Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday, 17 November 2016

QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM * SƠN TRUNG *LƯU QUANG VŨ

QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM



Đặc Điểm Kiến Trúc Văn Hóa Việt Nam
Bảo tồn di tích công trình Phật giáo
Năm ngoái, trong cuộc hội thảo về di sản văn hóa, nhà sử học, Giáo sư Phan Huy Lê gây kinh ngạc khi kể lại câu chuyện hướng dẫn vị Đại sứ Nhật Bản tham quan chùa Tây Phương, đã phát hiện người ta đem sơn mới phết lên các pho tượng gỗ La hán nổi tiếng, gọi là để bảo quản các pho tượng quý này. Tìm hiểu ra mới hay việc đó do tổ chức văn hóa địa phương thiếu kiến thức bảo tồn tiến hành. Điều này nói lên việc giao khoán công tác bảo tồn di sản văn hóa cho các hội quần chúng mà không có sự hỗ trợ của chuyên gia văn hóa.


Chùa Tây Phương -- Việt Nam -- www.HoPhap.Net
Chùa Tây Phương - Miền Bắc Việt Nam, một ngôi chùa có kiến trúc văn hóa Việt đặc thù, bạn nên đến hành hương
Kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính hôm đó cũng cảnh báo về 3 xu hướng sai lệch xuất hiện thường xuyên hiện nay trong lĩnh vực bảo tồn. Đó là đơn giản giao trách nhiệm bảo tồn cho ngành xây dựng (thường có hiểu biết rất hạn chế về lĩnh vực này), việc tôn tạo không đúng phương pháp và quy cách (tự ý thêm thắt, làm mới lung tung) và nhất là xu hương rất đáng báo động hiện nay là “du lịch hóa”di sản. Di tích Phật giáo cũng không thoát khỏi tình cảnh này.
Sự phát triển trong thời kỳ nhiều biến động ngày nay đang tác động từng ngày từng giờ đến di sản văn hóa đất nước, trong đó có không ít di tích Phật giáo, đã gây nhiều bức xúc chẳng những cho giới làm lịch sử, văn hóa nghệ thuật mà của đông đảo Phật tử và nhân dân cả nước. Phải chăng chúng ta đang đối mặt với mâu thuẫn: Một mặt, mà cứ khư khư giữ nguyên trạng cứng nhắc chỉ có tác dụng làm đóng băng di sản, và về lâu dài sẽ đưa đến sự xuống cấp, hủy hoại chúng, di tích biến thành phế tích. Nhưng mặt khác, nếu phát huy chúng một cách bừa bãi, không tôn trọng các nguyên tắc bảo tồn mang tính khoa học thì di tích cũng sẽ bị hủy hoại hoặc biến mất.
Trong vài thập kỷ gần đây, bảo tồn di tích đã trở thành một ngành nghiên cứu và thực hành mang tính chuyên môn cao, tuân thủ các nguyên tắc nghiêm ngặt theo thông lệ được cộng đồng quốc tế chấp nhận. Nghĩ rằng đã đến lúc di tích công trình Phật giáo ở nước ta ngày nay cũng phải được bảo tồn và phát huy theo hướng này.
Chưa đáp ứng được yêu cầu mới thời đại
Kiến trúc chùa chiền, gồm bảo tồn phát huy cái cũ và xây dựng cái mới, ngày nay cũng không thoát khỏi tình trạng chung của kiến trúc đất nước được mô tả là “năng động mà hỗn loạn”. Kiến trúc chùa chiền nhìn chung rất phong phú và đa dạng nhưng cũng khá lộn xộn trong kiểu cách.
Theo đánh giá chuyên môn về mặt kiến trúc, công trình chùa chiền cũ đang bị hủy hoại nghiêm trọng. Đã có hiện tượng mạnh ai nấy làm, làm biến dạng không ít di tích chùa quý giá ở nước ta, có nguy cơ phá vỡ những nét cổ mà các vị tổ sư đã dày công tôn tạo.
Công trình Phật giáo xây mới lại có hiện tượng sa đà vào chủ nghĩa hình thức, nặng về sáo mòn sao chép vốn cổ hoặc giả cổ, với trang trí thường lòe loẹt, nặng về phô trương hình thức bên ngoài mà nhẹ về bố cục nội dung bên trong. Điều đáng suy ngẫm là phải chăng ta đang làm mai một đi bản sắc văn hóa đã được khẳng định để lao vào việc tạo dựng lên các công trình mới không đáp ứng được yêu cầu của thời đại, của lớp Phật tử ngày càng trẻ trung và có kiến thức hơn.
Ngôi chùa ở thành phố ngày nay thường nằm lọt thỏm trong phố thị chật hẹp thì lại càng khó thể hiện được tính thần mà một cơ sở thờ tự tôn nghiêm cần có. Loại hình chùa chiền kiểu đó cũng khá phổ biến tại các cộng đồng người Việt sinh sống ở nước ngoài.
Tuy vậy, cũng đã có một số ngôi chùa, đa số thuộc Thiền tông, có nỗ lực trong việc hướng về cái mới đồng thời tạo được cái đẹp dung dị, hòa mình vào thiên nhiên-vốn là nét đặc trưng kiến trúc Phật giáo nước ta. Hình như, rất tiếc, chúng ta chưa rút ra được các bài học từ những thể nghiệm cách tân kiến trúc chùa Phật những thập niên qua. Ví như các ngôi chùa xây dựng mới ở Sài Gòn vào những năm 1950-1960, nào Xá Lợi, Vình Nghiêm…
Khảo sát ra bên ngoài, tôi đã nhìn thấy nhiều ngôi chùa cũ được chăm chút bảo quản khá tốt và chùa mới của các tông phái Phật giáo Nhật Bản, Thái Lan, Sri Lanka thì kết hợp được tính chách hiện đại và bản sắc Phật giáo địa phương. Trường hợp đó cũng xuất hiện trong các công trình chùa Việt ở nước ngoài, như Trúc Lâm thiền viện ở ngoại ô Paris (Pháp), Viên Giác ở giữa thành phố Hannover (Đức), Huyền KHông ở ngay trung tâm thành phố Montréal (Canada), nhiều ngôi chùa Việt tại California (Hoa Kỳ) kết hợp khá nhuần nhuyễn tính hiện đại của công trình tôn giáo thời đại mới và bản sắc rất riêng của ngôi chùa Việt.
Đặc điểm kiến trúc của Việt
Giáo lý của đạo Phật cũng như đặc điểm nổi bật của kiến trúc Phật giáo là tính giản dị, đại chúng, bình đẳng, trí tuệ. Chùa Phật vừa là trung tâm tôn giáo, vừa là trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Tuy vậy, kiến trúc chùa Việt Nam cũng như chùa Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản ở vùng Đông Á chịu ảnh hưởng chủ yêu từ truyền thống Bắc tông, nghiêng về văn hóa, nghệ thuật Trung Hoa hơn là truyền thống Nam tông Ấn Độ hóa của hầu hết các nước Phật giáo Đông Nam Á như Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào. Chùa Phật truyền thống luôn là một tổng thể kiến trúc-cảnh quan hài hòa.
Kiến trúc chùa cũng có những đặc điểm riêng tùy theo phong tục, tập quán và thời tiết khí hậu từng địa phương. Nếu ngôi chùa Hoa, Nhật có mái lớn và nặng, nhằm chống lại cái lạnh giá, mưa bão và mong muốn tạo một bầu khí u trầm, kín đáo của một nơi chốn tĩnh tu, thì trái lại, chùa Thái, Khờ-me, Lào với mái chống nhiều lớp, thanh thoát nhằm tạo thông thoáng trong môi trường nhiệt đới, màu sắc tươi vui của một trung tâm cộng đồng hấp dẫn.
Nếu chùa Việt dung hòa cả hai truyền thống đó và cơ bản vẫn là ngôi nhà gỗ dân gian nhưng đã đạt được cái đẹp trong sự hạn chế phương tiện, thô mộc, bình dị, hòa mình vào thiên nhiên. Nếp chùa là một phức hợp kiến trúc gồm nhiều công trình, đặt ở những vị trí cảnh quan đẹp nhất. Truyền thống bố cục mang tính mở, đại chúng với sân rộng, hành lang lớn hai bên phải trái (Đông lang , Tây lang) đón khách thập phương. Chùa Phật rất khác với đền miếu Khổng giáo, Đạo giáo vì có tháp, gác chuông và cả nơi ở, tu tập của Tăng Ni lẫn nhà khách. Điện thờ là trung tâm chùa, gồm tiền đường (nơi vân tập thiện nam tín nữ), tòa thiêu hương hay bái đường (nơi hành lễ) và thượng điện hay chánh điện (nơi đặt tượng Phật).
Ở nước ta, tuy nếp chùa truyền thống Bắc-Nam cơ bản không mấy khác nhau, nhưng chùa ở miền Bắc, miền Trung vẫn còn nặng nề với mái lớn, đầu đao, khép kín,  trang trí rườm rà, trong khi chùa ở miền Nam hàng ba thoáng mở bốn phía, mái bốn vạt kiểu bánh ít, trang trí giản dị, thể hiện rõ nét sinh hoạt bình dị của người di dân Nam tiến trong khung cảnh thời tiết mưa nắng hai mùa. Chùa phương Nam cũng chịu nhiều ảnh hưởng của nếp chùa Hoa, chùa Khờ-me bản địa trong trang trí và bố cục sân vườn.
Bảo tồn và phát huy
Bảo tồn di tích công trình Phật giáo nay cũng cần dựa trên cơ sở khoa học và pháp lý. Nước ta đã ban hành Luật Di sản từ năm 2001 để làm cơ sở pháp lý, ngoài ra chúng ta cũng đang tiếp thu kinh nghiệm quốc tế…Từ đó đang đề ra các quy chế cụ thể bảo tồn di tích, trong đó có không ít di tích công trình Phật giáo.
Thông lệ quốc tế thì thường dựa vào văn kiện tiêu biểu là Hién chương Venice 1964, với sự xác nhận của Công ước về di sản văn hóa thế giới của UNESCO 1972. Sau này bổ sung thêm văn kiện Nara 1994.
Hiến chương Venice đòi hỏi việc gìn giữ tính nguyên gốc của di sản nhắm tránh làm sai lạc các chứng cứ lịch sử và khoa học. Sỡ dĩ Hiến chương nhấn mạnh điều đó là do phương Tây đã kinh qua kinh nghiệm phục hồi chua xót di sản vào thời Phục hưng, đã từng tùy tiện nâng cấp cải tạo hoặc trùng tu thêm thắt theo phong cách mới thời đại hoặc thị hiếu cá nhân.
Tuy nhiên gần đây nhiều hội nghị quốc tế đã chỉ ra rằng Hiến chương Venice nay đã phần nào lỗi thời trong quan niệm “giữ gìn nguyên gốc”và hướng sang đề cao “Văn kiện Nara”.
Nhật Bản là nước từng có thông lệ từ thế kỷ thứ VII là cứ 20 là họ tiến hành trùng tu lại các công trình tôn giáo Thần đạo tại khu Ise truyền thống. Điều này rõ ràng là không phù hợp với tinh thần châu Âu của Hiến chương Venice. Vì vậy mà vào năm 1994, các chuyên gia đầu ngành bảo tồn di sản của các tổ chức quốc tế và 25 nước đại diện các châu lục đã họp tại Nara đề ra các điều bổ sung mới về tính nguyên bản của di sản. Nghĩa là phải tính đến các yếu tố phi vật thể, phù hợp với thực tế của thời đại như các yếu tố chức năng và tác dụng, truyền thông và kỹ thuật, tinh thần và tình cảm…Hiện nay, thông lệ quốc tế khuyến khích giữ gìn nguyên trạng di sản nhưng cũng uyển chuyển áp dụng các qui định mới, nhằm biến di sản văn hóa sinh động hơn và không “đóng băng”chúng trong thờigian kinh tế thị trường.
Tại các nước tiên tiến luôn có cơ quan phụ trách di sản và hoạt động rất tích cực, khá hữu hiệu như lập hồ sơ, quy định công tác quản lý, bảo vệ và tôn tạo công trình.
Riêng đối với di sản công trình tôn giáo cổ nêu còn đang sử dụng thì tổ chức tôn giáo tự mình bảo quản, tôn tạo là chính, cơ quan bảo tồn chỉ can thiệp để bảo vệ công trình không bị xâm hại, yểm trợ việc trùng tu, phục hồi cho đúng nguyên trạng. Nhiều cơ sở nghiên cứu kiến trúc tôn giáo, khảo cổ, các trường mỹ thuật và kiến trúc, quỹ tài trợ văn hóa cũng tham gia tích cực vào các công tác nêu trên. Nếu các công trình mang tính chất di sản văn hóa tiêu biểu cấp quốc gia thì nhà nước phải tham dự nhiều hơn vào công tác trùng tu, bảo tồn.
Ở nước ta do tình hình khó khăn chung về nhiều mặt, trước mắt nhà nước khó mà đảm trách hết mọi việc. Cho nên, việc yểm trợ từ nhiều phía sẽ giúp ích cụ thể cho việc gìn giũ, tôn tạo các di tích chùa chiền.
Tôi nghĩ, một mặt nhà nước nên chấn chỉnh lại nạn lấn chiếm di sản chùa chiền kéo dài nhiều năm qua. Mặt khác sắp xếp quy hoạch, phân khu chức năng đô thị và nông thôn mới cần dự kiến quỹ đất đáp ứng nhu cầu tinh thần và tâm linh cho cộng đồng khi dự trù mặt bằng cần thiết cho công trình tôn giáo. Mặt khác, Giáo hội Phật giáo cũng nên có bộ phận chuyên trách bảo tồn di tích, kết hợp với các chuyên gia bảo tồn công trình Phật giáo lên phương án trùng tu, bảo quản và tôn tạo lâu dài cho đúng quy cách.
Đây là một việc cần phải làm ngay, vì nếu cứ để tình hình hỗn loạn này kéo dài, thì chúng ta có tội lớn, chẳng những đối với Phật giáo mà cả đối với tiền nhân và lịch sử văn hóa Việt Nam. 
Chùa Trấn Quốc -- Hà Nội -- www.HoPhap.Net
Source: Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 62


 Đình Chùa Cổ Việt Nam.
Hình ảnh độc đáo về đình, chùa cổ Việt Nam

Chùa Thiên Niên (Hà Nội), hay còn gọi là chùa Trích Sài nằm ngay sát bờ hồ Tây, thuộc làng Trích Sài, phường Bưởi, quận Tây Hồ. Chùa xuất hiện từ thời Lý Nam Đế (544 - 548). Chùa đã được bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch đánh giá
Các tác phẩm ảnh về những ngôi chùa, đình, đền nổi tiếng tại Hà Nội, Bắc Ninh, Ninh Bình, Sài Gòn.. được đưa ra triển lãm nhân dịp Phật đản Liên hợp quốc hồi đầu tháng 5.




Chùa Thiên Niên (Hà Nội), hay còn gọi là chùa Trích Sài nằm ngay sát bờ hồ Tây, thuộc làng Trích Sài, phường Bưởi, quận Tây Hồ. Chùa xuất hiện từ thời Lý Nam Đế (544 - 548). Chùa đã được bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch đánh giá, xếp hạng và tổ chức trùng tu nhân sự kiện 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.



Chùa Trấn Quốc (Hà Nội) là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nằm cạnh Hồ Tây bên đường Thanh Niên. Chùa được xây từ thời Lý Nam Đế ở gần sông Hồng, đến năm 1615, được di dời vào vị trí ngày nay. Nơi đây có vườn tháp cổ u tịch, có nhiều tượng Phật giá trị, đặc biệt là tượng Thích Ca nhập Niết Bàn và là di tích lịch sử văn hóa quốc gia.



Đền Quán Thánh (Hà Nội), tên chữ là Trấn Vũ Quán, có từ đời Lý Thái Tổ (1010 - 1028). Nơi đây thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, là một trong bốn vị thần được lập đền thờ để trấn giữ bốn cửa ngõ thành Thăng Long khi xưa. Bốn ngôi đền đó gồm Đền Bạch Mã, Voi Phục, Kim Liên và Quán Thánh. Đền Quán Thánh nằm gần Hồ Tây cùng với Kim Liên và Trấn Quốc tạo nên sự hài hoà trong kiến trúc cảnh quan và văn hoá tín ngưỡng đối với cả khu vực phía Tây Bắc của thủ đô.




Đình Chèm là đình của làng Chèm (Thủy Phương), phường Thụy Phương, quận Bắc Từ Liêm. Đình là công trình kiến trúc có nghệ thuật chạm khắc độc đáo, thờ Thượng đẳng Thiên vương Lý Ông Trọng (Lý Thân hay Đức Thánh Chèm), một nhân vật huyền thoại và Hoàng phi Bạch Tĩnh Cung sống vào thời An Dương Vương. Đình Chèm là một trong những ngôi đình cổ nhất Việt Nam. Từ nghìn năm nay, đình Chèm vẫn là nơi thờ cúng tín ngưỡng của người dân ba làng gồm làng Hoàng, làng Mạc và làng Chèm (Đông Ngạc, Bắc Từ Liêm).



Đình Bảng là một ngôi đình nằm ở làng Đình Bảng (xưa là làng Cổ Pháp), thị xã Từ Sơn (Bắc Ninh). Đình được xây dựng vào cuối thế kỷ 18 thờ các vị thành hoàng gồm Cao Sơn Đại vương (thần Núi), Thủy Bá Đại vương (thần Nước) và Bách Lệ Đại vương (thần Đất) đồng thời thờ sáu vị có công lập lại làng vào thế kỷ 15.



Chùa Tiêu hay còn gọi là chùa Thiên Tâm, Tiêu Sơn tự, nằm trên lưng chừng núi Tiêu thuộc xã Tương Giang, huyện Tiên Sơn (Bắc Ninh). Ðây là nơi trụ trì của thiền sư Lý Vạn Hạnh, người đã có công nuôi dạy Lý Công Uẩn.



Chùa Bút Tháp (Bắc Ninh). Chùa nằm hiện lên với vẻ cổ kính và trang nghiêm và nằm dưới chân đê của con sông Cầu thơ mộng. Tên chữ là Ninh Phúc Tự, được xây dựng từ thời vua Trần Thánh Tông theo kiểu “nội công ngoại quốc” với một hệ thống các công trình hài hoà, cân xứng và sinh động. Đây còn là nơi lưu giữ bức tượng Phật nghìn mắt, nghìn tay cổ độc nhất vô nhị Việt Nam.



Chùa Cần Linh (Nghệ An), thường được gọi là chùa Sư Nữ, tọa lạc ở phường Cửa Nam, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông, xây dựng vào thời Hậu Lê. Năm 1942, sư bà Diệu Viên đã tổ chức đại tu ngôi chùa, bảo tồn được nhiều tượng cổ. Sau đó đến Ni sư Diệu Niệm trong 20 năm trụ trì đã trùng hưng ngôi chùa thành một danh lam xứ Nghệ ngày nay.



Chùa Nhất Trụ (Ninh Bình), được tạo lập năm 995. Vua Lê Đại Hành đã cho dựng cột kinh (trụ đá) để khắc kinh dâng nhà Phật và xây dựng theo kiểu chữ Đinh, hướng chính Tây, gồm có cột kinh, chính điện, nhà tổ, phòng khách, nhà ăn, tháp… Chùa có tên Nhất Trụ vì trước chùa có cột đá cao hơn 3m, tiết diện hình bát giác. Trên thân cột ngoài 3 phần chữ khắc gồm có Lạc khoản, Kệ, Kinh còn có các chữ “Đệ tử Thăng Bình Hoàng đế tả đạo” ("Hoàng đế Thăng Bình" tức vua Lê Hoàn). Chùa nằm ở vị trí trung tâm, là di tích quan trọng nhất, là nơi tu hành và họp bàn việc nước của các nhà sư thế kỉ X như Pháp Thuận, Khuông Việt và Vạn Hạnh. Trải qua các thời kì lịch sử của dân tộc, trước thử thách của gió bão, bom đạn chiến tranh, trụ đá vẫn còn đứng mãi với thời gian.




Chùa Cổ Lễ thuộc thị trấn Cổ Lễ huyện Trực Ninh (Nam Ðịnh), cách thành phố Nam Định 15 km về phía Nam. Chùa do Hoà thượng Phạm Quang Tuyên xây dựng tháng 11/1920, có quy mô kiến trúc rộng lớn, hài hòa, được kết hợp các yếu tố cổ truyền Việt Nam với kiến trúc gothic châu Âu.




Chùa Đồng Đắc thuộc thôn Đồng Đắc, xã Đồng Hướng (Ninh Bình), là chùa lớn nhất ở vùng Công giáo huyện Kim Sơn. Năm 1829, một nhà sư họ Lê đã đến nơi đây và được Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ ủng hộ chọn một khu đất cao nhất ở trung tâm xã Đồng Đắc để xây dựng chùa.



Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang là một biểu tượng Phật giáo tâm linh của người dân Quảng Trị. Chùa được hình thành từ thời chúa Nguyễn Hoàng khi mới vào Nam lập nghiệp. Đây là một trong những ngôi tổ đình có mặt sớm nhất và có ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo và văn hóa của xứ Đàng Trong. Ngày 15/11/1991, Nhà nước đã chính thức xếp hạng chùa là di tích cấp quốc gia hạng A1.



Phóng to Chùa Bửu Long có kiến trúc vừa hoành tráng vừa hiện đại nhưng cũng có nhiều nét cổ kính nhất của nền văn minh Suvannabhumi cổ đại trong vùng Đông Nam Á. Chùa có ảnh hưởng của văn minh Phật giáo Ấn Độ thời đại vua Asoka. Thiền Viện Tổ Đình Bửu Long nguyên là một Tịnh Thất có khuôn viên rộng hơn 11 ha, tọa lạc trên ngọn đồi phía Tây ngạn sông Đồng Nai, trong công viên Lịch sử Văn hóa Dân tộc tại khu phố Thái Bình 1, phường Long Bình, Quận 9 (Sài Gòn).


Nguyễn Thịnh - Thúy Hồng
Bảy Hiền sưu tầm


Nét độc đáo trong thói quen ăn chay của người Huế

Ở Việt Nam, nhắc đến ăn chay không thể không nhắc tới Huế, nơi có nhiều món ăn chay nhất, thậm chí việc nấu đồ ăn chay ở Huế đã trở thành một nghệ thuật.



Việc ăn chay đã thịnh hành từ thời Lý – Trần cho đến đời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), Huế trở thành thủ phủ của Phật giáo, tục ăn chay cũng bắt đầu phổ biến ở Huế trong cả tầng lớp quý tộc lúc bấy giờ.Cho đến ngày nay, người Huế, từ bình dân đến quý tộc, đều có truyền thống ăn chay, cốt để cho tâm hồn thanh tịnh.

Nếu như bạn có dịp ghé thăm Huế vào những dịp lễ, đến các ngôi chùa ở nơi đây, bạn sẽ được thưởng thức cỗ chay mà nhà chùa thường làm để đãi phật tử bốn phương. Mâm cỗ chay rất đơn giản chỉ gồm tương, muối, rau, dưa… đều là những sản vật do các vãi cùng những phật tử trồng ngay trong vườnchùa. Bữa cơm đạm bạc là thế nhưng lúc nào cũng thu hút rất nhiều người.




Người Huế không chỉ ăn chay vào ngày rằm, ngày mồng một hay ngày lễ, họ ăn chay như một thói quen thường nhật. Dường như quanh năm, cơm chay đều thường xuyên xuất hiện trong bữa ăn của những gia đình người Huế. Họ định ngày ăn chay trong tháng gọi là trai kỳ; ăn chay hai ngày rằm, ngày ba mươi gọi là nhị trai; ăn chay bốn ngày gọi là tứ trai. Và cứ ngày mười bốn và cuối tháng âm lịch hay ngày Phật đản, phần lớn các quán bún bò của Huế đều đổi món bán bún chay.




Ở Huế, hầu hết các gia đình đều tự nấu những món chay cho bữa ăn. Bữa cơm chay thanh đạm cũng là cách mà người Huế bày tỏ sự quý mến và tấm chân thành với bạn bè. Đây là một nét văn hóa độc đáo mà có lẽ chỉ có riêng ởxứ Huế. Bữa ăn ngày Tết cũng vậy, mâm cỗ ngày Tết ở Huế thường là mâm cỗ chay, cho đến ngày nay, tuy đã có nhiều thay đổi, nhưng món chay vẫn là những món không thể thiếu trong mâm cỗ ngày Tết của người Huế.




Đến với Huế, bạn sẽ được thưởng thức từ cơm chay, bún chay… cho đến đùi gà chay, cá chay, giò chay… Củ, quả, đậu, dầu thực vật phút chốc đều biến thành những món ăn bắt mắt và hấp dẫn vô cùng. Đủ các món sơn hào hải vịtừ nem công, chả phượng, giò lụa, thịt gà đến tôm hùm, cá rán nom đẹp mắt vô cùng nhưng đều được chế tác từ thực vật. Điểm đặc biệt là ngay khi thưởng thức, vẫn cứ ngỡ như là thịt cá thật. Đó chính là cái tài chếtác từ những bàn tay nội trợ điệu nghệ xứ Huế. Sự kết hợp hài hòa màu sắc của rau, đậu, hoa quả đã được xào nấu bằng dầu thực vật, xì dầu, hoặc những món rau sống, khế chua, dưa hành, nộm hoa chuối...v.v, rồi bày trí các món ăn trên bàn ăn sao cho đẹp mắt cũng rất được quan tâm.
Các món ăn thường được bày ít, và xếp trên những chiếc đĩa nho nhỏ, khiến thực khách thưởng thức rồi mà vẫn có cảm giác thòm thèm muốn ăn thêm chút nữa. Món khai vị cho một bữa tiệc chay ở Huế thường là cà rốt,đu đủ được tỉa thật khéo để trang trí xung quanh những lát chả phù đượclàm từ lá phù chúc màu vàng mơ, xen lẫn là mì căn gói bánh tráng chiên giòn làm nem rán. Súp măng cua được nấu từ bắp non, nấm rơm, hạt sen… Vàtất nhiên không thể thiếu cơm và xôi rồi.

Không chỉ vậy, bạn còn có thể được thưởng thức bánh bèo, bánh lọc, bánh ít… với nhân chay. Và một món ăn quen thuộc thường xuất hiện trong những bữa cơm chay của người Huế chính là món chao. Chao là món ăn có vị gần giống như một món mặn, được chế biến từ đậu nành, làm thành đậu khuôn, đậu khuôn ủ lên men thì thành chao. Chao có hương vị rất hấp dẫn và bảo quản được lâu ngày.

Đất Huế thơ mộng, lại mang nét văn hóa ăn chay độc đáo, thật dễ khiến lòng người nhớ mãi không nguôi…


Bánh ướt lâu năm ở ngã tư Bảy Hiền

Đây là một trong những quán thuộc dạng quán lâu đời và rất nổi tiếng khu Tân Bình. Quán chỉ bán duy nhất mỗi món chính là bánh ướt, ăn kèm bánh tôm chiên nóng giòn rất ngon.


Trước hết phải nói là hàng bánh cuốn này giá không rẻ chút nào hết. Một phần bánh cuốn với miếng chả lụa to (nhưng hơi mỏng), nem chua và miếng bánh tôm chiên có giá là 32k. Ăn ở đây muốn “đã miệng” phải gọi thêm chả và bánh tôm cho nên tính ra giá thành sẽ hơi chát với các bạn teen. Tuy nhiên, giá cả có vẻ không thành vấn đề khi nơi này luôn đông khách, cảnh buôn bán ở đây diễn ra tấp nập rộn ràng của góc đường ngã tư Bảy Hiền (đối diện bệnh viện Thống Nhất).



Một phần bánh ướt giá 32k


Lý do cho việc bán đắt nhưng vẫn đông có lẽ nằm ở cái bánh tôm. Bánh tôm ở đây khá đặc biệt, không giống những chỗ khác. Bánh tôm được chiên bằng bột mỏng với con tôm tươi ở giữa. Một cái bánh tôm sẽ được cắt làm đôi cho vào phần bánh ướt, cùng chả - nem và rau giá, nước mắm. Bánh tôm được nhiều người thích nên hay được gọi thêm (8 – 10k/ cái), bánh chiên liên tục nên nếu may mắn bạn còn có thể thưởng thức một cái bánh nóng giòn, thơm phức.




Bánh tôm cắt đôi



Nem chua

Chả lụa to, ngon nhưng khá mỏng


Nước mắm ngày xưa của quán rất ngon nhưng khoảng vài năm sau này giảm hẳn chất lượng, ăn có cảm giác pha nhiều quá nên mất đi cái đậm đà của vị ngon xưa. Quán bán đem về khá nhanh nhẹn (chắc do phục vụ nhiều năm nên chuyên nghiệp), nước mắm đem về luôn được hâm nóng cho cảm giác ngon hơn khi ăn.




Hành phi thơm và giòn



Bánh ướt dầy, dai - ngon




Nói chung, đây là một nơi có thể ăn thử để thưởng thức bánh tôm chiên ngon và lạ. Còn ăn dài dài thì tùy vào nhu cầu và khả năng tài chính của mọi người vì tính ra giá cả ở đây đắt gấp đôi những hàng bánh ướt bình thường.
Ngã tư Bảy Hiền, bên trái là đường Lý Thường Kiệt, bên phải đường Hoàng Văn Thụ, phía trước đường Trường Chinh

Ảnh: Bảy Hiền

Những thương hồ cuối cùng giữa lòng Sài Gòn
Khi dự án cải tạo kênh Tân Hoá - Lò Gốm sắp hoàn thành cũng là lúc các thương hồ gắn bó lâu năm như anh Thành, ông Khảm lại mất ngủ vì chưa biết phiêu dạt về đâu.



Vài năm trước, trên khúc sông Tàu Hủ - Bến Nghé (TP HCM) có cả một xóm nổi các ghe thương hồ nhộn nhịp, thi vị. Khi đoạn sông này cải tạo, chỉnh trang, một bộ phận nhỏ chuyển về bên cầu Lò Gốm tiếp tục hành nghề thương hồ giữa lòng Sài Gòn. Người thành phố ít ai để ý đến mấy chiếc ghe chuối, ghe chở hàng đậu trên dòng kênh đen, bốc mùi vì ô nhiễm và thân phận thương hồ vô danh vì thế vẫn nhọc nhằn.


Ngoài những ghe chở chuối từ miền Tây lên Sài Gòn bán, số còn lại là ghe vận tải, chở thuê hay các ghe bán hàng lưu động trên sông nước. Các ghe này về Sài Gòn ăn hàng rồi chở đi các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Hàng đến là phải vận chuyển ngay cho kịp, vì thế, bất kể trời nắng hay mưa gió đều phải được bốc vác luôn.



Anh Thành (42 tuổi) chủ ghe ngụ tại Cần Đước (Long An) cho hay, dòng kênh ngày càng bị ô nhiễm nặng luôn bốc mùi hôi nồng nặc, nhiều lần trượt chân làm hàng hoá rơi xuống sông là phải bơi ra để lấy.


Sống ở trên kênh, dù không lặn ngụp dưới đó thì người vẫn ngứa ngáy khó chịu, nổi mẩn đỏ như dị ứng. "Vì cuộc sống mà phải bám trụ ở đây chứ dân thương hồ sông nước khoáng đạt sao chịu nổi cảnh ao tù nước đọng", anh Thành cảm thán.



Gia đình anh Thành lấy hàng từ các nhà buôn rồi chở đi giao khắp các tỉnh miền Tây. 15 năm rong ruổi anh đã có 4 đứa con nhưng việc học hành của chúng đều không trọn vẹn vì phải nay đây mai đó cùng gia đình.




Anh cũng rất lo cho an toàn những đứa con của mình, đi lại từ ghe lên bờ chỉ là miếng ván bắc qua, nhiều khi sơ ý sẩy là té ngay, rất nguy hiểm.



Cũng cùng hoàn cảnh như gia đình anh Thành, gia đình chị Nguyễn Ngọc Chi 34 tuổi ở Cần Đước, Long An có gần 10 năm xuôi ngược Sài Gòn và các tỉnh miền Tây. Chị có 2 con, con gái lớn nay cũng phải phụ chị lo sổ sách bán buôn và lo cho em chứ cũng không thể ăn học tới nơi tới chốn.



Khi đêm xuống lại là một cuộc sống hoàn toàn khác biệt, không còn bon chen. Các ghe neo đậu gần nhau, cùng sinh hoạt chung, ăn uống và trò chuyện và chia sẻ kinh nghiệm làm ăn.




Ông Phan Văn Khản năm nay đã 43 tuổi có hơn 10 năm gắn bó với bến sông này. Cứ tối đến ông lại cùng các ghe bạn hàng uống rượu để quên đi lo toan của một ngày mệt nhọc và tìm niềm vui cho ngày mới.



Em Phan Minh Trường (15 tuổi, con trai ông Khản) phải bỏ học từ năm lớp 6. Vì theo ghe lâu ngày, không bạn bè nên em cũng trầm tính, hiền lành. Em cho biết sau này là sẽ nối nghiệp cha trở thành một thương hồ nay đây mai đó.


Những ngày này, khi con kênh đang được hoàn thiện ở giai đoạn nước rút, dù ban ngày lao động cực nhọc, vất vả nhưng anh Thành vẫn không thể ngon giấc. Anh lo lắng cho cuộc sống ngày mai của cả gia đình cũng như tương lai của những đứa con.



Nhiều đêm ngồi trên nóc ghe ngắm mảnh trăng treo trên đầu, nghĩ về thân phận, anh Thành và các bạn thương hồ không khỏi chạnh lòng.



Chỉ vài ngày nữa, những chiếc ghe thương hồ như của chị Trâm lại nhổ neo, dắt díu nhau đi tìm bến mới để mưu sinh. Người dân thành phố rồi sẽ chẳng còn ai nhắc nhớ đến nhúm ghe tàu đậu trên kênh Lò Gốm đen đúa. Anh Thành và đàn con chưa biết sẽ neo lại ở đâu. Còn ông Khản nghe nói muốn về lại quê từ giã nghề buôn sông bán hồ. Những thương hồ cuối cùng giữa lòng Sài Gòn chẳng biết phiêu bạt về đâu.

Dự án cải tạo kênh Tân Hóa – Lò Gốm được khởi công từ cuối năm 2011 với tổng nguồn vốn gần 2.000 tỷ đồng. Dự án đi qua địa bàn các quận 6, 11, Tân Phú từ đoạn tiếp giáp đường Âu Cơ (quận Tân Phú) đến đại lộ Võ Văn Kiệt (quận 6).

Theo thiết kế, đoạn kênh từ đường Âu Cơ (quậnTân Phú) đến cầu Hòa Bình (quận11) dài 3 km sẽ được lắp đặt cống hộp, bên trên làm đường rộng từ 7 m đến 13 m.


Hiện, về cơ bản tuyến đường này đã hoàn thành. Đoạn kênh 7,4 km từ cầu Hòa Bình đến cầu Lò Gốm sẽ là kênh hở với bờ kè bêtông, hai bên là đường rộng 7 m. Đến nay các nhà thầu đang tiến hành gấp rút thi công những đoạn bờ kè còn lại, sau đó tiến hành nạo vét toàn bộ tuyến kênh để đảm bảo thoát nước.
Dự kiến đến đầu tháng 9/2014 toàn bộ dự án Tân Hoá - Lò Gốm sẽ hoàn thành.



5 địa điểm nổi tiếng của Sài Gòn sẽ chỉ còn trong ký ức.

Chẳng bao lâu nữa, những địa điểm nổi tiếng này của Sài Gòn sẽ mãi biến mất, hoặc sẽ được di dời để nhường chỗ cho những công trình mới hơn, hiện đại hơn. Và có lẽ, người ta sẽ chỉ còn được nhớ về nó bằng những hình ảnh đẹp, kí ức đẹp...

Thông tin về việc đóng cửa Thương Xá Tax, một công trình kiến trúc được xây dựng từ những năm 1880 khiến bất cứ ai có ký ức gắn với nơi đây bỗng cảm thấy có chút hụt hẫng và tiếc nuối. Đối với nhiều người, Thương Xá Tax không đơn thuần là một nơi để mua sắm, mà còn là nơi họ đặt chân tới để tìm những hoài niệm của Sài Gòn năm xưa, hay đơn giản là lục lại ký ức, những khi mua cuốn vở, cây bút, món quà sinh nhật nho nhỏ... cũng đạp xe tới đây, háo hức chọn đồ. Công trình hơn 130 tuổi sắp không còn, khiến nhiều người dân thành phố lại một lần nữa hoài niệm về những biểu tượng gắn liền với Sài Gòn đã/sắp mất đi, để nhường chỗ cho những công trình mới hơn, hiện đại hơn phục vụ cuộc sống của người dân thành phố.


Đó là những hàng cây cổ thụ xanh mướt nằm cạnh công viên Lam Sơn của ngày nào, hay bùng binh Cây Liễu một thời luôn là điểm nhấn vô cùng quen thuộc mỗi khi bạn muốn ghé ngang Thương Xá Tax. Rồi vòng xoay với tượng đài vị tướng Trần Nguyên Hãn hùng dũng, nằm ngay giữa giao lộ 7 ngõ quan trọng của trung tâm thành phố. Tất cả những nơi này đều là nhân chứng lịch sử, chứng kiến Hòn ngọc Viễn Đông trải qua biết bao thăng trầm.

Chẳng bao lâu nữa, những biểu tượng không thể nào quên này của Sài Gòn sẽ mãi biến mất, hoặc sẽ được di dời để nhường chỗ cho những cái mới hơn, đó là công trình ga tàu điện ngầm đầu tiên của tuyến Metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên và tòa nhà 40 tầng ngay tại vị trí hiện tại của Thương Xá Tax. Dù biết "đôi khi phải chấp nhận mất đi những cái cũ, để có thể đón những cái mới", nhưng có lẽ vì những nơi này đã quá quen thuộc, chứa đựng rất nhiều kỷ niệm và tình cảm của người Sài Gòn nhiều thế hệ, nên đến nay, phần lớn họ còn mang trong mình sự tiếc nuối và lưu luyến về một Sài Gòn của năm nào, với hàng cây ấy, con đường ấy, vòng xoay ấy,...


Hàng cây cổ thụ "trứ danh" trên đường Lê Lợi


Nếu Sài Gòn khi xưa nổi tiếng với những hàng gòn xanh mát, thì Sài Gòn của sau này cũng nổi tiếng với những hàng dầu kiên cố, chắc khỏe. Đặc biệt những hàng dầu ở khu trung tâm thành phố, như Công Trường Lam Sơn đổ dài về đường Lê Lợi đã nằm ở đó từ rất lâu. Có những cây đến nay đã gần trăm năm tuổi, nên sẽ chẳng quá nếu nói hai hàng dầu này là những bậc lão tiền bối, "người" đã may mắn chứng kiến Sài Gòn thay đổi qua nắng mưa.



Hàng cây xanh mướt từng phủ xanh một góc Sài Gòn hoa lệ của ngày nào


Giờ chỉ là những "kỷ niệm đã qua"

Thời gian vô tình, cuộc sống tấp nập cứ thế kéo người ta càng xa với hồi ức, cho đến khi tận mắt nhìn thấy từng hàng cây, gốc dầu bị đốn hạ, không ít người mới cảm nhận được sự luyến tiếc đến thẫn thờ rằng: "Thường ngày ta vẫn đi qua, đi lại nhưng chẳng có cảm xúc chi, thế mà bây giờ lại quá buồn khi thấy chúng đi".

Giờ thì mỗi lần đi ngang qua đây, dù vẫn con đường ấy, vẫn những tòa nhà, hàng quán ấy,... nhưng chắc chắn bạn sẽ cảm thấy sự trống trải, trơ trọi vô cùng kỳ lạ vì đã vắng đi những hàng dầu cao tít tắp của năm nào.


Góc nhà hát Thành Phố mát mẻ trở nên trống trải hẳn


Công viên Lam Sơn

Nằm ngay cạnh những hàng dầu là một đoạn của công viên Lam Sơn, đây được xem là nơi cực kỳ lý tưởng để nhiều bạn trẻ, các cặp đôi và những gia đình cùng nhau tụ họp ngắm cảnh, vui chơi vào mỗi tối cuối tuần.

Nói là công viên, nhưng thực chất, nơi này giống với một khu vườn nhỏ, giúp điểm xuyến thêm chút xanh, tạo cảm giác nhẹ nhàng, gần gũi với thiên nhiên hơn cho toàn khu cao ốc thô ráp đã chắn hết 4 bề xung quanh. Vì thế cũng dễ dàng hiểu tại sao mỗi khi có dịp ra đến nhà hát Thành Phố hoặc khu trung tâm, mọi người lại có cảm giác muốn được ngồi ở trong công viên này để tìm chút không gian thư giãn. Thỉnh thoảng, nơi này còn là điểm lưu đọng các khoảnh khắc đẹp, giới thiệu những cột mốc lịch sử hay khung cảnh Việt Nam đến với khách du lịch nước ngoài, qua các buổi triển lãm tranh công cộng. Nên dù xét về mặt nào thì công viên Lam Sơn cũng là nơi tạo được nhiều kỷ niệm đẹp và có lợi ích rất cao đối với người Sài Gòn lẫn du khách quốc tế.



Công viên Lam Sơn của vài tháng trước vẫn còn nhộn nhịp và "hoành tráng" như thế này



Nhưng nay nó lại hoàn toàn khác hẳn

Nhiều người tranh thủ lưu lại những khoảnh khắc cuối cùng của công viên Lam Sơn.

Tuy nhiên "số phận" của khu công viên này cũng giống như những hàng dầu kia, chấp nhận biến mất để nhường chỗ cho những ga tàu mới của thành phố. Không còn công viên để các đôi bạn trẻ đến tâm tình, không còn chỗ cho các em bé, gia đình vui đùa với nhau,... khiến nhiều người cảm thấy tiếc đến ngẩn ngơ.


Hàng cây năm nào, dãy ghế đá với những ly trà sữa mỗi tối chắc sẽ lâu lắm mới được quay trở lại





Mỗi khi đi ngang qua đây, tất cả đều hy vọng con đường này sẽ nhanh hoàn thiện để mọi người lại có nơi thư giãn, vui chơi.

Bùng binh Cây Liễu

Được xem là giao lộ đẹp và sôi động nhất của Sài Gòn, bùng binh Cây Liễu hay còn được gọi là bùng binh Nguyễn Huệ (cắt Nguyễn Huệ và Lê Lợi), là một trong những biểu tượng tồn tại suốt trăm năm qua của Sài Gòn. Một vòng xoay mà lúc nào cũng được phủ kín với những hàng liễu nhẹ nhàng, thanh thoát, nó đẹp và quen đến mức được gọi thành tên thì chắc không nơi nào có được.



Bùng binh Cây Liễu của trước đây

Nếu bạn nào có dịp lục lại những ảnh cũ về Sài Gòn, hẳn sẽ thấy, từ thời xưa, bùng binh Cây Liễu này đã được xem là một trong những nơi đẹp và nhộn nhịp bậc nhất của Sài Gòn với hình ảnh xe cộ qua lại tấp nập, một địa điểm tập trung của toàn những người trong giới thượng lưu. Đến nay, dù thời gian có thay đổi, nhưng về cơ bản thì bùng binh Cây Liễu năm nào vẫn giữ nguyên cái "chất", cái "vị" như thế.

Không những thế, ngay tại góc bùng binh này còn là nơi tổ chức đường hoa Nguyễn Huệ, một nét đẹp văn hóa tồn tại được đúng 10 năm mà người Sài Gòn vô cùng yêu quý và nhất định phải đến một lần vào dịp Tết. Khung cảnh tấp nập, tiếng người rộn ràng đi chơi Xuân, những tác phẩm được làm từ hoa vô cùng đặc sắc gắn liền với hình ảnh con đường, bùng binh Nguyễn Huệ này chắc chắn sẽ không thể nào khiến người Sài Gòn quên được.




Những ngày lễ Tết, bùng binh Cây Liễu lung linh hơn, nổi bật một góc Sài Gòn.




Lưu lại khoảnh khắc để nhớ thêm chút kỷ niệm xưa, cái ngày còn bùng binh Cây Liễu một thời.


Không còn hàng liễu và đại lộ rộng, hẳn cái Tết năm nay của người Sài Gòn sẽ trở nên khác biệt hơn rất nhiều.

Thương Xá Tax


Được xây dựng từ năm 1880, trải qua nhiều cái tên từ Les Grands Magazins Charner (GMC) rồi đến Thương Xá Tax, trong suốt hơn 130 năm qua, tòa nhà mang phong cách Pháp xen lẫn nhiều nét đặc trưng của Á Đông này cũng là một địa điểm không thể nào quên của người Sài Gòn.

Trước đây, tòa nhà này nổi tiếng là điểm ăn chơi, tiêu tiền vào những món đồ đắt giá của các "ông lớn", giới thượng lưu và đại điền khắp Nam kỳ Lục tỉnh, toàn bán các mặt hàng ngoại được nhập trực tiếp từ châu Âu. Ngày nay cũng thế, Thương Xá Tax vẫn là một trong những trung tâm thương mại buôn bán sầm uất với đủ các mặt hàng Tây, Ta đa dạng để đáp ứng được các yêu cầu của người dùng. Ngoài ra, vào những dịp Giáng sinh hoặc Tết Âm lịch, Dương lịch, Thương Xá Tax còn là điểm đến để người Sài Gòn vui chơi, chụp ảnh sau khi nó được trang trí và lên đèn.




Thương Xá Tax sầm uất và vô cùng nổi bật khi về đêm.




Bùng binh Cây Liễu nhìn qua Thương Xá Tax



Khu thương xá nổi tiếng một thời rồi cũng đã "quá già", nhường chỗ cho những cái mới hơn.



Tất cả cửa hàng đều đã trở nên vắng vẻ.


Vị trí đắc địa của Thương Xá Tax nằm ngay hai con đường lớn của Sài Gòn là Lê Lợi và Nguyễn Huệ.




Những bằng khen, chứng nhận mà một thương xá phải tồn tại suốt hơn 130 năm mới có được.


Những hàng ăn uống bình dân dành cho các công nhân viên vào mỗi sáng cũng sẽ không còn nữa.


Vòng xoay tượng đài Trần Nguyên Hãn

Chắc hẳn cái tên vòng xoay tượng đài Trần Nguyên Hãn rất ít bạn nào biết, hoặc đã nghe qua nhưng lại quen gọi nó với một cái tên khác là vòng xoay chợ Bến Thành. Như thế cũng đủ để hiểu, hình ảnh vòng xoay và chợ Bến Thành có sự liên kết, thân thuộc đến nhường nào trong mắt người Sài Gòn.

Hầu hết trong những tấm hình chụp tại điểm này thì vòng xoay và chợ Bến Thành luôn xuất hiện cùng nhau, rất ít khi tách rời. Bởi cả hai đều là biểu tượng cho sự tồn tại, phát triển mà vẫn giữ được những nét rất riêng của Sài Gòn khi xưa.



Vòng xoay và chợ Bến Thành là hai hình ảnh luôn đi cùng nhau.



Và sắp tới tượng đài này sẽ được di dời về công viên Phú Lâm, quận 6, đểđảm bảo mặt bằng thi công cho dự án tuyến đường sắt đô thị số 1 Bến Thành – Suối Tiên.




Tượng đài Trần Nguyên Hãn được xây dựng từ trước năm 1975 ở trung tâm thành phố đã trở thành hình ảnh quen thuộc của người dân Sài Gòn.

Đối với người Sài Gòn mà nói, đây là lần đầu tiên họ được tận mắt chứng kiến sự thay đổi vô cùng lớn về diện mạo của thành phố đã quá quen thuộc. Nên dù ít dù nhiều, ai ai cũng có cho mình một cảm xúc riêng, một sự luyến tiếc khi không nỡ mất đi những cái cũ. Tuy nhiên, đây cũng là một cơ hội rất tuyệt vời để bạn có thể ôn lại những kỷ niệm đẹp mà bản thân đã gắn liền với những nơi này.

Công trình xây dựng nhà ga trung tâm Bến Thành (Q.1) nằm ở vị trí phía trước chợ Bến Thành (khu vực vòng xoay Quách Thị Trang) và nối dài đến công viên 23-9, được xây dựng ở độ sâu khoảng 40m dưới lòng đất.
Nhà ga metro Bến Thành được xây dựng và lắp đặt các thiết bị có công nghệ hiện đại như các nước tiên tiến phục vụ hành khách đi lại. Đồng thời cùng với việc phục vụ hành khách đi metro, nhà ga còn tận dụng không gian ngầm làm trung tâm thương mại nhằm mang tới các dịch vụ tiện nghi cho hành khách đi mua sắm. Nhà ga nằm ở khu vực trung tâm TP nên các cửa lên, xuống nhà ga sẽ kết nối với các khu thương mại dịch vụ ở các khu vực xung quanh như chợ Bến Thành, khách sạn và các trung tâm mua sắm trên các tuyến đường lân cận.
Nhà ga sẽ có bốn tuyến metro hoạt động bảo đảm phục vụ hành khách đi lại trên các tuyến đường từ khu trung tâm đến các cửa ngõ TP, dự kiến cuối năm nay sẽ làm công tác sơ tuyển nhà thầu, trong năm 2015 triển khai thi công và dự kiến hoàn thành công trình vào cuối năm 2018 hoặc đầu năm 2019.
 


TRÂN ĐÌNH NGỌC * CA DAO * CỘNG SẢN * LÃO HỦ

Wednesday, September 3, 2014


TRÂN ĐÌNH NGỌC * MỘT CHUYẾN THĂM SÀIGÒN

    

Truyện Ngắn

MỘT CHUYẾN THĂM SÀIGÒN

Bút Xuân Trần Đình Ngọc

Người anh bà Đượm, ông Dường nguyên là lính cụ Hồ phục viên, đã vào Sàigòn từ cuối tháng 11 năm 1975 vì ông  muốn vào xem Sàigòn ra sao sau 21 năm dưới chế độ khác hẳn ngoài Bắc.

Trước năm 1950, ông Dường đã xung vào lính cụ  bởi nếu không vào lính cụ thì phải đi dân công vác đạn, khiêng súng vất vả lắm mà không có quyền lợi gì như bộ đội. Nhưng cũng chính vì đi bộ đội mà ông Dường không di cư vào Nam được mặc dù ông muốn đi vì nghe nhiều người nói chế độ trong Nam tự do dân chủ, làm ăn dễ dàng chứ không khó khăn và nghèo nàn như miền Bắc. Giá như đơn vị của ông được về Hà Nội sau 20-7-1954 như nhiều đơn vị quân đội khác thì có lẽ ông đã liều đào ngũ rồi xuống tầu vào Nam với vợ con. Nhưng đơn vị của ông lúc đó lại được lệnh lên đóng ở Cao bằng chịu trách nhiệm ba tỉnh Cao-Bắc-Lạng nên ông không cách gì tìm đường ra Hải Phòng vì chỉ Hải Phòng mới có tầu há mồm chuyển người ra quân vận hạm Mỹ hay Pháp đưa người di cư vào Nam.

Nghe người ta đồn trong Nam đói kém, ăn toàn thức ăn của ngựa là bobo, ông Dường bỏ vào cái bao tải (dùng đựng một tạ gạo) ba lon sữa bò gạo để mang vào cho ông anh thúc bá là ông Nhân. Ông Nhân có đi Quân Đội QG từ thời Quốc trưởng Bảo Đại nhưng giải ngũ đã lâu lắm nên chẳng ai còn nhớ. Khi người anh em Bắc Việt vào miền Nam thì ông Nhân đang buôn xe đạp, chỉ là một thương gia. Ông cũng có công đi tù 6 tháng nhưng sau đó được tha về quản chế tại Phường vì người lắm bệnh quá, vả lại cũng nhờ bà vợ “tốt lễ dễ kêu”.

Người Bắc còn ầm ĩ nói trong Nam không có cái bát mẻ mà ăn, phải dùng vỏ dừa khô cưa đôi làm bát nên ông Dường hừng chí bỏ vào bao thêm ba cái bát đàn do làng Bát tràng làm. Ông nghĩ ông Nhân nhìn thấy gạo và bát sẽ sáng rỡ mắt vì miền Bắc sung túc quá, sẽ hối hận đã vào Nam di cư năm 1954, mất cả một cuộc đời!.
Ông Nhân gia nhập quân đội Quốc gia ở Hà Nội từ thời Quốc trưởng Bảo Đại nhận nước Việt Nam độc lập từ tay Tổng thống Pháp Vincent Auriole năm 1949. Nhận chức Cố vấn cho chính phủ Liên Hiệp của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa mà Chủ tịch nước là ông HCM, Phó CT: ông Nguyễn hải Thần, BT Ngoại giao: ông Nguyễn tường Tam, BT Thông Tin Tuyên Truyền: ông Trần huy Liệu v.v…từ sau ngày 19-8-1945, vua Bảo Đại để lại câu nói bất hủ: “Thà làm công dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ.”
Sau đó vua Bảo Đại đi công tác ở Hồng Kông rồi tự ý ở lại, không về. Ông đã nhìn thấy những gì khác lạ nơi chính phủ Liên hiệp do ông Hồ chí Minh làm chủ tịch. Quả thế, chính phủ Liên hiệp (các đảng phái) và cả Quốc hội cũng giải tán sớm để thành lập một chính phủ và Quốc Hội hoàn toàn của Cộng sản. Vua Bảo Đại, do lời mời của Tổng Thống Pháp, đứng trong Khối Liên Hiệp Pháp, lập chính phủ và Quân đội cho phe Quốc Gia để chống với phe CS.
Ông Dường đi tầu thuỷ từ quê lên Hà nội, rồi từ Hà Nội đáp tầu Thống Nhất vào Nam. Tiền bạc không sẵn lại vốn tính dè sẻn, ông Dường lấy vé hạng tư là hạng chót dành cho hành khách.
Khi bước lên toa xe lửa, mắt ông tối sầm vì chẳng nhìn thấy gì, có lẽ do vừa từ ngoài ánh nắng chói chang vào. Đứng một lát cho mắt quen, ông mở mắt nhìn thấy toa xe ngổn ngang người là người. Đa số ngồi, chỉ có dăm người nằm, mắt nhắm nhưng không biết là ngủ hay thức vì nóng và ngộp hơi thế này dễ gì ngủ được? Người ngồi trên ghế, trên sàn tầu, trong góc kẹt. Một anh mặc quần áo xanh bộ đội nằm trên cái võng ngáy như kéo gỗ, mồm anh ta há hốc, từng dòng rãi từ mép chảy xuống lưng một bà già nằm dưới. Góc kia, một ông già cũng nằm trên võng, cái khăn mặt đen đúa che từ trán xuống qua cằm. Hai chị có con nhỏ đang dỗ dành con vì chúng khóc mãi, kế bên là hai anh chồng mở thao láo mắt nhìn vợ con, một anh thỉnh thoảng lại chửi thề bâng quơ:”Đ. mẹ ló, ló nhét ông vào cái toa người ngồi lứt da ra thế lày thì chắc gì ông vào tới Sègòn.”
“Ló” đây có lẽ là anh xếp chỗ. Xếp chỗ cứ nhìn vé mà xếp chứ xếp khác sao được. Vé hạng tư chỉ có vậy. Không đi thì lên cho được việc.
Ông Dường đứng nhìn chán rồi cũng phải kiếm chỗ. Ông bước qua một người đàn bà đang nằm, không may dẵm phải tay mụ ta, mụ la chói lói:
“Sư bộ đựa nào dặm lên tay bà đau thậu xương, mặt mù hay sao? Còn dặm nựa là bà tệ mồ tổ mi cho đện khi vào Sègòn!”
Vì chật quá, ông Dường có chạm chứ không dẵm lên, ông nhớ thế mà sao mụ đanh ác vu oan giá hoạ vậy. Ông rán bước qua một đứa nhỏ và mẹ nó để vào trong giữa. Ông chỉ sợ lọng ngọng té xuống đè vào đứa nhỏ thì nó gẫy xương nhưng may ông bước qua được. À, kia còn một chỗ. Ông len tới, ngồi xuống thở vì dùng sức không mấy nhưng dùng trí óc nhiều. Khi ông ngồi xong mới nhận ra mình ngồi ngay dưới cái võng của anh lính mình đã nhìn thấy cơ nãy. Thôi kệ, kiếm được chỗ này đã là tốt chán. Ông có mua mấy cái bánh nếp ở ga Hàng cỏ, ngồi đàng hoàng rồi, thấy đói, ông bóc một cái bánh, cắn ăn, cảm thấy rất sung sướng, có lẽ phần nhiều là từ cái bánh.
Hành khách vẫn tấn lên ào ào. Cả vài ba chục người đứng ở chỗ lúc nãy ông Dường đứng. Họ đứng lâu hơn ông để nhìn vào bên trong toa tầu, kiếm chỗ. Chẳng còn chỗ nào hở. Một anh cậy ta là bộ đội bước bừa vào kiếm chỗ vì đứng đã quá lâu. Không may cho anh ta dẵm lên tay (hay đụng nhẹ) vào mụ đàn bà ông Dường đụng lúc nãy. Chị ta ré lên ngay như quả mìn Claymor bị kích hoả:
“Tộ sư cha mi. Tay bà chự cọ phải cại nội đi của mi đâu mà mi cự tay bà mi dặm. Tộ sư cha thằng lợn con bẹ không biệt trạnh tay bà ra...”
Mụ cứ thế đào cha bới ông đứa đã dẵm lên tay mụ. Anh lính bộ đội đã vào đến bên trong, anh ta quay người lại:
“Lè con mụ khốn lạn kia. Tao nà bộ đội biên phòng, dù tao có nỡ đụng vào tay mụ một chút, mụ không được phép chửi hỗn như thế. Xuống đến ga có công an sắc phục, mụ sẽ biết thân!”
Ý chừng mụ sợ bộ đội và công an, mụ liền im thin thít.
Tầu Thống nhất vào đến Sàigòn khoảng 8 giờ sáng. Người và xe ở đâu mà đông thế! Người quần áo sạch sẽ, đẹp đẽ chứ không lèng xèng như người Bắc, thấy rõ cái nghèo. Xe hơi, xe gắn máy, taxi, xe đạp…đủ hết chứ không như Hà Nội chỉ thấy xe đạp, mãi sau này mới có các thứ xe khác.
Ông Dường hân hoan khoác cái bao tải lên vai, kiếm lối xuống. Nhà ga rộng rãi và đẹp quá, ông khen thầm. Vừa ra đến lề đường, hai, ba anh lơ xe bu lại:
“Chú đi đâu? Chú lên xe cháu?”
Ông Dường gạt hai ba anh này ra rồi tìm cách băng qua đường. Ông không có nhiều tiền nên không dám gọi xe nào hết, ông định hỏi thăm rồi cuốc bộ.Vào một cửa tiệm bán quần áo trẻ con phía bên kia, ông hỏi thăm đường về khu Bàn Cờ. Người đàn bà chủ tiệm nói ông không quen đường có chỉ cũng không đi tới, có khi bị lạc còn mệt hơn, ông nên thuê một chiếc xích lô hay taxi.
Kiếm một bác xích lô đạp, mà cả về khu Bàn cờ, ông Dường bấm bụng lên xe vì e cuốc bộ kiếm không thấy như lời chị chủ tiệm bán quần áo.
Bác phu xích lô rướn người đạp trong khi ông Dường ngắm phố xá. Nhà hai, ba, bốn tầng đâu mà nhiều thế! Đường xá rộng rãi, sạch sẽ, xe hơi và xe gắn máy nhiều chứ không như Hà Nội, toàn xe đạp. Người đi đuờng ăn mặc cũng đẹp hơn Hà Nội, ông Dường chợt nhớ lời bác và đảng bảo người trong Nam đàn ông đàn bà đều có một cái đuôi vì họ đói quá phải giết thịt trẻ con ăn, ăn lắm trẻ con nên mọc đuôi ra. Ông nhìn kỹ sau lưng họ, ông lẩm bẩm chắc họ giấu trong quần! Ông muốn hỏi chuyện bác xích lô nhưng ngại không biết có nên không?
Xe xích lô thắng lại, bác xích lô nói:”Tới rồi.”
Ông Dường mở gói giấy báo lận trong lưng quần lấy tiền trả bác xích lô xong lật đật vác cái bao bố đi vào ngõ hẻm, ngoài có biển: Hẻm 156 Bàn Cờ. Đúng đây rồi, tên con hẻm này ông đã thuộc từ lúc lên tầu Thống Nhất. Đi sâu mãi vào trong hẻm rồi ông cũng kiếm được số nhà. Cái số nhà này chính là nó. Ông Dường đứng nhìn căn nhà ba tầng, ông nghi hoặc có lẽ đâu anh Nhân có cái nhà “to đùng” như thế này sao? Nghe nói anh ấy nghèo lắm cơ mà. Có đứa nhỏ khoảng 15, 16 tuổi đi ngang qua, ông Dường chận nó lại hỏi:      
“Này cháu, cho bác hỏi thăm, có phải nhà này là nhà của ông Bùi ân Nhân không?”
Con bé đáp:
“Cháu chỉ biết là nhà của Đại Úy Nhân, còn họ cháu không biết.”
“Thôi đúng rồi,” ông Dường lẩm bẩm, quên cả cám ơn con bé, “nhà anh ấy đây rồi!”
Ông hồi hộp đứng trước cửa, gõ cửa. Một người đàn bà ra mở.
“Xin lỗi bà, đây có phải là nhà ông Bùi ân Nhân?”
Người đàn bà trân trối nhìn ông Dường, nhận ra giọng nói rồi la lên:
“Có phải chú Dường?”
Ông Dường bấy giờ cũng nhận ra giọng người chị dâu đã từng nói chuyện với ông nhiều lần trên điện thoại.
“Thưa chị, em Dường đây. Anh đâu chị?”
“Nhà tôi đi công chuyện, sẽ về giờ. Mời chú vào trong nhà!”
Ông Dường thấy nhà sang quá, nhìn lại bộ quần áo của mình tồi tàn, ba hôm đi tầu chưa thay, hôi hám quá.
“Mời chú ngồi. Để tôi lấy nước chú uống kẻo khát.”
Ông Dường không dám ngồi mạnh trên cái ghế sa-lông gỗ trắc nâu khảm xà cừ. Ông đảo mắt nhìn xung quanh phòng khách. Tủ trưng bày đồ quý, đôn, ghế, cái quạt điện đứng cao đến ngực người đang chạy vù vù. Một bức hoạ lớn treo tường ngay chính giữa vẽ cảnh xuân với hoa đào, chim, bướm. Ngắm chỗ nào ông Dường cũng thấy đẹp mắt mà cả đời ông chưa hề thấy.
“Chú dùng ly nước cam vắt cho mát.” bà Nhân bảo.
Ông Dường đang uống ly nước thì ông Nhân cùng cô con gái về.
“Chào anh Nhân. Em là Dường vào thăm anh chị, các cháu.”
Ông Nhân tiến đến ôm lấy người em họ.
“Cảm ơn chú còn nghĩ đến chúng tôi. Tôi đề nghị thế này, chúng ta còn nhiều thì giờ trò chuyện. Chú đi từ Bắc vào đây ngồi tầu cũng mệt, chú lên lầu tắm rửa cho mát, sau đó xuống ăn cơm rồi chúng ta rỉ rả nói chuyện.”
Từ lúc vào, ông Dường thấy mang ba lon gạo với ba cái bát sành cho anh là sai rồi. Họ khá giả lắm chứ có đói khổ như ngoài Bắc tuyên truyền đâu. Giờ sao đây với hai món đó.
Ông Nhân quay qua thấy cái bao tải, hỏi:
“Cái bao gì của chú đây?”
Ông Dường ngượng ngập:
“Có một bộ quần áo của em với....với mấy lon gạo và ba cái bát đàn em định đem biếu anh chị vì ngoài Bắc nói trong Nam không có gạo, toàn ăn bobo, cũng không có cái bát  mẻ, toàn cưa gáo dừa làm bát!”
Vợ chồng ông Nhân cười ngất:
“Chú không nhớ miền Nam là vựa lúa của Đông Nam Á à? Tụi tôi đói phải ăn bobo thì nhiều nơi khác phải ăn củ chuối hay ăn thịt người.”
Quay qua ghé vào tai người em, ông Nhân nói nhỏ:
“Nói để chú hiểu, từ ngày 30-4 đến giờ, người miền Nam phải cất giấu hết, không dám để tự nhiên như ngày xưa vì e bị tội. Nóng thế này mà không có cái quạt thì chịu không nổi. Sofa, bàn ghế, tủ, tranh có đem bán, rẻ rề, không ai mua. Đành phải giữ lại. Khó khăn lắm chú ạ!”
Ông Dường gật đầu đồng ý, chợt nhớ ra:
“Thưa anh chị, tha lỗi cho em. Họ nói trong Nam người nào cũng có một cái đuôi vì đói quá ăn thịt trẻ con mà mọc đuôi. Có thật không anh chị?”
Ông bà Nhân lại cười sặc sụa:
“Làm gì có chuyện đó! Chú chớ nghe đồn nhảm!”
Ông Dường tính nói không phải đồn nhảm đâu mà có trong tài liệu học tập đàng hoàng cán bộ thông tin tuyên truyền trên loa phường nói ra rả mỗi tối bắt mọi người phải nhắc đi nhắc lại cho kỳ thuộc nằm lòng.
Ông Dường nghĩ thế nhưng lại ngại nên im luôn.
“Để cháu dẫn chú lên lầu tắm rửa cho mát đã.”
Ông quay gọi thằng con:
“Nhượng đâu, dẫn chú lên lầu chỉ phòng tắm cho chú. Lấy cái khăn bông mới trong tủ đưa chú.”
Ông Dường mở bao tải lấy bộ quần áo đẹp nhất mang đi từ nhà. Bộ quần áo giở ra, một mùi khai nhức mũi bay lên làm ông chun mũi lại. Chẳng biết đứa phải gió nào trên xe lửa đái vào bộ quần áo, ướt lan cả sang gạo. Có lẽ hai người đàn bà có hai đứa nhỏ khóc ra rả nằm gần ông. Ông Nhân cũng ngửi thấy mùi khai. Ông nhanh trí:
“Quần áo đi tầu dễ hôi hám lắm vì đi ba ngày đường. Để chị bỏ máy giặt, cháu lấy pyjama của tôi, chú mặc đỡ.”
Khi ông Dường từ nhà tắm xuống với bộ pyjama mới và đôi dép Nhật, trông ông đẹp hẳn ra và trẻ trung dăm bảy tuổi. Ông bảo ông Nhân:
“Anh có làm cái hồ nuôi cá trê nhưng hơi bé một chút. Bằng đó chỉ thả được dăm con, anh làm to gấp ba thì thả được 15 con tha hồ ăn. Nhà em ở Bắc cũng có ao thả cá trê ăn quanh năm.”
Bà Nhân ngạc nhiên:
“Nhà tôi làm gì có hồ thả cá đâu chú?”
“Giữa phòng tắm đấy thôi, men sứ trắng và cao cỡ này này.” Ông Dường giang tay làm cỡ.
Ông Nhân bảo:
“Cái bàn cầu đấy chú, không phải để nuôi cá trê đâu!”
Ông Dường ngạc nhiên:
“Rõ ràng là cái để nuôi cá trê mà!”
“Bàn cầu để đi đại tiện đấy chú. Thế ngoài Bắc không có à?”
Ông Dường biết là mình sai, thẹn đỏ mặt, ông chữa thẹn:
“Từ thuở cha sinh mẹ đẻ, chưa bao giờ em nhìn thấy cái này. Ngay ở thủ đô Hà Nội cũng không có. Ai dám ngồi lên đó mà …mà…đi đại tiện.
Trời ơi, trong Nam phí của quá. Cái bồn men sứ trắng tinh vậy lại làm bàn cầu. Thế rồi phân thì nó đi đâu?”
“Nó chui xuống hầm, sạch sẽ và không có mùi hôi.” Ông Nhân trả lời.
Ông Dường tru tréo:
“Anh chị ơi, phân Bắc, nước tiểu, người ngoài Bắc không phí đi đâu tí nào, đem bón rau, bón lúa, tốt như thổi. Đây lại chôn đi thế thì lấy gì mà bón lúa, bón rau? Có mùa hút phân chuồng, tụi em phải giấu đi để dành để nộp Hợp tác xã  không thì bị phạt tiền.”
Ông Nhân nhỏ nhẹ:
“Người ta có phân hoá học đấy chú. Thôi, chú ngồi đây dùng cơm!”
Những cái bát Giang tây men trắng tươi, những cái dĩa Pháp, dĩa Nhật thật đẹp, cái thì ra chợ trời, cái bị đào hố chôn, nhưng đám bát đĩa hạng nhì bà Nhân sắp lên bàn cũng làm ông Dường xuýt xoa khen lấy khen để. Rồi ông Dường lại nhớ đến ba cái bát đàn của mình, và ba lon gạo, ông đã cố ôm theo giờ nghĩ lại còn thấy mặt nóng bừng!
    (còn tiếp)
Bút Xuân Trần Đình Ngọc                                     

NGU YEN * CA DAO

Ca Dao Qua Văn Bản 
Ngu Yên





Con mèo, con chó có lông
Cây tre có mắt, nồi đồng có quai.


Tìm hiểu ca dao cũng như tìm hiểu thơ văn trong môi trường tìm hiểu văn học và văn hóa, nên dựa vào những phương pháp "khoa học ngôn ngữ" và những lý thuyết hiện hành có hiệu quả tìm hiểu văn học.Trước hết là học thuyết Văn bản. Lý thuyết gia Pháp gốc Bulgaria, Julia Kristeva (1941-) nói về cách phân tách văn bản rất thuyết phục. Qua văn bản, chẳng những tìm ra ý nghĩa, ẩn ngữ, ẩn dụ mà còn tìm ra tâm lý của tác giả và quan trọng là tâm lý chung, hệ thống chung trong xã hội của thời đại.


Bên cạnh đó là học thuyết Cấu trúc và ký hiệu của Roland Gérard Barthes (1915-1980). và vào thời kỳ cuối trong đời, ông đã nghiêng về Phân Tích Văn Bản. (1)

Nói như vậy có vẻ mang dao mổ bò đi cắt cổ gà. Thật ra, dù là một cụm chữ cũng có lý do tại sao nó hiện hữu và tồn tại qua năm tháng. Với thời gian và sự đổi thay của trí tuệ và tâm tình qua từng thời đại sẽ làm cho chữ nghĩa trong câu văn năm xưa hoặc xa xưa trở nên ngớ ngẩn, hời hợt hay u tối, có khi vô nghĩa. Vì vậy những phương pháp khoa học về nghệ thuật sẽ giúp việc tìm hiểu gần sát với ý nghĩa ban đầu hoặc giá trị mà tác giả gởi gấm.


Đặc thù của ca dao là văn vần truyền khẩu, truyền văn qua nhiều đời. Sao đi, tán lại. Khiến cho câu văn mất nhiều cơ sở về phân tích. Điều này sẽ làm cho luận lý dễ bị sơ hở.




Đặc tính của ca dao là:


Nhắc nhở: Nhắc cho người khác nhớ hoặc dạy cho người đương thời những chuyện cần biết "Tháng Giêng là tháng ăn chơi. Tháng Hai trồng đậu, trồng khoai trồng cà....."

Khuyên răn:
 Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn..."


Ghi lại một hoàn cảnh chung, một tâm sự chung, một chuyện không hay thường xảy ra để cảnh giác người sau. " Trèo lên cây bưởi hái hoa. ......Em có chồng anh tiếc lắm thay...(Hay nhất là).. Cá cắn câu biết đâu mà gở. Chim vào lồng biết thuở nào ra..."


Còn có nhiều mặt khác nhưng xin tạm dừng vì bài viết không có chủ đích nghiên cứu.


Ca dao diễn đạt bằng cách:


Bạch văn: văn chương bình dân, dễ hiểu.


Ẩn dụ, biểu tượng.

Cách sơn đả ngưu.


Dọn đường một chút để dễ tìm hiểu câu ca dao trên.


1- Con mèo, con chó thuộc về sinh vật. cây tre thuộc về thực vật. Nồi đồng thuộc về đồ vật. Chỉ có nồi đồng là do người tạo ra. Ba thứ kia thuộc về tạo hóa.


Nếu giả thuyết rằng: Câu ca dao này dùng những luận lý xác định: Con mèo phải có lông, Con chó phải có lông, cây tre phải có mắt, nồi đồng phải có quai; để nói đến một điều khác, một cách sống trong đời, một qui lệ xã hội cần phải tuân giữ. Ví dụ như trai lớn phải lấy vợ. gái lớn phải lấy chồng. Như luật trời và người đã định. Như mèo chó có lông. Như tre có mắt. Như nồi có quai. Không nên làm khác.


Giả thuyết này có thể hiểu được vì dân chúng ngày xưa ít học. Không quen suy tư. Trí óc đơn giản. Những câu ca dao dễ hiểu dễ nhớ dễ truyền là cách "học" nhanh và thấm nhất.


2- Giải thích thứ nhất đưa sang câu đố:


Con mèo, con chó có lông
Cây tre có mắt, xương rồng có gai.


Đố là con gì?


Con gì thật ra không cần biết. Ở đây, cụm " xương rồng" thay thế cho cụm "nồi đồng", khiến cho sự suy tư trở về lại văn bản. Câu "ca dao" đố này rất cân phương. Con mèo con chó ở câu trên, cây tre, cây xương rồng ở câu dưới. Cũng cùng một mục tiêu là nhắc nhớ người đời sau phải giữ theo nề nếp hoặc luật trời đất đã định sẵn. Quan điểm ở đây là không có nồi đồng. Không có con người xuất hiện. Qui luật thiên nhiên là chính.


3- Xét văn bản, chữ "nồi đồng" mang ý tứ quan trọng. Bởi con mèo con chó đương nhiên là có lông. Con kia da trơn không phải mèo chó, có thể là trâu bò. Con khác da sần sùi, không phải mèo chó, có thể là cóc là cá sấu. Cây tre có mắt cũng vậy.



Nếu mắt ở đây là mắt thấy. Ẩn ngữ để ám chỉ chuyện đời không thể giấu diếm. Không có gì bí mật dưới ánh sáng mặt trời. Thì cụm chữ " nồi đồng phải có TAI ". Vì văn bản là nồi đồng có quai nên chữ mắt của cây tre không phải ẩn ngữ.


Còn lại: Nồi đồng có quai. Tại sao có quai?


Văn bản có quai, cho biết rằng đã có một thời nồi đồng không có quai. Nồi đất cho tới ngày nay vẫn có nồi không có quai. Nhưng nồi đồng phải có quai vì khi nấu nồi đồng rất nóng. Nóng gấp chục lần nồi đất. Cái quai xuất hiện sau đã giúp cho người nấu tiện lợi bưng cầm, di dời nồi đồng.


Thời xưa, cái nồi giữ vị trí thân thuộc và ích lợi cho gia đình. Nó tạo ra thức ăn, nước uống. Nồi đất hay bể nên nồi đồng được yêu chuộng hơn. Trong nhiều gia đình, nồi đồng trở thành báu vật. Và hợp lý khi có câu ca dao nhắc nhở về nồi đồng.

Chưa kể có những nồi đồng lớn, dùng để nấu cho cả làng ăn trong những ngày lễ hội. Chiếc nồi này được xem như linh hồn của dân làng. Ví dụ như Nồi đồng khổng lồ của dân tộc Thái vùng xứ Thanh (2). Chi tiết này đóng góp vai trò quan trọng của nồi đồng thời chưa văn minh. Trong bài viết Những Câu Chuyện Ly Kỳ Xung Quanh Các Cổ Vật Pù Luông (2), có đoạn nói về quai của nồi đồng:
"Nếu thân nồi bằng đồng có thể giữ nhiệt rất lâu thì hai cái quai không bao giờ nóng, dù nồi có để trên lửa cả ngày, khi cần chỉ việc nhấc nồi xuống bình thường, không cần dùng đến miếng vải đệm tay. Điều đặc biệt này đã được ông Tân xác nhận khi có người lặn lội xe đò vài trăm cây số đến nhà ông chỉ xin mua duy nhất hai cái quai nồi. Chủ nhân của nó dù đã gắn bó đến gần hết cuộc đời cũng không đưa ra được lý giải chính xác về chất liệu hai cái quai khác biệt như thế nào với thân nồi. "
Câu chuyện này lại càng xác nhận lợi ích của đôi quai trên nồi đồng. Vì vậy nếu có ca dao nhắc nhở nên làm quai khi đúc nồi đồng cũng là chuyện bình thường.
Câu ca dao này khuyên răn người đời sau: Nồi đồng phải có quai thì mới như mèo chó có lông, tre có mắt. Nồi đồng phải có quai mới hoàn tất hình hài và cách sử dụng. Câu ca dao này cũng có thể diễn dịch nghĩa bóng trong nhiều hoàn cảnh khác.
Tìm vào tài liệu:
Nếu câu ca dao có gốc Quảng Nam thì xem: Quảng Nam Phủ Tập Ký Sự của Mai Thị do Lê Đăng Hiển sao lục 1824 đời Minh Mạng (Nội dung viết 400 năm cũ). Có ghi việc Ông Bùi Tá Hán, đô tướng Quảng Nam dinh, dạy dân Quảng cách sinh hoạt thường ngày, như: xây nhà ba gian, tám cột... đào giếng...và phải làm nồi đồng, nồi đất có quai ở cổ để nấu nướng tiện việc bưng lên bưng xuống....(3)
Qua những suy diễn thô sơ và gọn nêu trên, có thể đi đến kết luận, cách giải thích thứ 3 là gần gũi nhất với sự phân tích và giải quyết qua văn bản.



Ngu Yên


================================

(1) Barthes định nghĩa văn bản như sau: “Văn bản, theo nghĩa hiện đại và hiện tại (…), khác biệt một cách cơ bản với tác phẩm văn học: nó không phải là một sản phẩm thẩm mỹ, nó là một công việc biểu đạt; nó không phải là một cấu trúc [‘structure’], nó là một sự lập thành cấu trúc [‘structuration’]; nó không phải là một đối tượng, nó là một công việc và là một trò chơi; nó không phải là một tập hợp các ký hiệu khép kín, được ban cho một nghĩa mà nhiệm vụ của chúng ta là phải tìm ra cái nghĩa đó, nó là một khối lượng các dấu vết di chuyển; cấp phán xét dành cho một Văn bản không phải là ý nghĩa, mà là Cái Biểu đạt, theo nghĩa ký hiệu học và tâm phân học của thuật ngữ này; Văn bản vượt trội hơn tác phẩm văn học theo nghĩa cũ;” (tr. 13).

(L’Introduction à l’analyse structurale des récits (1966))

Trích bài viết của tác giả Nguyễn Văn Dân. Nguồn Văn Nghệ số 37, ngày 11-9-2010

(2) http://laodong.com.vn/lao-dong-doi-song/nhung-cau-chuyen-ly-ky-

xung-quanh-cac-co-vat-o-pu-luong-139099.bld
(3) Tôi đưọc biết chuyện này và sách này qua một bài báo đã đọc lâu ngày. Không nhớ tác giả là ai và bài viết lưu trử nơi nào. Đành xin cáo lỗi cùng tác giả và bạn đọc. Xin cảm tạ tác giả.


Riêng Quảng Nam Phủ Tập Ký Sự, xin xem:

http://www.baodanang.vn/channel/5433/201010/chuyen-xua-xu-quang-may-net-quang-nam

-xua-qua-tap-sach-cu-2010777/

http://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B9i_T%C3%A1_H%C3%A1n

Tuesday, September 2, 2014


THẾ GIỚI CHUNG QUANH TA


THẢM HỌA PHÓNG XA FUKUSHIMA


Rau quả biến dạng kỳ dị sau thảm họa phóng xạ tại Fukushima ngày 11/3/2011
Lá mọc ngay trên quả dưa chuột vì nhiễm phóng xạ. Điều này chứng tỏ phóng xạ hạt nhân có sức hủy diệt, gây đảo lộn những điều bình thường đến mức nào.

Thảm họa phóng xạ cách đây 2 năm ở Nhật khiến cho những loại rau, quả và hoa trở nên dị dạng đến khó tin.



2 năm sau thảm họa sóng thần khiến nhà máy điện hạt nhân ở Fukushima, Nhật Bản, rò rỉ, cây cối nơi đây trở nên dị dạng.



Lá mọc ngay trên quả dưa chuột vì nhiễm phóng xạ. Điều này chứng tỏ phóng xạ hạt nhân có sức hủy diệt, gây đảo lộn những điều bình thường đến mức nào.




Một quả cà tím cũng biến dạng thành nhiều nhánh quả.


Hoa không còn vẻ đẹp thuần khiết vì méo mó.


Cây ăn quả không ngoại trừ là nạn nhân phóng xạ tại Fukushima.



Củ khoai lang được trồng trên khu vực đất nhiễm phóng xạ.



Bạn tuyệt đối không nên ăn những loại thực phẩm biến đổi dị dạng này.



Hoa nở trên hoa nữa nè.


Quả cà chua nhiễm xạ như quái vật ngoài hành tinh.


Hay hàng chục cây cà chua con mọc tua tủa từ quả chín.



Củ cái đường tách ra như hình bàn chân.


Viếng thăm Nara 


Mời xem chuyện lạ-NARA Thành phố HƯƠU tại NHẬT BẢN-
Hươu biết tuân thủ luật giao thông.
Mời bấm vào đường dẫn sau đây: LK 16/8/2014

 video will be live at:http://youtu.be/BIDqpqf0fEA
Preview YouTube video 228- LK- NARA Thanh pho HUOU tai NHAT BAN (15 Aug 14)HD


228- LK- NARA Thanh pho HUOU tai NHAT BAN (15 Aug 14)HD
 
Nara cổ kính


Đây là thành phố của chùa chiền, lăng tẩm, mang nét cổ xưa, tĩnh lặng và thơ mộng. Những ngôi chùa, những bức tượng Phật chủ yếu được làm bằng gỗ quý. Muốn thăm hết các ngôi chùa ở Nara cũng phải mất ít nhất vài ngày, mặc dù toàn thành phố có diện tích chỉ khoảng 211,6km2.


Thời Nara (năm 710), đạo Phật được chính quyền Nhật Bản ủng hộ mạnh mẽ. Lúc đó, Nhật Bản cũng có quan hệ rất tốt với Trung Quốc - thời nhà Đường đang phát triển hưng thịnh - Nara trở thành nơi tiếp thu những sản phẩm văn hóa, nghệ thuật của đại lục. Những công trình xây dựng, nghệ thuật, điêu khắc... vẫn còn lưu giữ đến nay và được xếp vào tài sản quốc gia của đất nước Hoa anh đào.


Di sản văn hóa quan trọng nhất của Nara là quần thể chùa Todai (TodaiJi) được xây từ năm 743 và hoàn thành năm 751 trong một vùng chia thành 64 khu thuộc phía Đông của Nara. Chùa Todaiji là một trong những ngôi chùa lâu đời và nổi tiếng bậc nhất, đồng thời là một trong những thắng cảnh tuyệt vời của Nhật Bản. Theo truyền thuyết, đã có đến 420.000 người cúng tiền và 2.180.000 người tham gia xây dựng chùa. Bức tượng Đại Phật do một nghệ sĩ đến từ vương quốc Baekje, Triều Tiên, thiết kế. Đây là bức tượng bằng đồng mạ vàng lớn nhất thế giới - nằm trong một công trình làm toàn bằng gỗ tên là Đại Phật Điện.


Chùa Todaiji còn sở hữu vô số báu vật văn hóa với hơn 20 pho tượng Phật và tác phẩm nghệ thuật được xếp loại di sản quốc gia. Đại Phật Điện có chiều cao 48 mét, mặt bằng chữ nhật 56 mét x 50 mét, là công trình gỗ lớn nhất thế giới. Dù có kích thước đồ sộ như vậy, người ta vẫn cho rằng Đại Phật Điện còn chưa đủ rộng để chứa pho tượng. Đại Phật bên trong ngôi điện ngày nay, khách tham quan phải rất chật vật khi tìm khoảng rộng để ngắm nhìn được toàn bộ pho tượng.


Quần thể chùa Todaiji ngoài Đại Phật Điện mà còn cả hai ngôi tháp bảy tầng, một giảng viện và khu tịnh xá. Một dãy hành lang bao quanh Đại Phật Điện tương tự như thiết kế của quần thể chùa Horyuji nổi tiếng. Toàn bộ quần thể chùa Todaiji trải dài 1 cây số theo trục Bắc - Nam là hàng loạt công trình lịch sử, trong đó có Kho báu Hoàng gia - nơi chứa kho bảo vật của Thiên hoàng Shomu.


Một điểm đến hấp dẫn khác ở Nara là Công viên Nara được xây dựng vào năm 1880 bao gồm hầu hết những thắng cảnh của Nara như đền Todaiji, đền Kofukuji, lăng Kasuaga Taisha, đền Gangoji, đền Yakushiji, đền Toshodaiji, cung Heijo... Bảo tàng quốc gia Nara tập trung vô số những sưu tập về nghệ thuật Phật giáo. Đây cũng là nơi ở của hàng trăm con hươu hoang dã tự do lang thang. Theo đạo Shinto, hươu được xem là sứ giả của các thần linh, do đó những con hươu ở Nara đã trở thành biểu tượng của thành phố


Theo văn hóa dân gian địa phương, 1 vị thần tên là Takemikazuchi đã cưỡi 1 con nai trắng đến cố đô, vị thần như chính người bảo vệ của nó. Từ truyền thuyết trên, 1300 năm qua, hươu ở Nara được xem là biểu tượng thiêng liêng và thần thánh. Giết chết 1 con hươu là hành vi phạm tội và phải bị trừng phạt bằng cái chết, luật này được áp dụng đến năm 1637. Sau Thế chiến II, hươu không còn được xem là biểu tượng thiêng liêng nữa, nhưng được đưa vào danh sách bảo vật quốc gia và được bảo vệ.


Nara còn có hàng loạt lễ hội và sự kiện văn hóa được tổ chức hàng năm. Đến Nara, du khách có thể tìm đến những làng nghề thủ công gia truyền như hàng mỹ nghệ, đặc biệt là mì sợi Nhật Bản và tận hưởng không gian bình lặng của những con đường khoáng đạt, những khuôn viên xanh của cỏ và thông.
alt
Chùa Kofuku, Nara
alt
Chùa Todai ( 東大寺), Nara
alt
alt
Tượng Phật tại chánh điện và tượng các vị La Hán trong chùa Todai, Nara
alt

alt
Bức ảnh đồ ăn cho các chú hươu dưới đây, bánh gạo senbei, chụp vào năm 2011 cho thấy giá là 150 yen, có vài bức ảnh của mod.PN đưa ở trên có hình chụp các chú nai vây quanh chỗ của ông lão bán esa (đồ ăn cho thú nuôi) cho chúng có bảng giá ghi 150 yen cho một gói senbei .

alt
alt
alt
alt
alt
alt
alt
alt
alt
alt


Bộ ảnh đẹp Không Lực các Quốc Gia trên thế giới!

F4 Phantom

 
F4 Phantom là một loại phản lực siêu âm ném bom, có tầm bay xa, phòng lái 2 người. Có thể hoạt động trong mọi thời tiết và chiếm nhiều ưu thế trên không.
F4 Phantom được hãng McDonnell Douglas thiết kế chế tạo trước tiên cho Hải quân Hoa Kỳ từ năm 1960 đến năm 1996.

Trong thời chiến tranh Việt Nam, F4 Phantom đã có mặt với sự tham gia của lực lượng không quân Hoa kỳ

Ngoài ra F4 Phantom cũng được trang bị cho quân đội nhiều nước khác, và cho đến năm 2001 vẫn còn hơn 1.000 máy bay F4 đang được sử dụng ở 11 nước trên thế giới.
Tuy ra đời từ lâu nhưng F4 Phantom vẫn giữ được nét độc đáo cho đến thời điểm hiện nay với nhiều chức năng kỷ thuật khá hoàn hảo








F-4 Phantom trên chiến trường Việt Nam




Những "con ma" cất cánh từ Đệ Thất Hạm Đội trên Vịnh Bắc Bộ (1969 - 1972)

 






Và nếu đã nhắc tới F-4 Phantom tham chiến trên chiến trường VN thì sẽ không thể không nói tới một loại chiến đấu cơ hiện đại khác nữa vào thời đó . Đây là hai chiến đấu cơ chỉ pilots Mẽo lái. Có bác nào còn nhớ chiếc dưới đây không ?

View Public Profile
*F-15E Strike Eagle :




















Đệ để ý khi cất hay hạ cánh thỉnh thoảng trên lưng máy bay nó bật cái miếng gì ra để làm gì ko biết ? có huynh nào biết thì giải thích giùm đệ với !!!


*Stealth bomber F -117A Nighthawk :





*F-16 Fighting Falcon : Loại máy bay chiến đấu rất được ưa chuộng trong các lực lượng không quân hiện nay .
Sukhoi : Su-30 MK có nhiều phiên bản - Nghe nói không quân V+ cũng có trang bị loại máy bay này .

*F-4 Phantom : Vẫn còn rất được ưa chuộng trong không quân Nhật , Đức , Thổ nhĩ Kỳ , Netherland ...với những phiên bản nâng cấp hiện đại khác nhau .















br />
* Mig -29 :







* Chiếc này biên chế trong không lực Đức :
* C-130 Spectre : Việt + từng nếm mùi con này dọc theo dãy Trường Sơn .


1/ Các loai Oanh tạc cơ hạng nặng :
*Rockwell B1b-Lancer:



*Tupolev -160s:




*B-52H Stratofortress:







*Tu -95MS Bear :









*B-2 Spirit:





*Không biết phải cốc chủ lái chiếc ni ko nữa:

*TU-22M :




HỎA TIỂN  TỐI TÂN CHỐNG TĂNG TỪ TRÊN KHÔNG
HOT là hỏa tiển chống tăng dẫn đường bán tự động bằng dây dẫn được sản xuất bởi Euromissile (nay thuộc tập đoàn MBDA). Hỏa tiển được đưa vào sử dụng trong quân đội Đức và Pháp từ năm 1978. HOT có thể phóng từ bệ phóng trên xe thiết giáp hoặc từ trực thăng. Pháp trang bị hỏa tiển HOT cho trực thăng đa năng SA-342M Gazelle với 4 hỏa tiển . Đức trang bị trên trực thăng Bo-105 PAH-1 với 6 hỏa tiển . Gần đây, hỏa tiển HOT được trang bị cho trực thăng tấn công Tiger với 8 hỏa tiển . HOT có chiều dài 1.300 mm, đường kính 150 mm, trọng lượng phóng 24,5 kg. Hoả tiển có tầm bắn tối đa 4.300 mét, khả năng xuyên giáp từ 800-1.250 mm tùy biến thể. Ảnh: Army-technology
Pars-3 LR thuộc loại hỏa tiển "bắn - quên" và là sản phẩm của tập đoàn MBDA, châu Âu. Pars-3 LR là hỏa tiển chống tăng thế hệ 3 được thiết kế để tiêu diệt các mục tiêu mặt đất cũng như trên không. Hỏa tiển Pars-3 LR được đưa vào hoạt động cùng trực thăng tấn công
 
Tiger trong quân đội Đức từ năm 2012. Pars-3 LR được đóng gói trong một hộp phóng lớn chứa 4 đạn. Mỗi trực thăng Tiger có thể mang theo hai hộp phóng với 8 đạn hỏa tiển . Pars-3 LR được dẫn hướng tự động bằng cảm biến hồng ngoại hoặc cảm biến hình ảnh kỹ thuật số. Hỏa tiển Pars-3 có chiều dài 1.600 mm, đường kính 159 mm, trọng lượng phóng 49 kg, tầm bắn 7 km, khả năng xuyên giáp 1.000 mm sau giáp phản ứng nổ. Ảnh: Chivethebrigade


Hỏa tiển diệt tăng 9M120 Ataka (NATO định danh AT-9 Spiral-2) được sản xuất bởi Phòng thiết kế máy móc KBM, Nga. AT-9 được đưa vào trang bị từ năm 1985. Hỏa tiển có thể phóng từ giá phóng trên xe thiết giáp hoặc từ trực thăng. 9M120 là hỏa tiển chống tăng chủ lực của trực thăng tấn công Mi-28 và Mi-35. AT-9 được dẫn hướng bán tự động bằng sóng radio với khả năng kháng nhiễu khá cao. 9M120 có chiều dài 1.830 mm, đường kính 130 mm, trọng lượng phóng 49,5 kg. AT-9 có tầm bắn từ 400-6.000 mét mang theo đầu đạn liều đúp nặng 7,4 kg với khả năng xuyên giáp từ 800-950 mm sau giáp phản ứng nổ. Ảnh: Wikipedia





TênHỏa tiển chống tăng Brimstone đã khiến lực lượng tăng thiết giáp quân đội Libya không còn đất sống. Chỉ trong ngày 26/03/2011, các hỏa tiển Brimstone phóng đi từ máy bay Tornado của Không quân Hoàng gia Anh đã tiêu diệt 5 xe bọc thép của quân đội Gaddafi. Brimstone thuộc loại hỏa tiển "bắn - quên" được dẫn hướng tự động bằng radar bước sóng milimet. Cơ chế dẫn đường của hỏa tiển có độ chính xác ngay cả với những mục tiêu di chuyển. Brimstone có chiều dài 1.800 mét, đường kính 178 mm, trọng lượng 48,5 kg, tầm bắn từ 20-60 km tùy biến thể. Hiện tại, Brimstone là hỏa tiển chống tăng chủ lực của Tornado GR4. Nó cũng được trang bị cho phi cơ EF-2000 Typhoon. Ảnh: Wikipedia



Nimrod là hỏa tiển chống tăng hạng nặng. Nó được thiết kế để phóng từ máy bay cánh cố định, trực thăng hoặc xe thiết giáp. Ngoài nhiệm vụ chính là chống tăng hỏa tiển còn có thể tiêu diệt các mục tiêu mặt đất khác. Nimrod được dẫn hướng bằng laser bán tự động cả ngày lẫn đêm với tầm bắn khoảng 26 km. Hỏa tiển được lưu trữ trong ống phóng kiêm bảo quản có tổng trọng lượng 150 kg. Hiện tại, Nimrod đang được trang bị trên biến thể sửa đổi từ trực thăng vận tải CH-53 trong quân đội Israel. Ảnh: Wikipedia





AGM-114 Hellfire được đưa vào trang bị từ năm 1984 và là hỏa tiển chống tăng chủ lực của trực thăng tấn công AH-64D Apache. Mỗi chiếc AH-64D có thể mang theo đến 16 hỏa tiển Hellfire. AGM-114 được dẫn hướng bán tự động bằng laser ngoại trừ biến thể AGM-114L được dẫn hướng bằng radar bước sóng milimet. Hỏa tiển Hellfire có chiều dài 1.630 mm, đường kính 178 mm, trọng lượng phóng 49 kg, tầm bắn từ 800-8.000 mét. AGM-114 được sử dụng một cách rộng rãi trong các chiến dịch quân sự của Mỹ và đồng minh trong thời gian qua. Hellfire cùng với trực thăng tấn công Apache đã phá hủy lực lượng tăng thiết giáp hùng hậu của Iraq năm 2003. Ảnh: Wikipedia


9K121 Vikhr (NATO định danh AT-16 Scallion) được chế tạo bởi Phòng thiết kế máy móc công cụ KBP Tula. Nó ra đời để đánh bại những xe tăng chiến đấu chủ lực hiện đại nhất. 9K121 được dẫn hướng bám chùm laser bán tự động với độ chính xác rất cao. AT-16 có chiều dài 2.800 mm, đường kính 130 mm, trọng lượng phóng 45 kg.Hỏa tiển có tầm bắn từ 8-12 km mang theo đầu đạn liều đúp nặng 8-12 kg với khả năng xuyên giáp lên đến 1.000 mm sau khi phá giáp phản ứng nổ. AT-16 là hỏa tiển chống tăng tối tân nhất của Nga hiện nay.


TRUYỆN CƯỜI




 Thứ Mọi Qúy Bà Đều Thích


Một phụ nữ đi máy bay có một viên kim cương mà không biết làm cách nào qua được hải quan. Thấy một linh mục đang đi ngang, bà bèn nhờ cha đem qua hải quan dùm.
Đến chỗ khai báo, nhân viên hải quan hỏi:


- Cha có gì khai báo không?
Cha cố tính nói không nhưng chợt nhớ viên kim cương trong túi quần và không quên lời Chúa răn nên cha nói:
- Từ thắt lưng cha trở lên không có gì quý giá, còn từ thắt lưng trở xuống thì có một vật mà quí bà đều thích.
Nghe vậy, nhân viên hải quan cười nói:
- Cha vui tính quá! Mời Cha qua.

Con Vẹt

Có một cô gái nuôi được một con vẹt rất khôn, biết nói đủ chuyện. Một hôm thấy con vẹt dơ dáy wá cô gái bèn mang nó vào nhà tắm và tắm cho nó. Sau khi tắm cho con vẹt thì quần áo bị ướt nên cô gái cởi quần áo tắm luôn. Trong lúc đứng rũ lông cho khô con vẹt cứ đứng nghiêng ngó rồi lải nhải:
- Thấy hết rồi nha, thấy hết rồi nha!.
Cô gái bực quá bèn xách con vẹt ra vặt hết lông trên đầu nó cho chừa cái tội nói bậy.
Mấy hôm sau, có một nhà sư đến nhà của cô gái nọ thăm. Con vẹt nghiêng ngó nhìn cái đầu của vị sư một hồi rồi rụt rè hỏi: Bộ cũng thấy hết rồi hả???

Con Chim Của Cha Xứ

Cha xứ của một xóm đạo nhỏ có nuôi một con chim rất khôn.
Cha rất quý con chim này. Một hôm, con chim của cha bị mất,cha nghĩ rằng xứ đạo mình nhỏ, chắc ai cũng biết là mình có con chim. Nghĩ vậy nên trong bài giảng trước nhà thờ hôm đó, cha xứ hỏi :
"Ai ở trong nhà thờ này có con chim thì đứng dậy ?", tức thì tất cả đàn ông trong nhà thờ đứng dậy.

Cha biết mình đã lầm nên chữa lại : "Ai ở trong nhà thờ này từng thấy con chim thì đứng dậy ?",
tức thì tất cả đàn bà trong nhà thờ đứng dậy. Cha biết mình lại lầm nên chữa lại tiếp :
"Ai ở trong nhà thờ này đã thấy con chim của cha thì đứng dậy ?", tức thì tất cả các sơ trong nhà thờ đều đứng dậy.
Văn minh có thừa


Nguời Nhật đào đất sâu xuống 500m thấy được 1 sợi dây điện thoại, liền kết luận rằng cách đây 500 năm nguời Nhật đã dùng điện thoại đặt ở bàn.
Nguời Mỹ cũng đào đất xuống 1000m và thấy được 1 sợi dây cáp, kết luận rằng cách đây 1000 năm nguời Mỹ đã dùng truyền hình cáp.
Nguời Việt Nam liền vào cuộc, đào sâu xuống 2000m mà chẳng thấy được gì hết, nhưng vẫn kết luận rằng cách đây 2000 năm nguời Việt Nam đã dùng điện thoại di động.


Lỗi tại bà


Một cặp vợ chồng già trên 80 tuổi mà vẫn khỏe mạnh, vi họ ăn uống theo chế độ và tập thể dục thuờng xuyên. Không may hai cụ qua đời do một tai nạn xe buýt. Họ lên thiên đàng và được Thánh Pierre đón tiếp nồng hậu. Thánh Pierre đua hai nguời đi tham quan nhà bếp, hồ bơi, phòng tắm hơi, sân chơi tennis ... Lóa mắt vì sự sang trọng của ngôi nhà, cụ ông hỏi Thánh Pierre :


- Chúng tôi có phải trả tiền các dịch vụ không ?
- Tất cả đều miễn phí, đây là thiên đàng mà. - Thánh Pierre trả lời..
Ðến giờ ăn, Thánh Pierre đưa hai cụ đến bàn bày thức ăn linh đinh. Cụ ông hỏi:
- Tất cả các món ăn này đều miễn phí ?
- Tất nhiên. Thánh Pierre trả lời.
- Chúng tôi có thể ăn tùy thích, không phải lo ngại dư mỡ, đuờng, cholesterol à ?
- Không, tôi đã bảo là cụ đang ở trên thiên đàng. Cụ có thể ăn uống no say tùy thích mà không sợ bị béo phì, đái đuờng hay nhồi máu cơ tim ...

Bỗng nhiên mặt cụ ông trở nên đỏ gay, và quay sang bà vợ quát thật to :
- Tất cả do lỗi của bà. Nếu bà không ép tôi phải ăn uống kiêng cữ và tập thể dục, thì tôi đã lên đây sớm hơn 10 năm.
                                                                               
Đúng thế....


Một người Pháp, một người Mỹ và một người VN tranh luận xem Adam và Eva là nguời nước nào .
Nguời Pháp :
- "Trần truồng và trụy lạc ngay truớc mặt Thượng đế như thế, chỉ có thể là dân Pháp".
Nguời Mỹ :
- " Yêu tự do đến mức lẽ ra có thể sống hạnh phúc, chỉ cần đừng đụng đến trái táo, vậy mà họ vẫn không chịu nổi sự cấm đoán đó thì chỉ có thể là dân Mỹ ".
Nguời VN lúc ấy mới lên tiếng :
- " Quần áo chẳng có, nhà cửa chẳng có, thậm chí đến ăn một trái táo cũng bị cấm, thế mà vẫn bảo là sống trên thiên đuờng thì chỉ là dân VN !!! ".

Help!!!help! !!


Trong 1 cuộc thi nhịn đói gồm 3 nước Anh, Nhật và Việt Nam .
Mỗi nguời bị nhốt trong 1 cái hộp sắt và có gắn chuông, hễ ai không chịu nổi thì giật dây chuông "reng ... reng" sẽ được ra ngoài, ai chịu đựng lâu nhất sẽ thắng.
Thí sinh người Anh chịu được 3 ngày thì "reng ... reng" .
Thí sinh người Nhật chịu được 5 ngày phải bò ra .
Qua tới ngày thứ 7 thấy thí sinh Việt Nam vẫn im hơi lặng tiếng,......


Ban giám khảo quyết định cho VN thắng. Nhưng khi mở hộp thì thấy thí sinh VN nằm chết từ lúc nào rồi, trên vách còn ghi những dòng chữ bằng máu: " Ð.m. thằng nào cắt chuông tao".

Pháp và Lý

Sau khi bị đánh rớt trong kỳ thi, một sinh viên Luật khoa liền đến vị giáo sư vừa thông minh vừa rành về luật pháp rồi hỏi rằng:
- Thưa thầy, có phải thực sự thầy am hiểu tất cả về môn học này?
- Dĩ nhiên rồi, nếu không thì tôi đã không phải là giáo sư.
- Vậy em xin phép được hỏi thầy một câu, nếu thầy nói đúng thì em chấp nhận bị rớt, còn nếu không thì phải cho em điểm A.
- Được, nói đi, câu hỏi gì vậy?

- Thưa thầy: Việc gì hợp pháp nhưng không hợp lý, hợp lý nhưng không hợp pháp, vừa không hợp pháp cũng không hợp lý?
Vị giáo sư cố nặn óc ra, nhưng vẫn không tìm được câu trả lời; cuối cùng phải chịu thua, và theo giao ước, ông đành phải cho chàng sinh viên này điểm A thay vì đánh rớt.

Vị giáo sư này tiếp tục suy nghĩ câu hỏi suốt buổi trưa, nhưng vẫn không thể nào tìm được câu trả lời; nên cuối cùng ông đành triệu tập những đệ tử xuất sắc nhất của mình và lập lại câu hỏi hóc búa của chàng sinh viên: “Việc gì hợp pháp nhưng không hợp lý, hợp lý nhưng không hợp pháp, vừa không hợp pháp cũng không hợp lý?”
Thật là ngạc nhiên và bối rối rối cho vị giáo sư, vì tất cả các đệ tử ruột của ông đều giơ tay xin trả lời. Vị giáo sư này liền chỉ một đệ tử đắc ý nhất của mình. Anh này giải thích:

- Thưa thầy, câu trả lời này cũng dễ thôi: Như thầy biết đó, thầy đã 75 tuổi rồi mà lại cưới một cô 30 tuổi là hợp pháp nhưng không hợp lý; vợ của thầy lén bắt bồ với một anh sinh viên 23 tuổi là hợp lý nhưng không hợp pháp; còn thầy lại đi cho tình địch của thầy điểm A sau khi anh ta bị chính thầy đánh rớt thì vừa không hợp pháp cũng không hợp lý!

Help..!


Một cô bé bị một con chó dữ đuổi theo nên vừa chạy vừa kêu to: "Help...help. ..help... "
Một ông lão ngồi trong nhà nhìn ra, rồi gật gù nói với bà lão ngồi kế bên: "bà coi con nhỏ điên kia kìa....... chó rượt mà cứ kêu là heo, heo, heo...?!?"

                                                                        
Giống đực hay giống cái?
Hai đứa trẻ ngồi đọc sách sinh vật, chúng bàn cãi một lúc không đứa nào chịu thua, cuối cùng thằng anh đi đến hỏi bà nội của chúng đang ngồi gần đó :

- Bà ơi, bà có thể đẻ được em bé không ạ ?
- Các cháu ơi, bà không thể đẻ tại vì ...
Thằng em liền ngắt lời bà và quay sang nhìn thằng anh nói một cách đắc thắng:
-Thấy chưa, em đã nói với anh là bà nội thuộc giống đực mà!!!

Bia ôm

Một anh nông dân vào quán bia ôm uống bia. Sợ đắt tiền anh ta gọi:
- Chủ quán, cho 2 suất bia không ôm.
- Anh yên tâm ở đây chúng tôi không tính tiền ôm.
- Vậy thì cho 2 suất ôm không bia !!

Trời ơi, hụt!

Một đại gia mời một một tu sĩ đi đánh gôn. Cú đánh đầu tiên hụt, ông đại gia kêu lên:
- Trời ơi, hụt!!!
Vị tu sĩ liền nói:
- Thí chủ đừng kêu Trời như vậy, sẽ bị thiên lôi nổi giận mà đánh đấy.
Đến phát thứ hai hụt, ông đại gia lại kêu lên:
- Trời ơi, hụt!!!
Vị tu sĩ bèn can lần nữa:
- Thí chủ đừng kêu nữa, kêu lần nữa sẽ bị sét đánh đấy.
Phát thứ ba hụt, ông ta lại kêu lên:
- Trời ơi, hụt!!!
Đột nhiên có tiếng nổ rất to, mọi người quay lại thì thấy vị tu sĩ bị sét đánh cháy đen thui.
Bỗng từ trên trời có tiếng nói rất to vọng xuống:
- TRỜI ƠI, HỤT !!


Cố vấn
Thí sinh thi trượt lần thứ 3, hỏi bạn mình viết thư như thế nào cho gia đình. Người bạn cố vấn:
- Cậu chỉ cần viết ngắn gọn : "Kỳ thi đã kết thúc, kết quả không có gì mới "

Sập bẫy

Anh chàng mới xin làm bảo vệ đêm cho một công ty. Sau hôm làm việc đầu tiên, giám đốc công ty hỏi:
- Thế nào, đêm đầu tiên ở đây, anh ngủ ngon chứ?
- Dạ cám ơn Sếp, em ngủ rất ngon ạ.
- Vậy thì anh có thể nghỉ việc được rồi đấy.

Hỏi ai?

Ba phạm nhân A, B, C mới vào tù, đứng trước một cai ngục mắt lé (mắt lác).
Cai ngục trợn mắt nhìn phạm nhân A, hằm hằm hỏi:
- Mày phạm tội gì?
Phạm nhân B vội nói:
- Dạ, tôi phạm tội trốn thuế.

Cai ngục nhìn sang phạm nhân B hét lên tức giận:
- Tao đâu có hỏi mày mà mày trả lời!
Phạm nhân C sợ quá rú lên:
- Dạ nãy giờ em đứng yên, em đâu có trả lời !

Bao nhiêu tuổi?
Trên một chuyến tàu, hai phụ nữ nằm ở 2 giường tầng 1 nói chuyện với nhau. Một phụ nữ hỏi:
- Chị bao nhiêu tuổi rồi?
- Tôi chỉ mới hơn 20 một chút. Thế còn cô?
- Em mới hơn 18 tuổi một tẹo.
- Ông khách giường trên nghe thấy thế liền lộn cả người xuống nhìn hai “cô gái”.
Sau khi chiêm ngưỡng hai "thiếu nữ" 18, 20, ông liền ngã quay xuống đất.

Hai bà giật mình kêu lên:
- Anh từ đâu ra thế này?
- Tôi không biết nữa, tôi vừa mới sinh ra.



Thuật ngữ chuyên môn

Một phụ nữ suốt đời làm nghề dọn dẹp nhà vệ sinh. Về già, bà muốn lo chu đáo cho phần mộ sau này của mình nên đặt làm một tấm bia.
Ông thợ hỏi:
- Thế bà muốn tôi khắc gì trên đó?
Không cần suy nghĩ, bà trả lời:
- Ở trong đang có người.

Chồng say

lướt khướt trở về nhà, vợ càu nhàu:
- Hứa mãi rồi, vẫn uống nhiều, lại say bét nhè!
- Nhiều nhặng gì đâu, có một chai cho ba người.
- Thế sao lại say đến thế này?
- À, tại hai thằng kia hẹn nhưng chả thấy đến.


Kiện ông Điện Lực
Tại Tòa Án hôm nay rất đông người đến dự khán phiên xữ vụ ông Bác sĩ kiện ông Điện Lực.
Chánh Án :
- Yêu cầu ông Bác sĩ kể rõ sự việc
Bác sĩ :
- Trước mặt quý Tòa là Nam bệnh nhận mà tôi chữa trị làm chứng. Hôm đó bệnh nhân "nằm sấp" để tôi xem xét bệnh "trĩ", sau đó tôi đến tủ thuốc lấy thuốc thì bị cúp điện. Đối với bệnh này việc chữa trị không có gì khó khăn, cứ dùng thuốc bôi vào "cục trĩ" là xong, vài ngày sau tự nó rụng mất.
- Vậy chuyện gì mà kiện ông Điện Lực?
- Khi điện cúp, bệnh nhân tưởng ngưng chữa bệnh
- ???
- Bệnh nhân "nằm ngửa…"
- !!!
- Tôi bôi thuốc vào chỗ đó.


Không công bình

Một cô Giáo viên người Kinh công tác giảng dạy ở một làng Thượng, thời gian sau mang bầu. Hội Đồng Làng xét xữ hỏi cô Giáo,
- Yêu cầu cô Giáo cho biết có "bầu" với ai ?
Cô Giáo :
- Dạ chính là anh K. Rong Pleime,
Hội Đồng Làng :
- Anh K. Rong Pleime có nhận tội không?
K. Rong Pleime :
- Không
Hội Đồng Làng :
- Tội rành rành sao không nhận?
- Giết người mới có tội, còn tôi làm ra người sao gọi là có tội.
??

Khai lý lịch

Một thanh niên làng quê mang Tờ khai Lý lịch đến cơ quan…chứng nhận,
Viên chức nhà nước :
- Tại sao nơi sinh anh không ghi vào?
- Khó ghi lắm
- Tại sao?
- Ông cũng biết mà
- Biết cái gì?
- Thì ông cũng sinh ra ở chổ đó của Má ông, ghi mà chi.
- ???

                                                                              
Trễ

Vợ thấy chồng đi làm về, chạy ngay ra đón chồng, hôn 1 cái vào má và thỏ thẻ:
- Anh ơi, em trễ 2 tháng rồi, chắc chúng ta có em bé quá!
Chồng vui mừng khôn siết vì sắp được làm bố... 2 vợ chồng cùng nhau xem ti vi và đi ngủ.
Sáng hôm sau, chồng lại đi làm, chỉ có mỗi bà vợ ở nhà. Có 1 anh nhân viên Điện lực đến bấm chuông
-Tôi có thể giúp gì cho anh?
-À không, tôi đến đây chỉ để báo cho bà biết là bà đã trễ 2 tháng rồi nhá!!!"
- Hả? Sao các anh lại biết?
- Bà đừng có cố tỏ vẻ ngạc nhiên như thế, bà trễ dù là 1 bữa chúng tôi cũng biết chứ đừng nói chi đến 2 tháng như vậy!
Quá hoảng sợ, bà vợ nói: "thôi đợi chồng tôi nói chuyện với các anh"
rồi đóng sập cửa lại.

Ngay sáng hôm sau ông chồng đến ngay công ty điện lực và gặp anh nhân viên thu tiền hôm trước, vỗ bàn hét :"Này anh kia, anh muốn gì ở vợ chồng chúng tôi?"
- Cũng đơn giản thôi, ông bà vui lòng đưa chúng tôi tiền là mọi việc sẽ ổn thỏa.
Ông chồng nghĩ đang bị tống tiền , nên càng thêm bực tức:
- Nếu tao không đưa tiền cho mày thì sao?
- Bắt buộc chúng tôi phải cắt của ông thôi - anh nhân viên thu tiền trả lời.
Ông chồng há hốc miệng: "Cắt rồi vợ tôi xài cái gì?"
- Kêu bà ta xài đỡ đèn cầy vậy!


VĂN QUANG * 60 NĂM SÀI GÒN TRONG TÔI


Văn Quang – Viết từ Sài Gòn
 60 NĂM SÀI GÒN TRONG TÔI

Hai tuần nay người Sài gòn xôn xao về một số công trình xưa cũ sẽ bị phá bỏ lấy đất làm tàu điện ngầm. Rầm rộ nhất là khu thương xá Tax đã bị “bao vây” bởi những hàng rào chắn chạy dài và tất cả các cửa hàng trong thương xá này phải dời đi vào tháng 10 này để làm một siêu thị 40 tầng văn minh hơn. Hầu như cả thành phố xôn xao, người ta kéo đến mua hàng giảm giá đông như hội. Và cũng có nhiều người đến để nhìn lại chút kỷ niệm xưa với một công trình kiến trúc được xây dựng từ xa xưa khiến bất cứ ai dù chỉ sống ở thành phố này ít năm cũng cảm thấy tiếc nuối. Lứa tuổi già đã có từng hơn nửa thế kỷ với Sài Gòn bỗng nhận ra cái khu thương xá đó không chỉ gắn liền với thành phố mà còn gắn liền với cả gia đình mình.






Hầu như gia đình nào cũng đã từng đưa nhau vào đây mua sắm vài thứ đồ dùng lặt vặt hoặc chỉ dạo quanh, ăn một ly kem, uống một ly cà phê. Nỗi buồn vẩn vơ thật nhưng lại rất sâu sắc như người ta vừa lấy đi một phần đời mình. Bởi cái mất đi đã từng có những kỷ niệm với người thân quen không bao giờ tìm lại được nữa. Người mất kẻ còn, người ra đi, kẻ ở lại đã từng cùng nhau đến đấy.
Và còn một số công trình gắn liền với Sài Gòn chẳng phải chỉ là biểu tượng mà còn là da thịt của một thành phố từng được vinh danh là “hòn ngọc viễn đông” này cũng sắp mãi mãi biến mất để nhường chỗ cho công trình ga tàu điện ngầm đầu tiên của tuyến Metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên. Dẫu biết vạn vật đổi dời không có gì là vĩnh cửu cả nhưng cái gì quá thân quen mất đi cũng thấy lòng trống rỗng. Có khi chỉ một cửa hàng như quán cơm bình dân Bà Cả Đọi, tiệm cắt tóc Đàm, nước mía Viễn Đông… mất tích vĩnh viễn, thay vào đó là những tòa nhà chọc trời, những cửa hàng choáng lộn cũng thấy nó lạnh lùng xa lạ.

Người còn ở trong nước xót xa, người Việt ở nước ngoài tiếc nuối, đó là điểm những người thân quen gặp nhau ở nỗi nhớ nhung tiếc nuối này. Tôi đã đọc khá nhiều bài viết từ nước ngoài và e mail của bạn bè chia sẻ nỗi hoài niệm đó. Như Thế Hải từ Hawai đã mượn hai câu thơ bất hủ của Bà Huyện Thanh Quan, chia sẻ cùng bè bạn khắp nơi khi nhớ về những cái sắp mất đi của Sài Gòn: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo. Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”.

Với một người còn ở lại như tôi, đã hơn nửa thế kỷ gắn bó với hòn ngọc viễn đông này, hai tuần nay càng thấy lòng hoài cổ dâng trào. Nhớ, nhớ đến từng chi tiết từ cái bước chân đầu tiên đặt lên đất Sài Thành, nhớ từng ngõ ngách, từng nhân vật thuộc về quá khứ ấy cho đến ngày nay. Mặc cho Sài Gòn đã có nhiều tang thương dâu biển, từ cái tên thành phố đến những con đường đã thay họ đổi tên, từ con người đến xã hội cho đến cả cái cách sống cũng đã khác xưa nhiều lắm. Chẳng trách khi xã hội đổi thay, người ta chép miệng than: “Trời làm một trận lăng nhăng, ông hạ xuống thằng, thằng nhảy lên ông, con đĩ đánh bồng nhảy lên bà lớn” cũng chẳng sai. Nhưng với tôi, Sài Gòn vẫn là Sài Gòn từ trong tâm thức mình, từ trong tận cùng tim óc mình. Thế là đủ và tôi lại phải sống cũng như những người Sài Gòn khác, bất chấp gian khổ. Có chăng chỉ là nỗi ngẩn ngơ khi những dấu tích xưa dần mất đi, chẳng bao giờ tìm lại được.

Trong nỗi hoài niệm sâu sắc ấy nhiều buổi chiều đứng trong hành lang hẹp chung cư, nhìn lên khung trời cao, hướng về ánh đèn đêm mơ hồ của thành phố, tôi cố tưởng tượng lại đó vẫn là khung trời xưa, tôi nhớ lại những năm tháng dài tôi sống ở Sài Gòn. Ở đây không chỉ có cảnh quan mà còn có cả những nhân vật là bạn hoặc là người tôi đã từng gặp, từn
từng quen, từng biết đến. Người ở đâu bây giờ? Có biết Sài Gòn của chúng ta đang có rất nhiều người đang nhớ đang mong các “bạn ta” không?

Bước chân đầu tiên trên đất Sài Gòn 
Thế mà 60 năm rồi đấy, kể từ ngày tôi mới đặt chân lên thành phố Sài Gòn. Tôi nhớ như in, ngày đầu tiên ấy. Cuối tháng 1 năm 1954, sau 2 tháng học ở Trường sĩ quan Thủ Đức, ngày thứ bảy chúng tôi được đi phép ở Sài Gòn. Niềm mơ ước của tôi từ những ngày còn nhỏ ở trường trung học, ước gì có ngày mình được vào Sài Gòn. Niềm mơ ước ấy còn rộn ràng hơn khi khóa học sĩ quan khai giảng. Thủ Đức – Sài Gòn chỉ có hơn 10 cây số, tuy chỉ cách thành phố rất gần nhưng theo đúng chương trình khóa học, hai tháng sau chúng tôi mới được đi phép. Mấy anh “Bắc kỳ” nôn nao hỏi thăm mấy ông bạn “Nam Kỳ” về Sài Gòn. Từ cái xe taxi nó ra sao, đi thế nào, bởi hồi đó miền Bắc chưa hề có taxi, cho đến Chợ Lớn có những gì… Mấy ông bạn Nam Kỳ tha hồ tán dóc. Đấu óc tôi cứ lơ mơ về cái chuyến đi phép này.
 

Rối ngày đi phép cũng đến, một nửa số sinh viên sĩ quan (SVSQ) đi phép mặc bộ tenue sortie là ủi thẳng tắp, áo bốn túi, chemise trắng tính, thắt cravate đen đàng hoàng, giầy đánh bóng lộn có thể soi gương được. Vô phúc quên cái gì là bị phạt ở lại ngay. Nhưng hầu như chưa có anh nào bị
phạt. Đoàn xe GMC của trường chở chúng tôi chạy vèo vèo vào thành phố. Ôi cái cửa ngõ vào thành phố hồi đó chưa có gì lộng lẫy mà chúng tôi cũng mở to mắt ra nhìn. Đoàn xe “diễu” qua vài con phố rồi dừng lại trên đường Hai Bà Trưng (hồi đó còn gọi là đường Paul Blanchy), ngay phía sau Nhà hát lớn Thành phố mà sau này là Trụ sở Hạ Nghị Viện VNCH.

Cú nhảy từ sàn xe GMC xuống con đường Hai Bà Trưng là bước chân đầu tiên của tôi đến đất Sài Thành hoa lệ. Ông Hồ Trung Hậu là dân miền Nam chính hiệu, ông đã hứa hướng dẫn tôi đi chơi… cho khỏi “ngố”. Chúng tôi đi bộ vào con đường nhỏ bên hông nhà hát Thành phố và khách sạn Continental, vòng ra trước bùng binh Catinat – Lê Lợi (hồi đó còn gọi là Boulevard Bonard) và Nhà hát TP. Nhìn mặt trước nhà hát TP có mấy bức tượng bà đầm cứ tưởng… mình ở bên Tây. Lúc đó đã có nhà hàng Givral rồi, nhưng tôi vẫn còn “kính nhi viễn chi” cái nhà hàng văn minh lịch sự giữa thành phố lớn rộng đó, chưa dám mơ bước chân vào. Ông Hậu vẫy một cái taxi chở chúng tôi về nhà ông. Taxi hồi đó toàn là loại deux cheveaux, nhỏ hẹp sơn 2 màu xanh vàng. Khi bước lên xe, đồng hồ con số chỉ là 0, đi quãng nào số tiền nhảy quãng đó.
Trong ngày đầu tiên, tôi ngu ngơ làm quen với không khí Sài Gòn qua gia đình anh em ông Hậu. Hôm sau ông bạn tôi đi với bồ nên tôi bắt đầu cuộc solo giữa thành phố xa lạ này. Tất cả Sinh viên SQ đều không được đi xe buýt hay xích lô, phải đi taxi. Nhưng lệnh là lệnh, chúng tôi học các đàn anh khóa trước, cởi áo bốn túi, bỏ cravate, cất cái nón đi là lại tha hồ vung vẩy. 
Trở thành người Sài Gòn từ bao giờ
Nơi tôi đến đầu tiên là Chợ Lớn. Một cuốc taxi từ giữa trung tâm TP đến cuối Chợ Lớn mất 12 đồng. Tôi tìm đến khách sạn rẻ tiền của mấy thằng bạn Bắc Kỳ ở đường Tản Đà, một con phố nhỏ, ba bốn thằng thuê chung 1 phòng cũng chẳng có “ông mã tà” nào hỏi đến. Chợ Lớn hồi đó tấp nập hơn ở Sài Gòn, con phố Đồng Khánh chi chít những khách sạn, hàng ăn, cửa tiệm tạp hóa lu bù tưởng như mua gì cũng có. Chúng tôi cũng biết cách chui vào Kim Chung Đại Thế Giới xem thiên hạ đánh bạc. Hôm đó có anh Nguyễn Trọng Bảo cùng Đại Đội tôi nhưng lớn hơn chúng tôi vài tuổi và là 1 cặp với Nguyễn Năng Tế (lúc đó mới là người yêu của nữ diễn viên điện ảnh Kiều Chinh). Anh thử đánh “tài xỉu”, may mắn làm sao, một lúc sau đó anh được khoảng
vài trăm ngàn. Thế là chúng tôi xúi anh “ăn non”, không chơi nữa, rủ nhau đi ăn.
Bắt đầu từ hôm đó chúng tôi đi “khám phá” Sài Gòn và rồi theo cùng năm tháng trở thành người Sài Gòn lúc nào không biết. Càng có nhiều thăng trầm chúng tôi càng gắn bó với Sài Gòn hơn. 
Lần thứ hai trở lại Sài Gòn 
Tôi lại nhớ ngày trở về Sài Gòn sau hơn 12 năm đi tù cải tạo từ Sơn La đến Vĩnh Phú rồi Hàm Tân. Đó là vào buổi chiều tháng 9 năm 1987. Khi đoàn xe thả tù cải tạo bị giữ lại nhà giam Chí Hòa nghe các ông quan chức trấn an về số phận chúng tôi khi được trở về, khoảng hơn 5 giờ chiều chúng tôi mới được thoát ra khỏi cánh cửa sắt nhà tù Chí Hòa. Ngay từ cổng trại tù đã có đoàn quay phim đợi sẵn để quay cảnh “vui mừng đoàn tụ” của tù nhân, chắc là để chứng tỏ cái sự “khoan hồng bác ái” của nhà nước cho những thằng may mắn không chết trong ngục tù. Lại là lần thứ hai tôi đặt chân lên đất Sài Gòn nhưng với tư cách khác giữa một thành phố đã đổi chủ.
Thấy cái cảnh sẽ bị quay phim, Trần Dạ Từ kéo tôi lên vỉa hè đi lẫn trong đám thân nhân được vận động ra đón tù cùng những người dân tò mò nhình “cảnh lạ”. Tránh được cái máy quay phim, chúng tôi đi gần như chạy ra khỏi con phố nhỏ này. Ra đến đường Lê Văn Duyệt, chúng tôi đi chậm lại, nhìn đường phố mà cứ thấy đường phố đang nhìn chúng tôi với một vẻ xa lạ và xót thương? Trần Dạ Từ còn lại ít tiền, anh rủ tôi ghé vào đường Hiền Vương ăn phở. Chẳng biết là bao nhiêu năm mới lại được ăn tô phở Hiền Vương đây. Tôi chọn quán phở ngay sát cạnh tiệm cắt tóc Đàm mà mấy chục năm tôi cùng nhiều bạn bè vẫn thường đến cắt tóc. Có lẽ Trần Dạ Từ hiểu rằng anh về đoàn tụ cùng gia đình chứ còn tôi, vợ con đi hết, nhà cửa chẳng còn, sẽ rất cô đơn, nên anh níu tôi lại. Ngồi ăn tô phở tưởng ngon mà thấy đắng vì thật ra cho đến lúc đó tôi chưa biết sống ra sao giữa thành phố này. Ỏ tiệm phở bước ra, chúng tôi đi bên nhau dưới ánh đèn chập choạng của con đường Duy Tân mà Phạm Duy gọi là con đường Đại học “uống ly chanh đường, uống môi em ngọt”. Đến ngã tư Phan Đình Phùng, tôi chia tay người bạn tù Trần Dạ Từ, đi lang thang trong cô đơn, trong bóng tối của chính đời mình. Bây giờ tôi mới hiểu hết nghĩa của sự cô đơn là thế nào. Tôi bắt đầu cuộc sống lưu lạc trên chính quê hương mình.
Tôi tìm về nhà ông anh rể đã từng nuôi nấng tôi suốt những năm tháng trong tù. Bắt đầu từ đó tôi trở thành người Sài Gòn khác trước. Và rồi với những cùng khổ, những khó khăn, tôi đã tự mình đứng lên. Bởi tôi thấm thía rằng thằng bạn đồng minh xỏ lá đã phản phé mình, lúc này không ai cứu mình cả, anh không vượt  qua nó, nó sẽ đè chết anh. Vì thế cho đến bây giờ sống giữa Sài Gòn, tôi phải là người Sài Gòn và mãi mãi sẽ là người Sài Gòn. Làm được cái gì hay chết bẹp dí là do mình thôi. 
Đi tìm hoài niệm 

Tôi không lan man về chuyện cũ tích xưa nữa, bởi nói tới những ngày tháng đó chẳng biết bao giờ mới đủ. Cho đến hôm nay, 25 tháng 8 năm 2014, hơn 60 năm ở Sài Gòn, mọi người đang xôn xao về những đổi thay lớn của Sài Gòn, tôi không thể ngồi yên. Tôi muốn chính mắt mình được nhìn thấy những thay đổi ấy. Mặc dù qua 2 lần nằm bệnh viện và với cái tuổi trên tám mươi, tôi đã mất sức nhiều, hầu như suốt ngày ngồi nhà đã từ ba tháng nay. Tôi điện thoại cho Thanh Sài Gòn rủ anh đi thăm “cảnh cũ người xưa”. Chúng tôi vào phở Hòa, môt tiệm phở nổi tiếng từ trước năm 1975 cho đến nay. Con đường Pasteur đan kín xe cộ, tiệm phở Hòa có vẻ tấp nập hơn xưa. Bạn khó có thể tìm lại một chút gì đó của “muôn năm cũ”. Tô phở bị “Mỹ hóa” vì cái tô to chình ình và miếng thịt cũng to tướng, có lẽ ông bà chủ đã học theo phong cách những tiệm phở VN ở Mỹ. Nó “to khỏe” chứ không còn cái vẻ “thanh cảnh” như xưa nữa.

Sau đó, nơi tôi tìm đến đầu tiên chính là Thương xá Tax. Vừa đến đầu 2 con đường gặp nhau Pasteur – Lê Lợi đã nhìn thấy một hàng rào bằng tôn chạy dài. Đường Lê Lợi chỉ còn đủ một lối đi nhỏ dẫn đến thương xá Tax và công viên Lam Sơn. Chiếc xe gắn máy len lỏi cho đến tận cuối đường Lê Lợi sát mép đường Tự Do. Chúng tôi đứng trước cửa TX Tax đang bày ra cảnh vô cùng vắng vẻ, chỉ có tôi và anh bảo vệ nhìn nhau. Anh thừa biết tôi đến đây để làm gì. Anh bảo vệ cũng không còn làm cái nhiệm vụ cao quý là mở cửa đón khách, anh để mặc tôi tự do đẩy cánh cửa kính nặng chịch đi vào trong khu thương mại. Đèn đuốc vẫn thắp sáng choang, chiếc thang máy cuốn vẫn lặng lẽ chạy không một bóng người. Nó mang một vẻ gì như người ta vẫn lặng lẽ theo sau một đám tang.
Trong quầy hàng đầu tiên, điều khiến tôi chú ý là hàng chữ nổi bật hàng đại hạ giá (Big Sale) tới 70% đỏ loét chạy dài theo quầy hàng và hàng chữ “TẠM BIỆT THƯƠNG XÁ TAX”. 
Tôi cố gợi chuyện với cô chủ hàng xinh xắn: Cô phải đề là “TỪ BIỆT” THƯƠNG XÁ TAX mới đúng chứ, sao lại là “TẠM BIỆT”? Cô hàng trẻ đẹp thở dài ngao ngán: “Ấy người ta còn hứa khi nào căn nhà 40 tầng làm xong sẽ cho chúng tôi được ưu tiên thuê cửa hàng đấy”. Nhưng ngay sau đó cô lại lắc đầu: “Hứa là hứa chứ khi đó mình không cổ cánh, đút lót thì đừng hòng bén mảng tới, ông có tin không?”. Bị hỏi ngược, tôi đâm lúng túng ấp úng nói lảng: Phải đợi tới lúc đó mới biết được. Cô bán hàng quay đi, dường như cô chẳng tin gì cả.
Các quầy hàng khác vẫn mở cửa, mỗi gian hàng chỉ còn lại vài ba người, chắc toàn là những ông bà chủ. Tôi nghĩ họ đang làm công việc khác chứ không để bán hàng. Có ai mua đâu mà bán. Tôi đến hỏi thăm vài ông bà chủ cửa hàng, không tìm thấy bất cứ nụ cười nào trên những khuôn mặt buồn hiu ấy.
Có lẽ vài tuần nay, người đi tìm đồ hạ giá đã “khuân” đi khá nhiều rồi, lúc này những thứ hàng còn lại không còn giá trị nữa. Tuy nhiên cửa hàng nào cũng còn bề bộn hàng ế. Nhìn lên tầng lầu cũng vậy, nó còn vắng vẻ thê thảm hơn.
Tôi bước lên mấy bậc của bục gỗ, ghé vào một tiệm bán máy hình còn nguyên si bởi ông chủ quyết không giảm giá.
Tôi hỏi lý do, ông có vẻ liều:
- Thà
- Thà ế chứ không giảm. Tôi lại tò mò hỏi tiếp:
- Vậy là ông có một cửa hàng ở nơi khác nữa?
Ông lắc đầu: - Không.
Tôi hỏi: Vậy ông sẽ làm gì? Câu trả lời của ông cụt lủn:
- Về quê làm ruộng. 
 
Tôi yên lặng trước sự bất bình đó. Đứng nhìn hàng loạt máy hình, máy quay phim đủ loại còn nằm rất thứ tự trong tủ kính sáng bóng. Tôi lại hỏi:
- Chắc họ phải đền bù cho ông những thiệt hại này chứ?
- Chưa có xu nào cả. Thời hạn bắt di dời nhanh quá, trở tay không kịp.
Tôi nghĩ chắc ông này cũng chỉ là người đi thuê lại cửa hàng của một ông nhà giàu nào đó mà thôi, ông có vẻ bất cần đời. Tôi từ giã, ông chỉ gật đầu nhẹ.
Nhìn sang hàng loạt cửa hàng vàng bạc đá quý gần như vẫn còn nằm nguyên vẹn và không một bóng khách vãng lai. Các bà, các cô tha hồ nhìn nhau ăn cơm hộp. Tôi có cảm tưởng một thành phố chết vì chiến tranh gần kề hay vì một nạn dịch nào đó.
Vậy mà tôi vẫn còn đi vơ vẩn trong cái không gian như nghĩa trang sống đó. Tôi đi tìm hình bóng của một thời dĩ vãng, nào vợ con, nào bè bạn, nào những người xa lạ trong cái nhịp thở rộn ràng thân thiện của tất cả Sài Gòn xưa ở chốn này. Chẳng bao giờ trở lại. Tôi muốn gọi tên tất cả trong hoài niệm tận cùng sâu lắng.
Ngậm ngùi nhìn công viên Lam Sơn trống rỗng
Rồi tôi cũng phải bước ra. Trở về với thực tại, nhưng vẫn gặp cái vắng lặng của vỉa hè chạy dài theo đại lộ Nguyễn Huệ. Dường như chỉ còn có Thanh Sài Gòn ngồi ngất ngư với “người xưa trong ảnh” của một ô quảng cáo vuông vắn phía ngoài thương xá.
Chúng tôi đi qua khu công viên Lam Sơn, lúc này đã được phá sạch, chỉ còn vài cây cổ thụ cao lêu nghêu bên cạnh “công trường” đang làm, dường như hàng cây đứng chờ giờ hành quyết như các “đồng nghiệp” của nó đã bị đốn hạ vài hôm trước. Các bác thợ quần áo xanh, dây đeo chằng chịt đã và đang dọn dẹp cho công trường trống rỗng. Tôi đứng trước nhà hát TP nhìn cảnh “vườn không nhà trống” đó mà ngậm ngùi nhớ tới pho tượng Thủy Quân Lục Chiến sừng sững đứng bảo vệ thành phố ngày nào  chẳng một lần kéo nhau đi giữa đường hoa với tâm trạng rộn ràng của một ngày hội hoa xuân. Từ năm nay sẽ mất hẳn, chẳng bao giờ thấy bóng dáng mùa xuân ở đây nữa.
Cuối cùng tôi trở lại nơi mà lần đầu tiên tôi đặt chân lên TP Sài Gòn. Tôi đã nhảy xuống xe GMC ở đây, đúng nơi này, phía sau nhà hát TP, bây giờ là trụ sở của Tổng công ty cấp nước của TP. Mặt đường nhựa chẳng có gì thay đổi, nó cũng nhẵn mòn như những con đường nhựa khác, nhưng với tôi nó là một dấu son đáng nhớ nhất trong đời. Vậy mà đã đúng 60 năm rồi sao?
Mai này Sài Gòn sẽ còn mất đi nhiều thứ nữa như vòng xoay trước cửa Chợ Bến Thành, một biểu tượng mà bất cứ ai đã đến Sài Gòn dù chỉ một lần cũng không thể nào quên. Đó là những thứ sẽ mất đi để làm tuyến metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên. Ngoài tuyến metro số 1, còn xây dựng thêm 6 tuyến metro khác. Chúng ta sẽ mất đi nhiều di tích xưa cũ. Sài Gòn sẽ đổi khác rất nhiều, để lại trong người Sài Gòn dù ở đâu cũng thấy cảm thấy một nỗi bùi ngùi, nhớ tiếc. 60 năm Sài Gòn, hồn ở đâu bây giờ?
Văn Quang- 29 tháng 8-2014
Hình:
01- Đường Lê Lợi phía thương xá TAX chỉ còn một lối đi nhỏ.
02- Văn Quang trước Thương xá Tax ngày 25-8-2014.
03- Thanh Saigon với hoài niệm “người xưa” trong ảnh quảng cáo trên vỉa hè bên hông Thương xá Tax.
04- Tạm biệt Thương xá Tax và hàng giảm giá.
05- Tất cả các cửa hàng trong thương xá vắng hoe.
06- Những chiếc thang máy không người vẫn chạy đều đều.
07- Các tầng lầu càng vắng khách.
08- Chủ cửa hàng bán máy ảnh sẽ về quê làm ruộng.
09- Các cửa hàng đá quý vàng bạc càng vắng vẻ.
10- Tác giả thẫn thờ đứng nhìn công trường Lam Sơn đang bị phá bỏ
11- Tượng đài Thủy Quân Lục Chiến giữa công viên Sài Gòn xưa.
12- Trước cửa Cty Cấp Nước TP, nơi tác giả đặt chân lên




TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI SÀI GÒN THÊ THẢM


Nhiều chủ cửa hàng buôn bán kinh doanh đã hơn nửa đời người nay dở khóc, dở cười. Chủ cửa hàng số 86 đường Nguyễn Huệ phải treo tấm bảng mời gọi khách: “Các hộ kinh doanh vẫn giao dịch bình thường, xin mời quý khách đi xe vào”.



Tấm biển dở khóc, dở cười của các tiểu thương.

Tấm bảng này đã được treo từ hơn 1 tuần nay, để vớt vát phần nào lượng khách tại khu vực lâu nay được xem là buôn bán sầm uất nhất Sài Gòn.



Dày đặc các bảng quảng cáo cho thuê nhà

Cô Phan Minh Tâm, chủ cửa hàng kinh doanh quần áo trên đường Lê Lợi than ngắn, thở dài, nói với giọng buồn buồn: “Giờ tất cả các hộ kinh doanh, buôn bán đều chung một hoàn cảnh là… chết chùm".
Bà con đi không được mà buôn bán cũng không xong, chỉ biết dài cổ chờ qua ngày thôi. Nhân viên cũng cắt giảm gần hết, tiền mặt bằng kí hợp đồng dài hạn nên cố cầm cự”.




Bà con đi không được mà buôn bán cũng không xong, chỉ biết dài cổ chờ qua ngày. Nhân viên cũng cắt giảm gần hết.
Ghi nhận tại 2 tuyến đường Lê Lợi, Nguyễn Huệ hiện nay đơn vị thi công đã đào bới, lập lô cốt, rào chắn đường ở một số đoạn.
Buổi tối đèn điện không có, tối om nên tuyến đường sầm uất nhất giờ trở nên vắng teo, ít người qua lại khiến cho các hộ kinh doanh trở nên lao đao, không có lối thoát.



Đường Nguyễn Huệ chỉ còn xe đạp chạy.


Theo yêu cầu của UBND thành phố, thương xá tax cũng sẽ hoàn tất việc di dời trước đầu tháng 10 và bàn giao 500 m2 ở số 39 Lê Lợi cho Ban Quản lý đường sắt đô thị để thi công tháp thông gió nhà ga của tuyến metro số 1, và chuẩn bị khởi công trung tâm thương mại mới cao 40 tầng.



Saigon Tourist bị rào chắn cô lập



Thương xá Tax sầm uất nay còn đâu.


Nhiều đoạn đường đã bị lập rào chắn


 
 Đường Lê Lợi rào chắn chỉ còn một phần đường nhỏ.


 
Buôn bán bị tê liệt.

 


 


No comments:

Post a Comment