BUDDHA'S CHILD CỦA NGUYỄN CAO KỲ
Cựu Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ vừa cho
trình làng "tác phẩm" thứ nhì của ông, Buddha’s Child, My Fight to Save
Vietnam. Sách dày 372 trang, do nhà xuất bản St. Martin’s Press in tại
New York. Bìa cứng, bao bìa in hình ông Kỳ, có lẽ chụp trong thập niên
60, thuở huy hoàng nhất của tác giả, khi ông còn nắm trọn quyền lực trên
chính trường miền Nam.
Phải công nhạân nội dung cuốn sách rất lôi
cuốn, gần như một thứ tự truyện, với nhiều chi tiết khá hấp dẫn qua
những chặng đời ông, từ lúc thân mẫu tác giả lên chùa Hương cầu xin Phật
ban cho mình một mụn con trai, thời thơ ấu, giai đoạn đi kháng chiến,
năm tháng quân ngũ, những trớ trêu của lịch sử Việt Nam sau cuộc đảo
chánh tháng 11 năm 1963 đưa đẩy một người chiến sĩ với kinh nghiệm quản
trị rất giới hạn, đi vào chính trường, nắm giữ chức vụ quan trọng nhất
miền Nam trong hơn hai năm đầy sóng gió và thử thách.
Đây có thể coi như đoạn đời vinh quang
nhất của tác giả, khi ông đã đạt tới tột đỉnh danh vọng: trong nước thì
quyền hành không ai sánh bằng; ngoài nước thì tiếp xúc ngang ngửa với
các nhà lãnh đạo tầm cỡ quốc tế.
Sau những thành tích ngoạn mục, dẹp loạn
miền Trung, ổn định giá gạo (bằng cách mời bảy tay đầu nậu chuyên làm
giá gạo vào văn phòng, bắt mỗi người ghi tên mình vào một mảnh giấy, bỏ
vào mũ, chờ bốc thăm, và cho họ biết, trong vòng một tuần, nếu giá gạo
không xuống, họ sẽ phải trở lại văn phòng ông để bốc thăm. Bốc trúng tên
ai, chính ông sẽ xử bắn người đó), bài trừ tham nhũng, dẹp sòng bạc quy
mô của tướng Phạm Văn Đổng, lập pháp trường cát xử tử Tạ Vinh, trực
tiếp chỉ huy và điều động toàn thể quân đội trong trận Mậu Thân (khi ông
Thiệu không có mặt ở Sài gòn, vì đã về Mỹ Tho ăn Tết) ..., đem lại ổn
định và trật tự cho miền Nam.
Đem lại ổn định và trật tự cho miền Nam là thành tích khiến cho tác giả hãnh diện nhất.
Trong cuộc dẹp loạn miền Trung, theo tác
giả kể lại, ông Kỳ nghe tướng Viên báo cáo là trung tướng tư lệnh Thủy
Quân Lục Chiến My,õ Lewis Walt, cố vấn trưởng quân đoàn I, đã dọa cho
phi cơ F4 của Mỹ bắn hạ phi cơ Skyraiders của không quân Việt Nam nếu
phi cơ Việt Nam bay lên để yểm trợ cho lực lượng trên bộ của tướng Viên.
Ông Kỳ đã ra lệnh cho tướng Viên đặt sáu
khẩu bích kích pháo cỡ lớn nhất hướng vào bộ chỉ huy của tướng Walt, và
nạp đạn sẵn sàng để tiêu diệt tổng hành dinh Thủy Quân Lục Chiến Mỹ, nếu
phi cơ Mỹ dám đụng đến phi cơ Việt Nam.
Sau đó, ông Kỳ mời đại sứ Mỹ Cabot Lodge
đến văn phòng gặp ông gấp. Được đại sứ Mỹ xác nhận hành động của viên
tướng Mỹ chỉ là quyết định cá nhân, không phải chính sách của chính phủ
Mỹ, ông Kỳ yêu cầu ông Lodge bảo cho tướng TQLC Mỹ biết đây là việc nội
bộ của VNCH, và không muốn người Mỹ can dự vào.
Xong xuôi, ông Kỳ leo lên khu trục cơ A-37, bay thẳng ra Đà Nẵng.
Biết ông Kỳ đến, tướng Walt gọi điện thoại mời ông Kỳ sang tổng hành dinh TQLC. Ông Kỳcho phụ tá trả lời: Bận lắm.
Tướng Walt gọi lần thứ nhì. Lần này, ông
xin được sang gặp ông Kỳ. Ông Kỳ cho phụ tá trả lời y như lúc nãy: Bận
lắm. Không có thì giờ.
Khi gọi lần thứ ba, tướng Walt cho biết ông ta gọi ông Kỳ theo yêu cầu của Dean Rusk (ngoại trưởng Hoa Kỳ).
Lúc ấy, ông Kỳ mới bảo phụ tá: " Được rồi, bảo hắn qua."
Sau đây là nguyên văn lời kể của ông Kỳ. Đoạn văn này có thể coi như một trong những đoạn hào hứng nhất trích từ cuốn sách:
"....Khoảng ba mươi phút sau, Walt tới.
Ông ta to lớn, gân guốc, mặc đồ rằn ri TQLC. Đi theo phía sau là một
người Mỹ nhỏ con nói tiếng Việt rất sõi. Tôi đã xem phim quay cảnh người
này, một viên chức tại lãnh sự quán Mỹ ở Huế, tham dự những cuộc biểu
tình của Phật giáo chống chính phủ.
Khi họ bước vào văn phòng tạm của tôi, tôi vẫn ngồi yên trên ghế trong lúc họ giơ tay chào theo quân cách.
"- Ngồi xuống, " tôi nói. "Này ông tướng, ông muốn gì?"
Ông ta đáp:
"-Tôi muốn biết về các cuộc hành quân. Có những cuộc chuyển quân, và tôi muốn biết chuyện gì đã xảy ra. "
Tôi nhìn ông ta chăm chăm một lúc lâu:
"- Ông tướng ở trong quân đội bao nhiêu năm rồi?"
Tôi có thể thấy ông ta chưa chuẩn bị sẵn sàng cho câu tôi vừa hỏi.
"- Hai mươi ba năm," ông ta đáp.
Tôi nhìn ông ta một lúc lâu hơn:
"- Ông đã ở quân ngũ hơn hai mươi năm,
vậy mà ông không có một chút ý niệm nào về hệ thống quân giai hết! Tại
sao ông nghĩ rằng ông có quyền hỏi tôi về chuyện hành quân? Là tổng tư
lệnh quân đội, có những lúc, nếu tôi muốn, tôi có thể cho thuộc cấp biết
trước cả ba mươi ngày, những gì tôi sẽ làm. Mà có thể tôi sẽ đợi đến
khi bắt đầu cuộc hành quân, mới cho họ biết. Hoặc có thể, cho họ biết
sau. Tất cả đều do tôi thôi. Thuộc cấp không có quyền hỏi tôi. Hệ thống
quân giai là thế đấy. Ông có biết ông đang nói chuyện với ai đây không?"
"-Có. Với thủ tướng."
"- Như vậy thì làm sao ông cho rằng ông có quyền hỏi tôi những chuyện đó?"
Câu hỏi của tôi treo lơ lửng nhiều giây
đồng hồ trong căn phòng gắn máy lạnh của chỉ huy trưởng căn cứ. Những
giọt mồ hôi rịn ra trên khuôn mặt tướng Walt.
Cuối cùng, ông ta trả lời:
"- Ồ, vì tôi cũng là cố vấn của tư lệnh
quân đoàn I. Mọi sự ở đây đang yên ổn. Chẳng có vấn đề gì cả. Tại sao
tự nhiên chính phủ cho chuyển quân?"
"- Này ông tướng, ông là cố vấn quân sự, lo vấn đề quân sự thôi. Còn đây là vấn đề chính trị, và việc nội bộ của Việt Nam! Ông không có quyền xía vào. Ông có hiểu điều đó không?"
Bây giờ thì khuôn mặt tướng Walt toát mồ hôi đầm đìa, ướt cả cổ áo.
Tôi tiếp tục:
"- Này ông tướng, tôi hiểu rằng ông đã
đe dọa dùng quân lực Mỹ để đánh chúng tôi. Ông biết rằng tôi có thể dùng
điện thoại này gọi ông Johnson, tổng tư lệnh của ông. Tôi mà gọi, thì
bảo đảm là chỉ trong vòng năm phút, ông sẽ chuẩn bị khăn gói về nước
thôi. Bây giờ ông đã nghe tôi rõ rồi, ông có thể về đi."
Walt đứng dậy, giơ tay chào, và rời văn phòng. Đoàn tuỳ tùng cuả ông ta theo sau..."
Trong sách có nhiều đoạn khá cảm động cho
thấy khía cạnh rất dễ thương của ông Kỳ: Sau hơn 20 năm, ông vẫn nhớ đến
Takahashi, người trung sĩ Nhật ông quen biết và thân thiết hồi còn nhỏ.
Tác giả đã nhờ chính phủ Nhật tìm ông này, nhưng không thành công.
Chuyện tình đơn phương hơn năm mươi năm
(và vẫn còn tiếp tục) của tác giả với Tường Vân, cô gái Hà nội; tình yêu
hoàn toàn trong sạch hơn ba mươi năm của ông với Cẩm Vân, người thiếu
nữ Nha Trang, cho đến khi nàng qua đời, đã được kể lại bằng giọng văn
lãng mạn, chân thành, khiến người đọc xúc động.
Tác giả cũng kể lại những thành tích ngoại
giao của ông, các cuộc nói chuyện tay đôi với tổng thống Mỹ Johnson và
Nixon, các thủ tướng Úc, Thái Lan, Mã Lai..., những cuộc tiếp xúc với
báo chí và dân chúng tại Úc, Mỹ...nơi ông Kỳ phô diễn ngoạn mục tài hùng
biện và cá tính mạnh mẽ, hấp dẫn của ông.
Nhưng kể từ cuộc bầu cử tổng thống 1967,
ngôi sao lãnh đạo Nguyễn Cao Kỳ bị lu mờ, sau khi tác giả, vì quá quân
tử Tầu, vì tội nghiệp tướng Thiệu "sắp oà khóc" (trang 245) lúc biết hội
đồng tướng lãnh quyết định cho ông Thiệu giải ngũ, đưa ông Viên lên làm
quốc trưởng, và đề cử ông Kỳ đại diện quân đội ứng cử tổng thống.
Trong một tích tắc yếu lòng, vì thương hại
đối thủ, ông Kỳ đã yêu cầu hội đồng quân lực hãy cho ông trở về không
quân, và nhường cho ông Thiệu đại diện quân đội ra ứng cử tổng thống.[1]
Quyết định nông nổi đó đã khiến ông Kỳ suốt đời ân hận!
Chương cuối cùng, người ta thấy một Nguyễn
Cao Kỳ già dặn, chín chắn hơn, và chắc chắn, đã khôn ngoan hơn ba bốn
chục năm xưa rất nhiều. Ông đưa ra một số tiên đoán về tình hình chính
trị Việt Nam và thế giới. Một số tiên đoán của ông đã trúng phóc. Một số
hãy còn chờ thời gian trả lời.
Nói chung, qua Buddha's Child, My Fight to Save Vietnam,
người đọc có thể thấy lòng tha thiết của tác giả Nguyễn Cao Kỳ đối với
đất nước. Ông lạc quan tin tưởng nơi thế hệ lãnh đạo Việt Nam trong
tương lai. Những người này, theo ông, sẽ đưa quốc gia Việt Nam hướng về
mô thức phát triển kinh tế của Âu Châu và Hoa Kỳ. Ông tin rằng một khi
Việt Nam đi vào con đường kinh tế tư bản, dân chủ và một nền pháp trị sẽ
đi tiếp theo sau.
* * *
Ông Kỳ viết cuốn sách này chung với Marvin
J. Wolf. Nhưng qua một số chi tiết, người đọc tự hỏi phải chăng ông Kỳ
đã khoán trắng cho người Mỹ này, đến nỗi những chi tiết rất tầm thường,
ông cũng bỏ qua, không để ý tới, chẳng chịu kiểm soát lại, thật đáng
tiếc!
Trang 18, ông Kỳ cho biết khi về lại Hà
nội, ông theo học trường Trung Học Bảo Hộ, còn gọi là Trường Bưởi (tác
giả ghi là Lycée du Protectorate). Tên trường học này được nhắc lại hai
lần trong trang 18, và còn ghi lại trong phần phụ lục, trang 357 nữa!
Trong tiếng Pháp, khi de cộng với le = du,
thì danh từ phía sau phải là giống đực. Đây là luật sơ đẳng mà một học
sinh lớp đệ thất phải thuộc lòng. ông Kỳ đỗ Tú Tài phần thứ nhất, sinh
ngữ chính là Pháp văn, năm 1951. Tiếng Pháp của ông phải giỏi lắm (không
giỏi, làm sao cặp bồ được với gái Pháp tưng bừng, thuở đi sang Tây học
lái máy bay?), lẽ nào ông lại không biết trong tiếng Tây chỉ có chữ
Protectorat mà thôi? [2]
Trang 128, khi kể tên những người trong
nội các, ông Kỳ cho biết ông Nguyễn Văn Trường nắm bộ giáo dục. Bác sĩ
Trần Ngọc Ninh, một cộng sự viên cũ của ông Kỳ, nếu còn đang sống ở
Orange County, hẳn là ngạc nhiên lắm, khi thấy ông Kỳ đã quên mình. Oâng
Nguyễn Văn Trường không hề làm ủy viên giáo dục cho ông Kỳ. Oâng Trần
Ngọc Ninh mới là Uûy viên giáo dục trong nội các chiến tranh của Nguyễn
Cao Kỳ.
Phải đến chính phủ Trần Văn Hương, mới tới lượt ông Nguyễn Văn Trường nắm bộ giáo dục.
Trang 129, ông Kỳ cho biết bác sĩ Trần Văn Đôn phụ trách bộ ngọai giao!
Ở chính trường miền Nam trước 1975, không hề có một ông bác sĩ Trần Văn Đôn nào hết.
Trong ngành ngọai giao, người ta chỉ biết,
và nhớ đến bác sĩ Trần Văn Đỗ, vị chính khách đã khóc năm xưa, khi hiệp
định Genève được ký kết.
Trang 157, ông Kỳ nhắc đến bộ bình định và
một ông ủy viên lạ hoắc tên là Lê Văn Tiến (?). Hay là ông muốn nói đến
nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến, một trong những "quân sư" của ông?
Cũng xin nhắc để tác giả nhớ, thời nội các
Nguyễn Cao Kỳ, chưa có bộ Bình Định Phát Triển. Lúc nắm quyền, ông đặt
tên bộ ấy là Xây Dựng Nông Thôn. Bộ này đặt ở tòa nhà bốn tầng nằm phía
sau quốc hội và khách sạn Caravelle. Có thể ông đã quên tên người cộng
sự viên thân tín đứng đầu bộ XDNT, một trong những vị tướng nổi tiếng
trong sạch của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, thiếu tướng Nguyễn Đức Thắng,
dù ở phần giữa cuốn sách có đăng hình ông tướng này.
Trang 121, ông Kỳ kể lại chuyện thành lập
phi đoàn Thần Phong. Rất tiếc, ông đã viết là thanh phong, hoặc đồng tác
giả người Mỹ đã viết sai như thế, và ông Kỳ đã không xem lại bản thảo?[3]
Trang 239, kể tên những ông tướng thân cận
nhất của mình, tác giả đã viết sai tên hai tướng Nguyễn Bảo Trị và
Nguyễn Viết Thanh. Riêng tướng Thanh, thì đã bị đổi tên thành ra Nguyễn
Mạnh Thanh!
Một điều đáng tiếc nữa, là ngay trang đầu,
trước phần mục lục, tác giả đã để cho người Mỹ ghi tên mình là Nguan
Cao Ká, mà không buồn sửa. Phải chăng vì cẩu thả, không chịu đọc lại,
hoặc vì ông Kỳ đã giao khoán cho người Mỹ lo tất cả?
Đại Học Tư Đầu Tiên Ở Việt Nam?
Theo lời kể trong cuốn sách, ông Kỳ có ba
người chị và một em gái. Thân phụ ông là một nhà nho không gặp thời,
không ra làm việc cho Pháp, chỉ dạy chữ Hán ở "một đại học tư" (a
private college, trang 13, dòng 6 ).
Như vậy, không phải chờ đến thập niên 60,
70, lúc một loạt các đại học tư như Minh Đức, Hòa Hảo...được mở ở miền
Nam, ngay từ thập niên 20, 30, theo ông Kỳ viết, đại học tư đã hiện diện
ở miền Bắc Việt nam, và cụ thân sinh ông Kỳ đã là một trong những vị
giáo sư đầu tiên dạy đại học?
Còn nếu thực sự cụ thân sinh ông Kỳ là một
vị hương sư, hay một cụ đồ nho dạy học trò ngay tại nhà, hoặc tại làng
xóm ở Sơn Tây, thì cứ việc nói thật như thế đi. Có một ông bố làm nghề
dạy học thanh đạm là một điều đáng hãnh diện. Cớ chi phải khoác cho ông
cụ một danh vị chưa hẳn là chính xác? Nếu đồng tác giả người Mỹ, vì
không am hiểu văn hóa Việt nam, đã dùng chữ không đúng, thì với khả năng
Anh ngữ xuất sắc của ông, (ông Kỳ đã hơn một lần, trong cuốn sách, tự
hào về tài sử dụng tiếng Anh của mình hơn hẳn các ông Nguyễn Văn Thiệu,
Nguyễn Khánh, và những ông tướng khác trong nhóm tướng trẻ thời ấy) lẽ
nào ông lại không phân biệt được sự khác nhau giữa school và college ?
Đứa Con Cầu Tự Được Nuông Chiều Quá Mức?
Sau khi cả hai người con trai (anh của ông
Kỳ) đều qua đời khi còn rất nhỏ, cụ thân sinh ông Kỳ chuẩn bị cưới vợ
lẽ để có con trai nối dõi tông đường.
Trong tuyệt vọng, bà cụ thân mẫu của ông phải vội vàng đi chùa Hương, cầu xin Phật ban cho bà một mụns con trai.
Lời cầu xin của bà cụ đã được nhậm. Chín
tháng sau, ông Kỳ chào đời. Có lẽ vì vậy mà trong cuốn tự truyện, ông Kỳ
thường nhắc đi nhắc lại, với vẻ tự hào, rằng mình là con Phật, và luôn
luôn được Phật che chở.
Là con trai duy nhất trong nhà, lại là con
cầu tự, cậu bé Kỳ đã được cha mẹ và các chị nuông chiều hết sức. Cậu
laø ông vua con trong nhà, muốn gì được nấy. Cậu bé được phép làm bất cứ
điều gì mình ưa thích. Một sở thích rất kỳ lạ, nếu không muốn nói là
quái đản, của cậu bé, ngay từ lúc mới chập chững biết đi: Đập chén đĩa.
Hễ cậu đang khóc, muốn cho cậu nín, người nhà chỉ việc đem đến cho cậu
cái đĩa, hay cái ly, để cậu đập xuống đất cho vỡ tan, là cậu thôi khóc,
và cười ngay.
Phải chăng sự nuông chiều quá mức mà ông
Kỳ được hưởng thời thơ ấu đã ảnh hưởng không ít tới cá tính, và hành
động của ông lúc trưởng thành, nhất là khi đang giữ quyền cao chức
trọng?
Một Vài Chuyện Tiêu Biểu
Y như cậu bé được nuông chiều thuở nhỏ,
đến năm ông Kỳ 23 tuổi, lúc ông đã mang lon thiếu úy, được đi học lớp
phi công ở Marrakech, ông vẫn còn can đảm ngửa tay nhận mỗi tháng 30
ngàn francs của bà cụ thân mẫu gửi sang, mặc dù chính phủ Pháp đã cấp
cho các sinh viên sĩ quan không quân theo học khóa huấn luyện mỗi tháng
30 ngàn francs rồi!
Ít lâu sau, chuyển về một trường huấn
luyện khác ở miền Nam nước Pháp, để dành được 200 ngàn francs, nhân dịp
cuối tuần, ông Kỳ đi Paris, định tìm mua một chiếc xe hơi Citroen để lái
chơi với các bạn Việt Nam đồng khóa.
Thay vì đợi tới thứ hai, làm thủ tục mua
xe, tối thứ bảy, ông Kỳ đến chỗ ăn chơi quen thuộc (ông tự hào rằng đến
mấy chỗ ăn chơi La Cave và The Lucky thường xuyên, và chi tiêu hào phóng
đến nỗi đám bồi bàn ở đó đã gọi ông là "Hoàng Tử"!)
Thấy một nữ ca sĩ trẻ đẹp có tiếng hát
thiên thần mới xuất hiện lần đầu trên bục trình diễn, ông Kỳ chạy đi mua
một vòng đeo cổ nạm kim cương, kèm theo bó hoa vĩ đại 120 đóa hồng (!)
tặng nàng.
(Lúc nào rỗi, các bạn ra tiệm bán hoa, xem
thử một bó hồng 12 đóa to bằng nào, và nặng bao nhiêu nhé. Ở đây, tới
120 đóa hồng lận! Có lẽ người bán hoa đã phải kết 120 bông hoa hồng này
lại thành hình tròn, và chất lên xe đẩy, hoặc khiêng tới?! Xin lỗi ông
tác giả Mỹ Marvin J. Wolf một chút, đại ngôn vừa vừa thôi chứ?)
Khi nàng ca sĩ trở lại sân khấu với món
quà tặng đắt giá trên cổ, ông Kỳ gọi rượu xâm banh đãi tất cả mọi người
trong quán. Sau đó, ông dẫn nàng đến các nơi sang trọng, và đắt tiền hơn
ở khu Montparnasse và Montmartre (hai nơi ăn chơi đàng điếm nhất Paris,
chú thích của người viết).
Và lại tiếp tục mua thêm hoa, gọi xâm banh, ăn uống, đãi đằng cả những người chưa hề quen biết.
Nghĩ lại mà thương cho những bà mẹ Việt
Nam làm lụng cực khổ, dành dụm, gửi tiền nuôi những thằng con đi học xa
(vì lầm tưởng chúng thiếu thốn).
Các bà có ngờ đâu chúng nó ăn chơi đàng điếm, và phá của đến như vậy!
Thông thường, những đứa con cầu tự, khi
còn ở nhà với cha mẹ, được nuông chiều, không ai dám nói hay làm gì trái
ý chúng, nên khi ra đời, gặp những sự không vừa ý, nếu có quyền lực
hoặc vũ khí trong tay, chúng có khuynh hướng thích đe dọa kẻ khác và bắt
mọi người làm theo ý mình.
Ông Kỳ kể lại một lần đưa người tình ở Nha
Trang vào môt ngôi giáo đưòng tại trung tâm thành phố, không phải để
xem lễ hay cầu nguyện, mà chỉ để hai người tâm sự với nhau.
Có lẽ vì thấy chướng mắt, ông linh mục quản nhiệm lên tiếng cảnh cáo:
"- Đây là nhà thờ. Không phải là chỗ làm mấy chuyện đó."
Ông Kỳ trừng mắt nhìn ông linh mục, tay đặt lên báng súng lục bên hông, thách thức:
"-Rồi sao? Chúng tôi chỉ nói chuyên thôi, đâu có làm gì sai quấy. Bộ chỗ này không cho công chúng vào à?"
Dĩ nhiên, ông linh mục phải chịu nhượng bộ.
Chuyện ông Kỳ dọa bắn gian thương gạo, như
đã kể ở trên, có thể là việc làm đúng đắn và cần thiết. Nhưng xem cách
xử sự của tác giả đối với một cộng sự viên, như ông đã kể lại ở trang
214, người đọc không thể không cảm thấy bất nhẫn.
Khi cuộc nổi loạn ở miền Trung xảy ra, lúc
nửa đêm, ông Kỳ sai tướng Viên và tướng Loan bay đi Đà nẵng dẹp loạn.
Sau đó, khoảng một giờ sáng, ông gọi tổng ủy viên viễn thông Trương Văn
Thuấn (?) lên văn phòng Tân Sơn Nhất, ra lệnh cho ông này, trong vòng
một tiếng đồng hồ, phải cắt hết mọi liên lạc vô tuyến trong và ngoài
nước.
Ông tổng ủy viên, có lẽ còn ngái ngủ, không biết ất giáp thế nào, vừa mở miệng hỏi, liền bị ông Kỳ nạt:
- " Hãy làm theo lệnh, kẻo tôi bắn ông bây giờ!"
Và ông Kỳ xua tay, đuổi ông cộng sự viên ra ngoài.
Chao ôi, chỉ vì chút miếng đỉnh chung mà người ta đành cam tâm chịu nhục đến thế sao!
Ông Kỳ có vẻ rất hãnh diện về chuyện ông
vốn là phi công vận tải, chưa lái khu trục cơ bao giờ, mà chỉ vì muốn
lấy le với cô bồ tiếp viên hàng không, ông đã dùng quyền tư lệnh không
quân, ép buộc viên sĩ quan chỉ huy phi đội Skyraider phải cho ông mượn
một chiếc, và chỉ dẫn sơ qua cho ông cách sử dụng.
Sau đó, ông Kỳ đã tống hết ga xăng, cất
cánh, bay đi tìm chiếc máy bay DC-6 của Hàng Không Việt Nam, cặp sát bên
cạnh ( theo ông Kỳ, hai cánh phi cơ chỉ cách nhau có vài inches!)
Ông cho biết đã bay cặp sát theo như thế
khoảng mười phút, cho đến khi cô tiếp viên xinh đẹp chịu chường mặt ra
khung cửa sổ phòng lái của chiếc DC-6, cho ông nhìn thấy, ông mới chịu
quay trở về Tân Sơn Nhất. (Để xem nguyên văn, xin các bạn mở trang
117).
Một lần khác, sau đó khoảng hai ba tuần,
ông Kỳ bay trực thăng đi công tác ở vùng châu thổ sông Cửu Long. Chiều
về, sợ trễ hẹn với cô tiếp viên, ông quyết định làm một cử chỉ ngoạn
mục, a grand gesture!
Thay vì chờ đến khi về tới căn cứ, gọi
điện thoại cho người đẹp, ông Kỳ quyết định cho chiếc trực thăng Huey
của ông quần sát bên trên những ngọn cây quanh khu nhà nàng, đường Lê
Lợi, giữa giờ tan sở, đường phố tràn ngập xe cộ đủ loại và khách bộ
hành.
Chiếc chong chóng cực mạnh của trực thăng gây ra một cơn lốc cuốn tung mịt mù bụi, rác, và lá cây, khiến lưu thông tắc nghẽn! [4]
Ông Kỳ cứ cho trực thăng quần vòng vòng
như thế, cho đến khi cô tiếp viên bước ra khỏi nhà, nghe ông dặn dò mấy
câu xong (người đọc tự hỏi, với tiếng động cơ rầm rầm nhức óc như thế,
và ông Kỳ đang ở trên cao, chắc người đẹp phải có phép thần thông mới
nghe thấy những gì ông dặn?), ông mới chịu bay về căn cứ!
Tướng Nguyễn Khánh, nhân vật số 1 thời đó,
đã dùng ngôi sao chuẩn tướng, gắn cho ông Kỳ, để mua chuộc sự trung
thành của ông (trong vòng không đầy sáu tháng, ông Kỳ nhảy vọt từ trung
tá lên tướng!)
Do đó, tuy biết ông Kỳ có những hành động
ngược ngạo (chứ không ngoạn mục, như ông tự hào đâu), vi phạm quân phong
quân kỷ, và vô kỷ luật trầm trọng như thế, ông Khánh vẫn không dám nói
gì.
Mấy tháng sau, ông Kỳ làm đám cưới với cô
nữ tiếp viên hàng không, ông Khánh tặng ông Kỳ 1 triệu đồng VN. Tiền
lương thủ tưóng của ông Khánh lúc ấy, theo ông Kỳ, chỉ có 50 ngàn đồng
một tháng.
Người đọc tự hỏi ông Khánh lấy tiền ở đâu,
của ai, để tặng (hay mua sự trung thành của) ông Kỳ? Nên nhớ, ông Khánh
lật đổ ông Minh tháng giêng 1964. Đám cưới ông Kỳ và cô tiếp viên diễn
ra vào tháng 4 năm đó. Chỉ trong vòng không đầy 3 tháng mà ông Khánh đã
thủ đắc hàng triệu đồng như thế. Nếu đó là tài sản riêng của ông Khánh,
chắc chắn nó đã tích lũy một cách bất chính. Còn nếu đó là công quỹ, ai
cho phép ông ta dĩ công vi tư như thế??!!
Như đã nói ở trên, những đứa con cầu tự
được nuông chiều quá mức, muốn gì được nấy, khi lớn lên, thấy cái gì
mình ưa thích là làm đủ mọi cách để chiếm đoạt, dù đó đang là vật sở hữu
của bạn bè, hay của đàn em mình.
Một thân hữu, trước sống ở Đà Lạt, kể cho
người viết nghe: cô tiếp viên, mấy tháng trước đó, còn đang là tình nhân
của một viên đại úy phi công. Viên đại úy này thường lên Đà Lạt chơi
với cô ta.
Ông Kỳ cho biết, một khi đã quyết chí làm
điều gì, ông nhất định làm cho bằng được. Khi ngỏ lời xin cưới cô tiếp
viên, bà mẹ cô không bằng lòng, vì theo bà cụ, ông Kỳ mang tai tiếng
nhiều quá.
Chúng ta hãy nghe ông đối đáp với bà mẹ vợ tương lai:
- "Tôi tử tế và lịch sự lắm, mới xin bà
cho tôi cưới con gái bà, nhưng tôi có thể nói với bà rằng, dù bà bằng
lòng hay không, tôi vẫn cứ cưới con bà như thường. Bà chẳng làm gì được
đâu."
Một người con gái Việt Nam bình thường,
nếu là con nhà có giáo dục, nghe người yêu nói với mẹ mình như thế, chắc
chắn đã đoạn tuyệt, cho chàng trai đi chỗ khác chơi rồi!
Sự Trong Sạch của Nguyễn Cao Kỳ
Rất nhiều lần trong suốt cuốn sách, ông Kỳ
nhắc đi nhắc lại mình là người trong sạch, không tham tiền, không tìm
lợi riêng cho mình, không hề tham nhũng, không hề buôn lậu, thời gian ở
không quân cũng như khi nắm quyền thủ tướng, và giữ chức phó tổng thống.
Trang 52, ông Kỳ viết: " Tướng Tỵ (Lê Văn
Tỵ, Tổng Tham Muu Trưởng QLVNCH thời tổng thống Diệm) biết tôi tuy
nghèo, nhưng không ăn cắp của quân đôi, hay nhận tiền hối lộ để cho
người dưới đặc ân và được thăng cấp, như nhiều sĩ quan đã làm."
Ở đây, có hai câu hỏi được đặt ra. Một là,
căn cứ vào đâu, ông Kỳ biết tướng Tỵ nghĩ về ông như vậy. Đâu có phải
việc tướng Tỵ tặng ông hai thùng sữa đặc mỗi tháng là đủ để xác nhận sự
trong sạch của ông? Thuở ấy, ông thường đích thân lái máy bay, chở tướng
Tỵ đi nơi này nơi kia. Cụ Tỵ có thưởng cho ông chút bổng lộc, tưởng
cũng chỉ là chuyện thường tình?
Câu hỏi thứ nhì, ông tự nhận mình là người
trong sạch, cũng được đi. Việc gì ông phải viết thêm rằng nhiều sĩ quan
khác đã làm những chuyện đáng xấu hổ đó? Phải chăng ông viết khơi khơi
như vậy để dìm người khác xuống và tự đưa mình lên? Ông có bằng chứng gì
về các hành vi tham nhũng của những sĩ quan khác? Tên tuổi của họ là
gì? Ông vốn được tiếng là người trực tính, dám nói, dám làm.
Thế sao lúc ấy, và ngay cả bây giờ, ông không chịu lên tiếng?
Cũng theo ông Kỳ, ông trong sạch đến nỗi
trong những chuyến bay ra ngoại quốc, ông không hề mua gì cho riêng
mình, dù là một xấp lụa Thái Lan. Ngay cả một điếu thuốc lá ngoại, ông
cũng không hề mua.
Chỉ một lần, vào năm 1957, bay sang Singapore, ông có mua tặng thân mẫu một chiếc radio transistor nhỏ của Nhật.
Tuy nhiên, người đọc vẫn còn thắc mắc,
trong thời ông Kỳ còn ở không quân, những ngày chỉ huy phi đoàn vận tải,
và rồi căn cứ không quân Tân Sơn Nhất, với số lương khiêm tốn của một
sĩ quan, lại đã một vợ mấy con, hoàn toàn trong sạch như thế, ông Kỳ lấy
tiền ở đâu để ông và thuộc cấp đi ăn, đi nhảy thường xuyên trong các
hộp đêm thượng hạng của Sài gòn (như ông đã kể lại ở trang 66)? Và tiền ở
đâu để chu cấp cho những cô tình nhân, và một vài phụ nữ đã có con với
ông tá hào hoa (trang 119)?
Ngôn Ngữ và Tác Phong của Đứa Con Cầu Tự
Ông Kỳ rất tự hào về tài lái máy bay của
mình. Ông đã từng tranh tài với phi công Mỹ, trong lúc say rượu, tại căn
cứ Tân Sơn Nhất. Ông và viên phi công Mỹ, mỗi người uống 1/5 chai rượu
Whiskey, trước khi mỗi người leo lên một chiếc phi cơ, và trong lúc rượu
thấm dần dần, say đến nỗi không đứng nổi nữa, họ điều khiển phi cơ theo
sự hướng dẫn của phi công huấn luyện viên ngồi bên cạnh.
Đáp xuống đất, phi công Mỹ và Việt đồng tài, đồng sức, lại rủ nhau đi uống rượu tiếp!
Tác giả kể lại, thuở tổng thống Ngô Đình
Diệm còn sống, cụ Diệm có thói quen đi ngủ sớm lúc 9 giờ tối. Một đêm,
ông Kỳ và một số thuộc cấp Việt và Mỹ, khoảng 25 người, chạy 5 hay 6
chiếc xe Jeep, lên trung tâm Sài gòn chơi. Trên đường từ hộp đêm về,
khoảng 1 giờ khuya, chắc hẳn lúc đó cả nhóm đã có chút men trong bụng
rồi, ông Kỳ cho đoàn xe ngừng lai ở trước Dinh Độc Lập. Ông Kỳ cho rằng
cụ Diệm đi ngủ sớm như vậy thì chán chết, nên quyết định giúp vui cho
cụ. Và các ông phi công bắt đầu cất giọng hát, cả nhạc Việt lẫn nhạc Mỹ,
cho tổng thống nghe!
Kể cũng lạ, liên đoàn phòng vệ phủ tổng
thống đi ngủ đâu hết rồi? Tại sao không một người nào dám ra, mời mấy
ông say rượu đi chỗ khác chơi?
Như vậy mới biết ở nước ta, không phải chỉ hơn hai trăm năm trước, thời vua Lê chúa Trịnh, mới có loạn kiêu binh!
Vậy mà sáng hôm sau, khi đại tá Đỗ Mậu,
giám đốc nha an ninh quân đội, gọi cho ông Kỳ, hỏi có phải đúng là nhóm
của ông đã đánh thức tổng thống không, ông Kỳ đã trả lời:
-"Đúng là chúng tôi. Chúng tôi vui chơi với nhau. Thì đã sao?"
Một trung tá trả lời một đại tá với giọng điệu như vậy, mà không sao cả, quả ông Kỳ có được Phật bảo vệ thật!
Khi đã lên làm thủ tướng, một hôm ông Kỳ
cùng ông Lãm, tư lệnh vùng 1, đi thị sát sư đoàn 2 do tướng Toàn chỉ
huy, vì ông đọc báo thấy tin ông Toàn không cho lính đi hành quân, mà
dùng họ để khai thác quế trong rừng ở Quảng Nam, và đem bán.
Theo ông Kỳ kể lại, tướng Toàn, một người
cao lớn, vạm vỡ, trông rất oai vệ, đã run lập cập khi nhìn thấy tờ báo
ông Kỳ đưa ra. Ông Toàn không dám chối, phải khai thật. Ông Toàn cho ông
Kỳ biết sư đoàn cần tiền để gây quỹ xã hội, và để chuẩn bị tiệc mừng
Tết.
Ông Kỳ hứa cấp tiền cho quỹ của sư đoàn,
và cho riêng ông Toàn nữa, nhưng đã cảnh cáo ông ta: "Nếu ông còn tiếp
tục dùng lính để khai thác quế, hay làm những chuyện tương tự, ông sẽ bị
xử tử."
Được biết Quế Tướng Công đang cư ngụ ở vùng Orange County. Ai quen biết ông, xin nhờ ông xác nhận chuyện này.
Ộng Kỳ cho biết, trang 135, người Mỹ đã giúp chính phủ của ông xây dựng trường y khoa đầu tiên của Việt Nam!
Ở điểm này, thì tác giả lầm to. Trước khi
ông Kỳ làm thủ tướng, đã có trường y khoa rồi. Muốn cho chính xác hơn,
lẽ ra ông Kỳ nên viết rằng người Mỹ đã giúp xây một cơ sở hoàn toàn mới
cho trường y khoa Việt Nam.
Có lẽ, đây là một lầm lỗi khác của đồng tác giả người Mỹ, mà ông Kỳ, vì không xem lại bản thảo, nên đã không sửa chữa.
Trong phiên họp nội các, ông Kỳ hỏi ông
tổng ủy viên giáo dục vì sao miền Nam thiếu huấn luyện y tế. Được biết
trường y khoa đã xây xong, nhưng chưa mở cửa cho sinh viên vào học vì có
sự bất đồng ý kiến giữa ông tổng ủy viên giáo dục và ông viện trưởng
viện đại học Sài gòn: Ông viện trưởng muốn theo đường lối, và hệ thống
của Pháp, còn ông tổng ủy viên giáo dục và đa số giới y khoa muốn theo
hệ thống của Mỹ.
Cũng theo ông Kỳ, vì ông viện trưởng (có
thể là bác sĩ Trần Đình Đệ ?) rất có uy tín, lại còn là thầy cũ của ông
tổng ủy viên giáo dục, nên vấn đề cứ dùng dằng, và trường y khoa vẫn cứ
tiếp tục đóng cửa.
Ông Kỳ ra lệnh cho ông bác sĩ đứng đầu ngành giáo dục:
"...-Tôi muốn trường y khoa phải mở cửa để
huấn luyện các bác sĩ mới. Trong vòng ba ngày, tôi sẽ đến đó, cắt băng
khánh thành, chính thức mở cửa trường để đón nhận sinh viên mới. Nếu lúc
tôi đến, trường vẫn chưa mở cửa nhận sinh viên vào học, tôi sẽ bắt cả
ông lẫn ông viện trưởng vào lính, và nhất định sẽ đưa các ông ra chiến
đấu ngoài tiền tuyến. Ông hiểu không?"
Được biết bác sĩ Trần Ngọc Ninh, tổng ủy
viên giáo dục trong nội các Nguyễn Cao Kỳ cũng đang ở tại Orange County.
Ước mong ông Ninh xác nhận có phải ông đã từng là học trò của ông viện
trưởng viện đại học Sài gòn, và phải chăng ông đã từng bị đe dọa bị bắt
vào lính, mặc dù thời đó, ông đã bước vào tuổi 45,46 !!??
Những Trục Trặc Khi Để Người Mỹ Viết Sách Chung
Ông Kỳ có thể không biết đồng tác giả
người Mỹ đã chế ra lối viết mới. Thay vì Cà mau, ông ta viết Cahmau; tên
phi công Nguyễn Văn Cử, người cùng Phạm Phú Quốc ném bom Dinh Độc Lâp,
tháng 2, năm 1962, bị sửa thành Nguyễn Văn Cú ! Vịnh Cam Ranh được đổi
thành Cam Rahn.
Tên tướng Nguyễn Bảo Trị đổi ra thành
Nguyen Boa Tri; tướng Nguyễn Viết Thanh, tư lệnh vùng 4 chiến thuật biến
thành Nguyễn Mạnh Thanh!
Ông tác giả Mỹ, có lẽ đã không tìm hiểu gì
về địa lý Việt Nam, nên ở trang 55, ông ta cho biết Đà Nẵng cách Sài
gòn có chừng 300 dặm (480 km)!
Trên thực tế, khoảng cách Sài gòn - Đà Nẵng là 740 km.
Chắc chắn đây là lỗi của ông Marvin J.
Wolf, chứ phi công tài ba Nguyễn Cao Kỳ đâu có thể ước tính khoảng cách
Sài gòn - Đà nẵng như thế được? Bởi vì nếu ông bay theo khoảng cách ước
tính ấy, thì phi cơ sẽ đáp xuống gần Nha Trang, hay cùng lắm là đến
trang trại Khánh Dương của ông mà thôi.
Ở đầu trang 151, một lần nữa, người đọc lại thấy hai ông Kỳ và Wolf rành địa lý Việt Nam như thế nào.
Tây Ninh ở miền Trung hay miền Nam nước Việt, hỏi một cậu học sinh lớp đệ thất, cậu ta sẽ trả lời cho bạn biết ngay.
Nhưng tác giả viết: tỉnh Tây Ninh, nơi nhiều người theo đạo Cao Đài, thuộc miền Trung nước Việt.
Đọc đến đoạn này, chắc các vị giáo sư sử địa như Phạm Cao Dương, Võ Thành Điểm...phải giật mình té ngửa?!
Bí Ẩn Về Cái Chết Của Sáu Ông Tá
Nhận lời mời của Bộ Chỉ Huy Biệt Khu Thủ
Đô đến một trường trung học Tầu (tư thục Phước Đức) xem triển lãm chiến
lợi phẩm tịch thu được của Việt Cộng trong trận Mậu Thân, ông Kỳ chuẩn
bị tham dự vào buổi sáng hôm sau. Trong đêm hôm ấy, ông mơ thấy một giấc
mơ kỳ lạ. Ông thấy mình đang bay, thì phi cơ ông nhào xuống một cái
giếng khổng lồ. Đầy kinh hãi, ông cảm thấy mình không thể nào ra khỏi
miệng giếng. Chắc chắn phi cơ sẽ rớt, và ông sẽ chết. Ngay lúc ấy, ông
Kỳ nghe thấy, từ phía sau ghế máy bay ông ngồi, có tiếng của đại tá Lưu
Kim Cương, nguyên chỉ huy trưởng căn cứ Tân Sơn Nhất.
Trong giấc mơ, ông Kỳ ngạc nhiên, vì đại tá Cương đã tử trận, một tuần sau Tết Mậu Thân, vì trúng đạn B-40.
Ông Kỳ nghe cố chuẩn tướng Lưu Kim Cương
nói: "Tôi sẽ đưa thiếu tướng lên". Rồi phi cơ bay lên khỏi miệng giếng.
Khi đã lên cao, ông Cương chỉ cho ông Kỳ xem một trận đánh phía bên
dưới, và nói: "Thiếu tướng thấy đám khói vàng kia chứ? Xin hãy cẩn thận.
Đó là nơi chúng nó sẽ tấn công."
Ông Kỳ cho ông Cương biết khói vàng đánh
dấu nơi có quân bạn và thắc mắc vì sao lại tấn công quân bạn. Ông Cương
công nhận ông Kỳ nói đúng, nhưng dặn ông Kỳ hãy ghi nhớ lời mình dặn.
Rồi ông Cương chỉ cho ông Kỳ xem tấm hình bảyngười nằm chết co quắp dưới đất.
Sáng hôm sau, thức dậy, mồ hôi ướt đẫm, mệt lả người, ông Kỳ quyết định ở nhà.
10 giờ sáng, tin sét đánh! Sáu sĩ quan thân cận nhất của ông Kỳ đã bị rocket từ trực thăng Mỹ bắn chết.
Khi xem tấm hình chụp ít phút sau tai nạn
thảm khốc này, ông Kỳ thấy đó chính là tấm hình cố chuẩn tướng Lưu Kim
Cương đã cho ông xem. Điều khác biệt duy nhất là tấm ảnh trong giấc mơ
có bảy người nằm chết, còn bức hình ở trường Phước Đức chỉ có sáu.
Ông Kỳ tin chắc rằng hồn ông Cương đã cứu ông thoát chết.
Sau vụ này, ông Kỳ nghe rất nhiều lời đồn ông Thiệu đứng đằng sau vụ thảm sát sáu ông tá.
Ông cũng nghe nói đại tá Trần Văn Hai,
tổng giám đốc cảnh sát quốc gia, người thay thế tướng Loan, có mặt trên
chiếc trực thăng bắn rocket vào nhóm sĩ quan thân cận của ông Kỳ.
Rất tiếc, cả ông Thiệu lẫn ông Hai đều đã
ra người thiên cổ. Biết đến bao giờ, sự thật về cái chết của sáu ông tá
mới được tiết lộ?
Ông Ngô Đình Nhu Chỉ Huy 80 Ngàn Quân?
Trang 71, khi viết về những chuyện xấu xa
của chế độ Ngô Đình Diệm, tác giả đã sai lầm trầm trọng khi cho biết ông
Nhu chỉ huy 80,000 quân lực lượng đặc biệt phòng vệ dinh tổng thống!
Với kiến thức quân sự của một binh nhì,
người viết biết chắc chắn 80,000 quân thì phải cỡ 7 hoặc 8 sư đoàn. Thời
ấy, đi ngang qua đường Thống Nhất, thấy doanh trại của Liên Đoàn Phòng
Vệ Dinh Tổng Thống, ngoài số binh sĩ trú đóng trong Dinh Độc Lập, có lẽ
chỉ trên dưới một đại đội, chỉ vỏn vẹn có hai dãy nhà ba tầng đối diện
với rạp Thống Nhất và hãng Shell (sau cuộc đảo chính 1963, doanh trại
này bị cắt làm đôi để con đường Đinh Tiên Hoàng nối vào đường Cường Để,
biến thành đại học dược khoa và đại học văn khoa). Với cấp số của liên
đoàn, và về sau, còn gọi là lữ đoàn, lực lượng phòng vệ tổng thống phủ
nhiều lắm là ba bốn ngàn người.
Vậy mà tác giả đã cho phép tới 7 hay 8 sư đoàn trú đóng trong hai dãy nhà lầu ấy để bảo vệ Dinh Độc Lập!
Nếu đúng như tác giả nói, Dinh Độc Lập mà
được 80,000 quân bảo vê, thì còn khuya mấy ông tướng già, tướng trẻ thời
ấy mới lật đổ được cụ Diệm!
Thôi, cứ coi như đây lại là một lỗi lầm nữa của ông đồng tác giả Marvin J. Wolf.
Chứ thiếu tướng Kỳ, một thiên tài quân sự, nguyên tổng tư lệnh quân đội, làm sao không biết một liên đoàn có bao nhiêu quân!?
Ông Kỳ Đi Kháng Chiến?
Theo tác giả kể, thân phụ của ông, sau
thời gian dạy học, vì bất mãn với chính sách cai trị của thực dân Pháp,
đã bỏ vợ con ở lại, vào rừng gia nhập lực lượng du kích đánh Pháp.
Cuối năm 1944, thừa hưởng lòng yêu nước
của thân phụ, cậu bé 14 tuổi Nguyễn Cao Kỳ, quyết định lên đường kháng
chiến chống Pháp. Cậu lấy trộm khẩu Browning của anh rể mình (trung sĩ
Takahashi tặng cho anh rể ông Kỳ khẩu súng này), và cùng hai người bạn
nhỏ, tìm đường lên chiến khu Việt Bắc. Vì trời mưa bão, không thể thuê
thuyền đi được, ba cậu thiếu niên phải chờ đợi, và bị gia đình nhờ cảnh
binh tìm bắt lại.
Chiến tranh thứ nhì chấm dứt, gia đình ông
Kỳ dọn về Hà nội. Ông theo học trường Bưởi được ít lâu, thì quân Pháp
theo chân quân Anh và quân Tầu trở lại Việt Nam.
Căm phẫn, cậu thiếu niên 16 tuổi Nguyễn Cao Kỳ rời Hà nội, vào rừng gia nhập quân kháng chiến chống Pháp, giải phóng đất nước.
Trong hai năm tham gia kháng chiến, trải
qua nhiều gian khổ, thiếu thốn, chứng kiến tận mắt sự chèn ép của những
người tự vệ, du kích Việt Minh và cán bộ chỉ huy họ đối với trí thức
thành thị...Suốt thời gian ở chung với Việt Minh, tác giả không được cầm
súng, chỉ lo việc tăng gia sản xuất, nấu ăn cho bộ đội, dọn dẹp; và sau
đó, đi theo đoàn văn nghệ tuyên truyền.
Ở trang 21, tác giả cho biết ông đã đi hàng trăm, hàng ngàn dặm, từ vùng này sang vùng khác, thăm viếng hầu như khắp nước!?
Ở điểm này, người đọc thấy hơi khó tin. Có
lẽ tác giả Marvin J. Wolf đã phóng đại hơi nhiều. Đi bộ, đi thuyền công
tác hàng trăm dặm đã là nhiều rồi. Nói chi đến chuyện hàng ngàn dặm,
nghĩa là từ ngoài Bắc vào đến tận trong Nam? Mà lại còn nói đi khắp nước
nữa!
Có lẽ tác giả đã đi trong lúc mơ ngủ?
Sĩ Quan Bộ Binh Nguyễn Cao Kỳ
Trang 25, tác giả cho biết năm 1950, Bảo Đại ra lệnh tổng động viên.
Thực ra, phải đến 1951, chính phủ Nguyễn Văn Tâm mới ra lệnh tổng động viên. Lúc ấy, ông Kỳ vừa đậu xong bằng tú tài 1.
Ông theo học Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam
Định. Trường này nằm ngay thành phố Nam Định, cách Hà nội 87 km. Cho
nên, người đọc lấy làm lạ, khi thấy tác giả quên tên trường võ bị này,
và lại còn mô tả trường ở gần Hà nội.
Ra trưòng với lon thiếu úy bộ binh, ông về
phục vụ tại tiểu đoàn 20 Việt Nam, đóng đồn ở Mỹ Trạch, dưới quyền viên
đại úy tiểu đoàn trưởng người Pháp. Trong lúc sĩ quan Pháp chỉ lo rượu
chè, chết nhát, không dám ra khỏi đồn đi hành quân, thiếu úy trẻ Nguyễn
Cao Kỳ ngày đêm dẫn quân đi kích. Có lần, ông bắt được một tù binh Việt
Minh sau khi đuổi theo người này vào làng, và nhảy tới tịch thu súng,
dẫn tù binh về đồn, dễ dàng y như phim cao bồi bắt mọi da đỏ!\
Ở trang 30, chắc chắn đã có lầm lẫn về ngày tháng. Tác giả viết là năm 1951, ông đã đi hành quân.
Làm sao ông có thể hành quân vào năm 1951
được? Lúc ấy, ông còn đang học trong Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định.
Phải tới 1952, ông mới ra trường.
Ông Kỳ (hay tác giả Marvin J. Wolf ?) cho biết ông theo học trường sĩ quan Nam Định trong 10 tháng.
Ông Kỳ đã nhớ lộn rồi. Trường khai giảng tháng 10 năm 1951. Ra trường tháng 6, 1952. Học có 8 tháng thôi.
Để Kết Luận
Viết về một người như cựu thiếu tướng
Nguyễn Cao Kỳ, một nhân vật đặc biệt mà ngôn ngữ và hành động thường là
đầu đề cho những tranh luận gay gắt, không phải là một chuyện đơn giản.
Người ta dễ đứng về một trong hai phía, hoặc là yêu mến thì trung thành
với ông hết mình, hoặc là đã ghét thì ghét và chê tất cả những gì ông
nói, ông làm.
Lại càng phức tạp hơn, khi viết về một
cuốn sách mang rất nhiều tính tự truyện. Nếu đứng từ phía ái mộ ông,
người ta dễ dàng chỉ lọc ra những chi tiết về những thành tích ngoạn
mục, những đức tính tốt, việc làm trung hậu của tác giả, để ca tụng ông.
Còn nếu vốn ghét cá nhân Nguyễn Cao Kỳ, người ta cũng có thể chỉ lựa
các khuyết điểm, sai sót của tác phẩm, những điều không có thực, hoặc
sai sự thực trong đó, để chê bai thậm tệ.
Là một con người, thiếu tướng Nguyễn Cao
Kỳ có cả tính tốt lẫn tính xấu, nhiều ưu điểm và cũng không thiếu những
khuyết điểm mà ông đã bộc lộ qua tác phẩm mới nhất này.
Trong phần cuối cuốn sách, trang 360, ông
đã "thú nhận nhũng sai lầm của tuổi tuổi trẻ thiếu kinh nghiệm, những
lầm lỗi bắt nguồn từ một tấm lòng ngây thơ, tin người..."
Theo tác giả, lầm lỗi lớn nhất của ông là
đã để cho một người bất xứng ngồi vào địa vị lãnh đạo, dẫn đến sự thua
trận của miền Nam.
Ông cầu mong những người đang sống kiếp
lưu vong, những người còn ở lại quê hương, và cả những người thuở ấy
(thập niên 60,70) chưa ra đời, hãy tha thứ cho ông.
Năm nay, thiếu tướng Kỳ đã bước vào tuổi
73. Với những lời chân thành ông vừa bộc lộ, người ta có thể thông cảm
với ông nhiều hơn.
Chúng ta hãy chờ xem kết quả những lời
tiên đoán của tác giả về tình hình đất nước, và trông đợi những đóng góp
của ông cho một đất nước Việt Nam mới, không còn cộng sản.
Một đề nghị sau cùng, xin gửi đến tướng Kỳ: Ở trang 349, ông cho biết đã không hài lòng với cuốn sách Twenty Years and Twenty Days vì đám nhà báo Mỹ đã bịa đặt ra những điều miệng ông không hề nói, và dựng lên những chi tiết, những biến cố chưa hề xảy ra!
Ông cho biết, chính vì thế, mà ông đã quyết định viết cuốn sách này.
Người đọc e ngại, biết đâu, ngay cả trong
cuốn sách này, người Mỹ cũng đã xen vào trong sách những điều ông không
hề nói, và những biến cố chưa hề xảy ra?
Một vài chi tiết về những sai lầm (địa
danh, ngày tháng, tên người, cách dùng chữ, thành phần nội các...) kể
trên khiến người ta nghĩ lần này chưa hẳn đã khác lần trước đâu.
Lần sau, nếu ông định viết thêm một cuốn sách nữa, xin ông viết bằng tiếng Việt.
Được như vậy, ít nhất đồng bào của ông mới biết ông thực sự là tác giả của tác phẩm ấy.
Quyển sách của cựu Phó Tổng thống VNCH
Nguyễn cao Kỳ "Buddha’s Child" – My Fight to Save Việt Nam vừa tung
ra thì có sóng gió liền. Từ Âu Châu và Hoa Kỳ. Dĩ nhiên tại Hoa Kỳ
nhiều Việt kiều phản ứng nhiều nhất. Chê nhiều hơn khen.
Quyển này in ra và được viết bằng Anh Ngữ
viết chung với Marvin J. Wolf dầy 376 trang do côngty in ấn
St.Martin’s Press vào tháng 5 năm 2002.
Bạn cầm quyển sách này, hình Nguyễn cao Kỳ mặc đồ complet đen ghi những dòng là "Former Prime Minister of South Việt Nam " (nghĩa là Thũ tướng) chúng ta suy nghĩ điều gì? Chức vụ Thủ tướng đối với người ngoại quốc là
chức vụ không quan trọng gì lắm nếu chính phủ đó còn có Tổng thống
cao hơn, còn nếu ở chế độ có Vua như bên Anh thì chức vụ Thủ tướng
mới là quan trọng, như Thủ tướng Churchill hay Tony Blair gần đây. Họ
dịch hay để danh từ Thủ tướng như vậy không đúng lắm. Chức vụ cao nhất và cuối cùng của Nguyễn cao Kỳ là Phó Tổng thống VNCH người cao hơn là Nguyễn văn Thiệu với chức vụ Tổng thống VNCH.
Sau đây là mộït phần trích dịch từ báo Thời Luận số ra ngày July 14,2002. Người viết là Vũ thụy Hoàng.
Vũ thụy Hoàng viết 2 quyển sách "Saigon
tuyết trắng: Việt Nam tháng 4,1975 và Quê hương thương ghét: Nỗi lòng
người Việt hải ngoại".
Cựu Thủ tướng Nguyễn cao Kỳ, người hùng
từng chế ngự sân khấu chính trị Miền Nam Việt Nam giữa thập niên 1960,
tự nhận đã phạm một lỗi lầm lớn nhất trong đời "mà tới nay ngày nào
cũng hối tiếc. Lỗi lầm ấy là vào năm 1967 ông đã rút lui không ứng cử Tổng thống và sau đó đứng Phó Tổng thống trong liên danh ứng cử với Trung tướng Nguyễn văn Thiệu.
Theo ông Kỳ vào năm
1965-1967 với chức vụ Thủ tướng, ông đã nắm giữ hết quyền bính trong
tay, điều hành guồng máy chính phủ, quyết định các vụ bổ nhiệm và thuyên chuyển, còn ông Thiệu là nguyên thủ quốc gia mà chẳng có quyền hành gì, chỉ có hư vị mà thôi. "Quốc trưởng Thiệu, một Trung tướng đã
thi hành lệnh của tôi". Thiếu tướng Kỳ viết khi kể lại vụ ông quyết
định cách chức Tổng trưởng Quốc Phòng của Trung tướng Nguyễn hữu Có
rồi bảo ông Thiệu làm.
Năm 1967 ông Kỳ có ý định ứng cử Tổng thống với tư cách đại diện quân đội và
tin chắc ông sẽ thắng. Ông ngạc nhiên khi thấy Ông Thiệu loan báo
cũng tranh cử. Thấy nguy cơ thất bại nếu quân đội có hai ứng cử viên đối địch nhau, một số tướng lãnh đã gặp riêng ông Thiệu để yêu cầu ông Thiệu đừng ra tranh cử. Trung tướng
Nguyễn đức Thắng, người ủng hộ ông Kỳ đã gặp Trung tướng Thiệu để
ngăn cản và hai người to tiếng “suýt đánh nhau” (theo sách viết).
Ông Kỳ và nhiều tướng lãnh trong Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia lúc đó họp bàn và quyết định cho tướng Thiệu giải ngũ, đưa đại tướng Cao văn Viên
lên chức Quốc trưởng. Khi quyết định này sắp sửa được loan báo và
thấy ông Thiệu "sắp khóc" ông Kỳ đột nhiên nói "Tôi sẽ trở về Không
Quân. Các ông có thể cử Trung tướng Thiệu làm ứng cử viên Tổng thống."
Lời nói bất chợt trong khoảng "một phần mười ngàn giây đồng hồ, nhanh hơn nháy mắt" và đến nay vẫn còn là một bí hiểm đối
với tôi theo lời thuật của Kỳ. Ông cũng không hiểu tại sao ông lại
quyết định như vậy. Ông giải thích có lẽ thấy ông Thiệu khóc và vì lòng từ tâm của con nhà Phật mũi lòng thương hại mà ông quyết định như vậy. Ông cho rằng nếu lúc đó ông ngậm miệng thì thế giới đã đổi khác.
Sau khi ông Kỳ cho biết không ra ứng cử,
một số tướng lãnh đã yêu cầu ông đứng chung liên danh với ông Thiệu.
Trung tướng Hoàng xuân Lãm đã bóc lon
ra, nếu ông Kỳ không chịu đứng chung liên danh với ông Thiệu. Ông Kỳ
rút cục đồng ý. “Đó là lỗi lầm lớn nhất trong đời tôi. Từ năm 1975
đến nay không một ngày nào mà tôi không hối tiếc".
Vụ ông Kỳ đứng Phó cho ông Thiệu làm nhiều người lúc đó ngạc nhiên. Sách báo hồi ấy như sau này thường cho rằng Mỹ thích ông Thiệu hơn Kỳ nên đã ngầm vận động để ép hai Tuống Thiệu Kỳ đứng chung với nhau. Tướng Kỳ phủ nhận điều này.
Ông Kỳ cũng tự trách mình ngốc biết bao khi ông còn bỏ qua cơ hội khác vào lúc chót để ngăn
chặn ông Thiệu làm Tổng thống. Ông kể lại khi liên danh Thiệu Kỳ đắc
cử với 35% số phiếu bầu, việc hợp thức hóa cuộc bầu cử tại Quốc Hội.
Mật Ước:
Cuốn sách cũng tiết lộ rằng Ông Thiệu sau khi được ông Kỳ đứng chung liên danh, đã
bị buộc phải ký một "mật ước" với nhóm tướng lãnh thuộc một Hội Đồng
mà không phải Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia mà cũng không phải Hội Đồng
Quân Lực. Chỉ tướng nào ký tên mới biết có mật ước và có Hội Đồng. Mật Ước định rõ hội đồng được chọn lựa úng cử viên ra tranh cử và ứng cử viên khi đắc cử rồi phải luôn luôn tuân hành đường lối của Hội đồng. Giữ chức chủ tịch của hội đồng bí mật này, ông Kỳ cho rằng ông có quyền hơn ông Thiệu.
Hẳn vì có mật ước này má quyền hành và thế mạnh của ông Kỳ vẫn tồn tại nhiều tháng sau khi ông Thiệu đắc cử
Tổng thống. Nội các đầu tiên dưới thời Tổng thống Thiệu do Thủ tướng
Nguyễn văn Lộc cầm đầu, cũng như những chức vụ then chốt trong guồng
máy chánh quyền, đều chịu ảnh hưởng của ông Kỳ. Nhưng mật ước về sau
không còn hiệu lực. Khi đắc cử rồi, ông Thiệu có Hiến Pháp hậu thuẫn,
đã dần dần không đếm xỉa gì đến mặt. Ông Kỳ và nhóm tướng lãnh trong hội đồng bí mật mật ước không dám đem ra tiết lộ vì đi ngược quyền lợi Hiến Pháp, phản dân chủ làm trò cười cho thiên hạ và Mỹ bất bình. Ở đây ông Kỳ nhìn nhận thua mưu ông Thiệu.
Ông Kỳ cũng hối tiếc cả vụ ông không ra tranh cử với ông Thiệu năm 1971. Năm đó ông Kỳ bị Tối cao pháp Viện loại ở vòng niêm yết lần đầu vì không hội đủ
chữ ký của các địa diện dân cử theo luật bầu cử, chỉ có hai ứng viên
đối đầu là đương kim Tổng thống Nguyễn văn Thiệu và Đại tướng Dương
văn Minh. Nhưng ông Minh sau đó rút lui vì cho rằng ông Thiệu đã bố
trí sẵn bộ máy gian lận bầu cử. Tối cao Pháp Viện được Thiệu vận động
để tránh nạn độc diễn nên để lại tên ông Kỳ ứng viên Tổng thống. Nhưng ông Kỳ cũng rút lui mặc dầu được đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker đề nghị góp hai triệu mỹ kim vào
quỹ tranh cử. Ông Kỳ cũng nói rằng nếu ông ra tranh cử thì ông cũng
có cơ may thắng cử vì ông được lòng dân chúng và ông Thiệu không dám
gian lận. Ông cũng viết ông Thiệu thắng cử năm 1971 đã định đoạt số phận của Việt Nam.
Cuốn sách nhiều trang đã mô tả ông Thiệu là người xảo quyệt, một chính trị gia một tay mưu mẹo nhưng không phải là một tay chiến đấu.
Theo ông Kỳ, ông Thiệu sợ ông cũng như sợ Mỹ vì biết tôi có thể đảo chánh và
bắn ông ta nếu ông ta làm nguy hại quốc gia. Ông tố ông Thiệu là tay
tham nhũng và bổ nhiệm tay chân vào những chức vụ kiếm nhiều tiền.
Cuốn sách ra đời 7 tháng sau ông Thiệu từ trần, nên độc giả không có dịp nghe lời đáp của ông Thiệu.
Bay bướm:
Là tự truyện, cuốn sách đã trình bày ông Kỳ là con người can đảm, dám làm dám nói, thích đương đầu với khó khăn, giỏi đối đáp với các tay chống đối, những người viễu tình.
Ông phi bác những từ gọi ông là đồ tể, giết trẻ con, hại phụ nữ. Ông
nhận mình là "người không suy nghĩ nhiều, thay vì bàn luận và tham
khảo tôi hành động".
Theo lời Kỳ thì nhiều lãnh tụ quốc gia như quốc vươngTháilan, thủ tướng Úc đại Lợi, Tổng thống Tưởng giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc, Tổng thống Đại hàn Phác chính Hy cho
tới Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson, Richard Nixon, cả nghĩ sĩ William
Fullbright nổi tiếng chống đối chiến tranh Việt Nam và Ngoại trưởng
Henry Kissinger người đi thương thuyết đi tới hòa ước Paris năm 1973.
Ông Kỳ kể lại vụ ông cách chức Trung tướng
Nguyễn chánh Thi, Tư Lệnh Quân Khu I và vụ ông đích thân chỉ huy cuộc
hành quân chớp nhoáng để
dẹp lực lượng chống đối Phật Giáo ở miền Trung năm 1966. Vì một số
binh sỉ Mỹ không được thông báo nên suýt xảy ra cuộc đụng độ. Quân
hai bên đã hờm súng sẵn và máy bay Việt-Mỹ đã
quần thảo nhau trên trời. Đại tướng Lewis Walt tư lệnh Mỹ ở quân Khu
I vội vã xin gặp Kỳ ở phi trường Đà Nẵng. Tướng Kỳ đã làm bẻ mặt
tướng Walt bằng lời giảng giải về hệ thống chỉ huy khiến tướng Walt đổ
mồ hôi hột.
Tướng Kỳ tự coi là: "lãnh tụ Việt Nam đầu tiên
không tham nhũng, không làm giàu cho bạn bè hoặc gia đình, không
nhận hối lộ, không buôn lậu". Ông lập luận rằng ông được toàn quyền sử
dụng quỹ đen tương đương với 46 triệu Mỹ kim, cần gì phải buôn lậu.
Ông kể các phi công Việt Nam thường mua
hàng hóa như radio, đồng hồ về bán kiếm lời, nhưng có lần qua
Singapore ông chỉ mua cho mẹ một chiếc radio mà thôi.
Ông cũng kể việc cách chức một Tổng Giám Đốc Hõa Xa của người anh họ vì những bê bối tại Hỏa Xa, còn việc không bổ nhiệm một người bà con làm Đại sứ vì người đó không đủ khã năng.
Qua cuốn sách người đọc được biết tướng Kỳ là một phi công ưu tú và tài ba, từng đỗ
đầu khóa học tại Marakech, từng tham gia những phi vụ nguy hiểm thả
biệt kích ra miền Bắc Việt Nam thời Tổng thống Diệm. Ông đã trỗ
tài lái máy bay để tránh Radar của Bắc Việt bằng cách bay sà sà mặt
biển khiến trùm tình báo Mỹ ở Việt Nam hồi đó là William Colby xanh
mặt. Lúc phi cơ đáp xuống, Colby bảo ông Kỳ “lần sau đi với Kỳ, tôi phải mang theo cần câu”.
Trong sách này viết cho biết Kỳ là tay mê
gái, một tay ăn chơi hào hoa bay bướm. Hồi đi học lái máy bay ở Avord
bên Pháp, ông thường cùng bạn bè đến Paris vào cuối tuần, lai vãng các
hộp đêm, ăn xài rộng rãi nên được các tiệm gọi là "Hoàng Tử".
Một lần ông dành dụm được 200 ngàn quan Pháp, định
mua xe citroen. Lúc đến hộp đêm được xếp ngồi hàng đầu sát sân khấu,
thấy cô ca sỉ mới và xinh đẹp, ông liền chạy ngay đến tiệm kim hoàn mua chuỗi hột xoàn về tặng cô. Nhìn cô ca sỉ lên sân khấu đeo chuỗi hột xoàn, ông liền gọi champagne đãi hết mọi người trong tiệm. Sau đó ông dẫn cô đi chơi mấy nơi khác. Đến khi ông về, bạn bè mới hỏi xe thì ông nói uống hết tiền xe rồi.
Tại Việt Nam ông rủ cô chiêu đãi viên Hàng không Việt Nam đi chơi, nhưng cô mắc bận phải làm trên chuyến bay đi Đàlạt. Ông liền lấy khu trục cơ skyraider mà ông chưa hề lái thử bao giờ để theo chuyến bay Hàng Không Việt Nam đó,
để phi cơ bay sát chiếc kia, hai cánh chỉ cách nhau vài phân khoảng
10 phút cho tới khi khuôn mặt xinh đẹp của cô chiêu đãi viên hiện ra cửa sổ phi cơ thì ông mới chịu bay về.
Lần khác ông lái trực thăng xà thấp ở khu đường Lê
Lợi, quạt tung bụi và lá làm giao thông tắc nghẽn chỉ cốt cho cô bồ
biết là ông đến trễ hẹn. Sáng sau Thủ tướng Nguyễn Khánh gọi ông Kỳ
vào la lối và bảo tìm xem tên phi công nào gây náo loạn
Trung tâm Saigon tống cổ nó ra khỏi Không
Quân và nhốt tù nó. Khi nghe ông Kỳ trả lời "chính tôi mà", tướng
Khánh liền đổi giọng "lại anh nữa! Anh làm gì ở đó vậy?"
Tại Mỹ, John Sununu Tham Mưu Trưởng Tòa Bạch Ốc thời Goerge W. Bush bị mất chức vì dùng phi cơ của Tòa Bạch Ốc về thăm gia đình. Tổng Giám Đốc FBI William S. Sessions bị xa thải vì dùng công xa chở vợ đi mua sắm (năm 1993).
Cuốn sách "Buddha’s Child" còn vài tiết lộ
khác. Nhóm Tướng Lãnh Trẻ sau khi bị Đại Sứ Maxwell Taylor xài xể về
vụ giải tán Thượng Hội Đồng Quốc Gia vào tháng
12 năm 1964 đã định cùng tướng Khánh mở cuộc họp báo để trục xuất tướng Taylor về nước. Cuộc họp báo chừng 10 phút thì Tòa Đại Sứ Mỹ tại Saigon liền năn nỉ Đại tướng Khánh đừng đuổi Đại sứ Taylor đi.
Vợ
Ngoại trưởng Trần bửu Kiếm của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bị bắt
giam về tội gián điệp. Colby CIA Mỹ liền đến năn nỉ Kỳ nói rằng bà ta bằng lòng làm gián điệp hàng hai.
Tướng Kỳ trong cuốn sách cho rằng ông được nhiều người yêu
mến cả trong lẫn ngoài nước và ngay trong cả Cộng Đồng Việt Nam. Kỳ
hy vọng "một ngày nào đó Việt Nam sẽ lại cần tôi". Ông cũng mong có
một ngày được trở về nước để giúp kiến thiết quốc gia và
xây dựng lại quê hương. Ông cho hay "sức khỏe rất tốt, năng lực còn
cao, ăn uống vẫn như trẻ và cân nặng như hồi còn làm Tư Lệnh Không
Quân." Ông hiện làm công việc tham vấn và thích chơi golf.
Vài sự sai lầm:
1.-
“Tướng Nguyễn Khánh cầm quyền được 9 ngày thị bị phe Dương văn Minh
đẩy đi. Khánh trốn khỏi Saigon và năm tuần sau trở lại nắm
chánh quyền "Thật sự là sau khi hạ bệ Dương văn Minh, thì 9 ngày sau
Nguyễn Khánh lập Nội Các, đặt Ông Minh làm Quốc Trưởng cho hư vị mà
thôi. Bảy tháng sau tướng Khánh bỏ lên Đàlạt viện cớ dưỡng bệnh, sau
những cuộc biểu tình xuống đường của sinh viên Phật Giáo, Công Giáo
tiếp theo vụ Hiến Chương Vũng Tàu. Nguyễn xuân Oánh được cử làm Thủ
tướng. Nhưng một tuần sau Tướng Khánh từ Đàlạt trở xuống Saigon nắm
lại quyền, giải tán Tam Đầu Chế gồm có Dương văn Minh, Nguyễn Khánh và Trần thiện Khiêm được thành lập trước đó một tháng.
2.- Tướng Kỳ cứu tướng Khánh trong vụ đảo chánh chống tướng Khánh
Khi tướng Khánh bị xe tăng đuổi ở Tân sơn Nhứt, tướng Kỳ đã kéo tướng Khánh lên máy bay chạy thoát trong gang tất trong lúc xe tăng đậu cản ở phi đạo. Đây là sự sai lầm. Xe tăng đậu cản ở phi đạo là do tướng Lâm văn Phát và Phạm ngọc Thảo vào năm 1965 tháng 2, chớ không phải cuộc đảo chánh của tướng Dương văn Đức vào tháng 9 năm 1964.
3.- Ông Trần văn Hương làm Thủ tướng tháng 12 năm 1964. Ông Hương được Thượng Hội Đồng
cử làm Thủ tướng tháng 10 năm 1964, nhưng tướng Khánh và nhóm tướng
Trẻ giải tán Thượng Hội Đồng thì bị Đại sứ Taylor kêu lên hết mà khiển
trách, lúc đó không tướng nào nói tiếng Anh sõi ngoại trừ Nguyễn cao
Kỳ.
4.- Tướng Cảnh Sát Nguyễn ngọc Loan bị
thương vài ngày sau trận Mậu Thân. Thật sự tướng Loan bị thương khi
Việt Cộng tấn công đợt 2 vào Saigon vào tháng 5 năm Mậu Thân.
5.- Tướng Kỳ lập trường Y khoa đầu tiên tại Việt Nam. Thật sự nơi này Kỳ nói xạo vì ai ai cũng biết trường Y khoa lập đầu tiên tại HàNội và có từ thời Pháp.
6.- Quyển sách này nói đến bà Nhu Trần lệ
Xuân mà Kỳ cho tên họ mới là Chương xuân Lệ (Trần văn Chương là cha
ruột của Trần lệ Xuân)
7.- Ngoại trưởng Trần văn Đôn thật sự là Ngoại trưởng Trần văn Đỗ.
8.- Trưởng phái đoàn Việt Nam hòa đàm tại Paris là Phạm đăng Lâm chớ không phải Lâm văn Phát, Lâm văn Phát là tướng đảo chánh năm 1964.
Điều kỳ lạ là
hai tháng trước khi sách của Nguyễn cao Kỳ tung ra "Buddha’s Child"
thì Hà Nội tung ra sách về Nguyễn cao Kỳ với nhan đề là "Tướng Râu
Kẽm" dầy 423 trang, pha trộn óc tưởng tượng vào số sự kiện có thực
của bối cảnh chiến tranh. Sách này viết theo nửa hư nửa thật nên không
có sự giá trị nào về tài liệu. Sách này nói Ông Kỳ là một anh hùng hão
hán, ngổ ngáo, hiếu chiến, ăn nói trịch thượng và có duyên và gọi Ông
Kỳ là "giặc nhà Trời."
Trong phần giới thiệu, cuốn sách này (sách
Tướng Râu Kẽm) nói bao quát về tướng Kỳ có đoạn tướng Kỳ thổ lộ với
bạn bè là "muốn trở về Việtnam sống những ngày cuối đời trên mãnh đất
quê hương." Trong phần kết luận của cuốn sách viết "Tội phản bội Tổ
quốc, phản bội dân tộc là tội bất lương nhất, ô nhục nhất và bị đời đời nguyền rủa”. Hà Nội cho in cuốn sách này là do trùng hợp hay chủ ý?
Như nhiều cuốn tự truyện khác hay Hồi ký
khác, cuốn "Buddha’s Child" ngoài việc trình bày thân thế, sự nghiệp,
tư tưởng và suy nghĩ của tác giả, đã cho người đọc biết thêm nhiều về
cá tính của Tướng Kỳ, đồng thời rọi thêm ánh sáng vào vài khía cạnh
một số biến cố ở ViệtNam khoảng giữa thập niên 1960. (Vũ thụy Hoàng)
Sau đây là lời bình luận của Người Thứ Năm của Tuần báo Đại Chúng mà Ký Điệu ghi lại cho bạn đọc rõ:
1.- Nguyễn cao Kỳ lúc làm Thủ tướng tuổi
rất trẻ nếu so với lịch sử Thế Giới thì người trẻ nhất là Alexandre
the Great, người kế là Nguyễn cao Kỳ của Miền Nam ViệtNam.
Tuổi quá trẻ mà quyền nghiêng thiên hạ của
Nguyễn cao Kỳ không phải là do sự tài giỏi mà do nhiều sự may mắn phi
thường của lá số Nguyễn cao Kỳ hay là vận số Miền Nam cần phải như
vậy mới có kết cuộc thê thảm như vậy hay chăng?
2.- Nguyễn cao Kỳ thật sự giống như Lữ Bố
thời Tam quốc vậy. Lữ Bố cũng do sự phản phúc cha nuôi mà thành danh
trên thiên hạ vào thời đó, Nguyễn cao Kỳ cũng không tránh khỏi chuyện
này, Kỳ phản Nguyễn Khánh và rất nhiều bạn chiến đấu nhưng khác màu
áo, nhưng kết cuộc Kỳ không bị rơi đầu như Lữ Bố. Tào Tháo bắt được Lữ
Bố và nói với tả hữu "hắn giỏi nhưng là tên phản thần, không dung
mạng được". Như trường hợp Ngụy Diên cũng vì phản mà bị chặt mất đầu
bởi cận tướng.
Nguyễn văn Thiệu không đủ khả năng như Tào Tháo nên để yên Kỳ và Kỳ làm nhiều chuyện bất lường hậu quả.
3.- Nguyễn cao Kỳ có hạnh kiểm và đạo đức thấp kém mà
những danh tướng không bao giờ nên bắt chước chuyện này. Lúc đắc thời
thì xua đuổi bà vợ gốc nghề "Cave" mà Kỳ tường lấy tiền tiêu xài
không biết sót. Hai đứa con Kỳ học tại trường Taberd Saigon, rất phách
lối, hàng ngày giờ ra chơi thường lấy "walky talky" (máy vô tuyến như
CB hiện giờ) mà các Thày dòng rất bất bình, nhưng sau cùng cũng bị
"sortie" vì học lực quá kém, y như con cưng của Huỳnh văn Cao vậy.
4.- Bà vợ mới sau khi lên thì chồng đã có uy quyền hiển hách làm nghề chiêu đãi viên, đã có đời chồng nhưng Kỳ đoạt mất. Rồi khi qua Hoa Kỳ thì
bà này ở tại Santa Ana, California và lấy một tay tài xế của Kỳ và mở
cây săng Arco, tên Trung sĩ này ăn chơi nên bà chiêu đãi viên này
phải bán luôn.
5.- Kỳ lấy vợ bạn thân khi làm nghề đánh cá tại Texas rồi sau đó hình
như bà này mở một quán ăn tại Rosemead, California lấy tên là "Miss
Saigon". Sau đó bán nốt vì Kỳ đánh bài rất dữ tại Casino Las Vegas.
Rồi khai phá sản cũng vì vụ này mà ra.
6.- Kỳ khi lên ngôi Thủ tướng, quyền
nghiêng thiên hạ thì Kỳ muốn sa thải tất cả những công chức mà Kỳ cho
là trên 45 tuổi cần phải thay hết vì già nua, chậm chạp. Nên Kỳ không
có một bộ óc lão thành mà hướng dẫn, và như vậy đám Kỳ phải thân bại
danh liệt.
7.- Cùng một tuổi trẻ mà quyền nghiêng
thiên hạ là Alexandre the Great và Kỳ. Alexandre the Great có tôn sùng
một vị hiền triết làm Thầy chỉ hướng và tư tưởng đó là Aristote, còn
Kỳ thì không có một ông Thầy nào chỉ dẫn tư tưởng của Kỳ nên Kỳ bị
thân bại danh liệt.
8.- Lúc Kỳ bị Thiệu đá văng khỏi dinh Độc Lập, thì Kỳ lui về chốn hang Hùm là Căn cứ Phi Long gần phi trường Tân sơn Nhứt. Thiệu không làm hại được, nhưng Thiệu cần phải đề phòng mọi chuyện của Kỳ, nên Thiệu nhờ Phó Tổng thống Trần văn
Hương vào Phi Long nằm nhờ chữa bệnh mắt, lúc đó có bệnh xá Hoa Kỳ
rất nổi tiếng về mắt. Trần văn Hương vào căn cứ Phi Long của Nguyễn
cao Kỳ và mật báo đến gắn dụng cụ nghe lén từ tư dinh Kỳ bằng đường
điện thoại . Nên mọi chuyện gì Kỳ nói thì Thiệu đều nghe hết. Nhờ Nguyễn cao Kỳ chia trí thông minh của Nguyễn văn Thiệu nên Nguyễn văn Thiệu đã thiếu trí tuệ cứu nước nay bị chia thêm trí nên không còn đủ sáng suốt mà suy nghĩ mọi đường đi nước bước của Việt Cộng và CSBV HàNội. Đáng lý Hà Nội nên đề cao Kỳ với sự ăn nói ẩu tả và việc làm bất ngờ nên Thiệu không còn lý trí mà tính ván bài của Hà Nội tung ra.
9.- Nguyễn cao Kỳ nói qua Phi Châu học tại trường huấn luyện không quân và đỗ đầu thủ khoa khóa phi công. Nhưng Kỳ không cho biết khóa đó dạy lái máy bay loại gì?
Chớ Người Thứ Năm biết đời Phi Công mà
dân lái máy bay rất khâm phục là "Năm Con Phượng Hoàng của VN về Phi
Công". Năm con Phượng Hoàng đó là "Phan phụng Tiên, Lưu kim Cương, Lê
bá Định..." mà không có tên Kỳ. Năm Phụng Hoàng này tốt nghiệp rất cao điểm về loại Skyraider (Đại tá Lê bá Định có lần đóng trên Pleiku. Phi trường Cù Hanh). Kỳ lái Skyraider lần đầu tiên để cua “hostess de l’air” suýt đụng với phi cơ Hàng Không Dân Sự Air Việt Nam và kéo theo nhiều cái chết vô tội của hành khách trên đó. Nên chắc chắn Kỳ qua Phi Châu học trường dạy lái phi cơ tại Marakech chắc chắn không phải học lái phi cơ Skyraider và bảo đảm không có loại phản lực cơ A-37 hay F-5 được. Có thể học lái loại phi cơ Cessna gọi là máy bay "Bà già" mà ta thường thấy bay rề rề trên bầu trời Miền Nam VN.
10.- Một người lính chiến đấu ngoài
biên ải, áo quân chua lè so với một vị tướng Thành Đô áo quần bảnh
bao, hoa hòe hoa sói, lưng đeo khẩu súng ngắn nòng rulô và cổ choàng
khăn phula màu tím, bay xong một phi vụ thì vào khiêu vũ trường mà
nhảy đầm canh thâu suốt sáng. Không hiểu chúng ta nên kính trọng người
nào đây? Tướng Kỳ nên nhớ đất nước chiến tranh đời trai bắt buộc phải thi hành nghĩa vụ quân sự mà cứu quê hương, cho nên mầu áo binh chủng nào cũng nghĩa vụ nặng như nhau.
Một anh lính nghĩa quân mà tuân hành nhiệm vụ canh gác hay đánh trả sự tấn công của quân địch đáng khâm phục hơn một tướng lãnh áo quân bảnh bao hay đánh quần vợt tennis trong lúc quân sĩ của mình đang đánh những trận nguy hiểm tại HạLào hay đã chận được sự chiếm đóng Kontum của địch quân mà vị tướng cẫu trệ khác đang nhảy đầm với vũ nữ từ Saigon lên ăn khao tại Vũ trường Phượng Hoàng Pleiku năm nào (xin hỏi lại tướng Lý tòng Bá thì rõ tên tướng cẫu trệ này). Tướng Kỳ thuộc loại tướng kiêu binh kiêu tướng. Như ngày xưa có một vị tướng rất trẻ tài cao như Kỳ vậy họ là Lâm, phó nguyên soái Quốc dân Đảng, vì hùng khí ngu muội của mình mà bắt giam Tướng Tưởng giới Thạch đang đánh Mao trạch Đông gần tàn hơi, nên quân Mao từ thua chuyển thành thắng. Chính tên tướng này làm thay đổi lịch sự Trung Hoa từ tốt sang xấu.
Một anh lính nghĩa quân mà tuân hành nhiệm vụ canh gác hay đánh trả sự tấn công của quân địch đáng khâm phục hơn một tướng lãnh áo quân bảnh bao hay đánh quần vợt tennis trong lúc quân sĩ của mình đang đánh những trận nguy hiểm tại HạLào hay đã chận được sự chiếm đóng Kontum của địch quân mà vị tướng cẫu trệ khác đang nhảy đầm với vũ nữ từ Saigon lên ăn khao tại Vũ trường Phượng Hoàng Pleiku năm nào (xin hỏi lại tướng Lý tòng Bá thì rõ tên tướng cẫu trệ này). Tướng Kỳ thuộc loại tướng kiêu binh kiêu tướng. Như ngày xưa có một vị tướng rất trẻ tài cao như Kỳ vậy họ là Lâm, phó nguyên soái Quốc dân Đảng, vì hùng khí ngu muội của mình mà bắt giam Tướng Tưởng giới Thạch đang đánh Mao trạch Đông gần tàn hơi, nên quân Mao từ thua chuyển thành thắng. Chính tên tướng này làm thay đổi lịch sự Trung Hoa từ tốt sang xấu.
11.- Tướng Kỳ ít đọc sách nên
không thấy những bức hình lịch sử Trung Hoa. Nhìn tướng Tưởng giới
Thạch, áo quần bảnh bao, uy dũng hào khí ngất trời, giầy ống đen rất đẹp cưỡi con ngựa trắng và áo choàng màu nâu xám hào khí ngất trời. Còn một bên là một đám
lính khố rách áo ôm, y như đám người homeless vô gia cư của Mao Trạch
Đông, điều đáng buồn chính đám lính khố rách áo ôm này rượt vị tướng áo quần bảnh bao cưỡi ngựa trắng là Tưởng giới Thạch chạy gần chết đuối qua eo biển Bạch Mã Đài Loan.
Đám lính khố rách áo ôm này họ có một lòng kỷ luật và tuân hành thượng cấp, còn tướng Kỳ thì không. Tướng Kỳ đúng là một mẫu tướng kiêu hãnh tự cao tự đại và bất tuân quân phong quân kỷ và mệnh lệnh của Thượng Cấp. Lúc đó Kỳ nắm quyền tư lệnh Không quân VNCH và Hoa Kỳ không có trang bị loại vũ khí phòng không nên Kỳ mặt sức tự cao tự đại với huynh đệ chi binh của mình và Đồng Minh, nhưng gặp bên địch với đầy đủ vũ khí phòng không và tên lửa thì khác.
Đám lính khố rách áo ôm này họ có một lòng kỷ luật và tuân hành thượng cấp, còn tướng Kỳ thì không. Tướng Kỳ đúng là một mẫu tướng kiêu hãnh tự cao tự đại và bất tuân quân phong quân kỷ và mệnh lệnh của Thượng Cấp. Lúc đó Kỳ nắm quyền tư lệnh Không quân VNCH và Hoa Kỳ không có trang bị loại vũ khí phòng không nên Kỳ mặt sức tự cao tự đại với huynh đệ chi binh của mình và Đồng Minh, nhưng gặp bên địch với đầy đủ vũ khí phòng không và tên lửa thì khác.
12.- Lúc Kỳ còn làm Phó Tổng thống và được chia cơ ngơi tại Dinh Độc Lập nên
Kỳ thường dùng trực thăng riêng của mình mà gầm rú động cơ khác
thường chọc giận Bà Thiệu nên ngày kia bị Thiệu đá cho ra rìa, nếu lúc
đó Kỳ suy nghĩ với cương vị của mình làm cách nào mà chống được địch thủ bên phương Bắc thì khác.
13.- Khi Nguyễn cao Kỳ được giao trách nhiệm qua Paris làm trưởng đoàn đàm phán thì vợ chồng Kỳ ăn mặc rất đắt tiền, nào là mua cho vợ một bộ áo ngự hàn bằng lông chồn trắng, thật sự Miền Nam VN khí hậu rất nóng về mùa Hè và mùa Đông cũng không đến nổi phải dùng áo lạnh da chồn trắng làm chi.
Và báo chí Tây Phương mỉa mai là "liệu lương của Phó Tổng thống không biết bao nhiêu tháng mới đủ mua cái áo đắt tiền này cho vợ”. Lúc đó Kỳ chế ra một bộ áo một loại áo riêng cho mình gọi là "áo lãnh tụ". Loại áo bắt chước hoàn toàn loại áo của Chu ân Lai vẽ kiểu ra, là cổ ngắn, màu đen, có 4 túi. Trong khi đó nhóm Bà Bình và tên Lê đức Thọ thì ăn mặc giản dị, Bà Bình mặc áo dài, vải rất tầm thường và khi rãnh thì nhóm này đánh cờ tướng với nhau còn nhóm Kỳ thì đang trượt trên sàn nhảy Dancing Paris sang trọng. Mặc dầu biết nhóm Bà Bình và nhóm Lê đức Thọ đang giả hình.
Nhưng những người có đầu óc thương nước thì không khỏi đau lòng Sỉ Diện Quốc Gia bị tên tướng Kỳ và bà vợ Hostess de l’air tàn phá sạch bách. Mặc dầu kế của Nguyễn văn Thiệu đẩy Nguyễn cao Kỳ sang Paris cho nhục cặp vợ chồng này, nhưng Thiệu cũng nên nghĩ đừng nên đem Quốc Thể VN mà giao cho tên này làm dơ bẩn được. Hàm huyết phún nhân tiên ô tự khẩu.
Và báo chí Tây Phương mỉa mai là "liệu lương của Phó Tổng thống không biết bao nhiêu tháng mới đủ mua cái áo đắt tiền này cho vợ”. Lúc đó Kỳ chế ra một bộ áo một loại áo riêng cho mình gọi là "áo lãnh tụ". Loại áo bắt chước hoàn toàn loại áo của Chu ân Lai vẽ kiểu ra, là cổ ngắn, màu đen, có 4 túi. Trong khi đó nhóm Bà Bình và tên Lê đức Thọ thì ăn mặc giản dị, Bà Bình mặc áo dài, vải rất tầm thường và khi rãnh thì nhóm này đánh cờ tướng với nhau còn nhóm Kỳ thì đang trượt trên sàn nhảy Dancing Paris sang trọng. Mặc dầu biết nhóm Bà Bình và nhóm Lê đức Thọ đang giả hình.
Nhưng những người có đầu óc thương nước thì không khỏi đau lòng Sỉ Diện Quốc Gia bị tên tướng Kỳ và bà vợ Hostess de l’air tàn phá sạch bách. Mặc dầu kế của Nguyễn văn Thiệu đẩy Nguyễn cao Kỳ sang Paris cho nhục cặp vợ chồng này, nhưng Thiệu cũng nên nghĩ đừng nên đem Quốc Thể VN mà giao cho tên này làm dơ bẩn được. Hàm huyết phún nhân tiên ô tự khẩu.
14.- Nguyễn cao Kỳ trong quyển sách tự
thuật là không tham nhũng, không buôn lậu chuyện này Kỳ nói cho con
nít tin mà thôi. Người Thứ Năm có một người Bác họ quen. Vị này làm
trong Kiểm Hải Quan Thuế Toàn Quốc lúc đó đang làm
việc tại Cảng Tân sơn Nhứt, nhóm Quan Thuế này được mật tin là có một
cuộc chuyển hàng "á phiện 60 kg từ Lào về Tân sơn Nhứt".
Vị này đón phi cơ hàng không dân sự Air ViệtNam từ Vạn tượng về, nhưng không có phi vụ ngày này. Và đúng 6 giờ chiều thì có một chuyến phi cơ từ Vạn Tượng về Tân sơn Nhứt và có đem 60 kg Á Phiện nhưng phi cơ này là phi cơ quân sự nên không đáp tại Tân sơn Nhứt mà đáp vào phi trường quân sự Phi Long kế bên. Và cũng chính vị này khui ra vụ Dân biểu VNCH đi công tác đem lịch ở truồng về VN. Tên dân biểu này là Nhữ văn Úy mà ngày xưa tướng Đỗ cao Trí đòi đấu súng bắn nhau như bên Tây Phương ngày xưa khi danh dự bị xúc phạm.
Vị này đón phi cơ hàng không dân sự Air ViệtNam từ Vạn tượng về, nhưng không có phi vụ ngày này. Và đúng 6 giờ chiều thì có một chuyến phi cơ từ Vạn Tượng về Tân sơn Nhứt và có đem 60 kg Á Phiện nhưng phi cơ này là phi cơ quân sự nên không đáp tại Tân sơn Nhứt mà đáp vào phi trường quân sự Phi Long kế bên. Và cũng chính vị này khui ra vụ Dân biểu VNCH đi công tác đem lịch ở truồng về VN. Tên dân biểu này là Nhữ văn Úy mà ngày xưa tướng Đỗ cao Trí đòi đấu súng bắn nhau như bên Tây Phương ngày xưa khi danh dự bị xúc phạm.
15.- Cô con gái Kỳ tốt nghiệp Đại học Hoa Kỳ chắc chắn học xong lớp Politic-Science (mà
University bắt buộc phải có). Một cảnh tượng tướng Nguyễn ngọc Loan
dùng súng lục rulô ngắn nòng mà bắn một tù binh Việt Cộng đang bị còng
tay quặt sau lưng... sách vở có in hình này và tất cả phim Hoa Kỳ
nói về chiến tranh Việt Nam đều có chạy hình ảnh này. Tướng Loan đáng
lẽ phải ra Tòa Án Quân Sự hay Tòa Đại Hình Liên Hiệp Quốc về tội bắn tù
binh trong tay, trái với Hiệp Ước Geneve về Tù Binh. Lúc đó chúng tôi đang học lớp này thì những người bạn học cùng lớp khác màu da hỏi như sao "Anh thấy hình ảnh này nói điều gì?"
Cứng họng không trả lời được, Danh dự Quốc Gia và niềm hãnh diện của người lính chiến VNCH bị tên tướng Loan này chà đạp. Tướng Loan với chức vụ Cảnh Sát Quốc Gia VNCH có muôn ngàn cách thủ tiêu tên này, nhưng đừng để hình ảnh mọi rợ này in mãi mãi trên sách vỡ và Video trên toàn Thế giới. Cô con gái Kỳ nên biết tướng Loan này là cộng sự viên đắc lực nhất của tướng Kỳ. Chủ sao thì tớ vậy, làm mọi chuyện nhục quốc thể trước khi suy nghĩ cho kỹ mọi hậu sự ra sao.
Cứng họng không trả lời được, Danh dự Quốc Gia và niềm hãnh diện của người lính chiến VNCH bị tên tướng Loan này chà đạp. Tướng Loan với chức vụ Cảnh Sát Quốc Gia VNCH có muôn ngàn cách thủ tiêu tên này, nhưng đừng để hình ảnh mọi rợ này in mãi mãi trên sách vỡ và Video trên toàn Thế giới. Cô con gái Kỳ nên biết tướng Loan này là cộng sự viên đắc lực nhất của tướng Kỳ. Chủ sao thì tớ vậy, làm mọi chuyện nhục quốc thể trước khi suy nghĩ cho kỹ mọi hậu sự ra sao.
16.- Quyển sách tự thuật của Tướng Kỳ mang tên là "Buddha’s Child" là sai hoàn toàn từ nghĩa bóng đến nghĩa đen. Danh từ chung “Con Cầu Tự” là
dành cho gia đình khá giả giàu có theo Đạo Phật ngoài Bắc thì nhiều
hơn. Gia đình khá giả hay giàu có sợ không con nối dõi mà hưởng của
giàu có này, nên thường lên Chùa khấn vái Phật mà xin được có con
trai nối dõi. Còn gia đình nghèo, cơm không đủ ăn, nghe nói bà
vợ có thai thì hoảng hồn lo sợ hơn là vui mừng nên gia đình nghèo
không có chuyện lên Chùa xin con nối dõi Nguyễn cao Kỳ không thuộc
diện giàu có cần con nối dõi. Người Tây Phương họ trực tánh khi đọc chữ
"Buddha’s Child" là họ nghĩ ngay là "Con của Phật". Thật sự Thích Ca
Mâu Ni khi mang danh hiệu Phật thì Ngài không có con, vì Ngài đã đoạn
Dục, còn trước khi đi tu Ngài là Hoàng Tử thì Ngải có đứa con độc nhất. Sau đó đứa con trai độc nhất này đi tu theo Cha và mất sớm khi vào tuổi thanh niên. [5]
Đứa con đó tên là "La hầu La" (Lahura /sách Anh) Nhưng trong lúc tu hành Đức Phật thường gọi tên chớ không gọi là con. Như trường hợp em trai Đức Phật là Anan, Đức Phật thường nói: "Nầy! Ananta nghe người ta thường nói như vầy". Còn nghĩa thứ hai là sự hóa thân của Đạt Lai Lạt Ma là từ thế kỷ 14, một vị chân tu Tây Tạng sau khi nối ngôi của Tống Cáp Ba (Tsongkhapa) tên là Gendun Drup. Vị này lập ra học thuyết: "luật tái sanh" của Đạt Lai Lạt Ma theo đó khi chết thì linh hồn vị Đạt Lai Lạt Ma sẽ nhập vào đứa bé trai sơ sanh như là một hiện thân của Bồ Tát Quan Thế Âm (Bodhisatva Avalokitsera) nên người Tây Phương sẽ nghĩ là Đạt Lai Lạt Ma đầu thai hay là con của Phật. Thật sự tại Việt Nam người ta ít gọi cậu bé "Cầu Tự" này là con của Phật hết. Người ta thường nói "Bộ mầy là con của Trời cháu của Phật phải không?". Cụm từ Con Cầu Tự không thể ghi là "Buddha’s Child" được hết. Xem lại Tự điển Anh Việt và Việt Anh. Tướng Kỳ bảo đảm không thuộc về diện này theo nghĩa bóng hay nghĩa đen vì lý do đơn giản Kỳ không phải là người theo Đạo Phật nếu kể từ cấp trên của Kỳ. [6]
Đứa con đó tên là "La hầu La" (Lahura /sách Anh) Nhưng trong lúc tu hành Đức Phật thường gọi tên chớ không gọi là con. Như trường hợp em trai Đức Phật là Anan, Đức Phật thường nói: "Nầy! Ananta nghe người ta thường nói như vầy". Còn nghĩa thứ hai là sự hóa thân của Đạt Lai Lạt Ma là từ thế kỷ 14, một vị chân tu Tây Tạng sau khi nối ngôi của Tống Cáp Ba (Tsongkhapa) tên là Gendun Drup. Vị này lập ra học thuyết: "luật tái sanh" của Đạt Lai Lạt Ma theo đó khi chết thì linh hồn vị Đạt Lai Lạt Ma sẽ nhập vào đứa bé trai sơ sanh như là một hiện thân của Bồ Tát Quan Thế Âm (Bodhisatva Avalokitsera) nên người Tây Phương sẽ nghĩ là Đạt Lai Lạt Ma đầu thai hay là con của Phật. Thật sự tại Việt Nam người ta ít gọi cậu bé "Cầu Tự" này là con của Phật hết. Người ta thường nói "Bộ mầy là con của Trời cháu của Phật phải không?". Cụm từ Con Cầu Tự không thể ghi là "Buddha’s Child" được hết. Xem lại Tự điển Anh Việt và Việt Anh. Tướng Kỳ bảo đảm không thuộc về diện này theo nghĩa bóng hay nghĩa đen vì lý do đơn giản Kỳ không phải là người theo Đạo Phật nếu kể từ cấp trên của Kỳ. [6]
17.- Trong quyển “Buddha’s Child” tướng Kỳ mong được về quê
hương VN mà giúp đỡ. Thật sự hiện nay Việtnam có chương trình TOKTEN
(Transfer of Knowledge Through Expatriate Nationals) do Liên hiệp Quốc
đề xướng và tại Hà Nội có văn phòng tại đường Bà Triệu, cách xa không
bao nhiêu Bộ Khoa Học Công Nghệ và Môi Trường do Bộ trưởng Chu tuấn
Nhạ cai quản. Chương trình TOKTEN này hiện nay không cần lắm cho những
kỹ sư thuộc về Công Nghệ Thông Tin vì hiện nay Công ty Microsoft và
Côngty Oracle đang tranh dành ảnh hưởng tại đây và trình độ Công Nghệ Thông Tin của VN rất khá cao hơn Đài
Loan nếu so về Internet/ Web Sites. Và Kỳ không thuộc diện Knowledge
này. Kỳ có thể bớt đánh bài tại Las Vegas mà dành tiền giúp chương
trình của nữ nghệ sĩ Kiều Chinh và cựu Đại Sứ Petersen là "Một ngôi
trường cho trẻ em nghèo tại Vùng khô cằn sõi đá Miền Trung" hiện nay
chương trình này đang xây xong ngôi trường thứ 61 cho em nghèo tại
Miền Trung.
Người sáng lập chương trình này là một anh lính chiến thương phế binh Hoa Kỳ, anh bị mất đôi chân tại chiến trận Miền Trung. Anh không giận nước Việt Nam, và anh mong mõi xây được một ngôi trường nhỏ cho em nghèo VN. Anh qua đời và chương trình này được Kiều Chinh tiếp nối. Hiện nay cơ quan này đặt tại Florida/USA. Nhưng người Thứ Năm quả quyết Nguyễn cao Kỳ không thuộc diện này kể cả chương trình TOKTEN và Chương Trình Một Ngôi Trường cho Trẻ Em Nghèo tại VN.
Người sáng lập chương trình này là một anh lính chiến thương phế binh Hoa Kỳ, anh bị mất đôi chân tại chiến trận Miền Trung. Anh không giận nước Việt Nam, và anh mong mõi xây được một ngôi trường nhỏ cho em nghèo VN. Anh qua đời và chương trình này được Kiều Chinh tiếp nối. Hiện nay cơ quan này đặt tại Florida/USA. Nhưng người Thứ Năm quả quyết Nguyễn cao Kỳ không thuộc diện này kể cả chương trình TOKTEN và Chương Trình Một Ngôi Trường cho Trẻ Em Nghèo tại VN.
18.- Chúng tôi cũng hy vọng ngày tàn của CSVN nếu Kỳ được mời về nước giúp ý kiến. Một lời nói có thể: “Hưng Vong và
Táng Quốc". Kỳ có thể về giúp Hà Nội và nói vài lời Táng Quốc thì chế
độ CSVN tại Hà Nội sẽ táng theo lời nói của Kỳ và chúng ta "Tết này
sẽ gặp nhau tại VN" như người Israel nói "Năm này
ta sẽ gặp nhau tại Jerusalem". Chúng tôi còn nhớ lời Kỳ nói tại Hố
Nai/ Saigon "Tôi không qua Mỹ vì không quen uống sữa, uống sữa sẽ đau bụng. Tôi thích ăn mắm tôm thôi.”
19.- Quyển "Buddha’s Child" nên mượn tại
Thư Viện Hoa Kỳ còn nếu mua để làm của riêng và nghiên cứu thì nên
mua Bộ Tam Quốc Chí có đoạn “Lữ Bố hí Điêu Thuyền" thì hay hơn.
http://www.daichung.com/104/08_doc_bao_dum.shtm
http://www.daichung.com/104/08_doc_bao_dum.shtm
Hai cuốn sách của Nguyễn Cao Kỳ April 29, 2004
Bùi Văn Phú
Twenty Years and Twenty Days. Nguyễn Cao Kỳ. 239 tr., Nxb Stein and Day. New York 1976. Khi tái bản, tên sách đổi thành How we lost the Vietnam war.
*
Sau khi quân đội đảo chính chính quyền Ngô
Đình Diệm năm 1963, miền Nam trải qua nhiều xáo trộn chính trị. Các
tướng lĩnh và đảng phái chính trị tranh giành quyền hành nên miền Nam
thay người lãnh đạo luôn, từ Dương Văn Minh, Nguyễn Ngọc Thơ đến Nguyễn
Khánh, Trần Văn Hương, Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát.
Khi quân đội được trao lại trọng trách
điều hành quốc gia vào tháng 6 năm 1965, không tướng nào còn muốn đứng
ra cầm quyền nữa vì không biết sẽ được bao lâu. Tướng Nguyễn Cao Kỳ đại
diện đám tướng trẻ – Young Turks – lên làm thủ tướng trong khung cảnh
chính trị bất ổn của miền Nam lúc bấy giờ. Ông Kỳ đã nhận trách nhiệm
với điều kiện phải hỏi ý kiến vợ trước đã (20 Years, chuyện này không được nhắc lại trong Buddha’s Child).
Tuy bị đe dọa lật đổ bởi các tướng Nguyễn
Chánh Thi – tư lệnh quân đoàn I; tướng Nguyễn Hữu Có – Bộ trưởng Quốc
phòng và phong trào tranh đấu của Phật giáo, chính phủ của tướng Kỳ đã
đứng vững, đem lại sự ổn định chính trị cho Miền Nam. Ông đưa ra những
kế hoạch cải tiến dân sinh, đem lại công bằng xã hội, cùng đặt nền móng
xây dựng nền dân chủ pháp trị với việc ban hành hiến pháp mới và tổ chức
các cuộc bầu cử tự do từ xã ấp lên đến quốc hội, tổng thống.
*
Trong kỳ bầu cử tổng thống đầu tiên vào
tháng 9.1967, tướng Kỳ tuyên bố ra tranh cử trước ông Nguyễn Văn Thiệu,
nhưng sau ông lại nhường cho ông Thiệu làm ứng cử viên tổng thống, còn
ông đứng chung liên danh và làm phó. Theo tiết lộ của ông, vì thấy tướng
Thiệu sắp khóc nên trong giây phút chạnh lòng, chứ không phải vì áp lực
từ bất cứ ai, ông đã đột ngột quyết định nhường cho ông Thiệu. Việc này
ông luôn luôn hối tiếc và cho đó là lỗi lầm lớn nhất trong đời vì sau
khi nắm quyền, ông Thiệu trở nên độc tài, thối nát và chỉ lo cho bản
thân, bè phái hơn là quyền lợi quốc gia. Ông Thiệu hèn nhát, sợ bị người
Mỹ hoặc ông đảo chánh vì thế ông Thiệu luôn phục tùng người Mỹ và tìm
mọi cách gạt bỏ ông bằng cách không cho nắm quyền gì trong quân đội,
khiến ông Kỳ phải lui về sống ở nông trại Khánh Dương.
Ông Kỳ tin rằng nếu ông cũng ra tranh cử
tổng thống vào năm 1967 ông có thể thắng và cục diện chiến tranh Việt
Nam đã khác vì đó là cuộc bầu cử tự do, công bằng với nhiều quan sát
viên quốc tế có mặt.
Sự thực nếu ông Kỳ cũng tranh cử tổng
thống thì chưa chắc phần thắng đã về ông hay ông Thiệu, mà có thể liên
danh Trương Đình Dzu-Trần Văn Chiêu sẽ thắng. Theo kết quả chính thức,
liên danh Thiệu-Kỳ được 1.649.561 phiếu (34%), liên danh Dzu-Chiêu về
nhì với 817.120 phiếu, bằng nửa số phiếu của liên danh Thiệu-Kỳ. Nếu ông
Thiệu và ông Kỳ tách ra, số phiếu bị chia hai, mỗi người 17%, còn gần
một chục liên danh còn lại với 66% số phiếu, có thể liên danh Dzu-Chiêu –
liên danh đối lập sáng giá nhất lúc bấy giờ – chỉ cần thêm hơn chục
ngàn phiếu là thắng cử.
Tướng Kỳ tự nhận ông không thích làm chính
trị và không phải là một chính trị gia. Ông lại bị ông Thiệu, và có thể
cả người Mỹ, lừa vào năm 1971, trong kỳ bầu cử nhiệm kỳ 2. Tướng Dương
Văn Minh đang sống lưu vong ở Thái Lan, được cho về nước tranh cử; tướng
Kỳ cũng ra tranh cử. Nhưng ông Thiệu đã tìm cách gạt ông Kỳ ra, rồi
tướng Minh rút lui, sau đó liên danh Nguyễn Cao Kỳ-Trương Vĩnh Lễ lại
được hợp thức hoá, nhưng ông quyết định không tham gia vì biết ông Thiệu
sẽ gian lận. Nhìn lại, ông Kỳ tin rằng ông có thể thắng và lại hối tiếc
là đã không tranh cử. Bầu cử tổng thống năm 1971 trở thành màn độc
diễn, thiếu dân chủ.
Đại sứ Mỹ Bunker trước đó có đề nghị chi
năm triệu đô la để ông Kỳ tham gia tranh cử nhưng ông từ chối vì trước
giờ ông vẫn tỏ ra là một người tự chủ, không muốn lệ thuộc người Mỹ.
Tinh thần tự chủ, độc lập của ông Kỳ thể
hiện qua cách ứng xử của ông với tướng Lewis W. Walt, Đại sứ Mỹ Maxwell
Taylor cũng như với trưởng phái đoàn Mỹ tại hoà đàm Paris là Averell W.
Harriman, hay Bộ trưởng Quốc phòng Robert Mc Namara, các Thượng nghị sĩ
William J. Fulbright, George Mc Govern, nhiều khi thiếu phong cách ngoại
giao, tạo xì căng đan. Nhưng đó là cá tính của tướng Nguyễn Cao Kỳ. Tên
mình, ông giải thích, mang nghĩa một tay chơi cờ cao nước, nhưng xem ra
hai lần thua ông Thiệu thì ông Kỳ không phải là tay đánh cờ chính trị
giỏi.
Buddha's Child. Nguyễn Cao Kỳ viết chung
với Marvin J. Wolf. 376 tr., Nxb St. Martin. New York 2002.
Việc người Mỹ muốn chi tiền cho ông Kỳ ra tranh cử có thể đã làm ông khó
xử. Cũng như nhiều lúc ông Kỳ muốn đảo chính lật đổ ông Thiệu thì lo sợ
điều đó làm lợi cho Cộng sản. Năm 1969, lúc làm phó tổng thống, cầm đầu
phái đoàn Việt Nam Cộng hoà tại hoà đàm Paris, ông Kỳ đã bí mật đi gặp
đại diện Việt Cộng – ông Thiệu không biết gì việc này – và họ yêu cầu
ông Kỳ lật đổ ông Thiệu. Sự việc ly kỳ này có trong 20 Years, nhưng lại không được kể trong Buddha’s Child.
Thay vào là cuộc gặp gỡ giữa ông và một nhân vật kỳ bí tên là Phan
Thanh Van, một phi công C-47 đã thay thế ông Kỳ trong một phi vụ nhảy
Bắc. Ông Kỳ đinh ninh viên sĩ quan này đã chết và rất ngạc nhiên khi gặp
lại Van ở Ba Lê. Khi ông Kỳ bắt đầu có kế hoạch đảo chánh ông Thiệu vào
năm 1975 thì mọi chuyện đã trễ.
Buddha’s Child được phát hành sau
khi ông Thiệu qua đời, vì thế có những chỉ trích cho rằng ông Kỳ không
cho ông Thiệu một cơ hội trả lời những phê phán về ông. Ông Kỳ đã viết
về ông Thiệu trong 20 Years, phát hành năm 1976. Ông Thiệu có 25 năm để phản bác lại, nhưng ông đã chọn thái độ im lặng cho đến khi qua đời vào năm 2001.
Về cá tính của tướng Nguyễn Cao Kỳ, có
những phê bình cho ông là hạng người cowboy và playboy. Những chuyện đó
theo ông chỉ đúng một phần.
Tính bốc đồng, thẳng ruột ngựa của tướng
Kỳ thì nhiều người biết. Ông hay đem súng ra hù hay dọa bắn bỏ nhiều
người, dù đó là một linh mục, cai quản nhà thờ núi ở Nha Trang; là các
nhà sư, 13 thượng tọa lãnh đạo phật giáo; là một tướng Mỹ, tư lệnh Thủy
quân Lục chiến Mỹ tại Đà Nẵng; những thương gia buôn gạo; hay là một bộ
trưởng làm việc dưới quyền là ông Trương Văn Thuận.
Sau khi dẹp xong vụ nổi loạn miền Trung,
tướng Kỳ giao Thượng tọa Thích Trí Quang – một nhà tu hành Phật giáo với
nhiều tham vọng chính trị – cho bác sĩ Nguyễn Duy Tài săn sóc với lời
cảnh cáo sẽ “bắn bỏ ông (bác sĩ Tài) cùng vợ con và gia đình” nếu Thích
Trí Quang bỏ trốn hay trở nên bệnh nặng.
Còn dư luận về con người playboy của tướng
Kỳ, sử gia Stanley Karnow coi ông như “một tay chơi kèn sắc-xô trong
những hộp đêm hạng nhì.”
Ông Kỳ thừa nhận ông có nhiều nhân tình và
đã có đến bốn đời vợ. Nhưng ông có vẻ hắt hủi Đặng Tuyết Mai, người vợ
đã được ông hỏi ý kiến trước khi nhận chức thủ tướng. Ông không còn nhắc
đến tên bà trong Buddha’s Child, trong khi ông kể những chuyện tình cũ với Cẩm Vân, Tường Vân và bà vợ mới tên Kim.
So với 20 Years, Buddha’s Child
cung cấp thêm những tài liệu, công điện trao đổi giữa toà đại sứ Mỹ tại
Sài Gòn và Hoa Thịnh Đốn để chứng minh tướng Kỳ được dân Việt, được
những người làm chính sách Mỹ ủng hộ và ca ngợi là người tự chủ, độc
lập, không lệ thuộc người Mỹ trong các quyết định về chính sách, chứ
không như dư luận Mỹ thường hay đặt điều nói xấu về ông.
Trong thời chiến, vì những hình ảnh không
trung thực nên Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ bị ngăn cản qua Mỹ, khi được
Mục sư Carl McIntyre mời qua đọc diễn văn trong một cuộc diễn hành ủng
hộ Việt Nam Cộng Hoà. Tiến sĩ Henry Kissinger lo ngại sự có mặt của ông
có thể gây bạo động trong dân chúng Mỹ.
Tháng 7.1971 ông Kỳ qua thăm Mỹ không
chính thức và đã bị biểu tình phản đối khắp nơi. Đến một khách sạn ở Los
Angeles ông phải đi vào qua cửa bếp.
Trong chuyến đi này tướng Kỳ kể ông là
người đã đề nghị kế hoạch Việt Nam hoá chiến tranh với chính quyền Mỹ.
Điều này không đúng. Kế hoạch rút quân, cùng lúc đánh phá các sào huyệt
cộng sản trên đất Campuchia, Lào và Bắc Việt được Nixon chủ trương sau
khi nhận chức tổng thống vào đầu năm 1969. Bộ trưởng Quốc phòng Melvin
Laird đặt tên là kế hoạch Việt Nam hoá chiến tranh. Hơn 60 ngàn lính Mỹ
rút khỏi Việt Nam trong năm 1969, 150 ngàn trong năm 1970. Đến cuối năm
1971 thì quân số lính Mỹ ở Việt Nam đã giảm từ 520 ngàn xuống còn 140
ngàn.
Một vấn đề cần nêu ra là dù không để cho
người Mỹ đẩy đưa mình, nhưng trong hai năm tướng Kỳ cầm quyền – từ tháng
6, 1965 đến tháng 10, 1967 – trên 200 ngàn lính tác chiến Mỹ được đổ
vào Việt Nam mà không thấy ông ghi lại những tham khảo giữa Hoa Thịnh
Đốn và Sài Gòn, nếu có, về việc này cũng như phản ứng và ý kiến của ông.
Điều mâu thuẫn nhất trong con người tướng Kỳ là xuyên xuốt qua những trang sách của 20 Years ông chứng tỏ là người không vì tiền bạc, danh vọng mà đánh mất tính tự chủ, tinh thần độc lập. Nhưng cũng chính 20 Years cho thấy tính mất tự chủ của ông. Ông Kỳ viết Buddha’s Child là vì đọc kỹ lại 20 Years
ông Kỳ nhận ra: “những người biên tập đôi khi đặt những lời nói vào
miệng tôi và tạo ra những sự việc không hề xảy ra”. Tiền bản quyền cho 20 Years
và lệ phí diễn thuyết trong những năm đầu tại Mỹ đã giúp ông Kỳ mua xe
hơi, mua nhà. Từng là một cựu tư lệnh không quân, thủ tướng, phó tổng
thống mà ông Kỳ lại để cho nhà xuất bản Mỹ đặt điều được sao?
Chương cuối của Buddha’s Child hoàn
toàn mới. Tác giả phân tích về hiện tình Việt Nam, về chính trị, chiến
lược của các nước trong vùng và của Hoa Kỳ, của Trung Quốc.
Năm 1992 người viết bài này có tranh luận
với tướng Kỳ trên truyền hình về quan hệ Mỹ-Việt, ông cho rằng chế độ
cộng sản chỉ tồn tại năm, mười năm nữa, bang giao sớm, cộng sản sụp đổ
sớm. Nay ông nhận định Việt Nam không còn chế độ cộng sản mà là một chế
độ độc tài, tham nhũng, như các nước trong vùng đã từng trải qua. Ông Kỳ
viết rằng Hồ Chí Minh, người đem chủ thuyết cộng sản vào Việt Nam, nếu
nhìn thấy đất nước hiện tại cũng phải đội mồ mà dậy.
Ông khuyên giới lãnh đạo Hà Nội hãy chọn
con đường tư bản, vì nó sẽ dẫn đến dân chủ và pháp trị. Còn duy trì độc
tài, tham nhũng thì Việt Nam có nguy cơ bị Trung Quốc xâm lăng kinh tế
để biến thành một tỉnh của người Tàu.
Mặc dù nhìn nhận cuộc chiến chống cộng sản
trong quá khứ là đúng, ông kêu gọi người Việt hải ngoại xóa bỏ hận thù
để hướng về tương lai.
Ông Kỳ năm nay đã ngoài 70 tuổi, sống sót
qua nhiều cơ nguy theo ông là nhờ có Đức Phật che chở. Ngày nay giấc mơ
cuối đời của ông là được về lại đất Bắc, về lại Sài Gòn và mong đóng góp
phần còn lại của đời mình cho đất nước.
© 2004 Buivanphu
https://buivanphu.wordpress.com/2004/04/29/hai-cu%E1%BB%91n-sach-c%E1%BB%A7a-nguy%E1%BB%85n-cao-k%E1%BB%B3/
VẠN MỘC CƯ SĨ BÌNH CHÚ
Con người của Nguyễn Cao Kỳ và quyển sách của
ông là những đề tài sôi nổi trong cộng đồng. Nay Nguyễn Cao Kỳ đã ra
đi, và bài của Vũ Trung Hiền ,Ký Điệu và Bùi Văn Phú cũng đăng dã lâu,
từ khi Nguyễn Cao Kỳ còn sống.Nay tình cờ tìm thấy trên các mạng, hai
bài đều có những nhận xét rất xác đáng, bỉ nhân xin phép đăng lại để làm
tài liệu cho văn sử. Mà cũng để mua vui vài phút giây!
Các hồi ký phần nhiều là chủ quan, đề cao, khoe khoang là chuyện thường.
[1]. Nguyễn Cao Kỳ chẳng phải mềm lòng mà bị áp lực Mỹ ma rut lui, nếu cứmng đầu thì bị tai nạn ngay, nhất là tai nạn máy bay!
[2]. Cua gái nhất là trong quán rượu, đâu cần ngôn ngữ Anh, Pháp, Việt. Lấy gái Pháp chưa chắc giỏi tiếng Pháp cũng như bác ta nói tiếng bồi mà cũng có vợ Pháp và quen các chánh khách thế giới đó sao?
[3].Cũng như đa số người Việt nói tiếng Anh nhanh như gió, hay hơn Mỹ nhưng không đọc và viết được Anh văn. Nguyễn Cao Kỳ nhờ người viết để mua danh, còn ông không có khả năng fđọc và viết. Xin đừng trách.
[4]. Vô kỷ luqật nhiều phen như thế mà không bị kỷ luật ư? Quân kỷ chẳng ra gì hoặc y có ai đo che chắn?
[5\] Điểm này Ký Điệu nói sai. Giàu nghèo đều muốn có con và xin con cầu tự. Ai bảo nghèo thì không muốn có con? Quan niệm này chỉ phát sinh ở Âu Mỹ ngày nay. Âu Mỹ ngày nay không con thì xin con nuôi qua các tổ chức quốc tế. Trong Cô Nhi viện cũng có việc mua bán trẻ con.
Cầu tự là cầu xin thần thánh ban cho mình một đứa con để lập tự về sau. Người ta thường cầu tự ở đình chùa hay đền miếu, chẳng hạn như đền Và ở Sơn Tây thờ thần núi Tản Viên, đền Phủ Giầy ở Nam Định thờ công chúa Liễu Hạnh…Tuy nhiên, có hai nơi được coi là “linh” hơn cả, đó là chùa Hương ở Hà Tây thờ Phật Bà Quan Âm và đền Kiếp Bạc ở Hải Dương thờ Hưng Đạo Vương.
Muốn đi cầu tự, trước hết phải giữ mình cho thanh khiết, phải ăn chay niệm Phật để lòng thành của mình động tới quỷ thần, phải tắm nước ngũ vị để tẩy xóa mọi xú uế trần tục.
Còn việc đầu thai như các Lạt Ma Tây Tạng lại là việc khác.
[6]. Ký Điệu nói Cụm từ Con Cầu Tự không thể ghi là "Buddha’s Child" được hết. .Việc viết Buddha’s Child"do ông Marvin J Wolf người Mỹ viết,Chúng ta có thể chê ông Mỹ viết chữ Viet Nam sai, lầm lẫn nhân danh, địa dang , còn mình là dân Việt sao dám bắt bẻ người Mỹ! Dịch chỉ là lấy ý, không thể dịch theo kiểu "mot à mot" được. Vây theo Ký Điệu Con cầu tự dịch là gì?Vè danh từ ý nghĩa cũng chỉ tương đối. Danh bất khả danh. Cùng một chữ nhung mỗi quốc gia, tôn giáo, triết phái, đảng phái quan niệm khác nhau, phải tìm hiểu mới biết rõ.
Các hồi ký phần nhiều là chủ quan, đề cao, khoe khoang là chuyện thường.
[1]. Nguyễn Cao Kỳ chẳng phải mềm lòng mà bị áp lực Mỹ ma rut lui, nếu cứmng đầu thì bị tai nạn ngay, nhất là tai nạn máy bay!
[2]. Cua gái nhất là trong quán rượu, đâu cần ngôn ngữ Anh, Pháp, Việt. Lấy gái Pháp chưa chắc giỏi tiếng Pháp cũng như bác ta nói tiếng bồi mà cũng có vợ Pháp và quen các chánh khách thế giới đó sao?
[3].Cũng như đa số người Việt nói tiếng Anh nhanh như gió, hay hơn Mỹ nhưng không đọc và viết được Anh văn. Nguyễn Cao Kỳ nhờ người viết để mua danh, còn ông không có khả năng fđọc và viết. Xin đừng trách.
[4]. Vô kỷ luqật nhiều phen như thế mà không bị kỷ luật ư? Quân kỷ chẳng ra gì hoặc y có ai đo che chắn?
[5\] Điểm này Ký Điệu nói sai. Giàu nghèo đều muốn có con và xin con cầu tự. Ai bảo nghèo thì không muốn có con? Quan niệm này chỉ phát sinh ở Âu Mỹ ngày nay. Âu Mỹ ngày nay không con thì xin con nuôi qua các tổ chức quốc tế. Trong Cô Nhi viện cũng có việc mua bán trẻ con.
Cầu tự là cầu xin thần thánh ban cho mình một đứa con để lập tự về sau. Người ta thường cầu tự ở đình chùa hay đền miếu, chẳng hạn như đền Và ở Sơn Tây thờ thần núi Tản Viên, đền Phủ Giầy ở Nam Định thờ công chúa Liễu Hạnh…Tuy nhiên, có hai nơi được coi là “linh” hơn cả, đó là chùa Hương ở Hà Tây thờ Phật Bà Quan Âm và đền Kiếp Bạc ở Hải Dương thờ Hưng Đạo Vương.
Muốn đi cầu tự, trước hết phải giữ mình cho thanh khiết, phải ăn chay niệm Phật để lòng thành của mình động tới quỷ thần, phải tắm nước ngũ vị để tẩy xóa mọi xú uế trần tục.
Còn việc đầu thai như các Lạt Ma Tây Tạng lại là việc khác.
[6]. Ký Điệu nói Cụm từ Con Cầu Tự không thể ghi là "Buddha’s Child" được hết. .Việc viết Buddha’s Child"do ông Marvin J Wolf người Mỹ viết,Chúng ta có thể chê ông Mỹ viết chữ Viet Nam sai, lầm lẫn nhân danh, địa dang , còn mình là dân Việt sao dám bắt bẻ người Mỹ! Dịch chỉ là lấy ý, không thể dịch theo kiểu "mot à mot" được. Vây theo Ký Điệu Con cầu tự dịch là gì?Vè danh từ ý nghĩa cũng chỉ tương đối. Danh bất khả danh. Cùng một chữ nhung mỗi quốc gia, tôn giáo, triết phái, đảng phái quan niệm khác nhau, phải tìm hiểu mới biết rõ.
No comments:
Post a Comment