Saturday, May 10, 2014
NGUYYỄN BÁC SƠN * VIỆT CỘNG NÔ LỆ
Thứ Tư, ngày 16 tháng 4
năm 2014
Mầm mống mất nước hiện nay phát xuất từ ngay chính sách làm
thân tôi đòi Bắc Kinh của Đảng CSVN (*)
Nguyễn Bắc Sơn, TP Vinh
Người Hoa Kiều mỗi ngày di dân qua Hoa Kỳ khoảng 1.000 người! Nhưng Hoa Kỳ không lo sợ vì văn hoá của Hoa Kỳ cao và văn minh hơn Trung Hoa, nên đồng hoá Hoa Kiều rất dễ dàng! Chỉ sau một hay 2 thế hệ là con em người Hoa di dân sẽ biến thành người Mỹ và phục vụ cho quyền lợi người Mỹ! Cứ nhìn ông đại sứ người Mỹ gốc Hoa tại Bắc Kinh (David Locke) thì thấy là ông ta vẫnchống lại Trung Quốc chứ không bênh vực Đảng csTQ nên bọn người Hoa có đầu óc Đại Hán rất ghét ông ta, gọi ông ta là...chó!
Người Tàu có tính xấu là cái gì cũng cho mình là nhất, là số một... và họ cho rằng bất cứ người Hoa nào dù mang quốc tịch khác cũng phải phục vụ cho TQ và có sứ mạng là bành trướng Đại Hán! Cho nên họ nghiêm cấm phụ nữ TQ lấy chồng ngoại, còn thanh niên Hoa thì có quyền lấy vợ ngoại và phải có nhiệm vụ đồng hoá vợ và con cái mình thành người Hoa chứ không chịu đồng hoá với quê vợ!
Chúng ta thấy guơng của Trọng Thuỷ, Mỹ Châu thì biết là người Hoa lấy vợ ngoại đều có giấc mộng thôn tính! Đời nhà Triệu, cũng vì Cù Thị có tình nhân người Hán là An Quốc Thiếu Quí nên đã dụ Cù Thị đem giang sơn xã tắc cho nhà Hán! Guơng lịch sử để lại phải suy xét!
Vì vậy, nếu VN, Lào, Kampuchea có hàng nghìn người Nhật, Hàn, Mỹ, Pháp qua làm ăn và lấy vợ định cư thì không cần phải lo sợ vì tất cả thanh niên của họ đều sốt sắng lấy quê vợ làm quê huơng của mình. Còn người TQ thì khác, phải đề phòng là vậy!
Hoa Kỳ là siêu cường và có văn hoá cao nên họ cho phép Hoa Kiều qua định cư vì họ biết là dù anh có giỏi, có hay cỡ nào thì con cái anh cũng sẽ bị văn hoá Mỹ đồng hoá! Vả lại, nếu anh không chịu đồng hoá vào giòng chính của Mỹ thì anh chỉ có khả năng đi bán...hủ tiếu là cùng! Không ngoi lên được trong xã hội Mỹ!
Người Hoa đến VN hay các nước Đông Nam Á thì khác. Do lòng tự tôn của họ rất cao nên họ xem các dân tộc các nước ĐNA thấp kém hơn văn hoá TQ! Cho dù phải tha phương cầu thực vì chính xã hội của họ cũng tranh giành, chém giết man rợ, nhưng họ vẫn nghĩ là văn hoá họ cao, họ phải đồng hoá các dân tộc khác chứ không chịu hoà nhập để bị đồng hoá!
Chưa kể người Hoa tại các
nước Đông Nam Á lại bị xúi dục bởi các lãnh tụ Đại Hán như Tôn Dật Tiên, Tưởng
Giới Thạch (người đã vẽ ra đường lưỡi bò trên biển Đông Nam Á), Mao Trạch Đông,
Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình...
Đầu thế kỷ 20, trên đường
đi vận động cho Cách Mạng Tân Hợi 1911 lật đổ triều đại Mãn Thanh, Tôn Dật Tiên
có ghé Chợ Lớn ở Saigon diễn thuyết kêu gọi Hoa Kiều phải hướng về Trung Hoa và
phải giữ bản sắc văn hoá, không để bị người Việt đồng hoá!!!
Thay vì kêu gọi Hoa Kiều
là mình ăn cơm VN, uống nước VN thì phải nhớ ơn và có bổn phận làm giàu cho đất
nước mình đang ở, đồng thời đóng góp vào công cuộc đấu tranh ở quê nhà, vừa vẹn
toàn Trung (với đất nước), Hiếu (với quê huơng thứ 2 của mình là VN) thì ông
Quốc Phụ Tôn Dật Tiên lại hẹp hòi hô hào một cách... Đại Hán như vậy!
Mầm mống mất nước hiện
nay không phải là vô căn cứ vì cứ nhìn và so sánh 16 ông bà trong Bộ Chính Trị
Đảng csVN cầm quyền với 9 ông Bộ Chính Trị của TQ thì thấy tài năng và trí tuệ
đã không tuơng xứng rồi : 16 ông bà trong BCT VN học thức kém, hiểu biết về lịch
sử dốt (chưa có một ông bà nào thuộc lòng một cuốn Việt Nam Sử Lược dày khoảng
200 trang của học giả Trần Trọng Kim), tầm nhìn chiến lược thuộc loại ngu và kém
cỏi vì chỉ lo tham nhũng, chạy chức chạy quyền thì làm sao đối đầu với 9 tên
trong Bộ Chính Trị Trung Quốc với học vấn cao, thông thạo lịch sử và có niềm tự
hào Đại Hán đang muốn thực hiện một Giấc Mơ Trung Hoa?
Trong cuộc chiến chống
ngoại xâm, nhà lãnh đạo có văn hoá kém hơn đối thủ thì thua là cái chắc! Nếu nhà
Trần vào thế kỷ 13, ngoài tinh thần đoàn kết của quân dân Đại Việt, các nhà lãnh
đạo như vua Trần Nhân Tôn, Trần Hưng Đạo và các tướng lãnh khác văn hoá không
cao hơn Thoát Hoan, Ô Mã Nhi, Toa Đô thì chắc không bao giờ thắng trận!
Posted by DIỄN ĐÀN CÔNG
NHÂN at 09:51
(*) Đầu đề đã được đặt
lại bởi tòa soạn KTTT cho phù hợp với chủ đề Quốc Hận năm nay.
Thursday, May 8, 2014
DƯƠNG DANH HUY * DÀN KHOAN TRUNG CỘNG
8-05-2014
Giàn khoan và Diên Hồng
Dương Danh Huy
Liệu Việt Nam có thể lùi bước thêm nữa hay không? |
Mặc dù Trung Quốc đã chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa 40 năm, nước
này mới chỉ bắt đầu nỗ lực củng cố sự kiểm soát trên biển và khai thác
tài nguyên trong vùng biển kế cận quần đảo này trong thời gian tương đối
gần đây.
Và họ sẽ không ngừng ở đó mà sẽ dùng Hoàng Sa làm bàn đạp để đẩy vùng họ kiểm soát lấn vào các vùng biển khác của Việt Nam như vết dầu loang. Do đó, có thể cho rằng cuộc chiến Hoàng Sa vẫn đang tiếp diễn trên biển, dù điều đó có nổi bật trong nhận thức của người Việt hay không.
Cho đến năm 2009 ngư dân Việt Nam vẫn còn đánh bắt tự do trong vùng biển Hoàng Sa. Năm 2009, Trung Quốc bắt đầu củng cố sự kiểm soát trên biển bằng chính sách đàn áp ngư dân Việt Nam, nhằm đẩy lùi những người Việt Nam cuối cùng ra khỏi vùng biển Hoàng Sa.
Kế đến là việc Trung Quốc triển khai các hoạt động dầu khí.
Vết dầu đang loang
Thí dụ, năm 2012 nước này mời thầu tại Lô 65/12, gần đảo Cây thuộc và ở phía bắc quần đảo Hoàng Sa. Với Việt Nam chỉ phản đối một cách phi đối sách, diễn biến tất nhiên là Trung Quốc sẽ mở rộng hoạt động dầu khí về các phía đông, tây và nam của quần đảo này. Việc triển khai giàn khoan HD-981 gần đảo Tri Tôn thuộc và về phía tây nam quần đảo sẽ chỉ là một trong nhiều bước loang của vết dầu - nếu Việt Nam tiếp tục chỉ phản đối một cách phi đối sách.
Song song với các động thái trong hai lãnh vực nghề cá và dầu khí, Trung Quốc sẽ tăng cường những sự kiểm soát dân sự và quân sự khác trên biển, nhằm đi từ sự đã rồi trên đảo đến sự đã rồi trên biển, trong một vùng biển rộng lớn tối đa.
Tuy nhiên đó còn chưa phải là mục đích tối hậu của Trung Quốc.
Ngoài việc biến vùng biển Hoàng Sa thành “biển thiên triều”, nước này sẽ tiến hành những khía cạnh khác của cuộc nam tiến, thí dụ như đưa tàu thuyền bán quân sự và giàn khoan vào kiểm soát, khảo sát và khai thác vùng Tư Chính, ngoài khơi bờ biển miền Nam Việt Nam, với hải quân khổng lồ của họ luôn đứng sau.
Những gì Đế quốc Trung Hoa ngày xưa đã không thực hiện được trên bộ,
nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ngày nay đang cố gắng thực hiện trên
biển. Có thể nói rằng Việt Nam ngày nay đang đứng trước một quá trình
xâm lấn từ phương Bắc quy mô không kém, và còn có thể nói là tinh tế
hơn, những gì Việt Nam ngày xưa đã từng đối diện, và phải ứng phó một
cách tích cực không kém người Việt xưa đã từng giữ nước.
Không những thế, cuộc nam tiến của Trung Quốc trên biển ngày nay có nhiều khía cạnh khác với những cuộc xâm lăng thời phong kiến. Thứ nhất, như Trần Hưng Đạo nói, nếu quân ngoại xâm tiến chậm như tằm ăn dâu thì khó chế ngự, trong khi đó lại là chiến lược của Trung Quốc hiện nay. Thứ nhì, nếu Trung Quốc chiếm một số đảo nhỏ xa bờ hay giành sự kiểm soát và khai thác trong một vùng biển thì Việt Nam khó có thể theo đuổi một cuộc chiến tranh không giới hạn để giành lại. Thứ ba, chiến tranh hiện đại trên biển là khác với chiến tranh trên bộ ngày xưa.
Không những thế, cuộc nam tiến của Trung Quốc trên biển ngày nay có nhiều khía cạnh khác với những cuộc xâm lăng thời phong kiến. Thứ nhất, như Trần Hưng Đạo nói, nếu quân ngoại xâm tiến chậm như tằm ăn dâu thì khó chế ngự, trong khi đó lại là chiến lược của Trung Quốc hiện nay. Thứ nhì, nếu Trung Quốc chiếm một số đảo nhỏ xa bờ hay giành sự kiểm soát và khai thác trong một vùng biển thì Việt Nam khó có thể theo đuổi một cuộc chiến tranh không giới hạn để giành lại. Thứ ba, chiến tranh hiện đại trên biển là khác với chiến tranh trên bộ ngày xưa.
Cần có đối sách
Trước chủ trương của Trung Quốc, một chủ trương bất di bất dịch bất kể lời lẽ ngoại giao phù phiếm, trước hết Việt Nam cần nhìn nhận rằng việc phản đối phi đối sách chỉ có thể dẫn tới bị chinh phục trên thực tế. Chỉ phản đối phi đối sách là tương đương với thầm chấp nhận bị chinh phục trên thực tế.
Trong lãnh vực pháp lý, Việt Nam phải tận dụng những phương tiện pháp lý mình có.
Việt Nam phải công khai thách Trung Quốc ra tòa về chủ quyền đối với Hoàng Sa. Mặc dù khả năng là Trung Quốc sẽ khước từ, nhưng đó là lỗi của họ chứ không phải của Việt Nam thách họ, và thế giới cũng như người Trung Quốc sẽ thấy nước nào là nước trốn tránh công lý.
Vì luật quốc tế không cho phép khoan dầu khí trong vùng biển trong tình trạng tranh chấp, Việt Nam cũng nên đơn phương nộp đơn kiện Trung Quốc về giàn khoan HD-981.
Mặc dù Trung Quốc đã vận dụng Điều 298 của UNCLOS để tránh việc áp dụng thủ tục giải quyết tranh chấp của UNCLOS cho một số loại tranh chấp, và do đó trọng tài UNCLOS sẽ không có thẩm quyền để phán quyết vùng biển đó thuộc về bờ biển hay đảo nào, vì địa điểm của giàn khoan này nằm cách đất liền Việt Nam dưới 200 hải lý, trọng tài UNCLOS sẽ công nhận rằng hiện hữu tranh chấp trong khu vực đó, bất kể các câu hỏi liên quan đến quần đảo Hoàng Sa, và sẽ cấm Trung Quốc đơn phương khoan dầu khí.
Ngoài ra, trọng tài UNCLOS cũng sẽ công nhận rằng việc tàu Trung Quốc đâm tàu Việt Nam là sử dụng bạo lực trong vùng tranh chấp, tức là vi phạm luật quốc tế.
Nếu Việt Nam không sử dụng những phương tiện pháp lý mình có thì dễ có câu hỏi về Việt Nam có thật sự quyết liệt về biển đảo hay không. Dù từ Trung Quốc, hay từ thế giới, hay từ người dân, thì câu hỏi đó cũng bất lợi cho Việt Nam.
Trong lãnh vực chính trị và ngoại giao, Việt Nam phải “thoát Trung”, phải thoát khỏi vòng kim cô ràng buộc mình vào một nước mà, bất kể lời lẽ hữu nghị xã hội chủ nghĩa, bản chất xương tủy, ngàn năm văn hiến của họ vẫn là Đế quốc Trung Hoa ngày xưa.
“Thoát Trung” tạo thêm điều kiện cho chúng ta tự do lựa chọn và ứng xử với đồng minh sao cho phù hợp với hoàn cảnh của mình nhất. “Thoát Trung” cũng tạo thêm điều kiện để chúng ta hội nhập nhiều hơn với thế giới văn minh và phát triển đất nước. Vấn đề là Việt Nam có đủ tự lập trong chính trị, tư duy và khả năng để “thoát Trung” không.
Nhưng nếu không đủ tự lập thì cũng đáng hổ thẹn cho một quốc gia độc lập, và cho một dân tộc mà một trong những niềm tự hào lịch sử lớn nhất mình có là việc đấu tranh giành độc lập. Nhìn từ góc độ này, “thoát Trung” cũng có thể khích thích cho Việt Nam tự lập hơn, một điều mà dân tộc và đất nước nào cũng cần.
Nhưng cuối cùng thì điều không thể thiếu được của một quốc gia độc lập là đối sách trên thực địa. Tòa án quốc tế không có cảnh sát để bảo đảm phán quyết của họ sẽ được các bên thi hành. Khó có nước nào khác sẽ ủng hộ Việt Nam bằng vũ lực ở Hoàng Sa hay trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ đất liền.
Mặc dù hải quân, không quân và các lực lượng bán quân sự trên biển của Trung Quốc mạnh hơn của Việt Nam, và mặc dù chiến lược tằm ăn dâu của họ làm cho Việt Nam khó quyết định về phản ứng trên thực địa, Việt Nam không thể không có đối sách trên thực địa, dù điều đó có thể bao hàm hy sinh xương máu và khí tài.
Bất kể Việt Nam có sử dụng biện pháp pháp lý, chính trị và ngoại giao nào hay không, và bất kể việc con tằm chỉ ăn lá dâu từng miếng nhỏ, Trung Quốc đang từng bước dồn Việt Nam đến câu hỏi Diên Hồng. Không rõ câu hỏi này khó trả lời cho Đại Việt ngày xưa thế nào, nhưng chắc chắn là ngày nay cần những trả lời tinh tế hơn xưa, vì trong bối cảnh ngày nay hòa cũng như chiến đều có nhiều hình thức và mức độ. Nhưng nếu tránh câu hỏi đó thì sẽ là vô trách nhiệm với chủ quyền lãnh thổ.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2014/05/140508_oilrig_duongdanhhuy.shtml
Trước chủ trương của Trung Quốc, một chủ trương bất di bất dịch bất kể lời lẽ ngoại giao phù phiếm, trước hết Việt Nam cần nhìn nhận rằng việc phản đối phi đối sách chỉ có thể dẫn tới bị chinh phục trên thực tế. Chỉ phản đối phi đối sách là tương đương với thầm chấp nhận bị chinh phục trên thực tế.
Trong lãnh vực pháp lý, Việt Nam phải tận dụng những phương tiện pháp lý mình có.
Việt Nam phải công khai thách Trung Quốc ra tòa về chủ quyền đối với Hoàng Sa. Mặc dù khả năng là Trung Quốc sẽ khước từ, nhưng đó là lỗi của họ chứ không phải của Việt Nam thách họ, và thế giới cũng như người Trung Quốc sẽ thấy nước nào là nước trốn tránh công lý.
Vì luật quốc tế không cho phép khoan dầu khí trong vùng biển trong tình trạng tranh chấp, Việt Nam cũng nên đơn phương nộp đơn kiện Trung Quốc về giàn khoan HD-981.
Mặc dù Trung Quốc đã vận dụng Điều 298 của UNCLOS để tránh việc áp dụng thủ tục giải quyết tranh chấp của UNCLOS cho một số loại tranh chấp, và do đó trọng tài UNCLOS sẽ không có thẩm quyền để phán quyết vùng biển đó thuộc về bờ biển hay đảo nào, vì địa điểm của giàn khoan này nằm cách đất liền Việt Nam dưới 200 hải lý, trọng tài UNCLOS sẽ công nhận rằng hiện hữu tranh chấp trong khu vực đó, bất kể các câu hỏi liên quan đến quần đảo Hoàng Sa, và sẽ cấm Trung Quốc đơn phương khoan dầu khí.
Ngoài ra, trọng tài UNCLOS cũng sẽ công nhận rằng việc tàu Trung Quốc đâm tàu Việt Nam là sử dụng bạo lực trong vùng tranh chấp, tức là vi phạm luật quốc tế.
Nếu Việt Nam không sử dụng những phương tiện pháp lý mình có thì dễ có câu hỏi về Việt Nam có thật sự quyết liệt về biển đảo hay không. Dù từ Trung Quốc, hay từ thế giới, hay từ người dân, thì câu hỏi đó cũng bất lợi cho Việt Nam.
Trong lãnh vực chính trị và ngoại giao, Việt Nam phải “thoát Trung”, phải thoát khỏi vòng kim cô ràng buộc mình vào một nước mà, bất kể lời lẽ hữu nghị xã hội chủ nghĩa, bản chất xương tủy, ngàn năm văn hiến của họ vẫn là Đế quốc Trung Hoa ngày xưa.
“Thoát Trung” tạo thêm điều kiện cho chúng ta tự do lựa chọn và ứng xử với đồng minh sao cho phù hợp với hoàn cảnh của mình nhất. “Thoát Trung” cũng tạo thêm điều kiện để chúng ta hội nhập nhiều hơn với thế giới văn minh và phát triển đất nước. Vấn đề là Việt Nam có đủ tự lập trong chính trị, tư duy và khả năng để “thoát Trung” không.
Nhưng nếu không đủ tự lập thì cũng đáng hổ thẹn cho một quốc gia độc lập, và cho một dân tộc mà một trong những niềm tự hào lịch sử lớn nhất mình có là việc đấu tranh giành độc lập. Nhìn từ góc độ này, “thoát Trung” cũng có thể khích thích cho Việt Nam tự lập hơn, một điều mà dân tộc và đất nước nào cũng cần.
Nhưng cuối cùng thì điều không thể thiếu được của một quốc gia độc lập là đối sách trên thực địa. Tòa án quốc tế không có cảnh sát để bảo đảm phán quyết của họ sẽ được các bên thi hành. Khó có nước nào khác sẽ ủng hộ Việt Nam bằng vũ lực ở Hoàng Sa hay trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ đất liền.
Mặc dù hải quân, không quân và các lực lượng bán quân sự trên biển của Trung Quốc mạnh hơn của Việt Nam, và mặc dù chiến lược tằm ăn dâu của họ làm cho Việt Nam khó quyết định về phản ứng trên thực địa, Việt Nam không thể không có đối sách trên thực địa, dù điều đó có thể bao hàm hy sinh xương máu và khí tài.
Bất kể Việt Nam có sử dụng biện pháp pháp lý, chính trị và ngoại giao nào hay không, và bất kể việc con tằm chỉ ăn lá dâu từng miếng nhỏ, Trung Quốc đang từng bước dồn Việt Nam đến câu hỏi Diên Hồng. Không rõ câu hỏi này khó trả lời cho Đại Việt ngày xưa thế nào, nhưng chắc chắn là ngày nay cần những trả lời tinh tế hơn xưa, vì trong bối cảnh ngày nay hòa cũng như chiến đều có nhiều hình thức và mức độ. Nhưng nếu tránh câu hỏi đó thì sẽ là vô trách nhiệm với chủ quyền lãnh thổ.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2014/05/140508_oilrig_duongdanhhuy.shtml
TRẦN TRUNG ĐẠO * TRUNG CỘNG XÂM LƯỢC
Trung Cộng không đáng sợ
Trần Trung Đạo (Danlambao)
- Hai cuộc chiến tranh thế giới, thứ nhất và thứ hai, gây nhiều tang
tóc trong lịch sử loài người nhưng cũng để lại nhiều bài học: (1) Dù
đứng trên quan điểm nào, các nhà chiến lược quân sự đều đồng ý rằng, nếu
chiến tranh là chọn lựa duy nhất để bảo vệ sự sống còn của đất nước,
yếu tố quyết định mà một nhà lãnh đạo phải làm là chủ động chọn thời
điểm để phát động chiến tranh. (2) Chiến tranh xảy ra càng sớm càng có
lợi cho các nước nhỏ vì đối với các nước nhỏ, nhanh hay chậm, trước hay
sau cũng không giúp họ nhiều về kỹ thuật chiến tranh trong khi với các
nước lớn một năm là thời gian dài để tăng cường khả năng quân sự. (3)
Không phải chỉ nước lớn mới có quyền chọn lựa chiến tranh mà một nước
nhỏ cũng có thể gây ra chiến tranh và lôi kéo các nước lớn vì quyền lợi
hay vì bảo vệ quyền lợi phải tham dự vào cuộc chơi sinh tử.
Chiến tranh và quyền lợi quốc gia
Thủ tướng Anh Lord Palmerston thời Nữ Hoàng Victoria phát biểu: “Nước Anh không có đồng minh bất diệt, kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia dân tộc là bất diệt và vĩnh viễn”. Câu nói đó trở thành thước đo cho chính sách đối ngoại của mọi quốc gia.
Kinh nghiệm thành công của Mỹ khi tham gia thế chiến thứ nhất:
Suốt ba năm đầu của thế chiến thứ nhất, chính sách đối ngoại của Mỹ vẫn
còn bị chế ngự bởi tư tưởng cô lập kéo dài từ thời Tổng thống George
Washington đến Woodrow Wilson.
Tháng Giêng 1917, Ngoại trưởng Đức Arthur Zimmermann gởi đại sứ Đức tại
Mexico Heinrich von Eckhard qua ngã tòa đại sứ Đức tại Mỹ một bức điện
tín, trong đó y chỉ thị Heinrich von Eckhard tiếp xúc chính phủ Mexico
và yêu cầu quốc gia này tấn công Mỹ, và sau chiến tranh, các tiểu bang
vốn thuộc của Mexico trước đây gồm Texas, New Mexico và Arizona sẽ được
hoàn trả lại Mexico kèm theo một khoản tiền viện trợ lớn. Tổng thống
Mexico Venustiano Carranza tức khắc thành lập một ủy ban để nghiên cứu
nội dung và khả năng thu hồi các lãnh thổ bị mất trong chiến tranh
Mỹ-Mexico như được hứa trong điện tín. Bức điện tín bị tình báo Anh đọc
được, giải mã và gởi cho chính phủ Mỹ. Dân chúng Mỹ công phẫn và chính
sách đối ngoại của Mỹ thay đổi. Ngày 6 tháng 4, 1917 Mỹ tuyên chiến với
Đức.
Kinh nghiệm thất bại của Tiệp, Anh, Pháp khi tránh né thế chiến thứ hai:
Các sử gia đã, đang và sẽ tiếp tục tranh luận về quyết định của Tổng
thống Tiệp Khắc Edvard Benes khi chấp nhận các điều khoản của hiệp ước
Munich dù không được mời tham dự hội nghị. Nếu Tiệp Khắc đánh nhau với
Đức thì Anh, Pháp, Ba Lan, Hungary, Rumani vì quyền lợi và an ninh quốc
gia bị trực tiếp đe dọa cũng phải tham gia chiến đấu bên cạnh Tiệp. Đừng
quên, hiệp ước bí mật giữa Hitler và Stalin chỉ được ký một tuần trước
ngày Đức xâm lăng Ba Lan và trong thời gian hiệp ước Munich gần một năm
trước đó, Liên Xô vẫn còn là đồng minh của Tiệp Khắc.
Trong thời điểm hiệp ước Munich, không tính 900 ngàn quân và 200 ngàn
quân Anh, vào tuần lễ thứ ba của tháng Chín, 1938, Tiệp Khắc có một quân
đội tiên tiến với một triệu quân bao gồm 34 sư đoàn trang bị tối tân.
Tiệp có khoảng 1000 phi cơ chiến đấu đủ loại. Về tăng, Tiệp có nhiều
trăm tăng hạng nặng 38 tấn trang bị đại bác 75 li với hiệu năng chiến
đấu vượt xa so với tăng của Đức. Khi chiếm Tiệp vào tháng Ba 1939, Đức
tịch thu 469 tăng hạng nặng, 1500 phi cơ chiến đấu, 43,500 súng máy và
trên một triệu súng trường. Cho đến đầu năm 1939, Đức mới bắt đầu sản
xuất loại tăng Mark IV 23 tấn trang bị 75 mm và đến tháng 9, 1939, các
đơn vị tăng của Đức mới chỉ có 300 tăng loại Mark III và Mark IV. Tiệp
Khắc là quốc gia đã chuẩn bị cho chiến tranh. Từ tháng Ba 1938, Thủ
tướng Tiệp Milan Hodza tuyên bố Tiệp sẽ đánh trả mọi sự can thiệp quân
sự từ nước ngoài. Năm 1936, 12.5% GNP dành cho quốc phòng so với 13% của
Đức. Ngoài ra, các vùng núi non hiểm trở Bavarian, Saxon và Silesian
dọc biên giới luôn là các phòng tuyến hữu hiệu ngăn chận bước tiến của
đoàn quân Hitler. Sử gia Tiệp Jaroslav Hrbek kết luận “Việc Tiệp Khắc không đánh Đức ngay cả trong trường hợp đồng minh tây phương không ủng hộ, là một sai lầm”.
Tuy kết quả khác nhau, việc Mỹ tham gia thế chiến thứ nhất hay Anh, Pháp
tránh né thế chiến thứ hai đều bị chi phối bởi quyền lợi bức thiết của
quốc gia họ.
Trung Cộng không dám đơn phương phát động chiến tranh đánh Việt Nam trước cũng vì bảo vệ quyền lợi và quyền lực
Các lãnh đạo Trung Cộng từ những bài học chiến tranh thế giới nêu trên
và những thất bại máu xương trong lịch sử Trung Quốc của thời bị tám
nước phân thây sẽ không dám đơn phương phát động chiến tranh xâm lược
Việt Nam với một tầm mức quy mô như chúng đã làm vào ngày 17 tháng 2 năm
1979.
Tại sao?
Những lý do người viết đã trình bày trong loạt bài về hiểm họa Trung Cộng xin tóm tắt dưới đây:
1. Hoàn cảnh chính trị Đông Nam Á nói riêng và châu Á nói chung đã khác hẳn so với 35 năm trước.
Chiến tranh giữa Trung Cộng và Việt Nam không còn là chiến tranh giữa
hai nước mà là cuộc chiến tranh vùng và có khả năng cao lôi kéo cả Mỹ và
Nhật vào. Kỹ thuật quân sự của Trung Cộng đã tiến khá xa so với thời kỳ
chiến tranh với Việt Nam 1979 nhưng còn quá yếu so với Mỹ. Trung Quốc
là một đất nước có lịch sử phân hóa và nội phản từ trong xương tủy. Là
một nước lớn nhưng Trung Quốc thường không đủ khả năng bảo vệ chính
mình. Đừng nói chi thời cuối đời nhà Thanh bị 8 nước Mỹ và Âu Châu cấu
xé mà ngay thời nhà Tống vàng son của Trung Quốc cuối cùng rơi vào tay
Mông Cổ, một nước rất nhỏ trên thảo nguyên phía Bắc. Và một lần nữa vào
thế kỷ 17, khi nhà Minh, một triều đại rất mạnh về quân sự nhưng cũng
không tránh bị tiêu diệt trong bàn tay của Mãn Thanh nhỏ bé.
2. Các điều kiện kinh tế toàn cầu ngày nay đã làm cho các cường quốc phụ thuộc vào nhau nhiều hơn so với 35 năm trước.
Nếu có xung đột quân sự, các quốc gia dân chủ dù thắng hay bại vẫn có
cơ hội phục hồi nhưng Trung Cộng sẽ tiêu vong. Hơn ai hết, giới lãnh đạo
Trung Cộng biết chế độ CS như người đi trên dây, ngồi trên lưỡi dao
cạo. Sự ổn định tại Trung Cộng hiện nay chỉ là sự ổn định tạm thời vì cơ
chế chính trị được xây dựng trên một nền tảng bất ổn. Trong suốt 45 năm
từ khi chương trình hiện đại hóa của Đặng Tiểu Bình ra đời, các thế hệ
lãnh đạo Trung Cộng tập trung vào việc phát triển kinh tế để vừa thỏa
mãn nhu cầu vật chất của người dân và vừa hợp thức hóa vai trò lãnh đạo
của đảng Cộng Sản. Tuy nhiên, hàng hóa của Trung Cộng xuất cảng phần lớn
là hàng hóa tiêu dùng và đây cũng là những loại sản phẩm mà quốc gia
nào cũng có thể sản xuất được. Ngoài ra, các vấn đề môi sinh, ô nhiễm,
khan hiếm năng lượng đang là những mối đe dọa trầm trọng và ảnh hưởng
lớn đến cán cân thương mại cũng như phương tiện nuôi dưỡng cho bộ máy
chiến tranh ở tầm mức thế giới hay khu vực.
3. Trung Cộng một đất nước hơn một tỉ dân, với hàng trăm chủng tộc, sắc dân, giọng nói, các khu tự trị. Nhiều
vùng tự trị chỉ chờ cơ hội để đòi độc lập. Quân đội dù có đông đảo và
tàn bạo bao nhiêu cũng không thể ngăn chận hơn một tỉ người cùng có một
phản ứng tiêu cực giống nhau. Các cuộc biểu tình ở Tân Cương cho thấy
không nhất thiết phải có một tổ chức quy mô nhưng chỉ cần một tin ngắn
được phát ra đúng lúc và đúng chỗ cũng có thể tạo nên một biến cố lớn và
khi đó, bom nguyên tử, hỏa tiễn, chiến hạm đều trở thành vô dụng. Với
sự phân cách về địa lý và dị biệt về chủng tộc, sẽ không có một hình
thức cách mạng nhung, cách mạng da cam, da vàng nào dành cho Trung Cộng
mà chỉ là cách mạng máu. Cách giải quyết dùng xe tăng, đại pháo bắng
thẳng vào những thanh niên tay trắng tại Thiên An Môn của Đặng Tiểu Bình
đối với phần lớn nhân loại là dã man nhưng lại phù hợp với truyền thống
Trung Quốc. Biến cố Thiên An Môn đã qua hơn 25 năm nhưng vẫn là mối ám
ảnh thường xuyên trong giấc ngủ của các lãnh đạo CSTQ bởi vì đảng chỉ
dập tắt ngọn lửa trên quảng trường Thiên An Môn nhưng không dập tắt được
ngọn lửa chống đối trong lòng người luôn âm ỉ.
4. Trung Cộng đang bị bao vây. Hầu hết các quốc gia dân
chủ trong vùng từ Ấn Độ đến Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, Thái Lan, tuy
mức độ khác nhau nhưng đều là các quốc gia đang có những mâu thuẫn căn
bản với Trung Cộng, không những về quyền lợi kinh tế mà cả chế độ chính
trị. Vì lý do kinh tế, họ có thể hòa hoãn hay ngay cả thân thiện với
Trung Cộng nhưng khi chiến tranh bùng nổ, không một quốc gia nào sẽ chọn
đứng về phía Trung Cộng. Tuy phụ thuộc nhau vào nhau về mặt kinh tế
không có nghĩa là các chính quyền Mỹ không xem Trung Cộng là đối thủ
nguy hiểm trong tương lai gần và không có nghĩa Mỹ ngồi yên để nhìn bàn
tay tham vọng của Trung Cộng vươn xa toàn thế giới. Từ thập niên 1990
đến nay, Trung Cộng luôn chống đối mọi sự liên minh theo dạng “khối quân
sự” ám chỉ sự liên kết giữa Mỹ và các nước Đông Á cũng như sự có mặt
của quân đội Mỹ tại Nhật Bản, Nam Hàn và mới đây tại Trung Á. Để đối phó
lại các liên minh quân sự khối, Trung Cộng cố gắng phát triển mối quan
hệ đa phương với Nga và các quốc gia nhỏ khác vùng Trung Á như
Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Uzbekistan qua Tổ chức Hợp tác
Thượng Hải (SCO), tuy nhiên các liên minh này chưa phải là đối trọng của
các khối thân Mỹ.
5. Chính sách của Trung Cộng đối với CSVN là vừa lấn chiếm, vừa đe dọa nhưng cũng vừa bảo vệ cơ chế CS. Mặc
dù không công khai tuyên bố, giới lãnh đạo CSTQ cũng biết hiện nay chỉ
còn năm quốc gia theo một loại chủ nghĩa mà giáo sư sử học Roderick
Macfarquhar, thuộc đại học Harvard, gọi là chủ nghĩa Lê Nin không có
Mác, tức một nhà nước chuyên chính sắc máu nhưng không còn dựa trên nền
tảng triết lý duy vật. Hai cơ chế chính trị CSTQ và CSVN có một mối quan
hệ hữu cơ mật thiết với các yếu tố tương quan và phụ thuộc vào nhau. Sự
lệ thuộc về chính trị của Việt Nam vào Trung Cộng không chỉ giúp để giữ
an toàn phòng tuyến phía nam mà còn tránh sự sụp đổ dây chuyền trong
trường hợp cách mạng dân chủ tại Việt Nam diễn ra trước. Giới lãnh đạo
CSVN không có vị trí độc lập về chính sách đối ngoại. Mọi chủ trương,
chính sách trước khi đưa ra đều phải đo lường phản ứng từ phía Trung
Cộng.
Chính sách đối ngoại kiểu chuột đồng của Trung Cộng hiện nay
Trung Cộng theo đuổi chính sách đối ngoại như cách loài chuột đồng tàn
phá mùa màng. Chúng tàn phá cả cánh đồng Việt Nam bằng cách gặm nhấm
từng bụi lúa. Như đã và đang áp dụng ngay từ khi chiến tranh Việt Nam
chưa chấm dứt qua các sự kiện dời cột mốc biên giới, Trung Cộng không
đánh chiếm mà chỉ từ từ gặm nhắm dần mòn lãnh thổ và lành hải Việt Nam.
Một mặt chúng lớn tiếng với quốc tế là luôn theo đuổi chính sách “hòa
bình” và “ổn định” nhưng mặt khác lấn chiếm từng thước đất, từng bãi san
hô, từng hòn đảo nhỏ trên biển Đông, đặt những giàn khoan trong thềm
lục địa Việt Nam. Những hành vi ăn cắp vặt này không đủ va chạm quyền
lợi nặng đến mức các cường quốc phải đặt vấn đề và các biến cố do chúng
gây ra không đủ tác hại an ninh khu vực đến mức quốc tế phải quan tâm.
Trung Cộng làm vậy, một phần vì chúng đi guốc trong bụng các lãnh đạo
CSVN. Ngoài các tuyên ngôn, tuyên cáo mang nội dung giống hệt từ sau
chiến tranh biên giới đến nay, lãnh đạo CSVN không có một hành động nào
cụ thể để bảo vệ lãnh thổ Việt Nam. Những lời phản đối rỗng của Lê Hải
Bình không gây một tác hại gì và mũi khoan của HD-981 vẫn tiếp tục ghim
sâu vào lòng biển Việt Nam. Các thế hệ lãnh đạo CSVN che giấu sự phụ
thuộc, sự sợ hãi chiến tranh với Trung Cộng, tham vọng quyền lực và
quyền lợi trong khẩu hiệu “hòa bình và ổn định” mà quên một điều Trung
Cộng ngại chiến tranh hơn bất cứ một quốc gia nào trong vùng.
Đại đa số nhân loại không muốn chiến tranh, nhất là Việt Nam một dân tộc
đã chịu đựng quá nhiều đau thương mất mát vì chiến tranh lại càng không
muốn chiến tranh. Thế nhưng, nếu chiến tranh phải đến lần nữa trên đất
nước Việt Nam hãy đến càng sớm càng tốt, hãy đến khi Trung Cộng còn yếu,
hãy đến khi quyền lợi các cường quốc bị va chạm và buộc phải tham gia
can thiệp. Trung Cộng không có gì đáng sợ mà chỉ sợ lòng yêu nước trong
mỗi người Việt Nam chưa đủ độ sục sôi.
BIỂN ĐÔNG
Giàn khoan HD 981 dưới mắt một chuyên gia về VN
Tình hình Biển Đông sôi sục vá có dấu hiệu một cuộc chiến có thể
diễn ra sau khi Trung Quốc ngang nhiên kéo giàn khoan HD 981 vào khu
đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Mặc Lâm phỏng vấn GS Carl Thayer khi ông
đang có mặt tại đây theo lời mời của Việt Nam và quan sát các diễn tiến
của vụ này. GS Carl Thayer là cố vấn Học viện Quốc phòng Úc và là giáo
sư tại đại học New South Wales.
Mặc Lâm: Thưa GS như ông đã biết Trung Quốc vừa ngang
nhiên mang giàn khoan HD 981 vào vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt
Nam, Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao đã có nhưng lời lẽ chống
lại hành động này trong khi Thời báo Hoàn cầu lại lớn tiếng đòi cho Việt
Nam một bài học. Ông đang có mặt tại Việt Nam trong thời điểm này vậy
GS nhận xét các diễn biến này ra sao?
GS Carl Thayer: Trước hết việc Trung Quốc ngang nhiên đem giàn
khoan vào vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam phải gọi đó là hành
động khiêu khích, xâm phạm vùng biển đặc quyền này của Việt Nam theo
luật pháp quốc tế. Theo như một báo cáo tôi có được thì Trung Quốc đã
mang đến hơn 70 chiếc tàu đủ loại để bảo vệ chung quanh giàn khoan và
một trong các tàu chiến của Trung Quốc đã đâm vỡ tàu cảnh sát biển của
Việt Nam làm cho một số thủy thủ Việt Nam bị thương.
Trong số hợn 70 chiếc tàu ấy thì nguồn tin từ Hoa Kỳ vừa xác nhận là có cả tàu chiến của Hải Quân Quân đội Nhân dân Trung Quốc và đó hành động leo thang nghiêm trọng khi Trung Quốc mang tàu chiến tấn công chứ không còn là tàu tuần duyên hay Ngư chính như thường thấy trước đây.Dứt khoát phải gọi đây là hành động khiêu khích vì đi ngược lại quan hệ giữa Việt Nam và TQ như chúng ta đều biết cả hai phía đều tuyên bố là luôn luôn phát triển và hầu như tất cả đều diễn tiến tốt đẹp. Trung Quốc không phải chỉ khiêu khích riêng đối với VN mà họ đã từng làm đối với các nước trong khu vựcGS Carl Thayer
Mặc Lâm: Nữ phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ tại Wasington DC đã tuyên bố là những hành động khiêu khích ấy của Trung Quốc không thích hợp với việc duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực. Là một chuyên gia về Biển Đông ông có nhận xét gì về tuyên bố này?
GS Carl Thayer: Dứt khoát phải gọi đây là hành động khiêu
khích vì đi ngược lại quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc như chúng ta
đều biết cả hai phía đều tuyên bố là luôn luôn phát triển và hầu như tất
cả đều diễn tiến tốt đẹp. Trung Quốc không phải chỉ khiêu khích riêng
đối với Việt Nam mà họ đã từng làm đối với các nước trong khu vực. Quan
hệ với Indonesia, Malaysia đã có vấn đề và rồi khiêu khích, xâm lấn vùng
biển của Philippines đã làm nước này vận động đồng minh và nỗ lực không
ngừng cải thiện quốc phòng của mình.
Trong các hội nghị Đông Nam Á hồi gần đây vấn đề biển Nam Trung Hoa
đã trở thành chủ đề chính. Và khi Trợ lý Ngoại trưởng Daniel Russel
đến Việt Nam trong ngày hôm nay sẽ có những tuyên bố chính thức vể vấn
đề này sau khi có đầy đủ thông tin về vụ giàn khoan HD 981. Chúng ta chờ
đợi những trao đổi thông tin mà Việt Nam đưa ra và sự tuyên bố dứt
khoát, nêu lên quan điểm rõ ràng của Hoa Kỳ về hành động khiêu khích này
của Trung Quốc.
Nếu Trung Quốc kích hoạt các giàn khoan sẽ chứng minh rằng họ đang xác nhận tuyên bố chủ quyền của mình và các quốc gia trong khu vực sẽ chỉ phải chấp nhận việc đã rồi
GS Carl Thayer
Mặc Lâm: Nếu Trung Quốc vẫn giữ lập trường kích hoạt giàn khoan HD 981 thì việc gì sẽ xảy ra giữa các nước trong khu vực?
GS Carl Thayer: Nếu họ làm như vậy thì cũng là điều có thể
thấy. Thật ra thì Trung Quốc đã di chuyển giàn khoan này từ lâu nhưng họ
cho biết là chỉ thăm dò trong vòng ba tháng và có khả năng rút đi vào
tháng 8 sắp tới, tuy nhiên tuyên bố đó chẳng nói lên điều gì cả. Người
ta còn nhớ vụ cắt cáp tàu Bình Minh trước đây nhưng Trung Quốc vẫn cho
là mình đúng. Và lần này đặt giàn khoan trái phép trên vùng biển mà họ
tuyên bố chủ quyền nằm chồng lên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Họ
cho tàu chiến chạy chung quanh bảo vệ giàn khoan là một thí dụ nữa cho
thấy họ tỏ ra cương quyết muốn chứng tỏ sự hiện diện lâu dài của mình
trên vùng biển này.
Đường chín đoạn mà họ vẽ nằm chồng lên tất cả các nước trong khu vực cho các nước thấy kế hoạch lâu dài và là một ý đồ lớn nhằm áp đặt chủ quyền trên vùng biển Nam Trung hoa. Trung Quốc đã làm cho các nước âm thầm tự trang bị vì biết rằng đây là một kế hoạch lâu dài của Bắc Kinh cho tới khi nào họ hoàn toàn chiếm được biển Đông.
Trước khi vụ việc này xảy ra thì đã có dấu hiệu cho thấy cả Indonesia và Malysia đã âm thầm tiến hành các bước để chống đỡ và cải tạo hệ thống phòng thủ của họ sau khi hội nghị thượng đỉnh ASEAN tại Myanmar diễn ra. Việc tiếp tục kích hoạt giàn khoan sẽ làm các thành viên cốt lõi của ASEAN thống nhất hơn trong cố gắng thuyết phục Trung Quốc từ những hành động quyết đoán như vậy.
Điều mà tất cả các nước ASEAN có thể làm là cố không cho Trung Quốc tiếp tục leo thang, điều này cũng có nghĩa là hy sinh quyền tài phán quốc gia của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế
GS Carl Thayer
Nếu Trung Quốc kích hoạt các giàn khoan sẽ chứng minh rằng họ đang
xác nhận tuyên bố chủ quyền của mình và các quốc gia trong khu vực sẽ
chỉ phải chấp nhận việc đã rồi.
Mặc Lâm: Theo GS vai trò của khối ASEAN trong vấn đề này ra sao nếu tình trạng căng thẳng tiếp diễn và có thể tồi tệ hơn?
GS Carl Thayer: Những nước thành viên chủ yếu trong khối ASEAN
đã không nhiều thì ít gì tỏ thái độ tiêu cực trong hội nghị tại
Cambodia, tuy nhiên trong toàn khối thì tôi tin rằng họ sẽ lên tiếng
chống lại việc leo thang trong khu vực nhưng họ sẽ không nêu tên nước
nào cụ thể. ASEAN sẽ đưa ra những luật lệ của Liên Hiệp quốc hay Công
ước quốc tế về luật biển hay những luật lệ khác như DOC để cảnh báo.
ASEAN sẽ ra tuyên cáo phản đối việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa vũ lực
để giải quyết tranh chấp lãnh thổ. ASEAN không có khả năng ảnh hưởng
đến Trung Quốc và nếu thúc ép thì Trung Quốc có thể rút khỏi các cuộc
thảo luận DOC.
Điều mà tất cả các nước ASEAN có thể làm là cố không cho Trung Quốc
tiếp tục leo thang, điều này cũng có nghĩa là hy sinh quyền tài phán
quốc gia của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế.
Mặc Lâm: Xin cám ơn GS Carl Thayer.
Tin, bài liên quan
- Trung Quốc phủ nhận việc đụng độ tàu Việt Nam
- Tàu Trung Quốc đâm tàu Việt Nam
- Cảnh sát biển TQ và VN đối đầu ở Biển Đông
- Hoa Kỳ đang điều tra vụ dàn khoan Trung Quốc ở Biển Đông
- Hoàn Cầu Thời báo đòi "cho Việt Nam bài học"
- TQ khoan dầu tại vùng biển đang tranh chấp với VN
- Việt Nam sẵn sàng tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình LHQ
- Liệu Việt Nam có làm lễ kỷ niệm cuộc chiến biên giới 1979?
- Việt Nam có thể trở thành một trục xoay?
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/issu-of-chi-oil-ring-05082014051757.html
Hầu hết các câu hỏi của phóng viên đều liên quan việc Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào Biển Đông.
Ông Daniel Russel nhắc lại Bộ Ngoại giao Mỹ đã có tuyên bố “chính thức” về lập trường của Mỹ.
Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Mỹ hôm 7/5 nói hành động của Trung Quốc là “khiêu khích và làm tăng căng thẳng”.
Nhà ngoại giao Mỹ nhấn mạnh tranh chấp trên biển, gồm cả Hoàng Sa, phải được giải quyết “một cách hòa bình, qua con đường ngoại giao, theo luật pháp quốc tế”.
“Mỹ kêu gọi các nước và các bên tranh chấp kiềm chế, tận dụng các kênh ngoại giao và chính trị để giảm căng thẳng, để quản lý tranh chấp và cuối cùng để giải quyết các vấn đề chủ quyền.”
“Mỹ có quan điểm từ lâu rằng nếu kênh ngoại giao không có kết quả, các nước tranh chấp cần tận dụng quyền sử dụng các cơ chế luật pháp quốc tế.”
Ông Russel nói: “Thông điệp đơn giản của tôi là nhắc lại sự quan trọng của kiềm chế, đối thoại và tuân thủ luật pháp quốc tế.”
Các câu hỏi của phóng viên muốn thúc nhà ngoại giao Mỹ nói rõ hơn về lập trường của Mỹ ủng hộ Việt Nam hay Trung Quốc.
Tuy vậy, ông Daniel Russel nhắc lại Mỹ “không có lập trường về phải trái trong đòi hỏi của bất kỳ nước nào trên Biển Nam Trung Hoa”.
Ông nói có tranh chấp ở quần đảo Hoàng Sa, nhưng “không phải chỗ để Mỹ nói lập trường của ai mạnh hơn”.
“Nhưng Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế có quyền kêu gọi các bên giải quyết tranh chấp trong hòa bình, phù hợp luật pháp quốc tế.”
Khi được hỏi về sự ủng hộ của Mỹ với Philippines trong tranh chấp với Trung Quốc, ông Daniel Russel giải thích sự ủng hộ “vững chắc” dành cho Philippines không có nghĩa là Mỹ ủng hộ đòi hỏi chủ quyền ở bất kỳ phần nào trên Biển Đông.
“Chúng tôi có lập trường về tính ràng buộc thiêng liêng với Philippines như đồng minh. Nhưng chúng tôi không có lập trường về phải trái trong đòi hỏi chủ quyền của Philippines.”
Câu hỏi cuối cùng, được trích từ một độc giả trên Facebook, hỏi về vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam.
Ông Daniel Russel nói ông đã nêu vấn đề nhân quyền, cùng sự quan tâm một số cá nhân cụ thể, khi gặp quan chức Việt Nam.
“Hoa Kỳ phát biểu thẳng thắn nhưng như một người bạn của Việt Nam, và không bao giờ để lỡ cơ hội nói ra, ủng hộ các nguyên tắc và các cá nhân,” ông Russel phát biểu.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2014/05/140508_daniel_russel_vn_scs.shtml
Hôm nay, 08/05/2014, Nhật Bản tuyên bố « rất quan ngại » về
các sự cố xẩy ra giữa tàu của Trung Quốc và Việt Nam tại Biển Đông và tố
cáo Bắc Kinh phải chịu trách nhiệm về các hành động này.
Dồn dập hỏi phái viên Mỹ về Biển Đông
Cập nhật: 13:39 GMT - thứ năm, 8 tháng 5, 2014
Báo chí Việt Nam và nước
ngoài đặt câu hỏi cho Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ về cuộc đối
đầu quanh giàn khoan của Trung Quốc.
Ông Daniel Russel, Trợ lý chuyên trách về Các
vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương, đang thăm Việt Nam và có buổi gặp báo
giới tại Hà Nội hôm 8/5.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Ông Daniel Russel nhắc lại Bộ Ngoại giao Mỹ đã có tuyên bố “chính thức” về lập trường của Mỹ.
Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Mỹ hôm 7/5 nói hành động của Trung Quốc là “khiêu khích và làm tăng căng thẳng”.
Nhà ngoại giao Mỹ nhấn mạnh tranh chấp trên biển, gồm cả Hoàng Sa, phải được giải quyết “một cách hòa bình, qua con đường ngoại giao, theo luật pháp quốc tế”.
“Mỹ kêu gọi các nước và các bên tranh chấp kiềm chế, tận dụng các kênh ngoại giao và chính trị để giảm căng thẳng, để quản lý tranh chấp và cuối cùng để giải quyết các vấn đề chủ quyền.”
“Mỹ có quan điểm từ lâu rằng nếu kênh ngoại giao không có kết quả, các nước tranh chấp cần tận dụng quyền sử dụng các cơ chế luật pháp quốc tế.”
Ông Russel nói: “Thông điệp đơn giản của tôi là nhắc lại sự quan trọng của kiềm chế, đối thoại và tuân thủ luật pháp quốc tế.”
Các câu hỏi của phóng viên muốn thúc nhà ngoại giao Mỹ nói rõ hơn về lập trường của Mỹ ủng hộ Việt Nam hay Trung Quốc.
Tuy vậy, ông Daniel Russel nhắc lại Mỹ “không có lập trường về phải trái trong đòi hỏi của bất kỳ nước nào trên Biển Nam Trung Hoa”.
Ông nói có tranh chấp ở quần đảo Hoàng Sa, nhưng “không phải chỗ để Mỹ nói lập trường của ai mạnh hơn”.
“Nhưng Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế có quyền kêu gọi các bên giải quyết tranh chấp trong hòa bình, phù hợp luật pháp quốc tế.”
Khi được hỏi về sự ủng hộ của Mỹ với Philippines trong tranh chấp với Trung Quốc, ông Daniel Russel giải thích sự ủng hộ “vững chắc” dành cho Philippines không có nghĩa là Mỹ ủng hộ đòi hỏi chủ quyền ở bất kỳ phần nào trên Biển Đông.
“Chúng tôi có lập trường về tính ràng buộc thiêng liêng với Philippines như đồng minh. Nhưng chúng tôi không có lập trường về phải trái trong đòi hỏi chủ quyền của Philippines.”
Câu hỏi cuối cùng, được trích từ một độc giả trên Facebook, hỏi về vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam.
Ông Daniel Russel nói ông đã nêu vấn đề nhân quyền, cùng sự quan tâm một số cá nhân cụ thể, khi gặp quan chức Việt Nam.
“Hoa Kỳ phát biểu thẳng thắn nhưng như một người bạn của Việt Nam, và không bao giờ để lỡ cơ hội nói ra, ủng hộ các nguyên tắc và các cá nhân,” ông Russel phát biểu.
Tokyo tố cáo Bắc Kinh gây ra sự cố giữa tàu Trung Quốc và Việt Nam
Sau Hoa Kỳ, đến phiên Nhật Bản lên án Trung Quốc gây căng thẳng với các láng giềng khi đưa giàn khoan vào Biển Đông (DR)
Hôm nay, 08/05/2014, Nhật Bản tuyên bố « rất quan ngại » về
các sự cố xẩy ra giữa tàu của Trung Quốc và Việt Nam tại Biển Đông và tố
cáo Bắc Kinh phải chịu trách nhiệm về các hành động này.
Hôm nay, 08/05/2014, Nhật Bản tuyên bố « rất quan ngại » về các
sự cố xẩy ra giữa tàu của Trung Quốc và Việt Nam tại Biển Đông và tố
cáo Bắc Kinh phải chịu trách nhiệm về các hành động này.
Theo phát ngôn viên chính phủ Nhật Bản, ông Yoshihide Suga, Tokyo « rất quan ngại trước việc gia tăng căng thẳng trong khu vực do Trung Quốc đơn phương quyết định tiến hành các hoạt động khoan thăm dò ».
Đầu tháng Năm, sau khi cơ quan an ninh hàng hải Trung Quốc thông báo sẽ tiến hành các hoạt động khoan thăm dò dầu khí trong khu vực có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, chính quyền Việt Nam đã tố cáo hành động này là « bất hợp pháp » và điều tàu cảnh sát biển ra ngăn chặn.
Các tàu hộ tống giàn khoan của Trung Quốc đã dùng vòi rồng phun nước tấn công và đâm thẳng vào các tàu cảnh sát biển của Việt Nam.
Phát ngôn viên chính phủ Nhật Bản cho rằng, « sự cố này là một phần trong các hoạt động khiêu khích và đơn phương của Trung Quốc ». Tokyo kêu gọi Bắc Kinh « kiềm chế » và tránh « mọi hành động khiêu khích ».
Do tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Quốc đã xấu đi nghiêm trọng, kể từ cuối năm 2012. Trong thời gian qua, Bắc Kinh thường xuyên điều tàu có vũ trang xâm nhập vào vùng biển thuộc quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, làm gia tăng lo ngại xẩy ra và chạm giữa tàu bè hai nước.
Trong chuyến thăm Nhật Bản, ngày 24/04 vừa qua, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã khẳng định là quần đảo Senkaku nằm trong phạm vi áp dụng hiệp định phòng thủ chung giữa Washington và Tokyo.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20140508-tokyo-to-cao-bac-kinh-gay-ra-su-co-giua-tau-trung-quoc-va-viet-nam
Theo phát ngôn viên chính phủ Nhật Bản, ông Yoshihide Suga, Tokyo « rất quan ngại trước việc gia tăng căng thẳng trong khu vực do Trung Quốc đơn phương quyết định tiến hành các hoạt động khoan thăm dò ».
Đầu tháng Năm, sau khi cơ quan an ninh hàng hải Trung Quốc thông báo sẽ tiến hành các hoạt động khoan thăm dò dầu khí trong khu vực có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, chính quyền Việt Nam đã tố cáo hành động này là « bất hợp pháp » và điều tàu cảnh sát biển ra ngăn chặn.
Các tàu hộ tống giàn khoan của Trung Quốc đã dùng vòi rồng phun nước tấn công và đâm thẳng vào các tàu cảnh sát biển của Việt Nam.
Phát ngôn viên chính phủ Nhật Bản cho rằng, « sự cố này là một phần trong các hoạt động khiêu khích và đơn phương của Trung Quốc ». Tokyo kêu gọi Bắc Kinh « kiềm chế » và tránh « mọi hành động khiêu khích ».
Do tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Quốc đã xấu đi nghiêm trọng, kể từ cuối năm 2012. Trong thời gian qua, Bắc Kinh thường xuyên điều tàu có vũ trang xâm nhập vào vùng biển thuộc quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, làm gia tăng lo ngại xẩy ra và chạm giữa tàu bè hai nước.
Trong chuyến thăm Nhật Bản, ngày 24/04 vừa qua, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã khẳng định là quần đảo Senkaku nằm trong phạm vi áp dụng hiệp định phòng thủ chung giữa Washington và Tokyo.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20140508-tokyo-to-cao-bac-kinh-gay-ra-su-co-giua-tau-trung-quoc-va-viet-nam
Wednesday, May 7, 2014
NGUYỄN TRUNG TÔN * DÀN KHOAN TRUNG CỘNG
Tổ Quốc Lại Thêm Một Nỗi Đau
Mấy ngày qua dư luận trong quần chúng nhân dân
xôn xao bàn tán về việc Trung Quốc đưa dàn khoang “khủng” HD-981 vào khai thác
ngay trên vùng biển mà Việt Nam xưa nay vẫn đang khẳng định chủ quyền. Không
một người Việt Nam nào không thấy bức xúc trước hành động bành trướng ngang
ngược của Trung Quốc trên vùng lãnh thổ Việt nam.
Câu hỏi đặt ra là khi Trung Quốc đưa cả một dàn khoan khổng lồ như vậy tiến vào
Biển Đông, lúc này lực lượng Quân đội Việt Nam làm gì? Chẳng lẽ không có một ai
phát hiện ra sự hiện diện của “Tàu lạ” xập nhâp lãnh hải của Tổ Quốc sao? Những
chiếc tầu ngâm Kylo trị giá hàng tỷ USD mà Việt nam đã mua hiện đang để ở đâu?
Lực lương quân đội mà lâu nay vẫn tuyên bố “ Quân đội ta trung với
Nước( nay đã đổi thành trung với Đảng), hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy
sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua” . Nay Trung Quốc đưa dàn khoan tới vùng biển thân
yêu của Tổ quốc, ngang ngược khai thác, lộng hành trắng trợn như vậy mà lực
lượng quân đội Việt nam vẫn im như thóc. Trung ương Đảng Cộng sản cũng như điếc
như câm, Quốc Hội lặng thinh, chính phủ lờ như không biết. Bộ ngoại giao và tập
đoàn Dầu Khí Việt Nam yếu ớt ra một thông cáo phản đối mang tính hình thức: http://m.tinngan.vn/nghe-tin-465016-0.html.
Những tuyên bố kiểu này của Bộ ngoại giao chỉ để lừa mị dư luận quần chúng nhân
dân mà không giải quyết được gì. Kinh nghiệm cho thấy chưa bao giờ Trung Quốc
tôn trọng những phản ứng kiểu này của Việt nam. Tôi thấy rất ngạc nhiên khi mà
chiếc máy bay của Malaysia mất tích vào hồi tháng 3 vừa qua. Việt nam đã hăng
hái huy động lực lượng Quân đội vào cuộc để tham gia tìm kiếm, Đảng Cộng sản
sản sằng huy động lực lượng Quân đội, rầm rộ tham gia vào việc “giải phóng mặt
bằng” để giúp các công ty nước ngoài cướp đất của người dân, thẳng tay đánh đập
trấn áp những người yêu nước xuống đường biểu tình chông Trung Quốc xâm lược.
Khi mà lực lương quân đội tham gia vào việc trấn áp bà con giáo dân ở Mỹ Yên
chỉ vì lý do tôn giáo…Không những thế hiện nay Quân đội Viết Nam còn tham gia
vào lực lượng gìn giữ hòa hình của Liên Hợp Quốc. Nhưng nay không thể giữ được
lãnh thổ của chính Quốc gia mình! Đây không phải là lần đầu Trung Quốc có những
hành động xâm lấn lãnh thổ Việt Nam. Lịch sử cho chúng ta thấy từ ngàn xưa, các
triều đại phong kiến Trung Quốc đã nhiều lần xâm lược Việt nam ta. Trong suốt
chiều dài lịch sử, có lúc hưng thịnh, có lúc suy vong, nhưng lúc nào cũng có
anh hùng nổi lên đánh tan giặc Tàu, dành lại độc lập và bảo vệ toàn vẹn lãnh
thổ. Tổ tiên ta không bao giờ mất cảnh giác trước cái họa xâm lược của Tàu.
Vua Trần Nhân Tông (1258-1308) đã nhắc nhở con cháu muôn đời :
"Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái
đạo . Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái hoạ
lâu đời của ta là hoạ nước Tàu. Chớ coi thường chuyện vụn vặt nảy ra trên biên
ải. Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn
trọng biên giới qui ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không
thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ
biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các
người phải nhớ lời ta dặn: " Một
tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác". Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho
muôn đời con cháu".
Vua Lê Thánh Tông năm 1473 cũng để lại lời nguyền trước bá quan
văn võ: “Nếu ngươi
đem một thước sông, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc thì phải tội tru
di”.
Tổ tiên dân Việt ta không có khiếp nhược trước cường bạo.
Hảy lắng nghe lời nữ anh hùng Triệu Thị Trinh (năm 218) nói cách đây 1796 năm “Tôi
muốn cỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém cá tràng kình ở Biển Đông, quét
sạch bờ cõi để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời
cúi đầu cong lưng làm tì thiếp người ta" (Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim). Đúng vậy, Biển Đông
đã được xác định thuộc lãnh hải của nước Việt từ cách đây khoảng 1800 năm. Nay Trung Quốc ngang nhiên xâm lược lãnh hải thân yêu. Với tư
cách là một đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản đã hèn yếu, khiếp nhược lại thêm Quân
đội buộc phải trung thành với Đảng khiến cho danh dự quốc gia bị sĩ nhục, lãnh
thổ bị cắt xén. Rõ ràng rằng những lãnh đạo đảng Cộng sản đã xem thường giáo
huấn của Tiền nhân. Coi nhẹ Quốc dân đồng bào hơn cái tình “đồng chí” đối với
Trung Quốc. Lúc nào cũng “Vàng với Tốt” nhưng cái tốt, cái vàng của họ
chính là chấp nhận cuối đầu làm tay sai cho Trung cộng, âm thầm từng bước cắt
nhựng lãnh thổ cho giặc cốt để giữ cái độc quyền lãnh đạo nhằm hút máu nhân
dân.
Cứ căn cứ trên lời dạy của các tiền nhân thì
không biết bao nhiêu kể cầm quyền phải chịu tội tru di? Tôi mong sao các lực
lượng Công an, Quân đội hãy manh dạn đứng lên cùng toàn thể nhân dân mạnh dạn
chống lại giặc tàu xâm lược để không phải hổ thẹn với các bậc Tiền nhân. Hãy
nghe người anh hùng Lê Lợi nói: “ Làm trai sinh ở trên đời. nên giúp
khi nạn lớn, lập công to, để tiếng muôn đời, chứ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người” ( Việt Nam Sử Lược). Nay tổ quốc lâm nguy, lãnh đạo Đảng ươn hèn
chẳng lẽ nhân dân ta và những lực lương Quân đội nhân dân và Công an nhân dân
cũng cứ chấp nhận cúi đầu sao?
Thanh hóa ngày 07/05/2014
Nguyễn Trung Tôn
ĐT: 0162.8387.716
Email: nguyentrungtonth@gmail.com
X.LINH * VIỆT NAM SẼ ĐÂM LẠI?
Nếu tàu TQ tiếp tục đâm, Việt Nam sẽ đáp lại
- Mọi
sự chịu đựng đều có giới hạn. Nếu tiếp tục đâm vào chúng tôi, chúng tôi
sẽ có tự vệ tương tự để đáp lại – Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng, Bộ Tư
lệnh Cảnh sát biển VN Ngô Ngọc Thu khẳng định tại cuộc họp báo quốc tế
chiều nay ở Hà Nội.
Chiều nay (7/5), Bộ Ngoại giao họp báo quốc tế về việc TQ hạ đặt giàn
khoan trái phép trong vùng biển VN. Chủ trì họp báo có Phó Chủ nhiệm UB
Biên giới Quốc gia Trần Duy Hải, Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí quốc
gia Việt Nam Đỗ Văn Hậu, Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng, Bộ Tư lệnh Cảnh
sát biển Việt Nam Ngô Ngọc Thu, đại diện Cục Kiểm ngư (Bộ NN&PTNT)
Ngô Mai Thịnh, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình.
Mở đầu họp báo, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình khẳng định:
“Chúng tôi mở họp báo quốc tế để công bố hành vi sai trái của TQ” .
Tiếp đó, ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm UB Biên giới quốc gia trình bày diễn biến sự việc cho đến nay.
Theo ông Hải, từ ngày 1/5 giàn khoan HD 981 cùng các tàu hộ vệ của TQ
di chuyển vào vùng biển VN, 2/5 giàn khoan định vị ở tọa độ định vị ở
vị trí có tọa độ 15 độ29’58s vĩ bắc và 111 độ 16p6’ kinh đông. Vị trí
này trên bản đồ nằm hoàn toàn trên thềm lục địa của VN nằm cách bờ biển
Hải Nam khoản 130 hải lý và cách đảo Lý Sơn khoảng 122 hải lý.
“Việc TQ đưa giàn khoan HD 981 cùng các tàu hộ tống vào vùng đặc
quyến kinh tế của VN, thềm lục địa của VN vi phạm quyền chủ quyền và
quyền tài phán của VN quy định bởi Công ước LHQ luật Biển năm 1982″ –
ông Hải nói.
Ngay sau khi có tin
việc TQ đưa giàn khoan HD 981 vào thềm lục địa VN, Bộ Ngoại giao đã
tiến hành các biện pháp đấu tranh ngoại giao kiên quyết. Những ngày qua
đã có tổng cộng 8 cuộc làm việc với TQ, trong đó có 3 cuộc gặp ở Hà Nội,
3 cuộc tại Bắc Kinh và 2 cuộc điện đàm giữa trưởng đoàn đàm phán cấp
chính phủ ở 2 nước và giữa Phó thủ tướng Phạm Bình Minh với ủy viên Quốc
vụ viện TQ Dương Khiết Trì.
“Trong các cuộc làm việc này, chúng ta đã khẳng định việc làm của TQ
vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền cũng như quyền tài phán quốc gia
của VN, vi phạm nghiêm trọng công ước LHQ cũng như Tuyên bố ở Biển đông DOC,
vi phạm thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao 2 nước cũng như thỏa thuận
thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản giải quyết những vấn đề trên biển.
Việt Nam kiên quyết phản đối việc làm này của TQ”.
Bộ Ngoại giao đã triệu
đại biện cơ quan TQ tại Hà Nội trao công hàm phản đối TQ, đồng thời yêu
cầu TQ phải rút ngay giàn khoan cũng như các tàu hộ vệ ra khỏi vùng
biển VN.
Được biết số lượng tàu TQ khu vực này lên tới khoảng 80 tàu, số lượng
tàu tăng lên hàng ngày tạo nên tình hình hết sức căng thẳng tại thềm
lục địa.
Tàu TQ đâm tàu Việt Nam
Tiếp đó, Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển VN Ngô Ngọc Thu trình bày diễn biến trên thực địa:
Ông cho hay, TQ đã đưa đến hiện trường cho đến giờ phút này tổng cộng
có 80 tàu các loại để tham gia bảo vệ và phục vụ các hoạt động của giàn
khoan 981. Trong đó có 7 tàu quân sự, phía VN đã ghi rõ số hiệu. Có 2
tàu là tàu hộ vệ tên lửa 534 và tàu tuần tiễu tấn công nhanh số hiệu 753
cùng 33 tàu hải giám, hải cảnh và các tàu vận tải, tàu cá và các loại
tàu phục vụ khác.
Khi các tàu thực thi pháp luật của VN ra kiểm tra, ngăn chặn việc xâm phạm trái phép của giàn khoan 981, các tàu hộ vệ của TQ được sự yểm trợ của máy bay có hành động hung hăng, chủ động đâm thẳng vào các tàu của VN, dùng vòi rồng công suất lớn, súng bắn nước nhằm vào các tàu của VN làm hư hỏng các trang thiết bị và gây thương tích….
Cụ thể, lúc 8h10’ ngày 3/5, tàu hải cảnh 44044 đã đâm thẳng vào mặt phải của tàu cảnh sát biển 4033 tại tọa độ 15 độ 31’ bắc, 111 độ 02’ đông. Vị trí này cách giàn khoan khoảng 10 hải lý làm hư hỏng mán phải và các trang thiết bị khác của tàu cảnh sát biển, đặc biệt làm rách vết dài 3m rộng 1m ở trên mặt pô con tàu cảnh sát biển 4033.
8h30 ngày 4/5, tàu hải cảnh 44103 đã chủ động đâm vào mặt trái của
tàu cảnh sát biển 2012. Tàu 2012 tăng tốc độ và vòng tránh cho nên vẫn
đâm không vào mạn với diện tích 1m2 làm hư hỏng một số trang thiết bị
trên tàu.
Tại họp báo, Bộ Ngoại giao đã chiếu video clip về việc TQ hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng biển VN.
Dưới đây là phần hỏi, đáp tại cuộc họp báo:
Các nước lo ngại
VietNamNet:Trong những ngày qua, VN đã có những
tiếp cận ngoại giao các cấp để giải quyết vấn đề. Tại sao đến nay hai
nước chưa sử dụng điện đàm đường dây nóng giữa lãnh đạo cấp cao nhất của
hai nước? VN đã tiếp xúc với các nước để trao đổi vấn đề này chưa?
Những nỗ lực ngoại giao của VN những ngày qua cho thấy VN muốn giải
quyết vấn đề theo con đường ngoại giao, kêu gọi TQ tham gia đàm phán để
xử lý bất đồng. Nếu trong trường hợp các yêu cầu chính đáng của VN tiếp
tục bị TQ phớt lờ, VN tính tới các kịch bản phản ứng thế nào?
Ông Trần Duy Hải: Chúng ta đã sử dụng đường dây nóng
giữa Bộ Ngoại giao 2 nước cũng như ở cấp Phó Thủ tướng, Bộ trưởng
Ngoại giao và ủy viên Quốc vụ. Chúng ta cũng đã nêu với phía TQ là sẵn
sàng điện đàm ở lãnh đạo cấp cao và chúng ta đang chờ đợi ở phía TQ.
Do tính chất nghiêm trọng của vấn đề, đe dọa hòa bình, ổn định và an
ninh toàn hàng hải ở Biển Đông, chúng tôi đã thông báo cho các nước
ASEAN và các nước liên quan khác quan tâm và có lợi ích ở khu vực này.
Hầu hết các nước đều bày tỏ lo ngại trước cái hành vi của TQ.
Vấn đề chủ quyền rất thiêng liêng, chúng ta sẽ sử dụng tất cả những
biện pháp cần thiết để mà bảo vệ các quyền và lợi ích của chúng ta.
Chính sách nhất quán của VN là thông qua các biện pháp hòa bình để giải
quyết các tranh chấp, chúng ta kiên trì thực hiện.
Đông đảo phóng viên trong và ngoài nước dự họp báo |
6 kiểm ngư viên VN bị thương
AP: Các ông có
thể khẳng định hiện tại vẫn chưa có người chết trong các hoạt động vừa
rồi? Các clip chiếu cho thấy tàu TQ chủ động đâm vào tàu VN. Liệu tàu VN
có đâm vào tàu TQ để bảo vệ tàu thuyền của mình hay các hoạt động này
chỉ có tàu TQ tiến hành?
Ông Ngô Ngọc Thu: Mặc dù những ngày qua, tình hình
thực địa những ngày qua căng thẳng. TQ chủ động đâm va, sử dụng trang bị
trên tàu để phun nước vào tàu VN. Nhưng đến giờ phút này tôi khẳng định
chưa có người nào bị chết trên biển. Có 6 kiểm ngư viên VN bị mảnh kính
văng vào gây thương tích phần mềm.
Các clip chiếu cho thấy các tàu hải giám, tàu bảo vệ của TQ chủ động
đâm va vào các tàu VN, gây hư hỏng, ảnh hưởng đến trang thiết bị tàu của
VN. Lực lượng cảnh sát biển, lực lượng kiểm ngư hết sức kiên trì kiềm
chế. Chúng tôi tiếp tục bám trụ và giải quyết mọi việc trên biển. Nhưng
mọi sự chịu đựng có giới hạn. Nếu tiếp tục đâm vào chúng tôi, chúng tôi
sẽ có tự vệ tương tự để đáp lại.
TQ tiến tới khoan thăm dò
NHK:Hiện nay phía TQ đã thực sự khoan thăm dò
dưới đáy biển của VN hay chưa? Nếu TQ không chịu rút giàn khoan ra khỏi
VN thì VN sẽ có hành động gì tiếp theo?
Ông Ngô Ngọc Thu: Cho đến thời điểm này, giàn khoan
981 đã được định vị ở các vị trí đã xác định trên bản đồ. Hiện nay sau
định vị, giàn khoan đang tiến hành tác nghiệp làm chuẩn bị để tiến tới
khoan thăm dò.
Ông Trần Duy Hải: VN chủ trương thông qua các biện
pháp hòa bình để giải quyết các tranh chấp liên quan ở Biển Đông. Hiện
nay và sắp tới chúng ta sẽ tiếp tục duy trì, trao đổi với TQ để xử lý
những vấn đề Biển Đông.
Một lần nữa khẳng định vì các quyền và lợi ích chính đáng của chúng
ta ở Biển Đông, chúng ta sẽ sử dụng tất cả các biện pháp hòa bình được
quy định bởi luật pháp quốc tế và Hiến chương LHQ để bảo vệ các quyền và
lợi ích của VN.
VN đấu tranh bằng mọi biện pháp
Tuổi Trẻ: Đây có phải là lần đầu tiên TQ đưa
toàn bộ giàn khoan vào hoạt động tại thềm lục địa VN? Phía VN sẽ có
những biện pháp gì để ngăn chặn TQ lặp lại các hoạt động trong tương
lai? Các hoạt động của TQ có hệ quả gì khi tuyên bố ứng xử ở các bên về
Biển Đông và việc đàm phán tiến tới bộ quy tắc ứng xử COC?
Ông Trần Duy Hải: Trước đây TQ cũng đã nhiều lần
tiến hành thăm dò ở khu vực này và chúng ta cũng đã kiên quyết đấu tranh
và TQ cũng đã rút khỏi. TQ cũng đã từng thuê các giàn khoan của các nhà
thầu nước ngoài để dự tính khoan thăm dò trên thềm lục địa của VN.
Nhưng chúng ta đã đấu tranh quyết liệt, kể cả gặp nhà thầu đó để đấu
tranh, cho nên cũng chưa xảy ra trường hợp TQ khoan thăm dò thềm lục địa
của chúng ta.
Đây là lần đầu tiên TQ sử dụng tàu của chính TQ để khoan thăm dò trên các thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của VN.
Chúng ta sẽ phải tiếp tục đấu tranh bằng mọi biện pháp để bảo vệ các
quyền và lợi ích của chúng ta ở Biển Đông với chủ trương nhất quán của
chúng ta.
Chúng ta sẽ sử dụng biện pháp hòa bình, ưu tiên đàm phán thương lượng với các nước liên quan.
Ông Lê Hải Bình: Rõ ràng những phức tạp vừa qua ở
Biển Đông đặt ra những thách thức đối với vai trò của tuyên bố của các
bên về ứng xử của các bên ở Biển Đông DOC trong việc xử lý các tranh
chấp. Do vậy VN kêu gọi tất cả các bên cần triệt để tuân thủ các quy
định trong tuyên bố DOC vì hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực.
Ông Lê Hải Bình: VN kêu gọi tất cả các bên triệt để tuân thủ các quy định trong tuyên bố DOC vì hòa bình, ổn định khu vực |
VN chia sẻ quan điểm chung của các nước ASEAN về việc cần sớm có một
quy tắc về ứng xử ở Biển Đông COC, có tính ràng buộc pháp lý và điều
chỉnh toàn diện các khía cạnh liên quan đến tranh chấp ở Biển Đông vì
mục đích hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực, trên cơ sở quyền
và lợi ích chính đáng của các quốc gia ven biển theo quy định của luật
pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật biển 1982.
VN hoan nghênh và sẽ tích cực tham gia vào nỗ lực chung của các nước
để thúc đẩy, sớm đạt được bộ quy tắc ứng xử của Biển Đông COC.
VnExpress:Khi TQ đưa giàn khoan này vào vị trí
thềm lục địa của VN thì phía VN có bất ngờ không? Duy trì đàm phán hòa
bình, kiên trì với TQ nhưng nếu TQ không rút giàn khoan ra khỏi khu vực
này thì kế hoạch của lực lượng hải quân và kiểm ngư sẽ như thế nào?
Ông Ngô Ngọc Thu: Tôi xin khẳng định lực lượng hải
quân VN chưa tham gia và chưa có mặt, hiện nay không có mặt của khu vực
có giàn khoan 981. Còn việc di chuyển của giàn khoan 981 thì chúng tôi
đã theo dõi và nắm bắt rất chặt.
Nhưng theo Công ước quốc tế về Luật biển thì các tàu thuyền, phương
tiện nổi được quyền di chuyển bình thường trên các vùng đặc quyền kinh
tế. chỉ khi nào những cái giàn khoan hạ đặt và tiến hành khoan thăm dò
thì lúc đó mới vi phạm pháp luật của nước có chủ quyền và quyền chủ
quyền.
Việc TQ hạ đặt giàn khoan trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của VN, chúng ta kiên quyết đấu tranh, sử dụng mọi biện pháp trên cơ sở
đảm bảo hòa bình ổn định ở khu vực, đảm bảo an ninh an toàn hàng hải ở
Biển Đông, đảm bảo cho mục tiêu của chúng ta và các nước mong muốn.
Hòa bình bị đe dọa
Lao Động: Động thái TQ cho đến nay đã bị cộng
đồng quốc tế lên án. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ gọi đây là hành
động “khiêu khích” và “gây hấn”. Tuy nhiên những phản ứng của VN như đại
diện ngoại giao và các cơ quan liên quan vẫn nói rằng chúng ta đang
kiên trì theo đuổi biện pháp ngoại giao. Dư luận cho rằng VN nín nhịn
trước hành động của TQ. Báo chí TQ đang tiếp cận điều này. Cho rằng VN
“gây hấn”, thậm chí tờ Hoàn cầu Thời báo cũng nói rằng “TQ cần dạy cho
VN một bài học”. Xin được hỏi có phải sự nhịn của VN đang làm cho TQ
ngày càng lấn tới hay không? Ông bình luận gì?
Hành động của TQ diễn ra ngay trước thềm hội nghị cấp cao ASEAN
tại Myanmar, nơi các lãnh đạo khu vực dự kiến thảo luận về xây dựng COC,
được coi là bộ quy tắc xây dựng lòng tin giữa ASEAN và TQ. Nhưng hành
động của TQ làm sao có thể xây dựng được lòng tin? Thông điệp dự kiến
của Thủ tướng tại hội nghị là gì?
Ông Trần Duy Hải: Tôi xin thông báo VN là đất nước
yêu chuộng hòa bình, chúng ta trải qua nhiều cuộc chiến tranh nên chúng
ta mong muốn hòa bình và kiên trì dùng các biện pháp hòa bình để giải
quyết các tranh chấp.
Vấn đề chủ quyền lãnh thổ là thiêng liêng với các dân tộc nên VN sẽ
sử dụng tất cả các biện pháp được quy định bởi Hiến chương LHQ để bảo vệ
quyền lợi và lợi ích của mình. Chúng tôi đã nói vấn đề này rất nhạy
cảm, rất nguy hiểm, đe dọa hòa bình, ổn định, an ninh an toàn hàng hải
tại Biển Đông. Tại các Diễn đàn ASEAN luôn trao đổi về vấn đề Biển Đông.
Nên chắc chắn vấn đề này sẽ được trao đổi tại các hội nghị của Diễn đàn
sắp tới.
AFP: TQ cho rằng, sáng nay các lực lượng vũ trang VN có khống chế một số ngư dân TQ trong khu vực đó. Xin cho biết chi tiết có hay không?
AFP: TQ cho rằng, sáng nay các lực lượng vũ trang VN có khống chế một số ngư dân TQ trong khu vực đó. Xin cho biết chi tiết có hay không?
Ông Ngô Ngọc Thu: Tôi xin khẳng định hiện nay các
lực lượng thực thi pháp luật của VN không hề bắt giữ, khống chế các đối
tượng của TQ trên biển.
Hãng thông tấn Đức:VN có thể theo gương Philippines tiến hành các thủ tục kiện TQ lên tòa án quốc tế không?
Ông Trần Duy Hải: Việc giải quyết tranh chấp lãnh
thổ tại các cơ quan tài phán quốc tế là một biện pháp hòa bình được quy
định trong Hiến chương LHQ cũng như luật pháp quốc tế. Tất cả những biện
pháp hòa bình đều có thể được sử dụng để bảo vệ quyền và lợi ích của
VN. Quan điểm nhất quán của VN thông qua các biện pháp hòa bình, trong
đó ưu tiên đàm phán thương lượng giải quyết các vấn đề tranh chấp với
các nước láng giềng. Tuy nhiên chúng ta không thể loại trừ biện pháp nào
cả.
Phó Thủ tướng đã bác bỏ quan điểm của TQ
Thanh Niên: Câu trả lời của ông Dương Khiết Trì trong cuộc điện đàm hôm qua với Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh là như thế nào?
Hoạt động thăm dò giàn khoan của TQ, theo Tập đoàn Dầu khí Việt
Nam, đó là chưa có tiến hành thăm dò thương mại nào tại vị trí lô 143.
Tuy nhiên, Tập đoàn Dầu khí có chuẩn bị ứng phó thế nào nếu TQ có di dời
dàn khoan các vị trí mà tập đoàn đang tiến hành khai thác xâm phạm
quyền lợi, lợi ích của tập đoàn, đất nước?
Ông Trần Duy Hải: Trong cuộc điện đàm giữa Phó Thủ
tướng Phạm Bình Minh và ủy viên Quốc vụ TQ Dương Khiết Trì, phía TQ nhắc
lại lập trường của TQ, cho rằng khu vực giàn khoan 981 đã hoạt động
thuộc quyền tài phán của TQ nhưng Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đã bác bỏ
quan điểm của TQ, khẳng định chủ quyền của chúng ta với quần đảo Hoàng
Sa, cũng như quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển, nhấn
mạnh các hoạt động của giàn khoan 981 là vi phạm, xâm phạm vùng biển VN
và VN kiên quyết phản đối.
Ông Đỗ Văn Hậu: Khu vực lô 143, 142 hiện có giàn
khoan HD 981 của TQ. Đây là hoạt động khoan, tìm kiếm thăm dò dầu khí.
Nhưng chưa có phát hiện thương mại nào để có thể khai thác dầu khí. Đây
là lần đầu tiên khu vực này có khoan dầu khí. Tập đoàn Dầu khí Việt Nam
đã tiến hành nhiều đợt khảo sát tìm kiếm, thăm dò ở khu vực này nhưng
chưa khoan và đây là lần đầu tiên TQ đưa giàn khoan vào khu vực vi phạm
quyền chủ quyền ở thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của VN. Tập
đoàn đã gửi thư cho Chủ tịch và Tổng giám đốc Tổng công ty dầu khí Hải
Dương TQ chính thức phản đối việc làm này và yêu cầu công ty này chấm
dứt hoạt động dầu khí tại đây.
Trong tương lai liệu TQ có tiến tới tiếp cận, khoan ở những khu vực
chúng ta đang khai thác dầu khí hay không? Tất cả các khu vực đang khai
thác dầu khí của VN đều nằm trong thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế
của VN. Chúng tôi tin rằng với các lực lượng bảo vệ của chúng ta và Tập
đoàn Dầu khí VN không cho phép phía TQ tiếp cận đến các khu vực mà chúng
ta đang khai thác dầu khí trong bất luận trường hợp nào.Một Thế Giới:VN
có định tổ chức những cuộc họp báo quốc tế thế này đại diện ở các cơ
quan đại diện ở nước ngoài hay không để thông báo cho toàn thể nhân dân
thế giới được biết đến hành động ngang ngược của TQ hay không? Nếu có
thì kế hoạch sẽ được tiến hành như thế nào?
Ông Lê Hải Bình: Như trong quá trình họp báo đã cho
thấy rõ, kể cả ông Trần Duy Hải và các vị chủ tọa khác cũng đã khẳng
định VN sẽ thực hiện tất cả các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật
pháp quốc tế để đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của đất
nước. Vì vậy trong thời gian sắp tới, tùy vào diễn biến thực tiễn của
tình hình, chúng tôi sẽ có các biện pháp tiếp theo để bảo vệ quyền và
lợi ích của VN.
VTC10:Trong nhiều năm qua, TQ đã nhiều lần bắt
giữ và gây thương tích cho ngư dân Việt Nam tại khu vực quần đảo Hoàng
Sa và chính phủ VN cũng đã yêu cầu TQ phải bồi thường. Việc bồi thường
đã diễn ra như thế nào? Sau sự kiện này nếu VN có buộc TQ phải di dời
giàn khoan ra khỏi vị trí thì những người kiểm ngư đã bị thương, tàu bè
hư hại thì chúng ta sẽ buộc TQ phải bồi thường như thế nào?
Ông Trần Duy Hải: Thời gian qua chúng ta cũng đã
kiên quyết đấu tranh qua đường ngoại giao để bảo vệ lợi ích chính đáng
của ngư dân ta mà qua các cuộc tiếp xúc ngoại giao cũng như qua các công
hàm, người phát ngôn cũng đã lên tiếng mà bảo vệ các quyền và lợi ích
chính đáng của ngư dân ta.
Trong các giao thiệp đó chúng ta luôn yêu cầu phía TQ phải chấm dứt
các hoạt động bắt giữ ngư dân cũng như bồi thường thiệt hại của ngư dân.
Trong các vụ việc lần này chúng tôi cũng đã yêu cầu TQ phải bồi thường
những thiệt hại.
Chưa thể khai thác dầu khí trong tương lai gần
Pháp luật TP HCM: Một số đặc điểm về vùng biển
với địa điểm mà giàn khoan của Trung Quốc đặt ở đó, độ sâu thế nào? Khả
năng khai thác dầu ở đó ra sao? Giả sử có những tiềm năng thương mại thì
khả năng khai thác đối với TQ thế nào và đối với VN ra sao?
Ông Đỗ Văn Hậu: Về vùng biển phía TQ đang tiến hành
các hoạt động trái phép, đây là khu vực cách phía nam đảo Tri Tôn (quần
đảo Hoàng Sa) 17 hải lý, tức khoảng 30km, cách đảo Lý Sơn về phía đông
khoảng 180 hải lý. Độ nước sâu trung bình 1.000m, chỗ TQ đặt giàn khoan
khoảng 1.100m. Vì vậy TQ phải dùng giàn khoan đặc biệt, dạng nửa nổi nửa
chìm. Giàn này có 2 cách để định vị, hoặc là dùng neo hoặc dùng định vị
động học, tức là dùng các chân vịt để định vị tại vị trí để khoan.
Về tiềm năng dầu khí của khu vực này, Tập đoàn Dầu khí quốc gia VN đã
thực hiện nhiều cuộc khảo sát và các cuộc khảo sát này bắt đầu từ thời
chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Năm 1972 đã bắt đầu khảo sát địa chấn,
thuê công ty của Mỹ khảo sát, sau đó chúng ta tiếp quản tài liệu và về
sau này Tập đoàn Dầu khí VN đã tiếp tục một số đợt khảo sát khu vực này.
Những nghiên cứu của PetroVN đều đã có và nhiều các nghiên cứu đã
được in. Tổng quan mà nói khu vực này tiềm năng dầu khí chưa được đánh
giá kỹ vì chúng ta chưa đủ tài liệu và cũng chưa có khoan.
Tại sao đến giờ PetroVN chưa khoan? Bởi vì đây là vùng nước sâu và
chúng ta chưa có thiết bị để khoan ở khu vực này. Phần lớn các hoạt động
thăm dò, đặc biệt là hoạt động khai thác dầu khí chúng ta tập trung ở
những vùng biển nông hơn.
Chúng tôi vẫn có kế hoạch và chiến lược của PetroVN là tiếp tục triển
khai các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí ở những vùng biển xa
hơn, kể cả khu vực lô 142, 143 mà TQ đang xâm phạm trái phép.
Bạn hỏi nếu mỏ ở đây có giá trị thương mại thì ta có khai thác được
không. Việc này phụ thuộc vào khả năng của ta. Chúng tôi tin rằng việc
khoan thăm dò là một chuyện, nhưng khai thác thì khó khăn hơn rất nhiều,
vì phải xây dựng rất nhiều công trình cố định và thực hiện rất nhiều
công việc, các hoạt động dầu khí liên quan đến thăm dò, thẩm lượng, xây
dựng các công trình trên biển để khai thác được dầu.
Để khai thác được dầu ở khu vực nước sâu đòi hỏi một chương trình đầu tư hết sức tốn kém.
Cho nên chúng tôi không tin rằng trong tương lai gần có thể khai thác được dầu khí ở khu vực này.
X.Linh – H.Nhì – Clip: X.Quý – Ảnh: P.Hải
********
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/174229/neu-tau-tq-tiep-tuc-dam–viet-nam-se-dap-lai.html
TƯỞNG NĂNG TIẾN * CỘNG SẢN XƯA NAY VẪN GIAN ÁC
Trước Giờ Vẫn Vậy Mà
Wed, 05/07/2014 - 08:00 — tuongnangtien
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
"Có lẽ trên thế giới này không có nước nào đối xử với tù binh Mỹ tốt như ở Việt Nam."
Trần Trọng Duyệt – cựu trại trưởng tù binh Hoả Lò
Khi được phóng viên báo Tiền Phong hỏi về sự khác biệt trong “tư duy lễ hội của người Việt và nước ngoài, ”ông Lê Trần Bạt cho hay:
“Tôi đã đến lễ hội rượu nho ở xung quanh lưu vực sông Đa-nuyp, ở
nước Áo, nước Đức, và một số nước khác. Lễ hội ấy nước nào cũng có,
nhưng nó diễn ra khác nhau ở nhiều quốc gia.
Ví dụ ở Áo, anh có thể nếm thoải mái tất cả các loại rượu, từ rượu
bằng các loại quả nho đến rượu bằng các loại hạt nho. Tôi nghĩ rằng các
hình thức như vậy nó tạo ra sự đa dạng, và sự đa dạng nào cũng là đặc
trưng của văn hóa.
Không phải tất cả các lễ hội của người ta đều gắn liền với vui chơi
mà nó gắn liền với sản xuất và bán hàng. Chúng ta càng làm cho lễ hội
gắn liền với đời sống kinh tế bao nhiêu thì chất lượng hợp lý của hiện
tượng ấy càng tốt bấy nhiêu. Có lẽ nên phát triển văn hóa Việt Nam theo
khuynh hướng như thế.”
Cái “khuynh hướng làm cho lễ hội gắn liền với đời sống
kinh tế” mà ông Lê Trần Bạt mong muốn (e) còn phải đợi hơi lâu.
Với truyền thống của một dân tộc đã từng đánh bại ba đế quốc
to nên lễ hội của người Việt “chủ yếu” chỉ là để hân hoan
chào mừng thắng lợi.
Tháng Tư vừa qua phố xá cờ xí rợp trời, với không khí
vẫn (còn) hừng hực khí thế của Đại Thắng Mùa Xuân. Qua tháng
Năm này thì cả nước lại đang tưng bừng kỷ niệm Chiến Thắng
Điện Biên – không chỉ riêng Điện Biên ở Lai Châu mà còn thêm luôn
“trận Điện Biên” ở (tuốt luốt) trên không nữa.
Trong bài viết (“Cuộc Sống Thường Ngày Của Tù Binh Mỹ Tại Hoả Lò Hơn Bốn Mươi Năm Trước”) hai nhà báo Đặng Vương Hưng- Nguyễn Văn tường thuật:
“Sau trận chiến lịch sử ấy, có 81 máy bay Mỹ bị bắn rơi (có 34
chiếc B52) và gần 100 phi công Mỹ bị chết và bị bắt. Và lại có thêm
nhiều tù binh phi công Mỹ nhập trại Hỏa Lò, Hà Nội, nơi trước đó đang
giam giữ hàng trăm phi công Mỹ.”
Bài báo thượng dẫn cũng trích dẫn lời của cựu đại tá
trại trưởng, Trần Trọng Duyệt, về chính sách rộng lượng “vô biên”
của Đảng và Nhà Nước đối với tù binh:
Ở Hỏa Lò hồi đó các tù binh Mỹ thường xuyên được tổ chức vui
chơi giải trí. Hằng ngày, họ được ra sân phơi nắng, chơi bóng chuyền,
bóng rổ, chọc bi-a, đọc sách báo, nghe tin tức kể cả tin tức của Mỹ và
phương Tây qua đài phát thanh mà trại tiếp âm, hoặc chọn những tù binh
có giọng đọc tốt để đọc cho tất cả cùng nghe.
Để các tù binh có phương tiện chơi thể thao thường xuyên, trại
phải nhờ đến sự giúp đỡ của ông Tạ Đình Đề, người phụ trách xưởng sản
xuất dụng cụ của Tổng cục Thể dục thể thao. Thậm chí để giúp một số tù
binh có bệnh về mắt có thể đọc được sách báo, Ban chỉ huy trại đã phải
thửa khá nhiều cặp kính thuốc của bà Thúy Hà ở cửa hàng số 48 Hàng Bài.
Đặc biệt, trong các ngày lễ, ngày Tết của Mỹ như ngày Độc Lập,
ngày Lễ Tạ Ơn, Noel, Tết Dương lịch ... tôn trọng tín ngưỡng của tù
binh, trại còn cho mời cả mục sư Bùi Hoàng Thử đến làm lễ theo nghi thức
tôn giáo cho số người theo đạo.
Thỉnh thoảng, trại cho mời các nghệ sĩ của đoàn văn công Tổng
Cục Chính trị đến biểu diễn cho bộ đội và cho cả tù binh Mỹ cùng thưởng
thức. Ông Duyệt còn nhớ một lần nghệ sĩ Tường Vi đến hát bài “Cô gái
vót chông” và “Tiếng đàn ta lư”. Tới đoạn lên cao như tiếng chim hót “Pơ
rô tốc... Pơ rô tốc...” Mặc dù không hiểu nghĩa cả bài hát, nhưng tù
binh Mỹ khoái quá, vỗ tay rào rào, yêu cầu hát đi hát lại.
Đêm ấy, khi buổi văn nghệ đã tan từ lâu, nhưng ở nhiều phòng
giam, tù binh không chịu ngủ. Họ bàn tán đủ thứ chuyện về các ca sĩ Việt
Nam, rồi còn bắt chước giọng Tường Vi hát “Pơ rô tốc... pơ rô tốc...”
suốt đêm.
Để thay đổi không khí cho các tù binh đã phải ở trong
trại lâu ngày, được sự phối hợp giúp đỡ của Công an Hà Nội và An ninh
Quân đội, Ban chỉ huy trại còn nhiều lần tổ chức cho các tù binh
đi tham quan một số di tích lịch sử, văn hóa và
danh thắng của Thủ đô Hà Nội như: Hồ Hoàn Kiếm, Công viên
Lê Nin, Quốc tử giám, chùa Trấn Quốc, chùa Một Cột, Viện Bảo
tàng Quân đội (nay là Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam), bệnh viện
Bạch Mai... Để bảo đảm an toàn cho những “vị khách đặc biệt” này, ta
đã cho phép các tù binh ăn mặc như khách du lịch: Cũng comlê,
cavát, giày đen v.v... và đi theo hướng dẫn viên.
Sao mà “ta” lại “chu đáo” với giặc dữ vậy, hả Trời?
Bằng khen nữ dân quân bắt giặc lái Mỹ bằng liềm. Nguồn ảnh: giadinh.net
Mà Đại tá trại trưởng Trần Trọng Duyệt không có nói “xạo”
đâu nha. Sự kiện trên cũng đã được “phụ hoạ” bởi một nhà văn
uy tín (hàng đầu) của nhà nước CHXHCNVN:
Đêm Nôen năm nay chúng tôi lại vào Hỏa Lò chơi với giặc lái. Âu
cũng thêm một phong tục thời chiến, Nôen thăm Tết tù binh. Thói quen
người Mỹ, bữa ăn thịnh soạn nửa đêm có món thịt gà tây – như ta Tết ông
táo cúng cá chép. Thời Pháp, Tây đem gà tây giống sang nhưng thỏ và gà
tây vẫn chưa thành món quen như gà thiến, gà ta… Cũng không mấy ai nuôi
gà tây. Con gà tây đốm đen, mào đỏ, người đến gần thì cau có, xõa cánh
chĩa đuôi ra kêu cộ cộ. Thế mà những năm ấy, nhiều làng hai bên sông
Đuống, hợp tác xã đã chuyển ruộng cho các xóm khác, để chuyên nuôi gà
tây. Đến áp Nôen, hàng đoàn xe tải số biển đỏ của quân đội về lấy gà. Gà
tây đem cho tù binh Mỹ ăn tết. (Tô Hoài. Cát Bụi Chân Ai. Hà Nội: Hội Nhà Văn, 1992).
Coi: có chừng vài trăm “giặc lái” bị giam ở Hoả Lò mà
“nhiều làng hai bên sông Đuống ...chuyển ruộng cho các xóm khác, để
chuyên nuôi gà tây” và “ áp Nôen, hàng đoàn xe tải số biển đỏ của quân
đội về lấy gà. Gà tây đem cho tù binh Mỹ ăn tết.”
Ăn uống kiểu đó bội thực chắc chết, chết chắc, chớ sống gì nổi – cha nội?
Cũng bị bắt giam, vào cùng thời điểm này nhưng phần ăn
của người tù Vũ Thư Hiên – so ra – có phần hơi ... đạm bạc:
“Có lần tôi vớ phải khúc sắn ôi trong suất cơm độn, nhựa sắn nhầy
nhụa như tinh dịch. Tởm quá, giận quá, tôi quẳng nó xuống hầm trú ẩn.
Thế rồi đêm đến, bụng quặn lên vì đói, chịu không nổi, tôi lại phải sờ
soạng trong bóng tối tìm khúc sắn vứt đi, lấy miếng giẻ cũng chẳng sạch
gì lau cái nhựa gớm ghiếc ấy đi mà nhai trệu trạo chút tinh bột lẫn đất
cát. Nhai khúc sắn mà nước mắt ứa ra...” (Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày, 2nd edition. Văn Nghệ, Westminster, CA: 1997).
Kinh nghiệm ở Hoả Lò của người tù Bùi Ngọc Tấn cũng
hoàn toàn khác: không có xem văn nghệ, văn gừng, chơi bóng
truyền, bóng rổ, thọc bi-a, hay sách báo gì ráo trọi. Đi tham
quan chỗ này, chỗ nọ, tất nhiên, cũng không luôn – đừng nói chi
đến cái vụ mặc complet đeo cravate nghe (sao) thấy kỳ quá hà:
“Hắn cởi truồng nằm trong xà lim, thiếp đi vì nóng. Và choàng tỉnh
vì nóng. Người hầm hập. Mồ hôi toát ra. Hắn nhỏm dậy nhìn vết mồ hôi in
thẫm trên những tấm ván lim thành hình một bộ xương người. Hắn ngắm nhìn
bộ xương của hắn và nghĩ đến 1úc chết. Hắn lẩm bẩm một mình.
- Xương mình to thật.
Hẳn trở dậy. Phải tắm. Phải lau đi cái mồ hôi dính nham nháp khắo
người. Phải làm dịu mình một chút. Không chỉ hầm hập, ngột ngạt xà lim.
Còn cháy trong người. Còn lò lửa trong óc. Mình nghĩ đến cái bể nước
nhà mình. Đến gáo nước đầy trong vắt múc lên giội từ vai hay đỉnh đầu
trở xuống cho hạ nhiệt toàn thân. Thiên đường đấy.
Và mình sẻ nuởc uống trong bô ra cái ca nhôm nửa lít. Tiêu chuẩn
nước tắm của mình: Nửa lít bớt ra từ khoản nước uống. Nhúng khăn mặt vào
ca. Lau. Lau từ mặt xuống cổ. Lau từ cổ xuống ngực. Xuống bụng. Dấp
nước khăn mặt, rồi khoanh tay đập, đập vã vào lưng. Rồi lau xuống bẹn,
xuống chân, cho đến khi cái khăn mặt nóng lên vì vắt nước đi. Vắt vào
cái nắp bô vệ sinh để ngừa cho khỏi bắn nước bẩn vào bô ra ngoài. Rồi
mới nghiêng nắp cho nước chảy vào bô.
Cái thứ nước vắt ra ấy nâu nâu đen đen đặc nhơn nhớt. Bô đầy thì
vắt nước lên tường xà lim cho nước vào tường. Cũng thấy người dễ chịu.
Còn dễ chịu vì lúc tắm là lúc không để ý tới thời-gian-xà-lim. Nó qua đi
mà chẳng tra tấn được mình như mọi lúc. Nhưng không bao giờ lâu đã lại
hầm hập. Không thể tắm nữa. Còn phải dành nước đế uống...” (Bùi Ngọc
Tấn. Chuyện Kể Năm 2000, tập I. CLB Tuổi Xanh, Westminster, CA: 2000).
Trời, sao mà Đảng lại khắt khe với đồng bào và đồng chí
(đến từng giọt nước uống, đựng trong …bô) và hào phóng với kẻ
thù dữ vậy cà?
Sao thì không biết nhưng dù gì thì chuyện cũng đã qua rồi.
Nhắc lại chỉ thêm buồn thôi. Hơn nữa, oán thù nên cởi chứ
không nên buộc. Và chuyện gì đã qua thì cho nó qua luôn đi.
Theo khuynh hướng và tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc
hiện nay, do Đảng và Nhà Nước chủ xướng, nên thôi ráng quên đi
quá khứ để nhìn vào hiện tại. Tôi thử vô Google, gõ đại năm
chữ “bị đánh đập trong tù”
thì thấy (trong vòng 0.14 giây) hiện ra 128.000 kết quả. Xin ghi
lại vài ba, nơi trang đầu tiên, để rộng đường dư luận:
www.rfa.org/.../reve-nc-chinh-is-beat-...
Radio Free Asia
www.danchimviet.info/archives/.../08
nhatbaovanhoa.com/.../nu-sinh-nguyen-phuong-uyen...
vnwhr.net/.../suc-khoe-chi-ho-thi-bich-khuong-dang-l...
Và đây là bản tin mới nhất, đọc được vào hôm 30/04/2014, trên trang Dân Làm Báo:
“Các Tù nhân lương tâm đồng loạt tuyệt thực - Yêu cầu cán bộ
trại giam thực hiện đúng trách nhiệm và tôn trọng quyền lợi của các tù
nhân. Từ trại 5 Lam Sơn - Thanh Hóa, tù nhân lương tâm Đậu Văn Dương
đã thực hiện chương trình tuyệt thực 7 ngày bắt đầu từ ngày 11/04/2014
đến ngày 17/04/2014 sau khi được trả lại số sách bị thu giữ trái pháp
luật, anh Dương đã ngừng tuyệt thực và ăn trở lại. Hiện nay 2 tù nhân
lương tâm Trần Hữu Đức và Trần Minh Nhật ở trại giam K3 - Phú Sơn 4, Tỉnh Thái Nguyên đã tuyệt thực từ thứ 6 ngày 18/04/2014 và nay vẫn đang tiếp tục.”
TNLT Đậu Văn Dương (trái); Trần Hữu Đức (giữa); Paul Minh Nhật (phải). Ảnh: Dân Làm Báo
Té ra “hèn với giặc và ác với dân” không phải là hiện
tượng mới mẻ gì. Trước giờ vẫn vậy mà. Có mới chăng chỉ là
chuyện bây giờ họ còn muốn ... nhận giặc làm cha thôi.
Wednesday, May 7, 2014
TIN VIỆT NAM & THẾ GIỚI
Mỹ lên án hành động khiêu khích của Trung Quốc ở Biển Đông
CỠ CHỮ
07.05.2014
Hoa Kỳ lên tiếng cảnh báo Trung Quốc rằng quyết định di chuyển vị trí
giàn khoan của Trung Quốc tới các vùng biển đang tranh chấp là một hành
động khiêu khích, không có ích lợi gì, và nói rằng Hoa Kỳ đang theo dõi
sát động thái của Trung Quốc.
Theo bài tường thuật của thông tín viên Victor Beattie của đài VOA, quyết định của Bắc Kinh, dời vị trí giàn khoan tới gần quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, đã bị Bộ Ngoại giao Mỹ chỉ trích.
Hôm thứ Ba, Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Jen Psaki nói:
“Xét những căng thẳng trong thời gian gần đây ở Biển Đông, quyết định của Trung Quốc cho giàn khoan hoạt động trong các vùng lãnh hải đang tranh chấp, là một hành động khiêu khích, không giúp ích gì cho việc duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực.”
Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm nay đã đáp lại lời chỉ trích của Mỹ, nói rằng Hoa Kỳ không có liên hệ gì tới hoạt động khoan dầu của Trung Quốc trong Biển Đông, và Washington không có quyền đưa ra những phát biểu 'vô trách nhiệm' về các quyền tự quyết của Trung Quốc.
Hà Nội cũng đòi chủ quyền trong vùng biển này, cho rằng quần đảo Hoàng Sa nằm trong khu đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hôm qua, Hà nội tuyên bố Việt Nam không thể chấp nhận, và quyết phản đối hành động của Trung Quốc.
Hà Nội đòi Bắc Kinh phải dời giàn khoan HD 981 và rút tất cả các tàu hộ tống ra khỏi khu vực.
Hôm qua, Trung Quốc cảnh báo Việt Nam chớ quấy nhiễu hoạt động của các công ty Trung Quốc, nói rằng khu vực này thuộc quyền tài phán của nước họ, và Bắc Kinh sẽ không cho phép bất cứ bên nào can thiệp vào các hoạt động tại đây.
Việt Nam và Trung Quốc cũng từng đối đầu trong cuộc tranh giành các hòn đảo này hồi năm 1988. Chuyên gia phân tích an ninh thuộc Đại học Quốc gia Australia ở Canberra, ông John Blaxland nói rằng loan báo của Trung Quốc về việc đặt giàn khoan gần Hoàng Sa là một phần trong một chiến dịch dài ngày của Trung Quốc, khẳng định các đòi hỏi chủ quyền của họ tại Biển Đông. Ông nói:
“Một cách chậm rãi nhưng chắc chắn, Trung Quốc đang thực hiện kế hoạch lâu dài mà họ đã đề ra từ lâu. Kế hoạch này nhằm mục đích khẳng định các đòi hỏi chủ quyền trên Biển Đông. Mục tiêu của kế hoạch này là bảo đảm Trung Quốc nắm quyền kiểm soát vùng biển này ít nhất là trên thực tế, bất chấp những cố gắng của các nước như Philippines đòi mang vấn đề ra giải quyết trước tòa án trọng tài quốc tế, và bất chấp những lời kêu gọi của Việt Nam yêu cầu sự hậu thuẫn của quốc tế, đặc biệt của ASEAN và các tổ chức khu vực khác. Nói một cách giản dị, Trung Quốc đang chậm rãi nhưng chắc chắn đòi thực hiện ý định của mình cho bằng được.”
Một chuyên gia về Việt Nam tại Đại học Hong Kong, Giáo sư Jonathan London nói Hà Nội đang phải đối đầu với một vấn đề nhạy cảm, giữa lúc Hà Nội tìm cách đương đầu với Trung Quốc, đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam liên quan tới cuộc tranh chấp này.
Theo bài tường thuật của thông tín viên Victor Beattie của đài VOA, quyết định của Bắc Kinh, dời vị trí giàn khoan tới gần quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, đã bị Bộ Ngoại giao Mỹ chỉ trích.
Hôm thứ Ba, Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Jen Psaki nói:
“Xét những căng thẳng trong thời gian gần đây ở Biển Đông, quyết định của Trung Quốc cho giàn khoan hoạt động trong các vùng lãnh hải đang tranh chấp, là một hành động khiêu khích, không giúp ích gì cho việc duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực.”
Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm nay đã đáp lại lời chỉ trích của Mỹ, nói rằng Hoa Kỳ không có liên hệ gì tới hoạt động khoan dầu của Trung Quốc trong Biển Đông, và Washington không có quyền đưa ra những phát biểu 'vô trách nhiệm' về các quyền tự quyết của Trung Quốc.
Hà Nội cũng đòi chủ quyền trong vùng biển này, cho rằng quần đảo Hoàng Sa nằm trong khu đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hôm qua, Hà nội tuyên bố Việt Nam không thể chấp nhận, và quyết phản đối hành động của Trung Quốc.
Hà Nội đòi Bắc Kinh phải dời giàn khoan HD 981 và rút tất cả các tàu hộ tống ra khỏi khu vực.
Hôm qua, Trung Quốc cảnh báo Việt Nam chớ quấy nhiễu hoạt động của các công ty Trung Quốc, nói rằng khu vực này thuộc quyền tài phán của nước họ, và Bắc Kinh sẽ không cho phép bất cứ bên nào can thiệp vào các hoạt động tại đây.
Việt Nam và Trung Quốc cũng từng đối đầu trong cuộc tranh giành các hòn đảo này hồi năm 1988. Chuyên gia phân tích an ninh thuộc Đại học Quốc gia Australia ở Canberra, ông John Blaxland nói rằng loan báo của Trung Quốc về việc đặt giàn khoan gần Hoàng Sa là một phần trong một chiến dịch dài ngày của Trung Quốc, khẳng định các đòi hỏi chủ quyền của họ tại Biển Đông. Ông nói:
“Một cách chậm rãi nhưng chắc chắn, Trung Quốc đang thực hiện kế hoạch lâu dài mà họ đã đề ra từ lâu. Kế hoạch này nhằm mục đích khẳng định các đòi hỏi chủ quyền trên Biển Đông. Mục tiêu của kế hoạch này là bảo đảm Trung Quốc nắm quyền kiểm soát vùng biển này ít nhất là trên thực tế, bất chấp những cố gắng của các nước như Philippines đòi mang vấn đề ra giải quyết trước tòa án trọng tài quốc tế, và bất chấp những lời kêu gọi của Việt Nam yêu cầu sự hậu thuẫn của quốc tế, đặc biệt của ASEAN và các tổ chức khu vực khác. Nói một cách giản dị, Trung Quốc đang chậm rãi nhưng chắc chắn đòi thực hiện ý định của mình cho bằng được.”
Một chuyên gia về Việt Nam tại Đại học Hong Kong, Giáo sư Jonathan London nói Hà Nội đang phải đối đầu với một vấn đề nhạy cảm, giữa lúc Hà Nội tìm cách đương đầu với Trung Quốc, đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam liên quan tới cuộc tranh chấp này.
Cuộc
họp báo về việc Trung Quốc đặt giàn khoan ở Biển Ðông bao gồm đại diện
của Bộ ngoại giao, cảnh sát biển, tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam.
“Hà Nội đã bày tỏ sự bất bình tột độ của họ. Hà Nội đã đưa ra một tuyên
bố khá quyết liệt, rằng họ sẽ kháng cự hành động xâm phạm chủ quyền lãnh
thổ của Trung Quốc bằng bất cứ phương tiện nào có được, và đây là một
thời điểm rất quan trọng đối với Hà nội. Có lẽ tình huống này đã được
đoán trước từ khá lâu, nhưng giờ đây Việt Nam đang phải đối mặt với một
tình huống, khi mà Hà Nội phải có những bước cụ thể để chống lại hành
động mà họ cho là xâm phạm khu đặc quyền kinh tế của quốc gia, và xâm
phạm chủ quyền của Việt Nam.”
Các tàu Việt Nam đang theo sát hoạt động của Trung Quốc trong khu vực. Hôm thứ hai tuần này, Cục Hải Dương Trung Quốc yêu cầu tất cả các tàu bè không được tới gần giàn khoan, trong vòng một hải lý.
Giàn khoan HD 981 là tài sản của Tổng Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc – gọi tắt là CNOOC, công ty dầu khí quốc gia lớn thứ 3 của Trung Quốc.
Ngoài Việt Nam, Brunei, Malaysia, Philippines và Đài Loan cũng có tranh chấp lãnh hải với Bắc Kinh trong Biển Đông, một khu vực có tính chiến lược, và giàu tài nguyên dầu khí.
Các nước đòi chủ quyền tại đây tố cáo Trung Quốc là ngày càng dùng những chiến thuật hung hăng hơn để tranh giành chủ quyền tại vùng biển này. Bắc Kinh đòi chủ quyền trên hầu như toàn bộ khu vực này, dựa trên những bản đồ thời xa xưa.
Trong khi đó Trợ lý Ngoại Trưởng Hoa Kỳ đặc trách khu vực Đông Á- Thái bình dương Daniel Russel đang dẫn đầu một phái đoàn Mỹ đi thăm Hà Nội để tham dự cuộc Đối thoại Mỹ-Việt về vùng Á Châu Thái bình dương.
Thông cáo báo chí của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội cho biết là trong ngày hôm nay, ông Russel sẽ gặp gỡ các quan chức chính phủ Việt Nam, và gặp các cựu sinh viên tham gia các chương trình trao đổi của chính phủ Hoa Kỳ.
Trong các cuộc gặp gỡ các quan chức Việt Nam, vấn đề Biển Đông chắc chắn sẽ được mang ra thảo luận.
Một bài xã luận hôm thứ Ba đăng trên tờ Hoàn Cầu Thời báo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nói rằng Trung Quốc phải có thái độ cứng rắn với Việt Nam.
Bài báo nói Trung Quốc đang theo đuổi một chính sách trung dung với Việt Nam. Nhưng cảnh báo rằng Trung Quốc có thể nổi giận dễ dàng, nếu các lợi ích của nước này bị xâm phạm, và nếu điều đó xảy ra thì hãy trông đợi hành động trả đũa mạnh mẽ của Trung Quốc.
Các tàu Việt Nam đang theo sát hoạt động của Trung Quốc trong khu vực. Hôm thứ hai tuần này, Cục Hải Dương Trung Quốc yêu cầu tất cả các tàu bè không được tới gần giàn khoan, trong vòng một hải lý.
Giàn khoan HD 981 là tài sản của Tổng Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc – gọi tắt là CNOOC, công ty dầu khí quốc gia lớn thứ 3 của Trung Quốc.
Ngoài Việt Nam, Brunei, Malaysia, Philippines và Đài Loan cũng có tranh chấp lãnh hải với Bắc Kinh trong Biển Đông, một khu vực có tính chiến lược, và giàu tài nguyên dầu khí.
Các nước đòi chủ quyền tại đây tố cáo Trung Quốc là ngày càng dùng những chiến thuật hung hăng hơn để tranh giành chủ quyền tại vùng biển này. Bắc Kinh đòi chủ quyền trên hầu như toàn bộ khu vực này, dựa trên những bản đồ thời xa xưa.
Trong khi đó Trợ lý Ngoại Trưởng Hoa Kỳ đặc trách khu vực Đông Á- Thái bình dương Daniel Russel đang dẫn đầu một phái đoàn Mỹ đi thăm Hà Nội để tham dự cuộc Đối thoại Mỹ-Việt về vùng Á Châu Thái bình dương.
Thông cáo báo chí của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội cho biết là trong ngày hôm nay, ông Russel sẽ gặp gỡ các quan chức chính phủ Việt Nam, và gặp các cựu sinh viên tham gia các chương trình trao đổi của chính phủ Hoa Kỳ.
Trong các cuộc gặp gỡ các quan chức Việt Nam, vấn đề Biển Đông chắc chắn sẽ được mang ra thảo luận.
Một bài xã luận hôm thứ Ba đăng trên tờ Hoàn Cầu Thời báo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nói rằng Trung Quốc phải có thái độ cứng rắn với Việt Nam.
Bài báo nói Trung Quốc đang theo đuổi một chính sách trung dung với Việt Nam. Nhưng cảnh báo rằng Trung Quốc có thể nổi giận dễ dàng, nếu các lợi ích của nước này bị xâm phạm, và nếu điều đó xảy ra thì hãy trông đợi hành động trả đũa mạnh mẽ của Trung Quốc.
Căng thẳng leo thang giữa lúc VN, TQ đối đầu tại Biển Đông
Ảnh do Cảnh sát biển Việt Nam công bố cho thấy tàu Trung Quốc (trái) dùng vòi rồng phun thẳng vào tàu Việt Nam, ngày 7/5/2014.
Tin liên hệ
- Mỹ: TQ đặt giàn khoan gần Việt Nam là hành động 'khiêu khích'
- Trung Quốc bác bỏ phản đối của Việt Nam về giàn khoan ở Biển Đông
- Việt Nam phản đối Trung Quốc đưa giàn khoan 'khủng' tới Biển Đông
- Mỹ sẽ có phản ứng mạnh nếu TQ lập vùng ADIZ ở Biển Đông
- Việt Nam dành thêm 2 lô thăm dò dầu khí cho công ty Ấn Ðộ
Ðường dẫn
CỠ CHỮ
07.05.2014
Hãng tin Reuters hôm nay trích lời ông Trần Duy Hải, một giới chức Bộ Ngoại giao Việt Nam nói rằng hôm 4 tháng Năm, các tàu Trung Quốc đã cố tình đâm vào 2 tàu kiểm ngư của Việt Nam.
Phát biểu trong một cuộc họp báo ở Hà Nội, ông Trần Duy Hải, cũng là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Việt Nam, nói các tàu Trung Quốc, với sự yểm trợ của máy bay, đã sử dụng vòi rồng uy hiếp các tàu Việt Nam.
Ông Hải cho biết Việt Nam đã yêu cầu đưa vụ việc này ra thảo luận với các cấp lãnh đạo cao cấp nhất ở Bắc Kinh, và đang chờ đáp ứng từ phía Trung Quốc.
Ông nói một số quốc gia trong khu vực đã bày tỏ sự quan ngại, nhưng ông nói thêm rằng Việt Nam sẽ làm 'tất cả những gì cần thiết' để giải quyết cuộc tranh chấp một cách ôn hòa.
Tại một cuộc họp báo ở Hà Nội, các quan chức Việt Nam đã công bố video quay cảnh cuộc tấn công.
Tin của AP hôm nay tường thuật các tàu Trung Quốc và tàu Việt Nam đã đâm vào nhau hôm thứ Tư 7 tháng Năm, giữa lúc Hà Nội tìm cách ngăn cản không cho Trung Quốc cố định vị trí của giàn khoan trong khu vực cả hai nước đều tuyên bố chủ quyền.
AP dẫn lời ông Ngô Ngọc Thu, Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng Bộ Tư Lệnh Cảnh sát biển Việt Nam, nói rằng các tàu Trung Quốc đã đâm vào tàu Việt Nam, và dùng vòi rồng tấn công tàu Việt Nam, làm nhiều thủy thủ bị thương và gây thiệt hại cho nhiều tàu Việt Nam.
Đây là vụ đụng độ trên biển nghiêm trọng nhất giữa hai nước trong vòng mấy năm qua, và nếu không bên nào nhượng bộ e rằng sẽ còn xảy ra nhiều vụ đung độ nghiêm trọng hơn nữa giữa lực lượng hải quân hai nước tại Biển Đông, nơi được coi là có thể trở thành điểm nóng trên thế giới.
Báo chí Việt Nam dẫn lời ông Ngô Ngọc Thu nói rằng Trung Quốc đã điều 80 tàu với sự yểm trợ của máy bay, đâm rách tàu Việt Nam tại vùng đặt giàn khoan HD 981.
Hôm nay, VnExpress tường thuật vụ đụng độ xảy ra vào lúc 8 giờ 10 sáng ngày 3 tháng Năm tại vị trí cách giàn khoan Trung Quốc 10 hải lý.
Theo tin này, tàu Hải Cảnh 044 của Trung Quốc đã húc mạnh vào mạn phải tàu cảnh sát biển 4033 của Việt Nam với tốc độ rất cao, làm vỡ toàn bộ cửa kính của chiếc tàu Việt Nam.
Báo chí Việt Nam cho hay, tổng cộng có 8 tàu kiểm ngư Việt Nam đã bị đâm, húc, đẩy hoặc phun ròi rồng trong mấy ngày qua, và có lúc có tới 5 tàu Trung Quốc vây quanh 1 tàu Việt Nam.
Nguồn: Reuters, AP, Bloomberg, New York Times, Xinhua
http://www.voatiengviet.com/content/tau-trung-quoc-dam-tau-vietnam-o-bien-dong/1909456.html
Biển Đông: Hà Nội họp báo quốc tế tố cáo Trung Quốc tấn công tàu Việt Nam
Tàu Trung Quốc (T) dùng vòi rồng phun nước tấn công tàu Việt Nam tại Biển Đông
(DR)
Việt Nam vừa tố cáo tàu của Trung Quốc đã đâm rách tàu của
cảnh sát biển Việt Nam và dùng vòi rồng phun vào tàu kiểm ngư của Việt
Nam, khi các tàu này đang tìm cách ngăn cản Trung Quốc đặt cố định giàn
khoan tại vị trí thuộc lãnh hải Việt Nam trên Biển Đông.
Theo tin báo chí trong nước, Phó tư lệnh Tham mưu trưởng Bộ Tư
lệnh Cảnh sát biển Việt Nam Ngọ Ngọc Thu đã tố cáo như trên trong cuộc
họp báo quốc tế tại Hà Nội hôm nay, 07/05/2014. Các quan chức Việt Nam
đã công bố một đoạn video cho thấy các tàu của Trung Quốc, với sự yểm
trợ của máy bay, tấn công tàu Việt Nam đang ngăn chận Trung Quốc đặt cố
định giàn khoan tại một vị trí nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa Việt Nam. Các tàu hải cảnh của Trung Quốc đã đâm vào tàu cảnh
sát biển Việt Nam trong hai ngày 03 và 04/05, cũng như dùng vòi rồng
phun vào các tàu kiểm ngư của Việt ở khu vực chung quanh giàn khoan.
Đại diện cảnh sát biển Việt Nam cho biết là chưa có người nào thiệt
mạng trong các vụ tấn công nói trên. Chỉ có 6 kiểm ngư viên của Việt Nam
bị thương khi tàu Trung Quốc dùng vòi rồng tấn công tàu của họ.
Ngày 03/05 vừa qua, Cục Hải sự Trung Quốc đã ra thông báo cho biết
giàn khoan Hải Dương 981 (HD-981) sẽ hoạt động từ ngày 04/05 đến ngày
15/08 tại vị trí có tọa độ nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế,
thềm lục địa của Việt Nam. Phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Lê Hải
Bình ngày 04/05 đã tuyên bố hành động của phía Trung Quốc là « bất hợp pháp và vô giá trị, Việt Nam kiên quyết phản đối
». Nhưng phía Bắc Kinh đã bác bỏ cáo buộc của Hà Nội, khẳng định là
giàn khoan nói trên hoạt động hoàn toàn trong vùng biển của Trung Quốc.
Phía Bắc Kinh còn thông báo là không một tàu ngoại quốc nào được đi vào
khu vực 3 hải lý chung quanh giàn khoan HD-981.
Theo báo chí trong nước, hôm qua, trong cuộc điện đàm với Ủy viên
Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì, Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh
đã một lần nữa phản đối việc giàn khoan HD-981 và nhiều tàu của Trung
Quốc hoạt động trong khu vực thuộc thềm lục địa Việt Nam. Ông Phạm Bình
Minh tuyên bố là Việt Nam « sẽ áp dụng mọi biện pháp để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình ».
Còn theo bộ Ngoại giao Trung Quốc, trong cuộc điện đàm nói trên, Uỷ
viên Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì đã nói với ông Phạm Bình Minh
rằng các công ty Trung Quốc đang hoạt động trong vùng thuộc chủ quyền
Trung Quốc và theo ông Dương Khiết Trì việc các tàu Việt Nam « sách
nhiễu » hoạt động « bình thường » của các doanh nghiệp Trung Quốc là vi
phạm chủ quyền của Trung Quốc. Theo Đài phát thanh Quốc tế Trung Quốc,
trước đó, thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Lưu Chấn Dân đã triệu
Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Văn Thơ để phản đối việc
Việt Nam « sách nhiễu » doanh nghiệp Trung Quốc trên vùng biển quần
đảo Hoàng Sa, mà Bắc Kinh gọi là Tây Sa.
Về phần Hoa Kỳ hôm qua đã chỉ trích hành động của Trung Quốc đưa giàn
khoan vào khu vực thuộc lãnh hải Việt Nam. Tuyên bố với các phóng viên
tại Washington, phát ngôn viên bộ Ngoại giao Mỹ Jen Psaki nói quyết định
nói trên của Bắc Kinh là "mang tính gây hấn và không giúp cho việc duy
trì hòa bình và ổn định trong khu vực ».
Phát biểu với hãng tin tại Hồng Kông trước khi đến Hà Nội hôm nay,
trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đặc trách Đông Á – Thái Bình Dương Daniel Russel
cho biết là Hoa Kỳ theo dõi sát vụ này, nhưng kêu gọi các bên nên có
thái độ kềm chế.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm nay đã bác bỏ những lời
chỉ trích của Washington, tuyên bố rằng việc Trung Quốc đưa giàn khoan
đến Biển Đông không có dính dáng gì đến Mỹ và Hoa Kỳ không có quyền đưa
ra những bình luận « vô trách nhiệm » về chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc.
cong-tau-viet-nam
'Việt Nam không còn lùi được nữa'
Cập nhật: 08:44 GMT - thứ tư, 7 tháng 5, 2014
Media Player
Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy cho
rằng Việt Nam phải sẵn sàng va chạm để bảo vệ chủ quyền, sau khi Trung
Quốc đưa giàn khoan xuống gần đảo Tri Tôn, Quần đảo Hoàng Sa.
Trả lời BBC trong cuộc phỏng vấn ngày 7/5, ông
Dy cho rằng đây là "một bước leo thang mới đặc biệt nghiêm trọng, bộc lộ
rõ dã tâm xâm chiếm Biển Đông của Trung Quốc".
"Đây là lần đầu tiên họ xâm phạm chủ quyền của Việt Nam để khai thác dầu lửa," ông nói.
"Trung Quốc sau bao nhiêu năm phát triển như vũ
bão đã từ một nước xuất khẩu dầu lửa thành một nước nhập khẩu một năm
200 triệu tấn dầu lửa. Biển Đông lại là biển sạch, khiến việc khai thác
đỡ tốn kém hơn."
"Thứ hai là sau chuyến công du sang châu Á, Tổng
thống Hoa Kỳ Obama đã tuyên bố sẽ bảo vệ quần đảo Senkaku mà Nhật đang
kiểm soát vào phạm vi bảo vệ của Hoa Kỳ, đồng thời tăng cường hợp tác
quân sự với Philippines."
"Trước tình hình như vậy, Trung Quốc chỉ còn
cách chĩa mũi nhọn vào Việt Nam, vào Biển Đông để vừa đáp ứng lại nhu
cầu trong nước, vừa phù hợp với bối cảnh quốc tế. Việt Nam không phải
đồng minh của Hoa Kỳ, nên tất nhiên là bị bắt nạt."
Trả lời câu hỏi của BBC về những biện pháp mà
phía Việt Nam có thể đưa ra để đối phó với tình hình hiện nay, ông Dy
dẫn lại câu nói của Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình
Minh hôm 6/5, trong đó tuyên bố rằng "Việt Nam sẽ dùng mọi biện pháp phù
hợp và cần thiết để bảo vệ chủ quyền và lợi ích của mình".
"Đó là một câu nói rất chung nhưng cũng rất cụ thể," ông Dy nhận định.
"Theo tôi thì đến nước này, Việt Nam không thể lùi được nữa, chỉ có chuyện Trung Quốc rút giàn khoan ra mà thôi."
"Nếu để Trung Quốc khoan được một mũi ở đây, họ sẽ khoan được những mũi khác ở những vùng biển khác của Việt Nam".
Dự đoán về những diễn biến trong thời gian tới,
ông Dy cho rằng Việt Nam và phía Trung Quốc có thể sẽ "làm căng với nhau
một thời gian, rồi sau đó sẽ nhân nhượng, đi đến những thỏa hiệp với
nhau."
"Trong trường hợp Trung Quốc cương quyết muốn lấn chiếm, dứt khoát sẽ có những va chạm."
"Nếu như bởi vì những chuyện này mà phải va chạm
với Trung Quốc, thì cũng phải sẵn sàng. Việt Nam không thể lùi được nữa
rồi," ông nói.Các bài liên quan
Tàu Trung Quốc đâm tàu Việt Nam
Tàu Việt Nam và Trung Quốc đã đụng nhau ở biển Đông vào ngày hôm
nay. Phó tư lệnh tham mưu trưởng bộ tư lệnh cảnh sát biển Việt Nam Ngô
Ngọc Thu cho biết như vậy ngày hôm nay.
Theo ông Ngô Ngọc Thu, các tàu của Trung Quốc đã húc vào tàu của Việt
Nam và phun vòi rồng sang phía các tàu Việt Nam khiến nhiều thủy thủ bị
thương, nhiều tàu bị hư hại.
Trong khi đó, Bộ Ngoại Giao Việt Nam nói các tàu Trung Quốc đã cố tình đâm vào 2 tàu của Việt Nam.
Sự việc diễn ra sau khi phía Trung Quốc di chuyển một giàn khoan dầu
lớn về gần quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp giữa hai nước hồi cuối tuần
qua. Trung quốc nói sẽ không cho phép một tàu nước ngoài nào lại gần
giàn khoan này trong bán kính 4,8 km. Phía Việt Nam ngay lập tức đã gọi
việc triển khai giàn khoan này là không hợp pháp và yêu cầu Trung Quốc
phải di chuyển giàn khoan ra ngoài vùng biển cách bờ biển Việt Nam
khoảng 220 km.
Hãng tin AP trích nguồn tin của hai nhà ngoại giao giấu tên cho biết
phía Việt Nam đã gửi 29 tàu có trang bị vũ khí của cảnh sát biển đến gần
giàn khoan. Một nhà ngoại giao Trung Quốc nói hành động này của Việt
Nam là để cho thấy sức mạnh buộc Trung Quốc phải chuyển giàn khoan ra
khỏi khu vực tranh chấp.
Trong cuộc họp báo thường kỳ vào ngày hôm nay, người phát ngôn Bộ
Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh nói giàn khoan dầu của Trung Quốc
nằm trong vùng thuộc chủ quyền của Trung Quốc và vì vậy việc khoan dầu
là bình thường và hợp pháp.
Bà Hoa Xuân Oánh cũng nói những hành động ngăn cản của Việt Nam là vi phạm quyền chủ quyền của Trung Quốc.
Trong khi đó, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ hôm thứ ba cũng đã gọi hành động
mới của Trung Quốc là khiêu khích và không giúp duy trì ổn định, và hòa
bình trong khu vực.
Phản ứng lại nhận xét của phía Mỹ, bà Hoa Xuân Oánh khẳng định Hoa Kỳ
không có bất cứ quyền nào để đưa ra những nhận xét mà bà gọi là thiếu
trách nhiệm về quyền chủ quyền của Trung Quốc.
http://www.rfa.org/vietnamese/vietnamnews/vn-try-to-stop-ch-oi-r-dp-05072014090747.html
Biển Đông : Trung Quốc leo thang vì biết Mỹ sẽ không can thiệp ?
Tổng thống B.Obama phát biểu trước quân đội Mỹ và Philippines tại Manila, ngày 29/04/2014.
Reuters
Việc Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào khu vực thuộc vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam là một bước leo thang mới
nhằm xác quyết chủ quyền trên Biển Đông. Bắc Kinh có bước leo thang như
vậy phải chăng vì họ tin rằng Hoa Kỳ sẽ không can thiệp vào vùng biển
này ?
Cho tới nay, Trung Quốc vẫn thường xuyên đưa các tàu tuần tra
đến Biển Đông, nhưng đây là lần đầu tiên Bắc Kinh đưa một cơ cấu lớn như
vậy, bởi vì giàn khoan HD-981 có kích thước gần như là một hàng không
mẫu hạm.
Theo chuyên gia về Đông Nam Á Ian Storey ở Singapore, hành động mới này của Trung Quốc là một « kịch bản tiềm tàng rất nguy hiểm » và nó đặt Việt Nam vào tình thế rất khó khăn.
Cũng như các nước Châu Á khác có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc,
các phương án của Việt Nam đối phó với cường quốc hàng đầu Châu Á này
rất giới hạn, mặc dù gần đây Hà Nội đã tăng cường khả năng phòng thủ
trên biển và đã củng cố quan hệ với Nga.
Để ngăn cản Trung Quốc đặt cố định giàn khoan trên Biển Đông, Việt
Nam đã huy động nhiều tàu của Cảnh sát biển và Cục Kiểm ngư, và đã không
ngại đụng độ với tàu của Trung Quốc. Một chuyên gia Việt Nam về Biển
Đông được hãng tin Reuters trích dẫn hôm nay lưu ý đây là hành động mạnh
mẽ nhất của Việt Nam kể từ năm 1992 đến nay. Vào năm đó, Hà Nội đã điều
nhiều tàu chiến đến khu vực mà Trung Quốc vừa ký hợp đồng với một công
ty Mỹ để khai thác dầu khí nằm trong lãnh hải của Việt Nam.
Khác với những lần trước, lần này Việt Nam buộc phải hành động để bảo
vệ lãnh hải, bởi vì nếu để yên cho Trung Quốc đặt cố định giàn khoan
thì chẳng khác gì công nhận khu vực này là thuộc chủ quyền Trung Quốc.
Nhưng với tương quan lực lượng bất lợi như vậy, liệu Việt Nam có thể
ngăn chận được hành vi xâm lược này của Trung Quốc hay không, khi mà
chúng ta không có một cường quốc nào sau lưng để yểm trợ ?
Ngay cả Philippines cũng khó mà trông chờ vào đồng minh Hoa Kỳ. Vào
tháng trước, Manila có tuyên bố rằng, chiếu theo hiệp ước an ninh song
phương, Hoa Kỳ có nghĩa vụ trợ giúp Philippines trong trường hợp lãnh
thổ hoặc lực lượng vũ trang của nước này trên Biển Đông bị tấn công. Thế
nhưng, cho tới nay, chưa bao giờ Tổng thống Mỹ Barack Obama tuyên bố
dứt khoát là Hoa Kỳ sẽ can thiệp vào Biển Đông để trợ giúp Philippines.
Theo hãng tin Reuters, Washington hiện nay không còn ủng hộ quan điểm
của Manila cho rằng Hoa Kỳ có nghĩa vụ can thiệp nếu xảy ra xung đột
trên Biển Đông. Còn Trung Quốc thì có lẽ sẽ cố giữ cho các tranh chấp
trên Biển Đông ở một tầm mức vừa đủ để Washington thấy rằng không đáng
để can thiệp quân sự.
Tình hình Biển Đông như vậy là khác với biển Hoa Đông, nơi mà Trung
Quốc đang tranh chấp với Nhật Bản về chủ quyền quần đảo Senkaku/Điếu
Ngư. Chính quyền Obama đã nói rõ rằng quần đảo Senkaku là nằm trong
khuôn khổ hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật, tức là nếu quần đảo này bị Trung
Quốc tấn công, Hoa Kỳ sẽ bảo vệ.
Có lẽ vì thấy là không thể làm được gì hơn ở vùng biển Hoa Đông, nay
Trung Quốc tập trung lấn chiếm Biển Đông, vì nghĩ rằng Hoa Kỳ sẽ rất
ngại ra tay hỗ trợ các nước Đông Nam Á.
tags: Biển Đông - Châu Á - Chủ quyền - Hoa Kỳ - Lãnh hải - Phân tích - Quốc tế - Tranh chấp - Trung Quốc
BẢO DÂN ** BƯỚC TÌẾN CỦA TRUNG CỘNG
BƯỚC TÌẾN CỦA TRUNG CỘNG
BẢO DÂN
BẢO DÂN
Sau khi lãnh chức nguyên nhung , Tập
Cận Bình đã vội sang hội kiến Putin và đi Phi châu gặp gỡ các đồng minh
của ông tại đây. Như vậy là rõ ràng Trung Cộng và Nga liên thủ chiếm
đoạt thế giới. Khi Putin chiếm Crimé và toan tính nuốt Ukraine, người
ta đã nghĩ ngay Trung Cộng sẽ tiến chiếm Biển Đông vì hai nước này là
một cốt, một đồng, đông tây hai mặt giáp công làm cho Mỹ xoay trở không
kịp, và họ tin với chiến thuật chớp nhoáng và hợp đồng thì chiến thắng
sẽ về tay họ! Quả vậy, nay Trung
Cộng ra quân Biển Đông bằng cách đưa dàn khoan
Hải Dương 981 đến hải phận Việt Nam. Trong khi đó tổng bí thư, chủ
tịch nước, thủ tướng, chủ tịch quốc hội Việt Cộng ... nhắm mắt, ngậm
miệng, cúi mặt làm thinh, để cho một mình bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình
Minh ra mặt... Việc máy bay Malaysia MH370
mất tich thì hầu hết quan chức Việt cộng vân tập về Càmâu chắc tưởng
có xôi thịt chia chác, còn việc này thì họ êm re, trong khi đó Việt
cộng vẫn ăn uống, lễ lạc, hội hè tốn hàng trăm triệu đô rầm rộ khoe
khoang chiến thắng Điện Biên!
Việc Trung cộng đem dàn khoan tới hải phận Việt Nam là lẽ đương nhiên vì khi họ tuyên bố đường lưỡi bò là chủ quyền của họ, họ là nước lớn, không phải nói chơi. Họ có binh lính nhiều, vũ khí tàu bè nhiều tất sẽ yểm trợ hữu hiệu cho đòi hỏi đó dù là chính đáng hay phi nghĩa. Nay là bước đầu họ thực hiện tham vọng này. Họ chọn Việt Nam vì Việt Nam không như Nhật Bản, Indonesia, Malaysia ..., được Mỹ bảo vệ. Hơn nữa Việt nam là mắt xich yếu nhất, bọn Việt cộng đã thua và đã đầu hàng xin phụ thuộc thì không còn tinh thần chiến đấu. Và quan trọng nhất, 90% lực lượng Việt cộng nhất là các chức vụ then chốt đã nằm trong tay Trung cộng. Hồ Chí Minh là người Trung cộng, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Chí Vịnh, Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng... cũng là con đẻ của Trung Cộng.
Còn Mỹ thì sao? Có thể Mỹ không can thiệp vì Việt nam không phải là đồng minh của Mỹ. Hơn nữa, một số chính trị gia Mỹ có thể nghĩ rằng bọn Việt nam gian xảo không tin được. Xưa Ngô Đình Diệm được Mỹ đưa về làm vua, cả nhà vinh hoa phú quý thế mà bỗng chốc quay ra đầu hàng Việt cộng chống Mỹ. Nay Vũ Quốc Thúc là người được Mỹ tin cậy giao cho ông vài công tác quan trọng, nay già 90 tuổi cũng hô hào chống Mỹ, không sợ người đời cười chê bất nhân, bất nghĩa. Bọn ca sĩ Việt Nam cũng thế. Lúc nguy cấp chạy sang xin Mỹ cứu giúp, nay chúng muối mặt trở về ôm chân Việt Cộng để kiếm đô la! Thôi cứ để chúng sống với Trung Cộng một thời gian nữa cho chúng sáng mắt ra. Cả nước Việt nam tin đảng và bác cứ để cho họ toại nguyện, không thiệt hại gì cho Mỹ!
Dù là đồng minh của Mỹ, có thể Mỹ cũng buông vì Mỹ yếu, Mỹ sợ Trung Quốc như một số người tưởng. Có thể Mỹ lùi nước đầu, sau mới tấn công, không phải vì yếu mà người ta muốn "trường kỳ kháng chiến". Không ai bỏ tiền tổ chức đấu võ hay nghe ca nhạc mà chương trình chỉ có 15 phút hay nửa giờ. Cứ để cho Trung Cộng dấn sâu, hao binh tổn tướng, kinh tế kiệt quệ thì Mỹ mới ra tay. Chiến tranh có thể kéo dài hai ba chục năm hay năm mười năm chứ đâu có vài tháng, vài năm đã kết thúc. Chơi như vậy không vui, không đả! Có thể Mỹ tấn công đáp lễ lập tức để dập tắt từ đầu như cuộc chiến Nga-Gruzia năm ngày ở Nam Ossetia hồi 2008.
Trong bao nhiêu cách cuộc đó, chúng ta không biết Mỹ chọn thế nào. Nếu kỳ này, Mỹ tỏ ra yếu thế ( để khuyến khich Trung cộng tiến lên), thì sau Việt nam, Trung cộng sẽ chiếm Phi Luật Tân, Nhật Bản. Vì biết phải đánh lớn cho nên Trung cộng phải liên minh với Nga. Và Mỹ cũng biết Mỹ không những phải đấu với Trung cộng mà còn chơi với Nga. Một lúc chơi hai mệt lắm chứ chẳng phải chơi nên Mỹ đã bố trí mặt trận. Phía châu Âu, Mỹ giao cho khối NATO chơi với Nga, còn châu Á, Mỹ giao cho Nhật Bản, Ấn Độ, Úc châu là dư sức hạ Trung cộng. Mỹ chỉ đứng ngoài hỗ trợ. Có lẽ Mỹ đã chuẩn bị cả hàng trăm năm nay rồi, nay cứ từ từ mà nhập cuộc theo cẩm nang đã liệu định trước. "Đi đâu mà vội mà vàng"!
Nay thì Mỹ đã lên tiếng cảnh cáo Trung cộng gây chiến và xâm lược, và ông Daniel Russel, trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương sang Việt Nam ngày hôm nay 7-6-2014. Dẫu sao Mỹ cũng đã quan tâm. Còn thực tế sau đó thì sao? Chỉ là những lời cảnh cáo của Mỹ và Việt Nam mà Trung Cộng dễ dàng ngoan ngoản nghe theo mà kéo dàn khoan trở ra? Nếu Trung Cộng tháo lui thì công phu Đặng Tiểu Bình và ý chí Mao Trạch Đông diệt Mỹ chiếm thế giới hóa ra công cốc sao? Hàng chục bộ sách của Kim Dung cũng chỉ để nói lên hai chữ '' bá chủ " là tham vọng của các bậc anh hùng Trung quốc đó sao! Sống chết không cần biết, họ sẽ liều chết để giành chức vụ "bá chủ võ lâm'. Nếu Mỹ, Việt nam kêu gọi mà Trung Cộng vẫn ra mặt khai thác thì sao? Thôi mặc kệ nó.Hãy đợi đấy! Từ từ sẽ liệu. Lo chi việc ấy mà lo!
Cái quan trọng là hôm nay, 7-5-2014, Việt Nam tuyên bố sẽ ăn miếng trả miếng. Thật lòng hay chỉ là biểu dương bằng mồm trước thế giới rằng ta anh hùng, và tỏ cho Mỹ biết Việt Nam là đồng chí anh em với Mỹ đề cầu TPP ? Thức lâu mới biết đêm dài. Đêm đã dài và đã biết 99% sự thực bản chất cộng sản nhưng cũng chờ xem thêm! Mỹ không can thiệp ở Việt nam thì Trung quốc sẽ cho là Mỹ hèn nhát, và họ sẽ thừa thắng xông lên chiếm Philippines và Nhật Bản. Cơ hội còn nhiều, Mỹ tha hồ lựa chọn chiến trường họ thích nhất.
Hay Mỹ sẽ đưa tàu chiến đến, và hai bên sẽ nổ súng? Nổ súng vài loạt rồi quay ra cãi cọ, hội đàm, hay tiếp tục nổ súng? Nổ súng nhỏ rồi nổ súng lớn cho đến khi tàn cuộc? Nếu Mỹ bắn vào tàu Trung Cộng thì không phải việc đơn giản vì bọn Việt Cộng đã cam tâm làm tay sai Trung cộng, chúng sẽ khởi binh cướp chính quyền nếu có chính quyền chống Trung Cộng. Lại nữa, lực lượng Trung cộng tại các khu gia cư, khu công nghiệp, tại núi rừng Việt Nam sẽ nổi lên đánh phá. Phải trừ diệt tất cả thì mới chống Trung cộng thành công. Cơ trời cao diệu, lòng người thâm sâu, chúng ta hãy chờ xem ! Oẳn tù tì!Ra cái gì?
Ngày nay, Trung Cộng chiếm biển đông và tàn phá đất nước ta, bọn đầu gấu Hà Nội mặc tình giao cho bọn Trung cộng tại trung ương Hà Nội và tại Trung quốc thao túng. Bao khoản đấu thầu lợi hàng tỷ đô la bọn chúng đã trao cho Trung cộng. Chúng để trái cây, thực phẩm và hàng hóa Trung cộng chiếm lĩnh thị trường và đầu độc nhân dân ta, khiến nhân dân ta bị bệnh tật , còn công nông thương phá sản vì không cạnh tranh nổi với hàng hóa Trung cộng. Như thế là dân biển cũng như dân thôn quê, thành thị đều đã và đang chết dần mòn, trong khi đó bọn cộng sản Hà nội làm ngơ cầu hai chữ bình an.
Giữa lúc Trung Quốc gia tăng lấn áp Việt Nam ở Biển Đông, trong bài diễn văn khai mạc Hội nghị Trung ương 9 đọc ở Hà Nội sáng thứ Năm 08/05/2014, Tổng bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đã không đề cập gì đến diễn biến này. Điều này chứng tỏ sự hèn hạ tận cùng của bọn cộng sản cao cấp Hà nội, chúng nhắm mắt trước sự xâm chiếm trắng trợn của Trung quốc. Rõ ràng chúng đã đầu hàng Trung cộng.
Đến nước này, dân ta phải đứng lên giành độc lập và quyền sống. Dân ta phải đạp đổ chính quyền tay sai Việt cộng, và lập các lực lượng cách mạng để giải phóng đất nước khỏi sự bóc lột và tàn sát của giặc phương bắc. Hiện tại, đồng bào ta hãy tổ chức thành các đoàn thể, chờ cơn gió đông nổi lên thì ta sẵn sàng tiến lên! Ta phải giúp ta thì trời, đồng bào hải ngoại và thế giới tự do mới giúp ta. Độc lập, tự do là nằm trong tay đồng bào Việt nam. Truớc 1975, cuộc chiến của miền nam là đơn độc, nay là cuộc chiến của toàn châu Á, và của toàn thế giới mà thiết thân là Mỹ. Đó là cơ hội tốt nhất cho chúng ta tiêu diệt kẻ thù truyền kiếp để xây dựng Việt Nam độc lập, dân chủ và tự do. Hãy tiến lên đồng bào Việt Nam!
TINH THẦN DIÊN HỒNG 10
http://dien-hong.blogspot.ca/2014/05/tin-viet-nam-gioi.html
Việc Trung cộng đem dàn khoan tới hải phận Việt Nam là lẽ đương nhiên vì khi họ tuyên bố đường lưỡi bò là chủ quyền của họ, họ là nước lớn, không phải nói chơi. Họ có binh lính nhiều, vũ khí tàu bè nhiều tất sẽ yểm trợ hữu hiệu cho đòi hỏi đó dù là chính đáng hay phi nghĩa. Nay là bước đầu họ thực hiện tham vọng này. Họ chọn Việt Nam vì Việt Nam không như Nhật Bản, Indonesia, Malaysia ..., được Mỹ bảo vệ. Hơn nữa Việt nam là mắt xich yếu nhất, bọn Việt cộng đã thua và đã đầu hàng xin phụ thuộc thì không còn tinh thần chiến đấu. Và quan trọng nhất, 90% lực lượng Việt cộng nhất là các chức vụ then chốt đã nằm trong tay Trung cộng. Hồ Chí Minh là người Trung cộng, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Chí Vịnh, Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng... cũng là con đẻ của Trung Cộng.
Còn Mỹ thì sao? Có thể Mỹ không can thiệp vì Việt nam không phải là đồng minh của Mỹ. Hơn nữa, một số chính trị gia Mỹ có thể nghĩ rằng bọn Việt nam gian xảo không tin được. Xưa Ngô Đình Diệm được Mỹ đưa về làm vua, cả nhà vinh hoa phú quý thế mà bỗng chốc quay ra đầu hàng Việt cộng chống Mỹ. Nay Vũ Quốc Thúc là người được Mỹ tin cậy giao cho ông vài công tác quan trọng, nay già 90 tuổi cũng hô hào chống Mỹ, không sợ người đời cười chê bất nhân, bất nghĩa. Bọn ca sĩ Việt Nam cũng thế. Lúc nguy cấp chạy sang xin Mỹ cứu giúp, nay chúng muối mặt trở về ôm chân Việt Cộng để kiếm đô la! Thôi cứ để chúng sống với Trung Cộng một thời gian nữa cho chúng sáng mắt ra. Cả nước Việt nam tin đảng và bác cứ để cho họ toại nguyện, không thiệt hại gì cho Mỹ!
Dù là đồng minh của Mỹ, có thể Mỹ cũng buông vì Mỹ yếu, Mỹ sợ Trung Quốc như một số người tưởng. Có thể Mỹ lùi nước đầu, sau mới tấn công, không phải vì yếu mà người ta muốn "trường kỳ kháng chiến". Không ai bỏ tiền tổ chức đấu võ hay nghe ca nhạc mà chương trình chỉ có 15 phút hay nửa giờ. Cứ để cho Trung Cộng dấn sâu, hao binh tổn tướng, kinh tế kiệt quệ thì Mỹ mới ra tay. Chiến tranh có thể kéo dài hai ba chục năm hay năm mười năm chứ đâu có vài tháng, vài năm đã kết thúc. Chơi như vậy không vui, không đả! Có thể Mỹ tấn công đáp lễ lập tức để dập tắt từ đầu như cuộc chiến Nga-Gruzia năm ngày ở Nam Ossetia hồi 2008.
Trong bao nhiêu cách cuộc đó, chúng ta không biết Mỹ chọn thế nào. Nếu kỳ này, Mỹ tỏ ra yếu thế ( để khuyến khich Trung cộng tiến lên), thì sau Việt nam, Trung cộng sẽ chiếm Phi Luật Tân, Nhật Bản. Vì biết phải đánh lớn cho nên Trung cộng phải liên minh với Nga. Và Mỹ cũng biết Mỹ không những phải đấu với Trung cộng mà còn chơi với Nga. Một lúc chơi hai mệt lắm chứ chẳng phải chơi nên Mỹ đã bố trí mặt trận. Phía châu Âu, Mỹ giao cho khối NATO chơi với Nga, còn châu Á, Mỹ giao cho Nhật Bản, Ấn Độ, Úc châu là dư sức hạ Trung cộng. Mỹ chỉ đứng ngoài hỗ trợ. Có lẽ Mỹ đã chuẩn bị cả hàng trăm năm nay rồi, nay cứ từ từ mà nhập cuộc theo cẩm nang đã liệu định trước. "Đi đâu mà vội mà vàng"!
Nay thì Mỹ đã lên tiếng cảnh cáo Trung cộng gây chiến và xâm lược, và ông Daniel Russel, trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương sang Việt Nam ngày hôm nay 7-6-2014. Dẫu sao Mỹ cũng đã quan tâm. Còn thực tế sau đó thì sao? Chỉ là những lời cảnh cáo của Mỹ và Việt Nam mà Trung Cộng dễ dàng ngoan ngoản nghe theo mà kéo dàn khoan trở ra? Nếu Trung Cộng tháo lui thì công phu Đặng Tiểu Bình và ý chí Mao Trạch Đông diệt Mỹ chiếm thế giới hóa ra công cốc sao? Hàng chục bộ sách của Kim Dung cũng chỉ để nói lên hai chữ '' bá chủ " là tham vọng của các bậc anh hùng Trung quốc đó sao! Sống chết không cần biết, họ sẽ liều chết để giành chức vụ "bá chủ võ lâm'. Nếu Mỹ, Việt nam kêu gọi mà Trung Cộng vẫn ra mặt khai thác thì sao? Thôi mặc kệ nó.Hãy đợi đấy! Từ từ sẽ liệu. Lo chi việc ấy mà lo!
Cái quan trọng là hôm nay, 7-5-2014, Việt Nam tuyên bố sẽ ăn miếng trả miếng. Thật lòng hay chỉ là biểu dương bằng mồm trước thế giới rằng ta anh hùng, và tỏ cho Mỹ biết Việt Nam là đồng chí anh em với Mỹ đề cầu TPP ? Thức lâu mới biết đêm dài. Đêm đã dài và đã biết 99% sự thực bản chất cộng sản nhưng cũng chờ xem thêm! Mỹ không can thiệp ở Việt nam thì Trung quốc sẽ cho là Mỹ hèn nhát, và họ sẽ thừa thắng xông lên chiếm Philippines và Nhật Bản. Cơ hội còn nhiều, Mỹ tha hồ lựa chọn chiến trường họ thích nhất.
Hay Mỹ sẽ đưa tàu chiến đến, và hai bên sẽ nổ súng? Nổ súng vài loạt rồi quay ra cãi cọ, hội đàm, hay tiếp tục nổ súng? Nổ súng nhỏ rồi nổ súng lớn cho đến khi tàn cuộc? Nếu Mỹ bắn vào tàu Trung Cộng thì không phải việc đơn giản vì bọn Việt Cộng đã cam tâm làm tay sai Trung cộng, chúng sẽ khởi binh cướp chính quyền nếu có chính quyền chống Trung Cộng. Lại nữa, lực lượng Trung cộng tại các khu gia cư, khu công nghiệp, tại núi rừng Việt Nam sẽ nổi lên đánh phá. Phải trừ diệt tất cả thì mới chống Trung cộng thành công. Cơ trời cao diệu, lòng người thâm sâu, chúng ta hãy chờ xem ! Oẳn tù tì!Ra cái gì?
Ngày nay, Trung Cộng chiếm biển đông và tàn phá đất nước ta, bọn đầu gấu Hà Nội mặc tình giao cho bọn Trung cộng tại trung ương Hà Nội và tại Trung quốc thao túng. Bao khoản đấu thầu lợi hàng tỷ đô la bọn chúng đã trao cho Trung cộng. Chúng để trái cây, thực phẩm và hàng hóa Trung cộng chiếm lĩnh thị trường và đầu độc nhân dân ta, khiến nhân dân ta bị bệnh tật , còn công nông thương phá sản vì không cạnh tranh nổi với hàng hóa Trung cộng. Như thế là dân biển cũng như dân thôn quê, thành thị đều đã và đang chết dần mòn, trong khi đó bọn cộng sản Hà nội làm ngơ cầu hai chữ bình an.
Giữa lúc Trung Quốc gia tăng lấn áp Việt Nam ở Biển Đông, trong bài diễn văn khai mạc Hội nghị Trung ương 9 đọc ở Hà Nội sáng thứ Năm 08/05/2014, Tổng bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đã không đề cập gì đến diễn biến này. Điều này chứng tỏ sự hèn hạ tận cùng của bọn cộng sản cao cấp Hà nội, chúng nhắm mắt trước sự xâm chiếm trắng trợn của Trung quốc. Rõ ràng chúng đã đầu hàng Trung cộng.
Đến nước này, dân ta phải đứng lên giành độc lập và quyền sống. Dân ta phải đạp đổ chính quyền tay sai Việt cộng, và lập các lực lượng cách mạng để giải phóng đất nước khỏi sự bóc lột và tàn sát của giặc phương bắc. Hiện tại, đồng bào ta hãy tổ chức thành các đoàn thể, chờ cơn gió đông nổi lên thì ta sẵn sàng tiến lên! Ta phải giúp ta thì trời, đồng bào hải ngoại và thế giới tự do mới giúp ta. Độc lập, tự do là nằm trong tay đồng bào Việt nam. Truớc 1975, cuộc chiến của miền nam là đơn độc, nay là cuộc chiến của toàn châu Á, và của toàn thế giới mà thiết thân là Mỹ. Đó là cơ hội tốt nhất cho chúng ta tiêu diệt kẻ thù truyền kiếp để xây dựng Việt Nam độc lập, dân chủ và tự do. Hãy tiến lên đồng bào Việt Nam!
TINH THẦN DIÊN HỒNG 10
http://dien-hong.blogspot.ca/2014/05/tin-viet-nam-gioi.html
Tuesday, May 6, 2014
KIM THANH * ĐÁ NÁT VÀNG PHAI
ĐÁ NÁT VÀNG PHAI
Còn
bao người nhớ những KHỔ ĐAU và TỦI NHỤC qua những năm trong trại tù khổ
sai "cải tạo", cũng như sự GIAN KHỔ của những BÀ VỢ tù cải tạo???
Còn bao người hiểu "rằng hận thù cho sức mạnh, làm ta sống còn "
Thẹn mình đá nát vàng phai (Kiều)
Giữa
năm 1976, từ trại Long Giao, Nguyễn bị đưa ra Bắc, cùng với các thành
phần "ác ôn, có nợ máu" gồm An Ninh, Tình Báo, Chiến Tranh Chính Trị, Bộ
Binh, Cảnh Sát, Tuyên Úy –toàn thứ dữ dằn dưới mắt Việt Cộng. Gần ba
ngàn người bị xếp như cá hộp dưới hai khoang hầm tàu chở than, nguyên là
của Việt Nam Thương Tín được cải danh Sông Hương. Ai ở đâu là chết dí
chỗ đấy, tiểu tiện phải bước qua những thân người nằm rũ liệt, nghe chửi
thề inh ỏi khi lỡ đạp lên bụng một ông khó tính, mới đến được cái thùng
gỗ nhỏ đặt ở cầu thang. Nước uống và lương khô được thòng dây xuống, y
như cảnh trong một phim buôn bán nô lệ đã xem đâu rồi. Hai ngày sau cập
bến Hải Phòng. Xe lửa và molotova bít
bùng dàn chào sẵn để rước về các vùng biên giới, như Yên Bái, Lao
Kay... Bạn bè lạc nhau từ đây. Nguyễn đi Hoàng Liên Sơn. Cửa toa đóng
kín, khiến hai ông trung tá chết ngộp, xác vứt bên đường. Ngồi xe hơi
thì bị trẻ con ném đá, và những bà già Bắc kỳ tốc váy chửi rủa tục tằn,
với sự đồng lõa của bọn cán bộ.
.
.
Hoàng
Liên Sơn với rặng Fansipan trùng điệp. Những ngày vào rừng, lên núi đốn
tre, chặt gỗ, giơ tay vóc từng nắm sương la đà dày đục, nếm thử thấy tê
buốt –như môi hôn phút chia lìa vội vã. Những đêm lạnh cóng phải đứng
ngủ cho bớt run rẩy trong chiếc chăn đơn cũ mục. Trên đường lao động,
Nguyễn gặp lại bằng hữu thất tán từ các chiến trường xưa, không hẹn mà
bị "gom bi" đầy đủ. Nhìn nhau cười như mếu, thấm thía lời huênh hoang
của một tên cán bộ: "Các anh có mà chạy đằng giời!" Thỉnh thoảng lên núi
Nguyễn và đồng tổ đội gặp một nhóm Biệt Kích, bị bắt từ thời Tổng thống
Ngô Đình Diệm, đang lao động tự giác, không có vệ binh canh giữ. Họ
nhìn đám tân tù binh, vẻ thương hại, lắc đầu thông cảm, nhưng cũng có
anh không dằn được bực tức, lớn giọng: “ĐM, mấy cha làm ăn, đánh đấm thế
nào mà bây giờ kéo nhau ra đây cả lũ?” "Cả lũ" im lặng, xấu hổ, nghe
xót xa bởi lời trách móc không sai. Nói thế, nhưng khi thấy bọn Nguyễn
lóng cóng không buộc chặt nổi bó nứa, họ ùa đến ân cần phụ giúp, hướng
dẫn tận tình, hoặc chia cho sắn luộc và bánh in khô Trung quốc.
Sức khỏe suy sụp
dần. Sau một lần khiêng gỗ té xỉu giữa đường, Nguyễn được chuyển vào
đội Rau Xanh, gồm toàn bô lão –còn gọi là đội "sứt cán gãy gọng." Vì còn
trẻ và tạm lành lặn, chàng bị nhường ngay chức trưởng tổ phân, ngày
ngày phải hốt đủ mười chuyến phân bắc, tức phân người, "có chất lượng"
giao cho tổ khác đem ủ thẳng dưới các luống khoai, hoặc chế biến thành
nước tưới rau. Lúc đầu thấy hãi hùng, muốn nôn oẹ, rồi ráng nhập thiền
để mất đi cảm giác, ý niệm, nhìn nhưng chẳng biết đó là gì nữa. Hết phân
bắc đến phân chuồng (trâu bò), cũng tởm không kém, rồi phân xanh (lá
ngâm mục).
Mới đầu, đa số còn phát biểu linh tinh lắm. Hệ thống ăng ten chưa được thiết lập qui mô. Trong đội Rau Xanh có ông Đại úy Cảnh sát già gân Hoàng Bá Linh. Ông Linh là người Quảng Bình, hay Quảng Trị, trực tánh, ưa kể chuyện tiếu lâm và chuyện chế độ cũ, nói năng rất “phản động”, thuộc loại điếc không sợ súng. Trong một buổi học tập của đội, ông đã phát biểu, lên án “bọn CTCT ngụy” như sau: “Bọn ngụy tuyên truyền rất bố láo bố lếu về Bác Hồ vĩ đại, vô vàn kính yêu của ta, ví dụ họ nói nguyên văn như ri, tổ cha thằng già Hồ Chí Minh là tên giết người bán nước, làm tay sai cho thằng Xịt Ta Lin và thằng Mao Xếnh Xáng... Họ xuyên tạc bộ đội anh hùng của ta nguyên văn như ri, là chúng nó ốm đói quá, bảy thằng Việt Cộng đu một cọng đu đủ mà không gãy... Thật là mất dạy hết sức!”, v.v... Và cứ thế ông nói dai, nói dài, nói lớn “nguyên văn như ri, như ri”, với giọng nặng trịch, nhừa nhựa thuốc lào. Tất cả sĩ quan cải tạo xanh mặt, cản không được, ngồi im, lo lắng cho ông. Phải hơn hai phút sau thằng cán bộ quản giáo mới hiểu ra, lên tiếng cắt ngang, hầm hầm quát bảo ông im ngay. Nó ức lắm, nhưng lúc ấy vì quá bất ngờ chưa biết kết ông vào tội gì. Hôm sau, ông bị dẫn đi “làm việc” khá lâu, rồi bị biệt giam một tháng. Ra khỏi phòng biệt giam, ông tiếp tục mở máy, như cũ, cười hề hề: “Tui đâu ngán thằng mô”.
Mới đầu, đa số còn phát biểu linh tinh lắm. Hệ thống ăng ten chưa được thiết lập qui mô. Trong đội Rau Xanh có ông Đại úy Cảnh sát già gân Hoàng Bá Linh. Ông Linh là người Quảng Bình, hay Quảng Trị, trực tánh, ưa kể chuyện tiếu lâm và chuyện chế độ cũ, nói năng rất “phản động”, thuộc loại điếc không sợ súng. Trong một buổi học tập của đội, ông đã phát biểu, lên án “bọn CTCT ngụy” như sau: “Bọn ngụy tuyên truyền rất bố láo bố lếu về Bác Hồ vĩ đại, vô vàn kính yêu của ta, ví dụ họ nói nguyên văn như ri, tổ cha thằng già Hồ Chí Minh là tên giết người bán nước, làm tay sai cho thằng Xịt Ta Lin và thằng Mao Xếnh Xáng... Họ xuyên tạc bộ đội anh hùng của ta nguyên văn như ri, là chúng nó ốm đói quá, bảy thằng Việt Cộng đu một cọng đu đủ mà không gãy... Thật là mất dạy hết sức!”, v.v... Và cứ thế ông nói dai, nói dài, nói lớn “nguyên văn như ri, như ri”, với giọng nặng trịch, nhừa nhựa thuốc lào. Tất cả sĩ quan cải tạo xanh mặt, cản không được, ngồi im, lo lắng cho ông. Phải hơn hai phút sau thằng cán bộ quản giáo mới hiểu ra, lên tiếng cắt ngang, hầm hầm quát bảo ông im ngay. Nó ức lắm, nhưng lúc ấy vì quá bất ngờ chưa biết kết ông vào tội gì. Hôm sau, ông bị dẫn đi “làm việc” khá lâu, rồi bị biệt giam một tháng. Ra khỏi phòng biệt giam, ông tiếp tục mở máy, như cũ, cười hề hề: “Tui đâu ngán thằng mô”.
.
Sau tám tháng, cả trại bị “biên chế” đi Sơn La, ở chung với tù hình sự, loại "đầu gấu" chuyên giết người, hiếp dâm, trộm cướp. Một vùng đèo heo hút gió, nước độc rừng thiêng, gần Điện Biên Phủ, qua hết dãy núi cao là sang đất Lào. Quanh năm chỉ thấy mây trời lơ lửng và đám người Mán, người Mèo tiếng nói líu lo, mỗi lần xuống núi mặc áo quần sặc sỡ, đàn ông thổi kèn mở đường, đàn bà gồng gánh theo sau. Cùng trại có các linh mục, cảnh sát, sĩ quan đủ binh chủng, vài nhà văn quân đội như, Nguyễn chỉ còn nhớ, Thảo Trường, Văn Quang và Phan Lạc Phúc. Có nhị vị cựu và đương kim Đại tá Linh mục Tuyên úy Lê Trung Thịnh và Đinh Cao Thuấn. Nguyễn nằm kế bên Trung tá Đặng Bình Minh, phi đoàn trưởng trực thăng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, mùa đông được anh cho một áo jacket nhà binh rằn ri cũ. Cách Nguyễn hai người là Trung tá Vũ Hoài Đức, chỉ huy phó trường ĐH/CTCT, người hiền lành, đạo đức y như Đại tá Chỉ huy trưởng Nguyễn Quốc Quỳnh. Ở một đội khác có một cựu tùy viên của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm, đeo kính trắng, tôi quên tên. Ai nấy thiếu ăn, xác xơ, bắt đầu thấm đòn độc của Việt Cộng: chủ trương cải tạo bao tử, nghĩa là bắt đói triền miên, để chế ngự ý chí, và cả tư cách nữa! Lao động vinh quang là trồng lúa, sắn, ngô, khoai trên những thửa đất hoang, khô cằn sỏi đá.
.
Hơn hai năm sau, Trung Cộng uy hiếp biên giới, Việt Cộng lo sợ, vội vàng chuyển tất cả về Vĩnh Phú mà chúng gọi là miền trung du, đất tổ Hùng Vương. Hùng Vương đâu chả biết, chỉ thấy toàn núi rừng thâm u và bộ mặt kinh niên hắc ám của các cai tù, và những thằng Ăng Ten, Trật Tự, Thi Đua ngu ngốc làm khổ đồng đội còn hơn chính kẻ thù. Trại rộng thênh thang chia làm bảy khu, gọi là K, cách nhau trung bình năm, sáu cây số, nằm tít phía sau thung lũng sông Hồng. Từ Sài Gòn ra Vĩnh Phú thăm chồng, các bà "vợ ngụy" xem như chặng đường thánh giá mới, phải vượt rừng băng sông, đi đủ các loại xe, kể cả xe trâu và xe đạp ôm. K7 gần nhất, giam riêng các biệt kích. Ở giữa, một K dành cho các thiếu niên phạm pháp, đa số về tội ăn cắp –có đứa chỉ mới tám tuổi. Nguyễn ở K1, xa nhất, tuốt sâu trong núi.Tại Vĩnh Phú, có anh bạn trường Đại Học CTCT Đà Lạt, Nguyễn Ngọc Nhung, Đại úy phòng Khảo Hạch, kiếm đâu ra được chức thủ kho dụng cụ lao động, cũng nhàn. Một hôm, Nhung kể, một tên công an vẻ phách lối đến mượn cái xẻng. Theo thủ tục phải ghi tên vào sổ. Thủ kho, người Bắc, lịch sự hỏi:- Xin cán bộ cho biết quý danh.Tên nọ không hiểu "quý danh", há mồm, ngơ ngác, suy nghĩ một hồi, rồi đột nhiên sừng sộ:- Anh vi phạm lội qui. Ai cho anh lói tiếng lước ngoài hử?Nhung sửng sốt, á khẩu. May phước, nhờ các bạn tù xúm vào thông dịch giùm, anh mới thoát nạn, sau khi bị xỉ vả tận tình.
- Giờ lày mà còn ôm chân đế quốc, lói tiếng nóng...Còn Nguyễn về đội Nông Nghiệp. Phải lội vào một thửa ruộng bỏ hoang từ bao đời để luân phiên kéo cày thay cho trâu bò. Nước bùn đen đặc quánh, đỉa bơi lổn ngổn, thò chân xuống thấy ghê rợn –làm chàng nhớ những đầm lầy cũng kinh khiếp dưới địa ngục mà thi hào Dante phải vượt qua với Virgile, trong La divina Commedia. Ba hôm sau, một số đội viên –có Ðại úy Cảnh sát Phạm Bá Ðiềm, bạn thân từ Sơn La– lên cơn sốt cấp tính, chỉ hai ngày là hôn mê, rồi chết. Người sống sót rụng dần lông chân. Phải mất thêm vài mạng nữa, đội mới có lệnh "giải thể."Thửa ruộng lại bị bỏ hoang, Nguyễn trở về đội Rau Xanh, như hồi ở Hoàng Liên Sơn, lại vào tổ phân, lần này giao cho thợ bón kiêm chuyên viên tưới là phi công Air Vietnam Nguyễn Hữu Trí, trung tá biệt phái. Nói chuyện mới biết Trí bay đường Hồng Kông và Tokyo, có chuyến với Bội Trân, em gái Nguyễn, mà anh tả đúng hình dáng, nên chàng tin lắm. Chim bằng gãy cánh, Trí tiếc nhớ trời xanh, giờ giải lao ngước nhìn lên cao, uất ức, thở dài.
. Tết
đầu tiên tại Vĩnh Phú, trại được nghỉ lao động ba ngày, và tự do đi lại
các khu vực. Nguyễn tìm đến dãy nhà giam riêng "bò lục" (tiếng lóng chỉ
đại tá) để thăm Ðại tá Nguyễn Quốc Quỳnh, vị chỉ huy trưởng kính thương
của trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị Ðà Lạt –nơi mà chàng được
phục vụ gần ba năm trong chức vụ Trưởng khoa Nhân Văn Xã Hội và Sĩ quan
Phụ khảo cho đến ngày tan hàng. Nguyễn thấy ông cũng vừa bước ra sân,
nơi đang diễn nhiều trò vui do tù sáng chế để giết thời gian và nỗi nhớ
nhà. Ông nhận ra chàng ngay. Chung quanh rất đông người, và dĩ nhiên
ăng-ten được rải đầy. Gặp ông, chàng mừng quá, nói lớn:
- Chào bác, bác vẫn khỏe chứ ạ?Ông nắm tay chàng một lúc lâu, và chậm rãi nói, giọng xúc động:- Cám ơn anh, tôi vẫn khỏe. Còn anh thế nào, có bệnh hoạn gì không? Tôi biết anh ở đây lâu rồi, mà không gặp được.Nguyễn cố nuốt những giọt lệ làm nghẹn cổ họng, xót thương cho phận vàng phai và đá nát. Cho đất nước bất hạnh. Cho cả chính mình. Hồn bỗng rưng rưng, thầm gọi tên một thời yêu thương và thù hận tưởng đã chết theo cùng với mùa xuân tang tóc và những giấc mơ phai. Một thời vì ông chợt hiện về nguyên vẹn. Như mới hôm qua....Sài Gòn, đầu tháng 5, 1975. Hai ngày sau khi đứng nhìn từ một góc đường Lê Văn Duyệt, uất hận và nước mắt lưng tròng, những chiếc xe tăng chở đầy Cộng quân vào thủ đô, nghe tên nằm vùng Trịnh Công Sơn hớn hở ca mừng chiến thắng, kêu gọi nối vòng tay lớn, và chạy tới chạy lui dò la tin tức người thân, bạn bè ai còn ai thoát, tôi tìm được địa chỉ của Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh và đạp xe đến thăm cùng với hai cựu SVSQ khóa 4, Nguyễn Gia Hưng và Nguyễn Dự, bất ngờ gặp lại trên đường. Phu nhân và cô con gái, vì quen mặt hồi ở Ðà Lạt, tiếp tôi không e dè. Ðại tá Quỳnh ra phòng khách, áo sơ mi bỏ trong quần tây, chân đi săng đan. Trông ông mệt mỏi, có vẻ chán nản, dù bề ngoài vẫn giữ phong cách nho nhã, lịch sự cố hữu. Chúng tôi không nói gì nhiều. Có lẽ trước thảm họa chung ai cũng có nỗi ưu tư riêng, cùng nặng nề như nhau. Suốt ba hôm liền, tôi bị hối hận dày vò, tự trách đã vụng suy, khí khái hão, không nghe lời cô em tiếp viên đưa gia đình lên chuyến Air Vietnam cuối cùng, khiến tất cả đành phải ở lại, một số dắt díu nhau trở về Nha Trang để thấy cửa nhà, tài sản rơi vào tay bọn cách mạng 30 –hạng khố rách áo ôm trước kia đã chịu ơn ba mẹ tôi, nay trở mặt, gán lên đầu ông bà đủ thứ tội. Còn Ðại tá Quỳnh, tôi không biết ông đang tiếc gì, nghĩ gì, vì suốt buổi chỉ nghe ông lặp đi lặp lại:
- Không thể ngờ nhanh như thế!
Ðâu phải một mình ông. Không ai ngờ, kể cả Dương Văn Minh, tên tướng thiếu tài, khờ dại, được sinh ra chỉ để phản bội, và bọn "hàng thần lơ láo" tại dinh Ðộc Lập trưa ngày 30/4. Kể cả lũ vượn người khoác lác ở Bắc bộ phủ. Kể cả tên đồng minh Kissinger xảo quyệt, tác giả của cái gọi là hiệp định Paris quái gở bán đứng miền Nam, người được báo chí Mỹ bơm lên như nhà ngoại giao vĩ đại, nhưng thực chất chỉ là một tên trí thức cơ hội chủ nghĩa và đầy ảo tưởng, chưa tiêu hóa kịp những bài học bang giao quốc tế ở trường Harvard. Kể cả anh tướng hai sao và ba hoa nọ đã thề thốt ở lại để ăn mắm tôm cà pháo với đồng bào, vậy mà vào phút chót nhờ có trực thăng riêng mới vọt ra được hạm đội Mỹ. Không thể ngờ nhanh như thế! Tôi chỉ biết gật đầu, đồng ý với ông. Cuối cùng, tôi cất tiếng hỏi:
- Ðại tá có ý định sẽ làm gì ?
Ông lưỡng lự vài giây, rồi trả lời:
- Tôi chưa biết sẽ phải làm gì. Nhưng ở hoàn cảnh nào tôi cũng chấp nhận những gì tệ hại nhất sẽ xảy đến cho tôi.
Như là mặt trái của bổn phận và vinh quang, tôi hiểu như thế qua những lời chậm rãi, đắn đo của ông. Những lời tôi nghe quen từ đâu rồi bỗng mang một ý nghĩa cao đẹp, phi thường trong bối cảnh bấy giờ. Những lời đã theo tôi suốt tám năm đày ải, và cùng với hình ảnh của Guillaumet, viên phi công lâm nạn lầm lũi bước lê trên cát sa mạc, không chịu ngồi chờ chết, trong “Terre des hommes” của Saint-Exupéry học lúc trẻ, đã khích lệ, vực tôi đứng dậy để tiếp tục sống còn. Tôi cảm động, và khi từ biệt, siết chặt tay ông, khẽ nói:
- Có một điều Ðại tá nên chắc chắn là dù ngày mai ra sao tôi sẽ không bao giờ quên Ðại tá và những gì Ðại tá đã làm cho tất cả chúng tôi.
Và cho riêng tôi. Ông là một chỉ huy trưởng nhân hậu, có đức có tài, hơn ai hết, đã làm tôi thấy yêu thích và kiêu hãnh với đời quân ngũ bất đắc dĩ. Một chỉ huy trưởng quả cảm và xứng đáng, có tinh thần trách nhiệm cao độ –quyết ở lại với thuộc cấp cho đến phút cuối, mặc dù ông có một người con rể là đại tá không quân Mỹ và đủ phương tiện để tẩu thoát một mình như đám tướng tá tham sinh úy tử kia đã tranh nhau đào ngũ trước khi tai họa giáng xuống. Quả vậy, chín giờ sáng 30/4, tại Tiểu đoàn 50 CTCT, đường Phan Ðình Phùng, bấy giờ là bộ chỉ huy tiền phương của trường Ðại học CTCT, ông vẫn chỉ thị các sĩ quan hiện diện và sinh viên sĩ quan các khóa tiếp tục chiến đấu và phòng thủ, để rồi, cuối cùng, phải buông súng, bất lực trước mệnh nước. Tôi không bao giờ quên được khẩu lệnh cuối cùng, ngắn ngủi, thật buồn bã của ông cho ban tham mưu, sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng:
- Phát hết lương khô và cho anh em tan hàng!
... Thế rồi, mỗi người chia một nẻo. Ông cũng đi trình diện "cải tạo" ở một nơi nào đó. Tôi bị tống vào Long Giao để gặp lại gần toàn bộ sĩ quan Ðại Học CTCT, trong số có người bạn thân, Đại úy Đỗ Huy Hoàng, chủ bút tờ Ức Trai của trường. Những chiều lao động về rảnh rỗi, tôi mò sang đội của Hoàng, hoặc Hoàng sang tôi, để tâm sự vụn cho bớt nhớ nhà. Nhất là bớt tức. Có cái gì uẩn ức, hằn học nằm trong tiềm thức của mỗi tên tù. Đau xót và căm giận còn hơn bị tình phụ. Nhưng không biết tức ai. Lãnh đạo hèn nhát đã cao bay xa chạy. Thù hận Cộng Sản thì chẳng ai dám hé môi nói với ai. Cuối cùng, chỉ có Thượng Đế nghe đủ những lời ta thán, chửi thề vu vơ. Trong câu chuyện, chúng tôi điểm mặt từng người quen, và khi biết toàn trường vào tù, cả hai cùng thở dài, ngán ngẩm. Tôi còn gượng chọc Hoàng:
- Ức Trai hay Ức Gái gì rồi cũng chui vô rọ hết!
Tại Long Giao, lúc ấy, tôi ở cùng đội, cùng tổ với Đặng Phùng Hậu, bác sĩ trưởng bệnh xá trường Đại Học CTCT, và một nhóm quân y. Cả tổ, vì tự ái, tự trọng, không ai than vãn về chuyện ăn uống, đói khát trong tù, kể cả sau này khi viết hồi ký. Hậu vui tính, kể đủ chuyện, nhờ vậy những ngày ảm đạm, bực bội qua khá nhanh. Mỗi tối, Hậu thì thầm nói chuyện với tôi về thời cuộc, và lần nào anh cũng lẩm bẩm kết thúc bằng câu:
- Địt cụ, đau như hoạn, tức như bò đá!
Bên dãy cấp tá có Lê Ân, thiếu tá văn hóa vụ trưởng của trường. Những lần thấy nhau qua hàng rào kẽm gai, ông lộ vẻ mừng rỡ, rồi lắc đầu nói, giọng Quảng lai Huế rất ”trademark” của ông:
- Cháng gướm (chán gớm)!
Trong câu chuyện, anh em thường hỏi về Ðại tá Chỉ huy trưởng. Không ai biết chính xác ông ở đâu. Có tin ông đã chết. Hoặc đang ở ngoại quốc. Hoặc trốn trong một khu rừng. Nhiều đêm trằn trọc, tôi khổ tâm vì dĩ vãng, cứ ám ảnh mãi, như cuốn phim quay lại, tự động, chậm chạp, lê thê. Nhớ không sót từng khuôn mặt, từng buổi giảng dạy, từng dịp lễ. Nhớ từng đêm Giáng sinh giá buốt và tiếng chuông nhà thờ ngân nga, từng buổi dạ vũ tưng bừng, mệt nhoài, từng con phố chìm trong sương mờ che khuất đường về...
.Bây giờ Đại tá Quỳnh đứng đó, bên Nguyễn, giữa một ngày xuân héo hon. Người gầy nhom, gương mặt hốc hác, má trũng sâu. Nhìn lại hình hài mình, chàng thấy đâu hơn gì. Chỉ một thoáng mơ, bỗng hiện về trong đáy hồn rời rã cả khung trời yêu thương Ðà Lạt và kỷ niệm rực rỡ của tháng ngày cũ có hạnh phúc còn thơm hương mimosa, có tình yêu chưa biết nói lời phản trắc, có một Ðại tá Quỳnh uy nghi trong quân phục đại lễ gắn cấp hiệu cho sinh viên các khóa, nay còn đâu! Mới có bốn năm vật đổi sao dời mà cả hai đã trở thành thảm hại đến thế ư? Ông mặc bộtreillis bạc màu, chân đi dép râu, sau lưng viết chữ Quỳnh thật to bằng mực tím. Thấy không ai để ý Nguyễn bèn hỏi rất khẽ:- Ðại tá nghĩ sẽ có ngày về không?Ông lấy tay che một bên tai, có vẻ chú ý lắm mới nghe lọt hết. Và trả lời nhanh, chắc ngại bọn ăng-ten cứ lượn qua lượn lại trước mặt:- Tôi nghĩ là rất khó lòng, mặc dù vẫn cố hy vọng. Ðiều quan trọng là anh gắng giữ gìn sức khỏe tốt để có sức chịu đựng. Gặp anh em khác cho tôi gửi lời thăm!Một thằng sà tới. Nguyễn vội nói lớn:- Bác được thư gia đình thường chứ?Ðại tá Quỳnh chưa kịp đáp thì hắn đã gay gắt bảo Nguyễn, giọng trọ trẹ:- Tôi lưu ý anh, không được quan hệ với các anh đại tá.Chàng phản pháo liền:- Nhưng anh là ai? Hôm nay ngày Tết được miễn!Thằng nọ mặt hầm hầm, lớn tiếng:- Tôi ở trong ban Trật Tự. Ðề nghị (tiếng Việt Cộng có nghĩa "yêu cầu") anh chấm dứt quan hệ linh tinh.Chàng quay sang Ðại tá Quỳnh :-Thôi xin từ giã bác, chúc bác mạnh khỏe, bình an trong năm mới.Rồi nhìn thẳng mặt thằng Trật Tự, giận dữ bỏ đi. Nguyễn gặp Ðại tá Quỳnh được một tháng thì hai đội bò lục –đội trưởng là Lê Ðình Luân và Dương Hiếu Nghĩa– chuyển xuống K5, cách đó độ sáu cây số, cùng với các linh mục tuyên úy mà bọn Công an đặc biệt căm thù. . Rồi một hôm, mẹ tôi lặn lội đến thăm, có Bội Trân hộ tống. Lần đầu được phép, sau năm năm chờ đợi. Mất ba ngày đường trên hai chuyến xe lửa từ Nha Trang ra Hà Nội, từ Hà Nội lên Ấm Thượng. Qua sông Hồng bằng phà máy, tới K1 bằng xe trâu. Tại nhà tiếp tân, lúc đó khá đông người, ba mẹ con ôm nhau khóc, rồi nói cười, mừng mừng tủi tủi, trước những cặp mắt cú vọ của lũ vệ binh và quản giáo. Mẹ thút thít, xoa nắn hai cánh tay và ngực tôi, như lúc nhỏ tôi từ Sài Gòn về quê Nha Trang nghỉ hè, chê con gầy quá, tội con quá! Mẹ bạc gần nửa mái đầu, da sạm nắng, tay nổi gân xanh. Suốt năm, Bội Trân nói, mẹ đi thăm nuôi "mệt nghỉ" rồi lo tìm đường cho con vượt biên, làm sao mà không già yếu cho được. Ba ông con trai lớn và một chàng rể tương lai đi cải tạo bốn nơi khác nhau, cô con gái út bị bắt ngay trên ghe nhỏ, giam tại A30. Chưa đứa nào thoát được, mẹ tiếp lời, trừ Thể Trân ra riêng, vì cả nhà bị chúng nó theo dõi sát nút.
Bội Trân đẹp như trước kia, nổi bật giữa phòng tiếp, dù thôi trang điểm. Nhưng tóc cài hờ hững, mắt buồn vời vợi, mất hết vẻ hồn nhiên, tinh nghịch cố hữu, khiến tôi ngậm ngùi tưởng đến những mỹ nhân tự thuở xưa hương sắc không phai giữa gió đời vùi dập, kiêu sa trước nghịch cảnh, như các nhân vật nữ trong những vở kịch cổ Hy Lạp. Em kể, và mẹ lắng nghe, thỉnh thoảng gật gật đầu, phụ họa:
- Nhà mình tịch thu được chúng nó trả một nửa, nửa kia làm trụ sở thanh niên phường. Ba làm rẫy, mẹ lén nấu rượu chuối cho ba uống thay Martel. Em phụ bán nước mía với em Huyền Trân. Chị Thể Trân đến được Mã Lai với chồng con. Chị vẫn nhắc chuyện anh cho cậu em chồng hai quả trứng vịt lộn trong kỳ thi ở trường Chiến Tranh Chính Trị và ông Ðại tá chỉ huy trưởng hiền từ của anh. Chị nói anh ngang tàng, đôi lúc chị tức anh lắm, nhưng vẫn thương anh, hơn bất cứ ai, bởi anh là mẫu người của đàn ông, có chết cũng không than van, cầu khẩn, lúc nào cũng hào hùng, kiêu hãnh, giống như con chó sói bị thương trong bài "La mort du loup" của Vigny mình học năm nào đó... Anh nhớ không, hồi nhỏ, một lần anh đánh lộn với mấy thằng lối xóm chuyên chận đường chọc ghẹo tụi em, bị chảy máu mũi, mắt sưng vù, mà anh vẫn cắn răng chịu đau, không khóc, lại còn bị ba mắng cho nữa...
Tôi lắc đầu, cười buồn. Ôi, xa rồi kỷ niệm, nhắc làm chi hỡi em? Và đổi đề tài:
- Kha bây giờ ra sao? Có khoẻ không em?
Kha là hôn phu của Bội Trân, phi công A37, dưới tôi hai lớp tại Jean-Jacques Rousseau. Sắp cưới thì mất nước. Vì Bội Trân ở lại, Kha cũng không đi.
Nghe tôi hỏi, Bội Trân chớp mắt, buồn rầu nhìn ra sân. Bầu trời thấp, đục, giăng mây xám, như sắp đổ mưa. Gió rừng tuôn qua vách nứa ngập gian nhà trống trải, không cửa, lạnh từng cơn. Em thì thầm:
- Mẹ và em đã ghé thăm Kha ở Hà Nam Ninh trên đường lên anh đây. Cũng tàn úa, như anh, như mọi người, sức khỏe giảm sút nhiều... Em sẽ chờ anh ấy, bao lâu cũng được.
Tôi quay sang mẹ, bùi ngùi nói:
- Tất cả đều do lỗi của con. Phải chi ngày đó con biết nghe lời em đưa gia đình...
Mẹ ngắt lời:
- Cả nước đều lầm, đâu phải riêng con. Chuyện cũ, thôi đừng nghĩ đến nữa.
Bội Trân tiếp:
- Nhưng có thế này em mới được về "phục viên" ở hẳn với ba mẹ chứ! Em vẫn thương anh và hãnh diện vì anh.
Mẹ và em nói đủ thứ chuyện, nhưng không đề cập đến một tin tôi chờ mà ngại không dám hỏi. Dường như hiểu ý, lúc mẹ quay qua tiếp một bà đồng hành ngồi cùng bàn, Bội Trân nắm bàn tay tôi, siết chặt, và khẽ nói:
- Lệ Ngà đã lấy chồng. Hai năm sau khi anh ra đi. Em đâu ngờ!
Tự dưng tôi buột miệng, không chút mỉa mai:
- Hai năm là còn khá thủy chung đấy chứ em!
Tôi tưởng sẽ phải đứng tim, ngất xỉu. Nhưng lạ quá, chỉ thấy buốt nhói một chút như kim châm. Có lẽ vì đã chuẩn bị đón nhận sự thật quá lâu, từ năm năm rồi. Một thiên thu. Chợt nhớ một anh bạn Thiết giáp vừa vào Long Giao mấy tháng đã nhận được thư vợ xin anh cho phép "bước thêm một bước nữa" và ký vào tờ đơn ly dị và giấy nhường tài sản kèm theo, và cả đời tôi không quên được giọng cười khinh bạc của anh sau khi viết trả lời: "Nhất trí. Cho cô hết. Nhưng khuyên cô không nên bước, mà nên chạy cho nó nhanh." Tôi không được như anh ta. Bởi vô vàn kỷ niệm ngát hương ngày mới yêu ùa về, thay nhau vỡ như bong bóng. Lệ Ngà. Bạn học thân thiết của Bội Trân. Tà áo thiên thanh và dòng tóc buông lơi trong nắng sớm phi trường Liên Khương, những lần em bay lên gặp anh. Lệ Ngà. Những chiều đi dưới mưa lất phất qua những đồi thông, em hát nho nhỏ bài “Le jour où la pluie viendra... Ngày mà mưa đến, sẽ có bao nhiêu là giọt kim cương cho tình ta...” Những ly rượu Bordeaux sóng sánh ngọt lịm môi em trong quán L’eau Vive và bản "Appassionata" trên phím dương cầm thánh thót như từng giọt lệ rơi, thiết tha như lời tuyệt vọng gọi người tình về. Những vòng tay cuống quýt tìm nhau trong hoàng hôn tím trên đồi Cù. Những lời thề nguyền yêu đương cho đến lúc đầu bạc răng long. Lệ Ngà. Hạnh phúc dối gian và ảo vọng phù du. Tôi nhắm mắt giây lâu, nghe vị đắng và cơn giận thấm dần xương tủy. Và thở dài nhè nhẹ, nhìn Bội Trân không nói. Ðâu phải tình cờ em nhắc đến con chó sói bị thương, cùng đường, của Vigny.
Em tiếp, giọng buồn rưng rưng:
- Không hiểu sao Ngà biết em sắp đi thăm anh. Ðến gặp em, lần đầu tiên sau mấy năm biệt tích. Em không nỡ đuổi. Khóc suốt buổi, nhưng không nói một lời gì về anh. Khi chia tay, chị ta nhờ em trao anh những phong chocolat Meunier mà chị ta nói ngày xưa anh rất thích, và cho em một số tiền làm lộ phí, nhưng dĩ nhiên em không nhận gì hết... Em biết tính anh quá mà!
Tôi nói cám ơn em. Rồi cả hai im lặng, đuổi theo ý nghĩ riêng...
Hai giờ trôi qua mau. Tên cán bộ vén tay áo xem đồng hồ, bảo tất cả chuẩn bị ra về, vác quà vào trại. Khi ôm hôn tôi từ biệt, lợi dụng tiếng ồn ào, Bội Trân nói một hơi, thật nhanh, qua màn lệ, bằng tiếng Pháp:
- Ba dặn anh đừng tin bọn Cộng sản, đừng khai thật, khai sao lặp lại y như vậy, đừng tin các phong trào phục quốc, tất cả đều là cạm bẫy của Việt Cộng. Em nghe đài VOA và BBC nói các nghị sĩ, dân biểu Mỹ, và cả thế giới đang quan tâm đến số phận của các anh. Ðừng tuyệt vọng nghe anh. Nhớ đọc kinh, cầu nguyện nhiều xin Chúa và Ðức Mẹ che chở. Cả nhà chờ anh đó. Em thương anh. Em thương anh.
.
Mẹ
và em về hơn hai tháng, Nguyễn được chỉ định vào đội Xây Dựng, có nhiệm
vụ cất nhà ở cho tù, heo, và cán bộ, và bắc cầu qua suối cho dân. Lúc
đầu chàng phụ tá cho Lưu Ninh, Thiếu tá Bộ Binh, trong tổ vữa (trộn hồ),
và sau khi Ninh qua “khâu” lợp chàng được thăng chức tổ trưởng, và tổ
phó là Ðào Văn Bảnh, Trung tá Bộ Tổng Tham Mưu. Bảnh tính tình điềm đạm,
cởi mở, sau trở thành một trong những bạn tù thân thiết nhất. Không có
tổ viên. Suốt ngày hai tên hì hục trộn hàng đống vữa lớn, nhỏ, để sẵn,
chờ một toán đem xe cải tiến, do ông nhà báo Việt Tấn Xã Đinh Phụng Tiến
chỉ huy, đến xúc giao cho các thợ xây. Trong đội, nằm cạnh chàng, có
Ðại đức Nguyễn Long, quê Quảng Ngãi, lo nấu nước, làm tạp dịch. Ông hiền
lành, thật thà, ưa giúp đỡ mọi người. Nhiều đêm, vài anh nổi hứng, oang
oang kể chuyện đàn bà con gái, chơi bời trước kia. Ông cũng bị nghe, và
lần nào cũng lầm rầm bên tai Nguyễn:
- Mô Phật! Chơi chi mà chơi dữ rứa hè!Bữa nọ, một bà già khu gia binh cho đội một con chó con vừa chết. Một anh gốc Hố Nai xung phong trổ tài nấu rựa mận với muối, rau muống, và củ riềng –mọc đầy bên vệ đường. Mỗi người được chia hai miếng bằng ngón chân cái. Ai cũng "hồ hởi" ăn, trừ Ðại đức Long. Ông đi tìm Nguyễn, cho phần của ông, mặc dù quanh năm ai cũng thiếu chất thịt và ông chưa được thăm nuôi. Ông nói:- Tôi còn tu. Anh ăn giùm cho!Một hôm, đội được điều động làm công tác "đột xuất" (bất ngờ) là ra "nghĩa địa", tức một bãi đất trống sát chân núi, làm cỏ và cắm mộ bia cho các anh em đã nằm xuống. Nguyễn đếm gần hai trăm mộ –kỳ thực chỉ là những nấm đất vùi sơ với mảnh gỗ nhỏ ghi vội tên người chết. Trong số có vài ông tỉnh trưởng, trung đoàn trưởng. Có Trung tá Nguyễn Văn Năm, thuộc trường Ðại học CTCT, người hiền như Bụt, nổi tiếng về khoa bói toán, bấm độn, và một người quen biết từ trại Sơn La, Trung tá Ðặng Bình Minh –cả hai trúng nắng cùng một lúc ngoài hiện trường lao động, được chở về trại cùng trong một chiếc xe trâu, hôn mê và qua đời cùng một giờ. Anh em kể, vợ phi công Minh, một dược sĩ trẻ đẹp, mới thăm anh vài ngày trước, từ Hà Nội trở lại thăm tiếp khi anh vừa mất, được dẫn ra nghĩa địa, khóc như mưa, rồi cắt tóc để lại trên mộ cùng với một bài thơ. Nguyễn vừa giẫy cỏ vừa thầm khấn các anh phù hộ cho tất cả tai qua nạn khỏi và mau về sum họp với gia đình. Và thắc mắc không hiểu sao bữa nay bọn cai tù lại tử tế như vậy. Thì ra, về sau mới biết, có một phái đoàn cao cấp đến thăm trại.
.
Cuối
năm 1980, cả đội của Nguyễn được điều động đến K5 xây hội trường và khu
gia binh cho công an. Tại đây, Nguyễn rất mừng được thấy lại Ðại tá
Nguyễn Quốc Quỳnh, mỗi buổi sáng tập họp. Kỳ này, trông ông đỡ tiều tụy.
Tết 1981, mẹ chàng và Bội Trân ra Vĩnh Phú lần thứ hai, với Huyền Trân,
cô em út xinh đẹp vừa tròn mười tám. Chàng soạn một ít bánh mì khô,
đường và mì gói, mấy viên thuốc cảm, bỏ vào một bọc ni-lông, chờ buổi
chiều các đội đi tắm suối chung lẻn đến phía các "bò lục", gặp Ðại tá
Quỳnh trao cho ông, nói:
- Tôi mới được thăm, xin biếu Ðại tá.Hai tháng sau, đến lượt ông được thăm, và một buổi sáng Nguyễn đang đánh vữa thì đội của ông đi ngang. Ông gật đầu ra dấu cho chàng đến sát hàng rào kẽm gai và dúi vào tay một gói lương khô đủ loại. Thằng vệ binh thấy được, chạy tới khám. Không có thư từ, mật hiệu, nó trả lại, mồm càu nhàu:- Quà với cáp linh tinh!Lúc này, tổ vữa làm việc gần bếp và giếng nước cơ quan. Một hôm, một trung sĩ công an còn trẻ, lạ hoắc, lén vệ binh, đến gần, run run hỏi nhỏ:- Các anh có B6, cho tôi xin một ít. Nhà tôi mới sinh bị phù (thủng) nặng.Việc xảy ra đột ngột, Nguyễn và Bảnh đưa mắt nhìn nhau, không đáp, sợ bị gài bẫy. Anh ta vội tiếp:- Nói thật đấy mà! Không tin, các anh cứ vào đây xem.Suy nghĩ một hồi, Nguyễn đánh liều đi theo anh ta, còn Bảnh ở lại canh chừng đống vữa và tên vệ binh. Vào nhà, thấy chị vợ da mét xanh, mặt mày, tay chân sưng húp, nằm bên đứa con đỏ hỏn, bé như con chuột. Chị ta nói thuốc bệnh xá cấp thiếu, và không có thức ăn bổ dưỡng.Hai anh chàng phân vân mãi. Ðối tượng giúp đỡ phải là bạn tù chứ, của đâu mà lo cho Công an! Nhưng hầu hết anh em đều đã được thăm nuôi, hoặc nếu chưa, đã được Bảnh, Nguyễn và bạn bè chia sẻ phần nào rồi. Cuối cùng, động lòng trắc ẩn, cả hai góp lại được chừng bốn mươi viên B6 để dành từ các lần tiếp tế, đã quá hạn, nhưng không còn gì hơn, và một hộp sữa đậc cho đứa bé, đem giấu dưới một gốc cây, làm hiệu cho anh ta đến lấy. Hai tuần sau, một buổi trưa, chị vợ đang nấu bếp cơ quan thấy hai chàng thợ vữa đến, vội tiến ra, nhìn trước nhìn sau, bảo:- Cảm ơn hai anh, hôm nay em đã đỡ nhiều. Có xuất cơm trắng và miếng thịt trâu bồi dưỡng em mang cho hai anh ở gốc cây kia. Nhớ xem chừng cán bộ bảo vệ, kẻo em bị kiểm điểm....Rồi từ đội Xây Dựng, Nguyễn được Linh mục Trần Thanh Cao, giỏi nhạc, đẹp trai, vui tính, có quen biết ngoài đời, bốc về đội văn nghệ mới thành lập do ông làm đội trưởng, để tỵ nạn lao động vài tháng, mặc dù chàng dốt đặc về ca nhạc kịch. Nhân tài, cũng cỡ chàng, biệt phái từ các đội. Có ba anh giả ba sơn nữ Phà Ca mang gùi, đeo vòng, lắc lư múa theo bài Tiếng chày trên sóc Bom Bo, trông xa, và vì vắng đàn bà lâu ngày, thấy cũng hấp dẫn không thua Thanh Nga. Có tổ cải lương với đầy đủ vai hề, đào thương, kép độc. Ðội được lệnh trình diễn giúp vui một phái đoàn thanh tra trung ương. Cha Cao cho Nguyễn vào ban hợp xướng, bè alto ngang phè phè. Ông khuyến khích các ca viên:- Ăn sắn và hút thuốc lào mà hát như vậy là được rồi!Một hôm, trại phó đến thăm. Ban hát đang tập một bài có nhắc tên Hồ Chí Minh và hang Pắc Pó, hay ao sen, ao cá gì đó, do cha Cao đặt hòa âm thành bốn bè, mỗi bè tập riêng. Hắn chăm chú nghe, vui vẻ, rồi bỗng nhăn mặt, gọi cha Cao lại, giận dữ quát:- Anh bôi bác Cách mạng đấy phỏng? Tên Bác kính yêu như thế mà... mà anh dám đổi nà Hô, Hố, Hộ, Hổ như thế thì... thì nà anh nếu náo thật!Cha phân trần, nhưng hắn gạt đi:- Bỏ, bỏ tất! Bè với không bè!Lần khác, hắn đến xem tập kịch. Hắn lại nhăn mặt, lại gọi cha Cao, chỉ tay về phía ông trung tá nhà văn trọng tuổi, bút danh Ký giả Lô Răng, đóng vai một cán bộ huyện. Nguyễn đứng gần cha Cao, nghe hắn bảo:- Thay anh kia cho tôi! Cán bộ cách mạng chúng tôi không bao giờ đi chân thọt! Anh có ý đồ phải không?Cha Cao ngẩn người ra, cứng họng. Bấy giờ, Nguyễn mới nhìn kỹ ông kịch sĩ xui xẻo. Quả thật, chân bước của ông hơi khập khiễng.Văn nghệ xong, đội giải tán trong sự tiếc nuối của các nghệ sĩ bất đắc dĩ. Cha Cao đi trồng mía. Nguyễn bị hoàn trả về đội xây, đánh vữa trở lại với Ðào văn Bảnh..Bất ngờ, lại bị “biên chế” nữa. Các sĩ quan cấp tá và tuyên úy một sáng sớm phải lên đường di chuyển về một nơi nào không rõ. Nguyễn ngồi trong hàng nhìn theo bóng Ðại tá Quỳnh và bạn bè, có cả Ðại đức Long và cha Cao, lầm lũi bước lên xe, mang theo những túi tư trang gọn nhẹ, như chính cuộc đời trống vắng, buồn tênh của đám tù nhân. Lần đó, chàng nghĩ khó còn gặp lại nhau, và tự dưng lòng nao nao như mất người thân thuộc.Năm sau, đội Xây Dựng được trở về K1. Mỗi tối, khi cửa buồng giam đóng lại, từng nhóm tụm năm tụm ba nhỏ to nói chuyện, đánh cờ, uống nước trà, hoặc bàn luận thời cuộc từ những tin tức hiếm hoi, thường phóng đại, do các bà thăm nuôi cung cấp. Thời gian này, Nguyễn được nhóm thân hữu đặt biệt danh "bình luận gia tin tức quốc tế". Một cách thành thật, tự tin, chàng phân tích theo chiều hướng có lợi, hợp với ước vọng của mọi người, trong khi thực tế có lẽ khác xa. Bọn cán bộ hình như về sau cũng muốn thả lỏng, miễn đừng ai phá phách, trốn trại, trốn lao động, hoặc công khai "phản động". Những giàn ăng-ten bị bứng hết, và anh em có thể phát biểu vung vít, thoải mái, trong nội bộ từng nhóm. Bảy năm rồi còn gì! Ðau khổ đã thành thói quen. Nhớ vợ thương con cũng đã chìm sâu vào tận cuối hồn. Không còn những anh đêm khuya khóc rưng rức trong chăn của thời gian đầu xa gia đình êm ấm. Trái tim hóa thành đá hết rồi. Giờ đây, phản kháng, dưới hình thức nào đó, bùng lên từ sự chịu đựng câm nín dồn ép qua nhiều năm. Có người khai bệnh nghỉ lao động dài dài. Hoặc giả khùng chửi xéo chế độ. Hoặc còn đập cả vệ binh hỗn láo để rồi, dĩ nhiên, bị biệt giam và hành hạ dã man. Nguyễn bắt đầu để râu, làm tên quản giáo Vinh –nói ngọng, chữ tr thành t, chữ l thành n– rất ngứa mắt, bắt kiểm điểm, nên thấy hắn từ xa chàng lánh mặt.Trong buồng giam có một anh chuyên "chiếu phim", tức kể chuyện, thật hay và duyên dáng. Tối đến, tù nhân bu quanh, thay nhau rót trà, mời kẹo, đấm lưng cho anh ta, để được nghe kể đủ thứ chuyện, từ Cô gái Ðồ Long đếnLa valse dans l’ombre qua Thần điêu đại hiệp. Một anh nữa, Trung úy Phạm Hữu Lý, xuất thân trường Ðại học CTCT, hát nhạc vàng rất mùi. Suốt một đêm giao thừa, Lý ca một hơi hơn một chục bản tình lâm ly, như Chiều mưa biên giới anh đi về đâu hoặc Xuân này nếu con không về, chắc mẹ buồn lắm, làm ai nấy mắt cay sè, muốn khóc. Bọn vệ binh gác cửa, đa số là thanh niên mới lớn, nghệt cổ ra nghe, thậm chí còn bảo "anh lào đó hát nại" vài câu....Ðại tá Nguyễn Quốc Quỳnh và hầu hết các nhân vật trong "truyện" này kẻ trước người sau đã đến bến bờ tự do. Từ Rose City, thỉnh thoảng tôi gọi ông hay viết thư thăm hỏi. Đại úy Hoàng Bá Linh, Thiếu tá Lê Ân, Trung tá Đào Văn Bảnh đã mất sau khi ra khỏi tù, trong những hoàn cảnh khác nhau. Phi công Nguyễn Hữu Trí không rõ trôi dạt phương nào, cũng như cha Trần Thanh Cao và thầy Nguyễn Long.
Mẹ tôi, đã ngoài tám mươi, vẫn còn nơi quê nhà, ở với Huyền Trân và chồng con. Ba tôi mất, không được gặp mặt. Những người em "cải tạo" về, lần lượt định cư tại các nước, trừ Kha chết trong tù. Bội Trân ở vậy, không yêu ai nữa, đúng theo lời thề hứa, trước khi trở thành một nữ tu dòng kín, giữa tuổi thanh xuân, làm nhiều con tim tan nát. Lệ Ngà yên ngủ giấc ngàn thu, sau một cơn bạo bệnh, trả hết cho dương gian những si mê và tình yêu mật đắng. Còn tôi, sau bao năm vật vã để vá lại mảnh đời rách mướp, đã bắt tay được với hạnh phúc –nhỏ nhoi so với nỗi đau ngút ngàn phải trải qua. Nhưng hồn vẫn chơi vơi theo kỷ niệm chỉ chực òa vỡ mỗi lần ở đầu dây tiếng mẹ và em từ bên trời cũ, hoặc Ðại tá Quỳnh từ Florida, vang lên.
Nữ tu Marie-Amélie Bội Trân nhắc Nguyễn nên tha thứ, tha thứ, tha thứ, và nói tất cả chỉ là thử thách Chúa đã gửi đến. Nhưng đối với bạo quyền Việt Cộng, chàng nói, làm sao tha thứ cho được? Ðó là một bọn người gian manh, độc tài, chuyên chế, đã dìm cả đất nước vào cảnh lầm than, đói khổ, qua ba mươi năm, và bây giờ lại còn đốn mạt dâng đất, dâng biển cho quan thầy Trung Cộng, mối họa muôn đời của dân tộc. Hận thù, Nguyễn sẽ không bao giờ quên, mặc ai phỉnh gạt, kêu gào hòa giải hòa hợp. Vì chàng vẫn tin –theo như lời viên đại tướng tổng tài La Mã nói với Ben-Hur lúc còn là một tù nhân chèo thuyền (galérien) trong phim cùng tên, Ben-Hur– rằng hận thù cho sức mạnh, làm ta sống còn //
■ Portland, cho Mùa Quốc Hận 2013
Kim Thanh
Tuesday, May 6, 2014
KIM HÀ * VƯỢT BIÊN ĐƯỜNG BỘ
Sự Nguy Hiểm Khi Vượt Biên Tìm Tự Do Bằng Đường Bộ - Kim Hà
Wednesday, March 26, 2008
Hung Nguyen
1 comment
Trong cuộc hành trình tìm tự do, người tị nạn đường bộ đã chịu đựng trăm cay ngàn đắng. Họ bị bỏ
rơi để rồi chết tức tưởi, không một nấm mồ chôn thân. Họ đã bị giam cầm,
hành hung, tra tấn, đánh đập, rồi bị bọn lính thổ phỉ cướp của dọc
đường hay các lực lượng lính người Cambodia dùng bạo lực để cưỡng hiếp
tập thể, và bị giết chết một cách oan ức và dã man tại vùng lãnh thổ xứ
Cambodia và nơi các trại tị nạn nơi vùng biên giới Thái-Cambodia.
Khmer Đỏ hảm hiếp, giết dân tị nạn Việt Nam cách man rợ |
Kể từ năm 1979, khi phong trào trốn qua biên giới Cambodia để buôn lậu
rất thịnh hành thì hàng ngàn người tị nạn Việt nam đã trốn đi thoát để
đến tị nạn tại vùng biên giới Thái và Cambodia. Nhưng cũng từ đấy, hàng
ngàn thảm cảnh bi đát đã diễn ra từng ngày. Những câu chuyện nói về
người Việt Nam chết trên đường tìm tự do đã, đang và sẽ tạo thành một
giai đoạn lịch sử bi hùng và thống hận cho lịch sử và văn hoá thời đại
của thế giới vàViệt nam sau này.
Trong ba mươi năm nay, thảm cảnh này đã được nói đến rất nhiều bằng sách báo, truyền thanh, truyền hình, bằng lời thư thống thiết. Tuy vậy, tệ nạn này tiếp diễn hàng ngày bởi các lực lượng Khmer Đỏ (Pol Pốt), lực lượng kháng chiến chống chính quyền Cộng sản Việt nam, thường được gọi là Para của các lãnh tụ Sihanouk, Son Sann hay Lon Nol.
Trong ba mươi năm nay, thảm cảnh này đã được nói đến rất nhiều bằng sách báo, truyền thanh, truyền hình, bằng lời thư thống thiết. Tuy vậy, tệ nạn này tiếp diễn hàng ngày bởi các lực lượng Khmer Đỏ (Pol Pốt), lực lượng kháng chiến chống chính quyền Cộng sản Việt nam, thường được gọi là Para của các lãnh tụ Sihanouk, Son Sann hay Lon Nol.
Theo lời kể của các nhân chứng Việt nam còn sống sót tại Mỹ quốc thì người tị nạn đường bộ bị đối xử tàn tệ hơn những súc vật. Họ bị giết chết bằng đủ mọi cách dã man và mọi rợ:
Có người bị lính Para hay Pol Pot dùng búa đập vào đầu đến lòi óc. Có người bị chúng chặt đầu bằng ngọn mác hay chiếc rìu chặt củi. Người khác bị chúng buộc leo lên cây cao để rồi cả bọn chúng xúm lại rung cây cho nạn nhân rớt chết. Người nào sợ chạy trốn thì bị bọn đồ tể ấy lấy dao mổ bụng rồi móc buồng gan ra sào nấu để chúng ăn. Bộ mật của nạn nhân thì bị treo trên hàng rào gai thép để làm gương cho những người còn muốn chạy trốn.
Rất nhiều người khác thì bị bắn giết, thân xác họ bị vùi giập ở những hố cạn đào vội vàng ở một góc rừng hoang. Những người khác thì bị chúng dùng roi và gậy đánh cho đến chết chỉ vì đã chậm chân vác gạo đi theo sau mọi người.
Có những người thanh niên bị chúng bắt buộc phải đi gỡ mìn và đào hầm chông cho chúng. Nếu ai không có kinh nghiệm gỡ mìn thì bị mìn nổ chết banh xác. Nếu ai may mắn gỡ được một lần thì những lần sau thể nào cũng bị chết không toàn thân. Có người vì quá sợ nên sau đó đâm ra cuồng trí và hoá điên dại.
Nếu nạn nhân là phụ nữ thì còn bị nhiều tai họa hơn. Họ thường bị hãm hiếp tập thể bởi những quân lính Para hay Pol Pot mà tuổi chúng chỉ mới độ chừng mười ba hay mười bốn tuổi mà thôi. Những kẻ mặt người lòng thú này đã coi thân xác phụ nữ như một món trò chơi để giúp chúng tiêu khiển cho lấp đầy những giây phút thiếu vắng giống cái ở trong rừng hoang vu biên giới.
Trước khi hãm hiếp, chúng thường làm thủ tục chọc tức như mèo vờn chuột trước khi ăn thịt con mồi ngon lành ấy. Có cô gái bị chúng dùng súng nhắm bắn sớt qua hai tai để cho nạn nhân rú lên vì sợ hãi. Hễ nạn nhân càng khóc la thì bọn chúng càng cười sằng sặc và khả ố. Sau đó, chúng đè nạn nhân trên đất rồi căng hai tay và hai chân nạn nhân ra, chúng cấu xé, cắn nát rồi mới hành lạc tập thể. Chưa hết, chúng còn dùng roi đánh vào nhũ hoa, hay lấy đèn pin, vỏ chai Coca Cola hoặc báng súng để nhét một cách hung bạo vào cửa mình của nạn nhân.
Có những trường hợp vợ chồng cùng đi vượt biên với nhau. Trong khi bọn lính Para hay Pol Pot dùng bạo lực để cưỡng hiếp người vợ thì chúng hạ nhục người chồng bằng cách bắt ông ta quỳ xuống. Rồi sau đó, chúng trói gô ông lại, rồi để một cái mác nơi ót của ông ta để cảnh cáo cho ông biết là chúng sẽ chặt đầu ông nếu ông ta kháng cự hay chống đối.
Thế rồi, khoảng hai chục tên lính người Cambodia đã đua nhau hãm hiếp bà vợ và cười đùa một cách khả ố và bỉ ổi. Người chồng phải chứng kiến những tiếng la hét đau đớn của vợ mình cùng với cảnh vợ bị làm nhục. Nếu ông lên tiếng chửi rủa hay thóa mạ chúng thì chúng sẽ giết chết ông bằng mác hay bằng súng ngay.
Lại còn những trường hợp có những người phụ nữ đẹp, sau khi bị hãm hiếp còn bị giữ lại ở trong các làng Pol Pot hay trại Para để làm vợ hờ cho một trong những tên chỉ huy. Cô sẽ không bao giờ đến được bến bờ tự do và suốt đời làm nô lệ cho lãnh chúa của cô.
Có những cô khác kém may mắn hơn thì bị giam cầm và bị ”thẩm vấn” vào những buổi tối với hàng chục tên lính dã man. Chúng hãm hiếp cô liên tiếp cho đến khi cô kiệt lực mà bịnh rồi chết.
Những thanh niên khỏe mạnh và cường tráng thì bị giam giữ tại các làng
và các khu trại để đi làm lao công tạp dịch cho chúng, chẳng hạn như
phải đào hầm chống xe tăng, gỡ mìn, làm hố chông, đào cầu tiêu công cộng
hay phải gỡ mìn dù rằng họ chẳng hề có kinh nghiệm gì cả. Các cậu phải
đi tải gạo, họ phải khiêng từng bao gạo nặng và đi thật xa dưới cái nắng
thiêu cháy của vùng nhiệt đới.
Nói chung, dù là bọn lính Pol Pot hay bọn lính Para thì chúng đều tỏ ra dã man, độc ác và vô nhân tạo như nhau. Chúng làm nhục người phụ nữ Việt Nam và xem họ như thú vật. Đa số phụ nữ Việt khi đã quyết định đi bằng đường bộ là họ đã thấy rõ và chấp nhận chuyện nguy hiểm trên đường đi rồi. Nhiều phụ nữ khôn khéo thì khi bị hãm hiếp, họ làm bộ thích một trong đám lính man rợ đó để được yên thân, khỏi bị cả bọn hành hạ nữa. Còn những người khác không biết thì bị tập thể hành hạ, có khi họ không còn sức để đi nổi nữa.
Lối hành hạ của Pol Pot và Para đều như nhau: bắt trói thúc ké nạn nhân, lên súng dọa bắn chết, bắt nạn nhân cởi quần áo rồi chổng mông lên cao để bọn chúng thò tay móc hậu môn và chỗ kín. Tay chúng kịch cợm nên khi chúng móc mạnh thì nạn nhân đau vô cùng.
Các người tị nạn bị xét đến cả trăm lần, bất cứ một đứa con nít Pol Pot hay Para mất dạy nào cũng có thể làm phiền mình được. Rồi sau đó, chúng mò xét cả quần áo, giày dép và các đồ vật dụng khác để moi vàng.
Nói chung, dù là bọn lính Pol Pot hay bọn lính Para thì chúng đều tỏ ra dã man, độc ác và vô nhân tạo như nhau. Chúng làm nhục người phụ nữ Việt Nam và xem họ như thú vật. Đa số phụ nữ Việt khi đã quyết định đi bằng đường bộ là họ đã thấy rõ và chấp nhận chuyện nguy hiểm trên đường đi rồi. Nhiều phụ nữ khôn khéo thì khi bị hãm hiếp, họ làm bộ thích một trong đám lính man rợ đó để được yên thân, khỏi bị cả bọn hành hạ nữa. Còn những người khác không biết thì bị tập thể hành hạ, có khi họ không còn sức để đi nổi nữa.
Lối hành hạ của Pol Pot và Para đều như nhau: bắt trói thúc ké nạn nhân, lên súng dọa bắn chết, bắt nạn nhân cởi quần áo rồi chổng mông lên cao để bọn chúng thò tay móc hậu môn và chỗ kín. Tay chúng kịch cợm nên khi chúng móc mạnh thì nạn nhân đau vô cùng.
Các người tị nạn bị xét đến cả trăm lần, bất cứ một đứa con nít Pol Pot hay Para mất dạy nào cũng có thể làm phiền mình được. Rồi sau đó, chúng mò xét cả quần áo, giày dép và các đồ vật dụng khác để moi vàng.
Cái dã man nhất của bọn Pol Pot là chúng bắt dân tị nạn Việt làm lao động khổ sai cho chúng. Về chế độ ăn uống thì chúng cho dân tị nạn ăn không đủ nên họ phải nấu cháo mà ăn cho đỡ đói.
Tại khu trại của Pol Pot có một vũng nước nhỏ, đồng bà otị nạn phải ăn uống, tắm giặt, nấu cơm cũng từ nước ở vũng lầy đó. Vào những ngày mưa thì nước từ các vùng có phân người cũng chảy luôn xuống vũng nước ấy. Nhưng người tị nạn vẫn phải uống nước ấy như thường vì không còn lựa chọn nào khác.
Những thảm trạng vừa kể trên đã làm đau lòng những người còn có lòng nhân đạo. Với tích cách là một người tị nạn đường bộ vào năm 1980, vừa là nạn nhân vừa là người chứng, chúng tôi đã không ngừng vận động để đưa tiếng kêu cứu của đồng bào tị nạn Việt nam đến thế giới tự do.
Trong suốt sáu năm dài (1980-1986), chúng tôi đã tìm kiếm, phỏng vấn và ghi lại những câu chuyện thương tâm của các người tị nạn Việt Nam, ở các trại tị nạn đường bộ khác nhau. Loạt bài này đã được đăng trên báo Tin Việt vào những năm 1984,1985 và 1986.
Viết xong vào năm 1986, sau đó tôi lại nhận được hàng trăm lá thư viết tay của dồng bào từ một số trại tị nạn gửi về. Từ đấy, tôi vẫn mong mỏi có dịp được xuất bản tác phẩm này vì nó là một chứng liệu hùng hồn nói lên nỗi cơ cực và niềm đau khổ của người tị nạn Việt nam. Họ đã hy sinh tất cả để đổi lấy tự do. Họ ra đi vì muốn tìm lại quyền làm người, không phải vì lý do kinh tế.
Ước vọng lớn nhất của chúng tôi là tác phẩm này có thể giúp cho các thế hệ con cháu hay những người ngoại quốc hiểu thật rõ về một giai đoạn lịch sử đặc biệt không tiền khoáng hậu của người Việt chúng ta trên đường đi tìm kiếm tự do và nhân quyền.
Trong cộng đồng của chúng ta, đã có nhiều tài liệu viết về thảm trạng
của người tị nạn đường thủy, nhưng rất ít tài liệu viết về thảm trạng
của người tị nạn đường bộ. Mong rằng những cố gắng của chúng tôi sẽ để
lại một ít tài liệu lịch sử về người tị nạn đường bộ cho ngày sau.
Cuối tháng sáu 1996,việc cưỡng bách hồi hương đã kết thúc với việc Cao ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) rút đi và cắt giảm toàn bộ sự giúp đỡ bằng vật chất và tinh thần. Chúng ta đã thấy nhiều người tị nạn can đảm mổ bụng tự thiêu, thắt cổ hay tự tử để phản đối sự đối xử tàn bạo và vô nhân đạo của một số các quốc gia vùng Đông Nam Á. Những cái chết bi thương nhưng oai hùng ấy là những bằng chứng hùng hồn cho thế giới thấy người Việt thà chết hơn là sống mất tự do.
Trong quá khứ, đã có hàng chục ngàn đồng bào bị ép lên máy bay hay tàu thủy để trở về cố hương cho dù tính mạng của họ có thể bị đe dọa. Thế giới đã ngoảnh mặt đi dù rằng các cộng đồng người Việt trên khắp thế giới đã tích cực tranh đấu chống lệnh cưỡng bách hồi hương. Người Việt Nam đã biểu tình đòi quyền sống cho đồng bào mình tại các tòa Đại sứ của các quốc gia liên hệ. Người Việt đã dến tòa Bạch Ốc để kêu cứu cho đồng bào mình.
Việc làm tốt đẹp của người Việt trên thế giới đã có kết qủa rực rỡ. Chính phủ và Giáo hội Thiên Chúa giáo Phi Luật Tân đã quyết định cho khoảng hai ngàn đồng bào tị nạn Việt nam được ở lại sinh sống tại đất nước của họ. Đây là một thắng lợi to lớn, không những cho người tị nạn mà còn cho tất cả người Việt ở khắp nơi trên thế giới. Đoàn kết nhất trí, kiên trì tranh đấu, chúng ta đã thắng.
Đối với người ngoại cuộc, chúng ta đã chứng tỏ sức mạnh của sự đồng tâm và lòng nhân ái đối với đồng bào. Ngoài ra, việc làm tích cực của chúng ta còn mang một tầm vóc quan trọng khác: tạo dựng một tương lai tươi sáng cho dân tộc qua việc nuôi dưỡng những thiếu nhi trong số hai ngàn người tị nạn ấy.
Cho dù chương trình cứu giúp người tị nạn Việt nam không còn nữa nhưng vấn đề tị nạn sẽ không bao giờ chấm dứt. Nó đã bắt đầu từ ngàn xưa, tại mọi quốc gia. Điển hình là Thiên Chúa khi vừa lọt lòng mẹ đã là một người tị nạn đường bộ khi cha mẹ Ngài phải chạy trốn sự truy nã của một ông vua ích kỷ và độc ác. Những người hành hương (Pilgrims) tiên phong từ Anh quốc đến Mỹ quốc trên chiếc tàu Mayflower trong mấy thế kỷ trước đã là những người tị nạn đường thủy.
Trong ba mươi năm gần đây, ngoài những người tị nạn người Việt nam, Lào và Cambodia còn có người tị nạn đến từ lục địa Trung quốc,từ Cuba, Kuwait, Haiti, Rwanda và nhiều nơi khác trên thế giới. Vấn đề tị nạn chỉ chấm dứt được khi nào xã hội hết bất công, lòng tham bị diệt trừ, quyền làm người được tôn trọng, lòng nhân ái và sự công bằng được thể hiện từ gia đình dến quốc gia và thế giới.
Hai mươi năm sau khi hoàn tất thì tác phẩm Vượt Biên Đường Bộ Tìm Tự Do mới được ấn hành và ra mắt quý độc giả (1986-2006). Xin quý vị cùng chúng tôi thắp nén hương lòng cầu xin ơn siêu thoát cho các nạn nhân bất hạnh, và cho dân tộc Việt Nam của chúng ta được bình an.
Kim Hà
Cuối tháng sáu 1996,việc cưỡng bách hồi hương đã kết thúc với việc Cao ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) rút đi và cắt giảm toàn bộ sự giúp đỡ bằng vật chất và tinh thần. Chúng ta đã thấy nhiều người tị nạn can đảm mổ bụng tự thiêu, thắt cổ hay tự tử để phản đối sự đối xử tàn bạo và vô nhân đạo của một số các quốc gia vùng Đông Nam Á. Những cái chết bi thương nhưng oai hùng ấy là những bằng chứng hùng hồn cho thế giới thấy người Việt thà chết hơn là sống mất tự do.
Trong quá khứ, đã có hàng chục ngàn đồng bào bị ép lên máy bay hay tàu thủy để trở về cố hương cho dù tính mạng của họ có thể bị đe dọa. Thế giới đã ngoảnh mặt đi dù rằng các cộng đồng người Việt trên khắp thế giới đã tích cực tranh đấu chống lệnh cưỡng bách hồi hương. Người Việt Nam đã biểu tình đòi quyền sống cho đồng bào mình tại các tòa Đại sứ của các quốc gia liên hệ. Người Việt đã dến tòa Bạch Ốc để kêu cứu cho đồng bào mình.
Việc làm tốt đẹp của người Việt trên thế giới đã có kết qủa rực rỡ. Chính phủ và Giáo hội Thiên Chúa giáo Phi Luật Tân đã quyết định cho khoảng hai ngàn đồng bào tị nạn Việt nam được ở lại sinh sống tại đất nước của họ. Đây là một thắng lợi to lớn, không những cho người tị nạn mà còn cho tất cả người Việt ở khắp nơi trên thế giới. Đoàn kết nhất trí, kiên trì tranh đấu, chúng ta đã thắng.
Đối với người ngoại cuộc, chúng ta đã chứng tỏ sức mạnh của sự đồng tâm và lòng nhân ái đối với đồng bào. Ngoài ra, việc làm tích cực của chúng ta còn mang một tầm vóc quan trọng khác: tạo dựng một tương lai tươi sáng cho dân tộc qua việc nuôi dưỡng những thiếu nhi trong số hai ngàn người tị nạn ấy.
Cho dù chương trình cứu giúp người tị nạn Việt nam không còn nữa nhưng vấn đề tị nạn sẽ không bao giờ chấm dứt. Nó đã bắt đầu từ ngàn xưa, tại mọi quốc gia. Điển hình là Thiên Chúa khi vừa lọt lòng mẹ đã là một người tị nạn đường bộ khi cha mẹ Ngài phải chạy trốn sự truy nã của một ông vua ích kỷ và độc ác. Những người hành hương (Pilgrims) tiên phong từ Anh quốc đến Mỹ quốc trên chiếc tàu Mayflower trong mấy thế kỷ trước đã là những người tị nạn đường thủy.
Trong ba mươi năm gần đây, ngoài những người tị nạn người Việt nam, Lào và Cambodia còn có người tị nạn đến từ lục địa Trung quốc,từ Cuba, Kuwait, Haiti, Rwanda và nhiều nơi khác trên thế giới. Vấn đề tị nạn chỉ chấm dứt được khi nào xã hội hết bất công, lòng tham bị diệt trừ, quyền làm người được tôn trọng, lòng nhân ái và sự công bằng được thể hiện từ gia đình dến quốc gia và thế giới.
Hai mươi năm sau khi hoàn tất thì tác phẩm Vượt Biên Đường Bộ Tìm Tự Do mới được ấn hành và ra mắt quý độc giả (1986-2006). Xin quý vị cùng chúng tôi thắp nén hương lòng cầu xin ơn siêu thoát cho các nạn nhân bất hạnh, và cho dân tộc Việt Nam của chúng ta được bình an.
Kim Hà
BÙI BẢO TRÚC * THẰNG BÁN TƠ
Thằng bán tơ
kia giở giói ra
Bùi Bảo Trúc
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen
Lập tức ý niệm tài mệnh tương đố, con Tạo đánh ghen với má hồng biến mất không sao tìm lại được nữa.
Ở câu “Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung” thì đại danh từ “nghỉ” được thay bằng đại danh từ “ông” cho dễ hiểu và mới hơn, hay hơn Nguyễn Du!
Hai chữ “mạch tương” mà Nguyễn Du dùng để đưa một điển cũ vào hoàn cảnh của Kiều thì bị bỏ hẳn
Vâng lời khuyên nhủ thấp cao
Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch tương,
để trở thành:
Chưa xong điều nghĩ đã chào vừng dương
nghĩa là đang suy nghĩ thì trời đã... sáng. Không còn thấy nước mắt của Kiều đâu nữa.
Ðoạn mô tả nấm mồ của Ðạm Tiên nguyên là “sè sè nắm đất bên đường” với hai chữ “sè sè” được dùng để tả ngôi mộ thấp, không được đắp cao lên, nói lên cảnh đìu hiu, không ai chăm sóc của ngôi mộ vô chủ thì bị đổi thành”se se” và giải thích đó là nấm mồ mới đắp, đất hơi se se, chưa hồi phục hẳn.
Trong khi đó, Ðạm Tiên chết đã lâu như lời dẫn của Vương Quan: “Ðạm Tiên nàng ấy XƯA là ca nhi.” Nấm mồ ấy đã “trải bao thỏ lặn ác tà” thì mộ mới đắp lúc nào? Kiều làm thơ tặng Ðạm Tiên thì bị Thúy Vân chê là “khéo dư nước mắt khóc người đời xưa.”
Hiểu bố lếu bố láo như thế rồi sửa thơ của Tiên Ðiền.
Câu 280 hai chữ “Lãm Thúy” rất đẹp bị đổi thành “kiểu dáng.” Ðiển Lam Kiều trong câu 266 bị bỏ hẳn không nhắc tới và thay bằng “đánh liều” nên từ nguyên bản “Xăm xăm tìm nẻo Lam Kiều lần sang” thành “xăm xăm tìm nẻo đánh liều lần sang.”
Hai chữ Hợp Phố trong điển châu về Hợp Phố bị bỏ và thay bằng “chủ cũ.”
Câu “Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này” bị sửa thành “Xưa nay hiếm thấy tài đâu thế này.”
Câu “Lứa đôi ai dễ đẹp tày Thôi, Trương” là để nhắc tới Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy thì bị đổi thành “Lứa đôi từng thấy những ngày trái ngang.” Nét bác học điển cố của câu thơ bị loại hẳn.
Câu “Ấy là Hồ Ðiệp hay là Trang Sinh” bị đổi thành “Ấy là trong mộng hay là thực sinh.” Thực sinh là sinh cái gì đây?
Ðiển “trên Bộc trong dâu” bị đổi thành “trên cỏ dưới dâu.”
Câu “nước non luống những lắng tai Chung Kỳ” trở thành “nước non luống những lắng tai ngưỡng vì.” Bá Nha và Tử Kỳ bị đuổi khỏi đoạn dạo khúc cho tiếng đàn rất đẹp của Kiều.
Câu “Thời trân thức thức sẵn bày” bị sửa thành “Quả ngon thức thức xách tay” để thành món ... “to go” cho tiện...
Hai câu: “Trộm nghe thơm nức hương lân / Một nền Ðồng Tước khóa xuân hai Kiều” bị sửa cho dễ hiểu (?) hơn để thành “Buồng đào nơi tạm khóa xuân hai Kiều” cho hai Kiều ngủ bót công an chơi.
Mấy chữ rất đắt của Nguyễn Du cũng bị mang ra dung tục hóa đi rất nhiều như trong câu “Người về chiếc bóng năm canh” bị đổi thành “Người về đơn bóng năm canh.” Rồi hễ cứ chỗ nào có chữ “chiếc” để nói về sự đơn lẻ, cô quạnh là nó thay ngay chữ “chiếc” bằng một chữ khác ngay.
Câu “Trải qua một cuộc bể dâu” là một tóm gọn cả cuộc đời lưu lạc bất hạnh của Kiều thì bị sửa thành “Trải qua MỖI cuộc bể dâu” vì nó lý luận rằng có nhiều cuộc bể dâu nên nói “một” là không đúng. Phải sửa như nó, Ðỗ Minh Xuân, mới hay và đúng.
Thế nên, có mới hơn, có hay hơn, có dễ hiểu hơn thì người ta có thể thấy ngay khi đọc những chữ mà Ðỗ Minh Xuân đã dùng để thay cho những chữ trong nguyên bản của Nguyễn Du.
Khốn khổ là một thằng dốt dám hỗn hào sửa chữ của nhà thơ lớn nhất của văn học Việt Nam rồi lại được một đứa dốt và ngu không kém lôi ra hít hà, khen lấy khen để.
Chuyện học hành của thế hệ học sinh sắp tới sẽ như thế nào với cuốn sách được coi là đóng góp “đáng kể vào việc nghiên cưu Truyện Kiều.”
Ðường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh là thế.
Bố khỉ! Ðúng như Nguyễn Khuyến đã viết trong một bài thơ vịnh Kiều:
Thằng bán tơ kia giở giói ra
Làm cho bận đến cụ Viên già...
Chỉ khác thằng bán tơ là một thằng ranh con dốt nát và mất dạy. Cụ Viên thì là nhà thơ Tiên Ðiền mà thôi.
Bùi Bảo Trúc
Cách đây mấy năm, trong cuộc thi Ai Là Triệu Phú của đài truyền
hình VTV3 Hà Nội, một giảng viên trường Ðại Học Sư Phạm, cô Nguyễn Thị Tâm 27
tuổi, khi trả lời một câu hỏi liên quan đến văn học Việt Nam, đã cho biết cô
chưa hề nghe nói tới Tự Lực Văn Ðoàn bao giờ và nói rằng theo cô, có thể đó là
tên một gánh cải lương mặc dù có hai chữ văn đoàn ở cuối. Rồi cô giảng viên đại
học này khẳng định Nhất Linh là một nghệ sĩ cải lương, còn các ông Hoàng Ðạo,
Thạch Lam và Khái Hưng thì cô không rõ có phải là nghệ sĩ cải lương như Nhất
Linh hay không.
Xuân
Diệu, Thế Lữ, Nhất Linh, Khái Hưng (thời Tự Lực Văn Đoàn)
Giám khảo cuộc thi cho cô được dùng điện thoại cầu cứu một đồng nghiệp mà cô nói là người đọc rất nhiều sách, kiến thức rất rộng để giúp cô trả lời câu hỏi. Nhưng người đồng nghiệp này (cùng dạy ở đại học với cô) cũng đáp sai tất cả các câu hỏi về Tự Lực Văn Ðoàn và nói Hoàng Ðạo không phải là anh em với Nhất Linh và Thạch Lam.
Năm ngoái, một cô giáo tên là Hà Thị Thu Thủy dậy ở trung học Lômônôxốp thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội thì đã cùng sai lầm với học sinh khi học sinh của cô viết trong bài luận văn rằng “canh gà Thọ Xương” trong một bài ca dao rằng “canh gà” là một món ăn mà em rất muốn được cha cho đi ăn thử một lần. Cô giáo Thủy cho em học sinh 8 điểm và không sửa một chữ nào của bài luận văn. Như thế là cô hoàn toàn đồng ý với chi tiết em học sinh viết trong bài luận. Hồ sơ cho biết cô tốt nghiệp khoa văn của trường Ðại Học Sư Phạm Hà Nội và vừa hoàn tất luận văn thạc sĩ với số điểm 10/10. Sau khi bài luận của em học sinh được cô cho điểm cao được đưa lên báo, cô đã xin nghỉ việc và vào một bệnh viện tâm trí để nghỉ ngơi.
Chi tiết đáng nói nhất trong hai vụ này là cô giáo Thủy đã xin nghỉ dậy còn cô Nguyễn thị Tâm tại cuộc thi của đài truyền hình với những câu trả lời về Tự Lực Văn Ðoàn chỉ bị loại khỏi cuộc thi.
Ông Tú Vị Xuyên mà còn sống thế nào ông chẳng hét ầm lên rằng “... học trò chúng nói tội gì thế / lỡ để hai cô túm được đầu...”
Hai cô giáo dậy văn mà kiến thức về văn học Việt Nam như thế thì dốt thật. Nói câu này thế nào chẳng có người trách rằng lại đem trình độ của các nhà giáo thời Việt Nam Cộng Hòa ra để chê các nhà giáo của cái nước Việt Nam độc lập tự do hạnh phúc ngày nay.
Nhưng không nói như thế không được, vì những thứ nhà giáo ngu dốt như vậy thì không hề thiếu ở Việt Nam ngày nay. Dẫu có khiêm tốn cách mấy đi chăng nữa thì cũng phải nói ngay rằng chúng tôi hồi còn đi học ở trung học không thể dốt tàn dốt tệ như thế được. Trong giờ kim văn lớp đầu tiên của bậc trung học, lớp đệ thất, chúng tôi đã đọc Anh Phải Sống của Khái Hưng, núi Văn Dú của Thế Lữ, mấy đoạn trích trong Ðoạn Tuyệt của Nhất Linh, một hai bài viết trong Bùn Lầy Nước Ðọng, Con Ðường Sáng của Hoàng Ðạo, và Cô Hàng Xén, Nhà Mẹ Lê của Thạch Lam nên nếu bị hỏi về Tự Lực Văn Ðoàn, chúng tôi ... giỏi hơn cô Nguyễn Thị Tâm đang dạy ở Ðại Học Sư Phạm rất nhiều nhiều.
Mới đây ở Việt Nam người ta đã nói về những thay đổi cần có cho chương trình giáo dục Việt Nam. Tôi không biết những đổi thay đó sẽ như thế nào nhưng biết là trong đó có những thay đổi trong lãnh vực sách giáo khoa.
Những thay đổi, sửa sang đó sẽ như thế nào? Thí dụ trong lãnh vực văn học như kim văn và cổ văn ? Thay đổi ra sao để cải tiến trình độ của các nhà giáo để tránh xảy ra những chuyện ngu dốt như người ta đã thấy?
Câu hỏi này làm nhiều người nhớ tới một cuốn sách nhan đề Truyện Kiều Nguyễn Du với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng do nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin in năm 2012. Cuốn sách được nói là của Ðỗ Minh Xuân, một kỹ sư không rõ trong lãnh vực gì. Một người giới thiệu cho biết ông kỹ sư này đã nghiên cứu rất kỹ Truyện Kiều và các tài liệu liên quan đến tác phẩm của Nguyễn Du để đưa ra khoảng một ngàn sửa chữa, dẹp bỏ hẳn những từ ngữ khó hiểu lấy từ chữ Hán và thay thế bằng ngôn ngữ thuần Việt trong Truyện Kiều.
Ðỗ Minh Xuân cho rằng những thay đổi của ông sẽ giúp cho Truyện Kiều của Nguyễn Du hay hơn, dễ hiểu hơn. Ðể làm được việc đó, Ðỗ Minh Xuân đã sửa và thay thế hơn một ngàn chữ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du bằng những chữ mà ông cho là dễ hiểu hơn, thuần Việt hơn là nguyên tác của Nguyễn Du.
Truyện Kiều có 3.524 câu thì Ðỗ Minh Xuân lôi hơn một ngàn câu ra sửa. Như vậy, người đàn ông này đã can thiệp vào 1/3 tác phẩm của Nguyễn Du.
Về giá trị của Truyện Kiều thì không cần phải nói ở đây. Những người không ưa Nguyễn Du đả kích ông về thái độ hàng thần lơ láo của ông khi ra làm việc với nhà Nguyễn, nhưng không thấy có một ai chê Truyện Kiều. Cốt truyện có thể là thường thôi. Nhưng khía cạnh văn chương mới là viên ngọc quí của văn học Việt Nam. Văn chương của Truyện Kiều đã được coi là lý do tồn tại của tiếng Việt và nước Việt như một câu nói của Phạm Quỳnh.
Văn chương như thế mà nay bị một người chê là thua chữ nghĩa của ông ta, rồi lại được một người cũng có vai, có vế ở Việt Nam hết lòng xưng tụng, coi cuốn sách của Ðỗ Minh Xuân là “một đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Truyện Kiều.” Ông này còn nói rằng Ðỗ Minh Xuân có “một tinh thần khoa học nghiêm túc,” rồi “hoan nghênh công phu nghiên cứu” của ông ta.
Tôi muốn nói thêm một điều ở đây rằng đây là lần cuối cùng tôi nhắc đến người đàn ông tên là Ðỗ Minh Xuân bằng chữ “ông” vì sau lần này, cách đề cập tới Ðỗ Minh Xuân sẽ không bao giờ được dùng với chữ “ông” nữa.
Nó hoàn toàn không xứng đáng. Nó chỉ là một thằng dốt, ngu xuẩn, hỗn hào và mất dạy.
Nó tự coi nó là đứa tài giỏi hơn Nguyễn Du, chữ nghĩa hơn nhà thơ Tiên Ðiền, vượt lên trên mọi nỗ lực, mọi việc làm của người đi săn núi Hồng Lĩnh. Nên nó mới đòi sửa lại hơn một ngàn câu trong Truyện Kiều.
Ðể coi nói sửa như thế nào mà nó dám nói rằng nó sửa để làm cho Truyện Kiều hay hơn.
Ở ngay những đoạn đầu của Truyện Kiều nó đã thay thế hẳn câu “Lạ gì bỉ sắc tư phong,” câu tóm gọn được ý chính của Nguyễn Du khi viết Truyện Kiều để đẩy vào câu, “Mỗi người thứ có thứ không” rồi kéo câu kế tiếp lên để thành:
Mỗi người thứ có, thứ khôngGiám khảo cuộc thi cho cô được dùng điện thoại cầu cứu một đồng nghiệp mà cô nói là người đọc rất nhiều sách, kiến thức rất rộng để giúp cô trả lời câu hỏi. Nhưng người đồng nghiệp này (cùng dạy ở đại học với cô) cũng đáp sai tất cả các câu hỏi về Tự Lực Văn Ðoàn và nói Hoàng Ðạo không phải là anh em với Nhất Linh và Thạch Lam.
Năm ngoái, một cô giáo tên là Hà Thị Thu Thủy dậy ở trung học Lômônôxốp thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội thì đã cùng sai lầm với học sinh khi học sinh của cô viết trong bài luận văn rằng “canh gà Thọ Xương” trong một bài ca dao rằng “canh gà” là một món ăn mà em rất muốn được cha cho đi ăn thử một lần. Cô giáo Thủy cho em học sinh 8 điểm và không sửa một chữ nào của bài luận văn. Như thế là cô hoàn toàn đồng ý với chi tiết em học sinh viết trong bài luận. Hồ sơ cho biết cô tốt nghiệp khoa văn của trường Ðại Học Sư Phạm Hà Nội và vừa hoàn tất luận văn thạc sĩ với số điểm 10/10. Sau khi bài luận của em học sinh được cô cho điểm cao được đưa lên báo, cô đã xin nghỉ việc và vào một bệnh viện tâm trí để nghỉ ngơi.
Chi tiết đáng nói nhất trong hai vụ này là cô giáo Thủy đã xin nghỉ dậy còn cô Nguyễn thị Tâm tại cuộc thi của đài truyền hình với những câu trả lời về Tự Lực Văn Ðoàn chỉ bị loại khỏi cuộc thi.
Ông Tú Vị Xuyên mà còn sống thế nào ông chẳng hét ầm lên rằng “... học trò chúng nói tội gì thế / lỡ để hai cô túm được đầu...”
Hai cô giáo dậy văn mà kiến thức về văn học Việt Nam như thế thì dốt thật. Nói câu này thế nào chẳng có người trách rằng lại đem trình độ của các nhà giáo thời Việt Nam Cộng Hòa ra để chê các nhà giáo của cái nước Việt Nam độc lập tự do hạnh phúc ngày nay.
Nhưng không nói như thế không được, vì những thứ nhà giáo ngu dốt như vậy thì không hề thiếu ở Việt Nam ngày nay. Dẫu có khiêm tốn cách mấy đi chăng nữa thì cũng phải nói ngay rằng chúng tôi hồi còn đi học ở trung học không thể dốt tàn dốt tệ như thế được. Trong giờ kim văn lớp đầu tiên của bậc trung học, lớp đệ thất, chúng tôi đã đọc Anh Phải Sống của Khái Hưng, núi Văn Dú của Thế Lữ, mấy đoạn trích trong Ðoạn Tuyệt của Nhất Linh, một hai bài viết trong Bùn Lầy Nước Ðọng, Con Ðường Sáng của Hoàng Ðạo, và Cô Hàng Xén, Nhà Mẹ Lê của Thạch Lam nên nếu bị hỏi về Tự Lực Văn Ðoàn, chúng tôi ... giỏi hơn cô Nguyễn Thị Tâm đang dạy ở Ðại Học Sư Phạm rất nhiều nhiều.
Mới đây ở Việt Nam người ta đã nói về những thay đổi cần có cho chương trình giáo dục Việt Nam. Tôi không biết những đổi thay đó sẽ như thế nào nhưng biết là trong đó có những thay đổi trong lãnh vực sách giáo khoa.
Những thay đổi, sửa sang đó sẽ như thế nào? Thí dụ trong lãnh vực văn học như kim văn và cổ văn ? Thay đổi ra sao để cải tiến trình độ của các nhà giáo để tránh xảy ra những chuyện ngu dốt như người ta đã thấy?
Câu hỏi này làm nhiều người nhớ tới một cuốn sách nhan đề Truyện Kiều Nguyễn Du với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng do nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin in năm 2012. Cuốn sách được nói là của Ðỗ Minh Xuân, một kỹ sư không rõ trong lãnh vực gì. Một người giới thiệu cho biết ông kỹ sư này đã nghiên cứu rất kỹ Truyện Kiều và các tài liệu liên quan đến tác phẩm của Nguyễn Du để đưa ra khoảng một ngàn sửa chữa, dẹp bỏ hẳn những từ ngữ khó hiểu lấy từ chữ Hán và thay thế bằng ngôn ngữ thuần Việt trong Truyện Kiều.
Ðỗ Minh Xuân cho rằng những thay đổi của ông sẽ giúp cho Truyện Kiều của Nguyễn Du hay hơn, dễ hiểu hơn. Ðể làm được việc đó, Ðỗ Minh Xuân đã sửa và thay thế hơn một ngàn chữ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du bằng những chữ mà ông cho là dễ hiểu hơn, thuần Việt hơn là nguyên tác của Nguyễn Du.
Truyện Kiều có 3.524 câu thì Ðỗ Minh Xuân lôi hơn một ngàn câu ra sửa. Như vậy, người đàn ông này đã can thiệp vào 1/3 tác phẩm của Nguyễn Du.
Về giá trị của Truyện Kiều thì không cần phải nói ở đây. Những người không ưa Nguyễn Du đả kích ông về thái độ hàng thần lơ láo của ông khi ra làm việc với nhà Nguyễn, nhưng không thấy có một ai chê Truyện Kiều. Cốt truyện có thể là thường thôi. Nhưng khía cạnh văn chương mới là viên ngọc quí của văn học Việt Nam. Văn chương của Truyện Kiều đã được coi là lý do tồn tại của tiếng Việt và nước Việt như một câu nói của Phạm Quỳnh.
Văn chương như thế mà nay bị một người chê là thua chữ nghĩa của ông ta, rồi lại được một người cũng có vai, có vế ở Việt Nam hết lòng xưng tụng, coi cuốn sách của Ðỗ Minh Xuân là “một đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Truyện Kiều.” Ông này còn nói rằng Ðỗ Minh Xuân có “một tinh thần khoa học nghiêm túc,” rồi “hoan nghênh công phu nghiên cứu” của ông ta.
Tôi muốn nói thêm một điều ở đây rằng đây là lần cuối cùng tôi nhắc đến người đàn ông tên là Ðỗ Minh Xuân bằng chữ “ông” vì sau lần này, cách đề cập tới Ðỗ Minh Xuân sẽ không bao giờ được dùng với chữ “ông” nữa.
Nó hoàn toàn không xứng đáng. Nó chỉ là một thằng dốt, ngu xuẩn, hỗn hào và mất dạy.
Nó tự coi nó là đứa tài giỏi hơn Nguyễn Du, chữ nghĩa hơn nhà thơ Tiên Ðiền, vượt lên trên mọi nỗ lực, mọi việc làm của người đi săn núi Hồng Lĩnh. Nên nó mới đòi sửa lại hơn một ngàn câu trong Truyện Kiều.
Ðể coi nói sửa như thế nào mà nó dám nói rằng nó sửa để làm cho Truyện Kiều hay hơn.
Ở ngay những đoạn đầu của Truyện Kiều nó đã thay thế hẳn câu “Lạ gì bỉ sắc tư phong,” câu tóm gọn được ý chính của Nguyễn Du khi viết Truyện Kiều để đẩy vào câu, “Mỗi người thứ có thứ không” rồi kéo câu kế tiếp lên để thành:
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen
Lập tức ý niệm tài mệnh tương đố, con Tạo đánh ghen với má hồng biến mất không sao tìm lại được nữa.
Ở câu “Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung” thì đại danh từ “nghỉ” được thay bằng đại danh từ “ông” cho dễ hiểu và mới hơn, hay hơn Nguyễn Du!
Hai chữ “mạch tương” mà Nguyễn Du dùng để đưa một điển cũ vào hoàn cảnh của Kiều thì bị bỏ hẳn
Vâng lời khuyên nhủ thấp cao
Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch tương,
để trở thành:
Chưa xong điều nghĩ đã chào vừng dương
nghĩa là đang suy nghĩ thì trời đã... sáng. Không còn thấy nước mắt của Kiều đâu nữa.
Ðoạn mô tả nấm mồ của Ðạm Tiên nguyên là “sè sè nắm đất bên đường” với hai chữ “sè sè” được dùng để tả ngôi mộ thấp, không được đắp cao lên, nói lên cảnh đìu hiu, không ai chăm sóc của ngôi mộ vô chủ thì bị đổi thành”se se” và giải thích đó là nấm mồ mới đắp, đất hơi se se, chưa hồi phục hẳn.
Trong khi đó, Ðạm Tiên chết đã lâu như lời dẫn của Vương Quan: “Ðạm Tiên nàng ấy XƯA là ca nhi.” Nấm mồ ấy đã “trải bao thỏ lặn ác tà” thì mộ mới đắp lúc nào? Kiều làm thơ tặng Ðạm Tiên thì bị Thúy Vân chê là “khéo dư nước mắt khóc người đời xưa.”
Hiểu bố lếu bố láo như thế rồi sửa thơ của Tiên Ðiền.
Câu 280 hai chữ “Lãm Thúy” rất đẹp bị đổi thành “kiểu dáng.” Ðiển Lam Kiều trong câu 266 bị bỏ hẳn không nhắc tới và thay bằng “đánh liều” nên từ nguyên bản “Xăm xăm tìm nẻo Lam Kiều lần sang” thành “xăm xăm tìm nẻo đánh liều lần sang.”
Hai chữ Hợp Phố trong điển châu về Hợp Phố bị bỏ và thay bằng “chủ cũ.”
Câu “Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này” bị sửa thành “Xưa nay hiếm thấy tài đâu thế này.”
Câu “Lứa đôi ai dễ đẹp tày Thôi, Trương” là để nhắc tới Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy thì bị đổi thành “Lứa đôi từng thấy những ngày trái ngang.” Nét bác học điển cố của câu thơ bị loại hẳn.
Câu “Ấy là Hồ Ðiệp hay là Trang Sinh” bị đổi thành “Ấy là trong mộng hay là thực sinh.” Thực sinh là sinh cái gì đây?
Ðiển “trên Bộc trong dâu” bị đổi thành “trên cỏ dưới dâu.”
Câu “nước non luống những lắng tai Chung Kỳ” trở thành “nước non luống những lắng tai ngưỡng vì.” Bá Nha và Tử Kỳ bị đuổi khỏi đoạn dạo khúc cho tiếng đàn rất đẹp của Kiều.
Câu “Thời trân thức thức sẵn bày” bị sửa thành “Quả ngon thức thức xách tay” để thành món ... “to go” cho tiện...
Hai câu: “Trộm nghe thơm nức hương lân / Một nền Ðồng Tước khóa xuân hai Kiều” bị sửa cho dễ hiểu (?) hơn để thành “Buồng đào nơi tạm khóa xuân hai Kiều” cho hai Kiều ngủ bót công an chơi.
Mấy chữ rất đắt của Nguyễn Du cũng bị mang ra dung tục hóa đi rất nhiều như trong câu “Người về chiếc bóng năm canh” bị đổi thành “Người về đơn bóng năm canh.” Rồi hễ cứ chỗ nào có chữ “chiếc” để nói về sự đơn lẻ, cô quạnh là nó thay ngay chữ “chiếc” bằng một chữ khác ngay.
Câu “Trải qua một cuộc bể dâu” là một tóm gọn cả cuộc đời lưu lạc bất hạnh của Kiều thì bị sửa thành “Trải qua MỖI cuộc bể dâu” vì nó lý luận rằng có nhiều cuộc bể dâu nên nói “một” là không đúng. Phải sửa như nó, Ðỗ Minh Xuân, mới hay và đúng.
Thế nên, có mới hơn, có hay hơn, có dễ hiểu hơn thì người ta có thể thấy ngay khi đọc những chữ mà Ðỗ Minh Xuân đã dùng để thay cho những chữ trong nguyên bản của Nguyễn Du.
Khốn khổ là một thằng dốt dám hỗn hào sửa chữ của nhà thơ lớn nhất của văn học Việt Nam rồi lại được một đứa dốt và ngu không kém lôi ra hít hà, khen lấy khen để.
Chuyện học hành của thế hệ học sinh sắp tới sẽ như thế nào với cuốn sách được coi là đóng góp “đáng kể vào việc nghiên cưu Truyện Kiều.”
Ðường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh là thế.
Bố khỉ! Ðúng như Nguyễn Khuyến đã viết trong một bài thơ vịnh Kiều:
Thằng bán tơ kia giở giói ra
Làm cho bận đến cụ Viên già...
Chỉ khác thằng bán tơ là một thằng ranh con dốt nát và mất dạy. Cụ Viên thì là nhà thơ Tiên Ðiền mà thôi.
HUỲNH TÂM * TRUNG QUỐC
Trung Quốc bá chủ biển Đông
Huỳnh Tâm
- Cập nhật lần cuối ngày Thứ hai, 05 Tháng 5 2014 10:25
Chọn cỡ chữ
"...Trái
lại nhà nước Việt Nam còn phù trợ kẻ cướp Biển Đông, không có lý do nào
nhà nước của dân nóng mặt, tự đứng lên thay mặt Trung Quốc đàn áp người
dân yên nước, chuyện mất biển Đông quả nhiên người dân bức xúc không
bao giờ nguôi ngoai, chỉ vì yêu đất nước..."
Trung
Quốc tiếp tục không ngừng nghỉ đe dọa an ninh Châu Á. Những quốc gia
trong vùng lân bang nhất định bị Trung Quốc bào mòn biên giới lãnh thổ
và lãnh hải của 14 quốc gia có cùng biên giới với Trung Quốc. Từ tham
vọng bành trướng quá lớn để rồi hy vọng đứng đầu hoàn vũ, Trung Quốc
khởi động gây chiến cuối thế kỷ 20, từ đó đến nay không ngừng tay dùng
lực lượng quân sự, răn đe, áp lực những quốc gia nhỏ để cướp lãnh thổ và
cướp biển. Tình hình ở Biển Đông ngày càng trở nên phức tạp, thêm trò
tham lam âm thầm lằng nhằng, chồng chéo lên nhau không theo một thứ tự
nào cả, vốn dĩ là cá tính cố hữu của người Hán. Nay thừa cơ vấn đề Biển
Đông tạo ra những hồ sơ ma, quanh co biện luận, dùngcái lý của kẻ cướp,
bịt âm thanh trong cổ họng của người đối diện không cho phát ra những
tiếng kêu thật sự muốn hòa bình.
Chẳng
hạn Trung Quốc vẫn tiếp tục duy trì sức mạnh xô đẩy Việt Nam ra khỏi
Biển Đông. Cho đến ngày nay, Việt Nam không còn ảnh hưởng trên mặt biển
ngoài 12 hải lý, chủ quyền biển đảo đã thực sự không còn, mọi khó khăn
cho các quốc gia lân bang trở nên cấp thiết và lấy quyết định chọn vũ
khí bảo vệ quốc gia, mọi sự kiện cướp biển và chủ quyền lãnh hải đã quá
rõ ràng. Riêng Việt Nam thời gian gần đây, sau khi ký kết nhiều thỏa
thuận giải quyết đàm phán về tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc. Về
ngoại giao, đảng Cộng sản Việt Nam đã vấp phải trong đàm phán và ký kết
những văn kiện Biển Đông mù mờ, trước một đối thủ có quá nhiều thành
tích chưa bao giờ minh bạch. Thậm chí con đường Việt Nam hôm nay có thể
đi đến mất nước, đảng Cộng sản lãnh đạo đất nước đã đem đến cho dân tộc
Việt Nam nhiều thiệt hại khó đo lường. Nhân dân Việt Nam không còn thấy
quyền lợi nào của chính mình, tương đương với một cổ phần trên đất nước
đang hiện diện. Nay nhân dân Việt Nam đã hiểu thấu, đảng Cộng sản và nhà
nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa là một phường cướp nước bán lại cho
Trung Quốc. [1]
Chính
vì đảng Cộng sản Việt Nam quá lệ thuộc chính trị, kinh tế và quân sự
vào Trung Quốc cho nên không còn chủ quyền trên Biển Đông. Kết quả, mất
khả năng tranh chấp, chỉ còn ngồi chờ kẻ mạnh kêu đâu ký đó. Đảng cầu an
“đảng còn,nước mất”. Nếu có sự can thiệp của nhân dân cũng quá yếu.
Thậm chí đã trắng tay, tuy nhiên nhà nước vẫn gồng mình, mạnh miệng
tuyên bố “Biển Đông vẫn còn”. Sự thực Biển Đông chỉ còn trên lỗ miệng
đảng. Vì lý do nào đảng Cộng sản không công bố thực tế Biển Đông đã mất
trắng, nay thuộc về chủ quyền của Trung Quốc, từ vùng Vịnh Bắc Bộ cho
đến Trường Sa và Hoàng Sa. Ngày nay, Việt Nam chỉ còn lại vài hải đảo
trong vòng 12 hải lý! Đảng cộng sản Việt Nam vẫn viện cớ trăm ngàn lý do
khác nhau để công bố “Hoàn Sa và Trường Sa vẫn mãi mãi của ta”. Thậm
chí nhà nước Việt Nam dùng ống loa cũ tuyên truyền hướng dẫn dư luận và
sự hiểu biết của nhân dân đi về hướng khác có lợi cho đảng Cộng sản hơn
là có lợi cho đất nước, đảng muốn nhân dân không được quyền biết hay
thấy đã mất đảo Hoàng Sa năm 1974, và Trường Sa năm 1988. Lý do vùng đảo
Hoàng Sa nay đã thuộc Thành Phố Tam Sa trù phú của Trung Quốc.
Đảng
cộng sản cũng biết chơi trò ảo thuật lừa dối nhân dân, thành lập huyện
đảo Hoàng Sa trong ruột thành phố Đà Nẵng, từ đó cho đến nay nhân dân
đặt vấn đề cái huyện ấy vì lý do nào không có trong niên giám bưu điện,
niên giám điện thoại, niên giám quốc gia, có phải huyện đảo Hoàng Sa đã
ra ma, chết tự bao giờ không thấy có xác trong nghĩa trang hay chỉ là
một khúc ruột huyền thoại.
Nói
về chủ nhân ông “nhà nước Việt Nam”, cũng cần có chứng từ, và sự thật
đã bán đảo Hoàng Sa cho Trung Quốc. Còn đâu nữa để thành lập huyện đảo
Hoàng Sa. Tại sao Bác đảng cứ liên tục gạt gẫm nhân dân hoài vậy. Đi xa
hơn nữa tất cả mọi bí mật về lãnh thổ, lãnh hải hầu hết nhân dân mù tịt,
bởi nhà nước không trung thực cung cấp tin tức cho nhân dân chia sẻ.
Ngày xưa đánh Tây đánh Mỹ, chuyện nhảm nhí thằng Tám, con Tư, nhà nước
treo loa ra rã ngày đêm buộc nhân dân phải học tập làm người, còn ngày
nay chuyện đại sự quốc gia đã đến lâm nguy, nhà nước ém nhẹm không có
một thông tin nào báo tin mất nước.
Nhìn
sang Philippine hay Nhật Bản sẽ thấy sức phản đối của chính quyền và
nhân dân của họ đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh hải, theo tinh thần dân
tộc tự vệ, một hòn đảo dù nhỏ hơn ngàn lần vùng đảo Hoàng Sa, Trường Sa
của Việt Nam, vẫn phải bảo vệ bởi nơi đó là nguồn sống còn của Tổ quốc.
Gần đây nhà nước Việt Nam có những cam kết cho phép Trung Quốc khai thác
tối đa toàn diện cửa biển, cửa sông, biển Đông, và cả lục địa của Việt
Nam.
Mỗi
ngày Trung Quốc thúc đẩy đảng và nhà nước Việt Nam hợp tác ngoại giao,
đưa đến nhiều tiền-quyền lợi, do đó, đảng chịu êm miệng. Ngoại giao của
Trung Quốc chuyên tìm điểm yếu con bệnh tham nhũng, lợi-quyền bất trị
của nhà nước Việt Nam. Trung Quốc đã thực hiện được bè phái trong nội
tạng tổ chức của đảng Cộng sản Việt Nam, vận dụng được chính quyền Việt
Nam nhất mực trung thành với ba qui ước do đảng Cộng sản Trung Quốc ban
bố: “战友情谊,兄弟情谊” (tình đồng chí, tình anh em) “越中友谊万古长青”, (Việt
Nam-Trung Quốc hữu nghị sẽ kéo dài mãi mãi), “尽管国家党权死亡率” (quyền đảng còn
dù vong quốc). Ngày nay nhà nước Việt Nam có nhiệm vụ thẳng tay đàn áp
những người dân phản đối Trung Quốc chiếm Biển Đông.
Đặc biệt 16 chữ vàng, và 4 tốt xin để lại dịp khác đề cập đến.
Bản kế hoạch đánh bắt cá của ngư nghiệp Trung Quốc tại
vùng đảo biển Trường Sa. Nguồn: Ngư nghiệp Hải Nam.
vùng đảo biển Trường Sa. Nguồn: Ngư nghiệp Hải Nam.
Về
vấn đề Biển Đông, Trung Quốc đã có những đánh giá, tiên liệu trước nếu
cần thiết chuẩn bị một cuộc chiến tranh biển Đông. Nói về quyền khai
thác ngư nghiệp, hiện nay đảo Nam Hải có trách nhiệm làm chủ trong vùng
Biển Đông, khai thác toàn diện ngư nghiệp. Người Hán còn báo động “浑水摸鱼”
(Cá trong vùng biển gặp khó khăn) chẳng qua đây là một thành ngữ của
giới ngư trường mới sáng tạo vào năm 2000. Đại ý, miêu thị về hướng Việt
Nam
“浑浊的水意下降的问题,借机抢夺鱼,虽然越南渔业可以得到意想不到的好处,但不是永远.推动我们进入中国南海迷失方向.借此机会采取的乱比喻不必要的好
处” (Dự định nước đục thả câu, nắm lấy cơ hội để cướp cá, tuy ngư nghiệp
Việt Nam có thể nhận được lợi ích bất ngờ, nhưng không thể mãi được. Đẩy
chúng tôi vào thế mất phương hướng Biển Đông. Lấy cơ hội để tận dụng
lợi thế của sự hỗn loạn ẩn dụ lợi ích không chính đáng). Trung Quốc vì
quyền lợi của nhân dân họ, cho nên dùng Hải giám thực hiện theo tình
hình, đối phó tích cực hơn, và hành động cứng rắn chống hiểm họa đánh
bắt cá, họ cho rằng nhân dân Việt Nam là những tên cướp Biển Đông! [2]
Ngày 11 tháng 7 năm 2001, Hải giám Trung Quốc bao vây bắt giam
những ngư dân Việt Nam, tại nhóm đảo An Vĩnh, Tuyên Đức,
tọa độ địa lý 16°53’ B, và 112° 17’Đ. Nguồn ảnh: Huỳnh Tâm.
những ngư dân Việt Nam, tại nhóm đảo An Vĩnh, Tuyên Đức,
tọa độ địa lý 16°53’ B, và 112° 17’Đ. Nguồn ảnh: Huỳnh Tâm.
Một câu hỏi của nhân dân: Thực sự ngày nay, Biển Đông của Việt Nam đã đi về đâu?
Người
dân yêu nước nhận thấy sự căng thẳng mất chủ quyền biển Đông, muốn chia
sẻ cái nhục của người bị mất biển. Trái lại nhà nước Việt Nam còn phù
trợ kẻ cướp Biển Đông, không có lý do nào nhà nước của dân nóng mặt, tự
đứng lên thay mặt Trung Quốc đàn áp người dân yên nước, chuyện mất biển
Đông quả nhiên người dân bức xúc không bao giờ nguôi ngoai, chỉ vì yêu
đất nước.
Biển
Đông của Tổ Quốc Việt Nam đã từ ngàn xưa do ông cha ta chủ quyền, bỗng
chốc biến mất không còn một tí nào biển khơi để nhân dân hành nghề đanh
cá hay để nuôi thuỷ sản. Ngày xưa người dân chài thong dong trên biển cả
với một khung trời bao la vô cùng tận, ngày nay có Bác, có Đảng chỉ còn
12 hải lý không khác nào một cái ao cá đồng nội.
Mới hôm qua có chuyện buồn cười, ông thứ trưởng Ngọai giao Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài (UBNVONN) đi du thuyết với lời Bác đảng:
Mới hôm qua có chuyện buồn cười, ông thứ trưởng Ngọai giao Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài (UBNVONN) đi du thuyết với lời Bác đảng:
‒ Đảo biển Đông còn đó có mất đâu nào!
Thực
ra tạo hóa thiên nhiên sinh ra mọi vật thể trên đời này, đương nhiên có
những thứ nó vẫn còn đó, ở yên không ai di động được, nếu di chuyển đi
nơi khác càng khó hơn, chẳng hạn đảo Biển Đông của Việt Nam.Ngày nay
việc đảng Cộng sản chuyển nhượng chủ quyền cho một quốc gia khác cũng
khó chấp nhận được. Vấn đề đặt ra ở đây, chủ quyền Biển Đông là của ai,
người sở hữu trên tay cần có cái then chốt của Biển Đông, người đó mới
chính thức chủ quyền 188 hải lý, trước mắt đã thấy Trung Quốc đang khai
thác tài nguyên phong phú của biển Đông Việt Nam. Hy vọng Bác đảng cho
biết hiện nay đất nước đã còn bao nhiêu hải lý trên biển Đông, tức khắc
người dân tính ra được “‒ Đảo biển Đông còn đó có mất đâu nào!”.
(Còn tiếp Kỳ 2)
Huỳnh Tâm
Tham khảo:
[1] ‒ http://bbs.tiexue.net/ (Quân Sự)
[2] ‒ http://www.xinhuanet.com/mil/ (Tân Hoa Xã)
[2] ‒ http://www.xinhuanet.com/mil/ (Tân Hoa Xã)
DAVID THIÊN NGỌC * 30-4
30 tháng 4 nghĩ về Thống
Nhất, Hoà Bình, Tự Do và Độc Lập cho Việt Nam do Cộng Phỉ rêu
rao!
DAVID THIÊN
NGỌC
Lật từng trang sử Việt Nam qua hàng ngàn năm kể
từ buổi ban đầu sơ khai lập quốc với cụm từ Thống Nhất - Hoà Bình - Tự Do - Độc
Lập thì đất nước chúng ta hoàn toàn chưa bao giờ có đủ. Tổ Quốc ta trải dài theo
hướng Bắc - Nam, sơn hà một dải gấm vóc do tiền nhân bao đời dựng xây bằng máu
xương và truyền la.i. Qua từng giai đoạn của dòng lịch sử có những lúc cắt chia,
ly tán rồi cuối cùng cũng thống nhất, can qua cũng được dẹp yên, cũng tạm có Hoà
Bình theo từng thời đại nhưng chưa đúng nghĩa. Còn tự do, độc lập thì hầu như
thiếu vắng đối với đất nước và dân tộc VN.
Khép lại những trang sử xưa. Bài viết này chỉ nhìn vào thực trạng đất nước kể từ khi Hồ Chí Minh (HCM) lúc còn tuổi thanh xuân (năm 1911) đi làm phụ bếp, bồi bàn dưới tàu buôn Đô Đốc Latouche - Tréville, rồi sau đó qua Pháp làm đơn xin học trường thuộc địa (École Coloniale) chuyên đào tạo các nhân viên hành chánh cho chính quyền thực dân. Nơi đây các học viên sau khi tốt nghiệp sẽ là đội ngũ giá áo túi cơm, nâng khăn sửa túi cho thực dân Pháp. May thay, đơn của HCM không được chấp thuận với nhiều lý do nhưng theo tôi thì không thể thiếu yếu tố là người Pháp với ánh mắt tinh tường đã nhìn xuyên suốt vào trái tim, đáy lòng của một con người đầy xảo trá và nham hiểm, sẵn sàng phản bội trở cờ khi có cơ hô.i. Bằng chứng là sau này HCM cam tâm bán đứng nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu cho giặc Pháp để thủ lợi và nham hiểm hơn là triệt hạ bớt những đối thủ chính trị sau này có thể cản trở bước đường làm nô dịch của ông ta. Năm 1946 HCM ngụy tạo ra Chính Phủ Liên Hiệp nhằm tập hợp các nhà chí sĩ yêu nước VN cùng các tên tuổi lớn ngoài đảng cộng sản VN như Nguyễn tường Tam, Nguyễn hải Thần, Vũ hồng Khanh… để chung tay chống Pháp cứu nguy cho đất nước. Nhưng thực ra HCM lợi dụng chính phủ Liên Hiệp để dễ dàng tiêu trừ những nhà cách ma.ng. Chưa dừng lại nơi đó HCM còn mật lệnh truy tìm hãm hại lãnh đạo của các tổ chức đảng phái, tôn giáo như đức Huỳnh phú Sổ của Phật Giáo Hòa Hảo rồi Quốc Dân đảng, Đại Việt đảng…v.v…có thể là thế lực cản trở cho lộ trình làm tay sai cho cộng sản Quốc Tế sau này.
Như vậy cửa xin làm tay sai cho đế quốc Pháp đã bị loại trừ. Thêm một bằng chứng cụ thể cho sự xảo trá đó là khi ở Pháp, Nguyễn Tất Thành (HCM sau này) đã cùng với những người An Nam yêu nước như Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường lập nên bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm kêu gọi lãnh đạo các nước đồng minh áp dụng các đường lối, lý tưởng của Tổng Thống Hoa Kỳ Wilson cho các thuộc điạ của Pháp ở Đông Nam Á, và ký một tên chung là Nguyễn Ái Quốc rồi trao tận tay cho Tổng Thống Pháp. Từ đó Nguyễn Tất Thành mạo nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, tên chung của các nhà yêu nước nói trên và sử dụng luôn cho hơn 30 năm sau để đánh bóng tên tuổi với hành động ăn cắp lòng yêu nước, chiếm đoạt những thành tích lẫy lừng của các nhà ái quốc An Nam. Với bản chất đó sau này có thêm nhân vật Trần Dân Tiên, T.Lan... là minh chứng.
Không được Pháp nhận vào trường đào tạo hàng ngũ tay sai, HCM trôi dạt qua Liên Xô, nơi đây ông được Lê-Nin thu nhận và đào tạo nhồi nhét chủ nghĩa Marx để trở thành một tay sai hữu hiệu trong ý đồ nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á. Đến cuối đời ông đã thú nhận rằng "Tôi chẳng có tư tưởng nào ngoài tư tưởng Mác-Lê" và "Tôi không suy nghĩ gì hơn vì đã có LêNin, Stalin và Mao chủ tịch nghĩ thay rồi!". Đó là lời công khai thú nhận trước khi chết là chỉ làm tay sai cho các quỉ dữ nói trên mà thôi. Những chi tiết tôi vừa nêu trên nằm trong hàng vạn chi tiết mà lịch sử đã ghi và người dân VN ta cũng đã rõ. Nơi đây tôi chỉ nói lên một số ít để làm căn cứ cho các khái niệm tự do và độc lập của đất nước, nhân dân VN trong suốt thời gian mà HCM và đảng CSVN cầm quyền làm tay sai cho CS Nga, Tàu.
Trở lại với ý tưởng ban đầu với mốc lịch sử 30/4. Mỗi năm khi
đông tàn, xuân về trên đất nước những đoá mai vàng cùng hoa đào rực rỡ trong khí
tiết của mùa xuân... thì lòng tôi se thắt la.i. Đón xuân này lại nhớ xuân xưa...
một mùa xuân không trọn vẹn với triệu kẻ vui, triệu người buồn. Một mùa xuân vui
buồn lẫn lộn nhưng cả hai đều lấy nước mắt làm chứng nhân. Và khi đó khắp nơi đã
rộn lời ca "Vui sao nước mắt lại tràỏ" và đó đây máu xương, tủi nhục cũng giăng
đầy khắp nẻo thành quê... mặc dù đạn bom đã tạm thời im tiếng. Khép lại những trang sử xưa. Bài viết này chỉ nhìn vào thực trạng đất nước kể từ khi Hồ Chí Minh (HCM) lúc còn tuổi thanh xuân (năm 1911) đi làm phụ bếp, bồi bàn dưới tàu buôn Đô Đốc Latouche - Tréville, rồi sau đó qua Pháp làm đơn xin học trường thuộc địa (École Coloniale) chuyên đào tạo các nhân viên hành chánh cho chính quyền thực dân. Nơi đây các học viên sau khi tốt nghiệp sẽ là đội ngũ giá áo túi cơm, nâng khăn sửa túi cho thực dân Pháp. May thay, đơn của HCM không được chấp thuận với nhiều lý do nhưng theo tôi thì không thể thiếu yếu tố là người Pháp với ánh mắt tinh tường đã nhìn xuyên suốt vào trái tim, đáy lòng của một con người đầy xảo trá và nham hiểm, sẵn sàng phản bội trở cờ khi có cơ hô.i. Bằng chứng là sau này HCM cam tâm bán đứng nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu cho giặc Pháp để thủ lợi và nham hiểm hơn là triệt hạ bớt những đối thủ chính trị sau này có thể cản trở bước đường làm nô dịch của ông ta. Năm 1946 HCM ngụy tạo ra Chính Phủ Liên Hiệp nhằm tập hợp các nhà chí sĩ yêu nước VN cùng các tên tuổi lớn ngoài đảng cộng sản VN như Nguyễn tường Tam, Nguyễn hải Thần, Vũ hồng Khanh… để chung tay chống Pháp cứu nguy cho đất nước. Nhưng thực ra HCM lợi dụng chính phủ Liên Hiệp để dễ dàng tiêu trừ những nhà cách ma.ng. Chưa dừng lại nơi đó HCM còn mật lệnh truy tìm hãm hại lãnh đạo của các tổ chức đảng phái, tôn giáo như đức Huỳnh phú Sổ của Phật Giáo Hòa Hảo rồi Quốc Dân đảng, Đại Việt đảng…v.v…có thể là thế lực cản trở cho lộ trình làm tay sai cho cộng sản Quốc Tế sau này.
Như vậy cửa xin làm tay sai cho đế quốc Pháp đã bị loại trừ. Thêm một bằng chứng cụ thể cho sự xảo trá đó là khi ở Pháp, Nguyễn Tất Thành (HCM sau này) đã cùng với những người An Nam yêu nước như Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường lập nên bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm kêu gọi lãnh đạo các nước đồng minh áp dụng các đường lối, lý tưởng của Tổng Thống Hoa Kỳ Wilson cho các thuộc điạ của Pháp ở Đông Nam Á, và ký một tên chung là Nguyễn Ái Quốc rồi trao tận tay cho Tổng Thống Pháp. Từ đó Nguyễn Tất Thành mạo nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, tên chung của các nhà yêu nước nói trên và sử dụng luôn cho hơn 30 năm sau để đánh bóng tên tuổi với hành động ăn cắp lòng yêu nước, chiếm đoạt những thành tích lẫy lừng của các nhà ái quốc An Nam. Với bản chất đó sau này có thêm nhân vật Trần Dân Tiên, T.Lan... là minh chứng.
Không được Pháp nhận vào trường đào tạo hàng ngũ tay sai, HCM trôi dạt qua Liên Xô, nơi đây ông được Lê-Nin thu nhận và đào tạo nhồi nhét chủ nghĩa Marx để trở thành một tay sai hữu hiệu trong ý đồ nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á. Đến cuối đời ông đã thú nhận rằng "Tôi chẳng có tư tưởng nào ngoài tư tưởng Mác-Lê" và "Tôi không suy nghĩ gì hơn vì đã có LêNin, Stalin và Mao chủ tịch nghĩ thay rồi!". Đó là lời công khai thú nhận trước khi chết là chỉ làm tay sai cho các quỉ dữ nói trên mà thôi. Những chi tiết tôi vừa nêu trên nằm trong hàng vạn chi tiết mà lịch sử đã ghi và người dân VN ta cũng đã rõ. Nơi đây tôi chỉ nói lên một số ít để làm căn cứ cho các khái niệm tự do và độc lập của đất nước, nhân dân VN trong suốt thời gian mà HCM và đảng CSVN cầm quyền làm tay sai cho CS Nga, Tàu.
Tại thời điểm
30/4/1975, đất nước VN tạm thời được xem là thống nhất. Bắc - Nam cùng chung
dưới một mái nhà... TÙ lớn. Còn lại cụm từ Hoà Bình - Tự Do - Độc lập, nhân dân
VN cả Nam lẫn Bắc đều bị CSVN đánh tráo khái niê.m.
Trước hết tôi xin nói
hai chữ Hoà Bình:
Hoà Bình có nghĩa là kết thúc chiến tranh về mọi mặt từ
súng đạn ở chiến trường đến ý thức hệ trong tư duy, trong cõi lòng và cuộc sống
của một dân tô.c. Đổi thù thành bạn, biến chết chóc đau thương trở thành ấm no
hạnh phúc, biến cách chia tang thương dâu bể thành đoàn tụ sum vầy, biến nước
mắt ra nụ cười...v.v... với những hình thức và trạng thái trên thì đất nước,
nhân dân VN hoàn toàn chưa có Hoà Bình.
Một điều sâu xa hơn tôi muốn nói ở
đây là Hoà Bình đích thực sau khi kết thúc chiến tranh, ta phải nói một điều
rằng công lao của kẻ kết thúc chiến tranh để tạo Hòa Bình thực sự đúng nghĩa là
vĩ đa.i. Nhưng nơi đây ta nhìn sâu vào hoàn cảnh đặc thù của nội tình đất nước
VN là chiến tranh từ đâu ra, từ đâu mà có để có được kết thúc và vãn hồi Hoà
Bình?
Ta tạm ngược lại thời gian và thoáng mở ra trang sử VN trong những năm
1954-1955 thế kỷ trước khi hiệp định Genève được ký kết chấm dứt sự hiện diện
của đế quốc Pháp trên bán đảo Đông Dương. Nơi đây tôi chỉ nêu ra lập trường của
nước VNDCCH mà đại diện là ông Phạm Văn Đồng đã đưa vào nội dung hiệp định 8
điểm, trong đó điểm thứ 3 là "Tổ chức tổng tuyển cử tự do trong ba nước (Đông
Dương) nhằm thành lập chính phủ duy nhất cho mỗi nước". Nhưng sau đó CSVN lật
lọng, xé bỏ hiệp định Genève và công khai tiến chiếm Miền Nam VN thực hiện ý đồ
bành trướng chủ nghĩa CS, nhuộm đỏ ĐNÁ theo chỉ thị của CS Nga Tàu.
Một minh chứng cụ thể cho âm mưu trên, bội ước tổng tuyển cử là sau khi hiệp
định Genève được ký kết thì CSVN đã tổ chức "Tập Kết" các cán bộ CS về Bắc, đây
chỉ là hình thức che mắt quốc tế nhưng thật ra không rút hết mà âm thầm cài đặt
lại một số lớn cán bộ đảng viên nằm vùng để bí mật tạo cơ sở sẵn sàng tiếp tay
hậu thuẫn cho cuộc Nam tiến xâm lăng cưỡng chiếm Miền Nam VN sau này. Điều đó rõ
ràng mà đảng CSVN không thể nào biện minh cho hành động phản bội, đen tối và làm
tay sai cho ngoại bang như lời Lê Duẩn đã thú nhận là "Đánh đây (chiếm miền Nam)
là đánh cho Nga, Tàu". Từ đây ta đã nhận rõ ra nguyên nhân của cuộc chiến tranh
thảm khốc hơn 20 năm mà hàng triệu người dân VN đã nằm xuống.
Đối với Mỹ thì
hiệp định Genève sẽ bị CS lật lọng và xé bỏ do đó ngay tại bàn hội nghị đại diện
cho Mỹ đã tuyên bố rằng "Sẽ coi mọi sự tái diễn của các hành động bạo lực (chiến
tranh xâm lược) vi phạm hiệp định là điều đáng lo ngại và là mối đe dọa nghiêm
trọng đối với hoà bình và an ninh quốc tế". Sau đó y như nhận định của Mỹ, CS
Bắc Việt đã tiến hành chiến tranh dùng vũ lực cưỡng chiếm MNVN dưới sự nhúng tay
trực tiếp của CS Nga Tàu, gây ra cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt, huynh đệ
tương tàn... lừa hàng triệu sinh linh nam nữ thanh niên VN vào chảo lửa Trường
Sơn, bưng biền... một cách dã man chưa từng có trong lịch sử VN. Gần 5 triệu
công dân phải bỏ mình mà hiện giờ xương cốt còn vương vãi khắp nơi mà chưa được
kiếm tìm, qui tập về hết được cho cả hai phía.
Thế thì trong mấy mươi năm
qua sau cái ngày 30/4 ấy, đảng CSVN đã đánh lừa dân tộc, tuyên truyền, rêu rao
rằng bác và đảng đã lãnh đạo thành công cuộc kháng chiến thần thánh để đem lại
"Hoà Bình" cho dân tộc VN mà trớ trêu thay chính cuộc chiến tranh này lại do
"bác và đảng tạo ra".
Chưa dừng lại ở mốc lịch sử 30/4/1975. CSVN còn núp
dưới bóng cây Hoà Bình của riêng tập đoàn CSVN mà giả tạo với toàn dân, kéo lê
máy chém súng còng làm cho máu xương nhân dân miền Nam VN chảy dài khắp núi
rừng, sông biển...và cả trong nhà tù kéo dài chồng chất mỗi ngày mỗi khốc liệt
hơn cho đến ngày hôm nay mà các nhà dân chủ, dân oan bị đảng cướp đoạt đất đai
tài sản...cũng còn đang bị đảng CSVN đọa đày, giết chóc bằng mọi hình thức đê
hèn hạ cấp, bẩn thỉu nhất mà không một chút nương tay. Tôi kể thêm ra nơi đây
những thảm trạng đó thì xem như quá thừa, bởi toàn dân VN từ trẻ tới già ai ai
cũng biết, cũng rõ và cũng đều là nạn nhân của tập đoàn CS khát máu đã đánh tráo
khái niệm Hoà Bình, Tự Do, Độc Lập che mắt dân tộc VN và luà mọi tầng lớp, thế
hệ nhân dân vào một nhà tù vĩ đại XHCN.
Tự Do:
HCM đã ghi vào lịch
sử vào ý thức hệ tập đoàn CS, tư duy và tiềm thức của mọi người dân VN từ trẻ
đến già, từ học đường đến mọi công sở, mọi nẻo đường phố thị, đồng quê rừng
núi... cả ở bãi tha ma, đầm lầy bô rác... câu "Không có gì quí hơn Độc Lập, Tự
Do".
Nơi đây chính HCM và cả tập đoàn CSVN cũng đã đánh tráo khái
niê.m. Đối với CSVN thì Tự Do là vô cùng quí, bởi chúng được tự do trao cho mình
cái tự do tuyệt đối, mà tự do ngang ngược nhất là tự do bóc lột, tự do giết hại
nhân dân, nghiền nát bất cứ những ai đi ngược lại cái bánh xe do chúng tạo ra và
đặt tên, dán mác là " bánh xe lịch sử ". Đến hôm nay và những năm đã qua sau khi
cưỡng chiếm MNVN là chúng tự do cướp bóc mọi tài sản cuả công dân và lớn hơn là
tự do xà xẻo, bòn rút nguyên khí Quốc Gia, rồi đến tự do bán nước, giang san
tiền đồ của tổ tiên Lạc Hồng dày công dựng xây và để la.i.
Đối với nhân dân
thì tự do trong khuôn khổ (thật mâu thuẫn) đây là ngôn ngữ của tập đoàn lừa mỵ,
xảo ngôn. Mọi sự tự do và quyền của người dân VN đã bị CSVN "tự do cướp" mất đi
rồi kể từ năm 1945 ở miền Bắc và miền Nam từ 30/4/1975 tang thương tủi nhu.c.
Cũng vì hai tiếng tự do mà biết bao anh thư tuấn kiệt, nhà báo, trí thức yêu
nước cùng cả các chức sắc các tôn giáo, tu sĩ, giáo dân, bổn đạo, thanh niên
sinh viên yêu nước đã và đang ngập chìm trong ngục tù, chết chóc, thịt nát xương
tan... hàng triệu người phải bỏ mình nơi rừng rú, biển sâu, sông hồ... để đi tìm
tự do và cao cả hơn là đổ máu đấu tranh cho tự do cho cả dân tô.c. Thật mỉa mai
cho ngày 2/9/1945, HCM đã đứng lên nói lời ăn cắp từ trong bản tuyên ngôn
độc lập của Hoa Kỳ mà tôn vinh và nhấn mạnh cho cái Tự Do, Dân Chủ và Nhân
Quyền... mà mọi người dân khi sinh ra đều được hưởng.
Độc Lập:
Cũng thật
nực cười và xấu hổ thay cho linh hồn của HCM đang lang thang vất vưởng trong
ngục tù ở "chiếc xà lim Ba Đình" về hai chữ độc lập mà ông đã nói nho nhỏ trong
tư thế cúi gằm mặt trước nhân dân vì sợ bề trên phì cười hay bắt phạt!
Đập
lập ư? Thế sao từ khi HCM cầm đầu ĐCS cướp chính quyền từ tay chính phủ Trần
Trọng Kim chứ không phải từ đế quốc Pháp hay quân phiệt Nhật nào cả, và từ đó
HCM và đảng CSVN luôn nhận mệnh lệnh từ Nga, Tàu để thực hiện mọi chính sách,
chủ trương và áp đặt cho nhân dân VN. Từ chính sách CCRĐ giết hại hàng trăm ngàn
nông dân vô tội mà HCM và bè lũ phải nhận chiếu chỉ hàng ngày qua những bức thư
xin chỉ thị mà HCM đã trực tiếp viết tay cho Stalin và Mao Trạch Đông. Rồi nhận
lệnh tiêu trừ trí thức VN với ý thức của Lê-Nin và Mao là xem trí thức như là
cục phân qua vụ án Nhân Văn - Giai Phẩm một cuộc đại cách mạng văn hoá của Trung
cộng thu nhỏ tại VN đồng thời cúi đầu vâng lệnh xua thanh niên VN vào chiến
trường rừng núi Trường Sơn để lấy xương máu nhân dân VN bảo vệ cho thành trì CS
phương Bắc và bây giờ cả tập đoàn CSVN đang diễn màn kết thúc kịch bản giao trọn
giang san cho Đại Hán hung tàn, âm mưu xoá tan và kết liễu một đất nước, một dân
tộc qua hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước.
Tôi xin nói rõ thêm về việc HCM và tập đoàn CSVN cướp chính quyền: Cách mạng muà thu tháng 8 năm 1945 chỉ là một danh xưng phóng đại từ một sự kiện nhỏ mà lịch sử đã ghi rõ và không thể chối cãi rằng HCM và đảng Lao Động VN của ông ta đã nhân cuộc biểu tình nhỏ bình thường của quần chúng mà cướp luôn chính quyền hợp hiến của nhân dân mà đại diện là học giả, Thủ Tướng Trần Trọng Kim dưới triều vua Bảo Đại chứ chẳng phải từ tay phát xít Nhật hay thực dân Pháp như chúng rêu rao ca tụng trên những trang sử của đảng CSVN và áp đặt trong mọi nhà trường, cơ quan công sở, đoàn thể của chính quyền CSVN từ 3/4 thế kỷ qua. Hồi ký "Một cơn gió bụi" của học giả Trần Trọng Kim viết xong năm 1949 do nhà xuất bản Vĩnh Sơn ấn hành tại Sài Gòn năm 1969 trang 91-98 đã ghi rành rành không chối vào đâu đươ.c.
Năm nay mùa xuân đang bước qua, mùa xuân mà tên Cộng Phỉ Văn Tiến Dũng gọi là "Đại thắng" (trong chết chóc và u tối vô vàn) lại hiện về trong đa phần người dân VN với vạn nỗi niềm dâng trào, nước mắt xót xa cho những anh hùng liệt sĩ can trường như tướng Nguyễn Khoa Nam, tướng Lê Văn Hưng, Đại tá Hồ Ngọc Cẩn... và nhiều người dân đã vĩnh viễn ra đi. Cho những Anh Thư, Tuấn Kiệt yêu nước nồng nàn đang chiụ cảnh gông cùm trong ngục tối CSVN, cho toàn dân VN đang đắm chìm trong đói khổ bất công và cho những con dân VN cũng vì hai chữ tự do, cũng vì hãi sợ trước loài quỉ dữ mà lìa bỏ quê hương, xứ sở người thân để tha phương tìm ánh sáng... với hai tiếng "Thuyền Nhân" luôn đau đáu trong lòng với khát vọng hoài hương trong lời ca tiếng nhạc "Việt Nam tôi đâủ"
Viết cho toàn dân Việt Nam trong nước và hải ngoại nhân Mùa Quốc Hận thứ 39 tháng 4/2014
Tôi xin nói rõ thêm về việc HCM và tập đoàn CSVN cướp chính quyền: Cách mạng muà thu tháng 8 năm 1945 chỉ là một danh xưng phóng đại từ một sự kiện nhỏ mà lịch sử đã ghi rõ và không thể chối cãi rằng HCM và đảng Lao Động VN của ông ta đã nhân cuộc biểu tình nhỏ bình thường của quần chúng mà cướp luôn chính quyền hợp hiến của nhân dân mà đại diện là học giả, Thủ Tướng Trần Trọng Kim dưới triều vua Bảo Đại chứ chẳng phải từ tay phát xít Nhật hay thực dân Pháp như chúng rêu rao ca tụng trên những trang sử của đảng CSVN và áp đặt trong mọi nhà trường, cơ quan công sở, đoàn thể của chính quyền CSVN từ 3/4 thế kỷ qua. Hồi ký "Một cơn gió bụi" của học giả Trần Trọng Kim viết xong năm 1949 do nhà xuất bản Vĩnh Sơn ấn hành tại Sài Gòn năm 1969 trang 91-98 đã ghi rành rành không chối vào đâu đươ.c.
Năm nay mùa xuân đang bước qua, mùa xuân mà tên Cộng Phỉ Văn Tiến Dũng gọi là "Đại thắng" (trong chết chóc và u tối vô vàn) lại hiện về trong đa phần người dân VN với vạn nỗi niềm dâng trào, nước mắt xót xa cho những anh hùng liệt sĩ can trường như tướng Nguyễn Khoa Nam, tướng Lê Văn Hưng, Đại tá Hồ Ngọc Cẩn... và nhiều người dân đã vĩnh viễn ra đi. Cho những Anh Thư, Tuấn Kiệt yêu nước nồng nàn đang chiụ cảnh gông cùm trong ngục tối CSVN, cho toàn dân VN đang đắm chìm trong đói khổ bất công và cho những con dân VN cũng vì hai chữ tự do, cũng vì hãi sợ trước loài quỉ dữ mà lìa bỏ quê hương, xứ sở người thân để tha phương tìm ánh sáng... với hai tiếng "Thuyền Nhân" luôn đau đáu trong lòng với khát vọng hoài hương trong lời ca tiếng nhạc "Việt Nam tôi đâủ"
Viết cho toàn dân Việt Nam trong nước và hải ngoại nhân Mùa Quốc Hận thứ 39 tháng 4/2014
David Thiên Ngo.c-Trần thiên Đức
Mai Thanh
Truyết hiệu đính 4/2014
NGUYỄN TẤN ICH * GIỮ LỬA TRONG TIM!
GIỮ LỬA TRONG
TIM!
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn
Ích
Bùi Củng Duy cùng với hai mươi chín tù nhân
sắp hàng trước căn nhà trực ban. Họ chuẩn bị làm thủ tục cuối cùng để nhận giấy
ra
tra.i.
Quản giáo và ba công an vũ trang lần lượt lục soát tư trang đặt trước mặt
mỗi người.
Họ nắn bóp từng túi áo, từng góc chiếc ba lô và ngay cả lai quần
tù đang mă.c.
Tù nhân đã chứng kiến cảnh nầy trong các đợt phóng thích trước
đó. Vì vậy, chẳng ai dám giấu giếm một vật gì có di hại cho cái giờ phút quan
trọng nầy.
Đợt phóng thích đầu tiên, nhiều tù nhân bị giữ lại vì lén mang thư
của bạn bè gởi về cho gia
đình.
Sáng nay, trước khi có lệnh tập họp, Duy đã cẩn thận soát xét lại túi xách lần
cuối. Một bộ áo quần tù vá chằng vá đụp hàng trăm mảnh đủ loại vải nằm trong
chiếc bao cát có quai mang. Anh muốn đem bộ áo quần nầy về để giữ làm kỷ niê.m.
Tất cả vật dụng khác Duy đã phân chia cho bạn tù trong đêm hôm trước, ngoại trừ
chiếc mũ lưỡi trai mà Thoa, vợ anh đã vội vàng chạy ra phố mua cho chồng trước
khi lên đường trình diê.n. Duy còn nhớ, hôm đó nàng đong gạo cho mười ngày ăn và
một bộ quần áo dân sự nàng đã sắp sẵn trong chiếc ba lô. Thoa cũng không quên
đem cho Duy hai cây viết bic và một cuốn vở học
trò.
- Lột mũ đưa xem.
Tiếng quát của cán bộ Quản giáo làm Duy sực tỉnh.
Anh vội cầm chiếc mũ lưỡi trai đang đội trên đầu trao cho hắn. Y lận vành trong
chiếc mũ lên xem xét. Chợt, hắn chú ý đến vật gì ở bên dưới tàng mũ, rồi chuyển
ngay cho cán bộ trực đem trình lên ban giám
thị.
Một tiếng đồng hồ trôi qua, Duy hồi hộp đợi chờ. Chẳng biết có vấn đề gì nơi
chiếc mũ. Hai mươi chín bạn tù đã lần lượt rời khỏi trại chỉ còn lại mình Duy.
Gần giờ sau, Duy mới được lệnh vào trình diện phó giám thị. Lão cầm chiếc mũ đưa
trước mặt Duy, hỏi
:
- Chiếc nón nầy của
ai?
- Thưa cán bộ, của
tôi.
Lão lật ngửa chiếc mũ dí sát mặt Duy hỏi
:
- Ai viết hai dòng chữ nầy ?
Duy hoảng hốt nhớ lại chính mình đã viết hai
câu thơ vào đấy. Bảy nămtrong tù, chiếc mũ trở thành của quý. Không có dịp nào
để dùng nó.
Dù chiếc mũ ấy đã lấy ra cất vào chẳng biết bao nhiêu lần trong
các đợt khám xét đồ dùng của tù nhân. Duy đã quên khuấy hai câu thơ viết bằng
mực bút bi trong lúc nghỉ chân trên đường đến trại tập trung.
Đường đi rừng
núi trùng trùng, ngút ngàn xa tắp. Tương lai mù mi.t. Ngày về chỉ là niềm hy
vọng mong
manh.
- Anh câm rồi đấy hử
?
Tiếng quát của giám thị đã kéo tâm trí anh trở về với câu
hỏi.
-Vâng, chính tôi viết, Duy trả
lời.
Vậy ai đặt ra hai câu thơ nầy
?
- Cũng chính
tôi.
- Rõ ràng là anh cải tạo chưa tiến bộ, che giấu tư tưởng phản đô.ng. Anh còn
mơ một ngày về có “cờ vàng ba que” chào đón đấy hử
?
Rồi lão dằn giọng tiếp
:
- Một triệu quân Mỹ, một triệu quân ngụy được trang bị võ khí từ đầu đến
chân mà còn bỏ cha.y. Đảng ta lãnh đạo vô cùng sáng suốt. Quân đội ta giờ đây
hùng mạnh nhất thế giới. Anh đừng mong lật ngược
thế
cờ.
- Nhưng thưa cán bộ, hai câu thơ của tôi không có ý đó - Duy chống chế
.
- Không có ý đó à ? Nó rành rành ra đấy. Đứa trẻ nít cũng biết cái ý đồ
trong anh.
- Nầy
nhé: “Đường đi rừng núi ngút ngàn” ! Câu này nói lên lòng phẫn uất đối với đảng
và nhà nước đã giam cầm, đày ải các anh nơi rừng sâu nước đô.c. Có đúng không
nào?
Lại câu này nữa : “Đường về lụa nắng trải vàng em ơi !” Nắng mà bằng lụa à?
hay nhỉ. Lão ta trở giọng
quát:
- Chỉ có lá cờ vàng mới bằng lụa ! Anh mượn màu nắng để ví lá cờ. Anh còn
phải ở lại đây, phải cải tạo lâu dài cho đến khi nào tư tưởng của anh tiến bộ
thì mới được
tha.
Duy phân trần
:
- Thưa cán bộ, hai câu thơ ấy tôi viết cách đây bảy
năm.
- Tôi không cần biết cách đây bảy năm hay bảy ngày. Các anh là những tên
ngụy ác ôn có nợ máu với nhân dân. Đảng đã tập trung các anh vào đây để bảo vệ
mạng sống trước lòng dân đang căm hâ.n. Đã có một số “ngụy quân ngụy quyền” được
tha về bị đồng bào xử lý trên đường đi, anh có biết rõ điều đó không? Nói
xong, hắn ra lệnh Duy trở vào trại viết tờ tự kiểm và hẹn chờ cứu xét.
Duy
bước đi với cõi lòng tan nát. Nước mắt anh đầm đìa trên đôi má trũng sâu. Bảy
năm chịu đựng cuộc sống khổ nhục của một kiếp tù, anh chưa bao giờ để rơi những
giọt nước mắt yếu đuối. Duy khóc vì uất ức trước sự áp bức của kẻ mạnh, như lý
lẽ của loài cáo đối với một con cừu trong bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine: “La
raison du plus fort est toujours la meilleure” (Lý của kẻ mạnh bao giờ cũng
thắng).
Căn phòng vắng hoe. Mọi người giờ này đang
làm việc ngoài đồng, Duy vất chiếc túi, rồi vật mình trên sạp ôm mă.t. Anh để
cho nước mắt chảy ràn rụa không cần che giấu. Ngày 30-4-1975 Dương Văn Minh ra
lệnh cho quân đội đầu hàng, anh cũng đã để rơi những giọt nước mắt uất nghẹn,
chán chường như thế. Sức mạnh và hào khí vẫn còn ngùn ngụt trong anh, trong đơn
vị anh, bỗng dưng sức ép nào đã buộc anh
và chiến hữu phải buông súng đầu
hàng ?!
Nhân loại đã phê phán Tần Thủy Hoàng đốt sách, chôn học trò, Mao Trạch
Ðông đả phá toàn bộ nền văn hóa cổ truyền của Trung quốc... Nhưng đã có mấy ai
lên tiếng về hành động của cộng sản Việt Nam tịch
thu và đốt tất cả những văn
hóa phẩm không nằm trong quỹ đạo của Đảng. Chúng bỏ tù, thủ tiêu giới trí thức,
văn nghệ sĩ sống dưới chế độ cộng hòa Miền
Nam.
Trong tù, chúng đặt người theo dõi, nghe lén những ai có biểu hiện phản
kháng qua thơ văn. Điển hình là “vụ nhà thơ Trần Nguyên Bích”xảy ra tại trại tù
S.G.
Anh đã đọc hai câu thơ của Cao Bá Quát:“Ba hồi trống giục mồ cha kiếp,
Một nhát gươm đưa bỏ mẹ đời”mà chúnglên án anh là phản động dẫn đến cái chết của
vợ lẫn chồng một cách thê thảm trong cơn khủng hoảng tinh
thần.
Còn tù nhân Trần Xuân Lực chỉ vì bức tranh điêu khắc một thiếu nữ khỏa thân
trên bản gỗ mang tính nghệ thuật cao mà phải bị cùm gần tháng trời trong hầm
tối, mặc dù anh thực hiện theo lệnh của cán bộ quản giáo đô.i. Cái ti tiện của
con người cộng sản là đã không dám nhận lỗi mà còn tố ngược nạn nhân để lấp liếm
bản chất gian dối cố hữu của mình. Y lại chường cái bản mặt đồi trụy tô màu “đạo
đức cách mạng” để bảo vệ thẻ đảng đầy nhơ bẩn của y.
Trần Xuân Lực đã thoát
chết trong trận đánh hội đồng của bốn tên bộ đội du côn trong đêm khuyađể trả
thù cho tên quản giáo đội tên T. với lý do Lực đã khai thực với vị chính
ủy đơn vị cai quản tù nhân
tên người chủ bức tranh điêu khắc đó.
Trong nỗi
thất vọng tận cùng, Duy thiếp đi dưới cơn nóng bức của buổi trưa mùa
Hạ.
Chợt, có người đánh thức anh dậy, thì ra Trần Quang Trân. Anh từ khu sửa
chữa kỹ thuật của trại về phòng nhận cơm trưa. Trân ngạc nhiên vì Duy đã được
tha về sáng nay sao bây giờ vẫn còn nằm đây. Sau khi Duy cho biết vì
hai câu
thơ viết dưới tàng mũ từ năm 1975 mà bị giữ la.i. Trân nở nụ cười méo xệch, tâm
sự:
“Bọn mình còn lạ gì chiếc răng nanh của loài vươ.n. Bảy năm cai trị toàn cõi
đất nước, chiếc răng nanh dính đầy máu của bạo quyền Hà Nội đã hiện ra khiến cho
nhân dân miền Nam rợn người và ghê tởm”. Chợt Trân ghé vào tai của Duy nói nhỏ:
“Không về trước thì về saụ” Rồi để trấn an Duy đang trong cơn thất vọng, Trân
nói nhanh: “Ở lại còn có bọn mình. Nhiều điều lý thú cậu có dịp sẽ biết.
Nầy,
mình báo tin mừng cho cậu, tớ vừa ráp thành công một chiếc radio bỏ túi.
Làn
sóng rất mạnh, có thể nghe được đài VOA và BBC, đang trong giai đoạn trắc
nghiệm, chưa hoàn tất. Bí mật đấy nhé ! Khi nào xong mình sẽ cho cậu “vào tổ
hợp”.
Trân quay lưng đi xuống nhà bếp, một tay cầm chiếc ca đựng cơm, tay kia xách
chiếc lon guy-gô đã lên màu đen nhánh của khói bếp. Miệng huýt gió đoạn nhạc :
Tung cánh chim tìm về tổ ấm...
Trung úy Trần Quang Trân, chuyên viên điệân
tử được đào tạo tại Nhâ.t. Anh phục vụ tại phòng truyền tin thuộc Tiểu khu Thừa
Thiên. Khi miền Trung mất vào tay quân Bắc Việt, Trân bị kẹt lại tại vùng 1
chiến thuật và bị bắt vào trại tù cải
ta.o.
Trong thời gian quản lý của bộ đội cộng sản,Trân được trung đoàn bộ xử dụng
làm chuyên viên sửa chữa điện thoại, các loại máy truyền tin cũng như các trạm
ra đacủa quân đội Mỹ bị hư hỏng. Dịp nầy, cán bộ, bộ đội tác oai tác quái buộc
anh sửa chữa các loại radio của cá nhân hoặc của gia đình. Anh nhất quyết từ
chối và yêu cầu họ phải cógiấy giới thiệu của cán bộ quản lý trực tiếp và
điều hành công việc của anh đang làm. Một đêm tối trời, anh bị đẩy ra
ngoài sân trại, đám bộ đội côn đồ xúm nhau đánh hội đồng. Sống dở chết dở, anh
nằm trạm xá mất hai tuần lễ. Sau đó, Trân được ban lãnh đạo quyết định cho anh ở
hẳn tại căn phòng biệt lập trong khu cán bộ.
Tháng Mười năm 78, Trần Quang
Trân được chuyển giao qua bộ công an quản lý cùng với một số tù nhân từ các trại
tập trung dồn vào trại tù Tiên Lãnh. Tại đây, trại dành cho anh một cái chòi nhỏ
nằm riêng biệt trong khu nhốt tù để làm nơi sửa chữa các loại máy móc thuộc về
điện tử từ các nơi đem
đến.
Cộng sản định nghĩa thế nào là nợ máu để phải cải tạo lâu dài như theo chính
sách đã đề ra ?
Trần Quang Trân là chuyên viên kỹ thuật, nợ máu đâu chẳng
thấy mà chỉ thấy anh làm lợi cho đảng và nhà nước kéo dài đến bảy năm. Họ đã lợi
dụng tài năng, bóc lột sức lao động trên mồ hôi, nước mắt của anh bằng những năm
tháng“nước sông công tù”.
Buổi chiều, sau khi cơm nước xong, tù nhân
được phép đi dạo ngoài sân tra.ivài mươi phút đồng hồ trước khi vào phòng khóa
cửa. Trân hớn hở rỉ vào tai Duy:
“Xong rồi, đêm nay hai đứa mình thử nghe
đài VOA. May mắn là mình lượm được chiếc ê-cút-tơ trong đống máy móc phế thải
của chúng nó mang về, sửa lại nghe rất rõ bảo đảm giữ được bí mật”.
Đúng giờ, Trân và Duy nằm chụm đầu vào nhau như đang thì thầm tâm sự. Bên
dưới gối là chiếc radio được hóa trang như một hộp đựng thuốc hút bỏ túi.
Giọng của xướng ngôn viên quen thuộc phát ra từ trong hộp thuốc : “Đây
là Tiếng Nói Hoa Kỳ phát thanh từ Thủ đô Hoa Thinh Đốn
…”
Lòng Duy bỗng rộn lên như gặp lại người bạn cố tri sau bao năm xa cách.
Tiếng nói từ bên kia nửa vòng trái đất mà chàng cảm thấy thật gần gũi, thân
thương. Đối với tù nhân trong chế độ cộng sản, được
nghe
những tin tức trung thực từ thế giới bên ngoài là món ăn tinh thần quý giá để
nuôi dưỡng và bồi đắp niềm tin. Bản tin tức đầu tiên họ nghe được là tướng Mỹ
Vessey sẽ đến Việt Nam để tiếp tục thương lượng tìm kiếm số lính Mỹ còn mất tích
trong chiến cuộc và và mở đầu cuộc thảo luận giữa Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn trong
chương trình“Tái định cư tù cải
tạo”.
Cảm ơn“chiếc hộp thuốc”, cảm ơn Trần Quang Trân, người bạn tù tài năng đã
cho Duy luồng sinh khí làm bừng dậy nguồn hy vọng gần như lịm tắt trong những
ngày qua. Duy thì thầm đọc kinh cầu nguyện dâng lời tạ ơn lên Thiên chúa.
Lần
đầu tiên trong bảynăm, giấc ngủ êm đềm đến với Duy trong giấc mơ chói lòa
hào quang rực rỡ. Duy mơ thấy Thoa cùng hai con đứng đón chàng tại cổng trại có
cả thân nhân của các bạn tù khác và đồng bào địa phương đến tham dự cuộc tiếp
rước tù rất nồng
nhiê.t.
Bỗng, một loạt súng nổ vang.Tiếp theo là tiếng kẻng báo động và tiếng chân
người chạy rầm rập bên ngoài sân tra.i. Duy giật mình tỉnh giấc. Tù nhân trong
phòng kẻ đứng người ngồi ghé mắt nhìn qua cửa tò vò. Đội công an bảo vệ hối hả
lục soát hai bên bờ tường thành. Đèn bật sáng, cửa phòng mở tung ra. Cán bộ quản
giáo đội bước vào, quát lớn
:
-
“Tất cả ngồi vào vị trí điểm danh, bắt đầu đội trưởng”. Số 1Phan
Văn M, số 2, 3, 4... 60 đội phó Cao Khanh, đủ. Cán bộ lặng lẽ rời khỏi phòng,
đóng sầm cửa la.i. Không khí ngột ngạt đồng lõa với bóng đêm đè nặng lên tâm não
người
tù.
Buổi sáng, cửa phòng giam vừa mở là mọi người ùa ra ngoài xem cớ sự của đêm
qua ra sao. Dãy phòng bên kia, anh em tù đang dáo dác nhìn lên đầu tường cuối
tra.i.
Một xác người nằm treo vắt vẻo nửa ngoài nửa trong trên đường dây kẽm
gai ở đầu tường. Nạn nhân mặc bộ quần áo xanh bộ đội đã bạc màu. Máu nhuộm đỏ
trên đầu vách và chảy mộït đường dài đã khô cứng. Kẻ trốn trại không ai khác hơn
là tên trật tự, tù hình sự nghiện xì ke ma túy và trộm cắp. Hắn lợi dụng sự tự
do đi lại hàng ngày móc sẵn vào cọc trụ đầu góc tường một sợi dây để nửa đêm
trốn thoát. Bị cán bộ tuần tra phát giác trong lúc hắn đang chun qua hai đường
dây kẽm gai. Một loạt súng đã kết liễu đời hắn.
“Chiếc hộp thuốc”nghe được
đài BBC khá rõ nhưng đa số cựu quân nhân miền Nam không thiện cảm với đài nầy.
Thời điểm 1975, tiếng nói ấy đã gây tác hại không nhỏ cho tinh thần chiến đấu
của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Họ đã tường thuật sai lệch, nói đúng hơn là
thiên vị cộng sản Bắc Việt trong các trận đánh của hai lực lươ.ng.
Một tháng
sau, trại tăng cường Nguyễn Mậu Lân phụ giúp cho Trần Quang Trân trong việc sửa
chữa máy móc. Lân từ một đội khác điều về, cũng là bạn tù trên bảy năm cả nên
Trân đã dễ dàng kết nạp Lân vào“tổ hợp thuốc hút” không đắn đo.
Những
tin tức
nào quan trọng có tính cách thời sự quốc tế liên quan đến Việt Nam la“tổ
hợp”phát đi bằng cách rỉ tai theo dây chuyền cho tù nhân lên tinh thần.
Thời
gian thuận lợi nhất là giờ tản bộ trên sân sau bữa ăn chiều. Bản tin của
đêm
trước lập tức được loan truyền nhanh chóng cho hầu hết anh em tù chính
trị toàn
tra.i.
“Tổ hợp Thuốc hút” dần dần quy tụ đến mười
bảy người. Thành phần là cựu sĩ quan, còn lại là vài viên chức chính quyền miền
Nam. Những bản tin nghe được từ đài VOA, anh em tù càng thêm phấn kích trước
tình hình....nên “Tổ hợp”dự tính tổ chức một lực lượng hành động một khi thời cơ
đến.
* *
*
Những cánh rừng tiếp nối vây quanh tạo thành vòng đai kiên cố khiến khu trại 1
Tiên Lãnh trở thành chiếc hộp dưới nắng hè nung đốt. Vách tường xây bằng gạch
xi-măng giữ sức nóng âm ỉ đến tận
đêm khuya. Tù nhân nằm sắp lớp, san sát
trên hai dãy sạp bện bằng tre lồ ô trong phòng kín ngột nga.t. Người nóng hâm
hấp như lên cơn sốt. Họ cởi hết áo quần cố dỗ giấc ngủ, hầu lấy lại sức cho buổi
lao động ngày
mai.
Ánh trăng mười tám sáng vằng vặc trên đỉnh
trời. Sự yên ắng về đêm nghe rõ mồn một từng tiếng dế kêu rả rích, thêm tiếng
vượn hú từ xa vọng về tăng phần ảo não của cảnh rừng đêm hoang vắng. Khu trại tù
đang chìm trong cảnh tịch mịch, bỗng tiếng chân người chạy rầm rập, tiếng đạn
lên nòng lách cách. Ðoàn người vũ trang bủa vây căn nhà số
12.
Cửa mở, đèn phòng bật sáng. Một cán bộ ra lệnh : “Tất cả nằm yên tại chỗ,
không được động đậy”. Hắn đưa ánh mắt cú vọ nhìn khắp phòng rồi
tiếp:
- “Áo
quần chăn chiếu để nguyên trạng, từng người một, hai tay đặt
lên
đầu, bước ra khỏi
phòng”.
Sáu mươi tù nhân thân mình trần trùi nối đuôi nhau bước qua hai chặng kiểm
soát do bốn tên công an lạ mặt soát xét trên thân thể từng người. Xong, chúng
dồn tù ngồi gom vào một chỗ có sẵn tiểu đội vũ trang chĩa súng canh giữ. Số công
an khác vào phòng kiểm tra áo quần mền gối và bên dưới sạp giường
nằm.
Dường như toán lục soát đạt được mục đích mau lẹ nên họ ngừng tay. Một tên
công an lạ hoắc đọc tên những tù nhân sau đây đứng vào một góc : Trần Quang
Trân, Nguyễn Mậu Lân, Trần Củng Duy, Võ Tá Hưng và Lê Minh. Chúng xích tay từng
người, rồi áp giải lên ban giám thị trước những cặp mắt ngỡ ngàng của bạn tù. Số
còn lại được lệnh trở vào phòng.
Một tuần lễ kế tiếp, đội tù chính trị nào
cũng đều có người bị gọi lên cơ quan tra vấn và viết tờ tự kiểm. Trọng tâm tờ
kiểm điểm là phải thành thật khai báo đã nhận được tin tức phản động nước ngoài
do người nào đưa tin và đã rỉ tai cho những
ai.
Hết người nầy qua người khác, họ khai lẫn lộn cho nhau thành dây chuyền, cứ
như thế hầu hết số tù nhân chính trị trong cùng một khu đều bị viết kiểm
điểm.
Trần Quang Trân bị áp giải về Ty Công an ngay trong đêm hôm đó cùng với
tang vật là chiếc radio được hóa trang như chiếc hộp đựng thuốc hút. Một tháng
trời đằng đẵng, chúng khai thác anh để tìm ra động cơ nào đã khiến anh làm ra
chiếc radio nghe đài ngoại quốc và có ai bên ngoài tiếp tay, cung cấp các linh
kiện cho anh lắp
ráp.
Hàng chục lần lấy khẩu cung, hàng trăm lần viết tường thuật, Trần
Quang Trân
vẫn giữ nguyên lập
trường:
- Không có động cơ chính trị nào ở bên
ngoài thúc đẩy anh cả, mà do thói quen nghề nghiệp, thích tìm tòi và phát
kiến.
- Những linh kiện dùng để làm thành chiếc radio bỏ túi đều được anh tận dụng
từ trong đống vật liệu phế thải do ban giám thị mang về. Cũng từ “đống rác”điện
tử nầy mà anh đã sửa chữa, phục hồi hàng trăm máy truyền tin, TV, radio,
cassette và những dụng cụ điện tử khác cho toàn thể cán bộ trong trại,
ngoài
trại và hầu như cho cả ty công
an.
Riêng bốn người còn lại Duy, Minh, Hưng và Lân bị giam tại tra.i. Họ cũng
không khai báo điều gì mới mẻ. Riêng Trần Củng Duy xác nhận nghe đài trực tiếp
và thông báo những tin tức đã nghe được cho bạn tù.
Một phiên tòa
được mở ra tại hội trường của trại, cũng đầy đủ mâm bát các nhân vật của
một
“Tòa án Nhân dân”. Để dằn mặt tù nhân, toàn tổng trại được lệnh tập trung về
tham dự phiên tòa.
Mười lăm
tù phạm có liên hệ trực tiếp thành lập
lực lượng
nổi loạn trong tù, nghe đài nước ngoài và loan truyền tin tức trong trại
đứng
sau vành móng ngư.a. Điều đáng để ý là phiên xử được sắp đặt theo lớp
lang như
trình diễn một tuồng ki.ch. Nhưng không khí vô cùng nặng nề đầy trấn áp.
Không
luật sư biện hô..Bi. cáo không được đối chất trước tòa và điểm nổi bật
hơn cả là
“Tòa án Nhân dân” thể hiện rõ ràng tính công cụ của đảng. Một bản cáo
trạng dài
lòng thòng quy chụp các bị cáo làm gián điệp cho ngoại bangvà âm mưu
phản
đô.ng.
Trước khi tuyên án, tòa dành cho mỗi bị cáo hai phút để phát biểu “lời
nói cuối cùng”. Các phạm tù đều từ chối. Riêng Trần Củng Duy tuyên bố trước tòa
anh chịu trách nhiệm về việc loan truyền những bản tin tức đã nghe được từ đài
VOA, các bạn tù khác hoàn toàn vô
tô.i.
Đến phiên Trần Quang Trân, anh điềm nhiên quay mặt về phía cử tọa tham dự,
với ánh mắt đầy cương nghị, anh nhìn khắp lượt đám đông bạn tù, rồi dõng dạc nói
:
“Tôi rất
tiếc là không đem được tài năng của mình để phục vụ đồng
bào và
quốc gia dân
tộc”.
Sau mười phút nghị án cho ra vẻ là một phiên tòa, bản án đã được định sẵn
như
sau:
- Hai án
5 năm, bốn án 7 năm, năm án 15 năm, Trần Củng Duy, Lê Minh
và Võ Tá
Hân bị án 18
năm
-Trần Quang Trân : Tử hình
Toàn thể hội trường như chết lặng trước bản án tử hình đối với Trần Quang
Trân. Ôi, nhân tài của tổ quốc. Người chiến sĩ đã dành cả tâm huyết và tài năng
của mình để phục vụ đất nước, giờ đây bạo quyền đã ra tay hủy
diê.t.
Trần Quang Trân từ khước làm đơn xin ân xá. Anh chấp nhận cái chết để giữ
tiết tháo của một chiến sĩ. Khí tiết đó anh đã tuyên xưng lưới lá quân kỳ với
lòng trung kiên, bất khuất trước quân thù. Gương sáng đó như ngọn lửa sẽ giữ mãi
trong tim các chiến hữu dẫu đang sống trong cảnh đọa đày.
Đúng mười lăm ngày
sau phiên xử, chúng đem Trần Quang Trân đến Hố Ông Hức để thi hành bản án. Nơi
đây đã có một cái huyệt đào sẵn, một chiếc chiếu và tấm gỗ ghi nguệch ngoạc họ
tên của tử tù. Bên kia bờ ruộng, người con gái làm công việc dặm lúa, đang ngồi
ăn cơm trưa sau lùm cây che nắng theo dõi toán công an vũ trang áp giải người tử
tù đến bên chân đồi sắn. Trước hết, tên công an chỉ
huy toán hành quyết mở
cùm tay, mở băng vải che mắt để tử tù dùng bữa ăn cuối cùng ngay tại pháp
trường.
Trần Quang Trân vươn vai đứng dậy, quay mặt về hướng mặt trời mo.c. Mặc dù
dây xích sắt nặng nề vướng víu đôi chân, anh vẫn cố đánh chân vào nhau trong tư
thế đứng nghiêm của lễ thượng kỳ. Anh đưa tay chào theo quân cách của người
chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời miệng hô lớn : “Việt Nam Cộng Hòa Muôn
Năm!”
Bỗng, tạch tạch, đoành đoành của nhiều khẩu súng thay nhau nhả đạn vào đầu,
vào ngực và toàn thân anh. Bầy chim xanh ẩn mình trong vòm cây cổ thụ hoảng hốt
vụt bay.
Trần Quang Trân qụy xuống bên mâm cơm. Máu chảy đầm đìa trên thân
thể anh, máu chan đầy bát cơm trắng, máu nhuộm đỏ những miếng thịt heo luộc như
chính thịt anh bị cắt ra hãy còn tươi
sống.
Không ai biết có một người con gái giấu mặt vào đôi tay, gục đầu trên hai
gối nấc
lên.
Toán công an kéo xác tử tù bỏ xuống hố, vất chiếc chiếu trên thi thể
cùng mâm cơm cuối cùng mà anh từ chối không ăn, rồi vội vã lấp đất sơ sài. Tấm
gỗ mang tên Trần Quang Trân bỏ nằm bên miệng hố.
Chúng kéo nhau ra về như bầy
kên kên vừa rỉa xong xác
chết.
Qua
cơn đau đớn tận cùng, cô gái tỉnh la.i. Nàng vội chạy đến mộ Trân ôm tấm bia gỗ
vào lòng khóc tức tưởi. Cô gái nầy là ai mà thương tiếc kẻ tử tù
?
Xin thưa, đó là cô Lê Thị Xuân, một nữ tù nhân cùng trại Tiên Lãnh, người đã
thán phục và yêu thầm người chuyên viên điên tử tài hoa Trần Quang Trân.
Biết
bao nhiêu lần từ bên kia hàng rào thuộc khu tù của nữ giới, nàng đã đứng nhìn
chàng với ánh mắt si
mê.
Xuân đã được phóng thích từ sáu tháng trước. Nàng đã theo dõi nội vụ của
Trân và đồng bạn từng ngày từng giờ. Nàng đã đến trại thăm nuôi vài lượt , nhờ
mấy chị bạn tù gởi thức ăn cho chàng nhưng luôn bị cán bộ từ
chối.
Trong mấy ngày qua, lòng Xuân bỗng dưng bồn chồn, thôi thúc nàng lên trại
thăm nuôi.
Xuân có
linh cảm lần nầy sẽ gặp Trân. Thế là nàng ra đi
với gói
cơm nếp và xách bánh ngo.t. Vừa lên đến gần ngả ba đi vào Hố Ông Hức,
nàng nhìn
thấy từ xa có đám công an đang áp giải một tù nhân bị bịt mắt. Xuân khả
nghi
liền chạy rẽ về phía hố núp vào trong bụi, giả dạng làm người giặm lúa
nghỉ ăn
trưa và nàng đã chứng kiến cái chết rất dũng cảm của Trần Quang
Trân.
Xuân chôn tấm bia gỗ ở dưới chân mộ, rồi lấy gói xôi và bánh ngọt đặt trên
mộ
chàng.
Một tuần lễ sau, những tù nhân đi đốn củi qua khu nghĩa địa tù lấy làm ngạc
nhiên thấy ngôi mộ Trân trở nên tươm tất, đất vun cao và những mảng cỏ xanh rờn
đắp lên nấm mộ. Rồi một tấm bia bằng xi-măng lại xuất hiê.n. Người dựng bia đã
cố ý ghi : “Nơi yên nghỉ củaKỹ Sư Trần Quang Trân, hy sinh ngày 19 tháng
Sáu năm 1982.
Người quý trọng nhân tài phụng
lập.”
Kể
từ mùa Xuân năm ấy, khi mặt trời lên quá ngọn tre là ngôi mộ của Trân nở
rực rỡ loại hoa tý ngọ, khiến cho anh em tù mỗi lần đi ngang qua là không nén
được cơn xúc động trước tâm hồn cao thượng của một người con gái thuộc nấc thang
cuối cùng của xã
hô.i.
Một bản nhạc phổ bài thơ “Giữ Lửa Trong Tim” đã được bạn tù lén lút truyền
cho nhau. Đúng vào đêm tuần một trăm ngày Trần Quang Trân bị xử bắn, đèn phòng
vừa tắt, bỗng cả đội nghe tiếng hát của một người tù cất lên từ trong góc phòng
với giọng ca đầy bi tráng . Anh em trong phòng đồng loạt ngồi dậy trong bóng
đêm, như phút mật niệm để tưởng nhớ người bạn tù ra đi đã để lại tên anh sáng
ngời : TRẦN QUANG TRÂN!
Dẫu biết ngày nao về với
núi,
Nghìn năm hóa thạch thịt xương
đau.
Anh ra đồi bắn đầu không
cúi,
Bạn ngẩng mặt cao, giấu tủi
hờn!
Từng loạt súng vang, những dấu
giày,
Thây vùi sâu cạn chẳng cần
hay.
Bao năm căm hận trong xiềng
xích,
Những tiếng hô - mươi dấu đạn
cày!
Ngực máu đỏ loang, mặt nát
nhầy,
Đạn thù nào chọn điểm tim
ngay.
Anh đi về đất hồn siêu
thoát,
Em chết nửa đời với đắng
cay!
Như phép thần thông – làn sóng
điện
Từ trong hộp thuốc phát đài
VOA.
Bao ngày góp nhặt từng linh
kiện,
Anh tạo cho tù một máy
thu.
Sau bữa cơm chiều, cửa đóng
then,
Phòng giam le lói ánh vàng
đèn.
Đêm nghe tiếng vọng từ châu
Mỹ,
Rộn rã, lòng nghe đỡ nhọc
nhằn!
Bầy cẩu quen mùi săn. Phát
giác,
Cả phòng thêm một lớp lao
lung.
Mười tù nhận tội, mươi tù
thoát,
Anh chịu tử hình, chết thủy
chung!
Giết một nhân tài của tổ
quốc
Hận thù hơn cả nghĩa non
sông.
So ra bạo chúa còn thua
cuộc,
Loài sói kia còn nghĩ giống dòng
!?
Đứng trước mộ chàng
giữa núi
non
Tim em hực lửa – lửa căm
hờn.
Trong cơn nắng Hạ rừng khô
khốc
Mà mắt em đầy giọt lệ
tuôn!
Haọ Nhiên Nguyễn Tấn
Ích