Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday, 3 November 2016

BÙI VĂN PHÚ * MỸ TRUNG=TỔ TIÊN LOÀI NGƯỜI =

BÙI VĂN PHÚ * MỸ TRUNG

Chiến tranh kinh tế Mỹ-Trung?

Chỉ số Dow Jones ở New York trên kênh truyền hình CNN sáng 24/8/2015 (ảnh Bùi Văn Phú)
Chỉ số Dow Jones ở New York trên kênh truyền hình CNN sáng 24/8/2015 (ảnh Bùi Văn Phú)
Nếu bạn có tài khoản chứng khoán thì hơn tháng qua chắc cũng không khỏi hồi hộp vì mỗi ngày nhìn chỉ số Dow Jones và Nasdaq lên xuống mà lo, lên thì ít mà xuống vài trăm điểm trong một ngày là thường.
Sáng thứ Hai 24/8, 6 giờ 30 ở California. Một ngày đầu tuần. Vừa thức dậy, như thường nhật bật ti-vi nghe tin giao thông, thời tiết thì có tin thị trường chứng khoán ở Phố Wall, New York vừa mở cửa đã tuột giốc hơn một nghìn điểm. Đó là tin nóng buổi sáng trên tất cả các kênh truyền hình. Giá cổ phiếu các công ty lớn bé rơi tuốt luốt. Apple, Google, Facebook rớt vài phần trăm. Pepsi, Costco, General Electric mất gần 20%.
Nhiều gia đình Mỹ, trong đó có chúng tôi, ngày nay để dành tiền hưu trí gởi vào quỹ 401(k) hay trương mục IRA. Nhìn con số đỏ nhảy múa liên hồi trên màn hình mà tim tăng nhịp đập. Chứng khoán Mỹ lại sụp nữa sao, như năm 1987 hay 2008? Quỹ hưu trí 401(k) của nhân viên công ty thường được các nhà đầu tư đổ vào thị trường chứng khoán để sinh lời nhiều. Với đà tuột dốc chứng khoán, sau cơn bão thị trường này rồi tiền tiết kiệm của hàng triệu người sẽ còn bao nhiêu? Thật là một ngày hồi hộp cho những ai sắp đến tuổi hưu. Nhưng cuối ngày chỉ số chứng khoán chỉ rơi gần 600 điểm.
Các nhà đầu tư đều khuyên mọi người không nên hoảng loạn, tức là đừng thấy vậy mà vội rút tiền. Hãy nắm chặt tay cầm trong chuyến du hành lên xuống như trò chơi cao tốc đang nhào lộn này. Rồi cũng đáp bến bình yên thôi.
Đó là lời khuyên ở Mỹ, còn bên Trung Quốc có ai khuyên người dân như thế không mà sao họ ùn ùn bán đổ, bán tháo nhiều loại cổ phiếu khiến chỉ số Shanghai ngày một tụt xuống.
Chứng khoán Dow Jones ở New York sau khi lên cao đến trên 18,000 điểm trong nửa đầu của năm nay, hiện tại tụt xuống còn ở mức 16,300 tức là đã mất khoảng 1,700 điểm, gần 10%. Tuy nhiên các chuyên gia kinh tế tài chánh cho đó chỉ là sự điều chỉnh của thị trường đã quá nóng, không phải sự sụp đổ tài chánh như đã xảy ra năm 1987, khi Dow Jones tuột dốc 22% trong một ngày; hay như gần đây là năm 2008 với thị trường bất động sản sụp đổ khiến chính phủ Mỹ phải bơm hàng trăm tỉ đô-la vào trợ giúp.
Năm 1987 tôi đang làm việc ở Hồng Kông. Lúc đó chưa biết mua cổ phiếu nhưng buổi sáng đọc báo và nghe chung quanh bàn tán chứng khoán Hang Seng rớt nhiều ngày liên tục mà cũng lo vì mình có chương mục ở Bank of America và sắp hết hạn công tác để về lại Hoa Kỳ, không biết có rút hết tiền ra và đóng chương mục được không. Khi đi rút hết tiền, cô thư ký hỏi có phải lo sợ chứng khoán tuột dốc hay không, tôi trả lời đó không phải lý do mà là vì tôi sắp phải rời nơi đây.
Hồng Kông lúc đó còn là tô địa Anh quốc và có nền kinh tế phát triển vững trong khu vực châu Á,chỉ thua Nhật. Suy sụp tài chánh cuối năm 1987 khiến chứng khoán Hang Seng mất hơn 40% và đã kéo theo các thị trường khác từ Mỹ, Úc đến Tây Âu.
Từ năm 1997 Hồng Kông được trả về cho Trung Quốc và nơi đây đã là cửa ngõ thương mại cho Trung Quốc mở rộng giao thương với thế giới vì các định chế kinh tế tài chánh của Hồng Kông đã vận hành tốt qua nhiều thập niên.
Trong những tuần qua, mức độ xuống khá nhiều của các thị trường chứng khoán ở châu Âu, ở Mỹ là do ảnh hưởng từ Hồng Kông và đặc biệt là thị trường Shanghai từ Trung Quốc, một quốc gia nay đã trỗi lên vị trí kinh tế lớn thứ nhì thế giới sau Hoa Kỳ.
Vài tháng trước, các chuyên gia lo ngại sự sụp đổ của nền kinh tế Hy Lạp sẽ kéo theo khủng hoảng tài chánh ở châu Âu, nhưng nay không còn nhắc đến Hy Lạp nữa. Mọi quan sát từng ngày đang đổ dồn về Trung Quốc.

Chứng khoán Mỹ tháng qua xuống gần 10%. Nhưng con số ảm đạm đó cũng chỉ bằng một phần tư mức tuột dốc trong của sàn chứng khoán Shanghai, mất 37% trong ba tháng.
Ảnh hưởng của Trung Quốc đang lây lan ra khắp nơi trên thế giới, cả tới Việt Nam, là một quốc gia chưa thực sự có nền kinh tế thị trường nhưng chỉ số chứng khoán ở Thành phố Hồ Chí Minh, mới lên sàn từ 15 năm qua, cũng giảm từ cao điểm 640 vào cuối tháng 7 xuống còn 530 điểm, mất 17% trong ngày chứng khoán thế giới lao dốc hôm 24/8, nay đã lên mức 570.
Từ hai thập niên qua, cụm từ “toàn cầu hoá” – globalization – được nhắc đến nhiều để chỉ việc phát triển giao thương giữa các nước trên thế giới. Với thị trường chứng khoán ở những vùng phát triển như châu Âu, Bắc Mỹ và Trung Quốc, Nhật Bản tuy lên xuống có cường độ khác nhau, nhưng cùng một nhịp điệu đã cho thấy ngày nay có sự ràng buộc kinh tế chặt chẽ giữa các nước với nhau.
Dưới thời Mao, Trung Quốc không phải là quốc gia có nền kinh tế thị trường nhưng đã bắt đầu gia nhập sân chơi kinh tế toàn cầu, mở cửa ra giao thương với thế giới sau cuộc gặp giữa Tổng thống Richard Nixon và Chủ tịch Mao Trạch Đông vào đầu thập niên 1970.
Năm 1985 tôi có dịp đến Trung Quốc. Đường xá giờ tan sở ngập tràn công nhân mặc đồng phục mầu xanh biển đậm chầm chậm di chuyển bằng xe đạp trên đường phố. So với Hồng Kông lúc đó với xe ô-tô nườm nượp trên phố thì Shanghai, Canton còn nhỏ bé và quê mùa.
Năm 1987 khi chứng khoán Hang Seng ở Hồng Kông mất hơn 40% và Dow Jones mất hơn 20% thì kinh tế Trung Quốc còn ở giai đoạn chập chững, Shanghai chưa có sàn cổ phiếu cho đến năm 1990.
Đầu thập niên 1990 rất nhiều công ty Mỹ và từ nhiều nước phát triển khác tái cấu trúc, ào ạt đưa hãng xưởng sản xuất vào Trung Quốc – outsourcing – vì giá nhân công rẻ nên đã giúp cho nền kinh tế Trung Quốc cất cánh lên, GDP tăng mỗi năm trên 10%.
Ngày nay Shanghai đang bắt kịp Hồng Kông với nhà cao tầng san sát, phố xá toàn xe hơi và là trung tâm tài chính thương mại chính của Trung Quốc. Chỉ số chứng khoán Shanghai bây giờ lên xuống đã thực sự làm giao động kinh tế toàn cầu từ châu Âu sang đến Hoa Kỳ, như đã thấy trong những tuần qua.
Sau hơn 30 năm phát triển giao thương, kim ngạch giao dịch hàng hoá giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc lên đến 600 tỉ đô-la mỗi năm, đa phần là hàng Trung Quốc nhập vào Hoa Kỳ. Trong bảy tháng đầu năm nay, giao thương giữa hai nước đã đạt trên 330 tỉ đô-la, nhập vào Mỹ lên đến 267 tỉ.

Trung Quốc ngày nay còn là quốc gia đứng đầu nắm giữ tài sản ngân khố Hoa Kỳ với gần 1,300 tỉ đô-la, hơn cả Nhật với 1,200 tỉ.
Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc dự đoán sẽ chậm lại, không còn ở mức 10% như trong hai thập niên qua, mà xuống khoảng 7%, là điều làm giới lãnh đạo Bắc Kinh lo lắng và thế giới quan ngại điều đó sẽ kéo theo suy trầm kinh tế toàn cầu.
Mấy tháng trước, dư luận còn nhắc nhiều đến căng thẳng ngoài Biển Đông, coi đó có thể là điểm nóng nơi xung đột Mỹ-Trung có thể xảy ra.
Hơn tháng qua tình hình Biển Đông như yên sóng. Trong khi đó lại đang nổi lên những đợt sóng kinh tế. Với chỉ số chứng khoán ngày càng tuột dốc ở Trung Quốc, Bắc Kinh đã bơm 235 tỉ đô-la vào thị trường và đang tìm mọi cách chặn lại sự suy sụp, kể cả việc bắt giam những nhà đầu tư, những nhà báo đưa ra thông tin kinh tế mà nhà nước cho là thất thiệt khiến người dân ào ạt bán cổ phiếu.
Cùng lúc, các nhà đầu tư Mỹ và các nước Tây Âu cũng đang mất niềm tin vào cổ phiếu và sự phát triển bền vững của nhiều công ty Trung Quốc.
Súng có nổ trên Biển Đông thì người dân Mỹ cũng không bị ảnh hưởng gì nhiều. Nhưng nếu thực sự đang có chiến tranh kinh tế giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, thì cuộc chiến này sẽ làm cả thế giới lo ngại. Giá cả nhiều loại hàng sẽ tăng vọt, trong khi tiền tiết kiệm của nhiều người dân Mỹ có nguy cơ bốc hơi.
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Bùi Văn Phú

Tác giả dạy đại học cộng đồng và hiện sống tại vùng Vịnh San Francisco, California. 

TIN KHOA HOC


Tìm ra loài có nhân dạng mới ở Nam Phi

  • 10 tháng 9 2015




Các nhà khoa học vừa tìm ra trong một hang tối tại Nam Phi nhiều xương mà họ cho rằng là thuộc một giống nhân dạng mới, gọi là 'Homo naledi'.
Phần đáy của hang Rising Star, cách Johannesburg 50 km, là nơi vừa tìm ra các mảnh xương này.



Phần hang sâu thấp tới mức chỉ nhóm nhà nghiên cứu nữ (trong hình) có vóc dáng nhỏ mới vào được.
Đây là dự án do National Geographic tài trợ và kết của của nó là họ đã tìm ra một loài "có liên hệ với loài người cổ đại'.
Số đo xương cho thấy loài mới này có cả những phần giống tinh tinh thời cổ và phần của người hiện đại.
Chỉ số sọ của loài này nhỏ, chỉ bằng của đười ươi.
Tên của loài mới được nhóm nghiên cứu đặt là 'Homo Naledi' lấy theo tiếng Sesotho ở địa phương này là 'naledi - ngôi sao'.
Hình xương và sọ của 'Người ngôi sao' này rất giống Homo erectus, sống trước người hiện đại ở vùng nam châu Phi chừng 1,5 triệu năm.
Nhà nghiên cứu Lee Berger từ Đại học Witwatersrand ở Johannesburg công bố "chúng ta tìm ra một loài mới".
Phát hiện này có thể giúp Giáo sư Berger tìm ra 'cầu nối' giữa các loài linh trưởng đã đi bằng hai chân và loài người.

 

Image copyright Reuters







 http://www.bbc.com/vietnamese/world/2015/09/150910_homo_naledi_south_africa

New human-like species discovered in South Africa, scientists name it Homo Naledi

Posted on: 04:49 PM IST Sep 10, 2015 | Updated on: 9:07 pm,Sep 10,2015 IST
New Delhi: In a major breakthrough, a new human-like species has been discovered in South Africa.
Scientists discovered 15 partial skeletons in a cave which could shed some light on how the first humans evolved. The scientists have named the creature Homo Naledi and believe they could be among the first of our kind and could have lived in Africa up to three million years ago.







The skeletons include both males and females of varying ages, from infants to elderly.

The skeletons include both males and females of varying ages, from infants to elderly. Measurements of the bones show that the creature has a blend of ancient ape and modern human-like features.
The creature's brain is tiny, the size of a gorilla's. Its teeth are small and simple. The thorax is primitive and ape-like, but its hands are more modern, their shape well-suited to making basic tools. The feet and ankles are built for walking upright, but its fingers are curved, a feature seen in apes.


Phát hiện hóa thạch họ hàng mới của loài người tại Nam Phi
16:24 11/09/2015

(VietQ.vn) - Các nhà khoa học cho biết xương hóa thạch tìm thấy trong một hang động ở Nam Phi 2 năm trước thuộc về loài mới chưa xác định của một nhóm người sơ khai có tên khoa học là Homo Naledi.
Tìm thấy hóa thạch tổ tiên loài cá heo?
Phát hiện loài rùa biển lâu đời nhất thế giới
Phát hiện hóa thạch xương ngón tay loài người đầu tiên trên thế giới
Phát hiện hóa thạch xương ngón tay loài người đầu tiên trên thế giới
Phát hiện hóa thạch phôi thai thằn lằn cổ nhất thế giới

Vnexpress dẫn nguồn theo New York Times cho biết, nhóm hơn 60 chuyên gia quốc tế, dẫn đầu là Lee R. Berger, giáo sư nhân chủng học trường đại học Witwatersrand ở Johannesburg, Nam Phi, công bố kết quả nghiên cứu hôm nay về hóa thạch loài Homo Naledi - họ hàng mới của loài người

Loài mới có quan hệ gần gũi với loài người hiện đại được gọi là Homo naledi, được tìm thấy trong hang đá vôi Rising Star ở ngoại ô Johannesburg. Theo CNN, có vẻ loài mới được tìm thấy này đã mai táng người chết - hành vi chỉ có ở con người - theo quan niệm trước đây của giới khoa học. Ca mai táng đầu tiên của con người xảy ra khoảng 100.000 năm trước.


Hóa thạch loài mới hoàn chỉnh , tổng hợp từ 1550 mảnh hóa thạch khác nhau . Ảnh: enca.com

Bộ xương của Homo Nadeli cho thấy các đặc điểm giải phẫu tương tự con người hiện đại ngày nay, chẳng hạn như bàn chân cấu tạo phù hợp cho đi bộ đường dài, nhưng cũng mang đặc điểm của loài vượn như vai hẹp và ngón tay cong.

Hóa thạch được tìm thấy gồm xương cốt của trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ, người trưởng thành và người già, trong một khu vực tách biệt bên trong hang Rising Star. Các nhà nghiên cứu tin rằng vòm hang nằm sâu 30 mét dưới di sản thế giới Cradle of Human, cách Johannesburg khoảng 50 km về phía tây bắc, là một nghĩa địa, và người Homo naledi có thể đã dùng lửa để soi sáng đường vào hang.

Xương bàn tay mang đặc điểm giải phẫu của cả người và vượn . Ảnh: Independent

"Bàn tay cho thấy khả năng sử dụng công cụ nhưng lại có các ngón tay rất cong, hơn hầu hết các loài thuộc chi người, nghĩa là khả năng leo trèo của họ rất tốt", nhà khoa học Tracy Kivell thuộc Đại học Kent cho biết.

Loài người mới trên được đặt tên là Homo Naledi, theo tên hang động nơi tìm ra hóa thạch. Điều làm các nhà khoa học bất ngờ nhất là những người Homo Nadeli dường như cũng chôn cất người đã khuất cẩn thận, mặc dù bộ não của họ có kích cỡ khá nhỏ.


Cửa vào khu vực hang phát hiện hóa thạch loài Homo Nadeli . Ảnh: enca.com

Các kết quả phân tích cho thấy loài Homo Naledi có kích thước tối đa cao 1,5m, nặng không quá 45kg khi trưởng thành. Các nhà khoa học xếp loài mới này vào chi người (homo) bởi các đặc điểm khác biệt khi so sánh với các loài khác thuộc chi người.

Nhóm các nhà khảo cổ học từ nhiều nước trên Thế giới đã thu thập được tổng cộng 1.500 mảnh xương hóa thạch và sắp xếp được thành một bộ xương gần như hoàn chỉnh của loài Homo Naledi.



Phát hiện tổ tiên của loài người

Các mảnh xương hóa thạch của 'Homo naledi' tìm được ở ngoại ô Johannesburg, ngày 10/9/2015.
Các mảnh xương hóa thạch của 'Homo naledi' tìm được ở ngoại ô Johannesburg, ngày 10/9/2015.

Một nhóm các khoa học gia hôm 10/9 loan báo đã phát hiện thêm tổ tiên đã tuyệt chủng của loài người.
Công bố việc phát hiện trên tạp chí eLIFE, các nhà nghiên cứu gọi tên những người này là Homo naledi, cao 1,5 mét, nặng 45 kg và có khả năng đi thẳng lưng.
Họ cũng cho biết chủng người này có tay và chân như con người, nhưng lồng ngực, vai và xương chậu giống với các tổ tiên trước đây của loài người hơn là con người hiện đại.
Các nhà khoa học đã ghi nhận các chi tiết trên sau khi tìm kiếm trong bộ sưu tập xương ở một nơi khó tiếp cận trong hang ở ngoại ô Johannesburg, Nam Phi.
1.500 mảnh xương tìm thấy tại nơi này được cho là của ít nhất 15 cá nhân, các nhà khoa học cho biết.
Họ cho biết rằng Homo naledi xuất hiện trong khoảng thời gian từ 2,5 tới 2,8 triệu năm trước, nhưng xương tìm thấy tại địa điểm khảo cổ trên trẻ hơn.
Hiện chưa rõ là vì sao các mảnh xương trên lại ở trong nơi sâu nhất của hang.
Các nhà khoa học cho rằng thi thể người chết có thể đã được chôn tại đó, và đây là một hành vi hiếm thấy của người tiền sử.

Xương người nhẹ hơn xưa do lối sống ít đi lại

Con người hiện đại nặng hơn so với tổ tiên săn bắn hái lượm của chúng ta, nhưng xương của chúng ta lại nhẹ hơn
 http://www.voatiengviet.com/content/tim-ra-to-tien-cua-loai-nguoi/2955537.html

TRẦN HỮU TÁ * VŨ TRỌNG PHỤNG

Trí thức văn nghệ sĩ Sài Gòn trước 1975 với Vũ Trọng Phụng

Email In
Xem kết quả: / 1
Bình thườngTuyệt vời 

 (Trần Hữu Tá, Tạp chí ĐH Sài Gòn, Bình luận văn học, niên giám 2012)

      Một trong những hoạt động chính của văn học Sài Gòn (nói rộng ra, của văn học trong các thành thị miền Nam) trước 1975 là giới thiệu, đánh giá văn học trước Cách mạng tháng Tám 1945, trong đó giai đoạn 1932 – 1945 (mà các nhà nghiên cứu Sài Gòn qui định là 1932 – 1945) được đặc biệt chú ý. Hiện tượng này là một tất yếu, vì thành tựu và kinh nghiệm sáng tác của giai đoạn văn học phát triển rất phong phú này quả là cần thiết cho bất cứ ai muốn hiểu biết văn học dân tộc, nhất là lúc nền văn học ấy đang vận hành với công suất lớn trên con đường hiện đại hóa.
         Vì vậy hầu hết các tác phẩm có tên tuổi của giai đoạn này được tái bản, và không chỉ một lần. Nhiều nhà văn tiêu biểu của giai đoạn này được giới sáng tác và giới nghiên cứu văn học đi sâu tìm hiểu. Nhưng có thể nói, trừ hiện tượng Nhất Linh rộ lên trong năm 1963 (năm ông tự tử và sau khi Ngô Đình Diệm bị đảo chánh, ông được tổ chức tưởng niệm hết sức trọng thể), thì ít ai được giới trí thức văn nghệ sĩ quan tâm một cách đặc biệt như Vũ Trọng Phụng.
          Hầu hết tác phẩm của Vũ Trọng Phụng được tái bản trong đó đáng kể đến nhiều tác phẩm lẽ ra chỉ có thể lục tìm trong các chồng báo cũ của thư viện, như các truyện ngắn (non 40 truyện), các kịch ngắn (non 10 vở) như vở kịch dài Giết mẹ (dịch từ nguyên tác Lucrèce Borgia của V.Hugo), hoặc như 3 chương di cảo, trong tiểu thuyết Người tù được tha.
           Các báo chí chuyên ngành văn học như Tập san Văn, tạp chí Văn học, tạp chí Thời nay, Giai phẩm văn học, tạp chí Nghiên cứu văn học cho ra những tờ đặc biệt về Vũ Trọng Phụng. Có tờ, như tạp chí Văn học, 3 lần ra số đặc biệt để tưởng niệm nhà văn quá cố.
           Bên cạnh những bài viết mới, các tập san, báo chí nói trên còn cho đăng lại rất nhiều bài viết về Vũ Trọng Phụng, đã công bố trên báo chí Hà Nội trước năm 1945 của Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Tam Lang, Lưu Trọng Lư, Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật, Lê Văn Trương, Ngọc Giao, Trương Tửu, Nguyễn Thanh, Thanh Châu, Lê Thanh, v.v…
           Đã có nhóm văn nghệ sĩ tổ chức những đêm kịch Vũ Trong Phụng. Một số vở hài kịch ngắn của ông cũng như hai tiểu thuyết Giông tố, Số đỏ được chuyển thể, được lên sàn diễn.
           Xem lại danh sách những trí thức văn nghệ sĩ viết về Vũ Trọng Phụng, chúng tôi thấy có thể phân thành ba nhóm. Thứ nhất, đó là những nhà văn đã thành danh từ trước năm 1945, vì những lý do khác nhau, tập trung sống và viết ở Sài Gòn như Vũ Bằng, Tam Lang, Nguyễn Vỹ, Đinh Hùng, Thiết Can, Lê Tràng Kiều…
            Thứ hai, đó là các nhà nghiên cứu như Nguyễn Duy Diễn, Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng, Nguyễn Văn Trung, Bùi Xuân Bào…
            Thứ ba, đó là các nhà văn hoặc những người vừa sáng tác vừa hoạt động nghiên cứu, như Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu…
            Nếu căn cứ vào quan điểm nhân sinh, thái độ chính trị của các cây bút này, chúng ta thấy họ khá khác biệt, thậm chí đối lập nhau. Có người chống đối cách mạng từ căn bản ý thức hệ, như Doãn Quốc Sỹ. Có người không nhất quán về chính trị như Dương Nghiễm Mậu. Số đông đậm sắc thái “trung tính”, ngược lại có một số người giác ngộ cách mạng, và với các vị ấy văn học là mặt trận đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân mới, tất nhiên bằng những phương cách khác nhau, với những tư thế khác nhau, như Vũ Bằng, Lữ Phương, Vũ Hạnh…Có người đã hy sinh trên chiến trường Tây Ninh năm 1986, lúc đã thoát ly khỏi vùng giải phóng như Trần Triệu Luật.
              Trong số 46 bài báo và cuốn sách mà chúng tôi có trong tay, viết về Vũ Trọng Phụng ở Sài Gòn trước năm 1975 (một con số chắc chắn chưa đầy đủ so với thực tiễn hoạt động của xuất bản báo chí ở một địa bàn rất nhộn nhịp và phức tạp như Sài Gòn và các thành thị miền Nam suốt 21 năm trước ngày giải phóng), có thể phân ra hai loại:
               Loại thứ nhất, gồm 17 bài viết dưới dạng hồi ức, kỷ niệm. Người viết đều là các bạn văn, thậm chí chí cốt với Vũ Trọng Phụng lúc sinh thời. Đáng chú ý là các bài viết của Tam Lang (Vài kỷ niệm về Vũ Trọng Phụng - Giai phẩm văn học số 170, ngày 05/8/1973), Nguyễn Vỹ (Vũ Trọng Phụng, chương 4 cuốn Văn thi sĩ tiền chiến, trang 49-66, Nhà xuất bản Khai Trí, Sg, số 1969), Đinh Hùng (Nhớ Vũ Trọng Phụng, Tạp chí Văn học, Sg, số 44, ngày 15/8/1965) và sáu bài viết của Vũ Bằng đăng trên các Tạp chí Văn học (Sg) (15/10/1969), Giai phẩm văn học (05/8/1973) hoặc in trong các cuốn Bốn mươi năm nói láo (Phạm Quang Khai xuất bản, Sg, 1971). Ngoài ra còn có các bài viết khác của Lê Tràng Kiều, Thiết Can, Đồ Nam, v.v…
                Loại thứ hai, gồm 29 bài hoặc chương sách nghiên cứu về sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Có những bài khảo sát dưới góc độ thể loại, như của Doãn Quốc Sỹ (Văn học và tiểu thuyết – Nhà xuất bản Sáng tạo, Sg, 1973), Vũ Bằng (Khảo về tiểu thuyết – Phạm Văn Tươi xuất bản, Sg, 1955), v.v… Có một số bài nghiên cứu căn cứ khuynh hướng nghệ thuật của ông, như các bài Vũ Trọng Phụng nhà văn tả chân bất hủ (Nguyễn Duy Diễn – Tạp chí Hiện đại, Sg, tháng 4/1960), Vũ Trọng Phụng, nhà văn hiện thực xã hội (Bùi Ngọc Dung – Tạp chí Văn học, Sg, số 44, ngày 15/8/1965), Kỹ thuật tả chân của Vũ Trọng Phụng (Đỗ Long Vân, Tạp chí Nghiên cứu văn học, Sg, 5/1968), Nhóm tả chân xã hội (Nguyễn Văn Trung, trong Xây dựng tác phẩm tiểu thuyếtNam Sơn xuất bản, Sg, 1965). Cũng có một số nhà nghiên cứu dưới góc độ văn học sử, như Phạm Thế Ngũ (Vũ Trọng Phụng, trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III, Quốc học tùng thư xuất bản, Sg, 1965).
               Xin hãy nói về các bài hồi ký. Thể ký đặc sắc này hấp dẫn người đọc trước hết vì với tư cách là người trong cuộc, hay ít nhất là chứng nhân, người viết đã lọc lựa trong kho kỷ niệm những chi tiết vừa xác thực, gợi cảm, vừa có ý nghĩa sâu sắc, giúp cho độc giả hiểu được sự việc, con người mà họ đang quan tâm – các thiên hồi ký chỉ có thể được coi là thành công khi nó làm người đọc giàu có thêm nhận thức xã hội và phong phú thêm về tình cảm đậm chất nhân văn.
               Mười bảy bài hồi ký nói trên, chất lượng không phải đều cao. Có bài vụn vặt và tẻ nhạt (Đồ Nam – Năm cái bí mật của Vũ Trọng Phụng). Không ít chi tiết trùng lặp trong năm bài viết của Vũ Bằng. Nhưng điều đáng quý là ở chỗ, các nhà văn nhà báo cựu trào này đã làm rõ một cách xúc động hai vấn đề lớn của con người nghệ sĩ Vũ Trọng Phụng. Đó là nhân cáchtài năng.
               Cái cốt lõi nhất của nhân cách Vũ Trọng Phụng theo Vũ Bằng là “Một điều tưởng như vô lý, tưởng như không thể thực hiện được, nhưng Vũ Trọng Phụng đã đem áp dụng trong suốt cả cuộc đời: Dù không đủ ăn, không đủ mặc, không đủ ở, Vũ Trọng Phụng vẫn âm thầm sống để mà viết” (Cảm nhớ Vũ Trọng Phụng). Vũ Trọng Phụng vượt lên mọi eo sèo phiền toái, thậm chí cực nhọc của nợ áo cơm, trước hết vì trách nhiệm của ông với bốn thế hệ phụ nữ mà ông phải cưu mang: bà, mẹ, vợ và con gái còn thơ dại. Cho nên “Vũ Trọng Phụng không mấy tán thành nếp sống của chúng tôi lúc đó: nhiều khi anh em đi hát hay chè, rượu, phiện phò thì anh ngồi uống nước, hút thuốc lào một mình và viết bài cho báo khác để kiếm thêm giúp bà, nuôi mẹ” (Vũ Bằng – Tôi, thằng vô lại). Vì vậy, như Nguyễn Vỹ nhớ lại một chi tiết xúc động: có khi Vũ Trọng Phụng đau khổ chỉ vì một chuyện quá nhỏ nhặt, đó là không có lấy năm hào chỉ để mua cho người con gái độc nhất chiếc đèn con cá trong dịp tết Trung Thu, để cháu khỏi thèm thuồng khi nhìn đồ chơi trong tay các trẻ hàng xóm.
               Nét đẹp của nhân cách Vũ Trọng Phụng còn là ở chỗ, dù bị sự nghèo túng ghì sát đất nhưng ông vẫn sống trong sạch, thanh cao, không để các ông chủ kinh doanh chữ nghĩa coi thường, xúc phạm. Với những tay chủ xuất bản keo kiệt, nhập nhằng việc thanh toán nhuận bút, Vũ Trọng Phụng đòi ráo riết, thậm chí khi cần ông đã giáng đòn sâu cay, ê ẩm (Nguyễn Vỹ - Văn thi sĩ tiền chiến). Để đối phó với loại chủ báo, chủ xuất bản tàn nhẫn thiếu lương tâm, lạnh lùng bóc lột những nhà văn cộng tác, Vũ Trọng Phụng cùng các văn hữu đấu tranh đến cùng (Đinh Hùng – Nhớ Vũ Trọng Phụng). Ông sẵn sàng từ chối chỗ làm lương cao bổng hậu, khi đã biết rõ chất trọc phú của người mời nhưng trái lại rất sẵn sàng xin bạn một hào đi xe, “vì quần áo diện như thế này mà đi bộ trông ê lắm” (Vũ Bằng – Cái tài, cái tật của Vũ Trọng Phụng). Nói là “diện”, nhưng như các bạn văn của ông cho biết, Vũ Trọng Phụng không bao giờ có một bộ quần áo đẹp. Mùa rét có một bộ tím kẻ sọc, mùa nực chỉ có hai bộ trắng.
                Với tư cách là tri kỷ với người đã khuất, các nhà văn cao niên còn giúp người đọc hiểu rõ hơn những chuyện “bếp núc” trong suốt 10 năm cầm bút của Vũ Trọng Phụng. Tài năng của nhà văn được các bạn ông chân thành ca ngợi. Chẳng hạn, năm 1971, Tam Lang nhắc lại một ý ông đã từng viết năm1939, lúc Vũ Trọng Phụng qua đời “Vũ Trọng Phụng viết sau tôi, mà sắc bén hơn tôi” (Tam Lang – Vài kỷ niệm về Vũ Trọng Phụng). Sắc bén là phải, bởi vì Vũ Trọng Phụng lao động hết sức cần mẫn, nghiêm túc. Vũ Bằng làm ta ngạc nhiên, cảm phục khi kể lại cung cách viết văn như đánh vật của Vũ Trọng Phụng “nằm phủ phục xuống mà viết”, “suy nghĩ kỹ trước khi viết, đến khi cầm bút là chỉ việc viết thôi”, “lúc viết, mắt anh liếng, miệng anh há ra viết nhanh, nhưng tướng trông rất vất vả, nên anh em thường đùa gọi là bộ Việt Nam vong quốc sử” (Vũ Bằng – Cái tài, cái tật của Vũ Trọng Phụng).
                Đồ Nam, trong bài viết của mình cũng cho ta rõ cách thức tích lũy vốn sống của Vũ Trọng Phụng, ngoài cái vốn sống trực tiếp, ông đã rất có tài trong việc khai thác tư liệu từ các nguồn gián tiếp, từ ông anh họ Trưởng Ca thạo nghề cờ bạc để viết Cạm bẫy người; từ người bạn Nguyễn Như Hoàn rất gần gũi và hiểu biết các me Tây để viết Kỹ nghệ lấy Tây, từ những câu chuyện của Ngô Tất Tố - con đẻ của đồng ruộng - để có những trang viết sinh động về thực trạng bi đát, đáng phẫn hận của nông thôn trong Giông tố v.v…
                 Vũ Bằng, cũng như Lê Tràng Kiều, Thiết Can, cho chúng ta biết tinh thần tự học rất đáng ca ngợi của Vũ Trọng Phụng “Dù bận rộn viết lách đến mấy đi nữa, tuần nào anh cũng đọc hàng chục tờ báo Pháp để học thêm. Trong anh em, có thể nói anh là người hiểu rõ tinh thần của giọng văn Canard Enchainé (Con vịt bị xiềng, tên một tờ báo trào phúng nổi tiếng của Pháp - THT) nhất, mà anh cũng am hiểu nhất chính trị ở nước Pháp và thế giới lúc bấy giờ” (Vũ Bằng - Tôi, thằng vô lại).
                  Tóm lại, có thể nói, cùng với các bài viết dưới dạng cảm xúc, hồi tưởng, viết lúc Vũ Trọng Phụng qua đời của Nguyễn Tuân, Tam Lang, Lan Khai, Ngô Tất Tố… và những bài hồi ký công bố rải rác trong những năm miền Bắc chống Mỹ của Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng; đặc biệt những bài viết trong những năm đầu đất nước ta đổi mới (1987 – 1990) của Bùi Huy Phồn, Lưu Trọng Lư, Đỗ Tất Lợi, Mạnh Quỳnh, Thanh Châu, Vũ Ngọc Phan v.v… chùm hồi ký của các nhà văn nhà báo Sài Gòn viết trước 1975 giúp người đọc hôm nay và mai sau hiểu chính xác về con người công dân và con người nghệ sĩ Vũ Trọng Phụng. Tất nhiên có ngoại lệ, nhưng quả là tính cách phẩm hạnh của người viết đã quyết định giá trị những trang viết của ông; sâu xa hơn, từ những hiểu biết tích cực ấy người đọc tin vào sự trong sáng, chân thành của những đứa con tinh thần của người nghệ sĩ.
               Xin được nói về chùm bài nghiên cứu. Dễ nhận thấy tình trạng chất lượng không đồng đều của những bài này. Một số bài, sức khái quát chưa cao, công phu khảo sát chưa đạt đến độ sâu cần có, còn thiên về ấn tượng, cảm tưởng. Ít có công trình nghiên cứu nào thực sự qui mô, đầy đặn, có tầm cỡ của chuyên luận.
              Tuy vậy giới nghiên cứu Sài Gòn trước đây cũng đã có những đóng góp rất đáng ghi nhận về thành quả lao động nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng. Để khảo sát, nhận định, nhiều người có những định hướng tiếp cận khác nhau. Từ góc độ tư tưởng nghệ thuật, Nguyễn Văn Trung so sánh Vũ Trọng Phụng và các nhà văn trong nhóm tả chân với Tự lực văn đoàn để thấy sự khác biệt chủ yếu. Theo ông, “Trong ý hướng viết của nhiều nhà văn trong Tự lực văn đoàn, người ta ghi nhận sự tự giác của nhà văn, sự ý thức được quyền lợi cá nhân của cái tôi và họ đã thể hiện sự ý thức đó trong hầu hết các nhân vật của họ”. Thế còn Vũ Trọng Phụng và nhóm tả chân? Theo Nguyễn Văn Trung “Ý hướng viết không còn bao hàm một lo lắng phục vụ một cái tôi vị kỷ, nhưng chan chứa một nỗi băn khoăn về số phận của người khác, về quyền sống của tha nhân” (Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết, tr. 98, NXB Nam Sơn, 1965).
             Từ góc độ chính trị, với suy nghĩ của một thanh niên giác ngộ cách mạng đang hoạt động hăng say trong phong trào tranh đấu của sinh viên thành phố, Trần Triệu Luật ca ngợi tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, cả phóng sự lẫn tiểu thuyết, đặc biệt là hai kiệt tác Giông tốSố đỏ. Anh khẳng định tác dụng của tác phẩm trong việc tố cáo hiện thực xấu xa tệ hại trước 1945 và theo anh dù ba thập kỷ qua đi, đối với người đọc sống giữa Sài Gòn những tác phẩm ấy hoàn toàn giữ nguyên giá trị thời sự. (Vũ Trọng Phụng – Hiện diện cần thiết của xã hội ngày nay – Tạp chí Văn học (Sài Gòn, số 44, ngày 15/8/1965). Một số nhà nghiên cứu như Lê Văn Siêu, Doãn Quốc Sỹ tiếp cận Vũ Trọng Phụng từ góc độ thể loại.
            Trong Văn học sử thời kháng Pháp (1858 – 1945), Lê Văn Siêu lần lượt nhận xét tác phẩm của Vũ Trọng Phụng ở hai thể loại.
            Về phóng sự, theo Lê Văn Siêu, Vũ Trọng Phụng khác Tam Lang, Trọng Lang ở “cái duyên kể chuyện hiếm có”, ở “ngòi bút thật đáo để chanh chua”, nghĩa là ở “cách điệu văn riêng của Vũ Trọng Phụng”. Nét độc đáo của Vũ Trọng Phụng, theo Lê Văn Siêu còn vì “văn của ông còn chất dâm, một chất muối đậm, hơi có phần tục tĩu để đùa dai, đùa nhả, nó khiến độc giả có hứng thú theo dõi câu chuyện cho đến hết, như cái hứng thú đọc thơ Hồ Xuân Hương hay truyện tiếu lâm” (Sdđ, tr 310).
            Về tiểu thuyết, nhà nghiên cứu này xếp Vũ Trọng Phụng cạnh Nguyễn Công Hoan, Vũ Bằng, Nguyên Hồng và đánh giá không cao. Ông nhận xét về sự hòa hợp giữa chất phóng sự và chất tiểu thuyết, về thành công của Vũ Trọng Phụng trong việc xây dựng nhân vật điển hình, ông tán thưởng kỹ thuật tả chân của Vũ Trọng Phụng “đã dựng nổi cho hư thành thực”, “sắc sảo khi nhận xét thực tại xã hội và diễn biến tâm lý cùng sự việc trong cuộc sống” . Nhưng Lê Văn Siêu tỏ ra nghiệt ngã khi khái quát “nhiều đoạn thì gần như quanh quẩn ở vụ tình dục bỡn cợt nhố nhăng, vụng dại. Nó là sự cố ý pha trò cho đại chúng, hay những người dễ tính đọc lấy vui qua một lúc thì thôi”. Và vì thế, theo Lê Văn Siêu: “Nói rằng nó đồng loại với những truyện cổ Trạng Quỳnh, Tú Xuất, Ba Giai hay những truyện mới về Lý Toét, Xã Xệ của Phong hóa, thì có lẽ cũng chỉ sai lệch ở phần sỗ sàng, tục tĩu…” (Sđđ, tr. 311).
            Nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận tác phẩm Vũ Trọng Phụng từ trào lưu nghệ thuật, từ khuynh hướng tả chân. Nổi trội, có nhiều ý kiến chín chắn, sắc sảo hơn cả là ba bài viết của Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Duy Diễn và Dương Nghiễm Mậu.
            Bài viết của Phạm Thế Ngũ là một chương trong bộ lịch sử văn học khá qui mô bề thế - bộ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (3 tập). Nhà nghiên cứu này có cách viết chân phương, qui phạm. Ông chủ yếu đi sâu vào hai lĩnh vực thành công nhất của Vũ Trọng Phụng – phóng sự và tiểu thuyết để từ đó phân tích hai phương diện vừa tách bạch vừa gắn bó: Vũ Trọng Phụng – nhà văn xã hội và nhà văn tả chân. Ông đánh giá cao Vũ Trọng Phụng, vì nhà văn “dám phanh phui những nhơ nhớp xã hội, nêu cao lá cờ tả chân triệt để vào một lúc mà cơn gió lãng mạn êm đềm vẫn còn thổi lên nhiều tâm trí” (Sđđ, Tập 3, tr. 516). Nhưng theo Phạm Thế Ngũ, chỗ đứng của Vũ Trọng Phụng khá chông chênh và giao động – “Sự mỉa mai căm hờn (của nhà văn) không phải chỉ hướng vào lớp thượng lưu trưởng giả mà hướng vào tất cả những kẻ xấu xa trong xã hội. Ông lố bịch hóa hạng người bé nhỏ với một ngòi bút cũng tàn ác như khi ông chửi bọn bệ vệ giàu sang. Ông chế giễu những cái hủ lậu của xã hội cũ và cũng ác liệt như ông chế giễu những lố lăng của xã hội mới” (Sđđ, tr. 518) cho nên nhiều lúc Vũ Trọng Phụng quyết liệt dữ dội, nhưng “nhiều chỗ lại nghĩ và viết như các cụ lớp trước vậy, như Tản Đà, Tương Phố, hơn nữa như Nguyễn Bá Học trong những đoản thiên cảnh thế” và Lời khuyên học trò – Phạm Thế Ngũ đã khái quát: “Đó là cái cảm tưởng rõ rệt của người đọc đi từ Giông tố đến Lấy nhau vì tình” (Sđđ, tr. 519).
             Hai bài của Nguyễn Duy Diễn (Vũ Trọng Phụng – nhà văn tả chân bất hủ - Tạp chí Hiện đại, số 1/1960) và Dương Nghiễm Mậu (Viết về Vũ Trọng Phụng – Tạp san Văn, số 67, ngày 01/10/1966) có phong cách viết khá tương đồng: cảm xúc chân thành, nhận xét tinh sắc, giọng điệu tâm sự. Hai ông ca ngợi khả năng khái quát, tái hiện hiện thực bậc thầy của Vũ Trọng Phụng. Theo Dương Nghiễm Mậu, người đọc có thể “thấy những lạc hậu, nghèo đói khổ ải, những tráo trở, biến động, thét gào trong các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Lạp, Nam Cao, Ngô Tất Tố…nhưng để lại cho chúng ta một bức họa sâu sắc, đầy đủ hơn hết tình trạng xã hội ấy thì phải nói đến những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Có người nói rằng khi còn ở Pháp, Tạ Thu Thâu đã nói muốn biết xã hội Việt Nam ra sao chỉ cần đọc Vũ Trọng Phụng thì biết. Nếu thế thì quả Tạ Thu Thâu đã có con mắt tinh đời”.
            Nguyễn Duy Diễn còn nhấn mạnh hơn “Quái lạ! Trong bất cứ hoàn cảnh nào, trong xã hội nào, tiền chiến, đương chiến cũng như hậu chiến, cái hay của Vũ Trọng Phụng đã không hề bị suy giảm mà còn, với thời gian, tăng gấp lên mãi”.
             Tại sao vậy? Theo nhà nghiên cứu, vì Vũ Trọng Phụng đã “trình bày bằng cái cười trào lộng, cả một xã hội mục nát, đểu cáng mà ở bên ngoài đã được sơn phết bằng một nước sơn “văn minh” bóng loáng. Cái xã hội đó không chỉ là xã hội tiền chiến, mà còn có thể là xã hội ở mọi nơi và trong mọi thời đại – Thực vậy, khi nào mà một số phụ nữ vẫn còn tấp tểnh động cỡn, một số người vẫn dựa vào uy thế để bợ đỡ quan trên và hống hách với người dưới, khi mà còn có những thằng người vô liêm sỉ, coi sự nhục nhã vì tiền là một danh dự, coi sự lừa lọc là một thắng lợi, coi việc hiếp được một thiếu nữ quê mùa chất phác là một chiến công oanh liệt, v.v… thì ngày ấy tư tưởng căm hờn của Vũ Trọng Phụng trong Giông tố, Số đỏ, Trúng số độc đắc, v.v… vẫn còn đủ những lý do để tồn tại, để đứng vững”.
          Hai ông đều đặc biệt lưu ý đến thành công của nhà văn trong việc xây dựng những điển hình bất hủ, “không điển hình cho một thời đại mà là điển hình cho mọi thời đại” (Nguyễn Duy Diễn) cũng như tỏ ra rất tâm đắc với “ngòi bút trào lộng hiếm có” của Vũ Trọng Phụng. Với những thủ pháp nghệ thuật  độc đáo, nhà văn “đã trở nên một ảo thuật gia đảo lộn mọi tình tiết, bày đặt và phóng đại tất cả những sự việc, mà người đọc vẫn không hề thấy dấu vết của sự bịa đặt, phóng đại” (Nguyễn Duy Diễn).
          Hai nhà nghiên cứu này còn gặp nhau, khi nhấn mạnh giá trị cơ bản của tác phẩm Vũ Trọng Phụng: giá trị nhân văn. Theo Nguyễn Duy Diễn “Vũ Trọng Phụng đã lật tẩy tất cả những cái mặt nạ của đời để chúng ta nhìn thẳng vào mà suy nghĩ. Bởi vì, đúng như Chúa Cơ Đốc đã phán: “Chỉ có sự thật mới giải thoát được cho chúng con mà thôi”.
          Còn với Dương Nghiễm Mậu, thì “Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng như một bức thông điệp nhân đạo gửi cho nhân loại với cả yêu thương và tin tưởng của một con người đã sống và chết đi trong đau khổ, đói rét, bệnh tật. Chắc Vũ Trọng Phụng không muốn loài người phải như thế nữa”.
           Khi đọc lại những bài viết về Vũ Trọng Phụng của tri thức văn nghệ Sài Gòn trước 1975, một câu hỏi cứ như treo lơ lửng trong tôi: tại sao các vị ấy lại quan tâm một cách đặc biệt, rất nhiều cảm tình với Vũ Trọng Phụng đến như thế?
            Có động cơ thương mại chăng, bởi vì đây là món hàng văn chương đất khách? Chắc cũng có, nhưng chỉ là sự toan tính của các ông chủ xuất bản.
            Trí thức văn nghệ sĩ Sài Gòn đánh giá cao Vũ Trọng Phụng một cách chân thành. Cũng như đánh giá cao Nhất Linh, Khái Hưng, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Thạch Lam… một cách chân thành. Hơn thế nữa, họ muốn tìm ở đây một bài học quý giá về lao động nghệ thuật, vì nói như Dương Nghiễm Mậu, thành công của Vũ Trọng Phụng “minh chứng rằng một tác phẩm bám sát thời đại, cuộc sống của một xã hội nào đó không có nghĩa chỉ sống trong một thời, một hoàn cảnh mà nó vẫn vượt thoát ra, vẫn thành công”.
            Ở một cấp độ cao hơn, một số tri thức văn nghệ sĩ yêu nước tiến bộ như Trần Triệu Luật mà chúng tôi trình bày ở trên, muốn qua tác phẩm Vũ Trọng Phụng để nhìn rõ bản chất xã hội Sài Gòn, nói rộng ra xã hội thành thị miền Nam lúc đó. Nhìn rõ để có thể xác định thái độ sống đúng đắn. Tự nhiên tôi lại nhớ đến phát biểu của nhà thơ Tố Hữu trong Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc năm 1949: “Vũ Trọng Phụng không phải là nhà cách mạng, nhưng cách mạng cám ơn Vũ Trọng Phụng”.
             Làm công việc “kiểm toán” nhũng thành tựu nghiên cứu văn học dân tộc nói chung, từ ngày Đất nước đổi mới đến nay, chúng ta không quên sự đóng góp của những trí thức Sài Gòn chân chính trong 21 năm đất nước cắt chia (1954 – 1975).

NGUYỄN VAN TUYẾT *THƯ TÌNH VIẾT MUỘN





THƯ TÌNH VIẾT MUỘN

- Cụ Nguyễn Văn Tuyết - (Cụ đã từ trần ở Paris, hưởng thọ 91 tuổi)

Paris ngày 14 tháng 10 năm 2010

Bà nó à!


À mà thôi, gọi là EM đi cho tình tứ như ngày xưa chúng mình cùng chung giường chung gối, chung cả đường đi lẫn lối về em nhá. Dù rằng nay đôi ta mỗi người một ngả, lại đông con nhiều cháu mà còn xưng hô “anh em” thì e rằng con cháu nó cười. Nhưng đây là tình thư của anh gửi tới em, lá thư đầu tiên và cũng là lá thư cuối cùng.Anh viết thư này từ ngày 14/10/20xx, mỗi ngày vài dòng, khổ nỗi mỗi khi viết đến tên em là như có hơi nước che mờ cặp kính nên anh đành phải buông bút, dụi mắt thở dài! Viết lâu rồi đấy mà chưa nói được gì với em! Chuyện tình trong 60 năm dễ gì nói trong vài trang giấy, kể trong vài ngày.


Thôi thì thế này nhá, nếu không xong để gửi qua đường bưu điện thì anh sẽ mang đến nơi em đang ở để trao tận tay. Anh biết nơi em ở rồi, kể từ khi em dọn về bên ấy, anh đã rất nhiều lần đi vòng quanh bên ngoài để ngắm một căn nhà 2 tầng(*) nhỏ-nhắn, xinh-xắn, mà nghe đâu em khoe với hàng xóm rằng:


– “Tôi ở tầng dưới, còn tầng trên để dành cho nhà tôi”…


Em à!


Nhớ lại ngày nào em là thiếu nữ 16 tuổi xinh tươi làng Vạn, hoa khôi huyện Yên Phong, còn anh là trai làng Đại Lâm, chúng mình cùng tỉnh Bắc Ninh, nhưng anh theo gia đình ra Hà Nội học nên không có dịp “thả thơ”


Em còn nhớ những vụ “thả thơ” này không? Dì Phách, cô em gái của em nói rằng em đẹp lắm lại là con nhà có của nên trai huyện trai làng nhiều người ngấp nghé, mỗi khi em đi chợ thì họ len lén bỏ thư vào cái làn mây em xách tay, khi về nhà mới biết, thế là mấy chị em đọc thư tỏ tình của các chàng nhát gái mà cười bò ra, nghe cũng vui đấy nhỉ. Nhưng anh thì chưa có dịp thả thơ như thế.


Khi bố anh cần người giúp ông trong việc kinh doanh nên đã bắt anh lập gia đình sớm, anh có quen biết nhiều cô gái ở Hà Nội nhưng không thương ai. Thế rồi một hôm bố anh bảo diện vào rồi đi chợ huyện Yên Phong với ông, anh hỏi bố rằng con đi chợ làm gì thì bố nói:


– Trai khôn tìm vợ chợ đông, gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân.


Khi đến chợ rồi mới biết ngày đó em cũng đi chợ, có lẽ người lớn đã sắp xếp cho chúng mình trông thấy nhau. Nghĩ lại cũng buồn cười nhỉ, bây giờ khác xưa rồi, trai gái quen biết và yêu rồi mới dẫn cha mẹ hai bên gặp nhau.


“Anh trông thấy em đi chợ anh thương”. Bố chưa kịp hỏi ý kiến anh có bằng lòng “cô ấy” hay không thì anh vội nói trước:


– Chưa gặp đã bén hơi. Tại duyên số rồi bố ơi!


Thế là bố khuyên anh “cưới vợ thì cưới liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha” nên anh vội nhờ người đem tặng em “một thúng xôi vò, một con lợn béo một vò rượu tăm. Tặng em đôi gối em nằm, cái chăn em đắp..” năm đó chúng mình vừa tròn 17.


Họ hàng nhà trai khen em xinh gái và có duyên, nhưng bố anh thì nói: “vợ chồng cùng tuổi nằm duỗi mà ăn”, và để cho con đừng có ỷ lại nằm duỗi mà ăn nên ông cụ đã giao cho vợ chồng mình xưởng sửa chữa và cho thuê xe xích-lô.


Khởi đầu là thế, mình sống đầm ấm bên nhau, không vất vả về kinh tế nên năm 1941 em sinh con gái đầu lòng, anh đặt tên con là Trinh. Rồi lần lượt có thêm con Thục, con Thuý, cả ba xinh gái giống mẹ. Sau 3 cô con gái là em sinh liền cho anh 4 cậu con trai, tên các con là Phong, Tuấn, Quang, Anh. Đời sống gia đình đang thanh bình ấm êm, các con đi học có xích lô đưa đón thì bỗng “trời đất nổi cơn gió bụi”, em má hồng chịu nỗi chuân chuyên, bụng mang dạ chửa mà phải cùng gia đình di cư vào Nam. Vừa đến Hải Phòng thì em sinh con gái thứ tư nên mình đặt tên con là Nguyễn Thị Hải, và Hải là đứa con thứ tám cùng theo bố mẹ di cư 1954 vào vùng đất lạ.



Cưới năm 1939 tới 1954 khi di cư mới được có 8 con nên em nói còn ít. Nhớ hôm dẫn em vào bảo sanh viện, anh nắm tay em an ủi thì em mỉm cười nói:


– Anh còn phải đưa em vào bảo sanh viện tám lần nữa, vì thầy tướng số nói em sẽ có 16 người con tất cả”.


Nghe em nói xong anh cười to khiến mấy bà bầu ngồi ở phòng chờ đợi quay sang nhìn vợ chồng mình, chắc họ tưởng mình vui vì mới có con đầu lòng. Nghĩ vậy nên anh ghé vào tai em thì thầm:


– Bao nhiêu cũng được, chỉ sợ vất vả cho em thôi, còn anh thì ..lo tất.


Vào tới Saigon, gia đình mình ở số nhà 247 đường Thành Thái, Chợ Lớn, gần ngã tư Trần Bình Trọng. Em vẫn tề gia nội trợ, còn anh, xoay đủ nghề. Từ mở trường dạy lái xe hơi lúc mới vào rồi làm tôm đông lạnh ở Rạch Giá, lập trại trồng nấm rơm ở suối Lồ Ồ Dĩ An, thầu xây dựng với anh Thúc, làm cho USOM, và như em biết đấy, công việc cuối cùng của anh là làm việc ở tòa Lãnh Sự Pháp Saigon, nhờ đó mà sau 30/4/1975 gia đình ta đi định cư tại Paris.


Tuy nhiên anh đã không giúp em được toại nguyện theo như lời khuyên của thầy tướng số nên trong thời gian ở Saigon, vợ chồng mình chỉ thêm được có 4 “cậu” là Tiến, Thắng, Thụy, Xương và 2 “cô” Loan, Hà, vị chi là 14 mụn con gồm 6 gái, 8 trai, còn thiếu 2 vì thế em mới nuôi thêm 2 cháu ngoại là Yến và Việt, con của Thúy để cho đủ 16 đứa.Nay tuy không được vuông tròn trọn vẹn nhưng tất cả đã ổn định cả rồi. Hiện tại ở Mỹ có 3 cô 2 cậu, ở Pháp có 4 cậu, 3 cô. Con nào cũng có gia đình hạnh phúc một vợ một chồng và đã tặng cho em rất đông cháu nội ngoại và đã hơn 10 chắt rồi đó. Duy chỉ còn cô út Thu Hà, đẹp, thông minh hoạt bát, nhiều chàng ngấp nghé lắm nhưng con gái út của chúng mình lơ là chuyện này mà lại siêng năng nghiên cứu kinh sách nhà Phật. Tại duyên số thôi.



Anh rất hài lòng vì các con, trai gái thì hiếu thảo con dâu nào cũng coi như con đẻ, nhất là Yến, vợ Quang, hiện là chị dâu trưởng, là gương mẫu cho các em. Còn con rể ư? Các cụ xưa gọi con rể là tế-tử nên anh thấy tế-tử nào cũng tử tế cả, các anh ấy là người biết điều, lo toan mọi bề cho vợ con, lại hiền lành. Duy chỉ có chồng của Thúy, tức bố của Yến-Việt là quân nhân nên vất vả và luôn phải xa gia đình, nghèo và hơi ngang. Em nhớ không, lần đầu tiên hắn đến nhà mình thăm con Thúy mà lại ngồi gác chân mang giầy nhà binh lên bàn! Anh giận quá! Nhưng bù lại, nay mỗi lần anh sang Mỹ thăm con cháu, thì bố Việt chở anh ra khu chợ ABC mua bánh ngọt, đi ăn hủ tíu Mỹ Tho, lại còn bảo vợ chồng Việt “niềng” răng cho ông ngoại, anh thấy vui vui nên nói:


– “Khỏi niềng, răng của ông còn rất tốt và đẹp nữa, con chỉ cần bỏ vào ly nước ngâm với thuốc sát trùng cho ông là được rồi.”


Anh nói tới đâu rồi nhỉ? Thế đấy, còn minh mẫn nhưng hơi lộn xộn nên thư viết cho em cứ chuyện nọ xọ sang chuyện kia. À nhớ ra rồi, tới chỗ vuông tròn.Anh nói không được vuông tròn trọn vẹn là vì con gái đầu lòngđã ra đi khi vừa tới Mỹ, và hai con trai hy sinh cho Tổ Quốc, cậu cả Phong bị thương ở Ban-Mê-Thuột rồi hy sinh, cậu Tuấn thì tử trận trên biển, chìm theo hộ tống hạm HQ10 trong trận hải chiến để bảo vệ Hoàng Sa chống lại quân xâm lược Trung Cộng vào ngày 19 tháng 1 năm 1974.


Em à, anh không muốn nhắc chuyện xưa làm đau lòng em khi mất đi 2 đứa con trai tuổi còn quá trẻ, nhưng cũng là một đóng góp cho đất nước như biết bao các gia đình khác. Mới đây ông HQ Đặng Thanh Long đã thay mặt Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng, Tổng Hội Hải Quân Hải Ngoại đem cuốn Hải Sử Tuyển Tập và Hải Sử HQVNCH đến tặng gia đình ta với bút tích ghi ở trang đầu như sau:


“Kính biếu gia đình liệt sĩ Hoàng Sa HQ Nguyễn Văn Tuấn”.


Thấm thoát thời gian mau thế đấy em nhỉ, chả cần nói nhiều thì các con cũng biết từ lúc có đứa con đầu lòng ở Hà Nội rồi có thêm cô Út Hà ở Saigon rồi gia đình ta di tản, bảo lãnh, vượt biển vượt biên mà được thế này cũng là tạ ơn trời đất lắm rồi. Nhưng bất hạnh thay, em lại bỏ anh mà đi! Dễ chừng gần chục năm rồi chứ ít sao? Lúc trước anh nhớ chính xác ngày giờ năm tháng em ra đi, nhưng sau lần anh bị té dập đầu thì trí nhớ không còn tốt. Thôi để anh mở sổ ra xem ngày nào em bỏ anh ra đi. Đây rồi, ngày 14 tháng 10 năm 2002, và anh viết lá thư này cho em cũng vào ngày 14 tháng 10, em đi đã được 8 năm rồi đó.


Em à! Anh nhớ rõ là em bị bệnh thận, đang lọc máu thì bị té dập xương chậu và sau một thời gian ngắn thì em ra đi! Ngày đó mắt anh đã khô, khi thấy con cháu vây quanh mẹ, quanh bà nức nở khóc làm anh nghẹn cổ họng.


Thôi thế cũng xong, vì hiện nay em luôn được mạnh khỏe, không còn lo lắng về bệnh tật, cuộc sống mới lại bình an, thảnh thơi mãi mãi. Nhưng cẩn thận nhá, mỗi lần “vân du” em nhớ mang theo áo ấm và gài dây an toàn kẻo gió mạnh lại thổi bay mất thôi.



Em nhớ không? Lúc sinh thời mỗi lần mang thuốc và nước đến cho em thì anh chỉ nói vắn tắt: “thuốc đây, bà uống đi”! Nay anh muốn gọi tiếng EM, nói thật nhiều lời thương yêu thì giọng anh đã khò khè, thở không ra hơi! Hối hận quá!


Khi em đi rồi mà đàn chim bồ câu cứ đúng giờ nó lại bay về đậu trên thành cửa sổ, cái của sổ của căn phòng trên tầng thứ 15 của tòa biu-dinh thuộc thị xã Alfort Ville, ngó ngay ra bờ sông Seine, từng đôi chim gù-gù sát cánh bên nhau chờ những miếng bánh mì mà em bẻ vụn ra rồi rắc cho chúng ăn.


Ngày đó anh cằn nhằn em hoài vì cái việc cho chim ăn, nó ăn rồi ị, sương mù và mưa phùn làm bánh mì thừa ướt nhão nhẹt ra rồi mốc xanh lên khiến anh lại phải dọn. Bực mình anh la thì em nhỏ nhẹ nói: “tội nghiệp chúng nó”. Thôi đành cứ để em cho chim ăn rồi anh dọn phân và thức ăn thừa kẻo gió lùa vào phòng mình hôi cứt chim. Khi em về trên đó rồi, mình anh ở lại mỗi ngày phải nhìn từng đôi chim gù gù tỉa cánh cho nhau mà nhớ em vô vàn. Đó là lý do thầm kín anh không muốn rời căn phòng này để về ở với con cháu.


Có những chiều Hè hoàng hôn nắng úa, đứng ngắm hình em treo trên tường, anh thì thầm: “sao em không nói với anh” rồi ngó qua cửa sổ anh bỗng thấy như có mưa phùn chiều Đông, thì ra mắt anh mờ và anh cảm thấy lạnh lẽo!Tất cả đồ dùng của em còn để nguyên chỗ cũ, nhìn đâu cũng thấy em vì thế các con xin dọn cho gọn gàng thì anh không cho. Bẩy cô cậu thay nhau thuyết phục bố về ở với các con nhưng anh nhất định không muốn rời xa nơi này, tuy không còn là tổ ấm nhưng còn cái ghế em ngồi, còn cửa sổ mà em đứng rắc bánh mì cho chim ăn. Anh không thổ lộ những điều thầm kín đó mà chỉ nói:


– “Bố còn khỏe, tự lo cho mình được mà, các con cứ yên tâm”.


Mà anh còn khỏe thực, mỗi sáng không còn lái xe ra Paris 13 để ăn hủ tíu và mua báo Văn Nghệ Tiền Phong nữa thì anh đi bộ quanh phòng, đi dăm ba bước anh dừng lại nghỉ dăm phút, cứ như thế mỗi giờ cũng đi được hơn một vòng. Anh cũng vẫn ăn được, mỗi ngày cô Hải mang cơm nóng canh sốt sang cho bố rồi dọn dẹp nhà của, Hải về thì cô út Hà sang lo mọi việc giấy tờ về sức khỏe của bố. Cậu cả Quang tuy ít nói nhưng phân công đâu ra đó cho các em trai Thắng Thụy Xương luân phiên trực đêm bên bố và chở bố đi Paris 13, khu phố Việt, phố Tàu.


Tuy sống độc thân nhưng anh không cô độc, mỗi thứ Bẩy và Chúa Nhật là con trai gái dâu rể, cháu nội ngoại kéo nhau về tụ họp trong căn phòng nhỏ này. Khi trước còn khỏe thì anh nấu một nồi phở thật to, nay thì mỗi con mang theo một thứ, căn phòng không chỉ ấm cúng mà còn nóng lên nữa ấy chứ. Những lúc đó thì anh lại nghĩ đến em, để cho con cháu vui chơi, anh lẳng lặng đi nằm, ứa nước mắt vì sung sướng nghe tiếng cười của con cháu nhưng cũng ứa nước mắt khi thiếu tiếng em! Thì ra “con nuôi cha không bằng bà nuôi ông”, ông nuôi bà.


Cách nay khá lâu, anh đang vịn tường để đi vào phòng tắm thì bị té, các con vội đưa đi cấp cứu, bệnh viện khám phá ra một mạch máu trong đầu bị nghẽn khiến anh té chứ không phải tại anh vô ý.


Nhớ mãi hôm ấy thấy em đến thăm anh trong bệnh viện, anh vội vàng ngồi dậy, ba chân bốn cẳng chạy ra đón em và anh bị vấp té, choàng mở mắt thì biết anh vừa nằm mơ và giận quá tại sao mình không cẩn thận để bị té rồi tỉnh lại mà không được nắm tay em. Vừa lúc đó anh nghe cô ý tá nói:


– Từ nay cụ phải dùng cái này.


Ngó xem thì ra là cái gậy chống, ở cuối có 4 chân bịt cao su. Nếu anh chống gậy này mà đi thăm em thì đúng là “ba chân bốn cẳng rồi”.! Anh không thích chống gậy, trông giống ông cụ quá! Đối với anh, em vẫn còn khỏe và còn trẻ, người cõi tiên thì “trẻ mãi không già” mà.


Nằm bệnh viện được mấy ngày thì anh đòi về nhà, nhớ căn phòng quá, nhưng các con không cho, lựa khi các con không có mặt, anh “ba chân bốn cẳng” vào phòng bác sĩ trực năn nỉ xin xuất viện và họ “đắc-co”


Về nhà được mấy ngày thì anh lại “ba chân bốn cẳng” mang hoa đến tặng em, nhưng gõ của hoài mà không nghe tiếng ai trả lời, hình như mấy cô tiên đưa em vân du trên cẩu Vồng hay du Nguyệt Điện thì phải. Rõ chán! Cả đời ở bên nhau, anh chưa bao giờ tặng em một cánh hoa, tại anh thấy em là hoa đẹp rồi. Anh mong sớm có ngày được đoàn tụ cùng em nắm tay nhau tung mây lướt gió.




Sống với nhau hơn 60 năm, “sáu mươi năm cuộc đời” được 14 mặt con mà mình chưa bao giờ “to tiếng” với nhau, cằn nhằn thì có, nhưng chưa một lần em phải buồn phiền vì anh uống rượu, hút thuốc, đánh bạc và lăng nhăng, vì anh không thích những thứ đó, vì anh đã có em. Tính đến nay xa em đã 8 năm, thời gian cũng quá đủ suy ngẫm về thói đời hay coi thường hạnh phúc đang có sẵn trong tay mà không biết vun quén. Anh đang mong ngày tái ngộ.


Cầu được ước thấy, mới tuần trước đây anh đang đứng vịn tường tập thể dục thì tự động ngã, bệnh viện cho biết những mạch máu li ti trên đầu bị vỡ, các con bao quanh lo lắng và bác sĩ họ đang cố gắng nối lại, nhưng anh nói “Thôi”.


Sống với con cháu như vậy là quá đủ rồi, lo cho các con như vậy cũng tạm ổn, nhìn lên không bằng ai nhưng nhìn xuống thì không ai bằng. Tuy các con không giầu có gì, nhưng đủ ăn và hạnh phúc, nhất là các con một vợ một chồng, như đũa có đôi và anh chị em thương yêu nhau. Anh nói với các con:

“Các con như đũa có đôi, để ba về với mợ chứ, căn phòng trên lầu nơi mợ ở dành cho ba đã có sẵn tiện nghi rồi, các con đừng lo lắng và bịn rịn nữa. Chúc các con ở lại bình an, đùm bọc và thương yêu nhau như từ trước tới nay”.


Em à! Hôm nay là ngày 14 tháng 9 năm 2010, chỉ còn đúng một tháng nữa là trùng vào ngày em đi, 14/10, bác sĩ cũng vừa báo cho biết họ sẽ “búc” vé cho anh. Như vậy là mọi việc đã sẵn sàng tốt đẹp, anh không mang theo gì cả. Khi nào có vé thì anh sẽ gọi phôn cho em biết để mở cửa cho anh vào. Nếu em nghe không rõ tiếng người mà chỉ thoáng phì phò tiếng gió thì biết đó là lúc anh đã cất cánh.


Hẹn gặp em một ngày rất gần.
Vĩnh biệt các con và các cháu cùng các chắt.

Nguyễn văn Tuyết.

(*) Mộ 2 tầng, ai đi trước nằm tầng dưới, ai đi sau nằm tầng trên
 

TIỂU TỬ * ĐẠP XÍCH LÔ

Những Chuyện Nho Nhỏ - Đạp Xích Lô - Nói: Hết Rồi! - Tiểu Tử

ĐẠP XÍCH LÔ


Trung đã cao lớn lại ham chơi thể thao và tập thể dục đều đặn nên anh ta rất "đô" con.

Đi với tụi bạn đồng nghiệp người Pháp hay người da đen, Trung là người Việt Nam mà vóc dạc ngang ngửa với tụi nó. Có đứa nói giỡn: "Thằng này, nó ăn phở không mà nó lớn con như vậy.

Nếu nó ăn bánh mì "xúc xích - phô mai" như mình chắc nó thành ông khổng lồ quá!".

Cách đây hai năm, Trung về thăm Việt Nam. Đó là lần đầu tiên anh về. Tôi không có dịp gặp anh để hỏi thăm.

Mãi đến gần đây tình cờ gặp nhau ở khu 13 Paris, anh mới kể cho tôi nghe chuyến về Việt Nam của anh lần đó. Tôi xin ghi lại chuyện nhỏ sau đây...
... Con qua Pháp với ba mẹ hồi con mới năm tuổi, bây giờ về, thấy cái gì cũng lạ!
Cho nên con dành mấy ngày đầu để đi vòng vòng cho biết Sài gòn. Con nhờ anh tiếp viên của khách sạn kêu cho con một anh xích lô bao chạy một ngày.
Vậy là sáng hôm sau, đúng theo lời con dặn, anh tiếp viên gọi con dậy bằng điện thoại cho hay xích lô đang đợi, đồng thời cho biết luôn số tiền thuê bao.
Con đếm số tiền rồi để riêng vào một túi quần, con muốn tránh móc bóp đếm tiền trước mặt mọi người sợ bọn lưu manh nó giựt. Con xuống tới quầy thì anh tiếp viên vui vẻ chỉ ra phía trước.
Con cám ơn rồi bước ra ngoài. Thấy con, ông xích lô đang ngồi chồm hổm trên vỉa hè vội vã đứng lên chấp tay chào.
Tự nhiên, con khựng lại, mặc dù ông ta đang đón con bằng một nụ cười rạng rỡ. Bác biết không?
Ổng già khú, ốm nhom, nhỏ xíu. Cái nón vải đen ổng đội, đã rách bươm. Còn bộ đồ trên người ổng, con không biết tả làm sao cho bác thấy. Nó là cái áo bà ba xanh dương vá chầm vá đụp và không còn hai ống tay!
Còn cái quần ka-ki là loại quần dài đã bị xé mất hai khúc ống cỡ ngang đầu gối, một bên cao một bên thấp.
Đó! Ông xích lô của con đó!
Bác coi: con như vầy thì nỡ lòng nào lên ngồi cho ông già ốm nhom đó đạp xe đưa con đi.
Mà liệu ổng có đạp nổi một ngày cho con xem chỗ này chỗ nọ không?Con định hồi không đi nhưng nghĩ lại tội nghiệp ông già. Cái cười tươi rói của ổng cho thấy là ổng đang "trúng mối lớn".
Con bước lại bắt tay ổng, móc túi đưa tiền, nói: "Đây, tiền công của bác trọn ngày nay đây!".
Ổng mừng rỡ, móc trong lưng ra một túi vải miệng có dây rút, run run tay mở ra cho tiền vào. Con hỏi: "Bác không đếm sao ?".
Ổng cười, nhìn con:
"Khỏi! Hổng lẽ cậu như vầy mà đi ăn gian tui sao?"
Rồi ổng xăng xốm chạy lại kềm phía sau xe, mời: "Cậu lên ngồi, đi!". Con lắc đầu: "Không! Bác lên ngồi đi, để tôi đạp!".
Nụ cười của ổng tắt mất: "Ủa! Gì kỳ vậy?".
Con giải thích: "Tôi như vầy mà để cho bác đạp, coi sao được!". Ổng vỗ vỗ lên yên xe:
"Tôi đạp được! Bảo đảm! Cậu đừng lo! Cậu lên ngồi đi!".
Con nghĩ chắc ổng sợ con chê ổng rồi không đi, lấy tiền lại, nên con ôn tồn nói:
"Bác yên tâm. Bác cứ giữ số tiền tôi đưa, rồi lên xe ngồi. Tôi đạp từ từ". Ổng bắt đầu nhìn con nửa ngạc nhiên nửa hốt hoảng.
Để khỏi cù cưa, con bước lại đưa hai tay cặp eo ếch của ổng nhấc bổng lên đặt vào chỗ ngồi của khách.
Ổng nhẹ đến nỗi cái xe không nhúc nhích! Rồi con trèo lên đạp đi. Ông già cứ nhìn ngược về phía sau, lo lắng: "Cậu liệu được không cậu?".
Con vui vẻ trả lời cho ông yên tâm: "Được mà... Dễ ợt hà!". Con men theo lề đường đạp chầm chậm để tránh luồng xe chạy ồ ạt trên lòng đường.
Thiên hạ nhìn con chở ông già, cười nói chỉ trỏ. Ông già ngồi không yên, lâu lâu ngoáy nhìn lại coi con ra sao! Có lẽ vững bụng nên không nghe ổng nói gì hết.
Một lúc sau bỗng ổng la lớn: "Quẹo mặt! Quẹo mặt! Khúc này cấm xe xích lô!". Từ đó, ổng chỉ cho con chạy: "Từ từ..
. Đằng trước có xe đậu. Khi nào kềm bằng chân không nổi thì kéo thắng ở dưới đó ...."
Có lúc thấy con xiên xiên định quẹo vô một con đường nằm ngang, ổng la lên: "Đừng! Đừng! Đường cấm xe xích lô!".
.. Và như vậy, con đạp đi loanh quanh, nhìn ngang nhìn ngửa, yên chí có ông già coi chừng đường nhắc trước con phải làm gì... làm gì.
.. Gần trưa, con tấp vô một quán phở, nói: "Mình vô ăn cái gì đi". Ổng nói: "Cậu vô ăn đi, tôi không đói".
Con kéo tay ổng để cùng đi vào tiệm, ổng rị lại: "Thôi mà cậu! Tôi lạy cậu mà cậu!
Cậu để tôi ngồi ngoài này giữ xe!". Rồi ổng gỡ tay con ra, bước lại vệ đường ngồi chồm hổm bên cạnh xe xích lô, vấn thuốc hút.
Trong quán, con nhìn ông già mờ trong khói thuốc sao bỗng nghe bất nhẫn vô cùng. Không còn lòng dạ đâu để ăn phở, con kêu tách cà phê uống đại rồi đi ra.
Thấy con, ổng quăng điếu thuốc, đứng lên vẻ ngạc nhiên: "Ăn gì mau vậy cậu?". Con nói trớ: "Thấy không ngon nên không ăn". Rồi con nói tiếp:
"Bây giờ, tôi trả xe lại cho bác đó!
Bác cứ giữ nguyên số tiền tôi đưa hồi sáng, đừng thắc mắc. Tôi đi bộ chơi lanh quanh được rồi".
Nói xong con bước đi, lâu lâu ngừng coi cửa hàng này cửa hàng nọ. Thấy ông già cứ đạp xe rề rề đi theo, con bèn gọi một xe Honda ôm đang đợi khách ở ngã tư đường, trèo lên "ôm" đi thẳng!
Kể xong, Trung hỏi: "Nhà nước đang có lịnh cấm sử dụng xe xích lô xe ba gác, không biết bây giờ ông già đạp xích lô sẽ sống làm sao, hả bác?".
Tôi nói: "Ờ... ".
Rồi nín luôn. Một cách trả lời để không trả lời!

NÓI: HẾT RỒI!

CUỘC SỐNG HÀ NỘI


Cuộc sống trong những “CHIẾC HỘP”

Những người Hà Nội đi xa, kẻ nhớ mùa thu vàng, người vấn vương hương hoa sữa, kẻ lại thèm món bún chả, cốm vòng chỉ Hà Nội mới ngon… Nhưng với những ai đã sống ở Hà Nội từ những năm 60, 70 trở lại đây, hẳn không thể quên tuổi thơ gắn liền với những “chiếc hộp” – những khu nhà tập thể xây từ thời kỳ bao cấp – vẫn đương ẩn hiện trong thành phố ngập lối kiến trúc Tây phương hiện đại.
Có ai nhớ, mỗi buổi chiều, bọn trẻ lại tụ tập nô đùa với nhau dưới vỉa hè của khu tập thể cũ ấy, nơi đã gắn bó với chúng trong suốt thời ấu thơ...
Hà Nội trong mắt tôi, đâu đó trong những khu dân cư nằm gọn lỏn giữa những ngôi nhà hiện đại, vẫn còn xen kẽ một vài khu tập thể như thế này: tường vôi vàng cũ tróc long, những cánh cửa gỗ màu xanh, chiếc cầu thang với lối dắt xe lên xuống khu tập thể 4-5 tầng, chuồng chim-chuồng cọp, những quả “bom” nước di động đặt trên nóc mỗi tòa nhà... Chúng như hai "thế giới" khác nhau đang cùng tồn tại song song... Ngắm cảnh bình yên, cổ điển, gợi thời xưa cũ đấy nhưng đã mang tính nhem nhuốc, xuống cấp và hư hại quá rồi. Công trình thì "hết đát" sử dụng từ lâu, người dân thì thả sức “sáng tạo” trên căn hộ của mình với đủ hoạt động đục phá, cơi nới mở rộng không gian sống vốn eo hẹp.
 Ước tính, hiện nay tại Hà Nội có khoảng 23 khu tập thể cũ (4-5 tầng) và hơn 10 khu tập thể cổ thấp tầng (1-2 tầng) nằm rải rác ở các tuyến phố khác nhau. Các khu tập thể cũ này được xây dựng chủ yếu từ những năm 1960 đến 1980 của thế kỷ trước.
Đố bạn biết dãy nhà tập thể này ở Hà Nội theo trường phái kiến trúc nào? 
Lối dắt xe lên xuống chính giữa cầu thang đặc trưng của các khu tập thể cũ tại Hà Nội: tối, nhỏ và hẹp.
Với mong muốn mang tới cho người xem cái nhìn chân thực, rõ nét về cuộc sống tại những khu tập thể “rất Hà Nội” này, nhóm bạn trẻ MyHanoi đã thực hiện một dự án mang tên Cuộc sống trong những “CHIẾC HỘP”. Qua những bức ảnh chụp về không gian thường nhật diễn ra quanh những “đặc sản kiến trúc” chỉ có tại Hà Nội, chúng ta dường như được cùng sống cuộc sống của nhiều thế hệ nơi đây với đủ cung bậc cảm xúc. Trong những "cái hộp" tồi tàn chỉ tầm 15 – 20m2 tưởng chừng khó có thể ở được, vẫn tồn tại vô số hộ gia đình sinh sống, làm việc tại đây với đủ tâm trạng buồn vui xen lẫn tiếng cười, tiếng khóc và bao bi hài chuyện cuộc sống.
Ban công được các hộ gia đình tận dụng phơi quần áo và treo đủ mọi thứ lên trên đó,nom thiệt giống những chiếc hộp màu sặc sỡ.
 Từ những chiếc “lồng chim”…
 … đến những “chuồng cọp”, nhà đeo ba lô.
 Thiên đường của khu tập thể cũ dành cho trẻ con – sân chơi rộng rãi thênh thang tha hồ chạy nhảy – giờ ở Hà Nội hiếm biết bao…
 Nắng chiều
 Đặc sản đường ống dẫn nước và “mỳ ống” dây điện của Hà Nội.
 Môi trường sống tạm bợ tại các khu tập thể.
 

Saturday, September 12, 2015


NGUYỄN TẤN HỒNG * GIÁO SƯ DƯƠNG QUẢNG HÀM


HUYỀN VIÊM * VÀI KỶ NIỆM VỚI NHÀ THƠ BÀNG BÁ LÂN

VÀI KỶ NIỆM
VỚI NHÀ THƠ BÀNG BÁ LÂN


Năm 1965. Một buổi chiều mùa hạ đẹp trời trước ngày nghỉ hè, anh chị em nhà giáo chúng tôi quây quần trong phòng giáo sư trường Lê Bảo Tịnh, một trường rất lớn ở Sài Gòn, vui vẻ nghĩ đến những ngày được nghỉ ngơi sắp tới sau một năm trời dạy học.
Mọi người chuyện vãn râm ran, kẻ uống trà, người rít thuốc lào trong khi chờ đợi bữa tiệc chia tay hằng năm do nhà trường khoản đãi giáo sư và nhân viên như thường lệ.

Chợt anh Giám học Chu Đăng Sơn nhìn vào một người và vui vẻ hỏi :
- Thế nào, nhà thơ Bàng Bá Lân, anh có bài thơ mới nào ngâm lên cho anh em thưởng thức với chứ !
Bấy giờ tôi chưa biết Bàng Bá Lân. Anh này quay lại cười trừ :
- Dạy mệt bỏ xừ, làm gì còn thơ với thẩn !
Thì ra đó là tác giả “Tiếng thông reo”.
Anh Chu Đăng Sơn chỉ vào tôi và giới thiệu :
- Còn đây là Huyền Viêm, cũng là nhà thơ đấy.
Đồng thanh tương ứng, nhà thơ Bàng Bá Lân vui vẻ tiến đến nồng nhiệt bắt tay tôi :
- Tôi đọc thơ anh đã lâu trên các tạp chí Đời Mới, Phổ Thông, Thẩm Mỹ, Văn Nghệ Tiền Phong, tiếc rằng đến nay mới gặp.
Tôi quen Bàng Bá Lân từ đấy.
Thời gian sau, anh Lân mời tôi đến nhà chơi. Gia đình anh sống trong một căn nhà nhỏ có sân trồng cây cảnh ở quận Phú Nhuận. Anh làm việc cật lực, dạy nhiều trường để nuôi một gia đình đông con, cuộc sống của anh thanh bạch nhưng vui vẻ và ấm cúng. Vợ anh, chị Phạm Kim Thuần, là một phụ nữ rất tốt. Chị tất bật, tần tảo lo cho chồng, cho con hơn là nghĩ đến mình.
Bấy giờ giáo sư trường công dạy nghĩa vụ mỗi tuần chỉ 18 tiếng mà anh Lân gánh từ 40 đến 48 tiếng một tuần tại các tư thục, thời khóa biểu kín hết, chỉ trống ngày chủ nhật. Được cái là lương ở các tư thục rất cao, lương của một giáo sư trung bình tương đương từ một đến hai lượng vàng mỗi tháng tùy theo dạy nhiều hay ít, có tên tuổi hay không (hồi đó vàng rất rẻ). Còn các giáo sư tầm cỡ như Nguyên Sa Trần Bích Lan thì đi dạy bằng ô-tô là chuyện bình thường. Vì thế hồi đó nhiều giáo sư chệ trường công, chỉ thích dạy trường tư và các giáo sư trường công cũng tìm cách kiếm giờ ở trường tư để dạy thêm vào những ngày rảnh rỗi.
Anh Lân nỗ lực làm việc trong năm bảy năm thì mua được nhà vì nhà ở Sài Gòn hồi ấy rất rẻ, chỉ vài chục lượng vàng đã có thể mua được một căn nhà mặt tiền khang trang, sạch đẹp. Từ đó chúng tôi thường đến thăm nhau để đàm đạo chuyện văn chương. Khi đã thân nhau rồi, chúng tôi thường rủ nhau ghé quán cà phê sau khi tan học buổi chiều. Một bữa, giữa lúc vui chuyện, anh đột ngột hỏi tôi :
- Trong số thơ tôi, anh thích bài nào nhất?
Câu hỏi thật khó trả lời vì tôi chưa bao giờ nghĩ đến. Tôi thật thà đáp :
- Thơ anh tôi thích nhiều bài : Cổng làng nè, Hồ Xuân Hương nè, Giai nhân nè...nhung khó mà nói thích bài nào nhất...... Như chợt nhớ ra điều gì, tôi ngừng lại :
- Nhưng bài gây cho tôi nhiều ấn tượng là bài “Sông Thương”....
Không để tôi nói hết, anh nhổm dậy, reo lên :
- Vậy sao? Bài ấy tôi cũng rất thích, nhưng thất lạc đâu đó, tôi chưa tìm ra. Mà tôi cũng quên mất mấy câu. Anh có thể đọc cho tôi nghe không?
May là vì rất thích bài ấy, đọc nhiều lần nên thuộc, tôi bèn đọc cho anh nghe :
Một lá thuyền thơ thả tắm trăng,
Nước về đâu mãi, chảy xuôi dòng.
Sông Thương đôi ngả, này cô lái,
Hãy ghé cho vào bến nước trong ! (1)
Đôi mảnh hồn quê quá ngẩn ngơ,
Sinh nhầm thế kỷ, lạc tìm mơ.
Nhìn ra trời nước dềnh nghiêng ngả,
Say rượu hay là say ý thơ ?
Trời nước này đây hai mảnh trăng,
Vài ba lửa đóm ngỡ sao băng.
Đôi chèo vỗ sóng ngờ sênh phách,
Tưởng gái Tầm Dương ghé đãi đằng.
Có tiếng đêm dài khóc ở đâu,
Dế ven sông kéo nhị âu sầu.
Đôi bờ lăng lắng muôn tai lá,
Nước chở hồn sông dạt bãi dâu....
Anh lim dim đôi mắt, lắng nghe thơ mà hồn như mơ về tận sông Thương ở Bắc Giang một mùa thu năm cũ. Khi tôi ngừng lại, anh mở mắt ra, buông một tiếng thở dài. Bài thơ toát lên một nỗi buồn mênh mang sâu lắng.
Đến lượt tôi hỏi :
- Anh đọc nhiều thơ tôi, vậy anh thích bài nào nhất ?
Anh đáp, không cần suy nghĩ :
- Bài “Lá thư về Bắc” đăng trên tạp chí Đời Mới (2). Bài thơ gợi cho tôi tình hoài hương sâu sắc và khiến tôi nhớ tới Đinh Hùng.
Một buổi chiều thứ bảy gần Tết âm lịch năm Mậu Thân (1968), anh hẹn tôi sau giờ tan học buổi chiều ghé quán cà phê gần trường để nói chuyện thơ. Tôi ngồi ở phòng giáo sư chờ anh mãi nhưng không thấy. Chuông tan học đã lâu mà anh vẫn chưa xuống. Năm giờ, 5 giờ 15 rồi 5 giờ 30 mới thấy anh lò dò xuống, rối rít xin lỗi tôi vì đã trễ hẹn mất nửa giờ. Hỏi ra mới biết hôm ấy anh dạy Việt văn lớp 12, đến đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích, anh say sưa giảng quá giờ mà không hay, đến khi học trò nhắc anh mới sực tỉnh. Chả là nhà trường có hậu ý bố trí cho các lớp 12 sắp thi tú tài học trên lầu cao nhất để tránh tiếng ồn ào ở dưới sân, vì thế nhiều khi chuông reo mà thầy trò không nghe. Mê văn chương như anh kể cũng hiếm.
Thấm thoắt đã đến ngày Sài Gòn giải phóng. Bấy giờ các nhà giáo chúng tôi chỉ được đăng ký dạy tai một trường, chứ không được dạy nhiều trường như trước nữa. Anh và tôi cùng đăng ký dạy tại trường Hưng Đạo, một trường lớn vào bậc nhất Sài Gòn vì trước đó chúng tôi đã từng dạy ở đây.
Những năm đầu sau giải phóng, lương hướng nhà giáo thật khiêm tốn, đời sống thiếu thốn là chuyện tất nhiên. Năm 1978 còn sống dưới chế độ bao cấp, tình hình kinh tế rất khó khăn, các nhu yếu phẩm đều được phân phối với giá rẻ.
Một hôm, ban đời sống của nhà trường thông báo mới nhận được một số lốp (vỏ) xe đạp nhưng hàng ít, người đông nên phải bốc thăm vào chiều hôm sau. Chẳng may hôm ấy anh Lân bị ốm, nên nhờ tôi bốc thăm hộ. Lần thứ nhất bốc thăm cho tôi : thăm trắng ! Lần thứ hai bốc thăm cho anh thì thăm trúng. Hai hôm sau, anh đi dạy lại, tôi trao cái lốp xe cho anh, anh mừng rỡ, mắt sáng lên khiến tôi vô cùng cảm động. Ngày nay cái lốp xe đạp có đáng gì nhưng hồi ấy rất quí đối với bọn nhà giáo chúng tôi vì xăng được phân phối mỗi tháng chỉ có 3 lít, còn chợ đen thì bán giá trên trời nên xe máy đành phải trùm mền, chỉ còn biết dùng xe đạp.
Bàng Bá Lân cũng là người có tính hài hước. Năm 1985, trong một buổi họp mặt các nhà giáo còn dạy hay đã nghỉ, vốn là bạn cũ của nhau, anh Phan Thanh Đức than phiền :
- Không hiểu sao ngày nay học trò hỗn láo quá, chẳng coi thầy cô ra gì cả.. Còn đâu là tinh thần “tôn sư trọng đạo”....
Anh Lân chợt ngắt lời :
- Anh nói sai rồi. Phải nói là “tôn viên trọng đạo” mới đúng chứ !
- Tại sao ?
- Anh không thấy ư ? Hiện nay trong cả nước, hơn chín chục phần trăm là giáo viên , còn không đầy mười phần trăm là giáo sư, vậy theo đa số phải nói là “tôn viên trọng đạo”.
Mọi người phá ra cười.
Bàng Bá Lân là vậy đó. Làm thơ hay, rất vui tính, tử tế và thân mật với bạn bè nên ai cũng mến. Thấm thoắt mà anh bỏ chúng ta đến hai chục năm rồi (1988-2008). Mỗi lần nghĩ tới anh là tôi nhớ đến một nhà thơ tài hoa, một nhà giáo nghiêm túc với vầng trán cao, đôi mắt sáng, nụ cười hiền dễ gây thiện cảm với mọi người.
Hôm đưa đám anh, các nhà giáo và học sinh đưa tiễn khá đông. Lướt qua hàng nữ sinh, tôi ngước nhìn lên thì thấy trên mắt các em long lanh hai hàng lệ. Ai nấy đều ngậm ngùi thương tiếc một nhà giáo tâm huyết, một nhà thơ có tài mà không được nằm xuống ở quê hương, nơi có dòng sông Thương thơ mộng mà anh từng mến yêu và ca ngợi.

_________________________________________________________________________
Ghi Chú:
(1) Con sông Thương nước chảy đôi dòng, một bên đục, một bên trong.
(2) Bài thơ này có đăng trên Newvietart, phần Thơ Nhạc.


MỘT BÀI THƠ HAY CỦA BÀNG BÁ LÂN

GIAI NHÂN

Giai nhân nan tái đắc
Lý Diên Niên

“Thư trung hữu nữ nhan như ngọc” (*),
Đọc sách mười năm chẳng gặp mình.
Chỉ thấy những tên xinh đẹp quá :
Tây Thi, Bao Tự, Thôi Oanh Oanh.

Ta thả hồn si lạc bốn trời,
Đi tìm người đẹp khắp nơi nơi.
Biết bao mong đợi, bao thương nhớ,
Mơ vẫn hoàn mơ, ôi lẻ loi !

Nhưng một chiều thu nắng trải vàng,
Trời xanh mây bạc lượn lang thang.
Ta đi tìm hứng trên hè phố
Rẽ một đường quanh, bỗng gặp... Nàng !

Từ đáy lòng ta thốt tiếng “Ôi !”,
Có chi đổ vỡ ở trong người.
Tay chân bủn rủn, hồn ngây ngất,
E lệ trào lên cả mắt môi !

Tóc biếc mây nhường, trán sáng cao,
Môi son he hé nụ anh đào.
Cổ thiên nga nõn, hàm răng ngọc,
Mũi thẳng, cằm thon, mắt ánh sao.

Nàng chỉ nhìn ta một thoáng nhanh
Mà như trao gửi biết bao tình.
Ngã ba sắp khuất, còn quay lại :
Một liếc xiêu xiêu cả vạn thành !

Ôi ! Kiếp con tằm, kiếp nhả tơ,
Bao năm tìm kiếm, gặp tình cờ,
Để mà mơ ước, mà thương tiếc :
Em lấy chồng, anh mãi dệt thơ !

Muôn đời thi sĩ với giai nhân
Gặp gỡ dù cho chỉ một lần,
Thơ mộng ngàn năm vang bóng mãi,
Cho ngàn năm mãi mãi bâng khuâng !


BÀNG BÁ LÂN

(Trong tập “Vào thu”)
_______________________________
(*) Thư trung hữu nữ nhan như ngọc : trong sách có cô gái mặt đẹp như ngọc..


No comments:

Post a Comment