QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM
Đặc Điểm Kiến Trúc Văn Hóa Việt Nam
Bảo tồn di tích công trình Phật giáo
Năm
ngoái, trong cuộc hội thảo về di sản văn hóa, nhà sử học, Giáo sư Phan
Huy Lê gây kinh ngạc khi kể lại câu chuyện hướng dẫn vị Đại sứ Nhật Bản tham quan chùa Tây Phương, đã phát hiện người ta đem sơn mới phết lên các pho tượng gỗ La hán
nổi tiếng, gọi là để bảo quản các pho tượng quý này. Tìm hiểu ra mới
hay việc đó do tổ chức văn hóa địa phương thiếu kiến thức bảo tồn tiến
hành. Điều này nói lên việc giao khoán công tác bảo tồn di sản văn hóa
cho các hội quần chúng mà không có sự hỗ trợ của chuyên gia văn hóa.
Chùa Tây Phương - Miền Bắc Việt Nam, một ngôi chùa có kiến trúc văn hóa Việt đặc thù, bạn nên đến hành hương
Kiến
trúc sư Hoàng Đạo Kính hôm đó cũng cảnh báo về 3 xu hướng sai lệch xuất
hiện thường xuyên hiện nay trong lĩnh vực bảo tồn. Đó là đơn giản giao
trách nhiệm bảo tồn cho ngành xây dựng (thường có hiểu biết rất hạn chế
về lĩnh vực này), việc tôn tạo không đúng phương pháp và quy cách (tự ý
thêm thắt, làm mới lung tung) và nhất là xu hương rất đáng báo động hiện
nay là “du lịch hóa”di sản. Di tích Phật giáo cũng không thoát khỏi
tình cảnh này.
Sự phát triển trong thời kỳ nhiều
biến động ngày nay đang tác động từng ngày từng giờ đến di sản văn hóa
đất nước, trong đó có không ít di tích Phật giáo, đã gây nhiều bức xúc
chẳng những cho giới làm lịch sử, văn hóa nghệ thuật mà của đông đảo
Phật tử và nhân dân cả nước. Phải chăng chúng ta đang đối mặt với mâu
thuẫn: Một mặt, mà cứ khư khư giữ nguyên trạng cứng nhắc chỉ có tác dụng
làm đóng băng di sản, và về lâu dài sẽ đưa đến sự xuống cấp, hủy hoại
chúng, di tích biến thành phế tích. Nhưng mặt khác, nếu phát huy chúng
một cách bừa bãi, không tôn trọng các nguyên tắc bảo tồn mang tính khoa
học thì di tích cũng sẽ bị hủy hoại hoặc biến mất.
Trong
vài thập kỷ gần đây, bảo tồn di tích đã trở thành một ngành nghiên cứu
và thực hành mang tính chuyên môn cao, tuân thủ các nguyên tắc nghiêm
ngặt theo thông lệ được cộng đồng quốc tế chấp nhận. Nghĩ rằng đã đến
lúc di tích công trình Phật giáo ở nước ta ngày nay cũng phải được bảo
tồn và phát huy theo hướng này.
Chưa đáp ứng được yêu cầu mới thời đại
Kiến
trúc chùa chiền, gồm bảo tồn phát huy cái cũ và xây dựng cái mới, ngày
nay cũng không thoát khỏi tình trạng chung của kiến trúc đất nước được
mô tả là “năng động mà hỗn loạn”. Kiến trúc chùa chiền nhìn chung rất
phong phú và đa dạng nhưng cũng khá lộn xộn trong kiểu cách.
Theo
đánh giá chuyên môn về mặt kiến trúc, công trình chùa chiền cũ đang bị
hủy hoại nghiêm trọng. Đã có hiện tượng mạnh ai nấy làm, làm biến dạng
không ít di tích chùa quý giá ở nước ta, có nguy cơ phá vỡ những nét cổ
mà các vị tổ sư đã dày công tôn tạo.
Công trình
Phật giáo xây mới lại có hiện tượng sa đà vào chủ nghĩa hình thức, nặng
về sáo mòn sao chép vốn cổ hoặc giả cổ, với trang trí thường lòe loẹt,
nặng về phô trương hình thức bên ngoài mà nhẹ về bố cục nội dung bên
trong. Điều đáng suy ngẫm là phải chăng ta đang làm mai một đi bản sắc
văn hóa đã được khẳng định để lao vào việc tạo dựng lên các công trình
mới không đáp ứng được yêu cầu của thời đại, của lớp Phật tử ngày càng
trẻ trung và có kiến thức hơn.
Ngôi chùa ở thành
phố ngày nay thường nằm lọt thỏm trong phố thị chật hẹp thì lại càng khó
thể hiện được tính thần mà một cơ sở thờ tự tôn nghiêm cần có. Loại
hình chùa chiền kiểu đó cũng khá phổ biến tại các cộng đồng người Việt
sinh sống ở nước ngoài.
Tuy vậy, cũng đã có một số
ngôi chùa, đa số thuộc Thiền tông, có nỗ lực trong việc hướng về cái
mới đồng thời tạo được cái đẹp dung dị, hòa mình vào thiên nhiên-vốn là
nét đặc trưng kiến trúc Phật giáo nước ta. Hình như, rất tiếc, chúng ta
chưa rút ra được các bài học từ những thể nghiệm cách tân kiến trúc chùa
Phật những thập niên qua. Ví như các ngôi chùa xây dựng mới ở Sài Gòn
vào những năm 1950-1960, nào Xá Lợi, Vình Nghiêm…
Khảo
sát ra bên ngoài, tôi đã nhìn thấy nhiều ngôi chùa cũ được chăm chút
bảo quản khá tốt và chùa mới của các tông phái Phật giáo Nhật Bản, Thái
Lan, Sri Lanka thì kết hợp được tính chách hiện đại và bản sắc Phật giáo
địa phương. Trường hợp đó cũng xuất hiện trong các công trình chùa Việt
ở nước ngoài, như Trúc Lâm thiền viện ở ngoại ô Paris (Pháp), Viên Giác
ở giữa thành phố Hannover (Đức), Huyền KHông ở ngay trung tâm thành phố
Montréal (Canada), nhiều ngôi chùa Việt tại California (Hoa Kỳ) kết hợp
khá nhuần nhuyễn tính hiện đại của công trình tôn giáo thời đại mới và
bản sắc rất riêng của ngôi chùa Việt.
Đặc điểm kiến trúc của Việt
Giáo
lý của đạo Phật cũng như đặc điểm nổi bật của kiến trúc Phật giáo là
tính giản dị, đại chúng, bình đẳng, trí tuệ. Chùa Phật vừa là trung tâm
tôn giáo, vừa là trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Tuy vậy, kiến
trúc chùa Việt Nam cũng như chùa Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản ở vùng
Đông Á chịu ảnh hưởng chủ yêu từ truyền thống Bắc tông, nghiêng về văn
hóa, nghệ thuật Trung Hoa hơn là truyền thống Nam tông Ấn Độ hóa của hầu
hết các nước Phật giáo Đông Nam Á như Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan,
Campuchia, Lào. Chùa Phật truyền thống luôn là một tổng thể kiến
trúc-cảnh quan hài hòa.
Kiến trúc chùa cũng có
những đặc điểm riêng tùy theo phong tục, tập quán và thời tiết khí hậu
từng địa phương. Nếu ngôi chùa Hoa, Nhật có mái lớn và nặng, nhằm chống
lại cái lạnh giá, mưa bão và mong muốn tạo một bầu khí u trầm, kín đáo
của một nơi chốn tĩnh tu, thì trái lại, chùa Thái, Khờ-me, Lào với mái
chống nhiều lớp, thanh thoát nhằm tạo thông thoáng trong môi trường
nhiệt đới, màu sắc tươi vui của một trung tâm cộng đồng hấp dẫn.
Nếu
chùa Việt dung hòa cả hai truyền thống đó và cơ bản vẫn là ngôi nhà gỗ
dân gian nhưng đã đạt được cái đẹp trong sự hạn chế phương tiện, thô
mộc, bình dị, hòa mình vào thiên nhiên. Nếp chùa là một phức hợp kiến
trúc gồm nhiều công trình, đặt ở những vị trí cảnh quan đẹp nhất. Truyền
thống bố cục mang tính mở, đại chúng với sân rộng, hành lang lớn hai
bên phải trái (Đông lang , Tây lang) đón khách thập phương. Chùa Phật
rất khác với đền miếu Khổng giáo, Đạo giáo vì có tháp, gác chuông và cả
nơi ở, tu tập của Tăng Ni lẫn nhà khách. Điện thờ là trung tâm chùa, gồm
tiền đường (nơi vân tập thiện nam tín nữ), tòa thiêu hương hay bái
đường (nơi hành lễ) và thượng điện hay chánh điện (nơi đặt tượng Phật).
Ở
nước ta, tuy nếp chùa truyền thống Bắc-Nam cơ bản không mấy khác nhau,
nhưng chùa ở miền Bắc, miền Trung vẫn còn nặng nề với mái lớn, đầu đao,
khép kín, trang trí rườm rà, trong khi chùa ở miền Nam hàng ba thoáng
mở bốn phía, mái bốn vạt kiểu bánh ít, trang trí giản dị, thể hiện rõ
nét sinh hoạt bình dị của người di dân Nam tiến trong khung cảnh thời
tiết mưa nắng hai mùa. Chùa phương Nam cũng chịu nhiều ảnh hưởng của nếp
chùa Hoa, chùa Khờ-me bản địa trong trang trí và bố cục sân vườn.
Bảo tồn và phát huy
Bảo
tồn di tích công trình Phật giáo nay cũng cần dựa trên cơ sở khoa học
và pháp lý. Nước ta đã ban hành Luật Di sản từ năm 2001 để làm cơ sở
pháp lý, ngoài ra chúng ta cũng đang tiếp thu kinh nghiệm quốc tế…Từ đó
đang đề ra các quy chế cụ thể bảo tồn di tích, trong đó có không ít di
tích công trình Phật giáo.
Thông lệ quốc tế thì
thường dựa vào văn kiện tiêu biểu là Hién chương Venice 1964, với sự xác
nhận của Công ước về di sản văn hóa thế giới của UNESCO 1972. Sau này
bổ sung thêm văn kiện Nara 1994.
Hiến chương
Venice đòi hỏi việc gìn giữ tính nguyên gốc của di sản nhắm tránh làm
sai lạc các chứng cứ lịch sử và khoa học. Sỡ dĩ Hiến chương nhấn mạnh
điều đó là do phương Tây đã kinh qua kinh nghiệm phục hồi chua xót di
sản vào thời Phục hưng, đã từng tùy tiện nâng cấp cải tạo hoặc trùng tu
thêm thắt theo phong cách mới thời đại hoặc thị hiếu cá nhân.
Tuy
nhiên gần đây nhiều hội nghị quốc tế đã chỉ ra rằng Hiến chương Venice
nay đã phần nào lỗi thời trong quan niệm “giữ gìn nguyên gốc”và hướng
sang đề cao “Văn kiện Nara”.
Nhật Bản là nước từng
có thông lệ từ thế kỷ thứ VII là cứ 20 là họ tiến hành trùng tu lại các
công trình tôn giáo Thần đạo tại khu Ise truyền thống. Điều này rõ ràng
là không phù hợp với tinh thần châu Âu của Hiến chương Venice. Vì vậy
mà vào năm 1994, các chuyên gia đầu ngành bảo tồn di sản của các tổ chức
quốc tế và 25 nước đại diện các châu lục đã họp tại Nara đề ra các điều
bổ sung mới về tính nguyên bản của di sản. Nghĩa là phải tính đến các
yếu tố phi vật thể, phù hợp với thực tế của thời đại như các yếu tố chức
năng và tác dụng, truyền thông và kỹ thuật, tinh thần và tình cảm…Hiện
nay, thông lệ quốc tế khuyến khích giữ gìn nguyên trạng di sản nhưng
cũng uyển chuyển áp dụng các qui định mới, nhằm biến di sản văn hóa sinh
động hơn và không “đóng băng”chúng trong thờigian kinh tế thị trường.
Tại
các nước tiên tiến luôn có cơ quan phụ trách di sản và hoạt động rất
tích cực, khá hữu hiệu như lập hồ sơ, quy định công tác quản lý, bảo vệ
và tôn tạo công trình.
Riêng đối với di sản công
trình tôn giáo cổ nêu còn đang sử dụng thì tổ chức tôn giáo tự mình bảo
quản, tôn tạo là chính, cơ quan bảo tồn chỉ can thiệp để bảo vệ công
trình không bị xâm hại, yểm trợ việc trùng tu, phục hồi cho đúng nguyên
trạng. Nhiều cơ sở nghiên cứu kiến trúc tôn giáo, khảo cổ, các trường mỹ
thuật và kiến trúc, quỹ tài trợ văn hóa cũng tham gia tích cực vào các
công tác nêu trên. Nếu các công trình mang tính chất di sản văn hóa tiêu
biểu cấp quốc gia thì nhà nước phải tham dự nhiều hơn vào công tác
trùng tu, bảo tồn.
Ở nước ta do tình hình khó khăn
chung về nhiều mặt, trước mắt nhà nước khó mà đảm trách hết mọi việc.
Cho nên, việc yểm trợ từ nhiều phía sẽ giúp ích cụ thể cho việc gìn giũ,
tôn tạo các di tích chùa chiền.
Tôi nghĩ, một mặt
nhà nước nên chấn chỉnh lại nạn lấn chiếm di sản chùa chiền kéo dài
nhiều năm qua. Mặt khác sắp xếp quy hoạch, phân khu chức năng đô thị và
nông thôn mới cần dự kiến quỹ đất đáp ứng nhu cầu tinh thần và tâm linh
cho cộng đồng khi dự trù mặt bằng cần thiết cho công trình tôn giáo. Mặt
khác, Giáo hội Phật giáo cũng nên có bộ phận chuyên trách bảo tồn di
tích, kết hợp với các chuyên gia bảo tồn công trình Phật giáo lên phương
án trùng tu, bảo quản và tôn tạo lâu dài cho đúng quy cách.
Đây
là một việc cần phải làm ngay, vì nếu cứ để tình hình hỗn loạn này kéo
dài, thì chúng ta có tội lớn, chẳng những đối với Phật giáo mà cả đối
với tiền nhân và lịch sử văn hóa Việt Nam.
Source: Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 62
Đình Chùa Cổ Việt Nam.
Hình ảnh độc đáo về đình, chùa cổ Việt Nam
Chùa Thiên Niên (Hà Nội), hay còn gọi là chùa Trích Sài nằm ngay sát bờ hồ Tây, thuộc làng Trích Sài, phường Bưởi, quận Tây Hồ. Chùa xuất hiện từ thời Lý Nam Đế (544 - 548). Chùa đã được bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch đánh giá
Các tác phẩm ảnh về những ngôi chùa, đình, đền nổi tiếng tại Hà Nội, Bắc Ninh, Ninh Bình, Sài Gòn.. được đưa ra triển lãm nhân dịp Phật đản Liên hợp quốc hồi đầu tháng 5.
Chùa Thiên Niên (Hà Nội), hay còn gọi là chùa Trích Sài nằm ngay sát bờ hồ Tây, thuộc làng Trích Sài, phường Bưởi, quận Tây Hồ. Chùa xuất hiện từ thời Lý Nam Đế (544 - 548). Chùa đã được bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch đánh giá, xếp hạng và tổ chức trùng tu nhân sự kiện 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Chùa Trấn Quốc (Hà Nội) là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nằm cạnh Hồ Tây bên đường Thanh Niên. Chùa được xây từ thời Lý Nam Đế ở gần sông Hồng, đến năm 1615, được di dời vào vị trí ngày nay. Nơi đây có vườn tháp cổ u tịch, có nhiều tượng Phật giá trị, đặc biệt là tượng Thích Ca nhập Niết Bàn và là di tích lịch sử văn hóa quốc gia.
Đền Quán Thánh (Hà Nội), tên chữ là Trấn Vũ Quán, có từ đời Lý Thái Tổ (1010 - 1028). Nơi đây thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, là một trong bốn vị thần được lập đền thờ để trấn giữ bốn cửa ngõ thành Thăng Long khi xưa. Bốn ngôi đền đó gồm Đền Bạch Mã, Voi Phục, Kim Liên và Quán Thánh. Đền Quán Thánh nằm gần Hồ Tây cùng với Kim Liên và Trấn Quốc tạo nên sự hài hoà trong kiến trúc cảnh quan và văn hoá tín ngưỡng đối với cả khu vực phía Tây Bắc của thủ đô.
Đình Chèm là đình của làng Chèm (Thủy Phương), phường Thụy Phương, quận Bắc Từ Liêm. Đình là công trình kiến trúc có nghệ thuật chạm khắc độc đáo, thờ Thượng đẳng Thiên vương Lý Ông Trọng (Lý Thân hay Đức Thánh Chèm), một nhân vật huyền thoại và Hoàng phi Bạch Tĩnh Cung sống vào thời An Dương Vương. Đình Chèm là một trong những ngôi đình cổ nhất Việt Nam. Từ nghìn năm nay, đình Chèm vẫn là nơi thờ cúng tín ngưỡng của người dân ba làng gồm làng Hoàng, làng Mạc và làng Chèm (Đông Ngạc, Bắc Từ Liêm).
Đình Bảng là một ngôi đình nằm ở làng Đình Bảng (xưa là làng Cổ Pháp), thị xã Từ Sơn (Bắc Ninh). Đình được xây dựng vào cuối thế kỷ 18 thờ các vị thành hoàng gồm Cao Sơn Đại vương (thần Núi), Thủy Bá Đại vương (thần Nước) và Bách Lệ Đại vương (thần Đất) đồng thời thờ sáu vị có công lập lại làng vào thế kỷ 15.
Chùa Tiêu hay còn gọi là chùa Thiên Tâm, Tiêu Sơn tự, nằm trên lưng chừng núi Tiêu thuộc xã Tương Giang, huyện Tiên Sơn (Bắc Ninh). Ðây là nơi trụ trì của thiền sư Lý Vạn Hạnh, người đã có công nuôi dạy Lý Công Uẩn.
Chùa Bút Tháp (Bắc Ninh). Chùa nằm hiện lên với vẻ cổ kính và trang nghiêm và nằm dưới chân đê của con sông Cầu thơ mộng. Tên chữ là Ninh Phúc Tự, được xây dựng từ thời vua Trần Thánh Tông theo kiểu “nội công ngoại quốc” với một hệ thống các công trình hài hoà, cân xứng và sinh động. Đây còn là nơi lưu giữ bức tượng Phật nghìn mắt, nghìn tay cổ độc nhất vô nhị Việt Nam.
Chùa Cần Linh (Nghệ An), thường được gọi là chùa Sư Nữ, tọa lạc ở phường Cửa Nam, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông, xây dựng vào thời Hậu Lê. Năm 1942, sư bà Diệu Viên đã tổ chức đại tu ngôi chùa, bảo tồn được nhiều tượng cổ. Sau đó đến Ni sư Diệu Niệm trong 20 năm trụ trì đã trùng hưng ngôi chùa thành một danh lam xứ Nghệ ngày nay.
Chùa Nhất Trụ (Ninh Bình), được tạo lập năm 995. Vua Lê Đại Hành đã cho dựng cột kinh (trụ đá) để khắc kinh dâng nhà Phật và xây dựng theo kiểu chữ Đinh, hướng chính Tây, gồm có cột kinh, chính điện, nhà tổ, phòng khách, nhà ăn, tháp… Chùa có tên Nhất Trụ vì trước chùa có cột đá cao hơn 3m, tiết diện hình bát giác. Trên thân cột ngoài 3 phần chữ khắc gồm có Lạc khoản, Kệ, Kinh còn có các chữ “Đệ tử Thăng Bình Hoàng đế tả đạo” ("Hoàng đế Thăng Bình" tức vua Lê Hoàn). Chùa nằm ở vị trí trung tâm, là di tích quan trọng nhất, là nơi tu hành và họp bàn việc nước của các nhà sư thế kỉ X như Pháp Thuận, Khuông Việt và Vạn Hạnh. Trải qua các thời kì lịch sử của dân tộc, trước thử thách của gió bão, bom đạn chiến tranh, trụ đá vẫn còn đứng mãi với thời gian.
Chùa Cổ Lễ thuộc thị trấn Cổ Lễ huyện Trực Ninh (Nam Ðịnh), cách thành phố Nam Định 15 km về phía Nam. Chùa do Hoà thượng Phạm Quang Tuyên xây dựng tháng 11/1920, có quy mô kiến trúc rộng lớn, hài hòa, được kết hợp các yếu tố cổ truyền Việt Nam với kiến trúc gothic châu Âu.
Chùa Đồng Đắc thuộc thôn Đồng Đắc, xã Đồng Hướng (Ninh Bình), là chùa lớn nhất ở vùng Công giáo huyện Kim Sơn. Năm 1829, một nhà sư họ Lê đã đến nơi đây và được Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ ủng hộ chọn một khu đất cao nhất ở trung tâm xã Đồng Đắc để xây dựng chùa.
Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang là một biểu tượng Phật giáo tâm linh của người dân Quảng Trị. Chùa được hình thành từ thời chúa Nguyễn Hoàng khi mới vào Nam lập nghiệp. Đây là một trong những ngôi tổ đình có mặt sớm nhất và có ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo và văn hóa của xứ Đàng Trong. Ngày 15/11/1991, Nhà nước đã chính thức xếp hạng chùa là di tích cấp quốc gia hạng A1.
Phóng to Chùa Bửu Long có kiến trúc vừa hoành tráng vừa hiện đại nhưng cũng có nhiều nét cổ kính nhất của nền văn minh Suvannabhumi cổ đại trong vùng Đông Nam Á. Chùa có ảnh hưởng của văn minh Phật giáo Ấn Độ thời đại vua Asoka. Thiền Viện Tổ Đình Bửu Long nguyên là một Tịnh Thất có khuôn viên rộng hơn 11 ha, tọa lạc trên ngọn đồi phía Tây ngạn sông Đồng Nai, trong công viên Lịch sử Văn hóa Dân tộc tại khu phố Thái Bình 1, phường Long Bình, Quận 9 (Sài Gòn).
Nguyễn Thịnh - Thúy Hồng
Bảy Hiền sưu tầm
Đình Chùa Cổ Việt Nam.
Hình ảnh độc đáo về đình, chùa cổ Việt Nam
Chùa Thiên Niên (Hà Nội), hay còn gọi là chùa Trích Sài nằm ngay sát bờ hồ Tây, thuộc làng Trích Sài, phường Bưởi, quận Tây Hồ. Chùa xuất hiện từ thời Lý Nam Đế (544 - 548). Chùa đã được bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch đánh giá
Các tác phẩm ảnh về những ngôi chùa, đình, đền nổi tiếng tại Hà Nội, Bắc Ninh, Ninh Bình, Sài Gòn.. được đưa ra triển lãm nhân dịp Phật đản Liên hợp quốc hồi đầu tháng 5.
Chùa Thiên Niên (Hà Nội), hay còn gọi là chùa Trích Sài nằm ngay sát bờ hồ Tây, thuộc làng Trích Sài, phường Bưởi, quận Tây Hồ. Chùa xuất hiện từ thời Lý Nam Đế (544 - 548). Chùa đã được bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch đánh giá, xếp hạng và tổ chức trùng tu nhân sự kiện 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Chùa Trấn Quốc (Hà Nội) là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nằm cạnh Hồ Tây bên đường Thanh Niên. Chùa được xây từ thời Lý Nam Đế ở gần sông Hồng, đến năm 1615, được di dời vào vị trí ngày nay. Nơi đây có vườn tháp cổ u tịch, có nhiều tượng Phật giá trị, đặc biệt là tượng Thích Ca nhập Niết Bàn và là di tích lịch sử văn hóa quốc gia.
Đền Quán Thánh (Hà Nội), tên chữ là Trấn Vũ Quán, có từ đời Lý Thái Tổ (1010 - 1028). Nơi đây thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, là một trong bốn vị thần được lập đền thờ để trấn giữ bốn cửa ngõ thành Thăng Long khi xưa. Bốn ngôi đền đó gồm Đền Bạch Mã, Voi Phục, Kim Liên và Quán Thánh. Đền Quán Thánh nằm gần Hồ Tây cùng với Kim Liên và Trấn Quốc tạo nên sự hài hoà trong kiến trúc cảnh quan và văn hoá tín ngưỡng đối với cả khu vực phía Tây Bắc của thủ đô.
Đình Chèm là đình của làng Chèm (Thủy Phương), phường Thụy Phương, quận Bắc Từ Liêm. Đình là công trình kiến trúc có nghệ thuật chạm khắc độc đáo, thờ Thượng đẳng Thiên vương Lý Ông Trọng (Lý Thân hay Đức Thánh Chèm), một nhân vật huyền thoại và Hoàng phi Bạch Tĩnh Cung sống vào thời An Dương Vương. Đình Chèm là một trong những ngôi đình cổ nhất Việt Nam. Từ nghìn năm nay, đình Chèm vẫn là nơi thờ cúng tín ngưỡng của người dân ba làng gồm làng Hoàng, làng Mạc và làng Chèm (Đông Ngạc, Bắc Từ Liêm).
Đình Bảng là một ngôi đình nằm ở làng Đình Bảng (xưa là làng Cổ Pháp), thị xã Từ Sơn (Bắc Ninh). Đình được xây dựng vào cuối thế kỷ 18 thờ các vị thành hoàng gồm Cao Sơn Đại vương (thần Núi), Thủy Bá Đại vương (thần Nước) và Bách Lệ Đại vương (thần Đất) đồng thời thờ sáu vị có công lập lại làng vào thế kỷ 15.
Chùa Tiêu hay còn gọi là chùa Thiên Tâm, Tiêu Sơn tự, nằm trên lưng chừng núi Tiêu thuộc xã Tương Giang, huyện Tiên Sơn (Bắc Ninh). Ðây là nơi trụ trì của thiền sư Lý Vạn Hạnh, người đã có công nuôi dạy Lý Công Uẩn.
Chùa Bút Tháp (Bắc Ninh). Chùa nằm hiện lên với vẻ cổ kính và trang nghiêm và nằm dưới chân đê của con sông Cầu thơ mộng. Tên chữ là Ninh Phúc Tự, được xây dựng từ thời vua Trần Thánh Tông theo kiểu “nội công ngoại quốc” với một hệ thống các công trình hài hoà, cân xứng và sinh động. Đây còn là nơi lưu giữ bức tượng Phật nghìn mắt, nghìn tay cổ độc nhất vô nhị Việt Nam.
Chùa Cần Linh (Nghệ An), thường được gọi là chùa Sư Nữ, tọa lạc ở phường Cửa Nam, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông, xây dựng vào thời Hậu Lê. Năm 1942, sư bà Diệu Viên đã tổ chức đại tu ngôi chùa, bảo tồn được nhiều tượng cổ. Sau đó đến Ni sư Diệu Niệm trong 20 năm trụ trì đã trùng hưng ngôi chùa thành một danh lam xứ Nghệ ngày nay.
Chùa Nhất Trụ (Ninh Bình), được tạo lập năm 995. Vua Lê Đại Hành đã cho dựng cột kinh (trụ đá) để khắc kinh dâng nhà Phật và xây dựng theo kiểu chữ Đinh, hướng chính Tây, gồm có cột kinh, chính điện, nhà tổ, phòng khách, nhà ăn, tháp… Chùa có tên Nhất Trụ vì trước chùa có cột đá cao hơn 3m, tiết diện hình bát giác. Trên thân cột ngoài 3 phần chữ khắc gồm có Lạc khoản, Kệ, Kinh còn có các chữ “Đệ tử Thăng Bình Hoàng đế tả đạo” ("Hoàng đế Thăng Bình" tức vua Lê Hoàn). Chùa nằm ở vị trí trung tâm, là di tích quan trọng nhất, là nơi tu hành và họp bàn việc nước của các nhà sư thế kỉ X như Pháp Thuận, Khuông Việt và Vạn Hạnh. Trải qua các thời kì lịch sử của dân tộc, trước thử thách của gió bão, bom đạn chiến tranh, trụ đá vẫn còn đứng mãi với thời gian.
Chùa Cổ Lễ thuộc thị trấn Cổ Lễ huyện Trực Ninh (Nam Ðịnh), cách thành phố Nam Định 15 km về phía Nam. Chùa do Hoà thượng Phạm Quang Tuyên xây dựng tháng 11/1920, có quy mô kiến trúc rộng lớn, hài hòa, được kết hợp các yếu tố cổ truyền Việt Nam với kiến trúc gothic châu Âu.
Chùa Đồng Đắc thuộc thôn Đồng Đắc, xã Đồng Hướng (Ninh Bình), là chùa lớn nhất ở vùng Công giáo huyện Kim Sơn. Năm 1829, một nhà sư họ Lê đã đến nơi đây và được Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ ủng hộ chọn một khu đất cao nhất ở trung tâm xã Đồng Đắc để xây dựng chùa.
Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang là một biểu tượng Phật giáo tâm linh của người dân Quảng Trị. Chùa được hình thành từ thời chúa Nguyễn Hoàng khi mới vào Nam lập nghiệp. Đây là một trong những ngôi tổ đình có mặt sớm nhất và có ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo và văn hóa của xứ Đàng Trong. Ngày 15/11/1991, Nhà nước đã chính thức xếp hạng chùa là di tích cấp quốc gia hạng A1.
Phóng to Chùa Bửu Long có kiến trúc vừa hoành tráng vừa hiện đại nhưng cũng có nhiều nét cổ kính nhất của nền văn minh Suvannabhumi cổ đại trong vùng Đông Nam Á. Chùa có ảnh hưởng của văn minh Phật giáo Ấn Độ thời đại vua Asoka. Thiền Viện Tổ Đình Bửu Long nguyên là một Tịnh Thất có khuôn viên rộng hơn 11 ha, tọa lạc trên ngọn đồi phía Tây ngạn sông Đồng Nai, trong công viên Lịch sử Văn hóa Dân tộc tại khu phố Thái Bình 1, phường Long Bình, Quận 9 (Sài Gòn).
Nguyễn Thịnh - Thúy Hồng
Bảy Hiền sưu tầm
Ở Việt Nam, nhắc đến ăn chay không thể không nhắc tới Huế, nơi có nhiều món ăn chay nhất, thậm chí việc nấu đồ ăn chay ở Huế đã trở thành một nghệ thuật.
Việc ăn chay đã thịnh hành từ thời Lý – Trần cho đến đời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), Huế trở thành thủ phủ của Phật giáo, tục ăn chay cũng bắt đầu phổ biến ở Huế trong cả tầng lớp quý tộc lúc bấy giờ.Cho đến ngày nay, người Huế, từ bình dân đến quý tộc, đều có truyền thống ăn chay, cốt để cho tâm hồn thanh tịnh.
Nếu như bạn có dịp ghé thăm Huế vào những dịp lễ, đến các ngôi chùa ở nơi đây, bạn sẽ được thưởng thức cỗ chay mà nhà chùa thường làm để đãi phật tử bốn phương. Mâm cỗ chay rất đơn giản chỉ gồm tương, muối, rau, dưa… đều là những sản vật do các vãi cùng những phật tử trồng ngay trong vườnchùa. Bữa cơm đạm bạc là thế nhưng lúc nào cũng thu hút rất nhiều người.
Người Huế không chỉ ăn chay vào ngày rằm, ngày mồng một hay ngày lễ, họ ăn chay như một thói quen thường nhật. Dường như quanh năm, cơm chay đều thường xuyên xuất hiện trong bữa ăn của những gia đình người Huế. Họ định ngày ăn chay trong tháng gọi là trai kỳ; ăn chay hai ngày rằm, ngày ba mươi gọi là nhị trai; ăn chay bốn ngày gọi là tứ trai. Và cứ ngày mười bốn và cuối tháng âm lịch hay ngày Phật đản, phần lớn các quán bún bò của Huế đều đổi món bán bún chay.
Ở Huế, hầu hết các gia đình đều tự nấu những món chay cho bữa ăn. Bữa cơm chay thanh đạm cũng là cách mà người Huế bày tỏ sự quý mến và tấm chân thành với bạn bè. Đây là một nét văn hóa độc đáo mà có lẽ chỉ có riêng ởxứ Huế. Bữa ăn ngày Tết cũng vậy, mâm cỗ ngày Tết ở Huế thường là mâm cỗ chay, cho đến ngày nay, tuy đã có nhiều thay đổi, nhưng món chay vẫn là những món không thể thiếu trong mâm cỗ ngày Tết của người Huế.
Đến với Huế, bạn sẽ được thưởng thức từ cơm chay, bún chay… cho đến đùi gà chay, cá chay, giò chay… Củ, quả, đậu, dầu thực vật phút chốc đều biến thành những món ăn bắt mắt và hấp dẫn vô cùng. Đủ các món sơn hào hải vịtừ nem công, chả phượng, giò lụa, thịt gà đến tôm hùm, cá rán nom đẹp mắt vô cùng nhưng đều được chế tác từ thực vật. Điểm đặc biệt là ngay khi thưởng thức, vẫn cứ ngỡ như là thịt cá thật. Đó chính là cái tài chếtác từ những bàn tay nội trợ điệu nghệ xứ Huế. Sự kết hợp hài hòa màu sắc của rau, đậu, hoa quả đã được xào nấu bằng dầu thực vật, xì dầu, hoặc những món rau sống, khế chua, dưa hành, nộm hoa chuối...v.v, rồi bày trí các món ăn trên bàn ăn sao cho đẹp mắt cũng rất được quan tâm.
Các món ăn thường được bày ít, và xếp trên những chiếc đĩa nho nhỏ,
khiến thực khách thưởng thức rồi mà vẫn có cảm giác thòm thèm muốn ăn
thêm chút nữa. Món khai vị cho một bữa tiệc chay ở Huế thường là cà
rốt,đu đủ được tỉa thật khéo để trang trí xung quanh những lát chả phù
đượclàm từ lá phù chúc màu vàng mơ, xen lẫn là mì căn gói bánh tráng
chiên giòn làm nem rán. Súp măng cua được nấu từ bắp non, nấm rơm, hạt
sen… Vàtất nhiên không thể thiếu cơm và xôi rồi.
Không chỉ vậy, bạn còn có thể được thưởng thức bánh bèo, bánh lọc, bánh ít… với nhân chay. Và một món ăn quen thuộc thường xuất hiện trong những bữa cơm chay của người Huế chính là món chao. Chao là món ăn có vị gần giống như một món mặn, được chế biến từ đậu nành, làm thành đậu khuôn, đậu khuôn ủ lên men thì thành chao. Chao có hương vị rất hấp dẫn và bảo quản được lâu ngày.
Đất Huế thơ mộng, lại mang nét văn hóa ăn chay độc đáo, thật dễ khiến lòng người nhớ mãi không nguôi…
Bánh ướt lâu năm ở ngã tư Bảy Hiền
Đây là một trong những quán thuộc dạng quán lâu đời và rất nổi tiếng khu Tân Bình. Quán chỉ bán duy nhất mỗi món chính là bánh ướt, ăn kèm bánh tôm chiên nóng giòn rất ngon.
Trước hết phải nói là hàng bánh cuốn này giá không rẻ chút nào hết. Một phần bánh cuốn với miếng chả lụa to (nhưng hơi mỏng), nem chua và miếng bánh tôm chiên có giá là 32k. Ăn ở đây muốn “đã miệng” phải gọi thêm chả và bánh tôm cho nên tính ra giá thành sẽ hơi chát với các bạn teen. Tuy nhiên, giá cả có vẻ không thành vấn đề khi nơi này luôn đông khách, cảnh buôn bán ở đây diễn ra tấp nập rộn ràng của góc đường ngã tư Bảy Hiền (đối diện bệnh viện Thống Nhất).
Một phần bánh ướt giá 32k
Lý do cho việc bán đắt nhưng vẫn đông có lẽ nằm ở cái bánh tôm. Bánh tôm ở đây khá đặc biệt, không giống những chỗ khác. Bánh tôm được chiên bằng bột mỏng với con tôm tươi ở giữa. Một cái bánh tôm sẽ được cắt làm đôi cho vào phần bánh ướt, cùng chả - nem và rau giá, nước mắm. Bánh tôm được nhiều người thích nên hay được gọi thêm (8 – 10k/ cái), bánh chiên liên tục nên nếu may mắn bạn còn có thể thưởng thức một cái bánh nóng giòn, thơm phức.
Bánh tôm cắt đôi
Nem chua
Chả lụa to, ngon nhưng khá mỏng
Nước mắm ngày xưa của quán rất ngon nhưng khoảng vài năm sau này giảm hẳn chất lượng, ăn có cảm giác pha nhiều quá nên mất đi cái đậm đà của vị ngon xưa. Quán bán đem về khá nhanh nhẹn (chắc do phục vụ nhiều năm nên chuyên nghiệp), nước mắm đem về luôn được hâm nóng cho cảm giác ngon hơn khi ăn.
Hành phi thơm và giòn
Bánh ướt dầy, dai - ngon
Nói chung, đây là một nơi có thể ăn thử để thưởng thức bánh tôm chiên ngon và lạ. Còn ăn dài dài thì tùy vào nhu cầu và khả năng tài chính của mọi người vì tính ra giá cả ở đây đắt gấp đôi những hàng bánh ướt bình thường.
Ngã tư Bảy Hiền, bên trái là đường Lý Thường Kiệt, bên phải đường Hoàng Văn Thụ, phía trước đường Trường Chinh
Ảnh: Bảy Hiền
Những thương hồ cuối cùng giữa lòng Sài Gòn
Khi dự án cải tạo kênh Tân Hoá - Lò Gốm sắp hoàn thành cũng là lúc các thương hồ gắn bó lâu năm như anh Thành, ông Khảm lại mất ngủ vì chưa biết phiêu dạt về đâu.
Vài năm trước, trên khúc sông Tàu Hủ - Bến Nghé (TP HCM) có cả một xóm nổi các ghe thương hồ nhộn nhịp, thi vị. Khi đoạn sông này cải tạo, chỉnh trang, một bộ phận nhỏ chuyển về bên cầu Lò Gốm tiếp tục hành nghề thương hồ giữa lòng Sài Gòn. Người thành phố ít ai để ý đến mấy chiếc ghe chuối, ghe chở hàng đậu trên dòng kênh đen, bốc mùi vì ô nhiễm và thân phận thương hồ vô danh vì thế vẫn nhọc nhằn.
Ngoài những ghe chở chuối từ miền Tây lên Sài Gòn bán, số còn lại là ghe vận tải, chở thuê hay các ghe bán hàng lưu động trên sông nước. Các ghe này về Sài Gòn ăn hàng rồi chở đi các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Hàng đến là phải vận chuyển ngay cho kịp, vì thế, bất kể trời nắng hay mưa gió đều phải được bốc vác luôn.
Anh Thành (42 tuổi) chủ ghe ngụ tại Cần Đước (Long An) cho hay, dòng kênh ngày càng bị ô nhiễm nặng luôn bốc mùi hôi nồng nặc, nhiều lần trượt chân làm hàng hoá rơi xuống sông là phải bơi ra để lấy.
Sống ở trên kênh, dù không lặn ngụp dưới đó thì người vẫn ngứa ngáy khó chịu, nổi mẩn đỏ như dị ứng. "Vì cuộc sống mà phải bám trụ ở đây chứ dân thương hồ sông nước khoáng đạt sao chịu nổi cảnh ao tù nước đọng", anh Thành cảm thán.
Gia đình anh Thành lấy hàng từ các nhà buôn rồi chở đi giao khắp các tỉnh miền Tây. 15 năm rong ruổi anh đã có 4 đứa con nhưng việc học hành của chúng đều không trọn vẹn vì phải nay đây mai đó cùng gia đình.
Anh cũng rất lo cho an toàn những đứa con của mình, đi lại từ ghe lên bờ chỉ là miếng ván bắc qua, nhiều khi sơ ý sẩy là té ngay, rất nguy hiểm.
Cũng cùng hoàn cảnh như gia đình anh Thành, gia đình chị Nguyễn Ngọc Chi 34 tuổi ở Cần Đước, Long An có gần 10 năm xuôi ngược Sài Gòn và các tỉnh miền Tây. Chị có 2 con, con gái lớn nay cũng phải phụ chị lo sổ sách bán buôn và lo cho em chứ cũng không thể ăn học tới nơi tới chốn.
Khi đêm xuống lại là một cuộc sống hoàn toàn khác biệt, không còn bon chen. Các ghe neo đậu gần nhau, cùng sinh hoạt chung, ăn uống và trò chuyện và chia sẻ kinh nghiệm làm ăn.
Ông Phan Văn Khản năm nay đã 43 tuổi có hơn 10 năm gắn bó với bến sông này. Cứ tối đến ông lại cùng các ghe bạn hàng uống rượu để quên đi lo toan của một ngày mệt nhọc và tìm niềm vui cho ngày mới.
Em Phan Minh Trường (15 tuổi, con trai ông Khản) phải bỏ học từ năm lớp 6. Vì theo ghe lâu ngày, không bạn bè nên em cũng trầm tính, hiền lành. Em cho biết sau này là sẽ nối nghiệp cha trở thành một thương hồ nay đây mai đó.
Những ngày này, khi con kênh đang được hoàn thiện ở giai đoạn nước rút, dù ban ngày lao động cực nhọc, vất vả nhưng anh Thành vẫn không thể ngon giấc. Anh lo lắng cho cuộc sống ngày mai của cả gia đình cũng như tương lai của những đứa con.
Nhiều đêm ngồi trên nóc ghe ngắm mảnh trăng treo trên đầu, nghĩ về thân phận, anh Thành và các bạn thương hồ không khỏi chạnh lòng.
Chỉ vài ngày nữa, những chiếc ghe thương hồ như của chị Trâm lại nhổ neo, dắt díu nhau đi tìm bến mới để mưu sinh. Người dân thành phố rồi sẽ chẳng còn ai nhắc nhớ đến nhúm ghe tàu đậu trên kênh Lò Gốm đen đúa. Anh Thành và đàn con chưa biết sẽ neo lại ở đâu. Còn ông Khản nghe nói muốn về lại quê từ giã nghề buôn sông bán hồ. Những thương hồ cuối cùng giữa lòng Sài Gòn chẳng biết phiêu bạt về đâu.
Dự án cải tạo kênh Tân Hóa – Lò Gốm được khởi công từ cuối năm 2011 với tổng nguồn vốn gần 2.000 tỷ đồng. Dự án đi qua địa bàn các quận 6, 11, Tân Phú từ đoạn tiếp giáp đường Âu Cơ (quận Tân Phú) đến đại lộ Võ Văn Kiệt (quận 6).
Theo thiết kế, đoạn kênh từ đường Âu Cơ (quậnTân Phú) đến cầu Hòa Bình (quận11) dài 3 km sẽ được lắp đặt cống hộp, bên trên làm đường rộng từ 7 m đến 13 m.
Hiện, về cơ bản tuyến đường này đã hoàn thành. Đoạn kênh 7,4 km từ cầu Hòa Bình đến cầu Lò Gốm sẽ là kênh hở với bờ kè bêtông, hai bên là đường rộng 7 m. Đến nay các nhà thầu đang tiến hành gấp rút thi công những đoạn bờ kè còn lại, sau đó tiến hành nạo vét toàn bộ tuyến kênh để đảm bảo thoát nước.
Dự kiến đến đầu tháng 9/2014 toàn bộ dự án Tân Hoá - Lò Gốm sẽ hoàn thành.
5 địa điểm nổi tiếng của Sài Gòn sẽ chỉ còn trong ký ức.
Chẳng bao lâu nữa, những địa điểm nổi tiếng này của Sài Gòn sẽ mãi biến mất, hoặc sẽ được di dời để nhường chỗ cho những công trình mới hơn, hiện đại hơn. Và có lẽ, người ta sẽ chỉ còn được nhớ về nó bằng những hình ảnh đẹp, kí ức đẹp...
Thông tin về việc đóng cửa Thương Xá Tax, một công trình kiến trúc được xây dựng từ những năm 1880 khiến bất cứ ai có ký ức gắn với nơi đây bỗng cảm thấy có chút hụt hẫng và tiếc nuối. Đối với nhiều người, Thương Xá Tax không đơn thuần là một nơi để mua sắm, mà còn là nơi họ đặt chân tới để tìm những hoài niệm của Sài Gòn năm xưa, hay đơn giản là lục lại ký ức, những khi mua cuốn vở, cây bút, món quà sinh nhật nho nhỏ... cũng đạp xe tới đây, háo hức chọn đồ. Công trình hơn 130 tuổi sắp không còn, khiến nhiều người dân thành phố lại một lần nữa hoài niệm về những biểu tượng gắn liền với Sài Gòn đã/sắp mất đi, để nhường chỗ cho những công trình mới hơn, hiện đại hơn phục vụ cuộc sống của người dân thành phố.
Đó là những hàng cây cổ thụ xanh mướt nằm cạnh công viên Lam Sơn của ngày nào, hay bùng binh Cây Liễu một thời luôn là điểm nhấn vô cùng quen thuộc mỗi khi bạn muốn ghé ngang Thương Xá Tax. Rồi vòng xoay với tượng đài vị tướng Trần Nguyên Hãn hùng dũng, nằm ngay giữa giao lộ 7 ngõ quan trọng của trung tâm thành phố. Tất cả những nơi này đều là nhân chứng lịch sử, chứng kiến Hòn ngọc Viễn Đông trải qua biết bao thăng trầm.
Chẳng bao lâu nữa, những biểu tượng không thể nào quên này của Sài Gòn sẽ mãi biến mất, hoặc sẽ được di dời để nhường chỗ cho những cái mới hơn, đó là công trình ga tàu điện ngầm đầu tiên của tuyến Metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên và tòa nhà 40 tầng ngay tại vị trí hiện tại của Thương Xá Tax. Dù biết "đôi khi phải chấp nhận mất đi những cái cũ, để có thể đón những cái mới", nhưng có lẽ vì những nơi này đã quá quen thuộc, chứa đựng rất nhiều kỷ niệm và tình cảm của người Sài Gòn nhiều thế hệ, nên đến nay, phần lớn họ còn mang trong mình sự tiếc nuối và lưu luyến về một Sài Gòn của năm nào, với hàng cây ấy, con đường ấy, vòng xoay ấy,...
Hàng cây cổ thụ "trứ danh" trên đường Lê Lợi
Nếu Sài Gòn khi xưa nổi tiếng với những hàng gòn xanh mát, thì Sài Gòn của sau này cũng nổi tiếng với những hàng dầu kiên cố, chắc khỏe. Đặc biệt những hàng dầu ở khu trung tâm thành phố, như Công Trường Lam Sơn đổ dài về đường Lê Lợi đã nằm ở đó từ rất lâu. Có những cây đến nay đã gần trăm năm tuổi, nên sẽ chẳng quá nếu nói hai hàng dầu này là những bậc lão tiền bối, "người" đã may mắn chứng kiến Sài Gòn thay đổi qua nắng mưa.
Hàng cây xanh mướt từng phủ xanh một góc Sài Gòn hoa lệ của ngày nào
Giờ chỉ là những "kỷ niệm đã qua"
Thời gian vô tình, cuộc sống tấp nập cứ thế kéo người ta càng xa với hồi ức, cho đến khi tận mắt nhìn thấy từng hàng cây, gốc dầu bị đốn hạ, không ít người mới cảm nhận được sự luyến tiếc đến thẫn thờ rằng: "Thường ngày ta vẫn đi qua, đi lại nhưng chẳng có cảm xúc chi, thế mà bây giờ lại quá buồn khi thấy chúng đi".
Giờ thì mỗi lần đi ngang qua đây, dù vẫn con đường ấy, vẫn những tòa nhà, hàng quán ấy,... nhưng chắc chắn bạn sẽ cảm thấy sự trống trải, trơ trọi vô cùng kỳ lạ vì đã vắng đi những hàng dầu cao tít tắp của năm nào.
Góc nhà hát Thành Phố mát mẻ trở nên trống trải hẳn
Không chỉ vậy, bạn còn có thể được thưởng thức bánh bèo, bánh lọc, bánh ít… với nhân chay. Và một món ăn quen thuộc thường xuất hiện trong những bữa cơm chay của người Huế chính là món chao. Chao là món ăn có vị gần giống như một món mặn, được chế biến từ đậu nành, làm thành đậu khuôn, đậu khuôn ủ lên men thì thành chao. Chao có hương vị rất hấp dẫn và bảo quản được lâu ngày.
Đất Huế thơ mộng, lại mang nét văn hóa ăn chay độc đáo, thật dễ khiến lòng người nhớ mãi không nguôi…
Bánh ướt lâu năm ở ngã tư Bảy Hiền
Đây là một trong những quán thuộc dạng quán lâu đời và rất nổi tiếng khu Tân Bình. Quán chỉ bán duy nhất mỗi món chính là bánh ướt, ăn kèm bánh tôm chiên nóng giòn rất ngon.
Trước hết phải nói là hàng bánh cuốn này giá không rẻ chút nào hết. Một phần bánh cuốn với miếng chả lụa to (nhưng hơi mỏng), nem chua và miếng bánh tôm chiên có giá là 32k. Ăn ở đây muốn “đã miệng” phải gọi thêm chả và bánh tôm cho nên tính ra giá thành sẽ hơi chát với các bạn teen. Tuy nhiên, giá cả có vẻ không thành vấn đề khi nơi này luôn đông khách, cảnh buôn bán ở đây diễn ra tấp nập rộn ràng của góc đường ngã tư Bảy Hiền (đối diện bệnh viện Thống Nhất).
Lý do cho việc bán đắt nhưng vẫn đông có lẽ nằm ở cái bánh tôm. Bánh tôm ở đây khá đặc biệt, không giống những chỗ khác. Bánh tôm được chiên bằng bột mỏng với con tôm tươi ở giữa. Một cái bánh tôm sẽ được cắt làm đôi cho vào phần bánh ướt, cùng chả - nem và rau giá, nước mắm. Bánh tôm được nhiều người thích nên hay được gọi thêm (8 – 10k/ cái), bánh chiên liên tục nên nếu may mắn bạn còn có thể thưởng thức một cái bánh nóng giòn, thơm phức.
Bánh tôm cắt đôi
Nem chua
Nước mắm ngày xưa của quán rất ngon nhưng khoảng vài năm sau này giảm hẳn chất lượng, ăn có cảm giác pha nhiều quá nên mất đi cái đậm đà của vị ngon xưa. Quán bán đem về khá nhanh nhẹn (chắc do phục vụ nhiều năm nên chuyên nghiệp), nước mắm đem về luôn được hâm nóng cho cảm giác ngon hơn khi ăn.
Hành phi thơm và giòn
Bánh ướt dầy, dai - ngon
Nói chung, đây là một nơi có thể ăn thử để thưởng thức bánh tôm chiên ngon và lạ. Còn ăn dài dài thì tùy vào nhu cầu và khả năng tài chính của mọi người vì tính ra giá cả ở đây đắt gấp đôi những hàng bánh ướt bình thường.
Ngã tư Bảy Hiền, bên trái là đường Lý Thường Kiệt, bên phải đường Hoàng Văn Thụ, phía trước đường Trường Chinh
Ảnh: Bảy Hiền
Những thương hồ cuối cùng giữa lòng Sài Gòn
Khi dự án cải tạo kênh Tân Hoá - Lò Gốm sắp hoàn thành cũng là lúc các thương hồ gắn bó lâu năm như anh Thành, ông Khảm lại mất ngủ vì chưa biết phiêu dạt về đâu.
Vài năm trước, trên khúc sông Tàu Hủ - Bến Nghé (TP HCM) có cả một xóm nổi các ghe thương hồ nhộn nhịp, thi vị. Khi đoạn sông này cải tạo, chỉnh trang, một bộ phận nhỏ chuyển về bên cầu Lò Gốm tiếp tục hành nghề thương hồ giữa lòng Sài Gòn. Người thành phố ít ai để ý đến mấy chiếc ghe chuối, ghe chở hàng đậu trên dòng kênh đen, bốc mùi vì ô nhiễm và thân phận thương hồ vô danh vì thế vẫn nhọc nhằn.
Ngoài những ghe chở chuối từ miền Tây lên Sài Gòn bán, số còn lại là ghe vận tải, chở thuê hay các ghe bán hàng lưu động trên sông nước. Các ghe này về Sài Gòn ăn hàng rồi chở đi các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Hàng đến là phải vận chuyển ngay cho kịp, vì thế, bất kể trời nắng hay mưa gió đều phải được bốc vác luôn.
Anh Thành (42 tuổi) chủ ghe ngụ tại Cần Đước (Long An) cho hay, dòng kênh ngày càng bị ô nhiễm nặng luôn bốc mùi hôi nồng nặc, nhiều lần trượt chân làm hàng hoá rơi xuống sông là phải bơi ra để lấy.
Sống ở trên kênh, dù không lặn ngụp dưới đó thì người vẫn ngứa ngáy khó chịu, nổi mẩn đỏ như dị ứng. "Vì cuộc sống mà phải bám trụ ở đây chứ dân thương hồ sông nước khoáng đạt sao chịu nổi cảnh ao tù nước đọng", anh Thành cảm thán.
Gia đình anh Thành lấy hàng từ các nhà buôn rồi chở đi giao khắp các tỉnh miền Tây. 15 năm rong ruổi anh đã có 4 đứa con nhưng việc học hành của chúng đều không trọn vẹn vì phải nay đây mai đó cùng gia đình.
Anh cũng rất lo cho an toàn những đứa con của mình, đi lại từ ghe lên bờ chỉ là miếng ván bắc qua, nhiều khi sơ ý sẩy là té ngay, rất nguy hiểm.
Cũng cùng hoàn cảnh như gia đình anh Thành, gia đình chị Nguyễn Ngọc Chi 34 tuổi ở Cần Đước, Long An có gần 10 năm xuôi ngược Sài Gòn và các tỉnh miền Tây. Chị có 2 con, con gái lớn nay cũng phải phụ chị lo sổ sách bán buôn và lo cho em chứ cũng không thể ăn học tới nơi tới chốn.
Khi đêm xuống lại là một cuộc sống hoàn toàn khác biệt, không còn bon chen. Các ghe neo đậu gần nhau, cùng sinh hoạt chung, ăn uống và trò chuyện và chia sẻ kinh nghiệm làm ăn.
Ông Phan Văn Khản năm nay đã 43 tuổi có hơn 10 năm gắn bó với bến sông này. Cứ tối đến ông lại cùng các ghe bạn hàng uống rượu để quên đi lo toan của một ngày mệt nhọc và tìm niềm vui cho ngày mới.
Em Phan Minh Trường (15 tuổi, con trai ông Khản) phải bỏ học từ năm lớp 6. Vì theo ghe lâu ngày, không bạn bè nên em cũng trầm tính, hiền lành. Em cho biết sau này là sẽ nối nghiệp cha trở thành một thương hồ nay đây mai đó.
Những ngày này, khi con kênh đang được hoàn thiện ở giai đoạn nước rút, dù ban ngày lao động cực nhọc, vất vả nhưng anh Thành vẫn không thể ngon giấc. Anh lo lắng cho cuộc sống ngày mai của cả gia đình cũng như tương lai của những đứa con.
Nhiều đêm ngồi trên nóc ghe ngắm mảnh trăng treo trên đầu, nghĩ về thân phận, anh Thành và các bạn thương hồ không khỏi chạnh lòng.
Chỉ vài ngày nữa, những chiếc ghe thương hồ như của chị Trâm lại nhổ neo, dắt díu nhau đi tìm bến mới để mưu sinh. Người dân thành phố rồi sẽ chẳng còn ai nhắc nhớ đến nhúm ghe tàu đậu trên kênh Lò Gốm đen đúa. Anh Thành và đàn con chưa biết sẽ neo lại ở đâu. Còn ông Khản nghe nói muốn về lại quê từ giã nghề buôn sông bán hồ. Những thương hồ cuối cùng giữa lòng Sài Gòn chẳng biết phiêu bạt về đâu.
Dự án cải tạo kênh Tân Hóa – Lò Gốm được khởi công từ cuối năm 2011 với tổng nguồn vốn gần 2.000 tỷ đồng. Dự án đi qua địa bàn các quận 6, 11, Tân Phú từ đoạn tiếp giáp đường Âu Cơ (quận Tân Phú) đến đại lộ Võ Văn Kiệt (quận 6).
Theo thiết kế, đoạn kênh từ đường Âu Cơ (quậnTân Phú) đến cầu Hòa Bình (quận11) dài 3 km sẽ được lắp đặt cống hộp, bên trên làm đường rộng từ 7 m đến 13 m.
Hiện, về cơ bản tuyến đường này đã hoàn thành. Đoạn kênh 7,4 km từ cầu Hòa Bình đến cầu Lò Gốm sẽ là kênh hở với bờ kè bêtông, hai bên là đường rộng 7 m. Đến nay các nhà thầu đang tiến hành gấp rút thi công những đoạn bờ kè còn lại, sau đó tiến hành nạo vét toàn bộ tuyến kênh để đảm bảo thoát nước.
Dự kiến đến đầu tháng 9/2014 toàn bộ dự án Tân Hoá - Lò Gốm sẽ hoàn thành.
5 địa điểm nổi tiếng của Sài Gòn sẽ chỉ còn trong ký ức.
Chẳng bao lâu nữa, những địa điểm nổi tiếng này của Sài Gòn sẽ mãi biến mất, hoặc sẽ được di dời để nhường chỗ cho những công trình mới hơn, hiện đại hơn. Và có lẽ, người ta sẽ chỉ còn được nhớ về nó bằng những hình ảnh đẹp, kí ức đẹp...
Thông tin về việc đóng cửa Thương Xá Tax, một công trình kiến trúc được xây dựng từ những năm 1880 khiến bất cứ ai có ký ức gắn với nơi đây bỗng cảm thấy có chút hụt hẫng và tiếc nuối. Đối với nhiều người, Thương Xá Tax không đơn thuần là một nơi để mua sắm, mà còn là nơi họ đặt chân tới để tìm những hoài niệm của Sài Gòn năm xưa, hay đơn giản là lục lại ký ức, những khi mua cuốn vở, cây bút, món quà sinh nhật nho nhỏ... cũng đạp xe tới đây, háo hức chọn đồ. Công trình hơn 130 tuổi sắp không còn, khiến nhiều người dân thành phố lại một lần nữa hoài niệm về những biểu tượng gắn liền với Sài Gòn đã/sắp mất đi, để nhường chỗ cho những công trình mới hơn, hiện đại hơn phục vụ cuộc sống của người dân thành phố.
Đó là những hàng cây cổ thụ xanh mướt nằm cạnh công viên Lam Sơn của ngày nào, hay bùng binh Cây Liễu một thời luôn là điểm nhấn vô cùng quen thuộc mỗi khi bạn muốn ghé ngang Thương Xá Tax. Rồi vòng xoay với tượng đài vị tướng Trần Nguyên Hãn hùng dũng, nằm ngay giữa giao lộ 7 ngõ quan trọng của trung tâm thành phố. Tất cả những nơi này đều là nhân chứng lịch sử, chứng kiến Hòn ngọc Viễn Đông trải qua biết bao thăng trầm.
Chẳng bao lâu nữa, những biểu tượng không thể nào quên này của Sài Gòn sẽ mãi biến mất, hoặc sẽ được di dời để nhường chỗ cho những cái mới hơn, đó là công trình ga tàu điện ngầm đầu tiên của tuyến Metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên và tòa nhà 40 tầng ngay tại vị trí hiện tại của Thương Xá Tax. Dù biết "đôi khi phải chấp nhận mất đi những cái cũ, để có thể đón những cái mới", nhưng có lẽ vì những nơi này đã quá quen thuộc, chứa đựng rất nhiều kỷ niệm và tình cảm của người Sài Gòn nhiều thế hệ, nên đến nay, phần lớn họ còn mang trong mình sự tiếc nuối và lưu luyến về một Sài Gòn của năm nào, với hàng cây ấy, con đường ấy, vòng xoay ấy,...
Hàng cây cổ thụ "trứ danh" trên đường Lê Lợi
Nếu Sài Gòn khi xưa nổi tiếng với những hàng gòn xanh mát, thì Sài Gòn của sau này cũng nổi tiếng với những hàng dầu kiên cố, chắc khỏe. Đặc biệt những hàng dầu ở khu trung tâm thành phố, như Công Trường Lam Sơn đổ dài về đường Lê Lợi đã nằm ở đó từ rất lâu. Có những cây đến nay đã gần trăm năm tuổi, nên sẽ chẳng quá nếu nói hai hàng dầu này là những bậc lão tiền bối, "người" đã may mắn chứng kiến Sài Gòn thay đổi qua nắng mưa.
Hàng cây xanh mướt từng phủ xanh một góc Sài Gòn hoa lệ của ngày nào
Giờ chỉ là những "kỷ niệm đã qua"
Thời gian vô tình, cuộc sống tấp nập cứ thế kéo người ta càng xa với hồi ức, cho đến khi tận mắt nhìn thấy từng hàng cây, gốc dầu bị đốn hạ, không ít người mới cảm nhận được sự luyến tiếc đến thẫn thờ rằng: "Thường ngày ta vẫn đi qua, đi lại nhưng chẳng có cảm xúc chi, thế mà bây giờ lại quá buồn khi thấy chúng đi".
Giờ thì mỗi lần đi ngang qua đây, dù vẫn con đường ấy, vẫn những tòa nhà, hàng quán ấy,... nhưng chắc chắn bạn sẽ cảm thấy sự trống trải, trơ trọi vô cùng kỳ lạ vì đã vắng đi những hàng dầu cao tít tắp của năm nào.
Góc nhà hát Thành Phố mát mẻ trở nên trống trải hẳn
Công viên Lam Sơn
Nằm ngay cạnh những hàng dầu là một đoạn của công viên Lam Sơn, đây được xem là nơi cực kỳ lý tưởng để nhiều bạn trẻ, các cặp đôi và những gia đình cùng nhau tụ họp ngắm cảnh, vui chơi vào mỗi tối cuối tuần.
Nói là công viên, nhưng thực chất, nơi này giống với một khu vườn nhỏ, giúp điểm xuyến thêm chút xanh, tạo cảm giác nhẹ nhàng, gần gũi với thiên nhiên hơn cho toàn khu cao ốc thô ráp đã chắn hết 4 bề xung quanh. Vì thế cũng dễ dàng hiểu tại sao mỗi khi có dịp ra đến nhà hát Thành Phố hoặc khu trung tâm, mọi người lại có cảm giác muốn được ngồi ở trong công viên này để tìm chút không gian thư giãn. Thỉnh thoảng, nơi này còn là điểm lưu đọng các khoảnh khắc đẹp, giới thiệu những cột mốc lịch sử hay khung cảnh Việt Nam đến với khách du lịch nước ngoài, qua các buổi triển lãm tranh công cộng. Nên dù xét về mặt nào thì công viên Lam Sơn cũng là nơi tạo được nhiều kỷ niệm đẹp và có lợi ích rất cao đối với người Sài Gòn lẫn du khách quốc tế.
Công viên Lam Sơn của vài tháng trước vẫn còn nhộn nhịp và "hoành tráng" như thế này
Nhưng nay nó lại hoàn toàn khác hẳn
Tuy nhiên "số phận" của khu công viên này cũng giống như những hàng dầu kia, chấp nhận biến mất để nhường chỗ cho những ga tàu mới của thành phố. Không còn công viên để các đôi bạn trẻ đến tâm tình, không còn chỗ cho các em bé, gia đình vui đùa với nhau,... khiến nhiều người cảm thấy tiếc đến ngẩn ngơ.
Hàng cây năm nào, dãy ghế đá với những ly trà sữa mỗi tối chắc sẽ lâu lắm mới được quay trở lại
Mỗi khi đi ngang qua đây, tất cả đều hy vọng con đường này sẽ nhanh hoàn thiện để mọi người lại có nơi thư giãn, vui chơi.
Bùng binh Cây Liễu
Được xem là giao lộ đẹp và sôi động nhất của Sài Gòn, bùng binh Cây Liễu hay còn được gọi là bùng binh Nguyễn Huệ (cắt Nguyễn Huệ và Lê Lợi), là một trong những biểu tượng tồn tại suốt trăm năm qua của Sài Gòn. Một vòng xoay mà lúc nào cũng được phủ kín với những hàng liễu nhẹ nhàng, thanh thoát, nó đẹp và quen đến mức được gọi thành tên thì chắc không nơi nào có được.
Bùng binh Cây Liễu của trước đây
Nếu bạn nào có dịp lục lại những ảnh cũ về Sài Gòn, hẳn sẽ thấy, từ thời xưa, bùng binh Cây Liễu này đã được xem là một trong những nơi đẹp và nhộn nhịp bậc nhất của Sài Gòn với hình ảnh xe cộ qua lại tấp nập, một địa điểm tập trung của toàn những người trong giới thượng lưu. Đến nay, dù thời gian có thay đổi, nhưng về cơ bản thì bùng binh Cây Liễu năm nào vẫn giữ nguyên cái "chất", cái "vị" như thế.
Không những thế, ngay tại góc bùng binh này còn là nơi tổ chức đường hoa Nguyễn Huệ, một nét đẹp văn hóa tồn tại được đúng 10 năm mà người Sài Gòn vô cùng yêu quý và nhất định phải đến một lần vào dịp Tết. Khung cảnh tấp nập, tiếng người rộn ràng đi chơi Xuân, những tác phẩm được làm từ hoa vô cùng đặc sắc gắn liền với hình ảnh con đường, bùng binh Nguyễn Huệ này chắc chắn sẽ không thể nào khiến người Sài Gòn quên được.
Những ngày lễ Tết, bùng binh Cây Liễu lung linh hơn, nổi bật một góc Sài Gòn.
Lưu lại khoảnh khắc để nhớ thêm chút kỷ niệm xưa, cái ngày còn bùng binh Cây Liễu một thời.
Không còn hàng liễu và đại lộ rộng, hẳn cái Tết năm nay của người Sài Gòn sẽ trở nên khác biệt hơn rất nhiều.
Thương Xá Tax
Được xây dựng từ năm 1880, trải qua nhiều cái tên từ Les Grands Magazins Charner (GMC) rồi đến Thương Xá Tax, trong suốt hơn 130 năm qua, tòa nhà mang phong cách Pháp xen lẫn nhiều nét đặc trưng của Á Đông này cũng là một địa điểm không thể nào quên của người Sài Gòn.
Trước đây, tòa nhà này nổi tiếng là điểm ăn chơi, tiêu tiền vào những món đồ đắt giá của các "ông lớn", giới thượng lưu và đại điền khắp Nam kỳ Lục tỉnh, toàn bán các mặt hàng ngoại được nhập trực tiếp từ châu Âu. Ngày nay cũng thế, Thương Xá Tax vẫn là một trong những trung tâm thương mại buôn bán sầm uất với đủ các mặt hàng Tây, Ta đa dạng để đáp ứng được các yêu cầu của người dùng. Ngoài ra, vào những dịp Giáng sinh hoặc Tết Âm lịch, Dương lịch, Thương Xá Tax còn là điểm đến để người Sài Gòn vui chơi, chụp ảnh sau khi nó được trang trí và lên đèn.
Thương Xá Tax sầm uất và vô cùng nổi bật khi về đêm.
Bùng binh Cây Liễu nhìn qua Thương Xá Tax
Khu thương xá nổi tiếng một thời rồi cũng đã "quá già", nhường chỗ cho những cái mới hơn.
Tất cả cửa hàng đều đã trở nên vắng vẻ.
Vị trí đắc địa của Thương Xá Tax nằm ngay hai con đường lớn của Sài Gòn là Lê Lợi và Nguyễn Huệ.
Những bằng khen, chứng nhận mà một thương xá phải tồn tại suốt hơn 130 năm mới có được.
Vòng xoay tượng đài Trần Nguyên Hãn
Chắc hẳn cái tên vòng xoay tượng đài Trần Nguyên Hãn rất ít bạn nào biết, hoặc đã nghe qua nhưng lại quen gọi nó với một cái tên khác là vòng xoay chợ Bến Thành. Như thế cũng đủ để hiểu, hình ảnh vòng xoay và chợ Bến Thành có sự liên kết, thân thuộc đến nhường nào trong mắt người Sài Gòn.
Hầu hết trong những tấm hình chụp tại điểm này thì vòng xoay và chợ Bến Thành luôn xuất hiện cùng nhau, rất ít khi tách rời. Bởi cả hai đều là biểu tượng cho sự tồn tại, phát triển mà vẫn giữ được những nét rất riêng của Sài Gòn khi xưa.
Vòng xoay và chợ Bến Thành là hai hình ảnh luôn đi cùng nhau.
Và sắp tới tượng đài này sẽ được di dời về công viên Phú Lâm, quận 6, đểđảm bảo mặt bằng thi công cho dự án tuyến đường sắt đô thị số 1 Bến Thành – Suối Tiên.
Tượng đài Trần Nguyên Hãn được xây dựng từ trước năm 1975 ở trung tâm thành phố đã trở thành hình ảnh quen thuộc của người dân Sài Gòn.
Đối với người Sài Gòn mà nói, đây là lần đầu tiên họ được tận mắt chứng kiến sự thay đổi vô cùng lớn về diện mạo của thành phố đã quá quen thuộc. Nên dù ít dù nhiều, ai ai cũng có cho mình một cảm xúc riêng, một sự luyến tiếc khi không nỡ mất đi những cái cũ. Tuy nhiên, đây cũng là một cơ hội rất tuyệt vời để bạn có thể ôn lại những kỷ niệm đẹp mà bản thân đã gắn liền với những nơi này.
Công trình xây dựng nhà ga trung tâm Bến Thành (Q.1) nằm ở vị trí phía trước chợ Bến Thành (khu vực vòng xoay Quách Thị Trang) và nối dài đến công viên 23-9, được xây dựng ở độ sâu khoảng 40m dưới lòng đất.Nhà ga metro Bến Thành được xây dựng và lắp đặt các thiết bị có công nghệ hiện đại như các nước tiên tiến phục vụ hành khách đi lại. Đồng thời cùng với việc phục vụ hành khách đi metro, nhà ga còn tận dụng không gian ngầm làm trung tâm thương mại nhằm mang tới các dịch vụ tiện nghi cho hành khách đi mua sắm. Nhà ga nằm ở khu vực trung tâm TP nên các cửa lên, xuống nhà ga sẽ kết nối với các khu thương mại dịch vụ ở các khu vực xung quanh như chợ Bến Thành, khách sạn và các trung tâm mua sắm trên các tuyến đường lân cận.Nhà ga sẽ có bốn tuyến metro hoạt động bảo đảm phục vụ hành khách đi lại trên các tuyến đường từ khu trung tâm đến các cửa ngõ TP, dự kiến cuối năm nay sẽ làm công tác sơ tuyển nhà thầu, trong năm 2015 triển khai thi công và dự kiến hoàn thành công trình vào cuối năm 2018 hoặc đầu năm 2019.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 327
(Tạp Chí Khởi Hành và Chân dung nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ )
Nguyễn Tà Cúc
(Khởi Hành số 207-208, March-April 2014)
Lời Người Phỏng Vấn:
Trong mấy nhà văn nữ của Miền Nam trước 1975, người viết muốn đặc biệt phỏng vấn nhà văn Thụy Vũ. Bà tên thật là Nguyễn Băng Lĩnh, sinh năm 1937, quê ở Vĩnh Long. Bà dạy tiểu học 5 năm trước khi lên Sài Gòn vào năm 1961.
Lên Sài gòn, bà vừa đi học Anh văn vừa đi dạy Anh văn cho các cô bán”snack bar” hay các cô điếm cho lính Mỹ. Bà đoạt giải nhì Bộ Môn Văn – Giải Văn học Nghệ Thuật Toàn quốc năm 1970 (Người đoạt giải nhất là nhà văn Túy Hồng). Song song với việc sáng tác, bà còn lập nhà xuất bản Hồng Đức và Kẻ Sĩ với nhà thơ Tô Thùy Yên.
Sau 1975, tác phẩm của bà bị cấm toàn diện. Bà đem các con về Lộc Ninh làm rẫy, có lúc làm lơ xe đò để lo cho gia đình. Người viết muốn phỏng vấn bà về hai vấn đề chính: thứ nhất, trường hợp một nhà văn nữ không sợ tai tiếng và thành kiến xã hội, đã giao du với đám phụ nữ cùng khốn nhất của xã hội và thứ hai, thái độ can đảm của bà sau 1975 trước sự đe nẹt công khai của các tay quản giáo văn nghệ. Qua sự dàn xếp của nhà văn Văn Quang người phỏng vấn đã có một cơ hội để tìm biết câu trả lời cho hai thắc mắc ấy.
* Qua Trận Gió Kinh Thiên là nhan đề một tác phẩm của Thụy Vũ.
Nguyễn Tà Cúc: Nếu Tà Cúc nhớ không nhầm thì chị Thụy Vũ có lần nói đâu đó là chị dậy các cô bán bar học tiếng Anh và qua đó, họ xuất hiện trong tác phẩm của chị. Như vậy, họ đến học với chị Thụy Vũ qua cách nào? Như đến nhà chị hay sao?
Nhà Văn Thụy Vũ: Tôi đang dạy ở Vĩnh Long được 5 năm (bậc tiểu học). Sau đó tôi lên Sài Gòn đi học Hội Việt Mỹ được hơn 1 năm. Tiếng Anh của tôi chưa đầy một lá mít, nhưng tại sao tôi dám nhận dạy kèm cho mấy cô lấy Mỹ? Lúc đó tôi có một anh bạn học cùng lớp (lớp 2)Hội Việt Mỹ. Anh ấy ngồi cạnh tôi. Anh ta làm bài tập không giỏi nên tôi thường giúp anh ấy làm bài. Tôi hơi ngạc nhiên là anh ta nói tiếng Mỹ dòn tan như bắp rang mà không lý tới văn phạm.
Một hôm vào giờ ra chơi, anh ta đề nghị tôi dạy thêm tiếng Anh cho mấy cô bán bar quen biết với anh ấy để có thêm chút tiền trả tiền học. Các cô gái đó đang thuê phòng của nhà anh ta để ngủ với mấy tên lính Mỹ.
Tôi từ chối thẳng thừng và nói ông đừng chọc quê tôi. Tôi với ông mới học 2 khóa mà dạy ai đây? “Bạn cứ yên tâm nhận lời đi, tôi sẽ có cách…” Khi hẹn tới nhà anh ta vào ngày chủ nhật tôi mới biết anh ta là “ma cô.”
Anh ta dắt tôi đi từng phòng và giới thiệu tôi sẽ là cô giáo dạy kèm cho họ. Tôi càm ràm anh trước khi ra về và hẹn hôm sau quay lại thử thời vận. “Bạn biểu tôi dạy gì cho họ đây?” - “Tôi đã dặn họ rồi cô giáo dạy gì thì học nấy. Chớ có hỏi lôi thôi nghẹn.” Tôi không ngờ họ chưa hề biết đọc tiếng Việt thì làm sao đây?
Công – bạn tôi nhanh nhẩu nói: “Bạn dạy i – tờ cho họ trước cái đã, rồi sau đó mỗi ngày bạn chỉ cần cho họ biết viết tiếng Anh một vài chữ trong một lần học là được rồi.”
Tôi không ngờ là cách kéo dài thời gian của Công để tôi còn tiếp tục đi học với hắn. Họ nói tiếng “bồi” lưu loát không thể chê. Tôi cảm thấy ngài ngại thế nào vì tôi không thể nói như họ được.
Họ thuê tôi dạy không phải học mà để có người tâm sự thì đúng hơn. Hình như mỗi cô đều có hoàn cảnh na ná giống nhau. Họ lên Sài Gòn làm để giúp gia đình khó khăn ở quê nhà. Tiếp xúc với họ lâu ngày tôi cảm thấy thân thiện như những người bạn. Tôi vừa đi dạy vừa viết truyện ngắn về cuộc đời của họ. Họ bắt đầu xuất hiện trong những tác phẩm của tôi.
Nguyễn Tà Cúc: Chị viết rất thật, hết sức thật. Một ưu điểm của văn chương Thụy Vũ là người đọc có thể cảm nhận ngay rằng tác giả đã dựa sự sáng tạo trên những hoàn cảnh thật, nhân vật thật và sử dụng những kinh nghiệm của nhân vật thật ấy để bày họ ra trên những trang giấy, dĩ nhiên là của sự tưởng tượng; nhưng những hình dáng đó, những tâm cảnh đó không là sản phẩm của một sự tưởng tượng quá nghèo nàn đến nỗi tố cáo sự bịa đặt của tác giả. Viết truyện về gái điếm tưởng là dễ nhưng mà rất khó! Tà Cúc từng đọc một cuốn truyện tả tình cảnh của vài cô bán bar rồi làm điếm cho lính Mỹ –cùng đề tài nhân vật với chị– nhưng chỉ cần đọc những câu đối thoại là người ta biết ngay tác giả của nó chưa bao giờ có cơ hội nói chuyện với các cô làm điểm nên mới “sáng tác” ra những câu đối thoại hay cách suy nghĩ của cái kiểu “Nếu một tiểu thư đi làm gái điếm.” Và dĩ nhiên cái kiểu giả tạo đó không tốt đẹp gì cho cả cô tiểu thư lẫn cô làm gái điếm.
Thụy Vũ: Tác phẩm cửa tôi có thể nói là đến 70 phần trăm dựa trên sự thực. Nó thực đến nỗi một hôm, hồi tôi ở sau đình Phú Thạnh, sau khi cuốn Lao Vào Lửa xuất bản thì có một anh lính mặc đồ rằn ri coi ghê lắm nghe giới thiệu mới chạy tới ôm tôi và hỏi “Phải cô là gái điếm không?”
Tôi đẩy anh ta ra và la lên: “Tôi chỉ viết truyện chớ tôi làm gái điếm hồi nào?!
Anh ta mới nói tôi viết y như thiệt vậy. Nói thiệt chớ hồi đó họ cũng không biết tôi viết về họ đâu nghe. Nếu họ biết chắc họ rầy chết. Có khi tôi vừa ra bài cho họ thì trong khi họ làm bài, tôi ngồi viết về họ. Nhiều lần họ nói với tôi sẽ làm mai cho tôi một anh chàng Mỹ đàng hoàng chớ không phải đám GI như mấy cổ nhưng tôi từ chối. Tôi có thể nói là tôi đã đi tới hầu hết mấy ổ điểm sang nhứt ở Sài gòn. Nơi nào có học trò là nơi đó tôi tới.
Nguyễn Tà Cúc: Cảm tưởng nào mạnh mẽ nhất mà chị Thụy Vũ còn giữ được sau mấy chục năm dạy họ? Chị có nghĩ về số phận đàn bà nói chung khi dạy họ không?
Thụy Vũ: Mấy chục năm đã qua, chị hỏi về cảm tưởng mạnh mẽ nhất, có lẽ tôi không thể nhớ nổi rõ ràng. Nhưng dường như những hình ảnh của những cô gái bán bar đó còn vương vấn trong tôi. Nỗi đau âm thầm của họ giấu kín sau những son phấn lòe loẹt và những tiếng cười, những câu chuyện hoang toàng, tôi tưởng như chính những thứ đó đang phá nát tâm hồn họ, đang như cái xe đang lao dốc. Tôi thầm thương họ, thông cảm với họ và cũng chẳng biết làm sao hơn.
Mỗi người một hoàn cảnh, cái điểm chung chính là nỗi nghèo khổ đã dồn họ vào con đường cùng. Cũng như bây giờ, rất nhiều cô gái quê ở Việt Nam, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhiều cô gái được gia đình đưa lên Thành phố Sài Gòn để “tuyển vợ” cho mấy chú Đài Loan, Đại Hàn hoặc đi Singapore làm đủ nghề kiếm sống.
Tàn nhẫn hơn, ở những vùng sát biên giới Trung Quốc, chẳng thiếu gì chuyện những cô gái quê nghèo đó tự nguyện hoặc bị lừa bán sang Trung Quốc lưu lạc vào những ổ điếm, lấy những ông chồng già bệnh hoạn, làm việc như nô lệ… Phải chăng đó là thân phận hay số phận của phụ nữ nghèo Việt Nam? Tôi tự hỏi như thế và biết đến bao giờ xã hội mới có được một đời sống công bằng cho phụ nữ VN nói chung?
Nguyễn Tà Cúc: Cũng lạ là hồi đó những năm 60 mà chị dám sống như vậy, dám đi cùng khắp khách sạn như vậy. Chị ở với ai, không sợ ba má la sao? Tà Cúc nhớ là ngay chính gia đình Tà Cúc đây, tối tối là đóng sập cửa lại, báo hại cứ trốn nhà đi chơi. Mà tóc thì không được uốn, không được son phấn nhiều…
Thụy Vũ: Có chớ. Bà má tôi cứ sợ tôi hư nhưng tôi nói tôi viết về gái điếm chớ có làm điếm đâu. Hồi tôi mới lên Sài gòn thì tôi ở chung với Hồ Trường An, em tôi. Nó thua tôi một tuổi, bằng tuổi Viên Linh đó. Tôi viết mấy truyện bị ông già la quá vì lấy cảm hứng từ nhân vật trong gia đình ra mà viết đó chớ.
Nguyễn Tà Cúc: Nói về chuyện người thật, việc thật, Tà Cúc nhớ lại là hồi đọc truyện ngắn “Lòng Trần” (tức là truyện “Muỗng nước mắm”) của chị, Tà Cúc thích quá và tự nhủ là nếu mai sau dù có bao giờ mà gặp tác giả thì sẽ hỏi coi là tại sao mà bà ấy biết được cái thèm “nước mắm” của một người ăn chay. Nhân vật chính trong truyện bà cô Năm Thàng. Anh Hồ Trường An tóm tắt cốt truyện như sau:
“Năm Thàng là cô đào hát bội, thanh sắc lẫy lừng được một ông phú hộ say mê. Ông tình nguyện gia nhập gánh hát để được theo bước lưu diễn của cô. Ông săn sóc cô và soạn tuồng để cô diễn. Cảm động tấm chung tình của ông, cô bỏ nghề hát để làm vợ ông. Rồi đó, ông chồng chết vì tai nạn sét đánh, đứa con của cả hai cũng chết sau đó ít lâu. Cô Năm Thàng cắt tóc đi tu, lấy pháp danh là Diệu Tâm, sống khổ hạnh, giữ trai giới rất nghiêm nhặt cho tới tuổi già bóng xế. Ngờ đâu, trong phút hấp hối, sư nữ Diệu Tâm đòi húp một muổng nước mắm.
Nhưng họ hàng thân tộc của bà cho rằng bà sắp thành chánh quả mà còn bị quỉ ma theo quấy phá để bà bị tội phạm giới. Cho nên họ nhất định không chiều theo ý của bà. Bà chết trong cơn hành hạ của thể xác, trong cơn thèm thuồng không được thỏa mãn. Càng chua xót hơn, trong phút lâm chung, bà quên mình là kẻ tu hành mà chỉ nhớ mình là cô đào hát bội Năm Thàng…”
Tà Cúc muốn hỏi chị là chị có ăn chay hay không mà sao tả cái thèm nước mắm này hay quá. Vì thiệt tình, có khi người ta thèm nước mắm thôi chứ không thèm thịt cá gì hết.
Thụy Vũ: À, chuyện này bắt nguồn từ cuộc đời cô ruột của tôi do ba tôi kể lại. Dĩ nhiên là 30 phần trăm còn lại thì là hư cấu. Phần tôi, hồi đó tôi không có ăn chay. Mới ăn chay có bốn năm nay thôi, Tà Cúc à.
Nguyễn Tà Cúc: Nói về cuộc đời, về cuộc đời thiệt và cuộc đời trên sân khấu hát bội, Tà Cúc lại nhớ chuyện sau 1975.
Anh Hồ Trường An có thuật lại như sau:
- “Gần ngày mãn khóa, Nguyễn Thụy Long, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nhật Tiến bị hai nhà văn Cộng sản là Bùi Đức Ái (Anh Đức), Nguyễn Sáng và các ông cán bộ cục R là Sáu Lăng, Hai Khuynh, Phan Đắc Lập cùng các nhà văn nằm vùng như Vũ Hạnh, Thế Nguyên mời lên văn phòng…
Cả ba Long, Vũ, Tiến bị chỉ định làm bài tự phê tự kiểm… Thụy Vũ bước lên “giàn hỏa” trước hết. Nhưng để trả lời câu hạch tội của Bùi Đức Ái trong văn phòng, chị tôi nói:
- “Anh Bùi Đức Ái đã hỏi tôi động lực nào đẩy tôi viết văn đồi trụy, dù tôi viết về gái điếm có khuynh hướng tốt. Tôi xin thưa, không ai bắt buộc tôi cả.” [...] Thụy Vũ điềm nhiên, sắc mặt nguội như tảng bánh đúc: “Thưa toàn toàn không. Tôi tự do sáng tác. Sở dĩ tôi viết khiêu dâm táo bạo là vì mãi tới 28 tuổi, tôi muộn chồng, xấu xí và không được anh chàng nào ngó ngàng tới và tôi bị ẩn ức sinh lý”[...]
“… Trong buổi học sau, tôi dọn chỗ để ngồi gần hai ông anh tiểu thuyết gia hiền lành của tôi là Trọng Nguyên và Thanh Thủy. Họ cùng ngồi một dãy với chị Vinh, anh Nhật Tiến và chị Đỗ Phương Khanh. Họ xếp tôi ngồi gần chị Đỗ. Tôi cứ ngủ gục hoài làm anh Trọng Nguyên cứ gọi từng chập” “- Mày cứ ngủ hoài, họ để ý mày đó.”
Vào cái hôm một nhà văn nữ làm màn tự phê tự kiểm, thấy đương sự vật vã van xin cộng sản cho mình cầm bút trở lại, chị Đỗ Phương Khanh(1) đứng dậy dõng dặc: “- Cô muốn xin viết lại thì nên xin cho riêng cô, đừng xin cho chúng tôi làm gì.”
Cũng trong buổi hôm đó, có tên cán bộ cộng sản tên Mai Quốc Liên(2), dù là kẻ dự thính, nhưng hắn đã khinh miệt bảo phe cầm bút loại trên: “- Xin các anh chị đừng tiếc rẻ cái văn nghệ miền Nam nữa. Đó là thứ văn nghệ chợ trời, hiện đem bán sold chẳng ai mua.”
Các hình này lấy từ đài NHK/World.
Một sự mĩa mai nực cười to lớn (big irony): trong nước, Việt Cộng chiếm đất của dân oan, giao
quyền sử dụng cho công ty nước ngoài xây cơ sở. Trong hợp đồng nhà nước giữ 51% cồ phần và công ty nước ngoài có 49% cổ phần; như thế nhà nước có lợi, nên tha hồ mà đánh dân oan. Nhưng sự chuyển nhượng quyền sử dụng đảo Gac Ma, Trung Cộng bắt Việt Cộng phải ký hợp đồng mà Việt Cộng không có cổ phần và cũng không có lợi nhuận. Sư sợ hãi và bối rối lộ rõ trên mặt Lê Hồng Anh khi ngồi với Tập Cẩm Bình.
Đã có quyền đồng sử dụng quần đảo Trường Sa, Trung Cộng đã uy hiếp máy bay thám thính của Mỹ và sẽ xác định không phận cấm bay trên quần đảo Trường Sa. Cửa vào Biển Nam Đông (the South East Sea) đã có nút chặn tại Gạc Ma và cửa ra đã có tiền đồn Trung Cộng tại quần đão Hoàng Sa.
Nền kinh tế Việt Nam sa sút thê thảm: không có nguyên liệu của Trung Quốc, tất cả công ty ngưng sản xuất. Các nguyên liệu nhập từ Nhật, Nam Hàn hay Ấn Độ giá cao, giá thành phẩm tăng, nên khó xuất cảng. Dịch vụ du lịch đóng cửa vì không có khách... Nợ xấu của CSVN lên tới cả trăm tỷ... Hà Nội đang mong chờ dự án xây dựng tàu điện ngầm tại Saigon để có tiền chi trả và vay nợ để ăn...
Tuy nhiên cái ôm thắm thiết giữa Bodi và Abe (Thủ tướng Ấn độ và Nhật) gây lo sợ cho Hà nội. Ấn độ béo bở hơn Việt nam vì cùng một chế độ dân chủ, dễ tin nhau hơn và đông dân hơn.
Các nhà bình luận Việt Nam không nhận thấy sự mĩa mai nực cười nói trên, đã có những nhận định không chính xác vì không dựa vào sự kiện cụ thể.
Ý đồ của Trung Cộng đã rõ nét: Biển Việt Nam sẽ là "the South China Sea" có nút chặn ở cửa vào và cửa ra. Bộ Chinh Trị và Trung ương đảng Việt Cộng sẽ bị gạt ra, Lê Hồng Anh và các bí thư tỉnh phải thi hành lệnh của Bắc Kinh...
Nhà trí thức yêu nước Huỳnh Kim Báu nhìn thấy sự mĩa mai đó, đau khổ mà chập nhận sai lầm của đời ông và của các nhà Cách mạng Mùa Thu.
Quí vị phải làm một điều gì để rửa sach bàn tay nhúng chàm của quí vị. Mong lắm thay!
Tuy nhiên vị trí chính xác của giàn khoan này không được tiết lộ, và cũng không rõ giàn khoan này có đặt gần vùng biển tranh chấp hay không.
Trung Quốc và Nhật Bản vẫn tranh cãi về vùng đặc quyền kinh tế của mình trên biển. Trung Quốc cho biết họ phát hiện một mỏ khí đốt thiên nhiên dưới đáy biển trong vùng đặc quyền kinh tế của mình vào năm 1995.
Nhật Bản cũng đã cho biết họ có thể khai thác mỏ khí này trải dài vào bên trong khu vực tranh chấp.
Hai bên nhất trí cùng hợp tác khai thác mỏ này vào năm 2008 nhưng đã có không có tiến bộ nào kể từ đó.
Một thông cáo của đơn vị lắp ráp giàn khoan cho biết giàn khoan khởi sự suôn sẻ bất chấp có những khó khăn vì bão.
Thông cáo cũng cho biết giàn khoan sẽ khoan đến độ sâu 5.200 mét.
Nguồn: South China Morning Post/China.org.cn
http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-dua-gian-khoan-moi-den-bien-dong-trung-hoa/2437748.html
Quan hệ Việt Trung sau sứ mạng Lê Hồng Anh bắt đầu được chi phối từ “nguyên tắc ba điểm” mà hai bên đạt được ngày 27/8/2014 ở Bắc Kinh. Có vẻ cuộc khủng hoảng giàn khoan Hải Dương 981 đã chìm vào dĩ vãng, để hai Đảng Cộng sản khôi phục và tăng cường quan hệ và tất nhiên là sự hợp tác toàn diện giữa hai nhà nước.
Trả lời câu hỏi này, TS Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS một tổ chức tư nhân tự giải thể, từ Hà Nội phát biểu:
"Có lẽ là như vậy bởi vì ba điểm này quay trở lại thỏa thuận tháng 10/2011 giữa ông Hồ Cẩm Đào và ông Nguyễn Phú Trọng thì thực sự nó quay trở lại như cũ. Và cái như cũ đó đã thực sự thất bại không giải quyết được điều gì khi mà Trung Quốc tiếp tục gây hấn trong thời gian vừa qua đặc biệt hồi tháng 5/2014. Tôi nghĩ nó không giải quyết được một cái gì cơ bản.”
Thông Tấn xã Việt Nam và báo chí do nhà nước quản lý đã đưa tin về nội dung nguyên tắc ba điểm, cho thấy hai Đảng và hai Nhà nước phải làm hết sức để tăng cường hợp tác giữa hai bên trên mọi lĩnh vực như chính trị ngoại giao, quốc phòng, an ninh, kinh tế. thương mại, thực thi pháp luật, nhân văn và nhiều lĩnh vực khác. Hai bên tuân thủ các nhận thức chung quan trọng của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc,” sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, đồng thời tích cực nghiên cứu và bàn bạc các giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, kể cả vấn đề hợp tác cùng phát triển; kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp; duy trì đại cục quan hệ Việt Trung và hòa bình ổn định trên Biển Đông.
“Tôi rất ngại là nó đúng như thế. Đó là một thảm họa chứ không có một chút gì tích cực cả, bởi vì cả một chính sách như thế đã tỏ ra thất bại. Tất cả những hành động trước chuyến đi của ông Đặc phái viên vài ngày, cũng như trong khi ông ấy ở Bắc Kinh thì đều thấy tình hình rất không thuận lợi đối với Việt Nam. Và tôi nghĩ, gần như là một sự quay trở lại sự qui phục trước khi ông ấy đi, người ta đưa tin về chuyện Việt Nam tự nhận lỗi rồi để cho công nhân Trung Quốc vào rất là đông ở Vũng Áng và các nơi khác; rồi kiểm soát chặt chẽ vấn đề Internet; rồi xử vụ Bùi Thị Minh Hằng một cách hết sức là lố lăng. Tôi nghĩ đấy là những dấu hiệu tất cả chỉ theo một hướng mà tôi nghĩ là không hay ho gì.”
Đối những ý kiến lo ngại về việc Hà Nội và Bắc Kinh trở lại thực hiện ba nhận thức chung, vốn dĩ là những thỏa thuận giữa hai bên từ thời kỳ Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào, có thể dẫn tới việc Trung Quốc và Việt Nam sẽ cùng khai thác tài nguyên ở vùng biển đông thuộc chủ quyền VN, tương tự như thỏa thuận 2011 ở vịnh Bắc Bộ. TS Nguyễn Quang A nhận định:
“Đó là chuyện rất là nguy hiểm và trong trường hợp chưa giải quyết một cách rõ ràng. Tôi đồng ý việc các bên song phương, đa phương phải giữ nguyên trạng và sau đó có một thỏa thuận với nhau như thế nào đó, vạch rõ rằng phần nào là của ai…v..v…Chỉ sau đó mới tính chuyện khai thác như thế nào, phần của ai thì khai thác, lúc ấy phía bên kia cũng có thể tham gia vào như một đối tác quốc tế bình đẳng. Chứ còn ở trong tình trạng nhập nhằng ai cũng bảo của mình mà bảo cùng khai thác, tôi không cũng không hiểu cùng khai thác kiểu như thế nào. Trường hợp này chỉ có kẻ mạnh là lấn lướt áp đảo mà thôi. Nó sẽ là mầm mống của những xung đột tiếp theo và tôi nghĩ cách giải quyết như thế này chỉ là mua thời gian và để cho những xung đột tiềm ẩn vẫn còn nguyên ở đó và nó có thể lại hiện ra dưới dạng này dạng khác và có thể ở mức độ nguy hiểm hơn.”
Ảnh hưởng Trung Quốc quá lớn
TS Nguyễn Thanh Giang, một nhà phản biện nhiều kinh nghiệm, nhìn nhận một thực tế là Việt Nam không thể thoát khỏi ảnh hưởng Trung Quốc. Trả lời Kính Hòa Đài ACTD, TS Nguyễn Thanh Giang phát biểu từ Hà Nội:
“Không thể quay lưng lại với Trung Quốc. Không nên đẩy họ thành kẻ thù của chúng ta mà luôn luôn giữ tình hữu nghị. Nhưng phải luôn luôn cảnh giác, vì cái bài học lịch sử nó cho thấy như thế. Đó là một sự cay đắng, đối với hàng xóm láng giềng thì lúc nào chúng ta cũng muốn hữu hảo, nhưng bài học lịch sử lẫn cái thời gian gần đây đều cho thấy là chơi với họ thì nguy hiểm lắm.
Cho nên hữu nghị thì vẫn phải hữu nghị, không nên đặt vấn đề đối chọi với họ. Cho nên tôi rất mong các nhà lãnh đạo đề cao cảnh giác với Trung Quốc, và đề cao cảnh giác với trong cả nội bộ lãnh đạo, xem có những người nào có tư tưởng thần phục Trung Quốc, dựa vào Trung Quốc để giữ lợi riêng, giữ lấy ghế của mình, thì phải loại họ khỏi thành phần lãnh đạo, ra khỏi dân tộc.”
Trong giai đoạn khủng hoảng giàn khoan trên Biển Đông kéo dài 10 tuần lễ, Việt Nam nỗ lực tranh thủ bè bạn quốc tế trong đó Hoa Kỳ, Nhật Bản và những tưởng chính sách xoay trục châu Á của Washington là một cơ hội giúp Việt Nam bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Thỏa thuận mang tên “nhận thức chung nguyên tắc ba điểm về tiếp tục phát triển quan hệ Việt-Trung” có thể làm Việt Nam vuột mất cơ hội tạo thế đứng độc lập với sự giúp đỡ của bè bạn quốc tế. TS Nguyễn Quang A nhận định:
“Tôi nghĩ rằng có thể Việt Nam đã bỏ lỡ một cơ hội rất là quan trọng. Và nếu bảo rằng bỏ mất một cơ hội ngả về bên này hay bên kia thì chưa chắc là đúng. Nhưng mà để có một thế đứng vững vàng độc lập hơn có thể có nhiều hơn mối liên kết, nhiều hơn mối liên minh để mà bảo vệ quyền lợi của mình thì tôi nghĩ rằng những khả năng như thế cũng vẫn còn chứ không phải hoàn toàn không có.
Chúng ta chưa biết một cách chi tiết những nội dung đó như thế nào và mới chỉ được báo chí nêu là thống nhất ba điểm ấy. Rõ ràng đánh giá ngay có thể là còn sớm.”
Vấn đề Biển Đông, quan hệ Việt Trung và thỏa thuận nhận thức nguyên tắc ba điểm sẽ vẫn còn tạo ra mầm mống của những xung đột tiếp theo và cách giải quyết này, theo lời TS Nguyễn Quang A, chỉ là mua thời gian và duy trì những xung đột tiềm ẩn. Nó sẽ có dịp hiện ra dưới dạng này hay dạng khác và có thể ở mức độ nguy hiểm hơn.
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/ReviewOnlineDomesticPress/a-bad-choice-is-taken-nn-08292014131643.html
Trước căng thẳng leo thang với Ukraina và khả năng bị phương
Tây trừng phạt nặng thêm, Mátxcơva lại gợi lên vấn đề cắt khí đốt bán
sang Châu Âu, một kịch bản với những hậu quả khác nhau mà giới chuyên
gia không xem thường. Ngày 29/08/2014, Bộ trưởng Năng lượng Nga
Alexandre Novak đã tuyên bố có « nguy cơ khí đốt mà tập đoàn Gazprom
chuyển sang Châu Âu bị Ukraina lấy bớt một cách bất hợp pháp cho nhu
cầu của họ ».
NGUYỄN TÀ CÚC * THỤY VŨ
(Tạp Chí Khởi Hành và Chân dung nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ )
Nguyễn Tà Cúc
(Khởi Hành số 207-208, March-April 2014)
Lời Người Phỏng Vấn:
Trong mấy nhà văn nữ của Miền Nam trước 1975, người viết muốn đặc biệt phỏng vấn nhà văn Thụy Vũ. Bà tên thật là Nguyễn Băng Lĩnh, sinh năm 1937, quê ở Vĩnh Long. Bà dạy tiểu học 5 năm trước khi lên Sài Gòn vào năm 1961.
Lên Sài gòn, bà vừa đi học Anh văn vừa đi dạy Anh văn cho các cô bán”snack bar” hay các cô điếm cho lính Mỹ. Bà đoạt giải nhì Bộ Môn Văn – Giải Văn học Nghệ Thuật Toàn quốc năm 1970 (Người đoạt giải nhất là nhà văn Túy Hồng). Song song với việc sáng tác, bà còn lập nhà xuất bản Hồng Đức và Kẻ Sĩ với nhà thơ Tô Thùy Yên.
Sau 1975, tác phẩm của bà bị cấm toàn diện. Bà đem các con về Lộc Ninh làm rẫy, có lúc làm lơ xe đò để lo cho gia đình. Người viết muốn phỏng vấn bà về hai vấn đề chính: thứ nhất, trường hợp một nhà văn nữ không sợ tai tiếng và thành kiến xã hội, đã giao du với đám phụ nữ cùng khốn nhất của xã hội và thứ hai, thái độ can đảm của bà sau 1975 trước sự đe nẹt công khai của các tay quản giáo văn nghệ. Qua sự dàn xếp của nhà văn Văn Quang người phỏng vấn đã có một cơ hội để tìm biết câu trả lời cho hai thắc mắc ấy.
* Qua Trận Gió Kinh Thiên là nhan đề một tác phẩm của Thụy Vũ.
Nguyễn Tà Cúc: Nếu Tà Cúc nhớ không nhầm thì chị Thụy Vũ có lần nói đâu đó là chị dậy các cô bán bar học tiếng Anh và qua đó, họ xuất hiện trong tác phẩm của chị. Như vậy, họ đến học với chị Thụy Vũ qua cách nào? Như đến nhà chị hay sao?
Nhà Văn Thụy Vũ: Tôi đang dạy ở Vĩnh Long được 5 năm (bậc tiểu học). Sau đó tôi lên Sài Gòn đi học Hội Việt Mỹ được hơn 1 năm. Tiếng Anh của tôi chưa đầy một lá mít, nhưng tại sao tôi dám nhận dạy kèm cho mấy cô lấy Mỹ? Lúc đó tôi có một anh bạn học cùng lớp (lớp 2)Hội Việt Mỹ. Anh ấy ngồi cạnh tôi. Anh ta làm bài tập không giỏi nên tôi thường giúp anh ấy làm bài. Tôi hơi ngạc nhiên là anh ta nói tiếng Mỹ dòn tan như bắp rang mà không lý tới văn phạm.
Một hôm vào giờ ra chơi, anh ta đề nghị tôi dạy thêm tiếng Anh cho mấy cô bán bar quen biết với anh ấy để có thêm chút tiền trả tiền học. Các cô gái đó đang thuê phòng của nhà anh ta để ngủ với mấy tên lính Mỹ.
Tôi từ chối thẳng thừng và nói ông đừng chọc quê tôi. Tôi với ông mới học 2 khóa mà dạy ai đây? “Bạn cứ yên tâm nhận lời đi, tôi sẽ có cách…” Khi hẹn tới nhà anh ta vào ngày chủ nhật tôi mới biết anh ta là “ma cô.”
Anh ta dắt tôi đi từng phòng và giới thiệu tôi sẽ là cô giáo dạy kèm cho họ. Tôi càm ràm anh trước khi ra về và hẹn hôm sau quay lại thử thời vận. “Bạn biểu tôi dạy gì cho họ đây?” - “Tôi đã dặn họ rồi cô giáo dạy gì thì học nấy. Chớ có hỏi lôi thôi nghẹn.” Tôi không ngờ họ chưa hề biết đọc tiếng Việt thì làm sao đây?
Công – bạn tôi nhanh nhẩu nói: “Bạn dạy i – tờ cho họ trước cái đã, rồi sau đó mỗi ngày bạn chỉ cần cho họ biết viết tiếng Anh một vài chữ trong một lần học là được rồi.”
Tôi không ngờ là cách kéo dài thời gian của Công để tôi còn tiếp tục đi học với hắn. Họ nói tiếng “bồi” lưu loát không thể chê. Tôi cảm thấy ngài ngại thế nào vì tôi không thể nói như họ được.
Họ thuê tôi dạy không phải học mà để có người tâm sự thì đúng hơn. Hình như mỗi cô đều có hoàn cảnh na ná giống nhau. Họ lên Sài Gòn làm để giúp gia đình khó khăn ở quê nhà. Tiếp xúc với họ lâu ngày tôi cảm thấy thân thiện như những người bạn. Tôi vừa đi dạy vừa viết truyện ngắn về cuộc đời của họ. Họ bắt đầu xuất hiện trong những tác phẩm của tôi.
Nguyễn Tà Cúc: Chị viết rất thật, hết sức thật. Một ưu điểm của văn chương Thụy Vũ là người đọc có thể cảm nhận ngay rằng tác giả đã dựa sự sáng tạo trên những hoàn cảnh thật, nhân vật thật và sử dụng những kinh nghiệm của nhân vật thật ấy để bày họ ra trên những trang giấy, dĩ nhiên là của sự tưởng tượng; nhưng những hình dáng đó, những tâm cảnh đó không là sản phẩm của một sự tưởng tượng quá nghèo nàn đến nỗi tố cáo sự bịa đặt của tác giả. Viết truyện về gái điếm tưởng là dễ nhưng mà rất khó! Tà Cúc từng đọc một cuốn truyện tả tình cảnh của vài cô bán bar rồi làm điếm cho lính Mỹ –cùng đề tài nhân vật với chị– nhưng chỉ cần đọc những câu đối thoại là người ta biết ngay tác giả của nó chưa bao giờ có cơ hội nói chuyện với các cô làm điểm nên mới “sáng tác” ra những câu đối thoại hay cách suy nghĩ của cái kiểu “Nếu một tiểu thư đi làm gái điếm.” Và dĩ nhiên cái kiểu giả tạo đó không tốt đẹp gì cho cả cô tiểu thư lẫn cô làm gái điếm.
Thụy Vũ: Tác phẩm cửa tôi có thể nói là đến 70 phần trăm dựa trên sự thực. Nó thực đến nỗi một hôm, hồi tôi ở sau đình Phú Thạnh, sau khi cuốn Lao Vào Lửa xuất bản thì có một anh lính mặc đồ rằn ri coi ghê lắm nghe giới thiệu mới chạy tới ôm tôi và hỏi “Phải cô là gái điếm không?”
Tôi đẩy anh ta ra và la lên: “Tôi chỉ viết truyện chớ tôi làm gái điếm hồi nào?!
Anh ta mới nói tôi viết y như thiệt vậy. Nói thiệt chớ hồi đó họ cũng không biết tôi viết về họ đâu nghe. Nếu họ biết chắc họ rầy chết. Có khi tôi vừa ra bài cho họ thì trong khi họ làm bài, tôi ngồi viết về họ. Nhiều lần họ nói với tôi sẽ làm mai cho tôi một anh chàng Mỹ đàng hoàng chớ không phải đám GI như mấy cổ nhưng tôi từ chối. Tôi có thể nói là tôi đã đi tới hầu hết mấy ổ điểm sang nhứt ở Sài gòn. Nơi nào có học trò là nơi đó tôi tới.
Nguyễn Tà Cúc: Cảm tưởng nào mạnh mẽ nhất mà chị Thụy Vũ còn giữ được sau mấy chục năm dạy họ? Chị có nghĩ về số phận đàn bà nói chung khi dạy họ không?
Thụy Vũ: Mấy chục năm đã qua, chị hỏi về cảm tưởng mạnh mẽ nhất, có lẽ tôi không thể nhớ nổi rõ ràng. Nhưng dường như những hình ảnh của những cô gái bán bar đó còn vương vấn trong tôi. Nỗi đau âm thầm của họ giấu kín sau những son phấn lòe loẹt và những tiếng cười, những câu chuyện hoang toàng, tôi tưởng như chính những thứ đó đang phá nát tâm hồn họ, đang như cái xe đang lao dốc. Tôi thầm thương họ, thông cảm với họ và cũng chẳng biết làm sao hơn.
Mỗi người một hoàn cảnh, cái điểm chung chính là nỗi nghèo khổ đã dồn họ vào con đường cùng. Cũng như bây giờ, rất nhiều cô gái quê ở Việt Nam, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhiều cô gái được gia đình đưa lên Thành phố Sài Gòn để “tuyển vợ” cho mấy chú Đài Loan, Đại Hàn hoặc đi Singapore làm đủ nghề kiếm sống.
Tàn nhẫn hơn, ở những vùng sát biên giới Trung Quốc, chẳng thiếu gì chuyện những cô gái quê nghèo đó tự nguyện hoặc bị lừa bán sang Trung Quốc lưu lạc vào những ổ điếm, lấy những ông chồng già bệnh hoạn, làm việc như nô lệ… Phải chăng đó là thân phận hay số phận của phụ nữ nghèo Việt Nam? Tôi tự hỏi như thế và biết đến bao giờ xã hội mới có được một đời sống công bằng cho phụ nữ VN nói chung?
Nguyễn Tà Cúc: Cũng lạ là hồi đó những năm 60 mà chị dám sống như vậy, dám đi cùng khắp khách sạn như vậy. Chị ở với ai, không sợ ba má la sao? Tà Cúc nhớ là ngay chính gia đình Tà Cúc đây, tối tối là đóng sập cửa lại, báo hại cứ trốn nhà đi chơi. Mà tóc thì không được uốn, không được son phấn nhiều…
Thụy Vũ: Có chớ. Bà má tôi cứ sợ tôi hư nhưng tôi nói tôi viết về gái điếm chớ có làm điếm đâu. Hồi tôi mới lên Sài gòn thì tôi ở chung với Hồ Trường An, em tôi. Nó thua tôi một tuổi, bằng tuổi Viên Linh đó. Tôi viết mấy truyện bị ông già la quá vì lấy cảm hứng từ nhân vật trong gia đình ra mà viết đó chớ.
Nguyễn Tà Cúc: Nói về chuyện người thật, việc thật, Tà Cúc nhớ lại là hồi đọc truyện ngắn “Lòng Trần” (tức là truyện “Muỗng nước mắm”) của chị, Tà Cúc thích quá và tự nhủ là nếu mai sau dù có bao giờ mà gặp tác giả thì sẽ hỏi coi là tại sao mà bà ấy biết được cái thèm “nước mắm” của một người ăn chay. Nhân vật chính trong truyện bà cô Năm Thàng. Anh Hồ Trường An tóm tắt cốt truyện như sau:
“Năm Thàng là cô đào hát bội, thanh sắc lẫy lừng được một ông phú hộ say mê. Ông tình nguyện gia nhập gánh hát để được theo bước lưu diễn của cô. Ông săn sóc cô và soạn tuồng để cô diễn. Cảm động tấm chung tình của ông, cô bỏ nghề hát để làm vợ ông. Rồi đó, ông chồng chết vì tai nạn sét đánh, đứa con của cả hai cũng chết sau đó ít lâu. Cô Năm Thàng cắt tóc đi tu, lấy pháp danh là Diệu Tâm, sống khổ hạnh, giữ trai giới rất nghiêm nhặt cho tới tuổi già bóng xế. Ngờ đâu, trong phút hấp hối, sư nữ Diệu Tâm đòi húp một muổng nước mắm.
Nhưng họ hàng thân tộc của bà cho rằng bà sắp thành chánh quả mà còn bị quỉ ma theo quấy phá để bà bị tội phạm giới. Cho nên họ nhất định không chiều theo ý của bà. Bà chết trong cơn hành hạ của thể xác, trong cơn thèm thuồng không được thỏa mãn. Càng chua xót hơn, trong phút lâm chung, bà quên mình là kẻ tu hành mà chỉ nhớ mình là cô đào hát bội Năm Thàng…”
Tà Cúc muốn hỏi chị là chị có ăn chay hay không mà sao tả cái thèm nước mắm này hay quá. Vì thiệt tình, có khi người ta thèm nước mắm thôi chứ không thèm thịt cá gì hết.
Thụy Vũ: À, chuyện này bắt nguồn từ cuộc đời cô ruột của tôi do ba tôi kể lại. Dĩ nhiên là 30 phần trăm còn lại thì là hư cấu. Phần tôi, hồi đó tôi không có ăn chay. Mới ăn chay có bốn năm nay thôi, Tà Cúc à.
Nguyễn Tà Cúc: Nói về cuộc đời, về cuộc đời thiệt và cuộc đời trên sân khấu hát bội, Tà Cúc lại nhớ chuyện sau 1975.
Anh Hồ Trường An có thuật lại như sau:
- “Gần ngày mãn khóa, Nguyễn Thụy Long, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nhật Tiến bị hai nhà văn Cộng sản là Bùi Đức Ái (Anh Đức), Nguyễn Sáng và các ông cán bộ cục R là Sáu Lăng, Hai Khuynh, Phan Đắc Lập cùng các nhà văn nằm vùng như Vũ Hạnh, Thế Nguyên mời lên văn phòng…
Cả ba Long, Vũ, Tiến bị chỉ định làm bài tự phê tự kiểm… Thụy Vũ bước lên “giàn hỏa” trước hết. Nhưng để trả lời câu hạch tội của Bùi Đức Ái trong văn phòng, chị tôi nói:
- “Anh Bùi Đức Ái đã hỏi tôi động lực nào đẩy tôi viết văn đồi trụy, dù tôi viết về gái điếm có khuynh hướng tốt. Tôi xin thưa, không ai bắt buộc tôi cả.” [...] Thụy Vũ điềm nhiên, sắc mặt nguội như tảng bánh đúc: “Thưa toàn toàn không. Tôi tự do sáng tác. Sở dĩ tôi viết khiêu dâm táo bạo là vì mãi tới 28 tuổi, tôi muộn chồng, xấu xí và không được anh chàng nào ngó ngàng tới và tôi bị ẩn ức sinh lý”[...]
“… Trong buổi học sau, tôi dọn chỗ để ngồi gần hai ông anh tiểu thuyết gia hiền lành của tôi là Trọng Nguyên và Thanh Thủy. Họ cùng ngồi một dãy với chị Vinh, anh Nhật Tiến và chị Đỗ Phương Khanh. Họ xếp tôi ngồi gần chị Đỗ. Tôi cứ ngủ gục hoài làm anh Trọng Nguyên cứ gọi từng chập” “- Mày cứ ngủ hoài, họ để ý mày đó.”
Vào cái hôm một nhà văn nữ làm màn tự phê tự kiểm, thấy đương sự vật vã van xin cộng sản cho mình cầm bút trở lại, chị Đỗ Phương Khanh(1) đứng dậy dõng dặc: “- Cô muốn xin viết lại thì nên xin cho riêng cô, đừng xin cho chúng tôi làm gì.”
Cũng trong buổi hôm đó, có tên cán bộ cộng sản tên Mai Quốc Liên(2), dù là kẻ dự thính, nhưng hắn đã khinh miệt bảo phe cầm bút loại trên: “- Xin các anh chị đừng tiếc rẻ cái văn nghệ miền Nam nữa. Đó là thứ văn nghệ chợ trời, hiện đem bán sold chẳng ai mua.”
(Nhà văn Đỗ Phương Khanh)
Lập tức, chị Đỗ Phương Khanh đứng lên: “- Anh Liên! Anh nhân danh ai mà
nói câu ấy? [...] Chị vừa thét vừa khóc nức nở, làm cơn buồn ngủ tôi tan
biến đâu mất…” (Hồ Trường An, Giai thoại hồng – Hồi ký văn nghệ, trang
302, 324-325)
Đó là Thụy Vũ trong “Khoá bồi dưỡng chính trị” cho văn nghệ sĩ Miền Nam trong mùa hè năm 1976 tại Sài Gòn. Đó là lúc Miền Bắc gửi ngay nhiều cán bộ cao cấp vào Nam để mở màn công cuộc thanh trừng và “cải tạo” văn nghệ sĩ Miền Nam. Nhà văn Nhật Tiến cũng xác nhận thái độ đàn áp thô bạo gần như man rợ của đám người cũng mệnh danh cầm bút này qua một đoạn tường thuật về Khóa bồi dưỡng đó:
- “Mai Quốc Liên tuyên bố trong khóa bồi dưỡng kể trên rằng ‘miền Nam các anh các chị làm gì có văn hóa!” Người phản ứng đầu tiên ngay sau khi Mai Quốc Liên buông câu nhục mạ là nhà văn Đỗ Phương Khanh, biên tập viên các báo Dân Chủ, Hòa Bình, Tân Phong, Đông Phương, Thiếu Nhi.
Đỗ Phương Khanh đã đứng phắt dậy, chỉ vào mặt Mai Quốc Liên và cao giọng:
“Anh vào Nam bao lâu, đọc được bao nhiêu cuốn sách rồi mà anh nói miền Nam không có văn hóa…”
Mai Quốc Liên không thể trả lời câu hỏi này, trong khi tôi và Nguyễn Thụy Long cùng đứng dậy để chất vấn thêm về câu tuyên bố mục hạ vô nhân này, nhưng Chủ tọa đoàn đã vội vã tuyên bố nghỉ giải lao vì bầu không khí sục sôi của nhiều người tham dự.
Một cán bộ, tôi không nhớ tên, đã tới ngay bên Nguyễn Thụy Long để kè anh đi ra. Còn tôi cũng bị nhà văn Vũ Hạnh kèm sát ra sân sau và nói: “Anh đừng có nóng! Anh phản ứng như thế người ta sẽ cho là anh phá hoại khóa học.” (Nhà văn Vũ Hạnh hiện còn sinh sống ở Sài Gòn)… (Nhật Tiến, “Cuối cùng thì ông Mai Quốc Liên đã công nhận miền Nam có văn hóa”)
Phản ứng của (các) chị (và các anh) lúc ấy thực là can đảm. Phản ứng đó cho thấy cái tương lai là họ sẽ không bao giờ đàn áp được văn nghệ sĩ Miền Nam như họ đã làm tại Miền Bắc, thí dụ như họ đã làm với nhóm Nhân Văn – Giai phẩm.
Thụy Vũ: Khi tôi trả lời rằng tôi vì khủng hoảng sinh lý nên viết văn “đồi trụy” để trả lời cho họ việc họ kết án tôi là tôi viết văn “đồi trụy” rồi đi xuống thì chị Nguyễn Thị Vinh ôm tôi khóc:“Ôi em không biết gì về Cộng sản hết!” Nhưng sao tôi không sợ. Trước đó, họ biểu tôi nghĩ sao thì cứ nói, nhưng nói trong phạm vi ở đây chứ ra ngoài mà nói thì họ “không bảo đảm an ninh”cho tôi được. Tôi mới hỏi lại là “Mấy anh có bảo đảm được không? Còn tôi thì tôi sẽ không nói dối.” Sau khi phát biểu phần tôi thì nhà văn Nguyễn Quang Sáng bầy tỏ là ông rất thích cái cách của “dân Nam Kỳ nghĩ sao nói vậy.”
Nguyễn Tà Cúc: Có lẽ chị không sợ dù trong tình cảnh “đằng đằng sát khí” ấy vì họ đã xúc phạm đến tác phẩm -tức là linh hồn là cốt tủy của con người chị. Họ có thể làm người ta sợ khi họ hăm dọa phần thể xác nhưng khi xúc phạm tới cốt tủy của một con người, ở đây là tác phẩm của một nhà văn thì nhà văn đó sẵn sàng chết cho cái cốt tủy ấy sống.
Cho nên, phải nói Tà Cúc rất tiếc khi phải chứng kiến cảnh một nhà văn cũng có tiếng của Miền Nam mà bao lâu nay lại quyết định im lặng trước sự xấc xược của những “anh gù tại nhà thờ Đức Bà” (3) tới tác phẩm của mình. Nếu mà tới thời buổi này, đám dân ngu khu đen vẫn còn phải chạy đôn chạy đáo lên tiếng bênh vực cho các anh nhà văn – mà lẽ ra phải là ngược lại – thì không có gì đáng để các anh nhà văn đó tự hãnh diện hay đáng được người khác vinh danh ca ngợi cả (4). Chính phủ Việt Nam có cho xuất bản tác phẩm nào của chị chưa?
Thụy Vũ: Chưa. Cách đây không lâu, họ có xin tôi truyện ngắn “Muỗng nước mắm” mà Tà Cúc nhắc đó để in trong một tạp chí nhưng tôi không cho họ đăng. Sách của tôi còn bị cấm toàn diện.
Nguyễn Tà Cúc: Sau cùng, nếu chị được làm lại từ đầu, chị có chọn làm nhà văn không?
Thụy Vũ: Không, giữa làm nhà văn và được là một người vợ hạnh phúc thì tôi chọn hạnh phúc.
Nguyễn Tà Cúc: Tác giả Thụy Vũ có thể không muốn làm nhà văn nhưng độc giả Nguyễn Tà Cúc lại muốn chị cứ là nhà văn để được đọc những tác phẩm hoặc là nghệ thuật hoặc là phản ảnh một phần xã hội Miền Nam bấy giờ. Cảm ơn chị đã nói chuyện với Tà Cúc và cảm ơn anh Văn Quang đã dàn xếp cho hai chị em có dịp hàn huyên.
Sài Gòn – California, ngày 19.3.2014
Nguyễn Tà Cúc
(Khởi Hành số 207-208, March-April 2014)
Chú thích:
(1) Đỗ Phương Khanh (bà Nhật Tiến) sinh tại Nam Định, xuất hiện lần đầu với truyện ngắn Đi Mua Giầy trên Giai Phẩm Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh. Sau khi Văn Hóa Ngày Nay đình bản, bà qua cộng tác với tạp chí Tân Phong của nhà văn Nguyễn Thị Vinh với nhiều truyện ngắn khác, sau xuất bản thành tập truyện Hương Thu do Đông Phương ấn hành. Sau biến cố Tết Mậu Thân 1968, bà về làm quản lý cơ sở ấn loát Hồng Lam ở Sài Gòn do Linh Mục Cao Văn Luận làm Giám Đốc.
Đầu thập niên 70, bà giữ vai trò quản lý trị sự cho tuần báo Thiếu Nhi đồng thời phụ trách trang Vườn Hồng và sinh hoạt với Gia Đình Thiếu Nhi là một tập hợp độc giả của tuần báo này cho tới năm 1975. Cũng trong thời gian này, Đỗ Phương Khanh phụ trách trang nhi đồng cho nhật báo Hòa Bình với bút hiệu Mai Loan và là người phụ trách trang Phụ Nữ của nhật báo Dân Chủ cho tới năm 1975. Bà cũng là giám đốc vườn trẻ Anh Vũ, một cơ sở mẫu giáo chuyên dạy trẻ em theo phương pháp Montessori từ năm 1973 tới 1975. Tại Hoa Kỳ, bà dịch những tài liệu về Bảo Vệ Loài Vật và những câu chuyện của J. Krishnamurti với những bút hiệu Danny Việt, Vy Khanh …, đồng thời biên soạn “Chương trình tìm hiểu Phật pháp Tuệ Đăng” phát thanh hằng tuần trên Little Saigon Radio và Hồn Việt TV với bút hiệu Liên Hương. Bà hiện cư ngụ tại Nam California.
(http://phuongkhanhdo.wordpress.com/category/trang-chinh/)
(2) Mai Quốc Liên nguyên quán tại Điện Phước, Điện Bàn, Quảng Nam, là giám đốc Trung tâm Quốc học, giáo sư đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh v.v. Ông cũng là người viết tựa và đỡ đầu cho bộ Sông Côn Mùa Lũ của Nguyễn Mộng Giác – một người từng có mặt trong buổi họp đó, sau vượt biển sang Hoa Kỳ làm chủ nhiệm chủ bút báo Văn Học. Khi bộ truyện này được nxb Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 1998 tại Sài gòn. Thật không đáng tiếc: một người bị mắng như thế mà không có phản ứng thì sự quay về nhờ vả kẻ mắng mình cũng không có gì là lạ.
(3) Chữ của Viên Linh chỉ Vũ Hạnh trong bài viết “Anh Lùn Cạnh Nhà Thờ Đức Bà” đăng trên tuần báo Nghệ Thuật số 27 tháng 4.1966. [VL chú thích]: Nguyên tháng 2.1966 trên tờ Tin Sách của Trung tâm Bút Việt (Văn Bút V.N.) Vũ Hạnh chê thơ tự do đang suy mòn và “thơ tự do hiện tại là con đẻ của lý trí nhất thời, đã bị lý trí từ khước, và nếu nó còn tồn tại ở mức nào là nhờ nó được nuôi dưỡng ở lòng tự ái nhiều hơn.” Ở đoạn khác ông ta viết: “Không có một cái nội dung dân tộc cụ thể, mọi sự đổi mới cũng sớm trở thành trừu tượng mâu thuẫn và xa dần dân tộc.”
Lúc đó ai cũng biết nhóm VC nằm vùng (trong có Vũ Hạnh), lúc nào cũng mang chiêu bài dân tộc làm một cái khiên để bôi nhọ các nhà văn gốc Bắc di cư vào Nam sau 1954 và chia rẽ họ với đồng bào trong Nam. Bài trên ông ta viết chỉ trích cuốn tiểu luận nhan đề Tiếp Nối của Trần Thanh Hiệp do Sáng Tạo xuất bản, nhân đó phỉ báng thơ tự do, phỉ báng các nhà thơ qua mấy chữ “thơ tự do còn tồn lại là nhờ được nuôi dưỡng bằng lòng tự ái” [của những người làm thơ].
Tôi dùng hình ảnh anh lùn để chỉ Vũ Hạnh, như một người có khuyết tật (như anh gù Quasimodo của Victor Hugo) sống cạnh nhà thờ là bám víu vào lòng bác ái của các tín đồ ngoan đạo, kiểu cán bộ Vũ Hạnh bám víu vào hai chữ dân tộc để che mắt miền Nam hầu sống còn trong khi mưu đồ của họ là khác. Ít nhất ông ta cũng che mắt được hai ông Thanh Lãng và Phạm Việt Tuyền, chủ tịch và TTK hội Bút Việt, để cứu ông ta ra khỏi tù, rồi còn dùng tờ báo của hội để hoạt động cho cộng sản trong nhiều năm.
(4) Lạ lùng hơn nữa là cái thái độ im lặng khả nghi ấy kèm thêm cái sự thực là mấy tác giả được cho in lại nhiều tác phẩm sau 1975 thì được tung hô vạn tuế ầm ầm trong khi sự can đảm của những phụ nữ như Thụy Vũ, như Đỗ Phương Khanh v.v… trong lúc đổi đời với loại tòa án nhân dân với những kẻ vô văn hóa như Mai Quốc Liên thì hầu như không nói tới. Điều phi lý ở đây là, nếu một tác giả Miền Nam cho phép các nhà xuất bản của chính phủ tái bản tác phẩm trước 1975 để vừa có danh vừa có tiền tác quyền, như trường hợp nhà văn Dương Nghiễm Mậu, thì khi bị tấn công, anh (hay chị) phải chịu trách nhiệm, chứ không thể ngồi chờ người khác lên tiếng cho mình trong khi các “người khác” vẫn bị cấm xuất bản hay tái bản.
Dĩ nhiên, không ai có thể phán xét ai (người viết không có lời bàn nào về sự im lặng của Dương Nghiễm Mậu tại đây, trong bài phỏng vấn này) nhưng nói chung, đời nào lại có chuyện dễ dàng mà oái oăm như thế: anh vừa được nhà nước — cái nguồn đàn áp dân ngu khu đen và đồng nghiệp Miền Nam trước 1975 — cho phép tái-xuất bản rồi anh lại mong hay đợi cái đám nạn nhân bị đàn áp — đám dân ngu khu đen và nhất là đám đồng nghiệp Miền Nam trước 1975 vẫn còn bị cấm tái bản hay xuất bản — phí giấy và phí chữ bênh vực cho anh khi anh bị quản giáo văn nghệ tấn công?!
• Oái oăm hơn nữa là nếu cứ im lặng đi thì cũng là một nhẽ, đằng này lại có kẻ viết bài cả gan gán cho sự im lặng đó những danh hiệu cao quý do anh ta đoán ra để choàng những vòng hoa hâm mộ lẽ ra chỉ dành cho người tuẫn tiết vì đã dám lên tiếng! Sự thực là nếu ai cũng im lặng hết thì người Miền Nam lấy gì để chứng minh là họ đã không đầu hàng, không quy xuống? Và tiếp tục không quy xuống dù đã phải tiếp tục trả cái giá rất đắt cho đời văn của họ cho tới nay? Như Thụy Vũ? Và như bao nhiêu tác giả khác nữa?
• Chú thích thêm của Thày Cò Ca Hát:
1. Cách đây 7, 8 năm, một văn hữu từ V.N. hỏi chúng tôi có phải tờ Khởi Hành trước 75 từng bị tịch thu vì đã đăng bài thơ mà nhạc sĩ Phạm Duy sau đó phổ nhạc không? (Bài thơ đó có những. câu như “anh trở về dang dở đời em”). Không hề có chuyện đó và Khởi Hành không bao giờ bị tịch thu vì bất cứ nguyên do gì. Tôi có hỏi: Tại sao giờ này các anh muốn rêu rao là hồi VNCH thơ văn các anh bị tịch thu, để làm gì? Có phải các anh muốn đánh tiếng cho chế độ hiện hành tin rằng hồi xưa sáng tác của các anh bị tịch thu, vì các anh chống VNCH đấy chứ? Các anh cần đến nỗi phải bịa ra chuyện không có là Khởi Hành bị tịch thu vì đăng thơ anh.
2. Chuyện tương tự mới xảy ra một hai tháng nay: một nhà văn ở miền gió cát mới viết một bài bênh vực bạn mình, rằng bạn mình từng viết trên tờ Thời Tập của Viên Linh hồi đầu năm 75 rằng “nhất quyết ở lại, không chạy theo Mỹ, vì không làm chó săn cho chủ.” Giờ này (2014) anh rêu rao là hồi 1975 anh đã tuyên bố không di tản là nhằm ý gì? Để chứng tỏ với chế độ hiện hành là anh có công, anh từng có lòng “ở lại với cách mạng” từ 1975 chăng? Anh cứ yên tâm, lòng anh ra sao người ta đều biết cả.
Hết bài phỏng vấn!
__Tham khảo:
Nhà Văn Thụy Vũ: – một tác giả nữ bắt đầu xuất hiện trên văn đàn miền Nam từ những năm 60s trên Bách Khoa- cùng thời với một Túy Hồng điên “cơn điên tím” rất Huế, một Nguyễn Thị Hoàng chói chang (& rạo rực?!?) nắng hạ của “vòng tay học trò”, một Nhã Ca nói chuyện Huế Mậu Thân và “đời sống ôi buồn như cỏ khô”...Nguyễn Thị Thụy Vũ hiện ra với một hình ảnh trần trụi khác, đời sống của một tầng lớp khá đặc biệt trong xã hội miền Nam thời đó – đời sống của gái bán bar – nơi đó không có những chất vấn siêu hình, những suy tư thời cuộc, thân phận… như đã từng bắt gặp đâu đó trong những truyện ngắn, dài của các tác giả nữ cùng thời…mà chỉ là một trần trụi của đời sống & một cách thế sống riêng tây của một “tầng lớp” như thế, nhưng rốt ráo, họ vẫn là những con người, niềm riêng đầy đau đớn, sần sùi lại bị quăng quật vào một phông nền phi lý của chiến tranh – mặc dù trong nhiều truyện của Nguyễn Thị Thụy Vũ, bà chỉ như viết ra những diễn biến thấy ngay trước mắt – nhưng gieo vào lòng người đọc những suy nghĩ về những cái thỏa hiệp (phải có) với đời sống, cái nồng tanh của đời sống thay vì chỉ là những phong hoa tuyết nguyệt, những vuốt ve mơn man… Cách viết ấy, nếu có thể tượng hình, có thể đó là cái đau điếng quật xuống của làn roi, phô bày hết những nhức nhối.
Tuy nhiên, sau cái sự trần trụi ấy (trần trụi của cuộc sống gái bán bar, lấy Tây hay những mảnh đời đặc biệt, nhiều “ẩn ức” khác) – trần trụi từ ngôn ngữ của các nhân vật..cho đến ngôn ngữ xây dựng câu chuyện của tác giả – là một khát khao sống…sống ngay cả trong đống bùn của đời sống mang đến, của thân phận, sống trong những chông chênh của cuộc nội chiến, (mặc dù nhiều khi là) giành giựt nhau sống, tranh chấp nhau sống….Vượt thoát & sống! Sự phóng túng và nuông chiều chính bản thân trong những khát khao tầm thường, bản năng… buộc mình trôi theo dòng … làm rúng độc độc giả của miền Nam một thời là như thế…
Trong bài PV có nhắc đến truyện Muỗng Nước Mắm (cũng xuất hiện trong tuyển tập Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta 1974 với tên là Lòng Trần), một sự kiện về Vũ Hạnh, tôi cũng xin cung cấp tài liệu đó trên blog này
Viên Linh gọi Vũ Hạnh là “Anh Lùn Cạnh Nhà Thờ Đức Bà” trên tuần báo Nghệ Thuật số 27 tháng 4.1966. [VL chú thích]: Nguyên tháng 2.1966 trên tờ Tin Sách của Trung tâm Bút Việt (Văn Bút V.N.) Vũ Hạnh chê thơ tự do đang suy mòn và “thơ tự do hiện tại là con đẻ của lý trí nhất thời, đã bị lý trí từ khước, và nếu nó còn tồn tại ở mức nào là nhờ nó được nuôi dưỡng ở lòng tự ái nhiều hơn.” Ở đoạn khác ông ta viết: “Không có một cái nội dung dân tộc cụ thể, mọi sự đổi mới cũng sớm trở thành trừu tượng mâu thuẫn và xa dần dân tộc”.
Lúc đó ai cũng biết nhóm VC nằm vùng (trong có Vũ Hạnh), lúc nào cũng mang chiêu bài dân tộc làm một cái khiên để bôi nhọ các nhà văn gốc Bắc di cư vào Nam sau 1954 và chia rẽ họ với đồng bào trong Nam. Bài trên ông ta viết chỉ trích cuốn tiểu luận nhan đề Tiếp Nối của Trần Thanh Hiệp do Sáng Tạo xuất bản, nhân đó phỉ báng thơ tự do, phỉ báng các nhà thơ qua mấy chữ “thơ tự do còn tồn lại là nhờ được nuôi dưỡng bằng lòng tự ái” [của những người làm thơ]. Tôi dùng hình ảnh anh lùn để chỉ Vũ Hạnh, như một người có khuyết tật (như anh gù Quasimodo của Victor Hugo) sống cạnh nhà thờ là bám víu vào lòng bác ái của các tín đồ ngoan đạo, kiểu cán bộ Vũ Hạnh bám víu vào hai chữ dân tộc để che mắt miền Nam hầu sống còn trong khi mưu đồ của họ là khác}
Đó là Thụy Vũ trong “Khoá bồi dưỡng chính trị” cho văn nghệ sĩ Miền Nam trong mùa hè năm 1976 tại Sài Gòn. Đó là lúc Miền Bắc gửi ngay nhiều cán bộ cao cấp vào Nam để mở màn công cuộc thanh trừng và “cải tạo” văn nghệ sĩ Miền Nam. Nhà văn Nhật Tiến cũng xác nhận thái độ đàn áp thô bạo gần như man rợ của đám người cũng mệnh danh cầm bút này qua một đoạn tường thuật về Khóa bồi dưỡng đó:
- “Mai Quốc Liên tuyên bố trong khóa bồi dưỡng kể trên rằng ‘miền Nam các anh các chị làm gì có văn hóa!” Người phản ứng đầu tiên ngay sau khi Mai Quốc Liên buông câu nhục mạ là nhà văn Đỗ Phương Khanh, biên tập viên các báo Dân Chủ, Hòa Bình, Tân Phong, Đông Phương, Thiếu Nhi.
Đỗ Phương Khanh đã đứng phắt dậy, chỉ vào mặt Mai Quốc Liên và cao giọng:
“Anh vào Nam bao lâu, đọc được bao nhiêu cuốn sách rồi mà anh nói miền Nam không có văn hóa…”
Mai Quốc Liên không thể trả lời câu hỏi này, trong khi tôi và Nguyễn Thụy Long cùng đứng dậy để chất vấn thêm về câu tuyên bố mục hạ vô nhân này, nhưng Chủ tọa đoàn đã vội vã tuyên bố nghỉ giải lao vì bầu không khí sục sôi của nhiều người tham dự.
Một cán bộ, tôi không nhớ tên, đã tới ngay bên Nguyễn Thụy Long để kè anh đi ra. Còn tôi cũng bị nhà văn Vũ Hạnh kèm sát ra sân sau và nói: “Anh đừng có nóng! Anh phản ứng như thế người ta sẽ cho là anh phá hoại khóa học.” (Nhà văn Vũ Hạnh hiện còn sinh sống ở Sài Gòn)… (Nhật Tiến, “Cuối cùng thì ông Mai Quốc Liên đã công nhận miền Nam có văn hóa”)
Phản ứng của (các) chị (và các anh) lúc ấy thực là can đảm. Phản ứng đó cho thấy cái tương lai là họ sẽ không bao giờ đàn áp được văn nghệ sĩ Miền Nam như họ đã làm tại Miền Bắc, thí dụ như họ đã làm với nhóm Nhân Văn – Giai phẩm.
Thụy Vũ: Khi tôi trả lời rằng tôi vì khủng hoảng sinh lý nên viết văn “đồi trụy” để trả lời cho họ việc họ kết án tôi là tôi viết văn “đồi trụy” rồi đi xuống thì chị Nguyễn Thị Vinh ôm tôi khóc:“Ôi em không biết gì về Cộng sản hết!” Nhưng sao tôi không sợ. Trước đó, họ biểu tôi nghĩ sao thì cứ nói, nhưng nói trong phạm vi ở đây chứ ra ngoài mà nói thì họ “không bảo đảm an ninh”cho tôi được. Tôi mới hỏi lại là “Mấy anh có bảo đảm được không? Còn tôi thì tôi sẽ không nói dối.” Sau khi phát biểu phần tôi thì nhà văn Nguyễn Quang Sáng bầy tỏ là ông rất thích cái cách của “dân Nam Kỳ nghĩ sao nói vậy.”
Nguyễn Tà Cúc: Có lẽ chị không sợ dù trong tình cảnh “đằng đằng sát khí” ấy vì họ đã xúc phạm đến tác phẩm -tức là linh hồn là cốt tủy của con người chị. Họ có thể làm người ta sợ khi họ hăm dọa phần thể xác nhưng khi xúc phạm tới cốt tủy của một con người, ở đây là tác phẩm của một nhà văn thì nhà văn đó sẵn sàng chết cho cái cốt tủy ấy sống.
Cho nên, phải nói Tà Cúc rất tiếc khi phải chứng kiến cảnh một nhà văn cũng có tiếng của Miền Nam mà bao lâu nay lại quyết định im lặng trước sự xấc xược của những “anh gù tại nhà thờ Đức Bà” (3) tới tác phẩm của mình. Nếu mà tới thời buổi này, đám dân ngu khu đen vẫn còn phải chạy đôn chạy đáo lên tiếng bênh vực cho các anh nhà văn – mà lẽ ra phải là ngược lại – thì không có gì đáng để các anh nhà văn đó tự hãnh diện hay đáng được người khác vinh danh ca ngợi cả (4). Chính phủ Việt Nam có cho xuất bản tác phẩm nào của chị chưa?
Thụy Vũ: Chưa. Cách đây không lâu, họ có xin tôi truyện ngắn “Muỗng nước mắm” mà Tà Cúc nhắc đó để in trong một tạp chí nhưng tôi không cho họ đăng. Sách của tôi còn bị cấm toàn diện.
Nguyễn Tà Cúc: Sau cùng, nếu chị được làm lại từ đầu, chị có chọn làm nhà văn không?
Thụy Vũ: Không, giữa làm nhà văn và được là một người vợ hạnh phúc thì tôi chọn hạnh phúc.
Nguyễn Tà Cúc: Tác giả Thụy Vũ có thể không muốn làm nhà văn nhưng độc giả Nguyễn Tà Cúc lại muốn chị cứ là nhà văn để được đọc những tác phẩm hoặc là nghệ thuật hoặc là phản ảnh một phần xã hội Miền Nam bấy giờ. Cảm ơn chị đã nói chuyện với Tà Cúc và cảm ơn anh Văn Quang đã dàn xếp cho hai chị em có dịp hàn huyên.
Sài Gòn – California, ngày 19.3.2014
Nguyễn Tà Cúc
(Khởi Hành số 207-208, March-April 2014)
Chú thích:
(1) Đỗ Phương Khanh (bà Nhật Tiến) sinh tại Nam Định, xuất hiện lần đầu với truyện ngắn Đi Mua Giầy trên Giai Phẩm Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh. Sau khi Văn Hóa Ngày Nay đình bản, bà qua cộng tác với tạp chí Tân Phong của nhà văn Nguyễn Thị Vinh với nhiều truyện ngắn khác, sau xuất bản thành tập truyện Hương Thu do Đông Phương ấn hành. Sau biến cố Tết Mậu Thân 1968, bà về làm quản lý cơ sở ấn loát Hồng Lam ở Sài Gòn do Linh Mục Cao Văn Luận làm Giám Đốc.
Đầu thập niên 70, bà giữ vai trò quản lý trị sự cho tuần báo Thiếu Nhi đồng thời phụ trách trang Vườn Hồng và sinh hoạt với Gia Đình Thiếu Nhi là một tập hợp độc giả của tuần báo này cho tới năm 1975. Cũng trong thời gian này, Đỗ Phương Khanh phụ trách trang nhi đồng cho nhật báo Hòa Bình với bút hiệu Mai Loan và là người phụ trách trang Phụ Nữ của nhật báo Dân Chủ cho tới năm 1975. Bà cũng là giám đốc vườn trẻ Anh Vũ, một cơ sở mẫu giáo chuyên dạy trẻ em theo phương pháp Montessori từ năm 1973 tới 1975. Tại Hoa Kỳ, bà dịch những tài liệu về Bảo Vệ Loài Vật và những câu chuyện của J. Krishnamurti với những bút hiệu Danny Việt, Vy Khanh …, đồng thời biên soạn “Chương trình tìm hiểu Phật pháp Tuệ Đăng” phát thanh hằng tuần trên Little Saigon Radio và Hồn Việt TV với bút hiệu Liên Hương. Bà hiện cư ngụ tại Nam California.
(http://phuongkhanhdo.wordpress.com/category/trang-chinh/)
(2) Mai Quốc Liên nguyên quán tại Điện Phước, Điện Bàn, Quảng Nam, là giám đốc Trung tâm Quốc học, giáo sư đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh v.v. Ông cũng là người viết tựa và đỡ đầu cho bộ Sông Côn Mùa Lũ của Nguyễn Mộng Giác – một người từng có mặt trong buổi họp đó, sau vượt biển sang Hoa Kỳ làm chủ nhiệm chủ bút báo Văn Học. Khi bộ truyện này được nxb Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 1998 tại Sài gòn. Thật không đáng tiếc: một người bị mắng như thế mà không có phản ứng thì sự quay về nhờ vả kẻ mắng mình cũng không có gì là lạ.
(3) Chữ của Viên Linh chỉ Vũ Hạnh trong bài viết “Anh Lùn Cạnh Nhà Thờ Đức Bà” đăng trên tuần báo Nghệ Thuật số 27 tháng 4.1966. [VL chú thích]: Nguyên tháng 2.1966 trên tờ Tin Sách của Trung tâm Bút Việt (Văn Bút V.N.) Vũ Hạnh chê thơ tự do đang suy mòn và “thơ tự do hiện tại là con đẻ của lý trí nhất thời, đã bị lý trí từ khước, và nếu nó còn tồn tại ở mức nào là nhờ nó được nuôi dưỡng ở lòng tự ái nhiều hơn.” Ở đoạn khác ông ta viết: “Không có một cái nội dung dân tộc cụ thể, mọi sự đổi mới cũng sớm trở thành trừu tượng mâu thuẫn và xa dần dân tộc.”
Lúc đó ai cũng biết nhóm VC nằm vùng (trong có Vũ Hạnh), lúc nào cũng mang chiêu bài dân tộc làm một cái khiên để bôi nhọ các nhà văn gốc Bắc di cư vào Nam sau 1954 và chia rẽ họ với đồng bào trong Nam. Bài trên ông ta viết chỉ trích cuốn tiểu luận nhan đề Tiếp Nối của Trần Thanh Hiệp do Sáng Tạo xuất bản, nhân đó phỉ báng thơ tự do, phỉ báng các nhà thơ qua mấy chữ “thơ tự do còn tồn lại là nhờ được nuôi dưỡng bằng lòng tự ái” [của những người làm thơ].
Tôi dùng hình ảnh anh lùn để chỉ Vũ Hạnh, như một người có khuyết tật (như anh gù Quasimodo của Victor Hugo) sống cạnh nhà thờ là bám víu vào lòng bác ái của các tín đồ ngoan đạo, kiểu cán bộ Vũ Hạnh bám víu vào hai chữ dân tộc để che mắt miền Nam hầu sống còn trong khi mưu đồ của họ là khác. Ít nhất ông ta cũng che mắt được hai ông Thanh Lãng và Phạm Việt Tuyền, chủ tịch và TTK hội Bút Việt, để cứu ông ta ra khỏi tù, rồi còn dùng tờ báo của hội để hoạt động cho cộng sản trong nhiều năm.
(4) Lạ lùng hơn nữa là cái thái độ im lặng khả nghi ấy kèm thêm cái sự thực là mấy tác giả được cho in lại nhiều tác phẩm sau 1975 thì được tung hô vạn tuế ầm ầm trong khi sự can đảm của những phụ nữ như Thụy Vũ, như Đỗ Phương Khanh v.v… trong lúc đổi đời với loại tòa án nhân dân với những kẻ vô văn hóa như Mai Quốc Liên thì hầu như không nói tới. Điều phi lý ở đây là, nếu một tác giả Miền Nam cho phép các nhà xuất bản của chính phủ tái bản tác phẩm trước 1975 để vừa có danh vừa có tiền tác quyền, như trường hợp nhà văn Dương Nghiễm Mậu, thì khi bị tấn công, anh (hay chị) phải chịu trách nhiệm, chứ không thể ngồi chờ người khác lên tiếng cho mình trong khi các “người khác” vẫn bị cấm xuất bản hay tái bản.
Dĩ nhiên, không ai có thể phán xét ai (người viết không có lời bàn nào về sự im lặng của Dương Nghiễm Mậu tại đây, trong bài phỏng vấn này) nhưng nói chung, đời nào lại có chuyện dễ dàng mà oái oăm như thế: anh vừa được nhà nước — cái nguồn đàn áp dân ngu khu đen và đồng nghiệp Miền Nam trước 1975 — cho phép tái-xuất bản rồi anh lại mong hay đợi cái đám nạn nhân bị đàn áp — đám dân ngu khu đen và nhất là đám đồng nghiệp Miền Nam trước 1975 vẫn còn bị cấm tái bản hay xuất bản — phí giấy và phí chữ bênh vực cho anh khi anh bị quản giáo văn nghệ tấn công?!
• Oái oăm hơn nữa là nếu cứ im lặng đi thì cũng là một nhẽ, đằng này lại có kẻ viết bài cả gan gán cho sự im lặng đó những danh hiệu cao quý do anh ta đoán ra để choàng những vòng hoa hâm mộ lẽ ra chỉ dành cho người tuẫn tiết vì đã dám lên tiếng! Sự thực là nếu ai cũng im lặng hết thì người Miền Nam lấy gì để chứng minh là họ đã không đầu hàng, không quy xuống? Và tiếp tục không quy xuống dù đã phải tiếp tục trả cái giá rất đắt cho đời văn của họ cho tới nay? Như Thụy Vũ? Và như bao nhiêu tác giả khác nữa?
• Chú thích thêm của Thày Cò Ca Hát:
1. Cách đây 7, 8 năm, một văn hữu từ V.N. hỏi chúng tôi có phải tờ Khởi Hành trước 75 từng bị tịch thu vì đã đăng bài thơ mà nhạc sĩ Phạm Duy sau đó phổ nhạc không? (Bài thơ đó có những. câu như “anh trở về dang dở đời em”). Không hề có chuyện đó và Khởi Hành không bao giờ bị tịch thu vì bất cứ nguyên do gì. Tôi có hỏi: Tại sao giờ này các anh muốn rêu rao là hồi VNCH thơ văn các anh bị tịch thu, để làm gì? Có phải các anh muốn đánh tiếng cho chế độ hiện hành tin rằng hồi xưa sáng tác của các anh bị tịch thu, vì các anh chống VNCH đấy chứ? Các anh cần đến nỗi phải bịa ra chuyện không có là Khởi Hành bị tịch thu vì đăng thơ anh.
2. Chuyện tương tự mới xảy ra một hai tháng nay: một nhà văn ở miền gió cát mới viết một bài bênh vực bạn mình, rằng bạn mình từng viết trên tờ Thời Tập của Viên Linh hồi đầu năm 75 rằng “nhất quyết ở lại, không chạy theo Mỹ, vì không làm chó săn cho chủ.” Giờ này (2014) anh rêu rao là hồi 1975 anh đã tuyên bố không di tản là nhằm ý gì? Để chứng tỏ với chế độ hiện hành là anh có công, anh từng có lòng “ở lại với cách mạng” từ 1975 chăng? Anh cứ yên tâm, lòng anh ra sao người ta đều biết cả.
Hết bài phỏng vấn!
__Tham khảo:
Nhà Văn Thụy Vũ: – một tác giả nữ bắt đầu xuất hiện trên văn đàn miền Nam từ những năm 60s trên Bách Khoa- cùng thời với một Túy Hồng điên “cơn điên tím” rất Huế, một Nguyễn Thị Hoàng chói chang (& rạo rực?!?) nắng hạ của “vòng tay học trò”, một Nhã Ca nói chuyện Huế Mậu Thân và “đời sống ôi buồn như cỏ khô”...Nguyễn Thị Thụy Vũ hiện ra với một hình ảnh trần trụi khác, đời sống của một tầng lớp khá đặc biệt trong xã hội miền Nam thời đó – đời sống của gái bán bar – nơi đó không có những chất vấn siêu hình, những suy tư thời cuộc, thân phận… như đã từng bắt gặp đâu đó trong những truyện ngắn, dài của các tác giả nữ cùng thời…mà chỉ là một trần trụi của đời sống & một cách thế sống riêng tây của một “tầng lớp” như thế, nhưng rốt ráo, họ vẫn là những con người, niềm riêng đầy đau đớn, sần sùi lại bị quăng quật vào một phông nền phi lý của chiến tranh – mặc dù trong nhiều truyện của Nguyễn Thị Thụy Vũ, bà chỉ như viết ra những diễn biến thấy ngay trước mắt – nhưng gieo vào lòng người đọc những suy nghĩ về những cái thỏa hiệp (phải có) với đời sống, cái nồng tanh của đời sống thay vì chỉ là những phong hoa tuyết nguyệt, những vuốt ve mơn man… Cách viết ấy, nếu có thể tượng hình, có thể đó là cái đau điếng quật xuống của làn roi, phô bày hết những nhức nhối.
Tuy nhiên, sau cái sự trần trụi ấy (trần trụi của cuộc sống gái bán bar, lấy Tây hay những mảnh đời đặc biệt, nhiều “ẩn ức” khác) – trần trụi từ ngôn ngữ của các nhân vật..cho đến ngôn ngữ xây dựng câu chuyện của tác giả – là một khát khao sống…sống ngay cả trong đống bùn của đời sống mang đến, của thân phận, sống trong những chông chênh của cuộc nội chiến, (mặc dù nhiều khi là) giành giựt nhau sống, tranh chấp nhau sống….Vượt thoát & sống! Sự phóng túng và nuông chiều chính bản thân trong những khát khao tầm thường, bản năng… buộc mình trôi theo dòng … làm rúng độc độc giả của miền Nam một thời là như thế…
Trong bài PV có nhắc đến truyện Muỗng Nước Mắm (cũng xuất hiện trong tuyển tập Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta 1974 với tên là Lòng Trần), một sự kiện về Vũ Hạnh, tôi cũng xin cung cấp tài liệu đó trên blog này
Viên Linh gọi Vũ Hạnh là “Anh Lùn Cạnh Nhà Thờ Đức Bà” trên tuần báo Nghệ Thuật số 27 tháng 4.1966. [VL chú thích]: Nguyên tháng 2.1966 trên tờ Tin Sách của Trung tâm Bút Việt (Văn Bút V.N.) Vũ Hạnh chê thơ tự do đang suy mòn và “thơ tự do hiện tại là con đẻ của lý trí nhất thời, đã bị lý trí từ khước, và nếu nó còn tồn tại ở mức nào là nhờ nó được nuôi dưỡng ở lòng tự ái nhiều hơn.” Ở đoạn khác ông ta viết: “Không có một cái nội dung dân tộc cụ thể, mọi sự đổi mới cũng sớm trở thành trừu tượng mâu thuẫn và xa dần dân tộc”.
Lúc đó ai cũng biết nhóm VC nằm vùng (trong có Vũ Hạnh), lúc nào cũng mang chiêu bài dân tộc làm một cái khiên để bôi nhọ các nhà văn gốc Bắc di cư vào Nam sau 1954 và chia rẽ họ với đồng bào trong Nam. Bài trên ông ta viết chỉ trích cuốn tiểu luận nhan đề Tiếp Nối của Trần Thanh Hiệp do Sáng Tạo xuất bản, nhân đó phỉ báng thơ tự do, phỉ báng các nhà thơ qua mấy chữ “thơ tự do còn tồn lại là nhờ được nuôi dưỡng bằng lòng tự ái” [của những người làm thơ]. Tôi dùng hình ảnh anh lùn để chỉ Vũ Hạnh, như một người có khuyết tật (như anh gù Quasimodo của Victor Hugo) sống cạnh nhà thờ là bám víu vào lòng bác ái của các tín đồ ngoan đạo, kiểu cán bộ Vũ Hạnh bám víu vào hai chữ dân tộc để che mắt miền Nam hầu sống còn trong khi mưu đồ của họ là khác}
TƯỞNG NĂNG TIẾN * TIỀN HỒ
Monday, September 1, 2014
Năm Ngàn & Năm Cắc - Tưởng Năng Tiến
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến (Danlambao)
Lão bà nghỉ chợ bần thần
Đem tiền (Cụ Hồ) ra đếm mấy lần chửa xong
Xếp riêng rồi lại xếp chung
Miệng thời lẩm bẩm mà... (không rõ nhời)!
Năm Ngàn & Năm Cắc - Tưởng Năng Tiến
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến (Danlambao)
Lão bà nghỉ chợ bần thần
Đem tiền (Cụ Hồ) ra đếm mấy lần chửa xong
Xếp riêng rồi lại xếp chung
Miệng thời lẩm bẩm mà... (không rõ nhời)!
Lão Nông
Vài bữa sau, sau ngày đổi tiền ở miền Nam, tờ Sài Gòn Giải phóng (số ra hôm 27 tháng 9 năm 1975) đã gửi đến những người dân ở vùng đất này đôi lời an ủi:
“Nhiệm vụ của đồng bạc Sài Gòn (là) giữ vai trò trung gian cho Diệm xuất cảng sức lao động của đồng bào ta ở miền Nam cho Mỹ... Làm trung gian để tiêu thụ xương máu nhân dân miền Nam, làm trung gian để tiêu thụ thân xác của vô số thiếu nữ miền Nam, làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ miền Nam, làm lụn bại cả phẩm chất một số người lớn tuổi... Nó sống 30 năm dơ bẩn, tủi nhục như các tên chủ của nó, và nay nó đã chết cũng tủi nhục như thế. Đó là một lẽ tất nhiên, và đó là lịch sử... Cái chết của nó đem lại phấn khởi, hồ hởi cho nhân dân ta.”
Ba mươi tám năm sau, nhà báo Huy Đức lại có lời bàn thêm, và bàn ra, nghe như một tiếng thở dài: “Không biết ‘tủi nhục’ đã mất đi bao nhiêu... nhưng rất nhiều tiền bạc của người dân miền Nam đã trở thành giấy lộn.” (Bên thắng cuộc, tập I. OsinBook, Westminster, CA: 2013).
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” ở nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm!
Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai.
Đồng tiền 50 xu, năm cắc, in hình ông Ngô Đình Diệm, phát hành năm 1960
Tờ một đồng, phát hành năm 1955
Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn - vào năm 1960 - khi mới vừa biết sài tiền?
Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá bào nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản - hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát - để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi cho đến khi xi rô bạc hết cả mầu mới ngừng tay, lễ phép xin thêm:
- Cho con thêm chút xi rô nữa được không?
- Được chớ sao không. Bữa nào tụi bay cũng vậy mà còn làm bộ hỏi!
Năm cắc đủ cho một chén bò viên, dù chỉ được một viên thôi nhưng khi nắp thùng nước lèo mở ra là không gian (của cả Sài Gòn) bỗng ngạt ngào hương vị. Chút nước thánh đó - sau khi đã nhai thiệt chậm miếng thịt pha gân vừa ròn, vừa ngậy - hoà nhẹ với chút xíu tương đỏ, tương đen, cùng ớt xa tế ngọt ngọt cay cay có thể khiến cho đứa bé xuýt xoa mãi cho đến... lúc cuối đời.
Năm cắc cũng đủ làm cho chú Chệt vội vã thắng xe, mở ngay bình móp, lấy miếng kem - xắn một phần vuông vắn, cắm phập vào que tre - rồi trịnh trọng trao hàng với nụ cười tươi tắn. Cắn một miếng ngập răng, đậu xanh ngọt lạnh thấm dần qua lưỡi, rồi tan từ từ... suốt cả thời thơ ấu.
Năm cắc là giá của nửa ổ bánh mì tai heo, nửa má xoài tượng hay một xâu tầm ruột ướp nước đường, một cuốn bò bía, một trái bắp vườn, một ly đậu xanh đậu đỏ bánh lọt, một dĩa gỏi đu đủ bò khô, một khúc mía hấp, năm cái bánh bò nước dừa xanh đỏ, mười viên cái bi ròn ròn cái bi ngon ngon nho nhỏ...
Một một đồng thì (Trời ơi!) đó là cả một trời, và một thời, hạnh phúc muôn mầu!
Một đồng mua được hai quả bóng bay. Chiều Sài Gòn mà không có bong bóng bay (cầm tay) để tung tăng e sẽ là một buổi chiều... tẻ nhạt. Những chùm bóng đủ mầu sẽ rực rỡ hơn khi phố mới lên đèn và sẽ rực rỡ mãi trong trong ký ức của một kẻ tha hương, dù tóc đã điểm sương.
Còn hai đồng là nguyên một tô cháo huyết có thêm đĩa dà trá quẩy ròn rụm đi kèm. Hai đồng là một tô mì xắt xíu với cái bánh tôm vàng ươm bên trên, và nửa cọng rau xà lách tươi xanh bên dưới. Tờ giấy bạc với mệnh giá quá lớn lao và rất hiếm hoi này, không ít lúc, đã khiến cho tuổi thơ của tôi vô cùng phân vân và bối rối!
Tờ bạc hai đồng, phát hành năm 1955
Và trong cái lúc mà tôi còn đang suy tính, lưỡng lự, cân nhắc giữa bốn cái kem đậu xanh năm cắc, bốn cuốn bò bía, bốn ly nước mía, hay một tô hủ tíu xắt xíu thịt bằm béo ngậy (cùng) giá hai đồng thì ở bên kia chiến tuyến người ta đã quyết định cho ra đời Mặt trận Giải phóng Miền Nam - vào ngày 20 tháng 12 năm 1960.
Hệ quả thấy được, vào mười lăm năm sau - vẫn theo báo Sài Gòn Giải phóng, số thượng dẫn:
“Miền Nam đã có một nền tiền tệ mới, khai sinh từ sự độc lập toàn vẹn của xứ sở, nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã nâng niu từng tờ bạc của Ngân hàng Việt Nam với một niềm hãnh diện chưa từng thấy sau bao nhiêu thế kỷ mất nước phải ép mình sống với đồng bạc của ngoại bang.”
Niềm hãnh diện được nâng niu từng tờ bạc mới (nếu có) cũng nhỏ dần sau từng đợt đổi tiền. Rồi với thời gian những tờ bạc này đã từ từ biến thành... giấy lộn - như tường thuật của nhà báo Bạch Nga, đọc được trên Vietnamnet hôm 21 tháng 5 năm 2012:
“Trong khi ngồi đợi xe ở trạm trung chuyển xe bus Long Biên, tôi được dịp chứng kiến cảnh một bà lão ăn xin chê tiền của khách.
‘Cô tính thế nào chứ 2 nghìn bây giờ chả đủ mua mớ rau, lần sau đã mất công cho thì cho ‘tử tế’ nhá!’
Câu nói của bà lão ăn xin khiến nhiều người phải sốc...
Chị Hương (Cầu Giấy – Hà Nội) chia sẻ câu chuyện có thật mà như đùa: ‘Nói thật, có lần gặp hai chị em nhà này đi ăn xin, thương tâm quá tôi liền rút ví ra đưa cho chúng 3 nghìn lẻ. Ngay lập tức, nó gọi tôi lại, giơ tờ 5 nghìn đồng lên trước mặt tôi bảo: cho chị thêm 2 nghìn cho đủ mua mớ rau nhé.”
Và đó là chuyện xẩy ra năm trước. Năm nay - sau khi dự phiên họp ngày 14 tháng 5 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, sau khi nghe các báo cáo của Chính phủ và Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính về ngân sách những tháng đầu năm 2013 - Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Doan bỗng (chợt) nhận ra rằng: “Tình hình kinh tế gay go lắm rồi!”
Ủa, “gay go” thiệt sao?
Mà “gay go” tới cỡ nào lận?
Ông Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, người đã từng lạc quan tuyên bố “năm 2015 sẽ có một Vinashin mới” nay đã bắt đầu đổi giọng: “Tình hình doanh nghiệp bi đát, tôi nghĩ có tới 100.000 doanh nghiệp chết chứ không phải chỉ mấy chục nghìn, tỉ lệ doanh nghiệp lỗ có thể còn hơn 65%.” Và đã đến nước này thì ông phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương,Nguyễn Xuân Cường, cũng đành phải (xuôi xị) nói theo thôi: “Tình hình đúng là hết sức đáng lo ngại.”
Điều lo ngại nhất là bó rau muống sẽ không ngừng ở giá năm ngàn đồng bạc. Dù với số tiền này - vào năm 1960 - đủ để mua hai ngàn tô phở gánh, hay hai ngàn năm trăm tô mì xe, hoặc mười ngàn chiếc bong bóng đủ mầu.
Tiền việt cộng
Bù lại, vẫn theo lời của bà Phó Chủ Tịch Nước Nguyễn Thị Doan, là mọi người được sống với“Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân... khác hẳn về bản chất và cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản.”
Cái giá của “dân chủ” (cũng như Độc lập - Tự do - Hạnh phúc) của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, rõ ràng, hơi mắc. Dân Việt, tội thay, không những đã hớ mà còn mua nhầm đồ giả và đồ đểu nữa mới chết (mẹ) chớ!
Tưởng Năng Tiến
danlambaovn.blogspot.com
Vài bữa sau, sau ngày đổi tiền ở miền Nam, tờ Sài Gòn Giải phóng (số ra hôm 27 tháng 9 năm 1975) đã gửi đến những người dân ở vùng đất này đôi lời an ủi:
“Nhiệm vụ của đồng bạc Sài Gòn (là) giữ vai trò trung gian cho Diệm xuất cảng sức lao động của đồng bào ta ở miền Nam cho Mỹ... Làm trung gian để tiêu thụ xương máu nhân dân miền Nam, làm trung gian để tiêu thụ thân xác của vô số thiếu nữ miền Nam, làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ miền Nam, làm lụn bại cả phẩm chất một số người lớn tuổi... Nó sống 30 năm dơ bẩn, tủi nhục như các tên chủ của nó, và nay nó đã chết cũng tủi nhục như thế. Đó là một lẽ tất nhiên, và đó là lịch sử... Cái chết của nó đem lại phấn khởi, hồ hởi cho nhân dân ta.”
Ba mươi tám năm sau, nhà báo Huy Đức lại có lời bàn thêm, và bàn ra, nghe như một tiếng thở dài: “Không biết ‘tủi nhục’ đã mất đi bao nhiêu... nhưng rất nhiều tiền bạc của người dân miền Nam đã trở thành giấy lộn.” (Bên thắng cuộc, tập I. OsinBook, Westminster, CA: 2013).
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” ở nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm!
Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai.
Đồng tiền 50 xu, năm cắc, in hình ông Ngô Đình Diệm, phát hành năm 1960
Tờ một đồng, phát hành năm 1955
Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn - vào năm 1960 - khi mới vừa biết sài tiền?
Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá bào nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản - hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát - để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi cho đến khi xi rô bạc hết cả mầu mới ngừng tay, lễ phép xin thêm:
- Cho con thêm chút xi rô nữa được không?
- Được chớ sao không. Bữa nào tụi bay cũng vậy mà còn làm bộ hỏi!
Năm cắc đủ cho một chén bò viên, dù chỉ được một viên thôi nhưng khi nắp thùng nước lèo mở ra là không gian (của cả Sài Gòn) bỗng ngạt ngào hương vị. Chút nước thánh đó - sau khi đã nhai thiệt chậm miếng thịt pha gân vừa ròn, vừa ngậy - hoà nhẹ với chút xíu tương đỏ, tương đen, cùng ớt xa tế ngọt ngọt cay cay có thể khiến cho đứa bé xuýt xoa mãi cho đến... lúc cuối đời.
Năm cắc cũng đủ làm cho chú Chệt vội vã thắng xe, mở ngay bình móp, lấy miếng kem - xắn một phần vuông vắn, cắm phập vào que tre - rồi trịnh trọng trao hàng với nụ cười tươi tắn. Cắn một miếng ngập răng, đậu xanh ngọt lạnh thấm dần qua lưỡi, rồi tan từ từ... suốt cả thời thơ ấu.
Năm cắc là giá của nửa ổ bánh mì tai heo, nửa má xoài tượng hay một xâu tầm ruột ướp nước đường, một cuốn bò bía, một trái bắp vườn, một ly đậu xanh đậu đỏ bánh lọt, một dĩa gỏi đu đủ bò khô, một khúc mía hấp, năm cái bánh bò nước dừa xanh đỏ, mười viên cái bi ròn ròn cái bi ngon ngon nho nhỏ...
Một một đồng thì (Trời ơi!) đó là cả một trời, và một thời, hạnh phúc muôn mầu!
Một đồng mua được hai quả bóng bay. Chiều Sài Gòn mà không có bong bóng bay (cầm tay) để tung tăng e sẽ là một buổi chiều... tẻ nhạt. Những chùm bóng đủ mầu sẽ rực rỡ hơn khi phố mới lên đèn và sẽ rực rỡ mãi trong trong ký ức của một kẻ tha hương, dù tóc đã điểm sương.
Còn hai đồng là nguyên một tô cháo huyết có thêm đĩa dà trá quẩy ròn rụm đi kèm. Hai đồng là một tô mì xắt xíu với cái bánh tôm vàng ươm bên trên, và nửa cọng rau xà lách tươi xanh bên dưới. Tờ giấy bạc với mệnh giá quá lớn lao và rất hiếm hoi này, không ít lúc, đã khiến cho tuổi thơ của tôi vô cùng phân vân và bối rối!
Tờ bạc hai đồng, phát hành năm 1955
Và trong cái lúc mà tôi còn đang suy tính, lưỡng lự, cân nhắc giữa bốn cái kem đậu xanh năm cắc, bốn cuốn bò bía, bốn ly nước mía, hay một tô hủ tíu xắt xíu thịt bằm béo ngậy (cùng) giá hai đồng thì ở bên kia chiến tuyến người ta đã quyết định cho ra đời Mặt trận Giải phóng Miền Nam - vào ngày 20 tháng 12 năm 1960.
Hệ quả thấy được, vào mười lăm năm sau - vẫn theo báo Sài Gòn Giải phóng, số thượng dẫn:
“Miền Nam đã có một nền tiền tệ mới, khai sinh từ sự độc lập toàn vẹn của xứ sở, nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã nâng niu từng tờ bạc của Ngân hàng Việt Nam với một niềm hãnh diện chưa từng thấy sau bao nhiêu thế kỷ mất nước phải ép mình sống với đồng bạc của ngoại bang.”
Niềm hãnh diện được nâng niu từng tờ bạc mới (nếu có) cũng nhỏ dần sau từng đợt đổi tiền. Rồi với thời gian những tờ bạc này đã từ từ biến thành... giấy lộn - như tường thuật của nhà báo Bạch Nga, đọc được trên Vietnamnet hôm 21 tháng 5 năm 2012:
“Trong khi ngồi đợi xe ở trạm trung chuyển xe bus Long Biên, tôi được dịp chứng kiến cảnh một bà lão ăn xin chê tiền của khách.
‘Cô tính thế nào chứ 2 nghìn bây giờ chả đủ mua mớ rau, lần sau đã mất công cho thì cho ‘tử tế’ nhá!’
Câu nói của bà lão ăn xin khiến nhiều người phải sốc...
Chị Hương (Cầu Giấy – Hà Nội) chia sẻ câu chuyện có thật mà như đùa: ‘Nói thật, có lần gặp hai chị em nhà này đi ăn xin, thương tâm quá tôi liền rút ví ra đưa cho chúng 3 nghìn lẻ. Ngay lập tức, nó gọi tôi lại, giơ tờ 5 nghìn đồng lên trước mặt tôi bảo: cho chị thêm 2 nghìn cho đủ mua mớ rau nhé.”
Và đó là chuyện xẩy ra năm trước. Năm nay - sau khi dự phiên họp ngày 14 tháng 5 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, sau khi nghe các báo cáo của Chính phủ và Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính về ngân sách những tháng đầu năm 2013 - Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Doan bỗng (chợt) nhận ra rằng: “Tình hình kinh tế gay go lắm rồi!”
Ủa, “gay go” thiệt sao?
Mà “gay go” tới cỡ nào lận?
Ông Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, người đã từng lạc quan tuyên bố “năm 2015 sẽ có một Vinashin mới” nay đã bắt đầu đổi giọng: “Tình hình doanh nghiệp bi đát, tôi nghĩ có tới 100.000 doanh nghiệp chết chứ không phải chỉ mấy chục nghìn, tỉ lệ doanh nghiệp lỗ có thể còn hơn 65%.” Và đã đến nước này thì ông phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương,Nguyễn Xuân Cường, cũng đành phải (xuôi xị) nói theo thôi: “Tình hình đúng là hết sức đáng lo ngại.”
Điều lo ngại nhất là bó rau muống sẽ không ngừng ở giá năm ngàn đồng bạc. Dù với số tiền này - vào năm 1960 - đủ để mua hai ngàn tô phở gánh, hay hai ngàn năm trăm tô mì xe, hoặc mười ngàn chiếc bong bóng đủ mầu.
Tiền việt cộng
Bù lại, vẫn theo lời của bà Phó Chủ Tịch Nước Nguyễn Thị Doan, là mọi người được sống với“Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân... khác hẳn về bản chất và cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản.”
Cái giá của “dân chủ” (cũng như Độc lập - Tự do - Hạnh phúc) của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, rõ ràng, hơi mắc. Dân Việt, tội thay, không những đã hớ mà còn mua nhầm đồ giả và đồ đểu nữa mới chết (mẹ) chớ!
Tưởng Năng Tiến
danlambaovn.blogspot.com
LƯU QUANG VŨ
Ký ức về những lần kiểm duyệt kịch Lưu Quang Vũ
Hà Linh
Thứ sáu, 29/8/2014 | 09:59 GMT+7
Thứ sáu, 29/8/2014 | 09:59 GMT+7
Giá trị phát hiện và phơi bày thực trạng xã hội trong kịch Lưu QuangVũ đã khiến các đạo diễn “trầy vi tróc vẩy” với những quy chụp nói xấu chế độ ở cái thời “ai cũng có quyền kiểm duyệt”.
NSND Phạm Thị Thành và
NSƯT Hoàng Quân Tạo là hai đạo diễn gắn bó với kịch Lưu Quang Vũ. Phạm
Thị Thành từng dựng 24 vở của anh, còn Hoàng Quân Tạo đã thắp đèn cho
hàng chục sân khấu từ Bắc chí Nam với bộ ba Tôi và Chúng ta, Khoảnh khắc và vô tận, Quyền được hạnh phúc… 26 năm sau khi Lưu Quang Vũ qua đời, bằng những cách lưu giữ khác nhau, ký ức của họ về anh lại sống dậy.
Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ (1948 – 1988).
|
Đạo diễn Phạm Thị Thành có một kho tư liệu nhỏ chứa ảnh, ghi chép, tờ chương trình, tờ quảng cáo… về những vở kịch bà từng dựng với Lưu Quang Vũ. Vừa chỉ tay vào một tấm ảnh trong cuốn album
đã úa vàng, bà vừa nói: “Vũ đây, cao to, lãng tử, chụp ảnh lúc nào cũng
đứng sau hoặc hai rìa mép. Anh ấy viết giỏi hơn nói; hay nép mình ở chỗ
đông người nhưng lại phơi bày đến tận cùng những khát khao của bản thân trên trang
viết”. Khát khao đó, nữ đạo diễn lý giải, là nói lên sự thật, vạch ra
những mặt trái và đòi hỏi sự minh bạch trong cuộc sống đương thời. Đạo
diễn Hoàng Quân Tạo mô tả: “Vũ hiền, hay cười, ít nói, trẻ tuổi nhưng
suy nghĩ rất già dặn, rất nhiều trăn trở”.
Sự già dặn, trăn trở ấy kết hợp với chất văn học của
kịch nói tạo nên tầm tư tưởng lớn cho những vở kịch của anh. Ở những năm
1980, khi phần lớn tác giả chỉ quen viết một chiều, nhìn một phía, phản ánh niềm tin tuyệt đối, thì các nhân vật của Lưu Quang Vũ luôn nghi
ngờ, luôn phản biện, thậm chí nói thẳng ra rằng: “Các đồng chí không
muốn hoặc không dám nhìn thẳng sự thật”; “Nguyên tắc sinh ra là để phục
vụ sự sống chứ không phải phục vụ những nguyên tắc” (Hoàng Việt – Tôi và Chúng ta); “Vẫn biết bác là đầy tớ của nhân dân nhưng đến được nhà các ông đầy tớ khó lắm” (Quých – Tôi và Chúng ta)… Giới phê bình nhận định, kịch Lưu Quang Vũ đã phát hiện, vạch ra gần như mọi sự bất ổn, xung đột của xã hội đương thời và dự báo, bảo vệ những mầm mống của cái mới, cái tiến bộ.
Chính vì tiếng nói mạnh mẽ, đi trước thời đại
đó, mà để đến được với công chúng ở cái thời “ai cũng có quyền kiểm
duyệt”, các đạo diễn, diễn viên đã phải trầy vi tróc vẩy. Đạo diễn Hoàng Quân Tạo chiasẻ,
bây giờ ngẫm lại, ông chỉ biết cười xòa nhưng những ngày đó, mỗi lần
dựng vở Lưu Quang Vũ là một lần ông phải trầy trật chỉnh lên sửa xuống
với bao nhiêu tầng kiểm duyệt. Ông kể, dựng Tôi và Chúng ta –
vở kịch về sự lạc hậu của cơ chế bao cấp, sự xung đột giữa cá nhân và
tập thể – ông phải qua ít nhất 12 lần duyệt. Đạo diễn ví dụ, chỉ với câu
thoại nhân vật Quých nói với Bộ trưởng: “Ở dưới các bác còn nhiều người
lợi dụng chức quyền làm khổ chúng tôi [...] mà các bác thì như giời ấy,
giời ở cao quá, không đến được”, ông phải lên gặp cơ quan kiểm duyệt
nhiều lần chỉ để trả lời câu hỏi: “Tại sao anh lại để nhân vật nói như
thế này?”.
Diễn viên Hoàng Cúc – người nổi tiếng với vai Thanh trong vở này – kể lại: “Thoại của nhân vật bị sửa chỗ này một chút, chỗ kia
một chút. Diễn viên chúng tôi rất khốn khổ, vừa tập vừa lo, vì chỉ cần
một người quên thoại, vấp thoại là vở có khả năng đứt mạch”. Khi Tôi và Chúng ta
được diễn cho các lãnh đạo Trung ương xem, đạo diễn Hoàng Quân Tạo quả
quyết: “Dám làm dám chịu, phải giữ lại bản gốc của Lưu Quang Vũ”. Trong
khi diễn, ở cánh gà bên này, một vị lãnh đạo phụ trách kiểm duyệt theo
sát từng chuyển động của diễn viên; ở cánh gà bên kia, Hoàng Quân Tạo
như ngồi trên đống lửa. Kết thúc cảnh một, trong lúc giải lao, ông hồi
hộp xuống khán đài hỏi ý kiến của Ủy viên Bộ Chính trị – Tố Hữu và Ủy
viên Ban bí thư Trung
ương Đảng – Hoàng Tùng. Tố Hữu nhận xét: “Hay! Tuyệt vời”, còn Hoàng
Tùng nói: “Đúng, tôi tán thành ý kiến của anh Lành”. Nghe vậy, ông mới
thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng không phải vở nào cũng may mắn như vậy. Ông kể,
có những vở đã được duyệt, phông đèn, ánh sáng đã xong xuôi, vé cũng đã
bán, đột nhiên, đạo diễn nhận được lệnh “ngừng diễn, thời điểm này chưa
thích hợp”. Những trường hợp như vậy, theo ông Tạo, không phải là hiếm.
Đạo diễn Phạm Thị Thành nhớ lại, bà gặp khó khăn nhất với ba vở của Lưu Quang Vũ: Mùa hạ cuối cùng, Nếu anh không đốt lửa và Người tốt nhà số 5. Với Mùa hạ cuối cùng
– vở kịch lấy đề tài trường lớp và những gian dối trong thi cử – bà và
tác giả kịch bị cho là “nói xấu 18 ban ngành”. “Việc bóc trần tiêu cực
trong thi cử bị cho là bêu xấu ngành giáo dục; chuyện học trò chê phim
Việt Nam bị nghi là xỏ xiên ngành điện ảnh, rồi họ còn tìm ra những chi
tiết liên quan đến Hội phụ nữ, các cơ quan đoàn thể khác, nhiều đến mức
tôi không nhớ nổi”, bà kể.
Khán giả đi xem vở Khoảnh khắc và vô tận của
Lưu Quang Vũ. Đạo diễn Hoàng Quân Tạo nhớ lại, vé một vở kịch lúc bấy
giờ khoảng bằng giá một bát phở chín (ba đồng phở tái, năm đồng phở
chín). Người đi xem rất đông, dù rạp lợp bằng mái tôn rất nóng nực. Ảnh tư liệu.
|
Còn với vở Nếu anh không đốt lửa phê phán
mạnh cơ chế quan liêu, bao cấp, “cặp bài trùng” Lưu Quang Vũ – Phạm Thị
Thành trải qua những giây phút nghẹt thở khi diễn cho Tổng bí thư Nguyễn
Văn Linh xem. Bà nhớ lại: “Chúng tôi vừa theo dõi vở diễn, vừa phán
đoán thái độ của ông. Lúc gần kết vở, một người trợ lý của ông đi đến
chỗ chúng tôi nhắn: Tổng bí thư yêu cầu tập hợp dàn diễn viên để tặng
hoa, ông rất hài lòng. Lúc đó chúng tôi như trút được gánh nặng”.
Người tốt nhà số 5 cũng vấp phải những chỉ
trích mạnh mẽ sau khi công diễn với lý do “nói xấu chế độ”. “Họ nói,
phản ánh như thế là bôi đen, có 5 hộ thì đến 4 nhà ích kỷ, xấu xa; chỉ
có duy nhất một người tốt. Nhưng rất may, ông Trần Độ, Trưởng ban Văn
hóa Văn nghệ Trung ương lúc đó, rất ủng hộ chúng tôi. Vở kịch vì thế
được đưa đi tham dự Hội diễn sân khấu 1985 tại Vinh, Nghệ An và đoạt
giải Vàng”, nữ đạo diễn kể.
Bất chấp cơ chế kiểm duyệt phức tạp, kịch Lưu
Quang Vũ đã góp phần đưa thập niên 1980 trở thành thời kỳ đỉnh cao trong
lịch sử sân khấu dân tộc. Diễn viên Hoàng Cúc cho biết, vở Tôi và Chúng ta,
đoàn kịch diễn ròng rã hàng tháng trời ở một điểm, mỗi ngày ba suất mà
suất nào cũng đông. “Còn Lưu Quang Vũ được chúng tôi gọi là ‘Bà mẹ Âu
Cơ’ vì anh khả năng ‘đẻ’ phi thường. Đoàn nào cũng đặt hàng, thúc giục
và đòi kịch của anh”.
Đạo diễn Phạm Thị Thành có một cuốn sổ nhỏ, bìa nâu, các trang
giấy đã úa vàng. Trong sổ, bà ghi chép cụ thể chi tiết những lần duyệt
vở Lưu Quang Vũ. Đoạn chú thích trên là các ý kiến khi kiểm duyệt vở Mùa hạ cuối cùng, trong đó, Trần Độ nhận xét: “Vở tốt lắm, vấn đề đặt ra hay, giải quyết được, bắt người xem phải suy nghĩ”.
|
Đạo diễn Phạm Thị Thành và Hoàng Quân Tạo giải thích,
sân khấu những năm 1980 phát triển hoàng kim bởi những tài năng như Trần
Quán Anh, Xuân Trình, Lưu Quang Vũ… một mặt bị thúc bách bởi những yêu
cầu của thực tiễn về việc cất lên tiếng nói phản biện. Mặt khác, bên
cạnh cơ chế kiểm duyệt khắt khe, họ cũng được tạo “cú hích” bởi chính
sách mở cửa, “cởi trói” cho văn nghệ sĩ giữa những năm 1980. Tháng
10/1987, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh có cuộc gặp gỡ với đông đảo văn
nghệ sĩ để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của họ. Trong sự kiện này, Lưu
Quang Vũ đã chia sẻ mong muốn phá bỏ “bao cấp về tư tưởng”, phá bỏ “tình
trạng một người suy nghĩ cho mọi người”, để tôn trọng sự sáng tạo trong
văn hóa, nghệ thuật.
Ngay cả khát vọng đó, theo ông Hoàng Quân Tạo, đến nay
vẫn còn giá trị. Ông kể: “Tôi và Vũ từng rất nản, rất trăn trở nhưng
chưa từng trách giận những người kiểm duyệt. Bởi đơn giản, họ chỉ làm
công việc của mình. Nhưng tôi mong kiểm duyệt không chỉ là chăm chắm soi
những chi tiết gây suy diễn mà còn phải phát hiện, nâng đỡ cái hay, cái
tốt, những yếu tố tích cực để khuyến khích sáng tạo”.
Ngày 29/8/1988, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh và con trai
họ – cháu Lưu Quỳnh Thơ – ra đi trong một tai nạn giao thông. Đó là tổn
thất to lớn cho nền văn học nghệ thuật Việt Nam. Riêng với sân khấu
kịch, đến nay, người ta vẫn chưa tìm thấy một Lưu Quang Vũ thứ hai.
Hoàng Cúc nói: “Tôi chưa thấy nhà viết kịch nào được như anh – một người
lúc còn sống khiến cho người khác tỏa sáng lên cùng mình; và khi chết
đi khiến cho người ta muốn khóc đến giọt nước mắt cuối cùng”.
Những năm gần đây, hàng loạt vở kịch của Lưu Quang Vũ
được dàn dựng lại. Năm 2013, Liên hoan Các vở diễn của tác giả Lưu Quang
Vũ do Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam tổ chức thu hút 9 đoàn với 12 vở
tham gia, tạo nên không khí sôi động cho sân khấu kịch. Khán giả vẫn tiếp tục khóc, cười, thậm chí “nổi giận” với những vở kịch của ông.
Năm nay, chỉ tính riêng ở sân khấu Hà Nội, có 5 tác phẩm được trình diễn để tưởng nhớ Lưu Quang Vũ, gồm: Bệnh sĩ, Lời thề thứ 9, Chèo Nàng Sita, Mùa hạ cuối cùng và Hồn Trương Ba, da Hàng Thịt.
Nhằm khuyến khích khán giả thưởng thức những tác phẩm hay của sân khấu,
giá vé được bán với mức trung bình từ 120.000 đến 150.000 đồng. Các vở
kịch được biểu diễn tại Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội.
Lịch biểu diễn 5 tác phẩm Lưu Quang Vũ:
– Vở kịch Bệnh sĩ: 20h ngày 28/8.
– Đêm thơ Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ và vở kịch Lời thề thứ 9: 20h ngày 29/8. – Vở kịch Hồn Trương Ba, da Hàng Thịt: 20h ngày 30/8. – Vở chèo Nàng Sita: 20h ngày 31/8. – Vở kịch Mùa hạ cuối cùng: 20h ngày 1/9. |
Hà Linh
********
Nguồn:
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/san-khau-my-thuat/san-khau/ky-uc-ve-nhung-lan-kiem-duyet-kich-luu-quang-vu-3044211.html
Thứ Hai 1-09-2014
_____________________________
CÁI CHẾT CỦA LƯU QUANG VŨ VÀ NHỮNG "TAI NẠN" NGẪU NHIÊN ĐÁNG NGỜ
Tim Phạm
29-8-2014
Hôm nay là ngày kỷ niệm 26 năm ngày nhà văn Lưu Quang Vũ, nhà thơ Xuân Quỳnh, cùng con trai là Lưu Quỳnh Thơ từ giã cõi đời trong một vụ “tai nạn giao thông” đầy bí ẩn và đầy hoài nghi vào ngày 29/08/1988.
29-8-2014
Hôm nay là ngày kỷ niệm 26 năm ngày nhà văn Lưu Quang Vũ, nhà thơ Xuân Quỳnh, cùng con trai là Lưu Quỳnh Thơ từ giã cõi đời trong một vụ “tai nạn giao thông” đầy bí ẩn và đầy hoài nghi vào ngày 29/08/1988.
Nhà văn Lưu Quang Vũ là một trong số rất ít những người thuộc
thành phần trí thức thời bấy giờ đã dám hưởng ứng cái gọi là phong trào “Nói Thẳng,
Nói Thật” mà lịch sử đã chứng minh chỉ là một cái bẫy để tiêu diệt những thành
phần bất mãn trong nội bộ đảng, và những người bất đồng chính kiến. Bằng ngòi bút
vô cùng sắc bén của mình, nhà văn Lưu Quang Vũ đã viết nên những tác phẩm, những
vở kịch vô cùng độc đáo để châm biếm và lên án một chế độ cộng sản độc tài, bất
công, hủ lậu, xấu xa, và ngu dốt.
Những tác phẩm của anh đã tố cáo và vạch trần sự gian trá, xảo quyệt, bịp bợm của chủ nghĩa cộng sản và của các đảng viên cộng sản tại Việt Nam. Những vở kịch như: Tôi Và Chúng Ta, Chiếc Ô Công Lý, Ông Không Phải Là Bố Tôi, Lời Nói Dối Cuối Cùng, v.v… đã lột trần bộ mặt giả dối, độc ác, và vô nhân của chế độ cộng sản. Những vở kịch này cũng đã nói lên được những điều mà người dân Việt Nam cả hai miền Nam, Bắc thấy được nhưng không có đủ can đảm để vạch trần.
Những tác phẩm của anh đã tố cáo và vạch trần sự gian trá, xảo quyệt, bịp bợm của chủ nghĩa cộng sản và của các đảng viên cộng sản tại Việt Nam. Những vở kịch như: Tôi Và Chúng Ta, Chiếc Ô Công Lý, Ông Không Phải Là Bố Tôi, Lời Nói Dối Cuối Cùng, v.v… đã lột trần bộ mặt giả dối, độc ác, và vô nhân của chế độ cộng sản. Những vở kịch này cũng đã nói lên được những điều mà người dân Việt Nam cả hai miền Nam, Bắc thấy được nhưng không có đủ can đảm để vạch trần.
Trong khoảng thời gian ngắn ngủi của những năm đó, cả nước
háo hức chờ xem những vở kich của Lưu Quang Vũ. Những vở kịch đó đã là những đề
tài để mọi người bàn luận và những câu nói trong những vở kịch đó đã được mọi
người dùng để giễu cợt và châm biếm chế độ một cách rất thích thú và hả hê!
Ngay cả những cán bộ cộng sản tập kết ra Bắc trước năm 1954 và tỉnh ngộ ngay
sau ngày cộng sản chiếm miền Nam cũng rất hả hê và cười đến “té ghế“ khi xem những
vở kịch này.
Thế nhưng, những người hiểu biết hơn về cộng sản thì luôn
hoài nghi về cái phong trào “Nói Thẳng, Nói Thật” đó và họ luôn ái ngại, lo lắng
về những chuyện không may có thể xảy ra cho một nhà văn tài hoa, dũng cảm, và
được mọi người yêu mến. Họ đã nghe hoặc học đươc những bài học tương tự và kết
quả thảm khốc của những Nhân Văn Giai Phẩm ở miền Bắc và Trăm Hoa Đua Nở ở
Trung Quốc.
Cuối cùng thì việc sẽ đến đã đến. Ngày 29/08/1988 cả nước
đau đớn và bàng hoàng khi nghe tin Lưu Quang Vũ, nhà thơ Xuân Quỳnh, và con
trai Lưu Quỳnh Thơ bị tử nạn trong một vụ tai nạn giao thông ở Hải Dương. Những
hoài nghi, lo lắng của những người hiểu biết về cộng sản hoàn toàn đúng! Mọi
người rỉ tai nhau rằng gia đình Lưu Quang Vũ đã bị chế độ độc tài cộng sản hãm
hại mặc cho báo đài của cộng sản vẫn tung tin về cái chết của gia đình Lưu
Quang Vũ như là một tai nạn giao thông.
Sao ngẫu nhiên vậy? Và nếu nói về ngẫu nhiên thì CSVN chắc hẳn
phải là nhà sản xuất những sự ngẫu nhiên thuộc hàng bậc nhất thế giới! Trong lịch
sử của đảng CSVN, tất cả những người bất đồng chính kiến hay bất mãn chế độ đều
kết thúc cuộc đời trong những cái chết vô cùng ngẫu nhiên, bất đắc kỳ tử, và bởi
những “tai nạn” rất đáng nghi ngờ và những chứng bệnh vô cùng khó hiểu.
Trớ trêu thay và ngẫu nhiên thay, vụ an ninh cộng sản đâm thẳng
xe vào Luật sư Nguyễn Bắc Truyển lại xảy ra chỉ một ngày trước ngày kỷ niệm 26
năm cái chết đầy oan ức của gia đình Lưu Quang Vũ. Rất may là Luật sư
Truyển đã không bị nguy hiểm đến tánh mạng, nếu không thì các báo, đài của cộng
sản sẽ lại có thêm một tai nạn vô cùng ngẫu nhiên nữa để lừa gạt người dân cả
nước!
Rồi sẽ có thêm bao nhiêu những vụ “tai nạn giao thông” nữa
được nhà cầm quyền cộng sản giàn dựng để hãm hại những người bất đồng chính kiến?
Và rồi sẽ có mấy ai tin còn rằng đó là những tai nạn giao thông? Chúng ta đã biết
quá nhiều về cộng sản để có thể tin vào những tai nạn quá ngẫu nhiên như vậy!
Xin được cầu chúc cho hương hồn nhà văn Lưu Quang Vũ, nhà
thơ Xuân Quỳnh, và Lưu Quỳnh Thơ được yên nghỉ nơi cõi vĩnh hằng, nơi mà những
“Lời Nói Dối Cuối Cùng” của cộng sản sẽ được phơi bày ra ánh sáng mà không có một
“Cái Ô Công Lý” nào có thể che đậy được!
CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN LÀ MỘT SAI LẦM
Chọn Chủ nghĩa Cộng sản là sai lầm'
Cập nhật: 09:34 GMT - thứ bảy, 30 tháng 8, 2014
Media Player
Việc lựa chọn chủ nghĩa cộng sản là một 'sai lầm' theo ý kiến của một cựu Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước TP. Hồ Chí Minh.
Trao đổi với BBC nhân bà Võ Thị Thắng, nguyên Ủy
viên Trung ương Đảng mới qua đời ở Sài Gòn, ông Huỳnh Kim Báu, cựu đồng
chí của bà Thắng trong thời gian trước 1975 tại Sài Gòn, nói:
"Chủ nghĩa Cộng sản là một sai lầm. Phải đấu tranh để loại bỏ nó đi, xây dựng một xã hội dân chủ. Chứ không thể nào duy trì một chế độ độc tài độc đảng như hiện nay"
Ông Huỳnh Kim Báu
"Khi hòa bình, chúng tôi mới tiếp cận tài liệu
và qua thực tế, thì chúng tôi mới thấy rằng chọn Chủ nghĩa Cộng sản là
một sai lầm.
"Phải đấu tranh để loại bỏ nó đi, xây dựng một
xã hội dân chủ chứ không thể nào duy trì một chế độ độc tài độc đảng như
hiện nay."
Về giới cầm quyền hiện nay ở Việt Nam, ông Hùynh Kim Báu nêu nhận xét:
"Còn giới cầm quyền, bây giờ gọi là Đảng đấy, thì đều bị tha hóa rồi, họ không còn thực hiện lý tưởng như hồi chúng tôi chọn."
Theo ông Báu, bà Võ Thị Thắng, sau khi nghỉ hết
các chức vụ đảng và chính quyền có 'chia sẻ' các suy nghĩ này của các
cựu đồng chí của bà.
"Vâng đúng rồi, chúng tôi cùng một quan điểm, cùng một lập trường mà," ông Báu khẳng định.
Ở phần mở đầu cuộc trao đổi với BBC, ông Báu đưa
ra nhận xét về con người và nhân cách của bà Võ Thị Thắng, cũng như về
một 'nghi án' chính trị chống lại bà Thắng từ trong nội bộ Đảng và chính
quyền Việt Nam.
Ông Huỳnh Kim Báu nguyên là giáo viên tại
miền Nam Việt Nam, từng tham gia các phong trào sinh viên có liên hệ với
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền nam Việt Nam ở Sài Gòn và Nam bộ, từng
là tù chính trị trong chế độ ở miền Nam trước 30/4/1975.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2014/08/140829_huynhkimbau_party_vothithang.shtml
"Chọn Chủ Nghĩa Cộng Sản là Sai Lầm,"
Huỳnh Kim Báu, một "Trí Thức Yêu Nước" nói.
Phan Vũ
Hai danh từ đối chọi nhau: Trí Thức và Sai Lầm. Galileo (1564-1642) nhà trí thức không sai lầm. Trí thức phải hoài nghi (douteux, doubtful). Khi không hồ nghi sẽ sai lầm. Trần Đức Thảo sai lầm năm 1954 và năm 1982 (?) Lê văn Thới thấy sai lầm nên "đi chui" và bị bắt lại... Năm sau, Nguyễn Hữu Thọ và bà Ngô Bá Thành phát biểu sai lầm nên mất chức. Năm nay 2014, Võ thị Thắng và Huỳnh kim Báu mới nhận sai lầm: Trễ còn hơn không; tuy nhiên bàn tay các người đã nhúng chàm đậm. Làm sao tẩy cho sạch đây?
Tình trạng đất nước rất bi đát về đất đai, biển đảo và kinh tế. Đất nước và đảo thuộc về sở hữu tập thể cộng đồng (collective ownership) của Nhân dân nhưng Đảng Việt Cộng và nhà nước quản lý: Chính phủ toàn quyền qui hoạch và cấp quyền sử dụng. Phạm văn Đồng ký giao cho Trung Cộng quyền sử dụng quần đảo Hoàng Sa.
Từ tháng 2 năm 2014, Trung Cộng thổi cát nới rộng mặt bằng đảo Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa. Tháng 7 năm 2014, Trung Cộng đã xây trại lính, kho chứa nhiên liệu, trung tâm liên lạc, đặt các giàn hỏa tiễn, xây đường băng sân bay trên sáu (6 ) đảo và bắt đầu xây dựng đảo thứ 7. Muốn hợp thức hóa bằng văn kiện, Ban thường vụ Trung Cộng mời ban bí thư Đảng Việt Công sang Bắc Kinh họp bàn vấn đề hợp tác cùng phát triễn chung giữa hai quốc gia và không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp. Nói cách khác, Lê Hồng Anh sang ký văn kiện xác nhận "sự kiện đã có rồi" (de facto) trên quần đảo Trường Sa. Lê Hồng Anh, bộ trưởng Công An "không đi không được" (Ngô Vĩnh Long). Lê Hồng Anh đã phải ký bản hợp tác cùng phát triển sử dụng quần đảo Trường Sa. Rất hợp lý theo nội dung bản chỉ đạo quan hệ song phương. Văn kiện giao quyền sử dụng đảo Gạc Ma cho Trung Cộng người dân Việt gọi là Sổ Đỏ.
"Chọn Chủ Nghĩa Cộng Sản là Sai Lầm,"
Huỳnh Kim Báu, một "Trí Thức Yêu Nước" nói.
Phan Vũ
Hai danh từ đối chọi nhau: Trí Thức và Sai Lầm. Galileo (1564-1642) nhà trí thức không sai lầm. Trí thức phải hoài nghi (douteux, doubtful). Khi không hồ nghi sẽ sai lầm. Trần Đức Thảo sai lầm năm 1954 và năm 1982 (?) Lê văn Thới thấy sai lầm nên "đi chui" và bị bắt lại... Năm sau, Nguyễn Hữu Thọ và bà Ngô Bá Thành phát biểu sai lầm nên mất chức. Năm nay 2014, Võ thị Thắng và Huỳnh kim Báu mới nhận sai lầm: Trễ còn hơn không; tuy nhiên bàn tay các người đã nhúng chàm đậm. Làm sao tẩy cho sạch đây?
Tình trạng đất nước rất bi đát về đất đai, biển đảo và kinh tế. Đất nước và đảo thuộc về sở hữu tập thể cộng đồng (collective ownership) của Nhân dân nhưng Đảng Việt Cộng và nhà nước quản lý: Chính phủ toàn quyền qui hoạch và cấp quyền sử dụng. Phạm văn Đồng ký giao cho Trung Cộng quyền sử dụng quần đảo Hoàng Sa.
Từ tháng 2 năm 2014, Trung Cộng thổi cát nới rộng mặt bằng đảo Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa. Tháng 7 năm 2014, Trung Cộng đã xây trại lính, kho chứa nhiên liệu, trung tâm liên lạc, đặt các giàn hỏa tiễn, xây đường băng sân bay trên sáu (6 ) đảo và bắt đầu xây dựng đảo thứ 7. Muốn hợp thức hóa bằng văn kiện, Ban thường vụ Trung Cộng mời ban bí thư Đảng Việt Công sang Bắc Kinh họp bàn vấn đề hợp tác cùng phát triễn chung giữa hai quốc gia và không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp. Nói cách khác, Lê Hồng Anh sang ký văn kiện xác nhận "sự kiện đã có rồi" (de facto) trên quần đảo Trường Sa. Lê Hồng Anh, bộ trưởng Công An "không đi không được" (Ngô Vĩnh Long). Lê Hồng Anh đã phải ký bản hợp tác cùng phát triển sử dụng quần đảo Trường Sa. Rất hợp lý theo nội dung bản chỉ đạo quan hệ song phương. Văn kiện giao quyền sử dụng đảo Gạc Ma cho Trung Cộng người dân Việt gọi là Sổ Đỏ.
Các hình này lấy từ đài NHK/World.
Một sự mĩa mai nực cười to lớn (big irony): trong nước, Việt Cộng chiếm đất của dân oan, giao
quyền sử dụng cho công ty nước ngoài xây cơ sở. Trong hợp đồng nhà nước giữ 51% cồ phần và công ty nước ngoài có 49% cổ phần; như thế nhà nước có lợi, nên tha hồ mà đánh dân oan. Nhưng sự chuyển nhượng quyền sử dụng đảo Gac Ma, Trung Cộng bắt Việt Cộng phải ký hợp đồng mà Việt Cộng không có cổ phần và cũng không có lợi nhuận. Sư sợ hãi và bối rối lộ rõ trên mặt Lê Hồng Anh khi ngồi với Tập Cẩm Bình.
Đã có quyền đồng sử dụng quần đảo Trường Sa, Trung Cộng đã uy hiếp máy bay thám thính của Mỹ và sẽ xác định không phận cấm bay trên quần đảo Trường Sa. Cửa vào Biển Nam Đông (the South East Sea) đã có nút chặn tại Gạc Ma và cửa ra đã có tiền đồn Trung Cộng tại quần đão Hoàng Sa.
Nền kinh tế Việt Nam sa sút thê thảm: không có nguyên liệu của Trung Quốc, tất cả công ty ngưng sản xuất. Các nguyên liệu nhập từ Nhật, Nam Hàn hay Ấn Độ giá cao, giá thành phẩm tăng, nên khó xuất cảng. Dịch vụ du lịch đóng cửa vì không có khách... Nợ xấu của CSVN lên tới cả trăm tỷ... Hà Nội đang mong chờ dự án xây dựng tàu điện ngầm tại Saigon để có tiền chi trả và vay nợ để ăn...
Tuy nhiên cái ôm thắm thiết giữa Bodi và Abe (Thủ tướng Ấn độ và Nhật) gây lo sợ cho Hà nội. Ấn độ béo bở hơn Việt nam vì cùng một chế độ dân chủ, dễ tin nhau hơn và đông dân hơn.
Các nhà bình luận Việt Nam không nhận thấy sự mĩa mai nực cười nói trên, đã có những nhận định không chính xác vì không dựa vào sự kiện cụ thể.
Ý đồ của Trung Cộng đã rõ nét: Biển Việt Nam sẽ là "the South China Sea" có nút chặn ở cửa vào và cửa ra. Bộ Chinh Trị và Trung ương đảng Việt Cộng sẽ bị gạt ra, Lê Hồng Anh và các bí thư tỉnh phải thi hành lệnh của Bắc Kinh...
Nhà trí thức yêu nước Huỳnh Kim Báu nhìn thấy sự mĩa mai đó, đau khổ mà chập nhận sai lầm của đời ông và của các nhà Cách mạng Mùa Thu.
Quí vị phải làm một điều gì để rửa sach bàn tay nhúng chàm của quí vị. Mong lắm thay!
TIN THẾ GIỚI
Thứ Tư, 03/09/2014
Trung Quốc đưa giàn khoan mới đến biển Đông Trung Hoa
- Trung Quốc tuyên bố không theo đuổi bá quyền trong khu vực
- Vụ xử ngư dân TQ tại Philippines nêu bật căng thẳng ở Biển Đông
- Trung Quốc mở tour du lịch mới ra Hoàng Sa
- Phong trào dân chủ Hong Kong tuyên bố không lùi bước
- TQ đánh dấu ngày Nhật Bản bị đánh bại trong Thế Chiến thứ 2
- Nhật Bản, Philippines hợp tác chống thái độ khiêu khích của TQ
- Đài Loan không muốn bị loại khỏi các cuộc đàm phán Biển Đông
03.09.2014
Tuy nhiên vị trí chính xác của giàn khoan này không được tiết lộ, và cũng không rõ giàn khoan này có đặt gần vùng biển tranh chấp hay không.
Trung Quốc và Nhật Bản vẫn tranh cãi về vùng đặc quyền kinh tế của mình trên biển. Trung Quốc cho biết họ phát hiện một mỏ khí đốt thiên nhiên dưới đáy biển trong vùng đặc quyền kinh tế của mình vào năm 1995.
Nhật Bản cũng đã cho biết họ có thể khai thác mỏ khí này trải dài vào bên trong khu vực tranh chấp.
Hai bên nhất trí cùng hợp tác khai thác mỏ này vào năm 2008 nhưng đã có không có tiến bộ nào kể từ đó.
Một thông cáo của đơn vị lắp ráp giàn khoan cho biết giàn khoan khởi sự suôn sẻ bất chấp có những khó khăn vì bão.
Thông cáo cũng cho biết giàn khoan sẽ khoan đến độ sâu 5.200 mét.
Nguồn: South China Morning Post/China.org.cn
http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-dua-gian-khoan-moi-den-bien-dong-trung-hoa/2437748.html
Trung Quốc đưa giàn khoan Khải Hoàn 1 đến biển Hoa Đông
Một giàn khoan dầu của tập đoàn Trung Quốc CNOOC
(DR)
Theo tờ South China Morning Post của Hồng Kông hôm nay
03/09/2014, Bắc Kinh đã đưa một giàn khoan mới đến thăm dò tại biển Hoa
Đông, khu vực bao gồm cả vùng biển tranh chấp với Nhật Bản. Trang web
của chính phủ Trung Quốc cũng đưa tin « Giàn khoan Khải Hoàn 1 đi vào hoạt động tại biển Hoa Đông ».
Công ty đóng giàn khoan này là Cosco Shipyard (Tập đoàn Viễn
dương Trung Quốc) không muốn tiết lộ vị trí chính xác của giàn khoan
Khải Hoàn 1 (Kaixuan-1). South China Morning Post nói rằng không thể
biết được khu vực đặt giàn khoan Khải Hoàn 1 có gần vùng biển thuộc quần
đảo Senkaku/Điếu Ngư tranh chấp với Nhật Bản hay không.
Trang china.org.cn, khi loan tin giàn khoan này đi vào hoạt động tại biển Hoa Đông, đã khoe rằng đây là giàn khoan tự nâng, tiêu biểu cho công nghệ tiên tiến nhất thế giới. Theo trang mạng chính phủ Trung Quốc, tuy trước đây có thông tin cho rằng Khải Hoàn 1 hướng về vùng biển Điếu Ngư (tức quần đảo Senkaku hiện do Nhật quản lý) để tiến hành hoạt động, nhưng nay chưa có chứng cớ nào củng cố cho cáo buộc này.
Cũng theo trang web trên, Khải Hoàn 1 do tập đoàn Cosco Shipyard đặt ở Nam Thông (Nantong) tự thiết kế, là giàn khoan tự hành hiện đại nhất được đóng tại Trung Quốc. Giàn khoan này có khả năng khoan đến độ sâu 5.200 mét, có khu vực lưu trú cho 150 nhân viên sống và làm việc tại chỗ. Ban đầu, Khải Hoàn 1 được đóng cho công ty KS Energy của Singapore, nhưng sau ICBC Financial Leasing mua và cho China Oilfield Service thuê lại theo hợp đồng ký ngày 17/07.
Theo thông cáo của Cosco Shipyard, Khải Hoàn 1 đã khởi đầu hoạt động khoan thăm dò suôn sẻ mặc cho các cơn bão đe dọa. China Oilfield Service và China National Offshore Oil không trả lời các câu hỏi của tờ South China Morning Post về giàn khoan này.
Tờ báo Hồng Kông nói thêm, bên cạnh vấn đề chủ quyền quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, Trung Quốc và Nhật Bản tranh chấp kịch liệt vùng đặc quyền kinh tế tại biển Hoa Đông. Bắc Kinh vào năm 1995 loan báo phát hiện được một mỏ khí dưới đáy biển được đặt tên là Xuân Hiểu (Chunxiao), được cho là thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, nhưng Tokyo tuyên bố Nhật cũng có thể khai thác các mỏ dầu khí trải dài theo khu vực tranh chấp. Hai nước đã ký một thỏa thuận năm 2008 để cùng khai thác mỏ Xuân Hiểu, nhưng từ đó đến nay chưa có tiến triển gì.
Trong những năm gần đây, Bắc Kinh đấu khẩu dữ dội với các láng giềng để tranh giành chủ quyền lãnh thổ, nhất là với Việt Nam và Philippines tại Biển Đông. South China Morning Post nhắc lại, các cuộc biểu tình chống Trung Quốc đã diễn ra tại Việt Nam hồi tháng Năm, sau khi Bắc Kinh tự tiện đưa giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 vào vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa. Giàn khoan này được kéo trở ra vào tháng Bảy, sớm hơn dự kiến một tháng, và Bắc Kinh nói rằng do công việc đã hoàn tất.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20140903-trung-quoc-dua-gian-khoan-khai-hoan-1-den-bien-hoa-dong
Trang china.org.cn, khi loan tin giàn khoan này đi vào hoạt động tại biển Hoa Đông, đã khoe rằng đây là giàn khoan tự nâng, tiêu biểu cho công nghệ tiên tiến nhất thế giới. Theo trang mạng chính phủ Trung Quốc, tuy trước đây có thông tin cho rằng Khải Hoàn 1 hướng về vùng biển Điếu Ngư (tức quần đảo Senkaku hiện do Nhật quản lý) để tiến hành hoạt động, nhưng nay chưa có chứng cớ nào củng cố cho cáo buộc này.
Cũng theo trang web trên, Khải Hoàn 1 do tập đoàn Cosco Shipyard đặt ở Nam Thông (Nantong) tự thiết kế, là giàn khoan tự hành hiện đại nhất được đóng tại Trung Quốc. Giàn khoan này có khả năng khoan đến độ sâu 5.200 mét, có khu vực lưu trú cho 150 nhân viên sống và làm việc tại chỗ. Ban đầu, Khải Hoàn 1 được đóng cho công ty KS Energy của Singapore, nhưng sau ICBC Financial Leasing mua và cho China Oilfield Service thuê lại theo hợp đồng ký ngày 17/07.
Theo thông cáo của Cosco Shipyard, Khải Hoàn 1 đã khởi đầu hoạt động khoan thăm dò suôn sẻ mặc cho các cơn bão đe dọa. China Oilfield Service và China National Offshore Oil không trả lời các câu hỏi của tờ South China Morning Post về giàn khoan này.
Tờ báo Hồng Kông nói thêm, bên cạnh vấn đề chủ quyền quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, Trung Quốc và Nhật Bản tranh chấp kịch liệt vùng đặc quyền kinh tế tại biển Hoa Đông. Bắc Kinh vào năm 1995 loan báo phát hiện được một mỏ khí dưới đáy biển được đặt tên là Xuân Hiểu (Chunxiao), được cho là thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, nhưng Tokyo tuyên bố Nhật cũng có thể khai thác các mỏ dầu khí trải dài theo khu vực tranh chấp. Hai nước đã ký một thỏa thuận năm 2008 để cùng khai thác mỏ Xuân Hiểu, nhưng từ đó đến nay chưa có tiến triển gì.
Trong những năm gần đây, Bắc Kinh đấu khẩu dữ dội với các láng giềng để tranh giành chủ quyền lãnh thổ, nhất là với Việt Nam và Philippines tại Biển Đông. South China Morning Post nhắc lại, các cuộc biểu tình chống Trung Quốc đã diễn ra tại Việt Nam hồi tháng Năm, sau khi Bắc Kinh tự tiện đưa giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 vào vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa. Giàn khoan này được kéo trở ra vào tháng Bảy, sớm hơn dự kiến một tháng, và Bắc Kinh nói rằng do công việc đã hoàn tất.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20140903-trung-quoc-dua-gian-khoan-khai-hoan-1-den-bien-hoa-dong
Chuyến đi khôi phục 16 chữ vàng và 4 tốt
Ba điểm thống nhất được công khai sau chuyến làm việc tại Bắc Kinh
của ông Lê Hồng Anh, Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị Đảng Cộng sản
Việt Nam, khiến dư luận quan ngại. Lý do là Hà Nội không thay đổi gì
trong quan hệ với Bắc Kinh sau sự cố giàn khoan Hải Dương 981 mà Trung
Quốc hạ đặt trái phép trong vùng biển Việt Nam.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, là một trong số những người có quan ngại như vừa nêu.
Gia Minh có cuộc nói chuyện với ông và trước hết ông đưa ra nhận
định về những điều có thể được trao đổi tại Bắc Kinh trong chuyến đi của
ông Lê Hồng Anh mà không được báo chí loan tin.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi chưa biết là có ký kết gì không nhưng theo những thông báo chung thì hai bên đồng ý khôi phục quan hệ Việt- Trung.
Nhưng tôi cho rằng thông báo công khai là một chuyện thôi, mà tôi
thấy ông Lê Hồng Anh sang Trung Quốc lần này trong khi Trung Quốc vẫn
duy trì quan điểm ở Biển Đông. Mặc dù vừa qua (họ) mới rút giàn khoan
đi, nhưng vẫn tuyên bố lập trường của Trung Quốc ở Biển Đông không thay
đổi. Như thế nghĩa là Trung Quốc vẫn cứ cứng rắn. Thế nhưng ông Lê Hồng
Anh lại sang thăm trong thế Việt Nam yếu; (mà trong thế Việt Nam yếu),
rất khó thảo luận bình đẳng mà bên có thế mạnh thế nào họ cũng tìm cách
áp đặt. Theo tôi, họ có thể nêu ra vấn đề gác tranh chấp, cùng khai
thác. Trong thông báo công khai cũng có ý đó rồi. Thứ hai nữa, họ muốn
nói thôi không nói đến chuyện trước đây nữa, về tranh chấp trước đây để
khỏi thương tổn đến quan hệ hữu nghị giữa hai nước. Thứ ba là họ muốn
nói vẫn tiếp tục thực hiện cái ’16 chữ với 4 tốt’. Và có thể họ nêu vấn
đề không nên kiện Trung Quốc. Và cũng có thể họ nêu vấn đề đừng quá quan
hệ mật thiết với Mỹ.
Họ muốn nói vẫn tiếp tục thực hiện cái ’16 chữ với 4 tốt’. Và có thể họ nêu vấn đề không nên kiện Trung Quốc. Và cũng có thể họ nêu vấn đề đừng quá quan hệ mật thiết với Mỹ
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh
Tôi cho rằng trong hội đàm họ có thể nêu những vấn đề như thế.
Gia Minh: Như ông nói Việt Nam ở thế yếu và với ba điểm (
thống nhất như thế thì sẽ có những nguy hiểm gì cho Việt Nam trong thời
gian sắp tới?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Tất nhiên, từ trước đến giờ họ
luôn âm mưu thôn tính Việt Nam. Ít nhất cũng trói buộc Việt Nam vào sự
lệ thuộc của họ như kiểu thuộc địa kiểu mới. Họ vẫn thực hiện thế thôi.
Tức là lúc nào Việt Nam cũng đứng trước những nguy hiểm từ Trung Quốc.
Gia Minh: Biết như vậy, nhưng theo ông vì sao những vị lãnh
đạo Việt Nam, nhất là những vị trong đảng vẫn luôn kiên trì đường lối cũ
như thế?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Điều này tôi không có thẫm quyền để nói gì.
Đó là lãnh đạo của chúng tôi mà tôi không đồng ý; tôi không đồng ý
quá thân thiện với Trung Quốc, chỉ thân thiện với Trung Quốc. Nhưng đó
là quyền của lãnh đạo, tôi biết làm sao được!
Họ nắm quyền và họ cứ làm thế. Mà không phải một mình tôi, nhiều
người cũng phản đối; nhưng họ nắm quyền họ cứ thực hiện theo con đường
của họ thôi.
Gia Minh: Như thiếu tướng vừa nói nếu theo đường lối như lâu
nay thì Việt Nam luôn đứng trước mối nguy hiểm của Trung Quốc, vậy qua
những động thái vừa rồi trong quan hệ với Trung Quốc, việc xây dựng niềm
tin với những nước khác, đặc biệt với Hoa Kỳ, thì có thể khiến cho
người ta tin tưởng để có thể có những hợp tác có lợi cho Việt Nam không?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Theo tôi vẫn hợp tác mật thiết hơn nữa với Hoa Kỳ. Đó là lợi ích của cả Việt Nam và của cả Hoa Kỳ.
Gia Minh: Như vậy vẫn có bị cản trở trong vấn đề này?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi đã nói rồi, tổng bí thư của
chúng tôi thân Trung Quốc, cho nên vẫn là cản trở khó có thể có quan hệ
mật thiết hơn nữa với Hoa Kỳ.
Đến một lúc mà đẩy nhân dân đến chân tường, tôi nghĩ có khi phải ‘tức nước, vỡ bờ’ thôi
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh
Gia Minh: Như thiếu tướng nói không chỉ bản thân ông mà nhiều
vị khác không đồng ý và hiện nay hình như dư luận dân chúng họ cũng thấy
được vấn đề?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Có thể một bộ phận nhân dân
theo dõi tình hình, người ta cũng đồng tình như thế. (Nhưng) đại đa số
nông dân ở nông thôn, ở nơi xa xôi họ không có điều kiện cập nhật những
tin tức theo ‘lề mạng’, họ chỉ đọc báo của ‘lề phải’ và xem tivi thì
không bao giờ thấy được sự thật.
Gia Minh: Sự xuất hiện của nhiều nhóm dân sự hiện nay, theo
thiếu tướng tác động để giúp cho những người khác nhận thấy vấn đề đang
theo chiều hướng ra sao?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Chiều hướng đó tiếp tục đẩy
mạnh, tuy nhiên lãnh đạo cũng tìm mọi cách để cản trở. Nhưng xu hướng
tiến bộ người ta vẫn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của người ta.
Gia Minh: Nhiều người cho rằng với xu hướng tất yếu như thế, việc cản trở như thế sớm hay muộn gì cũng không thể thành công?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Đến một lúc mà đẩy nhân dân đến chân tường, tôi nghĩ có khi phải ‘tức nước, vỡ bờ’ thôi.
Gia Minh: Hiện nay, mọi người có hướng đến đại hội đảng lần
thứ 12 năm 2016 diễn ra trong tình hình có những vụ việc như vụ giàn
khoan, đảng đang đứng trước những thách thức. Nhưng rồi qua chuyến đi
của ông Lê Hồng Anh thì mọi người thấy những thách thức đó vẫn chưa thể
được hóa giải?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Tôi cũng nghĩ như thế.
Gia Minh: Vậy điều trông chở vào đại hội đảng lần thứ 12 này là gì?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: (Cười) Hiện nay có bao nhiêu
góp ý kiến, kể cả tôi góp ý kiến, nhưng tôi tin người ta không nghe đâu.
Họ vẫn đi theo con đường mòn của họ thôi.
Gia Minh: Và như thiếu tướng vừa nói, làm như thế là dồn nhân dân vào đường cùng?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Nhưng vấn đề cần có thời gian.
Gia Minh: Cần có thời gian để có những điều kiện chín muồi hơn?
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Đúng rồi, phải thời gian lâu chứ không phải là trước mắt đâu!
Gia Minh: Chân thành cám ơn thiếu tướng đã giành cho cuộc nói chuyện vừa rồi.
Con đường lệ thuộc vừa được gia cố
Quan hệ Việt Trung sau sứ mạng Lê Hồng Anh bắt đầu được chi phối từ “nguyên tắc ba điểm” mà hai bên đạt được ngày 27/8/2014 ở Bắc Kinh. Có vẻ cuộc khủng hoảng giàn khoan Hải Dương 981 đã chìm vào dĩ vãng, để hai Đảng Cộng sản khôi phục và tăng cường quan hệ và tất nhiên là sự hợp tác toàn diện giữa hai nhà nước.
Trả lời câu hỏi này, TS Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS một tổ chức tư nhân tự giải thể, từ Hà Nội phát biểu:
"Có lẽ là như vậy bởi vì ba điểm này quay trở lại thỏa thuận tháng 10/2011 giữa ông Hồ Cẩm Đào và ông Nguyễn Phú Trọng thì thực sự nó quay trở lại như cũ. Và cái như cũ đó đã thực sự thất bại không giải quyết được điều gì khi mà Trung Quốc tiếp tục gây hấn trong thời gian vừa qua đặc biệt hồi tháng 5/2014. Tôi nghĩ nó không giải quyết được một cái gì cơ bản.”
Thông Tấn xã Việt Nam và báo chí do nhà nước quản lý đã đưa tin về nội dung nguyên tắc ba điểm, cho thấy hai Đảng và hai Nhà nước phải làm hết sức để tăng cường hợp tác giữa hai bên trên mọi lĩnh vực như chính trị ngoại giao, quốc phòng, an ninh, kinh tế. thương mại, thực thi pháp luật, nhân văn và nhiều lĩnh vực khác. Hai bên tuân thủ các nhận thức chung quan trọng của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc,” sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, đồng thời tích cực nghiên cứu và bàn bạc các giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, kể cả vấn đề hợp tác cùng phát triển; kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp; duy trì đại cục quan hệ Việt Trung và hòa bình ổn định trên Biển Đông.
Không thể quay lưng lại với Trung Quốc. Không nên đẩy họ thành kẻ thù của chúng ta mà luôn luôn giữ tình hữu nghị. Nhưng phải luôn luôn cảnh giác, vì cái bài học lịch sử nó cho thấy như thế.Phải chăng Việt Nam-Trung Quốc hai đảng hai nước sẽ lại tiếp tục con đường cũ, Việt Nam sẽ tiếp tục ràng buộc với Trung Quốc về mọi lĩnh vực từ kinh tế cho tới chính trị và quân sự. Chúng tôi nêu câu hỏi này với TS Nguyễn Quang A và được ông trả lời:
- TS Nguyễn Thanh Giang
“Tôi rất ngại là nó đúng như thế. Đó là một thảm họa chứ không có một chút gì tích cực cả, bởi vì cả một chính sách như thế đã tỏ ra thất bại. Tất cả những hành động trước chuyến đi của ông Đặc phái viên vài ngày, cũng như trong khi ông ấy ở Bắc Kinh thì đều thấy tình hình rất không thuận lợi đối với Việt Nam. Và tôi nghĩ, gần như là một sự quay trở lại sự qui phục trước khi ông ấy đi, người ta đưa tin về chuyện Việt Nam tự nhận lỗi rồi để cho công nhân Trung Quốc vào rất là đông ở Vũng Áng và các nơi khác; rồi kiểm soát chặt chẽ vấn đề Internet; rồi xử vụ Bùi Thị Minh Hằng một cách hết sức là lố lăng. Tôi nghĩ đấy là những dấu hiệu tất cả chỉ theo một hướng mà tôi nghĩ là không hay ho gì.”
Đối những ý kiến lo ngại về việc Hà Nội và Bắc Kinh trở lại thực hiện ba nhận thức chung, vốn dĩ là những thỏa thuận giữa hai bên từ thời kỳ Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào, có thể dẫn tới việc Trung Quốc và Việt Nam sẽ cùng khai thác tài nguyên ở vùng biển đông thuộc chủ quyền VN, tương tự như thỏa thuận 2011 ở vịnh Bắc Bộ. TS Nguyễn Quang A nhận định:
“Đó là chuyện rất là nguy hiểm và trong trường hợp chưa giải quyết một cách rõ ràng. Tôi đồng ý việc các bên song phương, đa phương phải giữ nguyên trạng và sau đó có một thỏa thuận với nhau như thế nào đó, vạch rõ rằng phần nào là của ai…v..v…Chỉ sau đó mới tính chuyện khai thác như thế nào, phần của ai thì khai thác, lúc ấy phía bên kia cũng có thể tham gia vào như một đối tác quốc tế bình đẳng. Chứ còn ở trong tình trạng nhập nhằng ai cũng bảo của mình mà bảo cùng khai thác, tôi không cũng không hiểu cùng khai thác kiểu như thế nào. Trường hợp này chỉ có kẻ mạnh là lấn lướt áp đảo mà thôi. Nó sẽ là mầm mống của những xung đột tiếp theo và tôi nghĩ cách giải quyết như thế này chỉ là mua thời gian và để cho những xung đột tiềm ẩn vẫn còn nguyên ở đó và nó có thể lại hiện ra dưới dạng này dạng khác và có thể ở mức độ nguy hiểm hơn.”
Ảnh hưởng Trung Quốc quá lớn
TS Nguyễn Thanh Giang, một nhà phản biện nhiều kinh nghiệm, nhìn nhận một thực tế là Việt Nam không thể thoát khỏi ảnh hưởng Trung Quốc. Trả lời Kính Hòa Đài ACTD, TS Nguyễn Thanh Giang phát biểu từ Hà Nội:
“Không thể quay lưng lại với Trung Quốc. Không nên đẩy họ thành kẻ thù của chúng ta mà luôn luôn giữ tình hữu nghị. Nhưng phải luôn luôn cảnh giác, vì cái bài học lịch sử nó cho thấy như thế. Đó là một sự cay đắng, đối với hàng xóm láng giềng thì lúc nào chúng ta cũng muốn hữu hảo, nhưng bài học lịch sử lẫn cái thời gian gần đây đều cho thấy là chơi với họ thì nguy hiểm lắm.
Cho nên hữu nghị thì vẫn phải hữu nghị, không nên đặt vấn đề đối chọi với họ. Cho nên tôi rất mong các nhà lãnh đạo đề cao cảnh giác với Trung Quốc, và đề cao cảnh giác với trong cả nội bộ lãnh đạo, xem có những người nào có tư tưởng thần phục Trung Quốc, dựa vào Trung Quốc để giữ lợi riêng, giữ lấy ghế của mình, thì phải loại họ khỏi thành phần lãnh đạo, ra khỏi dân tộc.”
Trong giai đoạn khủng hoảng giàn khoan trên Biển Đông kéo dài 10 tuần lễ, Việt Nam nỗ lực tranh thủ bè bạn quốc tế trong đó Hoa Kỳ, Nhật Bản và những tưởng chính sách xoay trục châu Á của Washington là một cơ hội giúp Việt Nam bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Thỏa thuận mang tên “nhận thức chung nguyên tắc ba điểm về tiếp tục phát triển quan hệ Việt-Trung” có thể làm Việt Nam vuột mất cơ hội tạo thế đứng độc lập với sự giúp đỡ của bè bạn quốc tế. TS Nguyễn Quang A nhận định:
“Tôi nghĩ rằng có thể Việt Nam đã bỏ lỡ một cơ hội rất là quan trọng. Và nếu bảo rằng bỏ mất một cơ hội ngả về bên này hay bên kia thì chưa chắc là đúng. Nhưng mà để có một thế đứng vững vàng độc lập hơn có thể có nhiều hơn mối liên kết, nhiều hơn mối liên minh để mà bảo vệ quyền lợi của mình thì tôi nghĩ rằng những khả năng như thế cũng vẫn còn chứ không phải hoàn toàn không có.
Chúng ta chưa biết một cách chi tiết những nội dung đó như thế nào và mới chỉ được báo chí nêu là thống nhất ba điểm ấy. Rõ ràng đánh giá ngay có thể là còn sớm.”
Vấn đề Biển Đông, quan hệ Việt Trung và thỏa thuận nhận thức nguyên tắc ba điểm sẽ vẫn còn tạo ra mầm mống của những xung đột tiếp theo và cách giải quyết này, theo lời TS Nguyễn Quang A, chỉ là mua thời gian và duy trì những xung đột tiềm ẩn. Nó sẽ có dịp hiện ra dưới dạng này hay dạng khác và có thể ở mức độ nguy hiểm hơn.
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/ReviewOnlineDomesticPress/a-bad-choice-is-taken-nn-08292014131643.html
Chống châu Âu : Vũ khí khí đốt của Nga sẽ không còn hữu hiệu ?
Trụ sở tập đoàn dầu khí Nga Gazprom tại Mátxcơva. Ảnh chụp ngày 03/06/2014.
REUTERS/Maxim Shemetov
Trước căng thẳng leo thang với Ukraina và khả năng bị phương
Tây trừng phạt nặng thêm, Mátxcơva lại gợi lên vấn đề cắt khí đốt bán
sang Châu Âu, một kịch bản với những hậu quả khác nhau mà giới chuyên
gia không xem thường. Ngày 29/08/2014, Bộ trưởng Năng lượng Nga
Alexandre Novak đã tuyên bố có « nguy cơ khí đốt mà tập đoàn Gazprom
chuyển sang Châu Âu bị Ukraina lấy bớt một cách bất hợp pháp cho nhu
cầu của họ ».
Vào giữa tháng 06/2014, Nga đã cắt nguồn khí đốt cung cấp cho
Ukraina, viện cớ Kiev không chấp nhận việc Gazprom tăng giá ga sau khi
phe thân phương Tây lên nắm quyền. Theo bộ trưởng Novak, Kiev hiện nợ
Nga 5,3 tỷ đô la tiền khí đốt
Giới chuyên gia lo ngại là việc chuyển vận khí đốt từ Nga sang Châu Âu lại bị tác hại, tương tự như khi nổ ra cuộc ‘chiến tranh khí đốt’ trong những năm 2006 và 2009 giũa Nga và Ukraina. Một nửa khí đốt sang Châu Âu trung chuyển qua lãnh thổ Ukraina. Họ cũng không loại trừ khả năng Ukraina lấy bớt khí như Matxcơva nêu lên.
Theo bà Marie Claire Aoun, thuộc Viện Quan hệ Quốc tế Pháp IFRI, Ukraina cho đến giờ đang sử dụng khí đốt dự trữ của mình, nhưng đến một lúc nào đó, họ sẽ phải lấy khí chuyển sang Châu Âu nếu lâm vào tình cảnh thiếu hụt.
Ukraina vừa qua cũng đã công nhận là không đủ khí đốt dự trữ để sử dụng trong mùa đông này. Vào tháng Sáu, Kiev cũng đã lên tiếng cam kết không lấy khí đốt dành cho Châu Âu.
Theo giới quan sát, nếu lấy khí dành cho Châu Âu, Ukraina sẽ lại gây thêm căng thẳng và lần này là với Châu Âu, trong lúc mà Kiev tỏ ý muốn gia nhập NATO.và yêu cầu phương Tây giúp đỡ về mặt quân sự. Nhưng họ cũng đánh giá không phải lúc nào ‘lý trí cũng thắng’.
Các biện pháp ứng phó của Liên Hiệp Châu Âu
Tuy nhiên Châu Âu hiện đã có chuẩn bị để đối phó với mọi tình huống.
Thierry Bros, nhà phân tích về thị trường khí đốt của Ngân hàng Pháp Société Générale, đánh giá không thể tránh khỏi việc nguồn khí đốt bị nghẽn, nhưng ông ước tính chỉ độ khoảng mươi ngày mà thôi, thời gian để giới chính trị tìm một giải pháp cho việc trả nợ cho Gazprom.
Còn tác động của việc gián đoạn cung cấp khí đốt này sẽ tùy thuộc vào hai yếu tố : Thời gian cắt và thời tiết trong mùa đông sắp tới, và cũng tùy theo từng vùng : Các nước Đông Âu sẽ chịu tác động nghiêm trọng hơn là Pháp chẳng hạn, chỉ sử dụng độ 15% khí đốt của Nga.
Tuy nhiên nếu việc cắt khí đốt của Nga kéo dài, theo ông Bros, giá khí đốt ở Châu Âu sẽ tăng mạnh, khiến cho kinh tế Châu Âu có thể bị suy thoái.
Có điều khác với tình hình trước đây, năm 2009, Châu Âu đã cải thiện khả năng đối phó. Dự trữ khí hiện còn ở mức quan trọng. Tính đến ngày 28/08 vừa qua, dự trữ vẫn còn đến 87%.
Theo bà Marie Claire Aoun, Châu Âu đã chuẩn bị từ nhiều tháng qua. và cũng có các ngã cung cấp khác không qua Ukraina, như đường ống dẫn khí Northstream nối liền Nga và Đức, vận chuyển hơn 1/3 khí Châu Âu mua của Nga.
Na Uy, nguồn cung cấp khí đốt thứ hai của Châu Âu, cũng có thể tạm thời bù đắp một phần lượng khí đốt bị Nga cắt giảm.
Nhìn về dài hạn, những nước lệ thuộc nhiều về khí đốt của Nga có thể đa dạng hóa nguồn cung cấp. Chẳng hạn như Rumani và Moldavia đã khai trương một đường ống dẫn khí giũa hai nước, bắt đầu chuyển khí ngay vào ngày 01/09 này.
http://www.viet.rfi.fr/quoc-te/20140830-ukraina-vu-khi-khi-dot-cua-nga-se-khong-con-huu-hieu
Giới chuyên gia lo ngại là việc chuyển vận khí đốt từ Nga sang Châu Âu lại bị tác hại, tương tự như khi nổ ra cuộc ‘chiến tranh khí đốt’ trong những năm 2006 và 2009 giũa Nga và Ukraina. Một nửa khí đốt sang Châu Âu trung chuyển qua lãnh thổ Ukraina. Họ cũng không loại trừ khả năng Ukraina lấy bớt khí như Matxcơva nêu lên.
Theo bà Marie Claire Aoun, thuộc Viện Quan hệ Quốc tế Pháp IFRI, Ukraina cho đến giờ đang sử dụng khí đốt dự trữ của mình, nhưng đến một lúc nào đó, họ sẽ phải lấy khí chuyển sang Châu Âu nếu lâm vào tình cảnh thiếu hụt.
Ukraina vừa qua cũng đã công nhận là không đủ khí đốt dự trữ để sử dụng trong mùa đông này. Vào tháng Sáu, Kiev cũng đã lên tiếng cam kết không lấy khí đốt dành cho Châu Âu.
Theo giới quan sát, nếu lấy khí dành cho Châu Âu, Ukraina sẽ lại gây thêm căng thẳng và lần này là với Châu Âu, trong lúc mà Kiev tỏ ý muốn gia nhập NATO.và yêu cầu phương Tây giúp đỡ về mặt quân sự. Nhưng họ cũng đánh giá không phải lúc nào ‘lý trí cũng thắng’.
Các biện pháp ứng phó của Liên Hiệp Châu Âu
Tuy nhiên Châu Âu hiện đã có chuẩn bị để đối phó với mọi tình huống.
Thierry Bros, nhà phân tích về thị trường khí đốt của Ngân hàng Pháp Société Générale, đánh giá không thể tránh khỏi việc nguồn khí đốt bị nghẽn, nhưng ông ước tính chỉ độ khoảng mươi ngày mà thôi, thời gian để giới chính trị tìm một giải pháp cho việc trả nợ cho Gazprom.
Còn tác động của việc gián đoạn cung cấp khí đốt này sẽ tùy thuộc vào hai yếu tố : Thời gian cắt và thời tiết trong mùa đông sắp tới, và cũng tùy theo từng vùng : Các nước Đông Âu sẽ chịu tác động nghiêm trọng hơn là Pháp chẳng hạn, chỉ sử dụng độ 15% khí đốt của Nga.
Tuy nhiên nếu việc cắt khí đốt của Nga kéo dài, theo ông Bros, giá khí đốt ở Châu Âu sẽ tăng mạnh, khiến cho kinh tế Châu Âu có thể bị suy thoái.
Có điều khác với tình hình trước đây, năm 2009, Châu Âu đã cải thiện khả năng đối phó. Dự trữ khí hiện còn ở mức quan trọng. Tính đến ngày 28/08 vừa qua, dự trữ vẫn còn đến 87%.
Theo bà Marie Claire Aoun, Châu Âu đã chuẩn bị từ nhiều tháng qua. và cũng có các ngã cung cấp khác không qua Ukraina, như đường ống dẫn khí Northstream nối liền Nga và Đức, vận chuyển hơn 1/3 khí Châu Âu mua của Nga.
Na Uy, nguồn cung cấp khí đốt thứ hai của Châu Âu, cũng có thể tạm thời bù đắp một phần lượng khí đốt bị Nga cắt giảm.
Nhìn về dài hạn, những nước lệ thuộc nhiều về khí đốt của Nga có thể đa dạng hóa nguồn cung cấp. Chẳng hạn như Rumani và Moldavia đã khai trương một đường ống dẫn khí giũa hai nước, bắt đầu chuyển khí ngay vào ngày 01/09 này.
http://www.viet.rfi.fr/quoc-te/20140830-ukraina-vu-khi-khi-dot-cua-nga-se-khong-con-huu-hieu
TRÂN ĐÌNH NGỌC * CA DAO * CỘNG SẢN * LÃO HỦ
Wednesday, September 3, 2014
TRÂN ĐÌNH NGỌC * MỘT CHUYẾN THĂM SÀIGÒN
Truyện Ngắn
MỘT CHUYẾN THĂM SÀIGÒN
Bút Xuân Trần Đình Ngọc
Người anh bà Đượm, ông Dường nguyên là lính cụ Hồ phục viên, đã vào Sàigòn từ cuối tháng 11 năm 1975 vì ông muốn vào xem Sàigòn ra sao sau 21 năm dưới chế độ khác hẳn ngoài Bắc.
Trước năm 1950, ông Dường đã xung vào lính cụ bởi nếu không vào lính cụ thì phải đi dân công vác đạn, khiêng súng vất vả lắm mà không có quyền lợi gì như bộ đội. Nhưng cũng chính vì đi bộ đội mà ông Dường không di cư vào Nam được mặc dù ông muốn đi vì nghe nhiều người nói chế độ trong Nam tự do dân chủ, làm ăn dễ dàng chứ không khó khăn và nghèo nàn như miền Bắc. Giá như đơn vị của ông được về Hà Nội sau 20-7-1954 như nhiều đơn vị quân đội khác thì có lẽ ông đã liều đào ngũ rồi xuống tầu vào Nam với vợ con. Nhưng đơn vị của ông lúc đó lại được lệnh lên đóng ở Cao bằng chịu trách nhiệm ba tỉnh Cao-Bắc-Lạng nên ông không cách gì tìm đường ra Hải Phòng vì chỉ Hải Phòng mới có tầu há mồm chuyển người ra quân vận hạm Mỹ hay Pháp đưa người di cư vào Nam.
Nghe người ta đồn trong Nam đói kém, ăn toàn thức ăn của ngựa là bobo, ông Dường bỏ vào cái bao tải (dùng đựng một tạ gạo) ba lon sữa bò gạo để mang vào cho ông anh thúc bá là ông Nhân. Ông Nhân có đi Quân Đội QG từ thời Quốc trưởng Bảo Đại nhưng giải ngũ đã lâu lắm nên chẳng ai còn nhớ. Khi người anh em Bắc Việt vào miền Nam thì ông Nhân đang buôn xe đạp, chỉ là một thương gia. Ông cũng có công đi tù 6 tháng nhưng sau đó được tha về quản chế tại Phường vì người lắm bệnh quá, vả lại cũng nhờ bà vợ “tốt lễ dễ kêu”.
Người Bắc còn ầm ĩ nói trong Nam không có cái bát mẻ mà ăn, phải dùng vỏ dừa khô cưa đôi làm bát nên ông Dường hừng chí bỏ vào bao thêm ba cái bát đàn do làng Bát tràng làm. Ông nghĩ ông Nhân nhìn thấy gạo và bát sẽ sáng rỡ mắt vì miền Bắc sung túc quá, sẽ hối hận đã vào Nam di cư năm 1954, mất cả một cuộc đời!.
Ông
Nhân gia nhập quân đội Quốc gia ở Hà Nội từ thời Quốc trưởng Bảo Đại nhận nước
Việt Nam độc lập từ tay Tổng thống Pháp Vincent Auriole năm 1949. Nhận chức Cố
vấn cho chính phủ Liên Hiệp của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa mà Chủ tịch nước
là ông HCM, Phó CT: ông Nguyễn hải Thần, BT Ngoại giao: ông Nguyễn tường Tam,
BT Thông Tin Tuyên Truyền: ông Trần huy Liệu v.v…từ sau ngày 19-8-1945, vua Bảo
Đại để lại câu nói bất hủ: “Thà làm công dân một nước độc lập còn hơn làm vua
một nước nô lệ.”
Sau
đó vua Bảo Đại đi công tác ở Hồng Kông rồi tự ý ở lại, không về. Ông đã nhìn
thấy những gì khác lạ nơi chính phủ Liên hiệp do ông Hồ chí Minh làm chủ tịch.
Quả thế, chính phủ Liên hiệp (các đảng phái) và cả Quốc hội cũng giải tán sớm
để thành lập một chính phủ và Quốc Hội hoàn toàn của Cộng sản. Vua Bảo Đại, do
lời mời của Tổng Thống Pháp, đứng trong Khối Liên Hiệp Pháp, lập chính phủ và
Quân đội cho phe Quốc Gia để chống với phe CS.
Ông
Dường đi tầu thuỷ từ quê lên Hà nội, rồi từ Hà Nội đáp tầu Thống Nhất vào Nam.
Tiền bạc không sẵn lại vốn tính dè sẻn, ông Dường lấy vé hạng tư là hạng chót
dành cho hành khách.
Khi
bước lên toa xe lửa, mắt ông tối sầm vì chẳng nhìn thấy gì, có lẽ do vừa từ
ngoài ánh nắng chói chang vào. Đứng một lát cho mắt quen, ông mở mắt nhìn thấy
toa xe ngổn ngang người là người. Đa số ngồi, chỉ có dăm người nằm, mắt nhắm
nhưng không biết là ngủ hay thức vì nóng và ngộp hơi thế này dễ gì ngủ được?
Người ngồi trên ghế, trên sàn tầu, trong góc kẹt. Một anh mặc quần áo xanh bộ
đội nằm trên cái võng ngáy như kéo gỗ, mồm anh ta há hốc, từng dòng rãi từ mép
chảy xuống lưng một bà già nằm dưới. Góc kia, một ông già cũng nằm trên võng, cái
khăn mặt đen đúa che từ trán xuống qua cằm. Hai chị có con nhỏ đang dỗ dành con
vì chúng khóc mãi, kế bên là hai anh chồng mở thao láo mắt nhìn vợ con, một anh
thỉnh thoảng lại chửi thề bâng quơ:”Đ. mẹ ló, ló nhét ông vào cái toa người
ngồi lứt da ra thế lày thì chắc gì ông vào tới Sègòn.”
“Ló”
đây có lẽ là anh xếp chỗ. Xếp chỗ cứ nhìn vé mà xếp chứ xếp khác sao được. Vé
hạng tư chỉ có vậy. Không đi thì lên cho được việc.
Ông
Dường đứng nhìn chán rồi cũng phải kiếm chỗ. Ông bước qua một người đàn bà đang
nằm, không may dẵm phải tay mụ ta, mụ la chói lói:
“Sư
bộ đựa nào dặm lên tay bà đau thậu xương, mặt mù hay sao? Còn dặm nựa là bà tệ
mồ tổ mi cho đện khi vào Sègòn!”
Vì chật quá, ông Dường có chạm chứ không dẵm lên, ông nhớ thế mà sao mụ
đanh ác vu oan giá hoạ vậy. Ông rán bước qua một đứa nhỏ và mẹ nó để vào trong
giữa. Ông chỉ sợ lọng ngọng té xuống đè vào đứa nhỏ thì nó gẫy xương nhưng may
ông bước qua được. À, kia còn một chỗ. Ông len tới, ngồi xuống thở vì dùng sức
không mấy nhưng dùng trí óc nhiều. Khi ông ngồi xong mới nhận ra mình ngồi ngay
dưới cái võng của anh lính mình đã nhìn thấy cơ nãy. Thôi kệ, kiếm được chỗ này
đã là tốt chán. Ông có mua mấy cái bánh nếp ở ga Hàng cỏ, ngồi đàng hoàng rồi,
thấy đói, ông bóc một cái bánh, cắn ăn, cảm thấy rất sung sướng, có lẽ
phần nhiều là từ cái bánh.
Hành khách vẫn tấn lên ào ào. Cả vài ba chục người đứng ở chỗ lúc
nãy ông Dường đứng. Họ đứng lâu hơn ông để nhìn vào bên trong toa tầu, kiếm
chỗ. Chẳng còn chỗ nào hở. Một anh cậy ta là bộ đội bước bừa vào kiếm chỗ vì
đứng đã quá lâu. Không may cho anh ta dẵm lên tay (hay đụng nhẹ) vào mụ đàn bà
ông Dường đụng lúc nãy. Chị ta ré lên ngay như quả mìn Claymor bị kích hoả:
“Tộ sư cha mi. Tay bà chự cọ phải cại nội đi của mi đâu mà mi cự
tay bà mi dặm. Tộ sư cha thằng lợn con bẹ không biệt trạnh tay bà ra...”
Mụ cứ thế đào cha bới ông đứa đã dẵm lên tay mụ. Anh lính bộ đội
đã vào đến bên trong, anh ta quay người lại:
“Lè con mụ khốn lạn kia. Tao nà bộ đội biên phòng, dù tao có nỡ
đụng vào tay mụ một chút, mụ không được
phép chửi hỗn như thế. Xuống đến ga có công an sắc phục, mụ sẽ biết thân!”
Ý
chừng mụ sợ bộ đội và công an, mụ liền im thin thít.
Tầu
Thống nhất vào đến Sàigòn khoảng 8 giờ sáng. Người và xe ở đâu mà đông thế! Người
quần áo sạch sẽ, đẹp đẽ chứ không lèng xèng như người Bắc, thấy rõ cái nghèo.
Xe hơi, xe gắn máy, taxi, xe đạp…đủ hết chứ không như Hà Nội chỉ thấy xe đạp,
mãi sau này mới có các thứ xe khác.
Ông
Dường hân hoan khoác cái bao tải lên vai, kiếm lối xuống. Nhà ga rộng rãi và
đẹp quá, ông khen thầm. Vừa ra đến lề đường, hai, ba anh lơ xe bu lại:
“Chú
đi đâu? Chú lên xe cháu?”
Ông
Dường gạt hai ba anh này ra rồi tìm cách băng qua đường. Ông không có nhiều
tiền nên không dám gọi xe nào hết, ông định hỏi thăm rồi cuốc bộ.Vào một cửa
tiệm bán quần áo trẻ con phía bên kia, ông hỏi thăm đường về khu Bàn Cờ. Người
đàn bà chủ tiệm nói ông không quen đường có chỉ cũng không đi tới, có khi bị
lạc còn mệt hơn, ông nên thuê một chiếc xích lô hay taxi.
Kiếm
một bác xích lô đạp, mà cả về khu Bàn cờ, ông Dường bấm bụng lên xe vì e cuốc
bộ kiếm không thấy như lời chị chủ tiệm bán quần áo.
Bác
phu xích lô rướn người đạp trong khi ông Dường ngắm phố xá. Nhà hai, ba, bốn
tầng đâu mà nhiều thế! Đường xá rộng rãi, sạch sẽ, xe hơi và xe gắn máy nhiều
chứ không như Hà Nội, toàn xe đạp. Người đi đuờng ăn mặc cũng đẹp hơn Hà Nội,
ông Dường chợt nhớ lời bác và đảng bảo người trong Nam đàn ông đàn bà đều có
một cái đuôi vì họ đói quá phải giết thịt trẻ con ăn, ăn lắm trẻ con nên mọc
đuôi ra. Ông nhìn kỹ sau lưng họ, ông lẩm bẩm chắc họ giấu trong quần! Ông muốn
hỏi chuyện bác xích lô nhưng ngại không biết có nên không?
Xe
xích lô thắng lại, bác xích lô nói:”Tới rồi.”
Ông
Dường mở gói giấy báo lận trong lưng quần lấy tiền trả bác xích lô xong lật đật
vác cái bao bố đi vào ngõ hẻm, ngoài có biển: Hẻm 156 Bàn Cờ. Đúng đây rồi, tên
con hẻm này ông đã thuộc từ lúc lên tầu Thống Nhất. Đi sâu mãi vào trong hẻm
rồi ông cũng kiếm được số nhà. Cái số nhà này chính là nó. Ông Dường đứng nhìn
căn nhà ba tầng, ông nghi hoặc có lẽ đâu anh Nhân có cái nhà “to đùng” như thế
này sao? Nghe nói anh ấy nghèo lắm cơ mà. Có đứa nhỏ khoảng 15, 16 tuổi đi
ngang qua, ông Dường chận nó lại hỏi:
“Này
cháu, cho bác hỏi thăm, có phải nhà này là nhà của ông Bùi ân Nhân không?”
Con
bé đáp:
“Cháu
chỉ biết là nhà của Đại Úy Nhân, còn họ cháu không biết.”
“Thôi
đúng rồi,” ông Dường lẩm bẩm, quên cả cám ơn con bé, “nhà anh ấy đây rồi!”
Ông
hồi hộp đứng trước cửa, gõ cửa. Một người đàn bà ra mở.
“Xin
lỗi bà, đây có phải là nhà ông Bùi ân Nhân?”
Người
đàn bà trân trối nhìn ông Dường, nhận ra giọng nói rồi la lên:
“Có
phải chú Dường?”
Ông
Dường bấy giờ cũng nhận ra giọng người chị dâu đã từng nói chuyện với ông nhiều
lần trên điện thoại.
“Thưa
chị, em Dường đây. Anh đâu chị?”
“Nhà
tôi đi công chuyện, sẽ về giờ. Mời chú vào trong nhà!”
Ông
Dường thấy nhà sang quá, nhìn lại bộ quần áo của mình tồi tàn, ba hôm đi tầu
chưa thay, hôi hám quá.
“Mời
chú ngồi. Để tôi lấy nước chú uống kẻo khát.”
Ông
Dường không dám ngồi mạnh trên cái ghế sa-lông gỗ trắc nâu khảm xà cừ. Ông đảo
mắt nhìn xung quanh phòng khách. Tủ trưng bày đồ quý, đôn, ghế, cái quạt điện
đứng cao đến ngực người đang chạy vù vù. Một bức hoạ lớn treo tường ngay chính
giữa vẽ cảnh xuân với hoa đào, chim, bướm. Ngắm chỗ nào ông Dường cũng thấy đẹp
mắt mà cả đời ông chưa hề thấy.
“Chú
dùng ly nước cam vắt cho mát.” bà Nhân bảo.
Ông
Dường đang uống ly nước thì ông Nhân cùng cô con gái về.
“Chào
anh Nhân. Em là Dường vào thăm anh chị, các cháu.”
Ông
Nhân tiến đến ôm lấy người em họ.
“Cảm
ơn chú còn nghĩ đến chúng tôi. Tôi đề nghị thế này, chúng ta còn nhiều thì giờ
trò chuyện. Chú đi từ Bắc vào đây ngồi tầu cũng mệt, chú lên lầu tắm rửa cho
mát, sau đó xuống ăn cơm rồi chúng ta rỉ rả nói chuyện.”
Từ
lúc vào, ông Dường thấy mang ba lon gạo với ba cái bát sành cho anh là sai rồi.
Họ khá giả lắm chứ có đói khổ như ngoài Bắc tuyên truyền đâu. Giờ sao đây với
hai món đó.
Ông
Nhân quay qua thấy cái bao tải, hỏi:
“Cái
bao gì của chú đây?”
Ông
Dường ngượng ngập:
“Có
một bộ quần áo của em với....với mấy lon gạo và ba cái bát đàn em định đem biếu
anh chị vì ngoài Bắc nói trong Nam không có gạo, toàn ăn bobo, cũng không có
cái bát mẻ, toàn cưa gáo dừa làm bát!”
Vợ
chồng ông Nhân cười ngất:
“Chú
không nhớ miền Nam là vựa lúa của Đông Nam Á à? Tụi tôi đói phải ăn bobo thì nhiều
nơi khác phải ăn củ chuối hay ăn thịt người.”
Quay
qua ghé vào tai người em, ông Nhân nói nhỏ:
“Nói
để chú hiểu, từ ngày 30-4 đến giờ, người miền Nam phải cất giấu hết, không dám
để tự nhiên như ngày xưa vì e bị tội. Nóng thế này mà không có cái quạt thì
chịu không nổi. Sofa, bàn ghế, tủ, tranh có đem bán, rẻ rề, không ai mua. Đành
phải giữ lại. Khó khăn lắm chú ạ!”
Ông
Dường gật đầu đồng ý, chợt nhớ ra:
“Thưa
anh chị, tha lỗi cho em. Họ nói trong Nam người nào cũng có một cái đuôi vì đói
quá ăn thịt trẻ con mà mọc đuôi. Có thật không anh chị?”
Ông
bà Nhân lại cười sặc sụa:
“Làm
gì có chuyện đó! Chú chớ nghe đồn nhảm!”
Ông
Dường tính nói không phải đồn nhảm đâu mà có trong tài liệu học tập đàng hoàng
cán bộ thông tin tuyên truyền trên loa phường nói ra rả mỗi tối bắt mọi người
phải nhắc đi nhắc lại cho kỳ thuộc nằm lòng.
Ông
Dường nghĩ thế nhưng lại ngại nên im luôn.
“Để
cháu dẫn chú lên lầu tắm rửa cho mát đã.”
Ông
quay gọi thằng con:
“Nhượng
đâu, dẫn chú lên lầu chỉ phòng tắm cho chú. Lấy cái khăn bông mới trong tủ đưa
chú.”
Ông
Dường mở bao tải lấy bộ quần áo đẹp nhất mang đi từ nhà. Bộ quần áo giở ra, một
mùi khai nhức mũi bay lên làm ông chun mũi lại. Chẳng biết đứa phải gió nào
trên xe lửa đái vào bộ quần áo, ướt lan cả sang gạo. Có lẽ hai người đàn bà có
hai đứa nhỏ khóc ra rả nằm gần ông. Ông Nhân cũng ngửi thấy mùi khai. Ông nhanh
trí:
“Quần
áo đi tầu dễ hôi hám lắm vì đi ba ngày đường. Để chị bỏ máy giặt, cháu lấy
pyjama của tôi, chú mặc đỡ.”
Khi
ông Dường từ nhà tắm xuống với bộ pyjama mới và đôi dép Nhật, trông ông đẹp hẳn
ra và trẻ trung dăm bảy tuổi. Ông bảo ông Nhân:
“Anh
có làm cái hồ nuôi cá trê nhưng hơi bé một chút. Bằng đó chỉ thả được dăm con,
anh làm to gấp ba thì thả được 15 con tha hồ ăn. Nhà em ở Bắc cũng có ao thả cá
trê ăn quanh năm.”
Bà
Nhân ngạc nhiên:
“Nhà
tôi làm gì có hồ thả cá đâu chú?”
“Giữa
phòng tắm đấy thôi, men sứ trắng và cao cỡ này này.” Ông Dường giang tay làm
cỡ.
Ông
Nhân bảo:
“Cái
bàn cầu đấy chú, không phải để nuôi cá trê đâu!”
Ông
Dường ngạc nhiên:
“Rõ
ràng là cái để nuôi cá trê mà!”
“Bàn
cầu để đi đại tiện đấy chú. Thế ngoài Bắc không có à?”
Ông
Dường biết là mình sai, thẹn đỏ mặt, ông chữa thẹn:
“Từ
thuở cha sinh mẹ đẻ, chưa bao giờ em nhìn thấy cái này. Ngay ở thủ đô Hà Nội
cũng không có. Ai dám ngồi lên đó mà …mà…đi đại tiện.
Trời
ơi, trong Nam phí của quá. Cái bồn men sứ trắng tinh vậy lại làm bàn cầu. Thế
rồi phân thì nó đi đâu?”
“Nó
chui xuống hầm, sạch sẽ và không có mùi hôi.” Ông Nhân trả lời.
Ông
Dường tru tréo:
“Anh
chị ơi, phân Bắc, nước tiểu, người ngoài Bắc không phí đi đâu tí nào, đem bón
rau, bón lúa, tốt như thổi. Đây lại chôn đi thế thì lấy gì mà bón lúa, bón rau?
Có mùa hút phân chuồng, tụi em phải giấu đi để dành để nộp Hợp tác xã không thì bị phạt tiền.”
Ông
Nhân nhỏ nhẹ:
“Người
ta có phân hoá học đấy chú. Thôi, chú ngồi đây dùng cơm!”
Những
cái bát Giang tây men trắng tươi, những cái dĩa Pháp, dĩa Nhật thật đẹp, cái
thì ra chợ trời, cái bị đào hố chôn, nhưng đám bát đĩa hạng nhì bà Nhân sắp lên
bàn cũng làm ông Dường xuýt xoa khen lấy khen để. Rồi ông Dường lại nhớ đến ba
cái bát đàn của mình, và ba lon gạo, ông đã cố ôm theo giờ nghĩ lại còn thấy
mặt nóng bừng!
(còn tiếp)
Bút
Xuân Trần Đình Ngọc
NGU YEN * CA DAO
Ca Dao Qua Văn Bản
Ngu Yên
Con mèo, con chó có lông
Cây tre có mắt, nồi đồng có quai.
Tìm hiểu ca dao cũng như tìm hiểu thơ văn trong môi trường tìm hiểu văn học và văn hóa, nên dựa vào những phương pháp "khoa học ngôn ngữ" và những lý thuyết hiện hành có hiệu quả tìm hiểu văn học.Trước hết là học thuyết Văn bản. Lý thuyết gia Pháp gốc Bulgaria, Julia Kristeva (1941-) nói về cách phân tách văn bản rất thuyết phục. Qua văn bản, chẳng những tìm ra ý nghĩa, ẩn ngữ, ẩn dụ mà còn tìm ra tâm lý của tác giả và quan trọng là tâm lý chung, hệ thống chung trong xã hội của thời đại.
Bên cạnh đó là học thuyết Cấu trúc và ký hiệu của Roland Gérard Barthes (1915-1980). và vào thời kỳ cuối trong đời, ông đã nghiêng về Phân Tích Văn Bản. (1)
Nói như vậy có vẻ mang dao mổ bò đi cắt cổ gà. Thật ra, dù là một cụm chữ cũng có lý do tại sao nó hiện hữu và tồn tại qua năm tháng. Với thời gian và sự đổi thay của trí tuệ và tâm tình qua từng thời đại sẽ làm cho chữ nghĩa trong câu văn năm xưa hoặc xa xưa trở nên ngớ ngẩn, hời hợt hay u tối, có khi vô nghĩa. Vì vậy những phương pháp khoa học về nghệ thuật sẽ giúp việc tìm hiểu gần sát với ý nghĩa ban đầu hoặc giá trị mà tác giả gởi gấm.
Đặc thù của ca dao là văn vần truyền khẩu, truyền văn qua nhiều đời. Sao đi, tán lại. Khiến cho câu văn mất nhiều cơ sở về phân tích. Điều này sẽ làm cho luận lý dễ bị sơ hở.
Đặc tính của ca dao là:
Nhắc nhở: Nhắc cho người khác nhớ hoặc dạy cho người đương thời những chuyện cần biết "Tháng Giêng là tháng ăn chơi. Tháng Hai trồng đậu, trồng khoai trồng cà....."
Khuyên răn:
Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn..."
Ghi lại một hoàn cảnh chung, một tâm sự chung, một chuyện không hay thường xảy ra để cảnh giác người sau. " Trèo lên cây bưởi hái hoa. ......Em có chồng anh tiếc lắm thay...(Hay nhất là).. Cá cắn câu biết đâu mà gở. Chim vào lồng biết thuở nào ra..."
Còn có nhiều mặt khác nhưng xin tạm dừng vì bài viết không có chủ đích nghiên cứu.
Ca dao diễn đạt bằng cách:
Bạch văn: văn chương bình dân, dễ hiểu.
Ẩn dụ, biểu tượng.
Cách sơn đả ngưu.
Dọn đường một chút để dễ tìm hiểu câu ca dao trên.
1- Con mèo, con chó thuộc về sinh vật. cây tre thuộc về thực vật. Nồi đồng thuộc về đồ vật. Chỉ có nồi đồng là do người tạo ra. Ba thứ kia thuộc về tạo hóa.
Nếu giả thuyết rằng: Câu ca dao này dùng những luận lý xác định: Con mèo phải có lông, Con chó phải có lông, cây tre phải có mắt, nồi đồng phải có quai; để nói đến một điều khác, một cách sống trong đời, một qui lệ xã hội cần phải tuân giữ. Ví dụ như trai lớn phải lấy vợ. gái lớn phải lấy chồng. Như luật trời và người đã định. Như mèo chó có lông. Như tre có mắt. Như nồi có quai. Không nên làm khác.
Giả thuyết này có thể hiểu được vì dân chúng ngày xưa ít học. Không quen suy tư. Trí óc đơn giản. Những câu ca dao dễ hiểu dễ nhớ dễ truyền là cách "học" nhanh và thấm nhất.
2- Giải thích thứ nhất đưa sang câu đố:
Con mèo, con chó có lông
Cây tre có mắt, xương rồng có gai.
Đố là con gì?
Con gì thật ra không cần biết. Ở đây, cụm " xương rồng" thay thế cho cụm "nồi đồng", khiến cho sự suy tư trở về lại văn bản. Câu "ca dao" đố này rất cân phương. Con mèo con chó ở câu trên, cây tre, cây xương rồng ở câu dưới. Cũng cùng một mục tiêu là nhắc nhớ người đời sau phải giữ theo nề nếp hoặc luật trời đất đã định sẵn. Quan điểm ở đây là không có nồi đồng. Không có con người xuất hiện. Qui luật thiên nhiên là chính.
3- Xét văn bản, chữ "nồi đồng" mang ý tứ quan trọng. Bởi con mèo con chó đương nhiên là có lông. Con kia da trơn không phải mèo chó, có thể là trâu bò. Con khác da sần sùi, không phải mèo chó, có thể là cóc là cá sấu. Cây tre có mắt cũng vậy.
Nếu mắt ở đây là mắt thấy. Ẩn ngữ để ám chỉ chuyện đời không thể giấu diếm. Không có gì bí mật dưới ánh sáng mặt trời. Thì cụm chữ " nồi đồng phải có TAI ". Vì văn bản là nồi đồng có quai nên chữ mắt của cây tre không phải ẩn ngữ.
Còn lại: Nồi đồng có quai. Tại sao có quai?
Văn bản có quai, cho biết rằng đã có một thời nồi đồng không có quai. Nồi đất cho tới ngày nay vẫn có nồi không có quai. Nhưng nồi đồng phải có quai vì khi nấu nồi đồng rất nóng. Nóng gấp chục lần nồi đất. Cái quai xuất hiện sau đã giúp cho người nấu tiện lợi bưng cầm, di dời nồi đồng.
Thời xưa, cái nồi giữ vị trí thân thuộc và ích lợi cho gia đình. Nó tạo ra thức ăn, nước uống. Nồi đất hay bể nên nồi đồng được yêu chuộng hơn. Trong nhiều gia đình, nồi đồng trở thành báu vật. Và hợp lý khi có câu ca dao nhắc nhở về nồi đồng.
Chưa kể có những nồi đồng lớn, dùng để nấu cho cả làng ăn trong những
ngày lễ hội. Chiếc nồi này được xem như linh hồn của dân làng. Ví dụ như
Nồi đồng khổng lồ của dân tộc Thái vùng xứ Thanh (2). Chi tiết này đóng
góp vai trò quan trọng của nồi đồng thời chưa văn minh. Trong bài viết
Những Câu Chuyện Ly Kỳ Xung Quanh Các Cổ Vật Pù Luông (2), có đoạn nói
về quai của nồi đồng:
"Nếu thân nồi bằng đồng có thể giữ nhiệt rất lâu thì hai cái quai không
bao giờ nóng, dù nồi có để trên lửa cả ngày, khi cần chỉ việc nhấc nồi
xuống bình thường, không cần dùng đến miếng vải đệm tay. Điều đặc biệt
này đã được ông Tân xác nhận khi có người lặn lội xe đò vài trăm cây số
đến nhà ông chỉ xin mua duy nhất hai cái quai nồi. Chủ nhân của nó dù đã
gắn bó đến gần hết cuộc đời cũng không đưa ra được lý giải chính xác về
chất liệu hai cái quai khác biệt như thế nào với thân nồi. "
Câu chuyện này lại càng xác nhận lợi ích của đôi quai trên nồi đồng. Vì
vậy nếu có ca dao nhắc nhở nên làm quai khi đúc nồi đồng cũng là chuyện
bình thường.
Câu ca dao này khuyên răn người đời sau: Nồi đồng phải có quai thì mới
như mèo chó có lông, tre có mắt. Nồi đồng phải có quai mới hoàn tất hình
hài và cách sử dụng. Câu ca dao này cũng có thể diễn dịch nghĩa bóng
trong nhiều hoàn cảnh khác.
Tìm vào tài liệu:
Nếu câu ca dao có gốc Quảng Nam thì xem: Quảng Nam Phủ Tập Ký Sự của Mai
Thị do Lê Đăng Hiển sao lục 1824 đời Minh Mạng (Nội dung viết 400 năm
cũ). Có ghi việc Ông Bùi Tá Hán, đô tướng Quảng Nam dinh, dạy dân Quảng
cách sinh hoạt thường ngày, như: xây nhà ba gian, tám cột... đào
giếng...và phải làm nồi đồng, nồi đất có quai ở cổ để nấu nướng tiện
việc bưng lên bưng xuống....(3)
Qua những suy diễn thô sơ và gọn nêu trên, có thể đi đến kết luận, cách
giải thích thứ 3 là gần gũi nhất với sự phân tích và giải quyết qua văn
bản.
Ngu Yên
================================
(1) Barthes định nghĩa văn bản như sau: “Văn bản, theo nghĩa hiện đại và hiện tại (…), khác biệt một cách cơ bản với tác phẩm văn học: nó không phải là một sản phẩm thẩm mỹ, nó là một công việc biểu đạt; nó không phải là một cấu trúc [‘structure’], nó là một sự lập thành cấu trúc [‘structuration’]; nó không phải là một đối tượng, nó là một công việc và là một trò chơi; nó không phải là một tập hợp các ký hiệu khép kín, được ban cho một nghĩa mà nhiệm vụ của chúng ta là phải tìm ra cái nghĩa đó, nó là một khối lượng các dấu vết di chuyển; cấp phán xét dành cho một Văn bản không phải là ý nghĩa, mà là Cái Biểu đạt, theo nghĩa ký hiệu học và tâm phân học của thuật ngữ này; Văn bản vượt trội hơn tác phẩm văn học theo nghĩa cũ;” (tr. 13).
(L’Introduction à l’analyse structurale des récits (1966))
Trích bài viết của tác giả Nguyễn Văn Dân. Nguồn Văn Nghệ số 37, ngày 11-9-2010
(2) http://laodong.com.vn/lao-dong-doi-song/nhung-cau-chuyen-ly-ky-
xung-quanh-cac-co-vat-o-pu-luong-139099.bld
(3) Tôi đưọc biết chuyện này và sách này qua một bài báo đã đọc lâu ngày. Không nhớ tác giả là ai và bài viết lưu trử nơi nào. Đành xin cáo lỗi cùng tác giả và bạn đọc. Xin cảm tạ tác giả.
Riêng Quảng Nam Phủ Tập Ký Sự, xin xem:
http://www.baodanang.vn/channel/5433/201010/chuyen-xua-xu-quang-may-net-quang-nam
-xua-qua-tap-sach-cu-2010777/
http://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B9i_T%C3%A1_H%C3%A1n
Tuesday, September 2, 2014
THẾ GIỚI CHUNG QUANH TA
THẢM HỌA PHÓNG XA FUKUSHIMA
Rau quả biến dạng kỳ dị sau thảm họa phóng xạ tại Fukushima ngày 11/3/2011
Lá mọc ngay trên quả dưa chuột vì nhiễm phóng xạ. Điều này chứng tỏ phóng xạ hạt nhân có sức hủy diệt, gây đảo lộn những điều bình thường đến mức nào.
Thảm họa phóng xạ cách đây 2 năm ở Nhật khiến cho những loại rau, quả và hoa trở nên dị dạng đến khó tin.
2 năm sau thảm họa sóng thần khiến nhà máy điện hạt nhân ở Fukushima, Nhật Bản, rò rỉ, cây cối nơi đây trở nên dị dạng.
Lá mọc ngay trên quả dưa chuột vì nhiễm phóng xạ. Điều này chứng tỏ phóng xạ hạt nhân có sức hủy diệt, gây đảo lộn những điều bình thường đến mức nào.
Một quả cà tím cũng biến dạng thành nhiều nhánh quả.
Viếng thăm Nara
Mời xem chuyện lạ-NARA Thành phố HƯƠU tại NHẬT BẢN-
Hươu biết tuân thủ luật giao thông.
Mời bấm vào đường dẫn sau đây:
LK 16/8/2014Hươu biết tuân thủ luật giao thông.
video will be live at:http://youtu.be/BIDqpqf0fEA
Preview YouTube video 228- LK- NARA Thanh pho HUOU tai NHAT BAN (15 Aug 14)HD
228- LK- NARA Thanh pho HUOU tai NHAT BAN (15 Aug 14)HD
Nara cổ kính
Đây là thành phố của chùa chiền, lăng tẩm, mang nét cổ xưa, tĩnh lặng và thơ mộng. Những ngôi chùa, những bức tượng Phật chủ yếu được làm bằng gỗ quý. Muốn thăm hết các ngôi chùa ở Nara cũng phải mất ít nhất vài ngày, mặc dù toàn thành phố có diện tích chỉ khoảng 211,6km2.
Thời Nara (năm 710), đạo Phật được chính quyền Nhật Bản ủng hộ mạnh mẽ. Lúc đó, Nhật Bản cũng có quan hệ rất tốt với Trung Quốc - thời nhà Đường đang phát triển hưng thịnh - Nara trở thành nơi tiếp thu những sản phẩm văn hóa, nghệ thuật của đại lục. Những công trình xây dựng, nghệ thuật, điêu khắc... vẫn còn lưu giữ đến nay và được xếp vào tài sản quốc gia của đất nước Hoa anh đào.
Di sản văn hóa quan trọng nhất của Nara là quần thể chùa Todai (TodaiJi) được xây từ năm 743 và hoàn thành năm 751 trong một vùng chia thành 64 khu thuộc phía Đông của Nara. Chùa Todaiji là một trong những ngôi chùa lâu đời và nổi tiếng bậc nhất, đồng thời là một trong những thắng cảnh tuyệt vời của Nhật Bản. Theo truyền thuyết, đã có đến 420.000 người cúng tiền và 2.180.000 người tham gia xây dựng chùa. Bức tượng Đại Phật do một nghệ sĩ đến từ vương quốc Baekje, Triều Tiên, thiết kế. Đây là bức tượng bằng đồng mạ vàng lớn nhất thế giới - nằm trong một công trình làm toàn bằng gỗ tên là Đại Phật Điện.
Chùa Todaiji còn sở hữu vô số báu vật văn hóa với hơn 20 pho tượng Phật và tác phẩm nghệ thuật được xếp loại di sản quốc gia. Đại Phật Điện có chiều cao 48 mét, mặt bằng chữ nhật 56 mét x 50 mét, là công trình gỗ lớn nhất thế giới. Dù có kích thước đồ sộ như vậy, người ta vẫn cho rằng Đại Phật Điện còn chưa đủ rộng để chứa pho tượng. Đại Phật bên trong ngôi điện ngày nay, khách tham quan phải rất chật vật khi tìm khoảng rộng để ngắm nhìn được toàn bộ pho tượng.
Quần thể chùa Todaiji ngoài Đại Phật Điện mà còn cả hai ngôi tháp bảy tầng, một giảng viện và khu tịnh xá. Một dãy hành lang bao quanh Đại Phật Điện tương tự như thiết kế của quần thể chùa Horyuji nổi tiếng. Toàn bộ quần thể chùa Todaiji trải dài 1 cây số theo trục Bắc - Nam là hàng loạt công trình lịch sử, trong đó có Kho báu Hoàng gia - nơi chứa kho bảo vật của Thiên hoàng Shomu.
Một điểm đến hấp dẫn khác ở Nara là Công viên Nara được xây dựng vào năm 1880 bao gồm hầu hết những thắng cảnh của Nara như đền Todaiji, đền Kofukuji, lăng Kasuaga Taisha, đền Gangoji, đền Yakushiji, đền Toshodaiji, cung Heijo... Bảo tàng quốc gia Nara tập trung vô số những sưu tập về nghệ thuật Phật giáo. Đây cũng là nơi ở của hàng trăm con hươu hoang dã tự do lang thang. Theo đạo Shinto, hươu được xem là sứ giả của các thần linh, do đó những con hươu ở Nara đã trở thành biểu tượng của thành phố
Theo văn hóa dân gian địa phương, 1 vị thần tên là Takemikazuchi đã cưỡi 1 con nai trắng đến cố đô, vị thần như chính người bảo vệ của nó. Từ truyền thuyết trên, 1300 năm qua, hươu ở Nara được xem là biểu tượng thiêng liêng và thần thánh. Giết chết 1 con hươu là hành vi phạm tội và phải bị trừng phạt bằng cái chết, luật này được áp dụng đến năm 1637. Sau Thế chiến II, hươu không còn được xem là biểu tượng thiêng liêng nữa, nhưng được đưa vào danh sách bảo vật quốc gia và được bảo vệ.
Nara còn có hàng loạt lễ hội và sự kiện văn hóa được tổ chức hàng năm. Đến Nara, du khách có thể tìm đến những làng nghề thủ công gia truyền như hàng mỹ nghệ, đặc biệt là mì sợi Nhật Bản và tận hưởng không gian bình lặng của những con đường khoáng đạt, những khuôn viên xanh của cỏ và thông.
Đây là thành phố của chùa chiền, lăng tẩm, mang nét cổ xưa, tĩnh lặng và thơ mộng. Những ngôi chùa, những bức tượng Phật chủ yếu được làm bằng gỗ quý. Muốn thăm hết các ngôi chùa ở Nara cũng phải mất ít nhất vài ngày, mặc dù toàn thành phố có diện tích chỉ khoảng 211,6km2.
Thời Nara (năm 710), đạo Phật được chính quyền Nhật Bản ủng hộ mạnh mẽ. Lúc đó, Nhật Bản cũng có quan hệ rất tốt với Trung Quốc - thời nhà Đường đang phát triển hưng thịnh - Nara trở thành nơi tiếp thu những sản phẩm văn hóa, nghệ thuật của đại lục. Những công trình xây dựng, nghệ thuật, điêu khắc... vẫn còn lưu giữ đến nay và được xếp vào tài sản quốc gia của đất nước Hoa anh đào.
Di sản văn hóa quan trọng nhất của Nara là quần thể chùa Todai (TodaiJi) được xây từ năm 743 và hoàn thành năm 751 trong một vùng chia thành 64 khu thuộc phía Đông của Nara. Chùa Todaiji là một trong những ngôi chùa lâu đời và nổi tiếng bậc nhất, đồng thời là một trong những thắng cảnh tuyệt vời của Nhật Bản. Theo truyền thuyết, đã có đến 420.000 người cúng tiền và 2.180.000 người tham gia xây dựng chùa. Bức tượng Đại Phật do một nghệ sĩ đến từ vương quốc Baekje, Triều Tiên, thiết kế. Đây là bức tượng bằng đồng mạ vàng lớn nhất thế giới - nằm trong một công trình làm toàn bằng gỗ tên là Đại Phật Điện.
Chùa Todaiji còn sở hữu vô số báu vật văn hóa với hơn 20 pho tượng Phật và tác phẩm nghệ thuật được xếp loại di sản quốc gia. Đại Phật Điện có chiều cao 48 mét, mặt bằng chữ nhật 56 mét x 50 mét, là công trình gỗ lớn nhất thế giới. Dù có kích thước đồ sộ như vậy, người ta vẫn cho rằng Đại Phật Điện còn chưa đủ rộng để chứa pho tượng. Đại Phật bên trong ngôi điện ngày nay, khách tham quan phải rất chật vật khi tìm khoảng rộng để ngắm nhìn được toàn bộ pho tượng.
Quần thể chùa Todaiji ngoài Đại Phật Điện mà còn cả hai ngôi tháp bảy tầng, một giảng viện và khu tịnh xá. Một dãy hành lang bao quanh Đại Phật Điện tương tự như thiết kế của quần thể chùa Horyuji nổi tiếng. Toàn bộ quần thể chùa Todaiji trải dài 1 cây số theo trục Bắc - Nam là hàng loạt công trình lịch sử, trong đó có Kho báu Hoàng gia - nơi chứa kho bảo vật của Thiên hoàng Shomu.
Một điểm đến hấp dẫn khác ở Nara là Công viên Nara được xây dựng vào năm 1880 bao gồm hầu hết những thắng cảnh của Nara như đền Todaiji, đền Kofukuji, lăng Kasuaga Taisha, đền Gangoji, đền Yakushiji, đền Toshodaiji, cung Heijo... Bảo tàng quốc gia Nara tập trung vô số những sưu tập về nghệ thuật Phật giáo. Đây cũng là nơi ở của hàng trăm con hươu hoang dã tự do lang thang. Theo đạo Shinto, hươu được xem là sứ giả của các thần linh, do đó những con hươu ở Nara đã trở thành biểu tượng của thành phố
Theo văn hóa dân gian địa phương, 1 vị thần tên là Takemikazuchi đã cưỡi 1 con nai trắng đến cố đô, vị thần như chính người bảo vệ của nó. Từ truyền thuyết trên, 1300 năm qua, hươu ở Nara được xem là biểu tượng thiêng liêng và thần thánh. Giết chết 1 con hươu là hành vi phạm tội và phải bị trừng phạt bằng cái chết, luật này được áp dụng đến năm 1637. Sau Thế chiến II, hươu không còn được xem là biểu tượng thiêng liêng nữa, nhưng được đưa vào danh sách bảo vật quốc gia và được bảo vệ.
Nara còn có hàng loạt lễ hội và sự kiện văn hóa được tổ chức hàng năm. Đến Nara, du khách có thể tìm đến những làng nghề thủ công gia truyền như hàng mỹ nghệ, đặc biệt là mì sợi Nhật Bản và tận hưởng không gian bình lặng của những con đường khoáng đạt, những khuôn viên xanh của cỏ và thông.
Chùa Kofuku, Nara
Chùa Todai ( 東大寺), Nara
Tượng Phật tại chánh điện và tượng các vị La Hán trong chùa Todai, Nara
Bức
ảnh đồ ăn cho các chú hươu dưới đây, bánh gạo senbei, chụp vào năm 2011
cho thấy giá là 150 yen, có vài bức ảnh của mod.PN đưa ở trên có hình
chụp các chú nai vây quanh chỗ của ông lão bán esa (đồ ăn cho thú nuôi)
cho chúng có bảng giá ghi 150 yen cho một gói senbei .
Bộ ảnh đẹp Không Lực các Quốc Gia trên thế giới!
F4 Phantom
F4 Phantom là một loại phản lực siêu âm ném bom, có tầm bay xa, phòng lái 2 người. Có thể hoạt động trong mọi thời tiết và chiếm nhiều ưu thế trên không.
F4 Phantom được hãng McDonnell Douglas thiết kế chế tạo trước tiên cho Hải quân Hoa Kỳ từ năm 1960 đến năm 1996.
Trong thời chiến tranh Việt Nam, F4 Phantom đã có mặt với sự tham gia của lực lượng không quân Hoa kỳ
Ngoài ra F4 Phantom cũng được trang bị cho quân đội nhiều nước khác, và cho đến năm 2001 vẫn còn hơn 1.000 máy bay F4 đang được sử dụng ở 11 nước trên thế giới.
Tuy ra đời từ lâu nhưng F4 Phantom vẫn giữ được nét độc đáo cho đến thời điểm hiện nay với nhiều chức năng kỷ thuật khá hoàn hảo
F-4 Phantom trên chiến trường Việt Nam
Những "con ma" cất cánh từ Đệ Thất Hạm Đội trên Vịnh Bắc Bộ (1969 - 1972)
Và nếu đã nhắc tới F-4 Phantom tham chiến trên chiến trường VN thì sẽ không thể không nói tới một loại chiến đấu cơ hiện đại khác nữa vào thời đó . Đây là hai chiến đấu cơ chỉ pilots Mẽo lái. Có bác nào còn nhớ chiếc dưới đây không ?
Những "con ma" cất cánh từ Đệ Thất Hạm Đội trên Vịnh Bắc Bộ (1969 - 1972)
Và nếu đã nhắc tới F-4 Phantom tham chiến trên chiến trường VN thì sẽ không thể không nói tới một loại chiến đấu cơ hiện đại khác nữa vào thời đó . Đây là hai chiến đấu cơ chỉ pilots Mẽo lái. Có bác nào còn nhớ chiếc dưới đây không ?
*F-15E Strike Eagle :
Đệ để ý khi cất hay hạ cánh thỉnh thoảng trên lưng
máy bay nó bật cái miếng gì ra để làm gì ko biết ? có huynh nào biết thì giải
thích giùm đệ với !!!
*Stealth bomber F -117A Nighthawk :
*F-16
Fighting Falcon : Loại máy bay chiến đấu rất được ưa chuộng trong các lực lượng
không quân hiện nay .
Sukhoi : Su-30 MK có nhiều phiên bản - Nghe nói không quân V+ cũng có trang bị
loại máy bay này .
*F-4 Phantom : Vẫn còn rất được ưa chuộng trong
không quân Nhật , Đức , Thổ nhĩ Kỳ , Netherland ...với những phiên bản nâng cấp
hiện đại khác nhau .
br />
br />
* Mig -29 :
* Chiếc này biên chế trong không lực Đức :
* Chiếc này biên chế trong không lực Đức :
* C-130 Spectre : Việt + từng nếm mùi con này dọc
theo dãy Trường Sơn .
1/ Các loai Oanh tạc cơ hạng nặng :
*Rockwell B1b-Lancer:
*Tupolev -160s:
*B-52H Stratofortress:
*Tu -95MS Bear :
*B-2 Spirit:
*Không biết phải cốc chủ lái chiếc ni ko nữa:
*TU-22M :
*Rockwell B1b-Lancer:
*Tupolev -160s:
*B-52H Stratofortress:
*Tu -95MS Bear :
*B-2 Spirit:
*Không biết phải cốc chủ lái chiếc ni ko nữa:
*TU-22M :
HỎA TIỂN TỐI TÂN CHỐNG TĂNG TỪ TRÊN KHÔNG
HOT là hỏa tiển chống tăng dẫn đường bán tự động bằng dây dẫn được sản
xuất bởi Euromissile (nay thuộc tập đoàn MBDA). Hỏa tiển được đưa vào
sử dụng trong quân đội Đức và Pháp từ năm 1978. HOT có thể phóng từ bệ
phóng trên xe thiết giáp hoặc từ trực thăng. Pháp trang bị hỏa tiển HOT
cho trực thăng đa năng SA-342M Gazelle với 4 hỏa tiển . Đức trang bị
trên trực thăng Bo-105 PAH-1 với 6 hỏa tiển . Gần đây, hỏa tiển HOT
được trang bị cho trực thăng tấn công Tiger với 8 hỏa tiển . HOT có
chiều dài 1.300 mm, đường kính 150 mm, trọng lượng phóng 24,5 kg. Hoả
tiển có tầm bắn tối đa 4.300 mét, khả năng xuyên giáp từ 800-1.250 mm
tùy biến thể. Ảnh: Army-technology
Pars-3 LR thuộc loại hỏa tiển "bắn - quên" và là sản phẩm của tập đoàn
MBDA, châu Âu. Pars-3 LR là hỏa tiển chống tăng thế hệ 3 được thiết kế
để tiêu diệt các mục tiêu mặt đất cũng như trên không. Hỏa tiển Pars-3
LR được đưa vào hoạt động cùng trực thăng tấn công
Tiger trong quân đội Đức từ năm 2012. Pars-3 LR được đóng gói trong một
hộp phóng lớn chứa 4 đạn. Mỗi trực thăng Tiger có thể mang theo hai hộp
phóng với 8 đạn hỏa tiển . Pars-3 LR được dẫn hướng tự động bằng cảm
biến hồng ngoại hoặc cảm biến hình ảnh kỹ thuật số. Hỏa tiển Pars-3 có
chiều dài 1.600 mm, đường kính 159 mm, trọng lượng phóng 49 kg, tầm bắn 7
km, khả năng xuyên giáp 1.000 mm sau giáp phản ứng nổ. Ảnh:
Chivethebrigade
Hỏa tiển diệt tăng 9M120 Ataka (NATO định danh AT-9 Spiral-2) được sản
xuất bởi Phòng thiết kế máy móc KBM, Nga. AT-9 được đưa vào trang bị từ
năm 1985. Hỏa tiển có thể phóng từ giá phóng trên xe thiết giáp hoặc từ
trực thăng. 9M120 là hỏa tiển chống tăng chủ lực của trực thăng tấn
công Mi-28 và Mi-35. AT-9 được dẫn hướng bán tự động bằng sóng radio với
khả năng kháng nhiễu khá cao. 9M120 có chiều dài 1.830 mm, đường kính
130 mm, trọng lượng phóng 49,5 kg. AT-9 có tầm bắn từ 400-6.000 mét mang
theo đầu đạn liều đúp nặng 7,4 kg với khả năng xuyên giáp từ 800-950 mm
sau giáp phản ứng nổ. Ảnh: Wikipedia
TênHỏa tiển chống tăng Brimstone đã khiến lực lượng tăng thiết giáp
quân đội Libya không còn đất sống. Chỉ trong ngày 26/03/2011, các hỏa
tiển Brimstone phóng đi từ máy bay Tornado của Không quân Hoàng gia
Anh đã tiêu diệt 5 xe bọc thép của quân đội Gaddafi. Brimstone thuộc
loại hỏa tiển "bắn - quên" được dẫn hướng tự động bằng radar bước sóng
milimet. Cơ chế dẫn đường của hỏa tiển có độ chính xác ngay cả với
những mục tiêu di chuyển. Brimstone có chiều dài 1.800 mét, đường kính
178 mm, trọng lượng 48,5 kg, tầm bắn từ 20-60 km tùy biến thể. Hiện tại,
Brimstone là hỏa tiển chống tăng chủ lực của Tornado GR4. Nó cũng
được trang bị cho phi cơ EF-2000 Typhoon. Ảnh: Wikipedia
Nimrod là hỏa tiển chống tăng hạng nặng. Nó được thiết kế để phóng từ
máy bay cánh cố định, trực thăng hoặc xe thiết giáp. Ngoài nhiệm vụ
chính là chống tăng hỏa tiển còn có thể tiêu diệt các mục tiêu mặt đất
khác. Nimrod được dẫn hướng bằng laser bán tự động cả ngày lẫn đêm với
tầm bắn khoảng 26 km. Hỏa tiển được lưu trữ trong ống phóng kiêm bảo
quản có tổng trọng lượng 150 kg. Hiện tại, Nimrod đang được trang bị
trên biến thể sửa đổi từ trực thăng vận tải CH-53 trong quân đội Israel.
Ảnh: Wikipedia
AGM-114 Hellfire được đưa vào trang bị từ năm 1984 và là hỏa tiển chống
tăng chủ lực của trực thăng tấn công AH-64D Apache. Mỗi chiếc AH-64D có
thể mang theo đến 16 hỏa tiển Hellfire. AGM-114 được dẫn hướng bán tự
động bằng laser ngoại trừ biến thể AGM-114L được dẫn hướng bằng radar
bước sóng milimet. Hỏa tiển Hellfire có chiều dài 1.630 mm, đường kính
178 mm, trọng lượng phóng 49 kg, tầm bắn từ 800-8.000 mét. AGM-114 được
sử dụng một cách rộng rãi trong các chiến dịch quân sự của Mỹ và đồng
minh trong thời gian qua. Hellfire cùng với trực thăng tấn công Apache
đã phá hủy lực lượng tăng thiết giáp hùng hậu của Iraq năm 2003. Ảnh:
Wikipedia
9K121 Vikhr (NATO định danh AT-16 Scallion) được chế tạo bởi Phòng thiết
kế máy móc công cụ KBP Tula. Nó ra đời để đánh bại những xe tăng chiến
đấu chủ lực hiện đại nhất. 9K121 được dẫn hướng bám chùm laser bán tự
động với độ chính xác rất cao. AT-16 có chiều dài 2.800 mm, đường kính
130 mm, trọng lượng phóng 45 kg.Hỏa tiển có tầm bắn từ 8-12 km mang
theo đầu đạn liều đúp nặng 8-12 kg với khả năng xuyên giáp lên đến 1.000
mm sau khi phá giáp phản ứng nổ. AT-16 là hỏa tiển chống tăng tối tân
nhất của Nga hiện nay.
TRUYỆN CƯỜI
Thứ Mọi Qúy Bà Đều Thích
Một phụ nữ đi máy bay có một viên kim cương mà không biết làm cách nào qua được hải quan. Thấy một linh mục đang đi ngang, bà bèn nhờ cha đem qua hải quan dùm.
Đến chỗ khai báo, nhân viên hải quan hỏi:
- Cha có gì khai báo không?
Cha cố tính nói không nhưng chợt nhớ viên kim cương trong túi quần và không quên lời Chúa răn nên cha nói:
- Từ thắt lưng cha trở lên không có gì quý giá, còn từ thắt lưng trở xuống thì có một vật mà quí bà đều thích.
Nghe vậy, nhân viên hải quan cười nói:
- Cha vui tính quá! Mời Cha qua.
Có một cô gái nuôi được một con vẹt rất khôn, biết nói đủ chuyện. Một hôm thấy con vẹt dơ dáy wá cô gái bèn mang nó vào nhà tắm và tắm cho nó. Sau khi tắm cho con vẹt thì quần áo bị ướt nên cô gái cởi quần áo tắm luôn. Trong lúc đứng rũ lông cho khô con vẹt cứ đứng nghiêng ngó rồi lải nhải:
- Thấy hết rồi nha, thấy hết rồi nha!.
Cô gái bực quá bèn xách con vẹt ra vặt hết lông trên đầu nó cho chừa cái tội nói bậy.
Mấy hôm sau, có một nhà sư đến nhà của cô gái nọ thăm. Con vẹt nghiêng ngó nhìn cái đầu của vị sư một hồi rồi rụt rè hỏi: Bộ cũng thấy hết rồi hả???
Cha xứ của một xóm đạo nhỏ có nuôi một con chim rất khôn.
Cha rất quý con chim này. Một hôm, con chim của cha bị mất,cha nghĩ rằng xứ đạo mình nhỏ, chắc ai cũng biết là mình có con chim. Nghĩ vậy nên trong bài giảng trước nhà thờ hôm đó, cha xứ hỏi :
"Ai ở trong nhà thờ này có con chim thì đứng dậy ?", tức thì tất cả đàn ông trong nhà thờ đứng dậy.
Cha biết mình đã lầm nên chữa lại : "Ai ở trong nhà thờ này từng thấy con chim thì đứng dậy ?",
tức thì tất cả đàn bà trong nhà thờ đứng dậy. Cha biết mình lại lầm nên chữa lại tiếp :
"Ai ở trong nhà thờ này đã thấy con chim của cha thì đứng dậy ?", tức thì tất cả các sơ trong nhà thờ đều đứng dậy.
Nguời Nhật đào đất sâu xuống 500m thấy được 1 sợi dây điện thoại, liền kết luận rằng cách đây 500 năm nguời Nhật đã dùng điện thoại đặt ở bàn.
Nguời Mỹ cũng đào đất xuống 1000m và thấy được 1 sợi dây cáp, kết luận rằng cách đây 1000 năm nguời Mỹ đã dùng truyền hình cáp.
Nguời Việt Nam liền vào cuộc, đào sâu xuống 2000m mà chẳng thấy được gì hết, nhưng vẫn kết luận rằng cách đây 2000 năm nguời Việt Nam đã dùng điện thoại di động.
Lỗi tại bà
Một cặp vợ chồng già trên 80 tuổi mà vẫn khỏe mạnh, vi họ ăn uống theo chế độ và tập thể dục thuờng xuyên. Không may hai cụ qua đời do một tai nạn xe buýt. Họ lên thiên đàng và được Thánh Pierre đón tiếp nồng hậu. Thánh Pierre đua hai nguời đi tham quan nhà bếp, hồ bơi, phòng tắm hơi, sân chơi tennis ... Lóa mắt vì sự sang trọng của ngôi nhà, cụ ông hỏi Thánh Pierre :
- Chúng tôi có phải trả tiền các dịch vụ không ?
- Tất cả đều miễn phí, đây là thiên đàng mà. - Thánh Pierre trả lời..
Ðến giờ ăn, Thánh Pierre đưa hai cụ đến bàn bày thức ăn linh đinh. Cụ ông hỏi:
- Tất cả các món ăn này đều miễn phí ?
- Tất nhiên. Thánh Pierre trả lời.
- Chúng tôi có thể ăn tùy thích, không phải lo ngại dư mỡ, đuờng, cholesterol à ?
- Không, tôi đã bảo là cụ đang ở trên thiên đàng. Cụ có thể ăn uống no say tùy thích mà không sợ bị béo phì, đái đuờng hay nhồi máu cơ tim ...
Bỗng nhiên mặt cụ ông trở nên đỏ gay, và quay sang bà vợ quát thật to :
- Tất cả do lỗi của bà. Nếu bà không ép tôi phải ăn uống kiêng cữ và tập thể dục, thì tôi đã lên đây sớm hơn 10 năm.
Đúng thế....
Một người Pháp, một người Mỹ và một người VN tranh luận xem Adam và Eva là nguời nước nào .
Nguời Pháp :
- "Trần truồng và trụy lạc ngay truớc mặt Thượng đế như thế, chỉ có thể là dân Pháp".
Nguời Mỹ :
- " Yêu tự do đến mức lẽ ra có thể sống hạnh phúc, chỉ cần đừng đụng đến trái táo, vậy mà họ vẫn không chịu nổi sự cấm đoán đó thì chỉ có thể là dân Mỹ ".
Nguời VN lúc ấy mới lên tiếng :
- " Quần áo chẳng có, nhà cửa chẳng có, thậm chí đến ăn một trái táo cũng bị cấm, thế mà vẫn bảo là sống trên thiên đuờng thì chỉ là dân VN !!! ".
Help!!!help! !!
Trong 1 cuộc thi nhịn đói gồm 3 nước Anh, Nhật và Việt Nam .
Mỗi nguời bị nhốt trong 1 cái hộp sắt và có gắn chuông, hễ ai không chịu nổi thì giật dây chuông "reng ... reng" sẽ được ra ngoài, ai chịu đựng lâu nhất sẽ thắng.
Thí sinh người Anh chịu được 3 ngày thì "reng ... reng" .
Thí sinh người Nhật chịu được 5 ngày phải bò ra .
Qua tới ngày thứ 7 thấy thí sinh Việt Nam vẫn im hơi lặng tiếng,......
Ban giám khảo quyết định cho VN thắng. Nhưng khi mở hộp thì thấy thí sinh VN nằm chết từ lúc nào rồi, trên vách còn ghi những dòng chữ bằng máu: " Ð.m. thằng nào cắt chuông tao".
Sau khi bị đánh rớt trong kỳ thi, một sinh viên Luật khoa liền đến vị giáo sư vừa thông minh vừa rành về luật pháp rồi hỏi rằng:
- Thưa thầy, có phải thực sự thầy am hiểu tất cả về môn học này?
- Dĩ nhiên rồi, nếu không thì tôi đã không phải là giáo sư.
- Vậy em xin phép được hỏi thầy một câu, nếu thầy nói đúng thì em chấp nhận bị rớt, còn nếu không thì phải cho em điểm A.
- Được, nói đi, câu hỏi gì vậy?
- Thưa thầy: Việc gì hợp pháp nhưng không hợp lý, hợp lý nhưng không hợp pháp, vừa không hợp pháp cũng không hợp lý?
Vị giáo sư cố nặn óc ra, nhưng vẫn không tìm được câu trả lời; cuối cùng phải chịu thua, và theo giao ước, ông đành phải cho chàng sinh viên này điểm A thay vì đánh rớt.
Vị giáo sư này tiếp tục suy nghĩ câu hỏi suốt buổi trưa, nhưng vẫn không thể nào tìm được câu trả lời; nên cuối cùng ông đành triệu tập những đệ tử xuất sắc nhất của mình và lập lại câu hỏi hóc búa của chàng sinh viên: “Việc gì hợp pháp nhưng không hợp lý, hợp lý nhưng không hợp pháp, vừa không hợp pháp cũng không hợp lý?”
Thật là ngạc nhiên và bối rối rối cho vị giáo sư, vì tất cả các đệ tử ruột của ông đều giơ tay xin trả lời. Vị giáo sư này liền chỉ một đệ tử đắc ý nhất của mình. Anh này giải thích:
- Thưa thầy, câu trả lời này cũng dễ thôi: Như thầy biết đó, thầy đã 75 tuổi rồi mà lại cưới một cô 30 tuổi là hợp pháp nhưng không hợp lý; vợ của thầy lén bắt bồ với một anh sinh viên 23 tuổi là hợp lý nhưng không hợp pháp; còn thầy lại đi cho tình địch của thầy điểm A sau khi anh ta bị chính thầy đánh rớt thì vừa không hợp pháp cũng không hợp lý!
Help..!
Một cô bé bị một con chó dữ đuổi theo nên vừa chạy vừa kêu to: "Help...help. ..help... "
Một ông lão ngồi trong nhà nhìn ra, rồi gật gù nói với bà lão ngồi kế bên: "bà coi con nhỏ điên kia kìa....... chó rượt mà cứ kêu là heo, heo, heo...?!?"
Hai đứa trẻ ngồi đọc sách sinh vật, chúng bàn cãi một lúc không đứa nào chịu thua, cuối cùng thằng anh đi đến hỏi bà nội của chúng đang ngồi gần đó :
- Bà ơi, bà có thể đẻ được em bé không ạ ?
- Các cháu ơi, bà không thể đẻ tại vì ...
Thằng em liền ngắt lời bà và quay sang nhìn thằng anh nói một cách đắc thắng:
-Thấy chưa, em đã nói với anh là bà nội thuộc giống đực mà!!!
Bia ôm
Một anh nông dân vào quán bia ôm uống bia. Sợ đắt tiền anh ta gọi:
- Chủ quán, cho 2 suất bia không ôm.
- Anh yên tâm ở đây chúng tôi không tính tiền ôm.
- Vậy thì cho 2 suất ôm không bia !!
Trời ơi, hụt!
Một đại gia mời một một tu sĩ đi đánh gôn. Cú đánh đầu tiên hụt, ông đại gia kêu lên:
- Trời ơi, hụt!!!
Vị tu sĩ liền nói:
- Thí chủ đừng kêu Trời như vậy, sẽ bị thiên lôi nổi giận mà đánh đấy.
Đến phát thứ hai hụt, ông đại gia lại kêu lên:
- Trời ơi, hụt!!!
Vị tu sĩ bèn can lần nữa:
- Thí chủ đừng kêu nữa, kêu lần nữa sẽ bị sét đánh đấy.
Phát thứ ba hụt, ông ta lại kêu lên:
- Trời ơi, hụt!!!
Đột nhiên có tiếng nổ rất to, mọi người quay lại thì thấy vị tu sĩ bị sét đánh cháy đen thui.
Bỗng từ trên trời có tiếng nói rất to vọng xuống:
- TRỜI ƠI, HỤT !!
Cố vấn
Thí sinh thi trượt lần thứ 3, hỏi bạn mình viết thư như thế nào cho gia đình. Người bạn cố vấn:
- Cậu chỉ cần viết ngắn gọn : "Kỳ thi đã kết thúc, kết quả không có gì mới "
Sập bẫy
Anh chàng mới xin làm bảo vệ đêm cho một công ty. Sau hôm làm việc đầu tiên, giám đốc công ty hỏi:
- Thế nào, đêm đầu tiên ở đây, anh ngủ ngon chứ?
- Dạ cám ơn Sếp, em ngủ rất ngon ạ.
- Vậy thì anh có thể nghỉ việc được rồi đấy.
Hỏi ai?
Ba phạm nhân A, B, C mới vào tù, đứng trước một cai ngục mắt lé (mắt lác).
Cai ngục trợn mắt nhìn phạm nhân A, hằm hằm hỏi:
- Mày phạm tội gì?
Phạm nhân B vội nói:
- Dạ, tôi phạm tội trốn thuế.
Cai ngục nhìn sang phạm nhân B hét lên tức giận:
- Tao đâu có hỏi mày mà mày trả lời!
Phạm nhân C sợ quá rú lên:
- Dạ nãy giờ em đứng yên, em đâu có trả lời !
Bao nhiêu tuổi?
Trên một chuyến tàu, hai phụ nữ nằm ở 2 giường tầng 1 nói chuyện với nhau. Một phụ nữ hỏi:
- Chị bao nhiêu tuổi rồi?
- Tôi chỉ mới hơn 20 một chút. Thế còn cô?
- Em mới hơn 18 tuổi một tẹo.
- Ông khách giường trên nghe thấy thế liền lộn cả người xuống nhìn hai “cô gái”.
Sau khi chiêm ngưỡng hai "thiếu nữ" 18, 20, ông liền ngã quay xuống đất.
Hai bà giật mình kêu lên:
- Anh từ đâu ra thế này?
- Tôi không biết nữa, tôi vừa mới sinh ra.
Thuật ngữ chuyên môn
Một phụ nữ suốt đời làm nghề dọn dẹp nhà vệ sinh. Về già, bà muốn lo chu đáo cho phần mộ sau này của mình nên đặt làm một tấm bia.
Ông thợ hỏi:
- Thế bà muốn tôi khắc gì trên đó?
Không cần suy nghĩ, bà trả lời:
- Ở trong đang có người.
Chồng say
lướt khướt trở về nhà, vợ càu nhàu:
- Hứa mãi rồi, vẫn uống nhiều, lại say bét nhè!
- Nhiều nhặng gì đâu, có một chai cho ba người.
- Thế sao lại say đến thế này?
- À, tại hai thằng kia hẹn nhưng chả thấy đến.
Kiện ông Điện Lực
Tại Tòa Án hôm nay rất đông người đến dự khán phiên xữ vụ ông Bác sĩ kiện ông Điện Lực.
Chánh Án :
- Yêu cầu ông Bác sĩ kể rõ sự việc
Bác sĩ :
- Trước mặt quý Tòa là Nam bệnh nhận mà tôi chữa trị làm chứng. Hôm đó bệnh nhân "nằm sấp" để tôi xem xét bệnh "trĩ", sau đó tôi đến tủ thuốc lấy thuốc thì bị cúp điện. Đối với bệnh này việc chữa trị không có gì khó khăn, cứ dùng thuốc bôi vào "cục trĩ" là xong, vài ngày sau tự nó rụng mất.
- Vậy chuyện gì mà kiện ông Điện Lực?
- Khi điện cúp, bệnh nhân tưởng ngưng chữa bệnh
- ???
- Bệnh nhân "nằm ngửa…"
- !!!
- Tôi bôi thuốc vào chỗ đó.
Một cô Giáo viên người Kinh công tác giảng dạy ở một làng Thượng, thời gian sau mang bầu. Hội Đồng Làng xét xữ hỏi cô Giáo,
- Yêu cầu cô Giáo cho biết có "bầu" với ai ?
Cô Giáo :
- Dạ chính là anh K. Rong Pleime,
Hội Đồng Làng :
- Anh K. Rong Pleime có nhận tội không?
K. Rong Pleime :
- Không
Hội Đồng Làng :
- Tội rành rành sao không nhận?
- Giết người mới có tội, còn tôi làm ra người sao gọi là có tội.
??
Khai lý lịch
Một thanh niên làng quê mang Tờ khai Lý lịch đến cơ quan…chứng nhận,
Viên chức nhà nước :
- Tại sao nơi sinh anh không ghi vào?
- Khó ghi lắm
- Tại sao?
- Ông cũng biết mà
- Biết cái gì?
- Thì ông cũng sinh ra ở chổ đó của Má ông, ghi mà chi.
- ???
Vợ thấy chồng đi làm về, chạy ngay ra đón chồng, hôn 1 cái vào má và thỏ thẻ:
- Anh ơi, em trễ 2 tháng rồi, chắc chúng ta có em bé quá!
Chồng vui mừng khôn siết vì sắp được làm bố... 2 vợ chồng cùng nhau xem ti vi và đi ngủ.
Sáng hôm sau, chồng lại đi làm, chỉ có mỗi bà vợ ở nhà. Có 1 anh nhân viên Điện lực đến bấm chuông
-Tôi có thể giúp gì cho anh?
-À không, tôi đến đây chỉ để báo cho bà biết là bà đã trễ 2 tháng rồi nhá!!!"
- Hả? Sao các anh lại biết?
- Bà đừng có cố tỏ vẻ ngạc nhiên như thế, bà trễ dù là 1 bữa chúng tôi cũng biết chứ đừng nói chi đến 2 tháng như vậy!
Quá hoảng sợ, bà vợ nói: "thôi đợi chồng tôi nói chuyện với các anh"
rồi đóng sập cửa lại.
Ngay sáng hôm sau ông chồng đến ngay công ty điện lực và gặp anh nhân viên thu tiền hôm trước, vỗ bàn hét :"Này anh kia, anh muốn gì ở vợ chồng chúng tôi?"
- Cũng đơn giản thôi, ông bà vui lòng đưa chúng tôi tiền là mọi việc sẽ ổn thỏa.
Ông chồng nghĩ đang bị tống tiền , nên càng thêm bực tức:
- Nếu tao không đưa tiền cho mày thì sao?
- Bắt buộc chúng tôi phải cắt của ông thôi - anh nhân viên thu tiền trả lời.
Ông chồng há hốc miệng: "Cắt rồi vợ tôi xài cái gì?"
- Kêu bà ta xài đỡ đèn cầy vậy!
VĂN QUANG * 60 NĂM SÀI GÒN TRONG TÔI
Văn Quang – Viết từ Sài Gòn
60 NĂM SÀI GÒN TRONG TÔI
Hai tuần nay người Sài gòn xôn xao về một số công trình xưa cũ sẽ bị phá bỏ lấy đất làm tàu điện ngầm. Rầm rộ nhất là khu thương xá Tax đã bị “bao vây” bởi những hàng rào chắn chạy dài và tất cả các cửa hàng trong thương xá này phải dời đi vào tháng 10 này để làm một siêu thị 40 tầng văn minh hơn. Hầu như cả thành phố xôn xao, người ta kéo đến mua hàng giảm giá đông như hội. Và cũng có nhiều người đến để nhìn lại chút kỷ niệm xưa với một công trình kiến trúc được xây dựng từ xa xưa khiến bất cứ ai dù chỉ sống ở thành phố này ít năm cũng cảm thấy tiếc nuối. Lứa tuổi già đã có từng hơn nửa thế kỷ với Sài Gòn bỗng nhận ra cái khu thương xá đó không chỉ gắn liền với thành phố mà còn gắn liền với cả gia đình mình.
Hầu như gia đình nào cũng đã từng đưa nhau vào
đây mua sắm vài thứ đồ dùng lặt vặt hoặc chỉ dạo quanh, ăn một ly kem, uống một
ly cà phê. Nỗi buồn vẩn vơ thật nhưng lại rất sâu sắc như người ta vừa lấy đi một
phần đời mình. Bởi cái mất đi đã từng có những kỷ niệm với người thân quen
không bao giờ tìm lại được nữa. Người mất kẻ còn, người ra đi, kẻ ở lại đã từng
cùng nhau đến đấy.
Và còn một số công trình gắn liền với Sài Gòn chẳng
phải chỉ là biểu tượng mà còn là da thịt của một thành phố từng được vinh danh
là “hòn ngọc viễn đông” này cũng sắp mãi mãi biến mất để nhường chỗ cho công
trình ga tàu điện ngầm đầu tiên của tuyến Metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên. Dẫu
biết vạn vật đổi dời không có gì là vĩnh cửu cả nhưng cái gì quá thân quen mất
đi cũng thấy lòng trống rỗng. Có khi chỉ một cửa hàng như quán cơm bình dân Bà
Cả Đọi, tiệm cắt tóc Đàm, nước mía Viễn Đông… mất tích vĩnh viễn, thay vào đó
là những tòa nhà chọc trời, những cửa hàng choáng lộn cũng thấy nó lạnh lùng xa
lạ.
Người còn ở trong nước xót xa, người Việt ở nước ngoài tiếc nuối, đó là điểm những người thân quen gặp nhau ở nỗi nhớ nhung tiếc nuối này. Tôi đã đọc khá nhiều bài viết từ nước ngoài và e mail của bạn bè chia sẻ nỗi hoài niệm đó. Như Thế Hải từ Hawai đã mượn hai câu thơ bất hủ của Bà Huyện Thanh Quan, chia sẻ cùng bè bạn khắp nơi khi nhớ về những cái sắp mất đi của Sài Gòn: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo. Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”.
Với một người còn ở lại như tôi, đã hơn nửa thế kỷ gắn bó với hòn ngọc viễn đông này, hai tuần nay càng thấy lòng hoài cổ dâng trào. Nhớ, nhớ đến từng chi tiết từ cái bước chân đầu tiên đặt lên đất Sài Thành, nhớ từng ngõ ngách, từng nhân vật thuộc về quá khứ ấy cho đến ngày nay. Mặc cho Sài Gòn đã có nhiều tang thương dâu biển, từ cái tên thành phố đến những con đường đã thay họ đổi tên, từ con người đến xã hội cho đến cả cái cách sống cũng đã khác xưa nhiều lắm. Chẳng trách khi xã hội đổi thay, người ta chép miệng than: “Trời làm một trận lăng nhăng, ông hạ xuống thằng, thằng nhảy lên ông, con đĩ đánh bồng nhảy lên bà lớn” cũng chẳng sai. Nhưng với tôi, Sài Gòn vẫn là Sài Gòn từ trong tâm thức mình, từ trong tận cùng tim óc mình. Thế là đủ và tôi lại phải sống cũng như những người Sài Gòn khác, bất chấp gian khổ. Có chăng chỉ là nỗi ngẩn ngơ khi những dấu tích xưa dần mất đi, chẳng bao giờ tìm lại được.
Trong nỗi hoài niệm sâu sắc ấy nhiều buổi chiều đứng trong hành lang hẹp chung cư, nhìn lên khung trời cao, hướng về ánh đèn đêm mơ hồ của thành phố, tôi cố tưởng tượng lại đó vẫn là khung trời xưa, tôi nhớ lại những năm tháng dài tôi sống ở Sài Gòn. Ở đây không chỉ có cảnh quan mà còn có cả những nhân vật là bạn hoặc là người tôi đã từng gặp, từn
từng quen, từng biết đến. Người ở đâu bây giờ?
Có biết Sài Gòn của chúng ta đang có rất nhiều người đang nhớ đang mong các “bạn
ta” không?
Bước chân đầu tiên trên đất Sài Gòn
Thế mà 60 năm rồi đấy,
kể từ ngày tôi mới đặt chân lên thành phố Sài Gòn. Tôi nhớ như in, ngày đầu
tiên ấy. Cuối tháng 1 năm 1954, sau 2 tháng học ở Trường sĩ quan Thủ Đức, ngày
thứ bảy chúng tôi được đi phép ở Sài Gòn. Niềm mơ ước của tôi từ những ngày còn
nhỏ ở trường trung học, ước gì có ngày mình được vào Sài Gòn. Niềm mơ ước ấy
còn rộn ràng hơn khi khóa học sĩ quan khai giảng. Thủ Đức – Sài Gòn chỉ có hơn
10 cây số, tuy chỉ cách thành phố rất gần nhưng theo đúng chương trình khóa học,
hai tháng sau chúng tôi mới được đi phép. Mấy anh “Bắc kỳ” nôn nao hỏi thăm mấy
ông bạn “Nam Kỳ” về Sài Gòn. Từ cái xe taxi nó ra sao, đi thế nào, bởi hồi đó
miền Bắc chưa hề có taxi, cho đến Chợ Lớn có những gì… Mấy ông bạn Nam Kỳ tha hồ
tán dóc. Đấu óc tôi cứ lơ mơ về cái chuyến đi phép này.
Rối ngày đi phép cũng đến, một nửa số sinh viên sĩ quan (SVSQ) đi phép mặc bộ tenue sortie là ủi thẳng tắp, áo bốn túi, chemise trắng tính, thắt cravate đen đàng hoàng, giầy đánh bóng lộn có thể soi gương được. Vô phúc quên cái gì là bị phạt ở lại ngay. Nhưng hầu như chưa có anh nào bị
phạt. Đoàn xe GMC của
trường chở chúng tôi chạy vèo vèo vào thành phố. Ôi cái cửa ngõ vào thành phố hồi
đó chưa có gì lộng lẫy mà chúng tôi cũng mở to mắt ra nhìn. Đoàn xe “diễu” qua
vài con phố rồi dừng lại trên đường Hai Bà Trưng (hồi đó còn gọi là đường Paul Blanchy), ngay phía sau Nhà hát lớn Thành phố mà sau này là Trụ sở Hạ Nghị Viện
VNCH.
Cú nhảy từ sàn xe GMC xuống con đường Hai Bà Trưng là bước chân đầu tiên của tôi đến đất Sài Thành hoa lệ. Ông Hồ Trung Hậu là dân miền Nam chính hiệu, ông đã hứa hướng dẫn tôi đi chơi… cho khỏi “ngố”. Chúng tôi đi bộ vào con đường nhỏ bên hông nhà hát Thành phố và khách sạn Continental, vòng ra trước bùng binh Catinat – Lê Lợi (hồi đó còn gọi là Boulevard Bonard) và Nhà hát TP. Nhìn mặt trước nhà hát TP có mấy bức tượng bà đầm cứ tưởng… mình ở bên Tây. Lúc đó đã có nhà hàng Givral rồi, nhưng tôi vẫn còn “kính nhi viễn chi” cái nhà hàng văn minh lịch sự giữa thành phố lớn rộng đó, chưa dám mơ bước chân vào. Ông Hậu vẫy một cái taxi chở chúng tôi về nhà ông. Taxi hồi đó toàn là loại deux cheveaux, nhỏ hẹp sơn 2 màu xanh vàng. Khi bước lên xe, đồng hồ con số chỉ là 0, đi quãng nào số tiền nhảy quãng đó.
Trong ngày đầu tiên,
tôi ngu ngơ làm quen với không khí Sài Gòn qua gia đình anh em ông Hậu. Hôm sau
ông bạn tôi đi với bồ nên tôi bắt đầu cuộc solo giữa thành phố xa lạ này. Tất cả
Sinh viên SQ đều không được đi xe buýt hay xích lô, phải đi taxi. Nhưng lệnh là
lệnh, chúng tôi học các đàn anh khóa trước, cởi áo bốn túi, bỏ cravate, cất cái
nón đi là lại tha hồ vung vẩy.
Trở thành người Sài Gòn từ bao giờ
Nơi tôi đến đầu tiên là Chợ Lớn. Một cuốc taxi từ giữa trung tâm TP đến
cuối Chợ Lớn mất 12 đồng. Tôi tìm đến khách sạn rẻ tiền của mấy thằng
bạn Bắc Kỳ ở đường Tản Đà, một con phố nhỏ, ba bốn thằng thuê chung 1
phòng cũng chẳng có “ông mã tà” nào hỏi đến. Chợ Lớn hồi đó tấp nập hơn ở
Sài Gòn, con phố Đồng Khánh chi chít những khách sạn, hàng ăn, cửa tiệm
tạp hóa lu bù tưởng như mua gì cũng có. Chúng tôi cũng biết cách chui
vào Kim Chung Đại Thế Giới xem thiên hạ đánh bạc. Hôm đó có anh Nguyễn
Trọng Bảo cùng Đại Đội tôi nhưng lớn hơn chúng tôi vài tuổi và là 1 cặp
với Nguyễn Năng Tế (lúc đó mới là người yêu của nữ diễn viên điện ảnh
Kiều Chinh). Anh thử đánh “tài xỉu”, may mắn làm sao, một lúc sau đó anh
được khoảng
vài trăm ngàn. Thế là
chúng tôi xúi anh “ăn non”, không chơi nữa, rủ nhau đi ăn.
Bắt đầu từ hôm đó
chúng tôi đi “khám phá” Sài Gòn và rồi theo cùng năm tháng trở thành người Sài
Gòn lúc nào không biết. Càng có nhiều thăng trầm chúng tôi càng gắn bó với Sài
Gòn hơn.
Lần thứ hai trở lại Sài Gòn
Tôi lại nhớ ngày trở về
Sài Gòn sau hơn 12 năm đi tù cải tạo từ Sơn La đến Vĩnh Phú rồi Hàm Tân. Đó là
vào buổi chiều tháng 9 năm 1987. Khi đoàn xe thả tù cải tạo bị giữ lại nhà giam
Chí Hòa nghe các ông quan chức trấn an về số phận chúng tôi khi được trở về,
khoảng hơn 5 giờ chiều chúng tôi mới được thoát ra khỏi cánh cửa sắt nhà tù Chí
Hòa. Ngay từ cổng trại tù đã có đoàn quay phim đợi sẵn để quay cảnh “vui mừng đoàn
tụ” của tù nhân, chắc là để chứng tỏ cái sự “khoan hồng bác ái” của nhà nước
cho những thằng may mắn không chết trong ngục tù. Lại là lần thứ hai tôi đặt
chân lên đất Sài Gòn nhưng với tư cách khác giữa một thành phố đã đổi chủ.
Thấy cái cảnh sẽ bị
quay phim, Trần Dạ Từ kéo tôi lên vỉa hè đi lẫn trong đám thân nhân được vận động
ra đón tù cùng những người dân tò mò nhình “cảnh lạ”. Tránh được cái máy quay
phim, chúng tôi đi gần như chạy ra khỏi con phố nhỏ này. Ra đến đường Lê Văn
Duyệt, chúng tôi đi chậm lại, nhìn đường phố mà cứ thấy đường phố đang nhìn
chúng tôi với một vẻ xa lạ và xót thương? Trần Dạ Từ còn lại ít tiền, anh rủ
tôi ghé vào đường Hiền Vương ăn phở. Chẳng biết là bao nhiêu năm mới lại được
ăn tô phở Hiền Vương đây. Tôi chọn quán phở ngay sát cạnh tiệm cắt tóc Đàm mà mấy
chục năm tôi cùng nhiều bạn bè vẫn thường đến cắt tóc. Có lẽ Trần Dạ Từ hiểu rằng
anh về đoàn tụ cùng gia đình chứ còn tôi, vợ con đi hết, nhà cửa chẳng còn, sẽ
rất cô đơn, nên anh níu tôi lại. Ngồi ăn tô phở tưởng ngon mà thấy đắng vì thật
ra cho đến lúc đó tôi chưa biết sống ra sao giữa thành phố này. Ỏ tiệm phở bước
ra, chúng tôi đi bên nhau dưới ánh đèn chập choạng của con đường Duy Tân mà Phạm
Duy gọi là con đường Đại học “uống ly chanh đường, uống môi em ngọt”. Đến ngã
tư Phan Đình Phùng, tôi chia tay người bạn tù Trần Dạ Từ, đi lang thang trong cô
đơn, trong bóng tối của chính đời mình. Bây giờ tôi mới hiểu hết nghĩa của sự
cô đơn là thế nào. Tôi bắt đầu cuộc sống lưu lạc trên chính quê hương mình.
Tôi tìm về nhà ông anh
rể đã từng nuôi nấng tôi suốt những năm tháng trong tù. Bắt đầu từ đó tôi trở
thành người Sài Gòn khác trước. Và rồi với những cùng khổ, những khó khăn, tôi
đã tự mình đứng lên. Bởi tôi thấm thía rằng thằng bạn đồng minh xỏ lá đã phản
phé mình, lúc này không ai cứu mình cả, anh không vượt qua nó, nó sẽ đè chết anh. Vì thế cho đến bây
giờ sống giữa Sài Gòn, tôi phải là người Sài Gòn và mãi mãi sẽ là người Sài
Gòn. Làm được cái gì hay chết bẹp dí là do mình thôi.
Đi tìm hoài niệm
Tôi không lan man về chuyện cũ tích xưa nữa, bởi nói tới những ngày tháng đó chẳng biết bao giờ mới đủ. Cho đến hôm nay, 25 tháng 8 năm 2014, hơn 60 năm ở Sài Gòn, mọi người đang xôn xao về những đổi thay lớn của Sài Gòn, tôi không thể ngồi yên. Tôi muốn chính mắt mình được nhìn thấy những thay đổi ấy. Mặc dù qua 2 lần nằm bệnh viện và với cái tuổi trên tám mươi, tôi đã mất sức nhiều, hầu như suốt ngày ngồi nhà đã từ ba tháng nay. Tôi điện thoại cho Thanh Sài Gòn rủ anh đi thăm “cảnh cũ người xưa”. Chúng tôi vào phở Hòa, môt tiệm phở nổi tiếng từ trước năm 1975 cho đến nay. Con đường Pasteur đan kín xe cộ, tiệm phở Hòa có vẻ tấp nập hơn xưa. Bạn khó có thể tìm lại một chút gì đó của “muôn năm cũ”. Tô phở bị “Mỹ hóa” vì cái tô to chình ình và miếng thịt cũng to tướng, có lẽ ông bà chủ đã học theo phong cách những tiệm phở VN ở Mỹ. Nó “to khỏe” chứ không còn cái vẻ “thanh cảnh” như xưa nữa.
Sau đó, nơi tôi tìm đến
đầu tiên chính là Thương xá Tax. Vừa đến đầu 2 con đường gặp nhau Pasteur – Lê
Lợi đã nhìn thấy một hàng rào bằng tôn chạy dài. Đường Lê Lợi chỉ còn đủ một lối
đi nhỏ dẫn đến thương xá Tax và công viên Lam Sơn. Chiếc xe gắn máy len lỏi cho
đến tận cuối đường Lê Lợi sát mép đường Tự Do. Chúng tôi đứng trước cửa TX Tax
đang bày ra cảnh vô cùng vắng vẻ, chỉ có tôi và anh bảo vệ nhìn nhau. Anh thừa
biết tôi đến đây để làm gì. Anh bảo vệ cũng không còn làm cái nhiệm vụ cao quý
là mở cửa đón khách, anh để mặc tôi tự do đẩy cánh cửa kính nặng chịch đi vào
trong khu thương mại. Đèn đuốc vẫn thắp sáng choang, chiếc thang máy cuốn vẫn lặng
lẽ chạy không một bóng người. Nó mang một vẻ gì như người ta vẫn lặng lẽ theo
sau một đám tang.
Trong quầy hàng đầu
tiên, điều khiến tôi chú ý là hàng chữ nổi bật hàng đại hạ giá (Big Sale) tới
70% đỏ loét chạy dài theo quầy hàng và hàng chữ “TẠM BIỆT THƯƠNG XÁ TAX”.
Tôi cố gợi chuyện với
cô chủ hàng xinh xắn: Cô phải đề là “TỪ BIỆT” THƯƠNG XÁ TAX mới đúng chứ, sao lại
là “TẠM BIỆT”? Cô hàng trẻ đẹp thở dài ngao ngán: “Ấy người ta còn hứa khi nào căn
nhà 40 tầng làm xong sẽ cho chúng tôi được ưu tiên thuê cửa hàng đấy”. Nhưng
ngay sau đó cô lại lắc đầu: “Hứa là hứa chứ khi đó mình không cổ cánh, đút lót
thì đừng hòng bén mảng tới, ông có tin không?”. Bị hỏi ngược, tôi đâm lúng túng
ấp úng nói lảng: Phải đợi tới lúc đó mới biết được. Cô bán hàng quay đi, dường
như cô chẳng tin gì cả.
Các quầy hàng khác vẫn
mở cửa, mỗi gian hàng chỉ còn lại vài ba người, chắc toàn là những ông bà chủ.
Tôi nghĩ họ đang làm công việc khác chứ không để bán hàng. Có ai mua đâu mà
bán. Tôi đến hỏi thăm vài ông bà chủ cửa hàng, không tìm thấy bất cứ nụ cười
nào trên những khuôn mặt buồn hiu ấy.
Có lẽ vài tuần nay,
người đi tìm đồ hạ giá đã “khuân” đi khá nhiều rồi, lúc này những thứ hàng còn
lại không còn giá trị nữa. Tuy nhiên cửa hàng nào cũng còn bề bộn hàng ế. Nhìn
lên tầng lầu cũng vậy, nó còn vắng vẻ thê thảm hơn.
Tôi bước lên mấy bậc của
bục gỗ, ghé vào một tiệm bán máy hình còn nguyên si bởi ông chủ quyết không giảm
giá.
Tôi hỏi lý do, ông có
vẻ liều:
- Thà
- Thà ế chứ không giảm.
Tôi lại tò mò hỏi tiếp:
- Vậy là ông có một cửa
hàng ở nơi khác nữa?
Ông lắc đầu: - Không.
Tôi hỏi: Vậy ông sẽ
làm gì? Câu trả lời của ông cụt lủn:
Tôi yên lặng trước sự
bất bình đó. Đứng nhìn hàng loạt máy hình, máy quay phim đủ loại còn nằm rất thứ
tự trong tủ kính sáng bóng. Tôi lại hỏi:
- Chắc họ phải đền bù
cho ông những thiệt hại này chứ?
- Chưa có xu nào cả. Thời
hạn bắt di dời nhanh quá, trở tay không kịp.
Tôi nghĩ chắc ông này
cũng chỉ là người đi thuê lại cửa hàng của một ông nhà giàu nào đó mà thôi, ông
có vẻ bất cần đời. Tôi từ giã, ông chỉ gật đầu nhẹ.
Nhìn sang hàng loạt cửa
hàng vàng bạc đá quý gần như vẫn còn nằm nguyên vẹn và không một bóng khách
vãng lai. Các bà, các cô tha hồ nhìn nhau ăn cơm hộp. Tôi có cảm tưởng một
thành phố chết vì chiến tranh gần kề hay vì một nạn dịch nào đó.
Vậy mà tôi vẫn còn đi
vơ vẩn trong cái không gian như nghĩa trang sống đó. Tôi đi tìm hình bóng của một
thời dĩ vãng, nào vợ con, nào bè bạn, nào những người xa lạ trong cái nhịp thở
rộn ràng thân thiện của tất cả Sài Gòn xưa ở chốn này. Chẳng bao giờ trở lại.
Tôi muốn gọi tên tất cả trong hoài niệm tận cùng sâu lắng.
Ngậm ngùi nhìn công viên Lam Sơn trống rỗng
Rồi tôi cũng phải bước
ra. Trở về với thực tại, nhưng vẫn gặp cái vắng lặng của vỉa hè chạy dài theo đại
lộ Nguyễn Huệ. Dường như chỉ còn có Thanh Sài Gòn ngồi ngất ngư với “người xưa
trong ảnh” của một ô quảng cáo vuông vắn phía ngoài thương xá.
Cuối cùng tôi trở lại
nơi mà lần đầu tiên tôi đặt chân lên TP Sài Gòn. Tôi đã nhảy xuống xe GMC ở
đây, đúng nơi này, phía sau nhà hát TP, bây giờ là trụ sở của Tổng công ty cấp
nước của TP. Mặt đường nhựa chẳng có gì thay đổi, nó cũng nhẵn mòn như những
con đường nhựa khác, nhưng với tôi nó là một dấu son đáng nhớ nhất trong đời. Vậy
mà đã đúng 60 năm rồi sao?
Mai này Sài Gòn sẽ còn
mất đi nhiều thứ nữa như vòng xoay trước cửa Chợ Bến Thành, một biểu tượng mà bất
cứ ai đã đến Sài Gòn dù chỉ một lần cũng không thể nào quên. Đó là những thứ sẽ mất đi
để làm tuyến metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên. Ngoài tuyến metro số 1, còn xây
dựng thêm 6 tuyến metro khác. Chúng ta sẽ mất đi nhiều di tích xưa cũ. Sài Gòn
sẽ đổi khác rất nhiều, để lại trong người Sài Gòn dù ở đâu cũng thấy cảm thấy
một nỗi bùi ngùi, nhớ tiếc. 60 năm Sài Gòn, hồn ở đâu bây giờ?
Văn Quang- 29 tháng 8-2014
Hình:
01- Đường Lê Lợi phía
thương xá TAX chỉ còn một lối đi nhỏ.
02- Văn Quang trước
Thương xá Tax ngày 25-8-2014.
03- Thanh Saigon với
hoài niệm “người xưa” trong ảnh quảng cáo trên vỉa hè bên hông Thương xá Tax.
04- Tạm biệt Thương xá
Tax và hàng giảm giá.
05- Tất cả các cửa
hàng trong thương xá vắng hoe.
06- Những chiếc thang
máy không người vẫn chạy đều đều.
07- Các tầng lầu càng
vắng khách.
08- Chủ cửa hàng bán
máy ảnh sẽ về quê làm ruộng.
09- Các cửa hàng đá
quý vàng bạc càng vắng vẻ.
10- Tác giả thẫn thờ đứng
nhìn công trường Lam Sơn đang bị phá bỏ
11- Tượng đài Thủy
Quân Lục Chiến giữa công viên Sài Gòn xưa.
12- Trước cửa Cty Cấp Nước TP, nơi tác giả đặt chân lên TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI SÀI GÒN THÊ THẢM
Nhiều chủ cửa hàng buôn bán kinh doanh đã hơn nửa đời người nay dở khóc, dở cười. Chủ cửa hàng số 86 đường Nguyễn Huệ phải treo tấm bảng mời gọi khách: “Các hộ kinh doanh vẫn giao dịch bình thường, xin mời quý khách đi xe vào”.
Tấm biển dở khóc, dở cười của các tiểu thương.
Tấm bảng này đã được treo từ hơn 1 tuần nay, để vớt vát phần nào lượng khách tại khu vực lâu nay được xem là buôn bán sầm uất nhất Sài Gòn.
Dày đặc các bảng quảng cáo cho thuê nhà
Cô Phan Minh Tâm, chủ cửa hàng kinh doanh quần áo trên đường Lê Lợi than ngắn, thở dài, nói với giọng buồn buồn: “Giờ tất cả các hộ kinh doanh, buôn bán đều chung một hoàn cảnh là… chết chùm".
Bà con đi không được mà buôn bán cũng không xong, chỉ biết dài cổ chờ qua ngày thôi. Nhân viên cũng cắt giảm gần hết, tiền mặt bằng kí hợp đồng dài hạn nên cố cầm cự”.
Bà con đi không được mà buôn bán cũng không xong, chỉ biết dài cổ chờ qua ngày. Nhân viên cũng cắt giảm gần hết.
Ghi nhận tại 2 tuyến đường Lê Lợi, Nguyễn Huệ hiện nay đơn vị thi công đã đào bới, lập lô cốt, rào chắn đường ở một số đoạn.
Buổi tối đèn điện không có, tối om nên tuyến đường sầm uất nhất giờ trở nên vắng teo, ít người qua lại khiến cho các hộ kinh doanh trở nên lao đao, không có lối thoát.
Đường Nguyễn Huệ chỉ còn xe đạp chạy.
Theo yêu cầu của UBND thành phố, thương xá tax cũng sẽ hoàn tất việc di dời trước đầu tháng 10 và bàn giao 500 m2 ở số 39 Lê Lợi cho Ban Quản lý đường sắt đô thị để thi công tháp thông gió nhà ga của tuyến metro số 1, và chuẩn bị khởi công trung tâm thương mại mới cao 40 tầng.
Saigon Tourist bị rào chắn cô lập
Thương xá Tax sầm uất nay còn đâu.
Đường Lê Lợi rào chắn chỉ còn một phần đường nhỏ.
Buôn bán bị tê liệt.
No comments:
Post a Comment