NGUYỄN THANH GIANG *TUỔI THƠ LANG BẠT-
TUỔI THƠ LANG BẠT-
NGUYỄN THANH GIANG
Tự truyện “Người đội số phận” -
Tôi không có một nếp nhà, một góc phố, một xóm nhỏ gắn với cả tuổi thơ để mà hoàiniệm. Riêng đoạn học trình để có được tấm bằng Tiểu học Tốt nghiệp (Certificat d’étudesprimaires elementaires Indochinoises) tôi đã phải học qua năm trường và đi một vòng từThanh Hóa ra Hà Nội, rồi lại từ Hà Nội trở về Thanh Hóa.Năm 1942, lên sáu tuổi tôi đã được đến trường. Trường Alexandre de Rhodes là mộttrường dòng ở sau Nhà Thờ thị xã Thanh Hóa.
Tôi học ở đây chưa hết Lớp Bốn (CoursPreparatoire) thì Ba tôi về đưa tôi ra Hà Nội. Ở Hà Nội, tôi học qua hai trường: TrườngTrí Tri, Trường Bùi Huy Bích mới hết được Lớp Nhì Đệ Nhất (Cours Moyen Un) thìToàn quốc Kháng chiến, tôi phải tản cư về Thanh Hóa.Trước năm 1944, tôi ở với ông bà nội ở phố Nhà Thờ. Đấy là một ngôi nhà Tây to đẹp cóhạng ở thị xã Thanh Hóa lúc bấy giờ. Sau hơn bẩy mươi năm, năm kia, tôi mới có dịp trởlại thăm. Ngôi nhà đã bị phá hủy trong Tiêu thổ Kháng chiến.
Trên thửa đất ấy bây giờ lànhà của nữ anh hùng Ngô Thị Tuyển.Năm 1944, ra Hà Nội, tôi ở với Ba và Dì ghẻ (tôi gọi bằng Má) ở số nhà 71 phố TienTsin, gần Chợ Hàng Da. Một buổi tối, vừa ăn cơm xong thì nghe súng nổ đì đẹt. Có nhẽđấy là cái đêm Nhật Pháp bắn nhau, 9 tháng 3 năm 1945. Chúng tôi chạy bổ ra đường. Batôi dắt Má tôi, Má tôi lôi tôi chạy. Đèn phố tắt tối om. Người và xe cộ ngược xuôi hỗnloạn. Những vệt xanh, vệt đỏ vun vút trên đầu. Sau này tôi mới biết là những đường đạn.Lúc ấy tôi cứ ngẩng đầu chạy, không khóc, cũng không khom lưng như người lớn. Sauđêm ấy, nhà tôi dọn về ngõ Gia Ngư ở Ngọc Hà. Từ ngày chị Bích bị lính Tàu phù bắnchết, Ba tôi mang tôi vào ở ngay trong Bệnh viện Yersin (nay là Bệnh viện Việt Đức).Chị Bích hơn tôi vài tuổi, con riêng của Má tôi. Một hôm, chúng tôi đi thăm cậu Huấn ởsố 9, ngõ Tô Tịch, gần Bờ Hồ về, đến vườn hoa Cửa Nam thì lại nghe súng đì đẹt. Tầuđiện đỗ lại, chúng tôi lao xuống, chị Bích vô tình bị trúng đạn. Người ta nói rằng có mộtthằng Tàu phù vào cửa hiệu cướp xà phòng ăn. Bị đuổi, hắn lao về phía bốt gác.
Mấy línhTàu phù đứng trong bốt canh giật mình nổ súng loạn xạ. Tôi ghét bọn Tàu phù lắm. Chính tôi cũng bị một thằng Tàu phù cướp mất nắm cơm.Hôm ấy anh Vũ văn Kính dắt tôi đi xem xiếc Tạ Duy Hiển. Anh hỏi có thích ăn kemkhông? Tôi thích quà cơm nắm. Nắm cơm gạo đỏ tròn như lòng bàn tay, ở giữa lõm đểđựng muối vừng. Tôi vừa cắn được một miếng thì thằng Tàu phù đến giật mất.Bọn Tàu phù ăn ở bẩn thỉu lắm. Hồi ở ngõ Gia Ngư ngày ngày tôi thấy họ thường khiêngcơm qua cửa nhà tôi mà sao ruồi nhặng bay theo rất nhiều. Bọn trẻ chúng tôi đứng nhìnvỗ tay hát nhại bài Tiến quân ca: “Đoàn quân Tàu ô đi. Sao mà ốm thế. Bước chân phù lêtrên đường gập ghềnh xa …”. Lúc đầu họ nghe vui vui cùng vỗ tay cười. Ít lâu sau, họvác đòn gánh đuổi chúng tôi. Không biết đứa nào núp ở đâu ném họ chẩy cả máu đầu.Ngày Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập, anh Vũ Văn Kính dẫn tôi ra Quảng trường BaĐình xem. Tôi cứ nghếch mắt cố chen cho đến được gần kỳ đài nên bị lạc. Đang trênđường tìm anh Kính thì gặp anh huynh trưởng đội “Sói Con” (Cub Scout, là lớp Ấu sinhtrong tổ chức Hướng Đạo sinh) nên tôi được anh đưa vào đánh trống ếch trong Đội Diễuhành, thay cho một bạn trẹo chân bị đưa vào Trạm Cứu thương ngay dưới chân kỳ đài.
Sau Cách mạng Tháng Tám, anh Kính đi làm cận vệ cho cụ Hồ Tùng Mậu. Cụ Hồ TùngMậu lúc bấy giờ là Tổng Thanh tra Chính phủ. Sau khi cụ bị hy sinh tại Phố Còng, TĩnhGia, Thanh Hóa do máy bay oanh tạc vào năm 1951, anh chuyển sang làm Trưởng TyCông an Thanh Hóa. Năm 1979 anh hy sinh trên chuyến chuyên cơ gặp nạn ở Dà Nẵngkhi vừa được đề bạt Thứ trưởng Công an. Cùng trên chuyến chuyên cơ gặp nan là 6 sỹquan Liên Xô và một số cán bộ của Chính phủ đi công cán về sự vụ Liên Xô đưa lựclượng vào hỗ trợ Việt Nam đương đầu với trận chiến Việt Trung ở biên giơi phía bắc.
Trước toàn quốc kháng chiến ít lâu, tôi theo Má tôi tản cư về Thanh Hóa, ở nhờ một nhàlàm đồ mộc ở đầu dốc Xuân Phả. Tôi phải bỏ học đi bán bánh đúc riêu và nước vối ở đầuchợ Huyện Thọ Xuân.Ba tôi ở lại Hà Nội, theo cơ quan y tế sơ tán về Chùa Hương. Bị Pháp tấn công ChùaHương, Ba tôi bỏ cơ quan chạy bộ về Thanh Hóa tìm chúng tôi. Tôi được đi học lại và đãthi đỗ Primaire ở Trường Tiểu học Thọ Xuân Thanh Hóa.Tôi học lõm chõm nhiều trường nên suốt những năm tiểu học chỉ nhớ được vài thầy, vài vài thầy, vàibạn.Ở trường Alexandre de Rhodes, tôi nhớ thầy hiệu trưởng Nguyễn Thái Bá. Thầy là mộtlinh mục. Sau này thầy được bổ làm giám mục đầu tiên ở Thanh Hóa.Bạn thì chỉ nhớ một anh tên Sếu.
Anh ta hơn tôi mấy tuổi, cao lớn hơn tôi, luôn xưng anhvới tôi. Tôi không chịu, phân bì: “Sếu chân dài hơn Giang, nhưng Giang bay cao hơnSếu”. Anh ta hay bắt nạt tôi. Tôi nhặt cứt dê khô đem tẩm đường, giả làm thuốc tễ, choSếu ăn.Sếu học kém nhưng đánh cù và “chơi chiếm thành” rất giỏi. Dọc bờ tường nhà trường cócái gờ chỉ vừa đủ hai phần ba bàn chân. Hai toán áp lưng vào tường đi từ hai đầu lại, gặpnhau thì ẩy nhau xuống. Một mình Sến ẩy được đến bốn năm người.Một hôm thầy giáo hỏi cả lớp lớn lên em muốn làm gì. Bạn thì bảo muốn làm cô giáo,bạn muốn làm bác sỹ, họa sỹ …
Tôi bảo tôi muốn làm vua nên rất ngạc nhiên thấy Sếubảo muốn làm công nhân.Hơn chục năm sau, trở lại thị xã Thanh Hóa hỏi thăm mới biết Sếu đã hy sinh trong chiếndịch Điện Biên Phủ. Tôi thương Sếu lắm.Ở trường Tiểu học Thọ Xuân tôi nhớ thầy Tôn Thất Bật, em bác sỹ Tôn Thất Tùng. Thầyrất dữ đòn, thường nắm tóc học trò quất roi vào đít để học trò chạy vòng quanh, gọi làđòn caricay-xayhạttiêu.Ở trường này tôi cũng chỉ nhớ được một bạn (không nhớ tên) mà tôi phục sát đất về tầmhiểu biết vì đã tìm vôi bôi cho tôi để chữa cái tội ngu dại lấy lá nán chùi đít. Niên khóa 1947 – 1948 tôi học Đệ Nhất niên (Première Année) ở Trường Trung học LêLợi. Lúc đầu trường học nhờ nhà dân ở Nam Cai Đồng, sau dọn về thị trấn Neo ở ThọXuân. Vì học ở đây ba năm, cho đến hết Đệ Tam niên (Troisième Année) nên tôi nhớđược nhiều thầy hơn.
Thầy Lê Như Ứng, hiệu trưởng; thầy Cao Hữu Nhu dạy Địa lý;thấy Hồ Dzếnh dạy Văn; thầy Đinh Xuân Lâm dạy Sử; thầy Trần Văn Giá dạy TiếngPháp … Vào những ngày tôi đặt bút viết cuốn Tự truyện này, tháng 12 năm 2014, thầy Cao HữuNhu mất. Thầy là một nhà giáo rất kỳ cựu của Thanh Hóa. Thầy giỏi ba ngọai ngữ: Pháp,Anh, Trung và uyên thâm như một học giả. Thầy là chủ tịch Mặt trận Liên Viêt tỉnh từkhóa đầu cho đến Mặt trận Tổ quốc 6 khóa sau, là Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Xô tỉnh, làNhà giáo Nhân dân, là thầy dạy của nhiều Trung ương Ủy viên, Thứ, Bộ trưởng và nhiềuquan chức tỉnh Thanh Hóa nhưng đám tang của thầy đơn sơ lạnh lẽo quá. Không quanchức nào quan tâm đến tang lễ thầy. Họ bận chen cạnh nhau lên chức, tăng quyền, vơ vét bổng lộc hay vì thầy không là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam?.
Thầy Đinh Xuân Lâm là một trong “tứ trụ triều đình” sử học Việt Nam: Lâm, Lê (PhanHuy Lê), Tấn (Hà Văn Tấn), Vượng (Trần Quốc Vượng). Thầy có trí nhớ kỳ lạ. Bẵng đihơn chục năm kể từ ngày dạy tôi ở trường Lê Lợi, một hôm gặp tôi ở Hà Nội thầy vẫn gọitên tôi đầy đủ cả họ. Ngày tôi viết tập Truyện ký này, thầy đã ở tuổi chín mươi nhưng khitôi gọi điện thoại hỏi thầy về những sự kiện lịch sử ở Thanh Hóa liên quan đến tôi và giađình tôi thì vẫn được thầy chỉ bảo rất rành rẽ. Thầy không phải người Thanh Hóa mà sinhtại Hương Sơn Hà Tĩnh trong một gia đình quan lại.
Từ nhỏ thầy đã theo cụ thân sinh raThanh Hóa làm tri huyện Yên Định nên thầy coi Thanh Hóa như quê hương thứ hai. Thầytừng nhận làm chủ hôn trong lễ cưới của con trai tôi.Thầy Hồ Dzếnh thì đã nổi tiếng từ lâu với tập truyện “Chân trời cũ” và tập thơ “Quê ngoại”. Thầy là người minh hương. Thân sinh thầy phiêu bạt từ Quảng Đông sang sinhsống tại Việt Nam, kết hôn với một cô lái đò phà Ghép Quảng Xương Thanh Hóa. Từ ngày ấy tôi đã thuộc đoạn thơ này cuộc đoạn thơ này của Hồ Dzếnh:
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều nay ?
Tôi là người lữ khách,
Mầu chiều khó làm khuây,
Ngỡ lòng mình là Rừng,
Ngỡ hồn mình là Mây,
Nhớ nhà châm điếu thuốc
,Khói huyền bay lên cây...
Năm 2014, khi Trung Quốc hạ đặt dàn khoan HD 981 trong lãnh hải của ta, nhớ thầy, tôiviết:
Bây giờ nhớ nhà châm điếu thuốc
Ông thấy khói lên quện mảng mây nào?
Đất và Biển chỗ còn, chỗ mất
Ông có cùng như tôi xót đau?
Bạn cùng học ở Lê Lợi với tôi thành đạt nhất có lẽ là Tống Duy Thanh. Anh cùng tuổiBính Tý với tôi, sinh năm 1936. Giáo sư – Tiến sỹ Khoa học Tống Duy Thanh được xemlà giáo sư đầu ngành về Cổ sinh - Địa tầng của Địa chất Việt Nam, có đóng góp lớn vàoviệc hình thành Bộ Bản đồ Địa chất Việt Nam tỷ lệ 1: 500 000. Năm 2005 công trình nàyđược Giải thưởng Hồ Chí Minh.
Hai tiến sỹ địa chất đầu tiên của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều là ngườiThanh Hóa: Tống Duy Thanh và Nguyễn Nghiêm Minh. Nguyễn Nghiêm Minh kém tôimột tuổi, cũng quê Hoằng Hóa. Năm 1995 được bầu làm Viện sỹ Viện Hàn lâm Khoa họcvề Tự nhiên và Xã hội CHLB Nga. Năm 1996được bầu làm Viện sỹ Hàn Lâm Quốc tếvề Tài Nguyên Khoáng sản CHLB Nga. Năm 1998, nhân kỷ niệm 300 năm Ngành Địachất Nga, Viện Hàn lâm khoa học về Tự nhiên và Xã hội CHLB Nga đã trao tặng choGS.TSKH.VS Nguyễn Nghiêm Minh giải thưởng cao quý: “Huy chương Pie Đại Đế”vì những công lao và đóng góp cho khoa học và nền kinh tế của nước Nga.Nguyễn Văn Tuấn, lúc cùng học gọi là Nguyễn Văn Miêng thì hơn chúng tôi mấy tuổi, tocao, đẹp trai. Đi học qua một cánh đồng rộng, tôi thường phải bám theo anh để không bịtrẻ trâu bắt nạt “dân tản cư”. Anh là cán bộ của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minhđược cử phụ trách Đoàn Thanh niên Lưu học sinh Việt Nam ở Liên Xô. Anh đã mất cáchđây mươi năm.Hồi học ở Neo, nhà tôi chuyển về Quần Kênh, xã Xuân Quang, huyện Thọ Xuân. Ba tôilàm ở xưởng giấy Đông Minh sản xuất giấy in bạc cho chính phủ. Giám đốc xưởng giấyĐông Minh là ông Hoàng Văn Chí. Ông Hoàng Văn Chí là người Mường Thanh Hóa,đậu cử nhân khoa học tạị Viện Đại học Đông Dương năm 1940.
Ông không chỉ chế tạogiấy in bạc cho Chính phủ mà còn tham gia thiết kế mạng lưới thủy nông ở Thanh Hóa.Công trình thủy điện đầu tiên tôi được thấy trong đời là máy nghiền nứa làm bột giấy sửdụng sức nước do ông Hoàng Văn Chí thiết kế. Máy đặt ở đầu nhánh sông nông giangtrích nước về Quần Tín. Năm 1954 ông di cư vào Nam rồi ra nước ngoài trở thành mộthọc giả, tác giả cuốn “Trăm hoa đua nở trên Đất Bắc” và cuốn “Từ Thực dân đến Cộngsản”…. Ông là anh cọc chèo của tướng Nguyễn Sơn. Hai người đều là con rể của nho sỹLê Dư, bút danh Sở Cuồng.Tôi nhớ Hoàng Văn Chí vì ông đã cho tôi một bộ quần áo. Năm 1952, máy bay Pháp bỏbom thiêu hủy nhà máy giấy Đông Minh. Nhà tôi ở cạnh bãi gỗ của xưởng nên cũng bịcháy theo.
Cả tháng trời tôi chỉ mặc một cái quần xoóc với một áo sơ mi. Hôm nào giặtthì đêm phải cởi truồng, cởi trần, sáng hôm sau phải mặc quần áo ẩm cho đến lúc tự khôtrên người. Nhà bị cháy vốn là một nếp tranh ba gian mở quán giải khát đặt tên là “Quán Mới”. Đihọc về tôi phải làm “bồi bàn” của quán. Ngoài cà phê, nước chanh … quán có đặc sản“kem trứng”. Cách chế tạo “kem trứng” như sau: đập một hoặc hai quả trứng gà vào cốc,bỏ đường, kẹp cái cốc vào đùi, dùng “máy đánh trứng” đánh. “Máy đánh trứng” làm bằngchiếc đũa một đầu gắn sáu sợi mây uốn cong như chiếc lồng nhỏ. Trứng phải tươi, tayphải xoay chiếc đũa mạnh và liên tục để trứng bồng lên đặc quánh.
Những hôm đôngkhách tay tôi không chỉ mỏi nhừ mà còn trớt da.“Quán Mới” nằm bên bờ sông nông giang dẫn nước từ đập Bái Thượng về. Còn trẻnhưng đêm đêm không hiểu sao tôi vời vợi buồn khi nghe vạn đò hò khoan: “Dô tá dô taơ hầy khoan ấy hầy hầy khoan” “Đôi ta chích huyết ăn thề/ Kẻ ở Nông Cống người vềQuảng Xương/ Núi Nưa có lở thành đường/ Sônq Đơ có lấp nên rừng cây xanh/ Núi Mậtcó đổ tan tành/ Đôi ta vẫn giữ trọn tình đôi ta”, “Vắng ai chỉ một phiên đò/ Miếng trầunhạt thếch, câu hò cũng không”, “Một mai thiếp có xa chàng/ Đôi bông thiếp trả, conchàng thiếp xin” …
Nhà cháy, tài sản không còn gì, năm 1952 Ba tôi xin Ủy ban Hành chính Kháng chiếnThanh Hóa “dinh tê” Hà Nội. Tôi về Hoằng Hóa với Bà nội ở nhờ nhà ông Lê TrọngThoàn, đại biểu Quốc hội khóa Một. Ông Thoàn đi thóat ly từ cách mạng Tháng Tám,chúng tôi được ở nhờ căn nhà ngói ba gian giữa vườn chè rộng khoảng hai sào. Nhà Bà nội nghèo lại phải nuôi cả con lẫn cháu. Hàng cháu, không chỉ có tôi mà còn chịThức và anh Đức, con bác giáo Tùng, anh cả của Ba tôi. Vợ bác giáo Tùng là Phạm thịChí, gọi ông Phạm Quỳnh bằng chú. Hai vợ chồng bác giáo Tùng cùng mất năm 1945trong thảm cảnh dịch tả, bỏ lại ba người con. Vợ chồng bác giáo Tùng mất khi ba ngườicon còn rất nhỏ. Thấy kiến bu lên mắt xác mẹ, họ chưa biết khóc mà chen nhau ngồi đuổikiến cho mẹ.Nhà nghèo nhưng chúng tôi, cả con lẫn cháu đều được đi học. Bởi vậy, tất cả đều phải“vừa học vừa làm”.
Tôi phải đi đập đất thuê, nhổ mạ thuê, cấy thuê, đập lúa thuê … Tốitối cả nhà xúm lại, hoặc bóc lạc, tẽ ngô, hoặc quay bông, kéo sợi thuê cho mậu dịch. Sángsớm, có hôm tôi đi đặt te kéo tép với chị Thức. Te làm bằng mảnh vải màn vuông, mỗichiều ba mươi phân văng ra bằng hai thanh nứa bắt chéo. Thả thính vào giữa vuông vảimàn, nhấn xuống bờ ao. Ngửi mùi thơm, tép xúm lại, nhấc te lên, có lần được đến vàichục con tép. Buổi chiều có hôm tôi cùng chú Dương đi đặt chũm bắt cá rô. Lội ra giữaruộng lúa nước, bới một lỗ tròn bằng bàn tay, rạch bùn mở hai rãnh dẫn vào cái lỗ tròn.Chũm có chứa thóc ngâm thối hoặc trùn tanh. Cá rô lách theo rạch, chen nhau, cắn đuôinhau nhảy ngược lên qua cái hom và mắc lại trong chũm. Chú Nguyễn Thanh Dương làchú ruột tôi nhưng kém tôi hai tuổi không chỉ đặt chũm giỏi hơn tôi mà còn biết đặt ốnglươn. Ống lươn làm bằng một đốt cây nứa, một đầu kín một đầu hở. Đầu hở có cái homxuyên ngang bằng một que tre để cắm ống nứa xuống bờ ao. Lươn ngửi thấy mùi trùntanh trong ống nứa, chui qua hom vào và mắc lại trong đó. Chú Dương còn giỏi bẫy chimvàng anh. Vàng anh là hiện thân của Cô Tấm, đã từng được nhà vua vời gọi “Vàng ảnh vàng anh,có phải vợ anh chui vào tay áo …”. Giống chim này thường sinh sản ở khu vực ôn đớicủa Bắc bán cầu. Nó là loài chim di cư, mùa hè di cư đến khu vực châu Âu và miền tanh trong ống nứa, chui qua hom vào và mắc lại trong đó.
Chú Dương còn giỏi bẫy chimvàng anh. Vàng anh là hiện thân của Cô Tấm, đã từng được nhà vua vời gọi “Vàng ảnh vàng anh,có phải vợ anh chui vào tay áo …”. Giống chim này thường sinh sản ở khu vực ôn đớicủa Bắc bán cầu. Nó là loài chim di cư, mùa hè di cư đến khu vực châu Âu và miềntây châu Á, mùa đông di cư đến khu vực nhiệt đới. Quê tôi gần biển nên sau hành trìnhdài qua biển, vàng anh thường sả cánh xuống quê tôi. Vàng anh trống có bộ lông vàng và đen đặc sắc. Mầu vàng là chủ đạo. Viền đen to quanhmắt chim vuốt nhỏ dần một cách mềm mại ra sau gáy. Lông bụng chim mái có màu xanhô liu. Tiếng chim kêu giống tiếng giẻ cùi nhưng rất thánh thót.Vàng anh tránh các vòm cây rậm rạp và thường thích đỗ nơi thoáng đãng trên cao. Dựngcây tre cao ngang ngọn dừa có buộc một chú chim vàng anh trống đẹp ở đỉnh.
Phía dướichim mồi cắm những que nhựa. Vàng anh bay tới đỗ lại nhập bầy, dính nhựa rơi xuống. Những hôm mưa bão, chú Dương và anh Đức đi nhặt tàu dừa rơi về làm củi cũng đượcnhiều hơn tôi. Ban đêm, có hôm chúng tôi rủ nhau đốt đuốc lá dừa đi bắt lư hoặc chọccáy. Con lư giống con bào ngư. Khi đang bò, con lư dài bằng ngón tay, khi bị chộp nó kêulên một tiếng “chiu” rất khẽ và co tròn lại. Cháo lư ngon tuyệt. Và bổ nữa. Cáy thì bò ngổn ngang dưới gốc cây sú. Cầm que tre đầu nhọn dài khoảng mét rưỡi chọctrúng vào lỗ của nó. Miệng lỗ bị bịt, cáy không chui xuống được và bị bắt. Mắm cáychấm cà xổi rất ngon. Nước mắm cáy, trong ký ức tôi, ngon hơn nước mắm Phú Quốcbây giờ.Ngày nay về không còn tìm được bãi sú đầy lư và cáy thuở xưa nữa. Con sông Tuần cũngbị đẩy ra xa và thu hẹp lại làm tôi nhớ những ngày câu phi ở mép nước sông. Mỗi con phicó một con đòi. Con đòi là một con cua nhỏ sống cộng sinh trong con phi. Phi thường vùiminh dưới cát ở độ sâu vài chục phân, nằm há miệng chờ con đòi.
Dùng một que tre đầunhọn có khấc. Bằng kinh nghiệm, biết lỗ nào có phi thì chọc xuống. Phi bị đau, ngậmmiệng lại, ta kéo lên. Con phi hình dạng giống con mực nhỏ nằm trong bộ vỏ giống vỏcon chai. Ăn phi rất ngon mà không thấy ở đâu có. Nhạc sỹ Phạm Duy kể trong Hồi kýcủa mình: “Ngồi nghe hò và được ăn món “phiủa địa phương ngon tuyệt trần. Đó lànhững con nghêu dài như ngón tay, trắng như mực, ăn vào thấy dòn chứ không dai nhưmực”. Cách đây mấy chục năm, khi được mời về trong đoàn cán bộ khoa học tư vấn tôiđã khuyến nghị địa phương nên nghiên cứu tổ chức nuôi phi để biến thành một vùng đặcsản có giá trị kinh tế cao. Không có riêng một nếp nhà, một góc phố, một xóm nhỏ để mà hoài niệm nhưng kỷ niệmcủa tôi rải đầy trên cả vùng quê Thanh Hóa
Người ta thường tự hào về một miền địa linh nhân kiệt, xưa đã có nhiều vua, nhiều chúa:Bà Triệu (226-248), Lê Hoàn (941-1005), Hồ Quý Ly (1336–1407), Lê Lợi (1385-1433),Lê Thánh Tông (1442-1497), Nguyễn Hoàng (1524-1613) …; nay không chỉ có cựu TổngBí thư Lê Khả Phiêu mà còn là tỉnh duy nhất có hai ủy viên Bộ Chính trị: Phạm QuangNghị và Tô Huy Rứa cùng được bầu trong Đại hội Đảng XI. Hơn thế nữa, nghe đâu TổngBí thư Nguyễn Phú Trọng còn dự kiến giới thiệu Phạm Quang Nghị làm Tổng Bí thưnhiệm kỳ 2016 – 2021. Lúc đầu tôi rất tán thưởng đề xuất này vì cho rằng Phạm QuangNghị là nhân vật thuộc hàng nổi trội so với tất cả các Ủy viên khác trong Bộ Chính trị.Tuy nhiên, sau chuyến “ra mắt” ở Hoa Kỳ với món quà quái dị mà ông đem tặng Thượngnghị sỹ John McCain thì uy tín của ông xuống rất thấp.
Bỏ phiếu tín nhiệm ngày 10 tháng01 năm 2015 vừa rồi, ông đội sổ, đứng thứ 19 trên 20. Cái người giới thiệu ông là ôngTổng Bí thư cũng bị giáng xuống hàng thứ tám! Dẫu sao đi nữa, nhân vật ngọ nguậy trong tâm thức tôi và được tôi sủng ái vẫn là TrạngQuỳnh huyền thoại.Trạng Quỳnh tên thật là Nguyễn Quỳnh (1677–1748 hoặc 1720–1770) là một danh sĩ thờiLê–Trịnh (vua Lê Hiển Tông), quê ở làng Bột Thượng nay là xã Hoằng Lộc, huyệnHoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Năm 18 tuổi Nguyễn Quỳnh theo cha ra Thăng Long ở nhờnhà một người bà con bên ngoại để theo học. Năm 20 tuổi đỗ giải nguyên (đỗ đầu kỳ thihương).
Năm 1712 Nguyễn Quỳnh chuyển về Thăng Long làm huấn đạo phủ PhụngThiên. Năm 1718 sau khi đỗ hạng ưu kỳ thi sỹ vọng, Nguyễn Quỳnh chuyển về ThăngLong làm viên ngoại lang ở Bộ Lễ rồi làm tu soạn ở Viện Hàn Lâm. Ở Thăng Long, ôngđược xếp vào "Tràng An tứ hổ": "Nhất Quỳnh, nhì Nam, tam Hthường gọi ông là Trạng. Ở Hoằng Hóa, ngoài Nguyễn Quỳnh, còn có những nhân vậtkhác được xem là dòng dõi Trạng Quỳnh, đã trở thành cốt lõi hoặc xuất phát điểm củanhiều giai thoại hài hước độc đáo chống cường quyền, giàu ý nghĩa nhân văn nhưNguyễn Chung, Nguyễn Xiển (Hoằng Lộc), Nguyễn Đôn Tiết (Hoằng Đức), NguyễnThời Trội (Hoằng Sơn)
.Trong các truỵện tiếu lâm của Trạng Quỳnh tôi thích nhất truyện này: “Một lần chéo đòđưa đoàn sứ Tầu qua sông. Ra giữa dòng, ai đó xổ ruột đánh cái “bùm”. Tên sứ Tàuxướng lên câu đối: “Lôi động Nam bang” (Sấm động nước Nam). Trạng Quỳnh liền vạchquần đái vọt cần câu, họa: “Vũ quá Bắc Hải” (Mưa qua Biển Bắc).Ngoài ra còn có truyện này, truyện “Tiên sư thằng Bảo Thái!”:“Các bà, các cô chợ búa ở khắp các phường kinh thành Thăng Long, chưa bao giờ đi chợlại gặp chuyện lạ kỳ như sáng hôm nay. Họ đến hàng thịt lợn, thịt trâu, thịt bò… hỏi mua,nơi nào người ta cũng lắc đầu quầy quậy nói đã có khách đặt trước rồi. Người mua khôngnghi ngờ gì, tin người bán nói thật oàn, tứ Tuấn".Nguyễn Quỳnh nổi tiếng với sự trào lộng, hài hước qua nhiều giai thoại nên dân gian
vì các loại thịt đều đã được thái nhỏ ra thành miếngchứ không để nguyên tảng.Hỏi ra mới biết nhà vua giao cho quan Trạng làm chủ một tiệc rất lớn. Nghe nói kháchđông lắm phục dịch không xuể.
Gia nhân được lệnh quan Trạng, đến báo cho các hàngthịt khắp nơi thái sẵn, có bao nhiêu cũng mua, đắt mấy cũng lấy, để về nhà bếp chỉ cóviệc chế biến gia giảm, kịp làm cỗ, soạn mâm.Đến khi chợ vãn hết người, ruồi muỗi vù vù đến bâu, các quầy hàng thịt vẫn còn đóngghế ngồi đợi… Quá trưa sang chiều, thịt đã bắt đầu ôi chảy nước ra vẫn không thấy mặtmũi khách hẹn đâu. Trong bọn họ nhiều kẻ sốt ruột, đành liều thẳng đến nhà quan chẳngthấy cổ bàn, khách khứa nào cả. Họ hỏi đầu đuôi, thì chính Quỳnh ra trả lời rằng:“Sao bà con lại dại dột cả tin như vậy? Chắc có đứa nào mạo danh “Trạng” chơi xỏ đấythôi. Cớ sự đã thế, bà con cứ gọi những thằng nào, con nào “bảo thái” ra mà chửi cho bọnkhoảnh ác chừa cái thói ấy đi.Các hàng thịt không nhớ mặt, biết tên phường những người đặt hàng. Bực mình chỉ cònbiết đứng ra giữa chợ chửi um lên: Tiên sư thằng “Bảo Thái”!
Tiên sư thằng “Bảo Thái”!Bảo Thái là niên hiệu vua Lê đương thời. Thành thử nhà vua không làm gì bọn hàng thịtmà bị chúng réo tên chửi oan, không còn mặt mũi nào ra khỏi cổng thành nữa”.. Biết là không xứng nhưng tôi vẫn vui khi được đại tá Nguyễn Trần Thiết ghép tôi vàodòng dõi Trạng Quỳnh. Sau khi đọc mấy tập chính luận của tôi: “Khát vọng ngàn đời”,“Suy tư và Ước vọng”, “Giữa Đông Đông và Tây”, “Sứ mệnh Công dân” … ông tặng tôi bàithơ:Hoằng Hóa quê choa có Thanh GiangChút chit Cống Quỳnh, giỏi, nghịch, ngangVua quan, bà chúa đều không sợSợ Trẫm băng hà Trạng vẫn oanĐại tá, nhà văn, nhà báo Nguyễn Trần Thiết cùng quê Hoằng Hóa Thanh Hóa, là tác giảcủa trên 90 đầu sách, trong đó nhiều tác phẩm nổi tiếng như “Vòng trầm luân oannghiệt”, “Khát vọng con người”, “Ông tướng tình báo và hai bà vợ”, “Lính biệt động”,“Dương Văn Minh - Tổng thống cuối cùng của chính quyền Sài Gòn” ….
Trạng Quỳnh được xem như thần trí tuệ, Hoằng Hóa còn có vị thần sức mạnh cơ bắp gọilà ông Bưng. Truyện kể, ngày xưa ở thôn Trí Trọng, xã Hoằng Quỳ, có một người đàn bà nghèo khó.Bà đi làm thuê để kiếm ăn, đã luống tuổi mà chưa có chồng. Một buổi sáng tinh mơ bà rasông gánh nước, thấy dấu một bàn chân to dị kỳ trên bờ cát, bà ướm chân vào đấy và thấyđộng trong mình rồi thụ thai. Ông Bưng lớn lên, sức vóc phi thường, đã từng thuần phụcđược con trân xanh khổng lồ, chặt cả một cây lim to làm cày, đường cày rạch thành sôngẤn. Ông giúp vua đánh tan giặc. Vua ban chức tước, ngọc ngà ông đều không nhận, chỉxin ruộng đất để cày cấy. Vua cho ông nhận “thác đao điền”. Ông đứng trên núi Băng Sơnquăng dao, mũi dao cắm xuống làng Đa Mi.
Từ chân núi đến chỗ mũi dao cắm xuống quyvuông được một ngàn mẫu. Ông Bưng ra tận giáp ranh tỉnh Ninh Bình vác núi ĐườngTrèo về đặt trong thái ấp, gọi là Hòn Bưng. Các nhà sử học bảo rằng ông Bưng chính là Lê Phụng Hiểu được thần thoại hóa. LêPhụng Hiểu là danh tướng đời Lý. Ông được Lý Thái Tổ thăng đến chức Vũ vệ tướngquân. Năm 1044 ông theo vua đi đánh Chiêm Thành, lập được nhiều công lớn, được vuaban “Thác đao điền” như đã kể trên.Nhân dân Hoằng Hóa tôn thờ ông. Thần Lê Phụng Hiểu được thờ ở nhiều nơi tại cácnghè: Xuân Sơn, Ích Hạ, Trí Trọng, Quỳ Chũ, Đông Khê, Phúc Tiên, Nhân Vực, ĐứcGiáo, Khúc Phụ, Đô Du, Trung Hia.Các tác giả Đại Nam nhất thống chí viết về Tha về Thanh Hóa như sau:
“Sĩ tử thích văn học, giữkhí tiết, nông dân chăm cày cấy”. H. Le Broton trong “Le province đe Thanh Hóa” thìviết: “Thanh Hóa là nơi căn bản của nước Nam, muốn học sử nước Nam phải học sửThanh Hóa trước. Phong cảnh tỉnh Thanh đẹp có tiếng, nhiều tay sử bút Tầu đã đề tả màkhen. Lại nhiều cổ tích danh kí, nên những bậc văn nhân, ai đã đến ở đó một ít lâu, saudẫu đi đâu, lòng vẫn nhớ mãi … “Nước có nguồn, cây có cội”, người Nam phải quý đấtThanh”.. Thật vậy, quá nửa nhân tài của nước ta đều có gốc là người Thanh Hoá. Bà Triệu ThịTrinh khởi binh đánh Lục Dận nhà Ðông Ngô là người của quận Cửu Chân, tức ThanhHoá.
Ông Dương Diên Nghệ ra xây thành Ðại La từ thế kỷ thứ 9, là tướng của Khúc Hạo,sau làm Tiết độ sứ được sáu năm là người của Ái Châu, tức Thanh Hoá. Ngô Quyền quêgốc ở Sơn Tây nhưng từ nhỏ tới lớn đều ở Thanh Hoá, là con rể Thanh Hóa, lấy con gáiDương Diên Nghệ. Lê Hoàn sống với mẹ ở làng Xuân Lập, huyện Thọ Xuân cũng vẫn làngười Thanh Hoá. Ðinh Bộ Lĩnh quê ở Gia Viễn, thời đó hai huyện Gia Viễn và GiaKhánh được gọi là Thanh Hoá ngoại.
Lê Lợi rõ ràng là người Thanh Hóa, dấy binh từThanh Hoá mà xông tới đánh tan quân Minh. Ngoài ra còn có thể kể rất nhiều bậc tài danh thuộc nhiều lĩnh vực, là người Thanh Hóa:Lương Ðắc Bằng (1472 - ?) - Người làng Hội Trào, huyện Hoằng Hoá. Lúc bé đã nổitiếng thần đồng, năm 27 (hoặc 28) tuổi đỗ hội nguyên, thi đình đỗ nhất giáp tiến sĩ, tênthứ 2 (tức bảng nhãn). Ông làm quan đến thượng thư Bộ lại, được tham dự triều chính,tước Ðôn Trung Bá. Ông còn là nhà giáo mẫu mực, là thầy dạy của Nguyễn Bỉnh Khiêm;Hồ Nguyên Trừng - Con trai Hồ Quí Ly, là nhà sáng chế kỹ thuật quân sự tài giỏi. Cuộckháng chiến chống Minh thất bại, cha con ông bị bắt đưa về Trung Quốc, ở đây ông chếđược nhiều loại đại bác. Làm quan đến Công bộ thượng thư. Ông còn viết sách, làm thơ
với tác phẩm tiêu biểu như "Nam ông mộng lục", tỏ rõ lòng nhớ quê hương đất nước củamình; Ðào Duy Từ (1572 - 1634) - Quê làng Hoa Trai, xã Nguyên Bình (Tĩnh Gia). Ônglà một trong những vị khai quốc công thần nhà Nguyễn, một nhà quân sự, ngoại giao, vănhoá tài giỏi. Ông đã có công giúp nhà Nguyễn mở mang kinh tế, giữ yên lãnh thổ, đượcphong tước Lộc Khê hầu và thờ trong Thái Miếu, ông là tác giả của tác phẩm Hổ trướngkhu cơ, Ngoạ Long cương Vãn, Tư Dung vãn... ; Lê Thánh Tông (1442 - 1497) - Cháunội vua Lê Thái Tổ. Năm 1460, ông lên ngôi vua trị vì được 38 năm với hai niên hiệu:Quang Thuận (1460 - 1469) và Hồng Ðức (1470 - 1497). Ông là nhà cải cách lớn tronglịch sử Việt Nam . Bộ luật thành văn đầu của nước ta, được soạn dưới thời ông. Ông làngười sáng lập hội Tao Ðàn, để lại nhiều tập thơ, 1 tập truyện ký và rất nhiều bài viết đặcsắc trong các tập Hồng Ðức thi tập, Thánh Tông di cảo...; Tống Duy Tân (1837 - 1892) -Ông quê ở xã Vĩnh Tân (Vĩnh Lộc). Ông đậu tiến sĩ năm 1875, làm tri huyện VĩnhTường, án sát Sơn Tây, chánh sứ sơn phòng Quảng Hoá. Năm 1886, ông cùng con làTống Nhữ Mai lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh. Ông cùng Phạm Bành, Hoàng Bậtvới tác phẩm tiêu biểu như "Nam ông mộng lục", tỏ rõ lòng nhớ quê hương đất nước củamình; Ðào Duy Từ (1572 - 1634) - Quê làng Hoa Trai, xã Nguyên Bình (Tĩnh Gia).
Ônglà một trong những vị khai quốc công thần nhà Nguyễn, một nhà quân sự, ngoại giao, vănhoá tài giỏi. Ông đã có công giúp nhà Nguyễn mở mang kinh tế, giữ yên lãnh thổ, đượcphong tước Lộc Khê hầu và thờ trong Thái Miếu, ông là tác giả của tác phẩm Hổ trướngkhu cơ, Ngoạ Long cương Vãn, Tư Dung vãn... ; Lê Thánh Tông (1442 - 1497) - Cháunội vua Lê Thái Tổ. Năm 1460, ông lên ngôi vua trị vì được 38 năm với hai niên hiệu:Quang Thuận (1460 - 1469) và Hồng Ðức (1470 - 1497). Ông là nhà cải cách lớn tronglịch sử Việt Nam . Bộ luật thành văn đầu của nước ta, được soạn dưới thời ông. Ông làngười sáng lập hội Tao Ðàn, để lại nhiều tập thơ, 1 tập truyện ký và rất nhiều bài viết đặcsắc trong các tập Hồng Ðức thi tập, Thánh Tông di cảo...;
Tống Duy Tân (1837 - 1892) -Ông quê ở xã Vĩnh Tân (Vĩnh Lộc). Ông đậu tiến sĩ năm 1875, làm tri huyện VĩnhTường, án sát Sơn Tây, chánh sứ sơn phòng Quảng Hoá. Năm 1886, ông cùng con làTống Nhữ Mai lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh. Ông cùng Phạm Bành, Hoàng BậtÐạt, Trần Xuân Soạn... lãnh đạo nghĩa quân Ba Ðình, ông đã bị giặc Pháp bắt tại hangNiên Kỷ (Bá Thước) và hi sinh tại thị xã Thanh Hoá năm 1892;
Lê Hoàn (941 - 1005) -Quê xã Xuân Lập, Thọ Xuân, từ một người lính bình thường, ông đã lập được nhiềuchiến công, được Đinh Bộ Lĩnh giao cho làm Thập đạo tướng quân tổng chỉ huy quânđội. Năm 980, trước sự xâm lược của quân Tống, ông được quân sĩ và triều đình Hoa Lưtôn làm Hoàng đế. Ông đã tổ chức quân dân Ðại Việt hoàn thành cuộc kháng chiến chốngTống. Ông là nhà ngoại giao tài giỏi, có công lớn trong mở mang kinh tế, phát triển nôngnghiệp, giữ yên bờ cõi đất nước; Lê Văn Hưu (1230 - 1322) - Quê ở xã Thiệu Trung,Thiệu Hoá. Năm 1247, thi đỗ bảng nhăn. Năm 1272, làm hàn lâm viện học sĩ kiêm quốcsử viện quán tu và hoàn thành bộ sử Ðại Việt sử ký gồm 30 quyển. Ông không chỉ là nhàviết sử lỗi lạc đầu tiên của nước nhà mà còn là nhà quân sự với chức thượng thư bộ binhkiêm chưởng sử, tước Nhân uyên hầu; Nguyễn Hoàng (1524 - 1613) - Là con trai thứ haicủa Hưng Quốc công - Nguyễn Kim, vào trấn thủ Thuận Quảng, mở đầu cho sự nghiệpcủa các chúa Nguyễn với vương triều Nguyễn;
Nguyễn Hoàn (1713 - 1791) - Quê ở làngLan Khê, xã Nông Trường (Triệu Sơn). Năm 1743, đậu tiến sĩ, thăng chức lại bộ thượngthư. Năm 1777 được thăng chức thái phó, quốc lão... Không những là một vị quan totrong triều, ông còn biên khảo những tác phẩm lịch sử như Quốc sử tục biên, Ðại Việtđăng khoa lục...cùng với một số tác giả khác; Lê Ðình Kiên (1620 - 1704) - Quê làngThiết Ðinh, xã Ðịnh Tường (Yên Ðịnh). Ông có công trong việc xây dựng phố Hiến(Hưng Yên) thành một trung tâm buôn bán lớn của đất nước. Ông là nhà ngoại giao,ngoại thương tài năng, góp phần quan trọng vào việc mở mang đất nước; Nguyễn Kim (?- 1545) - Là người Gia Miêu, huyện Tống Sơn (Hà Trung ngày nay), là người khởi xướngvà lãnh đạo công cuộc trung hưng nhà Lê. Sự nghiệp chưa thành, ông bị hàng tướng nhàMạc là Dương Chấp Nhất đầu độc, mất năm 1545. Ông đă sáng suốt nhìn nhận và giaoquyền lực lại cho con rể là Trịnh Kiểm trước khi mất. Ông là người mở nghiệp cho dòngchúa Nguyễn và vương triều Nguyễn;
Trịnh Kiểm (1503 - 1570) - Quê làng Sóc Sơn,Vĩnh Hùng, Vĩnh Lộc. Ông là người có công lớn trong sự nghiệp trung hưng nhà Lê. Ônglà người mưu lược đã cùng tướng sĩ đánh lui 5 đợt tấn công của nhà Mạc, bảo vệ vữngchắc Thanh Hoá. Ông cũng đă hết sức chăm lo triều chính, lập chế độ thuế khoá, khuyếnkhích nghề nông, mở rộng thi cử để chọn nhân tŕi... Ông là ông tổ của dòng chúa Trịnh;Nhữ Bá Sĩ (1787 - 1867) - Người làng Cát Xuyên (Hoằng Cát, Hoằng Hoá), đỗ cử nhânnăm 1821, xin cáo quan về quê dạy học, sau đó ông mưu việc chống Pháp, việc chưathành thì mất. Ông là người có học vấn uyên thâm, viết sách về giáo dục, văn hoá, lịchsử... tiêu biểu nhất là tác phẩm Việt sử tam bách vịnh, Thanh Hoá tỉnh chí;
Trần XuânSoạn (1849 - 1923) - Quê ở làng Thọ Hạc, TP Thanh Hoá, do chiến công làm tới Ðề đốcnăm 1885, ông được phái kháng chiến trong triều đình Huế giao chức đề đốc quân vụcùng Tôn Thất Thuyết tổ chức chống Pháp. Khi về Thanh Hoá, ông cùng các lãnh tụnghĩa quân lập căn cứ Ba Đình, Mã Cao... và được giao nhiệm vụ đóng quân ở ThạchThành hỗ trợ cho Ba Ðình;
Nguyễn Chích (1382-1448) - Danh tướng, khai quốc côngthần thời Hậu Lê, quê Thanh Hoá. Xuất thân từ cảnh nghèo khổ nhưng vốn mạnh mẽ,linh hoạt, nồng nàn yêu nước, ông chiêu tập hàng ngàn người trong vùng, xây đồn đắpluỹ làm căn cứ kháng chiến chống giặc Minh. Sau đó, đem quân phò giúp Lê Lợi cho đếnkhi khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng năm 1427. Tận tụy phục vụ 3 đời vua Lê (Thái Tổ,Thái Tông, Nhân Tông), ông xứng danh đại thần với chức Tổng quản, lừng lẫy với những
chiến công đánh quân Minh phía Bắc, giặc Chiêm Thành phương Nam và dẹp yên nhiềucuộc phản loạn nội bộ; Lê Tư Thành (1442-1497) - Vị vua xuất sắc nhất thời Hậu Lê,hiệu Thánh Tông, quê Thanh Hoá. Thông tuệ, phong nhã, tài đức vẹn toàn, được các cậnthần đưa lên ngôi năm 18 tuổi. Với những cải cách toàn diện và phát triển vượt bậc vềkinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, giai đoạn ông cầm quyền (1460-1497) được coi là thờikỳ thịnh vượng nhất của chế độ phong kiến Việt Nam. Ông còn là nhà thơ lớn, lập ra hộithơ Tao Đàn danh tiếng và để lại nhiều tác phẩm giá trị: Hồng Đức quốc âm thi tập, Cổ Cổtân bách vịnh, Văn minh cổ suý, Xuân vân thi tập…;
Nguyễn Phúc Nguyên - Sinh nămQuý Hợi 1563, quê gốc Thanh Hóa, chúa thứ hai nhà Nguyễn. Thông minh, năng động,từng trải, nhiệt tình giúp cha khởi nghiệp và năm 1624 kế vị ngôi chúa. Nhân từ, cẩn thậnlại mềm mỏng, khéo léo, ông thu hút nhiều người tài và được dân chúng mến yêu gọi làchúa Phật, chúa Sãi. Nhờ ông mà bờ cõi phương Nam được mở rộng, thế lực họ Nguyễnlớn mạnh, góp phần tạo dựng Vương triều Nguyễn sau này.Ngoài những người thực, việc thực kể trên, Thanh Hóa còn có các huyền thoại thú vị: Từ Thức - Người đời nhà Trần, quê ở Hà Trung, đã lên tiên giới ở do một tiên cô là GiángHương chỉ dẫn. Ðộng tiên nơi Từ Thức đi vào nay ở xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn; MaiAn Tiêm - Thời Hùng Vương, Mai An Tiêm đã cùng vợ con cải thiện đảo hoang nơi bịđầy ải để tồn tại và phát triển, người nhân giống cây dưa hấu đầu tiên ở nước ta. Núi cósự tích Mai An Tiêm hiện ở Nga Thiện - Nga Sơn; Chúa Chổm - Tên truyền thuyết củavua Lê Anh Tôn (1556 - 1573). Đồn rằng ông vua này thuở hàn vi nợ tiền rượu chè kinhkhủng nhưng lại đem lại điều may mắn cho những người đi chợ, bán hàng. Chúa Chổmngười Cầu Bố nay thuộc thành phố Thanh Hoá.Vậy mà ai đó đã khắc họa quê tôi bằng một bài vè:
Thanh Hóa quê ta
Khu Bốn gạt ra,
Khu Ba đuổi vào,
Thử chạy sang Lào
Lào không thèm nhận.
Bực mình tức giận,
Lập quốc gia riêng.
Thủ đô thiêng liêng
Là miền Nông Cống
Quốc ca chính thống,
"Dô tá dô tà"
Nông nghiệp nhà nhà,
Trồng cây rau má.
Biển khơi lắm cá
,Mười mẻ một cân
,Vang tiếng xa gần,
Nem chua toàn lá.
Còn công nghiệp hoá,
Là phá đường tàu,
Đục ống dẫn dầu,
Cắt dây điện thoại.
Thiên nhiên ưu đãi,
Lũ lụt triền miên.
Trù phú nhất miền,
Là đất pha cát.
Rừng xanh bát ngát,
Có rặng phi lao,
Cát bay rào rào,
Gió Lào hôi hổi.
Công trình nổi trội,
Vượt cả núi non,
Có cái cầu con,
Gọi là cầu bố.
Mấy cây lố nhố,
Thì gọi rừng thông
Phải chăng quê tôi bị người nguời giễu cợt.
Không, tôi cho rằng bài vè trên do chínhngười Thanh Hóa sáng tác. Có người còn bảo nhà thơ xứ Thanh hiện đại nổi tiêngNguyễn Duy chính là tác giả. Nó biểu lộ cái chất trào lộng khí phách Trạng Quỳnh.
Nhại bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” của Lý Thường Kiệt như dưới đây thì hẳn làngười Thanh Hoá rồi:
Thanh Hoá sơn hà nam dốc xây
Tiệt nhiên định phận tại nơi đây
Tại sao báo chí lại xâm phạm
Chúng bay sẽ bị thất bại ngay.
Dẫu thế nào đi nữa tôi vẫn yêu Thanh Hóa, tự hào về Thanh Hóa. Chỉ tiếc rằng tôi chưalàm được gì nhiều cho Thanh Hóa. Tôi thể hiện nỗi ân hận ấy qua bài thơ sau đây:
TỰ TÌNH
Ngày sinh tôi
Mẹ nuôi bằng bầu sữa hăng hăng mùi rau má
Thậm thình nhịp chèo sông Mã
Bước chân voi ngạo nghễ
Triệu Trinh Nương
Phần phật cờ bay Lê Lợi, Nguyễn Hoàng
Tôi lớn lên
Sức không tày ông Bưng vác núi Đường Trèo (*)
Trí không sánh Trạng Quỳnh “vũ quá Bắc Hải” (**)
Nhưng quê hương đói nghèo xát lòng nhức nhói
Huyết quản chảy dòng sông lồng vó ngựa hoang
Tôi rời xóm rời làngThuở xung phong đầu quân đánh giặc
Thuở miệt mài làm địa chất
Mấy mươi năm dầu dãi nắng sương
ấy mươi ngàn đêm chong mắt bên đèn
Ít trang thơ gửi đời nỗi lòng thao thức
Mươi công trình khoa học đã đem dâng
*Đêm nay bên sông vọng nhịp hò khoan
Vẫn thậm thình cay cực“
Chẳng dậm thì thuyền chẳng đi
Dậm ra ván nát thuyền thì long đanh”
Thuyền đà long đanh, ván thì đã nát
Sữa người chèo đò mùi rau má vẫn hăng hăng
Rạo rực cùng sông vật vã
Nát lòng thương quê nghèo khổ
Mà hận sao mình đã vội già!
Ngày về thắp hương cuối năm mộ ông bà
Hoằng Hóa 17. 01.2014(*)
Theo truyền thuyết, ông Bưng, quê xã Hoằng Quỳ, huyện Hoằng Hóa, sức khỏe phithường đã vác cả núi Đường Trèo từ giáp giới Ninh Bình về đặt ở ruộng “Thác đao” màông được nhà vua phong tặng.. Có tài liệu cho rằng ông Bưng là nhân vật Lê PhụngHiểu được huyền thoại hóa (**) Trạng Quỳnh, người xã Hoằng Bột, huyện Hoằng Hóa, một lần chéo đò đưa đoàn sứTầu qua sông. Ra giữa dòng một tên xổ ruột đánh cái “bùm”. Tên sứ Tàu xướng lên câuđối: “Lôi động Nam bang” (Sấm động nước Nam). Trang Quỳnh liền vạch quần đái vọtcần câu, họa: “Vũ quá Bắc Hải” (Mưa qua Biển Bắc)
NGUYỄN THANH GIANG
BS. NGUYỄN Ý-ĐỨC * ĐIỆN THOẠI DI ĐỘNG
Vấn đề xử dụng điện thoại di động
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức
Điện thoại di động đã trở thành một phương tiện cần thiết cho con người trong mọi xã hội năng động, di chuyển hiện nay. Nó được sử dụng trong nhiều liên lạc, từ dịch vụ thương mại, giao tế nhân sự, tới hẹn hò yêu đương hoặc băng đảng tội lỗi. Với điện thoại di động, ta có thể nói chuyện được với khắp nơi trên trái đất, từ chốn thâm sơn cùng cốc tới vùng biển cả xa xôi, miễn nơi đó có máy.
Cho tới nay, theo ước lượng, có khoảng gần 700 triệu người dùng điện thoại di động trên thế giới, và con số có thể tăng lên đến một tỷ rưỡi vào năm 2005. Ở Mỹ, cứ 10 người, có 4 người sử dụng điện thoại di động, và vào năm 2000, đã có trên 100 triệu người sử dụng, so với 5 triệu vào năm 1990. Theo ước đoán của David Pearce, Chủ biên tạp chí The Futurist, chỉ mươi mười lăm năm nữa, 80% dân chúng Mỹ sẽ có cell phone và họ chỉ dùng điện thoại không dây này mà thôi. Có người còn hài hước nghĩ, với đà này, trong tương lai khi sanh ra, mỗi đứa bé sẽ được cho một số điện thoại, như số thẻ căn cước, thay cho Số An Ninh Xã Hội.
Cell phone phổ biến, công dụng như vậy, song vài năm gần đây giới tiêu thụ đã trở nên rất bối rối vì những tin tức khác nhau về sự có hoặc không nguy hại của máy. Đã có nhiều kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng xấu cho sức khỏe do phóng xạ của điện thoại di động. Nhưng giới tiêu thụ, vì nhu cầu, vẫn dùng mặc dù cho tới nay chưa có giải đáp dứt khoát nào về vấn đề này.
Điện thoại di động
Điện thoại di động mà ta còn gọi là cell phone, điện thoại cầm tay handies hoặc cellular phone, là loại điện thoại có gắn antenne trong máy, với bộ phận phát điện và thu phát tín hiệụ Máy phát ra một lượng rất nhỏ vi ba phóng xạ. Khi nói, toàn bộ máy được áp sát vào tai.
Khái niệm về cell phone đã manh nha từ thập niên 1950. Tới năm 1977 thì công ty AT&T làm ra một cell phone mẫu. Năm 1979, máy được bán ở Nhật. Năm 1981, công ty Motorola Hoa Kỳ cho ra một loại cell phone tối tân hơn. Hiện nay cell phone được trang bị dưới dạng digital. Chỉ mới hơn ba chục năm mà cell phone đã có một thị trường vững vàng trên khắp thế giới. Nhưng bão tố cũng bắt đầu đến với cell phone.
Sóng gió trên cell phone
Câu chuyện bắt đầu với một chương trình của đài BBC Luân Đôn, cách đây mấy năm, công bố kết quả nghiên cứu của bác sĩ Lennart Hardel bên Thụy Điển: một bệnh nhân bị ung thư não, về phía đầu mà người này thường xuyên áp điện thoại di động để nói và nghe. Vị bác sĩ này cho hay rằng điện thoại di động có tác dụng không tốt tới sức khỏe con người và vấn đề cần được làm sáng tỏ bằng các nghiên cứu khoa học khách quan. Trong khi chờ đợi kết quả, ông ta đề nghị mọi người nên giới hạn sự tiếp cận với nguồn phóng xạ từ điện thoại di động. Trong chương trình này, kết quả một nghiên cứu tương tự ở Mỹ về liên hệ giữa phóng xạ từ điện thoại di động với tổn thương của nhiễm thể tế bào cũng được đài công bố.
Bác sĩ Goerge Carlo, trước đó hợp tác với American Cellular Industry, quả quyết rằng, kỹ nghệ cell phone hiện đang ở vào tình trạng báo động và không còn là lúc đưa ra những lời tuyên bố lững lờ, nước đôi về sự an toàn của cell phone.
Tháng 5 năm 1999, bác sĩ Mild công bố kết quả một nghiên cứu từ Thụy Điển cho hay sử dụng điện thoại di động đưa đến nhiều triệu chứng như nhức đầu, mệt mỏi, chóng mặt, mất trí nhớ, nóng bỏng trên da và lắng nghe khó khăn. Theo ông ta, người dùng cell phone 30 phút mỗi ngày thì hay than phiền là mau quên nhiều gấp đôi so với người chỉ dùng dưới hai phút; người dùng ba bốn lần trong ngày thì bị nhức đầu gấp ba người chỉ dùng hai lần trong ngày. Điều cần ghi nhớ là thiếu niên bị các triệu chứng trên nhiều hơn người lớn.
Trước đó, vào tháng 5 năm 1998, các nghiên cứu tại Thụy Điển, Na Uy và công ty điện thoại Scandinavian cũng đưa ra các nhận xét tương tự.
Nhiều người nghe điện thoại tự động áp vào tai than phiền trên da nổi lên một vết đỏ, đau, cứng có bề lớn bằng chiếc điện thoại mà họ đang dùng. Công ty sản xuất Microshield kể trường hợp một người máng điện thoại vào hông và bị ung thư cột sống lưng, ngay chỗ mang điện thoại.
Những giải thích
Theo viện Ung Thư Hoa Kỳ, các đồ điện trong nhà như T.V, microwave oven, chăn và nệm điện, máy sấy tóc, quạt trần, đồng hồ điện báo thức cũng phát ra từ trường điện tương tự như cell phone.
Theo giải thích của World Health Organization (WHO), thì các phóng xạ từ cell phone rất nhỏ, khoảng 0.2-0.6 watt, thuộc loại không gây ra xáo trộn cho tế bào con người như quang tuyến X.
Phóng xạ này tan biến trong không gian, tùy theo khoảng cách giữa máy và cơ thể. Cũng theo WHO, phóng xạ này khi xâm nhập cơ thể, sẽ tạo ra một sức nóng rất nhẹ mà cơ chế điều hòa thân nhiệt có thể hóa giải dễ dàng. WHO cũng nhận rằng có nhiều nghiên cứu nói phóng xạ của cell phone làm thay đổi sinh hoạt điện năng não bộ, giảm thời gian phản ứng, gây vài xáo trộn giấc ngủ, nhưng rất ít và không tạo ra khó khăn gì cho người sử dụng cell phone. WHO kết luận là các phóng xạ đó chưa chắc đã gây ra ung thư não và sẽ tài trợ để các khoa học gia nghiên cứu thêm.
Các nhà sản xuất cell phone cho hay là điện thoại di động an toàn vì đã được làm đúng theo tiêu chuẩn do chính quyền đưa ra. Tiêu chuẩn đó gồm ảnh hưởng của nhiệt do cell phone phát ra và các vi ba từ trường được phân phối ra hết cả đầu. Chương trình truyền hình ABC 20/20 cho hay là tiêu chuẩn của chính quyền có nhiều kẽ hở mà các nhà sản xuất điện thoại di động qua mặt dễ dàng.
Trong khi đó thì Chủ tịch công ty điện thoại di động vĩ đại Ericsson khẳng định rằng sẽ có nhiều người sử dụng điện thoại di động để nối tiếp với mạng lưới, thay vì dùng điện thoại có dây trong nhà, vì tiện lợi hơn.
Cơ quan Federal Communication Commission Hoa Kỳ cho hay là cho tới nay, chưa có bằng chứng nào kết luận rằng điện từ trường có hại cho sức khỏe. Chuyên viên Ed Mantiply của cơ quan này cho hay, là cơ quan đã đặt ra một tiêu chuẩn cho phóng xạ từ điện thoại di động, giống như giới hạn tốc độ lái xe tự động. Không có gì bảo đảm là dưới giới hạn đó chúng ta sẽ an toàn và trên giới hạn đó là nguy hiểm. Cơ quan khuyên dân chúng áp dụng nguyên tắc là cầm xa máy một inch nếu máy phát ra một watt năng lượng, nếu máy phát ra 10 watts thì ở cách xa máy mười inches. Nhưng các nghiên cứu cho hay, ngoài sức nóng, cell phone còn phát ra các phóng xạ có hại, đồng thời các phóng xạ này phát ra từng lúc mạnh yếu khác nhau nên có hại hơn là phát ra liên tục.
Cơ quan Food and Drugs Hoa Kỳ có trách nhiệm về sự an toàn thực và dược phẩm, các mỹ phẩm, trang bị điện tử trong nhà thì nói: cell phone phát ra một lượng điện từ trường không đáng kể và kết quả nghiên cứu chưa xác định nó có hoặc không có hại. Và cơ quan khuyên dân chúng áp dụng các phương pháp đề phòng thường lệ.
Tập san International Journal of Oncology tháng Năm 1999, đăng kết quả nghiên cứu trên 600 người dùng điện thoại di động cho hay không có bằng chứng gì về vụ gây ung thư não vì phóng xạ từ điện thoại này.
Ảnh hưởng trên sức khỏe
Nhưng phe quan tâm tới ảnh hưởng phóng xạ từ điện thoại di động vẫn không hài lòng với giải thích của chính quyền và của các công ty sản xuất cell phone. Họ vẫn quả quyết là phóng xạ này rất hại cho cơ thể.
Phóng xạ điện từ trường thoát ra từ điện thoại di động khi mở máy và khi điện đàm. Vi ba phóng xạ xâm nhập xương sọ, vào não bộ, mắt, mũi và các tế bào trên mặt. Một bác sĩ Đan Mạch có nói: “Chắc không có ai muốn đút đầu vào lò hâm thực phẩm vi ba, nhưng nhiều người lại hân hoan áp chiếc điện thoại di động sát vào tai, vào đầu”. Microwave oven cũng phát ra những vi ba phóng xạ như điện thoại di động.
Bác sĩ Bruce Hocking đã tường trình trước Thượng Viện Úc Đại Lợi rằng, người sử dụng điện thoại cầm tay có thể bị tổn thương da chung quanh vành tai với cảm giác khác thường ở trong đầu, mấy phút sau khi họ quay số điện thoại và kéo dài có khi cả mấy tiếng đồng hồ. Ngoài ra họ còn cảm thấy buồn ói, rối loạn thị giác cũng như có vài dấu hiệu thần kinh khác. Theo ông, đây không phải là do tưởng tượng, mà là có thực vì được phát hiện ở nhiều người khác nhau, trên khắp thế giới khi họ dùng cell phone.
Cơ Quan Y Tế Thế Giới cũng đề cập tới vấn đề tia phóng xạ của điện thoại di động trên sức khỏe và khuyên dân chúng nên giới hạn sử dụng, nên dùng hands free devices, giữ điện thoại xa cơ thể. Cơ quan này đã tài trợ 4 triệu mỹ kim để nghiên cứu ảnh hưởng của tia phóng xạ từ điện thoại di động.
Các nghiên cứu gia bên Anh Quốc báo động là trẻ em dùng nhiều điện thoại di động có thể gặp khó khăn trong vấn đề tăng trưởng với đầu nhỏ. Công ty Hỏa xa Nhật yêu cầu khách giảm dùng điện thoại di động trên xe lửa để tránh ảnh hưởng tới các y cụ mang trên cơ thể một số hành khách trên tầu như pacemaker, trợ thính cụ... Theo kết quả điều tra bên Đức thì phóng xạ vi ba từ cell phone làm tăng huyết áp vì các mạch máu co thu dưới tác dụng của phóng xạ. Báo Daily Mail ngày 13 tháng 12 năm 1999 đăng tin các nghiên cứu bên Anh cho hay sử dụng cell phone có thể đưa tới thất thoát chất huyết cầu tố từ hồng huyết cầu và gây ra bệnh tim và sạn thận.
Phóng xạ từ điện thoại di động có thể làm giảm trí nhớ ngắn hạn và đột nhiên mất định hướng. Phóng xạ từ cell phone cũng ảnh hưởng tới hệ thống miễn dịch, theo khoa học gia Roger Cogwill. Các khoa học gia của Karolinska Institute bên Thụy Điển đang nghiên cứu về hậu quả này.
Người mang kính mà dùng cell phone thì ảnh hưởng của phóng xạ vào mắt tăng 20%, vào đầu tăng 6%, lý do có thể là do khung kính đeo mắt bằng kim loại thu hút nhiều chất phóng xạ hơn. Nhiều người có răng trám bằng kim loại than phiền có cảm giác nóng nóng trong miệng và đau nhức răng khi nói chuyện trong cell phone. Theo báo Úc Sunday Telegraph ngày 2 tháng 5 1999, phóng xạ từ điện thoại di động gây ra khuyết tật cho trên 10.000 con gà con vì trứng tiếp cận với chất phóng xạ này.
Hội nghị về ảnh hưởng phóng xạ từ cell phone, họp tại Vienne vào tháng Giêng năm 1999, đi đến một nghị quyết chung là ảnh hưởng sinh học phát ra từ radio wave, microwave là có thực và cần được khoa học kiểm chứng.
Các bác sĩ Henry Lai và NP Singh, University of Washington, Seattle, cho hay khi sử dụng cell phone, có tới 50% DNA bị hư hao vì chất phóng xạ từ máy và ông ta cáo giác là các nhà sản xuất cell phone đã yêu cầu ông thay đổi kết quả của nghiên cứu tới hai lần. Nghiên cứu lại do chính các công ty điện thoại tài trợ, nhưng khi thấy kết quả bất lợi họ yêu cầu ông ta thay đổi.
Vấn đề với các trụ phát tín hiệu cho điện thoại di động ở vùng dân cư đông đúc cũng được nêu lên. Bên Anh, nhiều nghiên cứu cho hay, sống gần và dưới ảnh hưởng của đường dây điện có nhiều nguy cơ ung thư phổi vì các tia phóng xạ ô nhiễm dính với nhau và đọng trong phế nang. Theo tổ chức nghiên cứu các loài chim ở Thụy Sĩ, ngay cả chim khi bay quanh quẩn trụ phát tuyến cũng bị lạc đường vì mất định hướng dưới ảnh hưởng của điện từ trường.
Công ty bảo hiểm với cell phone
Vào tháng Bẩy năm 2000, một bác sĩ chuyên khoa thần kinh Hoa Kỳ đã kiện công ty Motorola và các công ty điện thoại di động khác, đòi bồi thường 800 triệu mỹ kim vì ông ta bị ung thư não gây ra do phóng xạ từ điện thoại di động. Kỹ sư Robert Kane làm việc cho Motorola kiện công ty vì bị ung thư óc trong thời gian thử nghiệm antenne cell phone cho công ty. Một vụ kiện Motorola khác do Dean Vincent Rittman bị ung thư não vì điện thoai di động cũng đang được thụ lý tại Texas.
Các công tư bảo hiểm từ chối bán bảo hiểm về hậu quả có thể xẩy ra do cell phone, vì họ cho rằng vấn đề này cũng tương tự như vấn đề chất cách nhiệt abestos, thuốc lá và dân bảo hiểm sẽ phải bồi thường nhiều tỷ mỹ kim. Theo công ty bảo hiểm Thụy Sĩ Swiss Re, căn cứ vào các dữ kiện hiện có thì các nạn nhân của cell phone có nhiều hy vọng thắng trong các vụ kiện. Công ty bảo hiểm lớn Lloyd bên Anh đã từ chối bán bảo hiểm liên can tới điện thoại di động.
Dụng cụ giảm phóng xạ
Trước sự lo ngại của giới tiêu thụ, nhiều trang bị che chở cơ thể, nhất là não bộ với phóng xạ từ cell phone đã được tung ra thị trường. Các công ty sản xuất mobile phone Hitachi, Ericsson, Alcatel tung ra các trang bị phụ hands free devices, Microshield để làm giảm phóng xạ phát ra từ điện thoại di động, ngõ hầu bảo vệ sức khỏe người dùng máy này. Chính các công ty sản xuất máy cũng phân phát Microshield cho nhân viên khi dùng điện thoại tự động, vì theo họ, dù chưa có bằng chứng xác đáng nhưng mọi người đều e ngại, che chở đề phòng thì cũng nên làm. Cảnh sát Luân Đôn được lệnh giới hạn dùng điện thoại di động dưới năm phút, đồng thời cũng được cung cấp dụng cụ che chở.
Các trang bị giảm phóng xạ này chẳng biết có công dụng gì không, nhưng theo nhiều người, lại có thể làm sự truyền tín hiệu thay đổi, khó nghe, điện thoại phải tăng cường độ, đưa dến nhiều phóng xạ hơn là làm giảm. Hands free devices thường dùng gồm có một cực nghe gắn vào lỗ tai, một cực thu âm thanh, nối với điện thoại bằng sợi dây điện. Khi máng ống nghe vào tai, chất phóng xạ cũng thất thoát ra ngoài đồng thời người nghe cũng có nhiều vấn đề trong lỗ tai.
Theo thống kê, có tới trên 60% người sử dụng điện thoại di động mua dụng cụ ngăn phóng xạ vì sợ chất này phát ra từ máy. Công ty sản xuất trang bị Microshield cho hay dụng cụ này thu hút tới 90% chất phóng xạ, mà nếu không có nó, sẽ chạy tuốt vào não của con người.
Nhãn hiệu báo động
Do sự đòi hỏi của dân chúng và với con số gia tăng mỗi ngày dùng điện thoại di động, các nhà sản xuất điện thoại Mỹ Motorola, Thụy Điển Ericsson, Nokia Phần Lan sẽ dán nhãn hiệu trên điện thoại ghi rõ số lượng chất phóng xạ do điện thoại di động phát rạ Phát ngôn viên Mikael Westmark của công ty Ericsson cho hay đây là vấn đề mà khách hàng rất quan tâm và công ty sẽ cung ứng các thông tin xác thực.
Cần phải làm gì?
Vấn đề của điện thoại di động đang được tranh luận, nghiên cứu. Chưa có kết luận nào xác quyết là cell phone tạo ra ảnh hưởng không tốt thì cũng chưa có chứng minh rằng cell phone an toàn. Người sử dụng cell phone bây giờ vô tình được dùng như là để thử nghiệm coi nó có nguy hại hay không. Cũng như thuốc Thalidomides cách đây mấy chục năm, vì không được nghiên cứu tính cách an toàn trước khi dùng, nên đã gây ra đau khổ cho nhiều gia đình với con khuyết tật. Hoặc như chất cách nhiệt abestos, đã gây ra biết bao nhiêu trường hợp ung thư phổi, mà cao độ phải mấy chục năm sau mới xuất hiện. Ung thư thường cần vài chục năm để phát sinh. Hoặc như ảnh hưởng của thuốc lá với ung thư phổi.
Nếu cơ thể có sức đề kháng mạnh thì vi ba phóng xạ từ cell phone không làm gì được, nhưng nếu yếu thì, mỗi ngày một ít, phóng xạ sẽ hủy hoại tế bào và trong trường kỳ, đưa tới bệnh hoạn. Không giống như khói thuốc lá, từ trường phóng xạ là chất vô hình, không mầu sắc, không mùi vị. Chúng âm thầm xâm nhập cơ thể nơi có tiếp cận và tạo ảnh hưởng xấu.
Nên khi đã có người nêu ra vấn đề, thì lúc sử dụng cell phone, ta cũng cần có một thái độ khôn ngoan, dè dặt:
- Không dùng cell phone khi có điện thoại loại thường.
- Dùng điện thoại thường bất cứ lúc nào có thể.
- Dùng trang bị phụ để khỏi áp điện thoại vào tai.
- Nói trên điện thoại di động càng ngắn càng tốt.
- Dùng loại điện thoại di động có antenne ở ngoài máy, xa đầu và não bộ.
- Ở nhà hoặc văn phòng, khi có ai kêu trên cell phone, thì kêu lại bằng điện thoại thường.
- Sử dụng tối đa máy nhắn tin pager.
- Mang máy điện thoại trong túi xách tay, chứ đừng bỏ trong túi áo, túi quần.
- Giới hạn sự sử dụng cell phone ở thiếu niên dưới 16 tuổi vì giới này bị ảnh hưởng xấu từ điện thoại di động nhiều hơn người trưởng thành.
Nhiều người cho rằng, sống trong xã hội hiện tại, con người có nhiều nguy cơ gặp hiểm nghèo thường xuyên. Lái xe nửa giờ mỗi ngày còn nhiều cơ hội xấu tới sức khỏe hơn là 10 phút nói trên điện thoại di động; vận động đi bộ có thể bị du đãng cướp bóc, đánh đập; uống thuốc chữa bệnh có thể bị phản ứng chết người; ăn tiệm có thể trúng độc; làm tình có thể thượng mã phong... Ôi đủ thứ nguy cơ! Nhưng tránh được nguy cơ nào thì vẫn hay hơn. Phòng bệnh hơn chữa bệnh mà.
An toàn lái xe
Một khía cạnh khác của điện thoại di động cũng đáng lưu tâm. Đó là việc điện đàm tâm sự ba hoa khi lái xe đã gây ra nhiều tai nạn chết người cho người lái và người khác. Số tử vong này có lẽ còn cao hơn là do phóng xạ và quá rõ ràng, khỏi cần tốn tiền nghiên cứu chứng minh lôi thôi.
Bài học căn bản lái xe là cần luôn luôn cảnh giác, thận trọng và ứng xử lịch sự. Đầu hướng về phía trước, mắt vừa nhìn đường, vừa ngó kính chiếu hậu và quan sát người lái chung quanh. Tôn trọng luật đi đường, giới hạn tốc độ và mang nịt an toàn. Nếu lại dùng cell phone, thì cũng tốt thôi, vì phương tiện này có nhiều ích lợi thực tiễn: giúp ta liên lạc với nhau, làm đời sống giản dị hơn, mang lại cấp cứu cho ta khi cần cũng như giúp người khác khi hoạn nạn. Tiện đấy nhưng cũng hại đấy. Nên cần đề phòng.
1.- Điện thoại bây giờ nó nhiều nút, nhiều cách dùng phức tạp, nhưng nếu làm quen được với chúng thì lại rất có lợi. Chẳng hạn nút kêu khẩn cấp, nút kêu lại tự động, nút số điện thoại thường kêu... mà khi cần, chỉ việc nhấn nút là điện đàm được.
2.- Sắm thêm trang bị phụ để khỏi phải lấy tay cầm áp điện thoại vào tai, dành hai tay cho bánh lái.
3.- Để điện thoại gần ngay chỗ mình ngồi, dễ lấy, không phải quay mình ra sau, đảo mắt tìm kiếm.
4.- Đang điện đàm mà thấy có bất an lưu thông như tai nạn trước mặt, mưa to chợt tới, nhiều xe cộ... thì ngưng ngay.
5- Giới hạn quay số điện thoại khi đang lái xe. Quay số khi xe ngừng đèn đỏ hoặc trước bảng stop. Nếu cần lắm, thì quay một nửa, nhìn đường rồi quay tiếp.
6.- Không ghi chép, tìm số điện thoại trong khi lái xe.
7.- Tránh nói chuyện gây nhiều xúc động mạnh trong lúc vừa lái vừa nói, vì ta rất dễ bị chia trí, gây ra tai nạn.
Phải chi mà ai ai, ngay cả mình, cũng cẩn tắc như vậy, thì đỡ việc cho Ông Tobia biết mấy!
Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC
HUY ĐỨC * TRÍ THỨC MIỀN NAM SAU 1975
Trí thức Miền Nam sau 1975.
Tác giả: Huy Đức “Bên Thắng Cuộc” (Một BCA gởi cho GNA)
Sau ngày 30-4-1975, Chu Phạm Ngọc Sơn là một nhà chuyên môn hợp tác toàn diện với chế độ. Ông và một số nhà khoa học khác thường không câu nệ khi nhận các đơn đặt hàng thực hiện những công trình “khoa học” phục vụ nhu cầu chính trị. Theo Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh Huỳnh Kim Báu: “Những năm ấy, các trí thức Sài Gòn vẫn nhận được điện thoại từ Văn phòng Thành ủy hỏi xem: ‘Có công trình khoa học chào mừng 3-2 hay 19-5 không?’. Những Giáo sư như Phạm Biểu Tâm, Lê Văn Thới thì mắng ngay: ‘Không có thứ khoa học nào gọi là khoa học chào mừng cả’. Nhưng một số người khác thì có, người thì làm ra chất tẩy rửa ‘pentonic’, người chứng minh ‘ăn mấy ký khoai mì bổ bằng một ký thịt bò’, người thì ‘ăn bo bo nhiều dinh dưỡng hơn cả gạo’. Nhưng ngay cả những ‘nỗ lực’ đó cũng không giúp kiến tạo được lòng tin”.
Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn kể: “Nhìn vào lý lịch, thấy trước đây năm nào tôi cũng đi Mỹ nghiên cứu hoặc đi dạy, người ta cứ thắc mắc sao đi Mỹ quá trời. Tôi nộp đơn xin vô Hội Trí thức Yêu nước, mấy lần bị từ chối”. Năm 1980, trong thời gian Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn đi Liên Xô, một người con của ông vượt biên không thành. Người con gái của ông cũng cảm thấy bế tắc khi thi không đậu vào dự bị y khoa. Biết chuyện, ông Võ Văn Kiệt thỉnh thoảng qua lại, trò chuyện, khi hiểu thêm nội tình, ông nói với Giáo sư Sơn: “Thôi, anh cứ để cho cô ấy và mấy cháu đi, đi chính thức. Bên đó có điều kiện cho các cháu học hành. Sau này nếu các cháu trở về thì tốt, nếu không, tôi với anh cũng được làm tròn bổn phận”.Ông Huỳnh Kim Báu kể: Sau giải phóng, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn vào Sài Gòn, sau khi nghe Mai Chí Thọ, Trần Trọng Tân báo cáo tình hình, ông nói: “Nãy giờ có một chiến lợi phẩm rất lớn mà các đồng chí không đề cập, đó là lực lượng trí thức được đào tạo từ nhiều nguồn. Lenin nói, không có trí thức là không có xã hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên, theo ông Huỳnh Kim Báu, cách mà chính quyền sử dụng trí thức chủ yếu là “làm kiểng”.
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ tuy ở thời điểm đó vẫn còn là hiệu phó Đại học Khoa học, nhưng theo ông Báu: “Đấy chỉ là một chức vụ bù nhìn, không có vai trò gì trong giáo dục”. Giáo sư Hộ là hiệu phó nhưng không phải đảng viên, nên khi có vấn đề gì thì những người trong Đảng họp riêng, quyết định xong, có việc nói vớiông, có việc ông không bao giờ được biết. Từ rất sớm, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã phản đối cách đào tạo đưa thời gian học chính trị quá nhiều vào chương trình. Ông cảnh báo: “Nếu chính trị can dự quá mạnh, các nhà khoa học sẽ mất căn bản”.Giáo sư Phạm Hoàng Hộ nói lên điều này sau khi chính ông đã được trải nghiệm trong những ngày học chính trị. Năm 1977, một lớp học kéo dài mười tám tháng về “Chủ nghĩa xã hội khoa học” dành riêng cho các trí thức miền Nam đã được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Võ Ba, người tham gia tổ chức lớp học này, kể: “Chính quyền tưởng rằng sau lớp học sẽ có được một tầng lớp trí thức của chế độ cũ yêu mến và phụng sự chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nếu như Marxism đã từng được các trí thức miền Nam quan tâm như là một môn khoa học thì giờ đây họ lại nghe những giảng sư miền Bắc nói về Marx hết sức giáo điều. Chưa kể, những người đứng lớp còn rao giảng với tư thế của người chiến thắng, tự tôn, tự đắc”. Những đảng viên tham gia lớp học như ông Võ Ba cũng thừa nhận: “Trước giới trí thức Sài Gòn, chính quyền đã thất bại ngay trong lần trình diễn đầu tiên”.
Chưa kết thúc lớp học, Tiến sỹ Nguyễn Văn Trung, một giáo sư triết học nổi tiếng của Sài Gòn, một người được coi là “hằn học với Giáo hội”, đã coi cộng sản cũng là “một giáo hội”. Tiến sỹ Nguyễn Văn Trung cho rằng hình thức “kiểm điểm” mà cộng sản áp dụng trong sinh hoạt chính là một thứ “xưng tội man rợ”. Về đường lối, ông cho rằng: “Có thể có những điều Lenin nói đã đúng vào năm 1916, nhưng sau bảy mươi năm mà ta áp dụng là không lý trí”. Còn Giáo sư Châu Tâm Luân thì khi nghe các giảng sư miền Bắc say sưa nói về con đường “tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản” đã mỉa mai: “Sao không tìm hiểu xem sau chủ nghĩa cộng sản là gì để nhân tiện bỏ qua, mình bỏ qua luôn hai, ba bước”. Giáo sư Châu Tâm Luân lấy bằng tiến sỹ về kinh tế nông nghiệp ở Đại học Illinois, Mỹ, năm hai mươi lăm tuổi, trở về dạy cùng lúc ở hai trường đại học Minh Đức và Vạn Hạnh. Ông là một trong những trí thức phản chiến hàng đầu, bị chế độ Sài Gòn bắt giam đầu năm 1975 cho tới những ngày cuối tháng 4-1975 mới được Chính quyền Dương Văn Minh thả ra. Giáo sư Châu Tâm Luân là một thành viên của nhóm “sứ giả” được ông Dương Văn Minh phái vào trại Davis300 và được giữ lại ở đây cho đến trưa ngày 30-4-1975. Sau giải phóng, chính quyền xếp ông vào diện “người của ta”. Ông là đại biểu khóa I Hội đồng Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời là ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Về phía mình, Giáo sư Châu Tâm Luân cũng là một trong những trí thức kỳ vọng nhiều vào chế độ mới. Mấy tháng “sau giải phóng”, giá cả sinh hoạt tăng vọt lên, trong khi dân tình lo âu thì ông lại cho là giá tăng vì “tâm lý”, giống như cách giải thích thời ấy của chính quyền301. Sau khi cho rằng nhà nước không thể dùng ngoại tệ để nhập hàng như trước đây, Giáo sư Châu Tâm Luân viết: “Giờ đây không còn bọn tay sai đem máu của con em nhân dân đổi lấy đô la nữa thì cần phải tiết kiệmtối đa số ngoại tệ mà dân phải lao động đổ mồ hôi mới đem về được cho quốc gia… Vì vậy ngoài sự tiếp tay chánh quyền kiểm soát gian thương, chúng ta cũng cầnkềm hãm bớt kẻ địch ở ngay trong lòng mình…”302.
Khi trao cho Giáo sư Châu Tâm Luân nhiều trọng trách, Chính quyền nghĩ đơn giản ông là người “dùng” được. Nhưng, cũng như nhiều trí thức Sài Gòn, ông đã không hành xử như là một công cụ. Từ năm 1976, Giáo sư Châu Tâm Luân không được đứng lớp vì kiến thức kinh tế của ông là “kinh tế tư bản”, tuy nhiên, ông vẫn còn được để ngồi trong Hội đồng Khoa học của trường. Chỉ ít lâu sau, Đảng ủy trường nhận xét ông muốn “tranh giành lãnh đạo với Đảng”.
Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tôi ngạc nhiên, chế độ cũ hai lần giao chức cho tôi mà tôi có màng tới đâu”. Nhưng té ra vấn đề không phải là “ghế”, mà là những ý kiến của ông ở Hội đồng Khoa học luôn luôn khác với ý kiến của chi bộ. Trong một cuộc họp, khi nghe ông Đỗ Mười thao thao nói về “hợp tác hóa”, về chủ trương phải đưa những người bần cố nông lên làm lãnh đạo hợp tác và “phải đào tạo họ”, Giáo sư Luân hỏi: “Nhà nước định đào tạo trong bao lâu?”. Ông Đỗ Mười nói: “Tình hình gấp rút, đào tạo ba ngày”. Giáo sư Châu Tâm Luân nhớ lại: “Tôi bắt đầu ngao ngán vì muốn thay đổi thì phải bắt đầu từ cái đầu mà… những ‘cái đầu’ thì như thế”. Sau lần gặp ông Đỗ Mười, nhà kinh tế nông nghiệp Châu Tâm Luân được đưa về Viện Khoa học Xã hội.
Không chỉ có những đụng độ tại cơ quan. Ở Hội đồng Nhân dân, Giáo sư Châu Tâm Luân là trưởng Ban Nông nghiệp. Trong một phiên họp toàn thể thảo luận về các chương trình khoa học của Thành phố, sau khi nghe ông Luân tranh luận, một đại biểu trong Hội đồng mặc quân phục đứng dậy xin ngưng cuộc cãi vã, và lớn tiếng: “Các chuyên viên đã để ra rất nhiều thời giờ soạn thảo, đại biểu đó tư cách gì mà đòi sửa qua sửa lại”. Ông Luân cố dằn lòng: “Tôi xin ngưng cuộc thảo luận, bởi như vị đại biểu vừa nói, đã có các chuyên viên nghiên cứu cho chúng ta rồi thì chúng ta chỉ còn là chuyên viên giơ tay thôi”. Chủ trì phiên họp, ông Mai Chí Thọ không nói gì, chỉ yêu cầu biểu quyết. Nhìn thấy ông Luân không giơ tay, ông Mai Chí Thọ hỏi: “Ai không chấp thuận?”. Ông Luân cũng không giơ tay, ông nói: “Toàn thể chấp thuận, một phiếu trắng”.Một số cán bộ cách mạng tốt bụng bắt đầu lo lắng cho vị giáo sư trẻ tuổi này, một trưởng Ban Đảng khuyên: “Tôi sáu mươi tuổi, người ta vẫn xem tôi như con nít, phải ăn nói thận trọng lắm. Anh nhớ, anh chỉ mới hơn ba mươi tuổi”. Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tại diễn đàn của Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tôi đề nghị phải áp dụng ‘kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước’. Ông Xuân Thủy nghe, nói với tôi: ‘Anh phải có người đỡ đầu, anh về nói với Sáu Dân đi’. Tôi trả lời ông Xuân Thủy: ‘Nếu tôi nói đúng thì các anh phải nghe chứ sao lại cần người đỡ đầu?’.
Sau đó, ông Mai Chí Thọ nhắc: ‘Cậu đúng, nhưng áp dụng như vậy thì phức tạp quá, làm sao chúng tôi quản lý được. Muốn làm phải có những người như cậu. Mà nói thật chúng tôi chưa thể tin hoàn toàn những người như cậu’”.Theo ông Luân: “Những năm ấy, tôi chê ông Võ Văn Kiệt nhát, ‘xé rào’ là vá víu; phải ‘phá vỡ’ để áp dụng kinh tế thị trường chứ không thể phá những đoạn rào. Ông Mai Chí Thọ nghe, nhắc: ‘Phải giữ chính quyền trước hết, chính sách sai thì còn sửa được chứ mất chính quyền là mất hết’. Về sau tôi mới thấy ông Mai Chí Thọ đã nói rất thật lòng, họ đã ngủ rừng hàng chục năm để có chính quyền, làm sao họ để mất cái mà họ vừa giành được đó”.
Hai vợ chồng Giáo sư Châu Tâm Luân đều học ở Mỹ. Trước năm 1975, gia đình ông đã định cư ở một nước Bắc Âu, nhưng cả hai đều chọn con đường về nước. Sau năm năm cố gắng chòi đạp trong chế độ mới, ông không tìm thấy một cơ may thay đổi nào. Đầu năm 1979, ông vẫn còn được trả lời phỏng vấn các phóng viên nước ngoài, nhưng càng về sau thì không thấy nhà báo nào gặp ông nữa. Giáo sư Châu Tâm Luân nói: “Tôi bắt đầu có dự cảm bất ổn. Khi tình cờ gặp một vài phóng viên, nghe họ nói mấy lần đến Việt Nam xin gặp tôi đều được chính quyền trả lời là Giáo sư Châu Tâm Luân đang đi công tác xa. Tôi biết tôi đang dần dần bị cô lập”.
Dù từng hoạt động trong các phong trào chống đối dưới chế độ Sài Gòn, ông Huỳnh Kim Báu vẫn phải thừa nhận: “Trước 1975, mặc dù chính quyền bị coi là bù nhìn, nhưng trí thức vẫn được trọng dụng, họ có quyền thực sự trong chuyên môn. Sau giải phóng, chính quyền được nói là của mình nhưng trí thức gần như chỉ được dùng như bù nhìn, trong khi đa phần họ là những người khảng khái”.
Năm 1977, có lần hệ thống nước máy của Thành phố bị đục, ông Võ Văn Kiệt mời các nhà trí thức tới hiến kế. Nhiều người phát biểu, riêng ông Phạm Biểu Tâm ngồi im. Ông Kiệt hỏi: “Sao vậy anh Tâm?”. Ông Phạm Biểu Tâm nguyên là chủ tịch Hội Sinh viên Hà Nội trước 1945. Năm 1963, con gái Ngô Đình Nhu là Ngô Đình Lệ Thủy thi y khoa đã bị ông đánh rớt dù bị nhà Ngô gây áp lực. Ông là một nhà giáo được sinh viên kính nể. Ông Tâm được nói là rất quý ông Kiệt, nhưng có lẽ do quá bị dồn nén, ông đứng dậy nói: “Từ ngày mấy anh về, cái đầu trí thức khỏe, vì cái gì cũng đã có mấy anh nghĩ hết. Nước là chuyện mấy anh đâu phải chuyện tụi tui”.Một thời gian sau, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ trả lại chức hiệu phó. Trường sợ mang tiếng không nhận, ông khóa phòng, giao chìa khóa, tự chấm dứt vai trò “chim kiểng” của mình. Theo ông Võ Văn Kiệt, Thành ủy vẫn để Giáo sư Phạm Hoàng Hộ hàng năm sang Pháp dạy học. Trong một lần đi Pháp, ông ở lại luôn bên đó rồi viết thư về cho ông Kiệt nói rằng, công việc nghiên cứu nhiều, ông cần phải ở nơi có phương tiện cho ông làm việc, khi nào đất nước thực sự cần, ông sẽ về.
Còn Giáo sư Châu Tâm Luân, nhân một buổi tối rủ ông Võ Ba tới nhà chơi, đã đưa cho Võ Ba coi một tập đánh máy hai mươi trang về “tình hình kinh tế nông nghiệp miền Nam”, rồi nói: “Võ Ba ơi, mình rất mừng vì bản báo cáo này của mình đã được Mặt trận Tổ quốc đánh máy gởi đi. Hai lần trước thì họ không chịu đánh máy. Nhưng, Võ Ba ạ, họ đánh sai hết, những thuật ngữ như ma trận họ đánh thành mặt trận ông ạ”. Mấy hôm sau, Võ Ba chạy qua nhà Giáo sư Luân thì thấy cửa đóng, bên trong thấp thoáng bóng mấy công an đến “chốt nhà”. Cho dù, sang tới Thái Lan ông bị các thuyền nhân khác đánh rất đau, khi viết thư về, trả lời câu hỏi của ông Huỳnh Kim Báu, “liệu vượt biên có phải là một quyết định sai lầm”, Giáo sư Châu Tâm Luân vẫn cả quyết: “Không, Báu! Dù phải trả giá đắt, mình vẫn thấy đi là đúng”.
Trong số các trí thức miền Nam, ông Võ Văn Kiệt “xếp” Giáo sư Châu Tâm Luân vào hàng “khó tính”. Tuy nhiên, ông kể: “Đến nhà Châu Tâm Luân mình rất thích vì ảnh thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy, có khi như búa bổ. Ảnh hy vọng khi đất nước hòa bình, với sự phì nhiêu của đất đai miền Nam, sẽ có dịp thi thố giúp phát triển nền nông nghiệp. Nhưng một thời gian sau, thấy cơ chế như thế thì không thể nào đóng góp được”.
Một người khác từng quen biết Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt nhưng cũng phải vượt biên là Kỹ sư Phạm Văn Hai, giám đốc nhà máy dệt Phong Phú. Ông Phạm Văn Hai là người đưa kỹ nghệ nhuộm vào miền Nam. Ông có hai người con, một người được đặt tên là Phạm Chí Minh, một người là Phạm Ái Quốc. Sau ngày 30-4, ông Phạm Văn Hai vẫn nhiệt tình tư vấn để phục hồi ngành dệt và nghiên cứu chất kích thích cây cỏ. Nhưng năm 1977 ông quyết định “đi”. Vượt biên hai lần, cả hai lần đều bị bắt. Lần đầu bị bắt ở Kiên Giang, Thành ủy lãnh. Lần hai, bị bắt ở thành phố, ông Võ Văn Kiệt vào thăm, ông Hai nói: “Cho dù anh quan tâm nhưng như thế này thì không làm được”. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Những người như Kỹ sư Phạm Văn Hai, như Giáo sư Châu Tâm Luân…, nếu chỉ khó khăn về cuộc sống họ sẽ vượt qua, nhưng nếu bị đặt vào hoàn cảnh không thể đóng góp thì họ không chịu được. Tôi cũng không biết làm gì hơn, chỉ đề nghị mấy ảnh đừng vượt biên nguy hiểm”.
Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Tôi tiếc đứt ruột khi để những anh em trí thức ấy ra đi, nhưng biết là nếu họ ở lại thì cơ chế hiện thời cũng chưa cho phép mình sử dụng họ”. Trước khi vượt biên, ông Dương Kích Nhưỡng, một công trình sư cầu cống, thủy điện, nói với ông Võ Văn Kiệt: “Ước mơ của các anh rất đẹp, nhưng các anh làm như thế này là không được. Đi đâu cũng nghe nói tới nghị quyết, làm cái gì cũng chỉ theo tinh thần nghị quyết này, chủ trương kia thay vì theo pháp luật. Trị nước mà bằng nghị quyết và chỉ thị chung chung thì không được”.
Tổng Thư ký Hội Trí thức Yêu nước Huỳnh Kim Báu nhớ lại: ông Kiệt biết là các trí thức bắt đầu vượt biên, ông gọi tôi lên và dặn “Nghe ngóng, nếu có anh em trí thức bị bắt ở đâu, anh phải lãnh về”. Khi nhận được tin công an Bình Thuận bắt giam Kỹ sư Dương Tấn Tước, ông Kiệt cấp giấy cho ông Báu ra Bình Thuận xin “di án về Thành phố”. Ông Báu kể: “Công an Bình Thuận thấy giấy của Thành ủy thì cho nhận ‘can phạm’. Nhưng khi anh Tước thấy tôi mừng quá định kêu lên, tôi đã phải giả vờ làm mặt lạnh, bước tới, còng tay anh Tước. Dọc đường, tôi cứ phải làm thinh mặc cho Kỹ sư Dương Tấn Tước ngơ ngác. Qua khỏi Bình Thuận, tôi mới mở còng và giải thích: Công an Bình Thuận mà biết, người ta chụp đầu cả tôi”.
Đích thân ông Kiệt cũng nhiều lần đến các trại giam để bảo lãnh các trí thức.
Theo ông Phạm Văn Hùng và Nguyễn Văn Huấn, hai người giúp việc thời đó của ông, hình thức “xử lý” đối với những trí thức vượt biên của “Anh Sáu Dân” là kêu tụi tôi đích thân đi làm lại hộ khẩu và sổ gạo cho họ. Nhưng phần lớn các trí thức đã ra đi lặng lẽ. Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tôi đi tất cả sáu lần. Lần bị giữ lâu nhất là ở Rạch Giá, cả tháng trời. Nhưng tôi không khai mình là ai. Như bốn lần trước, ở nhà cứ lo một cây vàng thì được thả”.
Có những người không chịu nhờ Thành ủy, hoặc “lo” bằng vàng. Theo ông Huỳnh Kim Báu, khi vượt biên bị bắt, Giáo sư Lê Thước đã tự sát.
NGUYỄN THỤY KHA * TRỊNH CÔNG SƠN
Đường và đời Trịnh Công Sơn
Sau thành phố Huế, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, ngày 26.8.2015 vừa qua, Hà Nội chính thức lấy tên Trịnh Công Sơn đặt cho một con đường nhánh rẽ từ đại lộ Âu Cơ đi thẳng tới Hồ Tây. Đó phải chăng chính là con đường âm nhạc mà Trịnh Công Sơn đã vạch ra từ thuở thanh xuân và theo đuổi suốt đời, theo đuổi tới cùng. Con đường riêng mang tiếng nói chung của cả dân tộc.
Nhìn lại những ca khúc Trịnh Công Sơn, thấy ở đó biết bao ca từ nhắc đến
con đường. Từ những ca khúc đầu tay như “Ướt mi”, “Thương một người”,
tuy không nhắc đến chữ “đường” trực tiếp nhưng cái cách “Ai còn nhìn mưa
mãi rớt bên sông thêm lạnh lùng” hay “thương ai về xóm vắng” mà Trịnh
Công Sơn đã dệt nên thi ảnh thì người cảm nhận đã thấy ở đó ẩn hiện con
đường. Đến “Diễm xưa” thì con đường ấy đã hiện ra “Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ/ Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu”.
Ở “Tuổi đá buồn” thì con đường hiện trong bước đi “Từng ngón tay buồn
em mang em mang đi về giáo đường”. Ở “Biển nhớ” cũng thế: “Ngày mai em đi/ Biển nhớ tên em gọi về...”.
Ở “Nhìn những mùa thu đi” lại là: “Đưa em về nắng vương nhẹ nhẹ”. Và ở “Nắng thủy tinh” thì là: “Em qua công viên bước chân âm thầm”. Ngay ở đầu đề “Chiều một mình qua phố” thì chính đầu đề đã vạch ra một con đường “Chiều một mình qua phố/ âm thầm nhớ tên em”. Ở “Vết lăn trầm” con đường bắt đầu lãng du theo thời cuộc: “Người đi phiêu du từ đó, chưa thấy về quê nhà”. Hay ở “Bên đời hiu quạnh” là: “Rồi một ngày kia khăn gói đi xa”. Còn ở “Hãy cứ vui như mọi ngày” thì “Dù ta như con đường vắng người”.
Cũng như “Chiều một mình qua phố” là “Chiều nay em ra phố về”. Ở “Ru ta ngậm ngùi” thì xa xót: “Có đường phố nào đông/ cho ta qua một ngày”. Với “Tự tình khúc” thì: “Tôi như đường về mở ra đô thị chờ chân thiên hạ về vui”. Trong “Lời thiên thu gọi” lại là: “Chợt tôi thấy thiên thu/ là một đường không bến bờ”. Trong “Có nghe đời nghiêng”: “Đường lên cao bước chân nhè nhẹ”. Ở “Đêm thấy ta là thác đổ”, lại thấy bước chân: “Một hôm bước qua thành phố lạ/ Thành phố đã đi ngủ trưa”. Và ngập ngừng trong “Chiếc lá thu phai”: “Về đâu đứng ngồi/ đường xa quá ngại”.
Ở “Cỏ xót xa đưa” là: “Giữa đường đi/ một người đứng gọi”. Có khi lại
là một vệt đường dài của suy tư qua “Nghe tiếng thở dài”: “Đường hôm
qua tôi đã thấy được rồi/ đường hôm nay tôi đã cùng ngồi có gì vui/
đường tương lai xin nhắc từ đầu/ cùng anh em trên khắp địa cầu...”.
Bài “Có những con đường” là một bài viết day dứt về sự tìm đường tới sự bình yên với những câu hỏi nghi vấn: “Đường phố nào còn in dấu chân ngoan/ đường phố nào mệt nhoài ngày tháng gian nan”. Còn ở “Phôi pha” thì là lời tự nhủ: “Thôi về đi đường trần đâu có gì/ tóc xanh mấy mùa”. Trong “Nghe tiếng muôn trùng” thắc thỏm lời cầu xin: “Xin trên những đường dài/ cho nghe bước rộn vui”, “còn ở “Một ngày như mọi ngày” là: “Những mặt đường nằm câm”. Con đường ở “Lời của dòng sông” là: “Đường hư vô trên tay”. Trong “Như một lời chia tay”: “Đường quen lối từng sớm chiều mong”.
Dâng lên “Hãy khóc đi em” thì con đường thành mất tăm: “Hãy khóc đi em/ có còn gì/ tình đã mất đường về”. Có khi con đường lại hiện ra trong từng tiếng chổi quét lá: “Người phu quét lá bên đường quét cả nắng vàng quét cả mùa thu”. Thật lãng mạn trong “Mưa hồng” hiện lên một con đường Huế hư ảo: “Đường phượng bay mù không lối vào/ hàng cây lá xanh gần với nhau”.
Cũng thật hoang mang trong “Tình xa”: “Khi bước chân ta về đêm khuya nhìn đường phố/ thành phố hoang vu như một lần qua cuộc tình”. Ở “Có một dòng sông đã qua đời” thì con đường cũng rất Huế thân thuộc: “Mười năm xưa đứng bên bờ dậu/ đường xanh hoa muối bay rì rào”. Ở “Những con mắt trần gian” thì “Đường trần đâu có gì”, của “Phôi pha” đã hóa thành “Đường trần rồi khăn gói”. Trong “Hạ trắng”, con đường hiện ra trong thi ảnh lấp lánh mong manh: “Gọi nắng trên vai em gày đường xa áo bay/ đường đi suốt mùa nắng lên thắp đầy...”. Với Sài Gòn, qua “Em còn nhớ hay em đã quên”, con phố trở thành “dòng sông uốn quanh”. Cùng “Hà Nội mùa thu” ông mong “Sẽ có một ngày từng con đường nhỏ trả lời cho tôi”…
Các văn nghệ sĩ tại con phố mang tên Trịnh Công Sơn ở Hà Nội. |
Con đường trong giai điệu Trịnh Công Sơn cứ thế quanh co cùng thời cuộc.
Nhưng quanh co thế nào thì khát vọng của ông cũng là con đường đi chung
của một dân tộc yêu thương hòa bình. Ở tập “Kinh Việt Nam” với những ca
khúc phản chiến ông viết 1968, sau tập “Ca khúc da vàng” vài năm trước,
Trịnh Công Sơn cũng đã khẳng định rất rõ con đường này ở nhiều ca
khúc.
Đấy là con đường đi trên “Cánh đồng hòa bình” thênh thang vô ngã: “Người đi về như nước lên nhấp nhô kinh thành/ bàn chân nào ra bước đi sao nghe nhẹ nhàng”. Con đường âm vang câu “Đồng dao hòa bình”: “Đường ta đi mênh mông phố xá bao người quen/ bàn chân ta thênh thang những nắm tay reo mừng”.
Con đường thấm nước mắt người mẹ, “Nước mắt cho quê hương” để mong có
một ngày “dân mình hết phận long đong”. Con đường trong “Đôi mắt nào mở
ra”: “Tìm đường ra đi không đạn mìn theo dấu”. Con đường mang mong muốn
“Dựng lại Người dựng lại nhà”: “Ta cùng lên đường/ đi xây lại Việt Nam”. Con đường khiến “Ta thấy gì đêm nay”: “Đường phố hôm nay sáng rực ánh đèn/ sáng rực đèn trong làng trong xóm”.
Con đường cho ta “Chờ nhìn quê hương sáng chói”: “Chờ bước đi trên
những con đường không chông mìn/ chờ đường giao thông chắp nối chuyến xe
qua ba miền”.
Còn nhớ vài năm trước, trong một cuộc họp bàn về những ca khúc này, sau
bao nhiêu tranh luận giữa những nhà quản lý và các nhạc sĩ, 8 ca khúc
trong “Kinh Việt Nam” đã được cấp phép biểu diễn. Con đường mà Trịnh
Công Sơn bền bỉ đi theo không phải lúc nào cũng được nhiều đồng cảm.
Kiên định mãi một chính kiến về đất nước, về dân tộc, vậy mà trước trưa
ngày 30.4.1975 đến Đài phát thanh Sài Gòn hát “Nối vòng tay lớn” trong
niềm hân hoan phấn khích, Trịnh Công Sơn đã từng phải thở than trong
“Một cõi đi về”: “Đường chạy vòng quanh một vòng tiều tụy/ một bờ cỏ non một bờ mộng mị ngày xưa”.
Rồi sau ngày thống nhất đất nước, lại nếm trải những chuyển dịch chậm
chạp của nhận thức, Trịnh Công Sơn đã phải vô vi tự chọn cho mình con
đường: “Mỗi ngày tôi chọn đường mình đi/ đường đến anh em đường đến bạn bè”.
Trịnh Công Sơn đã làm như thế nên bên ông suốt những năm dài luôn có
những bạn bè tri kỷ. Cứ nhớ mãi những kỷ niệm đồng hành bên nhau về làng
báo chí, rồi cùng bay ra biển Quy Nhơn. Cứ nhớ mãi những đêm Sài Gòn
bên ly Chivas và bao nhiêu tâm sự cùng nhau dốc hết. Con đường đi mà
Trịnh Công Sơn vạch ra cho sự nghiệp âm nhạc của mình đã đưa ông đến với
miền Bắc, đến với Hà Nội sau thống nhất như một lẽ tự nhiên. Thanh bình
rồi, cả miền Bắc thời chiến cần được sống những gì mình chưa sống, thì
âm nhạc Trịnh Công Sơn đã mang đến cho tất cả để an ủi, để chia sẻ. Rồi
đến cả hôm nay, trong cuộc gặp gỡ bà con cộng đồng người Việt ở Mỹ với
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thì “Nối vòng tay lớn” cũng vang lên như
một chất nhựa gắn kết con người Việt Nam đi tới hóa giải dân tộc.
Đường Trịnh Công Sơn ở Hà Nội là một con đường khiêm nhường như chính
con đường âm nhạc của ông vậy. Từ sân bay Nội Bài, qua cầu Nhật Tân, ta
có thể thấy đường Trịnh Công Sơn bên một ngôi chùa cổ. Và con đường sẽ
dẫn ta tới “Hồ Tây chiều thu mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi”.
Bên bờ xa ấy của hồ Tây, chính là con đường mang tên Văn Cao tài danh -
người bạn vong niên của ông mà ông luôn tôn kính. Họ mãi gặp nhau trên
sóng hồ Tây.
VƯỜN THƠ
TIẾC NUỐI
Vương TânCá tung tăng trong hồ nước hòn non bộ
Đớp trăng và đùa rỡn
Tưởng mình đang ở thiên đường loài cá
Biết đâu đây chỉ là trò chơi của con người
Như con người là trò chơi của Tạo hóa
Múa may quay cuồng cho đã
Rồi cát bụi lại hoàn cát bụi
Chỉ có ta với những giấc mơ
Là lúc nào cũng không rời
Cả một đời với người trong mộng
Tỉnh dậy lúc nào cũng ngầy ngật
Chiếp miệng tiếc nuối
Đời người thật ngắn ngủi
Qúa ít thời gian sống cho tình yêu
Cái chết mãi không rời
Ôm người trong mộng chặt trong tay lúc nào cũng thấy lỏng
Chúng ta phải được sống
Những ngày tháng như trẻ thơ
Dù tóc bạc phơ vẫn còn ham trái cấm
Có ngày chết không kịp ngáp
Cá vẫn cứ là cá
Vùng vẫy trong vũng nước của mình
Chê giấc mơ hóa rồng
Dù bay bổng ngàn trùng
Vương tân
GIẤC MƠ VỀ NGUỒN
nguyễn phan ngọc an - 2015
Ba mươi năm mang tình lên đỉnh núi
Hát cùng trăng đùa cợt với mây trôi
Và đêm đêm hò hẹn với sao trời
Ru giấc mộng trên ngàn hoa cỏ dại
Chàng hiện đến bên ta lời êm ái
Giấc mơ hồng một thuở đã lên ngôi
Hai cuộc đời cay đắng ngập bờ môi
Chút tình muộn mong manh như bọt biển
Chàng biền biệt chẳng một lần đưa tiễn
Giữa chiến chinh máu lửa ngập giang san
Niềm tin yêu theo năm tháng điêu tàn
Ta vẫn sống hồn nhiên trong ảo tưởng
Một phép lạ đưa bão giông chuyển hướng
Thuyền quay về tìm tổ ấm năm xưa
Đời phong ba vùi dập nắng cùng mưa
Sông vẫn đợi trong héo mòn kỷ niệm
Sông vẫn hát bài tình ca ngọt lịm
Thuyền nồng nàn điệp khúc trái tim yêu
Mơ ước tương lai hạnh phúc chắt chiu
Là giấc mộng về nguồn thành hiện thực …
NPNA
GIẤC MỘNG ÐÊM TRĂNG
nguyễn phan ngọc an - 2015
Ðã từ lâu em vẫn thầm ao ước
Một tình yêu nhè nhẹ đến như mơ
Dắt dìu em sống lại những vần thơ
Trải được tiếng tơ lòng riêng câm lặng …
Như gió đùa trăng, như mây vờn nắng
Chú Cuội muôn đời ngồi dưới gốc đa
Ôm khối tình si dạo mãi khúc ca
Mơ giấc mộng Hằng Nga trên cung quảng
Em cũng có nỗi buồn theo năm tháng
Tuổi xuân trôi như những giọt châu rơi
Trong mơ hồ từng điệp khúc chơi vơi
Chiêm bao trở giấc ru đời hóa thân
Ở trong em ray rứt những mùa xuân
Bước phiêu lãng giẫm mòn thân lữ thứ
Anh chợt đến … cho tình em bất tử
Từ hôm nay vơi nửa cuộc tình sầu !
Em đã thấy nét hiền hòa trung hậu
Se lòng em sau phút gặp đầu tiên
Hãy cho em chia sớt những lụy phiền
Anh có muốn … hoa tình yêu nở rộ
Bất ngờ thay phút giây mình tao ngộ
Tình rộn ràng như đợi cả trăm năm
Mong ước sao tình sáng tựa trăng rằm
Soi bước nhỏ … dìu em vào cõi mộng …
nguyễn phan ngọc an - 2015
Thanh-Thanh Việt-Hóa
VƯỜN LỤC NGỌC
Nhịp ba, nhịp ba, nhịp ba
Cả cây, cả trái, cả hoa trên cành
Từ từng hóc hẻm xung quanh
Cũng cùng đám trẻ xoay nhanh liên hồi
Mỗi bộ phận đều hát vui
Cành vươn để chuyển lên trời tiếng ca
Và chuyền nhau giữa lá, hoa
Tụng ca nhảy nhịp hài hoà bước chân
Sắc màu hình bóng thanh tân
Hương thơm thoang thoảng như gần như xa
Quay lăn vào, xoay lăn ra
Ðiệu luân vũ vút theo đà gió lên
Âm thanh tiếng hát tăng thêm
Tựa như đám trẻ say trên ca đàn
Nụ cười rạng rỡ hân hoan
Niềm vui vượt vách tràn lan ra ngoài.
Thanh-Thanh Việt-Hóa
BE’S GARDEN
With a 3-part rhythm, the
fruit, flowers, trees
Twirl like children
at permanent recess
Each sings where it is planted
reaching with branches
To sky, to each other
Praise dances in patterns
of color and shade
Makes a breathing of fragrance
– rolling out, rolling in –
A waltz with the wind
singing higher, higher
Like children at choir
whose colors and smiles
cascade past the walls.
No comments:
Post a Comment