.
Người đó là Kenneth D. Ferguson.
*
Sau khi đã
trắc-nghiệm cả về mặt liên-hệ gia-đình
với cộng-sản* (Xem
bài “Thiếu-Tướng Nguyễn
Khắc Bình)
lẫn
về mặt công-tác tình-báo chuyên-môn, cũng như chính
tôi tự chứng-tỏ kiến-thức, năng-lực,
kinh-nghiệm và sáng-kiến của mình, Tòa Tổng-Lãnh-Sự
Hoa-Kỳ và Người Bạn Đồng-Minh tại Vùng
I đã hoàn-toàn tin-tưởng và triệt-để
yểm-trợ tôi.
Ngoài những đóng-góp
hữu-hiệu trong công-cuộc chống-Cộng và Bình-Định
& Phát-Triển chung, tôi đã giúp họ một tay trong
việc dễ-dàng-hóa hoạt-động và cả
bảo-vệ uy-tín cho chính họ.
Từ năm 1974 qua đến
tháng 3-1975, giai-đoạn cuối-cùng
của
Việt-Nam Cộng-Hòa, có nhiều tổ-chức tư-nhân
Hoa-Kỳ,
tôn-giáo và xã-hội, đã đến Miền Trung, đặc-biệt
là Đà-Nẵng, trực-tiếp giúp-đỡ người
dân địa-phương, từ các Tỉnh khác trốn
chạy cộng-sản di-tản đến. Nổi bật
trong các nỗ-lực ấy là Chương-Trình “Áo
Xanh”,
tuyển-dụng người thất-nghiệp đi
hốt rác, vét mương, sơn tường, trồng cây,
v.v... tức là tạo ra việc làm, dù không
cấp-thiết, để trả lương cho họ
sống; cũng như phân-phát miễn-phí áo-quần,
dụng-cụ, thuốc-men và thực-phẩm định-kỳ
cho các gia-đình túng nghèo.
Đương-nhiên Mỹ
phải nhờ đến trung-gian là người Việt-Nam,
nên sinh ra lạm-dụng, bè-phái, bất-công, bất-bình.
Có lần
một nhóm cực-đoan đã tổ-chức một
cuộc xuống-đường lớn, đông nghẹt
trước cổng Tòa Tổng-Lãnh-Sự Hoa-Kỳ,
vừa công-kích gắt-gao vừa đưa yêu-sách này kia.
Nhờ tôi biết trước nên một mặt
chỉ-thị cho Đặc-Cảnh Đà-Nẵng
thu-thập bằng-chứng chứng-tỏ là bọn phá-rối
mượn cớ để sách-động đám đông―cũng
như cả chục Liên-Minh, Mặt Trận, Lực-Lượng,
Phong-Trào, Tổ-Chức, Tập-Hợp, Đảng, Phái,
Hội, Đoàn, v.v... họp+hành liên-miên―chứ
các nhân-vật từ-tâm cũng như đại-diện
của Tòa TLS Mỹ thì chỉ có thiện-chí và vô-tư
mà thôi; mặt khác tôi báo cho họ biết trước, nên
khi Tòa TLS bị biểu-tình, phóng-viên các Hãng/Đài
Mỹ phỏng-vấn, phát-ngôn-viên của Tòa đã
trả lời trôi-chảy, không bị Cấp Trên hay độc/khán/thính-giả
chê trách điều gì.
Tôi đã cấp “Giấy
Giới-Thiệu”
cho một số nhân-viên của Người Bạn Đồng-Minh,
xem như phái-viên của Đặc-Cảnh, để
họ đi tiếp-xúc với các đối-tượng
của họ dễ-dàng hơn.
Tôi đã xin Đại-Tá
Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng
Cảnh-Lực Vùng I cấp “Giấy
Phép Mang Vũ-Khí”
cho một số cộng-tác-viên của họ, để
tự-vệ khi đi hoạt-động ở vùng nông-thôn.
Tôi cũng đã liều-lĩnh
xin Đại-Tá Lộc ký các “Giấy
Phép Lưu-Thông Ban Đêm”
cho một số xe-hơi của họ―mặc
dù theo nguyên-tắc thì chỉ có Sĩ-Quan Quân-Trấn-Trưởng
được Tư-Lệnh Quân-Khu ủy-nhiệm mới
có quyền đó trong thời-gian thiết quân-luật
hoặc trong giờ giới-nghiêm ban đêm.
V.v...
Đáp lại, Người
Bạn Đồng-Minh cũng đã dành nhiều ưu-tiên
cho tôi trong các hoạt-động hằng ngày.
Quan-trọng hơn hết là
các công-tác của tôi, móc-nối, tuyển-mộ thành-viên
cộng-sản Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi trong Ủy-Hội
Quốc-Tế Kiểm-Soát & Giám-Sát Ngưng
Bắn (ICCS) làm nội-tuyến cho ta, do tôi khởi-xướng―thực-hiện
thành-công, và chuyển-giao cho Người Bạn Đồng-Minh
tiếp-tục khai-dụng bên trong hàng-ngũ Đảng,
Nhà Nước, và Bộ-Đội của họ sau khi
họ về nước, nằm vùng cho Thế-Giới
Tự-Do trong Khối Cộng-Sản Đông-Âu*
(Xem
cuốn “Cộng-Sản Đông-Âu”
của Lê Xuân Nhuận sắp
ấn-hành).
Họ trả tiền điện,
tiền dùng điện-thoại Bưu-Điện,
tiền xăng,
và các chi-phí linh-tinh mà phía Việt-Nam không cung-ứng
đủ cho tôi, nhất là chi-phí tình-báo.
Họ thỏa-mãn ngay
nhu-cầu của tôi di-chuyển bằng phi-cơ Air
America, dù là vào ngày lễ nghỉ và chỉ
sử-dụng một
mình bất-cứ đi đâu và đi bao lâu (trả
tiền phi-công rất cao); họ dành cho tôi quyền ký các
phiếu trưng-vận phi-cơ Air America, cho
bất-cứ người nào, được đáp các
chuyến bay thường ngày. Và tôi được
quyền sử-dụng Phòng Khách đặc-biệt
tại trạm hàng-không; mỗi khi tôi đến là viên
kỹ-sư Trưỏng Trạm người Phi-Luật-Tân
giao ngay chìa-khóa vào phòng VIP cho tôi.
Họ dành ưu-tiên
một chỗ cho tống-thư-viên của tôi trên
bất-cứ chuyến bay nào đi/về Sài-Gòn hay các
Tỉnh trong Vùng.
Họ giúp cho tôi bí-mật
sử-dụng một số nhân-viên của Hãng-Thầu
Mỹ
(cung-cấp khách-sạn, tài-xế, lao-công, và các
dịch-vụ ẩm-thực, vệ-sinh, v.v...) để làm
tay-trong cho Ngành Đặc-Cảnh của tôi.
Họ cũng
tổ-chức những buổi tiệc-tùng chiêu-đãi
hầu hết
mọi giới tai-mắt tại địa-phương, nhưng
cốt ý là để cho tôi có cơ-hội tiếp-xúc
với các sĩ-quan cao-cấp Trưởng Phái-Đoàn
trong Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát Và Giám-Sát Ngưng
Bắn, nhất là cộảg-sản Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi...
Trước khi tôi đến,
chỉ có chưa đầy $4,000.00 chi-phí mà Người
Bạn Đồng-Minh hết đòi biên-nhận lại
hỏi chứng-từ.
Với tôi, họ đã ứng trước
một số tiền lón, bao giờ tiêu hết thì lại
lấy thêm, tùy tôi quyết-định mỗi việc là
bao nhiêu tiền. Tôi giao cho Đại-Úy Phạm Khả*, Chủ-Sự Phòng Điều-Hợp,
kết-toán với Văn-Phòng NBĐM. Mỗi tháng tôi tiêu
trên $400,000.00, nhiều hơn trăm lần so với trước
kia, chưa kể các khoản đặc-biệt.
(Tôi có nhân dịp giúp
cho một số anh+em hữu-công, mỗi người
mỗi tháng từ $1,000.00 lên đến $10,000.00. Nhưng tôi
không lấy cho mình một xu nào. *‒Phạm
Khả (*Phạm
Khả hiện ở Thành-Phố Bloomington, Illinois, US.) trả
tiền thuê nhà cho tôi mỗi tháng $20,000.00, trong lúc Trưởng
Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương cho tôi mỗi tháng
$20,000.00 để trả tiền thuê nhà―hẳn
cũng là tiền lấy của NBĐM, nên tôi tự cho là
đã có nhận $20,000.00 rồi―mặc
dù lấy thêm tôi tin là họ vẫn sẽ sẵn lòng.)
*
Tiếp theo mấy Tỉnh
ở Cao-Nguyên, tất cả các Tỉnh ở Vùng
I cũng mất luôn. Dân, chính, công, quân, từ các
Tỉnh thất-thểu
kéo về Thị-Xã Đà-Nẵng chật đường.
Nhũng kẻ có súng
tha-hồ phá-phách, cướp của, hiếp-dâm, giết
người.
Số-phận của Quân-Khu I chỉ còn trông cậy
vào tình-hình an-ninh trật-tự tại hậu-cứ
duy-nhất này.
Đối với tôi, vận-mệnh của
bất-cứ yếu-điểm nào cũng tùy-thuộc vào
quyết-định của Hoa-Kỳ.
Liệu Hoa-Kỳ có cố-thủ, hay sẽ bỏ rơi
Đà-Nẵng, và...?
*
Như có linh-tính báo trước, tôi đã
thực-hiện một chuyến đi quan-sát, chụp hình
để làm kỷ-niệm, từ bên này sông Thạch-Hãn
(thay vì sông Bến Hai) cho đến giáp ranh Sa-Huỳnh
Bồng-Sơn (Quân-Khu I−Quân-Khu
II), vừa kịp trước khi quân ta rút khỏi các nơi
này.
Tiếp đó, tôi cũng sợ, nếu mất Quân-Khu
I thì tôi không còn có dịp gặp lại Người
Bạn Đồng-Minh rất thân này của tôi, cho nên vào
ngày 27-3-1975, tôi quyết-định gặp riêng, đề-cập
với Người Bạn Đồng-Minh của mình
một số vấn-đề thời-sự
tế-nhị liên-quan đến chính-sách của Hoa-Kỳ
về Việt-Nam.
Như để tỏ ra là anh chỉ chú-trọng
đến việc chống Cộng mà thôi, Ferguson mở
đầu bằng lời khen tôi đã có sáng-kiến và
đã thành-công trong việc móc-nối tuyển-dụng các
thành-viên cao-cấp trong hai Phái-Đoàn Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi
làm nội-tuyến cho ta.
Đó là những công-tác gián-điệp ở
tầm-vóc quốc-tế.
Họ đã tiếp-tục cộng-tác với các
chuyên-viên Hoa-Kỳ,
và một số, về nước trước, đã
bắt được liên-lạc và bắt đầu làm
việc tại chỗ với các Trưởng Lưới
tình-báo của Thế-Giới Tự Do.
Furguson chỉ là một cá-nhân,
mà cá-nhân nào thì cũng có cả dở lẫn hay. Anh
lại là người Mỹ, mà người Mỹ nào thì
cũng có tự-do suy-nghĩ khác người. Anh không
đại-diện cho chính-quyền Mỹ, nhưng anh
hiển-nhiên có biết ít nhiều nhận-định kín-đáo
trong nội-bộ người Mỹ về tình-thế nói
chung và các nhân-vật lãnh-đạo nói riêng của nước
Việt-Nam Cộng-Hòa này.
Tôi đi ngay vào vấn-đề:
−
Anh với tôi đều làm chung một việc, gồm có
hai phần―tình-báo
và hành-động―nhắm
chung vào một mục-tiêu;
ấy
là cộng-sản, kẻ thù chung. Nhưng, thật ra,
cả anh lẫn tôi đều có ít nhất là một
mộc-tiêu thứ hai, mà hai chúng ta giấu nhau; ấy là
thành-phần thứ ba, đối-lập hoặc nằm
ngoài thành-phần đương-quyền...
Trong lúc Ferguson chưa kịp xác-nhận hay
phủ-nhận,
tôi
nói thêm:
−
Về phía Việt-Nam thì anh biết rồi. Chính-quyền
xem như những kẻ đối-lập cũng là
kẻ thù. Ngành Đặc-Cảnh nhiều lúc đã
bị sủ-dụng để phục-vụ riêng cho
những kẻ cầm quyền. Do đó, ở phần hành-động,
Ngành Đặc-Cảnh phải đứng về phía
đương-quyền. Các cơ-quan an-ninh tình-báo là công-cụ
bảo-vệ chế-độ; mà chế-độ, theo
họ, thì không phải là chính-thể hay hiến-pháp, mà
là tập-đoàn tại-quyền.
Nói chung là họ muốn mãi mãi được-quyền
lãnh-đạo quốc-dân.
Thế thì mục-đích đã khác đi rồi, nhất
là khác với lập-trường
của Hoa-Kỳ và các nước Tụ-Do. Phải
thế không, anh?
Bạn tôi gật đầu; tôi nói tiếp:
−
Còn người Mỹ thì vừa giúp các nhà đương-quyền
chống Cộng, vừa tìm các tiềm-năng nhân-sự
mới, để nếu cần thì thay-thế, hầu
mỗi ngày mỗi có những nhà lãnh-đạo tài+đức
hơn...
Ferguson vói một tay vỗ lên và bóp nhẹ trên vai tôi.
Hồi đó, không có người nào là không
thấy được sự bấp-bênh của tình-hình.
Đã chấm dứt chiến-tranh, đã có
Ủy-Hội Quốc-Tế, nhưng cộng-sản
lại đánh phá mạnh hơn; dân quê vẫn chết-chóc,
đói-khá; và Quân-Lực Quốc-Gia thì thiếu đạn+bom.
Sản-lượng ít-oi; viện-trợ Mỹ nuôi
sống Nền Cộng-Hòa thì ngày nay đã giảm
nhiều. Đời sống khó-khăn; công-chức và quân-nhân
không sống đủ với đồng lương. Công-luận
bị lèo-lái theo ý muốn của đối-lập
nếu không là cộng-phỉ và cộng-nô.
Giữa
phản-chiến và phản-chính không có biên-cương.
Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu bị phần
lớn báo-chí chỉ-trích, đa-số hội-đoàn
phản-đối, và các phần-tử bất-mãn tẩy
chay. Người ta cũng quy-trách cho cho Hoa-Kỳ.
Tôi kéo bàn tay của viên đại-tá CIA bạn tôi
ra trước mắt, vuốt ngược những sợi
lông dày và cứng trên mu:
−
Báo-chí Việt-Nam gọi người Mỹ là những “bàn
tay
lông-lá”.
−
Tôi biết.
Chính-khách Ngô
Đình Diệm là người đầu tiên mở
trang sử chính-thức và công-khai quan-hệ với
Hoa-Kỳ, nên tôi bắt đầu về ông Diệm trước.
Tôi hỏi thẳng:
−
Anh nghĩ thế nào về cố Tổng-Thống Ngô
Đình Diệm?
−
Anh nói trước đi!
Ferguson đẩy tôi đi trước. Cũng như
nhiều người Mỹ khác,
anh muốn tỏ ra là mình không can-thiệp vào việc
nội-bộ của
nước người. Tôi bèn dò ý:
−
Hoa-Kỳ không muốn giết Diệm. Nhưng điều
chắc-chắn là
Hoa-Kỳ không muốn chế-độ Diệm
tồn-tại lâu hơn. Kỳ-thị tôn-giáo là một
trong nhiều nguyên-nhân, tuy chỉ nội một cái nguyên-nhân
ấy cũng đã đủ sức thuyết-phục
để Quân-Lực phải ra tay...
−
Còn những nguyên-nhân nào nữa?
−
Diệm đánh hỏng những giá-trị tinh-thần
của Mỹ mà
Hoa-Kỳ muốn Diệm là biểu-trưng...
−
Những giá-trị nào được xét ở đây?
−
Căn-bản là các quyền tự-do ghi trong Tu-Chính-Án
số 1 của Hiến-Pháp Hoa-Kỳ―ngôn-luận,
báo-chí, tín-ngưỡng, hội-họp ôn-hòa, đạo-đạt
ý dân―mà
Diệm khinh thường. Diệm tự cho mình cao hơn
Hiến-Pháp (“Đằng
sau hiến-pháp, còn có tôi!”).
−
Gì nữa?
−
Diệm phá vỡ kế-hoạch của Mỹ thành-lập
Liên-Bang Đông-Dương và Liên-Phòng Đông-Bắc Á-Châu.
Và Diệm hầu như suýt dâng nốt Miền Nam
Việt-Nam cho cộng-sản: Ổng mưu-toan thỏa-hiệp
với Bắc-Việt, lúc ấy là một khối chính-trị
và quân-sự to lớn, thống-nhất và ngoan-cường
bội phần hơn Miền Nam, có thừa thủ-đoạn
và khả-năng tiêu-diệt thành-phần Quốc-Gia.
Ổng muốn trở lại với Pháp; ổng muốn
lạnh nhạt với Mỹ, trong lúc đối-ngoại
thì mọi việc đều nhờ Mỹ đỡ đầu,
đối-nội thì nền kinh-tế còn phôi-thai, cả
guồng máy chính-quyền, trị-an và quốc-phòng, v.v...
đều sống nhờ vào viện-trợ của Hoa-Kỳ...
−
Anh nghĩ thế nào về cái chết của Diệm?
−
Ô hay, tôi định hỏi anh thì anh đã hỏi ngược
lại tôi.
Chúng tôi nhìn nhau rồi cả hai cùng cười. Tôi
nói:
−
Diệm tự giết mình!
Ferguson trố mắt nhìn tôi xem tôi có nói đùa hay
không.
Tôi giải-thích thêm:
−
Về mặt sự-việc: cố Tổng-Thống Ngô
Đình Diệm, dù muốn dù không, cũng đã trở
thành một con hổ dữ. Hé một lời-nói, lộ
một cử-chỉ mà vây-cánh ổng cho là phạm-thượng
thì khó mà thoát khỏi bàn tay tàn-độc của
thủ-hạ ổng. Huống gì, lật đổ ổng,
lùng rượt ổng, bắt trói ổng... Tôi kính-trọng
Diệm, tôi không tán-đồng việc giết Diệm, tôi
phản-đối cách giết Diệm; nhưng tôi thông-cảm
tình-cảnh của những kẻ đã cỡi lên đầu
hổ rồi. Giết hổ hay hổ giết mình. Có
thể xem như “tự-vệ”
mà thôi.
−
Còn mặt nào nữa?
−
Về mặt tinh-thần:
“Thứ
nhất: Diệm chịu ảnh-hưởng Đạo Nho,
muốn mình “tiết
trực, tâm hư”.
Nhưng Đạo Nho lấy “trung-quân”
làm
trọng; mà Diệm thì không chịu làm một bề-tôi
lương-đống, đã
phản-bội Bảo Đại để lên làm Nguyên-Thủ
Quốc-Gia, tức đã phạm tội bất-trung
với vua. Thế là Nho-Giáo không dung.
“Thứ
hai: Diệm lật đổ Bảo Đại vì Bảo
Đại bất-tài. Điều đó đúng; tức
Diệm thực-thi chủ-nghĩa duy-ích, một thứ
đạo-đức mới. Nhưng học-thuyết
vị-lợi ấy chủ-trương nhân danh đa-số,
để làm điều có ích lợi chung. Trong lúc đó,
áp-dụng chủ-nghĩa thực-dụng cho
thiểu-số phe mình
mà thôi, chính Diệm cũng đã biết trước là
sẽ lâm-nguy. Ổng nói: ‘Tôi
chết thì trả thù cho tôi!’ Nếu
chết tự-nhiên thì tại sao lại phải trả thù?
Và Diệm cũng đã nêu lên tiền-lệ: mình
truất ngôi người này được, thì kẻ khác
cũng lại
hất cẳng mình được, chứ sao! Các tướng
chỉ noi gương ổng mà thôi! Đó là quy-luật
sinh-tồn! Thế là đạo-đức mới cũng quật
lại ổng.
“Thứ
ba: Diệm là tín-đồ Đạo Kitô. Theo Đạo
ấy thì, “Satan
là Chúa của đời này”
(2 Cor 4:4) Chính “Đức
Jesus cũng
gọi Quỷ Satan là vua, chúa (kẻ thống-trị,
bá-chủ) của
thế-gian
này”
(John 12:31) và Thánh-Kinh xác-nhận “Cả
thế-gian đều phục dưới quyền ma-quỷ,
đều nằm trong tay ma quỷ (cả
thế-giới đều ở dưới quyền
thống-trị của Quỷ-vương)” (1 John 5:19).
Với tư-cách chủ-nhân-ông của cả
thế-giới loài người, “Satan đem Đức
Jesus lên đỉnh núi cao, chỉ cho Ngài thấy các nước
vinh-quang rực-rỡ khắp thế-giới, quyến-rũ
Ngài rằng: Ngươi chỉ cần quỳ gối
thờ lạy ta, là ta sẽ cho ngươi làm chủ
tất cả thế-gian này!” (Matt 4:8,9). Đức
Jesus từ-chối; Ngài cầu-nguyện Đức Chúa
Trời: “Con đã rao truyền lời Cha cho các tín-đồ,
nên người đời thù ghét họ, vì họ không
thuộc về thế-gian, cũng như Con không thuộc
về thế-gian” (John 17:14). Lời Đức Chúa
Trời kể rằng: “Các vua thế-gian nổi
dậy, các lãnh-tụ bàn nghị cùng nhau, âm-mưu đối
đầu với Jehovah Đức Chúa Trời và
nghịch với Đức Jesus là Đấng chịu
xức dầu của Ngài” (Ps 2:2). Do đó, Chúa
dạy: “Chớ yêu thế-gian, cũng đừng yêu
(quyền-hành, danh-vọng, lợi-lộc) bất-cứ
những gì thuộc về thế-gian” (1 John 2:15-17). Thánh-Kinh
giảng thêm: “Kết bạn với kẻ thù của
Đức Chúa Trời tức là thù nghịch với Đức
Chúa Trời; kẻ thù đó là thế-gian” (Jas 4:4).
Ngay chính trong giới tín-đồ của mình, khi “Đức
Jesus thấy họ sắp tạo áp-lực đưa Ngài
lên làm vua, Ngài liền bỏ đi lên núi ở một mình”
(John 6:15), không chịu làm vua ở thế-gian. Nói chung, ngày
nào mà Đấng Cứu-Thế chưa tái-lâm (chưa
tận-thế), thì ngày đó “Cả thiên-hạ (toàn
thể thế-giới loài người) còn bị Quỷ-vương
hay Satan lừa dối, dỗ dành” (Rev 12:9), “làm
mờ tối tâm trí (mù lòng)” (2 Cor 4:4), và “kẻ
thù của Đức Chúa Trời” (Jas 4:4) là “các
vua thế-gian” (Ps 2:2). Tóm lại, tín-đồ Đạo
Chúa là người không thuộc về thế-gian; mà
Diệm làm Tổng-Thống tức là làm một vua ở
thế-gian, dưới quyền của Quỷ Satan, và
chống lại Đức Chúa Trời. Hơn nữa,
Đạo Chúa cấm đoán mọi Đạo khác, theo các
Điều Răn thứ 1 và thứ 2 của Đức Chúa
Trời: “Các ngươi không được thờ
thần nào khác, ngoài Ta; không được khắc hình tượng-trưng
cho bất-cứ cái gì trên cõi đời này; không
được thờ-phụng chúng” (Ex 20:3-5). Thế
mà Diệm còn tôn sùng giáo-lý Đức Khổng, dùng hình
khóm
trúc làm biểu-hiệu cho tinh-thần Nho-Giáo
của mình, khắc vào ấn-tín của mình và của
cả Quốc-Gia. Thế là Thiên-Chúa-Giáo cũng không dung.
“Quân thù trồng rặt loại nho lấy giống
từ vườn Sô Đôm với đất từ đồng
Gô Mo; trái đắng và chua, làm thành rượu độc
nọc rắn”. Tất-nhiên Đức Chúa Trời
phải “ganh tỵ” (Zec 1:14), vì Chúa là Chúa “phân bì”
(De 32:16; PS 78:58), “động lòng ghen” (Zec 1:14), nên
Chúa phải trừng-trị, phải trả thù: “Báo thù
là việc của ta, Ta làm cho chúng ngã nhào, tai-họa ào
đến tức-thời” (Deut 32:32-35)...”
Ferguson
ngẫm-nghĩ một lát rồi dò-dẫm hỏi tôi:
−
Chuyện đã qua rồi, phải không?
−
Cái đó còn tùy. Nhưng có vài điều đáng nói:
“Thứ
nhất, Diệm phản Bảo Đại thì Diệm
vẫn còn mắc nợ Bảo Đại, vì Bảo Đại
dùng Diệm mà Diệm không giúp ích gì cho Bảo Đại;
nhưng các Tướng lật Diệm thì Diệm vẫn
còn mang ơn các Tướng, vì Diệm dùng các Tướng
thì các Tướng đã liều thân xông pha
trận-tiền, đánh dẹp các giáo-phái, bình-định
xứ-sở, ổn-định tình-hình cho chế-độ
Diệm vững an. Thứ hai, nếu Diệm có đức,
có tài, thì đó là thuộc-tính của một người,
không nhất-thiết có nghĩa là mọi người khác
đều tầm-thường mọi mặt, và
bất-cứ đồ-đệ nào còn sót lại
của Diệm cũng xứng-đáng lên làm lãnh-tụ
quốc dân...”
Nghĩ
rằng chừng đó đã đủ, tôi hỏi qua
chuyện mới:
−
Anh nghĩ thế nào về Tổng-Thống Nguyễn Văn
Thiệu ?
−
Cũng xin nhường anh!
Thế
là Ferguson lại đẩy tôi đi trước nữa. Tôi
thấy cần phải rào-đón phần mình trước
tiên:
−
Chắc anh đã biết là tôi đối-lập với
Thiệu. Nhưng tôi chỉ chống tính-cách quân-phiệt,
tôi chỉ phản-đối việc quân-cách-hóa Chính-Quyền,
nhất là với Cảnh-Lực; tôi đòi-hỏi
thực-thi Kế-Hoạch Cảnh-Sát-Hóa,
là một quốc-sách tối-thượng mà Hoa-Kỳ
tặng cho để làm sách-lược hậu-chiến,
nhưng Thiệu xếp bỏ không dùng. Trong việc
chống Thiệu, tôi khác người ta.
−
Người ta chống Thiệu thế nào?
Tôi
thấy là Ferguson đang “moi tin” tôi, nhưng tôi cũng
thử dò đường:
−
“Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc”
thì có đông-đảo quần-chúng, là giới
Phật-tử chiếm trên chín mươi phần trăm
dân-số, có sẵn ứng-viên lý-tưởng vào
chức-vụ Tổng-Thống, là Dương Văn Minh.
Nếu là ứng-viên dân-sự thì khó lòng được
lòng mọi Tướng, nhưng Minh là đại-tướng.
Minh hòa-hoãn với cộng-sản, và Hà-Nội đã
bắn tiếng chỉ nói chuyện với Minh. Đa-số
đã chán chiến-tranh, lại ngán cộng-sản, nên
đặt hy-vọng vào Minh. Nhưng Lực-Lượng
này không bạo-động, và chỉ chờ-đợi
đến kỳ bầu-cử Tổng-Thống vào
cuối năm nay mà thôi...
−
Anh cứ nói đi!
−
“Đại-Việt Cách-Mạng Đảng” là
một chính-đảng có nhiều đảng-viên
nhất, lại được tổ-chức
chặt-chẽ. Họ có nhiều đảng-viên giữ các
chức-vụ trọng-yếu trong Chính-Quyền. Họ có
thực-lực chính-trị. Lãnh-tụ của Đảng
là Hà Thúc Ký nặng ký hơn Thiệu trong cuộc
chạy đua giành phiếu nay mai. Tuy thế, có nhiều
đảng-viên có thể bầu Minh.
−
Xin nói tiếp đi!
−
“Việt-Nam Quốc-Dân Đảng” là một chính-đảng
kỳ-cựu, có thời mạnh hơn Việt-Minh tức
Cộng-Sản Việt-Nam. Sau này phân-hóa thành nhiều
hệ-phái, phải đứng chung với “Đảng
Dân-Chủ” của Thiệu trong một Liên-Minh.
Hiện Vũ Hồng Khanh, một lãnh-tụ chính-trị mà
Hồ Chí Minh đã phải nài-nỉ mời đồng ký
tên ngang hàng với mình trong bản thỏa-hiệp thành-lập
chính-phủ Quốc+Cộng liên-hiệp vào năm 1946,
đang nỗ-lực thống-nhất lại. Mục đích
của họ là phục-hồi uy-tín và địa-vị
của Đảng cả ở trong nước lẫn
ở nước ngoài. Họ không hoàn-toàn đồng-minh
với Thiệu, nhưng nhiều đảng-viên cũng có
thể chọn Minh.
−
Còn các tổ-chức khác nữa?
−
“Phong-Trào Quốc-Gia Cấp-Tiến” dựa vào các
nhà khoa-bảng và giới học-thức trẻ. Họ
muốn cải-cách kinh-tế là huyết-mạch của
quốc-dân, vì cho rằng nhà cầm quyền hầu như
bất-chấp cán cân mậu-dịch và vấn-đề
cung cầu...
“Các
đoàn-thể khác nói chung thì chỉ đưa ra một
vài ý-kiến mới, nhằm mục-đích trình-diện
một vài nhân-vật tranh-đấu cấp địa-phương,
nhắm ghế Quốc-Hội hoặc Hội-Đồng
Tỉnh, Thị.
“Một
số phần-tử nặng tinh-thần dân-tộc thì cho
là Thiệu quá lệ-thuộc Hoa-Kỳ.
“Còn
trên bình-diện cá-nhân thì phần đông chống
Thiệu theo kiểu trưng-diện một món
thời-trang, sợ không đối-lập thì bị xem là
lỗi-thời!”
Ferguson
cùng cười theo tôi. Lát sau, anh dè dặt:
−
Nay Huế đã mất, nhưng những người liên-hệ
với Huế thì vẫn còn. Anh thấy hệ-lụy
của nó đối với tình-hình mới tại các
Tỉnh trong Nam sẽ như thế nào?
Người
Bạn của tôi nhắc đến những việc mà tôi
cố ý hoặc bỏ qua hoặc dành nói sau. Tôi phải nói
luôn:
−
Đảng “Nhân-Xã”, tức Đảng
“Cần-Lao Nhân-Vị” đổi mới, chỉ
hoạt-động bên trong các giới tín-đồ Đạo
Kitô và cựu cơ-sở Đảng Cần-Lao. Bên ngoài,
họ có “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và
Kiến-Tạo Hòa-Bình”. Hòa-Bình thì chưa thấy có
kế-hoạch khả-thi. Tham-nhũng thì là cụ-thể,
nhưng chưa phải là yếu-tố quyết-định
hàng đầu. Theo họ, lật đổ Ngô Đình
Điệm mới là tội-phạm tối-trọng,
bất-khả khoan-dung. Họ đã bắt đầu bạo-động.
Mục-đích của họ là thay-thế Thiệu ngay,
bằng một Tổng-Thống và Chính-Quyền rập khuôn
Đệ-Nhất Cộng-Hòa .
−
Anh nghĩ thế nào?
Tôi
đáp:
−
Diệm nếu còn sống thì ổng cũng đã mãn các
nhiệm-kỳ hiến-định từ lâu. Người
của thời này không thể giải-quyết việc
của thời kia. Không dưng mà các cộng-tác-viên ban
đầu đã rời-bỏ, rồi các trí-thức
chống-đối, rồi nhiều thành-viên nội-các
từ-chức, rồi dân-chúng sôi-sục bất-bình,
rồi chính người nhà mà cũng chia tay. Quân-đội
bắt đầu đảo-chính từ 1960, ném bom Dinh
Tổng-Thống từ 1962...
“Việc
gì phải đến là cứ đến.
“Háo-hức
dẹp một tảng đá cản đường, không
ai ngờ trước sẽ gặp bãi
lầy tiếp theo. Nhưng hẳn không ai muốn
cho tình-hình xấu đi...
“Lịch-sử
đã sang trang. Vấn-đề bây giờ không phải là
khóc mình, hận người, mà là làm sao để
cải-thiện tình-hình. Có ai xứng-đáng để lên
thay Thiệu không, và, nếu thay Thiệu thì thay cách nào?”
−
Ý anh thế nào?
−
Trước hết, nói về người thay. Tôi thấy
là không, hoặc chưa, có ai có đủ điều-kiện
để lên thay Thiệu. Riêng đối với Mỹ,
nếu có thì tất Hoa-Kỳ đã bật đèn xanh cho
xuất-hiện rồi!
Ferguson
cố gắng giữ nguyên nét mặt vô-tư. Anh
tiếp-tục hỏi tôi:
−
Còn về cách thay?
Tổng-Thống
là người lãnh-đạo toàn-dân. Xuất-xứ có
thể là bất-cứ đâu, nhưng đối-tượng
phục-vụ không phải chỉ là một chính-đảng,
một giáo-hội, một xã-giới, hay một gia-đình.
Về Thiệu, tôi đã suy-nghĩ về hai trường-hợp
có thể xảy ra: ông tự giải-quyết, hoặc
bị giải-quyết.
Tôi
nói ngắn gọn:
−
Thiệu đang gặp nhiều khó-khăn: Hoa-Kỳ rút ra,
cộng-sản tiến vào, đối-lập lấn lên.
Lần đầu tiên người dân Việt-Nam được
tự-do xúc-phạm một nguyên-thủ quốc-gia mà không
sợ bị bắt nhốt, trả thù, như dưới
thời Diệm. Theo tôi, Thiệu không nên tham-quyền
cố-vị. Vì chống mình nên người ta chỉ
nhắm vào việc thay mình. Nếu mình bắn tiếng
từ-chức thì tự-nhiên sẽ nổi lên tất
cả các chuẩn-ứng-viên thay mình; dân-chúng sẽ so-sánh
lựa-chọn giữa họ với mình; và người
ta sẽ quay lại chống nhau, làm sáng tỏ ưu-khuyết-điểm
của từng người; mình dựa vào đó mà tu-chính
và quyết-định ở lại hay ra đi.
“Nếu
Thiệu từ-chức, hoặc ông bị mất trí hay
mệnh-vong, thì cũng chỉ có Phó Tổng-Thống
Trần Văn Hương lên thay, cho đến cuối năm
nay [1975] mới hết nhiệm-kỳ. Với Hương,
có đạo-đức nhưng thiếu bản-lãnh, tình-hình
sẽ như thế nào?
“Còn
nếu muốn loại cả chế-độ Thiệu
tức-thời thì chỉ có cách là đảo-chính quân-sự―một
việc mà chắc hẳn đã có kẻ mưu
toan nhưng không thuyết-phục được
ai nên không xảy ra. Nhưng nếu xảy ra thì Chính-Quyền
cũng sẽ chỉ nằm trong tay các tướng: Minh,
Khiêm, Kỳ, v.v... hoặc người nào khác thì cũng
thế thôi. Có khuôn mặt nào nổi bật hơn đâu?
Kinh-nghiệm Cách-Mạng 1-11-1963: thay-đổi toàn-diện
thì tình-hình sẽ như thế nào? Tóm lại, người
ta mới nghĩ đến việc loại Thiệu, nhưng
chưa nghĩ đến tình-hình hậu-Thiệu; hoặc
cũng đã có nghĩ đến, nhưng không
thực-tế, chỉ chủ-quan, cầu-may.
Thực-tế là đã có Việt-Nam-Hóa, không còn báo-cô
Hoa-Kỳ như trước được nữa, mà
quốc-dân thì chưa đủ sức tự-túc
tự-tồn. Giặc đã đến bên lưng, không còn
thì-giờ để làm lại từ đầu...”
Im
lặng một lát, rồi Ferguson hỏi tôi mà tôi nghe như
anh tự hỏi mình:
−
Không còn cách nào nữa ư?
Tôi
nói chậm-rãi:
−
Đáng lẽ đã có nhiều cách rồi!
Bạn
tôi nhướng mắt lên, đợi chờ.
−
Đệ-Nhất cũng như Đệ-Nhị Cộng-Hòa
Việt-Nam chỉ thấy cái phần chiến-thuật
chứ không thấy cái phần chiến-lược
của các Kế-Hoạch mà Hoa-Kỳ đưa ra. Ngoài ra,
họ chỉ chú-trọng cái phần ưu mà không quan-tâm
đến cái phần khuyết, ở cuối mỗi
Kế-Hoạch đều có nêu lên. Hơn nữa, còn có
hai nhược-điểm về phía Hoa-Kì. Cố-Vấn
Mỹ chỉ là cấp thừa-hành, đâu phải ai cũng
hiểu được thâm-ý khi soạn-thảo
kế-hoạch của cấp Trung-Ương hay chiến-lược-gia;
thế mà họ đã để cho Đồng-Minh
Việt-Nam cứ xem Cố-Vấn Mỹ như thước
ngọc khuôn vàng. Trong lúc đó, các cấp Trung-Ương
và ngoại-giao sành-sỏi của Mĩ thì cứ phép-tắc
lễ-nghi; đáng lẽ phải nói huỵch-toạc ra như
giữa các bên phối-tác với nhau, thì họ lại
chỉ bóng-gió xa-xôi, mặc cho người nghe có thể
không hiểu hoặc hiểu lầm.
−
Xin anh nói rõ hơn.
−
Diệm đã phá hỏng kế-hoạch của Mỹ nên
mới hỏng bét. Bây giờ Thiệu cũng bỏ
lỡ kế-hoạch của Mỹ nên phải dở-dang.
−
Anh muốn nói về “Cảnh-Sát-Hóa”
và trước đó là “Liên-Bang Đông-Dương”,
“Liên-Phòng Đông-Bắc Á-Châu”?
−
Vậy anh muốn tôi nói về vấn-đề gì khác nào?
−
Nếu còn vấn đề gì khác, sao không nói ra?
Tôi
ngưng một lát, rồi đánh bạo nói lên ý nghĩ
của mình:
−
Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa quả thật
thiện-chiến, tinh-thần rất cao, nhưng dù có
được Hoa-Kỳ tiếp-tục viện-trợ và
yểm-trợ thì cũng vẫn sẽ không bao giờ
thắng được Cộng-Sản Việt-Nam!
Ferguson
không giấu nổi vẻ ngạc-nhiên. Tôi giảng
giải thêm:
−
Lính phải ngăn-chận kẻ thù đằng trước
để che-chở dân đằng sau. Đằng nầy:
ở cấp Xã thì Nghĩa-Quân thu mình trong dăm ba chòi gác;
ở cấp Quận thì Địa-Phương-Quân
thủ thế trong khuôn-viên trụ-sở Chi-Khu; còn
Chủ-Lực-Quân thì sau các cuộc hành-quân là rút về
trại binh. Cộng-sản chiếm được
phần lớn không-gian và thời-gian, nhất là ban đêm,
cô-lập lính trong đồn và chế-ngự dân bên ngoài.
Lính đã không bảo-vệ được dân thì thôi, làm
sao mong dân phải làm khiên mộc bên ngoài bảo-vệ
cho lính trong đồn?
Người
bạn của tôi ngẫm-nghĩ một lát rồi hỏi
lại tôi:
−
Thế còn Cảnh-Lực thì sao ?
−
Cảnh-Lực, với tổ-chức và điều-hành
hiện nay, không giúp được gì đúng với mong
đợi của mọi người. Cảnh-Sát mới
xuống đến Xã, các Xã “an-ninh” mà thôi, và chỉ
là Cảnh-Sát Sắc-Phục, không làm điệp-báo, không
lùng-diệt, và cũng không chống-cự nổi nếu
bị đối-phương tấn-công. Đặc-Cảnh
thì ở cấp Quận, và Ban Tác-Vụ chỉ có mấy
người, làm sao nắm hết các Xã, các Thôn trong
khắp khu-vực trách-nhiệm của mình, nhất là khi
không có đủ phương-tiện để
tổ-chức các đường dây...
Ferguson
hỏi vặn tôi:
−
Nghe anh có vẻ bi-quan. Thế tại sao hôm trước anh
lại nài-ép tôi―và
tôi đã nhiệt-thành giúp anh―bênh-vực
Việt-Nam Cộng-Hòa trước các Dân-Biểu và Thượng-Nghị-Sĩ
Hoa-Kỳ khi họ đến tận chỗ quan-sát tình-hình
tại Vùng I này?
−
Anh muốn tôi cứ để mặc cho chính-thể này
suy sụp sao?
Chừng
thấy câu chuyện hơi găng, Ferguson liền đổi
đề-tài:
−
Tôi thấy anh có nhiều hiểu-biết và nhận-định
giá-trị hơn người. Ước chi anh là
Tổng-Thống của nước này!
Dù
anh nói thật hay nói mỉa tôi, tôi cũng không cần. Tôi
đã bốc đồng:
−
Tôi đợi thăng cấp vào ngày mồng 1 tháng 6 [1975]
này, xong tôi ứng-cử vào Quốc-Hội. Tôi vào
một Khối hoặc một Ủy-Ban. Tôi ra một
tờ báo. Tôi lập một hội-đoàn. Và tôi
ứng-cử Tổng-Thống Việt-Nam Cộng-Hòa. Anh
nghĩ sao?
Ferguson
trả lời:
−
Tại sao lại không?
Tôi
muốn nhân dịp dò-xét thái-độ của anh đối
với mình:
−
Nhưng điều quan-trọng là anh có ủng-hộ tôi
hay không?
Người
Bạn Đồng-Minh đưa ngay tay ra bắt tay tôi:
−
Tại sao lại không?
Chúng
tôi ôm nhau mà cười.
Sau
đó, trở lại với chủ-đích của mình, tôi
nói:
−
Tôi đã đưa cho Watkins, viên-chức phụ-tá
của anh, một chiếc máy truyền-tin cầm tay,
với tần-số và mật-hiệu liên-lạc với
tôi 24/24 giờ. Khi nào anh rời Đà-Nẵng thì anh
hoặc anh ấy gọi tôi.
−
Watkins đã nói cho tôi biết rồi.
Đề-cập
đến sự-việc ấy, bỗng-nhiên tôi thấy
nghẹn-ngào.
Tôi
rán hỏi thêm một câu:
−
Tóm lại, Hoa-Kỳ có bỏ Đà-Nẵng không? Và
Hoa-Kỳ có bỏ Việt-Nam không?
−
Anh đã biết câu trả lời của tôi rồi!
Thật
là một câu trả lời “khôn-ngoan”.
Rốt
cuộc, tôi vẫn chẳng biết Người Bạn
Đồng-Minh Hoa-Kỳ Ferguson đã trả lời tôi như
thế nào.
*
Ngay
đêm hôm ấy, Tòa Tổng Lãnh-Sự Hoa-Kỳ tại Vùng
I bí-mật ra đi.
TÒA TỔNG-LÃNH-SỰ
HOA-KỲ RÚT KHỎI MIỀN TRUNG
Khoảng
quá nửa đêm 27-3-1975, tôi được báo-cáo là các
Thủy-Quân Lục-Chiến Mỹ canh gác Tòa Tổng-Lãnh-Sự
Hoa-Kỳ tại Vùng I đã khóa cổng kỹ và rời
khỏi trụ-sở ấy, sau khi đã chở ra khỏi
nơi đó nhiều chuyến hàng đóng thùng, và từ
giữa sân bên trong thì bốc lên trời một cột khói
đen như ai đang đốt nhiều đồ
vật gì.
Tôi
gọi điện-thoại đến đó, rồi đến
tư-gia của các Người Bạn Ðồng-Minh và
những viên-chức ngoại-giao Hoa-Kỳ mà tôi quen, thì
hoặc đường dây bị hư, hoặc chuông có
reo mà không có người trả lời. Tôi dùng máy vô-tuyến
gọi các Người Bạn Ðồng-Minh Ferguson và Watkins,
nhưng cũng không liên-lạc được với ai.
*
Mờ
sáng hôm sau, 28-3-1975, dân-chúng bắt đầu vào “hôi
của” tại tòa nhà vốn được gọi theo
địa-chỉ là 52 Bạch-Ðằng. Lúc đầu thì
đồ ăn, đồ uống, vật-liệu văn-phòng,
dụng-cụ linh-tinh; về sau thì bàn ghế tủ giường,
trang-cụ, thiết-cụ, máy móc; cuối-cùng là các
loại xe-hơi.
Tôi
chen lách đám đông vào được trong văn-phòng
của Trạm Hàng-Không “Air America”. Nơi đây
đang chuẩn-bị đợt hành-khách và hành-lý
cuối-cùng cho một số phi-cơ bán-phản-lực và
trực-thăng. Viên kỹ-sư Phi-Luật-Tân, Trưởng
Trạm, tuy đang bận túi-bụi nhưng không quên trao
ngay chiếc chìa-khóa vào phòng VIP cho tôi. Anh tưởng,
như những lần trước, tôi mà đến đây
là chỉ để đưa hay đón các viên-chức
quan-trọng mà thôi, vì lần nào tôi cũng mượn dùng
phòng khách quan-nhân. Khi chỉ còn lại mấy
chiếc trực-thăng, anh chào từ-giã tôi, rồi cùng
với các nhân-viên khác dùng bình-xịt xịt ra một
thứ bọt trắng xóa, đẩy đám đông lui ra
xa khỏi phi-cơ. Xong họ bay lên, rời khỏi sân bay
và trạm hàng-không đặc-biệt này, sau khi nói cho tôi
biết là họ bay ra tàu-thủy đang đậu ngoài
khơi.
Thế
là người Mỹ đã thật-sự bỏ Ðà-Nẵng,
bỏ Miền Trung, bỏ Vùng Chiến-Tuyến này
rồi.
*
Ngày
đó, 28-3-1975, từ trong trụ-sở của họ khói
đen từ mấy thùng đốt hồ-sơ tài-liệu
tiếp-tục bốc lên ngút trời.
Tôi
tiếp-tục tìm và gọi cho đến hôm sau vẫn không
có vân mòng gì về Người Bạn Đồng-Minh.
Và
ngày 29-3-1975 được xem là ngày thất-thủ
của thủ-phủ Miền Trung...
(Trích
"Biến-Loạn
Miền Trung" trang 413-432)
Một
phần bài này đã có trong "Về
Vùng Chiến-Tuyến" 1996)
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 309
Friday, May 2, 2014
VÕ TAM ANH * CÂU CHUYỆN ĐỒNG NGIỆP
Câu Chuyện Đồng Nghiệp
Võ Tam Anh
Một bác sĩ cách mạng từ Bắc vào, hăm hở đến tiếp thu bệnh viện Vĩnh Long sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 đã thốt ra câu nói đầu tiên với chúng tôi :
"Các anh là kẽ thù của nhân dân, đáng tội chết..."Tuy mới mấy ngày sau khi "giải-phóng" nhưng tai chúng tôi cũng đã quen với câu nói đó, chỉ có khác là lần này được phát ra từ miệng một bác sĩ mà chúng tôi chờ đợi để hy vọng thấy được một nụ cười hay một chút thông cảm trong tình đồng nghiệp. Chẳng khác gì những cán bộ khác, bác sĩ cũng tuông ra câu học thuộc lòng:
"Nhưng Đảng và Nhà nước khoan hồng tha tội chết cho các anh..."
May thay, chúng tôi được tha tội chết, nhưng thay vào đó, phải lảnh cái án "dở sống dở chết " kéo dài năm này qua năm nọ trong các nhà tù, nhường sự nghiệp lại cho các đồng nghiệp mới, huênh hoang trong cái độc quyền nhân đạo với các bảng hiệu « Lương Y như Từ-mẫu » treo nhang nhản khắp xó xỉnh trong bệnh viện.
Có lẽ cụ Hippocrate ở dưới suối vàng cũng không khỏi phẫn nộ khi các môn đệ ở Miền Bắc không chịu học lời thề cụ dạy trước khi ra trường:
"Tôi thề sẽ giúp đỡ các đồng nghiệp và gia đình họ trong cơn ngặt nghèo, tôi sẽ mất hết danh dự và bi khinh bỉ nếu tôi không giữ lời thề đó".
Trước mặt thì đồng nghiệp gọi chúng tôi bằng "anh", nhưng quay lưng lại là "thằng", là "chúng nó" ngay, không hiểu là vì thói quen, vì văn hóa, vì mặc cảm hay vì chính sách.
Ngày đầu tiên mới đặt chân lên đất Bắc trên con đường lưu đày, khi mà tầm mắt đang còn ngỡ ngàng với rừng sâu núi thẳm, khi mà thể xác và tinh thần chưa lai tỉnh qua cuộc hành trình định mệnh kinh hoàng, thì chúng tôi được đón tiếp vồn-vã bởi một đồng nghiệp. Vồn vã không phải để thăm hỏi sức khỏe hoặc để an ủi một lời nào, mà để tịch thu thuốc men và dung cụ y khoa mà chúng tôi mang theo, nhất là để tò mò tìm hiểu những điều mới lạ trong cuộc sống "phồn vinh giả tạo" ở trong Nam.Câu nói đầu tiên và gần như là câu chào hỏi ở cửa miệng mỗi khi gặp nhau: "Anh ăn mấy lạng ?" (gạo mỗi ngày), làm chúng tôi bở ngỡ không biết đâu mà trả lời. Thì ra cái quan tâm hàng đầu của nền y khoa miền Bắc là cái bao tử, và xã hội được chia ra làm nhiều loại bao tử khác nhau tùy theo đẳng cấp và sự trung thành với đảng: 120 lạng ,150 lạng, 170 lạng.... cái hàn thử biểu để đo vị trí mình trong xã hội. Kế đó là thắc mắc về những phần thịt đươc bồi dưỡng trong những ngày lễ, ngày Tết… Thấy chúng tôi không ở cùng một tần số trong cái hội chứng đường ruột đó, bác-sĩ bèn lên mặt chỉ-đạo: "Chớ có trốn trại nghe, không thoát đâu ". Quả nhiên lời khuyên có chấp chứa ít nhiều tình thật đó lại là không sai. Chỉ có vài ngày sau khi đặt chân đến cái nơi núi rừng chằng chịt mang tên Sơn La đó, khi chưa xác định được vị trí trong cái bản đồ mênh mông của miền thượng du Bắc Việt, thì một số anh em đã lần lượt trốn trại rồi lần lượt bị bắt lại để gánh chịu những hình phạt ghê gớm đang chờ sẵn. Trong số đó phải kể đến hai đồng-nghiệp, một Thiếu tá Y sĩ trưởng Trung tâm Hồi lực ở Sài-gòn và một Y-sĩ Đại-úy Thủy-quân Lục-chiến, đã thoát khỏi lao tù vì đã trốn qua "bên kia thế -giới" sau khi không thành-công trong cuộc tổ-chức trốn qua "bên kia biên-giới".
Sau một thời gian xáo trộn, chúng tôi gồm có tám bác sĩ, một nha sĩ, hai dược sĩ được tập trung lại để thành lập một "trạm xá " có nhiệm vụ săn sóc sức khỏe cho anh em tù trong vùng. Bằng những phương tiện của thời đại đồ...tre, với kỹ thuật từ thời Hoa Đà, chúng tôi cũng được an ủi bằng một số thành công trong nhiệm vụ chữa trị, và đã lưu lại cho chúng tôi nhiều kỷ niệm khó quên. Anh T. bị bệnh phung, bọn cai tù ghê sợ, biệt giam trong một cái chòi giữa rừng, thường ngày chúng tôi đến thăm viếng, theo dõi bệnh tình, chia nhau từng củ sắn củ khoai, khích lệ cho nhau cho đến ngày về. Anh H. bị mất trí vì trúng độc khi ăn phải trái cây rừng, suốt ngày la hét, phải cách ly trong một túp lều ở giữa rừng, chúng tôi chia phiên nhau túc trực ngày đêm bên cạnh để canh chừng, nhưng cuối cùng anh cũng qua đời.
Phải kể đến những trường hợp giải phẩu theo kiểu...rừng, với tất cả liều lĩnh rủi may. Trang bị bằng một bộ trung phẩu dã chiến của Trung quốc và một lò hấp ướt (autoclave), với mấy bình ether và cái masque Ombredane là dụng cụ đánh thuốc mê hở (circuit ouvert) cổ lổ sĩ dùng trước thế chiến 1914-1918. Trong những "bloc" được ngăn cách bởi những tấm phên tre và tấm vải mùng, muỗi mòng tha hồ bay lượn, dưới ngọn đèn dầu và đèn pin, mà nhờ trời chúng tôi cũng thành công được trong nhiều trường hợp, những chấn thương vì tai nạn lao động, hay trường hợp anh N. bị tắc nghẻn ruột, phải giải phẩu để tái tạo một hậu môn tạm thời, phải theo dõi và săn sóc từ A đến Z trong nhiều tháng với sự tận tình của mọi người nên kết quả rất khả quan, vân vân và vân vân. Chúng tôi đã đóng tất cả các vai trò trong việc điều trị, từ lao công, y tá, phụ mổ, gây mê, cầm dao, rồi hậu phẩu, vệ sinh, giặt giủ v...v...bù lại khỏi phải đi lao động đốn vầu, đốn nứa, đẩy xe trong những lúc đó.
Một sự tình cờ khiến chúng tôi phải giải phẩu cấp cứu thành công cho một tên cán bộ bị viêm ruột thừa cấp tính mà không biết chở đi đâu. Mấy tháng sau, nhân dịp Tết Nguyên Đán 1978, có mấy cán-bộ trong ban chỉ-huy trại đến cám ơn chúng tôi, và tưởng thưởng bằng một tấm hình chụp chung mấy anh em chuyên môn trong bệnh xá, một kỷ niệm độc nhất vô nhị của những ngày tù ở Sơn La.
Tiếng đồn lên tới Bộ Chỉ huy Đoàn. Một số cán bộ có thiện tâm muốn mở tầm hoạt động của chúng tôi cho dân chúng trong vùng Mường Thải, huyện Phù Yên, nơi mà xưa nay dân chúng chưa hề thấy đươc cục xà bông chớ đùng nói chi đến viên thuốc tây. Thế rồi dân chúng đến xin chữa trị mỗi ngày một đông, tuy thuốc men chẳng có gì nhiều nhưng cũng giúp ích được một số lớn trường hợp và ít ra cũng giúp họ làm quen với y-khoa ngày nay thay vì phải uống lá rừng suốt đời. Khi đặt ống nghe vào ngực, có người đã huênh hoang khoe rằng là được... rọi điện. Đông nhất là phần chữa răng. Ngậm một cái răng sâu năm này qua tháng nọ như một cái đinh đóng vào óc, nay được nha-sĩ nhẹ nhàng xoi xỉa với một cái máy quay đạp bằng chân, hoặc nhổ đi mà không đau đớn gì, thật là một điều mà dân Mường ở đó không bao giờ mơ tới.
Một đêm nọ, đang lúc giữa khuya, một cán bộ cầm cây đèn bảo xăm xăm bước vào phòng giam chúng tôi, bảo rằng một người đàn bà trong bảng Mường đang nguy kịch vì đẻ không ra đã hai ngày nay. Anh Thức, chuyên môn về phụ khoa được cử đi cấp cứu. Trong môt gian nhà sàng rộng rãi không có vách ngăn, ở giữa là cái bếp lửa cháy suốt ngày đêm, dăm ba người đàn ông ngồi quanh nói chuyện ồn ào tỏ vẽ lo lắng, ở trong góc một người đàn bà đang quằn quại rên la một cách tuyệt-vọng. Trong khi mọi người bu quanh chăm chú và nghiêm nghị nhìn anh Thức khám bệnh như nhìn một phù thủy đang làm phép, anh Thức bình tỉnh khám thấy rằng đó là một trường hợp song thai, hai đứa bé ôm quàng lấy nhau mà lại nằm ngang, không đẻ ra bằng đường tự nhiên được. Phải chở đi bệnh-viện để mổ lấy con ra, nhưng anh Thức biết rằng chuyện đó không thể có được ở đây. Không làm gì hơn được, anh bèn tạm thời dẹp sách vở qua một bên mà cố gắng xoay một đứa cho cái đầu ở vị trí thuận lợi để ra trước, rồi đến đứa kia, cuối cùng được mẹ tròn con vuông, trong sự rối rít cám ơn của mọi người mà trước đó đã được học tập để coi chúng tôi như những kẻ ác ôn, lúc nào cũng sẵn sàng "cho một mũi tên độc".
Từ đó các cô gái Mường trong bảng cũng tự nhiên hơn, cưới đùa mỗi khi tắm suối mà có chúng tôi đi lao động ngang qua, có khi còn chọc ghẹo nữa. Có anh trong phút chốc bốc đồng đã quên mình là tù đang đói rách, cũng gồng mình nhảy xuống tắm theo, chỉ tiếc là không có sẵn cục xà bông để tặng mấy cô Mường, lúc đó hẳn là muôn phần quý giá hơn cả viên kim cương đem tặng đào ở Sài Gòn nữa. Về sau mỗi cô gái Mường lại đươc đặt cho cái tên của một ca sĩ nỗi tiếng, nào là Mai-Lệ-Huyền, Phương-Dung, Giao-Linh, Phương-Hồng-Quế v…v…, để rồi lúc chiều về, trong khi ngậm ngùi nhai từng hột bo bo, thường kể cho nhau nghe rằng hôm nay đi rừng gặp được ca sĩ nào, ai nghe tưởng như mới đi phòng trà về mà tạm quên trong giây lát cái cảnh nước sông công tù mình đang sống.
Một hôm, một cô giáo hớt ha hớt hãi tìm tới chúng tôi, vì chồng cô, một bộ đội công tác ở trong Nam được về nghỉ phép, bỗng nhiên thấy mình mẩy nổi mề đay lên đỏ rần, ngứa khắp cả người. Chúng tôi đoán là bị dị ứng với trứng gà, vì thường ngày đi lao động ngang qua trường học, thấy cô giáo cứ o bế mấy con gà để chờ ngày chàng về mà bồi dưỡng. Chúng tôi bèn lục lạo đươc mấy viên thuốc Phénergan đưa hết cho cô. Mấy hôm sau đi lao động gặp lại, chúng tôi hỏi : "Sao? Anh nhà đã đỡ chưa?" Cô vui vẻ trả lời : "Thuốc các anh cho hay quá, khỏi ngay." Chưa kịp hỏi thêm thì bỗng thấy cô cúi mặt e thẹn, ấp úng nói thêm như không muốn cho chúng tôi nghe: " Nhưng ngủ li bì, về phép có năm ngày mà ngủ như chết suốt cả năm ngày". Chúng tôi hối hận vì đã cho thuốc ngủ mà không dặn trước, làm cho cô phải bỏ lỡ một cơ hội bằng vàng.
Thế rồi trạm-xá càng ngày càng đông khách, dân chúng từ xa cũng nghe đồn kéo lại để cho trạm xá được hoạt động đúng với danh nghĩa y-tế của nó. Thiện cảm và uy tín càng tăng thì, ngược đời thay, cấp chỉ huy trại càng lo lắng. Cuối cùng, Uỷ viên Chính trị trên Đoàn lập tức ra lệnh không được khám bệnh cho dân nữa, vì trái với chính sách, và lý luận rằng từ mấy ngàn năm nay họ đã chữa trị bằng lá rừng thì đã sao đâu.
Chúng tôi trở lại lao động, cũng đốn vầu đốn nứa như những anh khác.
Phải cái tội cao giò, tôi thường được chọn đi công tác gánh hàng ở xa, để gánh luôn tất cả tủi nhục của kiếp làm… tù. Buổi sáng ra đi thì còn dễ chịu, trời mát, gánh nhẹ. Nhưng buổi trưa lúc trở về, trời nắng gắt miền núi như đốt cháy da, lại phải leo đèo, mồ hôi chảy giọt, bụng đói cồn cào, cái đầu nặng trĩu, chiếc đòn gánh đè nặng trên vai đang nghiền nát da thịt như những con dao. Người cán bộ đi theo cũng không quên máng thêm vào chiếc nón cối, cái áo trấn thủ mà hồi sáng mang trong người vì trời lạnh, nay không cần nữa thì tội gì mà không để cho rãnh tay, vì tay đang bận cầm cây roi, một thứ thời trang của cán bộ quản giáo khi đi bên cạnh tù. Đã thế mà khi gặp một bạn đồng hành cán bộ cũng không quên niềm nở mời :"Đồng chí có mang gì không, đưa cho nó gánh luôn". Tôi nghe mà rụng rời, mắt hoa lên mà không dám nhắm lại vì sợ ngã sẽ không bao giờ dậy lại được, cũng không dám nhìn xa hơn mấy đầu ngón chân vì sợ không đủ can đảm để bước thêm....
Một hôm vì nhu cầu cấp cứu một bệnh nhân tù đang nguy kịch, tôi được cử theo một cán-bộ đến bệnh-viện Phù Yên để xin mấy chai nước biển. Đã lâu bị giam hãm giữa bốn bức tường núi, nay được dịp thấy lại làng mạc với cảnh sinh hoạt của nhân dân, lòng cũng không khỏi thích thú vì tầm mắt đươc hé rộng ra một chút và thỏa mãn thêm tánh tò mò nghề nghiệp muốn biết tổ chức y tế miền Bắc ra sao mà các "đồng-nghiệp " đề cao như là đúng hàng đầu trên thế-giới.
Huyện Phù Yên thuộc tỉnh Sơn La, nằm giữa một thung lũng nhỏ, bốn bề là núi nhưng rất nên thơ. Từ trại tới huyện phải đi qua ngọn đèo Bang xinh xinh, có con đường mòn uốn quanh, có hoa rừng thơm ngát. Từ trên nhìn xuống gần giống như một bức tranh Tàu, mờ mờ ảo ảo., rải rác nơi nơi là nhũng túp lều lụp xụp bám theo sườn núi. Bước vào huyện phải qua một con suối lớn, mùa khô thì chỉ là một suối đá hiền hòa thơ mộng, nhưng khi mưa xuống thì trở nên một thác lũ kinh hoàng. Bắt ngang qua suối là một cây cầu treo, gió thổỉ đu đưa, mà lại được anh em tù gán cho cái tên rất hấp dẫn để cho trí tưởng tượng được nâng cao là cầu Golden Gate. Mỗi khi gánh hàng qua Golden Gate, tôi có cảm-tưởng như mình đang là một nghệ sĩ đu dây trong một đoàn xiệc mà có thể hụt tay bất cứ lúc nào.
Bên kia cầu là một túp lều không vách, gió lộng bốn phía, đó là trường học với dăm bảy em bé ốm tong teo, bụng ỏng thề lề, mỗi đứa cầm một que củi đang cháy quơ qua quơ lại trước người cho đỡ lạnh trong những bộ áo Mường mỏng manh. Trong khi các em nghêu ngao hát bài "Hôm qua em mơ thấy Bác Hồ..." thì cô giáo đang chăm chú ngồi vá áo, mắt đăm chiêu, hình như cũng đang mơ thấy những chuyện mà dĩ nhiên khác hơn là thấy Bác Hồ. Hình ảnh đó làm cho tôi có cảm tưởng rằng Cụ Cao-Bá-Quát đã đi ngang qua đây để cảm hứng mấy câu thơ:"Một thầy một cô một chó cái,
Nửa người nửa ngợm nửa đười ươi."
Bên cạnh trường là một cái "cối giả gạo" có lẽ đã được sáng chế từ đời vua Thần Nông. Nước từ con suối nhỏ đươc dẫn qua một máng xối đục từ một thân cây, chảy xuống một thân cây dài khác, một đầu là cái chày, đầu kia đục thành một máng chứa nước. Hể máng đầy nước thì cái chày tự động ngóc lên, rồi nước bị đổ ra ngoài để cho chày giả xuống cái cối ở đằng trước. Cứ thế mà tiếp tục, cối cứ giả ngày giả đêm, tạo nên một tiếng đập nhịp nhàng khô khan để đánh thức cô giáo và lũ học trò khỏi ngủ gật. Năm thì mười họa, một năm vài lần cối mới có gạo để giả, vì dân phải đóng cho nhà nước hết ba phần tư số thu hoạch, vốn đã nghèo nàn trên những mãnh ruộng bằng bàn tay xếp thành từng tầng trên sườn núi.
Khi đến cổng bệnh viện, tôi được chứng kiến một cảnh tấp nập khác thường, nghĩ bụng rằng chương trình y tế ở đây đã thành công vì được dân chúng hưởng ứng đông đảo. Mọi người bu quanh một tấm bảng, hình như để theo dõi một thông báo gì quan trọng của bệnh viện về một biện pháp y-tế nào đó chăng. Lại gần, tôi thấy rõ thông báo như sau "Hôm nay bệnh viện có mổ lợn, bán theo giá chính-thức. Đồng bào nào muốn mua xin ghi tên ở phòng ngoại chẩn". Tôi suýt té ngửa vì sau bao nhiêu năm hoạt động trong ngành y tế tôi vẫn chưa biết được rằng cung cấp thực phẩm cho dân chúng cũng là một khía cạnh trong chương trình y-tế.Trái với cảnh xôn xao ngoài cổng, trong bệnh viện lại vắng tanh. Tìm cho ra người thủ kho để xin thuốc thì được biết cô gái Mường này bận đi hái bông lau về làm nệm để tặng một cô bạn gái sắp về nhà chồng, một tục lệ không thể bỏ được của người Mường. Lân la mãi mới gặp được bác-sĩ trực, vị này không mấy niềm nở vì đang bận cải hoạt (có nghĩa là cải tiến sinh hoạt để cho đời sống vui tươi hơn) bằng cách ngốn nghiến mấy củ khoai. Bác sĩ trực cho biết "chỉ có bác sĩ thủ trưởng mới có quyền quyết định, nhưng bác sĩ đang bận mổ." Tôi thất vọng chán chường, nghĩ đến bệnh nhân ở trại đang hấp hối mong chờ mấy giọt nước hồi sinh, nghĩ đến con đường về vừa nắng gắt vừa phải leo giốc, nghĩ đến cái dạ dày đang cồn cào vì sáng nay không may đọc được mấy chữ "thịt lợn" trên bảng thông cáo mà nước bọt cứ chảy dài (chẳng lẽ tôi lại biến thành con chó của Pavlov, hể nghe tiếng chuông là dịch tiêu hóa cứ tuông chảy rồi hay sao?) Tôi buồn rầu thất vọng, không biết bao giờ bác sĩ trưởng mới mổ xong, vả lại áo quần lem luốt thế này làm sao gặp được bác sĩ ở khu giải phẩu. Tôi đánh bạo tìm đến bác sĩ trưc hỏi : "Thế tôi có thể gặp bác sĩ thủ trưởng được không?" Lần này vị y sĩ trực vui vẻ trả lời (vì đã ngốn xong mấy củ khoai): " Được chứ, có gì đâu, anh ấy đang bận mổ lợn dưới ao đấy mà". Tôi như từ cung trăng rơi xuống.
Quả nhiên, cách đó không xa, cạnh bờ ao, năm ba người đang bao quanh một con lợn đã cạo lông trắng nõn nằm trên một tấm thớt lớn. Trong khi đó, bác sĩ thủ trưởng bệnh viện, mình trần, quần xắn tới bẹn, áo bờ-lu vắt ở hàng rào, đang nhanh nhẹn ra tay mổ bộ đồ lòng với tất cả sự nhanh nhẹn và khéo léo của một...đại giải phẩu gia.
Lẽ tất nhiên tôi phải chờ cho ông bạn đồng nghiệp thanh toán xong con lợn để giải quyết cho mấy chai nước biển rồi mới hân hoan ra về. Ra tới cổng, tôi gặp lại đám dân chúng cũng đang hân hoan thở phào nhẹ nhõm như tôi khi được tin bác sĩ đã mổ xong...lợn.
Trên đường về, lần này chiếc đòn gánh đè nặng lên vai không còn cho tôi cảm giác đau đớn như trước nữa, vì đầu óc tôi đang bị ám ảnh bởi một ý tưởng muôn phần nặng nề hơn, vì tôi đã nhìn thấy được sự thật, đã chứng kiến tận mắt một hiện tượng sinh hoạt phản ảnh lối sống của những "đồng nghiệp" bên kia bức màn tư tưởng.
Võ Tam-Anh
NGÀY QUỐC HẬN KHẮP NƠI TRÊN THẾ GIỚI
Tưởng Niệm Quốc Hận Tại Vùng Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận...
- YouTube Lễ Truy Điệu, do Cô Nam Anh / NVR HD Radio thực hiện...
http://www.youtube.com/watch?
** Hình ảnh do CH Lê Tiến Dũng (K. 4/71 Thủ Đức) thực hiện...
T
SEATTLE ,WASHINGTON
Quang cảnh lễ tưởng niệm.
Quang cảnh lễ tưởng niệm.
NGÀY QUỚC HẬN TẠI SAN DIAGO
Trụ sở Hiệp Hội Người Việt San Diego kéo cờ Rủ để Tang cho Ngày Đau Thương của đất nước Việt Nam
Vòng Hoa Tưởng Niệm
Quốc ca Hoa kỳ và Việt Nam Cộng Hòa trong nghi lễ chào Cờ Việt Mỹ
Đại Diện Lực Lượng Chiến Sĩ VNCH San Diego nhận Quân Kỳ trong nghi Lễ Gác Cờ Rủ của Quân Lực VNCH
Chủ Tịch Hiệp Hội Người Việt San Diego và Đại Diện Lực Lượng Chiến Sĩ VNCH San Diego đặt vòng Hoa
Lực Lượng Chiến Sĩ VNCH/SD trong hợp ca " Chiến Sĩ Vô Danh " và " Lục Quân Hành Khúc"
Chủ Tịch HHNV/SD Phạm Thanh Liêm dứt khoát: Không Hòa Hợp Hòa Giải với Việt cộng, tích cực yễm trợ các tổ chức, đoàn thể, các nhà đấu tranh dân chủ chân chính trong nước đứng lên giải thể chế độ cộng sản bằng mọi cách để xây dựng một chính quyền thực sự do dân bầu ra, vì dân mà phục vụ đúng nghĩa
Lực Lượng Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa San Diego chúng tôi vẫn theo đuổi lý tưởng Tư Do, Dân Chủ cho dân tộc VN một cách kiên trì không suy suyển, không chối bỏ căn cước tị nạn chính trị của mình, hiên ngang chiến đấu với cộng sản trên nhiều mặt trận, không hòa hợp hoà giải với VC, không thể để bị phỉnh gạt thêm một lần nào nữa, chúng tôi tự hào và hãnh diện với sự lựa chọn đúng đắn đó cho đến khi nào chế độ vô thần vô nhân đó sụp đổ không còn hiện hữu trên quê hương mến yêu.”. Ông Trần Sơn: Đại Diện Lực Lượng Chiến Sĩ VNCH San Diego rõ ràng trong lập trường
Cựu Đại Tá Phùng Ngọc Sa đọc Tuyên Cáo Ngày Quốc Hận của các tổ chức, hội đoàn thành viên trong Hiệp Hội Người Việt San Diego và Lực Lượng Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa san Diego
Luật sư Đinh Thạch Bích, diễn giả chính trong Lễ Tưởng Niệm xúc động khi trình bày những kinh nghiệm đau thương của mình và thân hữu dưới chế độ cộng sản
Thùy Trang thiết tha trong nhạc phẩm " Đêm Chôn Dầu Vượt Biển "
Ban Văn Nghệ Hiệp Hội Người Việt SD với những bài hùng ca đấu tranh
Đồng hương tham dự Lễ Tưởng Niệm Ngày Quốc Hận 30/4 tại Trụ sở Hiệp Hội Người Việt San Diego
Thắp nến Tưởng Niệm nạn nhân của Việt cộng
Câu Lạc Bộ Sân Khấu Nhỏ từ Santa Ana về đóng góp cho chương trình văn nghệ đấu tranh Ngày Quốc Hận
http://www.lyhuong.net/uc/index.php/30-04/3544-3544
NGÀY QUỐC HẬN TẠI ORANGE COUNTY.CA
Hình ảnh Lễ ngày Quốc Hận Tại Tampa Bay FLORIDA
VẬN ĐỘNG NHÂN QUYỀN TẠI QUỐC HỘI HOA KỲ
Phóng sự hình
ảnh cuộc biểu tình Quốc Hận 30 tháng Tư tại London,
Anh quốc ngày 26/4/2014
Điểm
khởi hành
Ông Nguyễn Văn Thi
Bà Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
Ông Lê Phát Định
Ông Ngô Ngọc Hiếu
Ông. Bùi Văn Tu và Ông Nguyễn Bá
Đạt
Ông Ngô Đình Thiện
Điềm Trời tiên báo: Cờ Việt cộng bị
cuốn trước khí thế của đoàn người biểu tình!
Úc Châu: 39 Năm Quốc Hận
Posted on April 29, 2014 by DaVang
Chủ tịch CĐNVTD/Wollongong - Trần Hương Thủy
Quý vị có thể bấm vào LINK phía dưới
để đọc bài diễn văn
của chị Thủy trong cuộc biểu tình Quốc Hận 2014
http://www.lyhuong.net/uc/index.php/30-04/3528-3528
Thượng Nghị Sĩ Chris Hayes – http://www.chrishayesmp.com/
From: Phong Le <Phong@ttran.com.au>
Sent: Friday, May 2, 2014 5:32 PM
Subject: Anzac Day 2014 Photos.
Sent: Friday, May 2, 2014 5:32 PM
Subject: Anzac Day 2014 Photos.
Vài hình chụp Anzac Day Wollongong
Các cựu sinh viên sĩ quan VB – NSW làm lể Truy Điệu
quân dân cán chánh VNCH & Đồng minh đã hy sinh trong cuộc chiến VN
tại Vietnam War Memorial - Wollongong
quân dân cán chánh VNCH & Đồng minh đã hy sinh trong cuộc chiến VN
tại Vietnam War Memorial - Wollongong
Dem thap thap nen tuong niem 30 thang 4 cua Cong dong Nguoi Viet Tu do Tieu bang NSW toi 30 thang 4 tai Trung tam Sinh hoat Cong dong Nguoi Viet Tu do Tieu bang NSW
http://s1136.photobucket.com/user/Nik0301/library/DEM%20THAP%20NEN%20%20%20Tuong%20niem%20bien%20co%2030-04-1975?sort=2&page=1
Biểu Tình Ngày Quốc Hận 30/4/2014 tại Hoà Lan
Demonstration in front of the vietnamese communist embassy, Nassauplein 12, 2585 EB Den Haag (The Hague), Holland (The Hague, Netherlands). Sunday, April 27th 2014. Photo courtesy of Hans Smeekens.
Đức Quốc: Hình Ảnh Mùa Quốc Hận tại Frankfurt 27.4.2013
Xin cám ơn Quý bạn Trungduong Tnguyen đã chuyển hình ảnh.
Lễ Tưởng Niệm NGÀY QUỐC HẬN 2014 tại Toronto
Hôm
Thứ Bảy 26 tháng Tư 2014, tại Quảng trường Nathan Philips, City Hall
Toronto, Hội Cựu Quân Nhân Ontario đã tổ chức Lễ Tưởng Niệm Ngày Quốc
Hận có sự tham dự của Bộ Trưởng Jason Kenney, Minister of Employment and
Social Development & Minister for Multiculturalism; Thượng Nghị Sĩ
Ngô Thanh Hải; Ông Ted Orpit, Dân Biểu Liên Bang Vùng Etobicoke Centre
và một số quan khách, hội đoàn, tổ chức chính trị, đảng phái do Ban Tổ
Chức mời và khoảng hơn năm trăm đồng bào tham dự.
Sau phần văn nghệ đấu tranh từ 10 giờ sáng, chương trình mở đầu cho Lễ Tưởng niệm là phần rước Quốc kỳ Canada, Việt Nam Cộng Hòa và Quân Kỳ Tổng Tham Mưu. Kế đến, xướng ngôn viên mời các quan khách duyệt hàng quân danh dự của các hội viên Hội Cựu Quân Nhân Ontario do Ban Tổ chức hướng dẫn gồm Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải, Bộ Trưởng Jason Kenney và Dân biểu Ted Orpit.
Ngay sau Lễ Chào Quốc Kỳ Canada & Việt Nam Cộng Hòa và phút mặc niệm là diễn văn khai mạc của chiến hữu Đồng Văn Minh, chủ tịch Hội Cựu Quân Nhân Ontario với lời chào mừng quan khách và đồng bào tham dự.
Tiếp theo là diễn văn của Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải nói về ý nghĩa tưởng niệm Ngày Quốc Hận và những đề nghị. Ông Bộ Trưởng Jason Kenney, Bộ Trưởng Bộ Nhân Dụng/Phát Triển Xã Hội và Đa Văn Hóa Canada nói đến những đóng góp của Cộng Đồng Người Việt tại Canada. Ông cũng nói về Dự Án Xây Đài Tưởng Niệm nạn nhân cộng sản và Dự án Xây cất Viện Bảo Tàng thuyền Nhân tại Thủ đô Ottawa và kêu gọi sự ủng hộ của mọi người đã từng sống trong chế độ cộng sản nay đã di dân đến Canada, đặc biệt là những Thuyền Nhân Việt Nam.
Trước khi ra về, Bộ Trưởng Jason Kenney, Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải và Dân Biểu Ted Orpit đã đến bắt tay thăm hỏi và chụp hình lưu niệm với các hội viên Hội Ái Hữu Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức Ontario, mặc thường phục màu đen và khăn quàng cổ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, đứng xếp hàng nghiêm chỉnh phía bên trái những hàng ghế của quan khách và đồng bào tham dự Lễ Tưởng Niệm Ngày Quốc Hận.
Năm nay, Ban Chấp Hành Hội Ái Hữu Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức Ontario có đề nghị với Ban Tổ Chức Lễ Chào Cờ nên hủy bỏ phần nghi thức duyệt hàng quân trong Ngày Quốc Hận vì nhận thấy không phù hợp với tinh thần và ý nghĩa của Ngày Quốc Hận, nhưng chiến hữu Đồng Văn Minh, chủ tịch Hội Cựu Quân Nhân đã không đồng ý và quyết định vẫn giữ nghi thức duyệt hàng quân như hai năm trước đây 2012 & 2013, do đó, các hội viên Hội Ái Hữu Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức Ontario đã không mặc quân phục tiểu lễ Sinh Viên Sĩ Quan để khỏi đứng trong hàng quân danh dự. Dù rằng, quân đội của chúng ta không còn hiện hữu, nhưng danh dự của các quân nhân đã từng chiến đấu đang đứng trong hàng quân là điều Ban Tổ Chức nên có suy nghĩ!
Tuy nhiên việc tổ chức duyệt hàng quân danh dự năm nay có phần thay đổi quan trọng, chỉ có ba vị khách đại diện chính quyền đi ngang hàng quân một cách nhanh chóng, không bắt tay từng người như phái đoàn năm trước.
Năm
ngoái, Ban Tổ Chức mời một phái đoàn gồm nhiều thành phần, ngoài vị đại
diện chính phủ còn có cựu sĩ quan VNCH, hạ sĩ quan cảnh sát Canada, và
người Việt dân sự được Ban Tổ chức mời đi duyệt hàng quân khiến đồng bào
nghĩ rằng họ đang ăn mừng chiến thắng chứ không phải tưởng niệm Ngày
Quốc Hận.
Sau
khi tham dự Lễ Tưởng Niệm Ngày Quốc Hận, các hội viên Hội Ái Hữu Cựu
Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức đã đến trụ sở tạm thời của Hội dự phần
sinh hoạt để nhắc nhớ những kỷ niệm trong những ngày cuối Tháng Tư 1975.
Các hội viên huynh đệ đã chia sẻ những kỷ niệm của chính mình trong
Ngày Cuối Tháng Tư Đen, Tháng Tư trắc trở, Tháng Tư nghẹn ngào và vẫn
còn khắc khoải trong thâm tâm của những người Lính Việt Nam Cộng Hòa,
với những giọt nuớc mắt kỷ niệm trong lúc kể lại những câu chuyện của
một người lính đã một thời hy sinh, một đời chiến đấu cho Tự Do, cho
đồng bào Miền Nam Việt Nam.
Trong dịp nầy có hai câu chuyện thương tâm được nhắc đến.
Câu
chuyện trước do một em hậu duệ kể lại, em đã mục kích thi hài của Trung
Tá Nguyễn Văn Long sau khi ông tự sát trước Tượng đài Thủy Quân Lục
Chiến tại công trường Lam Sơn ngày 30 Tháng Tư, 1975.
Labels:
TINH THẦN DIÊN HỒNG 9
THANH TÙNG NGUYỄN * 30/04/1975
Những mẩu chuyện chân thực về ngày 30/04/1975
1Anh biết
hai người anh, một người gọi là anh Cả vì sinh ra và lớn lên ở Hà Nội,
một người gọi là anh Hai vì sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn. Năm 74, anh
Hai tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt, ngày tốt nghiệp là ngày nổ súng ở Hoàng Sa.
Năm 74, anh Cả tốt nghiệp lớp 10 và tình nguyện nhập ngũ. Năm 75, anh
Cả, áo Tô Châu, mũ cối, dép râu, ngồi xe Giải phóng chạy sau xe tăng kéo
vào Đà Nẵng. Năm 75, hạm tàu xuôi Nam, anh Hai đứng nhìn những xà lan
đầy người tị nạn bị cắt dây bỏ lại giữa trùng dương sóng vỗ.
Ngày 25, anh Hai rời Vũng Tàu về Sài Gòn tìm vợ con. Ngày 25, anh Cả biên vài chữ gửi miền Bắc - "bọn con sắp tới Sài Gòn".
Sáng 28, anh Hai trình diện ở Bộ Tư lệnh Hải quân. Viên Trung tá già lắc đầu bảo anh Hai "Long Thành đã bị cộng quân chiếm, trung úy chẳng thể đi bằng đường bộ." Anh Hai trả lời "nhưng tôi phải về với hạm đội". Chiều 28 anh xuống tàu tuần giang nhằm hướng Vũng Tàu.
Sáng 28, người đại đội trưởng, dân tập kết lôi anh Cả khỏi chiếc T-54 đi đầu: "Ngồi phía sau, xe đi đầu thường bao giờ cũng bị bắn trúng". Chiều 28, một quả M72 bắn trúng tháp pháo chiếc tăng đi giữa. Anh Cả bay một vòng và rơi xuống cách chiếc tăng 5 mét. Khi mở mắt, anh Cả thấy người đại đội trưởng già nằm nghiêng không nhắm mắt.
Ngày 29, anh Hai nhận lệnh của Bộ tư lệnh Hải quân "hễ thấy A37 bay qua, không kể phi đoàn nào cũng bắn!". Ngày 29, anh Cả tháo cây B41 khỏi tay người bạn. Xe cháy rực đường, bộ đội ngổn ngang bên vệ cỏ. Người chính trị viên gào to lạc giọng "để lại cho đồng bào, để lại cho đồng bào, về Sài gòn thẳng tiến".
Trưa ngày 30, người hoa tiêu lay anh Hai dậy "đầu hàng rồi thày ơi!" anh Hai ngước nhìn lên trời xanh hun hút. Ngoài khơi thuyền đan san sát, hạm đội đang về Nam. Anh Hai xả nước cho chìm tàu tuần giang, theo hạm đội về tập kết Côn Đảo.
Trưa ngày 30, anh Cả lặng đi khi thấy dinh Độc Lập, 18 tuổi, anh đã đi chặng cuối con đường dài 30 năm của dân tộc.
Ngày mồng 1, anh Cả nheo mắt, đứng ngắm nhìn nắng nhảy múa trên ngọn cây Sở thú, cây AK vẫn sẵn sàng bên hông. Ba mươi năm sau giữa Sài Gòn, anh Cả bảo "thời chiến tranh tao bắn nhiều mà chẳng trúng được ai, bắn con người khó lắm."
Chiều ngày 1, anh Hai nhìn những con tàu nổi khói về phía Thái Lan. Không còn hạm đội, không còn Hải quân, chỉ duy nhất hạm tàu anh quay trở lại. Ba mươi năm sau giữa Sài Gòn, anh chỉ con gái bảo "ngày đó anh quay về là vì con bé" và anh thêm "nhưng đến giờ nghĩ lại việc đã qua, anh vẫn không thấy tiếc".
Ngày 25, anh Hai rời Vũng Tàu về Sài Gòn tìm vợ con. Ngày 25, anh Cả biên vài chữ gửi miền Bắc - "bọn con sắp tới Sài Gòn".
Sáng 28, anh Hai trình diện ở Bộ Tư lệnh Hải quân. Viên Trung tá già lắc đầu bảo anh Hai "Long Thành đã bị cộng quân chiếm, trung úy chẳng thể đi bằng đường bộ." Anh Hai trả lời "nhưng tôi phải về với hạm đội". Chiều 28 anh xuống tàu tuần giang nhằm hướng Vũng Tàu.
Sáng 28, người đại đội trưởng, dân tập kết lôi anh Cả khỏi chiếc T-54 đi đầu: "Ngồi phía sau, xe đi đầu thường bao giờ cũng bị bắn trúng". Chiều 28, một quả M72 bắn trúng tháp pháo chiếc tăng đi giữa. Anh Cả bay một vòng và rơi xuống cách chiếc tăng 5 mét. Khi mở mắt, anh Cả thấy người đại đội trưởng già nằm nghiêng không nhắm mắt.
Ngày 29, anh Hai nhận lệnh của Bộ tư lệnh Hải quân "hễ thấy A37 bay qua, không kể phi đoàn nào cũng bắn!". Ngày 29, anh Cả tháo cây B41 khỏi tay người bạn. Xe cháy rực đường, bộ đội ngổn ngang bên vệ cỏ. Người chính trị viên gào to lạc giọng "để lại cho đồng bào, để lại cho đồng bào, về Sài gòn thẳng tiến".
Trưa ngày 30, người hoa tiêu lay anh Hai dậy "đầu hàng rồi thày ơi!" anh Hai ngước nhìn lên trời xanh hun hút. Ngoài khơi thuyền đan san sát, hạm đội đang về Nam. Anh Hai xả nước cho chìm tàu tuần giang, theo hạm đội về tập kết Côn Đảo.
Trưa ngày 30, anh Cả lặng đi khi thấy dinh Độc Lập, 18 tuổi, anh đã đi chặng cuối con đường dài 30 năm của dân tộc.
Ngày mồng 1, anh Cả nheo mắt, đứng ngắm nhìn nắng nhảy múa trên ngọn cây Sở thú, cây AK vẫn sẵn sàng bên hông. Ba mươi năm sau giữa Sài Gòn, anh Cả bảo "thời chiến tranh tao bắn nhiều mà chẳng trúng được ai, bắn con người khó lắm."
Chiều ngày 1, anh Hai nhìn những con tàu nổi khói về phía Thái Lan. Không còn hạm đội, không còn Hải quân, chỉ duy nhất hạm tàu anh quay trở lại. Ba mươi năm sau giữa Sài Gòn, anh chỉ con gái bảo "ngày đó anh quay về là vì con bé" và anh thêm "nhưng đến giờ nghĩ lại việc đã qua, anh vẫn không thấy tiếc".
★★★
2Anh thường được mọi người gọi là Thày Hai. Anh cao lêu đêu như một cái sào nên đôi khi bạn bè cũng gọi anh là ông "Sào". Thày Hai nhập ngũ cuối năm 1974. Ngày chưa nhập ngũ, thày Hai học ở ngôi trường cấp ba cổ kính ven Hồ Tây. Trường có một truyền thống lâu đời và đã đào tạo một số các nhà lãnh đạo chủ chốt của cách mạng. Tuy nhiên, thày Hai là dân siêu quậy. Thứ hai nào tên thày Hai cũng được nêu lên trước toàn trường vì thành tích quậy phá của mình. Năm 1974, thày Hai nhập ngũ dù chưa đủ tuổi. Ba thày Hai, quá mệt vì cái sự quậy của thày, khi nghe tin thày nhập ngũ đã nói "thôi thà mày hy sinh cho Tổ quốc còn hơn!".
Đầu năm 75, thày Hai vượt Trường Sơn vào Nam và được phiên chế vào lực lượng an ninh Miền. Thày di chuyển theo bộ tư lệnh Miền từ Tây Ninh về tới Củ Chi theo nhịp tiến của các cánh quân giải phóng Sài Gòn. Ngày 29/4/1975, đại đội của thày Hai được tập hợp lại. Người chính trị viên phổ biến cho mọi người rằng Sài Gòn sắp giải phóng, đại đội sẽ thọc sâu vào Sài Gòn để làm một nhiệm vụ đặc biệt - giải cứu ông Nguyễn Tài - người tù nhân trong căn phòng trắng. Mọi người được phổ biến rằng họ sẽ vượt trước các đơn vị quân đội, thọc sâu vào trung tâm Sài Gòn. Trên đường đi, họ sẽ phải bỏ qua mọi ổ kháng cự để đến được nơi giam giữ ông Nguyễn Tài - vị trí đã được tình báo xác định. Đại đội sẽ phải chốt lại đó để bảo vệ ông Tài tới khi viện binh tới hoặc mở đường máu để rút về Củ Chi nếu tình hình chiến sự giằng dai. Thày Hai cao to nên được giao giữ một cây trung liên của Liên Xô mới coong.
Đêm 29 mọi người không ngủ. Mờ sáng 30/4 cả đại đội ra ven rừng đợi xe của Miền tới. Thày Hai ôm cây trung liên và bốn trăm viên đạn đeo xệ hông. Tất cả ngồi yên nhìn đăm đăm ra bìa rừng và lắng nghe tiếng pháo tầm xa vọng từ Sài Gòn về. Mấy người bạn là lính cựu ghé tai thày Hai: "Hai ơi, mày còn gì ăn trong ba lô thì mang ra hết đi. Mày giữ trung liên thì chắc chắn phải chốt hậu. Giữ thức ăn mà làm gì!" Thày Hai tới lúc đó mới hiểu tại sao những người lính cựu thường tránh nhiệm vụ giữ cây trung liên của đại đội. Mười bảy tuổi, ôm cây trung liên bên bìa rừng Củ Chi trong bảng lảng sương sớm, thày Hai chợt nhớ ánh nắng bên Hồ Tây những ngày thơ quậy phá.
Chờ mãi, chờ mãi, xe của Miền không tới. Tới trưa, một người sỹ quan chạy từ trong rừng tới reo to "đầu hàng rồi, Dương Văn Minh đầu hàng rồi, đang đọc trên đài đó!" Ngày hôm sau, thày Hai vào nội đô, cây trung liên vẫn đeo lệch bên vai, mười bảy tuổi và nhiều tháng năm còn ở phía trước.
★★★
3Cậu Út là nông dân. Ngày ngày cậu dẫn trâu ra đồng nhưng cậu lái được cả xe tải lẫn công nông. Thời chiến tranh, cậu lái tăng T-54 và mất một mắt tại Sài Gòn vào ngày 30/4.
Cậu nhập ngũ năm 1973 và vì to khỏe nên được bổ sung về bộ đội tăng thiết giáp. “Hồi 72, binh chủng thiệt hại nặng ở Quảng Trị. Thế nên đơn bọn tao chỉ có cán bộ khung là cựu binh, còn lại đều là lính mới hết” cậu kể. – “hai năm liền, cán bộ của bọn tao, các ông ấy đã thấy tổn thất năm 72 thế nào, nên rèn bọn tao ra thành bã.” Đầu năm 1975, cậu Út vượt Trường Sơn vào Sài Gòn.
“Bọn tao nhận xe mới ở Kép rồi ngồi tàu vào tới tận Vinh. Từ đó bọn tao chạy lên đường Trường Sơn. Hồi trước thì thế nào không biết chứ đầu năm 75, lúc bọn tao vào đường đã tốt lắm. Xe chạy ban ngày không cần ngụy trang, đi tới binh trạm nào có bồn tiếp xăng tới đó. Suốt từ Tây Nguyên xuống tới Tây Bắc Sài Gòn, bọn tao đánh đâu thắng đó. Nhiều nơi, chỉ thấy bóng xe tăng là quân ngụy bỏ chạy. Suốt cả đường hành quân từ Bắc vào tới ngoại ô Sài Gòn, bọn tao bị mất có mỗi một người vì nó gãy chân khi trượt từ tháp pháo xuống. Thế nhưng ngày 30/4, đại đội bọn tao mất một nửa số xe, ngay cửa ngõ Sài Gòn”.
Ngày 30/4, ba chiếc xe của đại đội cậu bị bắn cháy gần Nhà Thờ Ba Chuông. Những người bộ binh lôi cậu ra khỏi chiếc xe tăng rực cháy. Lúc đó cậu không nhìn thấy gì cả vì máu tràn khắp mặt. Sau này, bác sỹ nói là mắt trái của cậu bị thương nặng quá không thể cứu được. Tôi nói với cậu rằng ảnh của ba chiếc xe tăng cháy của đại đội cậu có thể tìm thấy trên mạng. Cậu tròn mắt khi tôi cho cậu thấy hình ảnh những hình ảnh đó. Tôi nhận xét rằng ba chiếc xe bị bắn cháy rất gần nhau, và khi vào thành phố, xe tăng không thể đi hàng dọc như thế. Tôi dịch cho cậu hồi ký của tướng Chuikov, vị chỉ huy của Stalingrad và cũng là người anh hùng công phá Berline. Trong hồi ký của người được mệnh danh là chuyên gia về chiến đấu trong thành thị này, ông nói rằng khi tiến vào Berline, các xe tăng Xô Viết áp dụng một chiến thuật là cho xe tăng chạy hai bên lề phố, với bộ binh tỏa ra hai bên và phía trước để tạo ra một hàng rào bảo vệ xe tăng khỏi lính chống tăng của kẻ thù. Mỗi xe tăng sẽ bắn trùm lên bất kỳ mục tiêu nào ở phía hè đối diện. Bằng cách đó, những người lính Xô Viết đã mang xe tăng tới tận cổng Brandenburg. Nghe những điều đó, cậu Út thở dài “giá ngày đó bọn tao có internet. Lũ chúng tao suốt 2 năm toàn được huấn luyện cường tập cứ điểm và đánh thọc sâu. Cán bộ chúng tao cũng chẳng có ai sinh ra ở thành phố. Hồi đó, chẳng ai nghĩ là miền Nam giải phóng nhanh đến thế nên cũng chẳng được học chiến đấu trong thành phố thế nào.” Cậu ngừng một lúc, nhìn xa xăm “mà thực ra, lúc đó bọn tao chạy sát thế, phần vì chủ quan nghĩ là chúng nó đã chạy hết, phần vì sợ lạc trong thành phố. Nói ra thì xấu hổ, nhưng đúng là chúng tao ngồi trên xe tăng thế nhưng mà lại sợ lạc.” Cậu chỉ vào bức ảnh và nói “in cho cậu cái này, ba mươi năm rồi tao không thấy lại cái xe của mình. Thấy cái này, tự nhiên tao nhớ xe tao quá”.
Đã hơn 35 năm kể từ ngày giải phóng, cậu tôi chưa từng trở lại Sài Gòn.
★★★
4Tôi gọi ông đơn giản là Trung tá. Trung tá có một quán cơm Tàu. Lần đầu tôi gặp Trung tá là khi tôi hết sạch số mì gói mang theo và quyết định lần đầu tiên bước chân vào một quán ăn ở Mỹ. Lần đầu tiên ở nước ngoài, một mình trong một khu campus hoang vắng vì sinh viên nghỉ hè hết. Chiều hôm đó, trời đổ mưa, mưa trên Tucson, mưa trên hoang mạc. Tôi bước vào quán và order thứ rẻ nhất có thể - cơm rang. Trong túi tôi lúc đó có $200 mà học bổng Fulbright cấp để đi đường – tôi sẽ phải sống với số tiền đó tới khi có học bổng tháng đầu tiên, ngoài số tiền đó ra, cá nhân tôi không còn tiền nào khác.
Trung tá nghe tôi order rồi quay vào. Trời mưa, một mình tôi trong quán. Ngày đó không có iPad, không có smartphone để đọc chuyện khi rỗi. Tôi lục tung túi của mình và chỉ tìm thấy tờ giấy duy nhất có chữ là tờ 500 đồng. Tôi giết thời giờ bằng việc đếm các hoạ tiết trên đồng tiền. Trung tá bưng cơm ra, nhìn đồng tiền tôi cầm trên tay và hỏi bằng tiếng Việt “con mới từ bển qua?” Trời mưa, quán vắng, Trung tá ngồi xuống nói chuyện bâng quơ quê ở đâu, sang đây học gì với tôi. Thái độ Trung tá ân cần nhưng hơi lạnh. Sau này, tôi mới biết rằng lúc đó Trung tá lạnh lùng vì nghĩ tôi là con quan lớn bên Việt Nam nên mới có tiền qua học luật. Sau này, vẫn từng đó tiền nhưng tôi phát hiện ra đồ ăn của mình thường nhiều hơn rõ rệt, Trung tá không nói nhưng thương sinh viên nghèo.
Có lần gần ngày 30/4, tôi hỏi Trung tá “hồi 75 trung tá chạy ra sao?” (Trung tá luôn thích mọi người gọi ông theo chức vụ đó). Trung tá trả lời chầm chậm, ngắt đoạn, thỉnh thoảng lại như chìm vào ký ức. Nói một cách ngắn gọn là khi cất cánh, từ trên cao, Trung tá nhìn thấy hàng đoàn xe tăng T-54 bật đèn pha trên xa lộ tiến vào thành phố. Lúc đó là sớm ngày 30/4. Tôi nói rằng cậu Út tôi lái một trong những chiếc xe tăng tiến về hướng sân bay Tân Sân Nhất lúc đó. Trung tá thở dài “lúc đó trong kho còn đầy hoả tiễn chống tăng, nếu lắp vô mà bắn chắc cháy nhiều lắm. Nhưng tụi qua cũng ngán hoả tiễn vác vai của Cộng quân, nên chẳng ai ra đánh cả. Cũng may thế nên qua với cậu của con mới còn sống tới giờ.” Tôi nói là cậu tôi vẫn sống nhưng xe của cậu và hai xe khác bị bắng cháy vào sáng 30/4. Trung tá tặc lưỡi “chiến tranh mà”. Trung tá kể, sau khi đẩy chiếc UH-1 rơi khỏi tàu sân bay, Trung tá đứng nhìn chiếc mõm vẽ nanh cá mập chìm sâu xuống nước biển và nhận thấy một quãng đời tung hoành đã chấm dứt. Vì thạo tiếng Anh nên ngay khi đến Mỹ Trung tá được được một tổ chức từ thiện giới thiệu cho một công việc trông nom tiệm giặt ủi. Trung tá gặp người chủ, cũng là một cựu binh Việt Nam. Người chủ Mỹ nói “tao chỉ là trung sĩ bộ binh khi ở Việt Nam, còn mày là trung tá phi công, mày có thấy vấn đề gì khi làm cho tao không?” Trung tá trả lời rất hăng hái “tao bắt đầu cuộc sống mới rồi, trung tá là thời ở bên đó, tao sẽ làm tốt công việc này.” Trung tá kể “thế nhưng đêm đó, qua nằm trong kho chứa đồ của tiệm vì lúc đó chưa có chỗ mướn để ở, nằm một mình lạnh lẽo và nghĩ tới vợ con đang ở Việt Nam, qua khóc như trẻ con”. Giờ các con của Trung tá đã lớn cả, đã làm kỹ sư, dược sỹ ở đâu đó bên Texas, tiệm chỉ còn Trung tá và vợ trông nom. 28 năm kể từ ngày rời Việt Nam, Trung tá vẫn chưa một lần về thăm quê. “Qua nhớ Đà lạt lắm, nhưng sợ Cộng Sản chẳng dám về!” Tôi cười và nói là tôi vẫn đang là đoàn viên thanh niên cộng sản. Trung tá lắc đầu mệt mỏi “chuyện chánh trị mệt lắm, con ở lại đây đi, qua mối cho con bé họ hàng bên bà xã, nó có tiệm nail đủ nuôi con học làm luật sư. Con về bên đó không đủ gạo mà ăn đâu!” (đó là năm 2003, nhưng Trung tá không biết xài internet, mọi điều Trung tá đọc là mấy tờ báo địa phương). Tôi cứ cười và không bao giờ tranh cãi với Trung tá. Ngày tôi về nước, Trung tá đưa cho tôi mẩu địa chỉ nói “về bên đó mà đói quá cứ viết cho qua, nếu con sang lại đây được, qua kiếm đứa khác cho mà làm vợ!” Tôi tặng Trung tá tờ 500 đồng mà tôi đã cầm ngày đầu gặp mặt. Trung tá cầm đồng tiền và cất cẩn thận trong ví. Trung tá biết tôi tặng Trung tá đồng tiền không phải vì giá trị của nó mà vì hình ảnh mà nó mang theo.
Ngày tôi rời Tucson, khi máy bay cất cánh, tôi nhìn thấy bầu trời đêm đang ửng hồng nắng sớm. Trên xa lộ, từng đoàn xe đang bật đèn chạy. Bỏ lại nước Mỹ sau lưng, tự nhiên tôi thấy cảnh đó giống cảnh Trung tá đã nhìn khi ông từ trên máy bay ngoảnh lại Sài Gòn lần cuối với từng đoàn xe tăng đang bật đèn tiến vào thành phố. Tuy nhiên có một điều khác, lúc đó, tôi nói với chính mình “I’am going home!”
© Thái Bảo Anh
Tác Giả: Thanh Tung Nguyen
Gửi email ☀ Facebook ☀ Google +
Thursday, May 1, 2014
BẢO GIANG * HỒI KÝ THÁNG 4-75
Chuyến bay cuối
Bảo Giang (Danlambao) -
"Viết cho ngày 30- 4- 1975, viết tặng cho những ai đi trên chuyến bay
cuối cùng rời Đà Nẵng vào trưa ngày 29-3-75. Đặc biệt, cho một người
lính trẻ tên Trực, đã trở về với sự sống bằng cách ôm... chân chiếc máy
bay Boeing 727 trong chuyến bay có một không hai trong lịch sử chiến
tranh Việt Nam."
Cùng với lớp sóng người cuồn cuộn, chạy giặc bằng đôi mắt trắng ngược
xuôi trên đường là từng đoàn, từng toán quân bị tan rã, bị đuổi bắt,
đang hốt hoảng, hỗn loạn kéo nhau về thành phố. Họ kéo nhau về từ muôn
lối, muôn ngả và bằng đủ mọi loại phương cách khác nhau. Kẻ trên xe,
người chạy bộ. Kẻ hò hét, người khóc lóc. Kẻ gánh gồng, người ôm vũ khí,
kẻ còn... tay không. Nhưng dù họ về bằng bất cứ phương tiện nào, hay từ
bất cứ con đường nào đi chăng nữa, tất cả những con người này, quân
cũng như dân, từ già cả đến trẻ, không phân biệt gái, trai đều có chung
một khuôn mẫu giống nhau. Khuôn mẫu áy chính là sự kinh hoàng, hoảng
hốt, lo sợ vẫn còn in hằn trên khuôn mặt, hiện diện trên ánh mắt và
trong lời nói của người chạy loạn.
Những tưởng rằng, khi họ đặt chân vào được thành phố, những dấu vết kinh
hoàng, lo sợ kia sẽ được bỏ lại sau lưng. Ai ngờ, những nỗi nhọc nhằn
thống khổ kia không chịu dừng lại khi bàn chân của họ đã thực sự bước
vào trong lòng phố. Trái lại, nó còn tăng theo cường độ của lo âu bởi
những bản tin đồn. Tin đồn mất nước, mất thành phố. Những bản tin đồn
kém vui này càng lúc càng nhiều, người dân chạy loạn không còn biết tin
vào ai. Họ dáo dác đôi mắt, nhìn trước nhìn sau, chỗ nào cũng thấy trống
trải khó mà tìm được nơi an thân. Bởi vì:
Khi nhìn lên, tiếng động cơ của các loại máy bay vần vũ không ngớt, Ngó
ra khơi, tiếng máy tầu như mỗi lúc càng vỗ mạnh vào bờ. Và trên đường
phố thì tiếng còi xe thi nhau kéo inh ỏi lẫn trong những tiếng chửi thề,
văng tục. Vào lúc ấy, người dân chạy giặc hầu như đã mất hẳn niềm tin
vào mảnh đất, nơi mà trước đó ít lâu họ ao ước được chạy đến bên nó, để
nhờ nó giang tay ra bao bọc lấy mình. Có ngờ đâu, khi họ đã đổi cả sinh
mạng, tài sản của gia đình để đến được nơi mong ước đó, họ mới biết được
một điều - chẳng có phần đất nào gọi là tạm yên để dừng chân cho người
dân Việt, khi đôi dép râu và cái mũ cối của loài Hồ đã úp chụp xuống bên
đường.
Thành phố Đà Nẵng không nhỏ và sinh hoạt thường nhật của Đà Nẵng được
chia ra làm nhiều khu vực mang tính cách riêng biệt, khác nhau như: Vùng
phi trường, khu bến cảng, khu thuộc bộ tư lệnh quân đoàn, khu tòa hành
chánh, trường học, chợ, nhà thương v.v... Sinh hoạt ở đây vốn dĩ ngột
ngạt, phức tạp, nay bỗng nhiên cùng lúc phải đón nhận thêm những lớp
sóng người tràn về như thác lũ, thành phố như oằn mình, cong lưng. Hoặc
giả, muốn gãy đổ, bẹp dí xuống theo dấu chân của những người vừa đè lên
mình nó. Vào lúc ấy, Đà Nẵng hầu như không còn lấy một khu đất trống. Từ
trường học, nhà thương, đến bến tàu, công viên, hè phố... đâu đâu cũng
thấy người nằm la liệt và thế là Đà Nẵng của niềm tin yêu đang chìm vào
trong hỗn loạn.
Người về chưa tìm được chỗ tạm dung thân, cư dân của thành phố đã vội
lên cơn sốt, ngồi đứng không yên. Họ không yên tâm bởi vì tiếng đạn pháo
đã nổ gần sát đâu đây. Và càng lo lắng hơn vì một bản tin chưa rõ xuất
xứ nhưng cứ lao đi vùn vụt: Đà Nẵng rồi ra sẽ chịu chung một số phận bị
rút bỏ giống như Huế, Quảng Trị! Từ khúc quanh ấy, Đà Nẵng không còn là
Đà Nẵng của yêu thương, của bao bọc, của bất khuất, của tự hào. Đà Nẵng
đang biến thành nơi của toan tính, nơi của lừa đảo phản bội. Nói cách
khác, Đà Nẵng không còn đủ hấp lực để lưu giữ bước chân người ở lại. Kẻ
mới đến, dĩ nhiên phải tìm đường đi tiếp, nhưng chính những người từng
sống với nó thì cũng không kém phần quyết liệt, phải bỏ lại sau lưng
khung trời và vùng đất đã bao bọc lấy âm phần của họ qua nhiều đời, phải
đạp lên trên xác của người mới về mà đi.
Lúc khởi đầu, câu chuyện giã từ Đà Nẵng chỉ xuất hịện trong những dinh
thự, công sở. Nhưng chẳng bao lâu sau, nó loan truyền đến tất cả mọi
hang cùng ngõ hẻm trong thành phố. Lúc đầu, người ta nói nhỏ vào tai của
nhau ở trong công sở, trại binh, bộ tư lệnh. Nhung chỉ vài phút sau,
bản tin chạy ra đường, ra phố vào trường học, qua chợ búa đến nhà
thương. Thế là từ ông già bà cả đến đứa bé thơ, từ ông quan to đến người
lính hạng hai, chẳng còn một ai nghĩ đến chuyện phải ở lại bảo vệ lấy
thành phó thân yêu nữa. Thay vào đó là những tính toán, dò hỏi và chỉ
dẫn cho nhau phương cách ra đi nhanh nhất và an toàn nhất. Lạ thật! Đà
Nẵng bỗng dưng bị coi là một phần đất có đầy sự chết, cần phải bỏ đi. Bỏ
đi không một chút thương tiếc.
Rồi Đà Nẵng thực sự chìm sâu trong cơn bão lửa vào đêm 28-3-1975. Đêm ấy
là đêm cả thành phố rung chuyển. Đà Nẵng đã cuộn tròn theo ngọn khói
bốc lên cao. Từ xa nhìn lại, có lẽ chẳng một ai dám nghĩ rằng. Đó là
thành phố có người ở, nhưng tin rằng nó là miệng một ngọn núi lửa đang
thời kỳ bạo phát. Bởi lẽ, sau những loạt đạn pháo gọi là giải phóng thi
nhau gầm thét là: Nơi đây là cảnh chợ tan hoang với ngọn khói lửa ngùn
ngụt bốc lên không người cứu. Phía trường học kia là gạch ngói vỡ tan
với những thân người chết chồng lên nhau. Nếu nơi đó là nhà thờ, nhà
chùa, quả đạn giải phóng cũng không tha tượng Chúa, tượng Phật. Chúa đã
chết khổ đau, Phật đã về nơi cực lạc, có nhận thêm một miểng đạn của
bác, mất thêm một khúc chân, cánh tay hoặc bị chém ngang giữa người cũng
chẳng ăn thua gì. Rủi nơi đó là nhà thương, gặp người chưa chết thì
nhận thêm mảnh đạn làm phần cơ nghiệp để hoàn toàn được giải phóng. Kẻ
đã chết, nhưng chưa kịp chôn sẽ có được cơ hội chết thêm một lần nữa để
đầu ở một nơi, xương thịt một nơi. Và nếu nơi đó là một tiệm bán thịt
chó thì bác đảng lúc vào sẽ hưởng thêm khẩu phần không phải là thịt chó
nướng.
Đến khi ánh bình minh vươn lên vào ngày 29-3-1975, Đà Nẵng đã thay hình
đổi dạng. Hầu như không một nơi nào còn nguyên vẹn. Xác người Việt Nam
nằm chết rải rác ở khắp mọi nơi. Họ đã chết một cách rất bất ngờ, chết
thật tình cờ. Chết chẳng một lời trối trăn.
Có nơi, cả một gia đình, từ ông bà đến vợ chồng con cái đang quây quần
bên mâm cơm, quả sơn pháo của Việt cộng nổ tung giữa bàn. Chẳng nói ra
thì ai cũng hiểu được một điều là: những người có mặt không kịp nhìn
nhau, hoặc nói với nhau câu từ biệt. Riêng phần xương thịt của họ thì
được trộn lẫn với các món ăn, bắn tung tóe văng vãi khắp mọi nơi trong
nhà. Và nồi cơm, bát canh trở thành những nồi và bát máu, chờ Hồ nhân,
cán cộng đến chia nhau.
Rồi lại có người đang bồng con thơ chạy trốn, "soạt", một âm thanh nghe
rất lạ tai do điệu vung nhanh nhẹn từ cái mã tấu trong tay người đảng
viên Việt cộng tạo ra. Kết quả, đầu người thiếu phụ lăn rớt sang một
bên, và đứa trẻ bị văng ra khỏi tầm tay của bà mẹ mà chẳng hiểu là
chuyện gì xảy ra. Khi lớn lên, em được tuyên truyền là nhờ bác đảng làm
giải phóng em mới có một ngày như hôm nay.
Đến ông già chống gậy rời đất bắc năm 54 mới lạ. Ông chạy chậm quá. Chạy
suốt hai mươi năm, nay lại gặp lũ ôn dịch ngày nào. Lão chưa kịp nói
câu nào, đôi dép râu đã vả vào mặt lão, cái gậy liền rời tay lão. Từ nay
cho mãi về sau lão chẳng còn phải lo sợ chạy trốn giặc cộng và cũng
chẳng phải dùng cái gậy ấy làm chân đi đây đó nữa...
Rồi kẻ chưa kịp vui mừng vì chạy thoát ra khỏi một đoạn đường, nơi đang
có cuộc giao tranh, hay nơi có tiếng đạn pháo gọi hồn của Hồ nhân. Lại
bắt gặp một tiếng nổ bất ngờ do qủa mìn của giải phóng gài sẵn trên
đường. Kết qủa, sau tiếng nổ, thân người ngã xuống không toàn thây. Chết
mà vẫn tưởng mình nằm mơ.
Lại có cảnh chết đứng, người chết ngồi. Cảnh nằm xấp, hình nằm ngửa.
Người cụt đầu, kẻ mất chân, mất tay. Đây người đang cháy dở. Kia một
đống thịt vụn bầy nhầy với ruột gan, tim óc văng tung tóe, lôi kéo đàn
chó đói đến tìm miếng ăn. Rồi lại thêm những vũng máu thâm đen đang rủ
đàn kiến, lũ nhặng, lũ ruồi đến chia phần với giải phóng. Và chẳng nơi
nào mà không có cảnh khóc, cảnh cười, cảnh réo gào. Cảnh đứa bé ngồi bên
xác mẹ đã lạnh cóng. Và cảnh người còn sống lại ngược xuôi tìm sống.
Vào buổi sáng hôm ấy, 29- 3- 1975 Đà Nẵng chỉ còn lại hai địa điểm tạm
gọi là an toàn. Và nó là cái đích cho mọi người đổ xô đến. Đó là phi
trường và bến tàu.
Khi nắng vừa lên, một vùng bãi biển rộng lớn và khu vực chung quanh bến
tàu Đà Nẵng không còn một chỗ trống. Người gồng gánh, kẻ tay bồng tay
bế. Thêm người tay súng, kẻ lưng lựu đạn. Người buồn rầu, kẻ cao ngạo
ngồi trên xe nhăn răng ra cười chen lấn nhau. Một nơi gần đó, từng đoàn
xe tăng, xe kéo pháo đợi tàu di tản. Tất cả đều một lòng quyết chiếm lấy
phần đất riêng cho mình. Khi ấy từ quân đến dân, từ giàu sang đến khố
rách, từ trí thức đến bần nông, lao động, từ người sang đến kẻ hèn đều
có chung một mục đích giống nhau: phải dành lấy cho mình, cho con cái
của mình một chỗ đứng trong chuyến tàu xuôi nam kia. Do đó, cảnh hỗn
loạn và chết chóc càng thê thảm hơn. Lính mất người chỉ huy. Dân không
người hướng dẫn nên có dịp va chạm tàn sát lẫn nhau. Lợi dụng tình thế
bất ổn định ấy, những thành phần bất hảo của xã hội đã ra tay hành nghề
cướp của giết người. Chỉ cần một nụ cười, một ánh mắt kiêu bạc, một gói
hành lý nom giàu sang, một thân thể nõn nà duyên dáng là có đủ chất liệu
tạo ra cảnh cuồng sát.
Ở cuối đường tuyệt vọng ấy, niềm tin được sống sót của người dân Đà Nẵng
chợt bùng lên khi những chiến hạm, tàu thuyền đón đoàn người di tản
xuôi nam từ từ hướng vào bờ. Dĩ nhiên, chẳng một ai cần nghe lệnh. Họ
vội vã kéo theo vợ con, cháu chắt, anh em ào ào lao vào dòng biển xanh
và bơi ra chiến hạm. Lúc ấy, sóng biển không còn là sóng biển, thay vào
đó là lớp sóng người nhấp nhô. Màu xanh biển đậm đã biến thành màu da
người, màu quần áo, màu hành trang.
Niềm vui của ngày bất hạnh không kéo dài khi đoàn tàu chưa bắt đầu làm
công tác vớt người xuôi nam. Cơn đạn pháo của Hồ nhân đã thi nhau réo
gào. Nó đổ ầm ập xuống trên thân người giống như một trận mưa rào, hay
như nắm cát ném xuống mặt thau nước. Nói theo kiểu của Văn Tiến Dũng
trong “đại thắng mùa xuân” thì đời một người bộ đội đi làm giải phóng,
cách riêng, đời của những anh đội kéo pháo, bắn pháo, chưa bao giờ có
những giây phút hiên ngang anh dũng đến thế. Họ đã đứng thằng người nạp
đạn và bắn pháo thay vì phải chui rúc trong hang, trong ổ, nạp đạn, bắn
vội vài trái rồi lại tìm chỗ ẩn thân. Bởi vì, mục tiêu của họ hôm nay
chỉ là đoàn người dân gồng gánh, đang tìm đường trốn chạy cộng sản! Anh
hùng hết biết!
Kết quả, biển người, biển nước biến thành biển lửa, quyện tròn theo cột
khói, cột nước tung bắn lên cao. Trong phút chốc, đoàn tàu vội quay mũi
ra khơi tránh đạn. Riêng đoàn người xuôi nam có số phận kém may mắn hơn.
Họ bị vùi dập xuống lòng biển. Người để lại vợ con, anh em, cha mẹ. Kẻ
để lại bạn bè chiến hữu lẻ loi. Sau cơn cuồng pháo thảm sát của Hồ nhân
máu đỏ loang thẫm bờ biển xanh, và trên sóng nước nhấp nhô là những thân
xác vô thừa nhận. Dưới nước là biển đỏ, trên bờ là ruộng máu. Xác
người, cánh tay, cái chân, cái đầu, khúc ruột nằm phơi mình đón nắng.
Trên bãi nóng, mồ hôi đỏ thấm vào cát chảy thành dòng nối vào biển màu.
Từ giờ phút ấy, khoảng 9 giờ sáng ngày 29-3-1975, Đà Nẵng không còn một
hình dạng nào như trước nữa. Đà Nẵng đang đợi thần chết với nhịp độ hỗn
loạn hơn.
Ngoài bến tàu, phi trường Đà Nẵng được coi là nơi an toàn hơn. Gọi là an
toàn thôi chứ thực ra nơi đây, trật tự, an ninh cũng không còn được
kiểm soát. Nó cũng bị vùi dập, chìm trong khói lửa từ đêm trước. Những
cánh chim từng vùng vẫy dọc ngang khắp bầu trời của quê hương. Cuối cùng
nhận số phận hẩm hiu, như số phận của những người lính không được lệnh
chiến đấu. Nó chỉ may mắn hơn ở bến tàu là số tử vong chưa lên cao.
Đêm ấy, trong một căn hầm trú ẩn tại phi trường, có những khuôn mặt quen
thuộc như Phi, Trực, Danh, Đặng, Tiến... ngồi bó gối nhìn nhau. Họ là
những ngươi lính trẻ năng động, là biểu tượng anh dũng cho một quân đội
đầy sức sống, bỗng dưng biến thành những cái xác không hồn co ro bất
động.
Lúc đầu họ còn cười, còn nói, còn coi cuộc pháo kích của Việt cộng là
một trò chơi vui tai lạ mắt, không hịêu nghiệm. Chẳng bao lâu sau, nhìn
cái máy liên lạc ở trong phòng, luôn phát ra những tiếng rè rè thay vì
một mệnh lệnh cần thiết, họ đâm ra bực mình, gắt gỏng. Bởi lẽ, từng điếu
thuốc đốt cháy đỏ trên đầu môi không làm tắt được những ánh chớp bùng
nổ vì đạn pháo giữa lòng phi đạo. Trái lại, làm cho họ thêm bối rối giao
động. Một sự giao động chưa từng xảy ra trong cuộc đời làm lính chiến
của họ. Cuối cùng Phi tức tối nói như thét:
- Đ. M. giờ này không cho lệnh bay còn chờ đến khi nào. Chúng pháo thêm lúc nữa thì máy bay cũng thành tàu bò chứ hay ho gì.
Phi nói thế là vì họ là những người lính quen với đường bay và bầu trời.
Họ đã từng lao vào vòng lửa đạn. Đã coi cái chết nhẹ nhàng như đôi cánh
bay. Họ sợ gì đạn pháo? Vì khi bay lên cao, có thể họ sẽ không trở lại
theo đôi cánh chim bị gãy. Tuy nhiên, đời lính bay, họ muốn nhận cái rủi
ở trên cao hơn là phải ngồi chờ đạn pháo rơi nổ tung giữa hầm. Chuyện
Phi nói ai cũng biết, nhưng không một ai dám nghĩ đến việc chui ra khỏi
căn hầm, để tìm cánh chim lướt gió. Họ không dám bởi một lẽ đơn giản là
không có lệnh. Lát sau, Danh nóng mắt, phụ họa:
- Đ.M, chỉ huy cái kiểu đếch gì mà không thấy lệnh lạc gì hết. Họ tính bắt mình ngồi đây chờ độc đắc hay sao đây?
Tiếng Danh thét tưởng chứng át cả tiếng đạn pháo. Mười con mắt nhìn nhau. Lát sau Tiến trả lời:
- Mày không muốn chờ, cũng phải chờ. Không có lệnh, mày vác con tàu đi
là tù rục xương con ạ. Hơn nữa, đang pháo thế này ai mở phi đạo cho mày
chạy trốn hả thằng ngốc kia?
Danh, một phi công khu trục đỏ mắt nhìn Tiến. Sự thật phơi bày trước
mặt. Đã là lính, Danh phải tuân hành theo mệnh lệnh. Dù, có khi lại là
một cái lệnh rất... ngốc. Danh hậm hực. Danh đau lòng, Danh tiếc bầu
trời. Danh thương đường bay. Danh đưa chân đá tung cái thùng đạn kê làm
ghế ngồi trong phòng trú ẩn:
- Dĩ nhiên tao cần phi đạo. Nhưng cái thằng mặt mẹt Ôtô kia, mày cũng muốn ngồi đây chờ lệnh chết nữa hay sao?
“Ô tô” là hỗn danh bạn bè đặt cho Đặng. Đặng giỏi lại nổi tiếng gặp may
và lì lợm vì món nghề đổ Lôi Hổ bằng cách đáp ô tô trong rừng. Đại khái,
đáp “ôtô” là một cách đáp đùa giỡn với tử thần, chỉ những tay gan bằng
trời mới dám thử. Bởi lẽ, sau khi nhắm đươc mục tiêu ở dưới đất, từ trên
cao độ, viên phi công sẽ tắt máy. Con tàu chở đầy người rơi tự do xuống
trên mục tiêu. Nếu không bình tĩnh tính toán và mở máy con tàu lại đúng
lúc, tay mơ sẽ được đi tàu suốt. Số Đặng rất may, mới vào nghề bị vật
cho một quả, con chuồn chuồn của Đặng bị banh càng trên tuyến đường
Trường Sơn. Hôm ấy, Đặng chết hụt và nổi danh. Hôm nay, gã ngửa mặt nhìn
lên nóc hầm, vẻ hiền lành như con gái vừa lớn, diễu cợt:
- A, cái thằng này láo nhỉ? Vào giữa lúc tổ quốc lâm nguy. Mày lại dám ngồi trong tàu của tao để xem tao đáp trật đường à?
Danh vênh mặt:
- Sợ máu gì. Có lạnh càng cũng không hơn lúc tao ném bom nhầm ở ngoài... biển!
Vài tiếng cười khô khan héo úa vang lên. Đặng vươn tay đứng dậy, ném
điếu thuốc cháy dở xuống đất. Đặng đi ra phía cửa hầm trú ẩn, ngửa mặt
nhìn trời đêm. Lát sau, Đặng quay vào đứng giữa phòng. Bàn tay kéo mạnh
các giây khóa trước ngực:
- Tới giờ đi hành nghề rồi đây. Thằng nào dám theo tao đi tàu... suốt?
Không cần suy nghĩ. Danh đứng bật dậy:
- Tao!
- Khá lắm. Thằng bà già kia, Đặng Chỉ Tiến, mày có đi không?
Tiến lừng khừng trả lời:
- Thôi thì tao cũng liều giao tấm thân vạn thặng của tao cho cái càng gẫy của mày để thử thời vận một phen xem sao.
- Mày không ân hận chứ? Còn hai thằng chó chết dở kia, ngồi yên à?
Hỏi xong, tự Đặng bảo Phi:
- Thôi mày ở lại. Chờ thằng an phi kia dẹp xong đạn pháo, mày làm ơn cho nó bám càng chuồn chuồn của mày mà dọt.
Tiếng Phi ngập ngừng:
- Khoan đã, đừng có vội!
- Khoan với dùi gì nữa. Tao đi đây!
Nói xong, Đặng lao mình ra khỏi căn phòng. Theo sau Đặng là Danh rồi Tiến. Có tiếng Phi đuổi theo sau:
- Cẩn thận nhá!
Ba bóng đen lao vụt trong trời đêm, được soi sáng bằng những ánh lửa của
đạn pháo đuổi theo. Vừa chạy, vừa tránh đạn pháo. Nhưng cuối cùng, Đặng
đã an toàn leo lên mình cánh chim quen thuộc. Thật may mắn, con tàu còn
đầy bình săng. Đặng mở máy. Tiếng ”rô tô” rít đều trong gió làm Đặng
phấn khởi. Cùng lúc ấy, Tiến leo lên tàu, đến ngồi trên cái ghế phía tay
trái. Theo sau Tiến là hai ba người khác nữa. Đặng quay lại nhìn những
người lính này, gã không hiểu những người này đến từ căn hầm nào mà
nhanh đến thế. Con tàu đã sẵn sàng rời mặt đất. Đặng vẫn không thấy
Danh, gã bực mình chửi đổng:
- Đ.M, cái thằng khu trục này làm gì mà chậm như rùa vậy. Không nhanh chân, chúng pháo vỡ tàu của bố mày ra bây gìơ.
Tiến đặt bàn tay trên vai Đặng, ngậm ngùi:
- Dọt đi. Nó... ở lại... giữa đường rồi!
Đặng nghiến răng, bàn tay ấn mạnh trên cần lái. Con tàu rung chuyển rời
mặt đất giữa những tiếng ồn ào thúc dục từ phía sau lưng. Phần Trực,
Phi, sau khi ghé đôi mắt nhìn chớp đỏ lên cao an toàn, cả hai lặng lẽ
trở vào phòng trú ẩn. Họ lặng lẽ vì những ẩn tình riêng tư. Phi chưa đi
vì cả gia đình Phi ở Đà Nẵng. Phi dự tính, sáng mai gã sẽ lấy con tàu về
nhà, bốc cả nhà cùng bay vào nam rồi muốn đến đâu thì đến. Riêng Trực,
có lẽ cái tên đã làm hại gã. Trực lúc nào không trực, lại trực chính đêm
nay! Theo đó, Trực phải ở lại bảo vệ an phi như lời Đặng bông đùa.
Trời vừa tảng sáng, Trực chui ra khỏi căn hầm trú ẩn. Nghe từng đợt
tiếng nổ vẫn vang dội quanh phi trường. Phi nắm cánh tay Trực kéo lại:
- Mày đi chịu chết à thằng ngốc?
- Chết cũng phải đi.
- Mày định đi đâu?
Trực không trả lời, nhưng dặn Phi:
- Mày chờ tao một lát. Tao sẽ về ngay rồi mình cùng dọt.
Phi vỗ mạnh tay trên vai Trực:
- Nhớ cẩn thận nghe. Đừng đi lâu quá.
- Được rồi.
Sau khi đạp máy xe, Trực quay lại bảo Phi:
- Qua trưa, tao chưa về, thì đừng chờ nữa.
Nói xong, Trực lao mình trên chiếc xe Honda ra khỏi cổng phi trường. Đến
lúc này, Trực mới thực sự bàng hoàng vì sự đổi thay khác thường của Đà
Nẵng. Chỉ sau một đêm, Đà Nẵng không còn là Đà Nẵng ngày xưa. Tất cả mọi
nơi đều thấy những cảnh hỗn loạn và người người giành giật nhau chạy
trốn. Họ chạy bởi vì từ phía đàng sau, bám sát theo gót chân họ là khói
lửa và tiếng thét gào trong bi thương. Bên cạnh sự đổ nát tang hoang vì
đạn pháo gây ra, sự thống khổ của người dân mong cầu sự sống còn gặp
những cảnh tai ương không kém đạn pháo do những thành phần bất hảo của
xã hội như lao công đào binh, du đãng, tù vượt ngục, lợi dụng thời cơ,
thay đổi quần áo của các quân binh chủng ra tay gieo họa, và cướp của
giết người dọc theo từng con phố. Đà Nẵng đã hoàn toàn mất an ninh. Các
công sở trại binh đã bỏ trống.
Trực xả hết tốc lực, chiếc xe Honda đang chạy gấp, nó lao lên trên vũng
máu và đám thịt nát vụn. Chiếc xe trượt bánh, hất tung Trực xuống mặt
đường. Quên đau, Trực vội bò dậy. Dựng chiếc xe lên, chạy tiếp. Ngay lúc
ấy, một toán người không rõ sắc phục xuất hiện ở cuối con đường, nổ một
loạt đạn dài về hướng Trực. Hốt hoảng, Trực lao chiếc xe vào trong ngõ
hẻm. Chiếc xe nằm quay ngang nổ máy. Chưa kịp hoàn hồn, một quả pháo nổ
ngay trước mặt làm bật tung cánh cửa. Thật nhanh, Trực chạy vào trong
gọi lớn:
- Tâm, Tâm ơi!
Căn nhà vắng tanh không bóng người. Một cảm giác rợn lạnh đến với Trực.
Trực rùng mình chạy ra phía sau. May mắn, Trực gặp ông bà Sinh, Tâm và
mấy người em run rẩy trong căn hầm trú ẩn. Nghe tiếng người quen kêu gọi
bên ngoài. Ông bà Sinh rồi Tâm lần lượt ra khỏi hầm. Sau phút bàng
hoàng gặp gỡ nhìn nhau. Trực hỏi vội:
- Thưa bác, hai bác có đi không?
Ông Sinh vẻ vừa lo âu vừa chán nản:
- Đi làm sao kịp nữa hả cháu. Đường phố thì đầy những cướp bóc, lại còn đạn pháo không dứt!
- Nhưng tụi nó sắp vào đến nơi rồi bác ạ.
Ông Sinh khoa tay trước mặt làm một cử chỉ buông xuôi:
- Thôi mặc. Tới đâu thì tới. Đi cũng chết, ở nhà có khi cũng chết. Xin chiều theo ý của trời đất vậy.
Trực chưa biết tính ra sao. Nếu ông bà Sinh không chịu đi, dự định của
Trực đêm qua, khi không theo Đặng làm chuyền tàu xuốt hoàn toàn mất ý
nghĩa. Lý do, Trực muốn đến đón gia đình ông bà Sinh vào phi trường rồi
cùng xa Đà Nẵng như đã bàn tính từ trước. Nhưng lúc này ông Sinh lại đổi
ý làm Trực khó xử. Như đoán biết được tâm trạng của Trực, Tâm bước đến
trước mặt anh:
- Hay là anh đừng vào Sài Gòn nữa?
Trực lắc đầu:
- Không, anh phải đi. Hay em xin với ba mẹ để anh đưa em đi trước.
Khi không nghe được lời đề nghị của Trực, chả biết nghĩ gì, bà Sinh bảo chồng:
- Hay là mình cho con nó đi với anh ấy?
Sở dĩ bà Sinh nói như thế là vì bà có lý do của bà. Cách đây hơn hai
năm. Khi Trực đổi ra Đà Nẵng. Trực đã đến chào ông bà Sinh theo lời dặn
của ông Tước, bố của Trực và là người bạn thân lâu năm của ông bà Sinh.
Từ lần chào thăm hỏi ấy, Trực thường xuyên lui tới nhà ông bà Sinh. Rồi
cả đôi bên, dù chưa có lễ hỏi cưới chính thức cho Tâm và Trực nhưng họ
đã mặc nhiên chấp nhận tình cảm ấy. Kế đến bà cũng nghĩ rằng - Trực làm
việc trong phi trường, hy vọng sẽ có phương tiện đưa Tâm vào nam. Chết
đuối thì vớt lấy nước bọt, bà nghĩ thế. Phần gia đình bà, lúc này nếu có
muốn kéo nhau đi cũng chả còn phương cách nào khác, nên đành chịu. Khi
nghe vợ hỏi ý kiến, Ông Sinh lặng lẽ một lát rồi hỏi con:
- Ý con muốn thế nào?
Tâm ôm chặt lấy bà Sinh:
- Má, hay cả nhà mình đi luôn đi, ở lại đây làm gì nữa?
Ông Sinh đôi mắt đỏ nhìn lên trần nhà, rồi nhìn ra khung cửa đã bị sập, tiếng ông dứt khoát:
- Ba mẹ sẽ ở lại nhà, nếu con muốn. Ba mẹ cho phép con đi trước.
Bà Sinh như hoàn toàn đồng ý với ý kiến của ông. Bà đi nhanh lại phía bàn thờ. Bà thắp cây nhang đưa cho Tâm:
- Chúng con lạy ông bà, lạy trời đất rồi đi mau lên, kẻo trễ.
Nước mắt tuôn hai hàng. Tâm run run cầm cây nhang trong tay. Nàng chưa
kịp quỳ lạy trước bàn thờ. Nàng đã òa lên khóc nức nở. Bà Sinh ôm xiết
chặt con vào lòng:
- Thôi nín đi con. Mẹ khấn cầu trời đất cho chúng con đi dược bằng an.
Nếu còn phúc còn phần, lo gì không có ngày gặp lại gia đình.
Tuy bà Sinh khuyên nhủ con nín đi, đừng khóc nữa. Nhưng chính trên khuôn
mặt bà, chẳng lúc nào vơi dấu lệ. Bà không nói nên câu khi cầm tay Tâm
đặt trong lòng tay Trực:
- Cháu Trực, hai bác tạm giao Tâm cho cháu. Cháu thưa lại với ba mẹ cháu đôi lời dùm bác.
Tiếng nói của bà tắc nghẹn lại giữa cổ. Ông Sinh vội quay mặt đi. Tâm qùy phục xuống trước mặt ông bà Sinh:
- Thưa ba mẹ... con đi.
Tiếng khóc vỡ oà trong gìơ tiễn biệt. Những bàn tay vội rời nhau. Tâm
đi. Nàng được coi như là về nhà chồng trong ngày chạy giặc. Nàng đi
không quần áo cưới, không xe kết hoa, không bàn tiệc. Riêng những người ở
lại cầu mong cho nàng có được hơi thở tự do, không cộng sản. Không phải
nhìn thấy những cái mũ cối những đôi dép râu làm hoen ố đời người.
Ra khỏi nhà, thật may mắn. Chiếc xe của Trực vẫn còn nằm nguyên trong vị
trí cũ. Trực đến, dựng chiếc xe lên. Đạp máy, nhắm hướng trở lại phi
trường.
Dù đoạn đường không xa lắm. Trực cũng mất khá nhiều thời gian mới vào
được đến phi trường. Lúc này cổng phi trường đã không còn lính gác. Lớp
sóng người chạy giặc đang ùn ùn kéo nhau vào. Trực dắt Tâm chạy bộ vào
khu hầm trú ẩn tìm Phi. Căn phòng trống trơn. Khi chạy lên phòng phi
hành. Tấm bảng vẫn ghi rõ giờ bay cho các chuyến bay. Nhưng không thấy
một bóng người. Trực hoang mang nhìn ra bãi đậu, gã chỉ thấy khói lửa
nghịt trời. Giữa lúc đầy thất vọng, Trực giật mình vì tiếng gọi lớn từ
phía sau lưng. Lúc quay lại, Trực nhìn thấy Phi, người bạn chung hầm đêm
trước đang chạy đến:
- Mày làm gì bây giờ mới tới. Muốn ở lại à?
- Còn cái cánh quạt nào hay không? Mà ông già, bà bô mày đâu sao không thấy.
Phi nhún vai tỏ vẻ không hài lòng:
- Rõ chán, đến giờ phút cuối ổng đổi ý. Khi tao trở lại đây, chúng nó đã dông hết rồi.
- Mình ra ụ chứa tìm trực thăng... dọt luôn chăng?
- Ra đó là tan xác con ạ. Bọn "đề lô" của chúng đã vào phi trường rồi.
Bên an phi vừa tóm cổ được hai thằng khốn. Chúng giả dạng sỹ quan của
mình đứng gọi máy khơi khơi ngay đầu phi đạo.
- Không liều, đứng đây chờ chết à?
Phi buông xuôi:
- Đành vậy. Vì có ra được, cũng không thể cất cánh.
- Tại sao?
- Rất đơn giản. Không một chiếc nào còn xăng và không kiếm ra người đổ xăng. Tàu không có xăng cũng bằng không.
- Sao mày biết?
- Tao vừa từ ngoài đó trở về.
Trực buồn bã, đưa đôi mắt nhìn quanh. Ý định theo con tàu tháo chạy rời Đà Nẵng bị cắt ngang. Trực đề nghị:
- Ra bến tàu chăng?
Phi hất hàm cao ngạo:
- Hỏi câu ngu đến thế là cùng. Mình dân bay, ở đây có phương tiện còn phải bó tay. Ra ngoài đó, ai cho mày đi nhờ.
Vừa nói xong, đôi mắt Phi sáng lên, anh đập mạnh bàn tay trên vai Trực:
- Tao có cách rồi. Mày nhìn kia.
Theo hướng tay của Phi. Một chiếc máy bay hàng không dân sự kiểu Boeing
727 đang rà rà đáp xuống đường phi đạo. Không chậm trễ ba người kéo nhau
lên chiếc xe Ford của quân cảnh không quân đậu gần đó. Trực ngồi vào
ghế lái, phóng hết tốc lực chạy ra phi đạo.
Lúc ấy, vào khoảng gần trưa ngày 29-3-1975. Sau khi đáp xuống thay vì
vào trong phi cảng, nó lại chạy vòng vòng dọc theo các con đường vào ra
phi đạo. Đảo hết vòng nọ đến vòng kia, nhưng không dừng lại. Cùng lúc,
từng lớp sóng người tìm sống, cuồn cuộn chạy đuổi theo sau lưng nó.
Chiếc máy bay chạy không nhanh hơn người chạy bộ, nhưng không một ai lên
được. Đã thế, từng mỗi vòng bánh máy bay chuyển động, là có từng đoàn
người ngã gục xuống đất. Họ ngã gục, một phần vì số người đông đảo, đứng
dọc theo hai bên đường phi đạo, dành giật, chen lấn nhau để đuổi theo
chiếc máy bay, phần vì đạn pháo mỗi lúc một nhiều và chính xác. Cứ thế,
tiếp theo từng tiếng nổ là những tiếng rú gào thảm thiết. Khi ngã xuống,
người còn nguyên vẹn, kẻ nát tan. Mặc, kẻ còn sức sống, lại thế chỗ
trống ào ào tiến lên. Họ xô lấn nhau, đạp trên xác người. Lội qua vũng
máu để đuổi theo chiếc máy bay là hy vọng duy nhất của họ đang rề rề
chạy trước mặt.
Cái chết gần kề trong gang tấc, nhưng không ai sợ hãi và nghĩ đến việc
bỏ cuộc. Bởi lẽ, nếu họ không nhanh chân bắt kịp chiếc máy bay kia, họ
sẽ bị bỏ lại. Như thế, thảm nạn của cố đô Huế trong tết Mậu Thân năm nào
sẽ tức khắc tái diễn trong cuộc đời của họ khi lũ Hồ nhân và đảng vẹm
nhe răng, trợn mắt kéo nhau vào thành phố của họ. Do đó, cảnh hỗn loạn
dành giật nhau trên xác người, trong vũng máu càng lúc càng ghê rợn hơn.
Lúc đầu, chiếc xe Ford an phi mở còi hụ chạy đuổi theo sau máy bay.
Không chạy được bao xa. Trực đổi hướng, anh chạy vòng qua các công sự
chiến đấu, rồi theo ngã tắt, Trực lái xe ra ”taxi quay” chận ngang đầu
chiếc máy bay. Trong toan tính của Trực, anh muốn dùng chiếc xe làm vật
cản đường, bắt chiếc máy bay phải dừng lại.
Khi máy bay đến khá gần. Phi dõng dạc đứng lên trong bộ quần áo và cái
nón sắt có chữ QC. Tay Phi cầm súng chĩa thẳng vào chiếc máy bay như có ý
ra lệnh cho viên phi công phải dừng lại, nếu không Phi sẽ nổ súng. Kết
quả, Viên phi công như coi thường cái lệnh ấm ớ của Phi. Máy bay vẫn tà
tà tiến đến, nó đang thách thức với hiệu lệnh và chiếc xe của Trực. Đến
lúc nghe tiếng thét của Tâm. Trực hốt hoảng ấn mạnh chân ga. Chiếc xe
lao thẳng vào ụ cát bên đường vào đúng lúc chiếc máy bay chạy ngang
trước mặt. Cả ba chưa hết bàng hoàng, bỗng thấy chiếc máy bay như ngừng
hẳn lại trước mặt. Hơn thế, cánh cửa ra vào của máy bay từ từ mở ra.
Không một chậm trễ, Trực nhảy xuống khỏi xe, đỡ Tâm xuống, rồi cùng Phi
chạy như lao vào trong lòng chiếc máy bay cứu tinh.
Niềm hy vọng được cứu sống bỗng bùng lên trên những đôi mắt kinh ngạc.
Đoàn người chạy giặc như thác lũ đổ ào đến chung quanh máy bay. Họ không
còn thì giờ thẩm định xem đâu là cửa vào trong thân máy bay, đâu là lối
đi lên khoảng trống bên cạnh nơi đặt chân dưới thân máy bay hoặc là nơi
chứa hàng. Họ chỉ cần biết một điều - bất cứ cái gì của máy bay, họ có
thể bám vào được là họ sẽ bám thật chặt. Chẳng ai dại dột buông tay ra
khỏi cái vị trí họ vừa nắm được! Bởi lẽ, nếu họ buông tay ra, người khác
sẽ sẵn sàng thay thế và họ sẽ mất hẳn chỗ đứng.
Trực và Phi cũng không ngoại lệ. Khi vừa bám vào được thân máy bay Phi,
Trực rồi Tâm dắt díu nhau lên. Họ là một trong những người đầu tiên lên
và chiếm được chỗ dung thân an toàn nhất trên chiếc máy bay đó.
Chỗ "an toàn" này do chính lời của Trực kể lại như sau:
- "Vì hốt hoảng chúng tôi trèo vội lên chiếc máy bay. Nhưng sau khi leo
lên máy bay, đi được vài bước, Phi và tôi biết là lầm. Nơi tôi đang đứng
là khoảng trống nhỏ dưới thân máy bay bên cạnh khu vực chứa càng và
chân máy bay thay vì trong lòng của nó. Tôi quay đầu bước trở ra để tìm
lối lên khác, nhưng không thể trở lại được. Lý do. Phía bên ngoài đã
chật cứng người. Nếu tiếp tục lách ra, tôi sẽ không có cơ hội trở lại và
sẽ mất luôn vị trí ”an toàn” sẵn có. Tôi và người bạn đành ở lại, giữ
lấy chỗ trong cùng của khoảng trống nhỏ đó, rồi muốn tới đâu thì tới.
Tuy thế, chúng tôi không cô đơn, vì có vào khoảng ba mươi người đã chen
chúc nhau trong một căn buồng không mấy thú vị chung quanh nơi để chân
máy bay này. Như thế, so với những người còn ở dưới đất. Tôi đã... may
mắn hơn họ nhiều.”
Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, hút chưa xong vài hơi thuốc, chiếc máy
bay như đã bị đè bẹp bởi làn sóng người di tản. Bên trong chật như nêm
cối, bên ngoài hàng hàng lớp lớp người vẫn nối gót dành giật, kéo đẩy
nhau lên. Ngay lúc ấy, một quả pháo nổ làm rung chuyển mặt đất và thân
tàu. Nhiều người có mặt tưởng tiếng nổ ấy đã xé tan tành chiếc máy bay
ra hàng trăm nghìn mảnh vụn. May mắn, nó chỉ bị thủng một vài mảnh nhỏ
bên thân cánh trái. Viên hoa tiêu vội vàng cho phi cơ chuyển bánh trước
khi đóng cửa tàu.
Ai sẽ diễn tả nổi những tiếng gào thét trong kinh hoàng, đớn đau lúc
bánh của con tàu bắt đầu lăn trên phi đạo. Bởi lẽ, dưới mỗi vòng quay
của bánh xe là một đoạn dài những máu, những thịt của người Việt Nam
chạy giặc. Họ là những người đang đứng trên đường hay là người bám vào
trụ bánh, chân máy bay? Không ai có thể phân biệt được. Tuy nhiên, dưới
sức nặng của con tàu và sự chuyển động mỗi lúc một nhanh dần đều của
những vòng bánh đang quay là từng thớ thịt, lớp xương tan ra như cám
trên đường. Vòng chuyển động tăng thêm, chiếc máy bay như lướt trên mặt
đường từ từ rời phi đạo. Lúc nó rời phi đạo, nó còn mang theo lên không
một số người vẫn ngoan cường bám chặt vào các trụ của chân bánh xe, hoặc
là khung cửa. Chắc không có ai nỡ trách họ giỏi nghề đánh đu, hoặc là
dại dột đem buộc mạng sống của mình vào trong hy vọng mong manh ấy?
Thử hỏi, cánh tay sắt nào có thể khóa chặt được thân người vào với những
vị trí như thế? Chiếc máy bay lên cao dần, thân người mỗi lúc một nặng
thêm. Những cánh tay mệt mỏi rã rời kia bắt buộc phải từ giả chân máy
bay, và từ giã cụộc sống của chính họ. Họ bắt đầu lơ lửng giữa trời. Rồi
chạm thật mạnh vào một vật cứng, người ta gọi là trái đất. Không một
tiềng nấc, không một tiếng kêu đau đớn! Từng người, từng người. Nối tiếp
nhau lơ lửng giữa không gian không dù. Tiếng kêu cứu không một ai nghe.
Tiếng gào khóc không một ai hay biết. Chỉ thấy những cánh tay, cánh
chân quờ quạng đảo ngược giữa trời xanh. Họ đang... bay. Bay với giấc mơ
tự do không cộng sản. Bay với hơi thở cuối trên phần đất nặng đau
thương nhưng lắm vương vấn này.
Máy bay đã lên cao, xa rời mặt đất. Nhưng không hiểu tại sao viên phi
công không cho rút chân vào ụ chứa và đóng cái vỏ bọc phía bên ngoài
lại. Phi bực mình chửi đổng:
- Đ.M. cái thằng lái tàu này, nó không biết rút chân và đóng cái bẩng
phía dưới lại cho bố nó nhờ một tý hay sao? Bộ nó không biết hàng chục
mạng sống trong cái lỗ hổng nhỏ này sẽ chết vì sự ngu ngốc của nó à?
Phi chửi để mà chửi. Có chửi cũng chẳng ai nghe. Bởi vì,
- Thứ nhất, nó sợ khi co chân lại sẽ kẹp chết người Việt Nam. Kẹp chết người nó phải tội và Chúa sẽ phạt nó.
- Thứ hai, nó sợ khi co lại sẽ kẹp dính người vào trong các trục chuyển
động của bánh. Việc ấy sẽ gây ra trở ngại lớn khi nó muốn mở ra và đáp
xuống.
Nhưng thật nhanh, do bản lãnh của những người đã từng bay, Phi bảo Trực
cởi nút khóa dây thắt lưng ra, rồi khóa chặt thân người vào những trụ
giây điện chằng chịt trong ụ bánh. Sở dĩ, Phi bảo Trực như thế. Vì khi
bay lên cao độ, với áp suất thay đổi, vị trí không an toàn, sẽ không thể
nào điều khiển cánh tay của mình được như ý muốn. Kế đến, Phi rùng mình
không dám nghĩ đến vịệc cái chân, cái bẩng đỡ phía ngoài nếu nó... nhất
định không chịu co lên và đóng lại thì, vị trí nơi Phi, Trực đang đứng
có khác gì cái hộp không đáy biết bay? Như thế, số mạng của những người
đứng quanh đây chỉ có trời mới biết là còn hay mất.
Khi máy bay đã lên cao, chân máy bay vẫn không co lại. Những cơn gió
mạnh như ngàn cơn lốc xoáy, theo nhau ào ào tràn ập vào khoảng trống.
Khi vào chỉ có gió lộng, nhưng lúc trở ra, nó cuốn theo những thân người
lỏng tay, không một bấu víu hoặc không thể cột người vào trong những vị
trí khả dĩ vững chắc trong ụ tàu. Càng bay cao, gió càng làm lạnh buốt
những thân người bé nhỏ. Rồi dù không muốn, những con người khôn khổ kia
đành chấp nhận định mệnh khe khắt, rời tay, xa nơi có sự sống khổ đau.
Trong khi đó, Trực, Phi may mắn hơn. Thân họ đã được khóa chặt vào trụ
giây điện bằng những giây ba chạc, thăt lưng còn mang trên người, nhưng
bốn cánh tay còn lại phải vòng qua, ôm chặt lấy và níu kéo sự sống lại
cho Tâm. Chỉ một luc sau, Tiếng phi thét lên:
- Mày cởi nửa áo bên trên ra, cột người Tâm vào trụ giây điện. Nhanh lên, nếu không thì chết cả lũ bây giờ.
- Được, mày ôm chặt nhá. Tao cởi áo đây.
Phi thét lớn hơn:
- Mau lên!
Tuy bảo Phi là ôm lấy Tâm để cho mình cởi nửa phần áo bay ở bên trên ra,
nhưng Trực vẫn không dám rời Tâm. Một tay Trực ôm ngang người nàng,
cánh tay còn lại, cố gắng lắm, Trực chỉ mở được hàng nút áo trước ngực.
Cởi một cái áo, công việc tưởng chừng như dễ dàng nhưng lúc này Trực
thấy vạn nan. Lý do, người Trực đã khóa chặt vào trụ giây điện nếu mở
ống khóa có lẽ Trực sẽ tức khắc được nhảy dù không có dù về mặt đất.
Nhưng không mở khóa, Trực làm sao cởi được áo?
Thoáng mắt, khoảng trống chung quanh ụ chứa chân máy bay. Lúc đầu chen
chúc nhau có tới ba chục mạng người, lúc này nhìn lại còn lác đác năm ba
người. Tình cảnh ấy càng làm Trực lúng túng. Rồi khi nhìn xuống trên
khuôn mặt sinh đẹp của người nữ sinh công lập Đà Nẵng, Trực không dấu
nỗi cơn đau. Trên nét mặt tái mét, xám xanh của nàng đã có vệt máu đỏ
chảy ra từ hai bên lỗ mũi. Trực biết, Tâm đã hoàn toàn tê liệt. Nếu
không có cánh tay của Phi, của Trực, Tâm không còn có mặt ở nơi đây.
Trực chợt hối hận vì việc trở lại nhà ông bà Sinh và đưa Tâm ra đi.
Trong khi đó, phía bên kia, chừng như sốt ruột vì mỗi lúc người Tâm một
nặng, nhưng Trực vẫn chưa cởi xong cái áo. Phi lại chửi thề ầm ĩ, hét
lên:
- Tao bảo mày buông tay ra, cởi áo mau lên, chết hết cả đám bây giờ.
Không hiểu nghĩ sao, Trực khẽ lách cánh tay giữa hai cột giây điện. Từ
từ gỡ tay Tâm ra khỏi người Trực. Cùng lúc, Trực nhoài người đẩy Tâm
xoay mặt về phía trước, bảo nàng:
- Em ôm Phi để anh cởi áo.
Tâm mở lớn đôi mắt nhìn Trực khẽ gật đầu. Sau cái gật đầu ấy, Tâm nới
lỏng vòng tay qua người Trực. Nàng từ từ xoay người sang phía bên Phi.
Nhưng đúng lúc Tâm nới vòng tay, quay người. Trực thấy hụt hẫng, rồi
bàng hoàng nhìn theo. Cơn cuồng phong, đầy phẫn nộ giữa lưng trời đã
nhanh tay cuốn người Tâm ra khỏi cánh tay của Trực và Phi.
- Á....
Trực lao người đuổi theo:
- Tâm...!
Cùng theo tiếng thét kinh hoàng giữa khung trời ấy là toàn thân Trực
treo lơ lửng giữa cái hộp không đáy đang bay. Đôi mắt Trực như muốn rách
toác ra theo bóng hình của người yêu dấu giống như một điểm đen, đang
mờ nhạt giữa lưng trời. Nàng trở về với trái đất chăng? Không nàng đã về
với giấc mơ trốn chạy cộng sản, cũng là giấc mơ hãi hùng khủng khiếp
nhất trong đời người!
Một lúc sau, chân máy bay co rút vào trong thân tàu và cái cánh cửa đậy
phía bên ngoài cũng được khép nhỏ lại. Con tàu chở người di tản về đến
không phận Sài Gòn. Nắp đậy và chân máy bay lại mở ra. Đợt gió mạnh,
lạnh cắt da tràn ập vào ụ cánh. Nó đánh thức Trực và Phi dậy. Khi nhìn
thấy nhà, nhìn thấy phố. Niềm vui được sống sót căng tràn lên đôi mắt
đỏ. Khi chiếc máy bay là là sát trên mặt đất. Phi phấn khởi đứng thẳng
người dậy. Anh cởi tung giây khóa ngang người ra khỏi trụ giây điện.
Nhẩy bổng sang bên Trực hét lớn:
- Mình sống... ự...
Câu nói chưa dứt, chân máy bay chạm mạnh trên mặt phi đạo. Sức va chạm
quá mạnh, thân máy bay rung chuyển, chồm lên. Nó hất tung Phi lên cao và
lộn ngược vào trong góc trống. Phi gập người xuống không nói năng, chỉ
còn lại đôi mắt trừng mở. Trực run người, hai tay ôm chặt lấy trụ giây
điện.
- Phi... mày có sao không...?
Phi không trả lời. Trực gọi đến rát cổ, Phi vẫn làm ngơ! Phi đã bỏ Trực,
Phi đã bỏ đàn chim. Phi đã bỏ chuyến bay cuối. Và Phi đã giã từ giấc mơ
tự do, hòa bình không cộng sản trong phút cuối cùng của chuyến bay di
tản, khi nó đã đưa Phi an toàn về đến miền đất tạm dung. Nằm trên chiếc
băng ca trong xe cứu thương, Trực nấc lên từng chập, nhưng không còn
nước mắt, dù là giọt nước mắt thống khổ, dành cho cho Phi, cho Tâm...
những người bạn đã bỏ Trực trong đoạn cuối cuộc hành trình đầy thê
lương, kinh hoàng này...
DUYÊN ANH * HỒI KÝ 30-4
Trích hồi ký “Sàigòn Ngày Dài Nhất” của nhà văn Duyên Anh (Vũ Mộng Long)
Phần hai
2
Em đã cho anh hai mươi năm sung sướng
Anh phải van lơn để hứng chịu cơ cầu
Tôi chôn chân cạnh trụ đèn lưu thông, ngã tư CôngLý - Yên Đổ. Tôi thèm được chết đứng ở đây. Tôi thèm được chết đứng cơ hồ Từ Hải, cái chết đứng bị phản bội nhục nhã. "Thiên hạ có khi đang ngủ cả," mình tôi, một mình tôi thức, mình tôi chới với trong quạnh hiu ứa máu của Sài gòn đợi chờ khuất phục. Và tôi, tôi lại đợi chết. Mơ ước cuối cùng của tôi đã tàn tạ khi chưa kịp nở. Tôi mơ hồ nghe tiếng bước chân thù dẫm trên đường phố, tiếng rên xiết của đất đá, tiếng chuông cáo phó rung lên cho Sài gòn chết oan. Tôi không chết đứng nổi. Tội nghiệp tôi. Tôi trở về, đẩy cổng, vào nhà.
° ° °
Đạn nổ phía phi trường Tân Sơn Nhất đã thưa thớt. Trực thăng Mỹ vần vũ mạnh hơn ở góc trời đó, góc trời ân huệ của những người Việt Nam đã ăn no đấm đá của lính Mỹ để leo lên nóc Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ; góc trời thảm não của những người Việt Nam không được ăn no đấm đá của lính Mỹ để bị ngồi bó gối trước cống Toà Đại Sứ Hoa Kỳ.
Trời đầy sương mù. Tại sao sương mù mùa xuân, mùa khô của miền Nam? Bỗng chuông điện thoại reo:
- Alô, bố Tí hả?
- Ừ.
- Tao lên được không?
- Giới nghiêm 24 trên 24 mà.
- Ở đây, thiên hạ đi lại ầm ầm.
- Thì ông lên đi?
Đặng Xuân Côn từ Phú Nhuận gọi cho tôi. Chuông điện thoại reo làm các con tôi thức. Nhà tôi, vì uống thuốc an thần quá trễ nên vẫn còn ngủ mê man. Thằng con lớn của tôi chạy ra phòng khách. Nó bật đèn. Thấy tàn thuốc lá bừa bãi, chai Rémy Martin đã cạn nằm nghiêng, nó hỏi:
- Bố không ngủ à?
Tôi gật đầu.
- Bố sợ cộng sản à?
Tôi lắc đầu.
- Tại sao bố không ngủ?
Tôi đáp:
- Rất nhiều người không ngủ đêm qua.
Không để con nít biết chuyện nước non buồn thảm, tôi dục con tôi:
- Cu Tí pha cà-phê cho bố.
Đặng Xuân Côn đã lái xe lên Sài gòn. Chúng tôi uống cà-phê, đàm luận. Con nít bị đuổi hết vô phòng ngủ:
- Có gì lạ ở Phú Nhuận?
- Thiên hạ đợi Việt cộng vào.
- Hân hoan đợi?
- Một nửa sợ hãi, một nửa vui mừng. Chắc chắn, không có đánh đấm gì đâu. Dương Văn Minh là cái xác chết. Bọn tướng lãnh đầu xỏ cút hết rồi. Đào ngũ hết rồi. Ông Vĩnh Lộc ví như chiếc lá cuối cùng. Gió cũng cuốn ông ta bay...
- Tôi hiểu. Tôi đã mơ mộng Sài gòn sẽ là Stalingrad thứ hai. Rốt cuộc, nó sẽ là Hochiminhgrad, đúng như tiên đoán trước của lãnh tụ văn nghệ Nguyễn Đức Quỳnh mười tám năm cũ.
- Mày tính sao?
- Tính gì?
- Chuồn.
- Chuồn đâu? Mã cùng đồ rồi!
- Về Long Xuyên ẩn thân.
- Mai danh ẩn tích hả? Kệ mẹ nó. Đến đâu hay đến đó.
tên em trên những vệt môi son
trong ánh mắt
và trong hơi thở
trong hạnh phúc
và trong đau khổ
ở tuổi non và ở tuổi già
ở xuân hồng sắp sang và thu biếc đã qua
ở hôm nay anh sống và ngày mai anh chết
Phần hai
2
Tôi vụt thức khi thấy cổ họng mình khô rang. Ngó dạ quang của đồng hồ: 2
giờ 48 phút. Thì ra tôi đã chợp mắt trong cơn sợ hãi. Thuốc lá làm họng
tôi khô, lưỡi tôi khô, môi tôi khô nhưng rượu đã không làm tôi say.
Rượu đủ. Đó là tên truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu. Rượu chưa đủ, không
đủ khả năng trấn áp nỗi sợ biển máu của tôi. Có lẽ, thuốc phiện đủ khả
năng ấy. Tôi thèm được nằm bàn đèn với Nguyễn Mạnh Côn - với Hoàng Hải
Thủy thì nhất - hút vài cặp. Thuốc phiện sẽ bắt tan loãng mọi sợ hãi.
Nếu ta say, thuốc phiện giúp ta thoát thực tại ưu phiền, đưa ta lên cõi
phiêu bồng lâng lâng.
…….
Súng vẫn nổ ròn ở phía phi
trường Tân Sơn Nhất. Trực thăng Hoa Kỳ vẫn vần vũ một góc trời Sài Gòn.
Tôi kiếm cái radio nhỏ mở nghe tin tức xem Tân tổng tham mưu trưởng quân
lực Việt Nam cộng hòa, trung tướng Vĩnh Lộc, còn tuyên bố gì thêm
không.
Đài phát thanh Quân Đội im bặt. Đài Sài gòn chỉ léo nhéo
Nối vòng tay lớn và giọng nói no đầy đắc thời của tên dân biểu ngu dốt
chủ trương giữa Lý Quý Chung. Hắn đã là Tổng trưởng Thông tin của nội
các Vũ văn Mẫu. Tướng Vĩnh Lộc không còn tiếng nói. Ông ta đang ở đâu?
Xướng ngôn viên quen thuộc của đài Sài gòn loan tin giới nghiêm 24 trên
24 kể từ hôm nay, 30-4-1975. Giới nghiêm 24 trên 24. Tình trạng cực kỳ
nghiêm trọng rồi.
Tôi cảm giác thời gian ngừng lại. Khi tôi mong
trời vỡ sáng thì trời không muốn vỡ sáng. Mới 4 giờ. Tiếng súng từ phi
trường Tân Sơn Nhất vọng vào đã thưa thớt, nhưng tiếng phi cơ trực thăng
vẫn ầm ĩ một góc trời thành phố. Tôi bật ti-vi. Màn ảnh nhỏ trắng xóa.
Không có cái bất ngờ như tôi tưởng tượng. Tôi đâm ra tương tư người lính
sửa xe tăng trước cửa nhà mình tối qua và ông tướng Vĩnh Lộc. Tôi mở
radio. Giới nghiêm 24 trên 24 kể từ 0 giờ ngày 30-4-1975. Lệnh giới
nghiêm không thay đổi. Tôi tắt ngay radio để khỏi bị nghe Nối vòng tay
lớn và giọng tanh tưởi của Lý Quý Chung luận về tình nghĩa Trung Nam
Bắc.
5 giờ. Tôi đã trải qua 300 phút của ngày dài nhất. Ngẫu
nhiên, tôi trở thành chứng nhân của thời đại tôi, một chứng nhân không
thích rườm rà chi tiết, một chứng nhân chỉ khoái vắn tắt từng sự kiện và
suy diễn những sự kiện theo kiến thức hữu hạn của mình. Nhưng luôn luôn
sáng tạo, cố gắng sáng tạo. Rất nhiều khi chứng-nhân-tôi quên hẳn những
sự kiện quan trọng mà chỉ nhớ những sự kiện vớ vẩn. Người viết tiểu
thuyết khác người viết lịch sử ở chỗ đó. Người viết tiểu thuyết thường
khám phá ra ở sự kiện vớ vẩn cái vóc dáng đẫy đà và quan trọng hơn cả sự
kiện quan trọng dưới mắt sử gia. Tôi mê huyền sử, dã sử nặng gấp bội
chính sử, ngoại sử. Giản dị lắm, huyền sử và dã sử không thèm quan tâm
tới niên biểu. Thế mà tôi lại quan tâm tới niên biểu của một ngày dài
nhất đầu tiên trong đời tôi đã trôi mút mít 20 năm.
Tôi mở
radio. Lệnh giới nghiêm nhắc đi nhắc lại. Không còn Nối vòng tay lớn.
Không còn cả giọng nói bầy nhầy đón gió trúng mối của biểu tượng Lý Quý
Chung. Tâm hồn tôi rạng rỡ khi hình tưởng người lính sửa xe tăng tối qua
và nhật lệnh quyết chiến của tướng Vĩnh Lộc, người hùng Pleime năm xưa,
"vua xứ mọi" của tôi. Ông đang ở đâu, ông Vĩnh Lộc? Ở đâu cũng được,
ông còn ở màn ảnh nhỏ của Truyền Hình Việt Nam, băng tần số 9, tối hôm
qua là đủ rồi. Ít nhất, với tôi.
6 giờ thiếu 10 phút. Thường lệ,
vào giờ này, sinh hoạt chợ Xóm Lách đã ồn ào. Hôm nay im vắng. Chẳng
phải vì giới nghiêm đâu, mà vì cuộc hôi đồ chiều hôm qua đã diễn sâu tới
khuya, đã diễn xa lên Sài gòn, đã diễn rộng khắp khu vực nên dân chúng
ngồi nhà ngắm "chiến lợi phẩm". Tôi lại mở cổng ra đường. Bước sát cột
đèn lưu thông, tôi đứng ở ngã tư Công Lý - Yên Đổ. Lần đầu tiên, từ hai
mươi năm khôn lớn tại Sài gòn, tôi được nhìn Sài gòn buồn bã. Như thể
Sài gòn choàng khăn tang và hồi chuông cáo phó đã đọng trên đầu cỏ, ngọn
lá. Con phố Công Lý, con đường của VIP, nườm nượp xe cộ từ tan giới
nghiêm đến vô giới nghiêm, hôm nay, vắng ngắt. Tôi mơ hồ thấy, trong hiu
quạnh khôn cùng của ban mai Sài gòn 30-4, những lời giối giăng đứt
khúc.
Tôi nhìn ngang con đường Công Lý. Tôi nhìn dọc con đường
Yên Đổ. Tôi hình tưởng những con phố khác. Tôi hình tưởng cái toàn thể
Sài gòn và những vùng thân yêu Đakao, Tân Định, Phú Nhuận, Chí Hòa...
Tất cả chìm vào mù khơi hiu hắt. Tất cả rơi xuống hụt hẫng thinh không.
Sài gòn. Em đã cho anh hai mươi năm sung sướng
Anh phải van lơn để hứng chịu cơ cầu
Tôi chôn chân cạnh trụ đèn lưu thông, ngã tư CôngLý - Yên Đổ. Tôi thèm được chết đứng ở đây. Tôi thèm được chết đứng cơ hồ Từ Hải, cái chết đứng bị phản bội nhục nhã. "Thiên hạ có khi đang ngủ cả," mình tôi, một mình tôi thức, mình tôi chới với trong quạnh hiu ứa máu của Sài gòn đợi chờ khuất phục. Và tôi, tôi lại đợi chết. Mơ ước cuối cùng của tôi đã tàn tạ khi chưa kịp nở. Tôi mơ hồ nghe tiếng bước chân thù dẫm trên đường phố, tiếng rên xiết của đất đá, tiếng chuông cáo phó rung lên cho Sài gòn chết oan. Tôi không chết đứng nổi. Tội nghiệp tôi. Tôi trở về, đẩy cổng, vào nhà.
° ° °
Đạn nổ phía phi trường Tân Sơn Nhất đã thưa thớt. Trực thăng Mỹ vần vũ mạnh hơn ở góc trời đó, góc trời ân huệ của những người Việt Nam đã ăn no đấm đá của lính Mỹ để leo lên nóc Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ; góc trời thảm não của những người Việt Nam không được ăn no đấm đá của lính Mỹ để bị ngồi bó gối trước cống Toà Đại Sứ Hoa Kỳ.
Trời đầy sương mù. Tại sao sương mù mùa xuân, mùa khô của miền Nam? Bỗng chuông điện thoại reo:
- Alô, bố Tí hả?
- Ừ.
- Tao lên được không?
- Giới nghiêm 24 trên 24 mà.
- Ở đây, thiên hạ đi lại ầm ầm.
- Thì ông lên đi?
Đặng Xuân Côn từ Phú Nhuận gọi cho tôi. Chuông điện thoại reo làm các con tôi thức. Nhà tôi, vì uống thuốc an thần quá trễ nên vẫn còn ngủ mê man. Thằng con lớn của tôi chạy ra phòng khách. Nó bật đèn. Thấy tàn thuốc lá bừa bãi, chai Rémy Martin đã cạn nằm nghiêng, nó hỏi:
- Bố không ngủ à?
Tôi gật đầu.
- Bố sợ cộng sản à?
Tôi lắc đầu.
- Tại sao bố không ngủ?
Tôi đáp:
- Rất nhiều người không ngủ đêm qua.
Không để con nít biết chuyện nước non buồn thảm, tôi dục con tôi:
- Cu Tí pha cà-phê cho bố.
Đặng Xuân Côn đã lái xe lên Sài gòn. Chúng tôi uống cà-phê, đàm luận. Con nít bị đuổi hết vô phòng ngủ:
- Có gì lạ ở Phú Nhuận?
- Thiên hạ đợi Việt cộng vào.
- Hân hoan đợi?
- Một nửa sợ hãi, một nửa vui mừng. Chắc chắn, không có đánh đấm gì đâu. Dương Văn Minh là cái xác chết. Bọn tướng lãnh đầu xỏ cút hết rồi. Đào ngũ hết rồi. Ông Vĩnh Lộc ví như chiếc lá cuối cùng. Gió cũng cuốn ông ta bay...
- Tôi hiểu. Tôi đã mơ mộng Sài gòn sẽ là Stalingrad thứ hai. Rốt cuộc, nó sẽ là Hochiminhgrad, đúng như tiên đoán trước của lãnh tụ văn nghệ Nguyễn Đức Quỳnh mười tám năm cũ.
- Mày tính sao?
- Tính gì?
- Chuồn.
- Chuồn đâu? Mã cùng đồ rồi!
- Về Long Xuyên ẩn thân.
- Mai danh ẩn tích hả? Kệ mẹ nó. Đến đâu hay đến đó.
Đặng Xuân Côn có thể đưa vợ con di tản dễ dàng. Cứ bám lấy tôi vào
những ngày tôi bối rối nhất. Rồi tôi biến thành cái đầu tầu di tản, kéo
các toa em vợ. Nhà tôi không thèm nghĩ đến con mình, chỉ nghĩ vợ con của
đứa em trai mình, bắt tôi kéo bằng được vợ con đùm đề của cậu em trai
du học bên Mỹ.
Rốt cuộc, kéo nặng quá, đầu máy chết. Phạm Duy,
trước khi chạy, cho tôi hay rằng anh đã phải vất vài đứa con lại. Anh
khuyên tôi lo thoát lấy thân mình. Tôi còn bận bịu lo thoát thân vợ con
của em vợ. Than ôi!
-Thả một vòng Sài gòn chơi chăng?
Đặng Xuân Côn đề nghị.
- Thì đi.
Tôi trả lời. Lúc ấy đã 7 giờ, đường phố không còn hoang vắng như cách
đây một tiếng đồng hồ. Xe cộ xuôi ngược, bớt cảnh nườm nượp hàng ngày.
Đèn lưu thông chớp nháy tự động ở các ngã tư. Lệnh giới nghiêm của Dương
Văn Minh vô hiệu quả. Luật pháp quốc gia đã bị coi thường. Người ta có
thể tự do thanh toán nhau vì thù hận riêng tư hôm nay. Người ta có thể
cướp bóc, hãm hiếp hôm nay. Cảnh sát vắng bóng. Quân cảnh vắng bóng.
Nhưng cao quý thay là ngày Sài gòn thả nổi, ngày Sài gòn có chính phủ
như vô chính phủ, tất cả bình yên nhờ chân lý mất gì không mất tình
người Việt Nam. Tôi muốn vinh tôn dân tộc tôi bằng vàng son chói lọi.
Tôi muốn vinh tôn Sài gòn bằng gấm vóc kiêu sa. Thành phố thân yêu của
tôi, có trái tim của mấy triệu trái tim. Thành phố ấy không hề khích lệ,
đốc xúi trả thù, tuyết hận trong cơ hội tha hồ trả thù, tuyết hận và
tha hồ nhân danh đủ thứ chính nghĩa. Sài gòn, thành phố nhân bản, thành
phố biểu tượng của tình nghĩa Việt Nam, của tình người Việt Nam. Như
thế, Sài gòn vĩnh cửu, Sài gòn tồn tại như dân tộc Việt Nam. Tôi yêu Sài
gòn.
Sài gòn, tên em trên những vệt môi son
trong ánh mắt
và trong hơi thở
trong hạnh phúc
và trong đau khổ
ở tuổi non và ở tuổi già
ở xuân hồng sắp sang và thu biếc đã qua
ở hôm nay anh sống và ngày mai anh chết
TIÊU NHƠN LẠC *MỘT KỶ NIỆM KHÓ QUÊN ĐÊM 30/4/1975
Posted: Apr 5, 2012 22:57:34 · Edited by: quachxuanson MỘT KỶ NIỆM KHÓ QUÊN ĐÊM 30/4/1975 Hồi Ký của Tiêu Nhơn Lạc (MĐC67) Tôi và bà xã đang ăn cơm, lúc đó khoảng 7 giờ tối ngày 30/4/75, thì có một toán VC mặc đồ đen,dép râu, nón tai bèo, mang súng AK và M16, cổ quấn khăn rằn màu TQLC. Tôi nghe bước chân họ nện trên sàn cement, vừa đi vừa nói chuyện lung tung (sau khi đã "tiếp thu" xong thị xã An Xuyên Cà Mau vào buổi trưa), đi ngang qua nhà tôi đang trú ngụ (Tôi mướn nhà của thương phế binh VNCH). Tôi vội ngừng đũa và ngẩng mặt nhìn ra phía cửa, vừa lúc đó một anh "giải phóng quân" nhìn ngoái lại phía tôi, rồi vội vã bước vào trong nhà tôị. Anh ta mỉm cười thật tươi, như mừng rỡ khi gặp lại người thân quen, anh ta ấp úng: - Ông... Thiếu úy Lạc phải hông? Tôi thoáng chút ái ngại và đề phòng thận trọng. - Dạ, phải! Tôi đây. (Người này không biết tôi đã thăng cấp bậc Trung úy từ năm 1972 rồi) - Thiếu úy không nhận ra em hả? Em là Hấu ở Đại đội 473 năm Th/úy làm Đại đội phó đó Tôi lấy lại chút bình tĩnh khi nghe người "giải phóng quân" tự xưng là em. Tôi liền cho bộ não của tôi "phản hồi" dòng ký ức thật nhanh về những ngày tháng cũ khi tôi làm ÐĐP/ÐĐ473 thuộc CK/ Hải Yến Cà Mau. Tôi tự tin khi nhớ chính xác ra ngay tên Lê văn Hấu là một âm thoại viên thuộc Trung đội 1 của Chuẩn úy Khánh đã đào ngũ trong một phiên gác đêm tại tiền đồn ở CK/ Hải Yến cách nay đã 3,4 năm rồi... Đêm hôm đó, vị trí Hấu từng gác mỗi đêm bị bỏ trống khi anh Trung Sĩ Nhu đi tuần tra phát hiện được. Lục lọi, hỏi han trong trung đội chẳng thấy bóng dáng Hấu đâu, thì ra Hấu đã "chuồn" ra khỏi trung đội qua lối cửa hậu (không có gài lựu đạn và trái sáng) mà không ai hay biết Hấu đã ra đi từ lúc nào trong phiên gác của Hấụ. Kiểm điểm lại thì thấy máy PRC25 vẫn còn nằm phía trên giường ngủ của Hấu và của Ch/úy Khánh, chỉ mất một M16 với 2 cấp số đạn cùng vàì trái lựu đạn cá nhân của Hấu mang thôi. Trước măt tôi bây giờ, Hấu vẫn còn mang dáng nét của một người lính nông dân, mộc mạc, thật thà. Hấu lại mỉm cười lần nữa như muốn nhắc nhở tôi một sự việc đã xảy ra cách nay vài năm, trong lúc tôi vừa nhận ra Hấu trong tức khắc. À! Tôi nhận ra Hấu rồi... Tôi dã lã bước tới vỗ vai Hấu, ỡm ờ như thân thich. Liền khi dó, hai người "giải phóng quân" trẻ khác từ ngoài sân bước vào trong nhà tôi, nhỉn thấy cảnh 2 người tôi như thân mật. Họ gật đầu chào tôi. Lúc này, tôi đang mặc bộ đồ bà ba đen của Xây Dựng Nông Thôn trông cũng giống đồ lính giải phóng quân lắm, tôi gật đầu chào lại. Họ mà trong lòng quá ư hồi hộp vì không biết việc gì sẽ đến với tôi đêm nay. Thình lình, Hấu quay qua 2 người giải phóng quân giới thiệu tôi: - Ông.. Thiếu úy Lạc, đai đội phó đại đội 473 của tao hồi trước đó. Nghe qua lời giới thiệu của Hấu xong, tôi thoáng "lạnh xương sống". Phải chi, giữa ba quân của ta mà được giới thiệu như vậy thì cũng không có gì để nóí; đàng này, ngay giữa đêm 30/4/75 trong lúc "trắng đen, vàng thau" lẫn lộn, mình lại là kẻ "sa cơ" mà nghe qua lời giới thiệu thật "rùng mình", cơ hồ như mồ hồi đang "rịn" ra . Tôi còn nhớ, lúc đó tôi nhăn nhó khó chịu lắm và cảm thấy không chút thiện cảm, ân cần nào khi bỗng nhiên phải giáp mặt với những người anh, em phía bên kia; trong lúc tôi chưa kịp chuẩn bị tinh thần để đối phó. Màn giới thiệu của Hấu xong, Hấu giục tôi đừng ăn cơm nữa, "đi chơi" với Hấu đêm nay, vừa nói với tôi mà cũng vừa nói để bà xã tôi nghe. Tôi nhìn qua thấy bà xã tôi đứng thẫn thờ như kẻ mất hồn mà không mở miệng được lời nàọ. Tôi quay bước định vào buồng trong lấy ít tiền đem theo, Hấu nhanh nhẩu lên tiếng: - Thiếu úy đừng lấy gì theo hết, em có tiền mà...! Tôi đành quay phắt trở lại và nói với bà xã tôi vài lời trước khi theo mấy anh, em phía bên kia "đi chơi". Vừa đi song song với Hấu qua các dãy phố đêm trong thị xã Cà Mau dưới ánh đèn điện vàng nhạt không đủ sáng,sau lưng là 2 anh lính giải phóng quân; tôi ngỡ như mình đang bị "áp tải" đến một cơ quan nào trong đêm nay vậy. Tôi đi như người bị "mộng du". Thật ra, tôi cũng chưa biết được ý định của Hấu như thế nào đối với tôi - một cấp chỉ huy cũ - khác chiến tuyến với Hấu. Trong lúc nàỵ tôi tự xét lòng mình thấy không có gì "phiền phức, buồn lòng" với người anh em phía bên kia khi tôi còn là ĐÐP/ĐÐ473; giữa 2 chúng tôi khi xưa cũng không xảy ra chuyện gì để phải lưu tâm, hận thù. Tôi yên chí đi bên Hấu, nhưng cũng không làm sao "trấn an" được lòng mình. Hấu dẫn tôi cùng 2 người bạn phía bên kia đi lòng vòng qua nhiều khu phố mà đêm nay nhộn nhịp như hội chợ. Các hàng quán còn bán buôn "ỳ xèo" như cùng mừng "trong ngày vui đại thắng". Tôi cũng không dám hỏi Hấu nguyên nhân tại sao Hấu bỏ đơn vị ra đi theo phía bên kia, ngược lại, Hấu hỏi han tôi rất nhiều về các anh, em trong ĐÐ473 và Hấu nói cũng dã từng theo dõi "bước hành quân" của ĐÐ473. Hấu nói nhiều như để lấp đầy khoảng trống "ngột ngạt" của buổi tao ngộ bất đắc dĩ này... Tôi được Hấu đưa đi ăn uống no nê mà Hấu cứ giục tôi ăn thêm gì nữa đi: Thiếu úy đừng lo, em có tiền mà!! Cứ mỗi câu nói: Thiếu úy đừng lo, em có tiền mà ... làm tôi thêm "ngượng ngùng". Dần dà, tôi lấy lại được chút bình tĩnh, khi tôi tạm đánh giá đêm hội ngộ này là không có vấn đề "ân oán", mà tôi luôn nhủ rằng Hấu là "bạn" của tôi xa nhau lâu ngày mới gặp lại. Hấu đưa tôi vào một tiệm chụp hình. Tôi hết sức lưỡng lự mà không sao từ chối được. Tiệm chụp hình đêm nay cũng "hốt bạc", vì người anh em phía bên kia vào, ra chụp hình như đi trẩy hội... Vào khoảng gần 12 giờ đêm, Hấu đưa tôi trở về nhà. Tội nghiệp bà xã tôi ở nhà trông đợi mỏi mòn, lòng bà xã như lửa đốt, đứng, ngồi không yên. Thấy tôi trở về an toàn với Hấu, bà xã lặng thinh rướm nước mắt. - Thiếu úy ở nhà nghỉ. Đừng đi ra ngoài nghe. Sợ nhóm khác tụi nó làm ẩu Nghe qua lời căn dặn ân cần của Hấu, thực tình tôi biết ơn tấm lòng của Hấu lắm. Nghĩ cho cùng ,Hấu đối với tôi đêm nay rất chân tình như huynh đê chi binh... Lời dặn dò của Hấu như muốn bảo vệ, che chở cho tôi trong cái "quyền hữu hạn" của một người lính giải phóng quân hèn mọn trong ngày "tiếp thu" thị xã Cà Mau còn biết thương, yêu một cấp chỉ huy cũ của mình nay đã "xuống ngựa". Bắt tay tôi từ giã Hấu nói thòng thêm một câu:" Nếu ngày mai em còn ở lại thị xã, em ghé qua thăm Thiếu úy lần nữa." Tôi quay trở vào trong nhà mà lòng nghe bối rối, tôi bàn với bà xã là sáng sớm ngày mai (1/5/75), Tôi phải tức tốc rời khỏi thị xã Cà Mau về quê quán của tôi là Trà Vinh trước, bà xã tôi ở lại lo thu xếp đồ đạc gởi nhà bà con bên vợ tại Cà Mau rồi về Trà Vinh sau. Vài ngày sau bà xã tôi về đến Trà Vinh với gương mặt hốc hác như người bị bịnh lâu ngàỵ. Tôi đươc biết, từ sau ngày tôi rời Thị xã Cà Mau, thì Hấu cũng không đến nữa; trong khi đó ban quân quản ra lệnh đuổi tất cả những gia đình trú ngụ trong các dãy nhà thương phế binh trong vòng 1 tuần lễ, nên bà xã tôi tất tả "di tản" bỏ lại tài sản của tôi tại dãy nhà TPB cho "kách mạng". TIÊU NHƠN LẠC Cuu SVSQ K6/68/TB/TD Newyork City |
MƯỜNG GIANG * QUỐC HẬN 30-4-1975
QUỐC HẬN 30-4-1975
VIẾT VỀ NGƯỜI LÍNH BẤT HẠNH VNCH
MƯỜNG GIANG
Hai
mươi năm chinh chiến, QLVNCH đã có 250.000 người gục ngã trước đạn thù
và nửa triệu thương binh chịu đời bất hạnh vì một phần cơ thể đã gửi lại
sa trường. Tuy nay Chính Phủ cũng như QLVNCH không còn nửa, nhưng trong
tâm tư của mọi người được sống sót qua cuộc đổi đời mạt kiếp, thì lý
tưởng và danh dự của Người Lính càng được sáng tỏ, trong niềm hãnh diện
chung của quân-dân Miền Nam.
Lịch
sử của một quốc gia là những gì trung thực , mà người dân của nước đó
đã ghi chép không hề thêm bớt. Nhờ vậy ta mới biết được về cuộc nội
chiến của Hoa Kỳ xảy ra từ năm 1861-1865, cùng với thái độ của dân chúng
và chính quyền nước Mỹ tại Miền Bắc là kẻ thắng trận, đã không hề lên
án, bỏ tù hay trả thù những người Miền Nam bại trận. Ðã vậy, Hoa Kỳ còn
ghi ơn tất cả những chiến sĩ của hai miền vừa nằm xuống trong cuộc
chiến, vì lý tưởng riêng của họ.
Thế
chiến 2 kết thúc, Tòa Án quốc tế Nuremburg chỉ kết tội những Ðầu Sỏ
trong phe Trục, mà không hề bắt bớ hay gây khó khăn cho quân nhân các
nước Ðức-Ý-Nhật.. Năm 1920, Lãnh tụ kháng chiến quân Libya là Tướng
Mukhta, bị người Ý bắt và tử hình. Nhưng chính Tổng Tư Lệnh Ý tại Bắc
Phi là người đã ở lại pháp trường, để lo lắng hậu sự cho vị anh hùng dân tộc Libya, vốn là kẻ thù của người Ý lúc đó.
Tại
VN, khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền tây Nam Phần năm 1867,
sau đó là thành Hà Nội năm 1873. Các tướng lãnh thủ thành đương thời là
Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu.. đã oanh liệt tử tiết
theo thành mất và được kẻ thù là người Pháp, tôn kính mặc niệm như chính
các tướng lãnh của họ. Sau rốt là số phận của 500.000 quân nhân Mỹ đã
tham chiến tại VN, trong số này hơn 50.000 người tử trận. Ngày nay các
chiến sĩ trên đã được quốc dân Hoa Kỳ trả lại công lý và danh dự, để họ
hiên ngang ưỡn ngực, cũng như an giấc nghìn thu bên cạnh ông cha, một
đời liệt sĩ. Tất cả đã chết cho lý tưởng quốc gia, sống vinh quang và
yên nghỉ trong danh dự.
Người
lính VNCH trong suốt hai mươi năm binh lửa cũng vậy, đã phơi gan trải
mật để bảo vệ cho đất nước và mạng sống của đồng bào, bị cọng sản quốc
tế Bắc Việt xâm lăng giết hại. Tóm lại gần hết cuộc chiến, ở đâu có cọng
sản khủng bố cướp bóc giết hại dân lành, là ở đó có sự hiện diện của
người lính Miền Nam. Ở đâu có bóng cờ vàng ba sọc đỏ, là ở đó người dân
trong vùng chiến nạn, tìm đủ mọi cách trốn thoát sự kềm kẹp của giặc
cộng, để trở về vùng quốc gia nhờ che chở đùm bọc. Ai có làm lính tác
chiến hay người cán bộ áo đen Bình Ðịnh Nông Thôn, Cán Bộ Xã Hội.. mới
biết được thế nào là nổi thống khổ, trên đe dưới búa, cá nằm giữa dao
thớt, người dân tay không hứng hai lằn đạn bạn thù, của người VN trong
thời ly loạn. Có là người dân bị kẹt trong vùng xôi đậu, lửa khói bom
đạn, mới thấu hiểu đời người lính gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là
người dân quèn, nghèo sống đời cay cực, mới thương xót cho “ cảnh ba
đồng, ba cộc “ của kiếp lính Miền Nam.
Nhức
nhối và mai mĩa nhất, đó là hiện tượng ‘ thuyền nhân tị nạn ‘ sau ngày
30-4-1975. Ngoài tuyệt đại đa số nạn nhân đích thực của CSQT, trong số
này không thiếu mặt “ những tên tuổi lớn “ một thời chạy theo VC đâm sau
lưng người lính, những nhà văn, nhà báo, cha cố.. kể cả thành phần suốt
đời chỉ biết sống ký sinh vào xã hội.. cũng lợi dụng “ danh nghĩa người
lính “ để được tị nạn chính trị. Ứa gan hơn là những tên VC trà trộn
trong hàng ngũ những người vượt biên, vượt biển, sau khi tới được bờ đất
hứa, chúng trở mặt ngay, để lộ diện thành công an, cán bộ, đảng viên
như ngày nào.. để nạt nộ, hăm dọa đồng hương, qua cái đòn “ nếu theo
Ngụy “, sẽ không được về VN để thăm nhà, như đã thấy tới độ mù mắt khắp
nơi tại hải ngoại.
Trong
nổi chịu đựng hy sinh âm thầm nhưng thảm nhất là người lính đã không
bao giờ được một lời an ủi tử tế của hậu phương, để yên tâm tiếp tục cầm
súng giết giặc bảo vệ cho người dân. Trái lại họ còn bị muôn ngàn bất
hạnh đeo đuổi suốt cuộc chiến. Thật vậy, khi cầm súng thì cô đơn, nửa
đường bị hậu phương, đồng minh và lãnh đạo phản bội bán đứng. Ngày trở
về thì bị giặc trả thù đầy đoạ, rồi chết thầm trong đói nghèo tủi nhục.
Tiếp
tay với những tâm hồn thác loạn, ăn cơm quốc gia thờ ma cọng sản, là
bọn báo chí quốc tế bất tài, a dua, xu thời. Nhờ vậy mà cọng sản Bắc
Việt, mới có cơ hội tung hoành một mình một cõi, thao túng vẽ vời huyền
thoại, bóp mép lịch sử, để đầu độc các thế hệ VN đang sống trong sự kềm
kẹp của chế độ bạo tàn, độc đảng. Nhưng rồi gieo gió thì phải gặt bảo,
chính sự khoắc lác dại khờ trên, đã đưa toàn bộ đảng cọng sản VN chìm
trong cái vũng bùn ô nhục, khi bí mật lịch sử lần lượt được mọi phe phái
bật mí và hồi tưởng.
Câu
chuyện tướng Nguyễn Ngọc Loan trong trận Tết Mậu Thân 1968 ở Sài Gòn,vì
không thể chịu nổi hành động dã man, đẩy các trẻ em trong xóm ra làm lá
chắn đở đạn cho đồng bọn tẩu thoát. Vì quá tức giận không kềm chế được,
nên tướng Loan đã rút súng Rouleau ngắn nòng, bắn chết tên VC chỉ huy
là Bảy Lốp, tại ngả ba Vườn Lài (góc đường Vạn Hạnh, Minh Mạng và Vĩnh
Viễn), trước mặt phóng viên Mỹ là Eddie Asams, nên đã chụp được tấm hình
này, đem bán rao khắp thế giới và nhận được giải thưởng quốc tế.
Sau
ngày 30-4-1975 Tướng Loan tới tị nạn tại Hoa Kỳ, đã bị bọn phản chiến
cùng với giới truyền thông Mỹ làm lớn chuyện. Thậm chí có Elizabeth
Holtzman (nữ dân biểu DC bang New York) và Dân biểu Harold Sawyer (CH
bang Michigan), đã kiện cáo, đòi Chính phủ Mỹ trục xuất tướng Loan ra
khỏi Hoa Kỳ, vì tội vi phạm nhân quyền nhưng bị thất bại .
Trước
và sau ngày tướng Loan từ trần 14-7-1998, người phóng viên chụp tấm
hình năm xưa Eddic Adams, đã viết một bài báo xin lỗi tướng Loan vì sự
ray rứt hối hận của mình, trong đó có đoạn “ Ông đã làm công việc cuủ
ông, còn tôi làm bổn phận của tôi “. Ngày tướng Loan qua đời, Eddic lại
viết thêm môt bài báo khác đăng trên tờ Times, đồng thời gới tới một
vòng hoa phúng điếu, trên đó có đính một danh thiếp viết tay “ General, I
‘am so,so,so.. sorry “.Bao nhiêu đó, chắc cũng đủ làm nhức óc những tên
“ sống nhờ người tị nan “ nhưng lúc nào cũng viết lách, làm báo ca tụng
VC.
Ðau
đớn nhất là trận Hạ Lào 1971, cho dù các đơn vị đã tham chiến như SD
Dù, TQLC, Sư Ðoàn 1 BB, Lữ Ðoàn 1 Thiết Kỵ và Liên Ðoàn 1 BDQ có bị tổn
thất nặng nề. Nhưng cuối cùng QLVNCH cũng đã đạt được mục đích của cuộc
hành quân, là phá hủy gần như toàn bộ các cơ sở hậu cần, tiếp liệu tại
các mật khu, binh trạm tại đây. Lúc đó, chỉ có Ðại Úy Trương Duy Hy,
Pháo đội trưởng PDC/44, tham dự cuộc hành quân, tại căn cứ Hỏa lực 30,
là tác giả quyển Hồi ký “ Tử thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30, Hạ Lào “ là
viết sự thật. Ngoài ra tất cả bọn phóng viên Mỹ&Tây phương đều ở
Khe Sanh, hằng ngày nhìn cảnh máy bay tải thương xác lính và thương binh
về tới tắp. Từ đó chụp hình, diễn dịch rồi gửi về nước, nói là QLVNCH
đã thảm bại tại Hạ Lào, giống như hồi Tết Mậu Thân (1968).
Riêng
làng báo Sài Gòn cũng vậy, vì không có ai vào tận chiến trường để chứng
kiện sự thật, nên chỉ đành “ chôm chĩa tin từ báo Mỹ “ rồi “ Mao Tôn
Cương thành trận đánh cuối cùng không có đại bàng “
rằng “ VC đâu có quân số đông đảo để đánh QLVNCH, mà chỉ sử sụng hỏa
pháo. Ở đây làm gì có kho tàng như tình báo đã báo cáo láo”. Tóm
lại theo họ thì QLVNCH vì sợ hỏa lực của VC nên bỏ chạy . Có đọc những
tin tức của báo chí Sài Gòn lúc đó, mới thấy máu của người Lính Miền Nam
đã đổ suốt cuộc chiến, để bảo vệ cho “ đám này “, thật là uổng phí
và tội nghiệp cho những kẽ đã nằm xuống truớc ngày 30-4-1975.
Nhưng
người lính VNCH từ trước tới nay chỉ biết có cầm súng để chiến đấu giữ
nước và bảo vệ sinh mạng cho người khác, chứ không quen viết lịch sử để
ca tụng một chiều. Cho nên nếu có được một tiếng cảm ơn hay sự hồi phục
danh dự, thì đó cũng chỉ là sự phản tỉnh của thế giới tự do khi đã biết
được sự thật cùng ý nghĩa của cuộc chiến mà người Miền Nam phải bán mạng
để chống ngăn giặc Bắc xâm lăng tới giờ phút cuối cùng. Ngoài ra còn có
sự tưởng tiếc muộn màng của đồng bào hậu phương, đối với người chiến sĩ
VNCH, khi chính bản thân và gia đình người dân qua cuộc
đổi đời, cũng đã trở thành nạn nhân tận tuyệt, của một chế độ bạo tàn,
của những con người không có nhân tính, mà hôm qua chính người dân coi
như thần thành, nên đã công khai giúp và theo chúng, đâm sau lưng đồng
đội, đồng bào mình.
Trong
lúc đất nước đang lâm nguy vì giặc xâm lăng phương Bắc, trong lúc gần
hết thanh niên nam nữ thuộc mọi tầng lớp của xã hội miền Nam, không phân
biệt sang hèn, kinh thượng, bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết tương lai của tuổi
trẻ và đời người để lên đường ra biên cương chống giặc thù. Giữa lúc đất
nước lầm than, muôn người khốn khổ vì chiến tranh do Hồ Chí Minh và
cọng sản mang từ Liên Xô-Trung Cộng vào để dầy xéo non sông tổ quốc, thì
tại hậu phương Miền Nam có một số người tự nhận mình là trí thức, giáo
sư, tu sĩ, hầu hết đều đang độ xuân thì, mập mạnh nhưng lại tìm cách
đứng bên lề cuộc chiến bằng đủ mọi lý do để được hoãn dịch, trốn nghĩa
vụ làm trai trong thời tao loạn. Nếu vì sợ chết mà trốn đi lính, thì
cũng còn có thể tha thứ nhưng những hạng người này, không bao giờ chịu
để yên cho đồng bào và đất nước mình đang trăn trở trong cơn đau bom
đạn, hận thù, đói nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn không thông cảm cho ai
hết, ngoài cái lý tưởng đã thu lượm được, qua sách báo tây phương phản
chiến và các kinh điển nhật tụng của thiên đàng xã hội chủ nghĩa, trong
lúc được sống ở hậu phương, thừa mứa vật chất, đàn bà và thời gian để
đâm thọt, phá hoại những người đang liều mạng xã thân bảo vệ mạng sống
thừa thải ký sinh của mình.
Ngày
nay ai cũng biết, cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1955-1975) rất đa
dạng, phức tạp, khó có thể định nghĩa cho trọn vẹn. Nói chung tùy theo
lý tưởng, ai muốn gọi thế nào cũng đều có ý nghĩa riêng với người trong
cuộc. Cho nên với người Miền Nam VN, thì đây là một cuộc chiến đấu chống
xâm lăng. Cuộc chiến này hoàn toàn khác biệt với cuộc phân tranh của
hai họ Trịnh Nguyễn vào thế kỷ thứ 17, lúc đó chỉ là cuộc tương tàn nồi
da xáo thịt để tranh giành quyền lãnh đạo của đất nước. Trái lại cuộc
chiến lần này, người Miền Nam chiến đấu, vừa để tự vệ, vừa bảo vệ phân
nửa mảnh đất VN, để khỏi bị Bắc Việt nhuộm đỏ bằng chủ thuyết cọng sản.
Nhưng với bọn trí thức thiên tả, phản chiến nằm vùng lúc đó, lại trắng
trợn phỉ báng, gọi QLVNCH là lính đánh thuê cho Mỹ.
Chính
bọn trí thức thiên tả này đã lợi dụng quyền tự do báo chí ngôn luận của
VNCH, để viết lách, bôi nhọ, xuyên tạc, tuyên truyền phá nát hậu
phương, đâm sau lưng chiến sĩ tiền tuyến, đang liều chết để bảo vệ đồng
bào, trong đó có cả sinh mạng ký sinh của chúng.
Cuối
cùng, VNCH đã sụp đổ, kéo theo sự mất mát toàn diện mà người Việt QG đã
tốn xương máu xây dựng. Người chạy thoát ra nước ngoài tuy không bị đau
đớn thể xác nhưng tinh thần và sự dằn vặt, cũng đã làm cho họ điên đảo
suốt quảng đời lưu vong nơi xứ người. Tội nghiệp nhất, cũng vẫn là Lính
phải còng lưng cúi đầu gánh chịu những thảm tuyệt của kẻ thù man rợ,
những điều mà chắc chắn thế giới tự do không hề nghĩ tới, vậy mà vẫn
tới trong địa ngục trần gian của các nước Cộng Sản, trong đó có CSVN.
Ngoại
trừ một số rất ít khôn ngoan hay có thân nhân VC bảo lãnh, hầu hết các
cấp Quân, Công, Cán, Cảnh của Nam VN đều chịu sự hành hạ nơi chốn lao
tù. Chúng bắt tất cả Sĩ quan và cán bộ, công chức, cảnh sát VNCH vào tù,
qua cái gọi là “ Trại Cải Tạo “ để đánh lừa thế giới, về
sự dã man tàn ác đối với tù nhân chiến tranh, trái với công pháp quốc tế
đã qui định. Hầu hết các trại tù đều lập ở Miền Bắc và Bắc Trung Phần,
phía bên kia vĩ tuyến 17. Tại Miền Nam, trại tù nằm trong rừng núi cheo
leo, ma thiêng nước độc, để lao động khổ sai, chết dần mòn vì sự hành hạ
của quản giáo và nổi cực khổ, đói lạnh nhưng ăn uống thì thiếu thốn với
khẩu phần hằng ngày, chỉ lưng chén cơm gạo xấu, trộn với khoai bắp, còn
những người bị biệt giam thì đói khát vì phần ăn phát rất ít. Nói chung
là không còn bút mực nào để kể cho hết nổi hận hờn tủi nhục của người
tù dưới chế độ CS. Ðói quá nên người tù phải ăn tất cả những gì có trước
mặt như rắn, rít, ếch nhái, chuột, trùn đất, cào cào.. kể cả cỏ chai và
cỏ diệu, thay cơm để đủ sức chống chọi với tử thần, lúc nào cũng như
chực chờ sẳn bên cạnh :
‘ Ngày hành xác giữa núi rừng hoang vắng,
đêm ôm đầu thương tiếc chuyện ngày xưa
bạn bè đến đây càng lúc càng thưa
thằng nằm xuống, thằng đày sang trại khác
thằng chống lại thì xác thân tan nát
thằng bệnh đau thân xác cũng không còn
đem xác người đi phá núi dời non
đem mạng sống để gở mìn tháo đạn
thay trời dẫn nước vào sông đã cạn
thay trâu kéo cầy phá vỡ ruộng hoang
buổi sáng gượng vui nhìn lúa trổ bông
nữa đêm khóc thầm đời lính bất hạnh
tôi đã sống qua những ngày đói lạnh
tôi đã nhét đầy tài liệu buồn nôn
kiểm điểm nghìn câu cho tốt tốt hơn
để theo đảng biến người thành khỉ vượn .
(thơ mường giang). ’ ’
Lính
sống bị trả thù đã đành, cho tới những người lính đã chết , CSQT cũng
không tha, thì nói chi thành phần Thương Phế Binh, Cô Nhi Tư Sĩ của
VNCH, lại càng bị đoạ đày thê thảm.Tất cả năm tháng dù nay đã đi vào
quân sử nhưng sự thật vẵn còn nguyên trước mắt, với hai cảnh đời hiển
hiện như một chứng tích nghìn đời không phai mờ : Ðó là địa ngục VN sau
38 năm bị giặc chiếm đóng và giá trị đích thực của QLVNCH từ 1960-1975,
đã có rất nhiều cấp chỉ huy tài ba lẫn đạo đức, văn võ vẹn toàn, được
đào tạo từ các quân trường nổi tiếng nhất vùng Ðông Nam Á thời đó gồm
các Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, Bộ Binh Thủ Ðức, Ðại Học Chiến Tranh
Chính Trị, Các Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân và Hải Quân, Học Viện
Quốc Gia Hành Chánh và Cảnh Sát,Trường Ðại Học Quân Sự.. chứ đâu phải
chỉ có những tướng tá từ thời Pháp thuộc ?!
Ngày
xưa người Lính VN, chiến đấu trong vinh quang, khi trở về cũng thật
hiên ngang, giữa cảnh phu phụ trùng phùng, nồng ấm kết lại mối tình xưa :
‘..xin vì chàng, xếp bào cỡi giáp
xin vì chàng giũ lớp phong sương
vì chàng tay chuốc chén vàng
vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng.. ’ ’
( Chinh Phụ Ngâm ố Ðặng Trần Côn và Ðoàn Thị Ðiểm)
Ngày
nay người chiến sĩ VNCH không có cái diễm phúc trên, vì suốt cuộc chiến
hai mươi năm, ngoài mặt trận thì chống trả với kẻ thù trong nổi cô độc.
Khi trở về lại bị kẻ thù đọa đầy, tù ngục và chết trong uất hận nghẹn
ngào.
Thử
hỏi giữa cõi đời này, có quân đội nào bất hạnh hơn QLVNCH ? Ngày nay,
đã có không biết bao nhiêu người ,đang sống thản nhiên khắp các nẻo
đường hải ngoại, mà hầu hết bản thân họ hay con cháu, hôm qua vẫn sống
nhờ sự bảo bọc của lính. Không biết trong tâm tư đó, có một giây phút
nào do lương tâm xao động, khiến trái tim người, chợt nghĩ tới những kẻ
bất hạnh đã VỊ QUỐC VONG THÂN ?
Xưa
NGƯỜI LÍNH chiến đấu anh dũng trong khói lửa để bảo quốc an dân. Nay
những người lính già còn sót lại sau cuộc chiến và lớp hậu duệ của lính
năm nào, cũng đã và đang tiếp tục tranh đấu không ngừng, cho một ngày về
QUANG PHỤC QUÊ HƯƠNG được sống thật với tự do và no ấm, như chúng ta
hiện nay đang hưởng tại quê người.
‘..tội nghiệp, đời trai chưa thỏa chí
sa trường dung ruổi đã phơi thây
đoàn quân hùng liệt nay về đất
hồn vẫn quanh co giẫm lối gầy
chiều chiều đứng ngóng ngàn mây nổi
mà khóc quê hương khuất bến bờ
nhớ lúc hát rừng nơi chiến địa
mộng hoàng hoa, khép giữa hư vô ‘
(thơ mường giang)
Xin
nghiêng mình trước đồng đội đồng bào đã hy sinh vì đại nghĩa Dân Tộc
Việt. Cũng xin chân thành biết ơn Quý Ân nhân đồng hương khắp mọi nẻo
đường viễn xứ, đã và đang hướng về những người lính cũ ngày xưa, giờ họ
là Quả phụ, cô nhi và thương phế binh VNCH. đang kẹt ở quê nhà.
Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2013
MƯỜNG GIANG
THIỆN Ý * THẮNG BẠI
30/4: 'Quốc gia thua để thắng, CS thắng để thua'
29.04.2014
Ðúng
39 năm trước đây (1975-2014), ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc nội chiến ý
thức hệ Quốc-Cộng giai đoạn 2 tại Việt Nam đã chấm dứt sau 21 năm diễn
biến khốc liệt (1954-1975).
Sau cuộc chiến, đã có nhiều cách lý giải và đánh giá về sự kết thúc chiến tranh Việt Nam một cách không bình thường. Riêng chúng tôi, nhân ngày 30 tháng 4 lần thứ 39 hôm nay, chỉ xin nhắc lại một cách đánh giá tổng quát đã được đưa ra chỉ vài năm sau cuộc chiến chấm dứt (1), để quý độc giả cảm nghiệm xem có đúng với những gì đã và đang xẩy ra trên thực tế hay không. Ðó là ý nghĩa lịch sử về Ngày 30-4-1975: “Quốc gia thua để thắng, Cộng sản thắng để thua”. Vì sao?
Thật vây, đối phương của Việt Cộng là những người Việt Quốc gia, lý tưởng và mục tiêu đấu tranh trước sau như một: tiêu diệt độc tài, xây dựng chế độ dân chủ tự do, xã hội công bằng, phát triển toàn diện đất nước đến phú cường, văn minh tiến bộ theo kịp đà tiến hoá chung của nhân loại.
Và vì vậy, kể từ sau ngày giành được độc lập từ tay thực dân Pháp vào năm 1954, mong muốn chân thành của những người Việt Quốc Gia ở Miền Nam Việt Nam, kẻ cầm quyền cũng như dân giả, là thiết lập một chế độ độc lập dân tộc, dân chủ tự do (Việt Nam Cộng Hoà) và phát triển toàn diện Miền Nam đến giầu mạnh. Thành quả mong muốn này sẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp chính trị (dân chủ), kinh tế (giầu mạnh), xã hội(công bình) khả dĩ đánh bại chế độ của những người Cộng sản Bắc Việt: chính trị (độc tài toàn trị), kinh tế (nghèo đói), xã hội (áp bức, bất công), mà không cần xử dụng sức mạnh quân sự tiêu diệt đối phương (Việt cộng).
Nói cách khác, thay vì dùng chiến tranh để áp đặt mô hình chủ nghĩa quốc gia hay chủ nghĩa xã hội, hai chế độ chính trị đối nghịch trên hai Miền Bắc, Nam sẽ có thời gian và cơ hội thi đua thực hiện mô hình chính trị, kinh tế, xã hội của mình, chờ cơ may thống nhất đất nước một cách hoà bình, thông qua con đường hòa bình và dân chủ. Lúc đó, mô hình xây dựng và phát triển đất nước nào (của Việt quốc hay Việt cộng) có hiệu quả thực tiễn sẽ ưu thắng, sẽ được nhân dân hai miền chọn lựa bằng lá phiếu của đa số trong một cuộc trưng cầu dân ý tự do thực sự, có giám sát quốc tế nếu cần.
Thế nhưng ước muốn chân thành và hết sức có lợi cho đất nước và dân tộc trên đây của những người Việt quốc gia ở Miền Nam đã không được những người CSVN ở Miền Bắc đáp ứng.
Bởi lý tưởng và mục tiêu của những người CSVN hoàn toàn khác biệt với lý tưởng và mục tiêu của người Việt quốc gia. Sự khác biệt rõ nét nhất là Người Quốc Gia hành động tất cả vì Quốc Gia Dân Tộc, cho Tổ Quốc Việt Nam, trong khi những Người Cộng Sản Việt Nam hành động tất cả vì Quốc Tế Cộng Sản, cho Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Xô. Do đó, để làm tròn nghĩa vụ công cụ bành trướng hầu áp đặt chủ nghĩa cộng sản trên cả nước, đảng CSVN đã phát động và tiến hành cuộc chiến tranh thôn tính Miền Nam, đẩy chính quyền và nhân dân Miền Nam Việt Nam vào một cuộc chiến tranh tự vệ và Hoa Kỳ có cớ can thiệp ngày càng sâu rộng vào chủ quyền VNCH. Cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn này đã kéo dài hơn 20 năm (1954-1975), sát hại hàng triệu sinh linh, tàn phá đất nước, di hại lâu dài nhiều mặt cho đất nước và dân tộc Việt Nam.
Nhưng rồi sau cùng thì cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn cũng đã phải kết thúc và đã kết thúc một cách không bình thường, do sự sắp xếp tiền định của ngoại bang, đã để cho CSBV “thắng cuộc chiến” một cách dễ dàng, không cần chiến đấu(vì đối phương bị ép buộc đầu hàng) không cần giữ đất và không đủ người để tiếp thu (vì bất ngờ, tốc độ rút lui của VNCH nhanh hơn tốc độ tiến quân của VC)
Chính vì sự kết thúc chiến tranh không bình thường này, mà ngay từ những ngày tháng năm đầu, khi cuộc chiến vừa tàn, người Việt Quốc gia ở Miền Nam không khỏi nghĩ lại nhận định có tính tiên liệu của hai ngoại nhân. Một là Tướng độc nhản Moise Dayan, Bộ Trưởng Do Thái lúc bấy giờ khi đến thăm Miền Nam; hai là Sir Wilson. một chuyên viên Anh quốc làm cố vấn về du kích chiến cho Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam; Cả hai ngoại nhân này đều có chung nhận định đại ý “Muốn chiến thắng cộng sản tại Việt Nam, chỉ còn cách cộng sản hoá Nam Việt Nam”. Nay thì Miền Nam Việt Nam đã bị cộng sản hoá sau ngày 30-4-1975. Chế độ cộng sản đã thiết lập 39 năm qua trên toàn cõi Việt nam. Như vậy phải chăng “Quốc gia đã thua để thắng” và “Cộng sản thắng để thua” trong một tương lai không xa ?
Nếu đúng như vậy thì tại sao và Quốc gia thắng cộng sản như thế nào?
1.- Tại vì mục tiêu và lý tưởng đấu tranh của người Việt Quốc gia trước sau như một, vẫn là chân lý tất thắng của thời đại (độc lập dân tộc, tự do dân chủ, nhân quyền và chủ nghĩa quốc gia), có chính nghĩa, đáp ứng đúng khát vọng toàn dân(độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc thực sự, không phải chỉ là bánh vẽ như VC ). Chân lý, chính nghĩa và khát vọng ấy, nếu người Việt Quốc gia đã mất cơ hội thành đạt trước 30-4-1975, trong chiến tranh tự vệ, trên chiến trường, thì hôm nay, sau 39 năm kiên trì tiếp tục cuộc đấu tranh cho lý tưởng và mục tiêu của mình, đã và đang buộc được CSVN phải mặc nhiên tự thú sai lầm, phải sửa sai và từng bước lùi dần về phía dân chủ, trả lại dần dần cho nhân dân quyền tự do và các quyền dân chủ, dân sinh và nhân quyền căn bản.
2.- Quốc gia thắng Cộng sản như thế nào?
Chế độ CHXHCN Việt nam do đảng CSVN áp đặt tại Việt Nam đã và đang trên quá trình tiêu vong và đã bước vào giai đoàn cuối cùng: Tiêu vong hoàn toàn về mặt bản thể trong “Môi trường mật ngọt kinh tế thị trường theo định hướng tư bản chủ nghĩa”. Trong môi trường mật ngọt này,từng bước tịnh tiến cán bộ đảng viên CS được tư sản hoá, nhà nước CS được tư bản hoá và chế độ CS được dân chủ hoá. Ðó là quá trình tiêu vong tất yếu của đảng và chế độ CSVN, xác định sự toàn thắng của các lực lượng quốc gia, dân tộc, dân chủ Việt nam. Sự tất yếu này đến mau hay chậm là tùy thuộc vào ba lực đẩy, lực xoay cùng chiều chủ yếu:
- Một là sự tự hủy do phân hoá nội bộ đảng và chế độ CSVN.
- Hai là cường độ và hiệu quả thực tế của các hình thức đấu tranh của các lực lượng quốc gia, dân tộc, dân chủ trong cũng như ngoài nước, thu hút được quần chúng,tạo ra cao trào đấu tranh đòi dân chủ, dân sinh, nhân quyền của nhân dân trong nước.
- Ba là áp lực trên đảng và chế độ CSVN của các cực cường, các chính quyền dân chủ,Liên Hiệp Quốc, các tổ chức kinh tế tài chánh quốc tế và các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế.
Vì vậy cho đến nay, dưới áp lực của ba mũi giáp công cùng chiều trên đây, mới chỉ thúc ép được chế độ độc tài toàn trị hiện nay lùi dần về phía dân chủ. Chất dân chủ đã và đang đẩy lùi chất độc tài và tích lũy thành lượng dân chủ. Khi lượng dân chủ tích lũy đủ triệt tiêu hoàn toàn chất độc tài, thì theo qui luật duy vật biện chứng mà những người cộng sản Việt nam từng tin như giáo điều, rằng “Lượng đổi, chất đổi”, thì chế độ độc tài toàn trị hiện nay sẽ tiêu vong hoàn toàn bản thể để hình thành chế độ dân chủ tại Việt nam.
Tóm lại: 39 năm trước đây, ngày 30-4-1975 cuộc chiến tranh Quốc-Cộng tại Việt Nam đã kết thúc không bình thường đã chỉ đem lại một chiến thắng biểu kiến cho đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau cuộc chiến, đã có nhiều cách lý giải và đánh giá về sự kết thúc chiến tranh Việt Nam một cách không bình thường. Riêng chúng tôi, nhân ngày 30 tháng 4 lần thứ 39 hôm nay, chỉ xin nhắc lại một cách đánh giá tổng quát đã được đưa ra chỉ vài năm sau cuộc chiến chấm dứt (1), để quý độc giả cảm nghiệm xem có đúng với những gì đã và đang xẩy ra trên thực tế hay không. Ðó là ý nghĩa lịch sử về Ngày 30-4-1975: “Quốc gia thua để thắng, Cộng sản thắng để thua”. Vì sao?
Vì
CSVN vốn là công cụ bành trướng chủ nghĩa thực dân mới của Ðế quốc Ðỏ
Liên Xô trong thời kỳ “Chiến tranh Ý thức hệ” diễn ra dưới hai hình thái
“Chiến tranh Lạnh” giữa các nước giầu và “Chiến tranh Nóng” nơi một số
các nước nghèo, trong đó có Việt Nam được chọn làm tiền đồn của hai phe
tư bản và cộng sản. Do đó ý đồ và mục tiêu của đảng CSVN không
thể khác ý đồ và mục tiêu của đảng Cộng Sản Liên Xô (CSLX). Như vậy,
thực tế sau ngày 30-4-1975, nếu là một “Chiến thắng thật”, tình hình
Việt Nam phải khác, nghĩa là CSVN phải được Liên Xô và các nước “Xã Hội
Chủ Nghĩa anh em” hổ trợ tích cực, toàn diện và vô điều kiện để xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội tại thuộc địa kiểu mới Việt Nam, phát huy
thắng lợi để tiếp tục đẩy mạnh “Chiến tranh Cách mạng”, “Chiến tranh
Giải phóng” đến các nước trong vùng như Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến
Ðiện, Malaysia, Philippines, v.v...Thế nhưng thực tế hoàn toàn khác: Tất
cả những điều đáng lẽ phải xẩy ra đó đã không xẩy ra sau khi chiến
tranh Việt Nam kết thúc.
Thực tế sau đó Liên Xô đã thất bại trong nỗ lực “Cải Tổ” (Glasnost) và “Tái cấu trúc” (Perestroika) đi đến sụp đổ, kéo theo sự tiêu vong các nước XHCN Ðông Âu. Trung Cộng thực hiện chính sách “Mở cửa” làm ăn với Tư bản. Chế độ công cụ Việt Cộng vội đưa ra chính sách “Ðổi Mới” theo gương “Cải Tổ” của Liên Xô (1986). Rồi vội cầu hoà với Trung Cộng và học tập lý luận sáng tạo mới của nước đàn anh xấu bụng và có tham vọng bá quyền này, rằng: “Chủ nghĩa xã hội cũng có thể áp dụng kinh tế thị trường” được Việt cộng hoá thành con đường “Ðổi mới” qua “Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa”(!?!).
Ðây là lối lý luận ngụy biện, cưỡng ép nhằm che đậy thực trạng và chiều hướng mới không thể đảo ngược tại Việt Nam cũng như toàn cầu: Chủ nghĩa xã hội đã phá sản, đã tiêu vong tại Liên Xô, đang tiêu vong tại Việt Nam và các nước XHCN còn lại (Trung Cộng, Bắc Triều Tiên và Cuba).
Quá trình tiêu vong CNXH tại Việt Nam khởi đi từ ngày 30-4-1975 là ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam. Việt Cộng đã lý luận cưỡng ép, ngụy biện, duy ý chí, vì nó trái ngược với thực tế. Thực tế phát triển trong môi trường kinh tế thị trường không thể định hướng XHCN, mà tất yếu sẽ phải phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa. Trong môi trường này, tất yếu nhà nước XHCN sẽ bị tư bản hoá, chế độ chuyên chính vô sản sẽ được dân chủ hoá từng bước, và các cán bộ đảng viên cộng sản đã và đang được tư sản hoá trở thành những nhà tư bản Ðỏ, những “Đại gia Đỏ vỏ xanh lòng”. Chiều hướng phát triển này đã được thể hiện ngày càng rõ nét trên thực tế tại Việt nam, ai cũng có thể thấy và kiểm chứng được.
Và thực tế như thế rõ ràng là ngày 30-4-1975 “Cộng sản thắng để thua” cuộc thực sự vào cuối quá trình của sự tiêu vong chế độ XHCN về mặt bản thể. Bởi vì, cuối cùng thì mục tiêu và lý tưởng của những người CSVN đã không đạt được. Trái lại, thực tế đã thúc ép, dẫn dắt và buộc được CSVN phải đi vào quỹ đạo (tự do, kinh tế thị trường) của đối phương (Việt quốc) và thực hiện theo đúng lý tưởng của người quốc gia (tự do, dân chủ, nhân quyền tất thắng)và mục tiêu tối hậu (dân chủ hoá Việt Nam, phát triển toàn diện đất nước trong nền kinh tế thị trường) của đối phương (Việt quốc).Đây mới đúng là “Chiều hướng mới không thể đảo ngược” (Dân chủ pháp trị tất thắng độc tài toàn trị).
Thực tế sau đó Liên Xô đã thất bại trong nỗ lực “Cải Tổ” (Glasnost) và “Tái cấu trúc” (Perestroika) đi đến sụp đổ, kéo theo sự tiêu vong các nước XHCN Ðông Âu. Trung Cộng thực hiện chính sách “Mở cửa” làm ăn với Tư bản. Chế độ công cụ Việt Cộng vội đưa ra chính sách “Ðổi Mới” theo gương “Cải Tổ” của Liên Xô (1986). Rồi vội cầu hoà với Trung Cộng và học tập lý luận sáng tạo mới của nước đàn anh xấu bụng và có tham vọng bá quyền này, rằng: “Chủ nghĩa xã hội cũng có thể áp dụng kinh tế thị trường” được Việt cộng hoá thành con đường “Ðổi mới” qua “Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa”(!?!).
Ðây là lối lý luận ngụy biện, cưỡng ép nhằm che đậy thực trạng và chiều hướng mới không thể đảo ngược tại Việt Nam cũng như toàn cầu: Chủ nghĩa xã hội đã phá sản, đã tiêu vong tại Liên Xô, đang tiêu vong tại Việt Nam và các nước XHCN còn lại (Trung Cộng, Bắc Triều Tiên và Cuba).
Quá trình tiêu vong CNXH tại Việt Nam khởi đi từ ngày 30-4-1975 là ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam. Việt Cộng đã lý luận cưỡng ép, ngụy biện, duy ý chí, vì nó trái ngược với thực tế. Thực tế phát triển trong môi trường kinh tế thị trường không thể định hướng XHCN, mà tất yếu sẽ phải phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa. Trong môi trường này, tất yếu nhà nước XHCN sẽ bị tư bản hoá, chế độ chuyên chính vô sản sẽ được dân chủ hoá từng bước, và các cán bộ đảng viên cộng sản đã và đang được tư sản hoá trở thành những nhà tư bản Ðỏ, những “Đại gia Đỏ vỏ xanh lòng”. Chiều hướng phát triển này đã được thể hiện ngày càng rõ nét trên thực tế tại Việt nam, ai cũng có thể thấy và kiểm chứng được.
Và thực tế như thế rõ ràng là ngày 30-4-1975 “Cộng sản thắng để thua” cuộc thực sự vào cuối quá trình của sự tiêu vong chế độ XHCN về mặt bản thể. Bởi vì, cuối cùng thì mục tiêu và lý tưởng của những người CSVN đã không đạt được. Trái lại, thực tế đã thúc ép, dẫn dắt và buộc được CSVN phải đi vào quỹ đạo (tự do, kinh tế thị trường) của đối phương (Việt quốc) và thực hiện theo đúng lý tưởng của người quốc gia (tự do, dân chủ, nhân quyền tất thắng)và mục tiêu tối hậu (dân chủ hoá Việt Nam, phát triển toàn diện đất nước trong nền kinh tế thị trường) của đối phương (Việt quốc).Đây mới đúng là “Chiều hướng mới không thể đảo ngược” (Dân chủ pháp trị tất thắng độc tài toàn trị).
Thật vây, đối phương của Việt Cộng là những người Việt Quốc gia, lý tưởng và mục tiêu đấu tranh trước sau như một: tiêu diệt độc tài, xây dựng chế độ dân chủ tự do, xã hội công bằng, phát triển toàn diện đất nước đến phú cường, văn minh tiến bộ theo kịp đà tiến hoá chung của nhân loại.
Và vì vậy, kể từ sau ngày giành được độc lập từ tay thực dân Pháp vào năm 1954, mong muốn chân thành của những người Việt Quốc Gia ở Miền Nam Việt Nam, kẻ cầm quyền cũng như dân giả, là thiết lập một chế độ độc lập dân tộc, dân chủ tự do (Việt Nam Cộng Hoà) và phát triển toàn diện Miền Nam đến giầu mạnh. Thành quả mong muốn này sẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp chính trị (dân chủ), kinh tế (giầu mạnh), xã hội(công bình) khả dĩ đánh bại chế độ của những người Cộng sản Bắc Việt: chính trị (độc tài toàn trị), kinh tế (nghèo đói), xã hội (áp bức, bất công), mà không cần xử dụng sức mạnh quân sự tiêu diệt đối phương (Việt cộng).
Nói cách khác, thay vì dùng chiến tranh để áp đặt mô hình chủ nghĩa quốc gia hay chủ nghĩa xã hội, hai chế độ chính trị đối nghịch trên hai Miền Bắc, Nam sẽ có thời gian và cơ hội thi đua thực hiện mô hình chính trị, kinh tế, xã hội của mình, chờ cơ may thống nhất đất nước một cách hoà bình, thông qua con đường hòa bình và dân chủ. Lúc đó, mô hình xây dựng và phát triển đất nước nào (của Việt quốc hay Việt cộng) có hiệu quả thực tiễn sẽ ưu thắng, sẽ được nhân dân hai miền chọn lựa bằng lá phiếu của đa số trong một cuộc trưng cầu dân ý tự do thực sự, có giám sát quốc tế nếu cần.
Thế nhưng ước muốn chân thành và hết sức có lợi cho đất nước và dân tộc trên đây của những người Việt quốc gia ở Miền Nam đã không được những người CSVN ở Miền Bắc đáp ứng.
Bởi lý tưởng và mục tiêu của những người CSVN hoàn toàn khác biệt với lý tưởng và mục tiêu của người Việt quốc gia. Sự khác biệt rõ nét nhất là Người Quốc Gia hành động tất cả vì Quốc Gia Dân Tộc, cho Tổ Quốc Việt Nam, trong khi những Người Cộng Sản Việt Nam hành động tất cả vì Quốc Tế Cộng Sản, cho Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Xô. Do đó, để làm tròn nghĩa vụ công cụ bành trướng hầu áp đặt chủ nghĩa cộng sản trên cả nước, đảng CSVN đã phát động và tiến hành cuộc chiến tranh thôn tính Miền Nam, đẩy chính quyền và nhân dân Miền Nam Việt Nam vào một cuộc chiến tranh tự vệ và Hoa Kỳ có cớ can thiệp ngày càng sâu rộng vào chủ quyền VNCH. Cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn này đã kéo dài hơn 20 năm (1954-1975), sát hại hàng triệu sinh linh, tàn phá đất nước, di hại lâu dài nhiều mặt cho đất nước và dân tộc Việt Nam.
Nhưng rồi sau cùng thì cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn cũng đã phải kết thúc và đã kết thúc một cách không bình thường, do sự sắp xếp tiền định của ngoại bang, đã để cho CSBV “thắng cuộc chiến” một cách dễ dàng, không cần chiến đấu(vì đối phương bị ép buộc đầu hàng) không cần giữ đất và không đủ người để tiếp thu (vì bất ngờ, tốc độ rút lui của VNCH nhanh hơn tốc độ tiến quân của VC)
Chính vì sự kết thúc chiến tranh không bình thường này, mà ngay từ những ngày tháng năm đầu, khi cuộc chiến vừa tàn, người Việt Quốc gia ở Miền Nam không khỏi nghĩ lại nhận định có tính tiên liệu của hai ngoại nhân. Một là Tướng độc nhản Moise Dayan, Bộ Trưởng Do Thái lúc bấy giờ khi đến thăm Miền Nam; hai là Sir Wilson. một chuyên viên Anh quốc làm cố vấn về du kích chiến cho Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam; Cả hai ngoại nhân này đều có chung nhận định đại ý “Muốn chiến thắng cộng sản tại Việt Nam, chỉ còn cách cộng sản hoá Nam Việt Nam”. Nay thì Miền Nam Việt Nam đã bị cộng sản hoá sau ngày 30-4-1975. Chế độ cộng sản đã thiết lập 39 năm qua trên toàn cõi Việt nam. Như vậy phải chăng “Quốc gia đã thua để thắng” và “Cộng sản thắng để thua” trong một tương lai không xa ?
Nếu đúng như vậy thì tại sao và Quốc gia thắng cộng sản như thế nào?
1.- Tại vì mục tiêu và lý tưởng đấu tranh của người Việt Quốc gia trước sau như một, vẫn là chân lý tất thắng của thời đại (độc lập dân tộc, tự do dân chủ, nhân quyền và chủ nghĩa quốc gia), có chính nghĩa, đáp ứng đúng khát vọng toàn dân(độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc thực sự, không phải chỉ là bánh vẽ như VC ). Chân lý, chính nghĩa và khát vọng ấy, nếu người Việt Quốc gia đã mất cơ hội thành đạt trước 30-4-1975, trong chiến tranh tự vệ, trên chiến trường, thì hôm nay, sau 39 năm kiên trì tiếp tục cuộc đấu tranh cho lý tưởng và mục tiêu của mình, đã và đang buộc được CSVN phải mặc nhiên tự thú sai lầm, phải sửa sai và từng bước lùi dần về phía dân chủ, trả lại dần dần cho nhân dân quyền tự do và các quyền dân chủ, dân sinh và nhân quyền căn bản.
2.- Quốc gia thắng Cộng sản như thế nào?
Chế độ CHXHCN Việt nam do đảng CSVN áp đặt tại Việt Nam đã và đang trên quá trình tiêu vong và đã bước vào giai đoàn cuối cùng: Tiêu vong hoàn toàn về mặt bản thể trong “Môi trường mật ngọt kinh tế thị trường theo định hướng tư bản chủ nghĩa”. Trong môi trường mật ngọt này,từng bước tịnh tiến cán bộ đảng viên CS được tư sản hoá, nhà nước CS được tư bản hoá và chế độ CS được dân chủ hoá. Ðó là quá trình tiêu vong tất yếu của đảng và chế độ CSVN, xác định sự toàn thắng của các lực lượng quốc gia, dân tộc, dân chủ Việt nam. Sự tất yếu này đến mau hay chậm là tùy thuộc vào ba lực đẩy, lực xoay cùng chiều chủ yếu:
- Một là sự tự hủy do phân hoá nội bộ đảng và chế độ CSVN.
- Hai là cường độ và hiệu quả thực tế của các hình thức đấu tranh của các lực lượng quốc gia, dân tộc, dân chủ trong cũng như ngoài nước, thu hút được quần chúng,tạo ra cao trào đấu tranh đòi dân chủ, dân sinh, nhân quyền của nhân dân trong nước.
- Ba là áp lực trên đảng và chế độ CSVN của các cực cường, các chính quyền dân chủ,Liên Hiệp Quốc, các tổ chức kinh tế tài chánh quốc tế và các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế.
Vì vậy cho đến nay, dưới áp lực của ba mũi giáp công cùng chiều trên đây, mới chỉ thúc ép được chế độ độc tài toàn trị hiện nay lùi dần về phía dân chủ. Chất dân chủ đã và đang đẩy lùi chất độc tài và tích lũy thành lượng dân chủ. Khi lượng dân chủ tích lũy đủ triệt tiêu hoàn toàn chất độc tài, thì theo qui luật duy vật biện chứng mà những người cộng sản Việt nam từng tin như giáo điều, rằng “Lượng đổi, chất đổi”, thì chế độ độc tài toàn trị hiện nay sẽ tiêu vong hoàn toàn bản thể để hình thành chế độ dân chủ tại Việt nam.
Tóm lại: 39 năm trước đây, ngày 30-4-1975 cuộc chiến tranh Quốc-Cộng tại Việt Nam đã kết thúc không bình thường đã chỉ đem lại một chiến thắng biểu kiến cho đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực tế đã ngày một khẳng
định cuộc chiến tranh kết thúc như thế không phải là thắng lợi của phe
này (Việt cộng) đối với phe kia (Việt quốc), mà chỉ là do nhu cầu thay
đổi thế chiến lược quốc tế mới của các cường quốc cực, nắm trung tâm
quyền lực thế giới. Do đó, thực tế đã ngày một khẳng định ngày 30-4-1975
chỉ là khởi điểm một quá trình đưa CSVN đến sự tiêu vong về
bản thể, để hình thành một chế độ dân chủ mai hậu tại Việt Nam theo
chiều hướng mới KHÔNG THỂ ÐẢO NGƯỢC : Dân chủ tất thắng độc tài.
Một khi chế độ độc tài cộng sản tiêu vong về mặt bản thể, lý tưởng và mục tiêu đấu tranh của những người CSVN đã không đạt được, nay phải xoay chiều, cách này hay cách khác cố thực hiện những điều mà người Việt Quốc Gia đấu tranh chưa đạt. Và như thế có thể kết luận rằng: 30-4-1975 quả thực “Quốc gia đã thua để thắng và Cộng sản đã thắng để thua”.
Thiện Ý
Houston, Tháng Tư 2014
(1)Xin vào: luatkhoavietnam.com, mục “Diễn Đàn”, tiểu mục “Tác giả & Tác phẩm” để đọc “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới” của Thiện Ý, khởi thảo từ trong nước (1976-1977), ấn hành lần đầu 1995 và tái bản năm 2005 tại Hoa Kỳ. Vào tiểu mục “Phỏng vấn & Hội luận” để nghe Đài VOA phỏng vấn tác giả Thiện Ý về tác phẩm này.
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Một khi chế độ độc tài cộng sản tiêu vong về mặt bản thể, lý tưởng và mục tiêu đấu tranh của những người CSVN đã không đạt được, nay phải xoay chiều, cách này hay cách khác cố thực hiện những điều mà người Việt Quốc Gia đấu tranh chưa đạt. Và như thế có thể kết luận rằng: 30-4-1975 quả thực “Quốc gia đã thua để thắng và Cộng sản đã thắng để thua”.
Thiện Ý
Houston, Tháng Tư 2014
(1)Xin vào: luatkhoavietnam.com, mục “Diễn Đàn”, tiểu mục “Tác giả & Tác phẩm” để đọc “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới” của Thiện Ý, khởi thảo từ trong nước (1976-1977), ấn hành lần đầu 1995 và tái bản năm 2005 tại Hoa Kỳ. Vào tiểu mục “Phỏng vấn & Hội luận” để nghe Đài VOA phỏng vấn tác giả Thiện Ý về tác phẩm này.
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Thiện Ý
Thiện Ý nguyên luật sư tại Sài Gòn trước 1975, hiện là Chủ tịch Câu Lạc bộ Luật khoa Việt Nam ở Houston.
TIZIANO TERZANI * CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Mười năm sau chiến tranh: Cả người chết cũng bị lừa (phần 1)
Người dân trông mạnh khỏe và vui tươi, họ mặc quần áo chỉnh tề – nhưng chỉ trên các tấm áp phích. Dưới hàng trăm bức hình tưởng tượng khổng lồ nhiều màu đó của công nhân, quân nhân và trẻ em, những người kiên quyết hay mỉm cười nhìn lên bầu trời, là từng ấy con người thật, đói ăn, rách rưới, ốm yếu, dơ dáy nhìn xuống mặt đất. Họ tìm một mẩu thuốc lá thừa, một mảnh giấy hay một cái gì đó ăn được.
Chân dung các anh hùng của Chủ nghĩa Xã hội trong buổi kỷ niệm mười năm ngày chiến thắng. Hình: Philip Jones Griffiths
Trước đây mười năm, khi những chiếc xe tăng đầy bụi bặm với lá cờ Việt Cộng chạy ngang qua tòa Đại sứ quán Mỹ tiến tới dinh thự của tổng tống Thiệu bại trận, khi những người lính du kích đầu tiên, gầy gò, rụt rè, trẻ tuổi, kéo xuống đường Tự Do, con số ít ỏi của những người ngoại quốc có mặt trong lúc đó đã khóc vì mừng rỡ: một cuộc chiến tranh tàn bạo đã chấm dứt, Việt Nam dường như đã giành lại được độc lập, một dân tộc tái thống nhất bây giờ sẽ có hòa bình và công lý – thời đó chúng tôi tin là như vậy.
Còn bao nhiêu người Việt Nam bị giam cầm ở đó? Chính phủ đưa ra con số 7000. Có người ước đoán tới 100.000. Trong năm 1975, chế độ mới hứa hẹn cho mỗi một người Việt Nam một nhiệm vụ trong cuộc tái xây dựng đất nước đã bị tàn phá này. Ngày nay, hàng ngàn người trở về từ những trại cải tạo đó đều không có một cơ hội nào.
Sài Gòn vui sống ngày xưa đầy những bóng ma từ quá khứ như thế. Có thể nhìn thấy họ ở khắp nơi: tóc dài, quần áo dơ bẩn, nhiều người có vết thương hay ung nhọt không được băng bó, có người đi tha thẩn lạc lỏng, những người khác làm các công việc khốn cùng: thiếu niên đi lang thang qua thành phố với một cái kẹp và bao tải, để nhặt giấy vụn và bao nilon. Người trung niên với vẻ mặt trí thức dùng ống tiêm bơm mực mới vào những cây bút bi cũ. Những ngưởi khác ngồi cạnh một cái nón lính đổ đầy nước và vá xe đạp.
Ngày nay, không ai trong số những người đã xuất hiện như là lãnh tụ của Việt Cộng trong cuộc chiến là còn có ảnh hưởng nữa. Bà Nguyễn Thị Bình, nữ bộ trưởng Bộ Ngoại giao duyên dáng của Việt Cộng, tuy là nữ bộ trưởng Bộ Giáo dục ở Hà Nội, nhưng được cho là “nữ bộ trưởng trình diễn cho người nước ngoài”. Người ta cho rằng các quyết định là do hai người phó của bà đưa ra, những người thuộc Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Một cảnh sát trên một trăm gia đình và một mạng lưới chỉ điểm khó nhận biết giữ người dân trong vòng kiểm soát, những người trước sau gì thì cũng phải cần giấy phép để đi lại hay qua đêm ở nhà bạn bè. “Công an” (an ninh công cộng) là tổ chức đáng sợ nhất đối với tất cả các người Việt.
Cán bộ Đảng đã du nhập thông tục của miền Bắc vào Nam, nuôi heo trong nhà ở của họ và cho chúng ăn bằng thức ăn gia súc của nhà nước.
Nhờ vào sức chịu đựng riêng mà Việt Nam đã có được những thành công ở vẻ ngoài của nó, nhưng cũng nhờ vào một khả năng dùng thủ đoạn đáng ngạc nhiên: dưới áp lực của siêu cường Hoa Kỳ, khi Trung Quốc ngừng giúp đỡ, Việt Nam đã ngã vào vòng tay của Moscow. Ngày nay, khi người Trung Quốc và người Nga lại tiến gần tới nhau, người Việt cố gắng tranh thủ sự giúp đỡ của Mỹ.
Tiziano Terzani
Phan Ba dịch từ báo Der Spiegel, số 18/1985
Lời người dịch: Tiziano Terzani (1938 – 2004) là một
nhà báo, nhà văn người Ý. Ông đã tường thuật 30 năm trời từ châu Á cho
tuần báo Der Spiegel, là một trong những phóng viên nổi tiếng ở Đông và
Đông Nam Á. Tiziano Terzani là một người có cảm tình với Việt Cộng. Ông
đã từng vào rừng sống chung với Việt Cộng. Tháng 4 năm 1975, ông là một
trong số ít nhà báo đã ở lại Sài Gòn, nhân chứng của thời điểm lịch sử
đó. “Tôi đã rơi nước mắt”, Terzani nhớ lại. Bài báo này do ông viết nhân
dịp kỷ niệm mười năm kết thúc cuộc Chiến tranh Việt Nam.
Tiziano Terzani (phải) đi cùng với xe tăng quân đội Bắc
Việt trên đường Tự Do của Sài Gòn vào ngày 30 tháng Tư năm 1975. Hình:
Tư liệu Terzani
Người dân trông mạnh khỏe và vui tươi, họ mặc quần áo chỉnh tề – nhưng chỉ trên các tấm áp phích. Dưới hàng trăm bức hình tưởng tượng khổng lồ nhiều màu đó của công nhân, quân nhân và trẻ em, những người kiên quyết hay mỉm cười nhìn lên bầu trời, là từng ấy con người thật, đói ăn, rách rưới, ốm yếu, dơ dáy nhìn xuống mặt đất. Họ tìm một mẩu thuốc lá thừa, một mảnh giấy hay một cái gì đó ăn được.
Sài Gòn kỷ niệm mười năm chiến thắng của
tháng Tư 1975: công sở được quét vôi mới, người bất đồng chính kiến bị
bắt giam, ăn mày trên các con đường chính của trung tâm bị đày vào một
trại ở ngoại ô thành phố, để họ đừng làm dơ bẩn hình ảnh chiến đấu của
Sài Gòn trước đây, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay. Nhưng không gì có thể
che đậy được sự chán ngán trên các gương mặt của đại đa số 3,5 triệu
dân cư của nó.
“Đó là chiến thắng của họ, không phải của
chúng tôi”, một người Sài Gòn thì thào nói với con người xa lạ. “Đối với
chúng tôi thì lễ kỷ niệm này chỉ có nghĩa là bắt bớ và cúp điện. Họ cần
điện để chiếu sáng chân dung của bác Hồ.”
“Họ” và “chúng tôi” – mười năm sau cuộc
chiến, sự chia rẽ giữa người chiến thắng và người thua trận cũng vẫn còn
không thể vượt qua được.
Chân dung các anh hùng của Chủ nghĩa Xã hội trong buổi kỷ niệm mười năm ngày chiến thắng. Hình: Philip Jones Griffiths
Trước đây mười năm, khi những chiếc xe tăng đầy bụi bặm với lá cờ Việt Cộng chạy ngang qua tòa Đại sứ quán Mỹ tiến tới dinh thự của tổng tống Thiệu bại trận, khi những người lính du kích đầu tiên, gầy gò, rụt rè, trẻ tuổi, kéo xuống đường Tự Do, con số ít ỏi của những người ngoại quốc có mặt trong lúc đó đã khóc vì mừng rỡ: một cuộc chiến tranh tàn bạo đã chấm dứt, Việt Nam dường như đã giành lại được độc lập, một dân tộc tái thống nhất bây giờ sẽ có hòa bình và công lý – thời đó chúng tôi tin là như vậy.
Hòa bình đã không trở lại với Đông Dương.
Hàng trăm người Việt trẻ tuổi đã hy sinh trên các chiến trường
Campuchia. Không có công lý, nếu như công lý khác với việc lật đổ một xã
hội và thay thế một chế độ độc tài bằng một chế độ độc tài khác. Người
Sài Gòn, rõ ràng là như vậy, ngày nay sống tồi tệ hơn, phải chịu đựng
tình trạng thiếu năng lực và tham nhũng nhiều hơn, sợ cảnh sát nhiều hơn
là trước kia.
“Cách mạng đã không thực hiện bất cứ lời
hứa nào của họ”, một người bạn nói. “Ngay cả người chết cũng bị lừa.”
Trên nghĩa trang cũ ở Biên Hòa, nơi nhiều người lính Việt Nam hy sinh
trong cuộc chiến chống cộng sản được chôn cất ở đó, phần lớn các ngôi mộ
đã bị xe ủi đất san phẳng – mặc dù chế độ mới đã tạo một nghĩa trang
riêng cho những người anh hùng đã hy sinh cho cuộc cách mạng.
Đối với người sống, lời hứa hòa giải dân tộc còn được thực hiện ít hơn như thế nữa.
Trong tháng Năm 1975, một sĩ quan từ quân
đội của Thiệu được lệnh đi “học tập cải tạo”. Ông mang theo mùng, bàn
chải đánh răng và gạo cho 30 ngày đi trình diện; và ông cũng như tôi tin
rằng sau 30 ngày ông thật sự sẽ trở về.
“Nào phải 30 ngày! Thành 3289 ngày”, bây
giờ ông nói; ông còn có may mắn. Nhiều người lính, sĩ quan và nhân viên
trước kia của chính quyền bại trận đã chết trong các trại cải tạo. Nhiều
người vẫn còn ở trong những trại trong rừng đó, những trại mà các quan
chức cộng sản ngày nay trong những khoảnh khắc bất cẩn đã gọi chúng là
“trại tập trung”.
Còn bao nhiêu người Việt Nam bị giam cầm ở đó? Chính phủ đưa ra con số 7000. Có người ước đoán tới 100.000. Trong năm 1975, chế độ mới hứa hẹn cho mỗi một người Việt Nam một nhiệm vụ trong cuộc tái xây dựng đất nước đã bị tàn phá này. Ngày nay, hàng ngàn người trở về từ những trại cải tạo đó đều không có một cơ hội nào.
Cái tội lỗi thuộc về một “chế độ bù nhìn”
là không thể rửa sạch được. Còn ngược lại, nó giống như một căn bệnh
được di truyền từ cha sang con: không có công việc làm cho những “tên bù
nhìn”, không có chỗ cho con của họ trong các trường trung học hay đại
học.
Trong khi nhân viên cộng sản, toàn bộ đều
từ miền Bắc, dọn vào ở trong các khu biệt thự và nhà riêng của giới
thượng lưu Sài Gòn cũ thì xã hội Việt Nam bị quẳng ra đường phố và lang
thang vất vưởng khốn khổ ở đó như một bộ tộc đi lạc, bị nguyền rủa phải
tuyệt chủng.
Sau chiến thắng của họ ở Campuchia, tên
cộng sản thời đồ đá Pol Pot và Khmer Đỏ đã phân người dân của họ ra
thành hai loại: những người dân đã sống dưới sự thống trị của cộng sản
trước 1975, vì vậy mà có thể tin tưởng được; và những người kia, những
người đã không được hưởng lợi thế này, tức là phải chiến đấu chống lại
hay còn phải tiệt trừ hoàn toàn nữa. “Những gì diễn ra ở đây trong Việt
Nam cũng giống như Pol Pot quay chậm”, một người bạn ở Sài Gòn nói.
“Chúng tôi đã chết rồi, nhưng chúng tôi vẫn
còn có thể bước đi. Tôi có cảm giác mình giống như một bóng ma từ một
thời gian khác”, một phi công trước đây của không quân nói, người có hơn
tám năm trại cải tạo ở phía sau mình và bây giờ có nhà của mình ở trên
một băng ghế do Lions Clubs tặng ở dưới tượng đài kỷ niệm Trần Hưng Đạo.
Nghĩa trang máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhứt, một trong
những phi trường bận rộn nhất của thế giới trước kia. Hình: Philip Jones
Griffiths
Sài Gòn vui sống ngày xưa đầy những bóng ma từ quá khứ như thế. Có thể nhìn thấy họ ở khắp nơi: tóc dài, quần áo dơ bẩn, nhiều người có vết thương hay ung nhọt không được băng bó, có người đi tha thẩn lạc lỏng, những người khác làm các công việc khốn cùng: thiếu niên đi lang thang qua thành phố với một cái kẹp và bao tải, để nhặt giấy vụn và bao nilon. Người trung niên với vẻ mặt trí thức dùng ống tiêm bơm mực mới vào những cây bút bi cũ. Những ngưởi khác ngồi cạnh một cái nón lính đổ đầy nước và vá xe đạp.
Ở Sài Gòn có 40.000 xe xích lô. Phần lớn
người lái là lính và sĩ quan cũ. Họ ngủ trên những chiếc chiếu ở trước
tòa nhà quốc hội cũ và ở cạnh những đài tưởng niệm của thành phố. Họ
chui vào trong công sự có từ thời chiến tranh để tránh mưa. Họ thường
xuất thân từ những gia đình xưa, khá giả, ở Sài Gòn và bây giờ thì thất
nghiệp và vô gia cư, trở về từ “vùng kinh tế mới”, nơi mà họ bị ép buộc
phải đi tới đó.
Năm 1976, người ta có thể tới thăm một vùng
kinh tế mới lớn ở phía bắc của thủ đô, nơi hàng ngàn gia đình Sài Gòn
cần phải biến miền đất hoang vu thành đồng ruộng dưới ngọn cờ đỏ đang
bay phấp phới. Không có nước lẫn cây cỏ. Sau mười năm cố gắng, cuộc thử
nghiệm đó được tuyên bố là vô vọng, người dân chạy trốn trở về thành
phố. Từ đó, không còn ai nói về vùng kinh tế mới nữa. Chế độ của miền
Bắc không thành công trong việc lấy được thiện cảm của người dân miền
Nam. Vì thế mà mười năm sau ngày giải phóng, hai Việt Nam vẫn còn sống
thù địch và nghi ngờ bên cạnh nhau.
Mười năm này cũng không mang lại sự hòa
thuận cho những gia đình bị cuộc nội chiến chia cắt, tái đoàn tụ qua
giải phóng. “Người anh em cộng sản của tôi đã tố cáo tôi là tư sản để
cướp tài sản của tôi”, một người quen thuật lại, người trước kia đã từng
sở hữu một quán ăn. “Khi tôi trở về sau ba năm ở trong tù, tường nhà
tôi đầy lỗ vì hắn nghĩ rằng chúng tôi giàu lắm và đã cất dấu vàng, thứ
mà hắn muốn tìm cho ra.”
Ở Sài Gòn, bất cứ chức vụ quan trọng nào
trong hành chánh đều nằm trong tay của người Việt từ miền Bắc – bắt đầu
từ người cảnh sát đứng ở ngã tư và nhân viên bưu điện, người giám sát
việc bán tem thư. Đứng trước chính sách nhân sự này, người ta tự hỏi
liệu chế độ cộng sản của miền Bắc có thật sự muốn hòa giải dân tộc hay
không, điều mà họ đã hứa hẹn trước đây mười năm, hay là, thật lâu trước
khi chiếm Sài Gòn, họ đã quyết định đánh giá toàn bộ người dân miền Nam
là không thể tin tưởng được.
Người ta cũng tự hỏi, liệu Hà Nội có ý thật
sự nghiêm chỉnh với việc “cải tạo” hay không, hay đó là một mưu kế để
đánh đổ bộ máy quân sự và dân sự của chế độ trước đây chỉ với một cú
đánh. Cuối cùng, người ta tự hỏi, rằng kế hoạch của những vùng kinh tế
mới có thật sự xuất phát từ ý định tạo công việc làm mới cho dân cư thất
nghiệp của thành phố hay không; hay đó là một biện pháp rẻ tiền thì
nhiều hơn, để xua đuổi hàng ngàn gia đình Sài Gòn ra khỏi nhà ở của họ
và trao chúng về cho các gia đình từ miền Bắc.
Thật sự là vào năm 1975, ở Nam Việt Nam có
hàng ngàn kỹ sư, người tốt nghiệp đại học và người đã qua đào tạo sẵn
sàng làm việc cho chế độ mới, rằng chế độ mới này đã khước từ sự cộng
tác của họ: một sự lãng phí lòng nhiệt tình, khả năng và nhân tài hết
sức to lớn.
Năm 1975, ở Sài Gòn có trên 2000 bác sĩ.
800 người đã ra đi với người Mỹ, phân nửa số người lúc đầu còn ở lại đã
rời bỏ đất nước trong vòng mười năm vừa qua.
“Tôi không sợ nghèo khổ”, một người nói,
người đã chịu đựng được và không than phiền về việc từ năm 1975 không ai
trong gia đình ông đã có thể mua được một cái áo mới. “Nhưng thật khó
mà chịu đựng được cái cảm giác mình là người thừa.” Ngày nay, ông kiếm
tiền bằng cách dạy tiếng Anh cho người Việt đang chuẩn bị chạy trốn.
Trên một triệu người Việt đã rời bỏ đất
nước của họ từ 1975, nhiều người đã liều tính mạng của họ trên biển như
là “boat people”. Cả cho tới ngày nay, hàng tháng trung bình có khoảng
2000 người Việt cố gắng bỏ trốn.
(Còn tiếp)
Tiziano Terzani
Mười năm sau chiến tranh: Cả người chết cũng bị lừa (hết)
Mười năm sau chiến thắng
của người cộng sản và thống nhất về mặt hình thức của Việt Nam, thất
vọng nhiều nhất chính là các trí thức của miền Nam, những người đã chiến
đấu chống chế độ của Thiệu trong Mặt trận Giải phóng hay có thiện cảm
với họ và vì vậy mà bị truy nã.
“Tất cả những gì mà Mặt
trận Giải phóng đã hứa hẹn thì đều bị Hà Nội hủy bỏ, kể cả chính Mặt
trận Giải phóng”, một thành viên trước kia của Việt Cộng than thở.
“Người cộng sản từ miền
Bắc chỉ tin vào chính họ. Trong mắt họ, cả chúng tôi cũng là ‘bù nhìn’”,
một nhà cách mạng nổi tiếng từ miền Nam nói, người đã chiến đấu cho
Việt Cộng 29 năm trời.
Ngày nay, không ai trong số những người đã xuất hiện như là lãnh tụ của Việt Cộng trong cuộc chiến là còn có ảnh hưởng nữa. Bà Nguyễn Thị Bình, nữ bộ trưởng Bộ Ngoại giao duyên dáng của Việt Cộng, tuy là nữ bộ trưởng Bộ Giáo dục ở Hà Nội, nhưng được cho là “nữ bộ trưởng trình diễn cho người nước ngoài”. Người ta cho rằng các quyết định là do hai người phó của bà đưa ra, những người thuộc Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Ngay đến Trần Văn Trà,
tướng Việt Cộng, người đã giải phóng Sài Gòn và cầm quyền vài năm, đã bị
khóa miệng khi dám tranh cãi về phiên bản giải phóng của Hà Nội trong
một quyển sách. Quyển sách đó đã bị cấm. Ngày nay, bốn nơi triển lãm
chào mừng lần chiến thắng năm 1975 với hình ảnh, tài liệu và vật kỷ
niệm, những thứ mà các phái đoàn nước ngoài kính nể nhìn ngắm, cả một
phái đoàn từ Cộng hòa Liên bang Đức nữa, mang huy hiệu với hàng chữ
“Việt Nam là công việc của chúng tôi” ở trên ngực.
Các vật triển lãm chỉ có nhiệm vụ chứng minh cho một điều: vai trò của Hà Nội thời đó và sự lãnh đạo của Đảng ngày nay.
Các vật triển lãm chỉ có nhiệm vụ chứng minh cho một điều: vai trò của Hà Nội thời đó và sự lãnh đạo của Đảng ngày nay.
Người ta ít nói về cuộc
chiến tranh nhân dân khó khăn mà Việt Cộng đã tiến hành ở miền Nam. Ngày
nay, hình ảnh tượng trưng cho lần giải phóng Sài Gòn là hình ảnh của
chiến xe tắng Bắc Việt đã đè bẹp chiếc cổng sắt dinh của Thiệu, thay cho
hình ảnh của du kích quân nông dân Việt Cộng, người lập những chiếc bẫy
bằng tre và tiến hành một cuộc chiến tranh quy mô nhỏ nhiều tổn thất ở
hậu phương.
“Đó chính là lỗi của
chúng tôi. Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi đã chiến đấu cho nền độc lập và
thống nhất đất nước, nhưng thực tế là Hà Nội đã đấu tranh để nền độc
tài cộng sản chiến thắng”, bây giờ một linh mục Công giáo nói, người đã
hoạt động tích cực trong giới đối lập chống Thiệu.
Năm 1975, chế độ ra vẻ
sẵn sàng khoan dung cho tất cả các tôn giáo trong tương lai. Dường như
họ đặc biệt nghiên về phía những người Công giáo đã chiến đấu cho cuộc
cách mạng. Không lâu sau khi giải phóng Sài Gòn, tờ nhật báo Công giáo
“Tin Sáng” cũng đã được phát hành, còn được chính quyền giới thiệu nữa.
Thiệu đã thất bại trong việc cho giết chết người chủ và phát hành tờ
báo, Ngô Công Đức, rồi sau đó đã cấm tờ báo này.
Trước đây hai năm, tờ
báo bị ngưng hoạt động. “Tờ báo đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của nó”,
thủ tướng Phạm Văn Đồng bình luận ở Hà Nội.
Ngô Công Đức, một nhà
trí thức lỗi lạc, đã trở về từ chốn lưu vong để phục vụ cho chế độ mới
và giúp tái xây dựng, bây giờ vẽ tranh sơn mài để xuất khẩu. Cũng như
tất cả mọi người Việt, ông cần một giấy phép đặc biệt nếu như muốn tiếp
một người nước ngoài.
Dần dần, nhưng có hệ
thống, người cộng sản đã gây khó khăn cho việc thực hành tín ngưỡng.
Những người Công giáo chống đối cũng như các lãnh tụ của Hòa Hảo và Cao
Đài đều bị bắt giam và khóa miệng, chùa Ấn Quang nổi tiếng, trung tâm
đối lập của Phật giáo chống Thiệu, bị giám sát nghiêm ngặt, người lãnh
đạo về mặt tinh thần của nó, nhà sư Thích Trí Quang, bị quản thúc tại
gia.
Bộ máy Đảng và hành
chánh của Bắc Việt Nam đã đứng vững ở miền Nam mà không gây ra nhiều
chống đối. Trong những năm đầu tiên còn có những tổ kháng chiến vũ trang
chống lại những người chủ mới.
Một đài phát thanh bí mật còn giữ được hy vọng của một bước ngoặc trong một khoảng thời gian. Tất cả những điều đó đã qua rồi. Chế độ mới không còn gặp chống đối chủ động nữa. Con người đã chấp nhận sự việc, rằng họ phải đối phó với hệ thống này.
Một đài phát thanh bí mật còn giữ được hy vọng của một bước ngoặc trong một khoảng thời gian. Tất cả những điều đó đã qua rồi. Chế độ mới không còn gặp chống đối chủ động nữa. Con người đã chấp nhận sự việc, rằng họ phải đối phó với hệ thống này.
Một cảnh sát trên một trăm gia đình và một mạng lưới chỉ điểm khó nhận biết giữ người dân trong vòng kiểm soát, những người trước sau gì thì cũng phải cần giấy phép để đi lại hay qua đêm ở nhà bạn bè. “Công an” (an ninh công cộng) là tổ chức đáng sợ nhất đối với tất cả các người Việt.
“May là có thể mua được
họ”, một người buôn bán nói mỉa mai về các cảnh sát. Tất cả đều có giá
của nó, từ thị thực xuất cảnh cho tới việc phân cho một chỗ làm.
Với một vài tờ tiền,
người ta có thể tránh được nhiều hình phạt: một người đi xe đạp bị chận
lại vì không chú ý tới đèn đỏ nhét 20 đồng vào tay người cảnh sát.
“Không, không”, người này nói, “tôi phải nhìn thẳng vào mắt Bác Hồ.”
Người đi xe đạp hiểu và thay vì tờ 20 đồng, mà trên đó chỉ nhìn thấy ảnh
chụp nghiên của Hồ Chí Minh, đã đưa ra tờ 50 đồng, cái thể hiện hết
gương mặt của ông ấy. Người cảnh sát cầm lấy.
Tham nhũng là lệ thường,
không phải là trường hợp ngoại lệ. “Lênin nói rằng chủ nghĩa xã hội là
quyền lực Xô viết cộng với điện khí hóa”, một người bạn nói đùa. “Trong
chế độ này thì nó là quyền lực công an cộng chợ đen.”
Điều thường được chấp
nhận, là mỗi người đều cố gắng để sống qua ngày, trong khả năng của
người đó. Vì thế mà thầy giáo bán bánh cho học trò, lính lấy trộm xăng
từ xe quân đội, nhân viên hải quan tận tâm ở phi trường tịch thu tất cả
các băng video của người nhập cảnh: với lý do phải kiểm tra nội dung,
thật ra là để tổ chức những buổi trình chiếu tư ở gần khách sạn Tong
Binh. Giá vào cửa: 50 đồng một người.
Cán bộ Đảng đã du nhập thông tục của miền Bắc vào Nam, nuôi heo trong nhà ở của họ và cho chúng ăn bằng thức ăn gia súc của nhà nước.
Thành phố Sài Gòn thanh
lịch của ngày xưa gặp heo như thế đó. Ở khắp những nơi có cán bộ sống,
người ta nghe được tiếng heo kêu và đánh hơi, ngay cả tướng cao cấp của
quân đội cũng chú ý tới việc có một con heo trong phòng khách của họ,
khi họ mời khách đến nhà ăn tiệc: con vật phục vụ như là một lời giải
thích cho mức sống cao đó, cái mức sống mà ngoài ra thì chỉ có thể xuất
phát từ buôn bán ngoại tệ hay buôn thuốc phiện ở Lào và Campuchia.
“Năm 1975, tôi cho rằng
chế độ mới hoặc là hồng hoặc là đỏ”, một luật sư trước đây nói, người
lúc đó đã từ chối không rời bỏ đất nước. “Tôi không bao giờ nghĩ rằng nó
có thể là xám. Chế độ này đã lấy đi tất cả mọi niềm vui thích trong
trái tim của chúng tôi. Đó là bi kịch của chúng tôi.”
Danh tiếng của ưu thế về
đạo đức, cái mà người cộng sản đã hưởng được ngay sau khi giải phóng,
đã lu mờ khi người dân nhận ra được rằng “hành vi của họ được quyết định
bởi lợi ích cá nhân, đạo đức của họ là đạo đức giả, và họ không bao giờ
làm điều họ nói”, theo một nữ sinh viên, người 18 tuổi vào ngày giải
phóng.
Trong khi các cô gái bán
dâm của Sài Gòn cũ vẫn còn bị cải tạo trong một trại thì Thành phố Hồ
Chí Minh hiện giờ đã có gái bán dâm riêng mà vài người trong số đó còn
tới từ Hà Nội nữa. Con số của họ tất nhiên là thích hợp với số khách đã
giảm xuống, và hệ thống giá cả hoạt động khác với trước đây. Thay vì
phải trả tiền cho người gác cổng thì bây giờ phải trả tiền cho các cảnh
sát an ninh của khách sạn, “giá cả tăng với tầng lầu mà người ta muốn
làm tình ở trên đó”, một người khách thường xuyên của Sài Gòn nói.
Không thể không nhìn
thấy sự khác biệt giữa những lời tuyên bố công khai của chế độ và hiện
thực. Hệ thống chăm sóc sức khỏe tự nó là không mất tiền cho tất cả,
nhưng thuốc chữa bệnh thì không có trong bệnh viện. “Ai muốn được mổ thì
tốt nhất là nên mua trước thuốc gây mê và chỉ khâu trên thị trường chợ
đen”, một bác sĩ nói.
Trong kinh tế, người
cộng sản đã phạm lỗi lầm lớn nhất của họ. Đầu tiên, họ đóng cửa tất cả
các cửa hàng tư nhân và truy lùng các thương gia của khu phố người Hoa
Chợ Lớn như là những kẻ đầu cơ. Nhưng rồi khi họ nhận ra là đất nước đã
gần sụp đổ thì họ lại giảm áp lực và còn yêu cầu người Hoa lại hoạt động
tích cực trở lại nữa.
“Xổ số, xổ số là hy vọng
cuối cùng của chúng tôi”, một người bán thuốc lá nói. Thay vì một lần
trong một tuần, như vào thời của Thiệu, ngày nay Sài Gòn có ba cuộc xổ
số một ngày. Hàng đoàn người trẻ tuổi đi bộ qua thành phố vào lúc sáng
sớm với hàng cọc vé xổ số, mười đồng một tờ, giá độc đắc 100.000 đồng.
Rồi cả thành phố bất động vào buổi chiều lúc năm giờ, khi các con số
trúng được viết bằng phấn trắng trên các tấm bảng ở chợ và đường phố.
Người Việt Nam có thu
nhập trên đầu người là 102 đô la Mỹ một năm. Nghèo khổ và không hài lòng
(“Ngay cả Bộ Chính trị cũng không hài lòng”, một quan chức Đảng nói
đùa), cung cấp thiếu thốn triền miên và chiến tranh đã trở thành một
phần của cuộc sống hàng ngày của người dân.
“Chúng tôi đã giành lại
được nền độc lập của chúng tôi, chúng tôi đã thống nhất đất nước của
chúng tôi, và bây giờ thì giống dân Việt cũng khai phá đất mới ở phương
tây”, một giáo sư từ Sài Gòn nói, người mang ấn tượng về các thành công
quân sự của người cộng sản.
Viện cớ muốn bảo vệ Lào,
người Việt đóng 40.000 quân ở đó; viện cớ giải phóng Campuchia ra khỏi
chế độ độc tài của Pol Pot, họ có một đạo quân chiếm đóng gồm 180.000
người lính ở đó.
Nhờ vào sức chịu đựng riêng mà Việt Nam đã có được những thành công ở vẻ ngoài của nó, nhưng cũng nhờ vào một khả năng dùng thủ đoạn đáng ngạc nhiên: dưới áp lực của siêu cường Hoa Kỳ, khi Trung Quốc ngừng giúp đỡ, Việt Nam đã ngã vào vòng tay của Moscow. Ngày nay, khi người Trung Quốc và người Nga lại tiến gần tới nhau, người Việt cố gắng tranh thủ sự giúp đỡ của Mỹ.
Trong lúc đó, họ khéo
léo lợi dụng cảm giác có lỗi với Việt Nam của Mỹ – và tự thể hiện mình
rất hào phóng. Nhân dịp kỷ niệm mười năm, trên 150 nhà báo Mỹ được mời
vào trong nước cho một chuyến tham quan được điều khiển tốt và được giám
sát kỹ lưỡng.
Đài truyền hình Mỹ NBC
dự định truyền trực tiếp hàng ngày từ Sài Gòn trong tuần lễ kỷ niệm, qua
một vệ tinh mà trạm mặt đất của nó được chở bằng máy bay tới. Đài cạnh
tranh ABC cố gắng không thua kém với một vệ tinh do Xô viết sản xuất,
nhưng vẫn còn chưa hoạt động được, Hoa Sen 2. “Người Nga phải làm sao
cho nó phát tín hiệu”, người Việt nói, “vấn đề là uy tín của phe xã hội
chủ nghĩa.”
Người Việt đã đòi những
khoảng tiền đáng ngạc nhiên từ người Mỹ cho những phóng sự về buổi lễ
tung hô nỗi nhục nhã của nước Mỹ: 100 dollar Mỹ mỗi ngày cho một phiên
dịch viên, một cuộc phỏng vấn với một giàm đốc nhà máy có giá 200, với
phó của ông ấy là 100.
“Các anh đã quay máy bay
ném bom MiG và xe tăng trong lúc chiến đấu, và các anh cũng biết giá
xăng kia mà”, sếp báo chí của chính phủ Hà Nội nói với một thông tín
viên truyền hình Mỹ trước một hóa đơn trên 6000 dollar mà người này nhận
được.
Khi Washington không
bước đến đứng cạnh họ với trợ giúp kinh tế trong khuôn khổ rộng lớn, thì
người Sài Gòn ở miền Nam, tự nó thật ra là giàu có, sẽ còn phải sống
khổ cực một thời gian lâu dài nữa. “Thịnh vượng?” một nhân viên nhà nước
cao cấp của Việt Nam nói. “Các thế hệ con cháu chúng tôi sẽ có nó.”
Những đứa con này được
giáo dục nghiêm khắc, đồng nhất và theo đúng đường lối. Tất cả sách giáo
khoa được in trước 1975 đều bị cấm. Chỉ có 71 người đọc là được phép
vào thư viện cũ của Pháp mà giám đốc của nó là sếp an ninh Von Vung Tao
trước đây.
Những đứa con này diễu
hành, các em tập bắn súng, các em chuẩn bị để bảo vệ tổ quốc của các em.
Các em lớn lên mà không khao khát một thế giới khác, không có khả năng
so sánh, hãnh diện là thuộc một dòng giống đã chiến thắng ba quốc gia
lớn – người Trung Quốc, người Pháp và người Mỹ.
Chẳng bao lâu nữa giới
trẻ lớn lên như thế từ miền Nam, những người bây giờ gia nhập quân đội
để được người Bắc huấn luyện, sẽ cứng rắn và dẽo dai như những người
đồng lứa tuổi với họ từ Hà Nội. Một vài thập niên nữa, và Việt Nam thật
sự là sẽ thống nhất – bởi một giống người duy nhất.
Cho tới chừng đó, cả một
thế hệ của những bóng ma sẽ biến mất, những bóng ma mà giờ đây đang
sống trên khắp miền Nam và không nhìn thấy điều gì tốt đẹp trong chế độ
mới.
“Có thật sự là không có
gì tốt đẹp không? Một người bạn lâu năm trả lời cho câu hỏi này: “Có, có
chứ, người cộng sản đã làm cho tôi sáng mắt ra. Trước 1975 tôi cần dùng
một cái kính mắt, bây giờ thì tôi vẫn nhìn thấy mà không cần có nó.”
Tiziano Terzani
Wednesday, April 30, 2014
EDITH LENART & J. C. BAEZ * VIETNAM
|
|||
Quê Mẹ • B.P. 60063 • 94472 Boissy Saint Léger cedex • France •
WORLD AFFAIRES * ĐẢO ÁNH SÁNG
|
|||||
Quê Mẹ • B.P. 60063 • 94472 Boissy Saint Léger cedex • France • E-mail : que
Wednesday, April 30, 2014
TIỂU QUYÊN * NGÀY QUỐC HẬN
Ngậm ngùi ngày Quốc Hận 30.04.1975,
Thưa bác,
Nhiều năm qua bác nhắc đi nhắc lại
về chuyện Ba Mươi tháng Tư. Bác nói rằng mỗi người đều có một ngày Ba Mươi tháng
Tư cho riêng mình. Bác vẫn hỏi một câu. Lúc ấy quý vị đang ở đâu? Thưa bác, ngày
Ba Mươi tháng Tư năm 75 cháu đi nhận xác chồng ở Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa.
Xin kể đầu đuôi như sau:
Người yêu của cháu, chồng sắp cưới của cháu là Nguyễn Đông Thành, Trung Úy Biệt Động Quân Đơn vị đóng tại Chân Thành vào thời kỳ 1975. Từ lúc ra trường Thủ Đức, anh làm Trung Đội Trưởng Tác Chiến cho đến khi lên đến Trung Úy Đại Đội Trưởng đã bị thương 4 lần. Một lần bị thương nặng phải nằm nhà thương hai tháng. Còn các lần khác chỉ bị thương nhẹ.
Cháu gặp anh trong một lần nữ sinh đi ủy lạo chiến sĩ tại Tổng Y Viện Cộng Hòa rồi quen nhau. Sau đó chúng cháu đôi khi lại còn cầu cho bị thương nhẹ để có dịp gặp nhau ở Sài Gòn. Một lần anh chỉ bị trẹo chân vì nhảy trực thăng mà được nghỉ đến gần một tháng.
Đó là lần bị thương hạnh phúc nhất của chúng cháu. Gia đình hai bên đã có dịp gặp nhau sau khi chúng cháu về thưa với cha mẹ. Đầu năm 75 đã làm đám hỏi. Chờ đến đầu tháng 5-1975 là làm đám cưới. Cháu có ông cậu làm Trung Tá ở Sài Gòn quen biết nhiều nên hy vọng sẽ giúp cho anh Đông Thành đổi về đơn vị hậu cứ hay về Bộ Quốc Phòng.
Tết 75, hai đứa chúng cháu đến mừng tuổi cậu và xin cậu chạy giúp. Chạy đây là nói hộ chứ không phải tiền bạc gì hết. Cậu cháu coi tướng anh Thành và rất hài lòng để mừng cho cháu gái. Cậu khen vị hôn phu của cháu tuy còn trẻ nhưng rất đẹp trai và tướng mạo đàng hoàng. Anh mới có 22 tuổi, còn cháu 19 tuổi vào năm 1975. Cháu cũng khá cao mà anh Thành còn cao hơn cháu cả đầu người. Anh chơi thể thao cả xà ngang và xà dọc nên người rất tài tử. Bạn học trường Gia Long đứa nào cũng thích Trung Úy Đông Thành của cháu.
Tuy nhiên, khi hỏi chuyện về đơn vị của Thành thì ông cậu của cháu hơi ngần ngại. Cậu nói rằng năm trước có xin cho con một anh bạn đóng đồn được đổi về tỉnh. Chỉ một tuần sau anh Thiếu Úy lên thay thế bị tử trận. Bà mẹ anh này đi thưa Giám Sát Viện về tội ăn tiền đổi người, để đưa con bà vào chỗ chết. Vì vậy cậu cháu nói để chờ một thời gian, đơn vị rút từ Chân Thành về hậu cứ rồi sẽ xin đổi sau.
Người yêu của cháu cũng rất tự ái nên không hề nói gì thêm, cứ bấm tay cháu gạt đi không muốn đề cập đến việc xin thuyên chuyển nữa. Từ biệt ông cậu xong, hai đứa ra về. Cháu giận anh ấy hết sức, nhiều lúc chỉ muốn cho ra trận chết đi cho rồi.
Đàn ông mới hơn hai mươi tuổi mà đã muốn làm anh hùng. Gia đình anh ấy con một, xin hoãn dịch cũng còn được chứ ai lại đi Biệt Động Quân. Quanh năm hành quân, đôi khi ở đơn vị còn có lệnh phải cạo trọc đầu cho thêm dữ dội. Nhưng nói gì thì nói, anh Đông Thành dù để tóc dài hay tóc ngắn thì trông vẫn đẹp như tài tử Pháp Alain Delon. Cháu rất hãnh diện đi với anh ở đường Nguyễn Huệ. Nhưng hai đứa đâu có được dịp đi chơi với nhau nhiều lần. Qua tháng 3-1975, có tin địch uy hiếp Chân Thành, gia đình hai bên và riêng cháu lo lắng ngày đêm. Rồi tin từ Bộ Chỉ Huy là đơn vị Biệt Động Quân ở Chân Thành có lệnh rút. Quân đội cho lệnh bỏ Chân Thành.
Chưa bao giờ cháu lại vui mừng khi được tin quân ta rút như vậy. Là một học sinh chưa được 20 tuổi, cháu chỉ mong người yêu sớm trở về bình yên. Quân đội muốn bỏ đâu thì bỏ. Muốn rút đâu thì rút. Nhưng đau khổ chưa, đúng như cháu đã lo ngày lo đêm. Đơn vị cho người đưa tin về nhà để đi nhận xác Đông Thành vào ngày 25 tháng 4-1975. Người lính ở đơn vị nói rằng anh ấy đã chiến đấu anh dũng ra sao, hy sinh như thế nào, chẳng còn lòng dạ nào mà nghe chuyện. Sao bao nhiêu người còn sống ở Sài Gòn không ra mà anh dũng hy sinh.
Trời đất công bình ở chỗ nào. Đi lính có ba năm mà bị thương đến 4 lần, rồi mới chết. Đông Thành của cháu hiền lành như thế, có làm hại ai đâu mà phải chết oan uổng như vậy. Sau khi được tin cháu cứ như điên dại rồi đi theo gia đình lên Nghĩa Trang Quân Đội nhận xác người yêu. Dù chưa cưới nhưng cháu đã khai là chồng. Mấy ông đòi hôn thú vì tưởng cháu muốn xin tiền chồng chết. Xin tiền tử tuất với 12 tháng lương. Cháu quyết liệt nhận xác chồng dù chẳng có hôn thú.
Đất nước có còn đâu mà lãnh tiền. Anh Đông Thành nằm như ngủ. Đạn vào ngực, vào tim, vào bụng nhưng mặt anh vẫn nguyên lành. Anh nằm đó vẫn đẹp như thiên thần. Anh về bằng trực thăng trên băng ca đúng như trong bài ca, đúng như trong tiểu thuyết. Bên cạnh xác anh có nhiều đồng bạn cũng chết nhưng vì để lâu nên bốc mùi hôi thối.
Nhiều gia đình cũng đến nhận xác. Đàn bà trẻ con khóc la ầm ỹ. Cháu cũng hòa theo tiếng khóc nức nở. Gia đình chôn xác anh ngày 27 tháng 4-1975, buổi chiều thì ra về nhưng cháu ở lại. Cháu trốn vào khu Nghĩa Dũng Đài nhưng người nhà lại tưởng bạn cháu chở về Sài Gòn. Suốt những ngày cuối tháng 4 đau khổ cháu tha hồ khóc. Trên Nghĩa Trang Biên Hòa toàn là gia đình tử sĩ nên cũng không ai chú ý. Có gia đình đem theo Radio nên mở ra nghe tin tức chiến sự. Rồi dân di tản ở bốn phương trời kéo nhau về tạm trú. Họ dựng lều ngay bên cạnh các phần mộ.
Khu lính chết đã lâu thì có mộ bia và tấm Ciment bên trên. Khu mới chết thì chỉ đắp đất. Có cả trăm cả ngàn ngôi mộ. Những ngày đầu thì có nhiều xác chở về bằng trực thăng. Về sau xác chở về toàn bằng xe nhà binh. Sau cùng thì đủ các thứ xe chở xác về Đơn Vị Chung Sự.
Nơi để xác có máy lạnh nhưng không có điện nên trở mùi hôi thối. Nhiều xác chở đến để ngay dưới đất, trời nắng bốc mùi làm cho các gia đình ở gần phải dở lều di chuyển đi nơi khác. Ông sĩ quan trách nhiệm chôn cất nóng nẩy gắt gỏng và anh em chôn cất làm việc rất vất vả. Ai cũng có mùi rượu và dầu Nhị Thiên Đường đầy người.
Đến ngày 30 tháng 4, khi có lệnh đầu hàng thì không còn ai trách nhiệm. Lúc đó đã xuất hiện người của cộng sản ra gom dân gom lính chạy loạn bắt phải đào hố chôn tập thể. Một anh Công Binh của ta lấy xe đào các hố thật lớn, rồi đưa tất cả các xác lính Việt Nam Cộng Hòa chôn tập thể. Có gia đình cố dành lại xác người thân tự đào lỗ chôn riêng. Cháu thấy một gia đình chỉ có người vợ trẻ với mấy đứa con tám chín tuổi ạch đụi bới đất chôn chồng.
Cháu tìm cuốc đến giúp một tay và thấy mình đã bớt điên. Thấy cảnh hai đứa nhỏ cùng mẹ móc đất chôn bố, cháu thấy cuộc chiến tranh vô nghĩa biết chừng nào. Và sự đau khổ của mình cũng chẳng phải là duy nhất. Đứa con gái chừng 10 tuổi và đứa em trai 6 tuổi vừa khóc vừa móc đất giúp mẹ. Cháu sẽ không bao giờ quên được hình ảnh này.
Sau đó qua ngày 2 tháng 5-1975, cháu quá giang xe của người ta về lại Sài Gòn. Năm 1980, cháu lập gia đình với một anh Thủ Đức còn trẻ có 2 năm cải tạo. Chúng cháu vượt biên rồi vào Mỹ. Chồng cháu rất hiểu biết nên tôn trọng mối tình đầu của cháu với Đông Thành.
Từ mùa Xuân 1993, chúng cháu cứ vài năm lại về Sài Gòn và lần nào cũng lên Nghĩa Trang Biên Hòa Cháu có theo dõi chương trình tảo mộ chui của các bác. Lần nào cũng khấn vái cho anh Đông Thành phù hộ công việc của hội. Cháu có thuê người làm cho anh Thành tấm Ciment đúng kích thước như các ngôi mộ khác chứ không muốn xây cho thật lớn. Anh Thành đã muốn được chết như các chiến hữu thì phải để anh nằm giống như các bạn của anh.
Cháu vừa thương mà vừa giận anh biết chừng nào. Người yêu của cháu là mối tình đầu, anh chính là hình ảnh của chiến tranh Việt Nam. Cháu vừa ghét lại vừa thương. Đã 30 năm qua rồi mà tình cảm vẫn không thay đổi. Bác đã hỏi rằng, ngày Ba Mươi tháng Tư cháu ở đâu? Vâng, 30 tháng 4-1975, cháu đi chôn chồng ở Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Vậy thì phần bác, Ba Mươi tháng Tư, bác ở đâu?
Người yêu của cháu, chồng sắp cưới của cháu là Nguyễn Đông Thành, Trung Úy Biệt Động Quân Đơn vị đóng tại Chân Thành vào thời kỳ 1975. Từ lúc ra trường Thủ Đức, anh làm Trung Đội Trưởng Tác Chiến cho đến khi lên đến Trung Úy Đại Đội Trưởng đã bị thương 4 lần. Một lần bị thương nặng phải nằm nhà thương hai tháng. Còn các lần khác chỉ bị thương nhẹ.
Cháu gặp anh trong một lần nữ sinh đi ủy lạo chiến sĩ tại Tổng Y Viện Cộng Hòa rồi quen nhau. Sau đó chúng cháu đôi khi lại còn cầu cho bị thương nhẹ để có dịp gặp nhau ở Sài Gòn. Một lần anh chỉ bị trẹo chân vì nhảy trực thăng mà được nghỉ đến gần một tháng.
Đó là lần bị thương hạnh phúc nhất của chúng cháu. Gia đình hai bên đã có dịp gặp nhau sau khi chúng cháu về thưa với cha mẹ. Đầu năm 75 đã làm đám hỏi. Chờ đến đầu tháng 5-1975 là làm đám cưới. Cháu có ông cậu làm Trung Tá ở Sài Gòn quen biết nhiều nên hy vọng sẽ giúp cho anh Đông Thành đổi về đơn vị hậu cứ hay về Bộ Quốc Phòng.
Tết 75, hai đứa chúng cháu đến mừng tuổi cậu và xin cậu chạy giúp. Chạy đây là nói hộ chứ không phải tiền bạc gì hết. Cậu cháu coi tướng anh Thành và rất hài lòng để mừng cho cháu gái. Cậu khen vị hôn phu của cháu tuy còn trẻ nhưng rất đẹp trai và tướng mạo đàng hoàng. Anh mới có 22 tuổi, còn cháu 19 tuổi vào năm 1975. Cháu cũng khá cao mà anh Thành còn cao hơn cháu cả đầu người. Anh chơi thể thao cả xà ngang và xà dọc nên người rất tài tử. Bạn học trường Gia Long đứa nào cũng thích Trung Úy Đông Thành của cháu.
Tuy nhiên, khi hỏi chuyện về đơn vị của Thành thì ông cậu của cháu hơi ngần ngại. Cậu nói rằng năm trước có xin cho con một anh bạn đóng đồn được đổi về tỉnh. Chỉ một tuần sau anh Thiếu Úy lên thay thế bị tử trận. Bà mẹ anh này đi thưa Giám Sát Viện về tội ăn tiền đổi người, để đưa con bà vào chỗ chết. Vì vậy cậu cháu nói để chờ một thời gian, đơn vị rút từ Chân Thành về hậu cứ rồi sẽ xin đổi sau.
Người yêu của cháu cũng rất tự ái nên không hề nói gì thêm, cứ bấm tay cháu gạt đi không muốn đề cập đến việc xin thuyên chuyển nữa. Từ biệt ông cậu xong, hai đứa ra về. Cháu giận anh ấy hết sức, nhiều lúc chỉ muốn cho ra trận chết đi cho rồi.
Đàn ông mới hơn hai mươi tuổi mà đã muốn làm anh hùng. Gia đình anh ấy con một, xin hoãn dịch cũng còn được chứ ai lại đi Biệt Động Quân. Quanh năm hành quân, đôi khi ở đơn vị còn có lệnh phải cạo trọc đầu cho thêm dữ dội. Nhưng nói gì thì nói, anh Đông Thành dù để tóc dài hay tóc ngắn thì trông vẫn đẹp như tài tử Pháp Alain Delon. Cháu rất hãnh diện đi với anh ở đường Nguyễn Huệ. Nhưng hai đứa đâu có được dịp đi chơi với nhau nhiều lần. Qua tháng 3-1975, có tin địch uy hiếp Chân Thành, gia đình hai bên và riêng cháu lo lắng ngày đêm. Rồi tin từ Bộ Chỉ Huy là đơn vị Biệt Động Quân ở Chân Thành có lệnh rút. Quân đội cho lệnh bỏ Chân Thành.
Chưa bao giờ cháu lại vui mừng khi được tin quân ta rút như vậy. Là một học sinh chưa được 20 tuổi, cháu chỉ mong người yêu sớm trở về bình yên. Quân đội muốn bỏ đâu thì bỏ. Muốn rút đâu thì rút. Nhưng đau khổ chưa, đúng như cháu đã lo ngày lo đêm. Đơn vị cho người đưa tin về nhà để đi nhận xác Đông Thành vào ngày 25 tháng 4-1975. Người lính ở đơn vị nói rằng anh ấy đã chiến đấu anh dũng ra sao, hy sinh như thế nào, chẳng còn lòng dạ nào mà nghe chuyện. Sao bao nhiêu người còn sống ở Sài Gòn không ra mà anh dũng hy sinh.
Trời đất công bình ở chỗ nào. Đi lính có ba năm mà bị thương đến 4 lần, rồi mới chết. Đông Thành của cháu hiền lành như thế, có làm hại ai đâu mà phải chết oan uổng như vậy. Sau khi được tin cháu cứ như điên dại rồi đi theo gia đình lên Nghĩa Trang Quân Đội nhận xác người yêu. Dù chưa cưới nhưng cháu đã khai là chồng. Mấy ông đòi hôn thú vì tưởng cháu muốn xin tiền chồng chết. Xin tiền tử tuất với 12 tháng lương. Cháu quyết liệt nhận xác chồng dù chẳng có hôn thú.
Đất nước có còn đâu mà lãnh tiền. Anh Đông Thành nằm như ngủ. Đạn vào ngực, vào tim, vào bụng nhưng mặt anh vẫn nguyên lành. Anh nằm đó vẫn đẹp như thiên thần. Anh về bằng trực thăng trên băng ca đúng như trong bài ca, đúng như trong tiểu thuyết. Bên cạnh xác anh có nhiều đồng bạn cũng chết nhưng vì để lâu nên bốc mùi hôi thối.
Nhiều gia đình cũng đến nhận xác. Đàn bà trẻ con khóc la ầm ỹ. Cháu cũng hòa theo tiếng khóc nức nở. Gia đình chôn xác anh ngày 27 tháng 4-1975, buổi chiều thì ra về nhưng cháu ở lại. Cháu trốn vào khu Nghĩa Dũng Đài nhưng người nhà lại tưởng bạn cháu chở về Sài Gòn. Suốt những ngày cuối tháng 4 đau khổ cháu tha hồ khóc. Trên Nghĩa Trang Biên Hòa toàn là gia đình tử sĩ nên cũng không ai chú ý. Có gia đình đem theo Radio nên mở ra nghe tin tức chiến sự. Rồi dân di tản ở bốn phương trời kéo nhau về tạm trú. Họ dựng lều ngay bên cạnh các phần mộ.
Khu lính chết đã lâu thì có mộ bia và tấm Ciment bên trên. Khu mới chết thì chỉ đắp đất. Có cả trăm cả ngàn ngôi mộ. Những ngày đầu thì có nhiều xác chở về bằng trực thăng. Về sau xác chở về toàn bằng xe nhà binh. Sau cùng thì đủ các thứ xe chở xác về Đơn Vị Chung Sự.
Nơi để xác có máy lạnh nhưng không có điện nên trở mùi hôi thối. Nhiều xác chở đến để ngay dưới đất, trời nắng bốc mùi làm cho các gia đình ở gần phải dở lều di chuyển đi nơi khác. Ông sĩ quan trách nhiệm chôn cất nóng nẩy gắt gỏng và anh em chôn cất làm việc rất vất vả. Ai cũng có mùi rượu và dầu Nhị Thiên Đường đầy người.
Đến ngày 30 tháng 4, khi có lệnh đầu hàng thì không còn ai trách nhiệm. Lúc đó đã xuất hiện người của cộng sản ra gom dân gom lính chạy loạn bắt phải đào hố chôn tập thể. Một anh Công Binh của ta lấy xe đào các hố thật lớn, rồi đưa tất cả các xác lính Việt Nam Cộng Hòa chôn tập thể. Có gia đình cố dành lại xác người thân tự đào lỗ chôn riêng. Cháu thấy một gia đình chỉ có người vợ trẻ với mấy đứa con tám chín tuổi ạch đụi bới đất chôn chồng.
Cháu tìm cuốc đến giúp một tay và thấy mình đã bớt điên. Thấy cảnh hai đứa nhỏ cùng mẹ móc đất chôn bố, cháu thấy cuộc chiến tranh vô nghĩa biết chừng nào. Và sự đau khổ của mình cũng chẳng phải là duy nhất. Đứa con gái chừng 10 tuổi và đứa em trai 6 tuổi vừa khóc vừa móc đất giúp mẹ. Cháu sẽ không bao giờ quên được hình ảnh này.
Sau đó qua ngày 2 tháng 5-1975, cháu quá giang xe của người ta về lại Sài Gòn. Năm 1980, cháu lập gia đình với một anh Thủ Đức còn trẻ có 2 năm cải tạo. Chúng cháu vượt biên rồi vào Mỹ. Chồng cháu rất hiểu biết nên tôn trọng mối tình đầu của cháu với Đông Thành.
Từ mùa Xuân 1993, chúng cháu cứ vài năm lại về Sài Gòn và lần nào cũng lên Nghĩa Trang Biên Hòa Cháu có theo dõi chương trình tảo mộ chui của các bác. Lần nào cũng khấn vái cho anh Đông Thành phù hộ công việc của hội. Cháu có thuê người làm cho anh Thành tấm Ciment đúng kích thước như các ngôi mộ khác chứ không muốn xây cho thật lớn. Anh Thành đã muốn được chết như các chiến hữu thì phải để anh nằm giống như các bạn của anh.
Cháu vừa thương mà vừa giận anh biết chừng nào. Người yêu của cháu là mối tình đầu, anh chính là hình ảnh của chiến tranh Việt Nam. Cháu vừa ghét lại vừa thương. Đã 30 năm qua rồi mà tình cảm vẫn không thay đổi. Bác đã hỏi rằng, ngày Ba Mươi tháng Tư cháu ở đâu? Vâng, 30 tháng 4-1975, cháu đi chôn chồng ở Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Vậy thì phần bác, Ba Mươi tháng Tư, bác ở đâu?
Tiểu Quyên
Viết tặng các con của mẹ.
Viết tặng các con của mẹ.
VƯƠNG MỘNG LONG * HỒI KÝ
Hồi Ký của một anh hùng ngã ngựa !!!
May 1, 2012 at 3:05pm
To all my Rangers
Cuối Đường
Hồi Ký cuả Vương Mộng Long.
Tác giả- Vương Mộng
Long
- Cựu học sinh Trung-Học Trần Quý Cáp, Hội-An.
- Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 20 Trường Võ-Bị
Quốc-Gia Việt-Nam.
- Chức vụ sau cùng: Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân.
- Từ 1975 tới 1988 tù “cải tạo” (13 năm) từ Nam ra Bắc.
- Từ 1993 định cư tại Thành Phố Seattle, Tiểu Bang Washington, USA.
- Năm 2003 tốt nghiệp University of Washington, cấp bằng B.A Social Sciences and Communication.
- Gia cảnh hiện nay: Một vợ, 4 con, 1 cháu nội, 3 cháu ngoại.
"Vinh quang một đời của người cầm quân là một món nợ.
Nợ với tổ quốc, với đồng bào, và với thuộc cấp của
mình!"
(Vương mộng Long)
Bảy
giờ sáng ngày Ba Mươi tháng Tư 1975, tôi dừng quân trên một tọa độ cách
thủ đô Sài-Gòn hơn hai chục cây số. Nơi đây là đoạn cuối của quốc lộ 1.
Chỉ còn một quãng đường ngắn ngủi nữa thôi, quốc lộ 1 sẽ chấm dứt. Tối
qua, 29 tháng Tư chúng tôi rút về tới Long-Bình thì Bộ chỉ huy Liên đoàn
24 Biệt Động Quân đã di chuyển đi đâu mất rồi. Tiểu đoàn 82 Biệt Động
Quân của tôi như con gà con lạc đàn. Tôi vào máy gọi Liên đoàn 24 BĐQ,
gọi Tiểu đoàn 81 BĐQ, gọi Tiểu đoàn
63 BĐQ, và
gọi cả Sư đoàn 18 BB/ HQ trên tần số riêng. Tần số nào cũng rối loạn.
Tôi không bắt liên lạc được với ai. Nửa đêm, thình lình máy vô tuyến đưa
lệnh, chẳng hiểu của giới chức nào, chỉ vắn tắt một câu:
- "Các đơn vị cấp tốc rút về phòng thủ Sài-Gòn!"
Mờ
sáng Ba Mươi tháng Tư, chúng tôi bỏ Long-Bình, rồi từng bước, rút về
hướng thủ đô, để "phòng thủ thủ đô". Cuối cùng, lết bộ tới Cầu Hang
(Biên-Hòa) thì mỏi mệt quá, tôi cho quân dừng lại nghỉ. Trên quốc lộ 1,
cách Cầu Hang chừng hai trăm mét, hơn sáu chục người lính sống sót cuối
cùng của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân bơ vơ. Vào
giờ này, quân số Tiểu đoàn 82 BĐQ bách thắng của Quân khu 2 còn lại
chừng nửa đại đội, với bốn sĩ quan là tôi (Thiếu tá Vương mộng Long),
Thiếu úy Thủy, Trung úy Trâm, Chuẩn úy Thiều cùng hơn sáu mươi binh sĩ.
Ông Đại úy Ngũ văn Hoàn (TĐP) chết đêm 28 tháng Tư. Trung úy Đăng mất
tích. Thiếu úy Châu đi thụ huấn chưa về. Thiếu úy Học, Thiếu úy Hoàng
vắng mặt từ chiều 27 tháng Tư, trước khi tiểu đoàn vào vùng. Chuẩn úy
Gấm, Chuẩn úy Trung, hai ông Chuẩn úy Phước (Lê văn Phước, Nguyễn văn
Phước) cùng Trung úy Phước (Trần văn Phước) thất lạc trên đường rút lui
từ Hố-Nai về Long-Bình ngày hôm qua. Từ nửa khuya, những đơn vị đồn trú ở
Long-Bình đã bắt đầu theo cơ giới rút đi.
Lúc
tôi tới Cầu
Hang thì những vị tu hành áo vàng của ngôi chùa Theravada bên kia lộ
đang lên xe chạy về hướng Sài-Gòn. Giờ này họ đã quay trở lại. Họ trở
lại chùa, vào phòng, khóa chặt cổng ngoài. Có một điều lạ lùng, khác với
những lần rút lui từ Quảng-Đức và từ Long-Khánh, đó là, trong lần rút
bỏ Biên-Hoà này, tôi không thấy dân chúng bồng bế nhau chạy theo quân
đội. Chiếc xe nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang đã khuất bóng từ
lâu. Khoảng tám giờ sáng thì không còn ai đi sau chúng tôi nữa. Sau lưng
chúng tôi, thành phố Biên Hòa có lẽ đã rơi vào tay Cộng Quân. Trước mắt
chúng tôi là quốc lộ 1, dài mút mắt, hướng Sài-Gòn. Cuối trời hướng tây
có từng cột khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trong vài túp lá, quán cóc bên
đường xe lửa, xác những người bạn
Nhảy Dù chết cách đó một vài ngày còn nằm trên sạp tre. Họ đã hy sinh
khi nhổ chốt địch để lấy lại đoạn đường quanh Cầu Hang. Tôi không còn
tâm trí đâu mà lo chôn cất cho những người bạn đã kiêu dũng nằm xuống
này. Chính tôi cũng không rõ số phận chúng tôi sẽ như thế nào trong vài
giờ sắp tới.
Mười
giờ sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975. Tôi thẫn thờ rời cái quán cóc bên
đường. Chiếc xe Jeep của Thiếu tướng Lê minh Đảo,Tư lệnh Sư Đoàn 18 BB
đã khuất
dạng nơi khúc quanh có vườn cây xanh, về hướng Thủ-Đức. Tư lệnh đã quay
lại tìm tôi, nhưng giây phút cuối cùng, chúng tôi không kịp gặp nhau.
Vào giờ phút này, trên máy thu thanh, ông Dương văn Minh đang oang oang
ra lệnh cho chúng tôi buông súng. Ông
Dương văn Minh gọi kẻ thù của chúng tôi là "những người anh em". Chỉ
trong vòng mấy tiếng đồng hồ, buổi sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975, cuộc
chiến tranh Việt-Nam hai mươi năm đi vào trang chót. Đứng trên đường tà
vẹt, tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng tự hỏi:
- "Có phải ta đang trong cơn ác mộng hay không?"
- "Sao chiến tranh lại có thể kết thúc một cách đột ngột, vô lý, và thê thảm như thế này?"
Chua
xót thay! Tôi không mơ. Tôi đang sống với thực tế phũ phàng. Thằng Y
Don Near nắm chặt sợi dây ba chạc của tôi, nó khóc sướt mướt:
- "Thiếu tá ơi! Sao lại thế này? Thiếu tá ơi!
Hu...hu ...hu..."
Vào Nơi Lửa Đạn
Từ
chiếc máy PRC 25, trên lưng nó, trong tần số liên đoàn, có nhiều giọng
đàm thoại lạ. Những hiệu đài không quen, gọi nhau, chửi thề, quát
tháo, than van...
Trước
mắt tôi, bên kia đường, lá cờ ngũ sắc trong sân chùa bay phất phới. Hai
bên quốc lộ, những bộ rằn ri còn bố trí, thế tác chiến sẵn sàng. Những
người lính Biệt Động đang chăm chú nhìn cấp chỉ huy của họ. Họ nhìn tôi
với ánh mắt của những đứa con nhỏ đang nép mình trong lòng mẹ, vào những
buổi ngoài trời giông bão, mịt mù sấm sét. Cảnh này quen thuộc lắm.
Những khi tình hình nghiêm trọng, thuộc cấp của tôi thường
chờ đợi quyết định của tôi với những cái nhìn kính cẩn, tin tưởng và
thương yêu như thế này. Trong mười năm chiến trận, đã có đôi lần tôi bị
bỏ lại đàng sau. Đôi lần đơn vị tôi bị dồn vào tình trạng vô cùng nguy
khốn, thập tử nhứt sinh, nhưng thấy con chim đầu đàn còn hiện diện,
những người lính dưới quyền tôi vẫn không xiêu lòng, không bỏ vị trí.
Nhưng sáng nay, trước mắt họ, người chỉ huy của họ đã trở thành một hình
nhân, bất động. Thực sự, tôi không biết phải làm gì bây giờ. Radio chỉ
có một chiều; tôi chỉ nghe được; không trả lời được; không hỏi lại được.
Có ai cho tôi biết ông Dương văn Minh lên chức Tổng thống lúc nào đâu?
Tôi biết hỏi ai rằng ông Tổng thống này là thiệt hay giả? Theo tôi biết,
ông tướng
này, sau khi giết cụ Diệm để tiếm chức, đã bị các nhóm khác hất cẳng về
vườn lâu rồi. Sao tự nhiên ông ta trở thành Tổng thống VNCH được nhỉ?
Sao một thường dân có thể lên làm Tổng thống dễ dàng thế nhỉ? Đùng một
cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho tôi buông súng. Đầu hàng? Đầu hàng
cách nào? Đầu hàng ở đâu? Đầu hàng với ai? Giữa đồng không, tôi đứng
chết trân. Mặt trời lên, thày trò chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau. Những bàn
tay đen đủi Bana, Jarai, Rhadé đưa lên quệt nước mắt.
Hướng
Tân-Uyên có tiếng trống múa lân thùng! thùng!...thùng... thùng... nghe
lớn dần... lớn dần. Tới Cầu Hang, đoàn múa lân quẹo phải, về tây. Tôi
thấy một cán binh Cộng-Sản vai quàng AK, vác lá cờ Mặt Trận Giải-Phóng
Miền Nam đi đầu, tiếp đó là cái đầu lân nhảy múa, rồi một đoàn người
điên cuồng, la hét, hoan hô, đả đảo, nối theo sau. Tiếng loa vang vang,
- "Hoan Hô Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam!"
- "Hoan hô!...Hoan hô!"
Thùng...
thùng... Hoan hô... Hoan hô... Thùng... thùng... Tiếng loa và tiếng
trống lân dập dồn theo gió. Lá cờ Giải-Phóng khổng lồ, xanh đỏ, uốn éo
trong gió.
-
"Đù má tụi mi! Tụi mi chọc giận ông phải không?" Chửi thề xong, ông Hạ
sĩ Phi xả hết một dây đạn M60 về hướng đoàn múa lân. Chỉ là bắn dọa. Đạn
bay cao. Đoàn múa lân như ong vỡ tổ, chạy tán loạn. Chiếc đầu
lân bị vứt chỏng chơ giữa đường. Thằng VC vác cờ cũng quăng cờ, bò lê,
bò càng tìm chỗ tránh đạn.
- "Thôi! Ta đi!" Tôi ra lệnh cho những người lính cuối cùng của đơn vị.
- "Mình đi đâu bây giờ, Thiếu tá?" Thiếu úy Thủy băn khoăn hỏi.
-
"Thì cứ đi về hướng Sài-Gòn, tìm xem có ai ở đâu đó, mình nhập vào với
họ." Tôi trả lời Thủy. Mà chính tôi cũng chẳng biết mình sẽ dẫn đơn vị
đi về đâu! Không mục tiêu, chúng tôi đi rất chậm.
- "Thùng... thùng...hoan hô...hoan hô". Chúng tôi đi được chừng nửa cây số thì đoàn múa lân lại tiếp tục theo sau lưng.
- "Hoan hô! Hoan hô cái mả cha tụi mi!" Hạ sĩ Phi lại đổ quạu.
-
"Cành! Cành! Cành... cành... cành! Cành!" Một dây đạn đại liên M60 lại
quét ngược về đàng sau. Vẫn chỉ là bắn dọa. Đạn bay cao. Thằng VC vác cờ
lại vội quăng cờ núp đạn. Cái đầu lân lại bị ném chỏng chơ trên mặt
đường. Đoàn múa lân lại tán loạn chạy chết. Chúng tôi tiếp tục lê gót
theo đường, về hướng Sài-Gòn. Cứ đi được vài trăm mét, chúng tôi lại
dừng chân nghỉ mệt. Có mục tiêu nào cho chúng tôi tìm tới đâu mà phải
vội vàng? Khi đi ngang khu núi đá vôi Bửu-Long thì thằng Don đưa ống
nghe cho tôi:
-
"Có Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái Sơn!"
Tôi nghe tiếng Trung tá Hoàng kim Thanh, Liên đoàn trưởng LĐ24/BĐQ:
- "Thái Sơn! Đây Hai Lẻ Bảy! Anh cho hai chiếc xe tới đón chú và con cái về
Đường-Sơn Quán. Các đơn vị đang tập trung ở đây chờ lệnh!"
Giọng anh Thanh vẫn bình tĩnh, từ tốn, không có vẻ gì là lo lắng.
Nghe
ba tiếng "Đường-Sơn Quán", tôi chợt
nhớ thời 1971-1973, ở BCH/BĐQ/QK2 có một biệt đội Biên-Vụ (Viễn Thám)
do tôi thành lập, huấn luyện, và trực tiếp chỉ huy. Sáu toán Biên-Vụ
trang bị AK, dép râu, nón tai bèo, nghênh ngang, xuôi ngược trên các
tuyến đường HCM, dọc theo biên
giới Việt, Miên, Lào, trong căn cứ địa 609, 613, 701, 702, 740. Những
cú nổ mìn phá ống dẫn dầu, phá xe tải, bắt cóc cán binh, dọc Trường-Sơn
Đông, phá Ngầm 24 trên sông Sésan là một mối đe dọa kinh hoàng hàng ngày
đối với đoàn quân xâm lăng vào từ phương bắc. Chuyện chúng tôi xuất,
nhập các mật khu, huấn khu địch, xảy ra như cơm bữa. Những tay súng dưới
quyền tôi cũng yêng hùng, ngang tàng như các hiệp sĩ trong phim
Hồng-Kông. Họ quen gọi tôi là "Anh Hai". Bất cứ giờ nào, dù đang lội
trong rừng gai mây Plei-Trap Valley hay trong rừng khọt Nam Lyr
(Cambốt), họ vẫn nghe được tiếng "Anh Hai" của họ, từ một đỉnh núi cao
nào gần đó. Thỉnh thoảng, "Anh Hai" lội rừng chung với họ để thi hành
những nhiệm vụ gay go do Quân-Đoàn 2 giao phó. Tôi và họ, thương nhau
như anh em cùng mẹ, cùng cha. Khi cuốn phim "Đường-Sơn Đại-Huynh" được
chiếu trên màn ảnh các rạp Diệp-Kính, Diên-Hồng, Thanh-Bình, ở Pleiku,
thì đàn em của tôi gán cho tôi biệt danh "Đường-Sơn Đại-Huynh" chỉ vì
tôi có cái tên Long, trùng với tên ông Lý tiểu Long, tài tử chính của
phim này. Sau khi "Anh Hai" vào Plei-Me nhận Tiểu đoàn 82/BĐQ/BP, đơn vị
này bắt đầu đánh giặc với cái phong thái "Đường Sơn" khiến quân thù vừa
nghe tên đã khiếp vía... Tôi ở Cao-Nguyên mút mùa, làm sao biết được ở
Sài-Gòn cũng có cái quán được đặt tên như trong phim võ hiệp của Tàu?
Tôi mở miệng định hỏi anh Thanh tọa độ của Đường-Sơn Quán thì máy liên
đoàn đã cúp. Tôi đành cho anh em ngừng lại bên đường, chờ đợi. Chừng nửa
giờ sau, hai chiếc xe be từ hướng
Thủ-Đức chạy lên. Xe ngừng, ông tài xế ló đầu ra lớn tiếng hỏi,
- "Có phải Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đó không?"
- "Phải rồi! 82 đây!"
- "Lên xe đi! Tôi chở các ông về Đường-Sơn Quán!"
- "Có ai ở đó không?"
- "Đông lắm! Có lẽ các ông là những người tới sau cùng"
Xe
trở đầu, chúng tôi lên xe. Tôi, Trung úy Trâm và thằng Don ngồi trên
cabin chiếc xe đi đầu. Chú Thủy và chú Thiều đi xe sau. Thành xe be thấp
hơn thành xe GMC, không có thế để đứng, những người lính đành phải ngồi
chồm hổm. Ông tài xế xe be, cười rất tươi,
- "Hòa bình rồi! Hòa bình rồi! Hết đánh nhau rồi các anh ơi!"
Tôi
là một người lính nhà nghề, nên dù cho "hòa bình" có ở ngay
trước mắt, hiệu lệnh phản phục kích xe vẫn được tôi ân cần nhắc nhở cho
thuộc cấp. Hai khẩu M60, một của Hạ sĩ Phi, một của Trung sĩ Tài, được
đặt trên nóc buồng lái của hai chiếc xe be.
Xe
đang bon bon trên con lộ vắng thì khựng lại, bò từ từ. Trên mặt lộ,
đàng xa, có người dang tay phất phất lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, ra hiệu cho
xe chạy chậm lại. Tới gần, tôi nhận ra một du kích Việt- Cộng, quân
phục xanh, mũ tai bèo, dép râu. Tên du kích
cột lá cờ trên cánh tay phải, cờ phất lia, phất lịa. Tay trái nó dương
họng khẩu AK 47 hướng vào đầu xe của tôi. Xe vừa ngừng thì hai bên đường
có tiếng la,
- "Bắn! Bắn!... Không cho đứa nào chạy thoát!"
Rồi
thì tiếng súng đủ loại rộ lên. Những người lính Việt-Nam Cộng-Hoà trên
hai chiếc xe be vừa ngừng trên mặt quốc lộ trở thành những cái bia sống.
"Hòa bình" rồi. Tại sao người ta nỡ đang tay giết chúng tôi, khi chúng
tôi đang trên đường về điểm tập trung để buông súng?
- "Choác! Choác! ....Choác!"
Gian Lao
Tôi
tối tăm mặt
mũi vì loạt đạn bất ngờ. Tấm kiếng che gió của chiếc xe tôi đang ngồi
lãnh cả chục viên AK của loạt đạn đầu tiên. Mảnh thủy tinh văng rào rào
trên đầu, cổ, mặt mũi tôi. Ông tài xế gục trên vô lăng. Thùng nước xe
bể, hơi nước phun "phì...phì..." che kín đầu xe. Tôi phóng nhanh xuống
đường. Sau một cái lạng mình, tôi đã ở đàng sau thành xe. Tôi rút khẩu
Colt 45, vẩy một viên về hướng thằng du kích. Viên đạn trật mục tiêu.
Một BĐQ vừa nhảy khỏi xe, té trên mặt đường. Hình như anh ta bị trúng
đạn, không ngồi dậy được. Tôi giựt khẩu M16 trên tay anh,
- "Đưa tao!"
Tôi
kéo cơ bẩm. Đạn tuôn ra khỏi nòng. Tên du kích giãy giụa trên vũng máu.
Lá cờ
Mặt-Trận phủ trên mình thằng du kích. Tôi ghếch mũi súng về lề phải con
đường, nơi hàng chục họng AK và B40 đang đua nhau nã đạn vào hai chiếc
xe be. "Oành!". Một trái B40 nổ ngay trước mặt tôi. Tôi cảm nhận rõ ràng
nhiều mảnh B40 và đá, sỏi đã ghim vào cẳng mình. Chủ nhân khẩu M16 mà
tôi đang xử dụng bị bay mất cái đầu. Máu từ cổ anh xịt thành vòi; phần
thân thể còn lại của anh giựt giựt trên mặt lộ. Khẩu B40 cách tôi chỉ
vài sải tay, ngay bên kia đường. Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40 quạt một
tràng M16. Ngón tay tôi tiếp tục siết cò. Địch đông lắm. Chúng đứng lố
nhố trong vườn có những luống đậu, dây leo. Một băng đạn ria đại vào đây
cũng có thể hạ gục cả chục tên. Chúng tôi không dự trù sẽ vướng vào một
cuộc giao tranh
vừa bất ngờ vừa điên cuồng này. Chúng tôi ở vào cái thế không biết xoay
trở cách nào để phản công. Thôi, đành liều mạng! Ai đang ở đâu nằm tại
đó, chống trả. Cũng may, đêm qua, ở Long-Bình, chúng tôi có cả kho đạn
lận lưng cho ngày hôm nay.
Đạn
địch từ hai bên đường trước mặt tôi tưới như mưa vào những người lính
còn đứng trên xe. Những thân hình rằn ri rơi rụng xuống mặt lộ. Có người
chân vừa chạm đất, đã lăn ra chết. Có đôi người vừa
nhảy ra khỏi sàn xe, còn lơ lửng trên không, tay đã bóp cò, nã đạn về
hướng địch. Hầu như ai cũng lo bóp cò. Không ai để ý đến thân thể mình
đã trúng thương nơi đâu. Hạ sĩ Đinh Lít nằm nghiêng dưới gầm xe, tay
trái anh đã trúng đạn, xuội lơ,
tay phải ôm cứng khẩu M16. Anh nằm trên vũng máu, mặt anh tỉnh như
không. Mặc cho đạn địch cài dày dặc xung quanh. Với một tay còn lại, anh
liên tục bắn hết băng đạn này, tới băng đạn khác. Lựu đạn miểng, lựu
đạn nổ, lựu đạn cay, B40, M72, chớp nhoá, "Cành! Cành!..." - "Choác!
Choác! ... " - "Xoẹt! Xoẹt!..." - "Oành! Oành!.." Hai bên đường, địch
vẫn tiếp tục ào ra. Xác Việt-Cộng đè lên nhau từng lớp, ngổn ngang.
- "Cành! Cành! Cành!..." Trên xe, Hạ sĩ Phi vừa
rải từng tràng M60 về phía quân thù, vừa la rú như người mất trí,
- "Đù má tụi mi ! Chết cùng chết! Ông chết! Tụi mi cũng chết!"
Trưa
Ba Mươi tháng Tư, trên
đoạn cuối của quốc lộ 1, một cuộc hỗn chiến loạn đả xà bần đã diễn ra
giữa thanh thiên, bạch nhựt. Dân chúng tràn ra đường, xem hai bên đánh
nhau. Có đôi ba người dân thường, liều mạng chạy vào khu giao tranh,
mang vác những Biệt Động Quân bị thương đem đi cứu cấp. Khẩu đại liên
của Trung sĩ Tài trên xe thứ nhì đã được di chuyển xuống lề đường. Điều
lạ là, hai phụ xạ thủ của Tài lại là hai em bé trai, tuổi khoảng mười
hai, mười ba. Như vậy có nghĩa là, người phụ xạ thủ và tải đạn của Tài
đã bị loại ra ngoài vòng chiến. Đạn nổ rền trời. Đạn bay qua. Đạn bay
lại. Việt-Cộng chết. Biệt Động Quân chết. Dân chúng cũng chết! Những
người lính Biệt Động cuối cùng của Plei-Me, vùng 2, ruột đổ lòng thòng
vẫn ôm súng bắn như
khùng, như điên. Hết đạn, những con cọp giãy chết đành dùng tất cả
những gì cha mẹ ban cho để tự vệ: Nắm đấm, gót chân, đầu gối, khuỷu tay
và cả...răng cũng được xử dụng. Trong phút giây tuyệt vọng, những chiến
sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà lăn xả vào địch, la hét, vật lộn, đấm đá, cào cấu,
cắn xé... Binh nhứt Liêu chí Cường (gốc Chợ-Lớn) trước khi chết, còn cố
ôm cứng một thằng địch để cắn vào mặt nó . Tôi biết chắc người đó là chú
Cường, vì cái khăn len xanh cố hữu, bốn mùa quấn trên cổ chú (cái khăn
của người tình phụ).
Tôi
đã bắn hết số đạn mang theo trên lưng người lính nằm chết dưới chân
tôi. Tôi vừa rướn người, quơ quào được một băng M16 trên sàn xe thì đạn
12,7 ly của
địch từ xa ào ào bắn tới. Có tiếng trung úy Trâm thét lên, bên hông
trái xe,
- "Thái Sơn ơi! Hình như tank tới !"
- "Làm gì có tank! Chỉ có 12,7 ly thôi!"
Đạn
phòng không của Việt-Cộng quét sát mặt đường nhựa, toé lửa khi nổ lần
thứ hai. Những viên 12,7 ly nổ "đúp" (hai lần), chui qua thân người bị
đạn, hất thân mình người đó lên khỏi mặt đất, đục những lỗ to như bàn
tay trên thân thể nạn nhân. Trên mặt lộ là cả chục xác Biệt Động Quân
không toàn thây. Khẩu M60 của Hạ sĩ Phi đã gãy nát. Hạ sĩ Phi vỡ óc. Hạ
sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc. Sáu bánh xe be xẹp lép. Chiếc xe nằm bẹp xuống
mặt đường. Trên sàn xe, trên
mặt lộ, chỗ nào cũng ngập máu. Máu đọng thành vũng, máu chảy tràn xuống
ruộng. Bên tôi, không còn khẩu M16 nào hoạt động. Những Biệt Động Quân
đi trên xe thứ nhứt có lẽ đã chết gần hết. Những người đi trên xe thứ
nhì đang là mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. Tôi thấy họ rút vào ruộng mía bên
phải quốc lộ. Đám dân đứng xem đánh nhau, bị trúng đạn cũng nhiều.
Súng
của tôi lại hết đạn rồi. Tôi trườn ra giữa đường để nhặt khẩu AK và
giây đạn của tên
du kích. Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài đã gãy làm đôi. Hai em bé tải
đạn cho Tài đều chết vì trúng đạn 12,7 ly. Trung sĩ Tài đang lăn lộn
trên vũng máu. Tôi lăn mình vài vòng, tới bên Tài. Tài nhìn tôi, thều
thào,
"Chạy đi!... Ông thầy... chạy đi!..."
Tôi
định xốc Tài lên để dìu anh vào lề đường thì hai mắt anh đã lạc. Đạn
bay xém bên mình tôi, nổ "toang toác!" trên mặt lộ. Chợt ai đó nắm sợi
dây ba chạc sau lưng tôi, lôi tôi chạy về bờ ruộng bên trái quốc lộ.
- "Anh em chết hết rồi . Chạy đi, thầy ơi!" Đó là tiếng Trung úy Trâm.
"Toác!
Toác!" - "Chíu! Chíu!" đạn địch đuổi theo. Tôi cắm đầu chạy. Chạy được
một đỗi thì tôi đuối sức, lảo đảo. Trâm bèn ghé vai, vác tôi lên lưng.
Trâm khỏe như một đô vật. Trâm cõng tôi, nhanh chân lẩn vào rặng dừa bên
trái lộ. Hết vạt dừa, Trâm đặt tôi xuống
đất. Chúng tôi lội trên mảnh ruộng vừa gặt xong. Chân tôi vướng gốc rạ.
Tôi ngã bổ nhào trên mặt ruộng. Trên mặt ruộng có những đồ chơi của trẻ
con vương vãi đó đây. Một con búp bê bằng nhựa, một cái xe hơi bằng
nhựa, những chén bát nhỏ tí, cũng bằng nhựa, màu mè xanh đỏ. Tôi chợt
nhớ tới gia đình vợ con tôi ngoài Ban Mê Thuột. Chắc vợ con tôi đã chết
hết. Tôi nghĩ tới đất nước tôi. Đất nước tôi đã mất. Đơn vị tôi đã tan
tác. Một phút bất thần, phẫn uất, tôi rú lên như con thú,
- "Ôi!... Ôi!... Ông Trời ơi!... Ông Trời ơi! ...ơi. ..ơi..."
Tôi rút khẩu súng Colt ra, kê nòng súng vào mang tai mình, bóp cò. Bàn tay như sắt nguội của Trung úy Trâm
phạt ngang một cú Karaté. Viên đạn bay lên trời. Khẩu Colt văng trên mặt ruộng.
-
"Trâm ơi! Làm ơn! ... Cho anh chết! Trâm ơi!..." Nước mắt dàn dụa, tôi
thất vọng, van lơn. Chẳng nói chẳng rằng, Trung úy Trâm lầm lì, xốc vai
tôi bước đi. Ngoài lộ vẫn còn lác đác tiếng đạn bắn qua, bắn lại và
tiếng lựu đạn nổ. Trâm lột sợi dây ba chạc của tôi, của anh, mũ sắt của
tôi, của anh, vứt trên một gò mả. Trâm từng bước dìu tôi về hướng xóm
làng gần đó. Giờ
đó tôi như con sên yếu đuối, mặc cho chú Trâm tha lôi đi đâu thì đi.
Chúng tôi vừa đụng đầu một con lộ đất thì một nông dân đạp xe tới chặn
đường,
- "Ông thiếu tá bị thương hả?"
Thói
quen, ngược đời, đi trận tôi thường đeo lon trắng. Về nhà tôi lại đeo
lon đen. Người dân đã nhìn thấy cặp lon trắng của tôi. Ông cụ có vẻ động
lòng,
- "Ông trung úy lấy xe này đưa thiếu tá chạy đi! Luẩn quẩn ở đây lâu không tốt đâu!"
- "Cám ơn cụ!" Trâm lanh tay nhận chiếc xe đạp thồ từ tay người dân tốt bụng.
Con
lộ đất dẫn tới một văn phòng Hội Đồng Xã, cửa đóng, khóa ngoài. Rồi con
lộ đất dẫn vào một ngôi nhà thờ xứ đạo. Trong sân nhà thờ, lố nhố nhiều
người đang tập trung. Một cái rờ-moọc xe GMC chất đầy súng ống nằm ngay
giữa sân. Đó đây, từng đống
quân trang, quân phục VNCH vừa bị cởi bỏ. Trâm dựng cái xe đạp ngay
giữa sân. Chú đứng quan sát một phút, rồi thở dài,
- "Cởi quân phục vứt đi thì chỉ còn cái áo mayor với cái quần xà-lỏn. Mình làm sao đây, Thái Sơn?"
Tôi
rờ rẫm những khẩu M16 trên chiếc rờ-moọc, "Lên đạn. Dựng khẩu súng
thẳng đứng. Đưa nòng súng vào dưới cằm. Lách ngón chân vào cò súng. Nhấn
ngón chân xuống. Thế là xong!" Tôi đang suy nghĩ, sắp thử một cú tự
giải thoát nữa, thì chú Trâm van lơn,
- "Thầy ơi! Thôi đi thầy ơi! Đừng bỏ em, thầy ơi! "
Gian Lao
Trung
úy Trâm ôm chặt vai tôi, khóc nức nở như một đứa bé. Thầy trò tôi ôm
nhau. "Hu ... hu... hu...." Những người đứng gần đó, bị nỗi đau đớn
chung lôi cuốn, cũng ôm mặt khóc theo. Như giữa đám ma, cả một khu sân
nhà thờ xứ đạo vang lên tiếng khóc. Một đám ma
không có người chết, mà những người đang đứng đây, chẳng có họ hàng gì
với nhau, nhìn nhau, ôm nhau, cầm tay nhau, chúng tôi khóc vùi.
Một thanh niên cưỡi chiếc Honda 90 từ hướng quốc lộ 1 phóng tới. Anh kè sát bên tôi, nói nhỏ :
- "Thiếu tá lên xe, em chở đi trốn."
Trâm đẩy tôi lên yên sau xe, chú leo lên theo.
-
"Chúng nó (VC) chết nhiều lắm!
Chúng nó bắt được mấy anh lính bị thương, tra khảo họ xem cấp chỉ huy
của họ là ai, đâu rồi? Họ khai có ông thiếu tá, chắc chết rồi. Chúng
kiểm xác chết. Không có xác thiếu tá. Chúng đang túa đi lùng. Em sẽ đưa
thiếu tá đi dấu. Không để cho chúng nó bắt."
Xe chạy trong đường làng quanh co một đỗi thì ngừng. Anh thanh niên dựng xe, đập cửa một căn nhà gỗ, mái dừa,
- "Mẹ ơi! Con đây! Hải đây! Mẹ mở cửa cho con!"
Cánh cửa hé mở, một bà già, tiếng Bắc Di Cư:
- "Đánh nhau, súng nổ ầm ầm mà mày cứ nhơn nhơn ra đường. Về nhà
đóng cửa lại cho tao đỡ lo!"
-
"Vâng con về ngay. Mẹ cho con gửi hai anh này. Có ai hỏi, mẹ cứ nhận là
hai con của mẹ. Anh Cả, anh Hai đi lính vắng nhà lâu rồi, chòm xóm
không nhớ mặt đâu! Mẹ làm ơn, làm phúc. Con đi một chút nữa con về ngay.
Mẹ đừng lo!"
Bà
mẹ nhìn tôi và Trâm, bà biết ngay hai đứa chúng tôi là sĩ quan QLVNCH
đang bị truy đuổi. Bà cụ không dài dòng hỏi han. Cụ đưa tay chỉ cho tôi
cái tủ đứng góc nhà,
-
"Hai đứa lấy quần áo 'si-vin' của thằng Hải mà mặc vào ngay đi! Đưa
quần áo nhà binh cho tao đi dấu!" Thoáng chốc, tôi và Trâm thành hai anh
dân sự. Bà cụ Bắc Kỳ đã chôn hai bộ rằn ri dưới bùn ruộng
muống sau nhà.
Trước
sân, anh thanh niên (Hải) con bà cụ đang bơm lốp xe. Tôi và Trâm ngồi
uống nước vối nóng, nghe ngóng động tĩnh. Chợt, ngoài đường có tiếng đối
đáp,
-
"Anh kia! Anh có thấy hai thằng lính rằn ri ngụy chạy qua đây không?" một giọng Nghệ-Tĩnh gặng hỏi.
- "Có! Chúng nó chạy thẳng sang hướng Thủ-Đức. Đấy! Con đường quẹo phải! Chổ cây dừa nghiêng..."
Tên Việt-Cộng chỉ huy liếc mắt vào trong nhà. Thấy tôi và Trâm, nó hỏi trống không,
- "Chứ hai anh kia làm chi rứa?"
-
"Anh Cả và anh Hai của tôi đó!" Hải nhanh miệng.
-
"Thưa ông, hai thằng con tôi đi lính ngoài miền Trung. Tụi nó mới đào
ngũ về nhà được mấy tuần. Xóm này ai cũng biềt." Bà cụ phân trần.
Thằng Việt-Cộng hết nghi, quay sang đồng bọn, nó ra lệnh,
-
"Nhanh lên! Đuổi theo chúng nó nhanh lên! Hướng cây dừa nghiêng. Đừng
cho chúng nó chạy thoát! Các đồng chí cẩn thận đấy! Tụi nó có súng!"
Rồi
tiếng chân người huỳnh huỵch chạy đi, xa dần. Bà già lấy khoai lang
luộc đưa cho chúng tôi ăn đỡ lòng. Anh Hải rồ máy xe. Nửa giờ sau anh
trở về,
- "Thiếu tá đi được rồi! Quân của chúng nó đi hết rồi."
- "Hai con có còn tiền để đi xe về quê không? Nếu không mẹ cho!" bà cụ ân cần.
-
"Cám ơn bác. Chúng cháu còn tiền đây. Chúng cháu mới lãnh lương. Mải lo
đánh nhau, chưa tiêu đồng nào." Tôi cảm động nói không nên lời. Bà già
nhìn chúng tôi, ánh mắt bà chứa ẩn một tấm tình thương xót bao la.
- "Thưa Mẹ! Con đi!"
- "Thưa Mẹ! Con đi!"
- "Anh đi nhé, Hải! Cám ơn Mẹ và em vô cùng!"
Lần
đầu tôi gọi một người không sinh ra tôi
là Mẹ. Tôi gọi bà là Mẹ, không ngại ngùng, như thể bà đã là Mẹ tôi, đã
sinh ra tôi. Tôi và chú Trâm bước ra vườn sau, theo bờ ruộng rau muống,
leo lên con lộ đá đi về hướng Thủ-Đức. Tôi biết sau lưng tôi, Mẹ và chú
Hải còn trông theo.
Hai
đứa tôi nhanh chân nhập vào dòng người hướng về Thủ-Đức. Chợt sau lưng
tôi có tiếng gọi, "Thái Sơn ơi! Trâm ơi!" Thì ra người gọi chúng tôi là
Thiếu úy Trần văn Thủy . Ba thày trò tôi không dám lớn tiếng hỏi han
nhau
về những gì đã trải qua. Chúng tôi đi như những người dân chạy loạn
đang tìm đường về nhà, sau khi im tiếng súng. Chúng tôi vào Thủ-Đức. Nhà
nhà, cửa đóng kín mít. Vài chiếc xe Cảnh-Sát cháy dở dang. Vài tiệm
buôn bị đốt phá. Trong phố đã xảy
ra cướp bóc, hôi của. Cổng Trung-Tâm Cải-Huấn Thủ-Đức mở toang. Sân nhà
lao vắng tanh. Tội phạm mới ra khỏi khám đang lộng hành (?) Nhiều người
tay mang băng đỏ chở nhau trên Honda, trên xe Ford Cảnh-Sát. Xe chạy
nhanh như bay, qua lại nhiều lần trên đường phố. Tới chợ Thủ-Đức, chúng
tôi may mắn đón được chiếc xe Lamb chạy đường Thủ-Đức, Thị-Nghè, giá sáu
trăm đồng một người. Chiếc xe Lamb bò ì ạch vì quá tải. Xe chúng tôi
qua mặt từng đoàn người bận quần đùi, áo thun, chân đất, đang chen vai
nhau, đi về hướng thủ đô. Tôi nhận ra, trong đoàn người áo thun, quần xà
lỏn đang đi dưới đường, có Thiếu tá Nguyễn hữu Tài, tiểu đoàn phó tiểu
đoàn 81 Biệt Động Quân. Có lẽ anh ta cởi bỏ quân phục nơi Đường-Sơn Quán
(?)
Còn
cách ngã ba xa lộ Đại-Hàn chừng hơn trăm mét, chúng tôi phải xuống xe
đi bộ vòng qua một khu ao cá và ruộng nước bên trái quốc lộ, vì giữa
đường có một chiếc tank T54 đang
cháy. Có vài cán binh Cộng-Sản Bắc-Việt ôm AK chặn không cho bộ hành và
xe cộ qua lại đoạn đường này. Lội hết vạt ruộng thì thày trò tôi tới xa
lộ Đại-Hàn. Lúc này, trên xa lộ, tank T54 và xe chuyển quân của CSBV
đang nối đuôi nhau hướng về Sài-Gòn. Sau khi cuốc bộ một đỗi, chúng tôi
tới cây cầu đúc. Qua cầu, chúng tôi lẫn trong biển người xuôi ngược.
Chúng
tôi về tới Thị-Nghè thì mặt trời xế bóng. Giữa cầu Thị-Nghè là một
chiếc M41 đứt
xích vì B40. C hiếc chiến xa nằm bẹp, bụng xe đè sát mặt cầu. Trên pháo
tháp, có vết máu đã khô, nhưng không thấy xác người chết. Bên cạnh đó,
vương vãi vài bộ quân phục Việt Nam Cộng Hòa, dây đạn, nón sắt, ba lô...
Tôi
không dám về nhà mẹ tôi, sợ trong lúc tình hình lộn xộn, chòm xóm biết
mình là sĩ quan QLVNCH, sinh chuyện không hay. Để hai người đàn em chờ
trên cầu, tôi đi kiếm nhà người quen, xin cho chúng tôi tá túc.
Nhà anh bạn Nguyễn gia Hân của tôi nằm ngay chân cầu. Bạn tôi là sĩ
quan Cảnh-Sát, Trưởng đoàn phòng vệ Toà Đại-Sứ Hoa-Kỳ. Nhà khóa cửa. Có
lẽ gia đình bạn tôi đã di tản rồi. Tôi trở lại cùng Trâm và Thủy. Qua
cầu, chúng tôi tiếp tục đi. Bây giờ,
trong phố, người qua lại nườm nượp. Bên lề đường, sát tường rào Sở Thú,
những người đi hôi của đang bày bán đủ thứ, chăn màn, quần áo, chén
bát, sách truyện, tranh ảnh, rượu bia...
Quên
đời? Chỉ còn cách uống rượu. Năm trăm đồng một chai Hennessy. Ba thày
trò tôi kẹp nách mỗi người một chai. Tôi vẫy tay chận một chiếc xích lô
máy để vào Chợ-Lớn, về nhà Trung úy Trần văn Phước; vừa có nơi lạ để
nghỉ qua
đêm; xóm giềng không biết mình là ai; vừa tìm xem chú Phước còn hay
mất. Chiều rồi, nhưng nhà chú Phước còn mở cửa. Trước nhà là cái bảng
hiệu "Chiêm-Tinh Gia Trần-Cẩm, Chuyên Bói Bài, Coi Chỉ Tay, Đoán
Vận-Mệnh". Bác Cẩm là thân sinh của chú Phước. Xe ngừng,
tôi vừa bước xuống đất thì Phước từ trong nhà ào ra ôm chầm lấy tôi,
"Ôi! Anh Hai! Anh Hai! Mừng quá! Anh Hai ơi!" Thì ra trong cuộc lui binh
dưới mưa pháo ngày 29 tháng Tư, Phước bị tụt lại đàng sau, mất liên lạc
với tiểu đoàn. Phước không biết chúng tôi rẽ vào Long-Bình. Phước đi
thẳng một lèo, theo xa lộ về tới Sài-Gòn.
Đêm
30 tháng Tư bốn anh em tôi ngồi bên nhau, cạn ba chai rượu. Chú Thủy
cho tôi biết rằng, ngay đợt
tấn kích đầu của địch, chiếc xe thứ nhì đã bị thương và chết khá nhiều.
Nhiều BĐQ bị thương đã được dân chúng di tản đi cứu cấp. Thiếu úy Thủy
đã cố gắng mở một mũi bọc hông phải để giải tỏa áp lực địch nhưng không
thành công, vì địch
quá đông. Đến lúc khẩu phòng không 12,7 ly của địch tham chiến thì Thủy
cho anh em phân tán chạy vào nhà dân. Sau đó Thủy được dân chúng cưu
mang, cho quần áo cải trang rút chạy. Chú Thủy nói, hình như chú Thiều
bị thương ngay từ phút đầu, không rõ số mệnh ra sao . Sáng Mồng Một
tháng Năm 1975, tôi cho Thủy và Trâm một số tiền để làm lộ phí về quê.
Từ dạo ấy, anh em chúng tôi không còn dịp gặp lại nhau nữa.
Thời gian trôi . . .
mười
ba năm sau, cũng vào ngày Ba Mươi tháng Tư, đầu làng, cuối xóm, rợp
bóng cờ đỏ sao vàng. Nơi nơi, loa vang vang, bài ca "Mùa Xuân Trên Sài
Gòn". Có một anh Bắc-Kỳ, tuổi lửng lơ, nửa già, nửa trẻ, đạp
xe thồ, đèo theo một cái giỏ, đi rao bán cá khô trong khu ngoại ô
Thủ-Đức. Tới căn nhà gỗ, mái dừa, anh bán cá khô vừa mở miệng hỏi thăm,
một bà người Xứ Quảng đã mau mắn trả lời :
- "Đi rồi! Bán nhà, vượt biên. Năm, sáu năm rồi!"
-
"Xin cám ơn bà. Xin cám ơn Trời!" Anh Bắc-Kỳ mừng rỡ. Bà chủ nhà . . .
nghệt mặt, giương mắt nhìn anh chăm chăm, mà chẳng hiểu ý anh.
Anh
bán cá khô lên xe, đạp từ từ theo con lộ đất. Xe tới cổng nhà thờ. Gác
chuông lặng câm. Sân nhà thờ vắng ngắt. Trên thánh giá, Chúa cúi đầu.
Không biết Chúa có còn nhận ra anh không? Qua văn phòng Ủy-Ban Nhân-Dân
Xã, đến quốc lộ 1, anh quẹo
phải, ngừng lại bên đường ngồi nghỉ. Nơi đây chỉ cách Đường-Sơn Quán
vài cây số. Cũng ngày này, mười ba năm trước, các chiến sĩ của Tiểu đoàn
82 Biệt Động Quân đã tả xung hữu đột trong trận đánh đẫm máu bi hùng
cuối cùng. Những người nằm xuống đã sang thế giới bên kia trong quân
phục rằn ri, với cái huy hiệu đầu beo, phía trên phù hiệu đó là một bệt
tím có chữ số "82" màu vàng. Trưa nay, có lẽ dân chúng trong vùng còn
nhớ tới họ, nên cắm vội bên đường đôi bó nhang, hương khói.
Anh bán cá khô ngồi xẹp trên lề cỏ, rưng rưng,
- "Các chú tha lỗi cho anh..."
Hai
bên quốc lộ là rừng bạch đàn. Những cây
bạch đàn lớn lên từ lòng đất từng thấm đẫm máu của những anh hùng
Plei-Me. Hình như trong gió, thoảng như ru, có tiếng ai, thiết tha, não
nuột:
- "Thầy ơi! Chạy đi!... Thầy ơi!..."
Ngồi bên bìa rừng, đôi mắt Đường-Sơn Đại-Huynh đẫm lệ....
Không biết anh Vương Mộng Long có gặp được mẹ con người đã cứu mạng anh không?"
Dân quân cá nước" một xã hội như thế mà phải tiêu vong vì các thế lực quốc tế,. Đau quá!
Đọc xong truyện thấy mắt mình như có lệ
_
Tuesday, April 29, 2014
TRẦN MỘNG TÚ * THÁNG TƯ
Trần Mộng Tú
Bài viết của một người đa cảm
Tháng tư, tôi ngồi trong quán cà phê Starbucks trên đường 20th của thành phố tôi cư trú. Tôi cúi xuống nhìn mầu cà phê đen đặc, sóng sánh sót lại một ngụm trong chiếc ly giấy. Tôi cầm chiếc ly chao nhẹ đi một chút, do dự chưa muốn ngửa cổ uống nốt ngụm cuối cùng. Ngụm cà phê trông như ngụm nước mắt đen. Chao ôi nước mắt đã có một lúc nào đó, ta ngửa cổ uống được cả ngụm hay sao!
Tháng tư, tháng tư, tháng tư năm đó! Đứt ra từng đoạn: đoạn cha, đoạn mẹ, đoạn vợ, đoạn chồng, đoạn con, đoạn anh, chị, em, đoạn bạn hữu... Mỗi đoạn đứt một chỗ, rơi một nơi, đoạn mất đi ngút ngàn biệt tích, không để lại dấu vết, đoạn còn sót lại ngơ ngẩn, mù lòa.
Tháng tư của ba mươi tám năm sau, ngụm nước mắt không bao giờ cạn được.
Tôi ngồi trong quán một mình. Ngó những khuôn mặt lạ, họ không phải bạn bè, nhưng vẫn thấy thân thuộc, vì đó là những khuôn mặt của dân bản xứ tôi gặp thường ngày. Cách ăn mặc và lối cư xử của họ na ná giống nhau. Mình nhìn mấy chục năm, mình quen với cách kéo ghế, cách chụm đầu vào nhau nói khe khẽ, cách nghiêng mình xin lỗi của họ khi phải đi qua mặt ai, nên bỗng trở thành gần gũi.
Tự ngậm ngùi tưởng tượng, nếu bây giờ mình ngồi ở trong một quán cà phê ở Việt Nam, ngắm những người ngồi chung quanh, chắc chắn mình sẽ thấy thất lạc lắm, vì cách ăn mặc và cư xử rất khác mình.Họ cũng sẽ chẳng để mắt nhìn đến mình, một kẻ thường thường trên mọi phương diện. Mình thất lạc ngay chính trên quê hương mình.
Ngồi một mình với ly cà phê Starbucks trong một ngày của tháng tư, quê người; tôi chỉ nhìn ra mình là người lạ với chính mình. Cúi nhìn mấy ngón tay đang cầm ly, những ngón tay gầy đã bắt đầu xanh xao gân lá, biết mình ở đây lâu lắm rồi. Đôi vai bỗng trĩu nặng như có bàn tay ai vô hình ấn xuống ghế. Thôi, đã đến đây rồi, thì ngồi xuống đây, còn đi đâu được nữa. Ngồi đây mà hồn như thác đổ, tiếng nước ầm ầm vọng tới từ một ký ức xa xôi, rồi bỗng òa ra khi chạm vào tảng đá cuối cùng, tảng đá tháng tư.
Tháng tư ở đây là mùa xuân, chim chóc rủ nhau bay vào thành phố, hoa đào nở hồng trên mỗi con đường, nắng mới lách mình vào những khung cửa mở, trong vườn nhà ai hoa táo, hoa lê trắng xóa. Những người Việt di tản như tôi, tháng tư không ít thì nhiều quay đầu nhìn lại quá khứ, nhớ lại những giọt nắng quê nhà năm đó hòa vào máu và nước mắt. Hoa nắng quê người chỉ làm gợi thêm nỗi xót xa.
Anh ạ tháng tư mềm nắng lụa
hoa táo hoa lê nở trắng vườn
quê nhà thăm thẳm sau trùng núi
em mở lòng xem lại vết thương
Chung quanh tôi, một vài bàn nhỏ có người ngồi trước tách cà phê và cái laptop.
Họ im lặng làm việc, học hay sáng tác. Có người với một tờ báo mở trước mặt, hay hai người bạn thì thào nho nhỏ. Quán tĩnh mịch, nghe được cả tiếng gõ khe khẽ của những ngón tay chạm trên bàn phím, thậm chí cả tiếng thở của người ngồi ở bàn gần mình.
Tôi ngồi với ly cà phê cạn. Tôi biết trang mạng của người Việt khắp nơi trên thế giới, vào mỗi tháng tư họ cũng trao đổi cho nhau trên khung hình nhỏ: những tấm hình đang bốc lửa, những khẩu súng đang nhả đạn.Tiếng người đang khóc, đang la vang, đang chạy hoảng loạn, đang giẫm lên nhau. Tiếng súng nổ, tiếng kêu thất thanh….Tất cả hiện ra trên khung hình nhỏ.
Trong một tiệm cà phê ở Mỹ. Tôi ngồi đó, ngửa mặt uống ngụm cà phê đen cuối cùng. Bỗng dưng má tôi ươn ướt. Nước mắt ứa ra từ hai con mắt, bờ mi đã bắt đầu sụp xuống như hai chiếc lá cuốn khô. Nước mắt của một người di tản vì chiến tranh lâu quá rồi, xót xa cho phận mình, phận người, phận quê hương đất nước.
Ba mươi tám năm rồi, mà thỉnh thoảng vẫn đọc được ở trên mạng, lẫn vào những bài vở giải trí, kiến thức hay nghệ thuật, những lời nhắn với nội dung thật buồn:
Một hài cốt với tên họ, ngày sinh và số quân đầy đủ của một quân nhân VNCH, ai đó vừa tìm được bên đường. Mong có thân nhân đến nhận. Nào ai biết thân nhân của bộ xương đó còn sống hay đã chết? Tin đó đến từ Việt Nam và đã chuyển đi nhiều lần.
Tin những người ở Mỹ về bốc mộ, một hố chôn tập thể của binh sĩ VNCH trong một sân trường hay bên cạnh một con mương.
Tin cả trăm bộ xương tìm thấy ở ven biển miền Trung không biết của bên này hay bên kia.
Rồi còn cả những tin như sĩ quan H.O qua đời ở Mỹ không có thân nhân, được những người trong cộng đồng phụ nhau mai táng.
Lời nhắn về một vị tá Hải Quân, có con ở Cali. Xác nằm trong bệnh viện Texas hai tuần rồi. Cha qua đời, con ở đâu chưa đến nhận.
Những dòng chữ như thế, thực sự là một “Tin Buồn” với ý nghĩa đúng nhất của nó.
Tháng Tư là tháng tôi sợ đọc, sợ xem hình trên mạng. Sợ nhìn lại những hình ảnh và đọc lại những bài viết kinh hoàng của những nạn nhân vượt biển; hình ảnh nghĩa trang quân đội bị đập phá trong tủi nhục; những câu chuyện thương tâm của tù nhân và nhà tù cải tạo; Sợ phải xem lại những hình ảnh của một thành phố mình đã sống và lớn lên bị tàn phá bởi chiến tranh; sợ những bức hình và tên tuổi, binh nghiệp của các tướng lãnh tự sát vào ngày cuối cùng, tôi sợ mỗi khi đọc thêm một danh sách tự vận của các cấp tá, cấp úy, các hạ sĩ quan. Họ tự sát riêng lẻ hay có khi cùng với vợ con. Những bức hình im lìm đó là những tiếng gào thét phẫn nộ của những anh hùng VNCH. Tôi không nhớ là mình đã đọc được câu này ở đâu: “Thật đáng thương cho một đất nước nào có quá nhiều anh hùng” vì anh hùng đồng nghĩa với hy sinh và cái chết.
Đau đớn nhất là bao giờ khi xem hình, khi đọc những bài viết xong, cuối cùng mình nhận thức rất rõ rệt: đó là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn.Người giết và người bị giết đều mang họ Nguyễn, họ Lê, họ Trần.
Ba mười tám năm rồi, người ta nói là Việt Nam đã hết chiến tranh, người dân đã có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nhưng trên mạng, người Việt trong và ngoài nước vẫn có những dòng chữ gửi đến cho nhau mang theo những thông điệp thật buồn: Việt Nam tôi đâu? Người dân mất nhà, mất đất. Gái Việt bán sang Đài Loan. Gái Việt xếp hàng lấy chồng Đại Hàn. Không có Tự Do cho Việt Nam. Ngư dân Việt bị tầu Trung Quốc bắt ngay trên biển của mình. Nước Việt âm thầm mất dần từng mảnh cho Trung Quốc….
Tháng tư, cà phê đắng, đắng thêm khi pha vào những giọt nước mắt vì nước mắt bao giờ cũng có muối ở trong. Nỗi đau tháng tư với một số đông người Việt ở thế hệ bạn hữu tôi, là một vết thương không thành sẹo được, nó lên da non, rồi ngưng lại ở đó. Nhìn xuống vẫn thấy màu hồng, vẫn thấy như còn rơm rớm máu.
Tôi cúi xuống nhìn chiếc ly không, tự lấy tay áo lau thầm những giọt nước mắt mình. Đứng dậy, trở về một nơi tôi gọi là nhà, tiếp tục sống với trái tim di tản.
Vạt nắng tháng tư chỉ bay xiên vào trong quán này một năm một lần, nhưng khi tôi đến đây, dù bất cứ tháng nào trong năm, hồn tôi, tháng tư có thể đến bất chợt ghé xuống và rơi cùng những giọt cà phê.
Anh ạ tháng tư sương mỏng lắm
sao em nhìn mãi chẳng thấy quê
hay sương thành lệ tra vào mắt
mờ khuất trong em mọi nẻo về….
CON TINH TINH THÔNG MINH
Tinh tinh
Chimpanzee - Pan
***
VIDEO
Hắc tinh tinh dắt chó Bulldog
Kanzi, con tinh tinh lùn 31 tuổi với khả năng tự nhóm lửa để nấu chín thức ăn, cũng như hiểu được những điều con người nói… đã khiến không ít người phải thán phục và ngạc nhiên vì trí thông minh của chú.
Con tinh tinh Kanzi là 1 trong 8 con linh trưởng thuộc loài tinh tinh lùn đang được chăm sóc tại trường Đại học bang Georgia (Mỹ), dưới sự quản lý của tiến sĩ Sue Savage-Rumbaugh, một trong những chuyên gia hàng đầu nghiên cứu về hành vi và ngôn ngữ của tinh tinh. Bà tin rằng con tinh tinh 31 tuổi này có niềm đam mê đặc biệt với lửa và một trí thông minh sâu sắc.
Kanzi đang tự mình đi tìm củi khôChú tinh tinh này biết cách tự mình kiếm củi trên mặt đất, bẻ nhỏ chúng ra thành từng khúc nhỏ và cẩn thận sắp xếp chúng thành đống. Sau đó, Kanzi còn biết cách sử dụng diêm một cách thành thạo mà không để lửa bén vào tay mình, sau đó tự mình nhóm lửa để nấu đồ ăn.
Bẻ nhỏ những cành củi trước khi sắp xếp thành đốngMặc dù loài tinh tinh thường sử dụng cành và lá cây như những công cụ để chế biến thức ăn, nhưng chưa từng có con tinh tinh nào có khả năng đặc biệt và biết cách sử dụng lửa để nấu chín thức ăn như Kanzi.
Cẩn thận sắp xếp thành đống củi trước khi nhóm lửaTiến sĩ Savage-Rumbaugh cho biết: “Kanzi tạo ra lửa vì nó muốn làm như vậy. Nó đã từng xem những hình ảnh về cách thức con người sử dụng diêm và tạo ra lửa hàng trăm lần để đã có thể học theo”.
“Nó cũng rất cuốn hút với việc đốt lửa trại từ đống củi khô. Ngay từ khi mới 5 tuổi, Kanzi đã biết cách sắp xếp để tạo nên một đống củi hoàn chỉnh”.
Sử dụng diêm một cách thành thạo để không bị bỏngSau đó, chú tinh tinh này được dạy cách sử dụng diêm và đã học được một cách nhanh chóng. Thậm chí chú tinh tinh còn sử dụng diêm một cách cẩn thận để không làm bỏng chính mình và giữ cho ngọn lửa được cháy, giống như những điều mà con người vẫn thực hiện.
Sử dụng lửa một cách khéo léo để nấu chính thức ăn
Tận hưởng món ăn sau khi đã nấu chín“Lửa là một trong những yếu tố quan trọng nhất của quá trình tiến hóa” - Tiến sĩ Savage-Rumbaugh nói - “Khi con người biết cách tạo ra và sử dụng lửa, chúng ta bắt đầu cảm thấy an toàn hơn và sáng tạo nên những cái mới, những nền văn hóa cao cấp hơn”.
Kanzi không chỉ biết cách giữ cho ngọn lửa cháy và nhóm thành một đống lửa, mà chú còn biết cách để nấu chín thức ăn. Chẳng hạn như biết sử dụng một thanh củi dài để xâu thức ăn vào đó và nướng chín trên đống lửa một cách cẩn thận để đảm bảo thức ăn không bị cháy. Thậm chí chú tinh tinh này còn biết cách sử dụng lò nướng để làm bánh mì kẹp thịt.
Để dập tắt đóm lửa, tiến sĩ Savage-Rumbaugh đưa cho chú một chai nước, lập tức Kanzi biết cách sử dụng nước để đổ lên ngọn lửa và chờ cho ngọn lửa tắt hẳn.
Sử dụng các công cụ nấu ăn một cách thành thụcCác nhà khoa học đánh giá rằng khả năng và trí thông minh của Kanzi vượt xa hơn hẳn những con tinh tinh khác đang được chăm sóc và nghiên cứu.
Bên cạnh khả năng sử dụng lửa và nấu chín thức ăn, Kanzi còn giao tiếp với tiến sĩ Savage-Rumbaugh thông qua một bán phím giấy. Trên đó có vẽ những biểu tượng, mà trong những cuộc nói chuyện, Kanzi sẽ chỉ vào đó, mà mỗi biểu tượng sẽ đại diện cho một từ nhất định.Hiện chú tinh tinh này đã học để “nói” được 500 từ khác nhau thông qua bàn phím giấy này và có thể hiển được hơn 3 ngàn từ khác nhau.
Chú tinh tinh Kanzi và tiến sĩ Savage-RumbaughVì sự an toàn, Kanzi chỉ được phép nhóm lửa và nấu thức ăn dưới sự giám sát chặt chẽ. Nhưng sự thông minh của chú tinh tinh này cũng đã gợi lên nhiều câu hỏi thú vị.Điều gì sẽ xảy ra nếu Kanzi được thả trở lại vào tự nhiên, và những con tinh tinh lùn khác có thể học theo các hành vi của Kanzi để làm chủ ngọn lửa? Liệu tinh tinh lùn có khả năng làm chủ ngọn lửa giống như tổ tiên chúng ta trước đây?
Tinh tinh lùn hiện là một trong những loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất, với chỉ khoảng 10 ngàn đến 50 ngàn cá thể đang sống trong tự nhiên, tất cả tập trung tại nước công hòa Congo ở châu Phi. Tinh tinh lùn là loài động vật duy nhất có bản đồ ADN giống chúng ta đến 99%.
***
Vào ngày 16:25 Thứ Hai, 28 tháng 4 2014, Khanh đã viết:
NHỮNG VẦN THƠ ĐẮNG THÁNG TƯ BUỒN
(Thay lời một vị thương phế binh VNCH đang kẹt ở VN gửi người bạn cũ ngày xưa
đã vượt biên nhưng nay lại viện dẫn đủ mọi lý do để về vui chơi)
Gửi nhờ tập vé số trên tay,
Chống nạng đến đây để gặp mày.
Hụt hẫng thấy mày ngồi giữa quán,
Đang cùng bầy cán bộ vui say.
Không muốn bị mang tiếng quấy rầy,
Khi lòng đang thất vọng chua cay,
Nên đành mượn tạm vài trang giấy,
Viết bậy đôi câu gửi tới mày.
Mày hãy cùng tao nhớ lại ngày,
Cùng mày trong bóng tối chia tay,
Mày thề rằng nếu Trời cho thoát,
Mày ắt không quên mối hận này.
Từ đó, trong đau đớn dập vùi,
Bọn tao mòn mỏi đợi tin vui.
Ngờ đâu hạnh phúc lùi xa mãi,
Nghĩ đến Quê Hương lại ngậm ngùi.
Mày trở về chơi đã lắm lần,
Lúc thì viện cớ gặp người thân,
Lúc theo "từ thiện" tìm danh vọng,
Hí hửng vô tròng bọn ác nhân.
Hàng vạn hàng trăm các hội đoàn,
Tranh đua làm thiện thật gian nan.
Hân hoan vì chút hào quang giả,
Họ đã an nhiên giúp bạo tàn.
Mày cũng lần theo đóm múa may,
Hết quà lại cáp phát rền tay.
Tiền Tây, tiền Mỹ xài như rác,
Lầu các thi nhau mọc dẫy đầy.
Mày biết dân đây được những gì,
Khi đoàn cứu trợ đã ra đi?
Đất đai ngập lụt, nhà tan nát,
Ngơ ngác trên tay một gói mì!
Biết chăng vì những đứa như mày,
Sự thật quê nhà chẳng chịu hay,
Hãnh diện ta đây về "cứu viện",
Nên bầy quỷ đỏ hiện còn đây.
Mày có biết mày đã tiếp tay,
Nuôi dân cho chúng để rồi nay,
Chúng càng thêm có đầy phương tiện,
Để khiến dân ta mãi đọa đày.
Cả bầy chúng vẫn sống xa hoa,
Xuất ngoại đầu tư, sắm sửa nhà,
Con cái tiêu ra hàng bạc triệu,
Đồng tiền đó liệu lấy đâu ra?
Mày so với chúng được bao lăm,
Tỷ phú tiền Tây chúng cả trăm.
Của cải một thằng trong Bắc phủ,
Thừa nuôi dân sống đủ nhiều năm.
Phải chăng vì cật ấm cơm no,
Mày lại mơ màng chức vị to,
Nên mới trở cờ o bế giặc,
Qua sông ngoảnh mặt với con đò?
Tao xót xa nhìn lũ bạn thân,
Ngày xưa vượt biển lắm gian truân,
Nay khuân tiền bạc về quê cũ,
Góp sức nuôi bè lũ hại dân.
Bạn mình giờ lắm kẻ giàu sang,
Áo gấm xênh xang rộn xóm làng.
Có đứa vênh vang bằng cấp lớn,
Hùa theo lũ ngợm chống Cờ Vàng.
Có thằng may mắn lắm đồng ra,
Thơ thới về đây, bỏ vợ nhà.
Có đứa làm sui gia với giặc,
Ra ngoài trở mặt líu lo ca.
Thấy miệng mày thoa mỡ nói năng,
Lòng tao chua xót chợt hay rằng,
Xuống thuyền mấy đứa đêm hôm đó,
Giờ đã "vinh quy" đủ bấy thằng!
Tao tưởng bao năm ở nước ngoài,
Chúng mày phải biết rõ hơn ai,
Ngày ngày đọc thấy nhiều tin tức,
Sao lại vô tâm được thế này?
Lần cuối cho tao nói một lời:
Nếu còn người trở lại ăn chơi,
Đua đòi danh lợi, buôn "từ thiện",
Thì chớ mơ chi chuyện vá trời.
Nắng chiều cuốn xác lá trôi,
Bóng đôi nạng gỗ đơn côi ngược dòng.
Chùm thơ Quốc Nam số 6.
Đưa Mẹ Về Quê Hương.
Bao năm ta ngồi chân trời xa lạ,
Với linh hồn mang tuổi lớn đau thương.
Trời tháng tư mây đen phủ trong lòng,
Tin "kháng chiến" cho ta bừng tin tưởng.
Hãy hiên ngang như cây rừng đứng thẳng,
Hãy hiên ngang như cây rừng đứng thẳng,
Đốn ngã giặc thù giành đất quê hương.
Tuổi trẻ Việt làm chiến công thần thánh,
Lòng dân ta là sức mạnh khôn cùng...
Bao năm qua ta âm thầm dấn bước,
Giữa đồng hoang của phấn đấu không tàn.
Kiếp lưu đày kéo rời rã tâm can,
Nuôi ước vọng một mai về phục quốc.
Hỡi anh Kháng Chiến trên đường đất nước,
Hôn giùm ta mảnh đất cũ sân trường,
Hàng giậu tre và bóng nắng ven sông,
Tiếng cá động chao lục bình xuôi ngược...
Mẹ ở đây gọi tên ta thức giấc,
Chốn quê người Mẹ mãi mãi ước mơ...
Về lại làng xưa đèn nến hương thờ,
Tổ Tiên đã hàng trăm năm khổ nhục.
Mẹ ở Hoa Kỳ như cây rã mục,
Ta đứng bên trời thương Mẹ vô biên.
Lòng Mẹ héo hon, thở nhọc từng đêm,
Rồi nằm xuống cho thiên thu uất nghẹn.
Mộ của Mẹ giờ xanh màu thánh thiện,
Nắm xương tàn đã gởi gấm trời Tây.
Ta xin thề trên mộ Mẹ hôm nay
Quyết đưa Mẹ về bên mồ Tiên Tổ.
Ta gọi tên Mẹ nhiều đêm tuyết đổ,
Nước mắt lưu vong ray rứt lòng nhau.
Đời thi nhân vấn tang trắng cúi đầu
Vắt máu tim thành thơ dâng Tổ Quốc.
QUỐC NAM
Kẻ Đào Ngũ Của Quê Hương Khổ Đau.
Tôi xin làm mây xanhTrên cánh đồng cố xứÔm giấc mộng thanh bình
Quên một thời nhục nhã.
Tôi nhục nhã trong tôi
Kẻ bỏ nước ra đi
Bỏ anh em ở lại
Bỏ đồng đội gian nguy.
Tôi thành kẻ đào ngũ
Một thân phận quá hèn
Đâu bóng vang ngày cũ
Tay súng chiều lênh đênh.
Tôi thèm chết trong tôi
Một đời trai buồn tủi
Tôi ngơ ngác nghẹn lời
Xin cúi đầu nhận tội.
Ngày xưa tôi can trường
Sao bây giờ yếu đuối
Tôi xúc động dễ dàng
Nước mắt tuôn thành suối
Khi nghe chuyện quê hương
Triệu hồn linh tức tưởi!
Hỡi những người tuổi trẻ
Hãy nghe tiếng tim tôi
Hãy giúp tôi trở lại
Việt Nam - Quê hương ơi!
Giữa rừng người hương hoa
Tôi làm thân tội lỗi
Xin Mẹ Việt thứ tha
Xin anh em, đồng đội
Viết Thiên Anh Hùng Ca
"Dựng người và cứu nước".
Xin cho tôi được chết
Nơi quê hương Việt Nam
Máu chúng tôi sẽ kết
Trang sử mới huy hoàng
Trong lòng dân tộc Việt.
QUỐC NAM
Cho Con, Quê Hương Sẽ Lớn.Viết cho con lời trần tình thống khổ,
Tháng tư chào đời con biết gì không?
Bố xuôi tay buông súng bỏ quê hương,
Ngàn nỗi hận dồn trái tim rướm máu.
Đã bao năm bố quên đời hưởng thụ,
Bốn chục tuổi đầu tóc bỗng điểm sương.
Nhìn con trai trong êm ấm nôi hồng,
Bố muốn thét cho niềm vui òa vỡ.
Con lớn lên chia ước mơ cùng bố:
Một ngày nao quét sạch lũ Cộng Nô...
Việt Nam ơi! Thương biết đến bao giờ,
Bố con ta về dựng người cứu nước.
Nước mắt đong đầy ghi dấu trăm năm.
Linh hồn bố lang thang loài chim biển,
Triệu người lưu vong gọi mãi Việt Nam.
Nhưng quê ta ngày mai rồi lớn dậy,
Khúc hát thanh bình rộn rã không gian.
Linh hồn bố lang thang loài chim biển,
Triệu người lưu vong gọi mãi Việt Nam.
Nhưng quê ta ngày mai rồi lớn dậy,
Khúc hát thanh bình rộn rã không gian.
QUỐC NAM
(Tháng 4/1984)
Giữ Lửa Quê Hương.
Đã mấy năm qua ta hỏi em:
Mùa xuân hờ hững đến bên thềm.
Hay trời xứ lạ lòng ta buốt?
Có sóng trùng dương trong mắt đêm.
Dừng bước năm năm Seattle,
Tâm tư chùng lắng mỗi hoàng hôn.
Ta mơ một sớm về quê mẹ,
Quên những đêm dài lệ héo hon.
Ta vẫn yêu em như mới
gặp,
Tưởng như nước Mỹ cõi
thiên đường.
Hôn em giữa gối chăn
nhung lụa,
Mà thấy dâng cao nỗi
tủi buồn.
Ta tủi thân trai nợ áo
cơm,
Anh em đồng đội chết
dần mòn
Trong lò lửa đỏ quê
hương đó,
Em hãy cùng ta đốt lửa
hồng.
Giữ lửa cho nhau em
hỡi em,
Để ta yêu mãi dáng
ngoan hiền.
Hỡi người tình trẻ
xuân kiều diễm,
Tiếng hát em vang dậy
khắp miền.
Lòng ta một góc trời u
tối,
Có bóng chim côi lượn
cuối đời.
Ta mỏi mòn đi tìm nắng
mới,
Xuân hồng kết nụ...
hỡi quê ơi!
Chỉ là giấc mộng đêm
vần vũ,
Đôi mắt quê hương đẹp
lạ thường.
Em nhé cất lời ca ngọt
dịu,
Cho bằng hữu ta cõi tù
chung.
Đã mấy năm qua ta hỏi
em:
Tết này ai lạnh lẽo
bưng biền...
Giúp ta một buổi đăng
trình sớm,
Cắm lại Cờ Vàng trên
đất thiêng.
QUỐC NAM
(Seattle, Tết Quí Hợi
1983)
Nói Với Cha.
Con thưa Cha bao năm rồi xa xứ,
Đời còn gì cho một kiếp lưu vong.
Con giam thân trong vạn nỗi tủi buồn,
Quê hương đó, xa nửa vòng trái đất.
Cha ở đây ngày mỏi mòn héo hắt,
Đêm nghe mưa gõ nhịp buốt linh hồn.
Cha thở dài trong nỗi nhớ mênh mông,
Từng khuôn mặt cháu/con, thành máu đỏ.
Lửa đốt cháy bao giấc mơ động vỡ,
Tiếng anh con từ một góc ngục tù:
"Cha mẹ ơi!" rồi tắt lịm thiên thu.
Cha kể lại, với mắt thù hiển hiện.
Ngày con bé, Cha rào làng kháng chiến,
Đồn Thủy Nhai (1) thành tuyến máu Cộng quân.
Cha làm anh hùng ngang dọc một vùng,
Giữ làng xóm yên vui đồng lúa chín.
Con lớn lên lao mình vào cuộc chiến
Tiếp nối nghiệp Cha cơ cực trăm đường.
Máu của con đã nhuộm thắm cánh đồng,
Và chung cuộc là một đời đen đắng.
Con thương cha nhiều, tuổi già cô quạnh,
Mẹ héo gầy ngồi trên chiếc xe lăn.
Đền ơn Cha con đã quyết dấn thân,
Đáp nghĩa Mẹ con theo cờ “Đại Nghĩa”.
Bao năm lưu vong xứ người xa lạ,
Con của Mẹ Cha đời vẫn trắng tay,
Nhưng trong tim yêu thương vẫn ứa đầy,
Riêng Dân Tộc và quê hương nghiệt ngã.
Vui sao được, hàng triệu người giãy giụa,
Trong gông cùm loài Quỷ Đỏ gian manh.
Cha nhìn con như gởi gấm ý thành:
Trời Hà Nội... tung bay cờ Phục Quốc.
Ngày phải đến, thưa Cha, lâu sao được,
Huế - Saigon - Hà Nội, nối liền tay.
Con sẽ đưa Mẹ Cha về cố quốc, Nước Mắt thanh bình rực rỡ
Hỡi Việt Nam, hãy chờ ngày giải phóng,
Trường Sơn ơi, hãy chận bước quân thù.
Cờ Tự Do tung bay mùa đại thắng.
Tuổi trẻ Việt, thưa Cha, sẽ dựng cờ...
Máu chúng con quyết xoay vần lịch sử.
QUỐC NAM
(Seattle 30/4/1980)
(1)
Thuỷ Nhai là một làng kháng chiến chống Việt Cộng nổi tiếng ở Xuân
Trường tỉnh Nam Định suốt 8 năm trước ngày chia đôi đất nước (1954)
(2) Cha mẹ già của tác giả từ lâu đã yên giấc ngàn thu tại Seattle tiểu bang Washington.
THĂM MỒ BẠN CŨ
NGUYỄN THANH KHIẾT
Tao rót
cho mầy nửa ly thôi
để nửa kia tế cáo đất trời
tế thiên hạ, tế người cùng giống...
tế tao, tế mầy, tế núi sông
để nửa kia tế cáo đất trời
tế thiên hạ, tế người cùng giống...
tế tao, tế mầy, tế núi sông
tao nhớ cái ngày ta
thua trận
giặc đuổi sau lưng, pháo nổ bầy
một cái poncho gói mầy giữa núi
đất đấp vội vàng lộ cả thây
giặc đuổi sau lưng, pháo nổ bầy
một cái poncho gói mầy giữa núi
đất đấp vội vàng lộ cả thây
ngày nầy năm đó mầy chết trận
năm đó ngày nầy - tao kẻ thua
nát áo về thành - thành đã mất
nhục rửa làm dơ mấy cảnh chùa
năm đó ngày nầy - tao kẻ thua
nát áo về thành - thành đã mất
nhục rửa làm dơ mấy cảnh chùa
Uống đi mầy uống nửa ly thôi
chia với tao những đắng cay nầy
mấy mươi năm - cái đời cơm áo
tao sống còn - nửa tỉnh nửa say
chia với tao những đắng cay nầy
mấy mươi năm - cái đời cơm áo
tao sống còn - nửa tỉnh nửa say
chỉ tội thân mầy nằm ở đây
mả lệch mồ xiêu đã bao ngày
tấm bia vỏn vẹn hai cây chéo
nợ nước thù nhà trả hai tay
mả lệch mồ xiêu đã bao ngày
tấm bia vỏn vẹn hai cây chéo
nợ nước thù nhà trả hai tay
Thì cứ nằm đây như lúc xưa
mặc núi, mặc rừng, mặc gió mưa
mặc nước, mặc non thay tên chủ
mặc cho trăm họ sống như thừa
mặc núi, mặc rừng, mặc gió mưa
mặc nước, mặc non thay tên chủ
mặc cho trăm họ sống như thừa
tao rót
thêm mầy nửa ly sau
rải nửa ly nói với núi rừng
bên mồ người trẻ - xưa chết trận
bạn cũ về thăm dòng lệ rưng
rải nửa ly nói với núi rừng
bên mồ người trẻ - xưa chết trận
bạn cũ về thăm dòng lệ rưng
Mai mốt nầy nếu có cơ may
tao đưa mầy lên chỗ gần mây
có biển xanh gió lùa vách đá
mặt trời lên rực rỡ ngày ngày
tao đưa mầy lên chỗ gần mây
có biển xanh gió lùa vách đá
mặt trời lên rực rỡ ngày ngày
mầy sẽ thấy bên kia
phía biển
đông lắm bạn bè bỏ xứ đi
đứa giống con hoang - xin giữa chợ
thằng như ở chực - chẳng ra gì
đông lắm bạn bè bỏ xứ đi
đứa giống con hoang - xin giữa chợ
thằng như ở chực - chẳng ra gì
thôi kệ - nằm đây giữ dùm tao
một cái giang sơn thấm máu đào
một lá cờ vàng ba sọc đỏ
mấy đời vì nó - mấy đời đau
một cái giang sơn thấm máu đào
một lá cờ vàng ba sọc đỏ
mấy đời vì nó - mấy đời đau
TIN TỨC
Thâm hụt mậu dịch của Mỹ với TQ là do gia công ra nước ngoài
Giám
đốc điều hành Apple Tim Cook (trái) thăm dây chuyền sản xuất iPhone tại
cơ sở sản xuất Foxconn ở Trung Quốc. Các công ty lớn của Mỹ như Apple
sản xuất tại Trung Quốc, nhưng bán sản phẩm tại Hoa Kỳ.
NEW YORK — Từ nhiều năm nay, các công ty
Trung Quốc bán được số hàng hóa tại Hoa Kỳ cao nhiều hơn so với số
hàng hóa mà các công ty Mỹ bán được tại Trung Quốc. Mức thâm hụt mậu
dịch này lên tới 318 tỉ vào năm 2013, nhưng theo lời tường thuật của
thông tín viên Bernard Shusman của VOA từ New York, có một số dấu hiệu
cho thấy là tình hình này đang thay đổi.
Các tàu bè neo ở các bến cảng Mỹ mang vào Hoa Kỳ hàng hóa từ Trung Quốc nhiều hơn so với lượng hàng hóa mà Hoa Kỳ xuất khẩu sang quốc gia Á Châu này. Một lý do chủ yếu là rất nhiều công ty Mỹ đã chuyển khâu sản xuất của họ sang Trung Quốc, một tiến trình được gọi là “outsourcing,” tức là chuyển một phần chức năng hay dịch vụ của công ty gia công ra nước ngoài. Nhiều người Mỹ đã mất công ăn việc làm vì hiện tượng này. Nhưng bà Rosemary Coates thuộc công ty cố vấn Bluesilk, người từng giúp các công ty Mỹ gia công ra nước ngoài, nói bà đã chứng kiến một số thay đổi. Bà nói:
“Giữa lúc Trung Quốc xây dựng nền tảng sản xuất công nghiệp của họ, nước này trở nên rất hấp dẫn, cho nên sản xuất chế tạo tại đó không những ít tốn kém hơn, mà tất cả các nhà cung cấp cũng đều có mặt tại đó, toàn bộ cơ sở hạ tầng đều ở đó. Nhưng chúng ta giờ đây đang chứng kiến tình hình này đảo ngược. Trong một, hai năm qua, có nhiều chú ý về việc chuyển về nước trở lại khâu chế tạo sản xuất hay các dịch vụ đã được gia công ra nước ngoài.”
Hiện tượng này tiếng Anh gọi là re-shoring, có nghĩa là mang khâu chế tạo sản xuất hay dịch vụ về lại Hoa Kỳ. Trong khi đi thăm một số cửa hàng bán lẻ ở New York, bà Coates nói rằng người tiêu thụ đóng một vai trò chủ yếu trong việc quyết định các sản phẩm mà họ mua sẽ được sản xuất ở đâu.
“Thực ra, giá giày dép có thể tăng, nếu chúng được sản xuất tại Hoa Kỳ, sử dụng các vật liệu Mỹ, nhưng chúng tôi dự kiến trong phần lớn trường hợp sẽ có thể điều chỉnh để giá cả chỉ xê dịch trong vòng từ 10% tới 15% so với giá quốc tế. Cho nên trong tư cách là người tiêu dùng Mỹ, quý vị phải quyết định liệu mình có muốn trả giá cao hơn từ 10% tới 15% để mua một sản phẩm sản xuất ngay tại nước Mỹ, hay không.”
Các tàu bè neo ở các bến cảng Mỹ mang vào Hoa Kỳ hàng hóa từ Trung Quốc nhiều hơn so với lượng hàng hóa mà Hoa Kỳ xuất khẩu sang quốc gia Á Châu này. Một lý do chủ yếu là rất nhiều công ty Mỹ đã chuyển khâu sản xuất của họ sang Trung Quốc, một tiến trình được gọi là “outsourcing,” tức là chuyển một phần chức năng hay dịch vụ của công ty gia công ra nước ngoài. Nhiều người Mỹ đã mất công ăn việc làm vì hiện tượng này. Nhưng bà Rosemary Coates thuộc công ty cố vấn Bluesilk, người từng giúp các công ty Mỹ gia công ra nước ngoài, nói bà đã chứng kiến một số thay đổi. Bà nói:
“Giữa lúc Trung Quốc xây dựng nền tảng sản xuất công nghiệp của họ, nước này trở nên rất hấp dẫn, cho nên sản xuất chế tạo tại đó không những ít tốn kém hơn, mà tất cả các nhà cung cấp cũng đều có mặt tại đó, toàn bộ cơ sở hạ tầng đều ở đó. Nhưng chúng ta giờ đây đang chứng kiến tình hình này đảo ngược. Trong một, hai năm qua, có nhiều chú ý về việc chuyển về nước trở lại khâu chế tạo sản xuất hay các dịch vụ đã được gia công ra nước ngoài.”
Hiện tượng này tiếng Anh gọi là re-shoring, có nghĩa là mang khâu chế tạo sản xuất hay dịch vụ về lại Hoa Kỳ. Trong khi đi thăm một số cửa hàng bán lẻ ở New York, bà Coates nói rằng người tiêu thụ đóng một vai trò chủ yếu trong việc quyết định các sản phẩm mà họ mua sẽ được sản xuất ở đâu.
“Thực ra, giá giày dép có thể tăng, nếu chúng được sản xuất tại Hoa Kỳ, sử dụng các vật liệu Mỹ, nhưng chúng tôi dự kiến trong phần lớn trường hợp sẽ có thể điều chỉnh để giá cả chỉ xê dịch trong vòng từ 10% tới 15% so với giá quốc tế. Cho nên trong tư cách là người tiêu dùng Mỹ, quý vị phải quyết định liệu mình có muốn trả giá cao hơn từ 10% tới 15% để mua một sản phẩm sản xuất ngay tại nước Mỹ, hay không.”
Các công ty lớn của Mỹ như Apple sản xuất tại Trung Quốc, nhưng bán sản
phẩm tại Hoa Kỳ. Các công ty như GE, Dell và các công ty khác cũng thế.
Tại Washington, giữa lúc tỷ lệ thất nghiệp lên tới mức 6,7%, vấn đề sản
xuất và công ăn việc làm đã trở thành một vấn đề chính
trị.
Theo Giáo sư Natalia Levina thuộc trường Đại học New York, có những lý
do chính đáng về kinh doanh để đưa việc sản xuất trở lại lục địa Hoa
Kỳ.
Tàu Trung Quốc đưa hàng xuống
bến cảng ở Mỹ.
“Một trong những lý do là năng xuất cao hơn của lực lượng lao động Mỹ, với sự trợ giúp của những tiến bộ trong công nghệ điện toán. Các lý do khác có thể là nhu cầu cần duy trì mức tồn kho thấp, có nghĩa là sản xuất chế tạo phải gần với thị trường tiêu thụ.”
Tuy nhiên, giá lao động rẻ ở Trung Quốc và tại các nước khác vẫn tiếp tục kiềm hãm việc chuyển sản xuất chế tạo về lại nước Mỹ trong tương lai gần, theo bà Coates.
“Đây không phải là một vấn đề đơn giản là chặt đi bộ phận sản xuất và mang nó về lại Hoa Kỳ. Đây thực sự là một tiến trình cần được suy tính, về thiết kế, tự động hóa máy móc, đổi mới và địa phương hóa sản phẩm, rồi sau đó mới có thể sản xuất hàng hóa cho thị trường địa phương.”
Giữa lúc các hàng nhập khẩu Trung Quốc tiếp tục đổ xuống các bến cảng nước Mỹ, các nhà phân tích nói rằng sẽ cần tới sự sáng tạo trong kinh doanh để khai triển các sản phẩm mới, các thị trường mới và các các công ăn việc làm mới cho người Mỹ.
Tổng thống Obama chỉ trích Trung Quốc trước khi rời Châu Á
Tổng thống Obama phát biểu trước các binh sĩ Hoa Kỳ và Philippines tại căn cứ quân sự Bonifacio ở Manila, ngày 29/4/2014.
Tin liên hệ
CỠ CHỮ
29.04.2014
Tổng thống Barack Obama ngầm chỉ trích mạnh mẽ chính sách ngoại giao
của Trung Quốc hôm nay khi ông kết thúc chuyến đi thăm 4 nước châu Á kéo
dài một tuần lễ.
Nói chuyện trước các binh sĩ Hoa Kỳ và Philippines trước khi rời Manila, Tổng thống Obama nhắc lại lập trường lâu nay của chính quyền của ông về những tranh chấp trên biển của Trung Quốc.
Tổng thống Obama nói ông tin là tất cả các quốc gia và người dân có quyền sống trong an ninh và hòa bình và chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được tôn trọng.
Hoa Kỳ cũng tin là tất cả luật lệ quốc tế phải được gìn giữ và quyền tự do hàng hải phải được tôn trọng và thương mại không bị ngăn trở. Hoa Kỳ tin là những tranh chấp phải được giải quyết một cách hòa bình và không bị đe dọa hay dùng vũ lực.
Nhận định không đề cập đích danh Trung Quốc, được đưa ra một ngày sau khi Washington và Manila ký một thỏa thuận quốc phòng mới mở rộng sự hiện diện quân sự của Mỹ tại quốc gia Thái Bình Dương này.
Tổng thống Obama nhấn mạnh là cam kết của Hoa Kỳ bảo vệ Philippines là “giáp sắt”. Ông nhắc đến hiệp ước năm 1951 trong đó hai nước đồng ý bảo vệ cho nhau trong trường hợp bị tấn công.
Quan hệ quân sự chặt chẽ hơn giữa hai nước được xem như là để đáp ứng với Bắc Kinh, hiện đang có tranh chấp ngày càng xấu đi với Manila về vùng lãnh thổ tại Biển Hoa Nam, tức Biển Đông.
Thông tín viên Tòa Bạch Ốc của Đài VOA Luis Ramirez, cùng đi với Tổng thống Obama nói thỏa thuận biểu hiện cho 'điểm cao' của chuyến đi của Tổng thống.
Tháp tùng chuyến công du của Tổng thống, thông tín viên VOA Luis Ramirez nói Hoa Kỳ đã ký được một thỏa thuận quốc phòng mang binh sĩ Mỹ trở lại đảo quốc này với qui mô lớn kể từ khi Hoa Kỳ đóng cửa các căn cứ quân sự thường trực tại Philippines cách đây hơn hai thập niên.
Ngày hôm qua, Tổng thống Obama nói thỏa thuận an ninh mới không có nghĩa là 'chống lại' hay 'kiểm soát' Trung Quốc. Nhưng việc này không làm giảm bớt những lo ngại của nhiều nhà lãnh đạo Trung Quốc.
Lo ngại này được bày tỏ trong nhiều bài xã luận của những tờ báo do nhà nước Trung Quốc kiểm soát, dù không phải những tuyên bố chính thức nhưng thường phản ánh lập trường của chính phủ.
Tờ Trung Hoa Thời báo nói chuyến đi của Tổng thống Obama cho thấy 'rõ ràng là Washington ngày càng xem Bắc Kinh như là một đối thủ'. Tờ báo cáo buộc Hoa Kỳ 'kết hợp với những đồng minh gây rối' và nói việc này là 'mối đe dọa an ninh đối với Trung Quốc'.
Tân Hoa Xã cơ quan ngôn luận chính thức của chính phủ Trung Quốc ngày hôm qua nói thỏa thuận Hoa Kỳ-Philippines 'đặc biệt đáng lo ngại vì có thể che chở cho Manila đối phó với Bắc Kinh và có thể giúp Hoa Kỳ ủng hộ Philippines để “đối đầu với Trung Quốc'.
Thỏa thuận có hiệu lực trong 10 năm sẽ cho phép sự hiện diện về an ninh lớn hơn của Hoa Kỳ tại đảo quốc này và luân chuyển binh sĩ Mỹ và trang bị như tàu chiến và máy bay chiến đấu tại các căn cứ quân sự Philippines. Không có căn cứ mới của Mỹ được xây dựng và cũng không có căn cứ quân sự cũ của Mỹ được sử dụng trở lại theo thỏa thuận này.
Tuần trước, Bắc Kinh cũng phẫn bộ vì Tổng thống Obama ký một tuyên bố công khai công nhận một nhóm đảo đang tranh chấp tại Biển Đông Trung Hoa nằm trong phạm vi bảo vệ của một hiệp ước phòng thủ hỗ tương với Nhật Bản. Hiệp ước buộc Hoa Kỳ phải bảo vệ cho Tokyo nếu bị tấn công.
Philippines và Nhật Bản có liên hệ đến hai trong những vụ tranh chấp lãnh thổ gay cấn giữa Trung Quốc và các nước láng giềng. Những quốc gia khác ở châu Á cũng cáo buộc Trung Quốc sử dụng sự lớn mạnh về quân sự để đe dọa, hay sử dụng vũ lực để chiếm các khu vực tranh chấp.
Nói chuyện trước các binh sĩ Hoa Kỳ và Philippines trước khi rời Manila, Tổng thống Obama nhắc lại lập trường lâu nay của chính quyền của ông về những tranh chấp trên biển của Trung Quốc.
Tổng thống Obama nói ông tin là tất cả các quốc gia và người dân có quyền sống trong an ninh và hòa bình và chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được tôn trọng.
Hoa Kỳ cũng tin là tất cả luật lệ quốc tế phải được gìn giữ và quyền tự do hàng hải phải được tôn trọng và thương mại không bị ngăn trở. Hoa Kỳ tin là những tranh chấp phải được giải quyết một cách hòa bình và không bị đe dọa hay dùng vũ lực.
Nhận định không đề cập đích danh Trung Quốc, được đưa ra một ngày sau khi Washington và Manila ký một thỏa thuận quốc phòng mới mở rộng sự hiện diện quân sự của Mỹ tại quốc gia Thái Bình Dương này.
Tổng thống Obama nhấn mạnh là cam kết của Hoa Kỳ bảo vệ Philippines là “giáp sắt”. Ông nhắc đến hiệp ước năm 1951 trong đó hai nước đồng ý bảo vệ cho nhau trong trường hợp bị tấn công.
Quan hệ quân sự chặt chẽ hơn giữa hai nước được xem như là để đáp ứng với Bắc Kinh, hiện đang có tranh chấp ngày càng xấu đi với Manila về vùng lãnh thổ tại Biển Hoa Nam, tức Biển Đông.
Thông tín viên Tòa Bạch Ốc của Đài VOA Luis Ramirez, cùng đi với Tổng thống Obama nói thỏa thuận biểu hiện cho 'điểm cao' của chuyến đi của Tổng thống.
Tháp tùng chuyến công du của Tổng thống, thông tín viên VOA Luis Ramirez nói Hoa Kỳ đã ký được một thỏa thuận quốc phòng mang binh sĩ Mỹ trở lại đảo quốc này với qui mô lớn kể từ khi Hoa Kỳ đóng cửa các căn cứ quân sự thường trực tại Philippines cách đây hơn hai thập niên.
Ngày hôm qua, Tổng thống Obama nói thỏa thuận an ninh mới không có nghĩa là 'chống lại' hay 'kiểm soát' Trung Quốc. Nhưng việc này không làm giảm bớt những lo ngại của nhiều nhà lãnh đạo Trung Quốc.
Lo ngại này được bày tỏ trong nhiều bài xã luận của những tờ báo do nhà nước Trung Quốc kiểm soát, dù không phải những tuyên bố chính thức nhưng thường phản ánh lập trường của chính phủ.
Tờ Trung Hoa Thời báo nói chuyến đi của Tổng thống Obama cho thấy 'rõ ràng là Washington ngày càng xem Bắc Kinh như là một đối thủ'. Tờ báo cáo buộc Hoa Kỳ 'kết hợp với những đồng minh gây rối' và nói việc này là 'mối đe dọa an ninh đối với Trung Quốc'.
Tân Hoa Xã cơ quan ngôn luận chính thức của chính phủ Trung Quốc ngày hôm qua nói thỏa thuận Hoa Kỳ-Philippines 'đặc biệt đáng lo ngại vì có thể che chở cho Manila đối phó với Bắc Kinh và có thể giúp Hoa Kỳ ủng hộ Philippines để “đối đầu với Trung Quốc'.
Thỏa thuận có hiệu lực trong 10 năm sẽ cho phép sự hiện diện về an ninh lớn hơn của Hoa Kỳ tại đảo quốc này và luân chuyển binh sĩ Mỹ và trang bị như tàu chiến và máy bay chiến đấu tại các căn cứ quân sự Philippines. Không có căn cứ mới của Mỹ được xây dựng và cũng không có căn cứ quân sự cũ của Mỹ được sử dụng trở lại theo thỏa thuận này.
Tuần trước, Bắc Kinh cũng phẫn bộ vì Tổng thống Obama ký một tuyên bố công khai công nhận một nhóm đảo đang tranh chấp tại Biển Đông Trung Hoa nằm trong phạm vi bảo vệ của một hiệp ước phòng thủ hỗ tương với Nhật Bản. Hiệp ước buộc Hoa Kỳ phải bảo vệ cho Tokyo nếu bị tấn công.
Philippines và Nhật Bản có liên hệ đến hai trong những vụ tranh chấp lãnh thổ gay cấn giữa Trung Quốc và các nước láng giềng. Những quốc gia khác ở châu Á cũng cáo buộc Trung Quốc sử dụng sự lớn mạnh về quân sự để đe dọa, hay sử dụng vũ lực để chiếm các khu vực tranh chấp.
Tối hậu thư đòi chấm dứt phân biệt đối xử trong kinh doanh
Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-04-29
2014-04-29
Gần 9000 doanh nghiệp giải thể trong tháng 1/2014
Trong tháng 1/2014, cả nước có gần 9,000 doanh nghiệp giải thể và ngừng hoạt động, tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm ngoái.
Thông tin trên được bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố ngày hôm qua 11/2.
Bộ KH và ĐT đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
vẫn còn nhiều khó khăn, số doanh nghiệp giải thể và ngừng hoạt động vẫn
nhiều.
Tuy nhiên, cũng theo Bộ này, thì trong tháng giêng vừa qua, VN cũng
có khoảng 6.900 doanh nghiệp được thành lập mới, với số vốn đăng ký trên
43.000 tỷ đồng. Đồng thời, có khoảng 2.400 doanh nghiệp tạm dừng hoạt
động đã quay trở lại hoạt động, tập trung chủ yếu ở 2 vùng kinh tế trọng
điểm là: vùng đồng bằng Sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ.
Gần 300 ngàn doanh nghiệp chỉ tồn tại trên giấy
Vào ngày hôm qua, tại Hội nghị Thủ tướng Chính Phủ với Doanh Nghiệp diễn ra ở Hà Nội, Phòng Thương Mại- Công nghiệp Việt Nam báo cáo với người đứng đầu chính phủ Việt Nam rằng trong nước có tới 300 ngàn doanh nghiệp dù có đăng ký nhưng không có hoạt động trên thực tế.Báo cáo cho thấy trong năm ngoái có hơn 60 ngàn doanh nghiệp trên cả nước phải giải thể. Số phải tạm ngừng hoạt động là gần 51 ngàn doanh nghiệp.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại Hội nghị rằng các doanh nghiệp tại Việt nam còn ít so với qui mô dân số, các doanh nghiệp vốn ít, sử dụng lao động chưa nhiều, sức cạnh tranh chưa đáp ứng được yêu cầu, năng lực quản trị còn yếu…
http://www.rfa.org/vietnamese/vietnamnews/nearly-300000-businesses-exist-on-paper-04282014114919.html
Báo động an toàn tài chính VN?
Cập nhật: 14:18 GMT - thứ ba, 29 tháng 4, 2014
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Theo cách tính hiện nay của
giới chức, nợ công của Việt Nam không bao gồm nợ được chính
phủ bảo lãnh và nợ đọng xây dựng căn bản. Với cách tính này,
nợ công hiện chiếm khoảng dưới 60% GDP.
Tuy nhiên, nếu tính đủ để gộp các khoản
trên, "nợ công phải lên tới gần 100% GDP", trang tin VnExpress.net
dẫn lời Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên nói
tại Diễn đàn Kinh tế Mùa xuân 2014 được tổ chức hôm 28/4.
'Khả năng thanh toán nợ công yếu'
Theo chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành, có nhiều cách diễn giải khác nhau về tình trạng nợ công.
"Nhà nước có thể tính nợ công của nhà
nước trung ương gồm các khoản nhà nước trực tiếp đi vay từ các
nguồn trong nước hoặc nước ngoài, cùng một số các khoản nợ
mà nhà nước bảo lãnh," ông Bùi Kiến Thành nói với BBC Tiếng
Việt.
"Ngoài ra còn các khoản nợ công của chính
quyền địa phương. Rồi còn các khoản nợ của các công ty thuộc
sở hữu nhà nước. Định nghĩa nợ công gồm những khoản nào và
vấn đề mỗi người hiểu một cách. Chính phủ [Việt Nam] hiểu
theo cách hẹp nhất, còn các chuyên gia lại hiểu theo cách rộng
hơn," ông Thành nói thêm.
"Việt Nam đi vay về làm chưa xong đã hỏng, bị rút ruột công trình, bị tham nhũng bớt xét, cho nên không tạo được hiệu quả kinh tế mong muốn khi đi vay."
Chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành
Tuy nhiên, theo ông Bùi Kiến Thành thì tác
động của khoản nợ công đối với nền kinh tế một nước không
hoàn toàn phụ thuộc vào tỷ lệ nợ so với GDP của nước đó, mà
còn vào nhiều yếu tố khác.
"[Con số] nợ công của Hoa Kỳ cũng không
hoàn toàn chính xác. Nợ công của chính phủ liên bang, của các
chính phủ tiểu bang, của các thành phố, v.v... cộng lại sẽ
không phải là 100% GDP mà có thể lên tới vài trăm phần trăm."
"Hay như ở Nhật, con số nợ công lên tới 240% GDP."
"Khả năng thanh toán được khi nợ công đáo
hạn mới là quan trọng. Nếu có khả năng thì [nợ công] bằng 100%
GDP cũng không sao, nhưng nếu không có khả năng thì 30-40% cũng
đã là vấn đề rồi."
"Nền kinh tế Việt Nam trong lúc này khiến
tôi thấy lo lắng. Không chỉ là ở khả năng thanh toán nợ công mà
còn ở hiệu quả đầu tư của những khoản nợ công đó nữa."
"Các nước khác đi vay về để làm các công
trình cơ sở hạ tầng, chất lượng tốt, làm một lần dùng được
50, 60 năm. Còn Việt Nam đi vay về làm chưa xong đã hỏng, bị rút
ruột công trình, bị tham nhũng bớt xét, cho nên không tạo được
hiệu quả kinh tế mong muốn khi đi vay."
"Do vậy, tôi e rằng nền kinh tế Việt Nam không tạo được đủ luồng tiền để giải quyết vấn đề nợ công."
'Chưa có giải pháp cho nợ xấu'
Ngoài vấn đề nợ công, thì nợ xấu lâu nay đã là điều khiến giới chuyên gia lo lắng.
Trong Diễn đàn Kinh tế Mùa xuân 2014, nợ
xấu "nếu tiếp tục duy trì như hiện nay thì nguy hiểm," VnExpress
dẫn lời Tiến sỹ Trần Đình Thiên.
Thế còn kinh tế gia Bùi Kiến Thành nhận định: "Hiện chưa có giải pháp nào cho việc xử lý nợ xấu."
"VAMC mua nợ xấu nhưng lại không trả tiền mà chỉ trả trái phiếu đặc biệt để quét cả đống nợ xấu đó vào kho của VAMC, nhằm làm sạch sổ sách cho các ngân hàng và doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và ngân hàng này có thể tiếp tục vay và cho vay"
Kinh tế gia Bùi Kiến Thành
Mới đây, trang tin điện tử của Chính phủ
công bố số liệu tổng nợ xấu tính đến cuối 2/2014 là khoảng
307 nghìn tỷ, tương đương khoảng 9,7% tổng dư nợ.
Tuy nhiên, trong số này, có khoảng 185 nghìn tỷ được đưa vào tái cơ cấu nên không bị coi là nợ xấu.
Kinh tế gia Bùi Kiến Thành bình luận:
"Nhiều khoản nợ xấu đã không được trả mà lại được cấu trúc
lại, cho vay nợ mới để trả nợ cũ, thì đó vẫn là các khoản
nợ cũ nhưng được mang lốt mới."
"Việc thành lập VAMC (công ty quản lý tài
sản) để mua nợ xấu chỉ là giải pháp nhất thời chứ không giải
quyết được nợ xấu. VAMC mua nợ xấu nhưng lại không trả tiền
mà chỉ trả trái phiếu đặc biệt để quét cả đống nợ xấu đó
vào kho của VAMC, nhằm làm sạch sổ sách cho các ngân hàng và
doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và ngân hàng
này có thể tiếp tục vay và cho vay."
"Đó chỉ là biện pháp hành chính tạm
thời. Còn việc giúp doanh nghiệp phục hồi và phát triển thì
VAMC không có phương tiện để làm."
Trong số các khoản nợ xấu, có một phần không nhỏ là khoản các ngân hàng cho các doanh nghiệp nhà nước vay.
Tại một cuộc hội thảo hồi cuối 12/2013,
Quyền Viện trưởng Viện Chính sách công và quản lý thuộc Đại học Kinh tế
Quốc dân Phạm Thế Anh cho rằng các khoản nợ xấu của khu vực
doanh nghiệp nhà nước mới là rủi ro tiềm tàng lớn nhất đối
với nợ công của Việt Nam, bởi có khả năng sẽ phải dùng tới
ngân sách nhà nước để trang trải những khoản nợ xấu này, Thời
báo Kinh tế Bấm
tường thuật.
Chính phủ là chủ sở hữu các doanh nghiệp
này, nhưng trách nhiệm của chính phủ đối với các khoản vay
đó ra sao lại là điều chưa được làm rõ, theo ông Bùi Kiến
Thành.
"Đó là một cách để chính phủ chạy khỏi trách nhiệm của mình," ông Thành nói thêm.
Ngân sách thâm hụt
Vấn đề thâm hụt ngân sách cũng khiến cho bức tranh kinh tế Việt Nam không mấy sáng sủa.
Theo số liệu chính thức, mức tăng trưởng
GDP năm ngoái đạt 5,42%, tuy cao hơn 2012 nhưng vẫn thấp hơn mục
tiêu đề ra 5,5%. Trong lúc đó mức bội chi ngân sách năm 2013 cao
hơn nhiều so với mức dự toán 4,8%.
"Chính phủ đã phải xin Quốc hội nâng mức
trần vay lên 5,3% do bội chi quá lớn mà không có gì bù đắp nên
phải đi vay. Bởi đã vượt qua trần vay rồi nên phải xin Quốc hội
nâng trần lên để Chính phủ đi vay tiếp," ông Bùi Kiến Thành
nói.
"Vấn đề thu chi ngân sách rất nghiêm trọng.
Chúng ta thực sự cần nhìn lại tình hình kinh tế Việt Nam.
Phải ra khỏi ảo tưởng để đi vào thực tế, phải tạo mọi điều
kiện để các doanh nghiệp phát triển mới có thể giải quyết
được vấn đề phát triển kinh tế, bội chi ngân sách hay nợ công,
nợ khó đòi," chuyên gia kinh tế này cảnh báo.
NGUYỄN TRẦN SÂM * 30 THÁNG TƯ
30 tháng 4 trong tôi
Ngày 30 tháng 4 năm ấy…
Tin “thắng lợi hoàn toàn” được
loan trên đài phát thanh và báo chí, làm những người dân miền Bắc, sau
bao năm oằn mình chịu đựng hy sinh, thấy lòng ngập tràn niềm vui không
tả xiết. Thế là từ đây không còn cảnh chia ly, đổ máu. Đất nước chắc
chắn sẽ “đi lên ấm no hạnh phúc”, sẽ “xây dựng lại hơn 10 hôm qua”…
Vào lúc đó, người dân Nam thực sự
nghĩ gì, người miền Bắc không biết rõ. Đa số cho rằng dân Nam cũng đón
nhận “chiến thắng” giống như mình, thậm chí vui hơn. Họ đã bao năm sống
lầm than dưới ách cai trị kép của “Mỹ-Ngụy”, ngày đêm trông chờ cái thời
khắc này. Trừ một nhúm tay sai đế quốc, trung thành với chế độ “ngụy
quyền”…
Trên các đường phố và trong các
xóm làng, những bài ca chiến thắng liên tục vang lên qua hệ thống loa
công cộng và trong các buổi tụ họp ăn mừng. Không khí thực sự ồn ào náo
động.
Nhưng ngay trong những ngày náo nức đó, tôi đã dự cảm thấy một điều gì đó bất an.
“Hội toàn thắng náo nức đất nước
Ta muốn bay lên say ngắm sông núi hiên ngang
Ta muốn reo vang, hát ca muôn đời Việt Nam…”
Câu ca với những nốt nhạc ồn ào
như muốn cố chứng tỏ sự say sưa và tấm lòng yêu nước. Có cảm giác như nó
được lý trí định hướng nhiều hơn là xuất phát từ một tình cảm thực sự
chân thành.
Và đây nữa:
“Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng…”
Dường như người ta đang vui thì
bỗng chựng lại. Chợt nhớ ra: vị lãnh tụ tối cao, linh hồn và biểu tượng
của cuộc kháng chiến, không còn. Vậy thì nên vui hết cỡ hay không? Vui
quá thì có vẻ như không thương nhớ người đã khuất. Không vui hết cỡ thì
uổng quá. Bao nhiêu năm chịu đựng, đợi chờ… Và thế là người nhạc sỹ
thông minh liền nghĩ ra một cách để vui thật lực mà vẫn không mang tiếng
là bất hiếu. Ông nói: “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng…” Ồ, hãy
hình dung đi, dù không còn Bác mà vẫn như còn. Y như Người vẫn đang ở
ngay đây. Bởi Bác là bất tử. Làm sao Người lại chết được. Vậy còn lo gì
rằng vui quá thì như không nhớ thương Người. Hãy vui trong khi hát: “Như
có Bác Hồ…” Thế là an toàn. Thế là yên tâm tuyệt đối. Láu cá thật!
Tưởng chừng trong những ngày
chiến thắng đó, niềm vui và lòng yêu nước, yêu chế độ sẽ làm người ta
say sưa cống hiến nhiều hơn. Để xây dựng tương lai xán lạn cho dân tộc,
trong đó có gia đình mình và bản thân mình. Nhưng không!
Trong nhà máy, công xưởng, trong
các cơ quan nhà nước, không khí lãn công đậm đặc thêm. Thái độ trí trá,
lười nhác trở nên tệ hại hơn so với những ngày trước chiến thắng. Và kẻ
nào thể hiện sự vô tư và hăng say công việc, kẻ đó sẽ bị cười nhạo.
Trước mặt thì: “Ô, ông anh (hay chú em) tích cực quá đấy. Chắc sắp lên
sếp.” Còn sau lưng: “Đồ ngu. Ăn gì mà làm thật.”
Ở các cơ quan hành chính, nhất là
“trên bộ”, sự uể oải lười nhác (nhưng trịnh trọng!) càng thể hiện rõ
hơn. Nhưng chỉ cần “thủ trưởng” đi đến là lập tức thấy thái độ xun xoe
săn đón và dáng vẻ tất bật của cấp dưới liền.
Có một không khí giả dối bao trùm khắp nơi. Ngay sau ngày chiến thắng.
Tôi có cảm giác lo lắng khi nghĩ đến cái tương lai đang chờ phía trước. Và cũng cảm thấy thực sự lạc lõng giữa đám người…
Vài ngày hay vài tuần sau, trong
một bài diễn văn, nhà lãnh đạo tuyên bố: “Từ nay dân ta sẽ vĩnh viễn
sống trong hòa bình và độc lập tự do.” Khoảng một năm sau, Ông nói: “Đến
năm 80, dân ta muốn khổ cũng không được khổ.” “Phải phấn đấu trong vòng
từ 10 đến 15 năm đuổi kịp và vượt Nhật Bản.”
*
Ai có thể ngờ được rằng gần 40
năm sau ngày “thắng lợi hoàn toàn” lại có hàng ngàn hàng vạn nông dân
biến thành “kẻ thù của cách mạng”, “tay sai các thế lực thù địch”.
Chẳng muốn nhắc lại những Cái
Răng, Tiên Lãng, Văn Giang,… làm gì. Nhưng chỉ mới cách đây ba-bốn ngày
thôi, có lẽ để lập thành tích chào mừng 30 – 4, vào ngày 25 vừa qua, tại
Dương Nội, thuộc thủ đô văn hiến, hàng ngàn chiến sỹ công an nhân dân,
quân đội nhân dân đã đuổi bọn tay sai các thế lực thù địch ra khỏi nhà,
dùng máy xúc gạt và xúc chúng như những khối đất đá, và bắt những kẻ
“đầu têu” đem đi…
Phải chăng đây là sự tiếp nối của sự nghiệp cách mạng mà chiến thắng 30 – 4 – 1975 chưa phải là “thắng lợi cuối cùng”?
NGUYỄN TRẦN SÂM
VIÊT TỪ SAIGON * CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN
Sợi xích của chế độ
Sat, 04/19/2014 - 03:05 — VietTuSaiGon
Tôi còn nhớ, lúc tôi chừng mười lăm tuổi, tôi từng bị ông bác tôi
mắng vì tôi dùng sợi dây nhợ buộc chân con chim cu đất, cột nó vào gốc
cây: “Mi mà buộc người ta bằng sợi xích thì chính mi đã buộc vào cổ mi
cái thòng lọng. Mở nó ra ngay!”.
Hồi đó do sợ bị ông bác đánh nên răm rắp mở ra và lòng đầy ấm ức, cứ nghĩ rằng ông bác này ép mình, không cho mình nuôi con chim dễ thương này, không chừng mình thả nó ra thì…! Mãi cho đến bây giờ, hình ảnh con chim cu gáy vỗ cánh bần bật bay đi một lèo sau khi tôi tháo sợi dây nhợ dưới chân của nó và trước khi bay đi hẳn, nó lượn mấy vòng quanh tôi giống như đang cảm ơn… Cái hình ảnh ấy, câu nói ấy rõ mồn một trong tôi sau mấy mươi năm dài.
Sáng nay, lên facebook, thấy hình ảnh Bầu Kiên bị còng tay, có thêm sợi xích dài nối ra, đầu tóc ông bạc trắng, cái dáng ngũ đoản của ông như mất hút giữa đám công an vận áo xanh cao, to, tay lăm lăm súng, dùi cui và gương mặt lạnh như tiền… Tự dưng, một cảm giác thương cảm cho thân phận con người, thương cảm cho tuổi già của ông Kiên và sự kinh tởm cái sợi xích cũng như cơ chế tồn tại của nó làm tôi thấy buồn đến lạ lùng!
Suy cho cùng, ngành công an Việt Nam vốn là ngành có nhiều thế lực nhất trong chế độ hiện nay, và họ cũng tự hào là ngành mũi nhọn, ngành tiên phong, ngành an ninh vững vàng, mạnh nhất khu vực, xuất sắc nhất đất nước… Nói chung là bản thành tích của họ đưa ra trên các đài báo trong nước thì miễn bàn. Điều đó cho thấy họ luôn tự hào và hãnh diện về sức mạnh của họ.
Sở dĩ tôi phải nói như thế vì tôi đã từng đặt ra câu hỏi: Liệu có phải vì sợ Bầu Kiên có đàn em đến cứu và cướp nghi can nên người ta phải buộc xích vào tay ông và dắt đi như dắt một con vật hung tợn như thế?
Và câu hỏi này được mổ xẻ: Hiện tại, với lực lượng hùng hậu (trong phiên tòa), hầu như chỉ có công an và một số người liên đới vụ án, không có thế lực giang hồ nào có thể tiến tới gần vì có đến ba lớp bảo vệ bên ngoài tòa án (lớp ngoài cùng là giao thông và dân phòng, lớp thứ hai là công an cơ động và lớp thứ ba gồm các lực lượng công an đặc nhiệm. Bất kì phiên tòa có tính chất quan trọng nào cũng được bảo vệ ba lớp như thế này, trong trường hợp tòa liên quan đến người đấu tranh dân chủ thì có thêm hai lớp nữa gồm rào kẽm gai và chó nghiệp vụ. Đó là chưa muốn nói đến lực lượng quân đội và công an dự bị luôn túc trực chờ lệnh xuất kích nếu có biến). Thử hỏi, với các lớp bảo vệ như vậy, thế lực nào lọt vào được?
Và hơn nữa, với việc xích bị can và dắt đi như thú vật như thế, nếu vì sợ họ bỏ chạy thì chẳng khác nào la làng với thiên hạ rằng mình sợ, lực lượng của mình không đủ sức kiểm soát tình hình?! Làm như thế khác nào tự dội nước lạnh vào bộ mặt an ninh của đảng?!
Trên thực tế, việc xích Bầu Kiên hoàn toàn không phải vì sợ ông ta bỏ trốn, sợ đàn em ông ta đến giải cứu. Hơn nữa, với thể lực hiện tại, nếu có đàn em tới giải cứu thì cũng phải có thêm người dắt ông ta chạy, đến khi nào ông ta chạy không nổi thì cõng mà chạy, khó có chuyện ông ta thoát thân mau lẹ để phải xích tay, cùm chân như vậy.
Chỉ có một mục đích duy nhất, mà cái mục đích này nhằm dùng một mũi tên bắn trúng hai đích: Dằng mặt thế lực đối lập và dằng mặt những nhà đấu tranh dân chủ; Tranh thủ tỏ ra là một chế độ tôn trọng pháp luật trước nhân dân và qua mặt quốc tế.
Vì sao? Vì chuyện Bầu Kiên bị bắt, bị đưa ra tòa có nguyên nhân cốt lõi là sự đấu đá phe nhóm đã đến cao trào chứ không phải là nhằm làm sạch bộ máy kinh tế. Vì nếu với mục đích làm sạch bộ máy kinh tế thì không có đủ còng, xích và nhà tù để nhốt hơn ba triệu đảng viên cũng như gần sáu triệu nhân viên nhà nước đang phục vụ trong guồng máy của đảng Cộng sản. Nguyên một hệ thống không sạch thì không thể làm sạch từ vài con ốc trong bộ máy đó được!
Mà việc xích tay, còng chân ông Kiên là để cho phe đối phương thấy bị nhục, thấy mình bị gằng gân, bị giằng mặt. Và hình ảnh này cũng ngầm đưa ra thông điệp đe dọa các nhà đấu tranh dân chủ, nhân quyền, các nhà bất đồng chính kiến. Bên cạnh đó, làm cho nhân dân, dư luận thấy chế độ này là công chính, kẻ nào lam lam, làm lũng đoạn kinh tế của nhân dân thì sẽ bị trừng phạt đích đáng… Những tưởng điều này lấy điểm được với nhân dân, nhưng mà…!
Thế kỉ 21 không phải là thời Trung Cổ, cái cần nhất của một quốc gia là sự tiến bộ, trong sạch và quyền làm người được đảm bảo tuyệt đối, mọi giá trị liên quan đến con người cần đươc bảo vệ chứ không phải là đối xử như thú vật với con người. Rất tiếc, nhà nước Cộng sản đã quá sai lầm khi xích tay, xích chân ông Kiên và dắt đi như thú vật.
Bởi nếu phiên tòa hay chiến lược của một nhà nước thành công phải là phiên tòa, chiến lược lấy lại những tài sản của nhân dân bị thất thoát và phanh phui những gì có liên quan đến nó chứ không phải là hành hạ người phạm tội để rồi tài sản vẫn cứ thất thoát và bầy đàn, phe nhóm vẫn ẩn mặt trong bóng tối, tội lỗi vẫn đầy rẫy. Làm như thế chẳng khác nào thí tốt chưa đủ, hành hạ tốt cho bưa, cho thỏa cái tính khát máu, tính bạo lực.
Và giữa nhân loại tiến bộ, giữa thế kỉ văn minh, con người đang có khuynh hướng tìm đến sự tiến bộ, quyền làm người đang được đấu tranh hằng ngày để đảm bảo tối đa… mà dùng sợi xích buộc vào một con người rồi dắt đi như súc vật như thế, có vẻ như nhà nước Cộng sản đã quá chán chường sự tồn tại của họ nên tự tử càng sớm càng tốt thì phải?!
Một chế độ dùng xích buộc nhân dân như buộc chó, thì cũng có nghĩa họ đang tự đưa đầu vào thòng lọng mà đáng sợ hơn là trên cái đầu chế độ lại gắn một gương mặt gớm ghiếc, nhầy nhụa và không giống với gương mặt con người!
Hồi đó do sợ bị ông bác đánh nên răm rắp mở ra và lòng đầy ấm ức, cứ nghĩ rằng ông bác này ép mình, không cho mình nuôi con chim dễ thương này, không chừng mình thả nó ra thì…! Mãi cho đến bây giờ, hình ảnh con chim cu gáy vỗ cánh bần bật bay đi một lèo sau khi tôi tháo sợi dây nhợ dưới chân của nó và trước khi bay đi hẳn, nó lượn mấy vòng quanh tôi giống như đang cảm ơn… Cái hình ảnh ấy, câu nói ấy rõ mồn một trong tôi sau mấy mươi năm dài.
Sáng nay, lên facebook, thấy hình ảnh Bầu Kiên bị còng tay, có thêm sợi xích dài nối ra, đầu tóc ông bạc trắng, cái dáng ngũ đoản của ông như mất hút giữa đám công an vận áo xanh cao, to, tay lăm lăm súng, dùi cui và gương mặt lạnh như tiền… Tự dưng, một cảm giác thương cảm cho thân phận con người, thương cảm cho tuổi già của ông Kiên và sự kinh tởm cái sợi xích cũng như cơ chế tồn tại của nó làm tôi thấy buồn đến lạ lùng!
Suy cho cùng, ngành công an Việt Nam vốn là ngành có nhiều thế lực nhất trong chế độ hiện nay, và họ cũng tự hào là ngành mũi nhọn, ngành tiên phong, ngành an ninh vững vàng, mạnh nhất khu vực, xuất sắc nhất đất nước… Nói chung là bản thành tích của họ đưa ra trên các đài báo trong nước thì miễn bàn. Điều đó cho thấy họ luôn tự hào và hãnh diện về sức mạnh của họ.
Sở dĩ tôi phải nói như thế vì tôi đã từng đặt ra câu hỏi: Liệu có phải vì sợ Bầu Kiên có đàn em đến cứu và cướp nghi can nên người ta phải buộc xích vào tay ông và dắt đi như dắt một con vật hung tợn như thế?
Và câu hỏi này được mổ xẻ: Hiện tại, với lực lượng hùng hậu (trong phiên tòa), hầu như chỉ có công an và một số người liên đới vụ án, không có thế lực giang hồ nào có thể tiến tới gần vì có đến ba lớp bảo vệ bên ngoài tòa án (lớp ngoài cùng là giao thông và dân phòng, lớp thứ hai là công an cơ động và lớp thứ ba gồm các lực lượng công an đặc nhiệm. Bất kì phiên tòa có tính chất quan trọng nào cũng được bảo vệ ba lớp như thế này, trong trường hợp tòa liên quan đến người đấu tranh dân chủ thì có thêm hai lớp nữa gồm rào kẽm gai và chó nghiệp vụ. Đó là chưa muốn nói đến lực lượng quân đội và công an dự bị luôn túc trực chờ lệnh xuất kích nếu có biến). Thử hỏi, với các lớp bảo vệ như vậy, thế lực nào lọt vào được?
Và hơn nữa, với việc xích bị can và dắt đi như thú vật như thế, nếu vì sợ họ bỏ chạy thì chẳng khác nào la làng với thiên hạ rằng mình sợ, lực lượng của mình không đủ sức kiểm soát tình hình?! Làm như thế khác nào tự dội nước lạnh vào bộ mặt an ninh của đảng?!
Trên thực tế, việc xích Bầu Kiên hoàn toàn không phải vì sợ ông ta bỏ trốn, sợ đàn em ông ta đến giải cứu. Hơn nữa, với thể lực hiện tại, nếu có đàn em tới giải cứu thì cũng phải có thêm người dắt ông ta chạy, đến khi nào ông ta chạy không nổi thì cõng mà chạy, khó có chuyện ông ta thoát thân mau lẹ để phải xích tay, cùm chân như vậy.
Chỉ có một mục đích duy nhất, mà cái mục đích này nhằm dùng một mũi tên bắn trúng hai đích: Dằng mặt thế lực đối lập và dằng mặt những nhà đấu tranh dân chủ; Tranh thủ tỏ ra là một chế độ tôn trọng pháp luật trước nhân dân và qua mặt quốc tế.
Vì sao? Vì chuyện Bầu Kiên bị bắt, bị đưa ra tòa có nguyên nhân cốt lõi là sự đấu đá phe nhóm đã đến cao trào chứ không phải là nhằm làm sạch bộ máy kinh tế. Vì nếu với mục đích làm sạch bộ máy kinh tế thì không có đủ còng, xích và nhà tù để nhốt hơn ba triệu đảng viên cũng như gần sáu triệu nhân viên nhà nước đang phục vụ trong guồng máy của đảng Cộng sản. Nguyên một hệ thống không sạch thì không thể làm sạch từ vài con ốc trong bộ máy đó được!
Mà việc xích tay, còng chân ông Kiên là để cho phe đối phương thấy bị nhục, thấy mình bị gằng gân, bị giằng mặt. Và hình ảnh này cũng ngầm đưa ra thông điệp đe dọa các nhà đấu tranh dân chủ, nhân quyền, các nhà bất đồng chính kiến. Bên cạnh đó, làm cho nhân dân, dư luận thấy chế độ này là công chính, kẻ nào lam lam, làm lũng đoạn kinh tế của nhân dân thì sẽ bị trừng phạt đích đáng… Những tưởng điều này lấy điểm được với nhân dân, nhưng mà…!
Thế kỉ 21 không phải là thời Trung Cổ, cái cần nhất của một quốc gia là sự tiến bộ, trong sạch và quyền làm người được đảm bảo tuyệt đối, mọi giá trị liên quan đến con người cần đươc bảo vệ chứ không phải là đối xử như thú vật với con người. Rất tiếc, nhà nước Cộng sản đã quá sai lầm khi xích tay, xích chân ông Kiên và dắt đi như thú vật.
Bởi nếu phiên tòa hay chiến lược của một nhà nước thành công phải là phiên tòa, chiến lược lấy lại những tài sản của nhân dân bị thất thoát và phanh phui những gì có liên quan đến nó chứ không phải là hành hạ người phạm tội để rồi tài sản vẫn cứ thất thoát và bầy đàn, phe nhóm vẫn ẩn mặt trong bóng tối, tội lỗi vẫn đầy rẫy. Làm như thế chẳng khác nào thí tốt chưa đủ, hành hạ tốt cho bưa, cho thỏa cái tính khát máu, tính bạo lực.
Và giữa nhân loại tiến bộ, giữa thế kỉ văn minh, con người đang có khuynh hướng tìm đến sự tiến bộ, quyền làm người đang được đấu tranh hằng ngày để đảm bảo tối đa… mà dùng sợi xích buộc vào một con người rồi dắt đi như súc vật như thế, có vẻ như nhà nước Cộng sản đã quá chán chường sự tồn tại của họ nên tự tử càng sớm càng tốt thì phải?!
Một chế độ dùng xích buộc nhân dân như buộc chó, thì cũng có nghĩa họ đang tự đưa đầu vào thòng lọng mà đáng sợ hơn là trên cái đầu chế độ lại gắn một gương mặt gớm ghiếc, nhầy nhụa và không giống với gương mặt con người!
KAMI * THÁNG TƯ 75
Suy nghĩ tháng tư
Wed, 04/23/2014 - 09:27 — Kami
Mỗi
năm khi tháng tư về cùng với màu đỏ của hoa phượng và tiếng ve râm ran
giữa trưa hè, cũng là lúc người Việt ở đâu trên trái đất này cũng đều
nghĩ tới một ngày đặc biệt. Đó là ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày cuối
cùng của chiến tranh Quốc - Cộng, mà phần thắng lợi cuối cùng thuộc về
những người lính cộng sản.
Ngày này được người ta dành cho nó những tên gọi khác nhau:
ngày Quốc hận hay ngày thống nhất đất nước... Mỗi bên có mỗi tên gọi,
song thế nào đi chăng nữa, ngày 30 tháng 4 là một dấu mốc đánh dấu sự
thất bại của toàn thể nhân dân Việt nam, vì chiến tranh ai thắng ai thua
thì nhân dân luôn là kẻ chiến bại.
Đã lâu tôi không muốn viết về đề tài phong trào đấu tranh cho dân chủ
ở Việt nam, phần vì viết theo lối nói thẳng, nói thật kiểu như tôi được
coi là không có lợi cho phong trào thì sẽ dễ sinh thù chuốc oán. Dẫu là
như thế nhưng trong tâm tôi luôn canh cánh những suy nghĩ về vấn đề
này, đó là phong trào đấu tranh dân chủ ở Việt nam đã làm đúng và đủ cái
trọng trách mà không ít người kỳ vọng vào nó hay chưa? Và lý do tại
sao?
Cách đây khoảng một năm, một nhân vật đấu tranh dân chủ ở Hà nội vốn
là đảng viên tự xin ra khỏi đảng, người khá nổi tiếng, mà có lẽ hầu hết
ai cũng biết đã từng tâm sự với tôi đại ý "Trước
em tin trên mạng ảo nhiều, cũng khiến mình ngộ nhận anh ạ. Sau khi bỏ
đảng và đi thực tế mới biết phong trào phọt phẹt lắm, nếu không muốn nói
là không có gì". Và sau đó ít lâu hình như anh bạn này cũng đã giã
từ "vũ khí" sau một số bất đồng với bạn bè trong việc đấu tranh. Tâm sự
của người bạn này làm tôi nghĩ tới nhận định của tôi cũng vào năm 2011,
về thành tích của phong trào đấu tranh cho dân chủ ở Việt nam là con số
không tròn trĩnh. Còn nhớ khi đó có một blogger thuộc loại già dặn còn
bảo tôi rằng "không là đặc công đỏ thì không thể viết ra điều này!". Câu này tôi ghi nhớ mãi.
Và thời gian từ năm 2011 cho đến nay đã khẳng định việc đấu tranh hay vận động cho một xã hội dân chủ ở Việt nam sẽ không có chỗ đứng cho những người thích tự ru ngủ mình, với những nhận định viển vông kiểu như "Việt nam sẽ có một cuộc cách mạng trong vòng một hay hai năm, Cộng sản sắp sập... . Trong lúc trên thực tế cho thấy chẳng hề có dấu hiệu hay động thái gì chứng tỏ cộng sản sẽ sập, sắp sập và chính quyền cộng sản vẫn còn quá đủ mạnh để tiếp tục duy trì quyền lực của họ. Vì họ vẫn luôn là người làm chủ cuộc chơi trên bàn cờ chính trị Việt nam. Cần phải dũng cảm nhìn nhận thực tế một cách khách quan này để có các nhận định chính xác, trên cơ sở đó mới có các phương pháp cũng như đối sách hợp lý và phù hợp.
Và thời gian từ năm 2011 cho đến nay đã khẳng định việc đấu tranh hay vận động cho một xã hội dân chủ ở Việt nam sẽ không có chỗ đứng cho những người thích tự ru ngủ mình, với những nhận định viển vông kiểu như "Việt nam sẽ có một cuộc cách mạng trong vòng một hay hai năm, Cộng sản sắp sập... . Trong lúc trên thực tế cho thấy chẳng hề có dấu hiệu hay động thái gì chứng tỏ cộng sản sẽ sập, sắp sập và chính quyền cộng sản vẫn còn quá đủ mạnh để tiếp tục duy trì quyền lực của họ. Vì họ vẫn luôn là người làm chủ cuộc chơi trên bàn cờ chính trị Việt nam. Cần phải dũng cảm nhìn nhận thực tế một cách khách quan này để có các nhận định chính xác, trên cơ sở đó mới có các phương pháp cũng như đối sách hợp lý và phù hợp.
Tôi đã nhiều lần nghe cuộc trao đổi giữa
BBC và Giáo sư Nguyễn Đình Tấn, Giám đốc Viện Xã hội học thuộc Học viện
Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và tán đồng khi ông Tấn nói
rằng: "Thực chất ở Việt
Nam hiện nay, có thể nói với Đảng Cộng sản Việt Nam thì không có đối
thủ. Nếu thể hiện là đối thủ của Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là
một tổ chức, tôi nghĩ là không có". Đây là một nhận định bị coi là
với mục đích tung hỏa mù của đảng CSVN, là điều khó tin và hết sức bao
biện. Theo tôi, nếu căn cứ vào thực trạng của các phe nhóm đối lập với
đảng CSVN hiện nay thì đánh giá của Giáo sư Nguyễn Đình Tấn là tương đối
chính xác. Có người bạn tôi còn khẳng định quá lạc quan rằng đảng CSVN
còn tiếp tục duy trì quyền lực thêm cả trăm năm nữa, nếu phong trào dân
chủ không có các chuyển biến sâu sắc mang tính cách mạng trong nội bộ
của mình. Nói như thế cũng có nghĩa là vấn đề mang tính tồn tại khiến
đại cuộc không có xu hướng chuyển biến là do nguyên nhân chủ quan của
phong trào đấu tranh cho dân chủ ở Việt nam.
Thực ra lời giải cho vấn đề này không phải là việc quá khó, nếu hiệu ứng "Đồng thanh tương ứng. Đồng khí tương cầu" được coi trọng và có các biện pháp cụ thể để thực thi. Điều này không chỉ liên quan đến vấn đề đoàn kết là sức mạnh như chúng ta đã biết, mà còn là làm thế nào đề mọi sức mạnh tìm về một mối đoàn kết đó. Lợi thế của vấn đề đa nguyên đã và đang trở thành trở lực đối với phong trào đấu tranh cho dân chủ ở Việt nam, cũng bởi đa nguyên không được tôn trọng và áp dụng đúng thì nó sẽ phủ định sự nhất quán. Đó chính là lý do vì sao các tổ chức mang màu sắc chính trị của người Việt cả trong và ngoài nước tuy nhiều nhưng hầu như tất cả đều không có tiếng nói chung. Nghĩa là không có một ngọn cờ hay một tổ chức mang tính tập hợp với màu sắc một mặt trận đoàn kết dân tộc. Điều này là hoàn toàn khó, trước hết bởi tính đố kỵ của các chính trị gia. Với họ thì ý mình luôn luôn đúng, còn ý người khác thì luôn luôn sai; kể cả khi họ không nắm bắt được thực tế tình hình chính trị xã hội... trong nước mà chỉ thông qua sự suy đoán. Đó cũng là lý do vì sao trong năm 2011 đã có tới trên 72% người cho rằng ở Việt nam sẽ có cách mạng màu vào thời điểm đó.
Cần phải khẳng định lại, có sự chuyển biến trong thể chế chính trị ở Việt nam có xảy ra hay không thì chủ yếu là dựa vào người ở trong nước và áp lực của quốc tế, thông qua các chính sách của các quốc gia và các tổ chức quốc tế. Chỉ khi nào hai nguồn áp lực này đủ để tạo sức ép cho chính quyền Việt nam thì lúc đó họ sẽ nới lỏng hoặc thay đổi chính sách và ngược lại. Còn vai trò của các tổ chức chính trị và các cá nhân người Việt ở nước ngoài thì thực tế đến lúc này vẫn chưa phát huy được tác dụng đáng ra phải có. Cũng bởi vì tư duy chính trị của họ chưa đúng, họ đã và đang hướng vào để thỏa mãn nhu cầu của người dân trong cộng đồng của họ. Đó là đối tượng ủng hộ họ trong mọi hoạt động cũng như vấn đề tài chính. Mà quên rằng nhiệm vụ chính của các tổ chức này phải là hướng về trong nước, để họ trở thành nơi người trong nước gửi gắm và đặt hy vọng. Từ đó dẫn đến các sai lầm căn bản trong các chính sách, mà họ không biết rằng nhu cầu về chính trị của người dân trong nước khác với nhu cầu của ngưởi đang định cư của nước ngoài. Thực ra đây là một vấn đề dễ hiểu, vì cộng đồng người Việt ở các quốc gia nơi có các tổ chức đó là người dung dưỡng họ.
Đó là nguyên nhân vì sao chúng ta thường thấy các tổ chức và cá nhân ở bên ngoài hầu hết luôn kêu gọi lật đổ chế độ cộng sản và để khôi phục cờ vàng ba sọc đỏ, lá quốc kỳ của chế độ VNCH. Vô tình họ đã không hiểu rằng những chủ trương mơ hồ phi thực tế đó, mà chỉ với mục đích lấy lòng một bộ phận người Việt định cư ở nước ngoài đã bị chính quyền lợi dụng tuyên truyền với mục đích có lợi cho họ. Kiểu như công cuộc đấu tranh cho dân chủ ở Việt nam là nhằm khôi phục chính thể VNCH, một chế độ mà đa số dân chúng trong nước có cái nhìn không thiện cảm do chính sách tuyên truyền một chiều của nhà nước.
Trong bối cảnh Việt nam gia tăng các hoạt động để hội nhập với quốc tế thì phong trào đấu tranh cho dân chủ của Việt nam đã có những tiến bộ đáng kể trong việc hình thành các tổ chức Xã hội Dân sự tự phát trong mọi mặt, mọi lĩnh vực. Đặc biệt là các vấn đề liên quan đến quyền con người và tự do dân chủ. Với một lực lượng hùng hậu của các nhà hoạt động xã hội, các bloggers hay facebookers với các hoạt động cụ thể cả trong và ngoài nước để đưa các vấn đề nói trên ra dư luận quốc tế trong thời gian qua. Cho dù các hoạt động của những tổ chức này ban đầu mới chỉ có các thành tích khiêm tốn, song nó cũng chính là các nhân tố ban đầu cho một sự phát triển về số lượng cũng như chất lượng tranh đấu trong tương lai. Đây là những thành quả đáng khích lệ và đáng mừng.
Gần đây, BS. Nguyễn Đan Quế một cựu tù chính trị, người năm trong
danh sách đề cử nhận giải Nobel Hòa bình năm 2014 đã có nhận định rằng:
vào thời điểm này các cá nhân, tổ chức chính trị đấu tranh cho dân chủ ở
Việt nam cần có sự thống nhất chặt chẽ để hướng tới một hành động
chung. Và theo ông đây là một cơ hội lịch sử để giải quyết mâu thuẫn
Quốc – Cộng vốn đã tồn tại quá lâu dài. Thông qua một sách lược đấu
tranh mới để tái thiết Việt nam, trên tinh thần thương yêu, tha thứ và
đồng cảm. Để những người đã phải ra đi có thể có cơ hội đóng góp cho một
nước Việt nam tự do và dân chủ. Nói về đường lối và sách lược đấu tranh
mới, BS. Nguyễn Đan Quế cho rằng cần hoạt động theo một đường lối chung
để thay thế cho đường lối làm cho Cộng sản phá sản, nhằm để đoàn kết
mọi người Việt nam, các tổ chức ở trong nước, các hội đoàn ở ngoài nước
để phối hợp trong ngoài. Đây là một suy nghĩ sáng suốt và phù hợp với
tình hình chính trị hiện tại ở Việt nam. Song vấn đề là đường lối đấu
tranh mới này sẽ nhận được sự ủng hộ tới mức nào, nhưng quan trọng nhất
là vẫn chưa có một tổ chức có đầy đủ uy tín để khởi xướng và phát động ý
tưởng đó.
Điều này chắc chắn sẽ nhận được sự không đồng tình của các tổ chức
chống cộng cực đoan ở Hải ngoại, vì đối với các tổ chức này mục tiêu duy
nhất và tiên quyết là lật đổ và giải thể chính quyền cộng sản. Song
hình như họ không tự hỏi họ dựa vào đâu và dựa vào cái gì để làm điều mơ
hồ đó, nhất là trong lúc bối cảnh chính trị thế giới hoàn toàn không có
cơ sở để thực hiện điều này. Và ảo tưởng đó mãi sẽ là ảo tưởng chỉ tồn
tại trong suy nghĩ của những người còn mang mặc cảm cũng như lòng thù
hận đối với chính thể hiện tại ở Việt nam.
Cái thiếu nhất của phong trào đấu tranh cho dân chủ ở Việt nam là một
nhân vật mang tính lãnh tụ làm vai trò ngọn cờ đầu, cộng với một tổ
chức chính trị có uy tín có thể trao đổi đối thoại với các tổ chức chính
trị và cá nhân khác để thống nhất tất cả hành động theo một mục tiêu
chung đã định sẵn. Có như vậy mới có thể hy vọng có một sự thay đổi
trong cục diện bàn cờ chính trị Việt nam khác đi so với hiện nay. Còn
nếu vẫn như hiện tại, trước những áp lực chính trị đến từ trong nước và
quốc tế bước đầu cũng đã buộc chính quyền Việt nam có những động thái
thay đổi ban đầu, như thả nhỏ giọt một số tù chính trị trong thời gian
vừa qua. Song đó chỉ là những nước đi chiến thuật trong những lựa chọn
có thể của họ, chứ không phải là những bắt buộc duy nhất mà họ không còn
các lựa chọn khác.
Chính trị là những vấn đề xoay quanh việc giành và giữ quyền lực nhà
nước. Chính trị Việt nam cũng vậy, cho dù chính quyền Việt nam đang tứ
bề thọ địch song cái cơ bản nhất mà họ có được là họ có một bộ chỉ huy
thống nhất. Đó là điều mà phong trào đấu tranh cho dân chủ ở Việt nam
vẫn chưa có được. Vì vậy việc đảng CSVN tự cho rằng họ không có đối thủ
chính trị thì cũng là điều dễ hiểu.
Sang năm bằng giờ này là tròn 40 năm rồi đấy!
© Kami
HOÀNG NGỌC TUẤN * GABRIEL GARCIA
Gabriel García Márquez (1927-2014): nhà văn vĩ đại hay “con điếm hạng sang”?
Sun, 04/27/2014 - 11:56 — hoangngoctuan
Tối Chủ Nhật 27.4.2014 [Sydney], trong câu chuyện “Gabriel García Márquez - hào quang và bóng tối”,
tôi đã có phát biểu một số ý kiến về giá trị văn chương của Gabriel
García Márquez cũng như về những điều sai lầm của ông trong thái độ
chính trị. Tuy nhiên, vì thời lượng phát thanh có giới hạn nên còn một
số điều tôi chưa nói hết ý. Tôi hy vọng có thể diễn tả ý kiến của mình
đầy đủ hơn trong bài viết này.
Trong suốt hơn một tuần qua, báo chí khắp nơi
trên thế giới rầm rộ đưa tin về sự qua đời của Gabriel García Márquez,
nhà văn gốc Colombia, người đã đoạt giải Nobel Văn Chương năm 1982 và
được xem như là một trong những nhà văn lớn nhất trên thế giới trong thế
kỷ 20. Song song với vô số bài báo tuyên dương thành quả vĩ đại của ông
trong văn chương, cũng có rất nhiều bài báo phê phán thái độ chính trị
của ông trong việc ông ủng hộ chế độ Cộng Sản độc tài của Fidel Castro ở
Cuba.
Thành quả vĩ đại của Gabriel García Márquez trong văn chương là điều không thể chối cãi. Trong bài “Nghĩ thoáng khi nghe Gabriel García Márquez qua đời”, nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc có nhận xét rằng:
“...
Ảnh hưởng của Márquez lớn và cụ thể đến độ người ta có thể thấy được,
cân đo đong đếm được. Ông đã biến Colombia, quê hương của ông, thành một
xứ sở văn học thay vì chỉ là nơi nổi tiếng về việc trồng và buôn bán
thuốc phiện. Ông đã thần thoại hóa nguyên cả một lục địa (Nam Mỹ) và qua
đó, làm cho cả vùng đất ấy bỗng dưng có một linh hồn để từ các lục địa
khác, các nền văn hóa khác, người ta có thể hình dung được con người
châu Mỹ La Tinh thực sự như thế nào. Ông đã làm cho tiếng Tây Ban Nha
trở thành một thứ ngôn ngữ văn học ở phạm vi toàn thế giới, một vai trò
mà, theo nhiều nhà phê bình, chỉ có Miguel de Cervantes (1547-1616), với
tác phẩm Don Quixote là có thể so sánh được.
Márquez
không phải là người phát minh ra phương pháp sáng tác hiện thực thần kỳ
(magical realism). Công lao ấy thuộc về nhà văn Argentina Jorge Luis
Borges, nhà văn Cuba Alejo Carpentier và nhà văn Mễ Tây Cơ Juan Rulfo,
nhưng không ai có thể phủ nhận được, chính Márquez, với cuốn Trăm năm cô
đơn, câu chuyện viết về bốn thế hệ nhà Buendia, chứ không phải bất cứ
ai khác, đã biến chủ nghĩa hiện thực thần kỳ trở thành một phương pháp
sáng tác đặc sắc, một dấu ngoặc trong lịch sử văn học thế giới và một
nguồn cảm hứng cho vô số các cây bút thuộc nhiều văn hóa và nhiều ngôn
ngữ khác nhau, trong đó, có lẽ có cả Việt Nam. Riêng tại Úc, nhân ngày
ông qua đời, nhiều nhà phê bình và học giả đồng thanh nhấn mạnh: Nếu
không có Márquez, có lẽ diện mạo văn học Úc trong suốt mấy chục năm vừa
qua sẽ khác hẳn. Nhiều nhà văn tài hoa của Úc thừa nhận: Cách viết của
họ thay đổi hẳn sau khi đọc Márquez.
Nhưng
ảnh hưởng của Márquez còn lớn hơn tất cả những điểm vừa nêu. Ông không
những thay đổi cách viết của nhiều người; ông còn thay đổi cả cách đọc
của quần chúng, hơn nữa, qua đó, thay đổi cách nhìn về hiện thực của mọi
người: Người ta bỗng phát hiện đằng sau những sự kiện ngỡ như rất hợp
lý, được nối kết với nhau bằng một thứ quan hệ nhân quả bỗng xuất hiện
vô số những làn sương mù mịt với những hình ảnh thấp thoáng: Cái gọi là
hiện thực bỗng trở thành huyền ảo hẳn và ngược lại, những cái vốn được
xem là huyền ảo lại trở thành như thực.”
Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc nhận xét
thật chí lý. Văn chương của García Márquez hiển nhiên có ảnh hưởng rất
lớn đến bút pháp của rất nhiều nhà văn trên thế giới, từ châu Mỹ La-tinh
đến Bắc Mỹ, đến châu Âu, châu Á, châu Phi và châu Úc. Khi nói đến ảnh
hưởng của García Márquez, người ta lập tức nghĩ đến những tên tuổi lớn
đã chịu ảnh hưởng của García Márquez như Isabel Allende của Chile,
Salman Rushdie của Ấn-độ, Toni Morrison của Hoa-kỳ, Ben Okri của Nigeria
(Châu Phi), v.v... Ảnh hưởng của García Márquez lại càng lớn đối với
văn chương của châu Úc đương đại. Peter Carey, một trong những nhà văn
đương đại lớn nhất của Úc, đã thú nhận rằng chính cuốn tiểu thuyết Cien años de soledad (Trăm Năm Cô Đơn)
của García Márquez đã làm thay đổi bút pháp của ông. Ông nói nhờ may
mắn được đọc cuốn tiểu thuyết đó hồi đầu những năm 70, mà ông đã tìm ra
một con đường mới để thoát khỏi cái chủ nghĩa hiện thực màu nâu xám xịt
(the dun-coloured realism) như Patrick White đã mô tả văn chương Úc thuở
ấy.
Một nhà văn nổi tiếng khác của Úc là Richard Flanagan ở Tasmania còn nhấn mạnh rằng “Nếu
không có ảnh hưởng từ những cuốn sách của García Márquez, thì thật khó
mà hình dung văn chương Úc có được diện mạo như hôm nay. Bạn không thể
có những tác phẩm lớn của Peter Carey, bạn không thể có cuốn Cloudstreet
của Tim Wilton, bạn không thể có rất nhiều nhà văn khác. Thật khó mà
tưởng tượng bất cứ cuốn sách nào trong số đó có thể thành hình mà không
nhờ cuộc cách mạng văn chương do García Márquez dấy lên trong tiểu
thuyết.”
Riêng về kinh nghiệm của cá nhân tôi thì lần đầu tiên tôi đọc cuốn tiểu thuyết Trăm Năm Cô Đơn
của García Márquez, cách đây đã mấy mươi năm, ấn tượng mạnh mẽ khiến
tôi bị ám ảnh là sự trộn lẫn và xoá nhoà giữa những sự kiện hiện thực và
những sự kiện phản hiện thực. Trong cuộc sống hiện thực của ngôi làng
Macondo (một ngôi làng hư cấu trong cuốn tiểu thuyết) có những hình ảnh
hoàn toàn phản hiện thực nhưng được dân chúng xem như hoàn toàn hiện
thực, chẳng hạn: Mauricio Babilonia đi đâu, từng bầy bướm bay theo đến
đó; Aureliano có một cái đuôi heo; nàng Xinh Đẹp Remedios bay lên trời;
một vết máu chạy trên đường phố rồi chui vào nhà dòng họ Buendía; và còn
nhiều nữa... Những hình ảnh phản hiện thực này được mô tả một cách rành
mạch và thản nhiên đến độ chúng trở nên ‘thực’ hơn mọi hình ảnh có
thực. Chúng ta không thể quên chúng, vì qua đó, chúng ta thoáng thấy
những bí mật kỳ dị nằm ngay trong bản chất của cuộc sống - những bí mật
không thể tìm thấy trong văn chương hiện thực.
Ngược lại, ở ngôi làng Macondo đó, có rất nhiều
điều hoàn toàn hiện thực nhưng dân chúng lại xem chúng như những điều
thần kỳ, phản hiện thực, chẳng hạn: nước đá. Ngay khi vừa đọc câu văn
đầu tiên của cuốn tiểu thuyết (“Nhiều
năm sau, khi đang đối diện với đội hành quyết, Đại Tá Aureliano Buendía
nhớ lại buổi chiều xa xôi ấy khi cha của ông dắt ông đi xem nước đá”),
người đọc có thể đã thấy ngay chi tiết thú vị này: khi đang phải đối
diện với cái chết thì Aureliano Buendía vẫn thấy bình thường, nhưng
chính trong giây phút đó ông lại hồi tưởng về một kinh nghiệm mà ông cảm
thấy như một điều thần kỳ: nước đá. Ngoài nước đá, thì nam châm, xe
lửa, điện ảnh, điện thoại... cũng được xem như những điều thần kỳ. Dân ở
Macondo không thể hiểu nổi vì sao một nhân vật đã chết và được đem chôn
trong một cuốn phim khiến họ đã khóc hết nước mắt, mà sau đó chính nhân
vật ấy lại có thể xuất hiện trong một phim khác trong hình hài của một
người Ả-rập!
Sự xoá nhoà và bất khả phân biệt giữa những sự
kiện hiện thực và phản hiện thực không chỉ ở trong cái nhìn của người
dân Macondo, mà còn nằm ngay trong chính cái hiện thực chính trị ở đó.
Chẳng hạn, Gabriel García Márquez mô tả cuộc đình công ở một đồn điền
trồng chuối, nhưng ông luật sư của đồn điền tuyên bố trước công luận
rằng ở đồn điền ấy không hề có cuộc đình công nào cả, vì đồn điền không
hề có một tập thể công nhân nào cả, đồn điền chỉ mướn những người làm
ngắn hạn và trả lương hàng ngày. Thế rồi, khi tất cả những công nhân của
đồn điền ấy đồng loạt biểu tình đình công, thì họ bị giết hết, và xác
của họ bị chất lên xe lửa và bị chở trong đêm tối một cách bí mật đến
một nơi khác để phi tang. Có một nhân chứng, một công nhân sống sót, đã
thấy tất cả sự thật này, nhưng nhân chứng ấy chỉ có một mình, nên không
thể thuyết phục ai tin vào sự thật khủng khiếp ấy. Mọi người đều cho
rằng không hề có cuộc đình công nào cả, và những thế hệ sau của trẻ em
sẽ được học trong sử ký rằng chẳng hề có cuộc đình công nào, chẳng hề có
cuộc thảm sát nào, và thậm chí cũng chẳng hề có cái đồn điền trồng
chuối nào ở đó cả. Nói tóm lại, những người dân ở đó có thể xem những
điều phi hiện thực là hiện thực, nhưng chính họ lại xem những điều có
thật trong hiện thực là những điều không hề có, bởi họ bị đánh lừa bởi
một hệ thống chính trị gian manh.
Chi tiết ấy đã làm tôi sởn tóc gáy và mang một
ấn tượng mạnh trong tâm trí. Nó làm tôi nghĩ đến sự đánh tráo lịch sử,
biến không thành có, biến có thành không, của những chế độ độc tài, gian
manh và phi nhân, như chế độ hiện hành ở Việt Nam chẳng hạn, với cái
gọi là lịch sử của họ chỉ toàn là những điều dối trá được đánh tráo vào
để thay cho những sự thật bi thảm, những sai lầm và những tội ác khủng
khiếp của họ.
Nói tóm lại, về tài năng văn chương của Gabriel
García Márquez thì tôi vô cùng khâm phục. Tuy nhiên, tôi không bao giờ
tán thành cái thái độ chính trị đạo đức giả của Gabriel García Márquez
vì ông ấy đã không ngừng ủng hộ và bào chữa cho những tội ác của nhà độc
tài Cộng Sản Fidel Castro.
Nhà thơ kiêm nhà vận động nhân quyền Armando
Valladares, người đã bị chế độ Fidel Castro cầm tù từ năm 1960 đến năm
1982, đã có vạch ra những hành vi của García Márquez mà ông cho là tội
ác. Ông cho rằng nếu García Márquez kết thân với Fidel Castro và bào
chữa cho những tội ác của Fidel Castro, thì García Márquez cũng là kẻ
tòng phạm, nhúng tay vào những tội ác đó.
Armando Valladares thuật lại rằng chính ông và ông thị trưởng của Miami là ông Xavier Suarez, đã bảo lãnh một phụ nữ Cuba (thư ký riêng của García Márquez) từ Colombia sang Mỹ, sau khi bà ấy từ Cuba sang Colombia
làm việc và trốn lại ở đó để đào thoát. Theo Armando Valladares thì bà
thư ký riêng của García Márquez đã kể lại rằng mỗi lần García Márquez
đến Cuba thì được Fidel Castro tiếp đón rất vương giả. García Márquez có nhà riêng ở Cuba,
nơi đó García Márquez sống với một tình nhân rất trẻ tên là Blanquita,
tuổi chỉ bằng cháu nội của García Márquez. Fidel Castro còn tặng cho
García Márquez một chiếc xe hơi Mercedes-Benz màu trắng, và thỉnh thoảng
Fidel Castro ghé thăm và uống rượu García Márquez ngay cả vào những lúc
rất khuya, quá nửa đêm.
Chính vì được hưởng những đặc quyền đặc lợi do
Fidel Castro ban phát, nên García Márquez đã thoả hiệp với Fidel Castro.
Ông không bao giờ chịu ký tên vào những bản
tuyên bố chung của các nhà văn quốc tế lên án Fidel Castro và đòi hỏi
Fidel Castro trả tự do cho những nhà văn và nhà báo bị chế độ của Fidel
Castro giam cầm.
Armando Valladares còn kể lại một câu chuyện
ghê gớm rằng Ricardo Bofill, một nhà bất đồng chính kiến và vận động
nhân quyền ở Cuba, một lần nọ đã nhờ ông Colin McSeveny (phóng viên của
Reuter) lén dắt vào khách sạn để gặp riêng với García Márquez, khi
García Márquez vừa vào đó để uống rượu. Trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi đó,
Ricardo Bofill vì tin tưởng vào nhân cách của một danh nhân như García
Márquez, nên đã trao cho García Márquez một bộ hồ sơ về thực trạng đàn
áp trí thức ở Cuba. Vài tuần sau đó, công an Cuba
đã ập đến nhà bắt nhốt Ricardo Bofill. Khi Ricardo Bofill bị đem ra hỏi
cung, thì trên bàn của công an đã có sẵn bộ hồ sơ mà chính Ricardo
Bofill đã trao cho García Márquez. Nghĩa là chính García Márquez đã đem
bộ hồ sơ ấy giao cho công an để công an đến bắt Ricardo Bofill.
García Márquez còn ngoảnh mặt làm ngơ cả khi chế độ Cộng Sản Cuba
xử tử hình những người vô tội. Tháng 3 năm 2003, nhà nước Fidel Castro
bắt giam 78 người bất đồng chính kiến và tuyên án họ từ 12 đến 25 năm
tù, trong đó có một người bị bắt chỉ vì đã sở hữu một máy thu băng Sony.
Ngay sau đó, nhà nước Fidel Castro còn ra lệnh tử hình 3 cậu bé vì tội
âm mưu dùng bè để vượt biển trốn khỏi Cuba.
Trong lúc những bản án và lệnh tử hình này đang gây chấn động trong dư luận khắp thế giới, thì ở Columbia
có Hội Chợ sách Bogotá. Tất cả những nhà văn ở Hội Chợ đó đều ký tên
vào kháng thư, nhưng tất nhiên García Márquez đã không chịu ký và José
Saramago (Nobel Văn Chương 1998) cũng không chịu ký. Nhà văn Hoa-kỳ
Susan Sontag giận dữ tuyên bố: “Giờ đây tôi đã thấy một người tự xưng là Cộng Sản như José Saramago cũng bao che cho những tội ác man rợ ở Cuba.” Và bà nói thêm: “Còn
García Márquez sẽ nói gì? Ông ta sẽ không nói gì cả. Tôi không thể bào
chữa giùm cho thái độ đó của ông ta. Giá trị tiếng nói của ông ta có thể
giúp cho rất nhiều người đang tranh đấu. Ông ta là nhà văn lớn nhất của
đất nước này và tôi rất ngưỡng mộ ông ta, nhưng thái độ câm nín của ông
ta đối với những bản án của nhà nước Cuba thì không thể nào tha thứ được.” García Márquez đã đáp lại một cách gỡ gạc rằng: “Tình bạn của tôi với Fidel Castro sẽ cho phép tôi giúp những người đó được trục xuất khỏi Cuba”. Nhưng Susan Sontag cho rằng lối trả lời của García Márquez là “yếu đuối và khôi hài.”
Mà có lẽ sự thật là García Márquez cũng đã
chẳng hề “giúp” cho những người bất đồng chính kiến ở Cuba “được trục
xuất”. Một trong những vụ nổi tiếng là vụ nhà thơ Heberto Padilla bị nhà
nước Cộng Sản Cuba bắt giam vào tháng Ba năm 1971 và bị tra tấn suốt cả
tháng trời. Nhà văn Peru, ông Mario Vargas Llosa (Nobel Văn Chương năm
2010), lúc ấy có tung ra một kháng thư, với chữ ký của hàng chục nhà văn
nổi danh trên thế giới, trong số đó có Julio Cortázar, Susan Sontag,
Jean-Paul Sartre, v.v., để phản đối hành động ô nhục của nhà nước Cộng
Sản Cuba, nhưng García Márquez đã không chịu ký tên chung vào kháng thư
ấy. Cuối cùng, vì áp lực của dư luận trí thức quốc tế, chế độ Cộng Sản
Cuba đành thả Heberto Padilla ra khỏi tù, nhưng tiếp tục quản chế. Sống
không nổi dưới sự quản chế, Heberto Padilla đã viết đơn xin rời khỏi Cuba để sang Mỹ định cư, nhưng nhà nước Cộng Sản Cuba
vẫn không cho ông ra đi. Heberto Padilla có nhờ García Márquez giúp đỡ,
nhưng García Márquez từ chối. Chưa đủ, García Márquez còn khuyên
Heberto Padilla rằng đừng đi ra khỏi Cuba “vì những thế lực thù địch sẽ lợi dụng sự ra đi của Heberto Padilla để tuyên truyền chống Fidel Castro.”
Cuối cùng, năm 1980, dưới sức ép của dư luận trí thức quốc tế, nhà nước Cộng Sản Cuba cũng chấp nhận để cho Heberto Padilla ra đi. Năm 1989, Heberto Padilla đã kể lại tất cả những chi tiết này trong cuốn hồi ký La mala memoria (bản dịch tiếng Anh có nhan đề là Self Portrait of the Other) của ông.
Để mô tả thái độ chính trị của Gabriel García Márquez, Mario Vargas Llosa đã dùng nhóm chữ “con điếm hạng sang của Fidel Castro” (“a courtesan of Fidel Castro”). Thật chí lý.
Tuy nhiên, bây giờ, khi Gabriel García Márquez đã qua đời, chúng ta nên đánh giá ông như thế nào?
Tôi thiết nghĩ rằng chúng ta nên đánh giá
chuyện gì ra chuyện đó. Chúng ta nên phân biệt rành mạch giá trị văn
chương và thái độ chính trị. Nhà báo Charles Lane đã mô tả Gabriel García Márquez rất chính xác như là “một kết hợp kỳ dị của sự sáng chói về văn chương và sự thối nát về chính trị” (the weird blend of literary brilliance and political rottenness).
Năm 1990, trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Paris Review, khi được hỏi về Gabriel García Márquez, Mario Vargas Llosa nói:
“Chúng
tôi từng là bạn; chúng tôi là hàng xóm với nhau suốt hai năm ở
Barcelona, sống trên cùng một con đường. Sau đó, chúng tôi xa rời nhau
vừa vì lý do cá nhân vừa vì lý do chính trị. Nhưng nguyên nhân ban đầu
của sự xa cách là một vấn đề cá nhân không hề liên quan gì đến những
niềm tin ý thức hệ của ông ấy — một thứ ý thức hệ mà tôi cũng không tán
thành. Tôi cho rằng văn chương của ông ấy và quan điểm chính trị của ông
ấy không có cùng một giá trị. Hãy chỉ nói rằng tôi hết sức khâm phục
tác phẩm của ông ấy như một nhà văn. Như tôi đã nói, tôi từng viết một
cuốn sách dày 600 trang về tác phẩm của ông ấy. Nhưng tôi không tôn
trọng ông ấy lắm, về tính cách cũng như về những niềm tin chính trị của
ông ấy mà tôi thấy có vẻ như không nghiêm túc. Tôi nghĩ những thái độ
chính trị của ông ấy mang tính cơ hội chủ nghĩa và cầu danh.”
Mario Vargas Llosa đã gọi Gabriel García Márquez là “con điếm hạng sang của Fidel Castro”, nhưng sau đó ông vẫn xuất bản cuốn tiểu luận García Márquez: Historia de un decidio, trong đó ông ca ngợi
giá trị văn chương của những tác phẩm của Gabriel García Márquez. Khi
nghe tin Gabriel García Márquez mất, Mario Vargas Llosa đã phát biểu
trên báo El País ở Madrid: “Một
nhà văn vĩ đại đã qua đời. Tác phẩm của ông đã giúp cho văn chương
tiếng Tây-ban-nha được quảng bá và sáng giá. Những cuốn tiểu thuyết của
ông sẽ làm ông sống mãi và sẽ tiếp tục được độc giả khắp nơi ái mộ.”
[“Ha muerto un gran escritor cuyas obras dieron gran difusión y
prestigio a la literatura en lengua española en todos los países del mundo. Sus novelas sobrevivirán e irán ganando lectores por doquier.”]
Gabriel García Márquez đã qua đời, những cuốn
sách của ông để lại cho thế giới sẽ mãi mãi là những tác phẩm văn chương
bất hủ. Những hành vi chính trị sai lầm tệ hại của ông cũng sẽ còn lại
trong sử sách để hậu thế suy ngẫm.
==========
Tham khảo:
Armando Valladares, “García Márquez: Castro Stooge”, National Review Online, 21.4.2014.
Charles Lane, “Gabriel García Márquez was a gifted writer but no hero”, The Washington Post, 24.4.2014
Elizabeth Llorente, “Amid Praise For Gabriel Garcia Marquez, Criticism Over His Bond With Fidel Castro”, Foxnews Latino, 18.4.2014.
Enrique Krauze, “In the Shadow of the Patriarch”, New Republic, 23.10.2009
Nguyễn Hưng Quốc, “Nghĩ thoáng khi nghe Gabriel García Márquez qua đời”, Tiền Vệ, 21.4.2014
Valerie Miles, “Nobel laureate, magical realist author Gabriel García Márquez dies”, Aljazeera America, 17.4.2014
Winston Manrique Sabogal, “Muere Gabriel García Márquez: genio de la literatura universal”, El País, 17.4.2014
LÊ DIỄN ĐỨC * VÔ TRÁCH NHIỆM
Vô trách nhiệm và vô liêm sỉ
Sun, 04/27/2014 - 20:37 — ledienduc
Lê Diễn Đức
Từ chức là một thói quen, một cách ứng xử tự nhiên, bình
thường ở các quốc gia dân chủ, nơi mà chính phủ của một đảng phái chính
trị được thiết lập cầm quyền nhờ chiếm số ghế cao nhất trong quốc hội từ
bầu cử tự do.
Vào tháng 11 năm 2013, tại Ba Lan, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải
Slavomir Novak đã đệ đơn từ chức vì liên quan đến yêu cầu của Công tố
viện đề nghị bãi bỏ quyền ưu đãi miễn trừ, với lý do Bộ trưởng đã cố ý
không khai báo chiếc đồng hồ đeo tay trị giá khoảng 5000 USD vào bản kê
khai tài sản.
Thủ tướng Ba lan Donald Tusk đã chấp nhận đơn từ chức, còn Phó Thủ
tướng Janusz Piechociński nói rằng "Đây là một động thái tự nhiên trong
tình huống này. Luật pháp yêu cầu một lời giải thích cụ thể, nếu có yêu
cầu của Công tố viện".
Vào ngày 27 tháng 4, 2014, Thủ tướng Hàn Quốc Chung Hong-won đã
thông báo quyết định từ chức vì bị chỉ trích về cách thức đối phó với vụ
chìm phà Sewol hôm 16 tháng 4, mà tính tới chiều ngày 26/04, ít nhất
187 người đã được xác định thiệt mạng và 115 người hiện vẫn đang mất
tích. Chính phủ Hàn Quốc đã bị phê phán nặng nề về thảm họa và cách thức
xử lý chiến dịch cứu hộ.
"Tôi xin lỗi vì đã không thể ngăn chặn vụ tai nạn này và không xử
lý thích hợp vụ việc sau đó". "Tôi tin rằng, là thủ tướng, tôi chắc chắn
phải nhận trách nhiệm và từ chức", ông Chung Hong-won nói.
"Tôi thành thực hi vọng rằng người dân Hàn Quốc và gia đình các nạn
nhân vụ chìm phà Sewol sẽ tha thứ và hiểu cho tôi vì không thể hoàn
thành nhiệm vụ cho tới cùng. Một lần nữa tôi mong các bạn ủng hộ các
chiến dịch cứu hộ", Thủ tướng Hàn Quốc nhấn mạnh.
Ở Việt Nam, đất nước được bà Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan mô
tả "dân chủ gấp vạn lần các nước dân chủ tư sản", có những việc hiển
nhiên, trách nhiệm rõ ràng, nhưng các quan chức bình chân như vại. Sức
ép dư luận không có hiệu quả gì.
Mùa lũ lụt miền Trung năm 2013 vừa qua, “các hồ chứa nước thủy điện
xả lũ mà báo trước quá gấp nên dân trở tay không kịp, nhiều gia đình
chỉ kịp chạy tháo thân, không kịp mang theo gì, tất cả tài sản bị nhấn
chìm dưới nước”, theo lời ông Phạm Thế Dũng, Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân
tỉnh Gia Lai. Trong đợt này, hơn năm chục mạng người bị lũ nhấn chìm.
Tờ Ðất Việt viết rằng:
“Ðã nhiều năm nay, miền Trung khốn khổ vì các nhà máy thủy điện,
nhà máy thủy điện xây tràn lan thiếu quy hoạch, dung tích hồ chứa nước
bé, cứ đến mùa mưa lũ chẳng còn cách nào khác là xả lũ xuống đầu dân ở
hạ du. Nước trong hồ chứa xả ra hòa lẫn với nước sông, dâng cao tràn vào
làng xóm, giết hại dân lành, nhấn chìm nhà cửa, hoa màu, thật là một
tội ác âm thầm và êm thấm”.
“Không thể chấp nhận được việc xả lũ mà chính quyền địa phương và
người dân không biết. Phải điều tra, xử lý hình sự, không thể để hàng
chục người chết như thế, bao nhiêu tài sản bị thiệt hại mà không ai bị
xử lý”, ông Nguyễn Văn Phúc đại biểu nhắc nói trong cuộc chất vấn tại
quốc hội ngày 19 tháng 11, 2013.
Nói là nói vậy thôi. Từ bấy đến nay, đã nửa năm trôi qua, sự việc
nghiêm trọng đến vậy mà bị chìm xuồng và coi như huề cả làng! Mạng dân
đen rẻ như mới rau mớ cỏ! Cấp Bộ đổ lỗi cho cấp địa phương phê duyệt quy
hoạch, nhưng cấp địa phương lại phản pháo cho rằng không lãnh đạo địa
phương nào dám đặt bút ký quy hoạch thủy điện của địa phương nếu không
có sự đồng thuận của Bộ Công Thương và Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông
Thôn.
Vụ sập cầu treo ở Lai Châu làm 8 người chết, 37 người bị thương là
do ốc neo cáp bị làm ẩu. Tiền viện trợ ODA của chính phủ Đan Mạch trôi
theo nước. Quá dễ dàng điều tra xác minh ai là đơn vị thi công và không
ai khác ngoài Bộ trưởng Bộ Giao thông phải chịu trách nhiệm về hậu quả.
Thể nhưng sự việc cũng chìm vào im lặng đáng sợ!
Bao nhiêu scandal, từ các vụ thai phụ và thai nhi chết do sự
tắc trách của cán bộ y tế, không được chăm sóc thích ứng, bởi vì không
có phong bì bồi dưỡng; Các cháu nhỏ tiêm phải vacxin đểu dẫn tới tử
vong; Nạn dịch sởi làm hơn 120 trẻ nhỏ chết. Dư luận phẫn nộ trên mạng
xã hội, một số nguời giăng biểu ngữ trên đường phố đòi Bộ trưởng Y tế
Nguyễn Thị Kim Tiến từ chức. Đúng ra, chuyện từ chức này là đuơng nhiên.
Nhưng trong bộ máy cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam không có văn hoá
từ chức! Chẳng hề có Bộ trưởng nào có thể mất ghế vì sức ép dư luận cả.
Ngay chuyện bỏ phiếu tín nhiệm ở một chính phủ dân chủ là cốt
để kiểm tra uy tín nhằm đưa đến quyết định buộc ai đó từ chức hay
không, thông thường được đưa ra bởi các đảng đối lập trong quốc hội.
Quốc hội Việt Nam cũng làm nhưng diễn trò hề với ba mức tín nhiện cao,
tín nhiệm và tín nhiệm thấp. Có nghĩa là bất kỳ ai cũng đều được tín
nhiệm cả, chỉ cao hay thấp mà thôi. Và rốt cuộc sau khi bỏ phiếu, tất cả
đều tại vị. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khi nói đến từ chức đã khẳng định
ông ta chẳng hề xin xỏ ai, mà chỉ thực thi trách nhiệm của đảng phân
công.
Mua quan bán chức là thông lệ trong hệ thống cầm quyền ở Việt
Nam hiện nay. Mỗi ghế Bộ trưởng đều đã đuợc trả giá, cao nhất là ghế Bộ
trưởng Giao thông, một nguồn tin đáng tin cậy cho tôi biết như thế. Thế
thì vốn liếng đầu tư chưa lấy đủ, hoặc đã lấy lại vốn rồi nhưng chưa có
lãi, làm sao có thể từ chức?
Vô liêm sỉ, vô trách nhiệm, không có lòng tự trọng và bất
lương là bản chất chung của các quan chức cộng sản Việt Nam. Những thứ
đó qua xa xỉ đối với những con người mà chức vụ đi đôi với đồng tiền đã
biến họ thành một thứ ma quỷ.
© Lê Diễn Đức
TS. NGUYỄN PHÚC LIÊN * QUỐC HẬN 30/4
TỪ QUỐC HẬN 30/4
ĐẾN QUYẾT TÂM CHÔN VÙI CƠ CHẾ CSVN
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, MÙA QUỐC HẬN 30.04.2014
Web: http://VietTUDAN.net
Lòng Dân đã
chín mùi uất hận đối với đảng CSVN, không phải chỉ do nguyên ngày 30/4/1975, mà
còn vì lý do là tình trạng phá sản Kinh tế do chính cái Cơ chế CSVN hiện hành.
Lòng Dân uất hận đối với đảng CSVN
Chúng tôi
mượn lời của Ký giả Thomas FULLER của New York Times đã đến tận Sài Gòn và viết
trên New York Times những nhận xét sau đây:
“Tin New York - Trong một sự kiện khá đặc
biệt, hôm nay nhật báo New York Times đã đăng ngay trang nhất một bài báo về
lòng tin của người dân Việt Nam vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong tình
hình khó khăn hiện nay. Ký giả Thomas Fuller của New York Times đã đến tận
Saigon để nghiên cứu và viết bài này, đã tiếp xúc với nhiều người và cho biết
người dân Việt Nam nay không còn tin vào đảng Cộng sản nữa. Theo tác giả bài
báo thì Đảng Cộng sản Việt Nam đang đối mặt với sự giận dữ ngày càng tăng của
người dân về sự trượt dốc của nền kinh tế, và nội bộ Đảng đang bị chia rẽ giữa
một bên là những người bảo thủ muốn vẫn duy trì những nguyên tắc soi đường của
chủ nghĩa xã hội và sự độc quyền lãnh đạo, và một bên là những người kêu gọi
một xã hội đa nguyên và chấp nhận hoàn toàn chủ nghĩa tư bản.
Bài báo cho rằng giờ đây sự chỉ trích Đảng đã
bùng nổ trên toàn xã hội. Bài báo nhận xét Đảng Cộng sản Việt Nam đã suy đồi cả
về tinh thần lẫn đạo đức. Sự mục nát sẽ dẫn đến chỗ Đảng sụp đổ, nhưng tương
lai e rằng sẽ còn tồi tệ hơn nhiều so với hiện tại. Đặc biệt một bài nhận định
trên trang mạng cho rằng với sự thật về đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, những
người đã từng tham gia vào phong trào phản chiến trong những năm 60 và 70 nên
treo cổ trong tủi hổ và nên xin lỗi người dân Việt Nam.
Bài viết này cho rằng nếu đảng Cộng sản không
chiếm được miền nam năm 1975, thì giờ này Việt Nam đã như Nhật Bản, Nam Hàn,
Thái Lan hay Singapore, chắc chắn là không hoàn hảo nhưng sẽ tốt hơn nhiều và
lại không có chết chóc hay tàn phá xảy ra như hiện nay.”
Tình trạng phá sản Kinh tế tàn tệ
Chúng tôi
trích ra đây tình trạng phá sản Kinh tế được xác nhận bởi chính những Lãnh đạo
của đảng CSVN:
Tình hình kinh tế gay go lắm rồi!
Tuổi Trẻ – Thứ tư, ngày 15
tháng năm năm 2013
TT - Đó là
nhận xét của Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan tại phiên họp ngày 14-5 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, khi nghe các báo cáo của Chính phủ và Ủy ban Kinh tế,
Ủy ban Tài chính - ngân sách về tình hình kinh tế - xã hội và thu ngân sách
những tháng đầu năm 2013.
Tiền huy
động tăng nhưng dư nợ tín dụng thấp, doanh nghiệp cũng không mặn mà vay khi
hàng hóa tồn kho lớn là những khó khăn lớn của nền kinh tế lúc này
Còn Chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Sinh Hùng cho rằng: “Tình hình doanh nghiệp bi đát, tôi nghĩ có tới 100.000
doanh nghiệp chết chứ không phải chỉ mấy chục nghìn, tỉ lệ doanh nghiệp lỗ có
thể còn hơn 65%”.
"Tình hình đúng là hết sức đáng lo ngại,
tăng trưởng sản xuất giảm ở cả lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, bức
tranh vô cùng ảm đạm. Chỉ cần nhìn số lượng hàng chục nghìn doanh nghiệp phá
sản, phần còn lại thì đến 65% báo lỗ thì biết khả năng phục hồi kinh tế khó
khăn đến mức nào"
Ông Nguyễn
Xuân Cường (phó trưởng Ban Kinh tế trung ương)
“Dấu hiệu suy giảm kinh tế ngày càng rõ nét
hơn, tổng cầu nền kinh tế sụt giảm mạnh, thu ngân sách gặp nhiều khó khăn; nợ
xấu, tồn kho, khó khăn thị trường bất động sản và khả năng hấp thụ đầu vào của
khu vực sản xuất chưa được cải thiện” - Ủy ban Kinh tế đánh giá.
Theo Chủ
nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu, việc thực hiện tái cơ cấu và đổi mới mô
hình tăng trưởng chưa đem lại kết quả rõ rệt, chính sách kích thích tăng trưởng
bị giới hạn bởi thâm hụt ngân sách, trong khi thị trường vốn và tăng dư nợ tín
dụng cho nền kinh tế vẫn ở mức quá thấp.
Ba tháng đầu
năm, số lượng doanh nghiệp thành lập mới là 15.700 doanh nghiệp (giảm 6,8% về
số lượng, giảm 16% về vốn so với cùng kỳ năm trước); trong khi đó số doanh
nghiệp ngừng hoạt động, giải thể là 15.300 (tăng 14,6% so với quý 1-2012).
Ông Nguyễn
Xuân Cường - phó trưởng Ban Kinh tế trung ương - nói: “Tình hình đúng là hết
sức đáng lo ngại, tăng trưởng sản xuất giảm ở cả lĩnh vực công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ, bức tranh vô cùng ảm đạm. Chỉ cần nhìn số lượng hàng chục
nghìn doanh nghiệp phá sản, phần còn lại thì đến 65% báo lỗ thì biết khả năng
phục hồi kinh tế khó khăn đến mức nào”.
Một số thành
viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ “nghiêm túc và thật thà” trong
các con số báo cáo. “Báo cáo của Chính phủ cho thấy tỉ lệ nghèo vẫn giảm nhanh.
Tại sao kinh tế khó khăn như vậy, doanh nghiệp đình đốn, công nhân mất việc,
sản xuất ra không bán được hàng hóa mà lại giảm nghèo tốt như vậy? Tôi xuống
thực tế thấy nghèo tăng lên chứ không có giảm” - Phó chủ tịch Quốc hội Huỳnh
Ngọc Sơn nói.
Ông Nguyễn
Văn Giàu kể thêm: “Hoàn thuế VAT hôm trước nói 20.000 tỉ, mới có vài ngày mà
hôm nay nói là 33.000 tỉ. Không thể tưởng tượng được!”. Chủ tịch Hội đồng Dân
tộc Ksor Phước đề nghị các bộ, ngành hãy nhìn vào khó khăn của đất nước mà báo
cáo đúng tình hình, đừng đưa ra các con số báo cáo “vì cái ghế của mình”.
Việc phá sản
Kinh tế do Cơ chế làm phát sinh THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ. Qua hai lần Họp trung
ương đảng, người Dân thấy sự bất lực của đảng trong việc giải quyết THAM NHŨNG,
LÃNG PHÍ. Sự bất lực ấy sẽ còn tồn tại vì đảng vẫn cố níu lấy cái Cơ chế chủ
trương Độc tài Chính trị nắm Độc quyền Kinh tế. Nếu vẫn để Cơ chế này tồn tại,
thì Quê Hương Việt Nam vẫn đi thụt lùi về Kinh tế trong khi ấy các nước trong
vùng càng tiến xa lên. Đây là sự đau lòng cho những thế hệ đã qua, cho chúng ta
hiện nay và cho các thế hệ con cháu trong tương lai. Sự đau lòng ấy phải trở
thành UẤT HẬN cho cả Dân Tộc để đứng lên chấm dứt cái Cơ chế CSVN hiện hành.
Cả Dân Tộc kỷ niệm MÙA QUỐC HẬN 30/4/2014. Chúng ta nuôi
sự UẤT HẬN và OÁN THÙ, mà nỗi uất hận và oán thù thấm thía nhất là Cơ chế CSVN
đã làm cho đất nước ta chậm tiến để hậu quả còn kéo dài cho con cháu.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, MÙA QUỐC HẬN 30.04.2014
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 309
Đây là một phần bài nói của ông Nguyễn Bá Thanh trước 4.500 cán bộ các cấp của Đà nẵng
Thứ Hai, ngày 25 tháng 2 năm 2013
30-4-1975 ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, giang sơn thu về một mối. Như vậy sau 117 năm kể từ ngày Pháp nổ phát súng xâm lược vào Đà nẵng 1858 mở đầu cho cuộc xâm lược. Như các đ/c biết trong kháng chiến đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và bộ tham mưu tối cao có đức có tài, những tên tuổi như Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh…, góp phần vào trong chiến thắng chống Mỹ. Phải nói uy tín của Đảng đối với dân gần như tuyệt đối. Đảng gắn bó máu thịt với dân, dân rất tin Đảng.
Nhà tan cửa nát cũng ừ,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ được chừ, sứớng sao !
Có những gia đình như gia đình mẹ Thứ, chồng và con gần cả chục người hy sinh. Có những người mẹ lần lượt tiễn những người con cuối cùng mình rứt ruột đẻ ra để tham gia chiến đấu chiến thắng Mỹ.
Nhưng sau giải phóng miền Nam 1975, phải nói rằng những người cộng sản Việt Nam quá say sưa với chiến thắng, cứ tưởng mình thắng Mỹ là nhất rồi. Không có gì khó hơn thắng Mỹ mà còn làm được thì các thứ khác cũng làm được. Bắt đầu chủ quan, bắt đầu duy ý chí. Các đ/c nhớ lại Quỳnh lưu Nghệ an không? Thay trời đổi đất sắp đặt lại giang sơn. Mo cơm cùng với mắm cà quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mắm cà với mo cơm mà xây dựng cái gì?
Rồi bắt đầu nhập các tỉnh lại. Úi chu choa! Nhập các tỉnh Bình Trị Thiên. Dân mà đi ở dưới lên tỉnh phải đi hai ngày đường. À, Bình Trị Thiên hay là Thiên Trị Bình? Rồi các tỉnh trong này, Nghĩa Bình, Phú Khánh… rồi nhập hết. Người ta có câu ca:
Tỉnh dài huyện rộng xã to
Tỉnh lo phần tỉnh, dân lo phần mình.
Rứa cũng không nghe, cứ nhập dzô. Sau này phải chia tách ra như các đ/c biết. Mơ mơ màng màng !
Hồi nớ còn nhớ đ/c Phạm Tuân đi tàu vũ trụ với Go-rơ-bát-cô đó. Tất nhiên mình cũng vinh dự là người Việt Nam đầu tiên lên vũ trụ. Thế nhưng ở Hà nội lập tức xuất hiện câu ca liền:
Nước này còn lắm gian truân
Việc gì phải phóng Phạm Tuân lên trời?
Vậy là có thơ liền!
Và do say sưa chiến thắng, Đảng bắt đầu buông lỏng sự lãnh đạo, chính quyền bắt đầu buông lỏng sự quản lý nhà nước và cán bộ đảng viên bắt đầu thoái hóa biến chất. Những điều trước kia không bình thường thì dần dần bắt đầu bình thường.
Phải nói cái đường lối ngoại giao của chúng ta chưa thật khéo cho nên ta phải vướng vào hai cuộc chiến tranh : Biên giới phía Bắc, Biên giới Tây Nam. Chúng ta phải đụng độ với ông bạn khổng lồ phương Bắc. Trung Quốc xua hàng mấy chục sư đoàn kể cả xe tăng tràn sang 6 tỉnh phía Bắc, hướng Hà nội mà tiến. Lúc đó những lời hịch của cha ông ngày xưa, của Lý Thường Kiệt lại vang lên. Mở đài phát thanh ra là nghe :
Nam Quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư !
Rồi những lời hịch của Quang Trung lại vang lên :
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam Quốc sơn hà chi hữu chủ !
Liên tục trên đài phát thanh ! Và những con em chúng ta lại lên đường ra trận bảo vệ biên cương. Cùng một lúc trị cái đám Pôn Pốt – Iêng Sary, cứu họa diệt chủng Cam-pu-chia , đồng thời bảo vệ nhân dân mình. Cứ tối tối tràn sang giết hàng chục người vứt xuống sông. Đám Pôn Pốt tàn ác như thế nào các đ/c biết rồi. Một mặt phải đối phó với phương Bắc vô cùng vất vả.
Các đ/c nhớ rằng,tất nhiên tôi xét lại lịch sử theo quan điểm cá nhân tôi là như thế. Nếu Bác Hồ còn sống thì chưa chắc xảy ra hai cuộc chiến tranh này đâu. Với cái đường lối ngoại giao khéo léo tài tình, Bác Hồ sẽ tránh được hết !
Có những chi tiết báo chí không nêu đó thôi. Chứ thực chất năm 1951, Bác Hồ từ Việt Nam qua Trung quốc. Ổng nói làm sao, ổng rủ rê làm sao mà Mao Trạch Đông đi cùng Bác Hồ qua tít Mát-xcơ-va để gặp Xít-ta-lin. Gặp Xít-ta-lin rồi, Xít-ta-lin thì có biết Mao Trạch Đông của cách mạng Trung Quốc, nhưng Việt Nam hồi đó chưa có tên tuổi chi hết. Bác Hồ mới bảo là : ông chưa biết tui, ông này thì ổng biết tui, thôi thì ông viện trợ qua cho ông này rồi giúp cho tui để tui về chiến đấu với thực dân Pháp, tui giành độc lập. Xít-ta-lin đồng ý.
Cho nên giai đoạn một số vũ khí của Liên Xô cộng một số vũ khí Trung Quốc đã giúp ta trong kháng chiến chống Pháp là bắt đầu từ cuộc đi đó. Một nước lớn như thế, Trung Quốc là nước lớn chứ không phải nhỏ. Nhưng mà Bác Hồ qua, ổng thuyết phục sao đó mà ảnh (tức là Mao Trạch Đông) xách cặp đi cùng với Bác. Lôi xềnh xệch nó đi qua tới Mát-xcơ-va ! Giỏi như thế đó !
Còn mình chừ mình nói loạng quạng, loạng quạng...
http://ygiao.blogspot.ca/2013/02/ong-nguyen-ba-thanh-bac-ho-tung-loi.html
LỜI BÀN CỦA VẠN MỘC CƯ SĨ
Ông Nguyễn Bá Thanh đã nói chuyện vào ngày 25 -2-2013 với 4500 cán bộ Đà Nẵng và được tạp chí điện tử Y Giáo ghi lại. Buổi nói chuyện đã hơn một năm rồi, nhưng nay người viết vô tình tìm được cho nên xin ghi lại cảm tưởng của mình.
1. NỊNH HÓT
Ông Nguyễn Bá Thanh vừa được ơn mưa móc, ra Hà Nội lãnh ấn tiên phong để phanh thây uống máu quân thù. Thanh thế oai phong lẫm liệt, nay áo gấm về quê tất hả hê vui sướng. Bản thân như thế, cơ hội như thế và sống trong xã hội cộng sản muốn tồn tại, muốn lên cao tất phải bò, phải cúi, phải lạy và phải nịnh. Đó là quy luật trong xã hội chủ nghĩa.
Viết một quyển sách, một bài báo, tác giả phải theo chỉ thị của cấp trên đã đành mà còn phải nói vài câu vài chữ về Mác Dao ,Mao Hồ thì bản thân mới an toàn.. Bởi vậy mà ở đầu, ông Nguyễn Bá Thanh phải ca:"những tên tuổi như Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh…, góp phần vào trong chiến thắng chống Mỹ. Phải nói uy tín của Đảng đối với dân gần như tuyệt đối. Đảng gắn bó máu thịt với dân, dân rất tin Đảng."
2. GIẢ DANH TIẾN BỘ, MẠNH DẠN PHÊ PHÁN CỘNG ĐẢNG
Làm cán bộ thì tất nhiên phải nịnh, nhưng nịnh mãi, nịnh nhiều thì cũng tự thấy xấu hổ cho nên phải nói gì đó để tỏ mình cứng rắn, trung trực chống thoái hóa, tham nhũng, sai lầm và vô đạo đức. Vì vậy mà trong các báo cáo đại hội đảng, bên cạnh những lời ca tụng, ninh hót, người ta cũng phải nói đôi hàng về khuyết điểm theo tinh thần phê và tự phê.. Thực tế ai dám phê bình lãnh tụ, phê bình đảng? Cho nên các đảng viên, cán bộ phải khôn khéo. Như trong một cuộc họp cơ quan, thủ trưởng đứng ra tự phê:" Tính tôi nóng nảy, không thích ai phê bình. Ai phê bình tôi là chết với tôi"! Một nhân viên đến lượt phải phát biểu, đã nói như sau:" Tôi thấy thủ trưởng có nhiều khuyết điểm mà khuyết điểm lớn nhất là làm việc quá say mê , quên ăn uống, nghỉ ngơi. Xin thủ trưởng bảo trọng sức khoẻ để đưa đất nước tiến nhanh tiến mạnh lên XHCN. Nguyễn Bá Thanh cũng theo đường lối đó. Ông đem những cái sai lầm nhẹ hều ra nói để tỏ ra mình can trường, anh dũng, không phải thằng hèn.
Ông đem cái quyết tâm xây dựng xã hội chủ nghĩa bằng Mo cơm cùng với mắm cà của dân Nghệ Tĩnh ra cười cợt. Ông chỉ trích việc trung ương của ông nhập tỉnh rồi lại xuất tỉnh. Nhưng khi mấy ông tổ của ông làm thế ông có lên tiếng chống đối hay im lặng? Nếu ông anh hùng sao hồi đó ông không chỉ trích? Hồi Phạm Tuân lên vũ trụ, nhân dân ta cười cợt, còn ông thì sao? Ông cho rằng hồi 79, đường lối ngoại giao của cộng đảng chưa thật khéo cho nên phải vướng vào hai cuộc chiến tranh : Biên giới phía Bắc, Biên giới Tây Nam. Hồi đó ông có lên tiếng phê bình Lê Duẩn, Lê Đức Anh không? Toàn là chuyện đã qua, bây giờ ông vuốt đuôi. Tôi chắc chắn trăm phần trăm ông hoan hô đảng lãnh đạo, cương quyết thi hành và hưởng ứng mọi chính sách của cộng đảng. Nếu ông chống đối hay tỏ vẻ lạnh nhạt thì bây giờ ông đã mục xương, đâu có dịp được quan trên cất nhắc!
Cái bản chất nịnh là xuyên suốt các ông cộng sản từ Âu sang Á. Con người Nguyễn Bá Thanh cũng nhờ nịnh mà lên cao.Ông cũng như bao người cho rằng bây giờ khó khăn là do bọn nhỏ sau này làm bậy, còn đường lối đảng và ông Hồ là đúng trăm phần trăm. Nguyễn Bá Thanh nói:" Với cái đường lối ngoại giao khéo léo tài tình, Bác Hồ sẽ tránh được hết !"
Ngày xưa người ta bị cộng đảng lừa bịp, nay thì ai cũng biết những bậc lãnh đạo mà ông gọi là tài đức như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp là tay sai của Trung Quốc nhận mệnh lệnh Stalin và Mao Trạch Động, họ đã bán nước cho Trung Cộng. Sau khi Đông Âu và Liên xô sụp đổ, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười đã sang Thành Đô xin Trung cộng bảo hộ. Đầu hàng Trung Cộng, bán nước cho Trung Cộng , cúi đầu làm tay sai cho Trung cộng là đường lối ngoại giao khéo léo ư?
Nếu ông quả thực có tâm huyết với nước nhà, có lẽ ông nên đau khổ hơn là vui vẻ, hả hê như thái độ của ông trong buổi nói chuyện. Nếu ông quả thực có tiến bộ thì ông nên tiến thêm bước nữa trong suy tư và hành động . Nếu ông đã nhận thức trong 25 năm Đại Hàn đã đi từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên một nước kỹ nghệ, còn ta càng ngày càng suy sụp thì ông tính sao? Ông cứ theo cộng sản hay bỏ cộng sản để xây dựng một Việt Nam dân chủ và hùng mạnh? Nếu ông nhận thức xã hội người trọng tài năng, trọng phẩm chất, còn Việt nam bằng giả, người giả, nền giáo dục lạc hậu, cả nước chỉ chú trọng số lượng, vậy thì ông có nghĩ như thế nào, nguyên do tại đâu? và phải làm sao ? Lẽ nào đi theo cộng sản để đưa cả nước xuống hố? Nếu nước người có văn hóa từ chức, còn ta cứ bám lấy chức vụ, không những thế mà còn đem anh em, thê thiếp, con cái vào trong mọi cơ quan quyền lực, vậy thì phải làm sao? Xin thưa tất cả là do lý thuyết cộng sản, giáo dục cộng sản tàn ác, phi nhân. Ta phải từ bỏ nó, phải tiêu diệt nó để xây dựng một Việt nam dân chủ, tự do. Nếu ông không từ bỏ cộng sản, ông chỉ là tội đồ của dân tộc, sớm muộn sẽ bị nhân dân xử tội.
3. DỐI TRÁ, LỪA BỊP
Nói tóm lại, Nguyễn Bá Thanh đề cao ông Hồ coi như là bậc anh hùng chẳng sợ chi ai, nhưng thực tế, ông Hồ là kẻ ăn mày, thái độ của ông lúc ấy chắc cũng khúm núm như cái cúi mình kính cẩn của Trương Tấn Sang trước hàng quân Trung quốc trong dịp y sang triếu kiến Hồ Cẩm Đào tháng 9 năm 2012.
4. BA HOA, KHOÁC LÁC
Ông Nguyễn Bá Thanh lên tiếng chỉ trích đảng, sự thực ông chỉ nói theo bản báo cáo của đảng chứ không phải ý kiến riêng ông. Sau 1975, Đảng bắt đầu buông lỏng sự lãnh đạo, chính quyền bắt đầu buông lỏng sự quản lý nhà nước và cán bộ đảng viên bắt đầu thoái hóa biến chất. Những điều trước kia không bình thường thì dần dần bắt đầu bình thường... Năm nhiệm kỳ, 25 năm qua đảng đã ra bao nghị quyết về xây dựng đảng, nhưng càng nhiều nghị quyết thì tình hình xấu thêm, phức tạp thêm. Đại hội XI, trung ương 4 cũng đặt ra vấn đề cấp bách xây dựng đảng, nhưng kết quả vẫn là công tác yếu kém, một bộ phận không lớn các đảng viên, cả những lãnh đạo cao cấp suy thoái đạo đức, biến chất, phai nhạt lý tưởng, làm giảm lòng tin của nhân dân...
Ông nói mà không ngượng miệng. Ông nói chỉ để tỏ ra ta đây trung cang, thẳng thắn nhưng những lời nói của ông là vô nghĩa, bất lực. Thứ nhất là ông chẳng có vai vế quyền hành gì, chỉ là tay sai của người . Thứ hai là ông chẳng đề ra phương pháp gì để cứu vãn tình thế.
Trước tình thế Trung cộng xâm lược, ông có biện pháp gì? Ông có đồng ý việc cho công an đánh đập người biểu tình chống Trung cộng không? Ông nghĩ sao việc đền bù, tái định cư cho nạn kiều và việc Trung Cộng chiếm Hoàng Sa, Trường sa, xâm chiếm Tây nguyên, Quảng trị, Bình Dưong, Hà Tĩnh? Năm đại hội, 25 năm vẫn thối nát thì ông có kế sách gì hay rồi ông cũng bó tay? Thôi đi ông ơi, nửa thế kỷ trôi qua, nhà càng xuống cấp thê thảm, thì cái đảng đó, ngôi nhà đó mục nát lắm rồi, phải dở đi, đập phá đi để xây nhà khác. Ông và bọn ông chỉ nói mà không làm gì được. Căn bệnh trầm trọng như thế, không thể sửa chữa gì được. Nên chuẩn bị làm tang lễ cho đảng cộng sản là vừa. Boris Yeltsin đã nhận định :"Cộng Sản không thể nào sửa chửa, mà cần phải xóa bỏ đi (Communists are incurable, they must be eradicated).
Ông Nguyễn Bá Thanh tin tưởng đại hội XI sẽ có kết quả, diệt trừ đ/c X và đưa ông lên làm thủ tướng vì đại hội này có hai việc làm mới:
-làm từ trên xuống
-trước khi tự phê, đảng sẽ góp ý, gợi ý, nếu không thấy sai lầm, đảng sẽ chỉ rõ những sai lầm.
Ông đã lầm vì cái mà ông cho là mới, là tốt mà kết quả vẫn là số không, vì thế đồng chí X rất mạnh. Ông phê bình nó, nó chửi lại ông, ông hăm dọa nó, nó cầm súng nhắm vào ông thì ông làm cái gì? Ông Nguyễn Bá Thanh chỉ là tay sai, đâu có uy quyền mạnh mẽ hơn đồng chí X. Lại nữa, trừ gian phi thì phải có tòa án nghiêm minh, vua quan trong sạch, còn ăn cướp mà làm chánh án , làm công an đi bắt quân gian thì chỉ là trò cười của lịch sử cộng đảng!
5. MÂU THUẪN
Vì dối trá, khoác lác, Nguyễn Bá Thanh ăn nói mâu thuẫn, câu sau chửi câu trước. Câu trên ông ca cẩm Lê Duẩn tài đức nhưng đoạn dưới ông cho Lê Duẩn sai lầm gây ra hai cuộc chiến tranh phía bắc và tây nam. Vậy Lê Duẩn có tài đức hay chỉ là một anh nhà quê kiêu căng, tự phụ đẩy nhân dân ta vào cảnh chết choc ,lầm than ?
Ông Nguyễn Bá Thanh cũng chỉ là hạng đầu voi đuôi chuột. Vai trò của ông là trừ tham nhũng nhưng trong cuộc họp này ông ra mặt bênh vực cho đám thủ hạ của ông, dù tham nhũng, bất tài, quần chúng bất phục mà vẫn được giữ chức này chức kia. Ông cũng tỏ vẻ bao dung che chở cho những cán bộ xấu, chỉ thuyên chuyển loanh quanh it lâu và cho rằng đó là những lỗi lầm nhỏ, không đáng gì . Ông vin vào câu:" dụng nhân như dụng mộc" nghĩa là ông dùng củi mục xây nhà cửa cầu cống, lâu đài , ông tin dùng những kẻ tham nhũng, bất tài, vô đạo đức. Nhự vậy, ông nói sao với đồng chí X dù ông ấy là gỗ mục, là sâu bọ, là rắn rết? Ông bao che cho đàn em của ông, Trương Tấn Sang bao che cho đàn em của Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng cũng thế thì làm sao bài trừ tham nhũng , xây dựng đảng, chấn chỉnh tổ chức hở trời?
Ông khoác lác ghê lắm. Trong khi ông cho rằng đa số cán bộ suy thoái., biến chất, xã hội băng hoại, đâu cũng vì tiền mà ông lại bảo Đà Nẵng của ông tốt lắm, không thể thăng tiến bằng tiền bạc, ai có tài là được trọng dụng! Ông khoác lác và mâu thuẫn vì trước đó chính ông đã nói nhiều về các cán bộ Đà Nẵng tham tiền, và chính ông cũng tỏ ra hống hách với nhân dân khi có người đến nộp đơn xin đất. Không lẽ Đà Nẵng của ông hơn Hà Nội ư? Và ông hơn Lê Duẩn, Đỗ Mười,Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh ư?
Nói tóm lại, ông Nguyễn Bá Thanh chỉ là một con người cộng sản khoác lac, dối trá và nịnh trên đạp dưới, ông chỉ là tay sai của người nhưng lại tưởng ông ghê gớm lắm, thực ra ông cũng chỉ là dòi bọ, trâu ngựa như các bọn khác trong cộng đảng thôi! Nếu ông đừng theo cộng đảng, làm một danh hài kể chuyện tiếu lâm thì rất hay vì giọng nói to, rõ ràng, tự nhiên và có vẻ vui nhộn có lẽ sẽ được quần chúng ưa thích.
Saturday, April 26, 2014
NGUYỄN BÁ THANH * NÓI CHUYỆN VỚI 4500 CÁN BỘ
ÔNG NGUYỄN BÁ THANH: BÁC HỒ TỪNG LÔI XỀNH XỆCH MAO TRẠCH ĐÔNG QUA MÁT-XCƠ-VA GẶP XÍT-TA-LIN !
Đây là một phần bài nói của ông Nguyễn Bá Thanh trước 4.500 cán bộ các cấp của Đà nẵng
Thứ Hai, ngày 25 tháng 2 năm 2013
30-4-1975 ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, giang sơn thu về một mối. Như vậy sau 117 năm kể từ ngày Pháp nổ phát súng xâm lược vào Đà nẵng 1858 mở đầu cho cuộc xâm lược. Như các đ/c biết trong kháng chiến đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và bộ tham mưu tối cao có đức có tài, những tên tuổi như Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh…, góp phần vào trong chiến thắng chống Mỹ. Phải nói uy tín của Đảng đối với dân gần như tuyệt đối. Đảng gắn bó máu thịt với dân, dân rất tin Đảng.
Nhà tan cửa nát cũng ừ,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ được chừ, sứớng sao !
Có những gia đình như gia đình mẹ Thứ, chồng và con gần cả chục người hy sinh. Có những người mẹ lần lượt tiễn những người con cuối cùng mình rứt ruột đẻ ra để tham gia chiến đấu chiến thắng Mỹ.
Nhưng sau giải phóng miền Nam 1975, phải nói rằng những người cộng sản Việt Nam quá say sưa với chiến thắng, cứ tưởng mình thắng Mỹ là nhất rồi. Không có gì khó hơn thắng Mỹ mà còn làm được thì các thứ khác cũng làm được. Bắt đầu chủ quan, bắt đầu duy ý chí. Các đ/c nhớ lại Quỳnh lưu Nghệ an không? Thay trời đổi đất sắp đặt lại giang sơn. Mo cơm cùng với mắm cà quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mắm cà với mo cơm mà xây dựng cái gì?
Rồi bắt đầu nhập các tỉnh lại. Úi chu choa! Nhập các tỉnh Bình Trị Thiên. Dân mà đi ở dưới lên tỉnh phải đi hai ngày đường. À, Bình Trị Thiên hay là Thiên Trị Bình? Rồi các tỉnh trong này, Nghĩa Bình, Phú Khánh… rồi nhập hết. Người ta có câu ca:
Tỉnh dài huyện rộng xã to
Tỉnh lo phần tỉnh, dân lo phần mình.
Rứa cũng không nghe, cứ nhập dzô. Sau này phải chia tách ra như các đ/c biết. Mơ mơ màng màng !
Hồi nớ còn nhớ đ/c Phạm Tuân đi tàu vũ trụ với Go-rơ-bát-cô đó. Tất nhiên mình cũng vinh dự là người Việt Nam đầu tiên lên vũ trụ. Thế nhưng ở Hà nội lập tức xuất hiện câu ca liền:
Nước này còn lắm gian truân
Việc gì phải phóng Phạm Tuân lên trời?
Vậy là có thơ liền!
Và do say sưa chiến thắng, Đảng bắt đầu buông lỏng sự lãnh đạo, chính quyền bắt đầu buông lỏng sự quản lý nhà nước và cán bộ đảng viên bắt đầu thoái hóa biến chất. Những điều trước kia không bình thường thì dần dần bắt đầu bình thường.
Phải nói cái đường lối ngoại giao của chúng ta chưa thật khéo cho nên ta phải vướng vào hai cuộc chiến tranh : Biên giới phía Bắc, Biên giới Tây Nam. Chúng ta phải đụng độ với ông bạn khổng lồ phương Bắc. Trung Quốc xua hàng mấy chục sư đoàn kể cả xe tăng tràn sang 6 tỉnh phía Bắc, hướng Hà nội mà tiến. Lúc đó những lời hịch của cha ông ngày xưa, của Lý Thường Kiệt lại vang lên. Mở đài phát thanh ra là nghe :
Nam Quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư !
Rồi những lời hịch của Quang Trung lại vang lên :
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam Quốc sơn hà chi hữu chủ !
Liên tục trên đài phát thanh ! Và những con em chúng ta lại lên đường ra trận bảo vệ biên cương. Cùng một lúc trị cái đám Pôn Pốt – Iêng Sary, cứu họa diệt chủng Cam-pu-chia , đồng thời bảo vệ nhân dân mình. Cứ tối tối tràn sang giết hàng chục người vứt xuống sông. Đám Pôn Pốt tàn ác như thế nào các đ/c biết rồi. Một mặt phải đối phó với phương Bắc vô cùng vất vả.
Các đ/c nhớ rằng,tất nhiên tôi xét lại lịch sử theo quan điểm cá nhân tôi là như thế. Nếu Bác Hồ còn sống thì chưa chắc xảy ra hai cuộc chiến tranh này đâu. Với cái đường lối ngoại giao khéo léo tài tình, Bác Hồ sẽ tránh được hết !
Có những chi tiết báo chí không nêu đó thôi. Chứ thực chất năm 1951, Bác Hồ từ Việt Nam qua Trung quốc. Ổng nói làm sao, ổng rủ rê làm sao mà Mao Trạch Đông đi cùng Bác Hồ qua tít Mát-xcơ-va để gặp Xít-ta-lin. Gặp Xít-ta-lin rồi, Xít-ta-lin thì có biết Mao Trạch Đông của cách mạng Trung Quốc, nhưng Việt Nam hồi đó chưa có tên tuổi chi hết. Bác Hồ mới bảo là : ông chưa biết tui, ông này thì ổng biết tui, thôi thì ông viện trợ qua cho ông này rồi giúp cho tui để tui về chiến đấu với thực dân Pháp, tui giành độc lập. Xít-ta-lin đồng ý.
Cho nên giai đoạn một số vũ khí của Liên Xô cộng một số vũ khí Trung Quốc đã giúp ta trong kháng chiến chống Pháp là bắt đầu từ cuộc đi đó. Một nước lớn như thế, Trung Quốc là nước lớn chứ không phải nhỏ. Nhưng mà Bác Hồ qua, ổng thuyết phục sao đó mà ảnh (tức là Mao Trạch Đông) xách cặp đi cùng với Bác. Lôi xềnh xệch nó đi qua tới Mát-xcơ-va ! Giỏi như thế đó !
Còn mình chừ mình nói loạng quạng, loạng quạng...
http://ygiao.blogspot.ca/2013/02/ong-nguyen-ba-thanh-bac-ho-tung-loi.html
LỜI BÀN CỦA VẠN MỘC CƯ SĨ
Ông Nguyễn Bá Thanh đã nói chuyện vào ngày 25 -2-2013 với 4500 cán bộ Đà Nẵng và được tạp chí điện tử Y Giáo ghi lại. Buổi nói chuyện đã hơn một năm rồi, nhưng nay người viết vô tình tìm được cho nên xin ghi lại cảm tưởng của mình.
1. NỊNH HÓT
Ông Nguyễn Bá Thanh vừa được ơn mưa móc, ra Hà Nội lãnh ấn tiên phong để phanh thây uống máu quân thù. Thanh thế oai phong lẫm liệt, nay áo gấm về quê tất hả hê vui sướng. Bản thân như thế, cơ hội như thế và sống trong xã hội cộng sản muốn tồn tại, muốn lên cao tất phải bò, phải cúi, phải lạy và phải nịnh. Đó là quy luật trong xã hội chủ nghĩa.
Viết một quyển sách, một bài báo, tác giả phải theo chỉ thị của cấp trên đã đành mà còn phải nói vài câu vài chữ về Mác Dao ,Mao Hồ thì bản thân mới an toàn.. Bởi vậy mà ở đầu, ông Nguyễn Bá Thanh phải ca:"những tên tuổi như Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh…, góp phần vào trong chiến thắng chống Mỹ. Phải nói uy tín của Đảng đối với dân gần như tuyệt đối. Đảng gắn bó máu thịt với dân, dân rất tin Đảng."
2. GIẢ DANH TIẾN BỘ, MẠNH DẠN PHÊ PHÁN CỘNG ĐẢNG
Làm cán bộ thì tất nhiên phải nịnh, nhưng nịnh mãi, nịnh nhiều thì cũng tự thấy xấu hổ cho nên phải nói gì đó để tỏ mình cứng rắn, trung trực chống thoái hóa, tham nhũng, sai lầm và vô đạo đức. Vì vậy mà trong các báo cáo đại hội đảng, bên cạnh những lời ca tụng, ninh hót, người ta cũng phải nói đôi hàng về khuyết điểm theo tinh thần phê và tự phê.. Thực tế ai dám phê bình lãnh tụ, phê bình đảng? Cho nên các đảng viên, cán bộ phải khôn khéo. Như trong một cuộc họp cơ quan, thủ trưởng đứng ra tự phê:" Tính tôi nóng nảy, không thích ai phê bình. Ai phê bình tôi là chết với tôi"! Một nhân viên đến lượt phải phát biểu, đã nói như sau:" Tôi thấy thủ trưởng có nhiều khuyết điểm mà khuyết điểm lớn nhất là làm việc quá say mê , quên ăn uống, nghỉ ngơi. Xin thủ trưởng bảo trọng sức khoẻ để đưa đất nước tiến nhanh tiến mạnh lên XHCN. Nguyễn Bá Thanh cũng theo đường lối đó. Ông đem những cái sai lầm nhẹ hều ra nói để tỏ ra mình can trường, anh dũng, không phải thằng hèn.
Ông đem cái quyết tâm xây dựng xã hội chủ nghĩa bằng Mo cơm cùng với mắm cà của dân Nghệ Tĩnh ra cười cợt. Ông chỉ trích việc trung ương của ông nhập tỉnh rồi lại xuất tỉnh. Nhưng khi mấy ông tổ của ông làm thế ông có lên tiếng chống đối hay im lặng? Nếu ông anh hùng sao hồi đó ông không chỉ trích? Hồi Phạm Tuân lên vũ trụ, nhân dân ta cười cợt, còn ông thì sao? Ông cho rằng hồi 79, đường lối ngoại giao của cộng đảng chưa thật khéo cho nên phải vướng vào hai cuộc chiến tranh : Biên giới phía Bắc, Biên giới Tây Nam. Hồi đó ông có lên tiếng phê bình Lê Duẩn, Lê Đức Anh không? Toàn là chuyện đã qua, bây giờ ông vuốt đuôi. Tôi chắc chắn trăm phần trăm ông hoan hô đảng lãnh đạo, cương quyết thi hành và hưởng ứng mọi chính sách của cộng đảng. Nếu ông chống đối hay tỏ vẻ lạnh nhạt thì bây giờ ông đã mục xương, đâu có dịp được quan trên cất nhắc!
Cái bản chất nịnh là xuyên suốt các ông cộng sản từ Âu sang Á. Con người Nguyễn Bá Thanh cũng nhờ nịnh mà lên cao.Ông cũng như bao người cho rằng bây giờ khó khăn là do bọn nhỏ sau này làm bậy, còn đường lối đảng và ông Hồ là đúng trăm phần trăm. Nguyễn Bá Thanh nói:" Với cái đường lối ngoại giao khéo léo tài tình, Bác Hồ sẽ tránh được hết !"
Ngày xưa người ta bị cộng đảng lừa bịp, nay thì ai cũng biết những bậc lãnh đạo mà ông gọi là tài đức như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp là tay sai của Trung Quốc nhận mệnh lệnh Stalin và Mao Trạch Động, họ đã bán nước cho Trung Cộng. Sau khi Đông Âu và Liên xô sụp đổ, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười đã sang Thành Đô xin Trung cộng bảo hộ. Đầu hàng Trung Cộng, bán nước cho Trung Cộng , cúi đầu làm tay sai cho Trung cộng là đường lối ngoại giao khéo léo ư?
Nếu ông quả thực có tâm huyết với nước nhà, có lẽ ông nên đau khổ hơn là vui vẻ, hả hê như thái độ của ông trong buổi nói chuyện. Nếu ông quả thực có tiến bộ thì ông nên tiến thêm bước nữa trong suy tư và hành động . Nếu ông đã nhận thức trong 25 năm Đại Hàn đã đi từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên một nước kỹ nghệ, còn ta càng ngày càng suy sụp thì ông tính sao? Ông cứ theo cộng sản hay bỏ cộng sản để xây dựng một Việt Nam dân chủ và hùng mạnh? Nếu ông nhận thức xã hội người trọng tài năng, trọng phẩm chất, còn Việt nam bằng giả, người giả, nền giáo dục lạc hậu, cả nước chỉ chú trọng số lượng, vậy thì ông có nghĩ như thế nào, nguyên do tại đâu? và phải làm sao ? Lẽ nào đi theo cộng sản để đưa cả nước xuống hố? Nếu nước người có văn hóa từ chức, còn ta cứ bám lấy chức vụ, không những thế mà còn đem anh em, thê thiếp, con cái vào trong mọi cơ quan quyền lực, vậy thì phải làm sao? Xin thưa tất cả là do lý thuyết cộng sản, giáo dục cộng sản tàn ác, phi nhân. Ta phải từ bỏ nó, phải tiêu diệt nó để xây dựng một Việt nam dân chủ, tự do. Nếu ông không từ bỏ cộng sản, ông chỉ là tội đồ của dân tộc, sớm muộn sẽ bị nhân dân xử tội.
3. DỐI TRÁ, LỪA BỊP
Đặc điểm của cộng sản là dối trá, lừa bịp. Nguyễn Bá Thanh cũng không ngoại lệ. Ông nói:"năm
1951, Bác Hồ từ Việt Nam qua Trung quốc. Ổng nói làm sao, ổng rủ rê làm
sao mà Mao Trạch Đông đi cùng Bác Hồ qua tít Mát-xcơ-va để gặp
Xít-ta-lin. Gặp Xít-ta-lin rồi, Xít-ta-lin thì có biết Mao Trạch Đông
của cách mạng Trung Quốc, nhưng Việt Nam hồi đó chưa có tên tuổi chi
hết. Bác Hồ mới bảo là : ông chưa biết tui, ông này thì ổng biết tui,
thôi thì ông viện trợ qua cho ông này rồi giúp cho tui để tui về chiến
đấu với thực dân Pháp, tui giành độc lập. Xít-ta-lin đồng ý....Một nước
lớn như thế, Trung Quốc là nước lớn chứ không phải nhỏ. Nhưng mà Bác Hồ
qua, ổng thuyết phục sao đó mà ảnh (tức là Mao Trạch Đông) xách cặp đi
cùng với Bác. Lôi xềnh xệch nó đi qua tới Mát-xcơ-va ! Giỏi như thế đó !
Ông Nguyễn Bá Thanh bịa đặt làm như ông Hồ sai bảo Mao Trạch Đông lẫn Stalin, như ông Hồ là cha chú của hai đứa trẻ lên năm, lên mười. Theo nhật ký Hoàng Tùng và nhiều tài liệu khác, Mao sang Mạc Tư Khoa gặp Stalin rồi gọi ông Hồ qua Nga sai bảo.
Sang Trung Quốc, Mao đưa Bác vào quỹ đạo của Mao. Sang tới Liên Xô, Stalin lại đưa Bác vào quỹ đạo của Stalin (3). Chuyến đi Trung quốc và Liên xô năm 1950 của Bác là chuyến đi gian khổ. Khi đó Stalin nói : Bây giờ cách mạng Trung quốc thành công rồi, Trung quốc có trách nhiệm giúp đỡ các nước phương Đông, cũng như Liên xô có trách nhiệm giúp đỡ các nước châu Âu và châu Mỹ. Trung quốc cho như thế là Quốc tế cộng sản đă phân công Trung quốc phụ trách châu Á. Bám vào y' kiến ấy, sau này Trung Quốc coi như là người đỡ đầu ta....Sau Đại hội ta không nói gi` đến cải cách ruộng đất, chỉ thấy nói đến lí thuyết ba giai đoạn, vi` thế nên mùa hè năm 1952 Mao Trạch Đông và Stalin gọi Bác sang, nhất định bắt phải thực hiện cải cách ruộng đất.
HOÀNG TÙNG * HỒI KÝ (1)
Nguyễn Minh Cần viết: Xuất phát từ đâu mà trận bão táp ghê rợn đó đã tràn đến cái xứ sở đau thương này? Số là trong chuyến đi bí mật của ông Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc (hồi cuối năm 1950) đến Moskva (đầu năm 1951), ông đã gặp Stalin và Mao Trạch Ðông (lúc đó đang có mặt tại Moskva). Hai ông này đã nhận xét là Ðảng Việt Nam coi nhẹ nhiệm vụ phản phong (ý nói hữu khuynh), và chỉ thị phải tiến hành cách mạng phản phong để “bồi dưỡng động lực cách mạng là nông dân lao động”, nói cụ thể là phải làm CCRÐ ở các vùng gọi là “giải phóng”
(Xin đừng quên bài học Cải Cách Ruộng Ðất nửa thế kỷ trước)
Nguyễn Văn Trấn viết:" Năm 1950, Hồ Chí Minh qua Nga, yết kiến Staline với sự hiện diện của Mao-trạch-đông. Staline chỉ ông 2 cái ghế và nói “đây là ghế địa chủ, đây là ghế nông dân. Ông chọn ngồi vào ghế nào?”
http://motgoctroi.com/StLichsu/LSCandai/CCRDat/CCRD_CCDDia.htm
Theo Vũ Ngự Chiêu, do Mao đề nghị, vài ngày sau khi Hồ tới Mat-scơ-va, Stalin tiếp Hồ tại văn phòng với sự hiện diện của Geogii M. Malenkov, Vyacheslav M. Molotov, Nikolai A. Bulgarin, Wang Jiaxiang (Vương Gia Tường), Ðại sứ Trung Cộng tại Nga, và Trần Ðăng Ninh. Stalin hỏi về lý do giải tán Ðảng Cộng Sản, và chính sách trong tương lai. Stalin cũng muốn Hồ đứng về phía nhân dân, thực hiện ngay “cách mạng thổ địa.”
Chuyến Ði Cầu Viện Bí Mật Năm 1950 Của Hồ (phần 2 Của 2)Vũ Ngự Chiêu, Ph.D., J.D. Thứ Hai, Ngày 4 tháng 1-2010. http://xeom.wordpress.com/hochiminh/cauvien2/
Theo các tài liệu trên, và theo thư của ông Hồ viết cho Stalin xin súng đạn như sau:
——————————————————— (Ký tên tiếng Tàu)
Thư thứ hai:
Đồng chí Stalin kính mến
Tôi đã bắt đầu soạn thảo đề án cải cách ruộng đất của Đảng Lao Động Việt Nam, và sẽ giới thiệu với đồng chí trong thời gian tới.
- Tôi gửi tới đồng chí một số yêu cầu, và hi vọng sẽ nhận được chỉ thị của đồng chí về những vấn đề này.
1. Cử một hoặc 2 đồng chí Liên Xô tới Việt Nam để làm quen và tìm hiểu thực trạng ở đó. Nếu như các đồng chí đó biết tiếng Pháp đủ để có thể giao tiếp với nhiều người. Từ Bắc Kinh tới chỗ chúng tôi đi đường mất khoảng 10 ngày.
2. Chúng tôi muốn gửi tới Liên Xô 50-100 du học sinh, với trình độ văn hóa lớp 9 ở Việt Nam, trong số họ có người là Đảng viên và cũng có ngừơi chưa phải là Đảng viên, độ tuổi của họ từ 17-22. Đồng chí nhất trí về vấn đề này chứ.
3. Chúng tôi muốn nhận từ phía các đồng chí 10 tấn thuốc kí ninh ( thuốc sốt rét) cho quân đội và dân thường, có nghĩa rằng 5 tấn trong nửa năm
4. Chúng tôi cần những loại vũ khí sau
(a) Pháo cao xạ 37 li cho 4 trung đoàn, tất cả là 144 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu pháo.
(b) Pháo trận địa 76,2 li cho 2 trung đoàn, tất cả là 72 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu
(c) 200 khẩu súng phòng không 12,7 li và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu
Sau khi nhận chỉ thị của đồng chí về những vấn đề trên, tôi dự định vào ngày mùng 8 hoặc là mùng 9 tháng 11 sẽ rời khỏi Moscow.
Gửi tới đồng chí lời chào cộng sản và lời chúc tốt đẹp nhất
Hồ Chí Minh
30-10-1952
đã ký
Ông Nguyễn Bá Thanh bịa đặt làm như ông Hồ sai bảo Mao Trạch Đông lẫn Stalin, như ông Hồ là cha chú của hai đứa trẻ lên năm, lên mười. Theo nhật ký Hoàng Tùng và nhiều tài liệu khác, Mao sang Mạc Tư Khoa gặp Stalin rồi gọi ông Hồ qua Nga sai bảo.
Sang Trung Quốc, Mao đưa Bác vào quỹ đạo của Mao. Sang tới Liên Xô, Stalin lại đưa Bác vào quỹ đạo của Stalin (3). Chuyến đi Trung quốc và Liên xô năm 1950 của Bác là chuyến đi gian khổ. Khi đó Stalin nói : Bây giờ cách mạng Trung quốc thành công rồi, Trung quốc có trách nhiệm giúp đỡ các nước phương Đông, cũng như Liên xô có trách nhiệm giúp đỡ các nước châu Âu và châu Mỹ. Trung quốc cho như thế là Quốc tế cộng sản đă phân công Trung quốc phụ trách châu Á. Bám vào y' kiến ấy, sau này Trung Quốc coi như là người đỡ đầu ta....Sau Đại hội ta không nói gi` đến cải cách ruộng đất, chỉ thấy nói đến lí thuyết ba giai đoạn, vi` thế nên mùa hè năm 1952 Mao Trạch Đông và Stalin gọi Bác sang, nhất định bắt phải thực hiện cải cách ruộng đất.
HOÀNG TÙNG * HỒI KÝ (1)
Nguyễn Minh Cần viết: Xuất phát từ đâu mà trận bão táp ghê rợn đó đã tràn đến cái xứ sở đau thương này? Số là trong chuyến đi bí mật của ông Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc (hồi cuối năm 1950) đến Moskva (đầu năm 1951), ông đã gặp Stalin và Mao Trạch Ðông (lúc đó đang có mặt tại Moskva). Hai ông này đã nhận xét là Ðảng Việt Nam coi nhẹ nhiệm vụ phản phong (ý nói hữu khuynh), và chỉ thị phải tiến hành cách mạng phản phong để “bồi dưỡng động lực cách mạng là nông dân lao động”, nói cụ thể là phải làm CCRÐ ở các vùng gọi là “giải phóng”
(Xin đừng quên bài học Cải Cách Ruộng Ðất nửa thế kỷ trước)
Nguyễn Văn Trấn viết:" Năm 1950, Hồ Chí Minh qua Nga, yết kiến Staline với sự hiện diện của Mao-trạch-đông. Staline chỉ ông 2 cái ghế và nói “đây là ghế địa chủ, đây là ghế nông dân. Ông chọn ngồi vào ghế nào?”
http://motgoctroi.com/StLichsu/LSCandai/CCRDat/CCRD_CCDDia.htm
Theo Vũ Ngự Chiêu, do Mao đề nghị, vài ngày sau khi Hồ tới Mat-scơ-va, Stalin tiếp Hồ tại văn phòng với sự hiện diện của Geogii M. Malenkov, Vyacheslav M. Molotov, Nikolai A. Bulgarin, Wang Jiaxiang (Vương Gia Tường), Ðại sứ Trung Cộng tại Nga, và Trần Ðăng Ninh. Stalin hỏi về lý do giải tán Ðảng Cộng Sản, và chính sách trong tương lai. Stalin cũng muốn Hồ đứng về phía nhân dân, thực hiện ngay “cách mạng thổ địa.”
Chuyến Ði Cầu Viện Bí Mật Năm 1950 Của Hồ (phần 2 Của 2)Vũ Ngự Chiêu, Ph.D., J.D. Thứ Hai, Ngày 4 tháng 1-2010. http://xeom.wordpress.com/hochiminh/cauvien2/
Theo các tài liệu trên, và theo thư của ông Hồ viết cho Stalin xin súng đạn như sau:
——————————————————— (Ký tên tiếng Tàu)
Thư thứ hai:
Đồng chí Stalin kính mến
Tôi đã bắt đầu soạn thảo đề án cải cách ruộng đất của Đảng Lao Động Việt Nam, và sẽ giới thiệu với đồng chí trong thời gian tới.
- Tôi gửi tới đồng chí một số yêu cầu, và hi vọng sẽ nhận được chỉ thị của đồng chí về những vấn đề này.
1. Cử một hoặc 2 đồng chí Liên Xô tới Việt Nam để làm quen và tìm hiểu thực trạng ở đó. Nếu như các đồng chí đó biết tiếng Pháp đủ để có thể giao tiếp với nhiều người. Từ Bắc Kinh tới chỗ chúng tôi đi đường mất khoảng 10 ngày.
2. Chúng tôi muốn gửi tới Liên Xô 50-100 du học sinh, với trình độ văn hóa lớp 9 ở Việt Nam, trong số họ có người là Đảng viên và cũng có ngừơi chưa phải là Đảng viên, độ tuổi của họ từ 17-22. Đồng chí nhất trí về vấn đề này chứ.
3. Chúng tôi muốn nhận từ phía các đồng chí 10 tấn thuốc kí ninh ( thuốc sốt rét) cho quân đội và dân thường, có nghĩa rằng 5 tấn trong nửa năm
4. Chúng tôi cần những loại vũ khí sau
(a) Pháo cao xạ 37 li cho 4 trung đoàn, tất cả là 144 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu pháo.
(b) Pháo trận địa 76,2 li cho 2 trung đoàn, tất cả là 72 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu
(c) 200 khẩu súng phòng không 12,7 li và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu
Sau khi nhận chỉ thị của đồng chí về những vấn đề trên, tôi dự định vào ngày mùng 8 hoặc là mùng 9 tháng 11 sẽ rời khỏi Moscow.
Gửi tới đồng chí lời chào cộng sản và lời chúc tốt đẹp nhất
Hồ Chí Minh
30-10-1952
đã ký
Ông Hồ khôn lanh, chơi trội, xin Stalin chứ không xin Mao vì muốn đứng
gần chủ hơn là đứng cạnh thằng đầy tớ dù là đầy tớ thượng cấp của mình,
và ông muốn nhận vũ khí của Nga vì vũ khí Nga tốt hơn vũ khí Trung Cộng.
Ông xin Stalin mà Stalin không cho đẩy cho Mao, thế mà Nguyễn Bá Thanh
lại bảo ông Hồ ra lệnh cho Stalin gửi súng đạn cho ông qua Mao! Oai dữ
ta! Ăn mày mà hống hách với chủ nhà, xưa nay sự lạ!
Nói tóm lại, Nguyễn Bá Thanh đề cao ông Hồ coi như là bậc anh hùng chẳng sợ chi ai, nhưng thực tế, ông Hồ là kẻ ăn mày, thái độ của ông lúc ấy chắc cũng khúm núm như cái cúi mình kính cẩn của Trương Tấn Sang trước hàng quân Trung quốc trong dịp y sang triếu kiến Hồ Cẩm Đào tháng 9 năm 2012.
4. BA HOA, KHOÁC LÁC
Ông Nguyễn Bá Thanh lên tiếng chỉ trích đảng, sự thực ông chỉ nói theo bản báo cáo của đảng chứ không phải ý kiến riêng ông. Sau 1975, Đảng bắt đầu buông lỏng sự lãnh đạo, chính quyền bắt đầu buông lỏng sự quản lý nhà nước và cán bộ đảng viên bắt đầu thoái hóa biến chất. Những điều trước kia không bình thường thì dần dần bắt đầu bình thường... Năm nhiệm kỳ, 25 năm qua đảng đã ra bao nghị quyết về xây dựng đảng, nhưng càng nhiều nghị quyết thì tình hình xấu thêm, phức tạp thêm. Đại hội XI, trung ương 4 cũng đặt ra vấn đề cấp bách xây dựng đảng, nhưng kết quả vẫn là công tác yếu kém, một bộ phận không lớn các đảng viên, cả những lãnh đạo cao cấp suy thoái đạo đức, biến chất, phai nhạt lý tưởng, làm giảm lòng tin của nhân dân...
Ông nói mà không ngượng miệng. Ông nói chỉ để tỏ ra ta đây trung cang, thẳng thắn nhưng những lời nói của ông là vô nghĩa, bất lực. Thứ nhất là ông chẳng có vai vế quyền hành gì, chỉ là tay sai của người . Thứ hai là ông chẳng đề ra phương pháp gì để cứu vãn tình thế.
Trước tình thế Trung cộng xâm lược, ông có biện pháp gì? Ông có đồng ý việc cho công an đánh đập người biểu tình chống Trung cộng không? Ông nghĩ sao việc đền bù, tái định cư cho nạn kiều và việc Trung Cộng chiếm Hoàng Sa, Trường sa, xâm chiếm Tây nguyên, Quảng trị, Bình Dưong, Hà Tĩnh? Năm đại hội, 25 năm vẫn thối nát thì ông có kế sách gì hay rồi ông cũng bó tay? Thôi đi ông ơi, nửa thế kỷ trôi qua, nhà càng xuống cấp thê thảm, thì cái đảng đó, ngôi nhà đó mục nát lắm rồi, phải dở đi, đập phá đi để xây nhà khác. Ông và bọn ông chỉ nói mà không làm gì được. Căn bệnh trầm trọng như thế, không thể sửa chữa gì được. Nên chuẩn bị làm tang lễ cho đảng cộng sản là vừa. Boris Yeltsin đã nhận định :"Cộng Sản không thể nào sửa chửa, mà cần phải xóa bỏ đi (Communists are incurable, they must be eradicated).
Ông Nguyễn Bá Thanh tin tưởng đại hội XI sẽ có kết quả, diệt trừ đ/c X và đưa ông lên làm thủ tướng vì đại hội này có hai việc làm mới:
-làm từ trên xuống
-trước khi tự phê, đảng sẽ góp ý, gợi ý, nếu không thấy sai lầm, đảng sẽ chỉ rõ những sai lầm.
Ông đã lầm vì cái mà ông cho là mới, là tốt mà kết quả vẫn là số không, vì thế đồng chí X rất mạnh. Ông phê bình nó, nó chửi lại ông, ông hăm dọa nó, nó cầm súng nhắm vào ông thì ông làm cái gì? Ông Nguyễn Bá Thanh chỉ là tay sai, đâu có uy quyền mạnh mẽ hơn đồng chí X. Lại nữa, trừ gian phi thì phải có tòa án nghiêm minh, vua quan trong sạch, còn ăn cướp mà làm chánh án , làm công an đi bắt quân gian thì chỉ là trò cười của lịch sử cộng đảng!
5. MÂU THUẪN
Vì dối trá, khoác lác, Nguyễn Bá Thanh ăn nói mâu thuẫn, câu sau chửi câu trước. Câu trên ông ca cẩm Lê Duẩn tài đức nhưng đoạn dưới ông cho Lê Duẩn sai lầm gây ra hai cuộc chiến tranh phía bắc và tây nam. Vậy Lê Duẩn có tài đức hay chỉ là một anh nhà quê kiêu căng, tự phụ đẩy nhân dân ta vào cảnh chết choc ,lầm than ?
Ông Nguyễn Bá Thanh cũng chỉ là hạng đầu voi đuôi chuột. Vai trò của ông là trừ tham nhũng nhưng trong cuộc họp này ông ra mặt bênh vực cho đám thủ hạ của ông, dù tham nhũng, bất tài, quần chúng bất phục mà vẫn được giữ chức này chức kia. Ông cũng tỏ vẻ bao dung che chở cho những cán bộ xấu, chỉ thuyên chuyển loanh quanh it lâu và cho rằng đó là những lỗi lầm nhỏ, không đáng gì . Ông vin vào câu:" dụng nhân như dụng mộc" nghĩa là ông dùng củi mục xây nhà cửa cầu cống, lâu đài , ông tin dùng những kẻ tham nhũng, bất tài, vô đạo đức. Nhự vậy, ông nói sao với đồng chí X dù ông ấy là gỗ mục, là sâu bọ, là rắn rết? Ông bao che cho đàn em của ông, Trương Tấn Sang bao che cho đàn em của Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng cũng thế thì làm sao bài trừ tham nhũng , xây dựng đảng, chấn chỉnh tổ chức hở trời?
Ông khoác lác ghê lắm. Trong khi ông cho rằng đa số cán bộ suy thoái., biến chất, xã hội băng hoại, đâu cũng vì tiền mà ông lại bảo Đà Nẵng của ông tốt lắm, không thể thăng tiến bằng tiền bạc, ai có tài là được trọng dụng! Ông khoác lác và mâu thuẫn vì trước đó chính ông đã nói nhiều về các cán bộ Đà Nẵng tham tiền, và chính ông cũng tỏ ra hống hách với nhân dân khi có người đến nộp đơn xin đất. Không lẽ Đà Nẵng của ông hơn Hà Nội ư? Và ông hơn Lê Duẩn, Đỗ Mười,Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh ư?
Nói tóm lại, ông Nguyễn Bá Thanh chỉ là một con người cộng sản khoác lac, dối trá và nịnh trên đạp dưới, ông chỉ là tay sai của người nhưng lại tưởng ông ghê gớm lắm, thực ra ông cũng chỉ là dòi bọ, trâu ngựa như các bọn khác trong cộng đảng thôi! Nếu ông đừng theo cộng đảng, làm một danh hài kể chuyện tiếu lâm thì rất hay vì giọng nói to, rõ ràng, tự nhiên và có vẻ vui nhộn có lẽ sẽ được quần chúng ưa thích.