NGUYỄN HOA LƯ * CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
11-09-2014
Biên niên sử của một bi kịch
Nguyễn Hoa Lư/ Blog Nguyễn Hoa Lư
N.H.L. Mùa Hè năm 2009,
tôi về quê thăm cụ giáo Trần Bổng. Tôi là cháu gọi cụ bằng dượng lại
vừa là học trò thời cụ đang làm hiệu trưởng trường cấp hai của xã. Dù
còn minh mẫn, nhưng gần 90 tuổi ông cụ đã bắt đầu quên vài chuyện và
thỉnh thoảng nhắc lại những câu chuyện vừa kể trước đó.
Trong những câu chuyện không đầu không
cuối về những kỹ niệm xưa cũ, ấn tượng còn lại từ thời cải cách ruộng
đất (CCRĐ) ám ảnh đến mức nhiều lần ông cụ bật khóc, cứ lặp đi lặp lại:
“Cháu ạ, nhiều cảnh tượng trong CCRĐ là vô cùng tàn ác, mất hết cả luân
thường đạo lý. Dượng không sao quên được!”. Đã qua hơn nửa thế kỷ mà dư
âm của nó cứ dai dẳng bám vào tiềm thức của một cụ giáo làng như những
vết thương sâu trong tim, không bao giờ lành miệng, tận đến lúc cuối
đời.
Cuộc CCRĐ long trời lở đất ấy đã bắt đầu như thế nào? Đây là một số ghi chép tìm hiểu sơ sài của tôi.
1.Chuẩn bị cho CCRĐ
Cuối tháng 5 năm 1953, để thực hiện công cuộc CCRĐ, chính phủ đã “thí nghiệm” ở 6 xã thuộc huyện Đại Từ, Thái Nguyên [1].
Ngày 22 tháng 5 gia đình bà Nguyễn Thị Năm bị đưa ra xét xử, bà Năm bị án tử hình với tội danh “tư sản địa chủ cường hào gian ác”. Cuộc hành hình đầu tiên của CCRĐ. Lúc đó bà năm vừa 47 tuổi.
Hai tháng sau vụ xử bắn bà Năm, báo Nhân Dân đăng bài “Địa chủ ác
ghê”, tác giả là C.B. Bài báo mở đầu bằng lời của “thánh hiền” dạy rằng
“Vi phú bất nhân”, rằng địa chủ ngoài việc “bóc lột nhân dân, tô cao lãi
nặng, chây lười thuế khóa” còn có “bọn địa chủ giết người không nháy mắt”.
Đại diện cho loại địa chủ này là mụ địa chủ Cát Hanh Long cùng hai đứa
con và mấy tên lâu la. Bài viết kết thúc trong cơn giận dữ tột cùng: “Viết không hết tội, dù chẻ hết tre rừng/ Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước bể!”.
Vụ Cát Hanh Long còn được đưa vào sách giáo khoa với đầu đề: “Ấn cổ bọn nó xuống”.
Trong quá trình học tập ra quân cho đợt CCRĐ, trong dư luận đã có ý
tổng kết rằng cuộc hành quyết bà Năm “có ba điều sai chính sách và một
điều không hợp đạo lý truyền thống của người Việt Nam”. Ba điều sai với
chính sách là: Địa chủ kháng chiến, địa chủ kiêm công thương và địa chủ
hiến ruộng đất. Điều không hợp đạo lý, bà Năm là một phụ nữ, “bắn một
địa chủ là nữ, không cường hào gian ác sẽ trái với đạo lí thông thường
của người Việt Nam” [2].
Sau ngày sửa sai CCRĐ, trong những cán bộ cao cấp lan truyền câu
chuyện sau. Khi chuẩn bị bị bà Năm, Bác Hồ can thiệp, nói đại ý: không
nên đánh phụ nữ dù là bằng một cành hoa, huống hồ đây lại là một án tử
hình bắt đầu cho cuộc CCRĐ [3] .
Ngày 4 tháng 12 năm 1953, Quốc hội thông qua Dự luật Cải cách ruộng
đất. Ngày 19 tháng 12 năm 1953, chính phủ ra sắc lệnh ban bố Luật CCRD [4] . Trong bài nói trước Quốc hội, Hồ chủ tịch khẳng định: “Luật CCRĐ của chúng ta chí nhân, chí nghĩa, hợp tình, hợp lý” [5] .
Cuối tháng 5 năm 1954, đợt 1 CCRĐ được bắt đầu ở 47 xã thuộc các huyện Đại Từ, Đồng Hỷ, Phú Bình [6] của Thái Nguyên và huyện Nông Cống, Thanh Hóa [7] .
2. Hiệu buôn Cát Hanh Long[8]
Chủ hiệu buôn là một người phụ nữ góa chồng Nguyễn Thị Năm. Bà Năm sinh năm 1906 trở nên giàu có nổi tiếng ở đất Hải Phòng, Hà nội. Sớm giác ngộ cách mạng, bà tham gia mặt trận Việt Minh ở Hải Phòng. Nuôi giấu nhiều cán bộ cách mạng như Lê Đức Thọ, Hoàng Hữu Nhân (bí thư Thành uỷ Hải Phòng), Hoàng Tùng, Vũ Quốc Uy, Hoàng Thế Thiện…
Nhà giàu, được giác ngộ nên bà Năm trở thành nguồn cung cấp tài chính cho cách mạng mà bây giờ gia đình tập hợp lại thành một hồ sơ dày đặc từ việc góp 20.000 đồng bạc Đông Dương tương đương bẩy trăm lạng vàng, thóc gạo, vải vóc, nhà cửa và là một trong những người đóng góp tiêu biểu nhất của “Tuần Lễ Vàng” ở Hải Phòng.
Dù đã đứng tuổi theo quan niệm đương thời, nhưng người phụ nữ 40 tuổi
của thành phố cảng ấy đã phóng xe nhà treo cờ đỏ sao vàng từ Hải Phòng
lên thẳng chiến khu qua thành phố Thái Nguyên, nơi quân Nhật còn chiếm
đóng đến Đồng Bẩm, Đình Cả, Võ Nhai để báo cho con trai và các đồng chí
của mình tin Hà Nội đã giành được chính quyền.
Hai con của bà (với hai cái tên ghép thành hiệu của bà là Cát và
Hanh) sau đó về tham gia lực lượng vũ trang ở Thủ đô, một người bị
thương khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ ngay ở Cầu Giấy – cửa ngõ Thủ
đô; một người đã từng tháp tùng đoàn đại biểu chính phủ do các ông
Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu… vào Huế tước ấn kiếm vua Bảo Đại rồi
sau này trở thành một Trung đoàn trưởng nổi tiếng của Sư đoàn 351.
Trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp, bà Năm tham gia các cấp
lãnh đạo của Hội Phụ nữ của tỉnh Thái Nguyên và Liên khu Việt Bắc… Nhiều
cán bộ cách mạng, nhiều đơn vị bộ đội thường tá túc trong đồn điền của
bà.
3. Cuộc đấu tố bà Nguyễn Thị Năm qua lời kể của người trong cuộc
Người dự cuộc đấu tố đó, nhà sử học Trần Huy Liệu[9] , toàn bộ phần này được trích từ nhật ký của ông.
Số người tới dự độ một vạn trở lại, ngồi chen chúc trong một khu
đất dưới lùm cây hai bên là núi. Hôm nay nắng nhiều, ánh mặt trời rọi
vào khiến nhiều người phải cầm cành cây vừa che cho đỡ nắng, vừa để ngụy
trang chống máy bay. Nhưng làm thế thì hàng trước sẽ che lấp hàng sau,
không nhìn thấy gì, nên kết cục là phải bỏ cành lá đi và khi nắng quá
thì dồn người sang hai bên…
Hôm nay cũng như hôm trước, chủ tịch đoàn lại phạm một khuyết điểm là ra lệnh cho quần chúng hễ thấy địa chủ vào là đả đảo kịch liệt. Một việc làm thừa!
Nguyễn Thị Năm và hai con Hanh, Công cùng đầy tớ là đội Hàm,
Chính, Chiêu vào. Quần chúng hô đả đảo vang dậy và đòi phải đứng lên cao
quay mặt tứ phía cho ai nấy đều trông thấy mặt để đả đảo. Chủ tịch đoàn
giới thiệu từng tên với một tràng lý lịch tư pháp mà không nêu tội ác [10]
. Tuy vậy quần chúng cũng chấm dứt từng đứa bằng một làn sóng đả đảo.
Quần chúng ghét nhất là đội Hàm, vì tội ác đã đành, mà còn vì đôi mắt
đầy khiêu khích. Nhiều người hô bắt nó phải cúi mặt xuống(…).
Những người tố được quần chúng cảm động và tán thưởng nhiều nhất
là bà Sâm, chị Đăng và anh Cò. Bà Sâm, với một giọng gợi cảm, kể lể vì
Thị Năm mà mình phải suốt đời cô độc, có người rơi nước mắt. Nhưng sự
thực, nội dung câu chuyện không có gì. Chị Đăng, một người ở với Thị Năm
lâu ngày, tố lên rất nhiều sự việc bí mật và chi tiết. Nhưng, với một
giọng lưu loát quen thuộc, chị trở nên một tay “tố nghề” và ít làm cho
ai cảm động…
Bà Minh nói việc chẩn bần tại đồn điền Đồng Bẩm năm 1945 đã làm
bao nhiêu người chết đói, rồi kết luận bằng những câu: “Mày đừng nhận là
chủ đồn điền có được không?”, “Mày chỉ có hình thức thôi” và “Mày nói
nhân nghĩa mà mày không nhân nghĩa gì cả” khiến người nghe không hiểu
tội Thị Năm ở đâu?
Sự thực thì hồi ấy dân chết đói nhiều quá, bọn thống trị Pháp,
Nhật muốn che lấp tội ác của chúng, bắt các chủ đồn điền phải hàng ngày
xuất ra một số gạo phát chẩn cho dân. Thị Năm đã bớt và khai man số gạo
này, nghĩa là ăn cắp số gạo mà dân đói đáng được hưởng để chết đói thêm.
Ông Giồng tố cáo Thị Năm đã cướp gánh cỏ của ông cho ngựa nó ăn
và giỏ củ mài làm cho cả nhà nhịn đói. Câu chuyện của ông đã được một
văn nghệ sĩ làm thành một bài thơ tràng thiên rất cảm động Nhưng hôm
nay, ông đã thuật lại một cách nhạt nhẽo. Con gái ông Giồng, hơn mười
tuổi, đáng nhẽ cứ kể rành rọt cảnh đói rét của nhà mình phải chịu vì sự
bóc lột của Thị Năm, nhưng nó lại nói bằng một giọng “bà cự” nên nhiều
người không cảm động, mà lại phát ghét.
Chị Lý, con nuôi của Thị Năm, được Thị Năm trang điểm cho để định gả cho một võ quan Nhật.
Nhưng sau khi biết chị chỉ là thân phận tôi
đòi, không có tiền của gì thì tên Nhật lại không lấy và chị lại bị Thị
Năm bắt lột trả lại quần áo, trở lại thân tàn ma dại như trước. Chị vừa
nói vừa khóc.
Nhưng không ai rõ chị nói gì….
Tuy vậy, trong đám người tố, vẫn còn sót lại một ít những phong thái cũ.
Câu hỏi “Mày có biết tao là ai không?” đã được chủ tịch đoàn ngắt đi bằng câu: “Cứ việc tố không cần bắt nó trả lời”. Một vài cái tát vẫn còn diễn ra.
Trong khi tố tên Công, nhiều người hỏi những câu vô ý thức: “Mày
có xứng đáng là cách mạng không?”, “Mày nói mày là cách mạng mà như thế
à?”.
Một người ở Phúc Trừu tố cáo Thị Năm về tội chiếm đoạt ruộng đất khẩn hoang của nông dân và cơi thùng thóc lên để thu thóc, rồi kết luận “Như thế mày có xứng đáng là địa chủ không?”.
Một người khác tố Thị Năm, đội Hàm và Lý Nguyên Lập bảo an đoàn ở Phúc Trừu bắt nông dân gác và đánh đập tàn nhẫn, cũng để đi tới kết luận: “Mày là con chó! Chứ không phải địa chủ?”.
Một tá điền tố Thị Năm lấy ruộng của mình đương làm bán cho người khác vì mình không có tiền mua, bằng câu: “Lấy tiền ở mả bố mày mà mua à?”.
Nhiều người vẫn gắn vào hai chữ “tiến bộ”: “Mày nói mày tiến bộ mà như thế à?”
Đi xa hơn nữa, có người nói Thị Năm lập quán Bông Lau ở thị xã Thái Nguyên để đón gián điệp trong khi ai cũng biết đó là cơ quan sinh lợi của hội Phụ nữ liên hiệp tỉnh Thái Nguyên.
Về phía quần chúng, thì, khi nghe người tố không chịu bình tĩnh lắng nghe cho rõ sự việc cũng như luận điệu tố cáo, cứ việc “đả đảo” bừa đi. Nhiều lúc ầm ĩ quá làm không nghe gì được.
Trong khi quần chúng đòi đem bày ổ thủ phạm ra ngồi ngoài nắng,
lại trả lời: “Đem ra ngoài nắng ngộ nó lăn ra chết thì lấy gì mà tố?”.
Đây là lời dặn của cán bộ với những phần tử cốt cán là không nên đánh
đập địa chủ. Nếu lỡ tay đánh chết nó thì lấy gì mà tố. Hôm nay, vị chủ
tịch ngốc nghếch kia đã theo ý đó nói toạc ra một cách công khai cho địa
chủ biết.
Đến lúc đọc bản cáo trạng kết thúc, hội trường im lặng để lắng
nghe trong một bầu không khí trầm nghiêm. Nhưng một vị chủ tịch đã đọc
chữ nọ thành chữ kia. Có câu đọc đi đọc lại. Có lúc phải ngừng lại để
lẩm nhẩm. Rồi mỗi lúc mỗi ngập ngọng thêm. Kết cục là nửa chừng phải
thay người khác...
4. Nỗi đau riêng và nỗi đau chung đã chấm dứt?
Mùa Đông 1986, ông Lê Đức Thọ, trưởng ban tổ chức TW cử thư kí riêng của mình là ông Lưu Văn Lợi tìm đến số nhà 117 Hàng Bạc. Tại đó, trong căn nhà 20 mét vuông, con cái bà Cát Hanh Long, 6 nhân khẩu chen chúc. Sau những bàn bạc với ông Trường Chinh để đi đến một quyết định quan trọng.
Ngày 28 tháng 1 năm 1987, ông Lê Đức Thọ đến tận nhà bà Cát Hanh Long
tặng quà Tết. Một trong những món quà cho gia đình là tập thơ ông vừa
xuất bản, với dòng đề tặng: “Thân mến tặng Công và Hanh để đánh dấu chấm
dứt sự đau buồn kéo dài lâu năm của gia đình và cũng là của chung”.
Hơn hai tháng sau, ngày 4 tháng 4 năm 1987, ban tổ chức TW có công
văn gửi Tỉnh ủy Bắc Thái. Công văn “đề nghị sửa lại thành phần giai cấp
và thực hiện đúng chính sách của Đảng và Nhà nước đối với gia đình bà
Nguyễn Thị Năm”.
Ngày 11 tháng 6 năm 1987, Chủ tịch tỉnh Bắc Thái quyết định sửa thành
phần giai cấp cho bà Năm là “Tư sản, địa chủ kháng chiến”. Công văn của
Ban tổ chức TW, theo chỉ đạo của ông Trương Chinh và Lê Đức Thọ, tỉnh
Bắc Thái chỉ thực hiện được một vế.
Ngày 10 tháng 11 năm 2001, đại tướng Võ nguyên Giáp chứng nhận: “Bà
Nguyễn Thị Năm tức Cát Hanh Long là một địa chủ có tinh thần yêu nước,
trong kháng chiến đã từng giúp đỡ bộ đội. Bản thân tôi và Đại tướng
Nguyễn Chí Thanh có lúc đã ở lại nhà bà. Trong những buổi họp sửa sai,
chính Bác Hồ, đồng chí Trường Chinh và đồng chí Lê Văn Lương đều cho
rằng xử trí bà Nguyễn Thị Năm là một sai lầm”.
Ngày 22 tháng 7 năm 2012, nhà sử học Dương Trung Quốc vào cuộc bằng bài báo “Viết nhân ngày thương binh liệt sĩ”. Cuối bài báo, nhà sử học đề nghị vinh danh bà Năm là “liệt sĩ thực thụ của những vụ án “mạc tư hữu” trong lịch sử”.
Ngày 7 tháng 4 năm 2014, báo An Ninh thế giới đăng bài “Chuyện về người phụ nữ từng bị xử lý oan”, tác giả Xuân Ba[11]
. Báo An ninh thế giới đăng kì một. Mặc dù cuối bài, An ninh Thế giới
hứa “còn tiếp” nhưng cái sự còn tiếp đó người đọc đành phải vào xem ở
các trang của Nguyễn Quang Lập hoặc Nguyễn Trọng Tạo[12] .
Nhà báo Xuân Ba kết thúc thiên phóng sự bằng câu “Người con trai còn
lại duy nhất của bà Nguyễn Thị Năm Cát Hanh Long năm nay tròn 90 có lẽ
vẫn tiếp tục đợi?”.
[1] Việt Nam những sự kiện, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1975.
[2] Hồi kí Đoàn Duy Thành
[3] Hồi kí Đoàn Duy Thành
[4] Việt nam những sự kiện (trang 114).
[5] Chủ tịch Hồ Chí Minh với Quốc hội, NXB Chính trị Quốc gia, 1996.
[6] Ba tên gọi của ba huyện quá đẹp!
[7] Việt Nam những sự kiện (trang 124).
[8] Mục này viết theo Dương Trung Quốc, viết nhân ngày Thương binh liệt sĩ, http://laodong.com.vn/lao-dong-cuoi-tuan/viet-nhan-ngay-thuong-binh-liet-si-75128.bld
[9] Trần Huy Liệu cõi người, NXB Kim Đồng, 2009 (Trang 235 – 239)
[10] Không hiểu những tội ác mà C.B. nêu ra lấy từ đâu?
Thursday, September 11, 2014
TRẦN HUY LIỆU * CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
11-09-2014
Nhật ký cải cách ruộng đất
Trần Huy Liệu/ Talawas
18-5-1953
Nhưng mình không dự hội nghị, mà đi dự
cuộc đấu địa chủ Nguyễn Văn Bính tức Tổng Bính tại xã Dân Chủ… Theo lối
rẽ vào xã Trung Thần, đã thấy từng tốp người từ các ngả đường kéo đến…,
trong đó có cả những bà bồng bế con thơ… đôi người đàn bà mặc quần mới.
Lũ trẻ con giành nhau chạy trước. Một thanh niên leo lên cây me vệ đường
rung cây cho quả rơi xuống để mọi người nhặt… Mình có ấn tượng như đi
xem hội ở vùng quê. Họ không nói chuyện gì về đối tượng sắp đem tranh
đấu cả.
Vào một nhà tập hợp. Những ủy viên chấp hành nông hội xã và cán
bộ đội công tác đương tíu tít về những công việc tổ chức. Ban tiếp tế
nấu từng chảo cơm, bày từng dãy mâm cơm cho những “tân khách”, ai muốn
ăn thì ghi tên vào với giá tiền 3.000 đồng một bữa. Mình mặc dầu đã mang
cơm nếp đi theo cũng ngồi vào ăn. Dọc đường đi đến trường sở ở trong
rừng, có dân quân du kích và công an xã vác súng đi lại canh gác. Từng
chòm người ngồi xúm xít dưới gốc cây hay trong một chiếc nhà trống. Một
chị phụ nữ bán xôi và bánh khúc tha hồ đắt hàng. Nhưng cho mãi đến gần
11 giờ, cuộc đấu mới bắt đầu. Vì thôn nọ phải chờ thôn kia, xóm nọ phải
chờ xóm kia. Có người đi từ sáng sớm, chưa kịp ăn cơm. Có người gần trưa
mới tới. Ban tổ chức đã không giao trách nhiệm chặt chẽ những người phụ
trách các khu vực hướng dẫn quần chúng đến cho được đúng giờ hay ít
nhất là không chậm trễ quá. Mình cố ý ngồi lẫn vào từng đám quần chúng
để nghe ngóng dư luận, nhưng không thấy gì. Một anh bạn hỏi người ngồi
bên thì y nói: “Tôi đối với ông ấy (chỉ địa chủ Tổng Bính) cũng không có
chuyện gì”. Ban tổ chức đi gọi người nào có “vấn đề” với địa chủ thì
vào trước. Một số lững thững đi vào. Có người không chịu vào trước, nói:
“Tôi có ít thôi, để nói vào cuối cùng”. Nhưng có ai biết được người tố
cuối cùng sẽ là ai? Trường sở tranh đấu tại một khu rừng thưa, gần cánh
đồng, bên một cái đình. Không có hầm hố tránh máy bay gì cả. Cũng may
trời nắng ráo. Mưa thì sẽ ra sao? Ngoài lá quốc kỳ và ảnh Hồ Chủ tịch,
những khẩu hiệu “Hồ Chủ tịch muôn năm”, “Đảng Lao động Việt Nam muôn
năm”, “Triệt để giảm tô, kể cả thoái tô. Thực hiện giảm tức, phát triển
sản xuất. Thực hành tiết kiệm” và một chiếc băng dài đề “Đả đảo và trừng
trị xứng đáng tên địa chủ cường hào gian ác Nguyễn Văn Bính”. Mình nhận
thấy không có một khẩu hiệu phản đế nào. Một thói quen trong lúc này là
người ta mải nhìn vào địa chủ phong kiến mà quên kẻ thù đương phải
tranh đấu bằng vũ trang là đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ. Trước mấy chiếc
bàn để dành cho chủ tịch đoàn và ban thư ký, một chiếc bục kê lên cho
địa chủ quỳ và đằng sau có những biển quy định chỗ ngồi: “địa chủ ngoan
cố”, “địa chủ đã thanh toán”, “phú nông nói láo”, “phú nông chưa thành
khẩn” và “những người phú nông”. Số quần chúng đến dự độ 700 trở lại. Có
cả một số bộ đội và nhân viên cơ quan ở gần. Ban điện ảnh Nha Thông tin
có đến quay phim. Theo lời căn dặn của chủ tịch đoàn, thì, khi máy quay
phim kêu sè sè, mọi người không nên nhìn vào, mà phải “căm thù địa
chủ”. Lễ khai mạc bắt đầu. Trên ghế chủ tịch đoàn là ban chấp hành nông
hội, nghĩa là bần, cố, trung nông. Có cả một phụ nữ và một thương binh.
Phát ngôn nhân của chủ tịch đoàn cũng dõng dạc mạnh bạo, không kể vô số
những sai lầm về danh từ cũng như về văn phạm. Nhưng những lời tuyên bố
đầu tiên đã lộn xộn giữa phú nông và địa chủ. Người ta không nói ngay
đến địa chủ thủ phạm, mà đã kể đến từng “tên” phú nông thuộc các loại,
do du kích áp giải “mời” đến hội trường. Chủ tịch truyền lệnh cho cử tọa
hễ thấy địa chủ vào thì hô đả đảo. Một việc làm không cần đến mệnh
lệnh. Đến lượt địa chủ vào. Hai tay bị trói quặt ra sau, nhưng vẫn phải
bò từ ngoài vào, đeo bên mình những gói quần áo. Ngoài tiếng hô đả đảo,
những người ngồi gần lối y vào cũng với tay ra đánh tát tơi bời. Không
đợi để quỳ lên bục, một người đã túm lấy tóc mà “tố”. Trận vũ bão bắt
đầu.
Mình đã đọc hồ sơ của B., biết rõ tội ác
của B. B. trước làm lý trưởng rồi phó tổng hồi Pháp thuộc. Sau Cách
mạng tháng Tám, B. làm chủ tịch Uỷ ban Hành chính Kháng chiến xã rồi
UBHCKC huyện. B. cũng là đảng viên cộng sản đầu tiên ở đây. Một số người
vào tố đầu tiên buộc tội B. đã làm tay sai cho Cung Đình Vận, tuần phủ
Thái Nguyên ngày trước, để lùng bắt Việt Minh và đồng chí Chu Văn Tấn.
Tuy vậy, ngoài một người ra, hầu hết
những người khác đều không đem được ra những bằng chứng cụ thể. Có người
không nói được rõ cả việc xảy ra ở đâu ngày tháng nào. Kết quả là B.
chỉ nhận sau cuộc Nhật đảo chính Pháp, có nhiều trộm cướp xảy ra, mình
làm tổng lý phải đem lính dõng và tuần phiên đi canh gác, thế thôi. Đến
lượt tố các vấn đề kinh tế. Một điểm đáng chú ý là trong khi đấu tố địa
chủ mà không nổi bật lên cái gì là chiếm đoạt ruộng đất hay tô tức.
Người ta chỉ len vào những việc phụ khác như ăn hối lộ, quỵt tiền công,
tham ô, đánh người… Có một số người mà phần nhiều là phụ nữ tố tên B.
bằng một giọng kể lể tự nhiên thì được công chúng nghe rõ ràng và thấm
thía. Một bà đau xót vì chồng bị B. đánh 3 cái ba toong và khi B. vào
nhà bà sục bắt cán bộ thời bí mật, cán bộ chạy làm vỡ một rổ bát để nhà
bà không có cái bát mà ăn. Một chị ở giơ cái chân khấp khểnh vì bị sâu
quảng để truy nguyên vì B. mà què chân. Một anh ở khác tố cáo vì B.
không cấp thẻ thuế thân trong thời Pháp thuộc nên không đi đâu được. Tuy
vậy, có bà kể lể vì bị quỵt 3 nồi thóc, đi tới kết quả là con ốm bị
chết để kết luận bằng câu: “Vậy mày có trả tao 3 nồi thóc không?”. Cũng
một bà khác có anh ở cho B. ốm chết, rồi cũng suy luận theo kiểu trên để
đi tới đòi mấy nồi thóc tiền công. Một chị chấp hành nông hội, ngồi ghế
chủ tịch đoàn là chị Bân đã tố B. cướp một con trâu với tinh thần căm
tức dào dạt, nhưng chị vừa nói vừa vỗ tay xỉa xói vào mặt B. khiến mình
có cảm tưởng như nghe cuộc cãi nhau của một mụ bán hàng chua ngoa ở chợ
Đồng Xuân.
Sưu tầm từ FB Đinh Kim Phúc |
Ngoài ra, không thiếu những điều vô lý
đến phì cười Có người tố B. đã quyên tiền của mình để đóng cho Việt Minh
trước cuộc Cách mạng tháng Tám mà không nói rõ B. đe dọa nếu không
quyên thì sẽ bị giết. Có người tố B. đã làm chết hai du kích chỉ vì B.
đã phái đi bố trí trong khi quân Pháp tiến lên Thái Nguyên năm 1947. Có
người còn tố B. đã làm thịt lợn đãi du kích mà con lợn đó là lợn nhà của
B. Một anh tự xưng là bộ đội Anh Bắc trước cuộc cách mạng trong khi tố
B. đã không quên “quảng cáo” cho B. là B. đã đốt bằng sắc của thời Pháp
thuộc. Một anh phu phà nhắc lại chuyện năm xưa đã bị B. đánh một cái tát
vì té nước vào quần B. rồi cứ sừng sộ mãi: “Mày có phải là cán bộ
không?”. Nhiều người tố giác B. đã thừa cơ ăn cắp vải, đồng hồ, súng
lục… khi quân ta đánh chiếm Thái Nguyên tháng 8-1945. Rồi sau khi nghe
B. phân trần, người ta vẫn cứ truy mãi: “Thế còn đạn mày lấy ở đâu?”.
Cuộc tranh đấu càng kéo dài, những vấn đề đem ra tố càng trở nên lung
tung, tản mạn. Một chị phụ nữ là y tá của một cơ quan cũng lăng xăng
chạy vào hỏi chiếc bút Pắc-ke bị mất năm trước khi cơ quan còn đóng ở
nhà B. Một người khác kể tội B. khi dạy học đã dùng thước đánh mình. Nói
tóm lại, người ta không còn thấy gì là tính chất giai cấp đấu tranh của
nông dân chống địa chủ nữa.
Nếu mình hôm ấy chỉ là một người xa lạ
đến dự thì sẽ không biết B. có phải là địa chủ cường hào gian ác không
và vì sao phải đem ra đấu tố? Khuyết điểm là chủ tịch đoàn, trước khi
đem tố, không giới thiệu tóm tắt những tội trạng của y rồi mọi người đem
bằng cớ ra để chứng thực. Những phần tử cốt cán đem ra tố, đã bị bồi
dưỡng theo một kiểu cách sai lệch đến lố bịch. Đại đế anh nào chạy ra
cũng đầu tiên vỗ ngực bằng một câu hỏi: “Mày có biết tao là ai không?”
và “Mày đã dựa vào thế lực nào?”, “Đéo mẹ tiên sư mày, không nhận tao
đánh bỏ mẹ bây giờ”… bằng những cử chỉ hùng hổ và quát tháo om sòm, lại
không có lý lẽ gì cũng như không đem được ra chứng cứ. Ngu ngốc đến nỗi
khi nhắc đến những việc làm thời Pháp thuộc của B, rồi hỏi: “Mày đã dựa
vào thế lực nào?”, là có ý chỉ vào thế lực đế quốc cái đó đã đành. Tới
khi hỏi những việc làm của B. bằng danh nghĩa chính quyền của ta, cũng
cứ gạn hỏi: “Mày đã dựa vào thế lực nào?”. Và nếu quên hỏi câu này thì
lại có người nhắc hỏi. Đã thế, không cho “phạm nhân” được trả lời, vì
trả lời tức là “ngoan cố”. Những tiếng quát tháo: “Mày còn chối tao đánh
bỏ mẹ bây giờ” và những tiếng hò hét của công chúng ở ngoài: “Không cho
nó nói”, “Không cho nó phân trần” chỉ tỏ ra những hèn kém, yếu ớt không
tin được vào lý lẽ của mình. Sau khi chủ tịch đoàn đọc bản cáo trạng,
mình phải lấy làm ngạc nhiên là cuộc tố đã không nêu ra được tội trạng
của B. Chẳng những thế, người ta bắt tội nhân phải quỳ trên sàn gỗ tính
ra từ 11 giờ đến 4 giở rưỡi chiều. Mỗi khi tội nhân run rẩy gục xuống
thì những tiếng thét từ xung quanh lại vang lên: “Quỳ cao lên!”. Anh du
kích đứng sau lưng thỉnh thoảng lại dọi một báng súng mỗi khi thấy phạm
nhân quỳ thấp xuống, nghĩa là đặt đít vào hai gót chân. Có lúc chủ tịch
đoàn ra lệnh cho B. được ngồi xuống một tí thì người tố và quần chúng
lại bắt quỳ cao lên. Ngoài hình phạt bắt quỳ thường xuyên, người ta đã
đánh đập tội nhân rất tàn nhẫn. Mỗi người ra tố, theo thói quen và bắt
chước lẫn nhau, đều nắm tóc tội nhân để giật hỏi. Sau mấy câu hỏi không
đi đến đâu, người tố thấy mình trơ trẽn nên phải kết thúc bằng một cái
tát để xuống đài. Có người đã thoi vào mang tai tội nhân. Có người đã đá
phốc lên bụng. Trong khi ấy, chủ tịch đoàn hay một vài người ở ngoài
chỉ khuyên bằng một câu nhè nhẹ “Không cần đánh nó!” hay “Đánh nó thêm
bẩn tay!”. Trước mắt mình đã có một ấn tượng rất xấu: một anh, cứ cách
năm, mười phút lại lên nắm tóc tội nhân hay xen vào cuộc đấu tố của
người khác để hỏi một vài câu trống rỗng, rồi theo đó một cái tát. Mình
không thể thấy được ở y một căm thù giai cấp mà chỉ thấy ở y một hèn
nhát của một kẻ đánh hôi trong trận đòn hội chợ. Mình còn thấy ở y, cũng
như một số khác trong khi đánh đập tội nhân còn có ý biểu dương tinh
thần trước mặt cán bộ. Cũng hôm nay, mình còn thấy hai đứa trẻ con trong
đám quần chúng cốt cán cũng luôn chạy ra bắt địa chủ phải quỳ cao và
túm tóc đánh tát theo kiểu này. Họ hiểu lầm hai chữ “đấu lực” bằng cách
dùng nhục hình vô nhân đạo. Họ không biết sức mạnh của giai cấp không
phải đánh hôi một cách hèn nhát, có tính chất báo thù cá nhân. Hiện
tượng xấu xa này còn do ở những cán bộ của chúng ta, trong khi huấn
luyện trong lớp cũng như nói ngoài quần chúng, là: “Kỷ luật thì cấm đánh
ẩu, giết ẩu, nhưng nếu nông dân người ta căm thù quá độ mà đánh tát một
vài cái thì cũng không sao”. Câu nói này đã trở nên như một châm ngôn.
Nó gợi bảo quần chúng là có thể đánh một vài cái được, miễn là đừng đánh
chết. Rồi đó, những kẻ lưu manh đã thừa cơ đánh để trả thù hay đánh để
chơi, đánh cho thích. Mình thật không muốn thấy nhục hình khôn nạn còn
diễn ra dưới chính quyền dân chủ nhân dân này!
Hôm ấy, còn diễn ra một cảnh tượng nữa
là người trong gia đình tên B. cũng được áp giải ra hội trường. Trong đó
có một bà cụ già khọm, mẹ của B, và một đứa trẻ độ 3, 4 tháng nằm trên
bàn tay vợ của B. Chủ tịch đoàn gọi vợ B. lên khuyên chồng thú nhận tội
lỗi. Cảnh này chỉ gây cho công chúng rủ lòng thương những kẻ mặc dầu đã
sống vào bóc lột và áp bức đương bị trả thù!
Sau trận đấu, chủ tịch đọc bản cáo trạng
và cho phép B. được ngồi nghe. Đến lượt cho nói, B. phân trần là trước
kia làm tổng lý thì sự áp bức bóc lột nông dân là điều không tránh khỏi.
Nhưng sau khi giác ngộ thì B. đã thấy rõ cuộc cách mạng của ta là đánh
đổ phong kiến và đế quốc, làm cách mạng ruộng đất. Trên con đường tiến
của Liên Xô vĩ đại, B. không dại gì đi vào con đường chết. Từ sau Cách
mạng tháng Tám, B. đã tích cực phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nếu
có những việc lặt vặt xảy ra, thì nó chỉ là bột phát, không chủ ý. Nếu
nhân dân giết y thì y chịu, chớ y không chịu nhận là phản cách mạng, mưu
bắt cán bộ. B. nói có thực không, đó là một chuyện. Điều đáng ghi ở đây
là cuộc đấu hôm nay đã không đạt được mục đích yêu cầu và không làm cho
B. khuất phục. Tuy vậy B. vẫn phải ký vào bản cáo trạng kể trên.
*
Đến lượt Phùng Thái Ký, một Hoa kiều địa
chủ kiêm công thương nghiệp. Từ sáng, Phùng vẫn ngồi dưới tấm biển đề
“địa chủ ngoan cố”. Thực ra Phùng không phải mục tiêu định đem đấu hôm
nay. Nhưng chủ tịch đoàn vừa gọi ra chất vấn, Phùng nói líu tíu khó
hiểu, thì mấy nông dân Hoa kiều đã ồ lại thoi đánh túi bụi con của
Phùng. Đến đây thì trật tự bị mất hẳn. Chủ tịch đoàn bị động.
Cuộc chất vấn trở thành cuộc đấu. Những
việc đem ra tố đều thuộc về hiềm thù cá nhân, xích mích xóm giềng giữa
một số Hoa kiều, không có gì là tính chất của nông dân đấu địa chủ. Hầu
hết mọi người lại chỉ nhằm vào thằng con của Phùng, một thanh niên ngỗ
ngược. Khác với Nguyễn Văn Bính, thằng con của Phùng không thể quỳ cho
người ta đánh, mà lăn ra khóc hu hu. Cuối cùng, hai bố con Phùng cũng
phải ký vào bản cáo trạng, nhận bồi thường cho nông dân.
*
Ngoài hai địa chủ, đến lượt một số phú nông. Từ sáng, một số phú nông đã phải ngồi theo từng loại.
Khi mà cuộc đấu tố B. đến lúc quyết liệt
nhất thì chủ tịch đoàn truyền lệnh cho đem những “phú nông” chưa chịu
thanh toán ra một chỗ bắt phải nhận bồi thường cho nông dân. Mà ai cũng
thấy rõ là một hình thức uy hiếp phú nông rõ rệt, vượt quá phạm vi
“trung lập phú nông” theo sách lược của Đảng.
*
Sau cùng là những lời tuyên bố không
phải của chủ tịch đoàn, mà của anh NQC, trưởng đội công tác xã Dân Chủ.
Anh hoan hô cuộc thắng lợi của nông dân và nhắc nhở về việc củng cố nông
hội.
Nhưng cái điệu lệch của cán bộ là chỉ
nhắc đến Hồ Chủ tịch, đến Đảng, mà không nói đến chính quyền dân chủ
nhân dân. Những khẩu hiệu hô trước khi mít tinh giải tán cũng thiếu hẳn
khẩu hiệu chống đế quốc.
*
4 giờ rưỡi, mít tinh giải tán, mình ra
về trong đám quần chúng, nhưng không nhặt được một dư luận nào thêm.
Nhọc mệt. Bực bội. Một vài ấn tượng xấu trong cuộc mít tinh vẫn ám ảnh
trong đầu mình.
Cuộc đấu tố thí điểm địa chủ Nguyễn Thị Năm tức Cát Hanh Long ở hai xã Đồng Bẩm và Dân Chủ ngày 22-5-1953
Số người tới dự độ 1 vạn trở lại, ngồi
chen chúc trong một khu đất dưới lùm cây hai bên là núi. Hôm nay nắng
nhiều, ánh mặt trời rọi vào khiến nhiều người phải cầm cành cây vừa che
cho đỡ nắng, vừa để ngụy trang chống máy bay. Nhưng làm thế thì hàng
trước sẽ che lấp hàng sau, không nhìn thấy gì, nên kết cục là phải bỏ
cành lá đi và khi nắng quá thì dồn người sang hai bên…
Hôm nay cũng như hôm trước, chủ tịch
đoàn lại phạm một khuyết điểm là ra lệnh cho quần chúng hễ thấy địa chủ
vào là đả đảo kịch liệt. Một việc làm thừa! Nguyễn Thị Năm và hai con
Hanh, Công cùng đầy tớ là đội Hàm, Chính, Chiêu vào. Quần chúng hô đả
đảo vang dậy và đòi phải đứng lên cao quay mặt tứ phía cho ai nấy đều
trông thấy mặt để đả đảo. Chủ tịch đoàn giới thiệu từng tên với một
tràng lý lịch tư pháp mà không nêu tội ác. Tuy vậy quần chúng cũng chấm
dứt từng đứa bằng một làn sóng đả đảo. Quần chúng ghét nhất là đội Hàm,
vì tội ác đã đành, mà còn vì đôi mắt đầy khiêu khích. Nhiều người hô bắt
nó phải cúi mặt xuống.
Rút kinh nghiệm lần trước, chủ tịch đoàn
tuyên bố đề nghị quần chúng phải giữ vững trật tự và không cần đánh đập
tội nhân hay bắt quỳ, bò. Bọn mẹ con và tay sai địa chủ được ngồi trên
một cái bục dưới gốc cây. Quần chúng lần lượt vào tố, từ loại vấn đề
kinh tế đến chính trị và sau hết là chống chính sách chính phủ và nói
xấu cán bộ. Những người đấu tố hôm nay cũng có một phong độ và một nghệ
thuật khác hôm đấu Tổng Bính. Những tiếng hò hét “Mày có biết tao là ai
không?”, “Mày dựa vào thế lực nào?” kèm theo cái tát để xuống đài không
còn nữa. Những người tố được quần chúng cảm động và tán thưởng nhiều
nhất là bà Sâm, chị Đăng và anh Cò. Bà Sâm, với một giọng gợi cảm, kể lể
vì Thị Năm mà mình phải suốt đời cô độc, có người rơi nước mắt. Nhưng
sự thực, nội dung câu chuyện không có gì. Chị Đăng, một người ở với Thị
Năm lâu ngày, tố lên rất nhiều sự việc bí mật và chi tiết. Nhưng, với
một giọng lưu loát quen thuộc, chị trở nên một tay “tố nghề” và ít làm
cho ai cảm động.
Còn anh Cò, một người thiểu số đã bị
Hoàng Công, con Thị Năm, bắt vì có tài liệu Việt Minh, trước cuộc Cách
mạng tháng Tám, bị tra tấn rất dã man, rồi trốn thoát trước giờ Công
định lấy đầu nộp cho Cung Đình Vận. Bằng một giọng chân thành đến ngây
ngô, anh đã làm cho Công không chối cãi được nửa lời.
…
Cũng có không ít những người nói không
đạt ý, không rõ việc. Bà Minh nói việc chẩn bần tại đồn điền Đồng Bẩm
năm 1945 đã làm bao nhiêu người chết đói, rồi kết luận bằng những câu:
“Mày đừng nhận là chủ đồn điền có được không?”, “Mày chỉ có hình thức
thôi” và “Mày nói nhân nghĩa mà mày không nhân nghĩa gì cả” khiến người
nghe không hiểu tội Thị Năm ở đâu? Sự thực thì hồi ấy dân chết đói nhiều
quá, bọn thống trị Pháp, Nhật muốn che lấp tội ác của chúng, bắt các
chủ đồn điền phải hàng ngày xuất ra một số gạo phát chẩn cho dân. Thị
Năm đã bớt và khai man số gạo này, nghĩa là ăn cắp số gạo mà dân đói
đáng được hưởng để chết đói thêm. Ông Giồng tố cáo Thị Năm đã cướp gánh
cỏ của ông cho ngựa nó ăn và giỏ củ mài làm cho cả nhà nhịn đói. Câu
chuyện của ông đã được một văn nghệ sĩ làm thành một bài thơ tràng thiên
rất cảm động Nhưng hôm nay, ông đã thuật lại một cách nhạt nhẽo. Con
gái ông Giồng, hơn mười tuổi, đáng nhẽ cứ kể rành rọt cảnh đói rét của
nhà mình phải chịu vì sự bóc lột của Thị Năm, nhưng nó lại nói bằng một
giọng “bà cự” nên nhiều người không cảm động, mà lại phát ghét. Chị Lý,
con nuôi của Thị Năm, được Thị Năm trang điểm cho để định gả cho một võ
quan Nhật. Nhưng sau khi biết chị chỉ là thân phận tôi đòi, không có
tiền của gì thì tên Nhật lại không lấy và chị lại bị Thị Năm bắt lột trả
lại quần áo, trở lại thân tàn ma dại như trước. Chị vừa nói vừa khóc.
Nhưng không ai rõ chị nói gì.
…
Tuy vậy, trong đám người tố, vẫn còn sót
lại một ít những phong thái cũ. Câu hỏi “Mày có biết tao là ai không?”
đã được chủ tịch đoàn ngắt đi bằng câu: “Cứ việc tố không cần bắt nó trả
lời”. Một vài cái tát vẫn còn diễn ra. Trong khi tố tên Công, nhiều
người hỏi những câu vô ý thức: “Mày có xứng đáng là cách mạng không?”,
“Mày nói mày là cách mạng mà như thế à?”. Một người ở Phúc Trừu tố cáo
Thị Năm về tội chiếm đoạt ruộng đất khẩn hoang của nông dân và cơi thùng
thóc lên để thu thóc, rồi kết luận “Như thế mày có xứng đáng là địa chủ
không?”. Một người khác tố Thị Năm, đội Hàm và Lý Nguyên Lập bảo an
đoàn ở Phúc Trừu bắt nông dân gác và đánh đập tàn nhẫn, cũng để đi tới
kết luận: “Mày là con chó! Chứ không phải địa chủ?”.
Một tá điền tố Thị Năm lấy ruộng của
mình đương làm bán cho người khác vì mình không có tiền mua, bằng câu:
“Lấy tiền ở mả bố mày mà mua à?”. Nhiều người vẫn gắn vào hai chữ “tiến
bộ”: “Mày nói mày tiến bộ mà như thế à?” Đi xa hơn nữa, có người nói Thị
Năm lập quán Bông Lau ở thị xã Thái Nguyên để đón gián điệp trong khi
ai cũng biết đó là cơ quan sinh lợi của hội Phụ nữ liên hiệp tỉnh Thái
Nguyên.
Về phía quần chúng, thì, khi nghe người
tố không chịu bình tĩnh lắng nghe cho rõ sự việc cũng như luận điệu tố
cáo, cứ việc “đả đảo” bừa đi. Nhiều lúc ầm ĩ quá làm không nghe gì được.
Một người trong chủ tịch đoàn cũng phạm một lỗi quá nặng. Trong khi
quần chúng đòi đem bày ổ thủ phạm ra ngồi ngoài nắng, lại trả lời: “Đem
ra ngoài nắng ngộ nó lăn ra chết thì lấy gì mà tố?”. Đây là lời dặn của
cán bộ với những phần tử cốt cán là không nên đánh đập địa chủ. Nếu lỡ
tay đánh chết nó thì lấy gì mà tố. Hôm nay, vị chủ tịch ngốc nghếch kia
đã theo ý đó nói toạc ra một cách công khai cho địa chủ biết.
Đến lúc đọc bản cáo trạng kết thúc, hội
trường im lặng để lắng nghe trong một bầu không khí trầm nghiêm. Nhưng
một vị chủ tịch đã đọc chữ nọ thành chữ kia. Có câu đọc đi đọc lại. Có
lúc phải ngừng lại để lẩm nhẩm. Rồi mỗi lúc mỗi ngập ngọng thêm. Kết cục
là nửa chừng phải thay người khác. Về việc này, mình hỏi một cán bộ phụ
trách thì được biết là trước khi đọc, bản chữ viết đã chú ý viết rõ
ràng và vị chủ tịch nọ đã đọc đi đọc lại, đảm bảo là đọc được.
… Tính ra suốt ngày hôm nay không được uống nước dưới trời nắng. Trời tối, nhiều lúc lạc đường, về đến cơ quan một cách mệt mỏi.
Nhật ký ngày 31-5-1953
31-5-1953
Sáng sớm, mình xuống xã Dân Chủ cùng hai
người trong tổ kiểm tra để kiểm tra việc thoái tô, thoái tiền công và
chia quả thực. Nằm ở nhà một bần nông, sáng và chiều vùi đầu vào trong
đám giấy tờ của đội công tác để tìm ra vấn đề. Một điều nhận thấy là
giấy tờ lộn xộn quá, vì kém văn hóa và thiếu khoa học. Thiếu đến cả
những hình thức thông thường. Nhiều tài liệu phải vừa đọc vừa hỏi mới
biết rõ sự việc. Trong khoản nông dân bắt địa chủ và phú nông bồi thường
có cả khoản trâu bò phá hoại hoa màu từ mấy năm trước. Đến cả bần, cô
nông với trung nông cũng thanh toán cả món nợ từ năm nảo năm nào. Có anh
cố nông năm nay 39 tuổi khai bị một địa chủ quỵt công ở 25 năm, sau đem
bình nghị phải giảm xuống 15 năm. Sau cùng là 9 năm. Có người đòi công ở
2 năm tới 86 nồi thóc (mỗi nồi 22 cân) trong khi công ở mỗi người nhiều
nhất trong một năm chỉ có 20 nồi. Hơn nữa có anh bần nông bắt đến địa
chủ bắn chết một con lợn 15 cân từ năm 1935 là 8 nồi thóc. Nếu tính theo
giá hiện thời: 300 đồng bạc ngân hàng một cân thóc thì con lợn 15 cân
ấy (kể cả lòng lẫn cứt), giá bồi thường mỗi cân tới 3.520 đồng, trong
khi thời giá chỉ có 2.700 đồng. Ấy là chưa kể con lợn hồi ấy, địa chủ,
người bắn chết, có ăn thịt không hay con lợn vẫn về nhà có lợn. Đại để
những việc như thế đã nói rõ sự lạm quyền thế mới lên và sự tham lam
trắng trợn của một số bần, cố nông chưa được giáo dục.
Buổi tối, mình dự một tổ nông hội bàn về
mấy nguyên tắc chia ruộng công. Trong gian nhà bức, nóng, người đến dự
vừa đau mắt, vừa buồn ngủ, mỏi mệt, uể oải sau một ngày làm việc dưới
nắng hè để sáng mai lại phải dậy sớm đi làm. Trong khi ấy, chủ tọa buổi
họp là một cố nông không biết điều khiển gọn ghẽ, cứ hỏi đi hỏi lại, bắt
mọi người đều phải phát biểu ý kiến. Có nhiều vấn đề trở đi trở lại
mãi. Thêm vào đấy, mấy phần tử cốt cán cứ nói theo giọng cán bộ, tuôn
một tràng dài những lý luận và danh từ không cần thiết. Rồi, sau đó,
cũng làm đủ mọi phương thức: phê bình hội nghị, duyệt y biên bản, kéo
tới 11 giờ khuya.
Nguồn: Trần Huy Liệu – Cõi người. Tác giả: Trần Chiến. Nhà xuất bản Kim Đồng, 2009
NGUYỄN QUANG THẠCH *THẢM SỬ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
Thảm sử Cải Cách Ruộng Đất, của chiến tranh Nam Bắc và hành động của chúng ta
Nguyễn Quang Thạch /Theo FB Nguyễn Quang Thạch
Cũng như nhiều đứa trẻ sinh ra ở Miền Bắc và Trung từ vĩ tuyến 17 trở
ra, tôi được kể rất nhiều về cải cách ruộng đất từ lúc 4 tuổi, mà tôi
là một nạn nhân gián tiếp.
Gia đình ông nội, bà nội, ông ngoại và bà ngoại tôi đều bị rất nặng
trong cải cách ruộng đất, với hàng chục người chết và bị tù đày, hàng
chục người bị cái án LÝ LỊCH mà cuộc đời rơi vào cảnh cùng cực.
Ông nội tôi, người đã có hai người con trai tham gia chống Pháp, nuôi
cả cán bộ 30-31 và góp lúa gạo cho bộ đội, đã bị chết năm 1956 vì đói
khát. Em ông nội tôi, người đã bán ruộng đất làm trường cho 3 xã học, bị
tù mất xác ở trại Đâng, Hương Khê. Khoảng 80 mẫu ruộng, 6 căn nhà, hơn
100 con trâu bò đã bị tước đoạt.
Ông nội tôi là người đã đưa ra mô hình giúp tá điền phát triển bền
vững bằng cách chia ruộng cho họ, cho họ nuôi trâu bò làm công cụ lao
động. Nông dân cả 3 xã được mượn trâu bò của ông nội làm ruộng miễn phí.
Bà nội của nhà văn Nguyễn Quang Thân thắt cổ tự tử. Mẹ của nhà văn
Nguyễn Quang Thân là người lấy vàng bạc của mình và đi quyên góp trong
dòng họ tôi và dòng họ của bà để góp tiền cho cách mạng trong những năm
1940 đã bị vào tù CCRĐ.
Lý Chính Thắng (Nguyễn Văn Huỳnh) là cán bộ cách mạng, được đặt tên
đường ở Sài Gòn, là anh em với ông nội tôi, có mẹ là chị của Hà Huy Giáp
(cán bộ cao cấp) bị chết thảm trong CCRĐ.
Em dâu bà nội tôi bị bắn chết trong khi chồng chỉ là ông đốc học,
không có mấy tài sản. Thậm chí, một người họ hàng của bà nội tôi, là
nông dân chỉ vì cày ruộng của ông nội tôi mà đã bị tù mất xác.
Ông ngoại tôi là cán bộ 30-31, vừa dạy học vừa hoạt động vừa nuôi bộ
đội, nhưng bà ngoại tôi đã bị lấy hết tài sản (ông ngoại mất năm 1951),
một em ông ngoại là cán bộ trung ương nhưng một ông khác bị bắn. Mẹ ông
ngoại tôi sầu khổ mà chết.
Danh sách người bị hại có huyết thống với nhà tôi còn rất nhiều, tệ
hại hơn là rất nhiều người bị án LÝ LỊCH sau đó, thật kinh khủng.
Di họa của cải cách ruộng đất ở làng tôi là những người có tinh thần
khát vọng dân tộc đã bị tiêu diệt hết. Những người đã truyền tinh thần
“học và hành để nhón chân bên ni hình chữ S thấy bên tê là nước Mỹ” bằng
đưa những thầy Tây học về dạy cho bọn trẻ trong dòng họ và xóm làng,
bằng xây trường học… bị diệt không còn ai. Kinh khủng hơn là làm cho
dòng tộc, cho xóm làng tận diệt lẫn nhau, xa hơn nữa Cải cách ruộng đất
đã tạo ra một vết đứt gãy đạo đức và tạo ra mầm bạo lực trong xã hội
Việt Nam cho đến ngày hôm nay.
Bởi vậy, việc tổ chức triển lãm CCRĐ mà nhằm mục đích ngụy biện cho
sai trái trong quá khứ là khoét vào NỖI ĐAU CỦA DÂN TỘC. Ngược lại,
triển lãm CCRĐ là nhằm tái thừa nhận sai lầm và điều chỉnh chính sách
đất đai để giảm dần bất công và xung đột giữa chính quyền và người dân
là việc ĐÁNG HOAN NGHÊNH.
Tôi cũng mong rằng triển lãm CCRĐ không được dùng để đào bới quá khứ
và kích động thù hận giữa con cháu địa chủ bị hại và những người tham
gia cuộc cách mạng long trời lở đất vì tất cả đều là nạn nhân của những
bàn tay chính trị đã khuất núi.
Hơn bao giờ hết, người Việt Nam cần khép lại những quá khứ đau buồn
để nắm tay nhau xây dựng đất nước này bằng chia sẻ tri thức và phát xạ
lòng nhân ái vì một Việt Nam giàu mạnh và văn minh. Bởi, chỉ có hành
động hiện tại mới có thể thay đổi tương lai của đất nước!!!
"Trong các chiến dịch cải cách ruộng đất và cải tạo công
thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có công với
cách mạng đã bị đối xử không còn như bạn bè, gây những tổn thất lớn về
chính trị và kinh tế.
Tư tưởng thành phần chủ nghĩa đã dẫn tới hai kết quả: Làm mất đi nhiều tài năng của một bộ phận đáng kể trong dân tộc, đồng thời đưa một cách gượng ép những nhân tố tuy rất cơ bản về chính trị nhưng lại không đủ chất lượng trong quản lý và xây dựng."
HOÀNG VĂN HÙNG* CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
Ba tôi và cải cách ruộng đất
Hoàng Văn Hùng/VNTB
Năm 1955, khi quê tôi quay cuồng trong Cải cách ruộng đất, ba tôi
mới 25 tuổi. Năm tôi 25 tuổi thì ông đã nghỉ hưu. Nhiều lúc cùng ngồi
với ông nghe ông ôn lại chuyện xưa. Ông nói, khi nghĩ về quê hương, điều
làm ông đau đớn nhất, đau cho đến ngày nay là Cải cách ruộng đất.
Tôi xin thuật lại sơ lược cho các bạn nghe những gì ba tôi - người chứng
kiến tận mắt cái công cuộc “long trời lở đất” hồi đó - nói về nó ra
sao. Những điều này hoàn toàn là sự thật , rất điển hình, ở một cái làng
nghèo - lúa nước toàn phần, nhưng giàu “truyền thống cách mạng”. Trong
cuộc “phỏng vấn” giữa hai cha con, tôi là người hỏi, ba tôi là người trả
lời.
….
- Có cuộc cách mạng nào không có chết chóc, hy sinh đâu ba?
- Đúng. Nhưng đây không phải là cuộc cách mạng, mà nói trắng là một cuộc thanh trừng giai cấp tàn độc, mù quáng. Một cuộc xâu xé cướp bóc, giết người dựa vào kích động hận thù, kiểu Mao-ít.
- Thời đó, ba có nghĩ thế không?
- Không. Con không thể hiểu được cảm giác của một anh nông dân nghèo khi được tuyên truyền bằng khẩu hiệu “độc lập dân tộc” và “người cày có ruộng” đâu. Với dân mới khỏi vòng nô lệ, cái đó nó to lớn lắm, như trời nổ sấm rền vậy. Năm 1945 ba chỉ là một cậu nhóc, cũng hăng hái theo anh em vác dao quắm đi “lấy huyện”. Không khí lúc đó như có điện, nông dân từ bùn đen bật dậy làm người, không ai nghi ngờ mảy may vào Việt Minh. Bảo đi là đi, bảo phá là phá, bảo giết là giết. Cái không khí đó được bê nguyên xi vào Cải cách ruộng đất, lại được làm đậm thêm nhờ cái lợi ích “có ruộng” ngay trước mắt.
- Có cuộc cách mạng nào không có chết chóc, hy sinh đâu ba?
- Đúng. Nhưng đây không phải là cuộc cách mạng, mà nói trắng là một cuộc thanh trừng giai cấp tàn độc, mù quáng. Một cuộc xâu xé cướp bóc, giết người dựa vào kích động hận thù, kiểu Mao-ít.
- Thời đó, ba có nghĩ thế không?
- Không. Con không thể hiểu được cảm giác của một anh nông dân nghèo khi được tuyên truyền bằng khẩu hiệu “độc lập dân tộc” và “người cày có ruộng” đâu. Với dân mới khỏi vòng nô lệ, cái đó nó to lớn lắm, như trời nổ sấm rền vậy. Năm 1945 ba chỉ là một cậu nhóc, cũng hăng hái theo anh em vác dao quắm đi “lấy huyện”. Không khí lúc đó như có điện, nông dân từ bùn đen bật dậy làm người, không ai nghi ngờ mảy may vào Việt Minh. Bảo đi là đi, bảo phá là phá, bảo giết là giết. Cái không khí đó được bê nguyên xi vào Cải cách ruộng đất, lại được làm đậm thêm nhờ cái lợi ích “có ruộng” ngay trước mắt.
- Nhưng con thấy bà con ta ở quê cực hiền lành, tối lửa tắt đèn có nhau, giàu nghèo cũng chẳng so đo gì nhiều lắm. Mà mối liên hệ họ hàng thân thích đều đan xen hết cả. Sao có thể đấu tố giết hại nhau ghê thế?
- Vậy con nghĩ thế nào về bọn lính áo đen Pôn Pốt khi chúng nó cầm cuốc đập đầu hàng triệu đồng bào của chúng? Chúng có phải sinh ra đã là ác thú đâu.
- Thú thực là con không thể hiểu được. Có lẽ nó liên quan đến cái mớ kiến thức “Chủ nghĩa xã hội khoa học” ở trường con, toàn những “quy luật” vớ vẩn!
- Cũng một nguồn mà ra, nhưng hồi đó người ta chưa cần phải thuyết giáo dài dòng. Đầu tiên trung ương mở lớp huấn luyện cấp tốc cho các đội cải cách, rồi đưa họ về “ba cùng” với bần cố nông, huấn luyện rồi phong làm “cốt cán” cho những người được chọn. Trong đó có cả những kẻ lưu manh. Những con người tội nghiệp này từ hạng “Chí Phèo” bỗng chốc một bước lên “cán bộ”. Được nhồi sọ về “Cách mạng Vô sản” và “Chiến tranh giai cấp” bằng ngôn ngữ và cách suy diễn bình dân. Được “mở mắt để thấy những điều “bất công” trong các mối quan hệ mà xưa nay họ vẫn cho là bình thường. Lúc này, những mối thâm tình làng xóm cũ chẳng còn là gì so với “mối thù giai cấp” to như trái núi. Sự giàu có tự nhiên trở thành tội ác. Bất cứ ai, kể cả cha mẹ họ hàng thân thích cũng đều có thể là “kẻ thù giai cấp” cần phải tiêu diệt để bước vào xã hội mới. Họ sẵn sàng làm tất cả những gì được chỉ bảo. Càng hung ác, họ càng “hoàn thành nhiệm vụ” trên giao, càng được khen thưởng và càng hăng máu lên. Đấu tố, tuyên án và giết chóc ngày càng khủng khiếp. Một xã chỉ hơn 300 nóc nhà như xã ta mà có đến 17 người bị xử bắn. Tang tóc đau thương bị đè nén trong cơn điên “đào tận gốc, trốc tận rễ địa chủ cường hào”. Nghĩ lại, không ai ở làng ta đáng chết cả. Đến “đại địa chủ” như ông Đinh Cẩn, cũng do nếp nhà chăm chỉ, tích cóp hàng mấy đời mà có. Ông lại nổi tiếng thương người, đối xử tốt đặc biệt với kẻ ăn người làm. Thế mà khi đấu tố, một bầy mấy chục bần cố nông nhao nhao hò hét chửi bới, kể tội đủ điều, ném đủ thứ vào ông ấy. Thậm chí có kẻ từng ban đêm trộm gà nhà ông ấy bị chó đuổi, nay vừa khóc vừa hét: “mày xuỵt chó rượt tao, cắn tao rách tơi tả, sao mày ác thế!!!”. Kiểu tuyên truyền kích động nó biến những kẻ ngu muội trở nên điên khùng, cộng thêm tâm lý bầy đàn hùa nhau, họ sẵn sàng giết cả ân nhân của mình, nhân danh những khái niệm to lớn mà đến chết chưa chắc họ hiểu được.
- Giàu có như nhà Đặng Oánh, Đinh Cẩn đã đành. Ông nội con chỉ có vài con lợn, một con trâu sao bị quy địa chủ, bị giam đánh cả tháng trời, đến nỗi bà nội lo phát bệnh mà chết?
- Họ có tiêu chuẩn cả rồi con ơi. Cố vấn Trung Quốc đi tới tận từng đội, hướng dẫn từng đường đi nước bước. Họ phán thôn này có bao nhiêu phần trăm địa chủ là phải moi ra đủ chừng ấy, chưa đủ thì đôn lên cho đủ, gọi là “kích thành phần” đấy. Xã ta có ông Đinh Cẩn giàu nhất, thì cũng chỉ sáu mẫu ruộng với dăm con trâu. Những nhà khác như ông nội con thì nhiều, cũng coi là xã giàu. Lập tức họ đòi quy cho bằng được 7% địa chủ. Ông nội con thoát chết có lẽ vì đã từng vào Liên Việt, hoặc do ông trẻ của con lúc đó làm “Cốt cán” thôi.
- Một đời ba theo Đảng, lại là giáo sư Triết học, bây giờ ba dự đoán cái chế độ này sẽ như thế nào, sẽ đi về đâu?
Ba tôi im lặng nhắm mắt, khe khẽ lắc mái đầu đốm bạc.
Đó mới là những năm 90, khi hệ thống Liên Xô bắt đầu sụp đổ cùng với giấc mơ Xã hội chủ nghĩa. Và “Trí tuệ vĩ đại” nhà ta đã vội vàng sang Thành Đô để tìm một vòng tay mới.
Cho đến lúc qua đời, những gì ba tôi nói về thời cuộc chỉ xoay quanh lập luận “vận số dân tộc nó phải vậy thôi…”. Cái lập luận chua xót và miễn cưỡng như danh phận cuộc đời ông. Tất cả nỗ lực, gian khổ, máu xương, vinh quang, lợi lộc…của ông đều đã an bài theo chế độ, gắn chặt với nó. Dẫu nó có là Thiên đường Mù như tác phẩm của nữ văn sỹ Dương Thu Hương, cũng xong một kiếp người.
Bài viết thể hiện quan điểm và văn phong riêng của tác giả.
http://bolapquechoa.blogspot.ca/
NGUYỄN LỘC YÊN * CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT BẤT NHÂN
Cải cách ruộng đất, bất nhân và sai lầm
Nguyễn Lộc Yên (Danlambao) - Hiện
tình đất nước Việt Nam đang gặp khó khăn chồng chất, giặc Bắc luôn rình
rập lấn chiếm đất đai biển đảo, đồng bào trong nước thì băn khoăn bởi
đời sống cơ cực nhục nhằn do độc đảng độc tài gây ra. Do đó, tội ác CSVN
thảm sát đồng bào Huế vào tết Mậu Thân và giết hại đày đọa đồng bào khi
cải cách ruộng đất (CCRĐ) vào thập niên 1950, tạm thời không nhắc đến.
Cớ sao, vào ngày 8-9-2014, cộng sản lại lừa lọc rồi cho triển lãm hình
ảnh và tài liệu về CCRĐ?! Trong bài viết này, tôi không bình luận hành
động dã man về CCRĐ, mà xin được trình bày diễn tiến về CCRĐ, để bà con
thấy rõ ràng hơn về hành động bất nhân và sai lầm của Hồ Chí Minh và
đảng cộng sản.
I- Vì sao xảy ra hiện tượng CCRĐ?!
Vì cái “Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”
(VNDCCH), muốn rập theo mô hình cải cách ruộng đất của Tàu cộng đã làm
tại nước Tàu vào các năm 1946-1949. Ngoài ra còn tuân thủ: Bản Tuyên
ngôn (Manifesto) của Đảng Cộng sản Quốc tế, mà Karl Marx đã tuyên bố: “cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc”.
Cải cách ruộng đất ở miền Bắc còn mục đích là đấu tranh giai cấp triệt
để. Hồ Chí Minh (HCM) luôn chủ trương rập theo khuôn Tàu cộng về mọi
mặt, như: Giáo dục, sản xuất, kinh tế, kỹ nghệ. Đặc biệt CCRĐ có sự chỉ
đạo trực tiếp bởi các cán bộ Tàu.
Họ Hồ còn viết cuốn “Những kinh nghiệm quí báu Trung Quốc nên học”,
dưới bút hiệu Trần Lực, do nhà xuất bản Sự Thật, Hà nội, xuất bản năm
1950, để cán bộ dùng làm tài liệu học tập. Việc “Cải cách ruộng đất”
này, có khoảng 172.000 người, bị quy chụp là thành phần địa chủ và phú
nông, họ bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị “đào tận gốc, trốc tận
rễ” bị hạ sát tại chỗ hoặc bị án tù để chết dần trong ngục. Trong số
người bị đấu tố này, có cả những đảng viên Cộng sản trung kiên, thế mà
oái oăm thay trước khi đảng viên bị giết, phải hô to khẩu hiệu, “đảng
Cộng sản muôn năm”. Nếu người bị đấu tố là người của Quốc Dân Đảng hay
đảng phái Quốc gia thì có thể bị bắn tại chỗ.
Ngày 4-12-1953, cái gọi là quốc hội lại nhất trí thông qua luật CCRĐ ở
miền Bắc, chính Hồ Chí Minh làm chủ tịch nước đã ký sắc lệnh ban hành
luật; từ đó bắt đầu thi hành các đợt cải cách ruộng đất.
II- Thành lập Ủy Ban Cải cách ruộng đất
Trường Chinh tức Đặng Xuân Khu là Tổng bí thư đảng Lao Động làm chủ
tịch, với 3 người phụ tá, 1 người uỷ viên Trung ương đảng là Hồ Viết
Thắng; 2 người kia uỷ viên Bộ chính Trị, là: Hoàng Quốc Việt, Lê Văn
Lương. Hồ Viết Thắng đã từng đi học bên Tàu, nên Trường Chinh giao nhiệm
vụ mở “Trung tâm đào tạo cán bộ cải cách ruộng đất” tại chiến khu Cao
Bằng, Lạng Sơn. Hồ Viết Thắng giữ chức giám đốc, trực tiếp điều hành
cuộc cải cách ruộng đất, theo mệnh lệnh của Trường Chinh.
Cộng sản thiết lập “tòa án nhân dân” để xét xử những người bị gọi là tội
phạm trong cuộc CCRĐ. Chánh án là một đội viên trong đội CCRĐ, biện lý
tức công tố là nông dân hay bần nông mà trước kia họ là tá điền, đã từng
làm việc trong nhà của bị cáo, nên biết rõ lý lịch khổ chủ. Các quan
tòa nầy là những kẻ dốt nát, nay bỗng chốc được cho lên địa vị quan tòa,
nên có dịp hạch sách trả thù. Moi móc, bịa đặt mọi thứ gọi là thói hư
tật xấu của khổ chủ. Cái gọi là “tòa án nhân dân”, không có người đóng
vai trò luật sư biện hộ, và cũng chẳng có ai dám biện hộ cho bị cáo.
Công an bảo vệ tòa án và những người tham dự phiên tòa gian dối của cộng
sản là những người do họ sắp đặt trước, hò hét la ó đóng vai “công tố”,
bằng cách chửi rủa hoặc bịa đặt tố cáo bừa bãi thêm những “tội ác” của
các nạn nhân để buộc tội.
III- Thành phần nào bị đem ra đấu tố?!
Đường lối đấu tranh CCRĐ là khuyến khích bần cố nông, lôi kéo thành phần trung nông, cô lập phú nông, và tập trung mũi nhọn vào địa chủ. Theo sắc lệnh của VNDCCH vào năm 1953, đã ấn định các thành phần về nông nghiệp ở nông thôn được chia ra:
Đường lối đấu tranh CCRĐ là khuyến khích bần cố nông, lôi kéo thành phần trung nông, cô lập phú nông, và tập trung mũi nhọn vào địa chủ. Theo sắc lệnh của VNDCCH vào năm 1953, đã ấn định các thành phần về nông nghiệp ở nông thôn được chia ra:
a- Địa chủ: Thuộc thành phần có nhiều ruộng đất, mà họ
không trực tiếp canh tác. Cộng sản chia địa chủ ra làm 3 hạng: Địa chủ
thường, là người có dưới 5 mẫu ta, đủ ăn, “không phạm tội ác ôn” dưới
thời Pháp thuộc. Địa chủ cường hào ác bá là những người bị quy tội hiếp
đáp ngược đãi bần nông và bần cố nông. Địa chủ phản động là loại quan
lại phong kiến, Việt Quốc, Đại Việt, hay thân Pháp.
b- Phú nông: Thuộc thành phần có 3 mẫu ta đất, có một con trâu, tự canh tác và thuê nông dân giúp trong việc canh tác.
c- Trung nông: Thuộc thành phần có dưới 3 mẫu ta, trực
tiếp canh tác, đủ sống. Trung nông chia thành 2 loại: Trung nông cấp cao
là người có 3 mẫu ta ruộng và có một con trâu hay bò. Trung nông cấp
thấp là người có dưới 1 mẫu ta ruộng.
d- Bần nông: Có ít sào đất, không đủ sống, phải đi làm
thuê cho địa chủ hay thuê đất của địa chủ rồi trả địa tô; địa tô còn gọi
là tô, tức là nông dân (tá điền) trả tiền hay hoa màu (lúa), cho điền
chủ (chủ đất).
e- Bần cố nông: Hoàn toàn không có đất, không có gia súc, không có nông cụ, làm thuê đủ thứ nghề để sống.
IV- Việc thảm sát bà Nguyễn Thị Năm
Bà Nguyễn Thị Năm còn gọi là bà Cát Thanh Long; bà là người mà trước cái
gọi là “cách mạng” của Việt Minh còn trong trứng nước, đã từng che
giấu, nuôi ăn, giúp đỡ các cán bộ cộng sản cao cấp như Trường Chinh,
Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt... Trong thời kỳ gọi là “Tuần
lễ vàng”, của cái chính phủ VNDCCH, gia đình bà đã dâng nộp 100 lượng
vàng. Bà có hai người con trai là Nguyễn Công làm chính uỷ trung đoàn và
Nguyễn Hanh là đại đội phó bộ đội thông tin, theo Việt Minh từ trước
1945. Thế mà, cộng sản đã quy tội bà là địa chủ, cường hào gian ác và bị
đoàn cải cách ruộng đất xử án tử hình. Ủy ban cải cách ruộng đất trung
ương do Trường Chinh cầm đầu đã xét duyệt và bộ chính trị trong đó có Hồ
Chí Minh đã lạnh lùng chuẩn y án tử hình này. Phát súng đầu tiên về
“cải cách ruộng đất” đã nổ vào đầu một người phụ nữ, bà đã lầm giúp đỡ
những người cộng sản vong ơn, khát máu! Phát súng đó báo hiệu tâm địa
của những lãnh tụ Cộng sản, sẽ là một tai họa khủng khiếp cho toàn dân ở
miền Bắc lúc bấy giờ.
V- Cách tính “thuế nông nghiệp” của CSVN
Giả sử nông dân thu được 1.000 kg lúa. Thuế nông nghiệp sẽ lấy 45% là 450 kg. Lúa còn lại là 550 kg, nông dân bị trừ 15% thuế phụ thu là 82,5 kg nữa. Như vậy, khi nông dân thu hoạch được 1.000 kg lúa, phải nộp thuế là 532, 5 kg (450+82,5). Nếu chủ ruộng không trực tiếp canh tác, còn phải nộp thêm 25% phụ thu nữa!. Thế mà Tố Hữu, kẻ làm thơ theo ý đảng, còn cổ vũ chiến dịch CCRĐ thật ác độc, hắn được thưởng huy chương Sao vàng Hồ Chí Minh:
Giả sử nông dân thu được 1.000 kg lúa. Thuế nông nghiệp sẽ lấy 45% là 450 kg. Lúa còn lại là 550 kg, nông dân bị trừ 15% thuế phụ thu là 82,5 kg nữa. Như vậy, khi nông dân thu hoạch được 1.000 kg lúa, phải nộp thuế là 532, 5 kg (450+82,5). Nếu chủ ruộng không trực tiếp canh tác, còn phải nộp thêm 25% phụ thu nữa!. Thế mà Tố Hữu, kẻ làm thơ theo ý đảng, còn cổ vũ chiến dịch CCRĐ thật ác độc, hắn được thưởng huy chương Sao vàng Hồ Chí Minh:
“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt”?!.
VI- Chiến dịch phản phong của CSVN
Song song việc thu thuế nông nghiệp, trong giai đoạn từ năm 1950-1956,
đảng CSVN còn có chiến dịch phản phong, nghĩa là triệt hạ và tịch thu
toàn bộ tài sản của địa chủ, đem chia cho bần cố nông. Sau phản phong là
bài trừ tư sản, mục tiêu quét sạch tư bản Tây phương. Đến năm 1959, Hồ
Chí Minh hô hào bài trừ tiểu tư sản, mọi hình thức sản xuất cá thể đều
dẹp bỏ, đưa vào hợp tác xã một cách triệt để. Bần cố nông vừa nhận ruộng
đất do CCRĐ cấp phát, nay lại phải đem nộp cho Hợp tác xã. Cộng sản còn
đặt ra “Đấu tranh chính trị” nhằm thủ tiêu tất cả phần tử bị họ xem là
“phản động”, nếu ai còn chống lại cộng sản thì bị giết, hoặc phải trốn
nơi khác mới mong sống sót. Thành phần lưng chừng, cũng bị ghép vào phản
động. Nhân dân bị đày đoạ và bị hãm hại. Thế đấy, mà Xuân Diệu còn tàn
nhẫn với những câu thơ độc địa:
“Địa hào, đối lập ra tro
Lưng chừng, phản động đến giờ tan xương
Thắp đuốc cho sáng khắp đường,
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quì gục xuống, đọa đày chết thôi”
VII- Cải cách ruộng đất sai lầm trầm trọng
Sau khi ký Hiệp định Genève năm 1954, dân chúng bỏ chạy vào Nam, Hồ Chí
Minh bắt đầu hoảng hốt, đến năm 1956, ông ta và đảng Lao động mới nhận
thấy “Cải cách ruộng đất là sai lầm”. Khi xét lại để sửa sai, thì có tới
71,66% tức là 123.266 người bị chụp mũ là địa chủ và phú nông, mà thực
tế họ chỉ là trung nông hay bị vu khống, đã bị Hồ Chí Minh và đàn em sát
hại tại chỗ hay giam cầm chết lần chết mòn!. Việc CCRĐ gây nên thảm
cảnh hãi hùng, Hồ Chí Minh hoảng hốt lo ngại nhân dân bất mãn, nên dùng
nước mắt cá sấu để an ủi gia đình nạn nhân một cách muộn màng!
Để kết luận việc CCRĐ sai lầm gây nên trọng tội khó tha thứ, người viết
xin mượn lời phát biểu của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã đọc diễn văn vào
ngày 30 tháng 10 năm 1956, trước cái gọi là Mặt Trận Tổ Quốc tại Hà Nội
về việc CCRĐ, rất thành khẩn và ray rức, như sau:
“Qua cuộc Cải cách Ruộng đất ta thấy bao nhiêu các chiến sĩ cách mạng thành tích lừng lẫy, có người ngực gắn tới hai huy chương kháng chiến, mà bị kết án là phản động, cường hào gian ác và sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành hình... Trong cuộc kháng chiến anh dũng của ta, những đồng bào đã hy sinh, có thể nói được chết với trong lòng chan chứa nỗi vui sướng vì chết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nanh vuốt của địch. Họ chết vì địch, cho ta, đó là cái chết tích cực, cái chết vẻ vang, cái chết oanh liệt mà Tổ quốc ghi nhớ muôn thuở. Trái lại, các người chết oan vì các sai lầm trong cuộc CCRĐ này, lúc tắt thở cay đắng đau xót vì chết với một ô danh. Chúng ta đã xoá bỏ cái ô danh đó, nhưng con cháu của các nạn nhân tài nào mà không ngậm ngùi? Đau đớn hơn, bây giờ ta làm thế nào mà biến cái khổ cực của người tắt thở thành một niềm an ủi cho họ được?!”.
“Qua cuộc Cải cách Ruộng đất ta thấy bao nhiêu các chiến sĩ cách mạng thành tích lừng lẫy, có người ngực gắn tới hai huy chương kháng chiến, mà bị kết án là phản động, cường hào gian ác và sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành hình... Trong cuộc kháng chiến anh dũng của ta, những đồng bào đã hy sinh, có thể nói được chết với trong lòng chan chứa nỗi vui sướng vì chết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nanh vuốt của địch. Họ chết vì địch, cho ta, đó là cái chết tích cực, cái chết vẻ vang, cái chết oanh liệt mà Tổ quốc ghi nhớ muôn thuở. Trái lại, các người chết oan vì các sai lầm trong cuộc CCRĐ này, lúc tắt thở cay đắng đau xót vì chết với một ô danh. Chúng ta đã xoá bỏ cái ô danh đó, nhưng con cháu của các nạn nhân tài nào mà không ngậm ngùi? Đau đớn hơn, bây giờ ta làm thế nào mà biến cái khổ cực của người tắt thở thành một niềm an ủi cho họ được?!”.
Ngày 12 tháng 9 năm 2014
TRẦN MẠNH HẢO * CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT TÀN ÁC
Cải cách ruộng đất: tội ác vượt chỉ tiêu trên giao
- Kính thưa các bác đội, con xin đấu tố bố con là bố Hiền ạ!
- Không được gọi bố, vì nó là giai cấp bóc lột, em phải gọi nó bằng thằng!
- Dạ em đấu tố thằng bố em ạ!
- Không, nó không còn là bố em nữa, em là con của đảng, nó là thằng đối kháng giai cấp, đả đảo tên địa chủ Hiền...
- Tội nó ác hơn nhiều, em không đấu tố nó thì nó sẽ bị xử bắn.
- Thằng địa chủ Hiền gian ác đã giết cả làng ta, đả đảo!
*
*
Hiện nay, nhà nước cộng sản Việt Nam đang cho mở triển lãm về cải cách
ruộng đất (1947-1957) nhằm tuyên truyền sai sự thật về cuộc cải cách vô
cùng tàn bạo này, khoác lên mình toàn máu của nó những đóa hoa của nhân
bản và thắng lợi; rằng cải cách đã chia ruộng cho dân nghèo. Để hai năm
sau, năm 1958, phong trào hợp tác hóa sản xuất nông nghiệp đã cướp hết
ruộng đất, trâu bò, cày cuốc... của nông dân nghèo vừa được chia ruộng,
gom vào trong tay một tên đại địa chủ khét tiếng khác có tên là nhà
nước.
Riêng việc ông Hồ Chí Minh đã ký quyết định đấu tố và xử bắn bà địa chủ
yêu nước, tham gia kháng chiến, có công lớn với dân tộc đất nước là bà
Cát Hanh Long (tức bà Nguyễn Thị Năm) đã nói lên bản chất phi nghĩa của
cuộc cải cách ruộng đất. Thử tưởng tượng nếu không có sự đóng góp vô
cùng to lớn của hàng chục vạn địa chủ trong kháng chiến chống Pháp thì
thử hỏi Việt Minh của ông Hồ Chí Minh lấy đâu ra thóc gạo để nuôi ngót
một triệu bộ đội cùng dân quân và bộ máy khổng lồ chỉ đạo cuộc kháng
chiến? Thế mà, thay vì trả công cho tầng lớp địa chủ kháng chiến yêu
nước này, các ông lại ký lệnh bắt nhốt hàng vạn địa chủ yêu nước lại,
rồi đấu tố họ tàn bạo và bắn giết họ không thương tiếc mà còn dám huênh
hoang khoe khoang rằng cải cách ruộng đất tốt đẹp lắm thì còn giời đất
gì nữa?
Quê tôi làng Bình Hải, năm ấy có tên là xã Thúc Kháng, huyện Nghĩa Hưng,
tỉnh Nam Định được trên ưu ái cho long trời lở đất làm cuộc cải cách
ruộng đất vào đông xuân 1956-1957 khi tôi đã 10 tuổi; nên tôi đã là
chứng nhân, là một thành viên trong cuộc cải cách đầy máu và nước mắt
này.
Như có lần tôi đã kể, tôi có hai ông nội. Một ông nội nuôi bố tôi từ thơ
bé, theo đạo Thiên Chúa, đã dựng vợ gả chồng cho bố tôi, rồi năm 1954
di cư vào Nam nên ông nội họ Trần của tôi và các cô chú tôi thoát khỏi
tai nạn cải cách ruộng đất. Ông nội sinh ra bố tôi họ Phạm, theo đạo
Phật, gia đình nuôi cán bộ trong kháng chiến nên không bị quy lên địa
chủ, chỉ phải nhục nhã kiểm thảo trước nhân dân vì tội có học, biết chữ
Hán và chữ quốc ngữ, nhà có nhiều sách, để cho ông em ruột có chữ, được
vua ban cho chức quan thấp nhất là cửu phẩm. Chính ra ông nội họ Phạm
của tôi đã bị xử bắn vì bị quy lên hàng trí thức, nhưng vì có quý nhân
là quan lớn cải cách che đỡ nên cho thôi. Chỉ có một ông em ruột, em út
của ông nội họ Phạm của tôi là cụ sư Niên (Phạm Văn Niên) là sư cụ trụ
trì một ngôi chùa to trong huyện bị quy lên địa chủ và bị đội cải cách
lệnh cho phá chùa. Trước ngày bị đấu tố, biết chắc chắn sẽ bị chúng xử
bắn, cụ sư Niên đã treo cổ chết phản đối chính quyền đã vu oan giá họa
cho sư cụ nhằm phá chùa.
Bố tôi bị quy lên địa chủ, bị trói nhốt chuồng trâu chờ ngày đấu tố. Tôi
đã chứng kiến Tây đi càn quét nhưng không khí làng tôi những ngày cải
cách đấu tố bắn bỏ địa chủ còn kinh khủng hơn nhiều đầu năm 1954 quân
Pháp càn quét tìm Việt Minh. Cùng với các ông đội bà đội trên cử xuống,
hai ông Chi và Bính (hai anh em ruột) trước kia làm nghề ăn trộm giờ là
cốt cán trong cuộc đấu tố, đêm đêm đi vận động người tố điêu địa chủ:
rằng vợ phải đấu tố chồng, con phải đấu tố cha mẹ, anh em phải đấu tố
nhau, con dâu phải tố bố chồng hãm hiếp mình, phật tử nữ phải đấu tố nhà
sư, vu cho sư cưỡng hiếp mình thì mới dễ xử bắn sư...
Bọn thiếu nhi thiếu niên chúng tôi con địa chủ cũng được hai ông Chi,
Bính quán triệt trước, rằng các cháu chịu khó đấu tố bố mình đi thì bố
mới được thả về, bằng không đội bắn bỏ đừng khóc... Tin vào hai ông thần
đấu tố ở làng và các ông bà đội, mấy đứa con địa chủ chúng tôi chấp
nhận đấu tố bố mình trước đội thiêu nhi thiếu niên theo kịch bản tố điêu
của cấp trên để hòng cứu bố khỏi bị bắn. Để việc đấu tố bố tôi sáng mai
tốt đẹp theo ý ông đội, họ tổ chức cho các con địa chủ đấu tố bố mình
tối hôm trước. Đến lượt mình, tôi run bắn ấp úng thưa:
- Kính thưa các bác đội, con xin đấu tố bố con là bố Hiền ạ!
Ông đội hét: Không được gọi bố, vì nó là giai cấp bóc lột, em phải gọi nó bằng thằng!
Tôi run run lí nhí:
- Dạ em đấu tố thằng bố em ạ!
- Không, nó không còn là bố em nữa, em là con của đảng, nó là thằng đối kháng giai cấp, đả đảo tên địa chủ Hiền...
Tất cả bọn thiếu nhi hô to đả đảo làm tôi mất hết tinh thần, run lên như
chính mình sắp bị xử bắn. Tôi bèn kể lể dông dài một cách điêu toa là
thằng địa chủ Hiền kia đã bóc lột con gà nhà bà Lộng, bóc lột con chó
nhà bà Y, bóc lột gạo thóc ngoài ruộng nhà bần cố nông... Ông đội chỉ
đạo cuộc đấu tố thí nghiệm hét lên:
- Tội nó ác hơn nhiều, em không đấu tố nó thì nó sẽ bị xử bắn.
Tôi hết hồn, điên lên hét thật to:
- Thằng địa chủ Hiền gian ác đã giết cả làng ta, đả đảo!
Trong tiếng hô đả đảo vang trời của bọn thiếu niên thiếu nhi con cái các
ông bà nông dân, thì ông đội tát cái bốp vào mặt tôi, khiến tôi ngã
dúi, vừa tát ông vừa hét:
- Thôi, câm ngay, đấu tố, chửi bố mình vượt chỉ tiêu trên giao!
Nghĩa là tôi đấu tố bố mình điêu hơn, ngoa hơn cả bài tố điêu tố gian của toàn đảng toàn dân ta đang long trời lở đất, kinh quá!
Lấy ý của ông đội cái cách tát bốp vào mặt tôi như vừa kể trên trong
ngày giáp tết năm 1956-1957 ấy, tôi xin kết luận rằng: TỘI ÁC MÀ CUỘC
CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT từ năm 1947-1957 xảy ra ở Việt Nam do cấp trên
Stalin, Mao Trạch Đông giao cho những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã
vượt chỉ tiêu trên giao...
Sài Gòn ngày 12-9-2014
TRẦN ĐÌNH TRƯỜNG
Sự nghiệp tại Việt Nam Trần Đinh Trường sinh ra và lớn lên ở Kỳ Anh, Hà Tĩnh [1], sau di cư vào Nam.
Trước năm 1975 tại Sài Gòn, ông hoạt động trong nghề vận tải đường biển và là chủ nhân hãng Vishipco Line với đoàn tàu Trường Xuân, Trường Thanh, Bông Hồng 9, Sao Mai, Patrick, Trường Vinh, Trường Hải và tàu Trường Sinh.[6]
Hoạt động tại Mỹ
Ông rời Việt Nam vào cuối tháng 4 năm 1975 khi Sài Gòn thất thủ. Trong cuộc di tản khi Việt Nam Cộng hòa tan rã, ông cho phép trưng dụng miễn phí những chiếc tàu của ông để chuyên chở người tỵ nạn và chở được hơn 8.500 thuyền nhân vượt biển. Riêng chiếc tàu Trường Xuân với thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã chở gần 4.000 người thuyền nhân vượt biển,[8][9][10] trong số đó có nhạc sĩ Lam Phương mà sau này đã sáng tác bài hát "Con tàu định mệnh"[11] để ghi nhớ sự kiện này.
Ông bắt đầu công việc kinh doanh khách sạn ở thành phố New York từ khách sạn Opera và khách sạn Carter giá rẻ, với 25 tầng và 700 phòng (gần Quảng trường Thời đại (New York) ở Manhattan và khách sạn sang trọng Lafayette ở Buffalo, New York. Khách sạn Carter từng bị trang website du lịch TripAdvisor mệnh danh là "khách sạn dơ dáy nhất nước Mỹ" ba năm liền.[5] Năm 1985, ông mua Khách sạn Kenmore; năm 1994 khách sạn bị cảnh sát bao vây và tịch thu vì là một ổ ma túy.[5]
Ngoài ra, ông và vợ là Nguyễn Kim Sang còn là một mạnh thường quân và tích cực trong những sinh hoạt cộng đồng người Việt tại Mỹ. Như theo lời kể của ông Nguyễn Văn Tánh, chủ tịch Cộng đồng người Việt tại tiểu bang New York:
"Ông bà Trường đã giúp đỡ cho cộng đồng Việt Nam không chỉ bằng tiền
bạc, vật chất mà còn bằng tấm lòng, với tinh thần tận tụy hiếm có. Trong
những dịp cộng đồng Việt về New York sinh hoạt, các anh chị em được mời
đón đến ở miễn phí tại khách sạn của ông bà. Trong những ngày này, đích
thân bà Trường đã tự tay tay nấu ăn cho hàng trăm người khách tham
dự...".[12]
Trong sự kiện khủng bố 11 tháng 9 năm 2001 tại New York, ông đã tặng quỹ cứu trợ nạn nhân 2 triệu Mỹ kim, và năm 2003, Liên hiệp người Mỹ gốc Á (Asian American Federation) vinh danh ông vì hành động này[13][14]. Trong nạn đói năm 1984 tại Ethiopia, ông cũng mua tặng các tổ chức cứu trợ nạn đói ở Ethiopia 2 máy bay trực thăng (trị giá lúc mua khoảng 3,2 triệu Mỹ kim) [2][15][16]. Tháng 8 năm 2005, ông tự đến Houston để cứu trợ nạn nhân Bão Katrina 100.000 USD [17].
Trong tháng 5 năm 2004, ông đã được trao Giải Đuốc Vàng ở Washington DC, giải thưởng vinh danh của cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại Mỹ (VANG) [18]. Ông cũng nằm trong Hội đồng quản trị của United Way of New York City.
Trong một lần trả lời phỏng vấn của phóng viên báo Thanh Niên, sau biến cố 11/9/2001 tại New York, ông Trường có cho biết về bí quyết thành công của ông: "...theo
hiểu biết của tôi, tất cả chỉ tựu trung vào hai chữ "cố gắng". Cố gắng
làm việc thì tất yếu dẫn tới thành công. Tầng lớp nào, nghề nghiệp nào
cũng vậy thôi. Nếu cố gắng làm việc thì sẽ thành công trong tầng lớp đó,
nghề nghiệp đó. Vừa cố gắng làm việc vừa học hỏi để tiến bộ. Đó là vấn
đề rất quan trọng." [19]
Sau thời gian dài bị bạo bệnh vì đột quỵ, ông qua đời ngày 6 tháng 5 năm 2012 tại New York [2][20]. Sau khi ông mất, ông không để lại di chúc cho nên
Hiện nay, Trần Group Management LLC (Tập đoàn quản trị Trần) của gia
đình ông đang quản trị và cho thuê hệ thống các khách sạn của ông ở vùng
đông bắc Hoa Kỳ, như Quality Inn Downtown, Best Western (Baltimore),
Lafayette Buffalo NY, đang xây dựng khách sạn Crown 250 phòng ở Baltimore, và đang xúc tiến xây dựng khách sạn 200 phòng trên đường Market ở Philadelphia [21].
Ngoài ra, tập đoàn cũng xúc tiến đầu tư tại Việt Nam, và đang quản lý
Trung tâm thương mại Việt Nam (VBC) ở Baltimore "nhằm hỗ trợ, khuyến
khích và giúp đỡ các doanh nghiệp Việt Nam thiết lập sự hiện diện trên
nước Mỹ, đồng thời mở rộng thị trường để cung cấp hàng hóa, sản phẩm của
Việt Nam vào Mỹ" [17][21].
Gia đình
Ông theo đạo Công giáo,
có tên thánh là Matthew. Năm 1950, ông kết hôn với bà Ngu Thi trong nhà
thờ và có bốn người con với bà. Sau 1954, ông vào Nam và không còn liên
lạc với vợ cũ.[5]
Ông kết hôn với bà Nguyễn Kim Sang năm 1960 và có nhiều người con, các
con với bà Sang gồm: Trần Thị Tâm Anh, Trần Thị Tâm Thảo, Trần Đình
Nghĩa, Trần Thị Hồng Ân, tất cả đang làm ăn tại Mỹ. Ngoài ra còn có Trần
Thanh Nam, Trần Thanh Bắc là con riêng của ông tại miền Bắc trước ngày
di cư cũng vừa sang Mỹ sau năm 1975. Em của ông là Trần Đình Chín và các
con ông Chín là Trần Đình Thành, Trần Đình Hùng, Trần Đình Sơn (cũng từ
miền Bắc mới sang Mỹ sau 1975) hiện là chủ nhân khách sạn Quality Inn
Downtown (ở Baltimore) cũng như đầu tư tại Việt Nam [4]
Ông có tổng cộng ít nhất 16 người con với 5 phụ nữ khác nhau.[5]
Chú thích
- ^ a ă Có thông tin khác cho biết ông Trường sinh năm 1928 tại Quảng Bình. Không được xác nhận
- ^ a ă â Nhà hảo tâm Trần Đình Trường từ trần, RFA, 8/5/2012
- ^ “Ai là người giàu nhất Việt Nam?”. báo Tiền Phong. 27/1/2006. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2007.
- ^ a ă Gia đình giàu nhất Việt Nam có tài sản không "Ảo", Tầm Nhìn, 10/5/2012
- ^ a ă â b c John Leland (24 tháng 7 năm 2014). “Mr. Tran’s Messy Life and Legacy”. The New York Times.
- ^ Hội Xuân Và Diễn Hành Đầu Năm Giáp Thân tại San Jose
- ^ National Register of Historic Places". WEEKLY LIST OF ACTIONS TAKEN ON PROPERTIES: 8/16/10 THROUGH 8/20/10. National Park Service. 2010-08-27.
- ^ Con tàu Trường Xuân và "Thuyền Viễn Xứ", Viettribune, 28/8/2008, Đăng lại tại [1]
- ^ Phạm Ngọc Lũy - Truong Xuan’s Last Voyage
- ^ Hồi ký về con tàu Trường Xuân
- ^ Trong bài hát có câu: "...Tôi yêu con tầu Trường Xuân. Con tầu nhiều sóng gió mà tình thương thật đầy..."
- ^ Tường Chinh (28/8/2004). “Thăm Ông Bà Trần Đình Trường Ở New York”. Việt Báo. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2007.
- ^ “Asian American Federation Honors Outstanding”. Asian American Federation. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2007.
- ^ Gặp doanh nhân Việt hiến 2 triệu USD cho nạn nhân ở New York, VnExpress, 26/9/2001
- ^ Theo cuộc nói chuyện với ông Trường và bà Sang trong Video "Vân Sơn 44: In Connecticut - Nhớ Nhà", 2010, Xem trích đoạn Video
- ^ Thủ Đô Tỵ Nạn VN Chào Đón Đại Nhạc Hội ‘Mùa Hè Rực Rỡ’, Việt báo, 2/8/2003
- ^ a ă Tỉ phú gốc Việt Trần Ðình Trường qua đời, Người Việt, 8/5/2012
- ^ Liên Hoan Đuốc Vàng: Vinh Danh Người Mỹ Gốc Việt, Hình [2]
- ^ Tỉ phú người Mỹ gốc Việt Trần Ðình Trường qua đời ở New York, báo Thanh Niên, 10/5/2012
- ^ Tỷ phú người Việt qua đời tại Mỹ, VOV, 10/5/2012
- ^ a ă Một số dự án của Tran Group
PHẦN CUỐI ĐỜI CỦA NHÀ TRIỆU PHÚ GỐC VIỆT
Ông Trần Đình Trường, công dân Mỹ gốc Việt, chủ nhân khách sạn Carter, ngay Quảng trường thời Đại (Times Square) nổi tiếng của Nữu Ước. Ông Trường từng nhiều lần được nêu danh là mạnh thường quân trong sinh hoạt cộng đồng người Mỹ gốc Việt, qua những lần có các cuộc biểu tình lớn trước trụ sở Liên Hiệp Quốc quy tụ đông đảo người Việt trên toàn nước Mỹ kéo về; cũng như nhân các cuộc diễn hành văn hóa hàng năm tại thành phố này.
Ông Trường qua đời năm 2012 vì bệnh tim, để lại một gia tài hàng trăm triệu Mỹ kim nhưng không có di chúc, dẫn đến vụ kiện tụng tranh chấp tài sải giữa nhiều người đàn bà cùng khai là vợ ông cùng với một đàn con cháu. Hồ sơ vụ kiện này hứa hẹn còn dài, và câu chuyện vừa
được nhật báo New York Times tóm lược qua bài phóng sự điều tra của ký giả John Leland, nguyên văn “Mr. Tran’s Messy Life and Legacy” đăng hôm 24/7/2014 vừa qua.
*
Cuộc đời của Trần Đình Trường có thể nói là bình lặng, nếu loại bỏ không kể đến những chuyện: ông đã từng ở tù Cộng sản 2 năm, bơi vượt sông vào Nam tìm tự do, tự tay gây dựng cơ nghiệp kếch sùtrong thời kỳ chiến tranh, di tản sang Mỹ với một va li đầy giấy bạc Mỹ kim và một va li đầy vàng, dựng lại cơ nghiệp với 4 người vợ không hôn thú và đàn con bằng 1 khách sạn toàn là phòng-1-giường ngủ ở khu phía Tây Nữu Ước, là đối tượng đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ là chủ nhân 1 khách sạn lớn nhất từng bị tịch thu vì tệ nạn ma túy, là cá nhân hiến tặng luôn một lúc 2 triệu Mỹ kim cho Hội Hồng Thập Tự Mỹ trong cuộc lạc quyên Quỹ cứu trợ Thiên tai sau vụ khủng bố tấn công Cao ốc đôi Trung tâm Mậu dịch Thế giới ngày 11 tháng 9.
Khi qua đời năm 2012, ông Trường để lại một tài sản trị giá khoảng 100 triệu USD, cùng ít nhất 16 người con đã có với năm phụ nữ, trong đó một người tự nhận là vợ chính của ông, mà hoàn toàn không để lại lời trối trăng hay di chúc nào. Nay đã ở bên kia thế giới, ông Trường lại là đối tượng mổ xẻ, nghiên cứu vì là trung tâm của một lô những lời khai mập mờ, nhất là trong cuộc tranh đấu quyết liệt của những người đang giành giật để được kế thừa khoản tiền của ông - như một thành viên trong gia đình ông mô tả "ai cũng là bậc thầy trong chuyện dối lừa và vô cùng xảo quyệt khi cố bán cái gọi là sự thật của họ."
Hồi tháng Năm vừa qua, một thẩm phán của Tòa Gia Đình phán quyết rằng, chuyện một trong những phụ nữ có liên hệ với ông Trường từng khai trong hồ sơ thuế của bà ta là độc thân không ảnh hưởng gì đến chuyện bà ta khai đã kết hôn với ông, và vì vậy có quyền hưởng một nửa tài sản ông ta để lại. Phán quyết này đã mở đường dẫn đến một cuộc chiến trước Tòa liên quan đến 30 hoặc nhiều hơn nữa, những người nhận là thừa kế và chắc chắn phải mất nhiều năm mới giải quyết được. Tất cả những người liên quan đến vụ tranh chấp tài sản này, hoặc qua luật sư hoặc trực tiếp, đều từ chối lời yêu cầu phỏng vấn cho bài phóng sự này, nhưng họ đều đã kể chuyện của mình trong một núi tài liệu nộp trước tòa. Duy nhất một điều không khác biệt trong quan điểm của tất cả mọi người dự phần trong cuộc tranh chấp này là “kẻ khác đang nói dối.”
*
Chi tiết mà mọi người đồng thuận là ông Trần Đình Trường sinh ngày 05/1/1932 trong một gia đình Công giáo ở Hà Tĩnh, Bắc phần Việt Nam. Chỉ thế thôi, còn các sự kiện sau đó đầy dẫy những chuyện mù mờ khó chứng minh rành rọt. Năm 1950, ông Trường gặp một phụ nữ tên là Thị
Ngũ. Hai người lấy nhau qua một hôn lễ ở nhà thờ và cuối cùng đã có bốn người con với bà này. Thế nhưng hai người không có hôn thú, mà theo các thành viên trong gia đình là “chuyện bình thường trong thời kỳ loạn lạc chiến tranh Việt Nam, giấy tờ nào cũng có thể bị mất”.
Sau khi có hiệp định Geneve chia đôi đất nước năm 1954, ông Trường và cha bị nhà cầm quyền Cộng sản miền Bắc bắt giam. Sau hai năm tù ông được thả nhưng người cha chết trong tù. Sau khi được thả, ông Trường đã liều mình bơi vượt sông Bến Hải vào Nam, với hai bàn tay trắng chỉ có “vài chiếc quần đùi”. Từ đó ông không gặp lại bà Ngữ cho đến hơn 40 năm sau.
Ở miền Nam ông Trường sống không phải với một phụ nữ khác mà “cùng lúc nhiều người đàn bà” như lời khai của 1 người trong cuộc là bà Nguyễn Thị Hưng, nộp trước Tòa sau khi ông qua đời. Bà Hưng khai “thời đó, chuyện 1 người đàn ông có quan hệ với nhiều phụ nữ không phải là vợ, là chuyện hết sức bình thường”. Suốt thời gian này ông Trường luân phiên sống với tất cả những người phụ nữ có quan hệ với mình cùng với con cái những bà này. Marc Bogatin, từng là luật sư đại diện cho ông Trường, bây giờ đại diện cho một trong những con gái của ông nhận xét rằng “Ông ấy cố gắng làm người cha cho tất cả các con của mình, và đối với một người có rất nhiều con thì người như ông Trường thật là người cha tận tâm.”
Năm 1959, ông Trường gặp cô thiếu nữ mới 16 tuổi tên là Nguyễn Sang khi cô này chiếm vương miện Hoa hậu trong cuộc thi do tờ báo Phụ Nữ Ngày Mai tổ chức. Theo các lời khai của bà Sang thì hai người lấy nhau ngày 1/1/1960 qua một hôn lễ dân sự và hai người sống chung từ đó cho tới khi ông ta qua đời. Bà Sang khai hôn lễ chỉ có các viên chức lục sự chứ không có khách khứa nào và có 3 con với ông Trường khi ở Việt Nam, sau đó có thêm con thứ tư sinh ở New York.
Tương tự trường hợp bà Ngữ, giấy tờ chứng minh tình trạng vợ chồng của
bà Sang là điều tranh chấp trước Tòa. Lời khai của các bà vợ khác biệt ở
chỗ người thì khai thời trẻ ông là người nghèo mạt không một xu dính
túi, còn người thì khai ông đã giàu có, nhưng tất cả đều đồng ý ông ta
là người chăm chỉ làm ăn và giao thiệp rất rộng rãi. Ông Trường khởi
nghiệp ở miền Nam bằng nghề mua bán hàng hóa, quân trang quân dụng, sau
đó ông lập công ty vận tải lớn nhất của miền Nam lúc đó, mở rộng với 24
thương thuyền, hàng trăm xe tải và làm chủ cả một bếncảng. Bà Sang khai
mình là người đã giúp ông bắt đầu các công ty, đầu tư tiền bạc và từng
là phó chủ tịch Hội đồng quản trị các doanh nghiệp vận chuyển và sau đó
là phó chủ tịch kinh doanh khách sạn của ông ở New York.
Hình ảnh nộp kèm hồ sơ tòa án cho thấy một ông Trường bà Sang là cặp vợ chồng hạnh phúc và thịnh vượng, cùng với con cái. Chuyện kinh doanh làm giàu của ông Trường phát đạt nhờ chiến tranh ở Việt Nam những năm 1960 và 1970.
Nguy cơ sụp đổ của miền Nam năm 1975 khiến ông Trường lo sợ cho sinh mạng bản thân và tài sản kếch sù, khiến ông thấy cần phải hành động nhanh chóng.
Trong một bản tự sự của ông Trường, được bà Sang nộp kèm hồ sơ có đoạn viết “dù tôi hiểu những rủi ro nghiêm trọng nhưng tôi đã ngay lập tức gửi tàu đến các cảng Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh, và ra lệnh nhân viên phải hết mình giúp những người Mỹ lúc ấy đang bị đe dọa.” Ông viết, cả thảy các tàu của ông đã cứu được 8,520 gồm dân thường Việt Nam và cả kiều dân lẫn quân nhân Mỹ.
Tuy nhiên lời tự thuật này của ông Trường bị nhiều người bác bỏ. Theo Richard L. Armitage, người giám sát cuộc di tản của hải quân Mỹ lúc ấy thì trên tàu của ông Trường không hề có có lính Mỹ được di tản, và rằng, lực lượng Hoa Kỳ không hề dùng tàu buôn để giải cứu và di tản kiều dân Mỹ.
Ông Trường thường kể rằng ông ta di tản với 2 va li đầy vàng vì không kịp rút tiền khỏi ngân hàng. Trong một cuộc phỏng vấn của báo The New York Times năm 1994, ông nói số vàng đem theo trị giá "có thể là một triệu đô la", sau đó sửa lại rằng giá trị "dưới một triệu đô la."
Nhưng Nguyễn Văn Thanh, một thiếu niên khai là đã được ông Trường nhận làm con nuôi ở Việt Nam, thì khai đã rời Việt Nam cùng con tàu với ông Trường và được giao xách theo hai va li, “một chứa khoảng7 triệu Mỹ kim tiền mặt và va li kia chứa khoảng 25 kg vàng” tất cả đều của ông Trường. Bốn phụ nữ có con với ông đều di tản, hoặc cùng ông trên một con tàu, hoặc trên những chiếc tàu của ông.
Khi ra đi, ông cũng để lại Việt Nam cho bà Ngữ và các con bà này một khoản tiền mặt và vàng “nhiều ngoài sức tưởng tượng tính theogiá trị ngày nay” (theo lời khai của một trong những con trai của bà này sau đó). Sau khi đã yên ổn tại Hoa Kỳ, ông Trường vẫn thường xuyên định kỳ gửi tiền và quà cho gia đình bà Ngữ ở VN.
Tại Mỹ, ông Trường đưa đại gia đình tới New York, và năm 1975, ông mua khách sạn đầu tiên là Hotel Opera 23 tầng, toàn là phòng chiếc, trên đường 77 khu Broadway. Tại khách sạn này ông lấy hẳn 1 tầng để sống cùng bà Sang, các con bà này và hai người tình Nguyễn Thị Châm và Phan Hoa, theo lời khai của 1 người tình khác, bà Hưng. Bà Hưng nói bà từ chối không chịu ở chung với những người khác nên sống riêng với con mình ở tầng khác.
Sau đó ông Trường tiếp tục mua thêm nhiều khách sạn khác. Đầu tiên là khách sạn Carter trên đường West 43 Street, mà trang web TripAdviser chọn là “khách sạn bẩn thỉu nhất ở Mỹ" trong ba năm liên tiếp. Sau đó là một khách sạn ở Buffalo. Lúc này đời sống gia đình của ông Trường là ‘chuyện luân phiên đều hòa” như lời khai của bà Hưng là “ông ta luân phiên ở với bà Châm tại khách sạn Carter, với tôi (bà Hưng) trên tầng của tôi tại khách sạn Opera, với bà Hòa, bà Sang và các con bà Sang trong tầng của họ tại khách sạn Opera”.
Ngược lại bà Sang thì trong hồ sơ khai trước Tòa phủ nhận chuyện ông ta đã sống luân phiên với những phụ nữ khác. Với cuộc sống (bận rộn) gồm cả chuyện kinh doanh và xoay vòng với các gia đình, ông Trường vẫn đều đặn dự thánh lễ mỗi ngày tại nhà thờ Holly Cross ở đường West 42nd St, như lá thư nộp hồ sơ Tòa của Linh mục Peter Colapietro thuộc thánh đường này.
Cách quản trị khách sạn nổi tiếng đặc biệt của riêng ông Trường là cắt giảm tối đa nhân viên an ninh và bồi phòng; với hồ sơ kỷ lục trước Tòa về thành tích vi phạm quy định an toàn vệ sinh và mỗi khi bị truy tố ra Tòa lại dẫn chứng câu chuyện cứu người năm 1975 ở Việt Nam để chứng minh hạnh kiểm và tư cách tốt của mình.
Năm 1985, ông Trường mua khách sạn Kenmore 641 phòng ở đường East 23, lúc bấy giờ là khách sạn phòng đơn lớn nhất ở New York với giá 7 triệu 900 ngàn đô la. Ba năm sau, ông ta mua Times Square Hotel 735 phòng ở đừơng West 43, bất chấp sự phản đối của những người thuê phòng và của cả Hội đồng thành phố New York. Tại khách sạn này, Times Square Hotel, ông ta thu của quỹ phúc lợi thành phố mức tiền thuê cao tới 2649 đô la mỗi tháng một người cho các khách hàng vô gia cư trọ, ngay cả khi số lượng biên bản vi phạm luật antoàn và y tế tăng hơn 1500 vụ. Các thanh tra của thành phố cho biết họ chứng kiến cảnh buôn bán ma túy công khai và nhiều lần nghe thấy tiếng súng nổ trong khách sạn. Tháng Giêng 1990, thành phố New York thắng kiện, tịch thu và dành quyền kiểm soát khách sạn này.
Ở khách sạn Kenmore, chuyện buôn bán ma túy và gái mại dâm là điều công khai. Từ tháng Năm 1991 đến giữa 1994, có tới 189 vụ bắt giữ ma túy hoặc khiếu nại của cư dân về tệ trạng khách sạn này. Công tố viên cáo buộc trong khách sạn bọn buôn bán crack chiếm toàn bộ nhiều tầng, cướp của và thậm chí hạ sát nhiều người già chỉ để cướp các khoản tiền nhỏ.
Khách sạn Kenmore tuy tồi tệ như thế nhưng là nhà của bà Châm cũng là người quản lý sống ở tầng nhì với 5 người con có với với ông Trường. Ông ta thì sống trong ba phòng tại khách sạn Carter. Ông Trường không hề phủ nhận chuyện buôn bán ma túy lan tràn ở Kenmore, nhưng ông chẳng cần xin lỗi ai về chuyện đó, bởi từng nói với báo The Times hồi năm 1994 rằng “Các khách sạn lớn, Helmsley và Trump đã gửi cho những người xấu đến tôi. Đáng lẽ thành phố nên cảm ơn tôi mới phải vì có công chăm sóc rất nhiều người nghèo và vô gia cư.”
Thành phố New York không đồng ý với chuyện đó. Vào ngày 8/6/1994, Cảnh sát liên bang và thành phố xông vào Kenmore, bắt giữ 18 người và tịch thu khách sạn với lý do đó là một động ma túy lớn và công khai.
Thế nhưng ông Trường và cả gia đình ông không bị buộc bất kỳ một tội nào. Ông ta đã tranh đấu để cố giữ khách sạn này nhưng không thành công !.......
Vào một buổi chiều chan hòa nắng đẹp mùa Hè tháng này, khách sạn Carter, tài sản quan trọng nhất trong gia tài của ông Trường, hoàn toàn là một biểu tượng mới của quảng trường Times Square. Được tân trang cho sạch sẽ và được rao bán trong năm nay, khách sạn này thu hút 25 hồ sơ dự .
Hình ảnh nộp kèm hồ sơ tòa án cho thấy một ông Trường bà Sang là cặp vợ chồng hạnh phúc và thịnh vượng, cùng với con cái. Chuyện kinh doanh làm giàu của ông Trường phát đạt nhờ chiến tranh ở Việt Nam những năm 1960 và 1970.
Nguy cơ sụp đổ của miền Nam năm 1975 khiến ông Trường lo sợ cho sinh mạng bản thân và tài sản kếch sù, khiến ông thấy cần phải hành động nhanh chóng.
Trong một bản tự sự của ông Trường, được bà Sang nộp kèm hồ sơ có đoạn viết “dù tôi hiểu những rủi ro nghiêm trọng nhưng tôi đã ngay lập tức gửi tàu đến các cảng Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh, và ra lệnh nhân viên phải hết mình giúp những người Mỹ lúc ấy đang bị đe dọa.” Ông viết, cả thảy các tàu của ông đã cứu được 8,520 gồm dân thường Việt Nam và cả kiều dân lẫn quân nhân Mỹ.
Tuy nhiên lời tự thuật này của ông Trường bị nhiều người bác bỏ. Theo Richard L. Armitage, người giám sát cuộc di tản của hải quân Mỹ lúc ấy thì trên tàu của ông Trường không hề có có lính Mỹ được di tản, và rằng, lực lượng Hoa Kỳ không hề dùng tàu buôn để giải cứu và di tản kiều dân Mỹ.
Ông Trường thường kể rằng ông ta di tản với 2 va li đầy vàng vì không kịp rút tiền khỏi ngân hàng. Trong một cuộc phỏng vấn của báo The New York Times năm 1994, ông nói số vàng đem theo trị giá "có thể là một triệu đô la", sau đó sửa lại rằng giá trị "dưới một triệu đô la."
Nhưng Nguyễn Văn Thanh, một thiếu niên khai là đã được ông Trường nhận làm con nuôi ở Việt Nam, thì khai đã rời Việt Nam cùng con tàu với ông Trường và được giao xách theo hai va li, “một chứa khoảng7 triệu Mỹ kim tiền mặt và va li kia chứa khoảng 25 kg vàng” tất cả đều của ông Trường. Bốn phụ nữ có con với ông đều di tản, hoặc cùng ông trên một con tàu, hoặc trên những chiếc tàu của ông.
Khi ra đi, ông cũng để lại Việt Nam cho bà Ngữ và các con bà này một khoản tiền mặt và vàng “nhiều ngoài sức tưởng tượng tính theogiá trị ngày nay” (theo lời khai của một trong những con trai của bà này sau đó). Sau khi đã yên ổn tại Hoa Kỳ, ông Trường vẫn thường xuyên định kỳ gửi tiền và quà cho gia đình bà Ngữ ở VN.
Tại Mỹ, ông Trường đưa đại gia đình tới New York, và năm 1975, ông mua khách sạn đầu tiên là Hotel Opera 23 tầng, toàn là phòng chiếc, trên đường 77 khu Broadway. Tại khách sạn này ông lấy hẳn 1 tầng để sống cùng bà Sang, các con bà này và hai người tình Nguyễn Thị Châm và Phan Hoa, theo lời khai của 1 người tình khác, bà Hưng. Bà Hưng nói bà từ chối không chịu ở chung với những người khác nên sống riêng với con mình ở tầng khác.
Sau đó ông Trường tiếp tục mua thêm nhiều khách sạn khác. Đầu tiên là khách sạn Carter trên đường West 43 Street, mà trang web TripAdviser chọn là “khách sạn bẩn thỉu nhất ở Mỹ" trong ba năm liên tiếp. Sau đó là một khách sạn ở Buffalo. Lúc này đời sống gia đình của ông Trường là ‘chuyện luân phiên đều hòa” như lời khai của bà Hưng là “ông ta luân phiên ở với bà Châm tại khách sạn Carter, với tôi (bà Hưng) trên tầng của tôi tại khách sạn Opera, với bà Hòa, bà Sang và các con bà Sang trong tầng của họ tại khách sạn Opera”.
Ngược lại bà Sang thì trong hồ sơ khai trước Tòa phủ nhận chuyện ông ta đã sống luân phiên với những phụ nữ khác. Với cuộc sống (bận rộn) gồm cả chuyện kinh doanh và xoay vòng với các gia đình, ông Trường vẫn đều đặn dự thánh lễ mỗi ngày tại nhà thờ Holly Cross ở đường West 42nd St, như lá thư nộp hồ sơ Tòa của Linh mục Peter Colapietro thuộc thánh đường này.
Cách quản trị khách sạn nổi tiếng đặc biệt của riêng ông Trường là cắt giảm tối đa nhân viên an ninh và bồi phòng; với hồ sơ kỷ lục trước Tòa về thành tích vi phạm quy định an toàn vệ sinh và mỗi khi bị truy tố ra Tòa lại dẫn chứng câu chuyện cứu người năm 1975 ở Việt Nam để chứng minh hạnh kiểm và tư cách tốt của mình.
Năm 1985, ông Trường mua khách sạn Kenmore 641 phòng ở đường East 23, lúc bấy giờ là khách sạn phòng đơn lớn nhất ở New York với giá 7 triệu 900 ngàn đô la. Ba năm sau, ông ta mua Times Square Hotel 735 phòng ở đừơng West 43, bất chấp sự phản đối của những người thuê phòng và của cả Hội đồng thành phố New York. Tại khách sạn này, Times Square Hotel, ông ta thu của quỹ phúc lợi thành phố mức tiền thuê cao tới 2649 đô la mỗi tháng một người cho các khách hàng vô gia cư trọ, ngay cả khi số lượng biên bản vi phạm luật antoàn và y tế tăng hơn 1500 vụ. Các thanh tra của thành phố cho biết họ chứng kiến cảnh buôn bán ma túy công khai và nhiều lần nghe thấy tiếng súng nổ trong khách sạn. Tháng Giêng 1990, thành phố New York thắng kiện, tịch thu và dành quyền kiểm soát khách sạn này.
Ở khách sạn Kenmore, chuyện buôn bán ma túy và gái mại dâm là điều công khai. Từ tháng Năm 1991 đến giữa 1994, có tới 189 vụ bắt giữ ma túy hoặc khiếu nại của cư dân về tệ trạng khách sạn này. Công tố viên cáo buộc trong khách sạn bọn buôn bán crack chiếm toàn bộ nhiều tầng, cướp của và thậm chí hạ sát nhiều người già chỉ để cướp các khoản tiền nhỏ.
Khách sạn Kenmore tuy tồi tệ như thế nhưng là nhà của bà Châm cũng là người quản lý sống ở tầng nhì với 5 người con có với với ông Trường. Ông ta thì sống trong ba phòng tại khách sạn Carter. Ông Trường không hề phủ nhận chuyện buôn bán ma túy lan tràn ở Kenmore, nhưng ông chẳng cần xin lỗi ai về chuyện đó, bởi từng nói với báo The Times hồi năm 1994 rằng “Các khách sạn lớn, Helmsley và Trump đã gửi cho những người xấu đến tôi. Đáng lẽ thành phố nên cảm ơn tôi mới phải vì có công chăm sóc rất nhiều người nghèo và vô gia cư.”
Thành phố New York không đồng ý với chuyện đó. Vào ngày 8/6/1994, Cảnh sát liên bang và thành phố xông vào Kenmore, bắt giữ 18 người và tịch thu khách sạn với lý do đó là một động ma túy lớn và công khai.
Thế nhưng ông Trường và cả gia đình ông không bị buộc bất kỳ một tội nào. Ông ta đã tranh đấu để cố giữ khách sạn này nhưng không thành công !.......
*
Vào một buổi chiều chan hòa nắng đẹp mùa Hè tháng này, khách sạn Carter, tài sản quan trọng nhất trong gia tài của ông Trường, hoàn toàn là một biểu tượng mới của quảng trường Times Square. Được tân trang cho sạch sẽ và được rao bán trong năm nay, khách sạn này thu hút 25 hồ sơ dự .
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 328
EM KHÔNG VỀ
em nóng lạnh cảm sốt
đau nhức toàn thân,
Các con đưa em đi cấp cứu
em vào phòng săn sóc đặc biệt
vài hôm sau em vui vẻ báo tin
cuối tuần em sẽ trở về
nhưng nửa đêm bệnh trở nặng
em kêu khó thở
rồi em đi
anh vào bệnh viện
em thở oxy
bảng điện kế nhấp nháy màu đèn đỏ
anh cầm tay em
hai hàng lụy nhỏ
em đã bỏ anh rồi
em đã đi thật xa
em không trở về tổ ấm của chúng ta!
vài hôm sau
các con đưa em vào nhà tang lễ
bốn bề quạnh quẽ
em nằm trong quan tài lặng lẽ
xung quanh những vòng hoa tang
con cháu, anh chị em, bạn bè đến chào em lần cuối
đôi nến lung linh
hai hàng lệ ứa
em cười hay em khóc?
Anh cố nén tiếng nấc
để em thanh thản lên đường.
anh theo xe tang
đưa em vào nghĩa trang
đến giờ hạ huyệt
con cháu, anh em, bạn bè
gửi em những đóa hoa vĩnh biệt.
em ở lại đây
em không về ngôi nhà của chúng mình nữa
em ở lại với những hàng bia mộ trắng
với thảm cỏ xanh có hoa vàng,hoa trắng,
và trời mùa thu Canada bừng ánh nắng.
em ơi
hương còn nồng
tình còn thắm
sao trời xanh nỡ bắt tội chúng mình ?
anh là một thư sinh
yêu em
làm thơ và mê sách
hai chúng ta sống đời thanh bạch
cùng nhau xây dựng cuộc đời
cùng chung bao nỗi buồn vui
qua bao cơn sóng gió biển khơi
vẫn không bao giờ xa cách
thế mà nay
anh mới hiểu thế nào là bạn đời
thế nào là lẻ loi. . .
em ơi,
có những đêm khuya trằn trọc,
anh không khóc
mà sao đôi dòng lệ trào tuôn?
anh không buồn
mà sao tim đau nhói,
và gan ruột quặn thắt?
phải chăng đêm trường là vương quốc cô độc?
nhà chúng ta có hoa viên xanh mướt
do bàn tay em săn sóc.
có dàn bầu, dàn bí
có hàng đậu, hàng cà chua
Có khóm lan, cành trúc
Có hoavạn thọ, hoa mẫu đơn
có hoa hồng, hoa cúc
hoa thơm sực nức
những buổi sáng trời hững nắng
và những buổi chiều gió bắc cực về lạnh
có đôi bướm trắng, bướm vàng bay quanh
những con sóc nhảy nhót trên cành
Những đôi chim sâu nỉ non, tình tự
nhưng không thấy em qua lại giữa những hàng cây xanh
nâng niu những bông hoa hồng hoa trắng.
khu vườn vắng lặng
em đã đi xa thật rồi
em không trở về ngôi nhà cũ nữa
em ơí! em ơí!
20-8-2014
bình bịch ngày xưa
tôn thất tuệ
Một chiếc xe bình bịch chạy qua, chở trên mình một người mập mạp phương
phi mang đôi kính đen. Một thiếu phụ trung niên gập mình chào gần như
quỳ. Đứa con trai ngẩn ngơ cho đến khi mẹ nói: Hoàng Thượng đó con. Nơi
xẩy ra là An Hòa ngay bên ngoài thành nội trên đường thiên lý hướng ra
Văn Xá phía bắc. Đứa bé là Phạm Bá Hiền hiện ở San Diego, California.
PBH hơn tôi ba bốn tuổi, cho nên ước chừng thời gian trước hoặc sau khi
tôi nằm nôi 1939. Về sau, hậu duệ của Nhiếp Chánh Vương Tôn Thất Hân,
cậu Tôn Để, thấy chiếc xe gỉ sét nằm trong vườn ở Cung An Định, An Cựu.
Chiếc xe gỉ sét là chuyện thường, ấn tín cũng chẳng ra gì, mà thân hoàng
thượng thì "hoang phế bơ vơ" như câu thơ của Nguyễn Đình Toàn tả người
yêu.
Thế nào chiếc moto ni cũng bên Pháp đem qua; nó không thành một hiện tượng, vì người trên xe là vua mà, chừng ấy còn ít quá, có chi là xa xỉ; vả lại, ngài ngự chạy ở những vùng xa dân chúng, không phiền hà ai.
Mãi đến đầu thập niên 1950, khi bắt đầu vào trung học, tôi mới nhìn ra khỏi xó Bến Ngự một chút. Lại thấy có ông Từ Bộ Quýnh đi xe mô tô bình bịch; lại thấy ông cả Bính ở Vy Dạ đi xe cấy chi nhỏ hơn bình bịch mà to hơn mobilette AutoBécane. Lại thấy anh Hướng, làm cho Lý Lâm Tinh, huynh trưởng hướng đạo, chạy cái xe gì to hơn Lambretta. Lại thấy anh Ngọ, Mỹ Thắng (?) chạy xe Ết Bà (Vespa), chiều chiều qua Xẹt (Cercle Sportif) đánh tennis. Anh Hà Thúc Miễn, Bến Ngự cũng có Vespa. Bác Thanh, bố của Trịnh Công Sơn cũng có Vespa.
Con nít còn hay chú ý đến mấy chiếc xe moto cảnh sát hộ tống các quan lớn như thủ hiến, thấy vui vui thấy moto ba bánh, kéo bên hông một chỗ ngồi có người cầm súng. Con nít cũng thích xem các xe motto Harley của nhà binh chạy trên lòng chảo sân vận động. Họ biểu diễn đứng trên yên xe, cởi áo, mặc áo trở lại mà xe cứ vù vù như bay. Muốn xem thì phải chui lỗ chó hàng rào từ phía trường Nguyễn Tri Phương.
Anh Miễn của tui còn có xe bốn bánh; sáu chục năm sau tui xem catalogue mới biết hiệu Chrysler của Mỹ. Huế mình không đến nỗi quê mà nghĩ rằng cà rem ăn không hết phơi khô để dành. Nhưng xe hơi không phải là món gần gũi; các xe của ông giám đốc học chánh, của tỉnh trưởng, thủ hiến thì tránh xa khỏi bị nước bùn tạt vô người.
Qua đến 1954 thì Huế có nhiều xe hơn, không ai chú đến xe bình bịch như của Ngài Ngự. Ngài Ngự bây không đi xe hai bánh mà đi xe bốn bánh, đại xa, chạy khắp thành phố ngày đêm. Ngài đeo kính đen như thường, ôm một ca ve chỉ mặc xí líp. Ngài lịch sự nhường nửa cổ xe cho Ngô Chí Sĩ đứng trong chiếc tàu đang lèo lái con thuyền VN. Cuộc dạo chơi cố đô của ngài được ghi trong một đoạn về Thượng Tứ của Phan Mông Hòa (ái nữ của Maria Mộng Hoa); may quá ngài cũng có một cùng đinh đỡ đạn:
Tôi còn nhớ như in kỷ niệm về mụ Xoài. Đó là năm Huế phát động phong trào Bài Phong Đả Thực và ủng hộ “Triều” cụ Ngô. Học sinh công tư toàn thành phố ngồi đầy nhóc trên những chiếc xe buýt màu xanh dương hay xe GMC nhà binh. Bọn học trò chúng tôi được chở đi cổ động bỏ phiếu cho chí sĩ Ngô Đình Diệm. “Xanh bỏ giỏ, đỏ bỏ bì”. Xe lớp lớp chạy lòng vòng khắp mọi xó xỉnh của cố đô. Một đứa lớn họng hét to: “Đả đảo Bảo Đại” hoặc “Ủng hộ Ngô Đình Diệm” rồi cả bầy hăng bò xít hét theo mà đả đảo hay ủng hộ. Tuổi trẻ máu nóng bốc đồng thi nhau la hét đến khan hơi rát cổ. Khi xe chúng tôi chạy đến đường Thượng Tứ, một bạn la to khẩu hiệu: “Ai bán nước ?” để cả bầy còn lại đồng thanh đáp: “Bảo Đại!”. Tôi thấy mụ Xoài xóm tôi le te chạy tới. Cái cằm móm xọm dài ra hơn khi mụ cười toe toét, trả lời đon đả: “Có đây! Có đây! Có mụ Xoài bán nước đây!” (Hoàng Hôn Thôn Vỹ)
Thế rồi Huế trở lại yên lặng. Nhiều căn phố được sửa lại, xây thêm một hay hai tầng như nhà sách Gia Long của chị Dương, mẹ của cô Hồng. Phía Hàng Bè có Kem Anh Đào của mẹ Trâm (em của La …Thanh).
Huế không thêm xe bình bịch to lớn, nhưng thêm Vespa, không nhiều lắm. Lambretta đã xuất hiện; không ăn khách “dòm” vì không ngọt nước như người anh em Italie. Con nít cửng con mắt cũng to thêm đồng nhịp với thân thể cho nên cái nhìn cũng to theo, để chú ý đến xe hơi. Dạo ấy, chạy quanh nhiều trong thành phố là Peugeot 203. Chaffenron chưng cả nguyên chiếc trong tủ kính như con búp bê, nhưng các bậc phu huynh thì thích tờ rác xông, mà còn thích tờ rắc xông ken nhiều hơn (ken, 15, quinze). Xuất hiện sau 54 là hai chiếc Mercedes, chúng liên quan đến thời cuộc tình hình chính trị mới.
Bên cạnh hai cô con gái mặc jupe rất chi là quí phái trưởng giả, đốc Quyến còn có thêm chiếc Mercedes màu xám, từ ngày làm bác sĩ gia đình, trông nom sức khỏe Cụ Cố, thâm mẫu Ngô Chí Sĩ, và Ngô Cố Vấn Tối Cao Miền Trung. Đốc Quyến dư tiền mua Mercedes bằng vàng cũng được nhưng miệng người thì nói quà tặng của Lãnh Tụ Anh Minh. Mà quà tặng thì có chi mà nói. Trong khi đốc Quyến ung dung như rứa, các người khác trong phong trào Hòa Bình thì xấc bấc xang bang.
Chiếc Mercedes thứ hai là của ông Nguyễn Văn Hai. Thầy Hai đã là người ủng hộ quyết liệt lấy tên Ngô Đình Diệm thay cho tên Khải Định. Việc đã thành nhưng trong vài tháng, trường mang tên là Quốc Học. Thầy Nguyễn Đình Hàm nói ông đã có công lớn trong việc đặt tên mới nầy và thành hiệu trưởng QH đầu tiên; ông cũng nói xa nói gần việc nầy làm cho thầy Hai khó chịu. Thầy Hai sau đó làm giám đốc học chánh Trung Phần. Ít lâu sau thì ông Đinh Quy lên thế thầy Hàm. Lại chào xáo trong trường. Có người vẽ trên stencil và in ronéo một bức hý họa không có chữ: một con rùa đội trên lưng một tấm bia đá, có khắc một chữ duy nhất, vừa có thể đọc là chữ “Q” hoa không tròn đủ hay đọc là con số 2.
Thầy Hai đầy nhiệt tình cách mạng, sửa đổi cách thi lục cá nguyệt; các lớp ngồi chung làm bài như nhau; đề thi các giáo sư trình thầy Hai duyệt và quyết định. Thầy không thích các giáo sư mặc áo tay cụt; có sự đụng độ nho nhỏ với thầy Đương dạy vạn vật; dịp nầy thầy Đương trở lại ngành y khoa Saigon. Thầy Hai đã qui định đồng phục trắng, nam sinh có cà vạt xanh dương. Mỗi sáng thứ hai tôi phải thắng khô mực và đôi dép lốp đi chào cờ. Sân trường chia làm bốn, cột cờ ở giữa. Thay phiên nhau, các ô cử người lên đánh nhịp bắt giọng hát quốc ca và suy tôn Ngô Tổng Thống.
Khi thầy Hàm đứng đầu trường, thầy vẫn giữ những tập tục nầy, kể cả việc đóng cửa tức khắc khi có chuông vô lớp. Nhưng không khí dịu hơn một chút, ít tính cách đoàn ngũ hóa nhân dân. Thầy Quy chấp chánh, mở thêm chức vụ giám học; mấy trò sính tiếng tây thì hay gọi là senseur. Theo nghĩa thông thường, senseur là thầy phó hiệu trưởng chuyên lo về kỷ luật. Đúng vậy, thấy giám học hầu như là chủ tịch một hội đồng vô hình gồm các giáo sư cố vấn. Thầy cố vấn thật đáng sợ; tuy không phải là tổng quát như nhau, các thầy nầy vô lớp thường nêu chuyện kỷ luật kèm với những lời hăm dọa bị đuổi v.v… Cha mẹ thường trấn an con cái với câu dang cao đánh sẻ. Ngoài ra, thầy giám học còn trông coi Hiệu Đoàn, tổ chức sinh hoạt chung của các trường, nhiều dấu hiệu hướng về đoàn ngũ hóa.
Thầy Hai trúng cử làm dân biểu của Quốc Hội Lập Hiến; QH nầy được lưu nhiệm làm QH lập pháp đầu tiên. Mọi dân biểu (52 vị ?) được mua xe “de luxe” không thuế; xe cộ thời ấy bị đánh thuế đến 300% giá trị. Thầy Hai mua Mercedes. Thỉnh thoảng Huế cũng thấy thầy Hà Như Chi, cũng là dân biểu, lái xe “de luxe” Peugeot 403 mỗi khi từ Saigon ra thăm thân phụ thân mẫu là ông bà Hà Thúc Lãng.
Nói rứa thôi, chứ Huế không đến nỗi tệ chỉ có bấy nhiêu xế hộp. Nhưng có hai trường hợp khác coi bộ nhiều người biết tới hơn vì nó thuộc “địa giới”, tôi muốn nói không ở mức thượng thừa trong xã hội như thầy Hai, thầy Chi, ông đốc Quyến.
Chiếc xe “deluxe” Peugeot 403 của thầy Chi – nếu đã đẩy lùi các xe Peugeot 203 xuống chân danh sách ngưỡng mộ - đã không làm mất uy của một chiếc Peugeot 203 khác.
Một người đi học Mỹ về, rồi tự xưng là đạo diễn điện ảnh. Anh ta có mái tóc phờ ri dê xỏa nửa trán, nhưng không có vẻ gì là lại cái (homo), vẫn còn nguyên dương tính. Anh mua một chiếc xe peugeot 203, hai chỗ ngồi và có mui trần. Xe cộ thời ấy thì chính là đen; Peugeot có thêm màu xám. Đàng nầy anh sơn lại, chơi nguyên màu đỏ tươi. Am mê ri ken mà!
Nhưng màu đỏ không phải là điều đáng nói. Điện ảnh gia (?) Lê Hoàng Hoa có tội đáng chết: ẳm được cô Ty bỏ lên xe chạy khắp thành phố. Tội đáng chết vì làm bao người nuốt nước miếng ừng ực. Cô Ty bán sách ở nhà sách Ưng Hạ. Bao nhiêu trai thanh, học giả tới đó mở sách ra xem mà mắt nhìn trộm cô hàng. Nhiều nhất là mấy ông sư phạm chơi nguyên đồng phục côm lê. Cô Ty phải biết có hai thứ sinh viên ở Huế, một bên là sư phạm có học bỗng. Khi tự giới thiệu với các bà mẹ có con gái mình là sinh viên thì được hỏi là sư phạm chi, anh văn hay lý hóa…
Còn như văn khoa hay luật khoa thì chỉ là đồ cà lơ phất phơ, còn lâu mới thành a vô ca có tiền, suốt đời “làm thi sĩ là tru với chó”. Rứa mà mấy ôn sư phạm ái mộ cô, cô có giá quá hè.
Cô Ty có đóng phim hay không, nào ai hay biết. Phim trường của LHH thường là Hội Việt Mỹ. Về sau cơm cháo giữa chàng và nàng có ra chi hay không, tui không biết; tuy vậy sau đó, dân Huế không còn cơ hội chứng minh câu thơ Tàu: thư trung hữu nữ nhan như ngọc, trong nhà sách Ưng Hạ có người đẹp như ngọc như ngà.
Xanh xanh đỏ đỏ em nhỏ nó mừng. Hết lượt xe đỏ Peugeot thì qua xe xanh, xanh lá mạ thì rõ ràng hơn, để không nhầm với xanh biển. Chiếc xe khá to, cũng mui trần như xe của nhà làm phim. Khi đồng An Cựu xanh rì ngọn lúa thì khách qua đường khó nhận ra chiếc xe; vì xe hay đậu trước sân của một villa có mặt tiền phía đường nhưng quanh còn ruộng. Villa nầy là chỗ ở của ông sếp công chánh tỉnh; ông mới rời nguyên quán Quảng Trị vô đất thần kinh đem theo hai cô con gái (con trai thì kể làm chi cho mệt, có một trăm trự cũng thế thôi). Nhưng trội nhất là cô chị Hồng Thủy.
Ông bạn tôi mới trả lời email nói Hồng Thủy đi xe Lambretta vô trường đã thành một điều kinh khủng. Đúng vậy nhưng bạn tôi quên nói Hồng Thủy đã thường lái xe mui trần chạy quanh thành phố những lúc đông người. Tóc nàng bay bay trên cầu Trường Tiền. Thường Hồng Thủy chỉ đi một mình, (không như Lê Hoàng Hoa có cô Ty) hay cô em gái, cho nên với một số gà trống, mặt trận miền tây vẫn bình yên.
Mi đi xe máy (xe đạp) người ta đi xe điện (xe hơi), mắc chi mi noái, tức à, tức ăn ...mà trừ. Đồ vô duyên, vô duyên cảy, bảy ngày không hết vô duyên.
Vô duyên kệ tui. Hồng Thủy không bao giờ đi trên hè phố, chỉ đi xe hơi
nhưng Huế có lời đồn Hồng Thủy đi bộ đường Trần Hưng Đạo vác guốc gõ lên
đầu mấy cậu con trai trêu chọc đôi môi của nàng. Hồi đó guốc đã tân
thời lắm rồi. Hình như guốc Dakao. Lúc ấy “mốt” cả thế giới là gót giày
gót guốc nhỏ bằng móng tay. Các hãng máy bay phải thay nền máy bay bằng
nhôm cứng hơn vì gót giày mấy bà bự thiệt bự lún vô kim loại như bùn,
phải bồi thường tai nạn. Rứa thì Hồng Thủy mà chơi cái gót guốc lên đầu
thì chỉ có chết thôi nếu không đội nón sắt hay đã được mẹ nhúng vào suối
tiên như Archille để thành xương đồng da sắt.
Không thấy ai chết, hay mũi ăn trầu cái đầu xức thuốc. Tui có hỏi hai người bạn cũ, họ đều nói Hồng Thủy là một kiều nữ rất bình thường, hiền hòa; chơi bạo chiếc Lambretta có chết ai mô. Một người hiện ở bên Đức nhiều năm học chung và sau đó cũng biết cô nàng. Một người hiện ở vùng thủ đô Hoa Kỳ, cùng gốc Quảng Trị đã than phiền tin thất thiệt. Đêm văn nghệ cuối năm 1959, Hồng Thủy hát bài Hòn Vọng Phu 2 của Lê Thương, tôi còn nhớ mặt người đệm sáo tre nhưng không nhớ tên.
Dẫu răng đi nữa, những điều viết trên đây xẩy ra vào một thời tương đối an bình của Huế; lúc ấy chưa có biểu tình, bàn thờ xuống đường, chưa có thảm sát Mậu Thân.
Tôi viết theo lối mà Tràm Cà Mau nói là lang thang xứ Huế, cũng rất vô duyên cảy bảy ngày không hết vô duyên. À mà viết khi nhận mấy bức hình moto rất thời trang của những cô gái Huế ngày nay. Những lần chuyển chuyển forward, forward, không ai nói chi trừ một thân hữu nêu chuyện Hồng Thủy đi xe Lambretta đến trường; chẳng có nghĩa lý gì so với hiện nay mà đã là chuyện gần như kinh khủng. Nói chung, vẫn có một chút gì không đồng ý, không nói ra.
Nhưng nói cho cùng Huế mình cái chi không có, nhưng cái có xưa kia ít ồn ào, và che dấu được. Bây giờ có ai sợ chi; còn che dấu là còn biết cần có một giá trị nào đó. Che dấu không phải hoàn toàn tốt nhưng cũng không phải hoàn toàn xấu. Huế mình đôi lúc còn đi trước. Ngay sau 75, một đấng hương sắc của sông Hương núi Ngự đã tiên phong chụp hình khỏa thân và quay phim cảnh làm tình với một người ngoại quốc trên một du thuyền neo ở Vũng Tàu. Những gì qua ống kính đã đến các tòa báo Saigon.
Nhưng về ngôn ngữ thì những chuyện như rứa không có. Huế mình không thấy, Huế mình chỉ chộ.
Dùng hai chữ bình bịch cho những chiếc hai bánh hiện nay thì sẽ bị các cô lấy giày đánh trên đầu, như người ta gán ghép cho Hồng Thủy. Bởi lẽ bình bịch xưa cổ lỗ sĩ còn những chiếc moto nầy mới, chạy nghe êm trừ phi chủ nhân muốn tháo ống bô (ống khói) kêu thiệt to.
Người Huế, nam hay nữ, nếu không phải là triết gia, văn sĩ, thi sĩ, luận sĩ, thiền sư, thì ít nhất cũng là những nhà hoạt động, những nhà tuyên truyền, xin lỗi tôi muốn nói activiste. Hoạt động cho đảng phái, cho tôn giáo, cho các thế lực v.v… Một ký giả nửa Pháp nửa Mỹ nói như thế để chứng minh luận điểm của ông rằng người Huế rất sâu sắc, theo chiều hướng thiện hay chiều hướng nguy hiểm tùy người; người Huế không đơn giản chút nào. Cứ xem tạm như ông nhà báo ấy nói đúng, thì mấy cô chạy xe moto thứ xịn nhất thế giới, mấy cô nầy sẽ được xếp vào chỗ mô? Mấy cô nầy hết sức đơn giản và cái chi cũng để lộ ra ngoài. Mấy cô không cần một tay giữ nón lá, một tay giữ tà áo, phòng khi có ngọn gió bất thường tấn công những lớp vải mỏng thín. Mấy cô nầy khi mô cũng phây phây.
Nếu lúc trước kia Huế được mô tả như trái mãng cầu (quả na) ngoài ngói móc trong bột lọc nhụy đậu đen thì Huế ngày nay đem trong ra ngoài như trái điều lộn hột. Ở một mức độ khá lớn, sự thể này trông ra dễ , dễ bề tính toán; dễ bề tính toán kể cả trong tình yêu và nhất là lập kế hoạch đưa nàng về dinh.
Xứ Huế khó bề duy trì nét thầm lặng bên ngoài làm môi giới cho sự thầm lặng bên trong. Một trong những lý do là quá nhiều người mới lạ, lạ từ nguyên quán, lạ trong lối suy nghĩ. Nhưng trên hết, xứ Huế không thoát khỏi những đặc tính chung của toàn VN, không thể nói Huế cao thượng hơn, sạch sẽ hơn, spiritual hơn…
Nói đến cái trầm lặng của Huế làm tôi liên tưởng đến Lào và Miến Điện. [Mấy dòng kề cận tôi lấy ý của Tiziano Terzani trong cuốn A Fortune Teller Told Me.
1962 tướng Ne Win đảo chánh cầm quyền, đưa ra đường lối gọi là xã hội chủ nghĩa theo lối Phật Giáo, áp đặt độc tài quân phiệt, quốc hữu hóa nền kinh tế, tống giam thành phần chống đối. Ne Win không muốn sự hà khắc của Tàu Cọng, cũng không muốn đường lối sùng vật chất của Mỹ đang tung hoành ở Thái Lan và chung quanh. Đánh đổi nền độc tài khắc nghiệt, truyền thống được duy trì, tôn giáo phát triển, 45 triệu dân không bị đưa vào cơn lốc của sự đô thị hóa, của kỹ nghệ hóa và tây phương hóa. Chính quyền Rangoon không muốn quá nhiều người ngoại quốc làm ô nhiễm không khí quốc gia; chiếu khán chỉ cấp bảy ngày lưu trú. Chùa chiền được giữ trang nghiêm làm nơi hành đạo chứ không phải viện bảo tàng cho du khách chụp hình, rộn ràng như ngoài chợ.
Sau ¼ thế kỷ với quyền uy tuyệt đối, Ne Win trao tay lái cho đàn em. Lớp mới nầy còn độc tài hơn lão tổ, trân tráo hơn, tàn bạo hơn, giết người nhiều hơn nhưng tân thời hơn. Mấy ông vua con nầy bỏ chủ trương cô lập và theo hình thức phát triển xô bồ. Bốn mươi năm cưởng lại, Miến phải nhường bước cho cái định mệnh chung, không ai thoát khỏi từ Tàu của Mao, Ấn của Gandhi, Khmer của Pol Pot, VN.
Giữa thập niên 1990, Terzani đến thị trấn nhỏ Tachilek cạnh biên giới Thái đã choáng mắt bởi những chữ mạ vàng: “Tourists, welcome to Burma” thay những chữ ông còn nhớ: Foreigners, keep away. Any one passing this point risks being shot. Có 14 sòng bài, mấy chục chỗ hát kaoroke. Người Thái mở siêu thị, nhà hàng. Không ai xài tiền Miến, chỉ dùng ngoại tệ. Ma túy, mãi dâm hầu như buôn bán công khai. Các ông tướng ông tá đứng đầu các dịch vụ du lịch như di chuyển, thông ngôn, ăn ở…
Về phần Lào, bao năm phản đối, phải để cho Úc xây cây cầu qua Mekong nối liền với Thái. Bây giờ cây cầu mệnh danh là cầu Xi Da (The Aids Bridge). Trung Cọng đang mở con đường xuyên Miến nối liền Tàu và Thái.
Là một người mến văn hóa đông phương, biết nhiều về lịch sử từng vùng, Terzani cho rằng Tây Phương hóa trở thành thuốc phiện cho cả Á Châu. Người Tàu đã có số đông không dùng đủa mà dùng muỗng nĩa cho tiến bộ. Singapour là một hòn đảo điều hòa không khí, chỉ có hotel và nhà hàng. Lý Quang Diệu là người mẫu của tư bản Tàu lục địa. Ký giả Ý nầy (1938-2004) có cái nhìn ngộ nghĩnh.
Bốn, năm thế kỷ trước Tây Phương đến Á Châu bị đánh lại (tuy vẫn thắng) như chiến tranh ma túy bên Tàu, Cần Vương bên mình. Nhật Bản bên ngoài theo tân trào, bên trong tổ chức cẩn thận mọi bề chống lại ảnh hưởng ngoại lai. Nhưng bây giờ Tây Phương đem liều thuốc phát triển thì Á Châu đón nhận với bất cứ giá nào, hằng triệu người là nạn nhân trực tiếp hay gián tiếp. Những xáo trộn ấy đẻ ra những chiếc xe motto mắc tiền, chạy ngang đánh bạc những chiếc nón lá rách của người đi bộ nghèo trên xứ Huế
Tôi đã lạm dụng thì giờ của các bạn để đi hơi xa, khởi hành từ chiếc xe bình bịch. Nhưng nhịp độ biến thiên của xứ Huế còn nhanh hơn những chiếc hai bánh do các nường phóng theo gió. Các chùa xưa như Tra Am nay đã xây lại theo đá rửa, lưỡng long chầu nguyệt bằng mẻ chén kiểu. Quanh các chùa có những ghế đá lọ lem khắc ghi tên người cúng và tên người được hồi hướng, những câu thiền viết bay bướm không ai đọc ra treo khắp nơi. Huế mình đang có phong trào ăn chay nghệ thuật, con gà chay, thịt heo nướng chay, con tôm chay.
Có nhiều biến thái khác. Nhưng đây chỉ nếu một biến thái nhỏ về ngôn ngữ: rồi ra, người Huế sẽ nói chữ “vào” thay cho chữ “vô” dù là gốc Nôm hay Hán Việt. Một tác giả viết về Huế thấy sách mình xuất bản với những chữ rất lạ: “vào luân, vào lý, vào đạo” mà bà đã viết “vô luân, vô lý, vô đạo”. Dĩ nhiên tác giả không đồng ý. Nhưng tôi, anh đổ gàn, khoái tỷ. Nếu bà mắng tôi là đồ vô đạo, vô học, vô luân; bĩnh bút sẽ biến tôi thành kẻ vào lý, vào đạo, vào học. Chẳng mấy chốc tướng cướp, kẻ giết người đều vào đạo, vào học, vào lý. Khổng Lão Thích đều thất nghiệp.
Dẫu sao, những chiếc moto hào nhoáng – phản ảnh những bất thường của thời đại – gợi lên thương tiếc một thời áo quần giản dị, đi lại chẫm rải chừng mực. Hoài niệm chỉ là hoài niệm mà thôi. Sự trầm lặng của Huế không bao giờ trở lại. Vì sao? vì lòng người đã thay đổi. Lòng người Huế đã thay đổi âm thầm từ lâu, nay mấy cô moto làm cho sống dậy mạnh bạo hơn; những thứ gọi là bạo động tinh tế đã có: Một tin đồn Hồng Thủy trở gót guốc đánh đầu người ta, một “chân lý” (trong ngoặc kép) vĩnh viễn: sông Hương dưới thuyền có đĩ trên bờ có vua.
Xin lỗi tôi hơi méo mó Phật giáo một chút: tâm bình thế giới bình. Tướng tại tâm sinh, hãy nhìn người Huế bây giờ, dù vẫn còn áo tím, đứng dưới mái hiên chùa. Trực giác sẽ giúp chúng ta. Bình bịch năm xưa, bình bịch năm nay chỉ là những thứ ngoài da.
Báo chí tiếng Việt trong và ngoài nước đã nói nhiều về cách trình bày hiện vật ở bảo tàng này.
Có những ý kiến từ giới sử gia trong nước cho rằng cuộc triển lãm chưa đầy đủ.
Hôm qua, 08/09/2014, lần đầu tiên một cuộc triển lãm về Cải
cách ruộng đất đã khai mạc tại Hà Nội và đã thu hút rất nhiều người đến
xem. Nhưng cuộc triển lãm đầu tiên này bị đánh giá là phiến diện, tức là
chỉ phản ánh một mặt của Cải cách ruộng đất, hay đúng hơn là nhằm biện
minh cho chính sách này, chứ không tái hiện những sai lầm, những bi kịch
của cái gọi là cuộc “Cách mạng long trời lở đất” cách đây hơn 60 năm.
EM KHÔNG VỀ
em nóng lạnh cảm sốt
đau nhức toàn thân,
Các con đưa em đi cấp cứu
em vào phòng săn sóc đặc biệt
vài hôm sau em vui vẻ báo tin
cuối tuần em sẽ trở về
nhưng nửa đêm bệnh trở nặng
em kêu khó thở
rồi em đi
anh vào bệnh viện
em thở oxy
bảng điện kế nhấp nháy màu đèn đỏ
anh cầm tay em
hai hàng lụy nhỏ
em đã bỏ anh rồi
em đã đi thật xa
em không trở về tổ ấm của chúng ta!
vài hôm sau
các con đưa em vào nhà tang lễ
bốn bề quạnh quẽ
em nằm trong quan tài lặng lẽ
xung quanh những vòng hoa tang
con cháu, anh chị em, bạn bè đến chào em lần cuối
đôi nến lung linh
hai hàng lệ ứa
em cười hay em khóc?
Anh cố nén tiếng nấc
để em thanh thản lên đường.
anh theo xe tang
đưa em vào nghĩa trang
đến giờ hạ huyệt
con cháu, anh em, bạn bè
gửi em những đóa hoa vĩnh biệt.
em ở lại đây
em không về ngôi nhà của chúng mình nữa
em ở lại với những hàng bia mộ trắng
với thảm cỏ xanh có hoa vàng,hoa trắng,
và trời mùa thu Canada bừng ánh nắng.
em ơi
hương còn nồng
tình còn thắm
sao trời xanh nỡ bắt tội chúng mình ?
anh là một thư sinh
yêu em
làm thơ và mê sách
hai chúng ta sống đời thanh bạch
cùng nhau xây dựng cuộc đời
cùng chung bao nỗi buồn vui
qua bao cơn sóng gió biển khơi
vẫn không bao giờ xa cách
thế mà nay
anh mới hiểu thế nào là bạn đời
thế nào là lẻ loi. . .
em ơi,
có những đêm khuya trằn trọc,
anh không khóc
mà sao đôi dòng lệ trào tuôn?
anh không buồn
mà sao tim đau nhói,
và gan ruột quặn thắt?
phải chăng đêm trường là vương quốc cô độc?
nhà chúng ta có hoa viên xanh mướt
do bàn tay em săn sóc.
có dàn bầu, dàn bí
có hàng đậu, hàng cà chua
Có khóm lan, cành trúc
Có hoavạn thọ, hoa mẫu đơn
có hoa hồng, hoa cúc
hoa thơm sực nức
những buổi sáng trời hững nắng
và những buổi chiều gió bắc cực về lạnh
có đôi bướm trắng, bướm vàng bay quanh
những con sóc nhảy nhót trên cành
Những đôi chim sâu nỉ non, tình tự
nhưng không thấy em qua lại giữa những hàng cây xanh
nâng niu những bông hoa hồng hoa trắng.
khu vườn vắng lặng
em đã đi xa thật rồi
em không trở về ngôi nhà cũ nữa
em ơí! em ơí!
20-8-2014
bình bịch ngày xưa
tôn thất tuệ
Một chiếc xe bình bịch chạy qua, chở trên mình một người mập mạp phương
phi mang đôi kính đen. Một thiếu phụ trung niên gập mình chào gần như
quỳ. Đứa con trai ngẩn ngơ cho đến khi mẹ nói: Hoàng Thượng đó con. Nơi
xẩy ra là An Hòa ngay bên ngoài thành nội trên đường thiên lý hướng ra
Văn Xá phía bắc. Đứa bé là Phạm Bá Hiền hiện ở San Diego, California.
PBH hơn tôi ba bốn tuổi, cho nên ước chừng thời gian trước hoặc sau khi
tôi nằm nôi 1939. Về sau, hậu duệ của Nhiếp Chánh Vương Tôn Thất Hân,
cậu Tôn Để, thấy chiếc xe gỉ sét nằm trong vườn ở Cung An Định, An Cựu.
Chiếc xe gỉ sét là chuyện thường, ấn tín cũng chẳng ra gì, mà thân hoàng
thượng thì "hoang phế bơ vơ" như câu thơ của Nguyễn Đình Toàn tả người
yêu.
Thế nào chiếc moto ni cũng bên Pháp đem qua; nó không thành một hiện tượng, vì người trên xe là vua mà, chừng ấy còn ít quá, có chi là xa xỉ; vả lại, ngài ngự chạy ở những vùng xa dân chúng, không phiền hà ai.
Mãi đến đầu thập niên 1950, khi bắt đầu vào trung học, tôi mới nhìn ra khỏi xó Bến Ngự một chút. Lại thấy có ông Từ Bộ Quýnh đi xe mô tô bình bịch; lại thấy ông cả Bính ở Vy Dạ đi xe cấy chi nhỏ hơn bình bịch mà to hơn mobilette AutoBécane. Lại thấy anh Hướng, làm cho Lý Lâm Tinh, huynh trưởng hướng đạo, chạy cái xe gì to hơn Lambretta. Lại thấy anh Ngọ, Mỹ Thắng (?) chạy xe Ết Bà (Vespa), chiều chiều qua Xẹt (Cercle Sportif) đánh tennis. Anh Hà Thúc Miễn, Bến Ngự cũng có Vespa. Bác Thanh, bố của Trịnh Công Sơn cũng có Vespa.
Con nít còn hay chú ý đến mấy chiếc xe moto cảnh sát hộ tống các quan lớn như thủ hiến, thấy vui vui thấy moto ba bánh, kéo bên hông một chỗ ngồi có người cầm súng. Con nít cũng thích xem các xe motto Harley của nhà binh chạy trên lòng chảo sân vận động. Họ biểu diễn đứng trên yên xe, cởi áo, mặc áo trở lại mà xe cứ vù vù như bay. Muốn xem thì phải chui lỗ chó hàng rào từ phía trường Nguyễn Tri Phương.
Anh Miễn của tui còn có xe bốn bánh; sáu chục năm sau tui xem catalogue mới biết hiệu Chrysler của Mỹ. Huế mình không đến nỗi quê mà nghĩ rằng cà rem ăn không hết phơi khô để dành. Nhưng xe hơi không phải là món gần gũi; các xe của ông giám đốc học chánh, của tỉnh trưởng, thủ hiến thì tránh xa khỏi bị nước bùn tạt vô người.
Qua đến 1954 thì Huế có nhiều xe hơn, không ai chú đến xe bình bịch như của Ngài Ngự. Ngài Ngự bây không đi xe hai bánh mà đi xe bốn bánh, đại xa, chạy khắp thành phố ngày đêm. Ngài đeo kính đen như thường, ôm một ca ve chỉ mặc xí líp. Ngài lịch sự nhường nửa cổ xe cho Ngô Chí Sĩ đứng trong chiếc tàu đang lèo lái con thuyền VN. Cuộc dạo chơi cố đô của ngài được ghi trong một đoạn về Thượng Tứ của Phan Mông Hòa (ái nữ của Maria Mộng Hoa); may quá ngài cũng có một cùng đinh đỡ đạn:
Tôi còn nhớ như in kỷ niệm về mụ Xoài. Đó là năm Huế phát động phong trào Bài Phong Đả Thực và ủng hộ “Triều” cụ Ngô. Học sinh công tư toàn thành phố ngồi đầy nhóc trên những chiếc xe buýt màu xanh dương hay xe GMC nhà binh. Bọn học trò chúng tôi được chở đi cổ động bỏ phiếu cho chí sĩ Ngô Đình Diệm. “Xanh bỏ giỏ, đỏ bỏ bì”. Xe lớp lớp chạy lòng vòng khắp mọi xó xỉnh của cố đô. Một đứa lớn họng hét to: “Đả đảo Bảo Đại” hoặc “Ủng hộ Ngô Đình Diệm” rồi cả bầy hăng bò xít hét theo mà đả đảo hay ủng hộ. Tuổi trẻ máu nóng bốc đồng thi nhau la hét đến khan hơi rát cổ. Khi xe chúng tôi chạy đến đường Thượng Tứ, một bạn la to khẩu hiệu: “Ai bán nước ?” để cả bầy còn lại đồng thanh đáp: “Bảo Đại!”. Tôi thấy mụ Xoài xóm tôi le te chạy tới. Cái cằm móm xọm dài ra hơn khi mụ cười toe toét, trả lời đon đả: “Có đây! Có đây! Có mụ Xoài bán nước đây!” (Hoàng Hôn Thôn Vỹ)
Thế rồi Huế trở lại yên lặng. Nhiều căn phố được sửa lại, xây thêm một hay hai tầng như nhà sách Gia Long của chị Dương, mẹ của cô Hồng. Phía Hàng Bè có Kem Anh Đào của mẹ Trâm (em của La …Thanh).
Huế không thêm xe bình bịch to lớn, nhưng thêm Vespa, không nhiều lắm. Lambretta đã xuất hiện; không ăn khách “dòm” vì không ngọt nước như người anh em Italie. Con nít cửng con mắt cũng to thêm đồng nhịp với thân thể cho nên cái nhìn cũng to theo, để chú ý đến xe hơi. Dạo ấy, chạy quanh nhiều trong thành phố là Peugeot 203. Chaffenron chưng cả nguyên chiếc trong tủ kính như con búp bê, nhưng các bậc phu huynh thì thích tờ rác xông, mà còn thích tờ rắc xông ken nhiều hơn (ken, 15, quinze). Xuất hiện sau 54 là hai chiếc Mercedes, chúng liên quan đến thời cuộc tình hình chính trị mới.
Bên cạnh hai cô con gái mặc jupe rất chi là quí phái trưởng giả, đốc Quyến còn có thêm chiếc Mercedes màu xám, từ ngày làm bác sĩ gia đình, trông nom sức khỏe Cụ Cố, thâm mẫu Ngô Chí Sĩ, và Ngô Cố Vấn Tối Cao Miền Trung. Đốc Quyến dư tiền mua Mercedes bằng vàng cũng được nhưng miệng người thì nói quà tặng của Lãnh Tụ Anh Minh. Mà quà tặng thì có chi mà nói. Trong khi đốc Quyến ung dung như rứa, các người khác trong phong trào Hòa Bình thì xấc bấc xang bang.
Chiếc Mercedes thứ hai là của ông Nguyễn Văn Hai. Thầy Hai đã là người ủng hộ quyết liệt lấy tên Ngô Đình Diệm thay cho tên Khải Định. Việc đã thành nhưng trong vài tháng, trường mang tên là Quốc Học. Thầy Nguyễn Đình Hàm nói ông đã có công lớn trong việc đặt tên mới nầy và thành hiệu trưởng QH đầu tiên; ông cũng nói xa nói gần việc nầy làm cho thầy Hai khó chịu. Thầy Hai sau đó làm giám đốc học chánh Trung Phần. Ít lâu sau thì ông Đinh Quy lên thế thầy Hàm. Lại chào xáo trong trường. Có người vẽ trên stencil và in ronéo một bức hý họa không có chữ: một con rùa đội trên lưng một tấm bia đá, có khắc một chữ duy nhất, vừa có thể đọc là chữ “Q” hoa không tròn đủ hay đọc là con số 2.
Thầy Hai đầy nhiệt tình cách mạng, sửa đổi cách thi lục cá nguyệt; các lớp ngồi chung làm bài như nhau; đề thi các giáo sư trình thầy Hai duyệt và quyết định. Thầy không thích các giáo sư mặc áo tay cụt; có sự đụng độ nho nhỏ với thầy Đương dạy vạn vật; dịp nầy thầy Đương trở lại ngành y khoa Saigon. Thầy Hai đã qui định đồng phục trắng, nam sinh có cà vạt xanh dương. Mỗi sáng thứ hai tôi phải thắng khô mực và đôi dép lốp đi chào cờ. Sân trường chia làm bốn, cột cờ ở giữa. Thay phiên nhau, các ô cử người lên đánh nhịp bắt giọng hát quốc ca và suy tôn Ngô Tổng Thống.
Khi thầy Hàm đứng đầu trường, thầy vẫn giữ những tập tục nầy, kể cả việc đóng cửa tức khắc khi có chuông vô lớp. Nhưng không khí dịu hơn một chút, ít tính cách đoàn ngũ hóa nhân dân. Thầy Quy chấp chánh, mở thêm chức vụ giám học; mấy trò sính tiếng tây thì hay gọi là senseur. Theo nghĩa thông thường, senseur là thầy phó hiệu trưởng chuyên lo về kỷ luật. Đúng vậy, thấy giám học hầu như là chủ tịch một hội đồng vô hình gồm các giáo sư cố vấn. Thầy cố vấn thật đáng sợ; tuy không phải là tổng quát như nhau, các thầy nầy vô lớp thường nêu chuyện kỷ luật kèm với những lời hăm dọa bị đuổi v.v… Cha mẹ thường trấn an con cái với câu dang cao đánh sẻ. Ngoài ra, thầy giám học còn trông coi Hiệu Đoàn, tổ chức sinh hoạt chung của các trường, nhiều dấu hiệu hướng về đoàn ngũ hóa.
Thầy Hai trúng cử làm dân biểu của Quốc Hội Lập Hiến; QH nầy được lưu nhiệm làm QH lập pháp đầu tiên. Mọi dân biểu (52 vị ?) được mua xe “de luxe” không thuế; xe cộ thời ấy bị đánh thuế đến 300% giá trị. Thầy Hai mua Mercedes. Thỉnh thoảng Huế cũng thấy thầy Hà Như Chi, cũng là dân biểu, lái xe “de luxe” Peugeot 403 mỗi khi từ Saigon ra thăm thân phụ thân mẫu là ông bà Hà Thúc Lãng.
Nói rứa thôi, chứ Huế không đến nỗi tệ chỉ có bấy nhiêu xế hộp. Nhưng có hai trường hợp khác coi bộ nhiều người biết tới hơn vì nó thuộc “địa giới”, tôi muốn nói không ở mức thượng thừa trong xã hội như thầy Hai, thầy Chi, ông đốc Quyến.
Chiếc xe “deluxe” Peugeot 403 của thầy Chi – nếu đã đẩy lùi các xe Peugeot 203 xuống chân danh sách ngưỡng mộ - đã không làm mất uy của một chiếc Peugeot 203 khác.
Một người đi học Mỹ về, rồi tự xưng là đạo diễn điện ảnh. Anh ta có mái tóc phờ ri dê xỏa nửa trán, nhưng không có vẻ gì là lại cái (homo), vẫn còn nguyên dương tính. Anh mua một chiếc xe peugeot 203, hai chỗ ngồi và có mui trần. Xe cộ thời ấy thì chính là đen; Peugeot có thêm màu xám. Đàng nầy anh sơn lại, chơi nguyên màu đỏ tươi. Am mê ri ken mà!
Nhưng màu đỏ không phải là điều đáng nói. Điện ảnh gia (?) Lê Hoàng Hoa có tội đáng chết: ẳm được cô Ty bỏ lên xe chạy khắp thành phố. Tội đáng chết vì làm bao người nuốt nước miếng ừng ực. Cô Ty bán sách ở nhà sách Ưng Hạ. Bao nhiêu trai thanh, học giả tới đó mở sách ra xem mà mắt nhìn trộm cô hàng. Nhiều nhất là mấy ông sư phạm chơi nguyên đồng phục côm lê. Cô Ty phải biết có hai thứ sinh viên ở Huế, một bên là sư phạm có học bỗng. Khi tự giới thiệu với các bà mẹ có con gái mình là sinh viên thì được hỏi là sư phạm chi, anh văn hay lý hóa…
Còn như văn khoa hay luật khoa thì chỉ là đồ cà lơ phất phơ, còn lâu mới thành a vô ca có tiền, suốt đời “làm thi sĩ là tru với chó”. Rứa mà mấy ôn sư phạm ái mộ cô, cô có giá quá hè.
Cô Ty có đóng phim hay không, nào ai hay biết. Phim trường của LHH thường là Hội Việt Mỹ. Về sau cơm cháo giữa chàng và nàng có ra chi hay không, tui không biết; tuy vậy sau đó, dân Huế không còn cơ hội chứng minh câu thơ Tàu: thư trung hữu nữ nhan như ngọc, trong nhà sách Ưng Hạ có người đẹp như ngọc như ngà.
Xanh xanh đỏ đỏ em nhỏ nó mừng. Hết lượt xe đỏ Peugeot thì qua xe xanh, xanh lá mạ thì rõ ràng hơn, để không nhầm với xanh biển. Chiếc xe khá to, cũng mui trần như xe của nhà làm phim. Khi đồng An Cựu xanh rì ngọn lúa thì khách qua đường khó nhận ra chiếc xe; vì xe hay đậu trước sân của một villa có mặt tiền phía đường nhưng quanh còn ruộng. Villa nầy là chỗ ở của ông sếp công chánh tỉnh; ông mới rời nguyên quán Quảng Trị vô đất thần kinh đem theo hai cô con gái (con trai thì kể làm chi cho mệt, có một trăm trự cũng thế thôi). Nhưng trội nhất là cô chị Hồng Thủy.
Ông bạn tôi mới trả lời email nói Hồng Thủy đi xe Lambretta vô trường đã thành một điều kinh khủng. Đúng vậy nhưng bạn tôi quên nói Hồng Thủy đã thường lái xe mui trần chạy quanh thành phố những lúc đông người. Tóc nàng bay bay trên cầu Trường Tiền. Thường Hồng Thủy chỉ đi một mình, (không như Lê Hoàng Hoa có cô Ty) hay cô em gái, cho nên với một số gà trống, mặt trận miền tây vẫn bình yên.
Mi đi xe máy (xe đạp) người ta đi xe điện (xe hơi), mắc chi mi noái, tức à, tức ăn ...mà trừ. Đồ vô duyên, vô duyên cảy, bảy ngày không hết vô duyên.
Vô duyên kệ tui. Hồng Thủy không bao giờ đi trên hè phố, chỉ đi xe hơi
nhưng Huế có lời đồn Hồng Thủy đi bộ đường Trần Hưng Đạo vác guốc gõ lên
đầu mấy cậu con trai trêu chọc đôi môi của nàng. Hồi đó guốc đã tân
thời lắm rồi. Hình như guốc Dakao. Lúc ấy “mốt” cả thế giới là gót giày
gót guốc nhỏ bằng móng tay. Các hãng máy bay phải thay nền máy bay bằng
nhôm cứng hơn vì gót giày mấy bà bự thiệt bự lún vô kim loại như bùn,
phải bồi thường tai nạn. Rứa thì Hồng Thủy mà chơi cái gót guốc lên đầu
thì chỉ có chết thôi nếu không đội nón sắt hay đã được mẹ nhúng vào suối
tiên như Archille để thành xương đồng da sắt.
Không thấy ai chết, hay mũi ăn trầu cái đầu xức thuốc. Tui có hỏi hai người bạn cũ, họ đều nói Hồng Thủy là một kiều nữ rất bình thường, hiền hòa; chơi bạo chiếc Lambretta có chết ai mô. Một người hiện ở bên Đức nhiều năm học chung và sau đó cũng biết cô nàng. Một người hiện ở vùng thủ đô Hoa Kỳ, cùng gốc Quảng Trị đã than phiền tin thất thiệt. Đêm văn nghệ cuối năm 1959, Hồng Thủy hát bài Hòn Vọng Phu 2 của Lê Thương, tôi còn nhớ mặt người đệm sáo tre nhưng không nhớ tên.
Dẫu răng đi nữa, những điều viết trên đây xẩy ra vào một thời tương đối an bình của Huế; lúc ấy chưa có biểu tình, bàn thờ xuống đường, chưa có thảm sát Mậu Thân.
Tôi viết theo lối mà Tràm Cà Mau nói là lang thang xứ Huế, cũng rất vô duyên cảy bảy ngày không hết vô duyên. À mà viết khi nhận mấy bức hình moto rất thời trang của những cô gái Huế ngày nay. Những lần chuyển chuyển forward, forward, không ai nói chi trừ một thân hữu nêu chuyện Hồng Thủy đi xe Lambretta đến trường; chẳng có nghĩa lý gì so với hiện nay mà đã là chuyện gần như kinh khủng. Nói chung, vẫn có một chút gì không đồng ý, không nói ra.
Nhưng nói cho cùng Huế mình cái chi không có, nhưng cái có xưa kia ít ồn ào, và che dấu được. Bây giờ có ai sợ chi; còn che dấu là còn biết cần có một giá trị nào đó. Che dấu không phải hoàn toàn tốt nhưng cũng không phải hoàn toàn xấu. Huế mình đôi lúc còn đi trước. Ngay sau 75, một đấng hương sắc của sông Hương núi Ngự đã tiên phong chụp hình khỏa thân và quay phim cảnh làm tình với một người ngoại quốc trên một du thuyền neo ở Vũng Tàu. Những gì qua ống kính đã đến các tòa báo Saigon.
Nhưng về ngôn ngữ thì những chuyện như rứa không có. Huế mình không thấy, Huế mình chỉ chộ.
Dùng hai chữ bình bịch cho những chiếc hai bánh hiện nay thì sẽ bị các cô lấy giày đánh trên đầu, như người ta gán ghép cho Hồng Thủy. Bởi lẽ bình bịch xưa cổ lỗ sĩ còn những chiếc moto nầy mới, chạy nghe êm trừ phi chủ nhân muốn tháo ống bô (ống khói) kêu thiệt to.
Người Huế, nam hay nữ, nếu không phải là triết gia, văn sĩ, thi sĩ, luận sĩ, thiền sư, thì ít nhất cũng là những nhà hoạt động, những nhà tuyên truyền, xin lỗi tôi muốn nói activiste. Hoạt động cho đảng phái, cho tôn giáo, cho các thế lực v.v… Một ký giả nửa Pháp nửa Mỹ nói như thế để chứng minh luận điểm của ông rằng người Huế rất sâu sắc, theo chiều hướng thiện hay chiều hướng nguy hiểm tùy người; người Huế không đơn giản chút nào. Cứ xem tạm như ông nhà báo ấy nói đúng, thì mấy cô chạy xe moto thứ xịn nhất thế giới, mấy cô nầy sẽ được xếp vào chỗ mô? Mấy cô nầy hết sức đơn giản và cái chi cũng để lộ ra ngoài. Mấy cô không cần một tay giữ nón lá, một tay giữ tà áo, phòng khi có ngọn gió bất thường tấn công những lớp vải mỏng thín. Mấy cô nầy khi mô cũng phây phây.
Nếu lúc trước kia Huế được mô tả như trái mãng cầu (quả na) ngoài ngói móc trong bột lọc nhụy đậu đen thì Huế ngày nay đem trong ra ngoài như trái điều lộn hột. Ở một mức độ khá lớn, sự thể này trông ra dễ , dễ bề tính toán; dễ bề tính toán kể cả trong tình yêu và nhất là lập kế hoạch đưa nàng về dinh.
Xứ Huế khó bề duy trì nét thầm lặng bên ngoài làm môi giới cho sự thầm lặng bên trong. Một trong những lý do là quá nhiều người mới lạ, lạ từ nguyên quán, lạ trong lối suy nghĩ. Nhưng trên hết, xứ Huế không thoát khỏi những đặc tính chung của toàn VN, không thể nói Huế cao thượng hơn, sạch sẽ hơn, spiritual hơn…
Nói đến cái trầm lặng của Huế làm tôi liên tưởng đến Lào và Miến Điện. [Mấy dòng kề cận tôi lấy ý của Tiziano Terzani trong cuốn A Fortune Teller Told Me.
1962 tướng Ne Win đảo chánh cầm quyền, đưa ra đường lối gọi là xã hội chủ nghĩa theo lối Phật Giáo, áp đặt độc tài quân phiệt, quốc hữu hóa nền kinh tế, tống giam thành phần chống đối. Ne Win không muốn sự hà khắc của Tàu Cọng, cũng không muốn đường lối sùng vật chất của Mỹ đang tung hoành ở Thái Lan và chung quanh. Đánh đổi nền độc tài khắc nghiệt, truyền thống được duy trì, tôn giáo phát triển, 45 triệu dân không bị đưa vào cơn lốc của sự đô thị hóa, của kỹ nghệ hóa và tây phương hóa. Chính quyền Rangoon không muốn quá nhiều người ngoại quốc làm ô nhiễm không khí quốc gia; chiếu khán chỉ cấp bảy ngày lưu trú. Chùa chiền được giữ trang nghiêm làm nơi hành đạo chứ không phải viện bảo tàng cho du khách chụp hình, rộn ràng như ngoài chợ.
Sau ¼ thế kỷ với quyền uy tuyệt đối, Ne Win trao tay lái cho đàn em. Lớp mới nầy còn độc tài hơn lão tổ, trân tráo hơn, tàn bạo hơn, giết người nhiều hơn nhưng tân thời hơn. Mấy ông vua con nầy bỏ chủ trương cô lập và theo hình thức phát triển xô bồ. Bốn mươi năm cưởng lại, Miến phải nhường bước cho cái định mệnh chung, không ai thoát khỏi từ Tàu của Mao, Ấn của Gandhi, Khmer của Pol Pot, VN.
Giữa thập niên 1990, Terzani đến thị trấn nhỏ Tachilek cạnh biên giới Thái đã choáng mắt bởi những chữ mạ vàng: “Tourists, welcome to Burma” thay những chữ ông còn nhớ: Foreigners, keep away. Any one passing this point risks being shot. Có 14 sòng bài, mấy chục chỗ hát kaoroke. Người Thái mở siêu thị, nhà hàng. Không ai xài tiền Miến, chỉ dùng ngoại tệ. Ma túy, mãi dâm hầu như buôn bán công khai. Các ông tướng ông tá đứng đầu các dịch vụ du lịch như di chuyển, thông ngôn, ăn ở…
Về phần Lào, bao năm phản đối, phải để cho Úc xây cây cầu qua Mekong nối liền với Thái. Bây giờ cây cầu mệnh danh là cầu Xi Da (The Aids Bridge). Trung Cọng đang mở con đường xuyên Miến nối liền Tàu và Thái.
Là một người mến văn hóa đông phương, biết nhiều về lịch sử từng vùng, Terzani cho rằng Tây Phương hóa trở thành thuốc phiện cho cả Á Châu. Người Tàu đã có số đông không dùng đủa mà dùng muỗng nĩa cho tiến bộ. Singapour là một hòn đảo điều hòa không khí, chỉ có hotel và nhà hàng. Lý Quang Diệu là người mẫu của tư bản Tàu lục địa. Ký giả Ý nầy (1938-2004) có cái nhìn ngộ nghĩnh.
Bốn, năm thế kỷ trước Tây Phương đến Á Châu bị đánh lại (tuy vẫn thắng) như chiến tranh ma túy bên Tàu, Cần Vương bên mình. Nhật Bản bên ngoài theo tân trào, bên trong tổ chức cẩn thận mọi bề chống lại ảnh hưởng ngoại lai. Nhưng bây giờ Tây Phương đem liều thuốc phát triển thì Á Châu đón nhận với bất cứ giá nào, hằng triệu người là nạn nhân trực tiếp hay gián tiếp. Những xáo trộn ấy đẻ ra những chiếc xe motto mắc tiền, chạy ngang đánh bạc những chiếc nón lá rách của người đi bộ nghèo trên xứ Huế
Tôi đã lạm dụng thì giờ của các bạn để đi hơi xa, khởi hành từ chiếc xe bình bịch. Nhưng nhịp độ biến thiên của xứ Huế còn nhanh hơn những chiếc hai bánh do các nường phóng theo gió. Các chùa xưa như Tra Am nay đã xây lại theo đá rửa, lưỡng long chầu nguyệt bằng mẻ chén kiểu. Quanh các chùa có những ghế đá lọ lem khắc ghi tên người cúng và tên người được hồi hướng, những câu thiền viết bay bướm không ai đọc ra treo khắp nơi. Huế mình đang có phong trào ăn chay nghệ thuật, con gà chay, thịt heo nướng chay, con tôm chay.
Có nhiều biến thái khác. Nhưng đây chỉ nếu một biến thái nhỏ về ngôn ngữ: rồi ra, người Huế sẽ nói chữ “vào” thay cho chữ “vô” dù là gốc Nôm hay Hán Việt. Một tác giả viết về Huế thấy sách mình xuất bản với những chữ rất lạ: “vào luân, vào lý, vào đạo” mà bà đã viết “vô luân, vô lý, vô đạo”. Dĩ nhiên tác giả không đồng ý. Nhưng tôi, anh đổ gàn, khoái tỷ. Nếu bà mắng tôi là đồ vô đạo, vô học, vô luân; bĩnh bút sẽ biến tôi thành kẻ vào lý, vào đạo, vào học. Chẳng mấy chốc tướng cướp, kẻ giết người đều vào đạo, vào học, vào lý. Khổng Lão Thích đều thất nghiệp.
Dẫu sao, những chiếc moto hào nhoáng – phản ảnh những bất thường của thời đại – gợi lên thương tiếc một thời áo quần giản dị, đi lại chẫm rải chừng mực. Hoài niệm chỉ là hoài niệm mà thôi. Sự trầm lặng của Huế không bao giờ trở lại. Vì sao? vì lòng người đã thay đổi. Lòng người Huế đã thay đổi âm thầm từ lâu, nay mấy cô moto làm cho sống dậy mạnh bạo hơn; những thứ gọi là bạo động tinh tế đã có: Một tin đồn Hồng Thủy trở gót guốc đánh đầu người ta, một “chân lý” (trong ngoặc kép) vĩnh viễn: sông Hương dưới thuyền có đĩ trên bờ có vua.
Xin lỗi tôi hơi méo mó Phật giáo một chút: tâm bình thế giới bình. Tướng tại tâm sinh, hãy nhìn người Huế bây giờ, dù vẫn còn áo tím, đứng dưới mái hiên chùa. Trực giác sẽ giúp chúng ta. Bình bịch năm xưa, bình bịch năm nay chỉ là những thứ ngoài da.
Báo chí tiếng Việt trong và ngoài nước đã nói nhiều về cách trình bày hiện vật ở bảo tàng này.
Có những ý kiến từ giới sử gia trong nước cho rằng cuộc triển lãm chưa đầy đủ.
Hôm qua, 08/09/2014, lần đầu tiên một cuộc triển lãm về Cải
cách ruộng đất đã khai mạc tại Hà Nội và đã thu hút rất nhiều người đến
xem. Nhưng cuộc triển lãm đầu tiên này bị đánh giá là phiến diện, tức là
chỉ phản ánh một mặt của Cải cách ruộng đất, hay đúng hơn là nhằm biện
minh cho chính sách này, chứ không tái hiện những sai lầm, những bi kịch
của cái gọi là cuộc “Cách mạng long trời lở đất” cách đây hơn 60 năm.
Vụ đánh ghen vũ nữ Cẩm Nhung
Đây là một bài mồ côi vì không có hoặc ít có bài khác liên kết đến nó.
Xin hãy tạo liên kết đến bài này trong các bài của các chủ đề liên quan. (tháng 8 2014)
Vụ đánh ghen vũ nữ Cẩm Nhung bằng hình thức tạt axít diễn ra vào ngày 17 tháng 7 năm 1963 tại Sài Gòn. Đây được xem là vụ đánh ghen tàn bạo và rùng rợn nhất từng được ghi nhận tại thành phố này,[1] gây chấn động cả Sài Gòn và miền Nam trong một thời gian dài. Báo chí thời điểm đó đánh giá đây là vụ đánh ghen bằng axít lần đầu tiên xảy ra trong giới thượng lưu Sài Gòn, là tâm điểm quan tâm của nhiều tầng lớp.[2]
Tại vũ trường Kim Sơn trên đường Tự Do - một trong những con đường phồn hoa và đắt giá nhất Sài Gòn, Cẩm Nhung gặp gỡ và phải lòng trung tá Trần Ngọc Thức, một tay chơi có tên tuổi làm trong ngành xây dựng công trình quân sự và đã có gia đình. Việc đến tai vợ ông là Lâm Thị Nguyệt, với biệt danh Năm Rađô. Bà đã nhiều lần đón đường, hăm dọa Cẩm Nhung nhưng không có hiệu quả.[1]
Khoảng 10h đêm ngày 17 tháng 7 năm 1963, trên đường rời nhà ra xe đưa rước đến vũ trường, Cẩm Nhung bị một người đàn ông tạt ca axit đậm đặc vào mặt. Cô được đưa đến bệnh viện cấp cứu ngay sau đó nhưng chỉ giữ được mạng sống, đôi mắt đã mù loà và nhan sắc bị huỷ hoại hoàn toàn:[1] khuôn mặt cháy xám, thẹo lồi lõm và cặp mắt mờ đục lồi ra ngoài như mắt ếch.[2]
Phiên toà mở ra 3 tháng sau đó kết tội bà Năm Rađô và tên tạt axít thuê mỗi người 20 năm tù và 15 năm tù cho tên đồng bọn khác. Vài tuần sau đó, cuộc đảo chính diễn ra, chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ và Trần Lệ Xuân phải sống lưu vong ở nước ngoài. Vụ xử đánh ghen đang kháng cáo bị dừng lại và đi vào quên lãng trong không khí rối ren chính trị của Sài Gòn vào thời điểm đó. Sau này vợ chồng Thức chia tay nhau. Người chồng sống ẩn dật và người vợ đi tu.[5]
Sau vụ vũ nữ Cẩm Nhung bị hại, như một sự mở màn, ở Sài Gòn nổi lên phong trào đánh ghen bằng axít. Riêng năm 1964 đã có hàng chục vụ.[1]
Vũ nữ bị tạt axít nổi tiếng nhất Sài Gòn đã qua đời
Cách đây nửa thế kỷ, vào giữa năm 1963, tại Sài Gòn xảy ra một vụ đánh ghen được coi là rùng rợn nhất ở thành phố này. Đây cũng là lần đầu tiên 'Hoạn Thư" ở Sài Gòn biết sử dụng axít đậm đặc để "thanh toán" tình địch.
> Nạn nhân là cô vũ nữ nổi tiếng nhất Sài Gòn lúc ấy tên là Cẩm Nhung, người được mệnh danh là “nữ hoàng vũ trường”. Người thủ ác là một mệnh phụ phu nhân, vợ của một trung tá Sài Gòn. Vụ tạt axit rùng rợn đã biến cô vũ nữ giàu có, đẹp lộng lẫy thành cô gái mù lòa xấu xí, phải đi ăn mày.
Khi còn là vũ nữ, Cẩm Nhung nổi tiếng nhất Sài Gòn, lúc đi ăn mày cô càng “nổi tiếng” hơn, khi luôn đeo trước ngực bức ảnh mình chụp với người tình trung tá thời trên đỉnh cao danh vọng.
Bà lão mù lòa từng là vũ nữ.
Một ngày đầu năm 2013, tại một xóm trọ nghèo ở thị xã Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang), nơi những người ăn xin, bán vé số, bốc vác tứ xứ đến thuê ở trọ, có một đám ma nghèo. Một bà lão bán vé số đã qua đời vì già yếu, bệnh tật. Không một người thân, bà lão được những người đồng cảnh ngộ lo cho một quan tài loại rẻ tiền, rồi đưa ra nghĩa địa... Sẽ không có chuyện gì đáng nói về đám ma nghèo của bà lão vô gia cư, nếu như người quá cố nói trên không phải là vũ nữ Cẩm Nhung lừng danh của nửa thế kỷ trước.
Trước ngày miền Nam giải phóng, người ăn mày mù lòa Cẩm Nhung với cây gậy dò đường và tấm ảnh chụp chung với người tình treo trước ngực, lê bước khắp nẻo Sài Gòn để xin lòng thương hại của mọi người. Về sau do bị săn đuổi, bà xuống ăn xin ở bến phà Mỹ Thuận trên đường về miền Tây.
Sau ngày miền Nam giải phóng, người ta còn thấy bà ngồi ăn xin trên bến phà Mỹ Thuận một thời gian. Từ khoảng năm 1978, không ai thấy người ăn mày đeo tấm ảnh trước ngực đâu nữa.
> Người đời bàn luận rằng có lẽ bà đã bệnh chết hoặc đã quyên sinh để chấm dứt kiếp hồng nhan bạc phận của mình. Mãi sau này người ta mới phát hiện bà vẫn còn sống, vừa bán vé số vừa ăn xin quanh các ngôi chùa ở thị xã Hà Tiên, mà thường nhất là ở chùa Tam Bảo. Người ta nhận ra bà bởi khuôn mặt gớm ghiếc và đôi mắt mù lòa, hậu quả của vụ tạt axít năm xưa. Và nay, người ăn mày đặc biệt đã vĩnh viễn từ giả cõi trần, chính thức khép lại một kiếp hồng nhan đa truân, sau đúng nửa thế kỷ từ vụ đánh ghen rùng rợn năm nào.
Nữ hoàng vũ trường
Vũ nữ Cẩm Nhung sinh năm 1940 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi, cô phải rời xa Hà Nội để theo gia đình
di cư vào Nam. Vào Sài Gòn được ít năm, khi cuộc sống chưa ổn định, cha của Cẩm Nhung lâmbệnh rồi mất, bỏ lại 3 người phụ nữ, mẹ cô, bà vú Sọ và cô. Cẩm Nhung phải bỏ học, xin vào làm tiếp viên trong một nhà hàng, chuyên bưng bê món ăn cho khách. Nhờ đó cô đã lân la làm quen với những bản nhạc, những điệu nhảy trong quán bar của nhà hàng. Để rồi khi chưa tới 19 tuổi, cô đã trở thành gái nhảy chuyên nghiệp trong giai đoạn phong trào nhảy đầm phát triển rầm rộ ở Sài Gòn.
Cẩm Nhung có khuôn mặt đẹp và làn da trắng hồng đặc thù của con gái xứ Bắc. Tạo hóa ban thêm cho cô đôi mắt lẳng lơ, thân hình quyến rũ. Đặc biệt đôi chân điệu nghệ của cô trong các vũ điệu cuồng say tại vũ trường Kim Sơn đã làm bao khách làng chơi phải ngẩn ngơ. Lúc ấy Sài Gòn có hàng trăm vũ trường, gái nhảy không đủ đáp ứng, vì vậy mà Cẩm Nhung càng có giá, được các vũ trường săn đón như hàng độc, như của quý. Cô được dân chơi Sài Gòn phong là “Nữ hoàng vũ trường”.
Cô đi qua nhiều vũ trường, cuối cùng dừng lại với vũ trường Kim Sơn trên đường Tự Do (nay là Đồng Khởi, quận 1). Tại đây, cô đã trở thành người tình của tay trung tá công binh Trần Ngọc Thức. Cô vũ nữ 23 tuổi dù đã từng trải trong tình trường đã bị tay trung tá công binh lớn hơn cả chục tuổi “hớp hồn” ngay những lần gặp đầu tiên. Sự già dặn, từng trải, tiêu tiền như nước của Thức cùng với cái lon trung tá rất oai thời ấy đã làm cô vũ nữ sành điệu chấp nhận sa vòng tay bảo bọc của ông.
Thời ấy, “Thức công binh” (biệt danh của trung tá Trần Ngọc Thức) nổi lên như cồn trong giới ăn chơi ở Sài Gòn. Miền Nam bắt đầu tiếp nhận viện trợ ồ ạt của Mỹ, chủ yếu là vũ khí và đô la để xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ quân đội, phục vụ chiến tranh. Đó là cơ hội vàng để “Thức công binh” tham nhũng, trở nên giàu có, thừa tiền của để bao gái.
Vợ trung tá Trần Ngọc Thức tên thật là Lâm Thị Nguyệt, có biệt danh là Năm Rađô - một biệt danh giới giang hồ khu Cô Bắc đặt cho, do bà chuyên buôn mặt hàng đồng hồ Rado của Thụy Sỹ mới nhập cảng vào Sài Gòn. Bà Năm Rađô không lạ gì thói trăng hoa của chồng, nhưng lần này biết chồng say mê cô vũ nữ trẻ đẹp quên cả gia đình, bà như phát điên vì ghen. Bà đã vài lần đón đường hăm dọa, thậm chí tát tai dằn mặt vũ nữ Cẩm Nhung, nhưng bấy nhiêu đó không đủ làm cho cô gái trẻ rời xa chồng bà.
Vụ đánh ghen ghê rợnTheo thú nhận của Cẩm Nhung với báo chí Sài Gòn sau khi xảy ra vụ đánh ghen ghê rợn, khi làm người tình của trung tá Thức, cô nghĩ rằng mình có thể trở thành vợ bé của ông ta, một việc khá bình thường trong xã hội Sài Gòn thời đó. Cô đâu biết rằng trong lúc cô ngây ngất trong vòng tay của ông trung tá dìu dặt trong những điệu nhảy ở vũ trường Kim Sơn, thì ở khu gia binh Cô Bắc cách đó không xa có một người đàn bà đang âm thầm chuẩn bị một kế hoạch đánh ghen ghê rợn.
Bà Năm Rađô đã vạch kế hoạch tỉ mỉ tiêu diệt tình địch. Hai tên giang hồ có cỡ được bà Năm Rađô thuê với giá 2 lượng vàng để làm cái việc hủy diệt nhan sắc của cô vũ nữ. Bà Năm Rađô tin tưởng, khi Cẩm Nhung không còn nhan sắc, cô sẽ không thể quyến rũ chồng bà, Thức công binh sẽ trở về với vợ con.
Khoảng 22h đêm ngày 17/7/1963, vũ nữ Cẩm Nhung rời khỏi nhà để đến vũ trường Kim Sơn. Hàng ngày cô đều rời khỏi nhà vào giờ này, hoặc đi taxi, hoặc có xe của đại gia đón rước, để cô đến vũ trường trước 23h, nhảy nhót quay cuồng cho đến 3-4h sáng. Khi Cẩm Nhung còn cách chiếc taxi khoảng 10m, bất ngờ từ bên kia đường một gã đàn ông băng nhanh qua đường, tiến về phía cô. Cẩm
Nhung chưa kịp phản ứng thì gã đàn ông đã tạt mạnh ca axít vào mặt cô. Cẩm Nhung chỉ kịp kêu lên: “Chết tôi rồi, cứu tôi với” rồi ngã gục trên đường. Người đàn ông sau khi tạt axít đã băng qua bên kia đường, leo lên xe taxi mở cửa chờ sẵn, trên ấy có bà Năm Rađô.
Nghe tiếng kêu cứu, một số người đi đường đã chạy đến, họ thấy Cẩm Nhung nằm quằn quại dưới đường, mùi axít xông lên hôi nồng. Một người đàn ông đã ôm nạn nhân lên xe taxi, chở đến bệnh viện Đô Thành (bệnh viện Sài Gòn ngày nay). Do bệnh viện Đô Thành không có khả năng trị bỏng, nhất là
bỏng axít, nạn nhân sau đó đã được chuyển đến bệnh viện Đồn Đất (bệnh viện Nhi Đồng 2 ngày nay).
Vụ việc đến tai bà Trần Lệ Xuân, vợ của Ngô Đình Nhu. Bà cố vấn vốn tính bốc đồng đã làm lớn vụ việc, làm cho cả Sài Gòn như sôi lên vì vụ đánh ghen này.
Khi Bà Ngô Đình Nhu vào cuộc
Những vũ nữ là bạn của Cẩm Nhung đến thăm, thấy cảnh sát hại dã man, đã hùn tiền lại mời luật sư bảo vệ cho Cẩm Nhung, đưa vụ việc ra pháp luật. Thế nhưng, thời ấy, thế lực của “Thức công binh” và bà “Năm Ra-đô” rất mạnh ở Sài Gòn, nên tưởng như không ai làm được gì họ. Một tuần lễ sau khi xảy ra vụ tạt axít, bà Trần Lệ Xuân (vợ của cố vấn Ngô Đình Nhu) đi công cán nước ngoài về tới Sài Gòn. Đọc báo thấy sự việc, bà Lệ Xuân tức giận, chỉ đạo Nha An ninh phải làm rõ vụ việc, xử thật nặng những kẻ gây tội ác.
Tại bệnh viện Đồn Đất, ban đầu, nạn nhân Cẩm Nhung được cho nằm ở khu dành cho dân thường, ai vào thăm cũng được.
> Mỗi ngày, luôn có hàng trăm người thân, bạn bè, những người hiếu kỳ tới thăm Cẩm Nhung. Có một
người khách thăm đã kề tai Cẩm Nhung nói rất nhỏ, nói vừa đủ cho cô nghe: “Muốn yên thân thì hãy câm miệng, nếu cô làm lớn chuyện, “bả” sẽ giết chết cô. Trong những ngày ấy, bà vú Sọ là người suốt ngày đêm trực bên giường Cẩm Nhung. Tình cờ, bà vú Sọ phát hiện có kẻ lạ mặt rình rập cô Cẩm Nhung.
Để kiểm chứng bà giả vờ đi ra khỏi phòng bệnh để mua đồ, nhưng kỳ thực, bà nép mình ở góc hành lang để theo dõi. Kẻ lạ dã nhanh như sóc lách mình vào buồng bệnh nhân. Bà vú Sọ hốt hoảng chạy ngay trở lại phòng bệnh, vừa lúc bà thấy kẻ lạ giở tấm drap trắng đắp lên người Cẩm Nhung. Thấy bà
trở vào phòng, kẻ lạ lúng túng nói là người quen tới thăm nạn nhân, sau đó lặng lẽ biến mất. Bà vú Sọ đã báo lên bệnh viện và thông báo với nhà chức trách.
Bà Trần Lệ Xuân nghe chuyện, đã chỉ đạo bệnh viện đưa Cẩm Nhung vào khu chăm sóc đặc biệt,
không ai được vào thăm khi chưa có ý kiến của lãnh đạo bệnh viện. Mọi cuộc thăm viếng Cẩm Nhung sau đó đều có sự giám sát chặt chẽ của cảnh sát.
Bà Lệ Xuân còn chỉ đạo cho ngừng hoạt động của tất cả các vũ trường, vì theo bà, đó là nguồn gốc của thói ăn chơi sa đọa, tan nát gia đình và tội ác. Bà còn cho kiểm tra tất cả các tướng tá Sài Gòn xem ai có vợ nhỏ phải xử lý kỷ luật.
Sài Gòn những ngày sau đó đìu hiu về đêm, khi mà hàng trăm vũ trường nhộn nhịp phải đóng cửa theo lệnh của bà cố vấn. Các tướng tá thì bị một phen sốt vó, chạy lo đủ kiểu để không “lòi mặt chuột” có vợ nhỏ. Không chỉ các vũ trường mà các nhà hàng sang trọng ở Sài Gòn sau đó cũng chịu chung
cảnh ế ẩm, khi mà phong trào ăn chơi của giới thượng lưu bất ngờ trở nên trầm lắng. Sau giờ làm
việc, các đấng phu quân ở Sài Gòn chạy thẳng về nhà với vợ con, để cô vợ không nổi hứng tố cáo với bà cố vấn là chồng mình đã có vợ nhỏ.
> Nếu như cú tạt axít làm Cẩm Nhung đau đớn thân xác, nhan sắc bị hủy hoại hoàn toàn, thì cú tạt axít này cũng làm người trong cuộc là “Thức công binh” đau đớn không kém. Không phải ông đau đớn vì cô vợ nhỏ bị nạn, mà là vì con đường công danh, sự nghiệp của ông ta bỗng chốc chấm hết, bao nhiêu bổng lộc trong ngành xây dựng công trình quân sự bỗng chốc mất trắng.
> Chẳng những thế, ông còn bị miệng đời chê cười, mỉa mai. buộc trung tá Trần Ngọc Thức phải giải ngũ, trở về làm dân thường. vụ án đã đưa ra xét xử. Một phiên tòa đã được mở sau khi vụ tạt axít xảy ra gần ba tháng. Bà “Năm Ra-đô” và tên du đăng trực tiếp tạt axít bị tuyên phạt mỗi người 20 năm tù, tên đồng bọn còn lại bị phạt 15 năm tù.
> Thế nhưng, chỉ vài tuần sau, khi vụ án còn đang bị ở quá trình kháng cáo thì chế độ Ngô Đình Diệm đã bất ngờ sụp đổ . bà Lệ Xuân phải sống lưu vong. Chính trường Sài Gòn sau đảo chánh đã bị khủng hoảng, vô chính phủ suốt mấy năm trời, không ai quan tâm đến vụ tạt axít cô vũ nữ Cẩm Nhung, vì vậy mà vụ án này tự nó bị “thối án”..
> Không bị xử tù, nhưng bà “Năm Ra-đô” đã mất hết quyền uy, giống như người chồng của mình. Theo báo chí Sài Gòn, sau đó, vợ chồng “Thức công binh” đã chia tay nhau mà nguyên nhân chính là vụ tạt axít của người vợ.
> Về sau, không ai còn biết “Thức công binh” ra sao, còn bà “Năm Ra-đô” thì gửi thân nơi cửa Phật, có lẽ bà muốn nhờ cửa Phật từ bi gột rửa tội lỗi khủng khiếp mà bà đã gây ra.
> Trở lại tình trạng của cô vũ nữ bị tạt axít. Axít sunphuric đậm đặc đa gây phỏng độ 3 toàn bộ khuôn mặt của cô vũ nữ, đôi mắt của nạn nhân cũng bị phỏng rất nặng. Các bệnh viện ở Sài Gòn đều lắc đầu, bó tay.
> Họ chỉ có thể cứu được mạng sống của cô gái, còn đôi mắt, khuôn mặt thì trình độ của y học Sài Gòn lúc đó chỉ biết đứng nhìn. Bà Trần Lệ Xuân đã đích thân đến bệnh viện Đồn Đất thăm nạn nhân, trực tiếp nghe các bác sĩ trình bày tình trạng thương tật.
> Đêm về, bà bàn với chồng là cố vấn Tổng thống Ngô Đình Nhu tìm cách giúp nạn nhân. Ngô Đình Nhu đã chỉ đạo cho đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa ở Nhật Bản đỡ đầu, giúp gửi cô Cẩm Nhung sang Nhật chữa vết thương. Một ngày cuối tháng 9 năm 1963, chiếc xe hồng thập tự của bệnh viện Đồn Đất đã trực chỉ hướng sân bay Tân Sơn Nhất và chạy thẳng ra tận chân cầu thang máy bay đang sắp cất cánh.
> Hai người bác sĩ dìu Cẩm Nhung lên khoang đặc biệt của chuyến bay và thá tùng cô sang tận Nhật Bản. Thế nhưng, nền y học của Nhật Bảncũng phải chịu thua, chấp nhận để dung nhan cô gái bị phá hủy hoàn toàn, vô phương cứu chữa.
> Hai tháng sau, Cẩm Nhung tự trở về nước, không có người đưa đón. Lúc đó, Sài Gòn đã đổi chủ, chế độ Ngô Đình Diệm vừa mới bị lật đổ. Bà Trần Lệ Xuân từng hứa “bao bọc trọn đời” cho nạn nhân Cẩm Nhung giờ đã sống lưu vong tận phương trời xa.
> Đau khổ chồng chất đau khổ, Cẩm Nhung đã nhen nhóm ý định “trả thù đời” ngay khi một mình ngồi chuyến bay Tokyo – Sài Gòn không người đưa đón.
Một kiếp phù hoa
> Đau khổ, buồn chán đến tuyệt vọng, vũ nữ Cẩm Nhung đã “trả thù đời” bằng cách đập phá, uống rượu, hút thuốc… Ngày trước, khi Cẩm Nhung còn ở trên đỉnh tham vọng, người đàn ông nào được dìu cô bước ra sàn nhảy nhã là diễm phúc lớn. Còn những kẻ được làm người tình của cô bao giờ cũng phải trải hàng núi tiền dưới chân cô. Bây giờ, để “trả thù đời”, Cẩm Nhung sẵn sàng ngã vào lòng bất cứ người đàn ông nào, không cần tiền bạc hay điều kiện gì.
Thế nhưng, với khuôn mặt cháy sém, những vết thẹo lồi lõm như ác quỷ, cặp mắt mờ đục lồi ra ngoài như mắt ếch, hiếm người đàn ông nào đủ can đảm làm tình nhân của cô. Chán chường, tức giận, Cẩm Nhung càng lặn ngụp trong rượu chè be bét. Người mẹ khốn khổ của Cẩm Nhung vì buồn phiền mà sinh bệnh, rồi qua đời cuối năm 1964, chỉ hơn một năm sau ngày đứa con gái bất hạnh của bà bị nạn. Càng thêm đau khổ, Cẩm Nhung càng lao sâu vào cuộc nghiện ngập cho quên đời.
> Cô ngày một thiêu đốt hết gia sản kếch sù bao nhiêu năm vắt kiệt mồ hôi trong các vũ trường và cặp bồ với hàng tá nhân tình là sĩ quan cao cấp của nền Đệ nhất Cộng hòa và các đại gia. Bao nhiêu món đồ quý giá của cô cứ lần lượt ra đi, ban đầu là chiếc xe máy loại mới nhập cảng của Nhật Bản, sau đến các loại nữ trang, hột xoàn, vòng vàng…
Bà vú Sọ là người gần gũi, an ủi, khuyên can cô nhiều nhất, nhưng mọi lời an ủi, động viên đối với cô đều không còn giá trị. Cuối cùng, căn nhà trị giá gần 200 lượng vàng, Cẩm Nhung phải bán đi để có tiền đập phá. Cô và bà vú Sọ đến thuê nhà ở khu Cô Bắc, cách không xa nhà của vợ chồng bà “Năm Ra-đô”. Số tiền bán nhà rồi cũng cạn dần. Ngày cô không còn đủ tiền để trả tiền thuê nhà cũng là ngày bà vú Sọ trung thành đổ bệnh nặng, không tiền chạy chữa, nên đã qua đời.
> Còn lại một mình trên đời, không nơi nương tựa, không người thân, không nhà cửa, không tài sản, cô vũ nữ lừng danh một thời chỉ còn con đường đi ăn xin.
> Lần đầu tiên, người dân Sài Gòn thấy vũ nữ Cẩm Nhung đi ăn xin trước chợ Bến Thành vào khoảng trước Tết năm 1969. Cô ngồi bên vệ đường Lê lợi, khăn che kín mặt mày, trên ngực đeo bức ảnh cô chụp chung với trung tá Trần Ngọc Thức, trước mặt là vỏ lon hộp sữa Ghi-gô cô chìa ra xin lòng thương hại của người đi đường.
> Người Sài Gòn nghe tin đã kéo tới xem Cẩm Nhung đi ăn xin, đông đúc như đi xem cải lương. Ngoài tấm hình đeo trên ngực, người ta còn nhận ra Cẩm Nhung ở đôi bàn tay mịn màng, không chút tì vết và đôi bàn chân gót son thon thả. Ban đầu, người Sài Gòn cho tiền cô thật nhiều. Có tiền, Cẩm Nhung tiếp tục nghiện ngập. > Càng về sau, người Sài Gòn càng bớt cảm động về chuyện ăn xin của cô vũ nữ nên càng ít cho tiền. Người dân Sài Gòn khu vực quận 1 lúc đó đã không khỏi bùi ngùi khi thấy Cẩm Nhung mù lòa cầm gậy dò đường trên đại lộ Lê Lợi, con đường Tự Do, trên những lối đi một thời in dấu chân cô vũ nữ Cẩm Nhung từ nhà tới vũ trường Kim Sơn. Sau đó, Cẩm Nhung phải rời khỏi khu vực chợ Bến Thành, lần mò đến chợ Bình Tây, chợ Bà Chiểu, và cuối cùng là ngã tư Trần Quốc Thảo – Lý Chính Thắng (quận3), trước khi cô âm thầm rời Sài Gòn hoa lệ để về miền Tây xa xôi ăn xin trên bến phà Mỹ Thuận.
Hình ảnh của Cẩm Nhung một thời được đem ví với chuyện “hồng nhan bạc phận”, cho một kiếp phù hoa sáng nở, tối tàn. Một kiếp người ngắn ngủi trôi qua nhưng có rất nhiều điều đáng để con người ta suy ngẫm, quá khứ vang bóng đã tạm gác lại cùng sự nuối tiếc một thời vừa kiêu hãnh mà cũng không kém truân chuyên. Trên ngực bà không còn bức chân dung với người tình sĩ quan năm xưa nữa. Sau nhiều năm bôn ba khắp các tỉnh miền Tây Nam bộ, cuối cùng, bà đã ẩn mình sống quãng thời gian cuối đời nơi vùng đất tâm linh cuối trời Nam, dưới mái chùa Tam Bảo.
Những năm tháng Cẩm Nhung lang thang trên khắp nẻo Sài Gòn sau khi bị nạn, cũng là lúc trên sân khấu ca nhạc của Sài Gòn thịnh hành bài hát “Bài ca cho người kỹ nữ” của hai tác giả Nhật Ngân – Duy Trung. Không biết các tác giả viết bài hát này để tặng cho ai khác hay vì xót thương số phận của Cẩm Nhung mà lời bài hát như nói về cuộc đời của cô vữ nữ bất hạnh này. Người ta kể rằng, mỗi khi đang đi ăn xin trên đường, tình cờ nghe bài hát “Bài ca cho người kỹ nữ” vang lên, Cẩm Nhung luôn ôm mặt khóc, đứng tựa vào đâu đó thật lâu rồi mới dò gậy đi ăn xin tiếp.
Bài hát có đoạn:
“…Ta tiếc cho em trong cuộc đời làm người
Ta xót xa thay em là một cánh hoa rơi
Loài người vô tình giẫm nát thân em
Loài người vô tình giày xéo thân em
Loài người vô tình giết chết đời em..."
Sân bay đích thực là cái chợ quê, máy bay thì trở thành nhà trẻ và xe buýt công cộng.
Tôi vừa đáp chuyến bay từ TP HCM đi đến một thành phố biển xinh đẹp với hy vọng được thư giãn sau một tuần làm việc bận rộn. Nhưng hy vọng đó đã bị vùi dập ngay từ lúc tôi bước vào sân bay, mặc dù những chuyện thế này tôi đã nhìn thấy cả trăm lần.
Tôi đã đi nhiều nước và cũng thấy nhiều loại hành khách, tất nhiên ở đâu cũng có người này người kia, nhưng dường như, một số đặc điểm chỉ người Việt Nam mình mới có.
Sân bay là phiên chợ quê
Đầu tiên phải nói đến người đưa hay người đón. Sân bay đâu phải là cái chợ muốn ngồi đâu thì ngồi, muốn đi đâu thì đi. Vậy mà, chao ôi, người Việt mình mà đi đón hay tiễn thì phải đi nguyên cả dòng họ, để rồi không đủ chỗ ngồi, nên chen chúc, đứng cản hết cả lối đi, thậm chí ngồi lê lết trên sàn nhà, rồi xả rác, nói chuyện inh ỏi, để rồi khỏi ai nghe được máy bay đã hạ cánh hay chưa.
Đến người đi cũng “văn minh” không kém... Trước tiên là thói quen không xếp hàng. Người ta đã để sẵn thanh chắn xếp hàng, nhưng không, bà con mình toàn xen ngang vô giữa, có người còn tự ý mở thanh chắn hay chui qua hàng rào cho nhanh, mặc kệ những ánh mắt kinh ngạc của những người khách nước ngoài.
Đến đoạn kiểm tra hải quan, chưa bao giờ tôi thấy họ đứng đúng vạch, và luôn mang những đồ không nên mang lên máy bay, đặc biệt là nước uống.
Còn trẻ em thì tha hồ tung tăng la hét trong sân bay, trong khi những hành khách khác luôn giữ con mình trong tay để không gây mất trật tự nơi công cộng, đồng thời đó là cách bảo vệ con tại những nơi nhạy cảm như sân bay.
Sân bay ở Việt Nam luôn ồn ào và nhốn nháo. Ảnh minh hoạ
Máy bay là xe buýt công cộng
Đến đoạn lên máy bay là biết ngay “made in Vietnam”.
Thứ nhất, không ngồi đúng ghế. Chuyện tự ý đổi ghế để được ngồi gần cửa sổ hay ngồi chung với gia đình là bình thường. Chưa nói đến chuyện phải lịch sự hỏi khách của số ghế đó đồng ý hay không, mà đó là an toàn cân bằng của máy bay.
Có lần tôi đi trên một chuyến bay không nhiều khách, nên hãng đã xếp 50% ngồi phía sau, 50% ngồi phía trước để giữ cân bằng cho máy bay. Thế là một đại gia đình thấy phần giữa có ghế trống, kéo hết lên ngồi cho sướng, may quá là cuối cùng tiếp viên đã kịp nhắc nhở quay lại chỗ ngồi trước máy bay bị chúi xuống đất.
Thứ hai, không bao giờ nghe hướng dẫn.Người ta nói “không biết thì chịu khó nghe và làm theo”, đằng này, tiếp viên vừa dứt lời “tắt điện thoại, máy thu phát sóng...”, họ vẫn tỉnh bơ lấy điện thoại ra gọi/ nhắn tin. Sao họ không hiểu rằng sóng điện thoại có thể làm nhiễu sóng khác, phi công không thể liên lạc được với nhân viên hàng không và họ có thể gặp tai nạn.
Tiếp viên vừa nói “thắt dây an toàn, ngồi yên tại chỗ”, họ lại đứng dậy, mở ngăn hành lý để lấy laptop? Sao họ không nghĩ là họ đang tự gây nguy hiểm cho mình, và có nguy cơ ảnh hưởng đến người khác nếu hành lý rớt xuống?
Máy bay là nhà trẻ
Tôi sợ nhất là máy bay có trẻ em Việt Nam. Khóc inh ỏi, la hét ỏm tỏi, chạy lon ton, mặc cho tiếp viên nhắc nhở, hay những ánh mắt đầy ngao ngán và chửi thầm trong bụng của những hành khách khác. Chưa hết, bà mẹ nào mà có con nhỏ là nguyên khu vực ghế ngồi trở thành bàn thay tã, đồ lót, khăn giấy, đồ chơi, mặc cho mùi khai đang làm phiền những người ngồi bên cạnh.
Nhường ghế cho người già và trẻ em trên xe buýt chỉ có trong phim
Xuống máy bay, lên xe buýt ra sân bay, ai lên trước là mặc nhiên chiếm ghế trước, mặc cho bà lão chống gậy đang đứng mỏi run cả chân, hay bà mẹ đang ắm con sắp nổi gân lên. Nói chuyện inh ỏi, phà hơi thở “thơm mát” vào mặt nhau sau chuyến bay dài không súc miệng, hay quên ăn kẹo bạc hà cũng là chuyện bình thường.
Và còn rất nhiều những câu chuyện “văn minh” khác...
Tôi luôn tự hỏi, tại sao giáo dục Việt Nam không đưa những vấn đề “văn minh nơi công cộng” như thế này vào trong trường học nhỉ? Tôi không muốn quơ đũa cả nắm, và tất nhiên không phải người Việt Nam nào cũng giống như vậy.
Tôi mong rằng bài viết này có thể đánh thức phần nào những ai đã trót làm những điều trên thì dừng lại, hay những ai có nguy cơ sẽ mắc phải có thể tránh, để đừng phải nhìn thấy những ánh mắt ái ngại và kinh ngạc của bạn bè quốc tế nhìn vào người Việt Nam.
Showing posts with label BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 328. Show all posts
Wednesday, September 10, 2014
SƠN TRUNG * EM KHÔNG VỀ
EM KHÔNG VỀ
em nóng lạnh cảm sốt
đau nhức toàn thân,
Các con đưa em đi cấp cứu
em vào phòng săn sóc đặc biệt
vài hôm sau em vui vẻ báo tin
cuối tuần em sẽ trở về
nhưng nửa đêm bệnh trở nặng
em kêu khó thở
rồi em đi
anh vào bệnh viện
em thở oxy
bảng điện kế nhấp nháy màu đèn đỏ
anh cầm tay em
hai hàng lụy nhỏ
em đã bỏ anh rồi
em đã đi thật xa
em không trở về tổ ấm của chúng ta!
vài hôm sau
các con đưa em vào nhà tang lễ
bốn bề quạnh quẽ
em nằm trong quan tài lặng lẽ
xung quanh những vòng hoa tang
con cháu, anh chị em, bạn bè đến chào em lần cuối
đôi nến lung linh
hai hàng lệ ứa
em cười hay em khóc?
Anh cố nén tiếng nấc
để em thanh thản lên đường.
anh theo xe tang
đưa em vào nghĩa trang
đến giờ hạ huyệt
con cháu, anh em, bạn bè
gửi em những đóa hoa vĩnh biệt.
em ở lại đây
em không về ngôi nhà của chúng mình nữa
em ở lại với những hàng bia mộ trắng
với thảm cỏ xanh có hoa vàng,hoa trắng,
và trời mùa thu Canada bừng ánh nắng.
em ơi
hương còn nồng
tình còn thắm
sao trời xanh nỡ bắt tội chúng mình ?
anh là một thư sinh
yêu em
làm thơ và mê sách
hai chúng ta sống đời thanh bạch
cùng nhau xây dựng cuộc đời
cùng chung bao nỗi buồn vui
qua bao cơn sóng gió biển khơi
vẫn không bao giờ xa cách
thế mà nay
anh mới hiểu thế nào là bạn đời
thế nào là lẻ loi. . .
em ơi,
có những đêm khuya trằn trọc,
anh không khóc
mà sao đôi dòng lệ trào tuôn?
anh không buồn
mà sao tim đau nhói,
và gan ruột quặn thắt?
phải chăng đêm trường là vương quốc cô độc?
nhà chúng ta có hoa viên xanh mướt
do bàn tay em săn sóc.
có dàn bầu, dàn bí
có hàng đậu, hàng cà chua
Có khóm lan, cành trúc
Có hoavạn thọ, hoa mẫu đơn
có hoa hồng, hoa cúc
hoa thơm sực nức
những buổi sáng trời hững nắng
và những buổi chiều gió bắc cực về lạnh
có đôi bướm trắng, bướm vàng bay quanh
những con sóc nhảy nhót trên cành
Những đôi chim sâu nỉ non, tình tự
nhưng không thấy em qua lại giữa những hàng cây xanh
nâng niu những bông hoa hồng hoa trắng.
khu vườn vắng lặng
em đã đi xa thật rồi
em không trở về ngôi nhà cũ nữa
em ơí! em ơí!
20-8-2014
Tuesday, September 9, 2014
TÔN THẤT TUỆ * XE BÌNH BỊCH
bình bịch ngày xưa
bình bịch ngày nay
Thế nào chiếc moto ni cũng bên Pháp đem qua; nó không thành một hiện tượng, vì người trên xe là vua mà, chừng ấy còn ít quá, có chi là xa xỉ; vả lại, ngài ngự chạy ở những vùng xa dân chúng, không phiền hà ai.
Mãi đến đầu thập niên 1950, khi bắt đầu vào trung học, tôi mới nhìn ra khỏi xó Bến Ngự một chút. Lại thấy có ông Từ Bộ Quýnh đi xe mô tô bình bịch; lại thấy ông cả Bính ở Vy Dạ đi xe cấy chi nhỏ hơn bình bịch mà to hơn mobilette AutoBécane. Lại thấy anh Hướng, làm cho Lý Lâm Tinh, huynh trưởng hướng đạo, chạy cái xe gì to hơn Lambretta. Lại thấy anh Ngọ, Mỹ Thắng (?) chạy xe Ết Bà (Vespa), chiều chiều qua Xẹt (Cercle Sportif) đánh tennis. Anh Hà Thúc Miễn, Bến Ngự cũng có Vespa. Bác Thanh, bố của Trịnh Công Sơn cũng có Vespa.
Con nít còn hay chú ý đến mấy chiếc xe moto cảnh sát hộ tống các quan lớn như thủ hiến, thấy vui vui thấy moto ba bánh, kéo bên hông một chỗ ngồi có người cầm súng. Con nít cũng thích xem các xe motto Harley của nhà binh chạy trên lòng chảo sân vận động. Họ biểu diễn đứng trên yên xe, cởi áo, mặc áo trở lại mà xe cứ vù vù như bay. Muốn xem thì phải chui lỗ chó hàng rào từ phía trường Nguyễn Tri Phương.
Anh Miễn của tui còn có xe bốn bánh; sáu chục năm sau tui xem catalogue mới biết hiệu Chrysler của Mỹ. Huế mình không đến nỗi quê mà nghĩ rằng cà rem ăn không hết phơi khô để dành. Nhưng xe hơi không phải là món gần gũi; các xe của ông giám đốc học chánh, của tỉnh trưởng, thủ hiến thì tránh xa khỏi bị nước bùn tạt vô người.
Qua đến 1954 thì Huế có nhiều xe hơn, không ai chú đến xe bình bịch như của Ngài Ngự. Ngài Ngự bây không đi xe hai bánh mà đi xe bốn bánh, đại xa, chạy khắp thành phố ngày đêm. Ngài đeo kính đen như thường, ôm một ca ve chỉ mặc xí líp. Ngài lịch sự nhường nửa cổ xe cho Ngô Chí Sĩ đứng trong chiếc tàu đang lèo lái con thuyền VN. Cuộc dạo chơi cố đô của ngài được ghi trong một đoạn về Thượng Tứ của Phan Mông Hòa (ái nữ của Maria Mộng Hoa); may quá ngài cũng có một cùng đinh đỡ đạn:
Tôi còn nhớ như in kỷ niệm về mụ Xoài. Đó là năm Huế phát động phong trào Bài Phong Đả Thực và ủng hộ “Triều” cụ Ngô. Học sinh công tư toàn thành phố ngồi đầy nhóc trên những chiếc xe buýt màu xanh dương hay xe GMC nhà binh. Bọn học trò chúng tôi được chở đi cổ động bỏ phiếu cho chí sĩ Ngô Đình Diệm. “Xanh bỏ giỏ, đỏ bỏ bì”. Xe lớp lớp chạy lòng vòng khắp mọi xó xỉnh của cố đô. Một đứa lớn họng hét to: “Đả đảo Bảo Đại” hoặc “Ủng hộ Ngô Đình Diệm” rồi cả bầy hăng bò xít hét theo mà đả đảo hay ủng hộ. Tuổi trẻ máu nóng bốc đồng thi nhau la hét đến khan hơi rát cổ. Khi xe chúng tôi chạy đến đường Thượng Tứ, một bạn la to khẩu hiệu: “Ai bán nước ?” để cả bầy còn lại đồng thanh đáp: “Bảo Đại!”. Tôi thấy mụ Xoài xóm tôi le te chạy tới. Cái cằm móm xọm dài ra hơn khi mụ cười toe toét, trả lời đon đả: “Có đây! Có đây! Có mụ Xoài bán nước đây!” (Hoàng Hôn Thôn Vỹ)
Thế rồi Huế trở lại yên lặng. Nhiều căn phố được sửa lại, xây thêm một hay hai tầng như nhà sách Gia Long của chị Dương, mẹ của cô Hồng. Phía Hàng Bè có Kem Anh Đào của mẹ Trâm (em của La …Thanh).
Huế không thêm xe bình bịch to lớn, nhưng thêm Vespa, không nhiều lắm. Lambretta đã xuất hiện; không ăn khách “dòm” vì không ngọt nước như người anh em Italie. Con nít cửng con mắt cũng to thêm đồng nhịp với thân thể cho nên cái nhìn cũng to theo, để chú ý đến xe hơi. Dạo ấy, chạy quanh nhiều trong thành phố là Peugeot 203. Chaffenron chưng cả nguyên chiếc trong tủ kính như con búp bê, nhưng các bậc phu huynh thì thích tờ rác xông, mà còn thích tờ rắc xông ken nhiều hơn (ken, 15, quinze). Xuất hiện sau 54 là hai chiếc Mercedes, chúng liên quan đến thời cuộc tình hình chính trị mới.
Bên cạnh hai cô con gái mặc jupe rất chi là quí phái trưởng giả, đốc Quyến còn có thêm chiếc Mercedes màu xám, từ ngày làm bác sĩ gia đình, trông nom sức khỏe Cụ Cố, thâm mẫu Ngô Chí Sĩ, và Ngô Cố Vấn Tối Cao Miền Trung. Đốc Quyến dư tiền mua Mercedes bằng vàng cũng được nhưng miệng người thì nói quà tặng của Lãnh Tụ Anh Minh. Mà quà tặng thì có chi mà nói. Trong khi đốc Quyến ung dung như rứa, các người khác trong phong trào Hòa Bình thì xấc bấc xang bang.
Chiếc Mercedes thứ hai là của ông Nguyễn Văn Hai. Thầy Hai đã là người ủng hộ quyết liệt lấy tên Ngô Đình Diệm thay cho tên Khải Định. Việc đã thành nhưng trong vài tháng, trường mang tên là Quốc Học. Thầy Nguyễn Đình Hàm nói ông đã có công lớn trong việc đặt tên mới nầy và thành hiệu trưởng QH đầu tiên; ông cũng nói xa nói gần việc nầy làm cho thầy Hai khó chịu. Thầy Hai sau đó làm giám đốc học chánh Trung Phần. Ít lâu sau thì ông Đinh Quy lên thế thầy Hàm. Lại chào xáo trong trường. Có người vẽ trên stencil và in ronéo một bức hý họa không có chữ: một con rùa đội trên lưng một tấm bia đá, có khắc một chữ duy nhất, vừa có thể đọc là chữ “Q” hoa không tròn đủ hay đọc là con số 2.
Thầy Hai đầy nhiệt tình cách mạng, sửa đổi cách thi lục cá nguyệt; các lớp ngồi chung làm bài như nhau; đề thi các giáo sư trình thầy Hai duyệt và quyết định. Thầy không thích các giáo sư mặc áo tay cụt; có sự đụng độ nho nhỏ với thầy Đương dạy vạn vật; dịp nầy thầy Đương trở lại ngành y khoa Saigon. Thầy Hai đã qui định đồng phục trắng, nam sinh có cà vạt xanh dương. Mỗi sáng thứ hai tôi phải thắng khô mực và đôi dép lốp đi chào cờ. Sân trường chia làm bốn, cột cờ ở giữa. Thay phiên nhau, các ô cử người lên đánh nhịp bắt giọng hát quốc ca và suy tôn Ngô Tổng Thống.
Khi thầy Hàm đứng đầu trường, thầy vẫn giữ những tập tục nầy, kể cả việc đóng cửa tức khắc khi có chuông vô lớp. Nhưng không khí dịu hơn một chút, ít tính cách đoàn ngũ hóa nhân dân. Thầy Quy chấp chánh, mở thêm chức vụ giám học; mấy trò sính tiếng tây thì hay gọi là senseur. Theo nghĩa thông thường, senseur là thầy phó hiệu trưởng chuyên lo về kỷ luật. Đúng vậy, thấy giám học hầu như là chủ tịch một hội đồng vô hình gồm các giáo sư cố vấn. Thầy cố vấn thật đáng sợ; tuy không phải là tổng quát như nhau, các thầy nầy vô lớp thường nêu chuyện kỷ luật kèm với những lời hăm dọa bị đuổi v.v… Cha mẹ thường trấn an con cái với câu dang cao đánh sẻ. Ngoài ra, thầy giám học còn trông coi Hiệu Đoàn, tổ chức sinh hoạt chung của các trường, nhiều dấu hiệu hướng về đoàn ngũ hóa.
Thầy Hai trúng cử làm dân biểu của Quốc Hội Lập Hiến; QH nầy được lưu nhiệm làm QH lập pháp đầu tiên. Mọi dân biểu (52 vị ?) được mua xe “de luxe” không thuế; xe cộ thời ấy bị đánh thuế đến 300% giá trị. Thầy Hai mua Mercedes. Thỉnh thoảng Huế cũng thấy thầy Hà Như Chi, cũng là dân biểu, lái xe “de luxe” Peugeot 403 mỗi khi từ Saigon ra thăm thân phụ thân mẫu là ông bà Hà Thúc Lãng.
Nói rứa thôi, chứ Huế không đến nỗi tệ chỉ có bấy nhiêu xế hộp. Nhưng có hai trường hợp khác coi bộ nhiều người biết tới hơn vì nó thuộc “địa giới”, tôi muốn nói không ở mức thượng thừa trong xã hội như thầy Hai, thầy Chi, ông đốc Quyến.
Chiếc xe “deluxe” Peugeot 403 của thầy Chi – nếu đã đẩy lùi các xe Peugeot 203 xuống chân danh sách ngưỡng mộ - đã không làm mất uy của một chiếc Peugeot 203 khác.
Một người đi học Mỹ về, rồi tự xưng là đạo diễn điện ảnh. Anh ta có mái tóc phờ ri dê xỏa nửa trán, nhưng không có vẻ gì là lại cái (homo), vẫn còn nguyên dương tính. Anh mua một chiếc xe peugeot 203, hai chỗ ngồi và có mui trần. Xe cộ thời ấy thì chính là đen; Peugeot có thêm màu xám. Đàng nầy anh sơn lại, chơi nguyên màu đỏ tươi. Am mê ri ken mà!
Nhưng màu đỏ không phải là điều đáng nói. Điện ảnh gia (?) Lê Hoàng Hoa có tội đáng chết: ẳm được cô Ty bỏ lên xe chạy khắp thành phố. Tội đáng chết vì làm bao người nuốt nước miếng ừng ực. Cô Ty bán sách ở nhà sách Ưng Hạ. Bao nhiêu trai thanh, học giả tới đó mở sách ra xem mà mắt nhìn trộm cô hàng. Nhiều nhất là mấy ông sư phạm chơi nguyên đồng phục côm lê. Cô Ty phải biết có hai thứ sinh viên ở Huế, một bên là sư phạm có học bỗng. Khi tự giới thiệu với các bà mẹ có con gái mình là sinh viên thì được hỏi là sư phạm chi, anh văn hay lý hóa…
Còn như văn khoa hay luật khoa thì chỉ là đồ cà lơ phất phơ, còn lâu mới thành a vô ca có tiền, suốt đời “làm thi sĩ là tru với chó”. Rứa mà mấy ôn sư phạm ái mộ cô, cô có giá quá hè.
Cô Ty có đóng phim hay không, nào ai hay biết. Phim trường của LHH thường là Hội Việt Mỹ. Về sau cơm cháo giữa chàng và nàng có ra chi hay không, tui không biết; tuy vậy sau đó, dân Huế không còn cơ hội chứng minh câu thơ Tàu: thư trung hữu nữ nhan như ngọc, trong nhà sách Ưng Hạ có người đẹp như ngọc như ngà.
Xanh xanh đỏ đỏ em nhỏ nó mừng. Hết lượt xe đỏ Peugeot thì qua xe xanh, xanh lá mạ thì rõ ràng hơn, để không nhầm với xanh biển. Chiếc xe khá to, cũng mui trần như xe của nhà làm phim. Khi đồng An Cựu xanh rì ngọn lúa thì khách qua đường khó nhận ra chiếc xe; vì xe hay đậu trước sân của một villa có mặt tiền phía đường nhưng quanh còn ruộng. Villa nầy là chỗ ở của ông sếp công chánh tỉnh; ông mới rời nguyên quán Quảng Trị vô đất thần kinh đem theo hai cô con gái (con trai thì kể làm chi cho mệt, có một trăm trự cũng thế thôi). Nhưng trội nhất là cô chị Hồng Thủy.
Ông bạn tôi mới trả lời email nói Hồng Thủy đi xe Lambretta vô trường đã thành một điều kinh khủng. Đúng vậy nhưng bạn tôi quên nói Hồng Thủy đã thường lái xe mui trần chạy quanh thành phố những lúc đông người. Tóc nàng bay bay trên cầu Trường Tiền. Thường Hồng Thủy chỉ đi một mình, (không như Lê Hoàng Hoa có cô Ty) hay cô em gái, cho nên với một số gà trống, mặt trận miền tây vẫn bình yên.
Mi đi xe máy (xe đạp) người ta đi xe điện (xe hơi), mắc chi mi noái, tức à, tức ăn ...mà trừ. Đồ vô duyên, vô duyên cảy, bảy ngày không hết vô duyên.
Không thấy ai chết, hay mũi ăn trầu cái đầu xức thuốc. Tui có hỏi hai người bạn cũ, họ đều nói Hồng Thủy là một kiều nữ rất bình thường, hiền hòa; chơi bạo chiếc Lambretta có chết ai mô. Một người hiện ở bên Đức nhiều năm học chung và sau đó cũng biết cô nàng. Một người hiện ở vùng thủ đô Hoa Kỳ, cùng gốc Quảng Trị đã than phiền tin thất thiệt. Đêm văn nghệ cuối năm 1959, Hồng Thủy hát bài Hòn Vọng Phu 2 của Lê Thương, tôi còn nhớ mặt người đệm sáo tre nhưng không nhớ tên.
@
Dẫu răng đi nữa, những điều viết trên đây xẩy ra vào một thời tương đối an bình của Huế; lúc ấy chưa có biểu tình, bàn thờ xuống đường, chưa có thảm sát Mậu Thân.
Tôi viết theo lối mà Tràm Cà Mau nói là lang thang xứ Huế, cũng rất vô duyên cảy bảy ngày không hết vô duyên. À mà viết khi nhận mấy bức hình moto rất thời trang của những cô gái Huế ngày nay. Những lần chuyển chuyển forward, forward, không ai nói chi trừ một thân hữu nêu chuyện Hồng Thủy đi xe Lambretta đến trường; chẳng có nghĩa lý gì so với hiện nay mà đã là chuyện gần như kinh khủng. Nói chung, vẫn có một chút gì không đồng ý, không nói ra.
Nhưng nói cho cùng Huế mình cái chi không có, nhưng cái có xưa kia ít ồn ào, và che dấu được. Bây giờ có ai sợ chi; còn che dấu là còn biết cần có một giá trị nào đó. Che dấu không phải hoàn toàn tốt nhưng cũng không phải hoàn toàn xấu. Huế mình đôi lúc còn đi trước. Ngay sau 75, một đấng hương sắc của sông Hương núi Ngự đã tiên phong chụp hình khỏa thân và quay phim cảnh làm tình với một người ngoại quốc trên một du thuyền neo ở Vũng Tàu. Những gì qua ống kính đã đến các tòa báo Saigon.
Nhưng về ngôn ngữ thì những chuyện như rứa không có. Huế mình không thấy, Huế mình chỉ chộ.
Dùng hai chữ bình bịch cho những chiếc hai bánh hiện nay thì sẽ bị các cô lấy giày đánh trên đầu, như người ta gán ghép cho Hồng Thủy. Bởi lẽ bình bịch xưa cổ lỗ sĩ còn những chiếc moto nầy mới, chạy nghe êm trừ phi chủ nhân muốn tháo ống bô (ống khói) kêu thiệt to.
Người Huế, nam hay nữ, nếu không phải là triết gia, văn sĩ, thi sĩ, luận sĩ, thiền sư, thì ít nhất cũng là những nhà hoạt động, những nhà tuyên truyền, xin lỗi tôi muốn nói activiste. Hoạt động cho đảng phái, cho tôn giáo, cho các thế lực v.v… Một ký giả nửa Pháp nửa Mỹ nói như thế để chứng minh luận điểm của ông rằng người Huế rất sâu sắc, theo chiều hướng thiện hay chiều hướng nguy hiểm tùy người; người Huế không đơn giản chút nào. Cứ xem tạm như ông nhà báo ấy nói đúng, thì mấy cô chạy xe moto thứ xịn nhất thế giới, mấy cô nầy sẽ được xếp vào chỗ mô? Mấy cô nầy hết sức đơn giản và cái chi cũng để lộ ra ngoài. Mấy cô không cần một tay giữ nón lá, một tay giữ tà áo, phòng khi có ngọn gió bất thường tấn công những lớp vải mỏng thín. Mấy cô nầy khi mô cũng phây phây.
Nếu lúc trước kia Huế được mô tả như trái mãng cầu (quả na) ngoài ngói móc trong bột lọc nhụy đậu đen thì Huế ngày nay đem trong ra ngoài như trái điều lộn hột. Ở một mức độ khá lớn, sự thể này trông ra dễ , dễ bề tính toán; dễ bề tính toán kể cả trong tình yêu và nhất là lập kế hoạch đưa nàng về dinh.
Xứ Huế khó bề duy trì nét thầm lặng bên ngoài làm môi giới cho sự thầm lặng bên trong. Một trong những lý do là quá nhiều người mới lạ, lạ từ nguyên quán, lạ trong lối suy nghĩ. Nhưng trên hết, xứ Huế không thoát khỏi những đặc tính chung của toàn VN, không thể nói Huế cao thượng hơn, sạch sẽ hơn, spiritual hơn…
Nói đến cái trầm lặng của Huế làm tôi liên tưởng đến Lào và Miến Điện. [Mấy dòng kề cận tôi lấy ý của Tiziano Terzani trong cuốn A Fortune Teller Told Me.
1962 tướng Ne Win đảo chánh cầm quyền, đưa ra đường lối gọi là xã hội chủ nghĩa theo lối Phật Giáo, áp đặt độc tài quân phiệt, quốc hữu hóa nền kinh tế, tống giam thành phần chống đối. Ne Win không muốn sự hà khắc của Tàu Cọng, cũng không muốn đường lối sùng vật chất của Mỹ đang tung hoành ở Thái Lan và chung quanh. Đánh đổi nền độc tài khắc nghiệt, truyền thống được duy trì, tôn giáo phát triển, 45 triệu dân không bị đưa vào cơn lốc của sự đô thị hóa, của kỹ nghệ hóa và tây phương hóa. Chính quyền Rangoon không muốn quá nhiều người ngoại quốc làm ô nhiễm không khí quốc gia; chiếu khán chỉ cấp bảy ngày lưu trú. Chùa chiền được giữ trang nghiêm làm nơi hành đạo chứ không phải viện bảo tàng cho du khách chụp hình, rộn ràng như ngoài chợ.
Sau ¼ thế kỷ với quyền uy tuyệt đối, Ne Win trao tay lái cho đàn em. Lớp mới nầy còn độc tài hơn lão tổ, trân tráo hơn, tàn bạo hơn, giết người nhiều hơn nhưng tân thời hơn. Mấy ông vua con nầy bỏ chủ trương cô lập và theo hình thức phát triển xô bồ. Bốn mươi năm cưởng lại, Miến phải nhường bước cho cái định mệnh chung, không ai thoát khỏi từ Tàu của Mao, Ấn của Gandhi, Khmer của Pol Pot, VN.
Giữa thập niên 1990, Terzani đến thị trấn nhỏ Tachilek cạnh biên giới Thái đã choáng mắt bởi những chữ mạ vàng: “Tourists, welcome to Burma” thay những chữ ông còn nhớ: Foreigners, keep away. Any one passing this point risks being shot. Có 14 sòng bài, mấy chục chỗ hát kaoroke. Người Thái mở siêu thị, nhà hàng. Không ai xài tiền Miến, chỉ dùng ngoại tệ. Ma túy, mãi dâm hầu như buôn bán công khai. Các ông tướng ông tá đứng đầu các dịch vụ du lịch như di chuyển, thông ngôn, ăn ở…
Về phần Lào, bao năm phản đối, phải để cho Úc xây cây cầu qua Mekong nối liền với Thái. Bây giờ cây cầu mệnh danh là cầu Xi Da (The Aids Bridge). Trung Cọng đang mở con đường xuyên Miến nối liền Tàu và Thái.
Là một người mến văn hóa đông phương, biết nhiều về lịch sử từng vùng, Terzani cho rằng Tây Phương hóa trở thành thuốc phiện cho cả Á Châu. Người Tàu đã có số đông không dùng đủa mà dùng muỗng nĩa cho tiến bộ. Singapour là một hòn đảo điều hòa không khí, chỉ có hotel và nhà hàng. Lý Quang Diệu là người mẫu của tư bản Tàu lục địa. Ký giả Ý nầy (1938-2004) có cái nhìn ngộ nghĩnh.
Bốn, năm thế kỷ trước Tây Phương đến Á Châu bị đánh lại (tuy vẫn thắng) như chiến tranh ma túy bên Tàu, Cần Vương bên mình. Nhật Bản bên ngoài theo tân trào, bên trong tổ chức cẩn thận mọi bề chống lại ảnh hưởng ngoại lai. Nhưng bây giờ Tây Phương đem liều thuốc phát triển thì Á Châu đón nhận với bất cứ giá nào, hằng triệu người là nạn nhân trực tiếp hay gián tiếp. Những xáo trộn ấy đẻ ra những chiếc xe motto mắc tiền, chạy ngang đánh bạc những chiếc nón lá rách của người đi bộ nghèo trên xứ Huế
Tôi đã lạm dụng thì giờ của các bạn để đi hơi xa, khởi hành từ chiếc xe bình bịch. Nhưng nhịp độ biến thiên của xứ Huế còn nhanh hơn những chiếc hai bánh do các nường phóng theo gió. Các chùa xưa như Tra Am nay đã xây lại theo đá rửa, lưỡng long chầu nguyệt bằng mẻ chén kiểu. Quanh các chùa có những ghế đá lọ lem khắc ghi tên người cúng và tên người được hồi hướng, những câu thiền viết bay bướm không ai đọc ra treo khắp nơi. Huế mình đang có phong trào ăn chay nghệ thuật, con gà chay, thịt heo nướng chay, con tôm chay.
Có nhiều biến thái khác. Nhưng đây chỉ nếu một biến thái nhỏ về ngôn ngữ: rồi ra, người Huế sẽ nói chữ “vào” thay cho chữ “vô” dù là gốc Nôm hay Hán Việt. Một tác giả viết về Huế thấy sách mình xuất bản với những chữ rất lạ: “vào luân, vào lý, vào đạo” mà bà đã viết “vô luân, vô lý, vô đạo”. Dĩ nhiên tác giả không đồng ý. Nhưng tôi, anh đổ gàn, khoái tỷ. Nếu bà mắng tôi là đồ vô đạo, vô học, vô luân; bĩnh bút sẽ biến tôi thành kẻ vào lý, vào đạo, vào học. Chẳng mấy chốc tướng cướp, kẻ giết người đều vào đạo, vào học, vào lý. Khổng Lão Thích đều thất nghiệp.
Dẫu sao, những chiếc moto hào nhoáng – phản ảnh những bất thường của thời đại – gợi lên thương tiếc một thời áo quần giản dị, đi lại chẫm rải chừng mực. Hoài niệm chỉ là hoài niệm mà thôi. Sự trầm lặng của Huế không bao giờ trở lại. Vì sao? vì lòng người đã thay đổi. Lòng người Huế đã thay đổi âm thầm từ lâu, nay mấy cô moto làm cho sống dậy mạnh bạo hơn; những thứ gọi là bạo động tinh tế đã có: Một tin đồn Hồng Thủy trở gót guốc đánh đầu người ta, một “chân lý” (trong ngoặc kép) vĩnh viễn: sông Hương dưới thuyền có đĩ trên bờ có vua.
Xin lỗi tôi hơi méo mó Phật giáo một chút: tâm bình thế giới bình. Tướng tại tâm sinh, hãy nhìn người Huế bây giờ, dù vẫn còn áo tím, đứng dưới mái hiên chùa. Trực giác sẽ giúp chúng ta. Bình bịch năm xưa, bình bịch năm nay chỉ là những thứ ngoài da.
HUY PHƯƠNG * SAIGON-HÀ NỘI
Sài Gòn và Hà Nội
Tạp ghi Huy Phương
Sau khi đi tù về vài năm, khoảng 1985, tôi có mở một tiệm làm hình và
tráng phim gia công trên đường Lý Thái Tổ, Sài Gòn. Nhờ vậy, ở đây tôi
có dịp tiếp xúc với nhiều người đủ mọi tầng lớp xã hội và ở khắp mọi
miền, nhất là dân miền Bắc, sau Tháng Tư, 1975, đổ xô vào Nam kiếm ăn
rất nhiều. Vì dù miền Nam sau ngày “giải phóng” đã xuống cấp tột cùng,
trông cũng còn khá giả, tươm tất hơn ở miền Bắc sau 20 năm dưới chế độ
cộng sản.
Sài Gòn ngày nay. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)
Một ngày nọ, tôi gặp một người trung niên miền Bắc, trông mặt mày cũng
khôi ngô, nhưng áo quần nhàu nát, làn da xanh mét như người thiếu ăn,
anh vào tiệm, ngửa tay ra, nói mấy câu. Nghe giọng nói tôi biết ngay là
người này ở ngoài Bắc mới vào, đang hành nghề xin ăn.
Tôi hỏi anh, “Tận ngoài Bắc, sao anh vào đây đi ăn xin?”
Không hề ngượng nghịu, anh nói rõ, “Vào đây xin 10 người cũng có được 6
người móc túi cho, lại chẳng bao giờ bị chửi bới. Ngoài Bắc, nhất là Hà
Nội, thì đừng hòng! Có mà chết đói.”
Ðó là điều tôi nhận ra, như vậy là có sự khác biệt nhau giữa Sài Gòn và
Hà Nội. Hà Nội đại diện cho miền Bắc và Sài Gòn phản ánh cho những đặc
tính của miền Nam.
Cộng Sản vào không phải làm điện khí hóa cho nông thôn trở thành thành
thị, nhưng thật tình đã “nông thôn hóa” thành thị, nên dân Sài Gòn
thường trực bị cúp điện, nhiều nơi tìm cách đào giếng để kiếm nước và
sẵn sàng bới sân gạch lên để trồng khoai lang cải thiện, hay như ông bạn
tôi ở chung cư Thanh Ða, bớt chỗ sinh hoạt để nuôi hai con heo nái trên
sân thượng.
Sài Gòn sau thời gian đổi tên, nguyên do chỉ vì cái bến Nhà Rồng chết
tiệt, chẳng mấy chốc xuống gần bằng Hà Nội. Bằng Hà Nội hơn, nhất là sau
khi họ ồ ạt “vào thành phố” như một câu hát của Trịnh Công Sơn, với
những “cửa hàng thịt phụ nữ,” “cửa hàng chất đốt thanh niên” mọc ra, cái
cảnh phơi áo quần trên cửa sổ, treo khăn lông trong “xe con,” nuôi heo,
trồng rau ngay trong sân nhà, hay hai anh bộ đội lái xe khác chiều dừng
xe ngay giữa lộ để nói chuyện với nhau, bất cần tiếng chửi của thiên
hạ.
Mới thoạt nhìn, Sài Gòn bỏ ngỏ và bắt đầu nhếch nhác giống Hà Nội, nhưng
sự thật trong gan ruột, hai thành phố đối cực, đối đầu này đang có
những điều khác biệt, một bên là “nơi hang ổ cuối cùng và đâu cũng thấy
tàn dư Mỹ Ngụy,” và Hà Nội, “thủ đô của lương tri, phẩm giá con người!”
Vì vậy mà ngày nay, sau gần 40 năm “thống nhất” người ta còn đi tìm và
thấy ra có quá nhiều khác biệt giữa Sài Gòn, Hà Nội. Cách biệt vì cách
đối xử chính trị như vậy, trách sao Sài Gòn và Hà Nội không cách biệt về
văn hóa, mặc dầu lúc nào hai bên cũng cho bên kia là “quê hương tù
dày!” Tuy vậy, Hà Nội thắt lưng, buộc bụng, tẩy não, “dốc hết hạt gạo,
cục muối cho miền Nam đánh Mỹ,” làm sao so được với Sài Gòn “bơ thừa sữa
cặn!”
Nói về giáo dục, sau Tháng Tư, 1975, đồng bào và thầy cô giáo miền Nam
hẳn đã biết loại văn hóa ăn nói vô lễ, thô tục của lũ trẻ miền Bắc mới
vào Nam, vì miền Bắc không có khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn” treo
trong các lớp tiểu học. Ngày ra Bắc, lên tận Hoàng Liên Sơn, tôi đã
trông thấy những nét văn hóa tiêu biểu, được viết bậy lên vách tường nhà
trường tiểu học, chưa kịp xóa sạch, nói đến sự quan hệ của ngành công
an và giáo dục: “Công An (đ.) Cô Giáo!”
Trên đường làng Cẩm Nhân, Yên Bái, chúng tôi đi ngang một nhà giữ trẻ
của hợp tác xã, nghe tiếng trẻ khóc la và tiếng quát của một phụ nữ: “Bố
mẹ chúng mày đéo cho lắm vào, để chúng mày làm khổ thân bà!” “Bà” đây
là người giữ trẻ của hợp tác xã nông nghiệp, bà có nhiệm vụ giữ trẻ thì
khỏi ra đồng như các hợp tác xã viên khác. Liệu lũ trẻ này lớn lên dưới
sự chăm sóc của những người này này, ngôn ngữ của chúng sẽ ra sao?
Trên các blog và báo chí trong nước, đề tài “những sự khác biệt giữ Sài Gòn và Hà Nội” tương đối là một đề tài hấp dẫn.
Tôi dẫn một vài ví dụ:
Giao tiếp:
- Ở Sài Gòn, bạn dửng dưng khi thấy cô bán hàng cúi gập người chào bạn.
- Ở Hà Nội, bạn xúc động đến sững sờ khi thấy ai đó nói lời cảm ơn.
Hàng quán:
- Tô hủ tíu mì Sài Gòn được bưng ra với tô được đặt trên chiếc đĩa.
- Bát phở gà Hà Nội được khuyến mại với ngón tay cái của con bé bưng bê!
Ca ve:
- Khi bạn vừa thanh toán xong tiền cho cave...
Cave Hà Nội: “Cho em xin thêm 10 nghìn để còn đi xe ôm về.”
Cave Sài Gòn: “Em bớt cho anh 10 ngàn, lần sau nhớ kiu em nha!”
Nhà sách:
- Hà Nội: Nhân viên hách dịch.
- Sài Gòn: Vào đọc chùa thoải mái, nhất là các em bé, có thể ngồi tại chỗ đọc mà không sợ bị đuổi!
Trong quán ăn:
- Sài Gòn: “Vâng em làm ngay đây.”
- Hà Nội: “Làm gì mà cuống lên thế! Muốn nhanh thì xéo sang hàng khác!”
Bạn bè:
- Hà Nội: Hay để bụng, ghét mà trước mặt vẫn chơi, về nhà nói xấu.
- Sài Gòn: Mau huề, ghét là biến, không chạm mặt!
Nhưng liệu những sự khác biệt này kéo dài được bao lâu nữa? Bây giờ, Sài
Gòn và Hà Nội đã bắt đầu đầu giống nhau, ảnh hưởng và bị đồng hóa, vì
người Nam ra Bắc thì ít mà người Bắc vô Nam càng ngày càng đông, như một
người tên Jor Dan viết trên blog: “Mỗi người có một cách suy nghĩ
riêng. Nhưng đa phần chỉ nói yêu Hà Nội, nhưng lại thích được sống ở Sài
Gòn. Ca sĩ Hà Nội vào Sài Gòn lập nghiệp nhiều quá còn gì!”
Sau gần 40 năm bây giờ hai thành phố này đã có những chuyện giống nhau. Ở
đâu cũng kẹt xe kinh khủng, và sau một trận mưa, không chỉ ở thành phố
“bác” mà ở Hà... cũng lội!
Vô kỷ luật:
Sinh viên:
- Hà Nội: Nhiều em cave trông như sinh viên.
- Sài Gòn: Nhiều em sinh viên trông như cave.
Giao thông:
- Sài Gòn: Bạn có thể vượt đèn đỏ thoải mái.
- Hà Nội: Bạn có thể lượn lờ trước mũi xe hơi.
Chúng ta không hy vọng gì Hà Nội và Sài Gòn sẽ mãi mãi khác nhau. Sự
đồng hóa và việc di dân ồ ạt sẽ làm cho Sài Gòn càng ngày càng gần với
Hà Nội. Ðiều rõ nhất là Hà Nội trước năm 1954 và Hà Nội bây giờ hoàn
toàn khác nhau. Năm 1954, sau Hiệp Ðịnh Geneva, một số người đã mang sự
thanh lịch của Hà Thành năm xưa đi xa, để “Hà Lội” ngày nay cho những
người mới vào tiếp thu, từ giọng nói đến văn hóa cư xử đã hoàn toàn khác
biệt.
Người Sài Gòn hôm nay sẽ không còn là người Sài Gòn của những ngày tháng cũ, tất cả chỉ còn là chuyện thời gian.
Chỉ sợ sau ngày Sài Gòn trở lại tên cũ, chất Sài Gòn sẽ không còn nữa.
Chúng ta yêu Sài Gòn chính là yêu chính chúng ta, cái bóng của dĩ vãng.
Muốn Sài Gòn không đổi thay, chính lòng mình phải không thay đổi.
TRIỂN LÃM CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
Đóng triển lãm 'Cải cách Ruộng đất'?
Cập nhật: 14:24 GMT - thứ năm, 11 tháng 9, 2014
Tin từ Hà Nội cho hay
cuộc triển lãm Cải cách Ruộng đất 1946 -1957 "bị đóng cửa vì
lý do ánh sáng" trong chiều thứ Năm.
Cuộc triển lãm đã gây ra nhiều tranh cãi ngay từ hôm khai mạc.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Có những ý kiến từ giới sử gia trong nước cho rằng cuộc triển lãm chưa đầy đủ.
Một nguồn tin trong giới nghiên cứu cho BBC
hay chiều tối 11/9 giờ Hà Nội rằng có tin nói Bảo tàng "đang
tạm không tiếp đón người xem chiều nay để điều chỉnh lại".
Cũng chưa rõ liệu cuộc triển lãm sẽ được
điều chỉnh về kỹ thuật, ánh sáng hay nội dung thế nào và có
mở trở lại không.
BBC chưa liên lạc được với ban giám đốc bảo tàng qua điện thoại chiều tối hôm thứ Năm để tìm hiểu thêm sự việc.
Khai mạc hôm 8/9, Bảo tàng đã trưng bày chuyên đề “Cải cách ruộng đất 1946 - 1957”.
Gần 150 hiện vật, tư liệu gốc, ảnh tư liệu về
Cải cách ruộng đất đã được lựa chọn, cho người xem thêm nhiều thông tin
về Cải cách ruộng đất, theo đánh giá của giới quan sát.
Nhưng cuộc triển lãm cũng bị phê phán đã
không nhắc đến cụ thể "những sai lầm tả khuynh” nghiêm trọng để lại
những tổn thất lớn cả về con người và tổ chức, gây đảo lộn đời sống xã
hội ở nông thôn miền Bắc Việt Nam".
Trận lũ đau buồn
Ngoài ra, cuộc triển lãm tại Bảo tàng
Lịch sử Quốc gia ở Hà Nội cũng trở thành nơi để khách đến
xem, gồm các thế hệ già và trẻ "nhắc lại chuyện đau buồn"
thời Cải cách Ruộng đất khi các vụ tố oan, bắn giết nông dân
bị quy là "thành phần trên" đã xảy ra.
Chẳng hạn, trang VnExpress mô tả chuyện một người xem có tuổi nghĩ gì về hiện vật:
"Không muốn nhắc lại khoảng thời gian buồn đau của gia đình khi ông, cha đều bị đem ra đấu tố"
Một người xem cao tuổi
"Chỉ lên bức ảnh nông dân được chia lại ruộng
đất, đằng sau là khẩu hiệu "Địa chủ hết đời, nông dân vạn đại", người
đàn ông 74 tuổi quê Diễn Châu (Nghệ An) chia sẻ, giá như nó được sửa lại
là "Địa chủ hết thời, nông dân vạn đại" với ý nghĩa khẳng định sự chấm
dứt một thời kỳ áp bức của địa chủ nông thôn với nông dân thì sẽ hay
hơn,"
"Không muốn nhắc lại khoảng thời gian buồn đau
của gia đình khi ông, cha đều bị đem ra đấu tố, ông ví "thời kỳ
1953-1956 như trận lũ quét qua nông thôn Việt Nam".
Theo blog Xuân Diện, sáng nay 11.9.2014, bà con
dân oan Dương Nội mặc áo thun với các dòng chữ đòi nhân quyền
đã đến Bảo tàng Lịch sử quốc gia, phố 25 phố Tôn Đản, Hà Nội để xem
triển lãm Cải cách ruộng đất.
"Đoàn người đi bộ đến bảo tàng, đứng trước cổng
để xem các thông tin về cuộc triển lãm trưng bày về Cải cách ruộng đất.
Lúc đó đã 11h trưa, bảo vệ nói đã hết giờ xem, hẹn bà con đến vào lúc 2h
chiều. Bà con Dương Nội tản ra vườn hoa Cổ Tân gần đó để ăn và nghỉ
trưa đợi đến giờ vào xem."
"Đến hai giờ chiều, bà con vào thăm triển lãm
thì lực lượng bảo vệ triển lãm bắt dân cởi áo mới cho vào bảo tàng. Khi
bà con cởi áo xong để vào thì họ nói với bà con: Triển lãm Cải cách gặp
sự cố về ánh sáng nên tạm đóng cửa", theo trang blog Xuân Diện.
Triển lãm Cải cách ruộng đất tại Việt Nam: Biện minh hơn là nhận sai
Cuộc triển lãm về Cải cách ruộng đất tại Viện Bảo tàng Lịch sử quốc gia tại Tràng Tiền, Hà Nội - DR
Hôm qua, 08/09/2014, lần đầu tiên một cuộc triển lãm về Cải
cách ruộng đất đã khai mạc tại Hà Nội và đã thu hút rất nhiều người đến
xem. Nhưng cuộc triển lãm đầu tiên này bị đánh giá là phiến diện, tức là
chỉ phản ánh một mặt của Cải cách ruộng đất, hay đúng hơn là nhằm biện
minh cho chính sách này, chứ không tái hiện những sai lầm, những bi kịch
của cái gọi là cuộc “Cách mạng long trời lở đất” cách đây hơn 60 năm.
Vừa đến xem triển lãm sáng nay, tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện từ Hà Nội chia sẽ những suy nghĩ của ông với RFI Việt ngữ.
SƠN TRUNG * EM KHÔNG VỀ
EM KHÔNG VỀ
em nóng lạnh cảm sốt
đau nhức toàn thân,
Các con đưa em đi cấp cứu
em vào phòng săn sóc đặc biệt
vài hôm sau em vui vẻ báo tin
cuối tuần em sẽ trở về
nhưng nửa đêm bệnh trở nặng
em kêu khó thở
rồi em đi
anh vào bệnh viện
em thở oxy
bảng điện kế nhấp nháy màu đèn đỏ
anh cầm tay em
hai hàng lụy nhỏ
em đã bỏ anh rồi
em đã đi thật xa
em không trở về tổ ấm của chúng ta!
vài hôm sau
các con đưa em vào nhà tang lễ
bốn bề quạnh quẽ
em nằm trong quan tài lặng lẽ
xung quanh những vòng hoa tang
con cháu, anh chị em, bạn bè đến chào em lần cuối
đôi nến lung linh
hai hàng lệ ứa
em cười hay em khóc?
Anh cố nén tiếng nấc
để em thanh thản lên đường.
anh theo xe tang
đưa em vào nghĩa trang
đến giờ hạ huyệt
con cháu, anh em, bạn bè
gửi em những đóa hoa vĩnh biệt.
em ở lại đây
em không về ngôi nhà của chúng mình nữa
em ở lại với những hàng bia mộ trắng
với thảm cỏ xanh có hoa vàng,hoa trắng,
và trời mùa thu Canada bừng ánh nắng.
em ơi
hương còn nồng
tình còn thắm
sao trời xanh nỡ bắt tội chúng mình ?
anh là một thư sinh
yêu em
làm thơ và mê sách
hai chúng ta sống đời thanh bạch
cùng nhau xây dựng cuộc đời
cùng chung bao nỗi buồn vui
qua bao cơn sóng gió biển khơi
vẫn không bao giờ xa cách
thế mà nay
anh mới hiểu thế nào là bạn đời
thế nào là lẻ loi. . .
em ơi,
có những đêm khuya trằn trọc,
anh không khóc
mà sao đôi dòng lệ trào tuôn?
anh không buồn
mà sao tim đau nhói,
và gan ruột quặn thắt?
phải chăng đêm trường là vương quốc cô độc?
nhà chúng ta có hoa viên xanh mướt
do bàn tay em săn sóc.
có dàn bầu, dàn bí
có hàng đậu, hàng cà chua
Có khóm lan, cành trúc
Có hoavạn thọ, hoa mẫu đơn
có hoa hồng, hoa cúc
hoa thơm sực nức
những buổi sáng trời hững nắng
và những buổi chiều gió bắc cực về lạnh
có đôi bướm trắng, bướm vàng bay quanh
những con sóc nhảy nhót trên cành
Những đôi chim sâu nỉ non, tình tự
nhưng không thấy em qua lại giữa những hàng cây xanh
nâng niu những bông hoa hồng hoa trắng.
khu vườn vắng lặng
em đã đi xa thật rồi
em không trở về ngôi nhà cũ nữa
em ơí! em ơí!
20-8-2014
Tuesday, September 9, 2014
TÔN THẤT TUỆ * XE BÌNH BỊCH
bình bịch ngày xưa
bình bịch ngày nay
Thế nào chiếc moto ni cũng bên Pháp đem qua; nó không thành một hiện tượng, vì người trên xe là vua mà, chừng ấy còn ít quá, có chi là xa xỉ; vả lại, ngài ngự chạy ở những vùng xa dân chúng, không phiền hà ai.
Mãi đến đầu thập niên 1950, khi bắt đầu vào trung học, tôi mới nhìn ra khỏi xó Bến Ngự một chút. Lại thấy có ông Từ Bộ Quýnh đi xe mô tô bình bịch; lại thấy ông cả Bính ở Vy Dạ đi xe cấy chi nhỏ hơn bình bịch mà to hơn mobilette AutoBécane. Lại thấy anh Hướng, làm cho Lý Lâm Tinh, huynh trưởng hướng đạo, chạy cái xe gì to hơn Lambretta. Lại thấy anh Ngọ, Mỹ Thắng (?) chạy xe Ết Bà (Vespa), chiều chiều qua Xẹt (Cercle Sportif) đánh tennis. Anh Hà Thúc Miễn, Bến Ngự cũng có Vespa. Bác Thanh, bố của Trịnh Công Sơn cũng có Vespa.
Con nít còn hay chú ý đến mấy chiếc xe moto cảnh sát hộ tống các quan lớn như thủ hiến, thấy vui vui thấy moto ba bánh, kéo bên hông một chỗ ngồi có người cầm súng. Con nít cũng thích xem các xe motto Harley của nhà binh chạy trên lòng chảo sân vận động. Họ biểu diễn đứng trên yên xe, cởi áo, mặc áo trở lại mà xe cứ vù vù như bay. Muốn xem thì phải chui lỗ chó hàng rào từ phía trường Nguyễn Tri Phương.
Anh Miễn của tui còn có xe bốn bánh; sáu chục năm sau tui xem catalogue mới biết hiệu Chrysler của Mỹ. Huế mình không đến nỗi quê mà nghĩ rằng cà rem ăn không hết phơi khô để dành. Nhưng xe hơi không phải là món gần gũi; các xe của ông giám đốc học chánh, của tỉnh trưởng, thủ hiến thì tránh xa khỏi bị nước bùn tạt vô người.
Qua đến 1954 thì Huế có nhiều xe hơn, không ai chú đến xe bình bịch như của Ngài Ngự. Ngài Ngự bây không đi xe hai bánh mà đi xe bốn bánh, đại xa, chạy khắp thành phố ngày đêm. Ngài đeo kính đen như thường, ôm một ca ve chỉ mặc xí líp. Ngài lịch sự nhường nửa cổ xe cho Ngô Chí Sĩ đứng trong chiếc tàu đang lèo lái con thuyền VN. Cuộc dạo chơi cố đô của ngài được ghi trong một đoạn về Thượng Tứ của Phan Mông Hòa (ái nữ của Maria Mộng Hoa); may quá ngài cũng có một cùng đinh đỡ đạn:
Tôi còn nhớ như in kỷ niệm về mụ Xoài. Đó là năm Huế phát động phong trào Bài Phong Đả Thực và ủng hộ “Triều” cụ Ngô. Học sinh công tư toàn thành phố ngồi đầy nhóc trên những chiếc xe buýt màu xanh dương hay xe GMC nhà binh. Bọn học trò chúng tôi được chở đi cổ động bỏ phiếu cho chí sĩ Ngô Đình Diệm. “Xanh bỏ giỏ, đỏ bỏ bì”. Xe lớp lớp chạy lòng vòng khắp mọi xó xỉnh của cố đô. Một đứa lớn họng hét to: “Đả đảo Bảo Đại” hoặc “Ủng hộ Ngô Đình Diệm” rồi cả bầy hăng bò xít hét theo mà đả đảo hay ủng hộ. Tuổi trẻ máu nóng bốc đồng thi nhau la hét đến khan hơi rát cổ. Khi xe chúng tôi chạy đến đường Thượng Tứ, một bạn la to khẩu hiệu: “Ai bán nước ?” để cả bầy còn lại đồng thanh đáp: “Bảo Đại!”. Tôi thấy mụ Xoài xóm tôi le te chạy tới. Cái cằm móm xọm dài ra hơn khi mụ cười toe toét, trả lời đon đả: “Có đây! Có đây! Có mụ Xoài bán nước đây!” (Hoàng Hôn Thôn Vỹ)
Thế rồi Huế trở lại yên lặng. Nhiều căn phố được sửa lại, xây thêm một hay hai tầng như nhà sách Gia Long của chị Dương, mẹ của cô Hồng. Phía Hàng Bè có Kem Anh Đào của mẹ Trâm (em của La …Thanh).
Huế không thêm xe bình bịch to lớn, nhưng thêm Vespa, không nhiều lắm. Lambretta đã xuất hiện; không ăn khách “dòm” vì không ngọt nước như người anh em Italie. Con nít cửng con mắt cũng to thêm đồng nhịp với thân thể cho nên cái nhìn cũng to theo, để chú ý đến xe hơi. Dạo ấy, chạy quanh nhiều trong thành phố là Peugeot 203. Chaffenron chưng cả nguyên chiếc trong tủ kính như con búp bê, nhưng các bậc phu huynh thì thích tờ rác xông, mà còn thích tờ rắc xông ken nhiều hơn (ken, 15, quinze). Xuất hiện sau 54 là hai chiếc Mercedes, chúng liên quan đến thời cuộc tình hình chính trị mới.
Bên cạnh hai cô con gái mặc jupe rất chi là quí phái trưởng giả, đốc Quyến còn có thêm chiếc Mercedes màu xám, từ ngày làm bác sĩ gia đình, trông nom sức khỏe Cụ Cố, thâm mẫu Ngô Chí Sĩ, và Ngô Cố Vấn Tối Cao Miền Trung. Đốc Quyến dư tiền mua Mercedes bằng vàng cũng được nhưng miệng người thì nói quà tặng của Lãnh Tụ Anh Minh. Mà quà tặng thì có chi mà nói. Trong khi đốc Quyến ung dung như rứa, các người khác trong phong trào Hòa Bình thì xấc bấc xang bang.
Chiếc Mercedes thứ hai là của ông Nguyễn Văn Hai. Thầy Hai đã là người ủng hộ quyết liệt lấy tên Ngô Đình Diệm thay cho tên Khải Định. Việc đã thành nhưng trong vài tháng, trường mang tên là Quốc Học. Thầy Nguyễn Đình Hàm nói ông đã có công lớn trong việc đặt tên mới nầy và thành hiệu trưởng QH đầu tiên; ông cũng nói xa nói gần việc nầy làm cho thầy Hai khó chịu. Thầy Hai sau đó làm giám đốc học chánh Trung Phần. Ít lâu sau thì ông Đinh Quy lên thế thầy Hàm. Lại chào xáo trong trường. Có người vẽ trên stencil và in ronéo một bức hý họa không có chữ: một con rùa đội trên lưng một tấm bia đá, có khắc một chữ duy nhất, vừa có thể đọc là chữ “Q” hoa không tròn đủ hay đọc là con số 2.
Thầy Hai đầy nhiệt tình cách mạng, sửa đổi cách thi lục cá nguyệt; các lớp ngồi chung làm bài như nhau; đề thi các giáo sư trình thầy Hai duyệt và quyết định. Thầy không thích các giáo sư mặc áo tay cụt; có sự đụng độ nho nhỏ với thầy Đương dạy vạn vật; dịp nầy thầy Đương trở lại ngành y khoa Saigon. Thầy Hai đã qui định đồng phục trắng, nam sinh có cà vạt xanh dương. Mỗi sáng thứ hai tôi phải thắng khô mực và đôi dép lốp đi chào cờ. Sân trường chia làm bốn, cột cờ ở giữa. Thay phiên nhau, các ô cử người lên đánh nhịp bắt giọng hát quốc ca và suy tôn Ngô Tổng Thống.
Khi thầy Hàm đứng đầu trường, thầy vẫn giữ những tập tục nầy, kể cả việc đóng cửa tức khắc khi có chuông vô lớp. Nhưng không khí dịu hơn một chút, ít tính cách đoàn ngũ hóa nhân dân. Thầy Quy chấp chánh, mở thêm chức vụ giám học; mấy trò sính tiếng tây thì hay gọi là senseur. Theo nghĩa thông thường, senseur là thầy phó hiệu trưởng chuyên lo về kỷ luật. Đúng vậy, thấy giám học hầu như là chủ tịch một hội đồng vô hình gồm các giáo sư cố vấn. Thầy cố vấn thật đáng sợ; tuy không phải là tổng quát như nhau, các thầy nầy vô lớp thường nêu chuyện kỷ luật kèm với những lời hăm dọa bị đuổi v.v… Cha mẹ thường trấn an con cái với câu dang cao đánh sẻ. Ngoài ra, thầy giám học còn trông coi Hiệu Đoàn, tổ chức sinh hoạt chung của các trường, nhiều dấu hiệu hướng về đoàn ngũ hóa.
Thầy Hai trúng cử làm dân biểu của Quốc Hội Lập Hiến; QH nầy được lưu nhiệm làm QH lập pháp đầu tiên. Mọi dân biểu (52 vị ?) được mua xe “de luxe” không thuế; xe cộ thời ấy bị đánh thuế đến 300% giá trị. Thầy Hai mua Mercedes. Thỉnh thoảng Huế cũng thấy thầy Hà Như Chi, cũng là dân biểu, lái xe “de luxe” Peugeot 403 mỗi khi từ Saigon ra thăm thân phụ thân mẫu là ông bà Hà Thúc Lãng.
Nói rứa thôi, chứ Huế không đến nỗi tệ chỉ có bấy nhiêu xế hộp. Nhưng có hai trường hợp khác coi bộ nhiều người biết tới hơn vì nó thuộc “địa giới”, tôi muốn nói không ở mức thượng thừa trong xã hội như thầy Hai, thầy Chi, ông đốc Quyến.
Chiếc xe “deluxe” Peugeot 403 của thầy Chi – nếu đã đẩy lùi các xe Peugeot 203 xuống chân danh sách ngưỡng mộ - đã không làm mất uy của một chiếc Peugeot 203 khác.
Một người đi học Mỹ về, rồi tự xưng là đạo diễn điện ảnh. Anh ta có mái tóc phờ ri dê xỏa nửa trán, nhưng không có vẻ gì là lại cái (homo), vẫn còn nguyên dương tính. Anh mua một chiếc xe peugeot 203, hai chỗ ngồi và có mui trần. Xe cộ thời ấy thì chính là đen; Peugeot có thêm màu xám. Đàng nầy anh sơn lại, chơi nguyên màu đỏ tươi. Am mê ri ken mà!
Nhưng màu đỏ không phải là điều đáng nói. Điện ảnh gia (?) Lê Hoàng Hoa có tội đáng chết: ẳm được cô Ty bỏ lên xe chạy khắp thành phố. Tội đáng chết vì làm bao người nuốt nước miếng ừng ực. Cô Ty bán sách ở nhà sách Ưng Hạ. Bao nhiêu trai thanh, học giả tới đó mở sách ra xem mà mắt nhìn trộm cô hàng. Nhiều nhất là mấy ông sư phạm chơi nguyên đồng phục côm lê. Cô Ty phải biết có hai thứ sinh viên ở Huế, một bên là sư phạm có học bỗng. Khi tự giới thiệu với các bà mẹ có con gái mình là sinh viên thì được hỏi là sư phạm chi, anh văn hay lý hóa…
Còn như văn khoa hay luật khoa thì chỉ là đồ cà lơ phất phơ, còn lâu mới thành a vô ca có tiền, suốt đời “làm thi sĩ là tru với chó”. Rứa mà mấy ôn sư phạm ái mộ cô, cô có giá quá hè.
Cô Ty có đóng phim hay không, nào ai hay biết. Phim trường của LHH thường là Hội Việt Mỹ. Về sau cơm cháo giữa chàng và nàng có ra chi hay không, tui không biết; tuy vậy sau đó, dân Huế không còn cơ hội chứng minh câu thơ Tàu: thư trung hữu nữ nhan như ngọc, trong nhà sách Ưng Hạ có người đẹp như ngọc như ngà.
Xanh xanh đỏ đỏ em nhỏ nó mừng. Hết lượt xe đỏ Peugeot thì qua xe xanh, xanh lá mạ thì rõ ràng hơn, để không nhầm với xanh biển. Chiếc xe khá to, cũng mui trần như xe của nhà làm phim. Khi đồng An Cựu xanh rì ngọn lúa thì khách qua đường khó nhận ra chiếc xe; vì xe hay đậu trước sân của một villa có mặt tiền phía đường nhưng quanh còn ruộng. Villa nầy là chỗ ở của ông sếp công chánh tỉnh; ông mới rời nguyên quán Quảng Trị vô đất thần kinh đem theo hai cô con gái (con trai thì kể làm chi cho mệt, có một trăm trự cũng thế thôi). Nhưng trội nhất là cô chị Hồng Thủy.
Ông bạn tôi mới trả lời email nói Hồng Thủy đi xe Lambretta vô trường đã thành một điều kinh khủng. Đúng vậy nhưng bạn tôi quên nói Hồng Thủy đã thường lái xe mui trần chạy quanh thành phố những lúc đông người. Tóc nàng bay bay trên cầu Trường Tiền. Thường Hồng Thủy chỉ đi một mình, (không như Lê Hoàng Hoa có cô Ty) hay cô em gái, cho nên với một số gà trống, mặt trận miền tây vẫn bình yên.
Mi đi xe máy (xe đạp) người ta đi xe điện (xe hơi), mắc chi mi noái, tức à, tức ăn ...mà trừ. Đồ vô duyên, vô duyên cảy, bảy ngày không hết vô duyên.
Không thấy ai chết, hay mũi ăn trầu cái đầu xức thuốc. Tui có hỏi hai người bạn cũ, họ đều nói Hồng Thủy là một kiều nữ rất bình thường, hiền hòa; chơi bạo chiếc Lambretta có chết ai mô. Một người hiện ở bên Đức nhiều năm học chung và sau đó cũng biết cô nàng. Một người hiện ở vùng thủ đô Hoa Kỳ, cùng gốc Quảng Trị đã than phiền tin thất thiệt. Đêm văn nghệ cuối năm 1959, Hồng Thủy hát bài Hòn Vọng Phu 2 của Lê Thương, tôi còn nhớ mặt người đệm sáo tre nhưng không nhớ tên.
@
Dẫu răng đi nữa, những điều viết trên đây xẩy ra vào một thời tương đối an bình của Huế; lúc ấy chưa có biểu tình, bàn thờ xuống đường, chưa có thảm sát Mậu Thân.
Tôi viết theo lối mà Tràm Cà Mau nói là lang thang xứ Huế, cũng rất vô duyên cảy bảy ngày không hết vô duyên. À mà viết khi nhận mấy bức hình moto rất thời trang của những cô gái Huế ngày nay. Những lần chuyển chuyển forward, forward, không ai nói chi trừ một thân hữu nêu chuyện Hồng Thủy đi xe Lambretta đến trường; chẳng có nghĩa lý gì so với hiện nay mà đã là chuyện gần như kinh khủng. Nói chung, vẫn có một chút gì không đồng ý, không nói ra.
Nhưng nói cho cùng Huế mình cái chi không có, nhưng cái có xưa kia ít ồn ào, và che dấu được. Bây giờ có ai sợ chi; còn che dấu là còn biết cần có một giá trị nào đó. Che dấu không phải hoàn toàn tốt nhưng cũng không phải hoàn toàn xấu. Huế mình đôi lúc còn đi trước. Ngay sau 75, một đấng hương sắc của sông Hương núi Ngự đã tiên phong chụp hình khỏa thân và quay phim cảnh làm tình với một người ngoại quốc trên một du thuyền neo ở Vũng Tàu. Những gì qua ống kính đã đến các tòa báo Saigon.
Nhưng về ngôn ngữ thì những chuyện như rứa không có. Huế mình không thấy, Huế mình chỉ chộ.
Dùng hai chữ bình bịch cho những chiếc hai bánh hiện nay thì sẽ bị các cô lấy giày đánh trên đầu, như người ta gán ghép cho Hồng Thủy. Bởi lẽ bình bịch xưa cổ lỗ sĩ còn những chiếc moto nầy mới, chạy nghe êm trừ phi chủ nhân muốn tháo ống bô (ống khói) kêu thiệt to.
Người Huế, nam hay nữ, nếu không phải là triết gia, văn sĩ, thi sĩ, luận sĩ, thiền sư, thì ít nhất cũng là những nhà hoạt động, những nhà tuyên truyền, xin lỗi tôi muốn nói activiste. Hoạt động cho đảng phái, cho tôn giáo, cho các thế lực v.v… Một ký giả nửa Pháp nửa Mỹ nói như thế để chứng minh luận điểm của ông rằng người Huế rất sâu sắc, theo chiều hướng thiện hay chiều hướng nguy hiểm tùy người; người Huế không đơn giản chút nào. Cứ xem tạm như ông nhà báo ấy nói đúng, thì mấy cô chạy xe moto thứ xịn nhất thế giới, mấy cô nầy sẽ được xếp vào chỗ mô? Mấy cô nầy hết sức đơn giản và cái chi cũng để lộ ra ngoài. Mấy cô không cần một tay giữ nón lá, một tay giữ tà áo, phòng khi có ngọn gió bất thường tấn công những lớp vải mỏng thín. Mấy cô nầy khi mô cũng phây phây.
Nếu lúc trước kia Huế được mô tả như trái mãng cầu (quả na) ngoài ngói móc trong bột lọc nhụy đậu đen thì Huế ngày nay đem trong ra ngoài như trái điều lộn hột. Ở một mức độ khá lớn, sự thể này trông ra dễ , dễ bề tính toán; dễ bề tính toán kể cả trong tình yêu và nhất là lập kế hoạch đưa nàng về dinh.
Xứ Huế khó bề duy trì nét thầm lặng bên ngoài làm môi giới cho sự thầm lặng bên trong. Một trong những lý do là quá nhiều người mới lạ, lạ từ nguyên quán, lạ trong lối suy nghĩ. Nhưng trên hết, xứ Huế không thoát khỏi những đặc tính chung của toàn VN, không thể nói Huế cao thượng hơn, sạch sẽ hơn, spiritual hơn…
Nói đến cái trầm lặng của Huế làm tôi liên tưởng đến Lào và Miến Điện. [Mấy dòng kề cận tôi lấy ý của Tiziano Terzani trong cuốn A Fortune Teller Told Me.
1962 tướng Ne Win đảo chánh cầm quyền, đưa ra đường lối gọi là xã hội chủ nghĩa theo lối Phật Giáo, áp đặt độc tài quân phiệt, quốc hữu hóa nền kinh tế, tống giam thành phần chống đối. Ne Win không muốn sự hà khắc của Tàu Cọng, cũng không muốn đường lối sùng vật chất của Mỹ đang tung hoành ở Thái Lan và chung quanh. Đánh đổi nền độc tài khắc nghiệt, truyền thống được duy trì, tôn giáo phát triển, 45 triệu dân không bị đưa vào cơn lốc của sự đô thị hóa, của kỹ nghệ hóa và tây phương hóa. Chính quyền Rangoon không muốn quá nhiều người ngoại quốc làm ô nhiễm không khí quốc gia; chiếu khán chỉ cấp bảy ngày lưu trú. Chùa chiền được giữ trang nghiêm làm nơi hành đạo chứ không phải viện bảo tàng cho du khách chụp hình, rộn ràng như ngoài chợ.
Sau ¼ thế kỷ với quyền uy tuyệt đối, Ne Win trao tay lái cho đàn em. Lớp mới nầy còn độc tài hơn lão tổ, trân tráo hơn, tàn bạo hơn, giết người nhiều hơn nhưng tân thời hơn. Mấy ông vua con nầy bỏ chủ trương cô lập và theo hình thức phát triển xô bồ. Bốn mươi năm cưởng lại, Miến phải nhường bước cho cái định mệnh chung, không ai thoát khỏi từ Tàu của Mao, Ấn của Gandhi, Khmer của Pol Pot, VN.
Giữa thập niên 1990, Terzani đến thị trấn nhỏ Tachilek cạnh biên giới Thái đã choáng mắt bởi những chữ mạ vàng: “Tourists, welcome to Burma” thay những chữ ông còn nhớ: Foreigners, keep away. Any one passing this point risks being shot. Có 14 sòng bài, mấy chục chỗ hát kaoroke. Người Thái mở siêu thị, nhà hàng. Không ai xài tiền Miến, chỉ dùng ngoại tệ. Ma túy, mãi dâm hầu như buôn bán công khai. Các ông tướng ông tá đứng đầu các dịch vụ du lịch như di chuyển, thông ngôn, ăn ở…
Về phần Lào, bao năm phản đối, phải để cho Úc xây cây cầu qua Mekong nối liền với Thái. Bây giờ cây cầu mệnh danh là cầu Xi Da (The Aids Bridge). Trung Cọng đang mở con đường xuyên Miến nối liền Tàu và Thái.
Là một người mến văn hóa đông phương, biết nhiều về lịch sử từng vùng, Terzani cho rằng Tây Phương hóa trở thành thuốc phiện cho cả Á Châu. Người Tàu đã có số đông không dùng đủa mà dùng muỗng nĩa cho tiến bộ. Singapour là một hòn đảo điều hòa không khí, chỉ có hotel và nhà hàng. Lý Quang Diệu là người mẫu của tư bản Tàu lục địa. Ký giả Ý nầy (1938-2004) có cái nhìn ngộ nghĩnh.
Bốn, năm thế kỷ trước Tây Phương đến Á Châu bị đánh lại (tuy vẫn thắng) như chiến tranh ma túy bên Tàu, Cần Vương bên mình. Nhật Bản bên ngoài theo tân trào, bên trong tổ chức cẩn thận mọi bề chống lại ảnh hưởng ngoại lai. Nhưng bây giờ Tây Phương đem liều thuốc phát triển thì Á Châu đón nhận với bất cứ giá nào, hằng triệu người là nạn nhân trực tiếp hay gián tiếp. Những xáo trộn ấy đẻ ra những chiếc xe motto mắc tiền, chạy ngang đánh bạc những chiếc nón lá rách của người đi bộ nghèo trên xứ Huế
Tôi đã lạm dụng thì giờ của các bạn để đi hơi xa, khởi hành từ chiếc xe bình bịch. Nhưng nhịp độ biến thiên của xứ Huế còn nhanh hơn những chiếc hai bánh do các nường phóng theo gió. Các chùa xưa như Tra Am nay đã xây lại theo đá rửa, lưỡng long chầu nguyệt bằng mẻ chén kiểu. Quanh các chùa có những ghế đá lọ lem khắc ghi tên người cúng và tên người được hồi hướng, những câu thiền viết bay bướm không ai đọc ra treo khắp nơi. Huế mình đang có phong trào ăn chay nghệ thuật, con gà chay, thịt heo nướng chay, con tôm chay.
Có nhiều biến thái khác. Nhưng đây chỉ nếu một biến thái nhỏ về ngôn ngữ: rồi ra, người Huế sẽ nói chữ “vào” thay cho chữ “vô” dù là gốc Nôm hay Hán Việt. Một tác giả viết về Huế thấy sách mình xuất bản với những chữ rất lạ: “vào luân, vào lý, vào đạo” mà bà đã viết “vô luân, vô lý, vô đạo”. Dĩ nhiên tác giả không đồng ý. Nhưng tôi, anh đổ gàn, khoái tỷ. Nếu bà mắng tôi là đồ vô đạo, vô học, vô luân; bĩnh bút sẽ biến tôi thành kẻ vào lý, vào đạo, vào học. Chẳng mấy chốc tướng cướp, kẻ giết người đều vào đạo, vào học, vào lý. Khổng Lão Thích đều thất nghiệp.
Dẫu sao, những chiếc moto hào nhoáng – phản ảnh những bất thường của thời đại – gợi lên thương tiếc một thời áo quần giản dị, đi lại chẫm rải chừng mực. Hoài niệm chỉ là hoài niệm mà thôi. Sự trầm lặng của Huế không bao giờ trở lại. Vì sao? vì lòng người đã thay đổi. Lòng người Huế đã thay đổi âm thầm từ lâu, nay mấy cô moto làm cho sống dậy mạnh bạo hơn; những thứ gọi là bạo động tinh tế đã có: Một tin đồn Hồng Thủy trở gót guốc đánh đầu người ta, một “chân lý” (trong ngoặc kép) vĩnh viễn: sông Hương dưới thuyền có đĩ trên bờ có vua.
Xin lỗi tôi hơi méo mó Phật giáo một chút: tâm bình thế giới bình. Tướng tại tâm sinh, hãy nhìn người Huế bây giờ, dù vẫn còn áo tím, đứng dưới mái hiên chùa. Trực giác sẽ giúp chúng ta. Bình bịch năm xưa, bình bịch năm nay chỉ là những thứ ngoài da.
HUY PHƯƠNG * SAIGON-HÀ NỘI
Sài Gòn và Hà Nội
Tạp ghi Huy Phương
Sau khi đi tù về vài năm, khoảng 1985, tôi có mở một tiệm làm hình và
tráng phim gia công trên đường Lý Thái Tổ, Sài Gòn. Nhờ vậy, ở đây tôi
có dịp tiếp xúc với nhiều người đủ mọi tầng lớp xã hội và ở khắp mọi
miền, nhất là dân miền Bắc, sau Tháng Tư, 1975, đổ xô vào Nam kiếm ăn
rất nhiều. Vì dù miền Nam sau ngày “giải phóng” đã xuống cấp tột cùng,
trông cũng còn khá giả, tươm tất hơn ở miền Bắc sau 20 năm dưới chế độ
cộng sản.
Sài Gòn ngày nay. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)
Một ngày nọ, tôi gặp một người trung niên miền Bắc, trông mặt mày cũng
khôi ngô, nhưng áo quần nhàu nát, làn da xanh mét như người thiếu ăn,
anh vào tiệm, ngửa tay ra, nói mấy câu. Nghe giọng nói tôi biết ngay là
người này ở ngoài Bắc mới vào, đang hành nghề xin ăn.
Tôi hỏi anh, “Tận ngoài Bắc, sao anh vào đây đi ăn xin?”
Không hề ngượng nghịu, anh nói rõ, “Vào đây xin 10 người cũng có được 6
người móc túi cho, lại chẳng bao giờ bị chửi bới. Ngoài Bắc, nhất là Hà
Nội, thì đừng hòng! Có mà chết đói.”
Ðó là điều tôi nhận ra, như vậy là có sự khác biệt nhau giữa Sài Gòn và
Hà Nội. Hà Nội đại diện cho miền Bắc và Sài Gòn phản ánh cho những đặc
tính của miền Nam.
Cộng Sản vào không phải làm điện khí hóa cho nông thôn trở thành thành
thị, nhưng thật tình đã “nông thôn hóa” thành thị, nên dân Sài Gòn
thường trực bị cúp điện, nhiều nơi tìm cách đào giếng để kiếm nước và
sẵn sàng bới sân gạch lên để trồng khoai lang cải thiện, hay như ông bạn
tôi ở chung cư Thanh Ða, bớt chỗ sinh hoạt để nuôi hai con heo nái trên
sân thượng.
Sài Gòn sau thời gian đổi tên, nguyên do chỉ vì cái bến Nhà Rồng chết
tiệt, chẳng mấy chốc xuống gần bằng Hà Nội. Bằng Hà Nội hơn, nhất là sau
khi họ ồ ạt “vào thành phố” như một câu hát của Trịnh Công Sơn, với
những “cửa hàng thịt phụ nữ,” “cửa hàng chất đốt thanh niên” mọc ra, cái
cảnh phơi áo quần trên cửa sổ, treo khăn lông trong “xe con,” nuôi heo,
trồng rau ngay trong sân nhà, hay hai anh bộ đội lái xe khác chiều dừng
xe ngay giữa lộ để nói chuyện với nhau, bất cần tiếng chửi của thiên
hạ.
Mới thoạt nhìn, Sài Gòn bỏ ngỏ và bắt đầu nhếch nhác giống Hà Nội, nhưng
sự thật trong gan ruột, hai thành phố đối cực, đối đầu này đang có
những điều khác biệt, một bên là “nơi hang ổ cuối cùng và đâu cũng thấy
tàn dư Mỹ Ngụy,” và Hà Nội, “thủ đô của lương tri, phẩm giá con người!”
Vì vậy mà ngày nay, sau gần 40 năm “thống nhất” người ta còn đi tìm và
thấy ra có quá nhiều khác biệt giữa Sài Gòn, Hà Nội. Cách biệt vì cách
đối xử chính trị như vậy, trách sao Sài Gòn và Hà Nội không cách biệt về
văn hóa, mặc dầu lúc nào hai bên cũng cho bên kia là “quê hương tù
dày!” Tuy vậy, Hà Nội thắt lưng, buộc bụng, tẩy não, “dốc hết hạt gạo,
cục muối cho miền Nam đánh Mỹ,” làm sao so được với Sài Gòn “bơ thừa sữa
cặn!”
Nói về giáo dục, sau Tháng Tư, 1975, đồng bào và thầy cô giáo miền Nam
hẳn đã biết loại văn hóa ăn nói vô lễ, thô tục của lũ trẻ miền Bắc mới
vào Nam, vì miền Bắc không có khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn” treo
trong các lớp tiểu học. Ngày ra Bắc, lên tận Hoàng Liên Sơn, tôi đã
trông thấy những nét văn hóa tiêu biểu, được viết bậy lên vách tường nhà
trường tiểu học, chưa kịp xóa sạch, nói đến sự quan hệ của ngành công
an và giáo dục: “Công An (đ.) Cô Giáo!”
Trên đường làng Cẩm Nhân, Yên Bái, chúng tôi đi ngang một nhà giữ trẻ
của hợp tác xã, nghe tiếng trẻ khóc la và tiếng quát của một phụ nữ: “Bố
mẹ chúng mày đéo cho lắm vào, để chúng mày làm khổ thân bà!” “Bà” đây
là người giữ trẻ của hợp tác xã nông nghiệp, bà có nhiệm vụ giữ trẻ thì
khỏi ra đồng như các hợp tác xã viên khác. Liệu lũ trẻ này lớn lên dưới
sự chăm sóc của những người này này, ngôn ngữ của chúng sẽ ra sao?
Trên các blog và báo chí trong nước, đề tài “những sự khác biệt giữ Sài Gòn và Hà Nội” tương đối là một đề tài hấp dẫn.
Tôi dẫn một vài ví dụ:
Giao tiếp:
- Ở Sài Gòn, bạn dửng dưng khi thấy cô bán hàng cúi gập người chào bạn.
- Ở Hà Nội, bạn xúc động đến sững sờ khi thấy ai đó nói lời cảm ơn.
Hàng quán:
- Tô hủ tíu mì Sài Gòn được bưng ra với tô được đặt trên chiếc đĩa.
- Bát phở gà Hà Nội được khuyến mại với ngón tay cái của con bé bưng bê!
Ca ve:
- Khi bạn vừa thanh toán xong tiền cho cave...
Cave Hà Nội: “Cho em xin thêm 10 nghìn để còn đi xe ôm về.”
Cave Sài Gòn: “Em bớt cho anh 10 ngàn, lần sau nhớ kiu em nha!”
Nhà sách:
- Hà Nội: Nhân viên hách dịch.
- Sài Gòn: Vào đọc chùa thoải mái, nhất là các em bé, có thể ngồi tại chỗ đọc mà không sợ bị đuổi!
Trong quán ăn:
- Sài Gòn: “Vâng em làm ngay đây.”
- Hà Nội: “Làm gì mà cuống lên thế! Muốn nhanh thì xéo sang hàng khác!”
Bạn bè:
- Hà Nội: Hay để bụng, ghét mà trước mặt vẫn chơi, về nhà nói xấu.
- Sài Gòn: Mau huề, ghét là biến, không chạm mặt!
Nhưng liệu những sự khác biệt này kéo dài được bao lâu nữa? Bây giờ, Sài
Gòn và Hà Nội đã bắt đầu đầu giống nhau, ảnh hưởng và bị đồng hóa, vì
người Nam ra Bắc thì ít mà người Bắc vô Nam càng ngày càng đông, như một
người tên Jor Dan viết trên blog: “Mỗi người có một cách suy nghĩ
riêng. Nhưng đa phần chỉ nói yêu Hà Nội, nhưng lại thích được sống ở Sài
Gòn. Ca sĩ Hà Nội vào Sài Gòn lập nghiệp nhiều quá còn gì!”
Sau gần 40 năm bây giờ hai thành phố này đã có những chuyện giống nhau. Ở
đâu cũng kẹt xe kinh khủng, và sau một trận mưa, không chỉ ở thành phố
“bác” mà ở Hà... cũng lội!
Vô kỷ luật:
Sinh viên:
- Hà Nội: Nhiều em cave trông như sinh viên.
- Sài Gòn: Nhiều em sinh viên trông như cave.
Giao thông:
- Sài Gòn: Bạn có thể vượt đèn đỏ thoải mái.
- Hà Nội: Bạn có thể lượn lờ trước mũi xe hơi.
Chúng ta không hy vọng gì Hà Nội và Sài Gòn sẽ mãi mãi khác nhau. Sự
đồng hóa và việc di dân ồ ạt sẽ làm cho Sài Gòn càng ngày càng gần với
Hà Nội. Ðiều rõ nhất là Hà Nội trước năm 1954 và Hà Nội bây giờ hoàn
toàn khác nhau. Năm 1954, sau Hiệp Ðịnh Geneva, một số người đã mang sự
thanh lịch của Hà Thành năm xưa đi xa, để “Hà Lội” ngày nay cho những
người mới vào tiếp thu, từ giọng nói đến văn hóa cư xử đã hoàn toàn khác
biệt.
Người Sài Gòn hôm nay sẽ không còn là người Sài Gòn của những ngày tháng cũ, tất cả chỉ còn là chuyện thời gian.
Chỉ sợ sau ngày Sài Gòn trở lại tên cũ, chất Sài Gòn sẽ không còn nữa.
Chúng ta yêu Sài Gòn chính là yêu chính chúng ta, cái bóng của dĩ vãng.
Muốn Sài Gòn không đổi thay, chính lòng mình phải không thay đổi.
TRIỂN LÃM CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
Đóng triển lãm 'Cải cách Ruộng đất'?
Cập nhật: 14:24 GMT - thứ năm, 11 tháng 9, 2014
Tin từ Hà Nội cho hay
cuộc triển lãm Cải cách Ruộng đất 1946 -1957 "bị đóng cửa vì
lý do ánh sáng" trong chiều thứ Năm.
Cuộc triển lãm đã gây ra nhiều tranh cãi ngay từ hôm khai mạc.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Có những ý kiến từ giới sử gia trong nước cho rằng cuộc triển lãm chưa đầy đủ.
Một nguồn tin trong giới nghiên cứu cho BBC
hay chiều tối 11/9 giờ Hà Nội rằng có tin nói Bảo tàng "đang
tạm không tiếp đón người xem chiều nay để điều chỉnh lại".
Cũng chưa rõ liệu cuộc triển lãm sẽ được
điều chỉnh về kỹ thuật, ánh sáng hay nội dung thế nào và có
mở trở lại không.
BBC chưa liên lạc được với ban giám đốc bảo tàng qua điện thoại chiều tối hôm thứ Năm để tìm hiểu thêm sự việc.
Khai mạc hôm 8/9, Bảo tàng đã trưng bày chuyên đề “Cải cách ruộng đất 1946 - 1957”.
Gần 150 hiện vật, tư liệu gốc, ảnh tư liệu về
Cải cách ruộng đất đã được lựa chọn, cho người xem thêm nhiều thông tin
về Cải cách ruộng đất, theo đánh giá của giới quan sát.
Nhưng cuộc triển lãm cũng bị phê phán đã
không nhắc đến cụ thể "những sai lầm tả khuynh” nghiêm trọng để lại
những tổn thất lớn cả về con người và tổ chức, gây đảo lộn đời sống xã
hội ở nông thôn miền Bắc Việt Nam".
Trận lũ đau buồn
Ngoài ra, cuộc triển lãm tại Bảo tàng
Lịch sử Quốc gia ở Hà Nội cũng trở thành nơi để khách đến
xem, gồm các thế hệ già và trẻ "nhắc lại chuyện đau buồn"
thời Cải cách Ruộng đất khi các vụ tố oan, bắn giết nông dân
bị quy là "thành phần trên" đã xảy ra.
Chẳng hạn, trang VnExpress mô tả chuyện một người xem có tuổi nghĩ gì về hiện vật:
"Không muốn nhắc lại khoảng thời gian buồn đau của gia đình khi ông, cha đều bị đem ra đấu tố"
Một người xem cao tuổi
"Chỉ lên bức ảnh nông dân được chia lại ruộng
đất, đằng sau là khẩu hiệu "Địa chủ hết đời, nông dân vạn đại", người
đàn ông 74 tuổi quê Diễn Châu (Nghệ An) chia sẻ, giá như nó được sửa lại
là "Địa chủ hết thời, nông dân vạn đại" với ý nghĩa khẳng định sự chấm
dứt một thời kỳ áp bức của địa chủ nông thôn với nông dân thì sẽ hay
hơn,"
"Không muốn nhắc lại khoảng thời gian buồn đau
của gia đình khi ông, cha đều bị đem ra đấu tố, ông ví "thời kỳ
1953-1956 như trận lũ quét qua nông thôn Việt Nam".
Theo blog Xuân Diện, sáng nay 11.9.2014, bà con
dân oan Dương Nội mặc áo thun với các dòng chữ đòi nhân quyền
đã đến Bảo tàng Lịch sử quốc gia, phố 25 phố Tôn Đản, Hà Nội để xem
triển lãm Cải cách ruộng đất.
"Đoàn người đi bộ đến bảo tàng, đứng trước cổng
để xem các thông tin về cuộc triển lãm trưng bày về Cải cách ruộng đất.
Lúc đó đã 11h trưa, bảo vệ nói đã hết giờ xem, hẹn bà con đến vào lúc 2h
chiều. Bà con Dương Nội tản ra vườn hoa Cổ Tân gần đó để ăn và nghỉ
trưa đợi đến giờ vào xem."
"Đến hai giờ chiều, bà con vào thăm triển lãm
thì lực lượng bảo vệ triển lãm bắt dân cởi áo mới cho vào bảo tàng. Khi
bà con cởi áo xong để vào thì họ nói với bà con: Triển lãm Cải cách gặp
sự cố về ánh sáng nên tạm đóng cửa", theo trang blog Xuân Diện.
Triển lãm Cải cách ruộng đất tại Việt Nam: Biện minh hơn là nhận sai
Cuộc triển lãm về Cải cách ruộng đất tại Viện Bảo tàng Lịch sử quốc gia tại Tràng Tiền, Hà Nội - DR
Hôm qua, 08/09/2014, lần đầu tiên một cuộc triển lãm về Cải
cách ruộng đất đã khai mạc tại Hà Nội và đã thu hút rất nhiều người đến
xem. Nhưng cuộc triển lãm đầu tiên này bị đánh giá là phiến diện, tức là
chỉ phản ánh một mặt của Cải cách ruộng đất, hay đúng hơn là nhằm biện
minh cho chính sách này, chứ không tái hiện những sai lầm, những bi kịch
của cái gọi là cuộc “Cách mạng long trời lở đất” cách đây hơn 60 năm.
Vừa đến xem triển lãm sáng nay, tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện từ Hà Nội chia sẽ những suy nghĩ của ông với RFI Việt ngữ.
Tuesday, September 9, 2014
BÙI MỸ DƯƠNG * DẠY TIẾNG VIỆT
Trình bầy về kinh nghiệm dạy con tiếng Việt tại nhà
BÙI MỸ DƯƠNG
Kính thưa
quý-vị trong khán-phòng, quý thầy cô giáo, quý phụ-huynh,
Chúng
tôi rất hân-hạnh được quý thầy Nguyễn-văn-Khoa, Vũ-Hoàng, Lưu-trung-Khảo và
Quyên-Di ưu-ái cho gặp quý-vị trong ngày họp của khoá Huấn-luyện và tu-nghiệp
sư-phạm.
Không dám múa rìu qua mắt
thợ, chúng tôi chỉ xin đưa vài kinh-nghiệm đã áp-dụng trong gia-đình nhỏ của tôi khi nói về việc
dạy trẻ Việt ở hải-ngoai.
Thưa
quý vị, tôi cũng có
thời làm nghề "gõ đầu trẻ", đã tốt-nghiệp trường Đại-học Sư-phạm Sài-gòn ban Việt-Hán
gần 50 năm trước. Công-việc của tôi là giảng dạy quốc-văn (văn-chương Việt-Nam) cho các lớp đệ-nhị cấp gồm
các lớp từ lớp 10 đến
lớp 11 với các em học-sinh tuổi từ 15, 16 đến 17 hoặc 18. Với số tuổi đó, các em đã có đủ sức phán-đoán, phê-bình, thảo-luận, còn thầy giáo phải thu-thập tài-liệu để dẫn-chứng
về bài văn, bài thơ, xét về mặt ảnh-hưởng bởi xã-hội, thời-cuộc và thân-thế của tác-giả.
Công việc giảng dạy tương-đối dễ-dàng hơn nếu so với các thầy cô ở trường tiểu-học và mẫu-giáo. Các học-sinh nhỏ tuổi từ 5, 6 đến 10 tuổi, trí óc còn non dại được ví như tờ giấy
trắng nếu vẽ không khéo sẽ làm hỏng bức tranh. Thầy
cô giáo dạy các em
nhỏ còn phải hiểu tâm-lý của các em (đặt mình vào tuổi các em) thì việc giảng dạ mới có kết-quả. Hiểu được sự quan-trọng đó, Bố tôi đã phải tìm một bà thầy với nhiều năm kinh-nghiệm dạy trẻ
nhỏ đến nhà lo cho các cháu ngoại. Tóm lại chính tôi thì không có
kinh-nghiệm dạy các em nhỏ bậc tiểu-học.
Bây giờ
nói đến trường-hợp các trẻ em Việt -Nam trên đất nước Hoa-Kỳ, tiếng và chữ Việt như một ngôn ngữ
thứ hai (English as
a Second Language, ESL). Ở
Việt-Nam Bố tôi làm trong ban Tu-thư
(ban soạn sách ) của Bộ Quốc-gia Giáo-dục; sách soạn ra được
dùng cho toàn-quốc từ tập đọc,
sử-địa, luận-văn, toán… cho cả 5 cấp của bậc tiểu-học (từ lớp 1 đến
lớp 5). Ra hải-ngoại Cụ vẫn chủ-trương giữ-gìn tiếng Việt góm-ghém ly-tưởng trong hai câu thơ:
Chỉ sợ đàn con quên Việt-ngữ,
Đừng lo lũ trẻ kém
Anh-văn.
Tại
Canada ông lại viết sách, trước hết cho đám con cháu trong nhà, sau là phổ-biến
để cho trẻ em Việt tại hải-ngoại không quên ngôn-ngữ nước mình và mang tiếng "mất
gốc".
Sách soạn
theo tiêu-chuẩn để hợp với
môi-trường và cuộc sống hiện-tại; những bài tập đọc, học thuộc
lòng, luận-văn đề-cập tới nơi chốn các em thường lui tới như nhà thờ, chùa,
bưu-điện, siêu-thị, tiệm ăn v.v. Về sử-địa là những bài ngắn nói về các
danh-nhân anh-hùng, giúp vua, giúp nước; địa-danh thì nói về ngọn núi, con sông
nổi tiếng, tượng-trưng của nước Việt mến yêu. Một bộ Việt-sử Bằng tranh với hình vẽ vui tươi và đẹp mắt để các em đọc
thêm lúc nhàn-rỗi; sách này vừa để tập đọc vừa ôn lại lịch-sử nước nhà.
Vượt bao
hiểm-nguy đem được các con đến bến bờ tự-do, các cháu còn rất nhỏ từ 11, 9, 7 1
tuổi. Ở trại tỵ-nạn mấy tháng, chỉ mong có ngày ổn-định đời sống và các cháu được
đi học nên chồng tôi chấp-nhận về làm việc tại một ngôi làng nhỏ Edgar tại tiểu-bang
lạnh giá Wisconsin! Nơi cư-ngụ chỉ có một gia-đình chúng tôi là người Việt-Nam.
Cảm-giác cô-đơn nhớ quê, nhớ nước, nhớ bà con, bạn bè… nhưng nỗi lo sợ lớn nhất
lần hiện ra là tụi trẻ sẽ bị hoà tan, mai này không còn còn dấu tích gì là Việt-Nam
nữa.
Chúng
tôi quyết-định đặt tiêu-chuẩn giúp các cháu bằng cách:
1) Chỉ nói
tiếng Việt
2) Giữ nếp
sống Việt-Nam trong nhà
2) Mua
sách, báo để duy-trì chữ Việt
3) Nêu
cao tinh-thần Việt-Nam, lưu-truyền những chuyện cổ tích có ý nghĩa răn đời, đạo-đức,
phong-tục, tập-quán, lịch-sử và quê-hương.
4) Giảng
giải những áng thơ văn giá-trị của các bậc tiền-nhân: chữ Hán, chữ Nôm và chữ
Quốc-ngữ.
1. Duy trì tiếng nói
Đó là bằng
cách bắt các con phải nói tiếng Việt tại nhà, nghĩa là các cháu đi học về nhà chỉ
dùng tiếng Việt mà thôi. Để áp-dụng vào bữa cơm tối, cả nhà quây-quần nói
chuyện với nhau: các cháu kể những điều đã học, bạn-bè, chuyện vui buồn ở trường;
Bố nói về công-việc, tiếp-xúc với nhiều người tại bệnh-viện; Mẹ gặp-gỡ người trong
sở, đi chợ nấu ăn, hàng xóm láng-giềng mới và ngôn-ngữ hiều lầm ra sao… Mỗi
ngày mỗi chuyện thay đổi khác, cả nhà mong đến bữa ăn sum-họp của gia-đình với
bao tiếng cười rộn-rã giảm bớt nỗi cô-đơn của kẻ mới xa rời quê-hương.
2. Duy-trì nếp sống, tạo hình ảnh
phong-tục, quê-hương
Trong
nhà bầy bàn thờ có bài vị ghi ngày giỗ kỵ các cụ trong gia-tộc gồm, có hương,
hoa, đèn nến, cách cúng và khấn lễ. Câu đối trên bàn thờ với ý-nghĩa nhớ về nguồn
gốc "Ẩm hà, tư nguyên: uống nước
nhớ nguồn"
Có
gốc, nên cây nở ngọn-ngành,
Nhờ
nguồn, nước mới mát, trong xanh…
(Bùi văn Bảo)
Tết đến
trên tường trang-hoàng thêm vài câu đối đỏ:
Tiếng
pháo đầu xuân thêm náo-nức
Canh
bài áp Tết vẫn đam-mê
Hay:
Ngào-ngạt
mùi hương, sống tại quê người không mất gốc,
Lung-linh ánh lửa, trông về đất mẹ,
chẳng quên nguồn
(Bùi văn Bảo)
Dù lắm
khi không có sẵn cũng phải có hoa Tết, không hoa thật thì làm hoa giả: mai,
đào, cúc, huệ, thủy-tiên, có hương, có sắc khơi lại hình ảnh đặc-biệt của quê
xưa. Ngày Tết thì không thể thiếu bánh chưng truyền-thống. Khi còn ở xa cộng-đồng,
tôi cũng cố gắng tự gói bánh bằng giấy bạc. Vừa làm, vừa kể lại chuyện vua Hùng
và hoàng-tử Tiết-Liêu nghìn năm xưa, xem như cặp bánh chưng là mắt xích nối liền
cả một dân-tộc. Bánh mứt tuy không khéo nhưng cũng có đĩa mứt dứa (trái khóm),
cà-chua, dừa và gửi mua thêm ít hạt dưa... tóm lại ý là muốn các cháu hiểu và
biết cảnh lễ Tết tại quê nhà...
3. Đọc và viết chữ Việt
Ba cháu
lớn đã có căn-bản tiếng Việt vì đã học tới các lớp 5, 3, 2 tại quê nhà nhưng dừng
lại ở đó thì ngôn-ngữ sẽ mai-một thật uổng phí. Vậy sách báo là ông thầy hữu-hiệu
nhất nên tôi đã tìm lùng mua sách, báo, truyện cho chúng đọc. Mấy năm đầu rất
khó, may-mắn tìm được tờ báo Cờ Lau cho
trẻ em tại Đức do Làng Việt-Nam chủ-trương. Đó là một món ăn tinh-thần. (Làng
Việt-Nam được thành-lập là do một số nhà giáo của VNCH gửi sang chăm sóc cho
các trẻ em khuyết-tật được nước Đức bảo-trợ chữa bệnh). Sau này có thêm báo Tuổi Hoa của thầy Quyên-Di. Tôi cũng tìm
mua được mấy băng nhạc thiếu-nhi Tuổi
Xanh của bà Kiều-Hạnh, Hãy hát lên tuổi
thơ của nhạc-sĩ Trầm-tử-Thiêng, Quê-hương
và lòng mẹ của nhóm Trường-sơn Duy-Khánh và sau này là CD gồm nhiều bài hát
lành mạnh, hùng-ca. Bài “Quốc-ca Việt-Nam” là căn-bản phải thuộc nằm lòng; cả
nhà thành một ban nhạc hát trong những lúc trên xe hay khi rảnh-rỗi.
Sách vở
thì phải chọn đúng môn:
Sử thì
có cuốn Việt-Nam sử-lược của sử-gia Trần-trọng-Kim
là cuốn phải có trong tủ sách để các cháu đọc và hiểu tổng-thể về lịch-sử nước
nhà. Có đọc từng trang mới thấy những thăng-trầm của đất nước, hãnh-diện và yêu
kính Tổ-tiên đã dựng nước, giữ nước đồng thời căm thù những kẻ bán nước hại
dân.
Văn thì
có cuốn Việt-Nam văn-học sử-yếu của
Dương-Quảng-Hàm ghi chép các thi-sĩ, văn-sĩ qua các thời-đại của dòng văn-học cả
ngàn năm, từ ca-dao, tục-ngữ, đến các bài thơ phú, ký-sự văn qua dòng thời
gian.
Sách
truyện thì cũng phải chọn-lọc lấy đức-dục làm chính; đó là những bài học về
công ơn cha mẹ, lòng yêu nước thương người, tình thầy trò, bạn-bè, lòng biết
ơn, can-đảm, hào-hiệp và bao-dung.
Cuốn Tâm-hồn cao-thượng (nguyên-tác Les grand coeurs của tác-giả Edmond De
Amicis người Ý), Về với gia-đình và Vô-gia-đình (En famille, Sans famille của tác giả Hector Malot
người Pháp), cả ba cuốn do dịch-giả Hà-Mai-Anh dịch ra Việt-văn chuyển-tải luân-lý
giáo-dục, rất hợp cho lớp trẻ. Cổ-học
tinh-hoa là những mẩu chuyện ngắn nhưng xúc-tích, dễ làm bài giảng.
Thêm nữa
chúng tôi chọn lựa một số tiểu-thuyết kiếm-hiệp như Tiêu-sơn tráng-sĩ của
Khái-Hưng, Kỳ-nữ gò Ôn-khâu của
Đinh-Hùng, Nghĩa-sĩ thành Tây-đô của
Linh-Sơn dựa vào lịch-sử làm sống lại cảnh dân yêu nước chống giặc Tàu xâm-lược.
Về xã-hội
một số truyện như sách Hồng cho lớp trẻ của nhóm Tự-lực Văn-đoàn như cuốn Anh phải
sống, Xóm cầu mới của Nhất-Linh đọc để thấy xã-hội, làng quê, thành-thị thời
tiền-chiến khoảng 1930 tới năm 1954.
Cuốn Bồn lừa, của Duyên Anh, Con sáo của em
tôi,Thềm hoang của Nhật-Tiến, Những giọt
mực của Lê-Tất-Điều đều là sách đọc chơi nhưng cùng là dạy học.
Cái khó
là ngôn-ngữ lâu không dùng sẽ quên dần. Đọc là hấp-thụ thụ-động nhưng muốn
thành-thạo phải chủ-động, phải viết. Vì thế tôi đã bắt 3 cháu lớn mỗi cuối tuần
phải nộp 2 lá thư: 1 lá thư thăm ông bà, 1 lá viết cho một cậu; tuần kế tiếp lại
thư gửi ông bà và 1 thư thăm cô hay cậu khác. Trong thư chúng kể hết mọi chuyện,
từ việc học ở trường đến việc nhà. Các em tôi cứ đùa là chúng có thám-tử: như bữa
cơm ăn món gì, bạn bè ai đến nhà chơi, trong vườn trồng cây gì… Đó là cách tả
việc, tả người, tả cảnh như làm một bài luận-văn.
4. Hun đúc tinh-thần Việt Nam
Tiếng
nói, chữ viết đều quan-trọng nhưng đó chỉ là phương-tiện để chuyển-đạt những
gia-trị cao-cả hơn; đó là tinh-thần Việt-Nam, biểu-hiện bàng-bạc như câu chuyện
*“Trầu
cau” với nghĩa vợ chồng, tình anh em, lồng trong tục ăn trầu, răng đen phân biệt
chủng tộc (Tầu và Việt).
*“Thiếu-phụ
Nam-xương” tỏ lòng trinh-tiết của phụ-nữ, tình gia-đình.
*Sự-tích
bánh dầy bánh chưng hàm-ý tạ-ơn Trời Đất
*Sự-tích
quả dưa đỏ An-tiêm, tuyên-dương tinh-thần tự-cường lạp-thân.
Tinh-thần
Việt-Nam cũng là Tình yêu nước,
quê-hương qua những câu chuyện về gương anh-thư Hai bà Trưng, Bà Triệu, nữ-tướng Bùi-thị-Xuân, Cô
Giang, cô Bắc, bất-luận nam hay nữ.
Tinh-thần
Việt-Nam là cọc nhọn trên sông Bạch-đằng nơi Ngô Quyền nhận chìm mộng bá-vương của giặc Nam-Hán, mở đầu cho nền
độc-lập nước nhà (có bài hát “Sông Bạch-đằng” của tác giả Hoàng-Quý).
Tinh-thần
Việt-Nam là bài thơ “Nam-quốc sơn-hà…” trên bến sông Như-nguyệt nơi Lý thường Kiệt phá giặc nhà Tống. Đó là
lời khẳng-định quyền tự-chủ của dân-tộc.
Tinh-thần
Việt-Nam là tấm lòng Trần Hưng-đạo,
vì nghĩa nước gác thù nhà, 3 lần đại-thắng giặc Mông-Nguyên, văn-võ kiên-toàn với
bản “Hịch tướng-sĩ” làm nức lòng quân-sĩ.
Tinh-thần
Việt-Nam là tiếng thét bất-tử của Trần-Bình-Trọng,
khi bị giặc bắt và dụ hàng mà ông quát mắng lại: “Ta thà làm quỷ nước Nam còn
hơn làm vương đất bắc!”
<!--[if gte mso 9]>
Tinh-thần
Việt-Nam là trận thần-tốc mùa Xuân Kỷ-dậu 1789: Ngọc-hồi, Hà-hồi, Đống-đa của Vua Quang-trung đại thắng 20 vạn quân
Mãn-Thanh.
Gần đây
hơn nữa là câu nói bất-hủ trên đoạn-đầu-đài Yên-bái của liệt-sĩ Nguyễn-Thái-Học: “Không thành công thì
thành nhân!” Dù khi thất-bại mỗi sự-kiện là một bài học: tiếng gọi của đại-tá
Nguyễn-Đình-Bảo trên đồi Charlie trong Mùa hè Đỏ Lửa 1972, vết máu trên biển
Hoàng-sa khi chiến-hạm Nhựt-tảo của
thuyền-trưởng Ngụy-Văn-Thà đi vào lòng biển cả, tiếng súng tự-sát của Thiếu-tướng
Nguyễn-Khoa-Nam năm 1975…
Dạy trẻ
Việt là dạy cả tình người: Tình gia-đình,
họ-hàng, đồng-bào:
*Công cha như núi
Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chẩy
ra.
*Còn cha gót đỏ như son..... Mất
mẹ liếm lá đầu đường.
*Anh em như thể tay chân, gà cùng
một mẹ chớ hoài đá nhau.
*Tay đứt ruột sót.
*Một giọt máu đào, hơn ao nước
lã.
*Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một
giàn.
*Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương
nhau cùng.
Dạy trẻ
Việt là dạy cả Thói đời:
*Của người Bồ tát, của mình lạt
buộc
*Cười người chớ vội cười lâu
Cười người hôm trước, hôm sau người
cười.
*Khôn nhà dại chợ....
*Tham thì thâm....
Dạy trẻ
Việt là dạy nết tốt, tật xấu: Khuyên chăm
học để có nghề nghiệp và tránh thói hư tật xấu
*Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh.
*Ruộng bề bề, không bằng một nghề
trong tay.
*Ngày nay học tập, ngày mai giúp
đời.
*Cờ bạc là bác thằng bần,
Cửa nhà bán hết, tra chân vào cùm…
Dạy trẻ
Việt là dạy cả cái đẹp của ý…
răn đời của Tú-Xương:
Khôn nghề cờ bạc là khôn dại,
Dại
chốn văn-chương ấy dại khôn.
Hóm-hỉnh của Hồ-Xuân-Hương
Cố
đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn mướn không công…
Cao-ngạo của Cao-Bá-Quát
Một
thầy, một cô, một chó cái
Nửa người nửa ngợm nửa đười-ươi…
Trau chuốt của Đoàn-thị-Điểm
Ngàn
dâu xanh ngắt một màu
Lòng
chàng ý thiếp ai sầu hơn ai
Tài-tình của Nguyễn-Du
Vầng
trăng ai sẻ làm đôi
Nửa
in gối chiếc nửa soi dặm trường…
Người
lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng
phong thu đã nhuốm màu quan-san
Những
bài giảng hữu-hiệu nhất là trên các chuyến xe đi chơi xa; bố mẹ và các con bàn-luận
về nhiều vấn-đề, thắc-mắc, giải-thích. Điều quan-trọng là làm sao cho chúng
thích-thú để tự tìm hiểu bằng cách đọc thêm sách.
Cũng
không quên nói thêm là âm-nhạc cũng là cách dạy tiếng Việt, nghe tân-nhạc, ngâm
thơ, vọng-cổ… có thưởng-thức, mới biết cái hay!
Với tinh
thần và lối sống hàng ngày nên việc dậy đọc và viết chữ Việt không khó đối với cháu
bé nhưng cũng phải đợi tới tuổi mẫu-giáo nghĩa là 5 tuổi thì bắt đầu dạy chữ.
Vào dịp hè mỗi buổi sáng có nửa giờ cho cháu tập và học 24 chữ cái; những nguyên-âm,
các dấu thanh: huyền, hỏi, ngã, nặng rồi ráp vần với các phụ-âm. Tôi không bắt
phải đánh vần mà đọc ngay khi nhìn mặt chữ như học Anh-ngữ. Tự dạy nhưng cũng
phải mất 3 mùa hè cháu mới đọc và viết được.
Tóm lại
căn-bản lối dạy chữ Việt là làm sao phải nói
giọng Việt cho rõ-ràng, lối sống Việt
ở nhà, có sách Việt để áp-dụng và
trau-giồi, và tâm-hồn Việt sẽ ăn vào tiềm-thức. Kết-quả là học chữ
viết dễ-dàng.
Thực ra
duy trì tiếng và chữ Việt chỉ là ý kiên riêng của vợ chồng tôi nhưng cũng tạm
hài-lòng vì các con ở Mỹ gần 40 năm vẫn không quên nguồn gốc và luôn hãnh-diện
là người Việt.
Cám-ơn
quý-vị đã hiện-diện để nghe lời phát-biểu dông-dài của cá-nhân tôi.
Thân ái
Bùi Mỹ Dương.
8/16/2014
VŨ NỮ CẨM NHUNG
Vụ đánh ghen vũ nữ Cẩm Nhung
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đây là một bài mồ côi vì không có hoặc ít có bài khác liên kết đến nó.
Xin hãy tạo liên kết đến bài này trong các bài của các chủ đề liên quan. (tháng 8 2014)
Vụ đánh ghen vũ nữ Cẩm Nhung bằng hình thức tạt axít diễn ra vào ngày 17 tháng 7 năm 1963 tại Sài Gòn. Đây được xem là vụ đánh ghen tàn bạo và rùng rợn nhất từng được ghi nhận tại thành phố này,[1] gây chấn động cả Sài Gòn và miền Nam trong một thời gian dài. Báo chí thời điểm đó đánh giá đây là vụ đánh ghen bằng axít lần đầu tiên xảy ra trong giới thượng lưu Sài Gòn, là tâm điểm quan tâm của nhiều tầng lớp.[2]
Nguyên nhân
Đối tượng bị đánh ghen là cô vũ nữ xinh đẹp Cẩm Nhung được cho là nổi tiếng nhất Sài Gòn vào thời điểm đó, và mệnh danh là "nữ hoàng vũ trường". Cô sinh năm 1940 tại Hà Nội, Năm 15 tuổi theo gia đình di cư vào miền Nam và trở thành vũ nữ chuyên nghiệp vào năm 19 tuổi.[1] Báo chí Sài Gòn những năm 50, 60 của thế kỷ 20 đã hết lời ca ngợi nhan sắc và đôi chân dài điệu nghệ của cô vũ nữ gốc Hà thành.[3]Tại vũ trường Kim Sơn trên đường Tự Do - một trong những con đường phồn hoa và đắt giá nhất Sài Gòn, Cẩm Nhung gặp gỡ và phải lòng trung tá Trần Ngọc Thức, một tay chơi có tên tuổi làm trong ngành xây dựng công trình quân sự và đã có gia đình. Việc đến tai vợ ông là Lâm Thị Nguyệt, với biệt danh Năm Rađô. Bà đã nhiều lần đón đường, hăm dọa Cẩm Nhung nhưng không có hiệu quả.[1]
Diễn biến
Bà Năm Rađô đã mua một can axít sunfuric đậm đặc từ một cơ sở sản xuất bình ắc quy, thuê hai người đàn ông tiến hành vụ đánh ghen. Chiều ngày hôm đó, bà có đến nhà hăm doạ, chửi bới rồi bỏ về.[2]Khoảng 10h đêm ngày 17 tháng 7 năm 1963, trên đường rời nhà ra xe đưa rước đến vũ trường, Cẩm Nhung bị một người đàn ông tạt ca axit đậm đặc vào mặt. Cô được đưa đến bệnh viện cấp cứu ngay sau đó nhưng chỉ giữ được mạng sống, đôi mắt đã mù loà và nhan sắc bị huỷ hoại hoàn toàn:[1] khuôn mặt cháy xám, thẹo lồi lõm và cặp mắt mờ đục lồi ra ngoài như mắt ếch.[2]
Xét xử
Ngày 18 tháng 7 năm 1963, đồng loạt các tờ báo, tạp chí Sài Gòn đăng tin về việc "nữ hoàng vũ trường" bị tạt axít phá hủy toàn bộ gương mặt xinh đẹp.[4] Vụ việc được đưa ra pháp luật nhưng thế lực của gia đình ông trung tá quá mạnh nên chưa có kết quả rõ ràng.[1] Trần Lệ Xuân, lúc này được xem là đệ nhất phu nhân của chính quyền miền Nam Cộng Hoà, biết được vụ việc qua báo chí khi đang ở nước ngoài và rất tức giận. Bà chỉ đạo an ninh vào cuộc ngay khi về nước, bắt xử những kẻ tạt axít. Trung tá Trần Ngọc Thức bị tước bổng lộc và buộc phải giải ngũ, trở về làm dân. Bà cũng thu xếp đưa Cẩm Nhung đi Nhật chữa trị nhưng không hiệu quả.Phiên toà mở ra 3 tháng sau đó kết tội bà Năm Rađô và tên tạt axít thuê mỗi người 20 năm tù và 15 năm tù cho tên đồng bọn khác. Vài tuần sau đó, cuộc đảo chính diễn ra, chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ và Trần Lệ Xuân phải sống lưu vong ở nước ngoài. Vụ xử đánh ghen đang kháng cáo bị dừng lại và đi vào quên lãng trong không khí rối ren chính trị của Sài Gòn vào thời điểm đó. Sau này vợ chồng Thức chia tay nhau. Người chồng sống ẩn dật và người vợ đi tu.[5]
Ảnh hưởng
Khi về nước và tham gia giải quyết vụ đánh ghen, Trần Lệ Xuân đã cho ngừng hoạt động tất cả các vũ trường; kiểm tra tiến hành kỷ luật, hạ cấp hoặc loại khỏi quân đội các tướng tá có vợ nhỏ. Nhịp sống Sài Gòn về đêm đã giảm một phần đáng kể sau khi hàng trăm vũ trường bị buộc đóng cửa.[5] Các nhà hàng cũng lâm vào cảnh ế ẩm.[2]Sau vụ vũ nữ Cẩm Nhung bị hại, như một sự mở màn, ở Sài Gòn nổi lên phong trào đánh ghen bằng axít. Riêng năm 1964 đã có hàng chục vụ.[1]
Về nạn nhân
Khi chữa trị thất bại từ Nhật trở về cũng là lúc chính quyền Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn đã sụp đổ. Không còn người bao bọc và đau khổ, Cẩm Nhung lao vào đập phá, nghiện ngập, hút thuốc, uống rượu...[2] Sau khi tiêu tán hết tài sản và hai người thân nhất qua đời, năm 1969, cô ra trước chợ Bến Thành, đeo trên ngực bức hình chụp chung với trung tá Trần Ngọc Thức để ăn xin. Khi có tiền cô lại tiếp tục nghiện ngập. Cô lê bước hành nghề khắp nhiều tuyến đường ở Sài Gòn sau đó về bến phà Mỹ Thuận ở miền Tây. Bị đưa vào trung tâm nuôi người tàn tật nhưng cô trốn ra tiếp tục ăn xin. Sau này cô chỉ còn hình chân dung để đeo trước ngực[5] và cuối cùng là tấm bảng "vũ nữ Cẩm Nhung".[4] Nhận được sự giúp đỡ tận tình của người bạn tên Quốc Hùng thời niên thiếu.[5] Người yêu thương Cẩm Nhung say đắm nhưng đã từng bị Cẩm Nhung quên lãng khi làm người tình của trung tá Trần Ngọc Thức, cuối cùng Cẩm Nhung cũng có được một công việc và chỗ ở cố định.[4] Đúng nửa thế kỷ sau vụ đánh ghen, vào đầu năm 2013, Cẩm Nhung qua đời tại một xóm trọ nghèo ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang vì già yếu và bệnh tật.[1]Chú thích
- ^ a ă â b c d đ Hoàng Lam (28 tháng 5 năm 2013). “Nửa thế kỷ từ vụ đánh ghen rùng rợn nhất Sài Gòn”. Lao Động & Đời sống (7). Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2013.
- ^ a ă â b c Như Thủy (Hôn nhân & Pháp luật) (21 tháng 12 năm 2011). “Lật lại hồ sơ "nữ hoàng" Cẩm Nhung bị tạt axít”. Báo Giáo dục Việt Nam điện tử (đăng lại). Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2013.
- ^ Ngọc Hoàn (22 tháng 3 năm 2012). “Giai nhân Việt tàn phai nhan sắc vì đòn ghen tàn độc”. eva.vn. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2013.
- ^ a ă â “'Sắc và tình' của kỹ nữ 'đệ nhất' Việt Nam”. Báo Đất Việt online. 7 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2013.
- ^ a ă â b Hoàng Lam (8 tháng 6 năm 2013). “Khi "đệ nhất phu nhân" Trần Lệ Xuân vào cuộc vụ đánh ghen rùng rợn nhất Sài Gòn”. Lao Động & Đời sống (8). Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2013.
Cách đây nửa thế kỷ, vào giữa năm 1963, tại Sài Gòn xảy ra một vụ đánh ghen được coi là rùng rợn nhất ở thành phố này. Đây cũng là lần đầu tiên 'Hoạn Thư" ở Sài Gòn biết sử dụng axít đậm đặc để "thanh toán" tình địch.
> Nạn nhân là cô vũ nữ nổi tiếng nhất Sài Gòn lúc ấy tên là Cẩm Nhung, người được mệnh danh là “nữ hoàng vũ trường”. Người thủ ác là một mệnh phụ phu nhân, vợ của một trung tá Sài Gòn. Vụ tạt axit rùng rợn đã biến cô vũ nữ giàu có, đẹp lộng lẫy thành cô gái mù lòa xấu xí, phải đi ăn mày.
Khi còn là vũ nữ, Cẩm Nhung nổi tiếng nhất Sài Gòn, lúc đi ăn mày cô càng “nổi tiếng” hơn, khi luôn đeo trước ngực bức ảnh mình chụp với người tình trung tá thời trên đỉnh cao danh vọng.
Bà lão mù lòa từng là vũ nữ.
Một ngày đầu năm 2013, tại một xóm trọ nghèo ở thị xã Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang), nơi những người ăn xin, bán vé số, bốc vác tứ xứ đến thuê ở trọ, có một đám ma nghèo. Một bà lão bán vé số đã qua đời vì già yếu, bệnh tật. Không một người thân, bà lão được những người đồng cảnh ngộ lo cho một quan tài loại rẻ tiền, rồi đưa ra nghĩa địa... Sẽ không có chuyện gì đáng nói về đám ma nghèo của bà lão vô gia cư, nếu như người quá cố nói trên không phải là vũ nữ Cẩm Nhung lừng danh của nửa thế kỷ trước.
Trước ngày miền Nam giải phóng, người ăn mày mù lòa Cẩm Nhung với cây gậy dò đường và tấm ảnh chụp chung với người tình treo trước ngực, lê bước khắp nẻo Sài Gòn để xin lòng thương hại của mọi người. Về sau do bị săn đuổi, bà xuống ăn xin ở bến phà Mỹ Thuận trên đường về miền Tây.
Sau ngày miền Nam giải phóng, người ta còn thấy bà ngồi ăn xin trên bến phà Mỹ Thuận một thời gian. Từ khoảng năm 1978, không ai thấy người ăn mày đeo tấm ảnh trước ngực đâu nữa.
> Người đời bàn luận rằng có lẽ bà đã bệnh chết hoặc đã quyên sinh để chấm dứt kiếp hồng nhan bạc phận của mình. Mãi sau này người ta mới phát hiện bà vẫn còn sống, vừa bán vé số vừa ăn xin quanh các ngôi chùa ở thị xã Hà Tiên, mà thường nhất là ở chùa Tam Bảo. Người ta nhận ra bà bởi khuôn mặt gớm ghiếc và đôi mắt mù lòa, hậu quả của vụ tạt axít năm xưa. Và nay, người ăn mày đặc biệt đã vĩnh viễn từ giả cõi trần, chính thức khép lại một kiếp hồng nhan đa truân, sau đúng nửa thế kỷ từ vụ đánh ghen rùng rợn năm nào.
Nữ hoàng vũ trường
Vũ nữ Cẩm Nhung sinh năm 1940 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi, cô phải rời xa Hà Nội để theo gia đình
di cư vào Nam. Vào Sài Gòn được ít năm, khi cuộc sống chưa ổn định, cha của Cẩm Nhung lâmbệnh rồi mất, bỏ lại 3 người phụ nữ, mẹ cô, bà vú Sọ và cô. Cẩm Nhung phải bỏ học, xin vào làm tiếp viên trong một nhà hàng, chuyên bưng bê món ăn cho khách. Nhờ đó cô đã lân la làm quen với những bản nhạc, những điệu nhảy trong quán bar của nhà hàng. Để rồi khi chưa tới 19 tuổi, cô đã trở thành gái nhảy chuyên nghiệp trong giai đoạn phong trào nhảy đầm phát triển rầm rộ ở Sài Gòn.
Cẩm Nhung có khuôn mặt đẹp và làn da trắng hồng đặc thù của con gái xứ Bắc. Tạo hóa ban thêm cho cô đôi mắt lẳng lơ, thân hình quyến rũ. Đặc biệt đôi chân điệu nghệ của cô trong các vũ điệu cuồng say tại vũ trường Kim Sơn đã làm bao khách làng chơi phải ngẩn ngơ. Lúc ấy Sài Gòn có hàng trăm vũ trường, gái nhảy không đủ đáp ứng, vì vậy mà Cẩm Nhung càng có giá, được các vũ trường săn đón như hàng độc, như của quý. Cô được dân chơi Sài Gòn phong là “Nữ hoàng vũ trường”.
Cô đi qua nhiều vũ trường, cuối cùng dừng lại với vũ trường Kim Sơn trên đường Tự Do (nay là Đồng Khởi, quận 1). Tại đây, cô đã trở thành người tình của tay trung tá công binh Trần Ngọc Thức. Cô vũ nữ 23 tuổi dù đã từng trải trong tình trường đã bị tay trung tá công binh lớn hơn cả chục tuổi “hớp hồn” ngay những lần gặp đầu tiên. Sự già dặn, từng trải, tiêu tiền như nước của Thức cùng với cái lon trung tá rất oai thời ấy đã làm cô vũ nữ sành điệu chấp nhận sa vòng tay bảo bọc của ông.
Thời ấy, “Thức công binh” (biệt danh của trung tá Trần Ngọc Thức) nổi lên như cồn trong giới ăn chơi ở Sài Gòn. Miền Nam bắt đầu tiếp nhận viện trợ ồ ạt của Mỹ, chủ yếu là vũ khí và đô la để xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ quân đội, phục vụ chiến tranh. Đó là cơ hội vàng để “Thức công binh” tham nhũng, trở nên giàu có, thừa tiền của để bao gái.
Vợ trung tá Trần Ngọc Thức tên thật là Lâm Thị Nguyệt, có biệt danh là Năm Rađô - một biệt danh giới giang hồ khu Cô Bắc đặt cho, do bà chuyên buôn mặt hàng đồng hồ Rado của Thụy Sỹ mới nhập cảng vào Sài Gòn. Bà Năm Rađô không lạ gì thói trăng hoa của chồng, nhưng lần này biết chồng say mê cô vũ nữ trẻ đẹp quên cả gia đình, bà như phát điên vì ghen. Bà đã vài lần đón đường hăm dọa, thậm chí tát tai dằn mặt vũ nữ Cẩm Nhung, nhưng bấy nhiêu đó không đủ làm cho cô gái trẻ rời xa chồng bà.
Vụ đánh ghen ghê rợnTheo thú nhận của Cẩm Nhung với báo chí Sài Gòn sau khi xảy ra vụ đánh ghen ghê rợn, khi làm người tình của trung tá Thức, cô nghĩ rằng mình có thể trở thành vợ bé của ông ta, một việc khá bình thường trong xã hội Sài Gòn thời đó. Cô đâu biết rằng trong lúc cô ngây ngất trong vòng tay của ông trung tá dìu dặt trong những điệu nhảy ở vũ trường Kim Sơn, thì ở khu gia binh Cô Bắc cách đó không xa có một người đàn bà đang âm thầm chuẩn bị một kế hoạch đánh ghen ghê rợn.
Bà Năm Rađô đã vạch kế hoạch tỉ mỉ tiêu diệt tình địch. Hai tên giang hồ có cỡ được bà Năm Rađô thuê với giá 2 lượng vàng để làm cái việc hủy diệt nhan sắc của cô vũ nữ. Bà Năm Rađô tin tưởng, khi Cẩm Nhung không còn nhan sắc, cô sẽ không thể quyến rũ chồng bà, Thức công binh sẽ trở về với vợ con.
Khoảng 22h đêm ngày 17/7/1963, vũ nữ Cẩm Nhung rời khỏi nhà để đến vũ trường Kim Sơn. Hàng ngày cô đều rời khỏi nhà vào giờ này, hoặc đi taxi, hoặc có xe của đại gia đón rước, để cô đến vũ trường trước 23h, nhảy nhót quay cuồng cho đến 3-4h sáng. Khi Cẩm Nhung còn cách chiếc taxi khoảng 10m, bất ngờ từ bên kia đường một gã đàn ông băng nhanh qua đường, tiến về phía cô. Cẩm
Nhung chưa kịp phản ứng thì gã đàn ông đã tạt mạnh ca axít vào mặt cô. Cẩm Nhung chỉ kịp kêu lên: “Chết tôi rồi, cứu tôi với” rồi ngã gục trên đường. Người đàn ông sau khi tạt axít đã băng qua bên kia đường, leo lên xe taxi mở cửa chờ sẵn, trên ấy có bà Năm Rađô.
Nghe tiếng kêu cứu, một số người đi đường đã chạy đến, họ thấy Cẩm Nhung nằm quằn quại dưới đường, mùi axít xông lên hôi nồng. Một người đàn ông đã ôm nạn nhân lên xe taxi, chở đến bệnh viện Đô Thành (bệnh viện Sài Gòn ngày nay). Do bệnh viện Đô Thành không có khả năng trị bỏng, nhất là
bỏng axít, nạn nhân sau đó đã được chuyển đến bệnh viện Đồn Đất (bệnh viện Nhi Đồng 2 ngày nay).
Vụ việc đến tai bà Trần Lệ Xuân, vợ của Ngô Đình Nhu. Bà cố vấn vốn tính bốc đồng đã làm lớn vụ việc, làm cho cả Sài Gòn như sôi lên vì vụ đánh ghen này.
Khi Bà Ngô Đình Nhu vào cuộc
Những vũ nữ là bạn của Cẩm Nhung đến thăm, thấy cảnh sát hại dã man, đã hùn tiền lại mời luật sư bảo vệ cho Cẩm Nhung, đưa vụ việc ra pháp luật. Thế nhưng, thời ấy, thế lực của “Thức công binh” và bà “Năm Ra-đô” rất mạnh ở Sài Gòn, nên tưởng như không ai làm được gì họ. Một tuần lễ sau khi xảy ra vụ tạt axít, bà Trần Lệ Xuân (vợ của cố vấn Ngô Đình Nhu) đi công cán nước ngoài về tới Sài Gòn. Đọc báo thấy sự việc, bà Lệ Xuân tức giận, chỉ đạo Nha An ninh phải làm rõ vụ việc, xử thật nặng những kẻ gây tội ác.
Tại bệnh viện Đồn Đất, ban đầu, nạn nhân Cẩm Nhung được cho nằm ở khu dành cho dân thường, ai vào thăm cũng được.
> Mỗi ngày, luôn có hàng trăm người thân, bạn bè, những người hiếu kỳ tới thăm Cẩm Nhung. Có một
người khách thăm đã kề tai Cẩm Nhung nói rất nhỏ, nói vừa đủ cho cô nghe: “Muốn yên thân thì hãy câm miệng, nếu cô làm lớn chuyện, “bả” sẽ giết chết cô. Trong những ngày ấy, bà vú Sọ là người suốt ngày đêm trực bên giường Cẩm Nhung. Tình cờ, bà vú Sọ phát hiện có kẻ lạ mặt rình rập cô Cẩm Nhung.
Để kiểm chứng bà giả vờ đi ra khỏi phòng bệnh để mua đồ, nhưng kỳ thực, bà nép mình ở góc hành lang để theo dõi. Kẻ lạ dã nhanh như sóc lách mình vào buồng bệnh nhân. Bà vú Sọ hốt hoảng chạy ngay trở lại phòng bệnh, vừa lúc bà thấy kẻ lạ giở tấm drap trắng đắp lên người Cẩm Nhung. Thấy bà
trở vào phòng, kẻ lạ lúng túng nói là người quen tới thăm nạn nhân, sau đó lặng lẽ biến mất. Bà vú Sọ đã báo lên bệnh viện và thông báo với nhà chức trách.
Bà Trần Lệ Xuân nghe chuyện, đã chỉ đạo bệnh viện đưa Cẩm Nhung vào khu chăm sóc đặc biệt,
không ai được vào thăm khi chưa có ý kiến của lãnh đạo bệnh viện. Mọi cuộc thăm viếng Cẩm Nhung sau đó đều có sự giám sát chặt chẽ của cảnh sát.
Bà Lệ Xuân còn chỉ đạo cho ngừng hoạt động của tất cả các vũ trường, vì theo bà, đó là nguồn gốc của thói ăn chơi sa đọa, tan nát gia đình và tội ác. Bà còn cho kiểm tra tất cả các tướng tá Sài Gòn xem ai có vợ nhỏ phải xử lý kỷ luật.
Sài Gòn những ngày sau đó đìu hiu về đêm, khi mà hàng trăm vũ trường nhộn nhịp phải đóng cửa theo lệnh của bà cố vấn. Các tướng tá thì bị một phen sốt vó, chạy lo đủ kiểu để không “lòi mặt chuột” có vợ nhỏ. Không chỉ các vũ trường mà các nhà hàng sang trọng ở Sài Gòn sau đó cũng chịu chung
cảnh ế ẩm, khi mà phong trào ăn chơi của giới thượng lưu bất ngờ trở nên trầm lắng. Sau giờ làm
việc, các đấng phu quân ở Sài Gòn chạy thẳng về nhà với vợ con, để cô vợ không nổi hứng tố cáo với bà cố vấn là chồng mình đã có vợ nhỏ.
> Nếu như cú tạt axít làm Cẩm Nhung đau đớn thân xác, nhan sắc bị hủy hoại hoàn toàn, thì cú tạt axít này cũng làm người trong cuộc là “Thức công binh” đau đớn không kém. Không phải ông đau đớn vì cô vợ nhỏ bị nạn, mà là vì con đường công danh, sự nghiệp của ông ta bỗng chốc chấm hết, bao nhiêu bổng lộc trong ngành xây dựng công trình quân sự bỗng chốc mất trắng.
> Chẳng những thế, ông còn bị miệng đời chê cười, mỉa mai. buộc trung tá Trần Ngọc Thức phải giải ngũ, trở về làm dân thường. vụ án đã đưa ra xét xử. Một phiên tòa đã được mở sau khi vụ tạt axít xảy ra gần ba tháng. Bà “Năm Ra-đô” và tên du đăng trực tiếp tạt axít bị tuyên phạt mỗi người 20 năm tù, tên đồng bọn còn lại bị phạt 15 năm tù.
> Thế nhưng, chỉ vài tuần sau, khi vụ án còn đang bị ở quá trình kháng cáo thì chế độ Ngô Đình Diệm đã bất ngờ sụp đổ . bà Lệ Xuân phải sống lưu vong. Chính trường Sài Gòn sau đảo chánh đã bị khủng hoảng, vô chính phủ suốt mấy năm trời, không ai quan tâm đến vụ tạt axít cô vũ nữ Cẩm Nhung, vì vậy mà vụ án này tự nó bị “thối án”..
> Không bị xử tù, nhưng bà “Năm Ra-đô” đã mất hết quyền uy, giống như người chồng của mình. Theo báo chí Sài Gòn, sau đó, vợ chồng “Thức công binh” đã chia tay nhau mà nguyên nhân chính là vụ tạt axít của người vợ.
> Về sau, không ai còn biết “Thức công binh” ra sao, còn bà “Năm Ra-đô” thì gửi thân nơi cửa Phật, có lẽ bà muốn nhờ cửa Phật từ bi gột rửa tội lỗi khủng khiếp mà bà đã gây ra.
> Trở lại tình trạng của cô vũ nữ bị tạt axít. Axít sunphuric đậm đặc đa gây phỏng độ 3 toàn bộ khuôn mặt của cô vũ nữ, đôi mắt của nạn nhân cũng bị phỏng rất nặng. Các bệnh viện ở Sài Gòn đều lắc đầu, bó tay.
> Họ chỉ có thể cứu được mạng sống của cô gái, còn đôi mắt, khuôn mặt thì trình độ của y học Sài Gòn lúc đó chỉ biết đứng nhìn. Bà Trần Lệ Xuân đã đích thân đến bệnh viện Đồn Đất thăm nạn nhân, trực tiếp nghe các bác sĩ trình bày tình trạng thương tật.
> Đêm về, bà bàn với chồng là cố vấn Tổng thống Ngô Đình Nhu tìm cách giúp nạn nhân. Ngô Đình Nhu đã chỉ đạo cho đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa ở Nhật Bản đỡ đầu, giúp gửi cô Cẩm Nhung sang Nhật chữa vết thương. Một ngày cuối tháng 9 năm 1963, chiếc xe hồng thập tự của bệnh viện Đồn Đất đã trực chỉ hướng sân bay Tân Sơn Nhất và chạy thẳng ra tận chân cầu thang máy bay đang sắp cất cánh.
> Hai người bác sĩ dìu Cẩm Nhung lên khoang đặc biệt của chuyến bay và thá tùng cô sang tận Nhật Bản. Thế nhưng, nền y học của Nhật Bảncũng phải chịu thua, chấp nhận để dung nhan cô gái bị phá hủy hoàn toàn, vô phương cứu chữa.
> Hai tháng sau, Cẩm Nhung tự trở về nước, không có người đưa đón. Lúc đó, Sài Gòn đã đổi chủ, chế độ Ngô Đình Diệm vừa mới bị lật đổ. Bà Trần Lệ Xuân từng hứa “bao bọc trọn đời” cho nạn nhân Cẩm Nhung giờ đã sống lưu vong tận phương trời xa.
> Đau khổ chồng chất đau khổ, Cẩm Nhung đã nhen nhóm ý định “trả thù đời” ngay khi một mình ngồi chuyến bay Tokyo – Sài Gòn không người đưa đón.
Một kiếp phù hoa
> Đau khổ, buồn chán đến tuyệt vọng, vũ nữ Cẩm Nhung đã “trả thù đời” bằng cách đập phá, uống rượu, hút thuốc… Ngày trước, khi Cẩm Nhung còn ở trên đỉnh tham vọng, người đàn ông nào được dìu cô bước ra sàn nhảy nhã là diễm phúc lớn. Còn những kẻ được làm người tình của cô bao giờ cũng phải trải hàng núi tiền dưới chân cô. Bây giờ, để “trả thù đời”, Cẩm Nhung sẵn sàng ngã vào lòng bất cứ người đàn ông nào, không cần tiền bạc hay điều kiện gì.
Thế nhưng, với khuôn mặt cháy sém, những vết thẹo lồi lõm như ác quỷ, cặp mắt mờ đục lồi ra ngoài như mắt ếch, hiếm người đàn ông nào đủ can đảm làm tình nhân của cô. Chán chường, tức giận, Cẩm Nhung càng lặn ngụp trong rượu chè be bét. Người mẹ khốn khổ của Cẩm Nhung vì buồn phiền mà sinh bệnh, rồi qua đời cuối năm 1964, chỉ hơn một năm sau ngày đứa con gái bất hạnh của bà bị nạn. Càng thêm đau khổ, Cẩm Nhung càng lao sâu vào cuộc nghiện ngập cho quên đời.
> Cô ngày một thiêu đốt hết gia sản kếch sù bao nhiêu năm vắt kiệt mồ hôi trong các vũ trường và cặp bồ với hàng tá nhân tình là sĩ quan cao cấp của nền Đệ nhất Cộng hòa và các đại gia. Bao nhiêu món đồ quý giá của cô cứ lần lượt ra đi, ban đầu là chiếc xe máy loại mới nhập cảng của Nhật Bản, sau đến các loại nữ trang, hột xoàn, vòng vàng…
Bà vú Sọ là người gần gũi, an ủi, khuyên can cô nhiều nhất, nhưng mọi lời an ủi, động viên đối với cô đều không còn giá trị. Cuối cùng, căn nhà trị giá gần 200 lượng vàng, Cẩm Nhung phải bán đi để có tiền đập phá. Cô và bà vú Sọ đến thuê nhà ở khu Cô Bắc, cách không xa nhà của vợ chồng bà “Năm Ra-đô”. Số tiền bán nhà rồi cũng cạn dần. Ngày cô không còn đủ tiền để trả tiền thuê nhà cũng là ngày bà vú Sọ trung thành đổ bệnh nặng, không tiền chạy chữa, nên đã qua đời.
> Còn lại một mình trên đời, không nơi nương tựa, không người thân, không nhà cửa, không tài sản, cô vũ nữ lừng danh một thời chỉ còn con đường đi ăn xin.
> Lần đầu tiên, người dân Sài Gòn thấy vũ nữ Cẩm Nhung đi ăn xin trước chợ Bến Thành vào khoảng trước Tết năm 1969. Cô ngồi bên vệ đường Lê lợi, khăn che kín mặt mày, trên ngực đeo bức ảnh cô chụp chung với trung tá Trần Ngọc Thức, trước mặt là vỏ lon hộp sữa Ghi-gô cô chìa ra xin lòng thương hại của người đi đường.
> Người Sài Gòn nghe tin đã kéo tới xem Cẩm Nhung đi ăn xin, đông đúc như đi xem cải lương. Ngoài tấm hình đeo trên ngực, người ta còn nhận ra Cẩm Nhung ở đôi bàn tay mịn màng, không chút tì vết và đôi bàn chân gót son thon thả. Ban đầu, người Sài Gòn cho tiền cô thật nhiều. Có tiền, Cẩm Nhung tiếp tục nghiện ngập. > Càng về sau, người Sài Gòn càng bớt cảm động về chuyện ăn xin của cô vũ nữ nên càng ít cho tiền. Người dân Sài Gòn khu vực quận 1 lúc đó đã không khỏi bùi ngùi khi thấy Cẩm Nhung mù lòa cầm gậy dò đường trên đại lộ Lê Lợi, con đường Tự Do, trên những lối đi một thời in dấu chân cô vũ nữ Cẩm Nhung từ nhà tới vũ trường Kim Sơn. Sau đó, Cẩm Nhung phải rời khỏi khu vực chợ Bến Thành, lần mò đến chợ Bình Tây, chợ Bà Chiểu, và cuối cùng là ngã tư Trần Quốc Thảo – Lý Chính Thắng (quận3), trước khi cô âm thầm rời Sài Gòn hoa lệ để về miền Tây xa xôi ăn xin trên bến phà Mỹ Thuận.
Hình ảnh của Cẩm Nhung một thời được đem ví với chuyện “hồng nhan bạc phận”, cho một kiếp phù hoa sáng nở, tối tàn. Một kiếp người ngắn ngủi trôi qua nhưng có rất nhiều điều đáng để con người ta suy ngẫm, quá khứ vang bóng đã tạm gác lại cùng sự nuối tiếc một thời vừa kiêu hãnh mà cũng không kém truân chuyên. Trên ngực bà không còn bức chân dung với người tình sĩ quan năm xưa nữa. Sau nhiều năm bôn ba khắp các tỉnh miền Tây Nam bộ, cuối cùng, bà đã ẩn mình sống quãng thời gian cuối đời nơi vùng đất tâm linh cuối trời Nam, dưới mái chùa Tam Bảo.
Những năm tháng Cẩm Nhung lang thang trên khắp nẻo Sài Gòn sau khi bị nạn, cũng là lúc trên sân khấu ca nhạc của Sài Gòn thịnh hành bài hát “Bài ca cho người kỹ nữ” của hai tác giả Nhật Ngân – Duy Trung. Không biết các tác giả viết bài hát này để tặng cho ai khác hay vì xót thương số phận của Cẩm Nhung mà lời bài hát như nói về cuộc đời của cô vữ nữ bất hạnh này. Người ta kể rằng, mỗi khi đang đi ăn xin trên đường, tình cờ nghe bài hát “Bài ca cho người kỹ nữ” vang lên, Cẩm Nhung luôn ôm mặt khóc, đứng tựa vào đâu đó thật lâu rồi mới dò gậy đi ăn xin tiếp.
Bài hát có đoạn:
“…Ta tiếc cho em trong cuộc đời làm người
Ta xót xa thay em là một cánh hoa rơi
Loài người vô tình giẫm nát thân em
Loài người vô tình giày xéo thân em
Loài người vô tình giết chết đời em..."
Monday, September 8, 2014
NGƯỜI VIỆT ĐI MÁY BAY VIỆT
NGƯỜI VIỆT ĐI MÁY BAY VIỆT
Sân bay đích thực là cái chợ quê, máy bay thì trở thành nhà trẻ và xe buýt công cộng.
Tôi vừa đáp chuyến bay từ TP HCM đi đến một thành phố biển xinh đẹp với hy vọng được thư giãn sau một tuần làm việc bận rộn. Nhưng hy vọng đó đã bị vùi dập ngay từ lúc tôi bước vào sân bay, mặc dù những chuyện thế này tôi đã nhìn thấy cả trăm lần.
Tôi đã đi nhiều nước và cũng thấy nhiều loại hành khách, tất nhiên ở đâu cũng có người này người kia, nhưng dường như, một số đặc điểm chỉ người Việt Nam mình mới có.
Sân bay là phiên chợ quê
Đầu tiên phải nói đến người đưa hay người đón. Sân bay đâu phải là cái chợ muốn ngồi đâu thì ngồi, muốn đi đâu thì đi. Vậy mà, chao ôi, người Việt mình mà đi đón hay tiễn thì phải đi nguyên cả dòng họ, để rồi không đủ chỗ ngồi, nên chen chúc, đứng cản hết cả lối đi, thậm chí ngồi lê lết trên sàn nhà, rồi xả rác, nói chuyện inh ỏi, để rồi khỏi ai nghe được máy bay đã hạ cánh hay chưa.
Đến người đi cũng “văn minh” không kém... Trước tiên là thói quen không xếp hàng. Người ta đã để sẵn thanh chắn xếp hàng, nhưng không, bà con mình toàn xen ngang vô giữa, có người còn tự ý mở thanh chắn hay chui qua hàng rào cho nhanh, mặc kệ những ánh mắt kinh ngạc của những người khách nước ngoài.
Đến đoạn kiểm tra hải quan, chưa bao giờ tôi thấy họ đứng đúng vạch, và luôn mang những đồ không nên mang lên máy bay, đặc biệt là nước uống.
Còn trẻ em thì tha hồ tung tăng la hét trong sân bay, trong khi những hành khách khác luôn giữ con mình trong tay để không gây mất trật tự nơi công cộng, đồng thời đó là cách bảo vệ con tại những nơi nhạy cảm như sân bay.
Sân bay ở Việt Nam luôn ồn ào và nhốn nháo. Ảnh minh hoạ
Máy bay là xe buýt công cộng
Đến đoạn lên máy bay là biết ngay “made in Vietnam”.
Thứ nhất, không ngồi đúng ghế. Chuyện tự ý đổi ghế để được ngồi gần cửa sổ hay ngồi chung với gia đình là bình thường. Chưa nói đến chuyện phải lịch sự hỏi khách của số ghế đó đồng ý hay không, mà đó là an toàn cân bằng của máy bay.
Có lần tôi đi trên một chuyến bay không nhiều khách, nên hãng đã xếp 50% ngồi phía sau, 50% ngồi phía trước để giữ cân bằng cho máy bay. Thế là một đại gia đình thấy phần giữa có ghế trống, kéo hết lên ngồi cho sướng, may quá là cuối cùng tiếp viên đã kịp nhắc nhở quay lại chỗ ngồi trước máy bay bị chúi xuống đất.
Thứ hai, không bao giờ nghe hướng dẫn.Người ta nói “không biết thì chịu khó nghe và làm theo”, đằng này, tiếp viên vừa dứt lời “tắt điện thoại, máy thu phát sóng...”, họ vẫn tỉnh bơ lấy điện thoại ra gọi/ nhắn tin. Sao họ không hiểu rằng sóng điện thoại có thể làm nhiễu sóng khác, phi công không thể liên lạc được với nhân viên hàng không và họ có thể gặp tai nạn.
Tiếp viên vừa nói “thắt dây an toàn, ngồi yên tại chỗ”, họ lại đứng dậy, mở ngăn hành lý để lấy laptop? Sao họ không nghĩ là họ đang tự gây nguy hiểm cho mình, và có nguy cơ ảnh hưởng đến người khác nếu hành lý rớt xuống?
Máy bay là nhà trẻ
Tôi sợ nhất là máy bay có trẻ em Việt Nam. Khóc inh ỏi, la hét ỏm tỏi, chạy lon ton, mặc cho tiếp viên nhắc nhở, hay những ánh mắt đầy ngao ngán và chửi thầm trong bụng của những hành khách khác. Chưa hết, bà mẹ nào mà có con nhỏ là nguyên khu vực ghế ngồi trở thành bàn thay tã, đồ lót, khăn giấy, đồ chơi, mặc cho mùi khai đang làm phiền những người ngồi bên cạnh.
Nhường ghế cho người già và trẻ em trên xe buýt chỉ có trong phim
Xuống máy bay, lên xe buýt ra sân bay, ai lên trước là mặc nhiên chiếm ghế trước, mặc cho bà lão chống gậy đang đứng mỏi run cả chân, hay bà mẹ đang ắm con sắp nổi gân lên. Nói chuyện inh ỏi, phà hơi thở “thơm mát” vào mặt nhau sau chuyến bay dài không súc miệng, hay quên ăn kẹo bạc hà cũng là chuyện bình thường.
Và còn rất nhiều những câu chuyện “văn minh” khác...
Tôi luôn tự hỏi, tại sao giáo dục Việt Nam không đưa những vấn đề “văn minh nơi công cộng” như thế này vào trong trường học nhỉ? Tôi không muốn quơ đũa cả nắm, và tất nhiên không phải người Việt Nam nào cũng giống như vậy.
Tôi mong rằng bài viết này có thể đánh thức phần nào những ai đã trót làm những điều trên thì dừng lại, hay những ai có nguy cơ sẽ mắc phải có thể tránh, để đừng phải nhìn thấy những ánh mắt ái ngại và kinh ngạc của bạn bè quốc tế nhìn vào người Việt Nam.
No comments:
Post a Comment