Friday, March 7, 2014
TƯỞNG NĂNG TIẾN * TỘI NÓI THẬT
Tội Nói Thật
Wed, 03/05/2014 - 08:29 — tuongnangtien
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Tư duy người cộng sản Việt Nam vẫn lạc hậu trong bối cảnh nhiều chế độ độc tài đã và đang diệt vong.
Nguyễn Ngọc Già
Có hôm, tôi nghe Vũ Thư Hiên chép miệng:
Với người Việt ta, ở tù không phải sự lạ. Thiên hạ gặp nhau thấy
ngờ ngợ thì không hỏi quê quán, họ hàng mà hỏi: mình gặp nhau ở trại
nào nhỉ?
Ổng nói, rõ ràng, hơi quá. Thế mà vẫn có một nhà văn (khác) chia sẻ hết sức tận tình:
Gặp ai, ở đâu hắn cũng tưởng như gặp lại bạn tù cũ. Nhìn những
người trên đường, hắn giật mình: “Quái nhỉ, ở trại nào nhỉ. Quen quá.
Không biết đã gặp ở đâu rồi. Được về bao giờ nhỉ”.
Đó là một cảm giác kỳ lạ. Hắn luôn gặp những khuôn mặt tù quen
quen. Những khuôn mặt tù ngờ ngợ. Không biết ở trại nào. Hẳn họ cũng như
hắn. Mới được ra trại. Thoạt đầu hắn cho là hắn mắc bệnh quên. Trí nhớ
hắn suy giảm, nên hắn không nhớ được những người bạn tù ấy. Nhưng rồi
hắn giật mình: “Chẳng lẽ nhiều người đi tù về đến thế? Đất nước lắm
người đi tù đến thế?” ...” (Bùi Ngọc Tấn. Chuyện Kể Năm 2000, tập I. CLB Tuổi Xanh, Westminster, CA: 2000).
Đoạn văn thượng dẫn được viết hồi cuối thế kỷ trước, sau
khi tác giả đã trải qua nhiều năm tù vì tội “tuyên truyền
phản cách mạng” và “bôi đen chế độ” – theo như lời ông tự
thuật:
Hoá hỏi:
- Anh là cộng sản à?
- Cả nhà tôi là cộng sản. Là đảng viên. Nhưng tôi thì chưa. Tôi là quần chúng.
- Vì sao anh chưa được kết nạp?
- Đã có lúc tôi phấn đấu, nhưng chưa được vào.
Hoá nhìn hắn từ đầu đến chân. Định nghĩa cái nhìn ấy là: Anh nói thật. Tôi quí anh vì anh nói thật.
- Vì sao anh bị vào đây? Tôi có tò mò quá không?
- Tôi bị bắt với tội danh “Tuyên truyền phản cách mạng”. - Ở đây anh em gọi là tội nói sự thực. Đó là một lời khen. Nói sự thực là một việc khó khăn, nguy hiểm. Từ xưa đến nay vẫn thế. Bao giờ cũng là một việc nguy hiểm.(sđd, trang 58).
- Cả nhà tôi là cộng sản. Là đảng viên. Nhưng tôi thì chưa. Tôi là quần chúng.
- Vì sao anh chưa được kết nạp?
- Đã có lúc tôi phấn đấu, nhưng chưa được vào.
Hoá nhìn hắn từ đầu đến chân. Định nghĩa cái nhìn ấy là: Anh nói thật. Tôi quí anh vì anh nói thật.
- Vì sao anh bị vào đây? Tôi có tò mò quá không?
- Tôi bị bắt với tội danh “Tuyên truyền phản cách mạng”. - Ở đây anh em gọi là tội nói sự thực. Đó là một lời khen. Nói sự thực là một việc khó khăn, nguy hiểm. Từ xưa đến nay vẫn thế. Bao giờ cũng là một việc nguy hiểm.(sđd, trang 58).
Tuy “nguy hiểm” đến thế nhưng người Việt vẫn có nhiều kẻ
mạo hiểm đều đều. Nhân vật mới nhất, vừa bị lôi ra toà và
kết án tù vào hôm 4 tháng 3 vừa qua (vì tội danh “bôi đen chế
độ” hay “nói thật”) cũng là một người cầm viết.
Bản Bản Cáo Trạng
của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao, đề ngày 17 tháng 12 năm
2013, ghi rõ nhà báo Trương Duy Nhất đã “lợi dụng quyền tự do
dân chủ ... bôi nhọ lãnh đạo” làm "giảm uy tín, mất lòng tin của
nhân dân đối với cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức, xã hội và công dân"
và “hạ thấp uy tín cá nhân của Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Nước,
Thủ Tướng Chính Phủ, Chủ Tịch Quốc Hội, làm đến uy tín của
Đảng, Nhà Nước, Quốc Hội, Chính Phủ nước CHXHCN Việt Nam.”
Trước sự kiện này blogger Huỳnh Ngọc Chênh có lời bàn (ra) nghe hơi cay đắng:
Sau 7 tháng, một công dân chỉ cầm bút viết blog mà bị bắt giam
biệt tích với cả người thân trong gia đình để chịu sự điều tra căng
thẳng, để cuối cùng cơ quan điều tra nêu ra một số cáo buộc mà khi đọc
vào ai cũng thấy rằng chẳng cần phải bắt bớ, giam cầm, điều tra gì cũng
có thể nêu ra được, vì mọi thứ blogger Trương Duy Nhất viết ra đều đường
đường chính chính công khai minh bạch trên blog cá nhân của mình.
Blogger Vũ Đông Hà không chỉ cay đắng mà còn ... cay nghiệt:
Blogger Trương Duy Nhất dứt khoát không phạm tội.
Cho dù ông có muốn phạm tội cũng dứt khoát ông không thể làm được.
Ông không thể làm giảm uy tín một thứ không có uy tín.
Cá nhân ông không thể làm giảm lòng tin của 90 triệu người vốn đã mất niềm tin.
Ông không thể làm một người không có chiều cao bớt lùn.
Ông chỉ vô tình đóng góp thêm một điều ngoài ý muốn của ông: bản
cáo trạng "vì ông mà có" đã thêm một lần nữa chứng minh cái đảng và nhà
nước hiện nay là tập hợp của những tên lùn nhưng có ảo tưởng mình rất
cao và sẵn sàng tống vào tù những ai đá động đến chữ LÙN.
Cùng lúc, ở lề bên kia, lác đác cũng có vài tiếng anh vỗ tay tán thưởng. Trên Petro Times, ông Bảo Sơn (nào đó) khẳng định:
Vụ án Trương Duy Nhất cũng là một bài học cảnh tỉnh cho một số
người hiện nay đang dùng blog để xuyên tạc chủ trương chính sách của
Đảng, Chính phủ.
Tương tự, trong trang Người Con Yêu Nước cũng có một vị tuy không dám nêu danh nhưng rất lớn tiếng:
Bản cáo trạng đã quá rõ ràng, những bài viết làm chứng cứ vẫn
còn được lưu giữ. Chẳng có ai chống Tàu mà lại đi bôi nhọ thể chế, công
kích cá nhân, bêu rếu danh dự, nhân phẩm của các cán bộ cấp cao như vậy...
Vì vậy truy tố Trương Duy Nhất theo điều 258 là một quyết định đúng đắn
để răn đe, trừng trị người phạm tội cũng như bảo vệ sự vững mạnh của
thể chế.
Ngôn ngữ và giọng điệu của hai nhân vật (vô danh và ẩn
danh) vừa kể khiến tôi nhớ đến vài vị văn nghệ sĩ (tên tuổi)
khác đã từng hùng hồn lên tiếng trong chiến dịch đấu tố “nhóm
phá hoại Nhân Văn – Giai Phẩm,” từ hơn năm mươi năm trước:
- Huyền Kiêu:
Cuối năm 1956, trong lúc tình hình cách mạng gặp khó khăn, thì
một số phần tử xấu trong giới trí thức văn nghệ, tưởng rằng thời cơ “làm
ăn béo bở” đã đến, vội vã dương lá cờ rách Nhân văn nhảy lên võ đài,
khua môi múa mỏ, với dã tâm, bóp méo, xuyên tạc những khuyết điểm của ta
về văn nghệ, tấn công vào sự lãnh đạo của Đảng trong văn nghệ, và từ
địa hạt văn nghệ, lan sang các mặt văn hóa, xã hội, chính trị, bôi xấu,
vu cáo toàn bộ sự lãnh đạo của Đảng, hòng cản trở bước tiến lên xã hội
chủ nghĩa của miền Bắc nước ta...để bôi đen chế độ miền Bắc, xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng.
- Đỗ Nhuận :
Trần Dần dùng ngòi bút viết lên bao thứ bài thơ như “Nhất định thắng”, chuyện “Cò Lấm”, “Lão Rồng”, “Em bé làm văn” v.v…, để bôi đen miền Bắc và con người của chế độ ta...
Năm 1952 anh đi theo đường lối văn nghệ của Đảng và theo kinh
nghiệm của đường lối văn nghệ Trung Quốc, nên anh đã có một số sáng tác
dùng được; vài năm sau anh nói với tôi rằng: “Không nên theo đường lối
Trung Quốc vì như thế là đi đường vòng quanh, phải đi đường thẳng”.
Đường thẳng là thế nào? Khi anh sang Trung Quốc, anh rất thích
cái lý luận của tên phản động Hồ Phong ở Trung Quốc, anh nhập cái tư
tưởng phản động của Hồ Phong vào người và ban phát nó cho một số người
bạn của anh vì theo anh đó là con đường thẳng. Hồ Phong dùng hình ở mũi
dao cắm vào lưng người văn nghệ sĩ để mạt sát và chống lại sự lãnh đạo
văn nghệ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thì trong bài thơ “Nhất định
thắng” anh cũng dùng hình ảnh “Con dao dựa cùn chém trộm ngang lưng” để
vu khống, xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam.
Trần Dần sinh năm 1926, Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934, Trương Duy
Nhất ra đời 20 năm sau nữa. Cả ba đều sống chung trong một môi
trường xã hội mà “dối trá” là “phương châm” để sinh tồn. Tuy
thế, họ đã lựa chọn một thái độ sống khác:
Phải làm một người chân thật…
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu...
Người làm xiếc đi giây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu...
Người làm xiếc đi giây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Cái giá để đi trọn đời trên con đường chân thật, tất nhiên, không rẻ. Phùng Quán
đã phải trả bằng cả một cuộc đời (cá trộm, rượu chịu, văn
chui) cùng với vài “ba chục năm sống trong nơm nớp, nghe tiếng
chó sủa lạ cũng giật mình thon thót” – theo lời của Nguyễn Quang Lập.
Dù sao, thế vẫn hơn mười lăm năm tù và mười lăm năm quản chế
mà Đảng và Nhà Nước đã dành cho Thụy An cùng Nguyễn Hữu Đang –
với tội danh ... gián điệp!
Những hình phạt hay những bản án khắc nghiệt mà chế độ
hiện hành đã quen dùng trong mấy chục năm qua – xem ra – không
“cảnh tỉnh” và cũng chả “răn đe” được người dân, như mong đợi.
Thể chế cũng chả vì thế mà “vững mạnh” hơn, nếu chưa muốn
nói là hoàn toàn ngược lại: mỗi ngày một thêm lụn bại và
rệu rã!
Nhà đương cuộc Hà Nội không thể bắt giam hết cả ngàn
Trương Duy Nhất đang có mặt khắp nơi. Và dù họ có làm được như
vậy chăng nữa thì sẽ có hàng chục ngàn Trương Duy Nhất khác
sẽ xuất hiện trong những ngày tháng tới.
Wednesday, March 5, 2014
TS. NGUYỄN PHÚC LIÊN *ĐÒI QUYỀN SỐNG
THÚC ĐẨY CHO BÙNG NỔ CUỘC
ĐẤU TRANH KINH TẾ ĐÒI QUYỀN SỐNG LÀ CON ĐƯỜNG NGẮN NHẤT CHẤM DỨT CSVN
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Attachment: Ba`i 3, trang 1, D-L 150
Hình GS TS NGUYỄN PHÚC
LIÊN
Geneva, 06.02.2014
Lực lượng chủ yếu đấu tranh là Khối 95 triệu người nằm tại Quê Hương, còn Hải ngoại chỉ là phụ thuộc hỗ trợ cho Lực lượng Quốc nội. Nếu Hải ngoại tự coi mình là Lực lượng chính yếu đấu tranh mong đem Cách Mạng về giải phóng Quê Hương, thì đó là sai lầm.
Việc DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN hiện hành là cấp bách, vì vậy chúng ta lựa chọn con đường đấu tranh ngắn nhất và cụ thể nhất cho Quần chúng Việt Nam. Chúng tôi thấy con đường đó là con đường KINH TẾ nhắm vào Tử huyệt kinh tế Mafia CSVN mà tấn công liên hồi "như thiết như tha, như trác như ma, như quốc kêu mùa hè, như mài son, như đánh giặc". Phải tập trung lực vào Tử huyệt này. Con đường đó phải được phổ biến rộng rãi trong Quần Chúng Việt Nam nguyên do về phá sản của nền Kinh tế Quốc dân để Dân Tộc NỔI DẬY DÙ VỚI BẠO ĐỘNG dứt bỏ hẳn Cơ chế CSVN.
Chúng tôi xin viết tóm tắt sau đây những điểm thuộc con đường đấu tranh ấy. Chúng tôi sẽ vào những Hội Luận Paltalk để qua những Hội Luận này truyền thông con đường đấu tranh ngắn nhất và cụ thể nhất về cho đồng bào Quốc nội.
1) Con đường đấu tranh Kinh tế: NGƯỜI DÂN ĐÒI QUYỀN SỐNG
* Quyền sống thân xác là ưu tiên trên mọi Nhân Quyền
Mọi sinh vật, từ cây cỏ, động vật,
con người, không phải chỉ có cái quyền mà còn có bổn phận phải tự kiếm những
phương tiện vật chất để nuôi sống thân xác mình.
* ĐÒI QUYỀN SỐNG không phải là đấu
tranh chính trị
Khi người Công nhân cho thuê sức Lao
động, tư hữu tuyệt đối của họ, để có được miếng cơm manh áo, họ có cái quyền
thương lượng về giá cả của sức Lao động. Không ai có quyền tước đoạt một cách
độc đoán sức Lao động của họ để bán đứng cho người khác. Cũng vậy, người Nông
dân có cái quyền tư hữu một miếng đất để trồng cấy sinh sống. Không ai có quyền
tước đoạt cái phương tiện tối thiểu đất đai trồng cấy của họ. Khi người Công
nhân đòi thương lượng về cái giá của Lao động và người Nông dân đòi miếng đất
tối thiểu để cầy cấy, thì đó là hoàn toàn thuộc về đấu tranh ĐÒI QUYỀN SỐNG, chứ
không thể được cắt nghĩa gán ghép là họ đấu tranh Chính trị nhằm lật đổ cường
quyền.
* Tổ chức Chính trị—Luật pháp chỉ là
Môi trường phù hợp (Environnement Adéquat) cho phát triển Kinh tế
Thực vậy, tất cả những Tổ chức Chính
trị—Luật pháp đích thực phải được hiểu như tạo một Môi trường thuận tiện nhằm
nâng đỡ sự phát triển những sinh hoạt Kinh tế của Xã hội trong việc tìm phương
tiện nuôi sống thân xác, chứ không được hiểu như một khuôn khổ sống phát xuất từ
giới nắm quyền lực Chính trị áp đặt độc đoán lên những tác nhân Kinh tế đang tìm
phương tiện nuôi thân.
* Những cuộc Cách Mạng Lịch sử lấy
QUYỀN SỐNG làm động lực chính yếu NỔI DẬY
Cuộc Cách Mạng Pháp 1789. Cuộc Cách
Mạng 1917 tại Nga. Những cuộc Cách Mạng chung quanh mốc 1990 lật đổ Cộng sản Nga
và Đông Âu. Những cuộc Cách Mạng Hoa Nhài Bắc Phi và Trung Đông trong khoảng
2010-2012.
2) Hai Mô hình Kinh tế đối chọi:
TẬP QUYỀN CHỈ HUY và TỰ DO CẠNH TRANH
* Mô hình Kinh tế Tự do và Thị
trường với Môi trường Chính trị—Luật pháp Dân chủ phù hợp (Environnement
Politico-Juridique Démocratique Adéquat)
* Mô hình Kinh tế Tập quyền Chỉ huy
với Môi trường Chính trị—Luật pháp Độc tài (Environnement Politico—Juridique
Dictatorial)
* Mô hình Kinh tế tréo cẳng ngỗng
của CSVN : Kinh tế Tự do và Thị trường định hướng XHCN với Môi trường Chính
trị—Luật pháp Độc tài (Environnement Politico—Juridique Dictatorial)
3) Hậu quả của những Mô hình Kinh tế: PHÁ SẢN KINH TẾ QUỐC DÂN CỦA MÔ HÌNH TẬP QUYỀN CHỈ HUY và THỊNH VƯỢNG CỦA KINH TẾ TỰ DO THỊ TRƯỜNG
* Phồn thịnh của Mô hình Kinh tế Tự do Thị trường và nền Xã hội Dân chủ xây dựng vững chãi từ Mô hình Kinh tế ấy.
* Thất bại của Mô hình Kinh tế Tập
quyền Chỉ huy: Tan rã của Đế quốc Cộng sản: Nga và Đông Âu
* Tham nhũng Lãng phí lan tràn từ Mô
hình Kinh tế Tự do Thị trường định hướng XHCN.
* Tha hóa trầm trọng Giáo dục và Xã
hội với Mô hình Kinh tế tréo cẳng ngỗng của CSVN.
4) Hiện tình Kinh tế và Xã hội tại Quê Hương Việt Nam
* Tha hóa trầm trọng Giáo dục và Xã hội
* Phá sản đến vỡ nợ của nền Kinh tế quốc dân
* Bất lực cải cách tận căn nguyên của Mô hình Kinh tế tréo cẳng ngỗng của CSVN
* Một tương lai đen tối của Tha hóa Giáo dục và Xã hội với sự thụt lùi Kinh tế sánh với những nước trong vùng.
5) Cấp bách cứu nước:
QUẦN CHÚNG NỔI DẬY DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN
Tình trạng Kinh tế hấp hối, Giáo dục & Xã hội sa đọa, việc tẩu thoát Tài sản và người của Lãnh đạo CSVN ra nước ngoài thúc đẩy Dân Tộc phải cấp bách NỔI DẬY DÙ VỚI BẠO ĐỘNG để dứt bỏ Cơ chế CSVN.
* Những bất công chất chồng cấp số nhân nơi Quần chúng tạo thùng thuốc súng sẵn sàng bùng nổ.
Sự BẤT MÃN đối với Cơ chế CSVN mỗi ngày mỗi tăng, nhất là trong năm 2013. Việc tố cáo nhau trong đảng Cộng sản và việc công kích chính Cơ chế đã lên tới hàng ngũ Lãnh đạo đảng. Phong trào bỏ đảng được tăng cường. Quần chúng Nông dân, Công nhân, Giới Trẻ, đến Trí thức, đã công khai bầy tỏ sự BẤT MÃN.
Ký giả Thomas FULLER, một nhân chứng nước ngoài cho sự BẤT MÃN ấy:
"Tin New York - Ký giả Thomas Fuller của New York Times đã đến tận Saigon, đã tiếp xúc với nhiều người và cho biết người dân Việt Nam nay không còn tin vào đảng Cộng sản nữa. Theo tác giả, Đảng Cộng sản Việt Nam đang đối mặt với sự giận dữ ngày càng tăng của người dân về sự trượt dốc của nền kinh tế, và nội bộ Đảng đang bị chia. Bài báo cho rằng giờ đây sự chỉ trích Đảng đã bùng nổ trên toàn xã hội. Bài báo nhận xét Đảng Cộng sản Việt Nam đã suy đồi cả về tinh thần lẫn đạo đức. Sự mục nát sẽ dẫn đến chỗ Đảng sụp đổ. Những người đã từng tham gia vào phong trào phản chiến trong những năm 60 và 70 nên treo cổ trong tủi hổ và nên xin lỗi người dân Việt Nam."
Tình trạng BẤT MÃN của quần chúng tăng lên mỗi ngày mỗi mạnh. Trước sự đàn áp không ngừng của bạo quyền, sự BẤT MÃN ấy mau trở thành sự UẤT ỨC chất chồng như thùng thuốc nổ đợi dịp nổ tung ra.
* Những ngáng trở cho cuộc NỔI DẬY
CSVN "cướp chính quyền" bằng bạo lực và sau đó tổ chức một guồng máy cai trị dân hoàn toàn bằng một bạo lực kềm kẹp, hù dọa, khủng bố dân. Ngày nay, trước sự BẤT MÃN, UẤT ỨC của quần chúng sẵn sàng NỔI DẬY, cái bạo lực đàn áp của CSVN vẫn nằm đó. Đây là tình trạng có thể đưa đến va chạm đẫm máu.
* Ngòi nổ cho thùng thuốc súng: DÂN OAN VIỆT NAM
Như trên chúng tôi đã cắt nghĩa, sự BẤT MÃN, lòng UẤT ỨC nơi quần chúng đang được tích lũy như thùng thuốc nổ. Cần một cái ngòi nổ để thùng thuốc súng quần chúng nổ tung ra. Cái ngòi nổ lúc này dễ dàng bắt nguồn từ khối DÂN OAN VN. Những người Dân Oan đã mất hết không còn gì để thương tiếc. Họ cũng gần kề cảnh chết đói nên không sợ chết nữa. Đó là những điều kiện khách quan khiến DÂN OAN VN dễ dàng trở thành ngòi nổ cho NỔI DẬY.
* Cuộc NỔI DẬY có thể trở thành BẠO ĐỘNG
Cuộc NỔI DẬY của quần chúng chỉ là hệ quả định mệnh của tích lũy BẤT MÃN và UẤT ỨC. Cuộc NỔI DẬY có thể trở thành BẠO ĐỘNG đẫm máu khi mà CSVN vẫn duy trì sức mạnh bạo lực nhằm đàn áp.
* Những trợ lực từ Khối Người Việt Hải ngoại cho cuộc NỔI DẬY tại Quốc nội
Từ đầu bài, chúng tôi đã nhấn mạnh rằng Lực lượng NỔI DẬY chủ lực là toàn dân Quốc nội, còn Hải ngoại chỉ là phụ thuộc làm công việc hỗ trợ, như:
=> Phổ biến rộng rãi về Quê Hương cho dân, nhất là dân nghèo, thấy rõ rằng cái thủ phạm chính yếu của tha hóa Xã hội và của phá sản Kinh tế là cái Cơ chế chủ trương Độc tài Chính trị nắm Chủ đạo Kinh tế. Cơ chế ấy tự nó làm phát sinh và lan tràn Tham nhũng, Lãng phí. THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ chính là thủ phạm phá sản Kinh tế và tha hóa Xã hội.
=> Không thể cải thiện cái Cơ
chế, mà phải dứt bỏ chính cái Cơ chế, nghĩa chấm dứt đảng và guồng máy cai trị
do đảng CSVN áp đặt lên Dân Tộc.
=> Tăng cường mọi hệ thống truyền
thông từ Hải ngoại về Việt Nam: hệ thống thông tin Internet toàn cấu, hệ thống
thảo luận Paltalk triền mên về trong nước.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
THƯ GỬI QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN
VIETNAM - Audio messages to the UN
Human Rights Council, from Thich Quang Do and Le Cong
Cau
Forwarded to vietmarketing
by: David Kilgour , 2/11/2014, 8.44AM.
On 11 February 2014 08:29,
Vietnam Committee on Human Rights
wrote:
VCHR Que Me : Action for
Democracy in Vietnam
Vietnam Committee on Human
Rights
B.P. 60063 - 94472 Boissy Saint
Leùger cedex (France) - Tel.: (Paris) (331) 45 98 30 85
Fax : Paris (331) 45 98 32 61
- E-mail : vietnam.committee@gmail.com, Web : http://www.queme.net -
Facebook: https://www.facebook.com/queme.net
For immediate
release
Paris, 11 February
UBCV leader Thich Quang Do and
Buddhist Youth leader Le Cong Cau: Message to the United Nations Human Rights
Council
PARIS, 11 February 2014 (Vietnam
Committee) – The Vietnam Committee on Human Rights is honoured to present
exclusive audio messages by prominent dissident Thich Quang Do, leader of the
Unified Buddhist Church of Vietnam (UBCV), and Le Cong Cau, head of the
UBCV-affiliated Buddhist Youth Movement. The messages were made public at a
meeting on "Banned Civil Society Voices" at the United Nations in Geneva on
Tuesday 4 February 2014, organized by the VCHR and the International Federation
of Human Rights (FIDH).
Thich Quang Do, Patriarch of the
Unified Buddhist Church in Vietnam (UBCV) and 2014 Nobel Peace prize nominee,
sent this message in English from the Thanh Minh Zen Monastery where he has been
under de facto house arrest since 2003. Le Cong Cau sent this message in
Vietnamese from Hue.
AUDIO MESSAGE FROM THICH QUANG
DO
Video:http://www.queme.net/eng/news_detail.php?numb=2233
Message from Thich
Quang Do
Ladies and Gentlemen,
It is an honour for me to address
this meeting at the United Nations today. My name is Thich Quang Do, I am a
Buddhist monk from Vietnam. I am sorry that I cannot be with you in person – I
am under house arrest at the Thanh Minh Zen Monastery in Saigon, Vietnam. This
message was recorded in secret, and it is thanks to the courage of many people
that it reaches your meeting today.
Tomorrow, Vietnam will be examined
at the Human Rights Council for its second Universal Periodic Review. You will
hear the Vietnamese government’s report on human rights. But you will not hear
the voices of the victims. I am speaking here for those whose voices are stifled
in Vietnam simply because of their dissenting opinions or beliefs.
My own case is a typical example. I
have spent the past three decades under different forms of detention – ten years
in internal exile, seven years in prison and the rest under house arrest without
charge. What is my "crime"? That of calling on Vietnam to respect its people’s
rights to freedom of expression, association, peaceful assembly, religion and
belief.
When I was released from prison and
placed under house arrest in 1998, I said: "I have come from a small prison into
a larger one". Today I am truly a prisoner in my own monastery. Police keep
watch on me day and night, my communications are monitored and I cannot travel.
My visitors are harassed and intercepted. I cannot even preach in my Monastery.
In January 2014, my personal assistant Venerable Thich Chon Tam was assaulted by
Police and ordered to leave Saigon. Vietnam’s aim is to isolate me completely,
cut off my contacts with the outside world, and ultimately silence my
voice.
To be deprived of one’s freedom is
intolerable under any circumstances. To be under house arrest without charge,
isolated and never knowing when you will be released, is a most cruel form of
torture, both mental and physical. I have endured this for the past ten years.
But I am not alone. In Vietnam today, hundreds of dissidents and human rights
defenders are subjected to the torture of house arrest without any due process
of law. Last year, Vietnam signed the UN Convention Against Torture. We hoped
this was a step forward. But in reality, nothing has changed.
Why should Vietnam try so hard to
silence us? Because the Communist regime can tolerate no criticism of the
one-Party state. Since its last Universal Periodic Review, Vietnam promised to
improve human rights. But on the contrary, it has launched a crack-down on
critics and dissidents on an unprecedented scale. Young bloggers, journalists,
defenders of worker rights, land rights, or the rights of women and children
have suffered harassments and imprisonment as never before.
This crack-down has also targeted
the religious communities. Religious freedom is important everywhere – it is
enshrined in Article 18 of the Universal Bill of Rights, and also in the
Vietnamese Constitution. It is a right that cannot be waived, even in times of
war. But in Vietnam, religious freedom is particularly important. In the absence
of opposition parties, free trade unions or independent NGOs, the religious
movements are essential voices of civil society, putting forth the people’s
grievances and pressing for reforms.
As head of the Unified Buddhist
Church of Vietnam, which is not recognized by the authorities, I have not only
called for religious freedom, but also for the right to multi-party democracy,
to publish independent newspapers, to demonstrate freely, to express one’s views
without fear. I have called for abolition of the death penalty, more social
equity, and the end to the system of the "hoä khaåu", or family residence
permit, which is used as a tool of discrimination and control. I will continue
to press for human rights and democratic freedoms in Vietnam, whatever price I
have to pay.
At tomorrow’s Universal Periodic
Review, I call upon all governments to speak out for those whose voices are
stifled in Vietnam. I urge you to press for concrete improvements, such as the
recognition of the legal status of the Unified Buddhist Church of Vietnam and
all other non-recognized religions, the release of religious and political
prisoners, and the abolition - once and for all - of the practice of arbitrary
house arrest without charge. Thank you for your attention.
Thich Quang Do
MESSAGE FROM LE CONG CAU
Video:http://www.queme.net/eng/news_detail.php?numb=2232
Message from Le Cong Cau
Distinguished guests and Human
Rights Defenders:
My name is Leâ Coâng Caàu, and I
live in Hue, central Vietnam. I am a human rights defender, and head of the
Buddhist Youth Movement (BYM). The BYM is an educational movement founded in the
1940s. It is modeled on the Scouts association, and is affiliated to the Unified
Buddhist Church of Vietnam (UBCV). Because the UBCV is not recognized by the
Communist government, the BYM does not have an official status. However, our
activities are tolerated because we provide much-needed education for young
people. The BYM has some 300,000 members in Vietnam today.
Recently, we began to include human
rights education as part of our activities. At a summer camp in central Vietnam
this year, we held a seminar on Internet freedom to discuss the role of new
technologies in expanding our knowledge. Vietnam is a signatory to United
Nations instruments such as the International Covenant on Civil and Political
Rights, and human rights are enshrined in our Constitution. We believe that
young people should learn about human rights if they are to become good citizens
of Vietnam.
Because of this, the authorities
have begun to crack-down on our movement. I am particularly targeted. In March
last year, I was arrested and interrogated non-stop for three days. Police
accused me of writing articles calling for human rights and criticizing
government policies. They threatened to imprison me on charges of "circulating
anti-Socialist propaganda", a crime that carries up to 20 years in prison.
This year, on January 1st, I was
arrested again at Phu Bai airport near Hue as I set off to meet members of my
movement in Ho Chi Minh City. Police took me off the plane on the pretext that I
was suspected of carrying "terrorist" materials in my suitcase. Of course, they
found nothing, but they confiscated my laptop computer, flash-drives and cell
phone and subjected me to intensive interrogations. Although I am not charged
with any crime, I am now under house arrest at my home in Hue. Police are posted
outside my door, and I am summoned continuously for Police interrogations.
During a recent interrogation, a Security officer said he just had to sign
warrant and I would be thrown into jail.
Following my arrest, several other
members of the Buddhist Youth Movement in Hue were subjected to harassments.
Nguyen Tat Truc was detained for questioning from 6 to 9 January and accused of
"violating the law" because he signed letters on behalf of our movement. He is
now under house arrest. As a result, his family is now in grave financial
difficulty, because they rely on his wife’s earnings in order to survive, yet he
is forbidden to drive outside his district to take her to work. Another senior
BYM member, Hoang Nhu Dao, was interrogated by Police and also accused of
"illegal activities". Police are now posted outside his home, frightening his
wife and young children. As I speak to you today, more than one hundred members
of the Buddhist Youth Movement from Hue and the central provinces are under
house arrest without any justification or charge, simply for exercising their
legitimate right to association and peaceful assembly.
I am launching this message at the
United Nations today as a cry of alarm. This may be my last opportunity to speak
out, as I am told that I may be arrested in the coming days. I do not fear
imprisonment. I take full responsibility for my legitimate and peaceful acts,
and I am ready to face the consequences, whatever they may be. Last week, after
20 days under house arrest without charge, I wrote to the local Security Police
protesting my arbitrary detention. I demanded that they formally indict me and
put me on trial – if not, they must release me immediately. But they made no
reply. I am appalled that Vietnam can treat its citizens so unfairly, and I
refuse to remain silent in face of such injustice.
The Buddhist Youth Movement is
committed to education, for we believe that knowledge and understanding form the
very basis of progressive and dynamic society. The right to education is
enshrined in the UN International Covenant on Economic, Social and Cultural
Rights, to which Vietnam is a state party. By repressing my members and
prohibiting our activities, Vietnam is violating its binding commitments to its
citizens and to the international community.
As you meet to consider the second
Universal Periodic Review of Vietnam, I call on all governmental delegations to
examine the plight of human rights defenders, and press Vietnam to take concrete
steps to improve our situation. Specifically, Vietnam should bring domestic
legislation into line with its international treaty commitments, and respect the
principle of the harmonization of laws enshrined in the Law on the Ratification
and Implementation of International Treaties adopted in 2005.
Vaguely-worded "national security"
provisions in the Criminal Code such as Article 88 on "spreading anti-Socialist
propaganda" should be repealed, for they enable the State to imprison people at
will, with total impunity. Human rights must be protected by the rule of law,
otherwise, they are meaningless. Vietnamese human rights defenders should be
entitled to pursue their activities freely, and not be forced to live in silence
and slavery by the one-Party State.
Le Cong Cau, Hue, 25 January
2014.
Saturday, March 1, 2014
TỈNH THÀNH VIỆT NAM XƯA
Tỉnh thành xưa ở Việt Nam
Lời giới thiệu
Cuốn sách này chủ yêu gồm các bài tuyển chọn từ tuần báo INDOCHINE.
Indochine là một tờ báo bằng tiếng Pháp của Hội Alexandre de Rhodes. Báo ra từ đầu năm 1940 tới cuối năm 1944 thì đình bản.
Cộng
tác viên của báo chủ yếu là người Pháp. Có người là hội viên của Học
viện Pháp quốc Viễn Đông như G.Coedes, Louis Malleret, có người đúng đầu
một cơ quan chuyên môn như Paul Boudet, Giám đốc Sở lưu trữ và các Thư
viện, J.Y. Claeys, Giám đốc Sở Khảo cổ...
Cộng tác viên người Việt có: Trần Đăng, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Huyên, Huỳnh Tôn, Nguyễn Tiên Lãng, Nguyễn Việt Nam, Trịnh Thục Oanh, Hoàng Thiếu Sơn, Dương Minh Thới, Đặng Phúc Thông, Lê Tài Trường, Nguyễn Mạnh Tường.
Các họa sĩ minh họa người Việt có: Ngô Thúc Dụng, Nguyễn Huyên, Nguyễn Tiên Lợi, Nam Sơn, Vũ văn Thu, Tô Ngọc Vân.
Về nội dung Indochine có nội dung rất đa dạng: địa chí, nhân vật phong tục, dân tộc học, ngôn ngữ, giáo dục, giao thông, xây dưng, thủy lợi... với rất nhiều tranh ảnh minh họa đúng như tiêu đề hebdomadaire illustré của báo. Thật hiếm có một tờ báo lúc đó có nội dung rộng và phong phú như Indochine.
Các bài của Indochine có chất lượng cao do được viết bởi các thành phần trí thức ưu tú Pháp và Việt lúc đó, nhất là bởi những người làm nghiệp vụ chuyên môn. Do đó đối tượng của báo chủ yếu là trí thức. Chúng tôi chọn dịch các bài của Indochine vì các bài đó mô tả khá đầy đủ diện mạo mọi mặt của nước Việt xưa.
Ngoài các bài tuyển chọn từ Indochine, chúng tôi chọn thêm, rất ít, một số bài khác ngoài nguồn Indochine, trong đó có một bài duy nhất viết bằng Việt ngữ là bài Người đầm của Thạch Lam. Các bài chọn thêm này đều được ghi rõ xuất xứ để phân biệt với các bài của Indochine.
Các bài không ghi tên tác giả xin hiểu là bài riêng của Indochine.
Để bảo đảm tính thời đại của từ ngữ và, xin thú thực, đôi khi không tra cứu được, chúng tôi để một số danh từ riêng ở dạng nguyên văn, chẳng hạn Laokay thay vì Lào Cai. Chúng tôi nghĩ rằng bạn đọc sẽ dễ dàng nhận biết những từ đó.
Về dung lượng cuốn sách, chúng tôi tạm bằng lòng với số lượng bài như bạn đọc sẽ thấy trong cuốn sách và hy vọng sẽ ra tiếp được một tập nữa.
Các tranh ảnh trong cuốn sách này là chính tranh ảnh các tác giả bài viết đã sử dụng.
Để hoàn thành cuốn sách này chúng tôi xin cám ơn ông bà Bùi Thế Kỷ, ông Vương An Lợi và cô Nguyễn Thị Phương.
Người tuyển và dịch
______________________
Nhà xuất bản Hải Phòng, 5 Nguyễn Khuyến - TP Hải Phòng.
Trung tâm VHNN Đông Tây, 8/91 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội
In 700 cuốn khổ 13x19 tại Công ty in Khuyến học
Giấy phép xuất bản số: 53-531/XBQLXB cấp ngày 20/5/2003
In xong và nộp lưu chiểu Quý 2, năm 2004
Tổng đại lý phát hành: Nhà sách Đông Tây Số 466 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội.
Tel/fax: (04) 7733041
32 Bà Triệu, Hà Nội
Tel/fax: (04) 8251374
Tỉnh thành xưa ở Việt Nam
Louis Malleret
Trong một bài mới đây chúng tôi đã mô tả cảnh quan tỉnh thành Sài gòn vào khoảng năm 1860. Nói đúng ra Sài gòn lúc đó là một điểm dân cư gồm các làng nửa An - Nam, nửa Tầu. Sau đó có những biến đổi rất nhanh. Nhưng trước hết chúng tôi thấy cần phải dẫn độc giả tới một số tỉnh thành của Đông Dương như những gì chúng hiện ra trước mắt các du khách thăm xứ này từ 1870 tới 1880.
Khoảng tháng 7-1872, bác sĩ Morica từ Pháp tới Đông Dương sau một chuyến đi dài 45 ngày. Ông đi thăm các nơi với sự tò mò của một nhà tự nhiên học.
Thoạt tiên, ông thăm Sài gòn, sau đó là Chợ Lớn. Trong số các điểm hấp dẫn ông đi thăm có các khu vườn nuôi cá sấu, mỗi vườn có từ 200 tới 300 con để cung cấp thịt cho khách ăn. Hồi đó người ta rất thích thịt cá sấu.
Ba tháng sau, ông đi thăm Gò Công, một trong những trung tâm trồng lúa quan trọng. Lúc đó Gò Công được xem là một tỉnh đông dân với 33.000 dân tập trung trong 45 làng. Tỉnh lỵ chẳng có gì khác mấy so với các khu phố toàn nhà lá ở Sài gòn. Một số nhà lá vẫn còn ôm lấy một phần bến tầu và người ta có thể thấy vắt qua sông là một cây cầu theo kiểu Trung Hoa (hình 2). Đầu tiên, ông đi thăm Sở Thanh tra. Sở này nằm sau một con lạch và thông vào làng qua một chiếc cầu. Đó là một ngôi nhà cổ và sang trọng kiểu Tàu có một hàng hiên rất đẹp. Pháo đài liền ngay với Sở và chỉ cách nhau một hàng rào. Chỗ lượn của con lạch và nhiều đầm lầy bao lấy Sở ở các mặt còn lại.
Lúc đó tỉnh Gò Công đã là một miền dễ chịu và yên bình nhờ lãnh binh Tân. Ông này mời bác sĩ Morice ăn cơm. Tại nhà viên lãnh binh, bác sĩ được chiêm ngưỡng các loại đồ nội thất khảm xà cừ và dự một bữa tiệc thịnh soạn trong khi một người mã-tà ở phía sau nhịp nhàng kéo chiếc quạt làm bằng lông chim. Gió quạt mạnh đến nỗi làm nghiêng ngả những nến. Bác sĩ còn đi thăm một ngôi chùa trong tỉnh. Giống như nhiều chùa khác ở Nam Kỳ, ngôi chùa có rất nhiều dơi. Bác sĩ lưu lại Gò Công ba tháng; sau đó, trở lại Sài gòn để đi Hà Tiên trên chiếc tàu hơi nước Valco.
Tới Châu Đốc, bác sĩ Morice dùng thuyền tới. Giang - thanh theo kênh Vĩnh Tế. Con kênh này do viên quan Nguyễn Ngọc Thoại đào dưới triều vua Minh Mạng. Mộ của ông hiện còn ở vùng núi gần tỉnh lỵ Hà Tiên, lúc bác sĩ Monce tới, chỉ gồm một nhóm nhà lá rải rác trong các vườn cây (hình 3). Thành tỉnh ba mươi thắng cảnh được Mạc Thiên Tích Ca ngợi làm bác sĩ rất thích. Ông viết: “Tôi muốn là nhà thơ để mô tả phong cảnh tráng lệ hiện ra trước mắt. Các đồi cây xanh tươi ôm lấy bờ biển phía Tây. Dưới chân đồi, một hồ đổ nước vào vịnh Xiêm La. Trước mặt chúng tôi, về phía xa xa là Hà Tiên lờ mờ. Tỉnh thành này nửa nằm trên hồ, nửa nằm trên biển”. Từ Sở Thanh tra trên đồi, có thể phóng tầm nhìn xuống vịnh và các đồi xung quanh. Một hàng phi lao dài chạy xuyên qua chỗ xưa kia là thành men theo các bức tường của lâu đài họ Mạc ngày xưa dẫn tới thành tỉnh nằm trên đầm nước mặn có những ngôi nhà lá trát đất bùn. Tại Hà Tiên, bác sĩ Morice ở trong một cái túp xung quanh là đầm lầy. Ông viết “một trong những nét đặc trưng của Hà Tiên là nó giống nhu Vơ-ni-dơ.
Một phố thẳng và dài nối hồ với biển, hai bên phố là nhũng ngôi nhà làm bằng bùn lấy ở cửa sông. Để có thể đi bộ giữa hai hàng nhà kỳ lạ đó, người ta làm một con đường lát ván dài khoảng hai trăm mét. Đổ vào con đường lát ván này là nhiều con đường lát ván khác nhỏ hơn từ các túp đơn độc dẫn tới”. Trong cái thành phố nửa đất nửa nước này, bác sĩ Morice đã được thưởng thức tết với tiếng pháo và những trò chơi như ném lao qua một chiếc vòng đặt trên ba chân cách xa từ sáu tới tám mét, trò ném cầu và đá cầu.
Sau một tháng lưu lại Phú Quốc và một chuyến đi thăm ngắn ngủi Kampot, nơi đường điện tín nối với Hà Tiên rất khó bảo vệ khỏi sự giận dữ của voi rừng, nhà tự nhiên học của chúng ta quay về Châu Đốc và tiến hành nghiên cứu loài bò sát núi Sam. Sau đó ông tới Vĩnh Long (hình 4). Lúc đó Vĩnh Long là một quân trấn trong đó thành, giống như thành Châu Đốc và nhiều thánh khác ở Nam Kỳ, sao rập kiểu thành Van ban mà Olivier de Puymanuel và Théodore Brun truyền cách xây dựng cho người xứ này. Tuy nhiên, sự sao rập được đơn giản hoá và có những biến tấu mang tính cách châu Á. Bác sĩ Morice viết: “Phía sau các hồ bùn và tường đất cắm chông dày đặc là nhà sĩ quan và dãy nhà dành cho binh lính và bệnh viện. Tre và các bụi cỏ rậm rạp che kín một phần tường luỹ. Thỉnh thoảng người ta lại giết được những con trăn rất to trong đám cỏ đó trong khi rắn đeo kính ngủ trong các bụi cây ẩm ướt mọc lộn xộn trong các hố. Ngoài pháo đài là khu dân cư với vài dãy phố đẹp được những cây dừa cao to phủ mát. Vĩnh Long là một trung tâm nhộn nhịp, tới nay vẫn còn tiếng. Nó là lỵ sở của một tỉnh giầu có gồm 222 làng với 162.000 nhân khẩu.
Bác sĩ Morice quay lại Sài gòn qua Mỹ Tho và Tân An. Mỹ Tho lúc đó bắt đầu có bộ mặt của một thành phố lớn, còn Tân An là “một trong những nơi chán nhất của thuộc địa”.
Từ Sài gòn, bác sĩ Morice đi Tây Ninh. Được xây dựng ở chân pháo đài trên nền đất khô, Tây Ninh là một trung tâm khá vui, nhưng đêm đêm vẫn có hổ đi quanh nhà. Trong những năm đầu ở Nam Kỳ, “nhiều binh lính của chúng ta bị hổ bắt ở các vùng phụ cận Sài gòn. Con vật kinh khủng này thường vào các làng tha người đi. Ngày nay vào ban đêm, người ta vẫn nghe thấy tiếng hổ gầm ở sát các pháo đài ở miền Đông như Bà Rịa, Biên Hoà, Tây Ninh. Ơ Tây Ninh, tôi thường nghe thấy rất rõ tiếng hổ quanh nhà và nhiều lần thấy dấu chân hổ cách đồn không xa”.
Theo một tài liệu lưu trữ của Nam Kỳ, chỉ riêng ở một làng gần Gò Công từ ngày 3-5 tới ngày 11-11-1868 người ta đã bắt và giết được 64 con hổ. Sự có mặt của động vật hoang dã gần các điểm dân cư rất phong phú và vị du khách của chúng ta đã bắn hạ ngay gần Tây Ninh một con tê giác, một loài ngày nay đã biến mất. Sau một chuyến quan sát bội thu, bác sĩ Morice quay lại Sài gòn. Chỉ sau mấy tháng xa cách, Sài gòn đã có nhiều biến đổi sâu sắc. Mặc dù Sài gòn duy trì sự phát triển lâu dài theo nhiều hướng, nó vẫn cung cấp những kinh nghiệm sống cho các trung tâm nhỏ ở Nam Kỳ, các ly sở của các tỉnh rộng, nơi dân cư không dày đặc lắm.
Các tỉnh thành khác ở Đông Dương cũng không khác mấy so với Sài gòn hoặc các thị tứ ở miền Tây Nam Kỳ xưa kia. Năm 1875, Brossard de Corbigny, trong chuyến đi công cán ở Huế, đã để lại cho chúng ta những hình ảnh đẹp đầy sắc màu của hoàng cung ở Huế. Tuy nhiên, khu phố buôn bán gần hoàng thành vẫn còn nghèo nàn và xấu xí. Ông viết “phố chính khá buồn. Nhà cửa nói chung bằng đá, đen thui và tối tăm, nối tiếp nhau, không có hàng lối. Mặt đường đầy rác và các vũng nước mỗi khi mưa không biết đặt chân xuống đâu nữa”. (hình) Tình trạng như trên cũng là tình trạng của Phnompenh, một thành phố hiện nay rất đáng yêu với những mài nhà dát vàng. Trung uý hải quân Da-vin mô tả thành phố này năm 1888 “có vẻ nghèo khổ, chỗ nào cũng đen đúa và tối tăm. Các cung điện hư hại, đền đài đô nát, nhà bằng sàn ghép cẩu thả hoặc đơn giản chỉ là nhà lợp rạ”. (hình). Còn các tỉnh thành ở Bắc kỳ, để biết bộ dạng xưa kia của chúng như thế nào chỉ cần giở lại tập báo illustration hoặc Tour du Monde sẽ thấy, ngoài toà thành và mấy ngôi chùa cổ rất quyến rũ, các tỉnh thành đó chẳng có gì đẹp ngoài những ngôi nhà lá buồn tẻ nằm dọc theo con đường đất (hình).
Tôi đã mô tả một số nơi những người châu Âu đầu tiên tới Đông Dương nhìn vào thấy lúng túng đối với phần châu Á ở tận cùng này, nơi từ lâu được Gérard de Nerval tô vẽ là một phương Đông lý tưởng. Là nạn nhân của trí tưởng tượng và của những mô tả sáng lạn theo con mắt lãng mạn, họ không biết rằng các thành phố châu Á chỉ là những phố xá lầy lội hoặc những túp nhà khốn khổ, tối tăm đâu phải các cung điện lộng lẫy và những đám rước long trọng họ vẫn mơ tưởng.
Tuy nhiên có cần phải bực mình không khi gợi nhắc lại các thành trấn không mấy cảm tình này, những thành trấn vẻ cổ kính của chúng trong các bức hình như dấu đi sự xấu kinh người trong thực tế các dấu tích câm lặng này mãi mãi còn xa mới thơ mộng. Người ta hiểu rằng sự buồn chán lặp đi lặp lại có thể làm thất vọng người mới tới. Thực tế, Đông Dương xưa chẳng có gì ngoài cảnh sắc quyến rũ. Cuộc sống ở đây khó khăn đối với mọi người và chính việc biến đổi cuộc sống đó từ một ý chí thống nhất đã gắn bó người Đông Dương với người Pháp.
Cộng tác viên người Việt có: Trần Đăng, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Huyên, Huỳnh Tôn, Nguyễn Tiên Lãng, Nguyễn Việt Nam, Trịnh Thục Oanh, Hoàng Thiếu Sơn, Dương Minh Thới, Đặng Phúc Thông, Lê Tài Trường, Nguyễn Mạnh Tường.
Các họa sĩ minh họa người Việt có: Ngô Thúc Dụng, Nguyễn Huyên, Nguyễn Tiên Lợi, Nam Sơn, Vũ văn Thu, Tô Ngọc Vân.
Về nội dung Indochine có nội dung rất đa dạng: địa chí, nhân vật phong tục, dân tộc học, ngôn ngữ, giáo dục, giao thông, xây dưng, thủy lợi... với rất nhiều tranh ảnh minh họa đúng như tiêu đề hebdomadaire illustré của báo. Thật hiếm có một tờ báo lúc đó có nội dung rộng và phong phú như Indochine.
Các bài của Indochine có chất lượng cao do được viết bởi các thành phần trí thức ưu tú Pháp và Việt lúc đó, nhất là bởi những người làm nghiệp vụ chuyên môn. Do đó đối tượng của báo chủ yếu là trí thức. Chúng tôi chọn dịch các bài của Indochine vì các bài đó mô tả khá đầy đủ diện mạo mọi mặt của nước Việt xưa.
Ngoài các bài tuyển chọn từ Indochine, chúng tôi chọn thêm, rất ít, một số bài khác ngoài nguồn Indochine, trong đó có một bài duy nhất viết bằng Việt ngữ là bài Người đầm của Thạch Lam. Các bài chọn thêm này đều được ghi rõ xuất xứ để phân biệt với các bài của Indochine.
Các bài không ghi tên tác giả xin hiểu là bài riêng của Indochine.
Để bảo đảm tính thời đại của từ ngữ và, xin thú thực, đôi khi không tra cứu được, chúng tôi để một số danh từ riêng ở dạng nguyên văn, chẳng hạn Laokay thay vì Lào Cai. Chúng tôi nghĩ rằng bạn đọc sẽ dễ dàng nhận biết những từ đó.
Về dung lượng cuốn sách, chúng tôi tạm bằng lòng với số lượng bài như bạn đọc sẽ thấy trong cuốn sách và hy vọng sẽ ra tiếp được một tập nữa.
Các tranh ảnh trong cuốn sách này là chính tranh ảnh các tác giả bài viết đã sử dụng.
Để hoàn thành cuốn sách này chúng tôi xin cám ơn ông bà Bùi Thế Kỷ, ông Vương An Lợi và cô Nguyễn Thị Phương.
Người tuyển và dịch
______________________
Nhà xuất bản Hải Phòng, 5 Nguyễn Khuyến - TP Hải Phòng.
Trung tâm VHNN Đông Tây, 8/91 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội
In 700 cuốn khổ 13x19 tại Công ty in Khuyến học
Giấy phép xuất bản số: 53-531/XBQLXB cấp ngày 20/5/2003
In xong và nộp lưu chiểu Quý 2, năm 2004
Tổng đại lý phát hành: Nhà sách Đông Tây Số 466 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội.
Tel/fax: (04) 7733041
32 Bà Triệu, Hà Nội
Tel/fax: (04) 8251374
Tỉnh thành xưa ở Việt Nam
Louis Malleret
Trong một bài mới đây chúng tôi đã mô tả cảnh quan tỉnh thành Sài gòn vào khoảng năm 1860. Nói đúng ra Sài gòn lúc đó là một điểm dân cư gồm các làng nửa An - Nam, nửa Tầu. Sau đó có những biến đổi rất nhanh. Nhưng trước hết chúng tôi thấy cần phải dẫn độc giả tới một số tỉnh thành của Đông Dương như những gì chúng hiện ra trước mắt các du khách thăm xứ này từ 1870 tới 1880.
Khoảng tháng 7-1872, bác sĩ Morica từ Pháp tới Đông Dương sau một chuyến đi dài 45 ngày. Ông đi thăm các nơi với sự tò mò của một nhà tự nhiên học.
Thoạt tiên, ông thăm Sài gòn, sau đó là Chợ Lớn. Trong số các điểm hấp dẫn ông đi thăm có các khu vườn nuôi cá sấu, mỗi vườn có từ 200 tới 300 con để cung cấp thịt cho khách ăn. Hồi đó người ta rất thích thịt cá sấu.
Ba tháng sau, ông đi thăm Gò Công, một trong những trung tâm trồng lúa quan trọng. Lúc đó Gò Công được xem là một tỉnh đông dân với 33.000 dân tập trung trong 45 làng. Tỉnh lỵ chẳng có gì khác mấy so với các khu phố toàn nhà lá ở Sài gòn. Một số nhà lá vẫn còn ôm lấy một phần bến tầu và người ta có thể thấy vắt qua sông là một cây cầu theo kiểu Trung Hoa (hình 2). Đầu tiên, ông đi thăm Sở Thanh tra. Sở này nằm sau một con lạch và thông vào làng qua một chiếc cầu. Đó là một ngôi nhà cổ và sang trọng kiểu Tàu có một hàng hiên rất đẹp. Pháo đài liền ngay với Sở và chỉ cách nhau một hàng rào. Chỗ lượn của con lạch và nhiều đầm lầy bao lấy Sở ở các mặt còn lại.
Lúc đó tỉnh Gò Công đã là một miền dễ chịu và yên bình nhờ lãnh binh Tân. Ông này mời bác sĩ Morice ăn cơm. Tại nhà viên lãnh binh, bác sĩ được chiêm ngưỡng các loại đồ nội thất khảm xà cừ và dự một bữa tiệc thịnh soạn trong khi một người mã-tà ở phía sau nhịp nhàng kéo chiếc quạt làm bằng lông chim. Gió quạt mạnh đến nỗi làm nghiêng ngả những nến. Bác sĩ còn đi thăm một ngôi chùa trong tỉnh. Giống như nhiều chùa khác ở Nam Kỳ, ngôi chùa có rất nhiều dơi. Bác sĩ lưu lại Gò Công ba tháng; sau đó, trở lại Sài gòn để đi Hà Tiên trên chiếc tàu hơi nước Valco.
Tới Châu Đốc, bác sĩ Morice dùng thuyền tới. Giang - thanh theo kênh Vĩnh Tế. Con kênh này do viên quan Nguyễn Ngọc Thoại đào dưới triều vua Minh Mạng. Mộ của ông hiện còn ở vùng núi gần tỉnh lỵ Hà Tiên, lúc bác sĩ Monce tới, chỉ gồm một nhóm nhà lá rải rác trong các vườn cây (hình 3). Thành tỉnh ba mươi thắng cảnh được Mạc Thiên Tích Ca ngợi làm bác sĩ rất thích. Ông viết: “Tôi muốn là nhà thơ để mô tả phong cảnh tráng lệ hiện ra trước mắt. Các đồi cây xanh tươi ôm lấy bờ biển phía Tây. Dưới chân đồi, một hồ đổ nước vào vịnh Xiêm La. Trước mặt chúng tôi, về phía xa xa là Hà Tiên lờ mờ. Tỉnh thành này nửa nằm trên hồ, nửa nằm trên biển”. Từ Sở Thanh tra trên đồi, có thể phóng tầm nhìn xuống vịnh và các đồi xung quanh. Một hàng phi lao dài chạy xuyên qua chỗ xưa kia là thành men theo các bức tường của lâu đài họ Mạc ngày xưa dẫn tới thành tỉnh nằm trên đầm nước mặn có những ngôi nhà lá trát đất bùn. Tại Hà Tiên, bác sĩ Morice ở trong một cái túp xung quanh là đầm lầy. Ông viết “một trong những nét đặc trưng của Hà Tiên là nó giống nhu Vơ-ni-dơ.
Một phố thẳng và dài nối hồ với biển, hai bên phố là nhũng ngôi nhà làm bằng bùn lấy ở cửa sông. Để có thể đi bộ giữa hai hàng nhà kỳ lạ đó, người ta làm một con đường lát ván dài khoảng hai trăm mét. Đổ vào con đường lát ván này là nhiều con đường lát ván khác nhỏ hơn từ các túp đơn độc dẫn tới”. Trong cái thành phố nửa đất nửa nước này, bác sĩ Morice đã được thưởng thức tết với tiếng pháo và những trò chơi như ném lao qua một chiếc vòng đặt trên ba chân cách xa từ sáu tới tám mét, trò ném cầu và đá cầu.
Sau một tháng lưu lại Phú Quốc và một chuyến đi thăm ngắn ngủi Kampot, nơi đường điện tín nối với Hà Tiên rất khó bảo vệ khỏi sự giận dữ của voi rừng, nhà tự nhiên học của chúng ta quay về Châu Đốc và tiến hành nghiên cứu loài bò sát núi Sam. Sau đó ông tới Vĩnh Long (hình 4). Lúc đó Vĩnh Long là một quân trấn trong đó thành, giống như thành Châu Đốc và nhiều thánh khác ở Nam Kỳ, sao rập kiểu thành Van ban mà Olivier de Puymanuel và Théodore Brun truyền cách xây dựng cho người xứ này. Tuy nhiên, sự sao rập được đơn giản hoá và có những biến tấu mang tính cách châu Á. Bác sĩ Morice viết: “Phía sau các hồ bùn và tường đất cắm chông dày đặc là nhà sĩ quan và dãy nhà dành cho binh lính và bệnh viện. Tre và các bụi cỏ rậm rạp che kín một phần tường luỹ. Thỉnh thoảng người ta lại giết được những con trăn rất to trong đám cỏ đó trong khi rắn đeo kính ngủ trong các bụi cây ẩm ướt mọc lộn xộn trong các hố. Ngoài pháo đài là khu dân cư với vài dãy phố đẹp được những cây dừa cao to phủ mát. Vĩnh Long là một trung tâm nhộn nhịp, tới nay vẫn còn tiếng. Nó là lỵ sở của một tỉnh giầu có gồm 222 làng với 162.000 nhân khẩu.
Bác sĩ Morice quay lại Sài gòn qua Mỹ Tho và Tân An. Mỹ Tho lúc đó bắt đầu có bộ mặt của một thành phố lớn, còn Tân An là “một trong những nơi chán nhất của thuộc địa”.
Từ Sài gòn, bác sĩ Morice đi Tây Ninh. Được xây dựng ở chân pháo đài trên nền đất khô, Tây Ninh là một trung tâm khá vui, nhưng đêm đêm vẫn có hổ đi quanh nhà. Trong những năm đầu ở Nam Kỳ, “nhiều binh lính của chúng ta bị hổ bắt ở các vùng phụ cận Sài gòn. Con vật kinh khủng này thường vào các làng tha người đi. Ngày nay vào ban đêm, người ta vẫn nghe thấy tiếng hổ gầm ở sát các pháo đài ở miền Đông như Bà Rịa, Biên Hoà, Tây Ninh. Ơ Tây Ninh, tôi thường nghe thấy rất rõ tiếng hổ quanh nhà và nhiều lần thấy dấu chân hổ cách đồn không xa”.
Theo một tài liệu lưu trữ của Nam Kỳ, chỉ riêng ở một làng gần Gò Công từ ngày 3-5 tới ngày 11-11-1868 người ta đã bắt và giết được 64 con hổ. Sự có mặt của động vật hoang dã gần các điểm dân cư rất phong phú và vị du khách của chúng ta đã bắn hạ ngay gần Tây Ninh một con tê giác, một loài ngày nay đã biến mất. Sau một chuyến quan sát bội thu, bác sĩ Morice quay lại Sài gòn. Chỉ sau mấy tháng xa cách, Sài gòn đã có nhiều biến đổi sâu sắc. Mặc dù Sài gòn duy trì sự phát triển lâu dài theo nhiều hướng, nó vẫn cung cấp những kinh nghiệm sống cho các trung tâm nhỏ ở Nam Kỳ, các ly sở của các tỉnh rộng, nơi dân cư không dày đặc lắm.
Các tỉnh thành khác ở Đông Dương cũng không khác mấy so với Sài gòn hoặc các thị tứ ở miền Tây Nam Kỳ xưa kia. Năm 1875, Brossard de Corbigny, trong chuyến đi công cán ở Huế, đã để lại cho chúng ta những hình ảnh đẹp đầy sắc màu của hoàng cung ở Huế. Tuy nhiên, khu phố buôn bán gần hoàng thành vẫn còn nghèo nàn và xấu xí. Ông viết “phố chính khá buồn. Nhà cửa nói chung bằng đá, đen thui và tối tăm, nối tiếp nhau, không có hàng lối. Mặt đường đầy rác và các vũng nước mỗi khi mưa không biết đặt chân xuống đâu nữa”. (hình) Tình trạng như trên cũng là tình trạng của Phnompenh, một thành phố hiện nay rất đáng yêu với những mài nhà dát vàng. Trung uý hải quân Da-vin mô tả thành phố này năm 1888 “có vẻ nghèo khổ, chỗ nào cũng đen đúa và tối tăm. Các cung điện hư hại, đền đài đô nát, nhà bằng sàn ghép cẩu thả hoặc đơn giản chỉ là nhà lợp rạ”. (hình). Còn các tỉnh thành ở Bắc kỳ, để biết bộ dạng xưa kia của chúng như thế nào chỉ cần giở lại tập báo illustration hoặc Tour du Monde sẽ thấy, ngoài toà thành và mấy ngôi chùa cổ rất quyến rũ, các tỉnh thành đó chẳng có gì đẹp ngoài những ngôi nhà lá buồn tẻ nằm dọc theo con đường đất (hình).
Tôi đã mô tả một số nơi những người châu Âu đầu tiên tới Đông Dương nhìn vào thấy lúng túng đối với phần châu Á ở tận cùng này, nơi từ lâu được Gérard de Nerval tô vẽ là một phương Đông lý tưởng. Là nạn nhân của trí tưởng tượng và của những mô tả sáng lạn theo con mắt lãng mạn, họ không biết rằng các thành phố châu Á chỉ là những phố xá lầy lội hoặc những túp nhà khốn khổ, tối tăm đâu phải các cung điện lộng lẫy và những đám rước long trọng họ vẫn mơ tưởng.
Tuy nhiên có cần phải bực mình không khi gợi nhắc lại các thành trấn không mấy cảm tình này, những thành trấn vẻ cổ kính của chúng trong các bức hình như dấu đi sự xấu kinh người trong thực tế các dấu tích câm lặng này mãi mãi còn xa mới thơ mộng. Người ta hiểu rằng sự buồn chán lặp đi lặp lại có thể làm thất vọng người mới tới. Thực tế, Đông Dương xưa chẳng có gì ngoài cảnh sắc quyến rũ. Cuộc sống ở đây khó khăn đối với mọi người và chính việc biến đổi cuộc sống đó từ một ý chí thống nhất đã gắn bó người Đông Dương với người Pháp.
______________________
Arnaud Barthouet
Trong một lần nói đùa, có người nào đó kêu lên: “Cảnh đẹp Bắc Kỳ à? Làm gì có! Cứ đều đều, nói đúng ra là đơn điệu. Chỉ có bốn cảnh: đồng bằng, miền biển, trung du, thượng du; những cảnh như vậy đầy trong các ảnh...”.
Chúng tôi không chê bai các ảnh đó và chúng tôi không hề xem chúng là những thứ bỏ đi. Trong cỗ máy của cuộc đời thường nhật này, cảnh đẹp có khắp nơi và có lẽ chỉ những người nói liều hay tinh quái là những người khăng khăng cho rằng bản thân cảnh không chứa cái đẹp.
Cảnh đẹp có ở khắp nơi, khắp lúc. Trong những cảnh đẹp của Bắc Kỳ, trước tiên phải kể tới Hà Nội, thủ đô của toàn xứ Đông Dương. Hà Nội, đô thị kiến trúc tinh tế, cư dân chọn lọc, sức sống thanh xuân mạnh mẽ ngập tinh thần thể thao trong các trường. Nhà thờ, đền chùa, nhà bảo tàng, câu lạc bộ, các phố buôn bán, thợ thuyền và thợ thủ công, hàng trăm nghìn người hiếu kỳ lang thang qua các phố trong những ngày lễ lớn. Nét yêu kiều của những chiếc hồ, các ốc đảo xanh tươi - các công viên, những bồn cây, vườn cây ăn quả, các vùng ven đô, những mùa thu dịu hồn, những mùa đông xiết bao dịu dàng... Chúng tôi sẽ không nói thêm gì nữa về Hà Nội, người ta không thể tàn nhẫn đến nỗi vặt hết cỏ ở các thảm cỏ hay hoa ở các vườn cây.
Tiếp đến, cảnh đẹp Bắc Kỳ nằm trong thiên nhiên, trong các cánh đồng, cánh rừng mà chúng tôi hân hạnh được nêu ra ở đây một số hình ảnh và một số nét. Những cảnh đẹp đó rất đáng xem trước khi đánh giá dứt khoát hay phát biểu nhận xét. Này đây:
Biển lúa ở vùng châu thổ thật đẹp khi các hạt lúa nặng trĩu hứa hẹn một vụ thu hoạch tốt cho những người nông dân cần cù đang vội vã trong những ốc đảo xanh của vựa lúa Bắc Kỳ. Vịnh Hạ Long, quần đảo tuyệt vời và vui tươi của bờ biển Đông Dương.
Những đồi núi của miền trung du, các tầng cây vui tươi, những con suối trong cuộn nước đôi khi làm tung bọt.
Mùa xuân thần tiên ở vùng núi biên giới Trung Quốc - Bắc Kỳ với bạt ngàn hoa của những cánh rừng đào và mận, của phong lan, huệ; sự tương phản tinh tế giữa mầu xanh đậm của các loài cây nhiệt đới với mầu xanh của cây xuân thay lá. Mùa thu ở thượng du với bầu trời trong xanh, với những thời khắc bình minh và hoàng hôn, như một phép mầu, làm tôn giá trị những đường viền đa dạng của các chỏm núi.
Các phiên chợ thượng du ở mạn Tuyên Quang, Bắc-kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn với mầu sắc đa dạng của các bộ lạc miền núi: Thái, Mán, Mèo, Lô Lô.
Những cánh rừng ở khu vực Kép-Lang-Met-Thanh-Moi, dưới chân dẫy Cai Kinh, nguyên sơ tuyệt vời. Chúng tôi có thể kể những khu rừng khác nữa, nhưng thôi.
Những rừng hạt dẻ của xứ Cao Bằng còn phong phú hơn rừng thông bá hương ở Liban. Và vẫn tại Cao Bằng, cạnh thác Bản Giốc, một Niagara của chúng ta, trong một con sông chẩy từ dẫy núi Quay-son-chau (núi quý) ở Trung Quốc sang có một giống cá có hương thơm. Dĩ nhiên là sẽ có những người nói rằng họ không nhận ra hương thơm này ta nên trả lời họ rằng phải có một sự cảm nhận nào đó và không phải ai cũng có được cảm nhận đó ngay một lúc.
Những cây hồ đào ở Đồng Văn, điểm cực Bắc của Bắc Kỳ. Ở đây phải đi ngựa và khi ta từ phía Đông tiến vào hay khi gặp cánh đồng thuốc phiện của người Mèo, ta sẽ gặp một gam mầu phong phú bất tận và mê hoặc với những mầu sắc dịu dàng mờ mờ uốn lượn theo sự mơn trớn cua gió xuân. Trên con đường đó, ta phải leo qua một cái đèo gọi là đèo Ma-pi-leang (đèo yên con ngựa có mũi đẹp, nghĩa của từ đủ nói giá trị của đèo). Phía trên đèo khoảng vài trăm mét, trong một khu bằng phẳng như thềm nhà có một loại cải soong chỉ có ở vùng ôn đới. Bạn ơi, nếu tới được đây, bạn hãy xuống ngay ngựa, bỏ hết những thứ trong túi bên hông ngựa ra, hái cho đầy túi vì đi xa hơn sẽ không có nữa và chuyện được ăn món sa lát cải soong đó do tự tay mình hái bên đường ở vùng nhiệt đới cũng là một chuyện đáng nói.
Tại biên giới Trung Quốc - Bắc Kỳ, các lô cốt và các chòi canh nổi trên nền trời như những tổ chim ưng là những đồn người xưa dựng lên để theo dõi những vùng đất xung quanh và đánh thuế các băng từ Trung Quốc sang. Việc bình định xong hàn Bắc Kỳ, xứ quan trọng nhất của Liên bang Đông Dương, xuất phát từ vùng này. Chúng ta đang ở một thời kỳ khác và các lô cốt, mãi mãi là một phần của sự trang trí, giờ đây là những chứng vật; những viên đá của chúng có tiếng nói mạnh mẽ hơn những diễn văn, thậm chí hơn cả những bài viết.
Sẽ là vô ích nếu nói nhiều hơn nữa; chúng tôi chỉ lướt qua vì đề tài không bao giờ cạn; đó là tặng vật của mùa xuân bất tận. Cầm một đầu của sợi dây ba sợi sự nhạy cảm, sự yêu thích mầu sắc, sự nồng thắm - buộc chúng ta với cảnh đẹp của Bắc Kỳ, ta có thể kéo dài nó ra mãi mãi vì đó là một sợi dây mềm mại hơn lụa và dẻo hơn vàng. Không thể tìm thấy sợi dây này trong các cửa hàng hay tại nhà các thương nhản vì chính chúng ta là những người làm ra nó và kéo nó.
Thực tế, chúng ta không biết hết sự giầu có của chúng ta, một sự giầu có rõ ràng minh bạch mà không phải chịu một khoản thuế nào. Các bạn đọc các bạn hãy tin tôi. Có đầy rẫy cảnh đẹp ở Bắc Kỳ. Ta có thể thưởng thức nó với niềm hân hoan chẳng cần phải đi đâu xa, chỉ cần mở mắt nhìn.
______________________
Hà Nội 1911
Claude Bourrin
Claude Bourrin tới Đông Dương năm 1898 làm công chức ngành quan thuế nhưng rất ham mê các hoạt động văn học và kịch nghệ. Ông ở Đông Dương khá lâu, nhất là ở Bắc Kỳ, và đi lại nhiều nên đã viết các cuốn Xứ Bắc Kỳ Xưa (Le Vieux Tonkin), Người và việc ở Đông Dương (Choses & Gens en Indochine), Pháp Á (France d' Asie), Môlie và người An Nam (Molière ét Les Annammites).
Cuốn Người và việc ở Đông Dương gồm 3 tập: tập I (1898 - 1908), tập II (1908 - 1916), tập III (1917- 1927).
Đoạn dưới đây trích dịch từ cuốn Choses & Gens en Indochine (1908-1916) do nhà xuất bản IDEO ở Hà Nội in năm 1941.
... Nhân dịp Van Der Born, phi công người Hà Lan, vừa thực hiện thành công một số cuộc bay biểu diễn ở Sài gòn và Băng Cốc, tháng hai năm 1911, Besse, Chủ tịch hiệp hội Thuyền Buồm mở cuộc lạc quyên để tổ chức một tuần lễ hàng không ở Hà Nội. Bắc Kỳ phải mời cho được Van ghé qua biểu diễn trước khi anh đi Hồng Công. Trước đây đã có một số phi công đàm phán với Bắc Kỳ nhưng họ đòi ít nhất từ 30.000 tới 40.000 quan trong khi Van bằng lòng với cái giá từ 15.000 tới 20.000. Ý đồ của Besse không thành nhưng lại được thực hiện dưới hình thức khác. Số là khi đó một Uỷ ban do Trú sứ Trung Bắc Kỳ là Henn de Monpezat làm chủ tịch quyết định mua một chiếc máy bay cho Liên đoàn Hàng không. Uỷ ban gồm toàn người Pháp trong đó có dược sĩ, trưởng phòng vô tuyến điện báo, quản trị khách sạn Métropole, một kỹ sư, một ông cò phụ mãi tận cuối năm 1912 chuyến bay đầu tiên mới được thực hiện trên bầu trời sân đua ngựa ở Hải Phòng mà lại do một người Nga tên là Cuminski lái. Người Pháp tự an ủi cho rằng người Nga là bạn và đồng minh của mình; hơn nữa động cơ máy bay là động cơ Blériot của Pháp. Mỗi lần bay kéo dài khoảng 10 phút. Vài ngày sau đó, buổi biểu diễn bay được thực hiện ở Hà Nội trước một cử tọa đông đảo và nồng nhiệt. Chỉ có người Trung Quốc không có mặt vì nhận được lệnh tẩy chay. Nguyên nhân tẩy chay là quốc tịch của phi công.
Mãi năm sau, chuyến bay trên bầu trời Bắc Kỳ mới do phi công Pháp thực hiện. Phi công này tên là Marc Pourpe. Ngày 13 tháng 6 năm 1913, Marc Pourpe tụ hội bạn bè ở Hải Phòng. Ngày hôm sau, anh bay đi Hà Nội và hạ cánh thành công. Ngày 16 anh bay đi Lạng Sơn nhưng bị chói nắng khi hạ cánh nên phải quay lại Kép và hạ cánh trên một thửa ruộng ở Seno(? ND) không có hư hại gì. Vài ngày sau đó, anh lại bay đi Lạng Sơn và hạ cánh an toàn vì đã tính toán để quay lưng lại phía mặt trời khi hạ cánh.
Cũng trên bầu trời Đông Dương, bạn của Marc là Verminck đã không được may mắn: anh bị chết trong lần bay biểu diễn ở Nam Kỳ. Có lẽ đây là phi công đầu tiên chết trên bầu trời Đông Dương. Song song với hoạt động hàng không là hoạt động sân khấu. Tháng hai năm 1911, Besse mở lạc quyên thì ngày 1 tháng tư, nhóm kịch nghiệp dư của người Pháp, trong đó có Claude Bourrin, tổ chức vở Ami Fritz của Erckmann-chatrian để lấy tiền giúp Liên trách hộ tịch một thời là phi công, một nhà thầu khoán và một số nhà buôn, tất nhiên có Besse. Sau khi có máy bay, người ta triệu một phi công Pháp sang để chuyến bay đầu tiên được thực hiện bởi phi công Pháp, chứng tỏ nước Pháp đã có một bước đáng kể trên thế giới về mặt hàng không. Cuối cùng thì đoàn Hàng không Hà Nội. Buổi diễn được thực hiện ở rạp Philharnonique vì lúc đó Nhà hát lớn Hà Nội đang được hoàn thành.
Từ nhiều năm qua, thành phố Hà Nội đã thực hiện việc xây dựng một nhà hát thành phố xứng đáng với thủ đô hành chính của Đông Dương hơn cái phòng diễn cổ lỗ ở phố Takou (Hàng Cót - ND). Mặc dù chưa hoàn thành đầy đủ do thiếu kinh phí, cuối cùng thì tòa nhà cũng dùng được. Tuy việc sơn quét các phòng, hành lang và nhiều thứ khác không bao giờ được thực hiện nhưng như thế là mừng rồi. Tòa nhà có vóc dáng to lớn với những nét thô xấu của lâu đài Garnier (có lẽ là nguyên mẫu của là Hát lớn Hà Nội - ND) và khách dạo chơi trên đường Paul Bert (tức Tràng Tiền) tự hỏi khi nào khai trương nhà hát mới. Nhóm kịch Philharmonique có tham vọng gắn tên tuổi của họ vào ngày lễ khánh thành. Nhóm quyết định diễn vở hài kịch Chuyến đi của ông Perrichon (Le voyage de M.Perrichon) trong ngày khánh thành Nhà hát lớn với mục đích lấy tiền ủng hộ trẻ em lai lang thang. Thành phố trao cho nhóm kịch một sân khấu trống trơn, không màn kéo, không thiết bị trang trí. Một diễn viên là thú y sĩ sửa chữa những khiếm khuyết đó bằng một sự năng động ghê gớm: ông đã làm màn kéo và vẽ trên đó cảnh Hồ Gươm có Tháp Rùa. Chiếc màn kéo này được cách tân vào năm 1927 và mãi tới tận năm 1932 mới được thay thế bằng chiếc màn nhung kiểu Ý.
Ngày 9-12-1911, Nhà Hát thành phố Hà Nội được khánh thành với vở hài kịch Chuyến đi của ông Perrichon.
Hải phòng 1884
Bonnal
Trú sứ Hải Phòng
trích Au Tonkin 1872-1881-1886
Sau sáu tháng sống leo lắt ở Sơn Tây, tôi được bổ làm Trú sứ Hải Phòng, một vị trí quan trọng và thú vị hơn. Sau này tôi mới biết Thống tướng (Général en chef) nâng đỡ tôi vì ông hài lòng về việc tôi đã tuyển mộ thành công, nhưng không phải không khó khăn, 1500 phu ở Sơn Tây phục vụ quân đội hành quân đi Lạng Sơn.
... Khi bước chân lên Hải Phòng, tôi ngạc nhiên thấy tòa lãnh sự bị viên chỉ huy quân sự tỉnh thành chiếm mặc dù chỗ đó đã chính thức dành riêng cho Trú sứ để làm nhiệm vụ lãnh sự. Tố cáo chỉ vô ích vì lúc đó ở Bắc Kỳ đang thịnh hành nguyên tắc “tôi đã ở đây rồi thì anh hãy tránh ra”. Rất may, lúc đó tòa nhà của viên quan đứng đầu địa phương bỏ trống nên tôi cùng với văn phòng đóng ở đó sau khi tưởng sẽ phải thuê một cái nhà lá trong cánh đồng. Hải Phòng không thay đổi gì so với lúc tôi tới đây vào tháng 7-1883. Cũng như 18 tháng trước đây, hiện nay cái thiếu nhất của cái người ta gọi là tỉnh thành Hải Phòng là nhà ở và mặt bằng khô ráo để xây nhà. Lúc này, Hải Phòng không còn đội quân của Francis Garnier nữa và, theo hiệp ước 1874, Hải Phòng phải tạo ra một vùng đất nằm giữa con sông và sông Tam Bạc, tức là tạo ra một vùng bằng phẳng được các đê sông bảo vệ khỏi thủy triều nhưng lại hoàn toàn không bị ngập úng trong mùa mưa.
Để xây dựng tòa lãnh sự và các công trình phụ trợ, các văn phòng, trại lính và bệnh viện, các sĩ quan công binh chẳng có cách nào hơn là đào một hố rộng để lấy đất đắp nền. Để bảo đảm vệ sinh, họ cho hố thông với sông nhờ các van chuyển động. Do việc mở thương cảng ở Hải Phòng nên nhiều người châu Âu kéo tới đây. Họ xây nhà trên cánh đồng ngập nước bằng cách áp dụng quy trình như trên, tức là đào hố lấy đất để tôn nền. Các hố đào sâu và nhiều tới mức các hố xen kẽ lộn xộn với các nền nhà và ngay trong mùa khô cũng đầy nước. Những chỗ ở khiêm tốn như vậy chỉ được nối liền với khu nhượng địa hoặc đê bằng những con đường đất hay bằng các bờ ruộng lúa rải rác đây đó trong cánh đồng ngập nước.
Từ 1875, sự xuất hiện của các công trình lớn do Chính phủ Nam Kỳ (chỉ chính quyền của Thống Đốc Nam Kỳ - ND) thầu sau hiệp ước 1874 và sự có mặt của Lãnh sự Pháp, của đơn vị pháo binh hải quân bảo vệ tòa lãnh sự... đã thu hút tới đây một số lượng lớn phu khuân vác và thợ An Nam. Cho tới lúc này, các đơn vị bản xứ có mặt tại đây chỉ là một số lính ít ỏi ăn lương của các quan ở Hải Dương để trấn giữ một pháo đài nhỏ bằng đất tại cửa sông Tam Bạc đổ vào sông Cửa Cấm. Một số thương nhân Tầu nhanh chóng tới ở trong cảng mới mở. Họ xây dựng những ngôi nhà bằng gạch ở hai bên bờ sông Tam Bạc, trong đó bờ trái nhiều hơn tạo ra khu Hạ Lý.
Bonnal
Trú sứ Hải Phòng
trích Au Tonkin 1872-1881-1886
Sau sáu tháng sống leo lắt ở Sơn Tây, tôi được bổ làm Trú sứ Hải Phòng, một vị trí quan trọng và thú vị hơn. Sau này tôi mới biết Thống tướng (Général en chef) nâng đỡ tôi vì ông hài lòng về việc tôi đã tuyển mộ thành công, nhưng không phải không khó khăn, 1500 phu ở Sơn Tây phục vụ quân đội hành quân đi Lạng Sơn.
... Khi bước chân lên Hải Phòng, tôi ngạc nhiên thấy tòa lãnh sự bị viên chỉ huy quân sự tỉnh thành chiếm mặc dù chỗ đó đã chính thức dành riêng cho Trú sứ để làm nhiệm vụ lãnh sự. Tố cáo chỉ vô ích vì lúc đó ở Bắc Kỳ đang thịnh hành nguyên tắc “tôi đã ở đây rồi thì anh hãy tránh ra”. Rất may, lúc đó tòa nhà của viên quan đứng đầu địa phương bỏ trống nên tôi cùng với văn phòng đóng ở đó sau khi tưởng sẽ phải thuê một cái nhà lá trong cánh đồng. Hải Phòng không thay đổi gì so với lúc tôi tới đây vào tháng 7-1883. Cũng như 18 tháng trước đây, hiện nay cái thiếu nhất của cái người ta gọi là tỉnh thành Hải Phòng là nhà ở và mặt bằng khô ráo để xây nhà. Lúc này, Hải Phòng không còn đội quân của Francis Garnier nữa và, theo hiệp ước 1874, Hải Phòng phải tạo ra một vùng đất nằm giữa con sông và sông Tam Bạc, tức là tạo ra một vùng bằng phẳng được các đê sông bảo vệ khỏi thủy triều nhưng lại hoàn toàn không bị ngập úng trong mùa mưa.
Để xây dựng tòa lãnh sự và các công trình phụ trợ, các văn phòng, trại lính và bệnh viện, các sĩ quan công binh chẳng có cách nào hơn là đào một hố rộng để lấy đất đắp nền. Để bảo đảm vệ sinh, họ cho hố thông với sông nhờ các van chuyển động. Do việc mở thương cảng ở Hải Phòng nên nhiều người châu Âu kéo tới đây. Họ xây nhà trên cánh đồng ngập nước bằng cách áp dụng quy trình như trên, tức là đào hố lấy đất để tôn nền. Các hố đào sâu và nhiều tới mức các hố xen kẽ lộn xộn với các nền nhà và ngay trong mùa khô cũng đầy nước. Những chỗ ở khiêm tốn như vậy chỉ được nối liền với khu nhượng địa hoặc đê bằng những con đường đất hay bằng các bờ ruộng lúa rải rác đây đó trong cánh đồng ngập nước.
Từ 1875, sự xuất hiện của các công trình lớn do Chính phủ Nam Kỳ (chỉ chính quyền của Thống Đốc Nam Kỳ - ND) thầu sau hiệp ước 1874 và sự có mặt của Lãnh sự Pháp, của đơn vị pháo binh hải quân bảo vệ tòa lãnh sự... đã thu hút tới đây một số lượng lớn phu khuân vác và thợ An Nam. Cho tới lúc này, các đơn vị bản xứ có mặt tại đây chỉ là một số lính ít ỏi ăn lương của các quan ở Hải Dương để trấn giữ một pháo đài nhỏ bằng đất tại cửa sông Tam Bạc đổ vào sông Cửa Cấm. Một số thương nhân Tầu nhanh chóng tới ở trong cảng mới mở. Họ xây dựng những ngôi nhà bằng gạch ở hai bên bờ sông Tam Bạc, trong đó bờ trái nhiều hơn tạo ra khu Hạ Lý.
ul 4, 2009 at 1:30pm
Read more: http://mythuat.proboards.com/thread/591/7845-272-ai-vn-lich#ixzz2um57jG4J
Post by NhiHa on Jul 4, 2009 at 1:30pm
Theo các điều khoản của hiệp ước, lãnh sự
Pháp không có quyền hành bên ngoài khu nhượng địa. Các quan tỉnh Hải
Dương thì làm như không biết có một trung tâm dân cư mới vì trung tâm
này được tạo ra bằng đủ thứ tạp nham, đầy những kẻ lang thang và những
tên bất hảo, không có sự phê chuẩn của triều đình, không có quy chế của
một cộng đồng thông thường.
Không cảnh sát, phố xá và các bờ sông bẩn thỉu, các hố đào ở chân đê hôi thối và thiếu đường đi vào mùa mưa là những yếu tố làm cho Hải Phòng kém hấp dẫn người Pháp. Tuy nhiên, nếu những bất tiện này là một vấn đề lớn vào lúc cộng đồng người Pháp còn rất nhỏ bé thì nó không còn là vấn đề nữa khi đội quân chiếm đóng hàng ngày thu hút tới đây một số lượng đông đảo thương nhân châu Âu. Những người mới tới tràn đầy tin tưởng vào tương lai của tỉnh thành và cảng.
Vấn đề cảng của Bắc Kỳ đã gây ra những cuộc tranh cãi sôi nổi, đặc biệt là trong giới hàng hải. Các kỹ sư thủy văn và các sĩ quan hải quân không nhất trí được với nhau trong việc chọn một cảng mới trước khi thay thế cho cảng Hải Phòng. Một số người ca ngợi Quảng Yên, số khác ca ngợi Hòn gay trong vịnh Hạ Long, nhưng tất cả đều nhất trí yêu cầu Chính phủ Pháp bỏ Hải Phòng vì không có lối vào cho các tàu trọng tải lớn, được “xây dựng trên bùn” không bao giờ có thể nối với Hà Nội bằng đường sắt, bị các dòng chẩy rộng và xiết cắt ngang cắt dọc tạo ra ngập lụt lớn và tính kém ổn định của nền đất trong vùng châu thổ làm cho công tác xây dựng “tôn kém tới mức tất cả các nguồn tài nguyên của Bộ Thuộc Địa sẽ bị hút vào đây”. Mặc dù có những lời công kích mạnh mẽ chống lại cảng đặc biệt và có thể xây dựng được cầu cống. Nếu đất bùn nhão, có thể có sạt lở và thẩm lậu, và do đó các máy bơm sẽ không có tác dụng khi xây dựng dưới mực nước của các con sông bên cạnh. Cũng cần phải nâng cao các tường chống ít ra là ở một số điểm. Những thăm dò cho tôi biết khắp nơi là đất sét pha cát nén chặt và người ta có thể đào sâu tới 8 mét mà vẫn không có nước.
Yên tâm với vấn đề cốt tử này, tôi chuyển sang nghiên cứu kỹ chế độ sở hữu ruộng đất ở vùng lân cận khu nhượng địa. Một cuộc điều tra tiến hành kín đáo cho tôi biết rằng sẽ không có vấn đề trưng dụng ruộng đất với giá cao (à prix d'argent). Vị trí của con kênh tương lai hoàn toàn nằm ở khu vực người châu Âu không có mảnh đất nào. Thêm vào đó, ở xứ An Nam, việc trưng dụng ruộng đất vì lợi ích công cộng không được đền bù. Như vậy, tôi có thể trưng dụng những mảnh đất của người bản xứ nằm trong khu vực kênh, nhất là các quan tỉnh tôi dò ý hứa sẽ đền cho những người bị trưng dụng những mảnh đất tương đương nhưng mầu mỡ hơn thuộc nhà nước nằm bên Núi Voi cách Hải Phòng không xa. Thế là vùng đất giới hạn bởi con kênh và hai con sông hầu như hoàn toàn thuộc về người Pháp bằng cách hoặc mua lại của nhà cầm quyền địa phương, hoặc điều đình với những người bản xứ tự xưng là sở hữu chủ. Những người này thường lạm dụng sự cả tin của người mua nhưng nói chung giá cả luôn luôn rất thấp.
Tôi tham dự vào quá trình chuyển nhượng đó bằng cách coi mọi giao dịch là có giá trị và để cho tòa án lãnh sự xét xử cẩn thận các tranh chấp có thể có. Để lập dự án vạch ra các đường phố và đại lộ của thành phố tương lai, tôi giữ nguyên các con đường hiện có và tôn trọng đất của người Pháp bằng cách không chia nhỏ đất của họ ra. Điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng. Chỉ tới lúc này tôi mới cho những người bị cai trị biết dự án của mình. Đồng thời, tôi ngăn cấm mọi sự giao dịch về đất đai nhằm tránh những vụ đầu cơ đất có thể có hại cho lợi ích chung. Sau khi được thông báo dự án của tôi, mọi người Pháp ở Hải Phòng tỏ ra thỏa mãn và chúc mừng sáng kiến của tôi.
Giờ đây phải tìm nhân công cần thiết cho công trình tôi sắp đảm nhiệm mà không có một khoản tín dụng nào. May thay, ở An Nam có một thiết chế mà tên của nó người châu Âu nghe khó lọt tai, mặc dù thiết chế này vẫn còn tồn tại ở châu Âu dưới cái tên cỏ vê (corvée) kém tàn nhẫn hơn cái tên đi sâu.
Ở Bắc Kỳ, trừ một số người có đặc quyền, mọi người dân đều phải đi sâu. Họ phải làm không công trong việc xây dựng và sửa sang đê điều, đường xá, kênh mương, nói chung là các công trình mang lại lợi ích chung.
Từ hai năm nay, do chiến tranh và biến động, dân trong vùng Hải Phòng thoát khỏi sự đóng góp khá nặng này, nhất là khi thời gian đi sâu quá dài hay trùng vào mùa cấy hái. Chúng tôi đang ở vào mùa khô. dân bản xứ đang nhàn rỗi. Thật là thời điểm thuận lợi cho việc tập trung về Hải Phòng những người phải đi sâu trong các tổng lân cận.
Các quan tỉnh rất sẵn sàng cho việc đó và thậm chí còn hứa cung cấp cho nhân công khẩu phần gạo và tiền trích từ ngân khố tỉnh. Họ cho tôi một viên võ quan hàm Lãnh Binh để làm nhiệm vụ cảnh sát trong các công trường do ông Bédat, phụ trách công chính, làm chỉ huy trưởng.
Công trình được khởi công ngay. Những nông dân Bắc Kỳ là những người thợ đất tuyệt vời. Việc xây dựng các con đê ở vùng châu thổ Bắc Kỳ là tác phẩm của dân tộc cần cù và kiên nhẫn này. Không có một dụng cụ gì khác ngoài chiếc mai và cái thúng đan bằng tre, họ đã dựng lên trên bờ của tất cả các dòng sông một mạng đê điều rộng lớn, kết quả của một khối lượng lao động vĩ đại, để bảo vệ vùng châu thổ khỏi những trận ngập lụt theo chu kỳ của Sông Hồng.
Ngay từ đầu, chất đất làm cho công việc tiến hành rất dễ dàng. Mai cắm sâu vào đất sét pha cát ướt sắn ra những miếng đất đều đặn để thợ bốc lên. Những người khác kém khỏe mạnh hơn hoặc có tuổi, đôi khi có cả trẻ em và phụ nữ bị lôi cuốn bởi khẩu phần gạo, làm thành dây chuyền chuyển đất tới tận chỗ san lấp. Công việc tiến hành như vậy trong khoảng hai tháng bằng các đội phu thay phiên nhau cứ tám ngày một lần mà không hề có sự phản đối nào của dân chúng bản xứ. Khi lòng kênh đã hình thành giữa các con đê được dựng lên để ngăn nước tràn vào thì một sự cố đáng buồn xảy ra làm ngưng trệ công việc và ảnh hưởng tới việc hoàn thành nó.
Trong khi áp dụng các sáng kiến để tạo ra mặt bằng cho người Pháp xây dựng nhà ở và các công trình công thương nghiệp, tôi không hề nghĩ tới sự phản đối của các quan chức ở Hà Nội. Tại Bộ tham mưu của Thống tướng, người ta lo ngại về công việc của viên Trú sứ, không tiền và, chỉ bằng một thiết chế của dân bản xứ, dám xấc xược tạo ra một thành phố. Giới quan liêu dân sự ở Hà Nội phản đối kịch liệt công trình và nóng lòng chờ đợi cơ hội để làm nó sụp đổ.
Chẳng lâu la gì, các biến cố trên chiến trường Lạng Sơn đã cung cấp cơ hội cho những chống đối đó. Để chuẩn bị cho cuộc viễn chinh tới một vùng quan trọng như Lạng Sơn, cần phải tuyển mộ phu khuân vác trong thời hạn một năm để vận chuyển lương thực và đạn dược. Giới cầm quyền quân sự đã kêu gọi các trú sứ hợp tác. Trước đây khi ở Sơn Tây, tôi đã tuyển mộ, không phải là không vất vả, được 1.500 người bản xứ tình nguyện để đưa về Hà Nội. Các tỉnh khác ở vùng châu thổ không thể tuyển được nhiều như thế. Hiện nay công việc vận chuyển rất khó khăn. Bị thuyết phục bởi những báo cáo có dụng ý của công binh Hải Phòng rằng hàng ngàn người lao động đang bị thu hút vào các công trình của thành phố, giới quân sự liền ra lệnh cho tôi bằng điện tín phải dùng dân binh bao vây công trường, sau đó dùng vũ lực tập trung số người lao động đó lại và cho người áp giải lên Lạng Sơn. Tôi đang sẵn sàng từ chức công sứ để không a tòng theo một hành động mà tôi cho là lạm quyền không thể tha thứ được thì có người báo cho tôi biết là những người khỏe mạnh đã trốn khỏi công trường từ nhiều giờ rồi, chỉ còn lại phụ nữ và trẻ em. Không còn nghi ngờ gì nữa: đã có sự bất cẩn và chắc chắn một nhân viên nào đó người bản xứ đã thông báo cho nhà cầm quyền An Nam kế hoạch mai phục và họ đã làm trống trơn các công trường.
Tôi cho Hà Nội biết và sự việc lúc này tạm gác lại. Thế là công trình bị đình lại trong sự luyến tiếc của những người Pháp ở Hải Phòng. Năm sau, công trình do tôi phụ trách lại tiếp tục và tiến hành cho tới kết quả mỹ mãn, khi chế độ dân sự bắt đầu ở Bắc Kỳ dưới chính quyền của Paul Bert.
Không cảnh sát, phố xá và các bờ sông bẩn thỉu, các hố đào ở chân đê hôi thối và thiếu đường đi vào mùa mưa là những yếu tố làm cho Hải Phòng kém hấp dẫn người Pháp. Tuy nhiên, nếu những bất tiện này là một vấn đề lớn vào lúc cộng đồng người Pháp còn rất nhỏ bé thì nó không còn là vấn đề nữa khi đội quân chiếm đóng hàng ngày thu hút tới đây một số lượng đông đảo thương nhân châu Âu. Những người mới tới tràn đầy tin tưởng vào tương lai của tỉnh thành và cảng.
Vấn đề cảng của Bắc Kỳ đã gây ra những cuộc tranh cãi sôi nổi, đặc biệt là trong giới hàng hải. Các kỹ sư thủy văn và các sĩ quan hải quân không nhất trí được với nhau trong việc chọn một cảng mới trước khi thay thế cho cảng Hải Phòng. Một số người ca ngợi Quảng Yên, số khác ca ngợi Hòn gay trong vịnh Hạ Long, nhưng tất cả đều nhất trí yêu cầu Chính phủ Pháp bỏ Hải Phòng vì không có lối vào cho các tàu trọng tải lớn, được “xây dựng trên bùn” không bao giờ có thể nối với Hà Nội bằng đường sắt, bị các dòng chẩy rộng và xiết cắt ngang cắt dọc tạo ra ngập lụt lớn và tính kém ổn định của nền đất trong vùng châu thổ làm cho công tác xây dựng “tôn kém tới mức tất cả các nguồn tài nguyên của Bộ Thuộc Địa sẽ bị hút vào đây”. Mặc dù có những lời công kích mạnh mẽ chống lại cảng đặc biệt và có thể xây dựng được cầu cống. Nếu đất bùn nhão, có thể có sạt lở và thẩm lậu, và do đó các máy bơm sẽ không có tác dụng khi xây dựng dưới mực nước của các con sông bên cạnh. Cũng cần phải nâng cao các tường chống ít ra là ở một số điểm. Những thăm dò cho tôi biết khắp nơi là đất sét pha cát nén chặt và người ta có thể đào sâu tới 8 mét mà vẫn không có nước.
Yên tâm với vấn đề cốt tử này, tôi chuyển sang nghiên cứu kỹ chế độ sở hữu ruộng đất ở vùng lân cận khu nhượng địa. Một cuộc điều tra tiến hành kín đáo cho tôi biết rằng sẽ không có vấn đề trưng dụng ruộng đất với giá cao (à prix d'argent). Vị trí của con kênh tương lai hoàn toàn nằm ở khu vực người châu Âu không có mảnh đất nào. Thêm vào đó, ở xứ An Nam, việc trưng dụng ruộng đất vì lợi ích công cộng không được đền bù. Như vậy, tôi có thể trưng dụng những mảnh đất của người bản xứ nằm trong khu vực kênh, nhất là các quan tỉnh tôi dò ý hứa sẽ đền cho những người bị trưng dụng những mảnh đất tương đương nhưng mầu mỡ hơn thuộc nhà nước nằm bên Núi Voi cách Hải Phòng không xa. Thế là vùng đất giới hạn bởi con kênh và hai con sông hầu như hoàn toàn thuộc về người Pháp bằng cách hoặc mua lại của nhà cầm quyền địa phương, hoặc điều đình với những người bản xứ tự xưng là sở hữu chủ. Những người này thường lạm dụng sự cả tin của người mua nhưng nói chung giá cả luôn luôn rất thấp.
Tôi tham dự vào quá trình chuyển nhượng đó bằng cách coi mọi giao dịch là có giá trị và để cho tòa án lãnh sự xét xử cẩn thận các tranh chấp có thể có. Để lập dự án vạch ra các đường phố và đại lộ của thành phố tương lai, tôi giữ nguyên các con đường hiện có và tôn trọng đất của người Pháp bằng cách không chia nhỏ đất của họ ra. Điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng. Chỉ tới lúc này tôi mới cho những người bị cai trị biết dự án của mình. Đồng thời, tôi ngăn cấm mọi sự giao dịch về đất đai nhằm tránh những vụ đầu cơ đất có thể có hại cho lợi ích chung. Sau khi được thông báo dự án của tôi, mọi người Pháp ở Hải Phòng tỏ ra thỏa mãn và chúc mừng sáng kiến của tôi.
Giờ đây phải tìm nhân công cần thiết cho công trình tôi sắp đảm nhiệm mà không có một khoản tín dụng nào. May thay, ở An Nam có một thiết chế mà tên của nó người châu Âu nghe khó lọt tai, mặc dù thiết chế này vẫn còn tồn tại ở châu Âu dưới cái tên cỏ vê (corvée) kém tàn nhẫn hơn cái tên đi sâu.
Ở Bắc Kỳ, trừ một số người có đặc quyền, mọi người dân đều phải đi sâu. Họ phải làm không công trong việc xây dựng và sửa sang đê điều, đường xá, kênh mương, nói chung là các công trình mang lại lợi ích chung.
Từ hai năm nay, do chiến tranh và biến động, dân trong vùng Hải Phòng thoát khỏi sự đóng góp khá nặng này, nhất là khi thời gian đi sâu quá dài hay trùng vào mùa cấy hái. Chúng tôi đang ở vào mùa khô. dân bản xứ đang nhàn rỗi. Thật là thời điểm thuận lợi cho việc tập trung về Hải Phòng những người phải đi sâu trong các tổng lân cận.
Các quan tỉnh rất sẵn sàng cho việc đó và thậm chí còn hứa cung cấp cho nhân công khẩu phần gạo và tiền trích từ ngân khố tỉnh. Họ cho tôi một viên võ quan hàm Lãnh Binh để làm nhiệm vụ cảnh sát trong các công trường do ông Bédat, phụ trách công chính, làm chỉ huy trưởng.
Công trình được khởi công ngay. Những nông dân Bắc Kỳ là những người thợ đất tuyệt vời. Việc xây dựng các con đê ở vùng châu thổ Bắc Kỳ là tác phẩm của dân tộc cần cù và kiên nhẫn này. Không có một dụng cụ gì khác ngoài chiếc mai và cái thúng đan bằng tre, họ đã dựng lên trên bờ của tất cả các dòng sông một mạng đê điều rộng lớn, kết quả của một khối lượng lao động vĩ đại, để bảo vệ vùng châu thổ khỏi những trận ngập lụt theo chu kỳ của Sông Hồng.
Ngay từ đầu, chất đất làm cho công việc tiến hành rất dễ dàng. Mai cắm sâu vào đất sét pha cát ướt sắn ra những miếng đất đều đặn để thợ bốc lên. Những người khác kém khỏe mạnh hơn hoặc có tuổi, đôi khi có cả trẻ em và phụ nữ bị lôi cuốn bởi khẩu phần gạo, làm thành dây chuyền chuyển đất tới tận chỗ san lấp. Công việc tiến hành như vậy trong khoảng hai tháng bằng các đội phu thay phiên nhau cứ tám ngày một lần mà không hề có sự phản đối nào của dân chúng bản xứ. Khi lòng kênh đã hình thành giữa các con đê được dựng lên để ngăn nước tràn vào thì một sự cố đáng buồn xảy ra làm ngưng trệ công việc và ảnh hưởng tới việc hoàn thành nó.
Trong khi áp dụng các sáng kiến để tạo ra mặt bằng cho người Pháp xây dựng nhà ở và các công trình công thương nghiệp, tôi không hề nghĩ tới sự phản đối của các quan chức ở Hà Nội. Tại Bộ tham mưu của Thống tướng, người ta lo ngại về công việc của viên Trú sứ, không tiền và, chỉ bằng một thiết chế của dân bản xứ, dám xấc xược tạo ra một thành phố. Giới quan liêu dân sự ở Hà Nội phản đối kịch liệt công trình và nóng lòng chờ đợi cơ hội để làm nó sụp đổ.
Chẳng lâu la gì, các biến cố trên chiến trường Lạng Sơn đã cung cấp cơ hội cho những chống đối đó. Để chuẩn bị cho cuộc viễn chinh tới một vùng quan trọng như Lạng Sơn, cần phải tuyển mộ phu khuân vác trong thời hạn một năm để vận chuyển lương thực và đạn dược. Giới cầm quyền quân sự đã kêu gọi các trú sứ hợp tác. Trước đây khi ở Sơn Tây, tôi đã tuyển mộ, không phải là không vất vả, được 1.500 người bản xứ tình nguyện để đưa về Hà Nội. Các tỉnh khác ở vùng châu thổ không thể tuyển được nhiều như thế. Hiện nay công việc vận chuyển rất khó khăn. Bị thuyết phục bởi những báo cáo có dụng ý của công binh Hải Phòng rằng hàng ngàn người lao động đang bị thu hút vào các công trình của thành phố, giới quân sự liền ra lệnh cho tôi bằng điện tín phải dùng dân binh bao vây công trường, sau đó dùng vũ lực tập trung số người lao động đó lại và cho người áp giải lên Lạng Sơn. Tôi đang sẵn sàng từ chức công sứ để không a tòng theo một hành động mà tôi cho là lạm quyền không thể tha thứ được thì có người báo cho tôi biết là những người khỏe mạnh đã trốn khỏi công trường từ nhiều giờ rồi, chỉ còn lại phụ nữ và trẻ em. Không còn nghi ngờ gì nữa: đã có sự bất cẩn và chắc chắn một nhân viên nào đó người bản xứ đã thông báo cho nhà cầm quyền An Nam kế hoạch mai phục và họ đã làm trống trơn các công trường.
Tôi cho Hà Nội biết và sự việc lúc này tạm gác lại. Thế là công trình bị đình lại trong sự luyến tiếc của những người Pháp ở Hải Phòng. Năm sau, công trình do tôi phụ trách lại tiếp tục và tiến hành cho tới kết quả mỹ mãn, khi chế độ dân sự bắt đầu ở Bắc Kỳ dưới chính quyền của Paul Bert.
Read more: http://mythuat.proboards.com/thread/591/7845-272-ai-vn-lich#ixzz2um57jG4J
PHẠM QUỲNH * MỘT THÁNG Ở NAM KỲ
Một tháng ở Nam kỳ-Phần I
Phạm Quỳnh
Phạm Quỳnh
Làm trai đã đáng nền trai, Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng.
Cứ
theo lời ca dao đó thì tôi đây có lẽ cũng đã đủ tư cách làm một “nền
trai” đất Nam Việt vậy. Mùa xuân năm nay đã trải qua mười ngày ở Huế,
mùa thu này lại từng ở một tháng Nam Kỳ,... không kể trong ngoại hai
mươi năm trời đã sinh trưởng ở chốn Thăng Long đô cũ, trong khoảng sông
Nhị núi Nùng; nếu có thế mà đủ làm trai Nam Việt, thì tôi đây thật đã
thập phần xứng đáng rồi. Nhưng mà đoái nghĩ: nghề làm trai ở đời, nhất
là làm trai nước Nam này, há phải dung dị lắm rư? Lời ca dao kia há có
thiển nghĩa thế ru? Ôi! Đương buổi Quốc Triều gây dựng cơ đồ, đánh nam
dẹp bắc, thiếu gì những kẻ tang bồng hồ thỉ, chí khí nam nhi, nay tòng
quân ở Thuận Hóa, mai viễn thú đất Đồng Nai, vào sinh ra tử chốn sa
tràng, mong lập công danh cùng xã tắc: lời ca dao kia là tả cái chí của
những bậc vô danh anh hùng đó, chớ có đâu lại hợp với cái cảnh một kẻ
thư sinh nhỏ mọn như bỉ nhân đây, thừa lúc trong nước còn hiếm người
mới ra lạm một phần ngôn luận với quốc dân, nghĩ mình lắm lúc đã thẹn
thay, có đâu lại mê cuồng đến đem lời khen của cổ nhân mà tự gán cho
mình!...
Song Đi cho biết đó biết đây Ở nhà với mẹ đến ngày
nào khôn. ca dao cũng lại có câu như thế, thì tuy ở Huế mười ngày, Nam
Kỳ một tháng, chưa đủ làm được “nền trai” Nam Việt, mà cũng đủ học
“khôn” được ít nhiều. Huống tuy khác xứ mà cũng đất nước nhà, tuy người
lạ mà cùng là anh em, thời càng quen biết lại càng đậm đà cái tình máu
mủ, càng đằm thắm cái nghĩa quê hương; như thế thì mấy phen du lịch
cũng là mấy lần đi học cho biết cái nghề làm trai nước nhà vậy.
Lần trước đã từng thuật những sự tư tưởng cảm giác ở Trường An, lần này lại xin kể những sự kinh lịch kiến văn ở Lục Tỉnh; không phải là muốn khoe với ai cái văn chương sốc nổi, chỉ muốn đem lời thành thực mà giãi bày bàn bạc cùng quốc dân, hoặc lòng nhiệt thành có người cảm, lời bàn ngay có kẻ nghe, ấy là mãn nguyện vậy.
Nhưng trước khi kể chuyện Nam Kỳ, tưởng nên giải qua cái tính cách hai cuộc du lịch trước sau khác nhau thế nào. Lần trước là đi vãn cảnh một nơi đất cũ, còn đầy những dấu tích đời xưa, mỗi bước như động đến tấm lòng hoài cổ, chạnh những nông nỗi cố hương; nghe tiếng chim kêu trên bãi cát mà nỗi thương nước nhớ nhà không thể cầm được, ngắm bức phong cảnh chốn tôn lăng mà lòng cảm hoài về lịch sử như chan như chứa; bao nhiêu những giọng ngậm ngùi ai oán thủa bình sinh không ngờ mà lâm li trên tờ giấy, khiến người đọc cũng phải lạnh lẽo trong lòng. Đương buổi thế giới cấp tiến, người đời xô đuổi nhau vào con đường tương lai vô hạn, quay đầu lại nhìn về đời trước, còn gì buồn bằng! Lần này thì thật khác: cái khí vị lạnh lẽo kia đã đổi ra cái khí vị nồng nàn rồi. Nam Kỳ là một nơi đất mới, mới đủ đường: địa chất, lịch sử, văn hóa đều là mới cả; người ta đương hăm hở về đường tiến thủ, muốn bước cho chóng, lên cho mau, chưa từng bận lòng đến những nỗi thương cũ tiếc xưa, phiền xa buồn muộn. Đất cũng không từng có những dấu vết cũ, như tòa thành cổ, góc miếu xưa, đủ nhắc cho người ta tấm lòng nhớ cũ, mà chỉ mênh mang những đồng rộng không cùng, sức người mở mang không xuể. Lại thêm Tạo vật đãi người quá hậu, cho cái đất kia phì nhiêu có một, cách làm ăn không khó nhọc mà đường sinh hoạt được thảnh thơi; tiền bạc đã nhiều, tiêu dùng càng lắm, đời người như lấy sự khoái lạc làm cái mục đích không hai. Khoái lạc lại khoái lạc mà suốt năm như bữa tiệc một ngày! Cho nên cái cảm giác của người mới bước chân tới đây là cái cảm giác vui, vui mà tin cậy ở cái tương lai, chớ không phải buồn mà thương tiếc cho sự ký vãng.
Ấy hai cuộc du lịch khác nhau như thế, lời kỷ thuật tất cũng không in một giọng. Đó là một lẽ tự nhiên, không lấy gì làm lạ. Song sự vui sự buồn tuy gốc tự lòng người mà thực bởi cảnh vật khiến nên. Hoặc giả có kẻ nói có biết nghĩ mới biết buồn, muốn vui ắt phải vô tâm, thì lỗi ấy tác giả cũng xin nhận một phần, mà cảnh vật xứ Nam Kỳ mới thật là đáng quá nửa vậy.
Từ Hà Nội vào Sài Gòn muốn đi đường thủy hay đường bộ cũng được. Nhưng
đường bộ đi bằng xe hơi mới giao thông được ít lây nay, vừa khó nhọc và
vừa có khi nguy hiểm nữa. Vì con đường quan lộ về địa phận Trung Kỳ,
nhất là từ Huế trở vào, còn xấu lắm, lại lắm chỗ cách sông cách núi,
thật là chưa tiện cho xe đi lại. Hoặc có những người hiếu kỳ mới đi
bằng xe hơi tự Hà Nội về Sài Gòn như thế, là muốn cho mới lạ, chớ thực
chưa phải là một cách tiện lợi cho hành khách Bắc Nam. Hiện bây giờ xe
hơi dùng chở thơ nhiều hơn là chở khách. Sau này bao giờ đường xe lửa
chạy suốt Đông Dương làm xong thì bấy giờ sự giao thông xứ Bắc với Nam
bằng đường bộ mới thật là tiện lợi. Hiện nay vẫn chỉ có đường bể là
hơn. Chỉ ngặt từ khi có chiến tranh, phần nhiều các tàu bể bị Nhà nước
thu để dùng về việc quốc phòng bên Âu châu, ở đây thường thiếu tàu đi
lại, sự giao thông có chậm trễ hơn xưa. Vài tháng mới có một chuyến tàu
lớn ở Tây đáp sang, còn chạy thường chỉ có vài chiếc nhỏ, khi xuống
Tân Gia Ba, khi lên Hương Cảng, đi lại không kỳ, hành khách thường phải
chờ đợi đầy tuần. Bắc Kỳ ta có công ti Bạch Thái Bưởi có tàu đi bể
được, nếu đủ sức mà đặt được một đường Hải Phòng - Sài Gòn thì đương
buổi hiếm tàu này chắc là chóng phát đạt lắm. Các nhà buôn ta trong Nam
ngoài Bắc đều ước ao như thế cả.
Hồi sửa soạn đi Nam Kỳ vừa gặp có chuyến tàu lớn ở Nhật Bản về. Tàu hiệu Porthos của công ty Hằng hải Á Đông (Cie des Messageries maritimes), vừa to, vừa mau, các chiếc khác đi Hải Phòng - Sài Gòn phải năm ngày năm đêm, chiếc này đi chỉ đầy ba đêm hai ngày.
Được tin có tàu, vội vàng đi xe lửa xuống Hải Phòng. Bữa ấy là ngày 21 tháng tám tây, tức là rằm tháng bảy ta. Sông Nhị Hà đương lên, tin báo lụt đã thấy truyền lại nhiều nơi. Ngồi trong xe lửa trông ra có chỗ mênh mang những nước. Thôi, cái nạn lớn hằng năm năm nay cũng lại không tha cho dân xứ Bắc! Trước khi tạm biệt đất Bắc Kỳ, nhìn lại cái cảnh nước bùn trời nặng kia mà thương thay cho bọn nông dân xứ Bắc mình, thật là cất đầu không nổi với ông Thủy vương cay nghiệt! Khi tới Nam Kỳ, thấy đồng bào ta trong Lục Tỉnh cách làm ăn dễ dãi như thế, nghĩ đến đường sinh nhai eo hẹp của người mình, cái lòng thương anh em nơi cố quận lại càng thiết tha lắm nữa.
Tới Hải Phòng được tin đích rằng 3 giờ trưa ngày mai là ngày 22 tàu mới cất neo ra bến. Vậy còn phải đợi một ngày nữa, muốn nhân dịp sang chơi qua bên Kiến An. Đi xe tay mất hơn một giờ, phải qua một cái đò ngang. Kiến An là một tỉnh mới, trước thuộc Hải Dương, nay gồm mấy phủ huyện quanh thành phố Hải Phòng. Tuy Kiến An đối với Hải Phòng cũng như Hà Đông đối với Hà Nội, mà tỉnh lỵ sơ sài, phố phường vắng vẻ, không có cái cơ phát đạt như Hà Đông. Lệ xưa nay, một tỉnh nhỏ ở cạnh nơi đô hội lớn thì cái sức sinh hoạt hình như bị thu rút cả vào nơi đô hội ấy: Kiến An đối với Hải Phòng cũng tức như vậy. Hà Đông có khác là vì Hà Đông ở chốn trung ương, tuy cũng bị Hà Nội át về đường buôn bán mà vẫn là nơi trung tâm của một miền quê giàu có đông đủ đệ nhất ở Bắc Kỳ. Cả Kiến An hình như núp ở dưới nhà Thiên văn đài Phù Liễn, xây trên cái đồi cao, nhìn xa như một cái thành lớn hám chế một địa phương. Khi sắp tới đã thấy đột ngột trước mắt, khi quay về còn thấy sừng sững sau lưng, mà tiếc trời đã về chiều, giời đã có hẹn, không thể lên xem tận nơi được, khiến cho đến nay cái hình ảnh nhà Thiên văn đài Kiến An vẫn còn phảng phất trong tưởng tượng vậy.
Buổi tối đi dạo chơi trong thành phố. Hải Phòng thật là đáng làm nơi đô hội thứ nhì xứ Bắc Kỳ. Về đường buôn bán hơn Hà Nội đã cố nhiên rồi, mà cái tương lai xem ra còn có thể bành trướng hơn chốn cổ đô mình nhiều. Hà Nội đã già quá, cũ quá rồi, cái sức phát đạt hình như có hạn, không thể ra ngoài được nữa. Chắc cái phong thể riêng không bao giờ mất hết được, cái nền nếp cũ rồi cũng vẫn còn, về đường học thức, về đường mỹ nghệ, về cách đàn điếm phong lưu, bao giờ cũng vẫn giữ được bậc nhất mà không đến nỗi phụ cái thanh danh cũ, cũng tức như cô con gái thế gia dù vào cảnh ngộ nào vẫn ra con người nền nếp. Nhưng về đường buôn bán, đường công nghệ, về cách làm ăn kiếm tiền, thì không sao tranh nổi với Hải Phòng được. Hải Phòng còn đương vào cái thời kỳ trai trẻ, chưa biết lớn đến đâu, thịnh đến đâu là cùng. Vả bởi cái địa thế làm nơi cửa bể chung cho cả Bắc Kỳ, hành khách đồ hàng đâu đâu cũng tất phải qua đấy, thì Hải Phòng lại hình như gồm được cả sự sinh hoạt của xứ Bắc Kỳ về đường kinh tế nữa.
Cho nên cái tương lai của Hải Phòng thật không thể lượng được vậy.
Mà đoái nghĩ cái thành phố lớn ấy, cái cửa bể to ấy, thành lập chưa đầy năm mươi năm trời. Trước kia chẳng qua là một xóm nhỏ ở gần bể, khi nước ta bắt đầu giao thông với Đại Pháp, Triều đình mới đặt một tòa Thương chánh để kiểm tra tàu bè cùng hàng hóa xuất nhập. Kế sau Đại Pháp sang bảo hộ, nhân đấy đặt nên cơ sở một nơi đô hội lớn, từ đó cứ mỗi ngày một phát đạt mãi lên, thực là bởi công Nhà nước Bảo hộ sáng tạo ra vậy. Có người làm sách đã nói: “Cửa bể Hải Phòng là tay người Đại Pháp tự không mà gây dựng nên, trên đống bùn lầy sông Cửa Cấm”, thực không phải là nói ngoa vậy.
Đường phố Hải Phòng phần nhiều rộng rãi hơn Hà Nội, nhà cửa đều đặn hơn, và thường làm theo một kiểu, không có cái cao cái thấp, cái ra cái vào như nhiều phố cũ ở tỉnh ta. Là bởi những đường phố nhà cửa ấy mới đặt mới làm cả, nên có thể nhất luật theo cách mới, coi rộng rãi thảnh thơi hơn. Buổi chiều, vào sáu giờ, nhất là ở đường Cầu Đất, là đường đi thẳng ra Đồ Sơn, xe ngựa xe hơi chạy lũ lượt không dứt, coi như cảnh tượng ngày hội: đó là xe của những nhà buôn to bán lớn trong thành phố, cả ngày làm việc nhọc mệt, kế lợi thương công, chiều đến ra hóng mát bờ bể. Các chú ở phố khách thì chiều đến cũng xô nhau vào ăn uống om sòm trong các nhà cao lâu: đó tức là cách giải trí của các chú. Mà người mình lắm người cả ngày không nhọc trí chút nào, tối đến cũng đua nhau mà giải trí như người! Bữa đó là tối ngày rầm tháng bảy, phố khách nhà nào nhà nấy đốt đèn nến, bày vàng mã ngay ngoài hè, khói hương nghi ngút, tàn lửa tơi bời, kẻ đi người lại tấp nập, tiếng hò tiếng hét om sòm. Sau này tới Nam Kỳ mỗi lần dạo chơi phố phường Chợ Lớn hay là dạo qua đường Chợ Cũ Chợ Mới Sài Gòn, lại sực nhớ đến cái cảnh tượng mấy phố khách ở Hải Phòng chiều hôm ấy. Nhưng cái “China họa” (le péril chinois) ở xứ Bắc mình tuy đã thâm lắm mà tỉ với Nam Kỳ còn chưa thấm vào đâu: Hải Phòng tức là Chợ Lớn Bắc Kỳ có 8.991 người Khách, mà Chợ Lớn Nam Kỳ có những 75.000 Khách với 4.873 người Minh Hương! Hà Nội có 3.377 người Khách với 825 người Minh Hương, mà Sài Gòn có những 22.079 người Khách với 677 người Minh Hương! Coi đó thì biết cái nguy cho xứ Nam Kỳ to là dường nào. Nhưng chưa tới Nam Kỳ đã nói chuyện Khách Nam Kỳ, thật là kỷ thuật không có thứ tự. Vậy xin để sau này sẽ nói tường hơn. Nay nhân nói về Khách Hải Phòng, chỉ muốn so sánh qua cái số người Tàu trong Nam ngoài Bắc, cho biết cái vạ China ở hai xứ hơn kém nhau thế nào . Song dù hơn, dù kém, dù ít, dù nhiều, cũng vẫn là một cái vạ lớn cho nước Nam mình, quốc dân ta nên sớm tỉnh ngộ mà mưu trừ đi, mới mong có ngày thu phục được mối thương quyền mà ra tranh đua trên thị trường thế giới.
Hai giờ trưa ngày 22 dọn đồ xuống tàu. Tàu to lớn thay! Thật như một cái thành thả trên mặt nước vậy. Bề dài ước một trăm rưởi thước tây, bề rộng ở giữa đến 25, 30 thước. Vào trong không quen như mê li, chẳng biết đường nào vào đường nào, phải có người dẫn mới tìm thấy buồng. Sau đi dạo qua một lượt các hạng các từng mới biết cách sắp đặt thật là khéo, thật là chỉnh tề, thật là có ngăn nắp mà rõ ra đâu vào đấy, nghĩ người nào vẽ ra cái qui mô ấy thật cũng tài thay. Có ba hạng, hạng tư là đi trên “boong”. Hạng nhất, nhì, ba đều có buồng ăn buồng ngủ, chỗ ngồi chơi chỉnh đốn lắm, mà hạng nhất thì thật là lịch sự: các buồng trang sức cực đẹp, đồ gỗ bóng lộn, pha lê trong suốt, mặt gương lấp loáng, màn đệm trắng bong, bồi khách ăn bận sạch sẽ, nhất loạt đầu trọc, áo trắng, quần táo tầu, hầu hạ rất có phép tắc, thật là nghiễm nhiên như một nhà khách sạn thượng hạng ở Hà Nội hay Sài Gòn vậy. Nghe nói chiếc Porthos này là vào hạng tàu lớn nhất đẹp nhất của công ty Hằng Hải Á Đông, cũng ngang với chiếc Athos bị trúng thủy lôi ở Địa Trung Hải năm trước. Nghĩ một chiếc tàu thôi ngôi vĩ đại như thế này mà không may phải đánh đắm thì thiệt hại biết bao nhiêu, bao nhiêu công mà bao nhiêu của! Từ ngày quân Đức khởi ra cái cách chiến tranh tối dã man, là dùng tàu ngầm mà đánh đắm những tàu buôn của địch quốc, các công ty hằng hải tổn hại cũng đã nhiều, mà bể Địa Trung Hải (Méditerranée) đã thành cái vực sâu nuốt mất bao nhiêu những con kềnh nghê bằng sắt bằng gỗ như chiếc Porthos này, lại thành cái mồ chung của mấy nghìn vạn kẻ vô cô chết vì tay oan nghiệt giống dã man. Cho nên đã lâu nay các tàu lớn về Tây chỉ đi đến Hồng Hải (Mer Rouge) mà thôi, tới đấy đã có tàu riêng nhận lấy đồ hàng lấy khách, rồi kèm thêm những tàu chiến, như khu trục hạm (croiseurs de chasse) ngư lô đĩnh (torpillenrs) mới dám đi vào Đại Trung Hải. Hoặc có tàu ngầm Đức thì những tàu chiến đi kèm ấy phải ra đuổi đánh. Nghe những người đi Tây thuật lại, thật cũng nguy hiểm thay. Nhưng mới rồi được tin chiếc Porthos đã đi tới Marseille trót lọt, không phải đậu ở cửa Hồng Hải, như thế thì biết gần đây cái hoạn tàu ngầm đã bớt đi nhiều và sự giao thông đã được dễ hơn mấy tháng trước. Nhưng cũng là cái triệu chứng rằng quân Đức đã kiệt lực, sắp đến ngày không còn sức đâu mà phạm ác với nhân loại được nữa.
Chuyến ấy có chở hơn hai nghìn lính mộ vẫn ở “Bãi Cháy” (Ile de la Table) chờ tàu về Tây đã mấy tháng nay. Tự sáng sớm đến quá trưa quân quan kiểm điểm cho lính xuống tàu, gần nơi bến tàu canh giữ nghiêm lắm. Đứng xa trông nhan nhản những người ăn bận đồ vàng, vai đeo chăn áo, tay sách nồi niêu, lũ lượt kéo đến dưới chân tàu, mà cái thang chỉ đi được người một, nối gót nhau trèo lên, coi xa như một cái chão lớn buộc tàu mà có người đứng trên từ từ kéo vậy. Mà cứ thế, trong mấy giờ đồng hồ, nhìn cũng vui mắt thật. Ấy có vài ba nghìn người mà thế, những khi tàu chở đến một quân đoàn mấy vạn người thì còn oai nghiêm đến thế nào! Khá khen thay là sức cái tàu kia, mạnh đến bao nhiêu mà coi vững như Thái Sơn, có bấy nhiêu người chớ giá tưởng cả bao nhiêu người trong phố phường này trút xuống cũng có thể dung được.
Đúng 3 giờ, tàu thổi hiệu cất cầu. Kẻ trên người dưới xôn xao: những bà con anh em xuống tiễn nhau, ai nấy tất tả chạy lên cho kịp, mà vừa đi vừa ngoảnh lại, nhìn mặt bắt tay một lần nữa. Những người đi gần, mươi lăm hôm, một vài tháng lại về, thì kẻ mừng nhau đi cho bình yên, người chúc nhau ở lại mạnh khỏe. Đến như những người biệt nhau mà chưa biết bao giờ lại gặp, nghĩ đến nông nỗi xa xôi, đường đi nguy hiểm, thì cái cảm tình lúc sau cùng ấy lời mừng lời chúc nào mà nói cho xiết được. Có kẻ nhịn khóc, có kẻ gượng cười, mà tưởng bấy giờ lắm người tấm lòng thổn thức khôn cầm. Lại đoái nghĩ đến mấy nghìn con người quê mùa mộc mạc kia, vị nghĩa quyên thân mà bỏ cửa bỏ nhà đi xa lần này là thứ nhất, tuy lúc bấy giờ vợ con xa, anh em vắng, không có kẻ đưa người tiễn như ai, mà trong lòng chắc cũng nao nao, cũng ngậm ngùi thương nhớ chốn quê hương.
Rồi mà phu tàu cất thang, trong tàu mở máy, kẻ ở người đi mới thật cách nhau từ đấy. Nay mới cách nhau có vài thước, mà rồi nữa cách nhau mấy nghìn mấy muôn dặm có khác gì. Cũng là không được gần nhau rồi, và chỉ trong mấy phút đây là không nhìn thấy mặt nhau nữa. Não nùng thay lúc phân kỳ! Nhân sinh thật không có cái lúc nào đáng nên thơ bằng.
Tàu từ từ quay mũi, rồi cứ xa dần mãi ra. Bẩy giờ mới đến cái lúc phất khăn mặt là đoạn tương biệt sau cùng. Trên tàu dưới bến phấp phới những mảnh vải lụa, cái xanh, cái trắng, cái hồng như đàn bươm bướm bay. Bay mà không tiến được thước nào, bay mà không tới được gần nhau, càng bay lại càng xa, cho đến lúc không trông rõ người nữa.
Tàu đã ra đến ngoài cửa Cấm, đến chỗ nước xanh nước đỏ giao nhau. Tới ngang bãi Đồ Sơn thì trời vừa tối. Gió chiều thổi lộng bốn bề, giải cơn phiền nhiệt lúc ban ngày, mà mát mẻ tấm lòng người viễn khách. Ai nấy sửa soạn buồng the, kiểm điểm hành lý, đành lòng rằng đã gửi thân vào chiếc bách vững vàng; trong mấy ngày mấy đêm phó mặc cho bể khơi sóng biếc. Chợt nghe tiếng chuông, là hiệu ăn bữa tối. Các hành khách đều ra buồng ăn, đèn điện thắp sáng choang, đĩa cốc bày la liệt. n cơm xong, ai nấy đóng cửa phòng, lên trên boong hóng mát. Bấy giờ trăng vừa mọc, - bữa đó là ngày 16 tháng 7 ta, - trước còn ngậm nửa vành dưới nước, áng chiếu một góc trời, sau từ từ cao dần lên, tuy không được sáng tỏ lắm mà cũng không mờ, đủ biến mặt bể thành một áng thủy tinh lấp loáng. Tàu thật là rẽ sóng mà đi: nước bị gạt ra hai bên xa ước vài mươi thước, rồi gặp sóng xô, lại cuốn trở lại, bắn bọt lên trắng xóa. Cứ đẩy ra xô vào như thế đều đặn, tưởng không sai một ly một tấc nào, tưởng như cái bọt mỗi lần bắn lên rơi xuống ấy lần nào cũng đúng bấy nhiêu giọt vậy. Ấy là lúc trời bể bình tĩnh, trên trăng sáng dưới sông êm, mới được thế, chớ những khi phong ba bão táp, trời tối nước đen, thì cái cảnh tượng lại khác nhiều.
Chuyến đi này thật là sóng gió êm đềm, ngồi trong tàu không biết rằng tàu có chuyển động, cũng là một sự may vậy. Chẳng bù với chuyến về, phải một ngày một đêm lắc lư điên đảo, đầu lao đao, ruột xôn xao, thật cũng khổ thay! Là vì trong tuần tháng bảy, bể còn yên lặng, từ tháng chín tháng mười trở đi mới bắt đầu có sóng gió.
Đêm đã khuya, trăng đã tà, gió đã lạnh, mới xuống phòng nằm nghỉ. Trong tàu bấy giờ đã vắng kẻ đi người lại, lắng tai nghe như có tiếng rền rĩ âm thầm tự đâu dưới đáy bể đưa lên, lại có lúc như tiếng diều sáo kêu tự đâu trên mấy từng mây vẳng xuống: vo vo ve ve, hu hu hi hi, văng vẳng xa nghe như não như nùng, như ai như oán, như mấy muôn vàn cái oan hồn vừa than vừa khóc trong khoảng trời nước mênh mông. Đêm khuya thanh vắng, nghĩ mà rùng mình, tưởng tượng như đó là oan hồn của những kẻ tử trận bên Âu châu, thừa lúc đêm đã gần tàn, trời sắp sáng, thoát li chốn chiến trường hôi hám mà bay bổng trong khoảng rộng thanh cao thân ngâm nỗi biệt ly sinh tử mà kinh hoàng giấc mộng tàn của lũ người đời say tỉnh... Nhưng nghe kỹ mới biết rằng đêm đã khuya, nằm chưa ngủ, tinh thần mệt nhọc mà cuồng tư loạn tưởng đó mà thôi: cái tiếng vo vo ve ve, hu hu hi hi kia chẳng qua là tiếng gió thổi qua những ống thông hơi thông gió ở xung quanh tàu, ban ngày tiếng người xôn xao nghe không rõ, đêm khuya thanh vắng mới như văng vẳng bên tai. Cho hay không gì vô bằng bằng cái tư tưởng của người ta! Mà cũng không gì huyền diệu bằng!...
Mấy bữa sau trời vẫn bình tĩnh như vậy. Ngày tuy có nóng mà gió bể làm ra ấm áp, đêm thì gió mát trăng thanh. Trừ buổi ngủ buổi ăn, còn các giờ khác ở luôn trên boong, hoặc đi bách bộ, hoặc bắc cái ghế dài ngồi đọc sách, hoặc đứng giờ lâu nhìn mặt trăng soi làn sóng, trước mặt là bể khơi vô hạn, sau lưng là dẫy núi Trung Kỳ. Có lúc chợt quay lại, thấy một đám đèn lửa xa xa, lốm đốm như sao sa: tàu bấy giờ vừa đi ngang tỉnh Quảng Ngãi. Nghe người ta nói nếu đi ban ngày mà đi gần bờ thì thấy cái nhà mát của quan cố quận công Nguyễn Thân, xây ngay trên núi, nhìn ra ngoài bể. Nhưng bữa đi vào đêm mà lại xa bờ, đến hồi về thì tới ngang Bình Định trời trở gió, tàu lắc lư, người lảo đảo, nằm rí trong buồng, không cất đầu nổi, còn ra ngắm phong cảnh sao được! Mới biết sự đời không cái gì là chắc, tổng thị là một mớ ngẫu nhiên: ngẫu nhiên mà biết cảnh này, ngẫu nhiên mà gặp người kia, chớ có rắp mà không được, đừng có hẹn mà sai nhau, tấm thân trong trời đất đã như chiếc bách ở giữa dòng, thời trôi dạt vào đâu là hay đó, đừng có nói tiền định, đừng có nói thiên duyên, đừng có cậy ở câu Nhân định thắng thiên mà làm. Răn thay những kẻ cơ quyền... Tàu đi cả thảy hai ngày rưỡi ba đêm, đường đi tới hơn một ngàn rưởi cây lô mét. Tang tảng sáng ngày thứ tư đã vào tới cửa Sài Gòn. Đi qua “Vũng Tàu” (Cap Saint-Jacques) vào hồi quá nửa đêm, nên không được trông rõ phong cảnh một nơi hiểm yếu có tiếng của Đông Dương ta. Đến khi trở về sẽ được hết sức ngắm kỹ. Nay thế là đã tới đất Nam Kỳ rồi. Sài Gòn cách bể những 60 cây lô mét, nên tự cửa Cần Giờ vào, đi ngược con sông Sài Gòn, còn phải mất mấy giờ đồng hồ. 7 giờ sáng thì tàu vừa ghé bến. Trông dưới bến đã thấy nhan nhản những người ra đón anh em bà con sắp ở tàu xuống. Quan cảnh sát lên kiểm giấy thông hành, ước một khắc đồng hồ thì cu li mỗi đứa cái thẻ đồng ở tay ồ vào tranh nhau khiêng đồ hành lý. Tuy vậy coi còn nghiêm hơn cu li Hải Phòng, vì bọn đó chừng có pháp luật riêng phải theo, không dám làm nhũng.
Bước xuống đất, ngoảnh lại chào cái tàu lớn kia đã chở mình tới đây được an toàn trót lọt. Càng nhìn càng thấy to lớn thay! Ôi! Ta từ biệt ngươi từ đây, mong rằng có ngày lại được gặp ngươi lần nữa. Người đời đi chuyến đò còn nên nghĩa, huống chi là ngươi với ta, trong mấy đêm ngày đã cùng nhau bềnh bồng trên mặt sóng!... Ta từ biệt ngươi, ngươi có biết không, hỡi kềnh nghê bằng gỗ sắt?...
Khi đã ngồi trên xe kéo, chạy qua cầu Khánh Hội, hô hấp cái không khí mát buổi sáng, mới bắt đầu tiếp xúc cái cảnh sắc, cái khí vị đất Sài Gòn từ đấy. Ngay lúc mới đầu ấy đã biết ngay cái cảnh sắc ấy là cảnh sắc một nơi thành phố tây, cái khí vị ấy là khí vị một chốn đô hội lớn. Tạm để đồ hành lý ở nhà khách sạn, rồi đi thăm các người quen thuộc, phần nhiều là quen tên thuộc tiếng mà chưa từng tiếp mặt bao giờ. Nhân thể đi dạo chơi trong mấy đường phố lớn. Đường có tiếng nhất ở Sài Gòn là đường Catinat. Catinat nguyên là tên một quan nguyên soái nước Pháp về đời vua Louis thứ 14, sau là tên chiếc chiến thuyền sang đánh cửa Sài Gòn trước tiên cả. Nay đặt tên cho một đường lớn ở Sài Gòn là có ý muốn lưu một mối kỷ niệm cho người sau vậy. Kể to lớn thì đường Catinat chưa phải là to lớn nhất ở Sài Gòn. Nhưng cũng tức như đường Paul Bert ở Hà Nội là nơi người Tây đến lập phố trước nhất, rồi sau mỗi ngày một bành trướng mãi ra, thành nơi trung tâm, đâu đâu cũng đổ xô về đấy, các đường mở sau đều tiếp phụ xung quanh. Đông đúc phồn thịnh đến nỗi đã phải mở một con đường chạy dọc theo, to lớn rộng rãi hơn nhiều, gọi là đường Charner - tức là tên quan thủy quân phó nguyên súy coi chiếc tàu Catinat vào đánh Sài Gòn - để rút bớt cái sức bành trướng đi ít nhiều, mà vẫnhằng ngày hằng phát đạt, không giảm đi chút nào. Các cửa hàng lớn, hàng tây, hàng ta (phần nhiều người Bắc Kỳ), hàng Chà (phần nhiều người Bombay bên Ấn Độ), hàng khách, chen nhau xin xít. Lại thêm có mấy nhà khách sạn lớn, nhà chớp bóng, nhà hát tây, nên chiều chiều cứ tự năm giờ trở đi kẻ đi người lại như nước chẩy. Người sang trọng, kẻ thượng lưu, tất mỗi buổi phải dạo qua đường Catinat một lượt mới là nền. Những trai thanh gái lịch đất Sài Gòn lấy đấy làm chốn cực phẩm phong lưu. Trên đường thì xe hơi không biết mấy trăm mấy chục mà kể, tiến lên êm như ru, như vô số những làn sóng tự ngoài xa đưa lại, rạt cả bên bờ nhà “Đại lục khách sạn” (Hôtel Continental). Nhất là ngày chúa nhật, sau khi tan lễ nhà Thờ Chánh, không cảnh tượng gì đẹp bằng đường Catinat chừng hồi chín mười giờ. Đàn ông, đàn bà, con trai, con gái, người Tây, người Nam, ăn bận rất lịch sự, ở nhà thờ ra đi dạo qua các cửa hàng, lũ lượt như ngày hội. Thật là nghiễm nhiên ra cái cảnh tượng một nơi đại đô hội, đương buổi quốc dân phong phú, thiên hạ thái bình. Coi đó không ngờ rằng trong thế giới hiện còn mấy nghìn vạn con người đương lầm than trong vòng máu lửa!
Người ta thường gọi Sài Gòn là cái “hạt báu của Á Đông” (la perle de l'Extrême-Orient). Tôi chưa từng được biết những nơi đô hội lớn ở Á Đông, như Hương Cảng (Hongkong), Thượng Hải (Changhai), Tân Gia Ba (Singapore), nhưng chắc rằng những nơi ấy tuy có lớn, có đông, có sầm uất phồn thịnh hơn, mà về cách sửa sang sắp đặt, về cái qui mô các đường phố, các lâu đài, về cái vẻ chỉnh đốn sạch sẽ, mĩ miều khả ái, chơn chu mà sán lạn như hạt châu mới rũa, thì còn kém Sài Gòn nhiều. Đường phố như vẽ bằng tay, kẻ bằng thước, đều đặn, thẳng thắn, rộng rãi khang trang, nhiều đường ở giữa lại để những khoảng rộng trồng cỏ, đặt những tượng đồng kỷ niệm, chiều đến hàng trăm cái đèn điện lớn chiếu sáng như một dẫy dài những quả ba lông lấp loáng thả phấp phới ngay trên giữa đường phố, coi rất là ngoạn mục. Đẹp nhất, coi trang nghiêm nhất là con đường đi thẳng vào phủ Toàn quyền (người Sài Gòn thường gọi là tòa Chánh soái). Hai bên có hai khu vườn trồng những cây lớn, tối trông như hai đám rừng nhỏ, ở giữa một con đường rộng chạy thẳng băng tự đầu tỉnh đằng kia cho tới ngang cửa phủ. Coi thật là có bề thế, có vẻ tôn nghiêm, xứng đáng với một nơi tướng phủ. Mà phủ Toàn Quyền ở đây, qui mô cũng đẹp hơn ở Hà Nội. Phủ Toàn Quyền Hà Nội tựa hồ như một đống gạch xếp vuông, trông có vững vàng bền chặt mà nặng nề biết bao nhiêu! Ở Sài Gòn thì như hình chữ đinh J, nét ngang trên là chánh dinh, nét sổ dưới là các tơ tào. Mặt trước ở gian giữa có bậc lên, hai bên hai con đường dốc quanh lại như hình bán nguyệt, trông ra cái vườn rộng thênh thang, giữa có bãi cỏ phẳng lì như một tấm thảm xanh, trên chỉ trồng hai khóm trúc in nhau như hệt. Còn xung quanh thì vườn trại mênh mông, cây cối rậm rạp. Những khi quan Toàn quyền ở Sài Gòn, tối đến trong dinh đèn điện thắp sáng choang, trông xa tưởng tượng như một tòa lâu đài bằng ngọc có trăng chiếu, chon von ở giữa khoảng rừng rậm tịch mịch u sầu, khác nào như trong truyện thần tiên vậy. Khen cho ông quan tạo tác nào kinh doanh cái phủ Toàn Quyền đó cũng khéo tay.
Sài Gòn còn nhiều những dinh thự cùng các nhà công sở đẹp lắm, như nhà dây thép, tòa án, dinh quan Thống đốc Nam Kỳ (tức trong ấy gọi là dinh Phó soái), nhà hát tây, v.v... Nhưng đẹp nhất là nhà Thị sảnh Sài Gòn (Hôtel de ville, trong ấy gọi là nhà “xã tây”, vì ông đốc lý thành phố tục kêu là ông xã tây). Kiểu đại khái cũng giống như các nhà thị sảnh bên Tây, trên có cái chòi vuông mấy từng cao chót vót. Mặt trước trông thẳng ra đường Charner vừa dài vừa rộng, đi đằng xa lại, coi cũng có cái vẻ trang nghiêm, xứng đáng làm nơi công sở của một chốn đô hội lớn như Sài Gòn. Chẳng bì với nhà Đốc lý Hà Nội ta, thật so sánh mà thẹn thay. Mà Hà Nội lại là nơi thủ đô của Đông Dương! Hà Nội có cái nhà hát to quá không biết dùng để làm gì, suốt cả năm bỏ vắng ngắt như chùa bà Đanh, mà đến cái nơi công sở để hằng ngày lo công tính việc cho ngót mười vạn con người, để phòng khi có quan sang khách quí ở nước ngoài qua lại đón tiếp cho xứng đáng, thì coi như cái nhà hầm, bốn bề kín mít, khí trời ánh sáng không lọt tới bao giờ! Xin các ông hội viên phải lưu tâm đến sự đó, thật là có quan hệ cho danh dự Hà thành ta. - Nhà thờ Sài Gòn tuy không có cái nền đá cao như nhà thờ Hà Nội, mà có hai cái tháp nhọn cao ngất trời, những khi trời sáng sủa đi tự ngoài Vũng Tàu (Cap Saint Jacques) cũng trông rõ. Lại nhà dây thép, trong gian giữa có cái tượng đồng người đàn bà ngồi trên quả địa cầu, để biểu hiện cái tin tức của người ta nhờ dây thép mà truyền được đi khắp thế giới, coi cũng mạnh mẽ và có ý tứ lắm. Chỉ hiềm chỗ đặt khí tối, giá người nào bước vào vô ý không ngửng mặt lên thì không biết! Còn Chợ Mới Sài Gòn cũng có cái nhà chòi ở cửa giữa thật là vĩ đại, vừa cao vừa vững vàng lực lưỡng, coi như một cái pháo đài vậy. Mà trong chợ thì rộng mênh mông, chợ Đồng Xuân Hà Nội chẳng thấm vào đâu.
Nói tóm lại, cái hình thức của thành phố Sài Gòn sánh với thành phố Hà Nội còn hơn nhiều. Từ cách đặt đường phố cho đến cách dựng cửa nhà, từ cách thắp đèn điện cho đến cách đặt máy nước ở các nhà, cho đến cách tuần phòng vệ sinh trong phố xá, nhất nhất đều có tiến bộ hơn Hà thành ta cả. Ở Sài Gòn thật là có cái cảm giác một nơi đô hội mới, nghĩa là một nơi đô hội theo lối tây. Vào đến Chợ Lớn thì lại ra cái cảm giác một nơi đô hội theo lối tàu. Còn các châu thành khác ở Lục tỉnh, thì những nơi quan sở là tây mà chốn phố phường là tàu, phần An Nam thật ít lắm. Xét về phương diện đó thì những đô hội Bắc kỳ tuy coi cũ kỹ mà còn có cái vẻ An Nam hơn. Người khách ngoại quốc nào sang du lịch đây, nếu không có cái chủ ý quan sát phong tục người dân thì ở Sài Gòn sướng tiện hơn, nếu muốn biết cái chân tướng sự sinh hoạt dân An Nam thì cứ đi chơi qua phố phường Hà Nội cũng đủ làm một cái kho khảo cứu không cùng. Tuy vậy, các tỉnh thành khác không nói làm gì, mà Hà Nội đã là nơi thủ đô của Đông Dương thì về phần hình thức mới cũng không kém Sài Gòn mới là phải. Nếu cái hình thức mới cũng đủ mà các đặc sắc cũ vẫn còn thì mới thật là xứng đáng vậy.
Ngay chiều bữa tới Sài Gòn, gặp ông chủ bút “Nam Kỳ tân báo” (La Tribune indigène) là một tờ báo bằng chữ Pháp của mấy ông danh giá trong Lục châu lập ra, và rất có thế lực trong các hạng tân học ta. Thường đọc báo đó, biết tiếng các ông, phục cái tài của các ông viết văn Pháp như người Pháp, khen cái chủ nghĩa của các ông muốn bênh vực cho quyền lợi dân An Nam, vẫn ước ao được tiếp mặt. Nay được gặp lấy làm mừng lắm. Chủ nhiệm “Nam Kỳ tân báo” có hai ông Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phú Khai, nhưng đứng tên quản lý chỉ có ông Nguyễn mà thôi. “Quan bác vật Bùi” thì trong Nam ngoài Bắc ai ai cũng đã biết tiếng. Nguyên ngài có chức “nông nghiệp kỹ sư”, sung giám đốc các sở canh nông Nhà nước, trong Nam kêu vắn tắt là quan “bác vật”. Ngài năm nay đã đứng tuổi, đã từng ở Bắc lâu, ở Kinh cũng nhiều, cái học vấn đã sâu, sự kiến văn lại rộng, thật là xứng đáng làm một tay lĩnh tụ (leader) cho dư luận xứ Nam Kỳ. Lại thêm người ôn nhã, điềm đạm, lễ độ, tiếp chuyện thật là vui. Ông Nguyễn Phú Khai thì người còn trai trẻ lắm, cũng đã từng đi học bên Tây và có văn bằng “Kỹ sư” (ingénieur). Người lanh lợi thông minh, cũng là một tay lỗi lạc trong bọn tây học nước ta.
Ngay khi mới gặp, hai ông có cho biết bữa đó chính là ngày kỷ niệm “Nam Kỳ tân báo” đã đầy năm và mời đến dự tiệc chiều hôm ấy. Tôi lấy làm vui mừng mà nhận lời ngay, thật cũng là một sự may mới tới Nam Kỳ đã được cái dịp tốt để biểu chút cảm tình với bạn đồng nghiệp. Tiệc dọn tại nhà cao lâu khách ở Chợ Lớn. Vậy 7 giờ chiều cùng ông Bùi và mấy người bạn nữa đi xe ngựa về Chợ Lớn. Nhân thể được ngó qua cái cảnh tượng Chợ Lớn buổi tối, thật ngày thường như ngày hội, các phố khách Hà Nội Hải Phòng chửa thấm vào đâu. Nhưng bữa đó mới đi lượt qua mà thôi, khi tiệc tan rồi thì đã khuya, không thể dạo chơi các phố phường được, định bữa khác sẽ coi kỹ hơn. Tiệc đông lắm, ước đến bốn năm chục người, phần nhiều là những bậc tai mắt ở Sài Gòn và Chợ Lớn. Cũng lại là một dịp may được gặp mặt các ông ấy để nối cái dây thân ái kẻ Bắc người Nam. Bữa tiệc thật vui, có cái vẻ đậm đà thân mật, không có những lối kiểu cách như ngoài ta. Nói chuyện toàn bằng tiếng tây, ông nào cũng nói giỏi, không những nói giỏi mà đến cái giọng nói, cái cách cử động cũng hệt như tây vậy. Trong các ông dự tiệc đấy, có nhiều ông đã vào dân tây. Coi đó thì biết các bậc thượng lưu trong Nam Kỳ tây hóa đã sâu lắm, hầu như không còn chút gì là cái phong thể An Nam nữa. Về đường đó thì ngoài Bắc Kỳ Trung Kỳ còn kém Nam Kỳ nhiều. Đến cách nghị luận cũng đường đột mãnh liệt, trực mà không có những lối khép mở xa xôi như các nhà cựu học ngoài ta. Hai cái tâm lý khác nhau biết dường nào! Cái nào là hơn? Khó mà quyết được. Song thiết tưởng nếu điều hòa được cả hai thì hơn nhất. Nhưng sự điều hòa ấy có thể thành được không? Đó là cái vấn đề rất quan trọng cho cuộc tiến hóa dân ta sau này vậy.
Khi trở về Sài Gòn, vừa ngồi xe vừa nghĩ lan man về cái tương lai nước nhà, thật có lắm sự hi vọng đáng vui mà cũng nhiều cái hiểm tượng đáng buồn. Nhưng mà cái tương lai là cái tương lai, ai là người dự đoán được bao giờ? Vả con đường tiến hóa của mỗi dân mỗi nước là bởi lịch sử, bởi thời thế khiến nên; người ta dẫu hết sức tư tưởng nghĩ ra đường này là hơn hay là đường kia là phải, cũng không thể nào đổi được lịch sử, chuyển được thời thế mà mong khuynh hướng cái cuộc tiến hóa kia về đường mình. Cho nên nghĩ xa xôi lắm mà làm chi?...
Mấy bữa sau đi thăm các bạn “đồng nghiệp”, tức là các anh em làm báo ở Sài Gòn. Gặp ông nào cũng được chuyện trò vui vẻ lắm, mới biết kẻ Nam người Bắc tuy ít dịp gần nhau thân nhau, mà mỗi lần biết nhau, thật là dễ nên cái tình thân ái vậy. Cho hay người một nước một nhà, dẫu xa cách mà cũng là anh em, miễn là đối với nhau lấy lòng thành thực, đừng có cái thói ghẻ lạnh người thường, thì khó gì mà chẳng nên thân mật được? Huống bọn mình lại cùng theo đuổi một nghề, tức là cái nghề khua chuông gõ mõ trong quốc dân, đem những lời hay lẽ phải mà bàn bạc với bạn đồng bào, mong gây lấy một mối tư tưởng cảm tình chung, mưu cho nước nhà giống nhà sau này được cường mạnh vẻ vang, có ngày mở mặt mở mày với thế giới, thì cái mục đích cao xa ấy há lại không đủ khiến cho ta đồng tâm hiệp lực mà cùng nhau đạt cho tới rư?
Ôi! Nếu hết thảy các nhà làm báo ai cũng hiểu cái nghĩa vụ của nghề làm báo thì còn nghề gì đẹp bằng, hay bằng, cao thượng bằng, đủ khiến cho người ta tận tụy một đời mà theo đuổi cho cùng? Đương buổi mới cũ giao nhau, cái tư tưởng quốc dân chưa biết lấy gì làm chuẩn đích, bọn mình nên đề xướng những chủ nghĩa hay để dìu dắt quốc dân vào con đường chánh đáng, đừng để cho xa lạc vào những ngõ ngách hiểm nghèo. Về đường giáo dục, về đường xã hội, về đường chính trị, về đường phong tục, về đường văn chương, về đường đạo đức, cái thế lực của bọn ta có thể bao gồm hết thảy. Một lời công luận của ta có thể làm cho người ta bỏ đường tà mà theo đường chánh, hay là bỏ đường chánh mà theo đường tà được. Vậy cái lời công luận đó ta chẳng nên quí báu lắm rư? Ta chẳng nên cẩn thận lắm rư? Ta há lại nên phản cái mục đích của ta mà dùng lời công luận đó làm cái khí giới để công kích lẫn nhau, bày ra một cái gương xấu cho quốc dân rư? Dám chắc rằng các anh em trong báo giới ta không có ai hiểu lầm cái nghĩa vụ đến vậy. Nếu quả được như vậy thì may cho nước nhà lắm lắm. Bây giờ cần nhất cho dân ta chỉ có sự học, nhất thiết cái gì cũng phải học cả, như đứa con nít mới đến tuổi vào trường vậy. Bọn ta phải hết sức giúp một phần vào sự học ấy, cho cái trình độ quốc dân mỗi ngày một cao thêm lên, cho cái tư tưởng quốc dân mỗi ngày một rộng thêm ra, để có ngày đủ khôn đủ lớn mà ra tranh đua với đời được. Chắc cái trách dạy dân không phải ở đâu bọn mình, mà thực thuộc quyền Nhà nước. Nhưng mình có thể giúp vào đó một phần to: Nhà nước là ông thày dạy dân, thì mình cũng có thể đương được một chân trợ giáo. Có lẽ nhiều điều mật thiết trong dân gian, Nhà nước không xét tới mà mình tường hơn, cái công giáo dục của mình có khi ích lợi hơn Nhà nước nhiều. Thiết tưởng hiện nay cái nghĩa vụ nhà báo phải như vậy mới là chánh đáng, chớ những kẻ coi báo giới như một nơi tranh ăn nói, dành lợi danh, hay là một chốn hí trường để đem những lời nghiêng ngửa, truyện dâm bôn mà mơn man, mà khêu gợi cái dục tình sằng của công chúng, thì thật là làm mất giá một cái nghề rất hay, rất cần, rất có ích lợi cho nước nhà đương buổi bây giờ.
Báo giới trong Nam Kỳ thạnh lắm, phát đạt hơn ngoài Bắc nhiều. Hiện nay có đến mười tờ báo bằng quốc ngữ. Không kể “Nam Kỳ tân báo” (La Tribune indigène) viết bằng chữ Pháp, - gần đây báo ấy cũng mới xuất bản thêm một tập phụ trương bằng quốc ngữ, mỗi tuần lễ một kỳ, đều là Quốc dân diễn đàn, - còn các báo khác thì có những tờ như sau này:Nông cổ mín đàm, chuyên chủ về nông nghiệp, thương nghiệp, mở ra đã lâu, là tờ báo có tuổi nhất ở Nam Kỳ, hiện ông Nguyễn Chánh Sắt làm quản lý và chủ bút, ông cũng là một nhà trước thuật có tiếng ở Nam Kỳ; -Nam trung nhựt báo, chủ nhân là quan huyện Nguyễn Văn Của chủ nhà in Union, là một bậc thân hào danh giá ở Sài Gòn, sinh ra quan hai Nguyễn Văn Xuân hiện tùng chinh bên Đại Pháp; chủ bút là ông Nguyễn Tử Thực, có ông Nguyễn Viên Kiều giúp; -Công luận báo, quản lý ông Nguyễn Kim Đính, chủ bút ông Lê Hoằng Mưu; - Lục tỉnh tân văn, của ông chủ nhà in Schncider, ông phủ Gilbert Trần Chánh Chiến làm chủ bút; Nữ giới chung (Femina annamite) là tờ báo riêng cho các bậc nữ lưu, chủ nhiệm là ông Trần Văn Chim và ông Lê Đức; -Nam Việt tề gia nhựt báo (Journal de la famille annamite), của một bà đầm làm báo ở Sài Gòn mở ra để riêng cho đàn bà con gái An Nam coi; -Nhựt báo tỉnh (Moniteur des provinces), là một tờ công báo, dịch những nghị định công văn của Nhà nước, đăng những tin thuyên chuyển trong quan lại; -Nam Kỳ địa phận, là một tờ báo của nhà Trung. - Lại gần đây nghe nói mới xuất bản một tờ Thời báo, một tờ đặt tên nôm là Đèn nhà Nam. Đèn nhà Nam, cái tên sáng sủa thay! Ước gì đèn được sáng tỏ mà chiếu khắp chốn kẻ chợ nhà quê, nơi hang cùng ngõ hẻm, phá được cái thành hôn mê mà soi tỏ con đường tiến bộ. Đó là cái mục đích chung của cả báo giới ta vậy. Mấy tờ báo trên đó là xuất bản ở Sài Gòn. Còn ở Long Xuyên có Đại Việt tập chí, thể tạp chí, mỗi tháng một kỳ, của hội Khuyến học Long Xuyên, cái chủ nghĩa, cái tôn chỉ cũng giống như Nam Phong vậy. Lại ở Cần Thơ, có tờ An Hà nhựt báo, ông huyện Võ Văn Thơm làm quản lý, có một phần chữ tây, một phần quốc ngữ, chuyên về nông nghiệp thương nghiệp.
Một địa hạt Nam Kỳ mà bấy nhiêu tờ báo kể cũng đã nhiều lắm vậy. Cứ lấy cái “lượng” (quantité) mà xét thì thật đủ khiến cho Bắc Kỳ Trung Kỳ phải thẹn với Nam Kỳ rằng về đường ngôn luận còn chậm kém xa quá. Nhưng cái “phẩm” (qualité) có được xứng đáng với cái “lượng” không? Điều đó thì chưa dám chắc vậy. Xưa nay phàm cái gì muốn cho nhiều tất giá phải kém, không thể vừa nhiều vừa tốt cả được. Muốn giữ cho cái “phẩm” cao, tất phải hạn cái “lượng” lại mới được. Ấy công lệ từ xưa vẫn thế: nghề làm báo, nghề làm sách, có thể ra ngoài được cái công lệ ấy không? Thiết tưởng rằng không. Cho nên xét ra các đồng bào ta trong Lục tỉnh hình như có ý trọng cái “lượng” hơn cái “phẩm” vậy. Đó cũng là một điều khuyết điểm trong học giới báo giới xứ Nam Kỳ.
Ta vừa nói nghề làm sách: nghề làm sách ở Nam Kỳ cũng thịnh lắm, có phần lại thịnh hơn nghề làm báo nhiều. Tuy vài năm gần đây đã bớt đi nhiều, mà trong khoảng năm năm mười năm về trước, cái số những sách quốc ngữ xuất bản ở Sài Gòn không biết bao nhiêu mà kể. Thứ nhất là những bản dịch các tiểu thuyết tàu cũ, như Tam quốc, Thủy hử,Chinh Đông, Chinh Tây, Phản Đường, Tùy Đường,Đông Châu, Phong thần, Đại Hồng bào, Tiểu Hồng bào, v.v... nếu sưu tập cả lại thì làm được một cái thư viện nhỏ! Những tiểu thuyết tàu tự tám mươi đời triều ấy văn chương đã chẳng ra gì mà truyện thì toàn những truyện huyền hoặc quái đản, của mấy bác cuồng nho bên tàu đời xưa ngồi không bịa đặt ra để khoái trá những bọn hạ lưu vô học. Thế mà dịch nhiều như vậy, thịnh hành như vậy, nghĩ cũng khả kinh thay! Không trách cái tư tưởng quốc dân những chìm đắm trong sự mê hoặc không cùng, có khi sinh ra những việc xuẩn động hại đến cuộc trị an trong xã hội cũng vì đó. Có người nói việc phá khám Sài Gòn năm nọ cũng là bởi cái di độc của các tiểu thuyết tàu mà ra, tưởng không phải là nói quá vậy. Cả ngày cả đêm những ca tụng cái tài ông Tiết Đinh Sơn, ông Tiết Đinh Qui, hay những ông tướng kỳ khôi từ đời hồng mang nào, trách sao trong trí không loạn lên mà muốn làm thực những việc mình thường đọc thấy trong truyện? Càng những bọn hạ lưu hung hãn lại càng dễ nhiễm hơn cả. Coi đó thì biết văn chương không phải là không có quan hệ đến nhân quần; các nhà làm sách há chẳng nên cẩn thận lắm rư? Chắc ai cầm bút viết trong bụng cũng có cái ý tốt cả, và như các nhà dịch tiểu thuyết tàu kia là chỉ chủ làm một món mua vui cho các bạn đồng bào trong khi tửu hậu trà dư, lại vừa làm một mối lợi riêng cho mình; nhưng phải nghĩ đến cái ảnh hưởng những truyện vô bằng ấy vào trong óc mộc mạc của những kẻ ít học, chưa biết suy nghĩ sâu xa, thường lấy hư làm thật, lấy giả làm chân, nó hại biết dường nào!
Ấy là cái tệ các tiểu thuyết cũ dịch của Tàu. Đến cái tệ của phần nhiều các tiểu thuyết mới ngày nay thì lại thậm hơn nữa, vì cách đặt để đủ làm cho bại hoại phong tục, điên đảo luân thường vậy. Tôi biết có bộ tiểu thuyết cực là dâm bôn mà lại rất là thịnh hành trong bọn phụ nữ. Coi đó thì biết cái hại sâu biết dường nào! Gia đình tan cũng vì đó, xã hội nát cũng vì đó, cái tương lai nước nhà nguy hiểm cũng vì đó. Các nhà làm sách có nghĩ tới không? Hay chỉ chủ bán cho chạy hàng, thâu được nhiều bạc, còn những lẽ cương thường luân lý mặc quách cho ai? Ôi! Cổ nhân đã dạy: làm người sĩ phu trong nước cái trách là phải phù cho thế đạo, giúp lấy cương thường. Nếu những nhà làm sách lại cố ý làm nghịch thế đạo, đạp đổ cương thường, thì một nước như vậy sống làm sao được? Thiết tưởng các bậc trí thức trong Lục châu ai trông thấy văn vận suy đồi như vậy, phong túc bại hoại như vậy cũng phải lo, mà tìm cách duy trì cho kịp. Nên mau mau, kẻo cái tệ đã sâu lắm rồi.
Song có một điều nên chú ý, là báo nhiều như thế, sách nhiều như thế, mà bán được chạy, có nhiều người mua, thời cũng là một cái chứng rằng dân Nam Kỳ có tính ham đọc sách và có tiền thừa mua sách. Như vậy mà nếu có những báo thiệt tốt, sách thiệt hay cho mà đọc thì ích lợi biết bao nhiêu. Chẳng bù với dân Bắc Kỳ Trung Kỳ, trăm người chưa được một người đọc thông chữ quốc ngữ, mười người đọc thông chữ quốc ngữ chưa được một người thích xem văn quốc ngữ, lại thêm dân nghèo, bỏ ra mấy đồng bạc mua báo một năm đã lấy làm một món tiền nặng; đến những bậc sĩ phu thì phần nhiều những quẩn quanh trong vòng danh lợi mà sao nhãng những việc văn chương; nghề làm báo làm sách thật không được đủ điều tiện lợi như Nam Kỳ. Cho nên khá tiếc thay cho những bậc trí thức trong Lục châu không biết khéo lợi dụng cái cơ hội tốt ấy mà đặt để ra những sách vở hay có ích cho phong hóa, nỡ để cho cái lòng ham đọc sách, ham mua sách của người dân ấy ngập vào những sách vở hoặc vô vị, hoặc tầm bậy không ra gì, thật uổng quá.
Nay nhân nói về nghề làm báo làm sách, nên xét qua cái tình trạng văn quốc ngữ ở Nam Kỳ thế nào. Chữ quốc ngữ thì đã thông dụng lắm rồi, đàn bà con trẻ thường biết đọc biết viết cả, nhưng đến văn quốc ngữ thì xem ra chưa được phát đạt lắm. Trừ mấy nhà văn sĩ có tiếng, còn thì cái trình độ quốc văn đại để hãy còn kém. Sự kém đó là bởi nhiều lẽ. Thứ nhất là Nam Kỳ bỏ nho học đã lâu, bao nhiêu cái văn điển cũ đã hầu mất hết không còn. Mà văn quốc ngữ ngày nay muốn cho thành văn chương, muốn cho phát đạt được, phi nương tựa, phi tổ thuật cái văn điển cũ ngày xưa thì không thể nào được. Lẽ đó tưởng tầm thường ai cũng hiểu, mà thật nhiều người chưa hiểu rõ, là vì nhiều người đặt sai cái vấn đề. Có người nói rằng nếu quả cần phải biết chữ nho mới làm được văn quốc ngữ thì muốn làm văn quốc ngữ tất phải học lâu năm chữ nho, tất phải trở lại những lối giáo dục hủ lậu ngày xưa, tất phải ra công rùi mài kinh sử, nghiền ngẫm một cái “tử văn” (lanque morte) vô dụng cho đời nay, như vậy thì chẳng uổng công lắm rư? Nay ta được nhờ nhà nước Đại Pháp dạy dỗ cho ta, mở mang cho ta con đường văn minh học thuật mới, đã mừng thay được thoát khỏi cái áp chế của chữ tàu trong mấy nghìn năm, có đâu ta lại mê cuồng đến nỗi lại đâm đầu vào cái chốn lao lung ấy lần nữa! Những người nào nói thế là hiểu sai. Nước Nam ta học chữ nho đã mấy nghìn năm, bất luận rằng cái cách học đời xưa hay hay là dở, phải hay là trái, có một điều hiển nhiên, ai cũng phải công nhận, là chữ nho đã tiêm nhiễm vào trong tinh thần ta sâu quá rồi, cái vết nó đã in vào trong óc ta không thể nhất đán đem mà gột rửa đi được, đến nỗi tiếng nói của ta ngoài những tiếng nhật dụng tầm thường phải dùng quá nửa chữ nho mới thành văn được, như vậy mà nếu bỏ hẳn chữ nho không học thì sao cho thuộc hết tiếng nước mình được? Đã không thuộc hết tiếng nước mình thì sao đặt cho thành văn chương được? Nhưng nói rằng cần phải biết chữ nho, không phải rằng phải học chữ nho như lối ngày xưa đâu; không phải rằng phải học cho làm được thơ, được phú, được văn sách kinh nghĩa như xưa đâu; không phải rằng lại phải trở về cái lối thi cử phiền toái, khảo cứu tỉ mỉ như xưa đâu. Xưa học chữ nho là vị chữ nho mà học chữ nho, nay học chữ nho là vị quốc văn mà học chữ nho. Cái mục đích đã khác, cái phương pháp cũng không giống. Xưa phải rùi mài kinh sử, từng trải Thiên kinh vạn quyển mới thi đậu được một chân đại khoa, mới làm nổi được một nhà văn sĩ có tiếng. Nay chỉ học cho đủ sự cần dùng về quốc văn mà thôi, chỉ học cho đủ hiểu hết một quyển Kim Vân Kiều hay một quyển Lục Vân Tiên mà thôi, thì có khó gì? Trước trăm phần nay không được một phần. Nhưng cái một phần ấy rất cần, không biết thời không thể nào cầm ngọn bút mà viết thành bài văn quốc ngữ được, dẫu tài giỏi khôn khéo đến đâu cũng không làm thế nào ra cái “hơi” văn An Nam được, vì cái “hơi” ấy là tự mấy mươi đời truyền lại cho ta, không thể tự mình mà đặt lấy ra được. Cho nên những người nào đã quyết không cho văn quốc ngữ là cần, đành bỏ vào cái địa vị yếu hèn, chỉ đợi ngày tiêu diệt cho xong, thì không nói làm chi, còn ai đã có bụng thương đến tiếng nước nhà, muốn gây dựng cho thành một nền quốc văn có thể sống được ở đời này, thì phải noi theo lấy cái văn điển cũ của ông cha, mà cái văn điển cũ của ông cha ấy ngoài chữ nho không kiếm đâu cho thấy được. Nay ở Nam Kỳ cái văn điển cũ đã xa lạc đi mất rồi. Tuy cũng có mấy nhà có chí muốn ra sức mà vãn hồi lại, nhưng cái phần phản đối với chữ nho, cái phần khảng khái một cách sai lầm, muốn thị hùng ra tay tước hết những cái văn vẻ tốt đẹp thanh tao của mấy mươi đời nho học đã di truyền lại cho tiếng An Nam mình, để bày trần cái khí vũ bỉ li nôm na ra, cái phần ấy thì nhiều lắm. Những người có chí kia thể nào mà chống lại cho nổi, thể nào mà cứu vớt lại cho toàn được. Đó là một cái nhược điểm cho hậu vận quốc văn ở Nam Kỳ vậy. Còn một cái nhược điểm to hơn nữa, là hiện nay phàm những bậc thượng lưu, những người có học thức, thông giỏi chữ Pháp, phần nhiều khinh rẻ tiếng An Nam, không thèm nhìn đến, cho là một thứ chữ đê tiện để cho hạng tầm thường dùng mà thôi. Như vậy thì quốc văn mong sao cho phát đạt được? Những người mong cho quốc văn có thể phát đạt được là thứ nhất trông cậy ở các nhà tân học ngày nay ra công giúp sức vào, đem cái tinh thần của văn minh học thuật Thái Tây mà đúc vào cái khuôn văn cũ của nước nhà, khiến cho thành được một nền văn thiết dụng với đời, không phải chịu mang cái tiếng hư văn như xưa nữa. Nếu những nhà ấy lại khảng tảng, không để bụng sốt sắng vào, không những thế, lại khinh bỉ nữa, thì quốc văn còn trông vào đâu mà sinh tồn, mà phát đạt được? Nếu cái nghề quốc văn chỉ riêng để cho những ông lão hủ ngồi mà ngâm nga đẽo gọt với nhau thì cái văn chương ấy sao cho thích hiệp với đời? Mà rồi những tay lão hủ kia một ngày một mất lần đi, một hết dần đi, sau này ai kế nghiệp, ai giữ được cho cái văn An Nam kia còn chút thoi thóp ở đời? Nguy vậy thay! Hai cái nhược điểm trên kia mà không phá được thì thật khá buồn thay cho hậu vận quốc văn mình, biết bao giờ cho ra khỏi được cái địa vị kém hèn.
Cái tình trạng văn quốc ngữ ấy không những ở Nam Kỳ, mà ở Bắc Kỳ Trung Kỳ cũng có cái hiểm tượng như vậy. Duy có ở Nam kỳ là cái hiểm tượng ấy trình bày ra một cách rõ ràng hơn mà thôi. Cho nên mỗi lần nghĩ đến cái vấn đề này mà như nóng lòng sốt ruột, không biết giải quyết ra làm sao!...
Phạm Quỳnh
: http://mythuat.proboards.com/thread/591/7845-272-ai-vn-lich#ixzz2um3CRGPz
Hồi sửa soạn đi Nam Kỳ vừa gặp có chuyến tàu lớn ở Nhật Bản về. Tàu hiệu Porthos của công ty Hằng hải Á Đông (Cie des Messageries maritimes), vừa to, vừa mau, các chiếc khác đi Hải Phòng - Sài Gòn phải năm ngày năm đêm, chiếc này đi chỉ đầy ba đêm hai ngày.
Được tin có tàu, vội vàng đi xe lửa xuống Hải Phòng. Bữa ấy là ngày 21 tháng tám tây, tức là rằm tháng bảy ta. Sông Nhị Hà đương lên, tin báo lụt đã thấy truyền lại nhiều nơi. Ngồi trong xe lửa trông ra có chỗ mênh mang những nước. Thôi, cái nạn lớn hằng năm năm nay cũng lại không tha cho dân xứ Bắc! Trước khi tạm biệt đất Bắc Kỳ, nhìn lại cái cảnh nước bùn trời nặng kia mà thương thay cho bọn nông dân xứ Bắc mình, thật là cất đầu không nổi với ông Thủy vương cay nghiệt! Khi tới Nam Kỳ, thấy đồng bào ta trong Lục Tỉnh cách làm ăn dễ dãi như thế, nghĩ đến đường sinh nhai eo hẹp của người mình, cái lòng thương anh em nơi cố quận lại càng thiết tha lắm nữa.
Tới Hải Phòng được tin đích rằng 3 giờ trưa ngày mai là ngày 22 tàu mới cất neo ra bến. Vậy còn phải đợi một ngày nữa, muốn nhân dịp sang chơi qua bên Kiến An. Đi xe tay mất hơn một giờ, phải qua một cái đò ngang. Kiến An là một tỉnh mới, trước thuộc Hải Dương, nay gồm mấy phủ huyện quanh thành phố Hải Phòng. Tuy Kiến An đối với Hải Phòng cũng như Hà Đông đối với Hà Nội, mà tỉnh lỵ sơ sài, phố phường vắng vẻ, không có cái cơ phát đạt như Hà Đông. Lệ xưa nay, một tỉnh nhỏ ở cạnh nơi đô hội lớn thì cái sức sinh hoạt hình như bị thu rút cả vào nơi đô hội ấy: Kiến An đối với Hải Phòng cũng tức như vậy. Hà Đông có khác là vì Hà Đông ở chốn trung ương, tuy cũng bị Hà Nội át về đường buôn bán mà vẫn là nơi trung tâm của một miền quê giàu có đông đủ đệ nhất ở Bắc Kỳ. Cả Kiến An hình như núp ở dưới nhà Thiên văn đài Phù Liễn, xây trên cái đồi cao, nhìn xa như một cái thành lớn hám chế một địa phương. Khi sắp tới đã thấy đột ngột trước mắt, khi quay về còn thấy sừng sững sau lưng, mà tiếc trời đã về chiều, giời đã có hẹn, không thể lên xem tận nơi được, khiến cho đến nay cái hình ảnh nhà Thiên văn đài Kiến An vẫn còn phảng phất trong tưởng tượng vậy.
Buổi tối đi dạo chơi trong thành phố. Hải Phòng thật là đáng làm nơi đô hội thứ nhì xứ Bắc Kỳ. Về đường buôn bán hơn Hà Nội đã cố nhiên rồi, mà cái tương lai xem ra còn có thể bành trướng hơn chốn cổ đô mình nhiều. Hà Nội đã già quá, cũ quá rồi, cái sức phát đạt hình như có hạn, không thể ra ngoài được nữa. Chắc cái phong thể riêng không bao giờ mất hết được, cái nền nếp cũ rồi cũng vẫn còn, về đường học thức, về đường mỹ nghệ, về cách đàn điếm phong lưu, bao giờ cũng vẫn giữ được bậc nhất mà không đến nỗi phụ cái thanh danh cũ, cũng tức như cô con gái thế gia dù vào cảnh ngộ nào vẫn ra con người nền nếp. Nhưng về đường buôn bán, đường công nghệ, về cách làm ăn kiếm tiền, thì không sao tranh nổi với Hải Phòng được. Hải Phòng còn đương vào cái thời kỳ trai trẻ, chưa biết lớn đến đâu, thịnh đến đâu là cùng. Vả bởi cái địa thế làm nơi cửa bể chung cho cả Bắc Kỳ, hành khách đồ hàng đâu đâu cũng tất phải qua đấy, thì Hải Phòng lại hình như gồm được cả sự sinh hoạt của xứ Bắc Kỳ về đường kinh tế nữa.
Cho nên cái tương lai của Hải Phòng thật không thể lượng được vậy.
Mà đoái nghĩ cái thành phố lớn ấy, cái cửa bể to ấy, thành lập chưa đầy năm mươi năm trời. Trước kia chẳng qua là một xóm nhỏ ở gần bể, khi nước ta bắt đầu giao thông với Đại Pháp, Triều đình mới đặt một tòa Thương chánh để kiểm tra tàu bè cùng hàng hóa xuất nhập. Kế sau Đại Pháp sang bảo hộ, nhân đấy đặt nên cơ sở một nơi đô hội lớn, từ đó cứ mỗi ngày một phát đạt mãi lên, thực là bởi công Nhà nước Bảo hộ sáng tạo ra vậy. Có người làm sách đã nói: “Cửa bể Hải Phòng là tay người Đại Pháp tự không mà gây dựng nên, trên đống bùn lầy sông Cửa Cấm”, thực không phải là nói ngoa vậy.
Đường phố Hải Phòng phần nhiều rộng rãi hơn Hà Nội, nhà cửa đều đặn hơn, và thường làm theo một kiểu, không có cái cao cái thấp, cái ra cái vào như nhiều phố cũ ở tỉnh ta. Là bởi những đường phố nhà cửa ấy mới đặt mới làm cả, nên có thể nhất luật theo cách mới, coi rộng rãi thảnh thơi hơn. Buổi chiều, vào sáu giờ, nhất là ở đường Cầu Đất, là đường đi thẳng ra Đồ Sơn, xe ngựa xe hơi chạy lũ lượt không dứt, coi như cảnh tượng ngày hội: đó là xe của những nhà buôn to bán lớn trong thành phố, cả ngày làm việc nhọc mệt, kế lợi thương công, chiều đến ra hóng mát bờ bể. Các chú ở phố khách thì chiều đến cũng xô nhau vào ăn uống om sòm trong các nhà cao lâu: đó tức là cách giải trí của các chú. Mà người mình lắm người cả ngày không nhọc trí chút nào, tối đến cũng đua nhau mà giải trí như người! Bữa đó là tối ngày rầm tháng bảy, phố khách nhà nào nhà nấy đốt đèn nến, bày vàng mã ngay ngoài hè, khói hương nghi ngút, tàn lửa tơi bời, kẻ đi người lại tấp nập, tiếng hò tiếng hét om sòm. Sau này tới Nam Kỳ mỗi lần dạo chơi phố phường Chợ Lớn hay là dạo qua đường Chợ Cũ Chợ Mới Sài Gòn, lại sực nhớ đến cái cảnh tượng mấy phố khách ở Hải Phòng chiều hôm ấy. Nhưng cái “China họa” (le péril chinois) ở xứ Bắc mình tuy đã thâm lắm mà tỉ với Nam Kỳ còn chưa thấm vào đâu: Hải Phòng tức là Chợ Lớn Bắc Kỳ có 8.991 người Khách, mà Chợ Lớn Nam Kỳ có những 75.000 Khách với 4.873 người Minh Hương! Hà Nội có 3.377 người Khách với 825 người Minh Hương, mà Sài Gòn có những 22.079 người Khách với 677 người Minh Hương! Coi đó thì biết cái nguy cho xứ Nam Kỳ to là dường nào. Nhưng chưa tới Nam Kỳ đã nói chuyện Khách Nam Kỳ, thật là kỷ thuật không có thứ tự. Vậy xin để sau này sẽ nói tường hơn. Nay nhân nói về Khách Hải Phòng, chỉ muốn so sánh qua cái số người Tàu trong Nam ngoài Bắc, cho biết cái vạ China ở hai xứ hơn kém nhau thế nào . Song dù hơn, dù kém, dù ít, dù nhiều, cũng vẫn là một cái vạ lớn cho nước Nam mình, quốc dân ta nên sớm tỉnh ngộ mà mưu trừ đi, mới mong có ngày thu phục được mối thương quyền mà ra tranh đua trên thị trường thế giới.
Hai giờ trưa ngày 22 dọn đồ xuống tàu. Tàu to lớn thay! Thật như một cái thành thả trên mặt nước vậy. Bề dài ước một trăm rưởi thước tây, bề rộng ở giữa đến 25, 30 thước. Vào trong không quen như mê li, chẳng biết đường nào vào đường nào, phải có người dẫn mới tìm thấy buồng. Sau đi dạo qua một lượt các hạng các từng mới biết cách sắp đặt thật là khéo, thật là chỉnh tề, thật là có ngăn nắp mà rõ ra đâu vào đấy, nghĩ người nào vẽ ra cái qui mô ấy thật cũng tài thay. Có ba hạng, hạng tư là đi trên “boong”. Hạng nhất, nhì, ba đều có buồng ăn buồng ngủ, chỗ ngồi chơi chỉnh đốn lắm, mà hạng nhất thì thật là lịch sự: các buồng trang sức cực đẹp, đồ gỗ bóng lộn, pha lê trong suốt, mặt gương lấp loáng, màn đệm trắng bong, bồi khách ăn bận sạch sẽ, nhất loạt đầu trọc, áo trắng, quần táo tầu, hầu hạ rất có phép tắc, thật là nghiễm nhiên như một nhà khách sạn thượng hạng ở Hà Nội hay Sài Gòn vậy. Nghe nói chiếc Porthos này là vào hạng tàu lớn nhất đẹp nhất của công ty Hằng Hải Á Đông, cũng ngang với chiếc Athos bị trúng thủy lôi ở Địa Trung Hải năm trước. Nghĩ một chiếc tàu thôi ngôi vĩ đại như thế này mà không may phải đánh đắm thì thiệt hại biết bao nhiêu, bao nhiêu công mà bao nhiêu của! Từ ngày quân Đức khởi ra cái cách chiến tranh tối dã man, là dùng tàu ngầm mà đánh đắm những tàu buôn của địch quốc, các công ty hằng hải tổn hại cũng đã nhiều, mà bể Địa Trung Hải (Méditerranée) đã thành cái vực sâu nuốt mất bao nhiêu những con kềnh nghê bằng sắt bằng gỗ như chiếc Porthos này, lại thành cái mồ chung của mấy nghìn vạn kẻ vô cô chết vì tay oan nghiệt giống dã man. Cho nên đã lâu nay các tàu lớn về Tây chỉ đi đến Hồng Hải (Mer Rouge) mà thôi, tới đấy đã có tàu riêng nhận lấy đồ hàng lấy khách, rồi kèm thêm những tàu chiến, như khu trục hạm (croiseurs de chasse) ngư lô đĩnh (torpillenrs) mới dám đi vào Đại Trung Hải. Hoặc có tàu ngầm Đức thì những tàu chiến đi kèm ấy phải ra đuổi đánh. Nghe những người đi Tây thuật lại, thật cũng nguy hiểm thay. Nhưng mới rồi được tin chiếc Porthos đã đi tới Marseille trót lọt, không phải đậu ở cửa Hồng Hải, như thế thì biết gần đây cái hoạn tàu ngầm đã bớt đi nhiều và sự giao thông đã được dễ hơn mấy tháng trước. Nhưng cũng là cái triệu chứng rằng quân Đức đã kiệt lực, sắp đến ngày không còn sức đâu mà phạm ác với nhân loại được nữa.
Chuyến ấy có chở hơn hai nghìn lính mộ vẫn ở “Bãi Cháy” (Ile de la Table) chờ tàu về Tây đã mấy tháng nay. Tự sáng sớm đến quá trưa quân quan kiểm điểm cho lính xuống tàu, gần nơi bến tàu canh giữ nghiêm lắm. Đứng xa trông nhan nhản những người ăn bận đồ vàng, vai đeo chăn áo, tay sách nồi niêu, lũ lượt kéo đến dưới chân tàu, mà cái thang chỉ đi được người một, nối gót nhau trèo lên, coi xa như một cái chão lớn buộc tàu mà có người đứng trên từ từ kéo vậy. Mà cứ thế, trong mấy giờ đồng hồ, nhìn cũng vui mắt thật. Ấy có vài ba nghìn người mà thế, những khi tàu chở đến một quân đoàn mấy vạn người thì còn oai nghiêm đến thế nào! Khá khen thay là sức cái tàu kia, mạnh đến bao nhiêu mà coi vững như Thái Sơn, có bấy nhiêu người chớ giá tưởng cả bao nhiêu người trong phố phường này trút xuống cũng có thể dung được.
Đúng 3 giờ, tàu thổi hiệu cất cầu. Kẻ trên người dưới xôn xao: những bà con anh em xuống tiễn nhau, ai nấy tất tả chạy lên cho kịp, mà vừa đi vừa ngoảnh lại, nhìn mặt bắt tay một lần nữa. Những người đi gần, mươi lăm hôm, một vài tháng lại về, thì kẻ mừng nhau đi cho bình yên, người chúc nhau ở lại mạnh khỏe. Đến như những người biệt nhau mà chưa biết bao giờ lại gặp, nghĩ đến nông nỗi xa xôi, đường đi nguy hiểm, thì cái cảm tình lúc sau cùng ấy lời mừng lời chúc nào mà nói cho xiết được. Có kẻ nhịn khóc, có kẻ gượng cười, mà tưởng bấy giờ lắm người tấm lòng thổn thức khôn cầm. Lại đoái nghĩ đến mấy nghìn con người quê mùa mộc mạc kia, vị nghĩa quyên thân mà bỏ cửa bỏ nhà đi xa lần này là thứ nhất, tuy lúc bấy giờ vợ con xa, anh em vắng, không có kẻ đưa người tiễn như ai, mà trong lòng chắc cũng nao nao, cũng ngậm ngùi thương nhớ chốn quê hương.
Rồi mà phu tàu cất thang, trong tàu mở máy, kẻ ở người đi mới thật cách nhau từ đấy. Nay mới cách nhau có vài thước, mà rồi nữa cách nhau mấy nghìn mấy muôn dặm có khác gì. Cũng là không được gần nhau rồi, và chỉ trong mấy phút đây là không nhìn thấy mặt nhau nữa. Não nùng thay lúc phân kỳ! Nhân sinh thật không có cái lúc nào đáng nên thơ bằng.
Tàu từ từ quay mũi, rồi cứ xa dần mãi ra. Bẩy giờ mới đến cái lúc phất khăn mặt là đoạn tương biệt sau cùng. Trên tàu dưới bến phấp phới những mảnh vải lụa, cái xanh, cái trắng, cái hồng như đàn bươm bướm bay. Bay mà không tiến được thước nào, bay mà không tới được gần nhau, càng bay lại càng xa, cho đến lúc không trông rõ người nữa.
Tàu đã ra đến ngoài cửa Cấm, đến chỗ nước xanh nước đỏ giao nhau. Tới ngang bãi Đồ Sơn thì trời vừa tối. Gió chiều thổi lộng bốn bề, giải cơn phiền nhiệt lúc ban ngày, mà mát mẻ tấm lòng người viễn khách. Ai nấy sửa soạn buồng the, kiểm điểm hành lý, đành lòng rằng đã gửi thân vào chiếc bách vững vàng; trong mấy ngày mấy đêm phó mặc cho bể khơi sóng biếc. Chợt nghe tiếng chuông, là hiệu ăn bữa tối. Các hành khách đều ra buồng ăn, đèn điện thắp sáng choang, đĩa cốc bày la liệt. n cơm xong, ai nấy đóng cửa phòng, lên trên boong hóng mát. Bấy giờ trăng vừa mọc, - bữa đó là ngày 16 tháng 7 ta, - trước còn ngậm nửa vành dưới nước, áng chiếu một góc trời, sau từ từ cao dần lên, tuy không được sáng tỏ lắm mà cũng không mờ, đủ biến mặt bể thành một áng thủy tinh lấp loáng. Tàu thật là rẽ sóng mà đi: nước bị gạt ra hai bên xa ước vài mươi thước, rồi gặp sóng xô, lại cuốn trở lại, bắn bọt lên trắng xóa. Cứ đẩy ra xô vào như thế đều đặn, tưởng không sai một ly một tấc nào, tưởng như cái bọt mỗi lần bắn lên rơi xuống ấy lần nào cũng đúng bấy nhiêu giọt vậy. Ấy là lúc trời bể bình tĩnh, trên trăng sáng dưới sông êm, mới được thế, chớ những khi phong ba bão táp, trời tối nước đen, thì cái cảnh tượng lại khác nhiều.
Chuyến đi này thật là sóng gió êm đềm, ngồi trong tàu không biết rằng tàu có chuyển động, cũng là một sự may vậy. Chẳng bù với chuyến về, phải một ngày một đêm lắc lư điên đảo, đầu lao đao, ruột xôn xao, thật cũng khổ thay! Là vì trong tuần tháng bảy, bể còn yên lặng, từ tháng chín tháng mười trở đi mới bắt đầu có sóng gió.
Đêm đã khuya, trăng đã tà, gió đã lạnh, mới xuống phòng nằm nghỉ. Trong tàu bấy giờ đã vắng kẻ đi người lại, lắng tai nghe như có tiếng rền rĩ âm thầm tự đâu dưới đáy bể đưa lên, lại có lúc như tiếng diều sáo kêu tự đâu trên mấy từng mây vẳng xuống: vo vo ve ve, hu hu hi hi, văng vẳng xa nghe như não như nùng, như ai như oán, như mấy muôn vàn cái oan hồn vừa than vừa khóc trong khoảng trời nước mênh mông. Đêm khuya thanh vắng, nghĩ mà rùng mình, tưởng tượng như đó là oan hồn của những kẻ tử trận bên Âu châu, thừa lúc đêm đã gần tàn, trời sắp sáng, thoát li chốn chiến trường hôi hám mà bay bổng trong khoảng rộng thanh cao thân ngâm nỗi biệt ly sinh tử mà kinh hoàng giấc mộng tàn của lũ người đời say tỉnh... Nhưng nghe kỹ mới biết rằng đêm đã khuya, nằm chưa ngủ, tinh thần mệt nhọc mà cuồng tư loạn tưởng đó mà thôi: cái tiếng vo vo ve ve, hu hu hi hi kia chẳng qua là tiếng gió thổi qua những ống thông hơi thông gió ở xung quanh tàu, ban ngày tiếng người xôn xao nghe không rõ, đêm khuya thanh vắng mới như văng vẳng bên tai. Cho hay không gì vô bằng bằng cái tư tưởng của người ta! Mà cũng không gì huyền diệu bằng!...
Mấy bữa sau trời vẫn bình tĩnh như vậy. Ngày tuy có nóng mà gió bể làm ra ấm áp, đêm thì gió mát trăng thanh. Trừ buổi ngủ buổi ăn, còn các giờ khác ở luôn trên boong, hoặc đi bách bộ, hoặc bắc cái ghế dài ngồi đọc sách, hoặc đứng giờ lâu nhìn mặt trăng soi làn sóng, trước mặt là bể khơi vô hạn, sau lưng là dẫy núi Trung Kỳ. Có lúc chợt quay lại, thấy một đám đèn lửa xa xa, lốm đốm như sao sa: tàu bấy giờ vừa đi ngang tỉnh Quảng Ngãi. Nghe người ta nói nếu đi ban ngày mà đi gần bờ thì thấy cái nhà mát của quan cố quận công Nguyễn Thân, xây ngay trên núi, nhìn ra ngoài bể. Nhưng bữa đi vào đêm mà lại xa bờ, đến hồi về thì tới ngang Bình Định trời trở gió, tàu lắc lư, người lảo đảo, nằm rí trong buồng, không cất đầu nổi, còn ra ngắm phong cảnh sao được! Mới biết sự đời không cái gì là chắc, tổng thị là một mớ ngẫu nhiên: ngẫu nhiên mà biết cảnh này, ngẫu nhiên mà gặp người kia, chớ có rắp mà không được, đừng có hẹn mà sai nhau, tấm thân trong trời đất đã như chiếc bách ở giữa dòng, thời trôi dạt vào đâu là hay đó, đừng có nói tiền định, đừng có nói thiên duyên, đừng có cậy ở câu Nhân định thắng thiên mà làm. Răn thay những kẻ cơ quyền... Tàu đi cả thảy hai ngày rưỡi ba đêm, đường đi tới hơn một ngàn rưởi cây lô mét. Tang tảng sáng ngày thứ tư đã vào tới cửa Sài Gòn. Đi qua “Vũng Tàu” (Cap Saint-Jacques) vào hồi quá nửa đêm, nên không được trông rõ phong cảnh một nơi hiểm yếu có tiếng của Đông Dương ta. Đến khi trở về sẽ được hết sức ngắm kỹ. Nay thế là đã tới đất Nam Kỳ rồi. Sài Gòn cách bể những 60 cây lô mét, nên tự cửa Cần Giờ vào, đi ngược con sông Sài Gòn, còn phải mất mấy giờ đồng hồ. 7 giờ sáng thì tàu vừa ghé bến. Trông dưới bến đã thấy nhan nhản những người ra đón anh em bà con sắp ở tàu xuống. Quan cảnh sát lên kiểm giấy thông hành, ước một khắc đồng hồ thì cu li mỗi đứa cái thẻ đồng ở tay ồ vào tranh nhau khiêng đồ hành lý. Tuy vậy coi còn nghiêm hơn cu li Hải Phòng, vì bọn đó chừng có pháp luật riêng phải theo, không dám làm nhũng.
Một tháng ở Nam kỳ-Phần II
Phạm Quỳnh
Phạm Quỳnh
Bước xuống đất, ngoảnh lại chào cái tàu lớn kia đã chở mình tới đây được an toàn trót lọt. Càng nhìn càng thấy to lớn thay! Ôi! Ta từ biệt ngươi từ đây, mong rằng có ngày lại được gặp ngươi lần nữa. Người đời đi chuyến đò còn nên nghĩa, huống chi là ngươi với ta, trong mấy đêm ngày đã cùng nhau bềnh bồng trên mặt sóng!... Ta từ biệt ngươi, ngươi có biết không, hỡi kềnh nghê bằng gỗ sắt?...
Khi đã ngồi trên xe kéo, chạy qua cầu Khánh Hội, hô hấp cái không khí mát buổi sáng, mới bắt đầu tiếp xúc cái cảnh sắc, cái khí vị đất Sài Gòn từ đấy. Ngay lúc mới đầu ấy đã biết ngay cái cảnh sắc ấy là cảnh sắc một nơi thành phố tây, cái khí vị ấy là khí vị một chốn đô hội lớn. Tạm để đồ hành lý ở nhà khách sạn, rồi đi thăm các người quen thuộc, phần nhiều là quen tên thuộc tiếng mà chưa từng tiếp mặt bao giờ. Nhân thể đi dạo chơi trong mấy đường phố lớn. Đường có tiếng nhất ở Sài Gòn là đường Catinat. Catinat nguyên là tên một quan nguyên soái nước Pháp về đời vua Louis thứ 14, sau là tên chiếc chiến thuyền sang đánh cửa Sài Gòn trước tiên cả. Nay đặt tên cho một đường lớn ở Sài Gòn là có ý muốn lưu một mối kỷ niệm cho người sau vậy. Kể to lớn thì đường Catinat chưa phải là to lớn nhất ở Sài Gòn. Nhưng cũng tức như đường Paul Bert ở Hà Nội là nơi người Tây đến lập phố trước nhất, rồi sau mỗi ngày một bành trướng mãi ra, thành nơi trung tâm, đâu đâu cũng đổ xô về đấy, các đường mở sau đều tiếp phụ xung quanh. Đông đúc phồn thịnh đến nỗi đã phải mở một con đường chạy dọc theo, to lớn rộng rãi hơn nhiều, gọi là đường Charner - tức là tên quan thủy quân phó nguyên súy coi chiếc tàu Catinat vào đánh Sài Gòn - để rút bớt cái sức bành trướng đi ít nhiều, mà vẫnhằng ngày hằng phát đạt, không giảm đi chút nào. Các cửa hàng lớn, hàng tây, hàng ta (phần nhiều người Bắc Kỳ), hàng Chà (phần nhiều người Bombay bên Ấn Độ), hàng khách, chen nhau xin xít. Lại thêm có mấy nhà khách sạn lớn, nhà chớp bóng, nhà hát tây, nên chiều chiều cứ tự năm giờ trở đi kẻ đi người lại như nước chẩy. Người sang trọng, kẻ thượng lưu, tất mỗi buổi phải dạo qua đường Catinat một lượt mới là nền. Những trai thanh gái lịch đất Sài Gòn lấy đấy làm chốn cực phẩm phong lưu. Trên đường thì xe hơi không biết mấy trăm mấy chục mà kể, tiến lên êm như ru, như vô số những làn sóng tự ngoài xa đưa lại, rạt cả bên bờ nhà “Đại lục khách sạn” (Hôtel Continental). Nhất là ngày chúa nhật, sau khi tan lễ nhà Thờ Chánh, không cảnh tượng gì đẹp bằng đường Catinat chừng hồi chín mười giờ. Đàn ông, đàn bà, con trai, con gái, người Tây, người Nam, ăn bận rất lịch sự, ở nhà thờ ra đi dạo qua các cửa hàng, lũ lượt như ngày hội. Thật là nghiễm nhiên ra cái cảnh tượng một nơi đại đô hội, đương buổi quốc dân phong phú, thiên hạ thái bình. Coi đó không ngờ rằng trong thế giới hiện còn mấy nghìn vạn con người đương lầm than trong vòng máu lửa!
Người ta thường gọi Sài Gòn là cái “hạt báu của Á Đông” (la perle de l'Extrême-Orient). Tôi chưa từng được biết những nơi đô hội lớn ở Á Đông, như Hương Cảng (Hongkong), Thượng Hải (Changhai), Tân Gia Ba (Singapore), nhưng chắc rằng những nơi ấy tuy có lớn, có đông, có sầm uất phồn thịnh hơn, mà về cách sửa sang sắp đặt, về cái qui mô các đường phố, các lâu đài, về cái vẻ chỉnh đốn sạch sẽ, mĩ miều khả ái, chơn chu mà sán lạn như hạt châu mới rũa, thì còn kém Sài Gòn nhiều. Đường phố như vẽ bằng tay, kẻ bằng thước, đều đặn, thẳng thắn, rộng rãi khang trang, nhiều đường ở giữa lại để những khoảng rộng trồng cỏ, đặt những tượng đồng kỷ niệm, chiều đến hàng trăm cái đèn điện lớn chiếu sáng như một dẫy dài những quả ba lông lấp loáng thả phấp phới ngay trên giữa đường phố, coi rất là ngoạn mục. Đẹp nhất, coi trang nghiêm nhất là con đường đi thẳng vào phủ Toàn quyền (người Sài Gòn thường gọi là tòa Chánh soái). Hai bên có hai khu vườn trồng những cây lớn, tối trông như hai đám rừng nhỏ, ở giữa một con đường rộng chạy thẳng băng tự đầu tỉnh đằng kia cho tới ngang cửa phủ. Coi thật là có bề thế, có vẻ tôn nghiêm, xứng đáng với một nơi tướng phủ. Mà phủ Toàn Quyền ở đây, qui mô cũng đẹp hơn ở Hà Nội. Phủ Toàn Quyền Hà Nội tựa hồ như một đống gạch xếp vuông, trông có vững vàng bền chặt mà nặng nề biết bao nhiêu! Ở Sài Gòn thì như hình chữ đinh J, nét ngang trên là chánh dinh, nét sổ dưới là các tơ tào. Mặt trước ở gian giữa có bậc lên, hai bên hai con đường dốc quanh lại như hình bán nguyệt, trông ra cái vườn rộng thênh thang, giữa có bãi cỏ phẳng lì như một tấm thảm xanh, trên chỉ trồng hai khóm trúc in nhau như hệt. Còn xung quanh thì vườn trại mênh mông, cây cối rậm rạp. Những khi quan Toàn quyền ở Sài Gòn, tối đến trong dinh đèn điện thắp sáng choang, trông xa tưởng tượng như một tòa lâu đài bằng ngọc có trăng chiếu, chon von ở giữa khoảng rừng rậm tịch mịch u sầu, khác nào như trong truyện thần tiên vậy. Khen cho ông quan tạo tác nào kinh doanh cái phủ Toàn Quyền đó cũng khéo tay.
Sài Gòn còn nhiều những dinh thự cùng các nhà công sở đẹp lắm, như nhà dây thép, tòa án, dinh quan Thống đốc Nam Kỳ (tức trong ấy gọi là dinh Phó soái), nhà hát tây, v.v... Nhưng đẹp nhất là nhà Thị sảnh Sài Gòn (Hôtel de ville, trong ấy gọi là nhà “xã tây”, vì ông đốc lý thành phố tục kêu là ông xã tây). Kiểu đại khái cũng giống như các nhà thị sảnh bên Tây, trên có cái chòi vuông mấy từng cao chót vót. Mặt trước trông thẳng ra đường Charner vừa dài vừa rộng, đi đằng xa lại, coi cũng có cái vẻ trang nghiêm, xứng đáng làm nơi công sở của một chốn đô hội lớn như Sài Gòn. Chẳng bì với nhà Đốc lý Hà Nội ta, thật so sánh mà thẹn thay. Mà Hà Nội lại là nơi thủ đô của Đông Dương! Hà Nội có cái nhà hát to quá không biết dùng để làm gì, suốt cả năm bỏ vắng ngắt như chùa bà Đanh, mà đến cái nơi công sở để hằng ngày lo công tính việc cho ngót mười vạn con người, để phòng khi có quan sang khách quí ở nước ngoài qua lại đón tiếp cho xứng đáng, thì coi như cái nhà hầm, bốn bề kín mít, khí trời ánh sáng không lọt tới bao giờ! Xin các ông hội viên phải lưu tâm đến sự đó, thật là có quan hệ cho danh dự Hà thành ta. - Nhà thờ Sài Gòn tuy không có cái nền đá cao như nhà thờ Hà Nội, mà có hai cái tháp nhọn cao ngất trời, những khi trời sáng sủa đi tự ngoài Vũng Tàu (Cap Saint Jacques) cũng trông rõ. Lại nhà dây thép, trong gian giữa có cái tượng đồng người đàn bà ngồi trên quả địa cầu, để biểu hiện cái tin tức của người ta nhờ dây thép mà truyền được đi khắp thế giới, coi cũng mạnh mẽ và có ý tứ lắm. Chỉ hiềm chỗ đặt khí tối, giá người nào bước vào vô ý không ngửng mặt lên thì không biết! Còn Chợ Mới Sài Gòn cũng có cái nhà chòi ở cửa giữa thật là vĩ đại, vừa cao vừa vững vàng lực lưỡng, coi như một cái pháo đài vậy. Mà trong chợ thì rộng mênh mông, chợ Đồng Xuân Hà Nội chẳng thấm vào đâu.
Nói tóm lại, cái hình thức của thành phố Sài Gòn sánh với thành phố Hà Nội còn hơn nhiều. Từ cách đặt đường phố cho đến cách dựng cửa nhà, từ cách thắp đèn điện cho đến cách đặt máy nước ở các nhà, cho đến cách tuần phòng vệ sinh trong phố xá, nhất nhất đều có tiến bộ hơn Hà thành ta cả. Ở Sài Gòn thật là có cái cảm giác một nơi đô hội mới, nghĩa là một nơi đô hội theo lối tây. Vào đến Chợ Lớn thì lại ra cái cảm giác một nơi đô hội theo lối tàu. Còn các châu thành khác ở Lục tỉnh, thì những nơi quan sở là tây mà chốn phố phường là tàu, phần An Nam thật ít lắm. Xét về phương diện đó thì những đô hội Bắc kỳ tuy coi cũ kỹ mà còn có cái vẻ An Nam hơn. Người khách ngoại quốc nào sang du lịch đây, nếu không có cái chủ ý quan sát phong tục người dân thì ở Sài Gòn sướng tiện hơn, nếu muốn biết cái chân tướng sự sinh hoạt dân An Nam thì cứ đi chơi qua phố phường Hà Nội cũng đủ làm một cái kho khảo cứu không cùng. Tuy vậy, các tỉnh thành khác không nói làm gì, mà Hà Nội đã là nơi thủ đô của Đông Dương thì về phần hình thức mới cũng không kém Sài Gòn mới là phải. Nếu cái hình thức mới cũng đủ mà các đặc sắc cũ vẫn còn thì mới thật là xứng đáng vậy.
Ngay chiều bữa tới Sài Gòn, gặp ông chủ bút “Nam Kỳ tân báo” (La Tribune indigène) là một tờ báo bằng chữ Pháp của mấy ông danh giá trong Lục châu lập ra, và rất có thế lực trong các hạng tân học ta. Thường đọc báo đó, biết tiếng các ông, phục cái tài của các ông viết văn Pháp như người Pháp, khen cái chủ nghĩa của các ông muốn bênh vực cho quyền lợi dân An Nam, vẫn ước ao được tiếp mặt. Nay được gặp lấy làm mừng lắm. Chủ nhiệm “Nam Kỳ tân báo” có hai ông Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phú Khai, nhưng đứng tên quản lý chỉ có ông Nguyễn mà thôi. “Quan bác vật Bùi” thì trong Nam ngoài Bắc ai ai cũng đã biết tiếng. Nguyên ngài có chức “nông nghiệp kỹ sư”, sung giám đốc các sở canh nông Nhà nước, trong Nam kêu vắn tắt là quan “bác vật”. Ngài năm nay đã đứng tuổi, đã từng ở Bắc lâu, ở Kinh cũng nhiều, cái học vấn đã sâu, sự kiến văn lại rộng, thật là xứng đáng làm một tay lĩnh tụ (leader) cho dư luận xứ Nam Kỳ. Lại thêm người ôn nhã, điềm đạm, lễ độ, tiếp chuyện thật là vui. Ông Nguyễn Phú Khai thì người còn trai trẻ lắm, cũng đã từng đi học bên Tây và có văn bằng “Kỹ sư” (ingénieur). Người lanh lợi thông minh, cũng là một tay lỗi lạc trong bọn tây học nước ta.
Ngay khi mới gặp, hai ông có cho biết bữa đó chính là ngày kỷ niệm “Nam Kỳ tân báo” đã đầy năm và mời đến dự tiệc chiều hôm ấy. Tôi lấy làm vui mừng mà nhận lời ngay, thật cũng là một sự may mới tới Nam Kỳ đã được cái dịp tốt để biểu chút cảm tình với bạn đồng nghiệp. Tiệc dọn tại nhà cao lâu khách ở Chợ Lớn. Vậy 7 giờ chiều cùng ông Bùi và mấy người bạn nữa đi xe ngựa về Chợ Lớn. Nhân thể được ngó qua cái cảnh tượng Chợ Lớn buổi tối, thật ngày thường như ngày hội, các phố khách Hà Nội Hải Phòng chửa thấm vào đâu. Nhưng bữa đó mới đi lượt qua mà thôi, khi tiệc tan rồi thì đã khuya, không thể dạo chơi các phố phường được, định bữa khác sẽ coi kỹ hơn. Tiệc đông lắm, ước đến bốn năm chục người, phần nhiều là những bậc tai mắt ở Sài Gòn và Chợ Lớn. Cũng lại là một dịp may được gặp mặt các ông ấy để nối cái dây thân ái kẻ Bắc người Nam. Bữa tiệc thật vui, có cái vẻ đậm đà thân mật, không có những lối kiểu cách như ngoài ta. Nói chuyện toàn bằng tiếng tây, ông nào cũng nói giỏi, không những nói giỏi mà đến cái giọng nói, cái cách cử động cũng hệt như tây vậy. Trong các ông dự tiệc đấy, có nhiều ông đã vào dân tây. Coi đó thì biết các bậc thượng lưu trong Nam Kỳ tây hóa đã sâu lắm, hầu như không còn chút gì là cái phong thể An Nam nữa. Về đường đó thì ngoài Bắc Kỳ Trung Kỳ còn kém Nam Kỳ nhiều. Đến cách nghị luận cũng đường đột mãnh liệt, trực mà không có những lối khép mở xa xôi như các nhà cựu học ngoài ta. Hai cái tâm lý khác nhau biết dường nào! Cái nào là hơn? Khó mà quyết được. Song thiết tưởng nếu điều hòa được cả hai thì hơn nhất. Nhưng sự điều hòa ấy có thể thành được không? Đó là cái vấn đề rất quan trọng cho cuộc tiến hóa dân ta sau này vậy.
Khi trở về Sài Gòn, vừa ngồi xe vừa nghĩ lan man về cái tương lai nước nhà, thật có lắm sự hi vọng đáng vui mà cũng nhiều cái hiểm tượng đáng buồn. Nhưng mà cái tương lai là cái tương lai, ai là người dự đoán được bao giờ? Vả con đường tiến hóa của mỗi dân mỗi nước là bởi lịch sử, bởi thời thế khiến nên; người ta dẫu hết sức tư tưởng nghĩ ra đường này là hơn hay là đường kia là phải, cũng không thể nào đổi được lịch sử, chuyển được thời thế mà mong khuynh hướng cái cuộc tiến hóa kia về đường mình. Cho nên nghĩ xa xôi lắm mà làm chi?...
Mấy bữa sau đi thăm các bạn “đồng nghiệp”, tức là các anh em làm báo ở Sài Gòn. Gặp ông nào cũng được chuyện trò vui vẻ lắm, mới biết kẻ Nam người Bắc tuy ít dịp gần nhau thân nhau, mà mỗi lần biết nhau, thật là dễ nên cái tình thân ái vậy. Cho hay người một nước một nhà, dẫu xa cách mà cũng là anh em, miễn là đối với nhau lấy lòng thành thực, đừng có cái thói ghẻ lạnh người thường, thì khó gì mà chẳng nên thân mật được? Huống bọn mình lại cùng theo đuổi một nghề, tức là cái nghề khua chuông gõ mõ trong quốc dân, đem những lời hay lẽ phải mà bàn bạc với bạn đồng bào, mong gây lấy một mối tư tưởng cảm tình chung, mưu cho nước nhà giống nhà sau này được cường mạnh vẻ vang, có ngày mở mặt mở mày với thế giới, thì cái mục đích cao xa ấy há lại không đủ khiến cho ta đồng tâm hiệp lực mà cùng nhau đạt cho tới rư?
Ôi! Nếu hết thảy các nhà làm báo ai cũng hiểu cái nghĩa vụ của nghề làm báo thì còn nghề gì đẹp bằng, hay bằng, cao thượng bằng, đủ khiến cho người ta tận tụy một đời mà theo đuổi cho cùng? Đương buổi mới cũ giao nhau, cái tư tưởng quốc dân chưa biết lấy gì làm chuẩn đích, bọn mình nên đề xướng những chủ nghĩa hay để dìu dắt quốc dân vào con đường chánh đáng, đừng để cho xa lạc vào những ngõ ngách hiểm nghèo. Về đường giáo dục, về đường xã hội, về đường chính trị, về đường phong tục, về đường văn chương, về đường đạo đức, cái thế lực của bọn ta có thể bao gồm hết thảy. Một lời công luận của ta có thể làm cho người ta bỏ đường tà mà theo đường chánh, hay là bỏ đường chánh mà theo đường tà được. Vậy cái lời công luận đó ta chẳng nên quí báu lắm rư? Ta chẳng nên cẩn thận lắm rư? Ta há lại nên phản cái mục đích của ta mà dùng lời công luận đó làm cái khí giới để công kích lẫn nhau, bày ra một cái gương xấu cho quốc dân rư? Dám chắc rằng các anh em trong báo giới ta không có ai hiểu lầm cái nghĩa vụ đến vậy. Nếu quả được như vậy thì may cho nước nhà lắm lắm. Bây giờ cần nhất cho dân ta chỉ có sự học, nhất thiết cái gì cũng phải học cả, như đứa con nít mới đến tuổi vào trường vậy. Bọn ta phải hết sức giúp một phần vào sự học ấy, cho cái trình độ quốc dân mỗi ngày một cao thêm lên, cho cái tư tưởng quốc dân mỗi ngày một rộng thêm ra, để có ngày đủ khôn đủ lớn mà ra tranh đua với đời được. Chắc cái trách dạy dân không phải ở đâu bọn mình, mà thực thuộc quyền Nhà nước. Nhưng mình có thể giúp vào đó một phần to: Nhà nước là ông thày dạy dân, thì mình cũng có thể đương được một chân trợ giáo. Có lẽ nhiều điều mật thiết trong dân gian, Nhà nước không xét tới mà mình tường hơn, cái công giáo dục của mình có khi ích lợi hơn Nhà nước nhiều. Thiết tưởng hiện nay cái nghĩa vụ nhà báo phải như vậy mới là chánh đáng, chớ những kẻ coi báo giới như một nơi tranh ăn nói, dành lợi danh, hay là một chốn hí trường để đem những lời nghiêng ngửa, truyện dâm bôn mà mơn man, mà khêu gợi cái dục tình sằng của công chúng, thì thật là làm mất giá một cái nghề rất hay, rất cần, rất có ích lợi cho nước nhà đương buổi bây giờ.
Báo giới trong Nam Kỳ thạnh lắm, phát đạt hơn ngoài Bắc nhiều. Hiện nay có đến mười tờ báo bằng quốc ngữ. Không kể “Nam Kỳ tân báo” (La Tribune indigène) viết bằng chữ Pháp, - gần đây báo ấy cũng mới xuất bản thêm một tập phụ trương bằng quốc ngữ, mỗi tuần lễ một kỳ, đều là Quốc dân diễn đàn, - còn các báo khác thì có những tờ như sau này:Nông cổ mín đàm, chuyên chủ về nông nghiệp, thương nghiệp, mở ra đã lâu, là tờ báo có tuổi nhất ở Nam Kỳ, hiện ông Nguyễn Chánh Sắt làm quản lý và chủ bút, ông cũng là một nhà trước thuật có tiếng ở Nam Kỳ; -Nam trung nhựt báo, chủ nhân là quan huyện Nguyễn Văn Của chủ nhà in Union, là một bậc thân hào danh giá ở Sài Gòn, sinh ra quan hai Nguyễn Văn Xuân hiện tùng chinh bên Đại Pháp; chủ bút là ông Nguyễn Tử Thực, có ông Nguyễn Viên Kiều giúp; -Công luận báo, quản lý ông Nguyễn Kim Đính, chủ bút ông Lê Hoằng Mưu; - Lục tỉnh tân văn, của ông chủ nhà in Schncider, ông phủ Gilbert Trần Chánh Chiến làm chủ bút; Nữ giới chung (Femina annamite) là tờ báo riêng cho các bậc nữ lưu, chủ nhiệm là ông Trần Văn Chim và ông Lê Đức; -Nam Việt tề gia nhựt báo (Journal de la famille annamite), của một bà đầm làm báo ở Sài Gòn mở ra để riêng cho đàn bà con gái An Nam coi; -Nhựt báo tỉnh (Moniteur des provinces), là một tờ công báo, dịch những nghị định công văn của Nhà nước, đăng những tin thuyên chuyển trong quan lại; -Nam Kỳ địa phận, là một tờ báo của nhà Trung. - Lại gần đây nghe nói mới xuất bản một tờ Thời báo, một tờ đặt tên nôm là Đèn nhà Nam. Đèn nhà Nam, cái tên sáng sủa thay! Ước gì đèn được sáng tỏ mà chiếu khắp chốn kẻ chợ nhà quê, nơi hang cùng ngõ hẻm, phá được cái thành hôn mê mà soi tỏ con đường tiến bộ. Đó là cái mục đích chung của cả báo giới ta vậy. Mấy tờ báo trên đó là xuất bản ở Sài Gòn. Còn ở Long Xuyên có Đại Việt tập chí, thể tạp chí, mỗi tháng một kỳ, của hội Khuyến học Long Xuyên, cái chủ nghĩa, cái tôn chỉ cũng giống như Nam Phong vậy. Lại ở Cần Thơ, có tờ An Hà nhựt báo, ông huyện Võ Văn Thơm làm quản lý, có một phần chữ tây, một phần quốc ngữ, chuyên về nông nghiệp thương nghiệp.
Một địa hạt Nam Kỳ mà bấy nhiêu tờ báo kể cũng đã nhiều lắm vậy. Cứ lấy cái “lượng” (quantité) mà xét thì thật đủ khiến cho Bắc Kỳ Trung Kỳ phải thẹn với Nam Kỳ rằng về đường ngôn luận còn chậm kém xa quá. Nhưng cái “phẩm” (qualité) có được xứng đáng với cái “lượng” không? Điều đó thì chưa dám chắc vậy. Xưa nay phàm cái gì muốn cho nhiều tất giá phải kém, không thể vừa nhiều vừa tốt cả được. Muốn giữ cho cái “phẩm” cao, tất phải hạn cái “lượng” lại mới được. Ấy công lệ từ xưa vẫn thế: nghề làm báo, nghề làm sách, có thể ra ngoài được cái công lệ ấy không? Thiết tưởng rằng không. Cho nên xét ra các đồng bào ta trong Lục tỉnh hình như có ý trọng cái “lượng” hơn cái “phẩm” vậy. Đó cũng là một điều khuyết điểm trong học giới báo giới xứ Nam Kỳ.
Ta vừa nói nghề làm sách: nghề làm sách ở Nam Kỳ cũng thịnh lắm, có phần lại thịnh hơn nghề làm báo nhiều. Tuy vài năm gần đây đã bớt đi nhiều, mà trong khoảng năm năm mười năm về trước, cái số những sách quốc ngữ xuất bản ở Sài Gòn không biết bao nhiêu mà kể. Thứ nhất là những bản dịch các tiểu thuyết tàu cũ, như Tam quốc, Thủy hử,Chinh Đông, Chinh Tây, Phản Đường, Tùy Đường,Đông Châu, Phong thần, Đại Hồng bào, Tiểu Hồng bào, v.v... nếu sưu tập cả lại thì làm được một cái thư viện nhỏ! Những tiểu thuyết tàu tự tám mươi đời triều ấy văn chương đã chẳng ra gì mà truyện thì toàn những truyện huyền hoặc quái đản, của mấy bác cuồng nho bên tàu đời xưa ngồi không bịa đặt ra để khoái trá những bọn hạ lưu vô học. Thế mà dịch nhiều như vậy, thịnh hành như vậy, nghĩ cũng khả kinh thay! Không trách cái tư tưởng quốc dân những chìm đắm trong sự mê hoặc không cùng, có khi sinh ra những việc xuẩn động hại đến cuộc trị an trong xã hội cũng vì đó. Có người nói việc phá khám Sài Gòn năm nọ cũng là bởi cái di độc của các tiểu thuyết tàu mà ra, tưởng không phải là nói quá vậy. Cả ngày cả đêm những ca tụng cái tài ông Tiết Đinh Sơn, ông Tiết Đinh Qui, hay những ông tướng kỳ khôi từ đời hồng mang nào, trách sao trong trí không loạn lên mà muốn làm thực những việc mình thường đọc thấy trong truyện? Càng những bọn hạ lưu hung hãn lại càng dễ nhiễm hơn cả. Coi đó thì biết văn chương không phải là không có quan hệ đến nhân quần; các nhà làm sách há chẳng nên cẩn thận lắm rư? Chắc ai cầm bút viết trong bụng cũng có cái ý tốt cả, và như các nhà dịch tiểu thuyết tàu kia là chỉ chủ làm một món mua vui cho các bạn đồng bào trong khi tửu hậu trà dư, lại vừa làm một mối lợi riêng cho mình; nhưng phải nghĩ đến cái ảnh hưởng những truyện vô bằng ấy vào trong óc mộc mạc của những kẻ ít học, chưa biết suy nghĩ sâu xa, thường lấy hư làm thật, lấy giả làm chân, nó hại biết dường nào!
Ấy là cái tệ các tiểu thuyết cũ dịch của Tàu. Đến cái tệ của phần nhiều các tiểu thuyết mới ngày nay thì lại thậm hơn nữa, vì cách đặt để đủ làm cho bại hoại phong tục, điên đảo luân thường vậy. Tôi biết có bộ tiểu thuyết cực là dâm bôn mà lại rất là thịnh hành trong bọn phụ nữ. Coi đó thì biết cái hại sâu biết dường nào! Gia đình tan cũng vì đó, xã hội nát cũng vì đó, cái tương lai nước nhà nguy hiểm cũng vì đó. Các nhà làm sách có nghĩ tới không? Hay chỉ chủ bán cho chạy hàng, thâu được nhiều bạc, còn những lẽ cương thường luân lý mặc quách cho ai? Ôi! Cổ nhân đã dạy: làm người sĩ phu trong nước cái trách là phải phù cho thế đạo, giúp lấy cương thường. Nếu những nhà làm sách lại cố ý làm nghịch thế đạo, đạp đổ cương thường, thì một nước như vậy sống làm sao được? Thiết tưởng các bậc trí thức trong Lục châu ai trông thấy văn vận suy đồi như vậy, phong túc bại hoại như vậy cũng phải lo, mà tìm cách duy trì cho kịp. Nên mau mau, kẻo cái tệ đã sâu lắm rồi.
Song có một điều nên chú ý, là báo nhiều như thế, sách nhiều như thế, mà bán được chạy, có nhiều người mua, thời cũng là một cái chứng rằng dân Nam Kỳ có tính ham đọc sách và có tiền thừa mua sách. Như vậy mà nếu có những báo thiệt tốt, sách thiệt hay cho mà đọc thì ích lợi biết bao nhiêu. Chẳng bù với dân Bắc Kỳ Trung Kỳ, trăm người chưa được một người đọc thông chữ quốc ngữ, mười người đọc thông chữ quốc ngữ chưa được một người thích xem văn quốc ngữ, lại thêm dân nghèo, bỏ ra mấy đồng bạc mua báo một năm đã lấy làm một món tiền nặng; đến những bậc sĩ phu thì phần nhiều những quẩn quanh trong vòng danh lợi mà sao nhãng những việc văn chương; nghề làm báo làm sách thật không được đủ điều tiện lợi như Nam Kỳ. Cho nên khá tiếc thay cho những bậc trí thức trong Lục châu không biết khéo lợi dụng cái cơ hội tốt ấy mà đặt để ra những sách vở hay có ích cho phong hóa, nỡ để cho cái lòng ham đọc sách, ham mua sách của người dân ấy ngập vào những sách vở hoặc vô vị, hoặc tầm bậy không ra gì, thật uổng quá.
Nay nhân nói về nghề làm báo làm sách, nên xét qua cái tình trạng văn quốc ngữ ở Nam Kỳ thế nào. Chữ quốc ngữ thì đã thông dụng lắm rồi, đàn bà con trẻ thường biết đọc biết viết cả, nhưng đến văn quốc ngữ thì xem ra chưa được phát đạt lắm. Trừ mấy nhà văn sĩ có tiếng, còn thì cái trình độ quốc văn đại để hãy còn kém. Sự kém đó là bởi nhiều lẽ. Thứ nhất là Nam Kỳ bỏ nho học đã lâu, bao nhiêu cái văn điển cũ đã hầu mất hết không còn. Mà văn quốc ngữ ngày nay muốn cho thành văn chương, muốn cho phát đạt được, phi nương tựa, phi tổ thuật cái văn điển cũ ngày xưa thì không thể nào được. Lẽ đó tưởng tầm thường ai cũng hiểu, mà thật nhiều người chưa hiểu rõ, là vì nhiều người đặt sai cái vấn đề. Có người nói rằng nếu quả cần phải biết chữ nho mới làm được văn quốc ngữ thì muốn làm văn quốc ngữ tất phải học lâu năm chữ nho, tất phải trở lại những lối giáo dục hủ lậu ngày xưa, tất phải ra công rùi mài kinh sử, nghiền ngẫm một cái “tử văn” (lanque morte) vô dụng cho đời nay, như vậy thì chẳng uổng công lắm rư? Nay ta được nhờ nhà nước Đại Pháp dạy dỗ cho ta, mở mang cho ta con đường văn minh học thuật mới, đã mừng thay được thoát khỏi cái áp chế của chữ tàu trong mấy nghìn năm, có đâu ta lại mê cuồng đến nỗi lại đâm đầu vào cái chốn lao lung ấy lần nữa! Những người nào nói thế là hiểu sai. Nước Nam ta học chữ nho đã mấy nghìn năm, bất luận rằng cái cách học đời xưa hay hay là dở, phải hay là trái, có một điều hiển nhiên, ai cũng phải công nhận, là chữ nho đã tiêm nhiễm vào trong tinh thần ta sâu quá rồi, cái vết nó đã in vào trong óc ta không thể nhất đán đem mà gột rửa đi được, đến nỗi tiếng nói của ta ngoài những tiếng nhật dụng tầm thường phải dùng quá nửa chữ nho mới thành văn được, như vậy mà nếu bỏ hẳn chữ nho không học thì sao cho thuộc hết tiếng nước mình được? Đã không thuộc hết tiếng nước mình thì sao đặt cho thành văn chương được? Nhưng nói rằng cần phải biết chữ nho, không phải rằng phải học chữ nho như lối ngày xưa đâu; không phải rằng phải học cho làm được thơ, được phú, được văn sách kinh nghĩa như xưa đâu; không phải rằng lại phải trở về cái lối thi cử phiền toái, khảo cứu tỉ mỉ như xưa đâu. Xưa học chữ nho là vị chữ nho mà học chữ nho, nay học chữ nho là vị quốc văn mà học chữ nho. Cái mục đích đã khác, cái phương pháp cũng không giống. Xưa phải rùi mài kinh sử, từng trải Thiên kinh vạn quyển mới thi đậu được một chân đại khoa, mới làm nổi được một nhà văn sĩ có tiếng. Nay chỉ học cho đủ sự cần dùng về quốc văn mà thôi, chỉ học cho đủ hiểu hết một quyển Kim Vân Kiều hay một quyển Lục Vân Tiên mà thôi, thì có khó gì? Trước trăm phần nay không được một phần. Nhưng cái một phần ấy rất cần, không biết thời không thể nào cầm ngọn bút mà viết thành bài văn quốc ngữ được, dẫu tài giỏi khôn khéo đến đâu cũng không làm thế nào ra cái “hơi” văn An Nam được, vì cái “hơi” ấy là tự mấy mươi đời truyền lại cho ta, không thể tự mình mà đặt lấy ra được. Cho nên những người nào đã quyết không cho văn quốc ngữ là cần, đành bỏ vào cái địa vị yếu hèn, chỉ đợi ngày tiêu diệt cho xong, thì không nói làm chi, còn ai đã có bụng thương đến tiếng nước nhà, muốn gây dựng cho thành một nền quốc văn có thể sống được ở đời này, thì phải noi theo lấy cái văn điển cũ của ông cha, mà cái văn điển cũ của ông cha ấy ngoài chữ nho không kiếm đâu cho thấy được. Nay ở Nam Kỳ cái văn điển cũ đã xa lạc đi mất rồi. Tuy cũng có mấy nhà có chí muốn ra sức mà vãn hồi lại, nhưng cái phần phản đối với chữ nho, cái phần khảng khái một cách sai lầm, muốn thị hùng ra tay tước hết những cái văn vẻ tốt đẹp thanh tao của mấy mươi đời nho học đã di truyền lại cho tiếng An Nam mình, để bày trần cái khí vũ bỉ li nôm na ra, cái phần ấy thì nhiều lắm. Những người có chí kia thể nào mà chống lại cho nổi, thể nào mà cứu vớt lại cho toàn được. Đó là một cái nhược điểm cho hậu vận quốc văn ở Nam Kỳ vậy. Còn một cái nhược điểm to hơn nữa, là hiện nay phàm những bậc thượng lưu, những người có học thức, thông giỏi chữ Pháp, phần nhiều khinh rẻ tiếng An Nam, không thèm nhìn đến, cho là một thứ chữ đê tiện để cho hạng tầm thường dùng mà thôi. Như vậy thì quốc văn mong sao cho phát đạt được? Những người mong cho quốc văn có thể phát đạt được là thứ nhất trông cậy ở các nhà tân học ngày nay ra công giúp sức vào, đem cái tinh thần của văn minh học thuật Thái Tây mà đúc vào cái khuôn văn cũ của nước nhà, khiến cho thành được một nền văn thiết dụng với đời, không phải chịu mang cái tiếng hư văn như xưa nữa. Nếu những nhà ấy lại khảng tảng, không để bụng sốt sắng vào, không những thế, lại khinh bỉ nữa, thì quốc văn còn trông vào đâu mà sinh tồn, mà phát đạt được? Nếu cái nghề quốc văn chỉ riêng để cho những ông lão hủ ngồi mà ngâm nga đẽo gọt với nhau thì cái văn chương ấy sao cho thích hiệp với đời? Mà rồi những tay lão hủ kia một ngày một mất lần đi, một hết dần đi, sau này ai kế nghiệp, ai giữ được cho cái văn An Nam kia còn chút thoi thóp ở đời? Nguy vậy thay! Hai cái nhược điểm trên kia mà không phá được thì thật khá buồn thay cho hậu vận quốc văn mình, biết bao giờ cho ra khỏi được cái địa vị kém hèn.
Cái tình trạng văn quốc ngữ ấy không những ở Nam Kỳ, mà ở Bắc Kỳ Trung Kỳ cũng có cái hiểm tượng như vậy. Duy có ở Nam kỳ là cái hiểm tượng ấy trình bày ra một cách rõ ràng hơn mà thôi. Cho nên mỗi lần nghĩ đến cái vấn đề này mà như nóng lòng sốt ruột, không biết giải quyết ra làm sao!...
Phạm Quỳnh
: http://mythuat.proboards.com/thread/591/7845-272-ai-vn-lich#ixzz2um3CRGPz
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 302
Thanh trừng ở thượng tầng lãnh đạo Trung Quốc
Thời sự Ukraina vẫn chiếm nhiều trang nhất trên các nhật báo
Pháp ra ngày hôm nay và ngay cả hai tờ tạp chí L’Express và Le Nouvel
Observateur cũng dành đến 20 trang cho hồ sơ này. Tuy nhiên, thời sự tại
Châu Á cũng khá sôi nổi trên các mặt báo Pháp. Trước tiên, báo
Libération có bài viết : « Thanh trừng các quan chức cấp cao ở thượng
tầng lãnh đạo Trung Quốc ».
Lưu Hán, nhà tài phiệt trong vòng xoáy Chu Vĩnh Khang
Thái Lan: Thủ tướng kháng cự pháp luật và người biểu tình
Phía Bắc Trung Quốc lại một lần nữa bị một lớp sương mù dày
đặc bao trùm mà nguyên nhân chính là nạn ô nhiễm nghiêm trọng do các
hoạt động kinh tế, công nghiệp gây nên. Chính quyền địa phương đã không
có cách nào chống chọi được với vấn nạn này. Nhật báo Les Echos phản ánh
tình trạng này qua bài viết : « Bắc Kinh đối mặt với thách thức chính
trị của nạn ô nhiễm không khí ».
Pháp vẫn bất lực trong mục tiêu đẩy lui thất nghiệp. Ô nhiễm
không khí tại Trung Quốc và lần đầu tiên một công dân kiện chính quyền.
Thủ tướng Nhật ngày càng lộ rõ chân tướng diều hâu. Mỹ và NATO chuẩn bị
cho thời kỳ hậu Karzai tại Afghanistan. Một lần nữa, hồ sơ Ukraina vẫn
hiện diện nhiều trên trang quốc tế của các tờ báo Pháp hôm nay.
Hãng tin Reuters ngày 26/02/2014 có bài phân tích « Sự quyết đoán của Trung Quốc làm cho Malaysia cứng rắn hơn trong tranh chấp biển »
của Stuart Grudgings, nói về sự thay đổi thái độ - một cách kín đáo -
của Malaysia trước những đòi hỏi ngày càng hung hăng của Trung Quốc
trong hồ sơ tranh chấp chủ quyền Biển Đông.
Vào lúc căng thẳng khu vực gia tăng, Nhật Bản đang kín đáo
quay trở lại thị trường vũ khí và thiết bị quân sự, một thị trường mà từ
năm 1967, với tư cách quốc gia chiến bại, Nhật đã không được tham gia.
Ừ nhỉ sao thế nhỉ
Không biết ai đã nói: Quân xử thần tử,thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu" nhưng xem ra Khổng Tử, Mạnh Tử không hề có ý tưởng này.
Sau đây, chúng tôi xin nêu lên một số tiêu cực trong tư tưởng và cuộc đời Khổng Tử qua Luận Ngữ.
Ngài hăng hái đi tìm lợi danh, tìm không được thì bi quan. Trước kia ngài nói: ". (Mình là người tài giỏi) Người đời không biết đến mình, mình cũng chẳng lấy làm buồn, như vậy chẳng phải là bậc quân tử sao?(1.1). Nhưng cuối đời thất bại, Khổng tử cũng kêu trời kêu đất : "Ôi đời chẳng biết ta!" [14.36].. Ngài đau khổ vì chim Phượng và Hà Đồ không tái xuất,[9.8] và Ngài bi quan muốn bỏ đi ở nơi rừng núi hoang vu và man dã [9.14].
Ngoài ra, việc chu du thiên hạ này cho thấy Khổng Tử nông nổi. Thời buổi loạn ly, nên ở nhà ẩn cư hay dạy học là hơn, Ngài không được ai giới thiệu, đi lang thang vô định, một mình hay vài người đã là khó, ngài lại dẫn đệ tử theo đông trong một thời gian trên 10 năm. Ngài và các đệ tử có nhiều vàng bạc không? Đi đông và thiếu tiền bạc, không bị đánh, cướp hoặc bị đói thì mới là chuyện lạ.
Chúng ta cũng thấy về chính trị, Khổng Tử rất non nớt, vụng về như vụ Trần Thành Tử. Trần Thành Tử ( đại phu nước Tề ) giết vua Giản công. Khổng Tử tắm gội xong, vào thưa với Lỗ Ai Công: "Trần Hằng ( tên Trần Thành Tử ) giết vua, xin chúa thượng đem binh trừng phạt. Vua Ai công bảo: " Khanh nên đến nói cho ba nhà đại phu nghe đi". Khổng Tử nói một mình: Ta tuy không còn làm quan, vẫn là đại phu, nghe chuyện tày trời đó không lẽ không tâu vua. Sao vua lại bảo ta đến cho ba nhà kia hay? Ngài bèn đến ba nhà đại phu, cả ba đều chẳng tán thành ý ngài. Khổng Tử bèn nói một mình: " Bởi ta là quan đại phu nên chẳng dám im lặng nên phải lên tiếng vậy"[14.21].
Rõ ràng là kiến thức của Khổng Tử thua Lỗ Ai Công và ba vị đại phu kia. Nước Lỗ vốn nhỏ, binh lực, tiền của được bao nhiêu? Đánh Tề có lợi gì? Nếu Lỗ là một cường quốc, và Khổng Tử là một Napoleon hay Thành Cát Tư Hãn thì thế giới lại càng bị đe dọa vì nạn thực dân, đế quốc xâm lược.
Chúng ta cũng nên xét về đạo hạnh của Khổng Tử trong vụ đối xử với Nguyên Nhưỡng. Nguyên Nhưỡng ngồi đợi Khổng Tử. Khổng Tử trách: " Hồi nhỏ, người không biết kính thuận bậc tôn trưởng, lớn lên chẳng làm được gì, đến già chẳng chết đi, chỉ làm giặc cỏ thôi! Ngài bèn lấy gậy gõ vào ống chân Nguyên Nhưỡng [14.43].
Dẫu sao, Nguyên Nhưỡng cũng là bạn già, có lẽ rất lâu mới gặp lại nhau. Dù gặp nhau hằng ngày, Khổng Tử không nên xỉ nhục và trách mắng người ta như thế. Hơn nữa, ở đây rõ ràng là Khổng Tử nói năng thô lỗ và có hành vi thô bạo. Nhân ái và lễ nghĩa không cho phép ta đối xử như thế dù đối với ai.
Nói tóm lại, Khổng Tử có một vài khuyết điểm mặc dầu bao thế kỷ Khổng tử được tôn sùng như một vị thánh.
Saturday, March 1, 2014
TIN THẾ GIỚI
Thanh trừng ở thượng tầng lãnh đạo Trung Quốc
Hàng trăm người có liên hệ ít nhiều với ông Chu Vĩnh Khang đều bị điều tra - REUTERS /Jason Lee
Thời sự Ukraina vẫn chiếm nhiều trang nhất trên các nhật báo
Pháp ra ngày hôm nay và ngay cả hai tờ tạp chí L’Express và Le Nouvel
Observateur cũng dành đến 20 trang cho hồ sơ này. Tuy nhiên, thời sự tại
Châu Á cũng khá sôi nổi trên các mặt báo Pháp. Trước tiên, báo
Libération có bài viết : « Thanh trừng các quan chức cấp cao ở thượng
tầng lãnh đạo Trung Quốc ».
Thông tín viên báo Libération tại Bắc Kinh cho biết, cựu lãnh
đạo ngành an ninh Trung Quốc Chu Vĩnh Khang cùng những tay chân thân cận
cấp cao đều bị bắt theo lệnh của chủ tịch nước Tập Cận Bình. Ông Chu
Vĩnh Khang là một trong 9 người có thế lực nhất tại Trung Quốc. Ông từng
là lãnh đạo guồng máy an ninh quốc gia và đảm trách việc trấn áp ly
khai.
Ông Chu Vĩnh Khang đã làm phật lòng Chủ tịch nước Tập Cận Bình do đã
ủng hộ một quan chức cấp cao thất sủng khác là ông Bạc Hy Lai, người có
tham vọng trở thành nhân vật số 1 của đất nước trước khi bị kết án chung
thân. Ông hiện đang bị quản thúc tại gia. Theo báo Libération, những
nạn nhân của vụ thanh lọc chính trị đều lãnh án với tội danh tham nhũng.
Đây là lần đầu tiên từ 20 năm nay, một nhân vật có thế lực mạnh như vậy
trở thành đối tượng của vụ thanh trừng.
Một nguồn tin khẳng định với báo Libération rằng, muốn loại bỏ ông
Chu Vĩnh Khang không hề đơn giản, bởi ông Chu nắm trong tay hồ sơ nhiều
gia đình các quan chức cao cấp và nếu một ngày nào đó ông công bố các hồ
sơ trên thì sẽ gây ra hậu quả như một quả bom nguyên tử. Ông Chu cũng
có thể tiết lộ thông tin về tài sản của các cựu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và
Giang Trạch Dân … Dường như vì lý do này mà ban lãnh đạo Trung Quốc còn
chần chừ chưa nã phát súng ân huệ vào ông Chu.
Một nhóm người mặc thường phục đã nhận lệnh của Bộ Chính trị Trung
Quốc để bắt giữ những người bị rơi vào tầm ngắm cần phải thanh trừng. Họ
có những nơi giam giữ bí mật mà đôi khi một số quan chức cấp cao cũng
không biết. Những người bị xét hỏi không bị bắt một cách công khai mà
thường là bị mất tích. Chỉ vài tháng sau, họ mới công bố việc bắt giữ
hay xử lý những người này.
Bài báo đưa ra ví dụ của Giám đốc an ninh thành phố Bắc Kinh đã bị
bắt giữ trong một bữa ăn tối với các quan chức khác. Theo một nguồn tin
là do ông bị tình nghi đã gián tiếp cung cấp cho hãng tin tài chính Mỹ
Bloomberg những tài liệu về gia tài che giấu của gia đình Chủ tịch Tập
Cận Bình hồi đầu năm 2012.
Hàng trăm người, có liên hệ gần hay xa với « con hổ » Chu Vĩnh Khang
đều bị rơi vào vòng điều tra. Từ hơn một năm nay, những người này đã
biến mất và đã bị thẩm vấn để lập một hồ sơ cáo buộc ông Chu. Ngoài các
quan chức cấp cao trong êkíp này có có một gương mặt mafia khác cũng bị
bắt giữ trong cuộc thanh trừng này. Đó là ông Lưu Hán, một tài phiệt ở
tỉnh Tứ Xuyên, có quan hệ mật thiết với con trai ông Chu.
Bề ngoài ông Lưu Hán giống như một công dân gương mẫu, ông sắp mua
lại công ty hầm mỏ của Úc, xây dựng hàng chục ngôi trường cho tỉnh Tứ
Xuyên bị động đất tàn phá vào năm 2008. Ông còn được chọn làm một trong
những người rước đuốc cho thế vận hội Olympic 2008. Nhưng theo kênh
truyền hình CCTV, tất cả những hình ảnh ấy chỉ là vỏ bọc. Kênh CCTV cho
biết, nhân vật này có một êkíp chuyên giết những kẻ gây cản trở công
việc làm ăn của ông Lưu.
Hằng tuần, ông Lưu thường mời các quan chức cảnh sát và tư pháp địa
phương đến câu lạc bộ riêng của mình, đồng thời để uống thuốc lắc và
tham gia vào đường dây buôn lậu vũ khí. Tất cả các quan chức này đều bị
mua chuộc, theo lời thú nhận của vợ ông Lưu trên kênh CCTV : « Chúng tôi
mời họ ăn tối và sau đó đều đút lót tiền cho họ, dưới dạng thỏi vàng
hay nữ trang. Đôi khi, chúng tôi tổ chức các trò chơi ăn tiền và cố ý để
cho họ thắng để mua sự hợp tác và sự im lặng của họ ».
Theo kênh CCTV, công ty Hàn Long của ông Lưu là một nhóm mafia cớ tầm
cỡ, chèn ép, cướp bóc nhiều công ty thuộc nhiều lĩnh vực và rửa tiền
trong các casino tại Ma Cao. Ông Chu Vĩnh Khang đã từng lãnh đạo tỉnh Tứ
Xuyên từ năm 1999-2002. Truyền thông Trung Quốc mới đặt câu hỏi với
giọng điệu ngây ngô : « Làm sao mà nhóm mafia này lại làm ăn phát đạt
trong gần 20 năm tại đất Tứ Xuyên » và phải chăng đây là nơi dung túng
cho những hoạt động bất chính của nhóm này ?
Ukraina : tiếng giày quân Nga tại Crimée
Trở lại với thời sự Ukraina, nhật báo Le Monde có bài viết : «
Ukraina : thái độ nước đôi của Nga». Theo tờ báo, Mátxcơva khẳng định
rằng toàn vẹn lãnh thổ Ukraina sẽ không bị đe dọa nhưng lại tiếp tục các
hoạt động quân sự tại vùng tự trị Crimée thân Nga nhưng thuộc Ukraina.
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry nhận định : « Chúng tôi hy vọng là Nga
không xem những gì đang xảy ra tại Ukraina như sự tiếp tục của chiến
tranh lạnh ». Người Đức e ngại trước chiến thuật căng thẳng mà Nga đang
sử dụng. Còn thủ tướng lâm thời Ukraina Arsenii Iatseniouk kêu gọi : «
Hỡi người Nga, đừng gây chiến với chúng tôi. Chúng ta là bạn, là láng
giềng nên hãy hợp tác làm việc với nhau.
Trên trang nhất báo Le Figaro chạy tựa : « Ukraina : lực lượng thân
Nga đặt Crimée dưới áp lực » kèm với hình ảnh một quân nhân được trang
bị vũ khí đầy mình, đó chính là những chiến sĩ Nga đã chiếm quyền kiểm
sóat sân bay Sébastopol et Simferopol tại Crimée.
Trong khi đó, trang nhất đăng ảnh chiến sĩ xe tăng có gương mặt người
Karkaz kèm dòng tựa : « Crimée : Sự đe dọa Nga ». Nhật báo Libération
lên án: « Khi gửi quân đội đến một số địa điểm chiến lược tại Crimée,
Tổng thống Putin đã gửi một thông điệp rõ rằng rằng ông sẽ không buông
tha vụ việc ».
Báo Le Figaro ghi nhận : « Tại Crimée, Mátxcơva tiến những con tốt
trên bàn cờ » và làm ra vẻ là không động chạm đến những con cờ này. Ví
dụ : hôm qua, tư lệnh hạm đội trên Hắc Hải đã bác bỏ cáo buộc Nga chiếm
sân bay Sébastopol. Tuy nhiên sau đó, thành phần trấn giữ biên giới
Ukraina báo động thấy phi cơ Nga trong không phận Crimée, theo báo Le
Figaro ghi nhận. Trong khi đó, Mátxcơva vội vã cấp hộ chiếu Nga cho
người Ukraina thân Nga sống tại vùng Crimée. Le Figaro nhấn mạnh, tất cả
những tín hiệu đó gây lo ngại nguy cơ chia rẽ tại Ukraina.
Ukraina gây hoang mang cho Tổng thống Obama
Phương Tây thận trọng trước diễn biến tại Ukraina và đặc biệt là
Washington, Tổng thống Obama cũng quan ngại. Báo Le Monde phân tích sự
ngập ngừng của ông Obama là do các nguyên nhân địa chính trị, mà còn vì
một số nguyên nhân riêng của ông. Tổng thống Obama vẫn thường bị đặt
giữa hai gọng kìm, giữa việc không muốn làm gì hết để khỏi đẩy Tổng
thống Putin vào cuộc đối đầu với cựu đối thủ của mình và việc cần phải
chứng tỏ cho người dân Ukraina và công chúng thấy ông tôn trọng lịch sử
và ủng hộ cuộc chiến giành nền dân chủ.
Trở lại thời sự tại Châu Á, nhìn sang Thái Lan, nhật báo Le Monde
đăng bài: “Thủ tướng kháng cự lại pháp luật và người biểu tình”. Tờ báo
lo ngại trước các cuộc biểu tình nổ ra ngày càng nhiều tại thủ đô
Bangkok và đã gây thiệt mạng cho 22 người và 700 người bị thương từ một
tuần nay.
Tờ báo cho biết sắp tròn 5 tháng các vụ biểu tình nổ ra đòi chính phủ
của Thủ tướng Yingluck từ chức. Tuy bản thống kê cho thấy bạo lực rất
ít do chính phủ trách đối đầu với người biểu tình. Thế nhưng, từ một
tuần nay, tình trạng trở nên tệ hơn.
Những tay súng lạ mặt đã nả súng vào đám đông biểu tình làm hai trẻ
em thiệt mạng. Ngày hôm sau, một quả lựu đạn phát nổ tại nơi biểu tình
ngay trung tâm thành phố Bangkok lại làm hai trẻ em khác 4 tuổi và 6
tuổi thiệt mạng. Tờ báo nhận định, hiện Thái Lan đang trải qua một thời
kỳ bạo lực nghiêm trọng nhất từ cuộc thảm sát người biểu tình vào năm
2010 khi quân đội trấn áp làm 90 người thiệt mạng.
Thủ tướng Yingluck bị lên án là đã quản lý tồi tệ dẫn đến tham nhũng
trong hồ sơ trợ giá gạo cho nông dân, đặc biệt là khiến cho gạo bị tồn
kho, không bán được. Nếu bà Yingluck bị cáo buộc phạm tội thì bà sẽ phải
từ chức và bị cấm hoạt động chính trị. Bà đã không đến dự buổi điều
trần của Ủy ban chống tham nhũng. Bà khẳng định mình vẫn là thủ tướng và
là người đảm bảo cho nền dân chủ.
Tuổi của người cha ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ sơ sinh
Về hồ sơ khoa học, báo Le Figaro đăng bài: “Tuổi của người cha ảnh
hưởng đến sức khỏe trẻ sơ sinh”. Cũng giống như phụ nữ, đàn ông cũng
phải chú ý đến đồng hồ sinh học của mình. Khi người đàn ông làm cha sau
độ tuổi 45, trẻ em sẽ có nguy cơ bị các chứng bệnh như chứng trầm cảm,
tự kỷ, hiếu động quá mức.
Ngoài ra, theo các nghiên cứu được đăng trên báo Le Figaro, làm cha ở
độ tuổi trên 45 có nguy cơ gây tử vong cho trẻ từ 1-5 tuổi thường do dị
tật bẩm sinh hay ung thư. Khi lớn tuổi, chất lượng tinh trùng ở người
đàn ông giảm nên cũng khiến cho người đàn ông hiếm con và nguy cơ sẩy
thai cho người phụ nữ cũng gia tăng. Do đó, tại Pháp, điều kiện để một
người đàn ông được phép hiến tinh trùng là không quá 45 tuổi.
Ô nhiễm không khí : Thách thức chính trị cho Bắc Kinh
Một ngày mù mịt ở Bắc Kinh. Ảnh 26/02/2014.
Reuters
Phía Bắc Trung Quốc lại một lần nữa bị một lớp sương mù dày
đặc bao trùm mà nguyên nhân chính là nạn ô nhiễm nghiêm trọng do các
hoạt động kinh tế, công nghiệp gây nên. Chính quyền địa phương đã không
có cách nào chống chọi được với vấn nạn này. Nhật báo Les Echos phản ánh
tình trạng này qua bài viết : « Bắc Kinh đối mặt với thách thức chính
trị của nạn ô nhiễm không khí ».
Thông tín viên báo Les Echos từ Bắc Kinh tường thuật có nhiều
trường hợp đau đầu do các nguyên nhân không rõ ràng, bệnh viện tràn ngập
bệnh nhân với những hội chứng khó thở…, và mắt bệnh nhân vàng xám. Ai
nấy đều đeo khẩu trang và hạn chế ra ngoài. Trong nhà, nếu hộ nào có
điều kiện tài chính thì đều mua máy lọc không khí và cho chạy hết công
suất trong nhà.
Ngày hôm qua, lần đầu tiên, một công dân Trung Quốc kiện chính quyền
địa phương do đã không đưa ra được những biện pháp giảm thiểu ô nhiễm.
Chuyên viên tư vấn chính phủ Lý Tuấn Phong đã đánh giá mức độ ô nhiễm
vượt « mức độ cho phép », giống như tình trạng một « người hút thuốc lá
cần phải dừng hút thuốc ngay lập tức, nếu không sẽ có nguy cơ bị ung thư
».
Theo Les Echos, trước thách thức chưa từng thấy này, chính quyền đóng
cửa các xí nghiệp xung quanh thủ đô, hạn chế lưu thông xe hơi và gửi
những nhóm chuyên viên đi kiểm tra việc áp dụng những biện pháp khẩn
cấp. Thế nhưng, theo một luật sư cho biết, « trên truyền thông, đề tài
về môi trường lại một lần nữa bị kiểm duyệt gắt gao » bởi vì đề tài này
vô cùng sâu sắc, liên quan đến nền kinh tế Trung Quốc, đến trọng lượng
đầu tư trong ngành công nghiệp nặng và thiếu một đối trọng đối với những
chính quyền địa phương có quyền lực tuyệt đối. Ngoài đề tài về môi
trường còn là vấn đề về khả năng của chính quyền tiến hành cải cách.
Trả lời phỏng vấn Les Echos, ông Mã Quân, Giám đốc Viện các vấn đề
công cộng và môi trường cho biết, trong một thập niên nay, tâm lý người
dân đã thay đổi thực sự. Nếu như cách đây 10 năm, bạn hỏi một người qua
đường rằng điều gì là quan trọng nhất, họ sẽ trả lời là « phát triển
kinh tế ». Ngày nay, câu trả lời sẽ là chất lượng không khí, nước, an
toàn thực phẩm. Lý do của sự thay đổi trong cách suy nghĩ này vô cùng dễ
hiểu. Đó là người dân đã thấy rõ tác hại của ô nhiễm không khí, ô nhiễm
nước tại nhiều nơi.
Vẫn theo chuyên gia này thì vấn đề sinh thái khẩn cấp nhất cần được
chú trọng là nạn ô nhiễm không khí vì hai lý do sau. Thứ nhất, đó là một
vấn nạn mà toàn dân Trung Quốc đều quan ngại. Nếu như bạn giàu, bạn có
thể mua nước khoáng đóng chai để uống, mua thức ăn bio, nhưng lại phải
hít chung một khí trời khi bước ra khỏi nhà. Sau đó, ô nhiễm không khí
này sẽ rơi xuống đất và gây nên những hậu quả về lâu dài trên chất lượng
đất nông nghiệp hay thậm chí là chất lượng nước.
Vấn đề thật sự ở đây là các cơ quan chức trách vẫn thiếu nhiệt tình
trong việc giải quyết. Những tác nhân gây ô nhiễm không cảm thấy bị đe
dọa, họ thích nộp phạt hơn và tiếp tục thải ra chất độc. Chính quyền địa
phương thì vẫn tiếp tục ưu tiên tăng trưởng trong mỗi quyết định của
họ. Theo ông, nếu ngày nào công chúng chưa được phép tham gia và giám
sát thì vẫn không thể giải quyết được nạn ô nhiễm.
Ấn Độ : Hệ thống trường công tồi tệ đe dọa tương lai hàng triệu trẻ em
Nhìn sang Ấn Độ, nhật báo Le Monde quan tâm đến tình trạng giáo dục
tại Ấn Độ qua bài viết : « Thất bại của các trường công lập Ấn Độ đe dọa
tương lai hàng triệu trẻ em ».
Ngày càng đông người Ấn Độ, giàu cũng như nghèo, chấp nhận đóng tiền
để đi học ở trường tư. Tỷ lệ trẻ em đi học ở trường tư tăng từ 27,8% lên
33% trong vòng 3 năm và tỷ lệ này tăng từ 16,3% lên 29% ở nông thôn,
trong vòng 8 năm nay. Báo Le Monde thuật lại, trường tư mọc lên tuy
trong những căn phòng nhỏ, thậm chí ngoài đường nhưng vẫn tốt hơn so với
lớp học trường công mà thầy cô vắng mặt, trung bình một ngày trên năm
ngày.
Thống kê này minh họa cho một trong những khủng hoảng giáo dục, hiện
nay đang gây nguy hại đến sự phát triển của quốc gia này mà một nửa dân
số dưới 25 tuổi, theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu.
Cuộc điều tra mang tên ASER do Tổ chức phi chính phủ Ấn Độ Pratham
tiến hành tại các vùng nông thôn cho biết, nếu như có đến 96% trẻ em Ấn
Độ ghi danh học tại trường công thì số trẻ này chẳng học được là mấy.
Sau 3 năm học, 60% trẻ không biết đọc, ngoại trừ có thể là tên của mình,
trong khi con số này chỉ là 54% cách đây 4 năm.
Một « luật về quyền được giáo dục » được thông qua vào năm 2010, bắt
buộc mỗi trẻ em trong độ tuổi từ 6-14 tuổi đến trường nhưng luật này
không thực sự quan tâm đến việc trẻ em học gì ở trường.
Thông tín viên báo Le Monde miêu tả, tại một ngôi trường trống rỗng,
chỉ có vài con chó và thú nuôi, giáo viên nằm phơi nắng, đọc báo, trong
lúc có vài học sinh phục vụ trà cho giáo viên. Ali Ahmad, một trợ giáo,
cho biết là công việc của anh là giữ trẻ chứ không phải dạy học, nhưng
vì giáo viên chính thường xuyên vắng mặt, nên anh cũng phải dạy trẻ.
Tại bang Uttar Pradesh của Ấn Độ, phụ huynh chấp nhận trả 70
roupi/tháng (0,90 euro) để gửi con vào trường tư đang mọc lên như nấm.
Lúc đầu, 5 hay 6 trẻ đến nhà một bà giáo hưu trí để học dưới một gốc
cây. Chỉ trong vòng vài năm, số lượng đã tăng lên 158 trẻ và giờ đây
được ngồi học trong nhà ngói. Vì các phụ huynh đa số mù chữ nên không
biết con em mình học hành ra sao, vì thế mà trường tư như một giải pháp
đảm bảo cho sự thành công, theo nhận định của phụ huynh.
Kiev chờ đợi một chính phủ mới
Ukraina vẫn tiếp tục là đề tài được các nhật báo ra ngày hôm nay quan
tâm bình luận. Nhật báo Le Figaro có bài : « Ukraina : Châu Âu sẽ
không trả nợ giúp ». Nhật báo Libération thì nhận định, chuyện làm ăn
của Nga không còn thuận buồm xuôi gió ở Ukraina.
Theo tờ báo, sau khi « con rối Ianoukovitch » trốn biệt và sau chiến
thắng của đối lập tại quảng trường Maidan, Mátxcơva không còn nắm lấy
được nữa quốc gia chư hầu này. Để gây áp lực lên Châu Âu, Nga sử dụng
luận điệu vẫn thường dùng là không can thiệp vào nội bộ Ukraina, một lập
luận mà Nga đã từng làm để duy trì chế độ Bachar al-Assad tại Syria.
Riêng nhật báo Les Echos quan tâm đến các gương mặt ứng cử viên tổng
thống cho lần bầu cử sắp tới vào tháng Năm qua bài viết đề tựa : « Kiev
chờ đợi chính phủ và kỳ tranh cử tổng thống ». Theo tờ báo, việc công bố
hai ứng cử viên cho chiếc ghế tổng thống vào hôm qua đánh dấu một bước
mới trong quá trình chuyển tiếp tại Ukraina.
Nhân vật thứ nhất không mấy gây ngạc nhiên là cựu vô địch quyền anh
Vitali Klitschko, thủ lãnh của một trong ba đảng đối lập. Thế nhưng,
nhân vật thứ hai mới đáng chú ý hơn, đó là Mikhaïl Dobkine, thống đốc
thành phố Kharkiv, lãnh địa của phe thân với Nga. Trong khi đó, hôm thứ
Hai vừa qua (24/02/2014), Mátxcơva khẳng định không thừa nhận tính chính
đáng của chính quyền lâm thời. Trong khi đó, đại diện ngoại giao Châu
Âu, bà Catherine Ashton khẳng định : « Chúng tôi ủng hộ Kiev nhưng không
can thiệp vào chuyện nội bộ » và « Nga với tư cách là láng giềng của
Ukraina, cần phải ủng hộ nước này trong quá trình chuyển tiếp ».
Thâm hụt ngân sách, tăng trưởng, thất nghiệp : Pháp vẫn làm Châu Âu lo lắng
Chủ đề cũng được khá nhiều nhật báo Pháp quan tâm là vấn đề về thâm
hụt ngân sách, tăng trưởng và thất nghiệp của Pháp vẫn gây lo ngại cho
Châu Âu. Đó cũng chính là tựa lớn trên trang nhất báo Le Figaro. Theo
đó, Ủy ban Châu Âu không tin tưởng vào sự cam kết của Pháp trong việc
giảm thâm hụt ngân sách từ nay đến năm 2015. Trang nhất phụ lục kinh tế
báo Le Figaro chạy tựa : « Thâm hụt ngân sách : Bruxelles lên án những
dự báo của Paris ».
Trang nhất nhật báo Les Echos cũng báo động : « Pháp cần phải tiết
kiệm nhiều hơn ». Trang bên trong tờ báo đăng bài viết: « Bruxelles cảnh
cáo Pháp ». Theo đó, thâm hụt ngân sách công của Pháp vẫn đạt ở mức 4%
tổng sản phẩm quốc nội GDP vào năm 2014. Để đạt được mục tiêu đưa con số
thâm hụt chỉ còn 3% vào năm 2015, Pháp cần phải tiết kiệm đáng kể.
Tuổi trẻ Pháp cảm thấy bị coi thường và muốn nổi dậy
Vẫn liên quan đến Pháp nhưng trên hồ sơ xã hội, trong bối cảnh kinh
tế u ám, thanh niên Pháp chỉ thấy một màu đen trong cuộc sống, nhật báo
Le Monde chạy tựa trên trang nhất : « Tuổi trẻ Pháp cảm thấy bị coi
thường và muốn nổi dậy ».
Nhật báo Le Monde đăng kết quả điều tra trên 210 000 thanh niên và họ
vẽ ra một bức họa về một thế hệ « thất bại » và không hội nhập. Thành
phần tham gia trả lời 143 câu hỏi trên mạng do France Télévision điều
tra ở độ tuổi từ 18-34 tuổi. Họ vẽ ra bức tự họa tăm tối, một thế hệ
được giáo dục nhưng lại vô cùng ấm ức vì những cánh cửa tương lai trước
mặt đều đóng chặt.
Gần 3/4 (70%) trong số đó cảm thấy xã hội Pháp không cho họ có những
phương tiện để chứng tỏ bản thân. Trong công việc, thanh niên có cảm
giác rằng tài năng và nỗ lực của họ không được bù đắp. 60% cho rằng họ
được trả lương không xứng với năng lực của mình. Từ đó, 3/4 người được
hỏi cho rằng, nếu có cơ hội sẽ bỏ Pháp ra nước ngoài sinh sống. Họ không
còn tin tưởng vào các đảng phái chính trị có thể cải thiện được cuộc
sống hiện tại.
Đối với câu hỏi : Sắp tới, bạn có sẽ tham gia vào một phong trào nổi
dậy như dạng Mai 68 không ? 61% trả lời là có. Nguyên nhân gây ra sự
bùng nổ này ở thanh niên là do họ không có chỗ đứng trong xã hội, không
được xã hội công nhận, không công ăn việc làm, nhà ở, công việc không
phù hợp với học thức, lo ngại cho tương lai.
Âm nhạc có tác động tích cực cho não bộ
Trên hồ sơ khoa học, báo le Monde hôm nay công bố kết quả nghiên cứu
đáng chú ý. Đó là âm nhạc kích thích một hình thức ghi nhớ ở một số bệnh
nhân mắc bệnh mất trí (Alzheimer). Âm nhạc mở ra những cánh cửa mới cho
hoạt động não bộ.
Những bệnh nhân Alzheimer có thể ghi nhớ được những câu hát lặp đi
lặp lại, những người đang hôn mê có thể tỉnh giấc nhờ bài hát mà họ yêu
thích, người bị bệnh parkinson bớt loạng choạng hơn nhờ nghe những điệu
nhạc đều đặn… Âm nhạc có tác động tích cực cho não bộ.
Tại sao một giai điệu có thể làm cho bạn cảm động, làm cho bạn vui,
khóc, nhảy hay làm bạn bực bội ? Theo nghiên cứu đăng trên báo Le Monde,
nhờ vào âm nhạc mà một số người mắc bệnh vô cảm bắt đầu ca hát, cười
đùa và giao tiếp.
Ngoài ra, âm nhạc còn có một sức mạnh « kích thích » khả năng nhận
thức và não bộ. Các nghiên cứu còn cho thấy những trẻ chơi âm nhạc có
thành tích học tập được cải thiện hơn.
Ukraina : Nanh vuốt của Nga, tiền của Mỹ
Tàu chiến Nga thả neo tại cảng Sebastopol, Crimée, Ukraina, ngày 27/02/2014
REUTERS
Pháp vẫn bất lực trong mục tiêu đẩy lui thất nghiệp. Ô nhiễm
không khí tại Trung Quốc và lần đầu tiên một công dân kiện chính quyền.
Thủ tướng Nhật ngày càng lộ rõ chân tướng diều hâu. Mỹ và NATO chuẩn bị
cho thời kỳ hậu Karzai tại Afghanistan. Một lần nữa, hồ sơ Ukraina vẫn
hiện diện nhiều trên trang quốc tế của các tờ báo Pháp hôm nay.
Ukraina : Nanh vuốt của Nga, tiền của Mỹ
Làn gió dân tộc chủ nghĩa Nhật Bản
Thất nghiệp tại Pháp : Thất bại của chính phủ
Trở lại tình hình nước Pháp, thống kê về thất nghiệp trong tháng 01/2014 cho thấy số người không có việc làm vẫn leo thang. Các tờ báo, từ tả sang hữu, đều không khoan nhượng với chính phủ.
Vào lúc Ukraina công bố thành phần chính phủ mới ngay trên quảng
trường Maidan, Le Monde ấn bản mới được cập nhật trên mạng cho hay ở khu
vực miền tây nước Nga, Matxcơva đặt quân đội trong tình trạng báo động,
theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình tại bán đảo Crimée. Vùng này
thuộc chủ quyền Ukraina, nhưng đồng thời là căn cứ quân sự của Hải quân
Nga tại Hắc Hải.
Giới phân tích xem quyết định bất ngờ trên đây của Nga là một động
thái mở đường cho việc can thiệp quân sự trong trường hợp cần thiết.
Trước phản ứng của Matxcơva, Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry thông báo
Washington sẵn sàng bảo lãnh đến 1 tỷ đô la tiền nợ của Ukraina và ông
cho biết là Liên Hiệp Châu Âu đang nghiên cứu khả năng hỗ trợ Ukraina
khoảng 1,5 tỷ đô la cũng dưới hình thức bảo lãnh tương tự.
Đối với Bruxelles, thách thức đặt ra trên hồ sơ Ukraina giờ đây là
tránh làm phụ lòng thành phần thân Châu Âu : Sau những tuyên bố hỗ trợ
tiến trình chuyển đổi chính trị tại quốc gia sát cạnh nước Nga ngày, thì
đã đến lúc Liên Hiệp Châu Âu phải đưa ra những hành động cụ thể. Tới
nay, các nhà lãnh đạo Châu Âu chưa hề thông báo sẽ giúp đỡ tài chính
Ukraina như thế nào và khoản hỗ trợ đó là bao nhiêu. Bruxelles, theo Le
Monde, mới chỉ đưa ra những mục tiêu như trợ giúp Ukraina xây dựng một
Nhà nước pháp quyền, vực dậy một nền kinh tế đang bên bờ vực thẳm. Tờ
báo lo ngại « Liên Hiệp Châu Âu và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế sẽ đặt điều kiện gắt gao, trước khi bỏ tiền ra giúp Ukraina ».
Nhưng trong mọi kịch bản, tương lai của Ukraina một phần vẫn trong
tay Vladimir Putin. Châu Âu cũng như Mỹ tuy tỏ thái độ đứng về phía
người biểu tình Ukraina, nhưng cả Bruxlles lẫn Washington sẽ không vì
Kiev mà làm phật lòng Matxcơva. Thành công hay thất bại của cuộc cách
mạng từ quảng trường Maidan tùy thuộc vào thái độ hợp tác hay không của
Nga với các đối tác phương Tây, cho dù ai cũng biết rằng một nước
Ukraina ổn định và tự do sẽ là một cơ hội tốt cho chính bản thân nước
Nga.
Trả lời báo Le Figaro, cựu đại sứ Pháp tại Ukraina, Philippe de Suremain, cũng đưa ra quan điểm tương tự, khi cho rằng « một
nước Ukraina dân chủ là thách thức lớn của ông Putin, (…) nhưng ngoài
thái độ bực bội nhất thời, điện Kremlin hiểu được rằng, đưa Ukraina
thoát khỏi khủng hoảng là giải pháp có lợi hơn cả (…) » Chính vì vậy, cựu đại sứ Pháp tại Ukraina cho rằng, « Bruxelles
cần
Nhìn sang Châu Á, Libération phân tích về làn gió dân tộc chủ nghĩa đang thổi tới « thượng tầng cơ quan quyền lực Nhật Bản » : Chính sách của Thủ tướng Shinzo Abe ngày càng trở nên « cực đoan
» do ảnh hưởng của các nhóm cực hữu. Việc Tokyo tăng cường luật an ninh
quốc phòng, ban hành luật bảo vệ bí mật quốc gia, chuẩn bị sửa đổi
luật để bán vũ khí … không chỉ khiến đồng minh Mỹ bực mình, mà còn bắt
đầu gây lo ngại ngay trong hàng ngũ đảng cầm quyền của ông Abe.
Nhưng theo phân tích của phóng viên báo Libération, Thủ tướng Abe có
những tính toán của riêng ông. Cuộc bầu cử Thống đốc Tokyo hôm đầu tháng
cho thấy ứng cử viên thuộc cánh diều hâu và có khuynh hướng cựu hữu đã
về hạng tư, thu hút hơn 600.000 lá phiếu. Phần lớn những người bỏ phiếu
ủng hộ ứng cử viên này là thanh niên trong độ tuổi từ 20 đến 30. Theo
phân tích của giáo sư Toru Yoshida, giảng dậy tại đại học Hokkaido, một
phần giới trẻ Nhật Bản cảm thấy an ninh quốc gia bị đe dọa trước hiểm
hỏa tiềm tàng từ phía Bắc Triều Tiên, trước sự cạnh tranh ngày càng dữ
dội của Trung Quốc trong thế giới mở rộng. Trung Quốc đã qua mặt Nhật
Bản để trở thành nền kinh tế thứ hai của thế giới.
Đáng chú ý hơn cả là từ mùa thu 2013, ngày càng có nhiều bài vở, sách
báo với những nội dung chống Trung Quốc, bài Hàn Quốc, như thể là một
phần dư luận không còn mặc cảm hay xấu hổ khi công khai thể hiện tâm
trạng đó. Thủ tướng Shinzo Abe không hề lên tiếng hay tỏ thái độ muốn
ngăn chặn các làn sóng dân tộc chủ nghĩa kiểu này. Theo đánh giá của
giáo sư Yoshida, các nhóm dân tộc chủ nghĩa ngày càng có ảnh hưởng lớn
đối với ông Abe. Một số các nhà trí thức trong hàng ngũ đảng bảo thủ
đang bồi sức cho ngọn gió dân tộc chủ nghĩa đó lớn mạnh hơn. Trong khi
đó thì cánh tả trên chính trường Nhật Bản lại hoàn toàn im hơi lặng
tiếng.
Ô nhiễm không khí :Trung Quốc và vụ kiện đầu tiên
Báo chí chính thức Trung Quốc công khai lên tiếng về nạn « Ô nhiễm kỷ lục tại Bắc Kinh », « Một công dân Trung Quốc đệ đơn kiện chính quyền vì ô nhiễm không khí »
gây nguy hại cho sức khỏe con người. La Croix và Le Monde đăng những
bức ảnh một lớp sương mù dày đặc bao phủ lên thành phố Bắc Kinh. Dân
chúng thủ đô được kêu gọi ở yên trong nhà, ít ra đường chừng nào tốt
chừng nấy.
Le Monde chú ý đến sự kiện lần đầu tiên một công dân Trung Quốc sinh
sống tại Hà Bắc vừa đâm đơn kiện cơ quan đặc trách vấn đề môi trường.
Bên nguyên đơn đòi được bồi thường 10.000 nhân dân tệ thiệt hại do ô
nhiễm không khí gây ra. Đáng chú ý hơn nữa là tin trên do chính Tân hoa
xã loan tải. Hãng thông tấn Trung Quốc còn cho biết thêm là một số các
cơ quan đặc trách về môi trường tán đồng việc đưa vấn đề này ra trước
công chúng, với hy vọng là đơn kiện nói trên sẽ đánh động dư luận một
cách rộng rãi về những tác hại của vấn đề và về nhu cầu cấp bách giải
quyết tình trạng ô nhiễm không khí đã kéo dài.
Hà Bắc cũng như Bắc Kinh đang nỗ lực giảm thiểu lượng khí CO2 từ các
nhà máy công nghiệp thải ra. Tháng 10 năm ngoái thành phố Bắc Kinh dành
hẳn một ngân sách hơn 47 tỷ nhân dân tệ, tương đường với gần 7 tỷ đô la
để thay thế các trung tâm điện lực sử dụng than đá bằng những nhà máy
điện hiện đại hơn, ít làm ô nhiễm môi trường hơn. Vấn đề đặt ra theo như
nhận định của một chuyên gia được báo La Croix trích dẫn là cho dù Bắc
Kinh có giải quyết được vấn đề nghiêm trọng này đi chăng nữa thì hiện
tượng ô nhiễm tại Trung Quốc vẫn sẽ còn nguyên vẹn, bởi vì các nhà máy
gây ô nhiễm nhất vẫn sẽ còn tiếp tục hoạt động ở những vùng khác, ít thu
hút chú ý của quốc tế hơn.
Trở lại tình hình nước Pháp, thống kê về thất nghiệp trong tháng 01/2014 cho thấy số người không có việc làm vẫn leo thang. Các tờ báo, từ tả sang hữu, đều không khoan nhượng với chính phủ.
Tờ Le Monde trung lập mệnh danh Bộ trưởng Lao động Pháp Michel Sapin
là ông « Bộ trưởng không bao giờ biết giữ lời hứa » : Trong 21 tháng vừa
qua, kể từ khi đảng Xã Hội lên cầm quyền, đã có thêm 375.000 người bị
sa thải. Vậy mà ông Sapin vẫn một mực bác bỏ mọi cáo buộc cho là chính
phủ Pháp đã thất bại trong cam kết tạo công việc làm cho người dân. Sau
khi đã hứa « đảo ngược tình huống » vào cuối năm 2013, bây giờ ông Sapin nói đến mục tiêu giảm tỷ lệ thất nghiệp ở Pháp trước cuối năm 2014.
Le Figaro thân hữu chạy tựa : « Thất nghiệp, chính phủ giảm bớt tham vọng ». Libération thiên tả không khoan nhượng khi cho rằng « mục tiêu đảo ngược tình hình của ông François Hollande thêm xa vời ». « Thất nghiệp : chính phủ vẫn chưa trúng đích ». Báo cộng sản L'Humanité châm biếm : Trong lĩnh vực lao động, « không một cánh én nơi chân trời ».
Báo công giáo La Croix không bình luận nhưng đưa ra chân dung những
người bị mất việc đã may mắn hội nhập được trở lại vào thị trường lao
động với nhận xét : Họ tự tìm lấy việc làm. Tờ báo ngụ ý những biện pháp
chống thất nghiệp của chính phủ không mấy hữu hiệu.
Huyền thoại Paco di Lucia, một ngôi sao vừa tắt
Trong lĩnh vực văn hóa, các tờ báo Pháp đều dành nhiễu chỗ để nhìn
lại sự nghiệp đồ sộ hơn 50 năm của nghệ sĩ ghi ta, Paco di Lucia. Ông
vừa qua đời vì bệnh tim, thọ 66 tuổi. Như nhận xét của Libération, di
Lucia là « nhạc sĩ tây bán cầm vĩ đại nhất mọi thời đại ». Ông
cũng là người đã có công đưa dòng nhạc flamenco của Tây Ban Nha đến với
thế giới bên ngoài. Hơn thế nữa, với ông, giai điệu flamenco không chỉ
đơn thuần là một dòng nhạc giải trí, dễ nghe và dễ nhớ mà còn là một
nghệ thuật sắc sảo, thâm thúy và tinh vi. Tờ báo trích lời những bậc
thầy trong giới ghi ta so sánh : « Paco di Lucia có một vị trí như Picasso trong hội họa và Miles Davis ở thể loại nhạc jazz ». Về cái chết đột ngột của bậc thầy trong làng nhạc ghi ta, báo Le Figaro nói tới « vì sao sáng chói trên bầu trời flamenco » vừa tắt.
L'Humanité tóm tắt sự nghiệp của huyền thoại di Lucia như sau : Ông
là người đã kết nối hai dòng nhạc jazz và flamenco mà không hề phản bội
những gì tinh túy nhất trong sáng nhất trong nghệ thuật âm nhạc truyền
thống Tây Ban Nha. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo, cả cuộc
đời, ông chỉ làm bạn với cây đàn ghi ta. Thành công và danh vọng không
đánh lạc hướng con người đầy nhiệt huyết như Paco di Lucia. Một nghệ sĩ
nổi tiếng trong làng tây bán cầm khác là Carlos Santana đã từng nhận xét
như sau về thiên tài ghi ta Paco di Lucia : « Ông không chỉ là một
cây đại thụ của dòng nhạc flamenco mà còn là một bậc thầy của nghệ thuật
âm nhạc. Tiếng đàn thánh thót thoát ra từ cây đàn dưới những ngón tay
thần diệu của ông xuất phát từ trái tim tràn ngập tình yêu Paco di Lucia
dành cho âm nhạc và cho nhân loại ».
BIỂN ĐÔNG - MALAYSIA -
Bài đăng : Thứ sáu 28 Tháng Hai 2014 -
Sửa đổi lần cuối Thứ sáu 28 Tháng Hai 2014
Biển Đông : Trung Quốc hung hăng, Mỹ lên gân, Malaysia vững dạ
Tàu ngầm lớp Scorpene của Hải quân Hoàng gia Malaysia, tại cảng Klang, ngoại ô Kuala Lumpur (ảnh chụp 03/09/2009)
@wikipedia.org
Hãng tin Reuters ngày 26/02/2014 có bài phân tích « Sự quyết đoán của Trung Quốc làm cho Malaysia cứng rắn hơn trong tranh chấp biển »
của Stuart Grudgings, nói về sự thay đổi thái độ - một cách kín đáo -
của Malaysia trước những đòi hỏi ngày càng hung hăng của Trung Quốc
trong hồ sơ tranh chấp chủ quyền Biển Đông.
Người ta có thể dễ dàng không để ý đến rạn san hô nửa chìm nửa
nổi này trong vùng biển màu ngọc lam, cách đảo Borneo, thuộc bang
Sarawak, Malaysia, khoảng 80 km (50 dặm).
Một nhà ngoại giao cấp cao của phương Tây nói rằng ông hy vọng Malaysia sẽ không có thay đổi lớn trong chính sách cân bằng quan hệ liên minh với Bắc Kinh và Washington.
Theo nhà ngoại giao này, « về nguyên tắc, Malaysia cam kết có cùng lập trường với ASEAN và về bộ quy tắc ứng xử. Nhưng đồng thời, họ cũng lo lắng về phản ứng của Trung Quốc ».
« Họ nghĩ rằng có thể đạt được một thỏa thuận. Nhưng Trung Quốc sẽ không làm như vậy. Người ta có thể thấy là Trung Quốc đang từng bước tỏ ra hung hăng hơn ».
Thế nhưng, theo các nhà ngoại giao cao cấp nói với Reuters, thì hai
cuộc tập trận hải quân Trung Quốc trong vòng chưa đầy một năm xung quanh
bãi ngầm James đã gây sốc cho Malaysia và đã dẫn đến một sự thay đổi
đáng kể trong cách tiếp cận của nước này về yêu sách của Trung Quốc
trong các tranh chấp ở Biển Đông. Rạn san hô nằm bên ngoài lãnh hải của
Malaysia, nhưng thuộc vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Malaysia.
Theo các nhà ngoại giao, sự cố gần đây nhất, trong tháng Giêng, đã
thúc đẩy Malaysia lặng lẽ đẩy mạnh hợp tác với Việt Nam và Philippines,
là hai nước Đông Nam Á bầy tỏ công khai nhất thái độ của mình trước
những động thái của Trung Quốc trong khu vực, nhằm cố gắng ép Bắc Kinh
chấp nhận một bộ luật ứng xử tại Biển Đông, mang tính ràng buộc.
Sự quyết đoán ngày càng gia tăng của hải quân Bắc Kinh cũng có thể
đẩy Malaysia xích lại gần Hoa Kỳ hơn, vốn là đồng minh của nước này
trong lĩnh vực an ninh và càng đào sâu thêm các bất đồng giữa Đông Nam Á
và Trung Quốc về vùng biển có tiềm năng lớn về khoáng sản.
Thông thường, Malaysia tìm cách giảm nhẹ những quan ngại về an ninh,
đồng thời tiếp tục duy trì các quan hệ kinh tế chặt chẽ với Trung Quốc,
vì đây là đối tác thương mại lớn nhất của Malaysia.
Bãi ngầm James, mà Trung Quốc gọi là Tằng Mẫu ám sa (Zengmu Reef),
cách Trung Hoa đại lục 1.800 km (1.100 dặm). Bãi ngầm này gần Malaysia,
Brunei, Singapore, Philippines, Việt Nam, Indonesia – và hầu như tất cả
các nước Đông Nam Á – hơn là so với Trung Quốc.
Tuy nhiên, Bắc Kinh coi những vùng biển này là lãnh thổ cực nam của
họ, dựa trên cái gọi là đường vòng chín đoạn thể hiện trên các bản đồ,
bao gồm tới 90% tổng diện tích 3,5 triệu km ² ( 1.350.000 dặm vuông) của
Biển Đông.
Các bức ảnh mà phương tiện truyền thông Nhà nước Trung Quốc công bố
vào ngày 26/01 cho thấy hàng trăm thủy thủ Trung Quốc đứng nghiêm nghe
mệnh lệnh trên boong tàu chiến, bên cạnh có hai khu trục hạm và một trực
thăng, và báo chí cho biết là các tàu này đang ở bãi ngầm James.
Vào lúc đó, chỉ huy hải quân Malaysia đã bác bỏ những thông tin của
truyền thông Trung Quốc, và nói với hãng tin Bernama rằng, các tàu Trung
Quốc ở ngoài vùng biển của Malaysia, nơi có nhiều dầu lửa và khí đốt
phục vụ cho nền kinh tế quốc gia. Theo các nhà phân tích về an ninh, thì
có thể vị chỉ huy này bác bỏ việc tàu Trung Quốc xâm nhập vào vùng biển
Malaysia vì các lực lượng hải quân nước này không giám sát hoặc không
nhìn thấy các tàu Trung Quốc.
Nhưng các nguồn tin an ninh hàng hải và ngoại giao đã nói với Reuters
rằng, cuộc tập trận, với sự tham gia của ba tàu chiến Trung Quốc, trong
đó có cả một buổi lễ tuyên thệ bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc, đã diễn
ra tại bãi ngầm James hoặc gần đó.
Về các sự cố gần đây, ông Tang Siew Mun, chuyên gia về chính sách đối
ngoại tại Viện Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế của Malaysia, hiện làcố
vấn của chính phủ Malaysia, nói : « Đó là một lời cảnh tỉnh về điều có thể xẩy ra đối với chúng ta và đang xẩy ra đối với chúng ta ».
«Trong thời gian qua, chúng ta tin tưởng vào mối quan hệ đặc biệt
này ... Sự cố ở bãi ngầm James đã chỉ ra cho chúng ta thấy rõ và rõ
hơn, là khi Trung Quốc bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia của họ, thì
đó là một vấn đề khác ».
Càng khẩn cấp phải có một bộ luật về hàng hải.
Cả Bộ Ngoại giao Malaysia cũng như Văn phòng Thủ tướng không trả lời các đề nghị bình luận về những sự kiện này.
Trong khi phản ứng công khai của Malaysia về các sự cố hồi tháng
Giêng không ầm ĩ, thì các nhà ngoại giao cao cấp của các nước Đông Nam Á
khác cho biết là các đồng nghiệp Malaysia đã hoạt động mạnh hơn kể từ
lúc đó, nhằm thúc đẩy một lập trường chung trong các cuộc đàm phán với
Trung Quốc về bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông.
Các quan chức của 10 thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) và Trung Quốc sẽ nối lại đàm phán tại Singapore vào ngày 18
tháng 3, sau khi vào năm ngoái, họ đã đồng ý đẩy nhanh các cuộc đàm phán
và từ đó đến, nay, đã đạt được một số tiến triển.
Bộ luật mang tính ràng buộc đối với Trung Quốc và ASEAN sẽ bao gồm
những quy định chi tiết về hành vi ứng xử trên biển, làm giảm nguy cơ
leo thang căng thẳng có thể dẫn đến xung đột. Trung Quốc nói rằng họ
thành thật muốn đạt được một thỏa thuận.
Malaysia, Philippines, Việt Nam, Brunei và Đài Loan tuyên bố có chủ
quyền đối với một số vùng tại Biển Đông. Tất cả đều là thành viên của
ASEAN, ngoại trừ Đài Loan.
Chưa đầy một tuần sau sự cố tháng Giêng, Bộ trưởng Ngoại giao
Malaysia Anifah Aman đã có chuyến công du không thông báo trước tới
Manila để gặp gỡ đồng nhiệm Philippines, Bộ Ngoại giao Philippines đã
cho biết như vậy. Theo một phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Philippines,
thì hai bên đã thảo luận vấn đề Biển Đông.
Sau đó, vào ngày 18/02, các quan chức Philippines, Malaysia và Việt
Nam đã tổ chức một cuộc họp để phối hợp chính sách đối với Trung Quốc
trong hồ sơ tranh chấp trên biển và bộ quy tắc ứng xử, một nhà ngoại
giao nắm bắt các cuộc thảo luận này đã tiết lộ như vậy.
Ông nói : « Trong quá khứ, chỉ có Philippines và Việt Nam thúc
đẩy tổ chức một cuộc họp như vậy, nhưng bây giờ chúng ta thấy có sự tham
gia của Malaysia ».
Nhà ngoại giao này cho biết thêm, tại cuộc đàm phán không được thông
báo trước này, các quan chức đã đồng ý bác bỏ bản đồ chín đoạn của Trung
Quốc, thúc đẩy để sớm kết thúc các cuộc thương lượng về bộ luật ứng xử
và yêu cầu Brunei tham gia cuộc họp với ba đối tác, tại Kuala Lumpur,
vào tháng Ba.
Sự thay đổi chính sách của Malaysia diễn ra trước chuyến thăm Kuala
Lumpur của Tổng thống Philippines Benigno Aquino trong tuần này và trước
chuyến công du của Tổng thống Mỹ Barack Obama vào tháng Tư.
Các quan chức Mỹ cũng đã có lập trường cứng rắn hơn đối với Trung
Quốc trong hồ sơ Biển Đông trong những tuần gần đây. Ngày 13/02, chỉ huy
Hải quân Mỹ, Đô đốc Jonathan Greenert cho biết, Washington sẽ hỗ trợ
Philippines trong trường hợp xẩy ra xung đột với Trung Quốc trong vùng
biển tranh chấp.
Ông Hong Nong, Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Luật Biển và Chính
sách thuộc Viện nghiên cứu Biển Đông Quốc gia, ở đảo Hải Nam Trung Quốc,
nhận định : Những loại ý kiến này giúp động viên một số quốc gia.
Ông cho biết : « Điều này có ảnh hưởng tới ASEAN. Trong quá khứ, Mỹ không bao giờ nói rõ là họ sẽ đứng về bên nào ».
Một căn cứ hải quân mới của Malaysia
Vào tháng 03/2013, một cuộc tập trận tương tự tại bãi ngầm James với
sự tham gia của bốn tàu đổ bộ thuộc lực lượng đặc nhiệm Trung Quốc đã
làm cho Malaysia lo lắng và dẫn đến việc nước này có một hành động hiếm
thấy là phản đối không công khai Trung Quốc.
Ông Ian Storey, một chuyên gia cao cấp tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á của Singapore nói : « Hai sự kiện này làm cho cơ quan phụ trách an ninh quốc gia Malaysia rất lo lắng ».
« Chúng ta có thể dự đoán sẽ có nhiều loại sự cố như vậy trong
tương lai. Quân đội Giải phóng nhân dân Trung Quốc sẽ giương cờ Trung
Quốc trong vùng biển Malaysia và điều này sẽ buộc Malaysia phải điều
chỉnh lại chính sách của mình ».
Và dường như Malaysia đang làm điều này.
Vào tháng 10/2013, Malaysia đã công bố kế hoạch xây dựng một căn cứ
hải quân tại Bintulu ở Sarawak, thị trấn lớn, gần nhất với bãi ngầm
James. Đây sẽ là nơi đồn trú của một lực lượng Thủy quân lục chiến mới,
được thành lập theo mô hình của quân đội Mỹ. Bộ trưởng Quốc phòng
Malaysia cho biết, mục đích của kế hoạch này là để bảo vệ các trữ lượng
dầu khí trong khu vực và không hề nhắc đến Trung Quốc.
Với một cách nói thẳng bất thường, Thủ tướng Najib Razak nói tại New York hồi tháng 09/2013, rằng Trung Quốc đã đưa ra những « tín hiệu hỗn loạn » và không thể không làm cho các nước láng giềng Châu Á mất thiện cảm.
Theo giới phân tích an ninh Malaysia, Washington dự kiến tư vấn và có
thể cả huấn luyện để giúp Malaysia lập lực lượng Thủy quân lục chiến.
Ông Tang, một chuyên gia về chính sách đối ngoại, nhận định : « Đây là một phát triển rất quan trọng » và nói thêm rằng điều này có thể thúc đẩy mạnh mẽ mối quan hệ hợp tác quân sự giữa Hoa Kỳ và Malaysia.
Chỉ huy hải quân Mỹ, tướng Greenert, tuyên bối với các phòng viên
rằng ông đã thảo luận về việc thành lập lực lượng Thủy quân lục chiến
với đối tác Malaysia khi ông đi thăm Malaysia trong tháng này, tuy
nhiên, các chi tiết về lực lượng mới này còn rất sơ sài.
Lo lắng về phản ứng của Trung Quốc
Mặc dù thay đổi lập trường, nhưng dường như Malaysia không muốn mạo
hiểm gây gây lạnh nhạt trong quan hệ với Trung Quốc và Bắc Kinh thường
xuyên tuyên bố rằng các tàu tuần duyên của họ hiện diện trong khu vực là
để bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Các nguồn tin thân cận với chính phủ Malaysia cho biết, nước này
không xem xét việc tham gia kiện tụng cùng với Philippines để chống lại
những tuyên bố về quyền của Trung Quốc tại Biển Đông.
Manila đã đưa hồ sơ tranh chấp lên tòa án trọng tài trong khuôn khổ
Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển và các luật sư của Philippines nói
rằng, tòa án ở La Haye có thẩm quyền cho phép các quốc gia khác tham gia
vào vụ kiện tụng này. Trung Quốc từ chối tham gia vụ kiện.
Vả lại, Malaysia đã từng gây ấn tượng khi cho rằng tranh chấp Biển
Đông là một vướng mắc trong mối quan hệ mang tính lịch sử và đang phát
triển với Trung Quốc. Người cha của ông Najib, cũng là thủ tướng, đã
thiết lập quan hệ chính thức của Malaysia với Bắc Kinh vào năm 1974. Đây
là quốc gia đầu tiên của ASEAN làm việc này.
Báo New Straits Times, thân chính phủ, hồi tháng 10 năm ngoái, trước
khi Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tới thăm Malaysia, đã viết,
Malaysia có một " cách thức tỉnh táo và riêng biệt để giải quyết các
xung đột trong khu vực".
Quan hệ kinh tế song phương đã tăng mạnh. Năm ngoái, Thủ tướng Najib
và Chủ tịch Tập Cận Bình đã đề ra mục tiêu tăng gấp ba lần thương mại
hai chiều, lên tới 160 tỷ đô la vào năm 2017.Một nhà ngoại giao cấp cao của phương Tây nói rằng ông hy vọng Malaysia sẽ không có thay đổi lớn trong chính sách cân bằng quan hệ liên minh với Bắc Kinh và Washington.
Theo nhà ngoại giao này, « về nguyên tắc, Malaysia cam kết có cùng lập trường với ASEAN và về bộ quy tắc ứng xử. Nhưng đồng thời, họ cũng lo lắng về phản ứng của Trung Quốc ».
« Họ nghĩ rằng có thể đạt được một thỏa thuận. Nhưng Trung Quốc sẽ không làm như vậy. Người ta có thể thấy là Trung Quốc đang từng bước tỏ ra hung hăng hơn ».
Nhật kín đáo trở lại thị trường vũ khí
Quân
đội Nhật triển khai hệ thống phòng không Patriot Advanced Capability-3
săn sàng bắn hạ tên lửa Bắc Triều Tiên (Ảnh chụp 30/03/2012)
REUTERS/Kyodo
Vào lúc căng thẳng khu vực gia tăng, Nhật Bản đang kín đáo
quay trở lại thị trường vũ khí và thiết bị quân sự, một thị trường mà từ
năm 1967, với tư cách quốc gia chiến bại, Nhật đã không được tham gia.
Theo hãng tin Kyodo hôm qua, 26/02/2014, đảng Tự do Dân chủ
đang cầm quyền đang có ý định nới lỏng lệnh cấm Nhật Bản xuất khẩu vũ
khí hay tham gia các chương trình phát triển vũ khí.
Kyodo cho biết Thủ tướng Shinzo Abe muốn chính phủ Tokyo vào tháng Ba tới thông qua một luật cho phép Nhật Bản xuất khẩu thiết bị quân sự sang những quốc gia nằm dọc theo những con đường hàng hải vận chuyển dầu khí nhập khẩu rất thiết yếu cho Nhật.
Kyodo cho biết Thủ tướng Shinzo Abe muốn chính phủ Tokyo vào tháng Ba tới thông qua một luật cho phép Nhật Bản xuất khẩu thiết bị quân sự sang những quốc gia nằm dọc theo những con đường hàng hải vận chuyển dầu khí nhập khẩu rất thiết yếu cho Nhật.
Đó có thể là những nước như Indonesia, Việt Nam hay Philippines,
những quốc gia trên vùng Biển Đông, mà cũng giống như Nhật, đang ngày
càng lo ngại trước những tham vọng chủ quyền biển đảo của Trung Quốc.
Tokyo cũng muốn bán cho những nước này các chiến hạm cũ.
Tuy nhiên, theo những quy định mới mà chính phủ sẽ thông qua, Nhật
Bản sẽ vẫn không được phép xuất khẩu những vũ khí có thể đe dọa đến hòa
bình và an ninh thế giới. Trước khi bán vũ khí cho một nước nào, Tokyo
cũng sẽ phải bảo đảm không có nguy cơ tái xuất các vũ khí này sang một
nước thứ ba.
Hiện giờ, Nhật Bản sản xuất chủ yếu là đạn dược, súng trường tấn
công, xe tăng, chiến hạm, máy bay tiêm kích-oanh tạc F2, thủy phi cơ bốn
động cơ US-2 (mà Nhật muốn bán cho những nước như Ấn Độ).
Vào năm 1967, Nhật Bản đã quyết định tự cấm xuất khẩu vũ khí sang các
nước Cộng sản, những nước đang bị Liên Hiệp Quốc cấm vận vũ khí, và
những nước có liên hệ hoặc có thể sẽ có liên hệ với những xung đột quốc
tế. Đến năm 1976, Nhật Bản tự cấm hoàn toàn xuất khẩu vũ khí.
Khi ra quyết định năm 1967 tự cấm xuất khẩu vũ khí, Nhật Bản đã theo
đúng tinh thần bản Hiến pháp hòa bình năm 1947 do Hoa Kỳ áp đặt, với nội
dung chính là Nhật Bản từ bỏ « vĩnh viễn » chiến tranh. Điều 9
của Hiến pháp hiện hành quy định là Lực lượng Phòng Vệ Nhật Bản không
được làm gì khác ngoài việc bảo vệ lãnh thổ quốc gia.
Là một chính khách theo xu hướng dân tộc chủ nghĩa, Thủ tướng Shinzo
Abe muốn cải tổ Hiến pháp hiện hành và nhất là sửa đổi điều 9 nói trên.
Ông Abe chủ trương là, nhân danh nguyên tắc « tự phòng thủ tập thể », Nhật sẽ có thể ứng cứu các đồng minh đang gặp khó khăn, mà đầu tiên là đồng minh Hoa Kỳ.
Ngay từ cuối năm 2011, Tokyo đã giảm nhẹ phần nào lệnh tự cấm nói
trên, với việc thông qua những quy định cho phép các công ty Nhật tham
gia những dự án vũ khí với nước ngoài. Với những quy định này, Nhật đã
hợp tác phát triển và sản xuất vũ khí với Hoa Kỳ (như oanh tạc cơ tàng
hình F-35) và với các nước Châu Âu, đồng thời xuất khẩu các thiết bị
quân sự vì mục đích hòa bình và nhân đạo, trong khuôn khổ các chiến dịch
duy trì hòa bình của Liên Hiệp Quốc.
Có điều, hiện giờ, xuất khẩu vũ khí vẫn còn là một vấn đề nhạy cảm ở
Nhật. Kết quả một cuộc thăm dò do hãng tin Kyodo thực hiện gần đây cho
thấy là gần 67% dân Nhật chống việc xuất khẩu vũ khí. Nói chung, đa số
dân Nhật vẫn muốn duy trì bản Hiến pháp hòa bình hiện nay.
Tổng thống Mỹ: Sẽ có những cái giá cho sự can thiệp của Nga ở Ukraina
CỠ CHỮ
01.03.2014
Một viên chức cao cấp của Mỹ nói rằng các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Âu
châu có thể không dự hội nghị thượng đỉnh kinh tế G8 tại thành phố Sochi
của Nga trong năm nay nếu Nga can thiệp quân sự ở Ukraina.
Viên chức này hôm thứ sáu nói rằng những mối liên hệ mậu dịch sâu rộng hơn và những dự án thương mại khác có thể cũng bị hủy bỏ.
Tổng thống Barack Obama nói rằng sẽ có những cái giá cho bất kỳ hành động quân sự nào của Nga ở Ukraina. Trong cuộc họp báo ngắn tại Tòa Bạch Ốc, ông Obama nói rằng bất kỳ sự vi phạm nào của Nga đối với chủ quyền của Ukraina cũng tạo ra rất nhiều bất ổn.
Ông nói rằng Hoa Kỳ quan tâm sâu sắc tới những tin tức về hành động quân sự của Nga trong vùng Crimea và người dân Ukraina phải có cơ hội để định đoạt tương lai của chính họ.
Đại sứ Ukraina tại Liên hiệp quốc, ông Yuriy Sergeyev, phát biểu tại cuộc họp khẩn của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc rằng trực thăng vũ trang và vận tải cơ quân sự của Nga đã xâm phạm không phận Crimea.
Ông nói rằng phi trường chính ở đó đã bị các lực lượng Nga “chiếm đóng.” Ông cho biết ông muốn có sự hậu thuẫn đạo đức và chính trị của cộng đồng quốc tế và những gì đang xảy ra ở nước ông là “hết sức tệ hại.”
Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên hiệp quốc, bà Samantha Power, nói rằng Hoa Kỳ kêu gọi thực hiện một sứ mạng điều giải quốc tế khẩn cấp cho vùng Crimea.
Đại sứ Nga Vitaly Churkin nói rằng nước ông chống lại điều mà ông gọi là sự điều giải có tính chất áp đặt cao độ.
Khi được hỏi phải chăng Nga đã xâm lăng Ukraina, ông nói rằng Nga đang hành động trong khuôn khổ của một hiệp ước với Ukraina, theo đó Nga được phép có một căn cứ ở Crimea cho Hạm đội Hắc hải.
http://www.voatiengviet.com/content/tong-thong-obama-noi-se-co-gia-cho-can-thiep-cua-nga-o-ukraine/1862041.htmlViên chức này hôm thứ sáu nói rằng những mối liên hệ mậu dịch sâu rộng hơn và những dự án thương mại khác có thể cũng bị hủy bỏ.
Tổng thống Barack Obama nói rằng sẽ có những cái giá cho bất kỳ hành động quân sự nào của Nga ở Ukraina. Trong cuộc họp báo ngắn tại Tòa Bạch Ốc, ông Obama nói rằng bất kỳ sự vi phạm nào của Nga đối với chủ quyền của Ukraina cũng tạo ra rất nhiều bất ổn.
Ông nói rằng Hoa Kỳ quan tâm sâu sắc tới những tin tức về hành động quân sự của Nga trong vùng Crimea và người dân Ukraina phải có cơ hội để định đoạt tương lai của chính họ.
Đại sứ Ukraina tại Liên hiệp quốc, ông Yuriy Sergeyev, phát biểu tại cuộc họp khẩn của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc rằng trực thăng vũ trang và vận tải cơ quân sự của Nga đã xâm phạm không phận Crimea.
Ông nói rằng phi trường chính ở đó đã bị các lực lượng Nga “chiếm đóng.” Ông cho biết ông muốn có sự hậu thuẫn đạo đức và chính trị của cộng đồng quốc tế và những gì đang xảy ra ở nước ông là “hết sức tệ hại.”
Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên hiệp quốc, bà Samantha Power, nói rằng Hoa Kỳ kêu gọi thực hiện một sứ mạng điều giải quốc tế khẩn cấp cho vùng Crimea.
Đại sứ Nga Vitaly Churkin nói rằng nước ông chống lại điều mà ông gọi là sự điều giải có tính chất áp đặt cao độ.
Khi được hỏi phải chăng Nga đã xâm lăng Ukraina, ông nói rằng Nga đang hành động trong khuôn khổ của một hiệp ước với Ukraina, theo đó Nga được phép có một căn cứ ở Crimea cho Hạm đội Hắc hải.
NGUYỄN THANH GIANG * NGUYỄN KHẮC VIỆN
Bàn về bác sĩ Nguyễn Khắc Viện
Khu tập thể Địa vật lý Máy Bay
Ở miền Bắc, hợp tác xã có điều kiện thuận lợi hơn nên lúc đầu cũng có một số tác dụng, nhưng càng về sau càng bộc lộ những bất cập, kềm hãm sản xuất ghê gớm. Thế mà sau khi giải phóng Miền Nam, Đảng vẫn chủ trương hợp tác hoá nông nghiệp ồ ạt, đặt chỉ tiêu một cách ngông cuồng: Năm 1980 phải hoàn thành hợp tác hoá nông nghiệp toàn miền Nam!
Ông bác bỏ luận điệu xảo trá, hù doạ rằng dân chủ sẽ đưa đến loạn lạc: “Ý kiến tôi cũng như nhiều anh em khác mong mỏi có dân chủ hoá. Ai cũng muốn có ổn định, chứ không phải muốn cho xáo trộn loạn lạc lên đâu. Nói như vậy chỉ là sự vu khống. Chính vì muốn tránh bùng nổ, mà tôi muốn nhịp độ dân chủ hoá phải nhanh hơn, nếu không, bề ngoài cứ tưởng là ổn định, nhưng tình trạng mất dân chủ gây nên phản ứng như những đợt sóng ngầm, đến lúc nào đó không tránh khỏi bùng nổ. Kinh nghiệm Liên Xô và Đông Âu rất đáng cho ta suy ngẫm” (3).
… Thế rồi ! Không biết vì sao và từ đâu, những tai ương bắt đầu bổ xuống đời ông.
Một đêm tháng 4 năm 1988, được Nguyễn Khắc Viện đến thăm và ngủ lại nhà mình, nằm thao thức trong đêm Mỹ Tho, nhà báo Lê Phú Khải đã viết bài thơ :
Nguyễn Thanh Giang
Khu tập thể Địa vật lý Máy Bay
Bác
sĩ Nguyễn Khắc Viện là một trí thức tên tuổi của Việt Nam và cả
quốc tế. Tất nhiên, trong giai đoạn đầu của cuộc đời, Bác Sĩ nổi tiếng
là một trí thức Cộng Sản nhiệt thành và hy sinh chẳng những cho phong
trào Cộng Sản mà còn cho sự xây dựng chủ nghiã xã hội tại Việt Nam.
Một
người như thế - có thể nói toàn bộ cuộc đời cống hiến cho xã hội, với
tâm huyết xây dựng, cải tiến chế độ đương thời cho dân chủ, cho tốt đẹp
hơn (đúng là sau này ông có tỉnh ngộ về thực chất xã hội chủ nghiã và
muốn thay đổi nó), đáng lý ra phải được hưởng những gì xứng đáng với sự
hy sinh của ông; thì ngược lại, vì ý thức tiến bộ và dân chủ - tức muốn
có dân chủ trong hệ thống chính trị và xã hội Việt Nam, ông đã phải trả
giá!
Xin theo dõi giai đoạn từ năm 1962, mốc
thời gian BS NGUYỄN KHẮC VIỆN chuẩn bị về nước, dẫn dần đến kết cục bi
thảm của cuộc đời của ông trước khi qua đời. Đây là trường hợp điển
hình diễn tả một người có công lớn đối với xã hội đã bị chế độ vùi dập
như thế nào.
Văn phong của anh Viện – khi viết Pháp văn – giản dị, trong sáng, khúc triết
Giáo sư Hoàng Như Mai
Năm
1962, do sự điều đình giữa chính quyền Ngô Đình Diệm với nhà chức trách
Pháp, chính phủ Pháp ký lệnh trục xuất Nguyễn Khắc Viện. Ông nán lại
một thời gian để làm báo cáo công tác và giúp đỡ đoàn chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa do ông Mai Văn Bộ làm đại diện tại Paris. Ngày 27
tháng 4 năm 1963, ông được Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đưa về nước qua đường Tiệp Khắc, Liên Xô, Trung Quốc. Buổi ông rời Pháp
lên đường, kiều bào và các bạn Pháp kéo đến tiễn chân, đông như một cuộc
biểu tình.
Về nước, ông được Đảng và Nhà nước
giao nhiệm vụ làm Ủy viên Ban Đối ngoại, trực tiếp phụ trách công tác
tuyên truyền quốc tế. Ngoài nhiệm vụ tổng biên tập báo Le Courrier du
Vietnam và tạp chí Etudes Vietnamiennes ông còn phải đảm trách chức giám
đốc Nhà xuất bản Ngoại văn. Hàng trăm bài báo và đầu sách ông viết bằng
tiếng Pháp gửi các báo nước ngoài hoặc cho 3 cơ quan trên, khỏi phải
nói, đã giúp bạn đọc Pháp và những nước nói tiếng Pháp hiểu Việt Nam
một cách có lợi cho chế độ.
Giáo sư Hoàng Như
Mai nhận xét là : “ Văn phong của anh Viện – khi viết Pháp văn – giản
dị, trong sáng, khúc triết. Tôi nghĩ rằng anh Viện viết thứ văn Jules
Michelet, Ernest Renan, một thứ văn thuần Pháp”.
Tiên phong trong sự nghiệp đổi mới và dân chủ hoá đất nước
Năm
1963, khi mới về nước, Nguyễn Khắc Viện đã tuyên bố một câu mà sau đó
được giới trí thức ở Hà Nội lưu truyền : “Nếu mở mắt ra, nước Việt Nam
biến thành nước Pháp thì tôi đi theo chủ nghĩa tư bản, còn như phải đi
200 năm đầy máu và nước mắt để Việt Nam trở thành nước Pháp thì tôi theo
Liên Xô”.
Khi Liên Xô sụp đổ, nhà báo Lê Phú
Khải thẳng thắn thân tình hỏi ông : “Khi xưa, mới về nước, bác đã nói
một câu nổi tiếng về Liên Xô, nay Liên Xô đã tan rã rồi …giờ “cụ” nghĩ
sao đây?”. Vẫn điềm đạm, chân tình, Nguyễn Khắc Viện trả lời : “ Giờ thì
tôi đi theo kinh tế thị trường văn minh chứ không phải tư bản hoang dã
…”.
Cái thứ xã hội chủ nghĩa mà Nguyễn Khắc Viện
cũng như nhân dân ta đã ngây thơ kỳ vọng tới, đã đau đớn xả thân một
cách lầm lạc vì nó đã không hề có trong thực tế ở Liên Xô, ở Trung Quốc …
Về sống cùng quê hương xứ sở, Nguyễn Khắc Viện mới bàng hoàng nhận ra: “
Chủ nghĩa xã hội ngây thơ mang tính hoàn toàn Nhà nước thúc ép tất cả
mọi người vào một cái khung áp đặt từ trên xuống, tạo ra một bộ máy quan
liêu và hào lý nặng nề, tiêu diệt óc sáng kiến của nhân dân ” ( 2 ).
Từ
cái đường lối xã hội chủ nghĩa quái đản ấy đã buộc phải thực thi những
chủ trương, biện pháp sai lầm đến mức như là phản động. Nguyễn Khắc
Viện phát biểu: “… sau này theo dõi thực tế và nghĩ lại, tôi mới thấy
hợp tác hoá thực chất là tập thể hoá, tước đoạt quyền làm chủ của người
nông dân trên mảnh đất của họ. Quyền sử dụng ruộng đất ở nông thôn,
trồng gì, giá cả ra sao, chi phí thế nào … do bí thư, chủ tịch, chủ
nhiệm hợp tác xã quy định, dân không có quyền gì nữa. Bộ máy dần dần
thoái hoá, tiêu xài phung phí, lạm dụng quỹ chung của hợp tác xã, nông
dân làm ra, cuối cùng tính công điểm chẳng còn bao nhiêu. Người nông dân
không hào hứng nữa, đánh kẻng rồi mới đi làm, không còn cảnh ra đồng
sớm như trước nữa. Cuộc sống nhiều khi dựa trên thu nhập từ kinh tế gia
đình, trên đất 5% là chủ yếu, mặc dù nuôi được một con lợn, muốn bán cho
ai, bán lúc nào, giá cả ra sao, cũng không có quyền quyết định” ( 3 ).
Tình trạng cán bộ tham ô, ức hiếp nhân dân, không chỉ là trái đạo đức, mà còn là vấn đề chính trị
Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện
|
Ở miền Bắc, hợp tác xã có điều kiện thuận lợi hơn nên lúc đầu cũng có một số tác dụng, nhưng càng về sau càng bộc lộ những bất cập, kềm hãm sản xuất ghê gớm. Thế mà sau khi giải phóng Miền Nam, Đảng vẫn chủ trương hợp tác hoá nông nghiệp ồ ạt, đặt chỉ tiêu một cách ngông cuồng: Năm 1980 phải hoàn thành hợp tác hoá nông nghiệp toàn miền Nam!
Đi
theo đường lối tiến lên chủ nghiã xã hội bằng những chủ trương, biện
pháp hết sức sai lầm, Đảng đã nghèo khổ hoá nhân dân và đẩy đất nước đến
bờ vực thẳm. Tuy nhiên, khi chợt bừng tỉnh, Đảng lại đi từ sai lầm tả
khuynh đến sai lầm hữu khuynh khi giương cao khẩu hiệu “Đảng viên cũng
phải biết làm giầu”. Thực tế ấy làm Nguyễn Khắc Viện trăn trở : “Cách
mạng Pháp nêu khẩu hiệu “ Tự do-Bình đẳng-Bác ái ”. Trên cái nền “Tự
do-Bình đẳng-Bác ái“ ấy mà nước Pháp trở thành giầu có. Nếu chỉ nêu khẩu
hiệu làm giầu mà bất chấp mọi thứ thì sẽ dẫn đến chụp giựt, sa đọa,
lừa đảo, phá hoại cả môi trường nhân văn và môi trường sinh thái” ( 4 ).
Trong
cơn khát làm giầu như thế, hàng loạt cán bộ, đảng viên đua nhau móc
ngoặc, tiếp tay cho con buôn, lạm dụng công quỹ, lợi dụng đất đai, tài
sản, phương tiện của nhà nước để vơ vét vào túi tham vô đáy của mình.
Ông viết bài Chống tiêu cực” vạch rõ : “Tình trạng cán bộ tham ô, ức
hiếp nhân dân, không chỉ là trái đạo đức, mà còn là vấn đề chính trị”.
Kiến nghị bảy điểm
Khi tình hinh xã hội đã trở nên rất nghiêm trọng, ông viết “Thất trảm sớ” gửi Quốc hội. Nội dung tóm tắt như sau :
1 - Đường lối đề ra tiến lên sản xuất lớn XHCN, nhưng phải điều chỉnh lại để sản xuất nhỏ cũng có vị trí nhất định.
2 - Phải mở rộng quan hệ quốc tế rộng rãi, trước hết là với các nước anh em đã có quan hệ lâu năm. Việc làm ăn với Liên Xô nên đàng hoàng, thân tình, cởi mở hơn, không để cho tinh thần chống chủ nghĩa xét lại khống chế một cách nặng nề.
3 - Ở các cấp có 2 bộ máy mà bộ máy Đảng đứng trên bộ máy Nhà nước thì bộ máy Nhà nước không thể có hiệu lực, không thể nào phát triển kinh tế, văn hoá được.
4 - Thưởng phạt phải nghiêm minh.
5 - Báo chí chỉ thông tin một chiều nên không phản ánh được dư luận của nhân dân. Chế độ kiểm duyệt quá sát sao, không cho đăng ý kiến của quần chúng nên đã dẫn đến những sai lầm.
6 - Đáng nhẽ khoa học xã hội phải đi trước một bước nhưng vì phải đợi chủ trương đường lối để minh hoạ nên chẳng đóng góp được gì xứng đáng.
7 - Đại hội lần thứ 2 của Đảng (1951) đã xác định đường lối cơ sở Đảng ta dựa trên căn bản chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông. Cần nghiên cứư lại tác hại của tư tưởng Mao Trạch Đông để xoá bỏ tàn tích của nó.
2 - Phải mở rộng quan hệ quốc tế rộng rãi, trước hết là với các nước anh em đã có quan hệ lâu năm. Việc làm ăn với Liên Xô nên đàng hoàng, thân tình, cởi mở hơn, không để cho tinh thần chống chủ nghĩa xét lại khống chế một cách nặng nề.
3 - Ở các cấp có 2 bộ máy mà bộ máy Đảng đứng trên bộ máy Nhà nước thì bộ máy Nhà nước không thể có hiệu lực, không thể nào phát triển kinh tế, văn hoá được.
4 - Thưởng phạt phải nghiêm minh.
5 - Báo chí chỉ thông tin một chiều nên không phản ánh được dư luận của nhân dân. Chế độ kiểm duyệt quá sát sao, không cho đăng ý kiến của quần chúng nên đã dẫn đến những sai lầm.
6 - Đáng nhẽ khoa học xã hội phải đi trước một bước nhưng vì phải đợi chủ trương đường lối để minh hoạ nên chẳng đóng góp được gì xứng đáng.
7 - Đại hội lần thứ 2 của Đảng (1951) đã xác định đường lối cơ sở Đảng ta dựa trên căn bản chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông. Cần nghiên cứư lại tác hại của tư tưởng Mao Trạch Đông để xoá bỏ tàn tích của nó.
Trong
bản kiến nghị có một câu rất hay khi nói về quyền bình đẳng trước pháp
luật : “Không làm theo kiểu phong kiến: dân thì chịu hình pháp, quan thì
xử theo lễ”.
Trong một bài viết nhan đề : “Then
chốt : cải tổ bộ máy”, ông vạch rõ : “Hai nhược điểm cơ bản (của bộ máy
Đảng-Nhà nước ) là : 1) Thiếu nhạy bén trước yêu cầu của nhân dân, của
tình hình mới của thời đại. 2) Cơ cấu tổ chức ngăn cản những tiến bộ của
kinh tế xã hội. Bộ máy Đảng-Nhà nước thiếu nhạy bén do cách làm ăn
thiếu dân chủ, thiếu khoa học” ( 4 ).
Ông nêu
những nhận xét khái quát : “ … Việt Nam có truyền thống yêu nước, truyền
thống đoàn kết với nhau, tức là có những thể chế bảo đảm quyền của cộng
đồng đứng trước bộ máy nhà nước, bộ máy tôn giáo. Nhưng khái niệm và
thể chế để bảo đảm quyền của con người, quyền của công dân thì chưa có
…dân chủ là một khái niệm mới thì chúng ta buộc phải nhập từ Phương Tây.
Việc gì phải che dấu chuyện này ” (3 ). “ Nhân dân ta có nhiều truyền
thống tốt đẹp, như kiên cường đấu tranh chống ngoại xâm, sống có tình có
nghiã, nhưng truyền thống dân chủ thì chưa có. Con chỉ biết phục tùng
cha, dân phục tùng vua quan, cá nhân phục tùng đoàn thể, vợ phục tùng
chồng, trò phục tùng thầy; phục tùng trong hành động, trong cả suy nghĩ.
Bề trên vừa là chỉ huy, vừa là thầy, là thánh, chân lý phát ra từ cấp
trên. Không thể làm khác ý đồ của trên ( 2 )”.
Không làm theo kiểu phong kiến: dân thì chịu hình pháp, quan thì xử theo lễ
Kiến nghị của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện
|
Ông bác bỏ luận điệu xảo trá, hù doạ rằng dân chủ sẽ đưa đến loạn lạc: “Ý kiến tôi cũng như nhiều anh em khác mong mỏi có dân chủ hoá. Ai cũng muốn có ổn định, chứ không phải muốn cho xáo trộn loạn lạc lên đâu. Nói như vậy chỉ là sự vu khống. Chính vì muốn tránh bùng nổ, mà tôi muốn nhịp độ dân chủ hoá phải nhanh hơn, nếu không, bề ngoài cứ tưởng là ổn định, nhưng tình trạng mất dân chủ gây nên phản ứng như những đợt sóng ngầm, đến lúc nào đó không tránh khỏi bùng nổ. Kinh nghiệm Liên Xô và Đông Âu rất đáng cho ta suy ngẫm” (3).
Ông ngán
ngẩm, nhưng lại kỳ vọng : “Một sự im lặng đáng sợ đang trùm lên cả xã
hội : ít ai động vào đưa ra một sáng kiến, người thì chạy vạy cho cuộc
sống hết hơi, hết ngày, người thì chán nản bi quan, ngay cả phẫn nộ cũng
không còn sức. Đất nước ta hiện nay đang cần những con người chủ động,
có óc sáng tạo để cải tổ mọi lĩnh vực trong cuộc sống xã hội. Làm sao
khuấy lên được hào hùng, tin tưởng, phẫn nộ”. ( 2 )
Ông
hồ hởi mừng vui đón nhận từng tín hiệu nhỏ làm tiền đề cho cuộc đấu
tranh vì sự nghiệp dân chủ hoá : “Vụ đổi tiền tháng 9 năm 1985 quả là
một tai hoạ ập đến với nhân dân ta. Nhưng nói như một ngạn ngữ phương
Tây, bao giờ tai họa cũng có mặt hay của nó. Lần đầu tiên, ở nước ta,
mọi người đều thấy lãnh đạo tối cao cũng có thể phạm sai lầm nghiêm
trọng. Trước đó một số người đã suy nghĩ như vậy, nhưng cái mới là nay
số đông bắt đầu suy nghĩ như vậy. Và dĩ nhiên, tiếp theo là từ nay ta
không thể khoán trắng cho lãnh đạo suy nghĩ, động não thay thế cho mọi
người” (3 ).
Ông hô hào : “Đừng ngồi yên chỉ
biết than phiền, kêu ca. Đừng ngồi mong chờ ở “ông” khác. Trên dưới đều
có người tiến bộ, có người bảo thủ, dưới có quậy, trên mới thay đổi”( 2
). “Từ bỏ chủ nghĩa xã hội nhà nước, từ trên áp đặt xuống, ta sẽ xây
dựng một chủ nghĩa xã hội trong đó Đảng lãnh đạo, lãnh đạo chứ không ôm
lấy mà làm mọi việc. Đảng với nhân dân cùng suy nghĩ, có trao đi đổi
lại, chứ không phải Đảng phán ra, nhân dân cúi đầu vâng theo”.( 2 )
Ông
kêu gọi làm cách mạng : “ Trước kia chúng ta đã dựng nên một cuộc cách
mạng dân tộc, nhân dân, quốc tế rộng lớn chống đế quốc ngoại xâm. Chúng
ta đã tiến hành mấy cuộc kháng chiến trường kỳ nhiều mặt, để chống lại
tư bản man rợ, không để nó tác oai tác quái, nay phải dựng nên một mặt
trận dân tộc, nhân dân, quốc tế còn rộng hơn; tiến hành một cuộc kháng
chiến mới lâu dài hơn, đa dạng hơn, mới mong hạn chế được tham nhũng,
bảo vệ được môi trường, giảm nhẹ bất công xã hội, phân hoá giầu nghèo,
giữ gìn được thuần phong mỹ tục, phát huy tình người, tôn trọng quyền
phụ nữ, trẻ em, các nhóm thiểu số. Một cuộc kháng chiến nhiều mặt với
báo chí, tivi, sách vở, phim ảnh. Thành lập đủ các thứ hội đoàn, đình
công, biểu tình … không bỏ sót ngóc ngách nào, trong nước, ngoài nước,
đứng ở bất cứ vị trí nào cũng có thể tham gia … Chúng ta sẽ làm cho
những tư tưởng dân chủ, công bằng xã hội, tinh thần quốc tế, tình nghĩa
giữa người và người thâm nhập vào đại chúng. Kỹ thuật hiện đại trao cho
chúng ta đầy đủ phương tiện làm việc này, biến tư bản man rợ thành tư
bản văn minh. Hãy cùng nhau bước vào cuộc kháng chiến mới ” ( 5 ).
Kêu gọi bằng “ hịch”, lại kêu gọi bằng thơ :
Có những người đã thức dậy
Lúc gà chưa gáy
Biết bao nhiêu còn ngái ngủ
Gáy lên đi, gà ơi !
Cho đời rộn lên, người người tỉnh thức
…
Cho con người đứng thẳng lên
…
Không cúi đầu trước quyền lực …
Lúc gà chưa gáy
Biết bao nhiêu còn ngái ngủ
Gáy lên đi, gà ơi !
Cho đời rộn lên, người người tỉnh thức
…
Cho con người đứng thẳng lên
…
Không cúi đầu trước quyền lực …
Ông vạch ra một tiến trình :
“Quá trình dân chủ hoá thể hiện qua mấy khâu :
-
Đầu tiên là nhận thức của số đông là mỗi người có quyền làm công dân,
có quyền suy nghĩ, nói lên ý của mình, không ai được xâm phạm những
quyền cơ bản mà hiến pháp và pháp luật đã quy định
- Báo chí trở thành công cụ sắc bén của dư luận
- Các cơ quan dân cử như Quốc hội, các đoàn thể làm nhiệm vụ là thay mặt cho dân, chứ không làm “ cây cảnh ” nữa
- Những cơ quan tư pháp giữ tính độc lập, xử theo pháp luật, không chấp nhận một sức ép nào do bất kỳ từ đâu ” ( 2 )
- Báo chí trở thành công cụ sắc bén của dư luận
- Các cơ quan dân cử như Quốc hội, các đoàn thể làm nhiệm vụ là thay mặt cho dân, chứ không làm “ cây cảnh ” nữa
- Những cơ quan tư pháp giữ tính độc lập, xử theo pháp luật, không chấp nhận một sức ép nào do bất kỳ từ đâu ” ( 2 )
Hỏi
ông có tin vào hiệu năng đấu tranh của lực lượng dân chủ, ông trả lời :
“ Theo tôi, nếu mọi người tiếp tục đấu tranh thì có 80% công cuộc đổi
mới sẽ thành công, nhưng cũng còn 20% bất trắc, chủ yếu do sức chống đối
của những người được hưởng đặc quyền đặc lợi mà bộ máy cũ mang lại cho
họ ” ( 4).
Vô cùng tiếc và thương một chí khí ngoan cường
Nguyễn
Khắc Viện không chỉ mạnh dạn phê phán và đóng góp nhiều ý kiến mới lạ
so với chủ trương đường lối của Đảng nên nghe rất “ nghịch nhĩ “ mà còn
thẳng thắn, chân tình góp ý với nhiều quan chức cao cấp trong Đảng. Nghe
tin Đảng định đưa nhà thơ Tố Hữu làm thủ tướng chính phủ, ông gặp
trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng Nguyễn Đức Tâm bầy tỏ ý kiến phản
đối.
Trước Đại hội VI ông đã từng viết một lá
thư gửi ông Tố Hữu, đại ý như sau : Trước kia, tôi rất mến phục tài thơ
của anh, tôi thích thú một số bài thơ của anh và đã dịch những bài đó ra
tiếng Pháp đưa ra quốc tế. Nhưng anh làm lãnh đạo chính trị, đặc biệt
về văn hoá văn nghệ, rồi làm phó thủ tướng, làm kinh tế như thế này,
không ai đồng tình, nhiều người oán trách, anh nên biết rõ. Dịp này anh
nên tự nguyện rút lui, đừng ứng cử vaò Trung ương nữa, trở lại làm nhà
thơ, chắc anh sẽ lại được lòng kính mến tài làm thơ của anh.
Ông họa thơ Tố Hữu :
Năm mươi năm ấy vẫn còn thơ
Từ bấy đua chen mãi đến giờ
Mái tóc pha sương chưa hết dại
Con tằm rút ruột chẳng còn tơ
Thuyền con quá tải không qua sóng
Mộng lớn tài hèn chớ ước mơ
Với giá, lương, tiền dân khốn đốn
Trăm năm bia miệng, hỡi nhà thơ!
(Bài thơ của Tố Hữu đăng trên báo Văn nghệ, lúc ấy được rất nhiều người họa là :
Trên năm mươi tuổi Đảng và thơ
Từ ấy hồn vui mãi đến giờ
Mái tóc pha sương chưa cạn ý
Con tằm rút ruột vẫn còn tơ
Thuyền con vượt sóng không nghiêng ngã
Nghiệp lớn muôn đường lộng ước mơ
Mới nửa đường thôi, còn bước tiếp
Trăm năm duyên kiếp Đảng và thơ )
Từ ấy hồn vui mãi đến giờ
Mái tóc pha sương chưa cạn ý
Con tằm rút ruột vẫn còn tơ
Thuyền con vượt sóng không nghiêng ngã
Nghiệp lớn muôn đường lộng ước mơ
Mới nửa đường thôi, còn bước tiếp
Trăm năm duyên kiếp Đảng và thơ )
… Thế rồi ! Không biết vì sao và từ đâu, những tai ương bắt đầu bổ xuống đời ông.
Báo
Nhân Dân và hầu hết các báo cấm chỉ không đăng bài ký tên Nguyễn Khắc
Viện nữa. Chẳng những thế, sau khi đài BBC phát thư kiến nghị của ông
gửi Đại hội VII thì trong nước dấy lên một chiến dịch rầm rộ công kích,
lên án ông. Khởi đầu là báo Nhân Dân tung ra một loạt bài, không nêu rõ
tên Nguyễn Khắc Viện nhưng trích một vài đoạn trong bức thư rồi quy chụp
rằng người viết những dòng như thế là có ý đồ thâm hiểm, mượn cớ dân
chủ tự do để chống cách mạng, chống Đảng.
Tháng
5 năm 1991, báo công an Thành phố Hồ Chí Minh loan báo trong màng lưới
tay sai cho gián điệp, có một tên gián điệp ở Pháp về. Cùng luận điệu
đó, có bài ghi rõ tên đầy đủ, có bài ghi tắt N.K.V. Cán bộ tuyên huấn
của Đảng đi nói chuỵện khắp nơi rằng trong nước có một nhóm chống Đảng,
chống cách mạng mà Nguyễn Khắc Viện là một phần tử.
Nhân
ngày Quốc tế Thiếu nhi 1 tháng 6 năm 1991, câu lạc bộ Liên hiệp các Hội
Khoa học Kỹ thuật tổ chức buổi nói chuyện về tâm lý trẻ con. Khi săn
biết diễn giả là Nguyễn Khắc Viện, lệnh trên truyền xuống phải huỷ bỏ
buổi nói chuyện này. Cuối năm đó, khai mạc Phòng khám Tâm lý Trẻ em tại
bệnh viện Đống Đa. Đây là Phòng Khám Tâm lý trẻ em đầu tiên ở nước ta.
Vô tuyến truyền hình đến quay phim. Nguyễn Khắc Viện là người sáng lập
tổ chức, chủ trì buổi lễ và đọc diễn văn giới thiệu ý nghĩa, mục đích
việc thành lập cơ sở này. Nhưng, khi phát hình buỗi lễ lên sóng, người
ta cắt đi tất cả những đoạn có hình ảnh Nguyễn Khắc Viện.
Rồi
Quận uỷ Hoàn Kiếm lôi Nguyễn Khắc Viện ra đấu tố, bắt đứng lên kiểm
điểm. Ông từ tốn nhưng kiên nghị nói : Nếu Quận uỷ muốn sinh hoạt chi bộ
trao đổi quan điểm và thảo luận về những điều đúng, sai thì tôi làm,
còn kiểm điểm thì không, vì tôi không có lỗi gì.
Cứ
thế, ngày mỗi ngày càng nồng nực trong xã hội những dư luận xấu. Nguyễn
Khắc Viện bị bôi bẩn, bị thoá mạ, bị săn đuổi, bị hăm doạ một cách rất
tàn khốc, rất đểu cáng.
Bà Nguyễn Thị Nhất kể
rằng : một hôm có người đến thăm, hỏi ông Viện đi đâu. Quen nói giọng
Sài Gòn, bà trả lời : Nhà tôi chạy đâu rồi ấy. Thế là người đó hớt hải
loan tin và dư luận đồn ầm lên rằng Nguyễn Khắc Viện đã trốn ra nước
ngoài. (Tiếng chạy với người Sài Gòn chỉ là “đi đâu đó thôi ”, nhưng
người khách miền Bắc kia lại hiểu là bỏ trốn).
Ông
Hoàng Nguyên kể rằng một hôm vào khoảng cuối năm 198, ông đang ngồi làm
việc tại tòa soạn báo Le Courrier du Vietnam thì nhà điện ảnh nổi
tiếng, lão thành P.V.K. hớt hải chạy vào hỏi : “Thế nào, anh Viện bị bắt
rồi à?”, trong khi ông Viện vẫn đang ngồi làm việc ở tầng trên.
Cảm thương và kính phục, nhiều người đã tặng thơ ông. Bà Phương Tho - em gái ông- viết những dòng bi tráng ca :
Đứng giữa hai làn đạn
Vẫn mực thước, khoan dung
Với tấm lòng thanh thản
Với sỹ khí hào hùng
Vẫn mực thước, khoan dung
Với tấm lòng thanh thản
Với sỹ khí hào hùng
Ông Đặng Minh Phương tặng đôi câu đối :
Kiến
thức bách khoa phong phú, từng trải Đông Tây, tác phẩm uyên thâm đồ sộ,
ở Pháp quốc kiên trì tranh đấu, tấm lòng với nước tận trung, vòng danh
lợi coi khinh, lương tâm to sáng
Tài năng đa
dạng hiếm hoi, tinh thông kim cổ, tư duy sắc sảo tuyệt vời, về Việt Nam
bền bỉ dựng xây, ngòi bút vì dân cương trực, thói quan liêu căm ghét ,
nhân cách ngát hương.
Một đêm tháng 4 năm 1988, được Nguyễn Khắc Viện đến thăm và ngủ lại nhà mình, nằm thao thức trong đêm Mỹ Tho, nhà báo Lê Phú Khải đã viết bài thơ :
Đãi ông một bữa cơm nghèo
Trải giường ông nghỉ, lòng nhiều xót thương
Lưng già ít thịt nhiều xương
Sáu, năm vết mổ sẹo còn đầy vai
Con đường dân chủ công khai
Ông như lão tướng một đời xông pha
Bọn quan liêu-lũ gian tà
Kính ông ngoài mặt, bỉ dè sau lưng
Núi sông được mấy anh hùng
Thế gian được mấy cõi lòng trinh trung?!
Trải giường ông nghỉ, lòng nhiều xót thương
Lưng già ít thịt nhiều xương
Sáu, năm vết mổ sẹo còn đầy vai
Con đường dân chủ công khai
Ông như lão tướng một đời xông pha
Bọn quan liêu-lũ gian tà
Kính ông ngoài mặt, bỉ dè sau lưng
Núi sông được mấy anh hùng
Thế gian được mấy cõi lòng trinh trung?!
Khi
biết ông chắc chắn sắp chết, Nguyễn Khoa Điềm vội vàng đến gắn tấm huân
chương Độc lập Hạng Nhất lên bộ ngực ông đã dính đét xuống giường.
Người
ta thấy mai mỉa không ít với tấm huân chương Hồ Chí Minh, huân chương
Sao vàng. Người ta càng thấy tủi buồn về tấm huân chương Độc lập Hạng
Nhất trên ngực Nguyễn Khắc Viện.
Dẫu sao, chỉ một cái tên Nguyễn Khắc Viện không thôi đã nói lên cái gì đó của một con người trí thức, dù đứng ở bên nào!
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6 – Khu tập thể Địa Vật lý Máy bay
Trung Văn – Từ Liêm - Hà Nội
Số nhà 6 – Khu tập thể Địa Vật lý Máy bay
Trung Văn – Từ Liêm - Hà Nội
Ghi chú :
( 1 ) Huân Chương Độc Lập Hạng Nhất, người gắn là Nguyễn Khoa Điềm (xin xem đoạn cuối bài)
( 2 ) Đổi mới – Nhà xuất bản Thanh niên - 1988
( 3 ) Ước mơ và hoài niệm – Nhà xuất bản Đà Nẵng ( Phần không được in )
( 4 ) Nguyễn Khắc Viện, tác phẩm – Tập 2- Nhà xuất bản Lao động
( 5 ) Bài “ Bước và cuộc kháng chiến mới ” ( tháng 6 năm 1993)
( 1 ) Huân Chương Độc Lập Hạng Nhất, người gắn là Nguyễn Khoa Điềm (xin xem đoạn cuối bài)
( 2 ) Đổi mới – Nhà xuất bản Thanh niên - 1988
( 3 ) Ước mơ và hoài niệm – Nhà xuất bản Đà Nẵng ( Phần không được in )
( 4 ) Nguyễn Khắc Viện, tác phẩm – Tập 2- Nhà xuất bản Lao động
( 5 ) Bài “ Bước và cuộc kháng chiến mới ” ( tháng 6 năm 1993)
Quí
vị có suy nghĩ gì về những ý kiến của ông Nguyễn Thanh Giang
và những kiến nghị của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện khi sinh thời?
Xin hãy gửi thư cho chúng tôi theo địa chỉ vietnamese@bbc.co.uk, hoặc
sử dụng hộp tiện ích bên tay phải. Xin cám ơn.
=========================================
Đài BBC có thể biên tập lại ý kiến của quí vị và không bảo đảm tất cả thư đều được đăng.
ĐẶNG XƯƠNG HÙNG * DÂN CHỦ VÀ NHÂN QUYỀN TẠI VIỆT NAM?
Bài thuyết trình của Đặng Xương Hùng tại Geneva Summit for Human Rights and Democracy ngày 25/2/2014
Đặng Xương Hùng
Thưa các Quý vị và các bạn,
Tôi tên là Đặng Xương Hùng, cựu Lãnh sự Việt Nam tại Genève (2008-2012), cựu Vụ Phó Bộ Ngoại giao đã quyết định ly khai với Đảng cộng sản Việt Nam từ 18/10/2013. Tôi xin cảm ơn UN Watch đã cho tôi cơ hội để đề cập đến tình trạng phi dân chủ và vi phạm nhân quyền ở Việt Nam. Đây cũng là lý do dẫn đến việc tôi quyết định ly khai.
Tôi sẽ trình bày quan điểm của cá nhân tôi, một góc nhìn từ bên trong về thực trạng Nhân quyền Việt Nam. Tôi sẽ cố gắng đưa ra những nhận xét và dẫn chứng để lý giải câu hỏi mà - từ lâu - tôi đã đặt ra cho chính mình:
+ TẠI SAO KHÔNG CÓ DÂN CHỦ VÀ NHÂN QUYỀN TẠI VIỆT NAM?
+ PHẢI LÀM GÌ ĐỂ MANG LẠI DÂN CHỦ VÀ NHÂN QUYỀN CHO VIỆT NAM?
Một chế độ dân chủ cần hội tụ đủ hai yếu tố: Cơ chế dân chủ và Tư tưởng dân chủ. Chỉ khi nào có một người lãnh đạo có tư tưởng dân chủ thì cơ chế dân chủ mới có cơ hội hình thành. Việt Nam thiếu cả hai nhân tố đó. Tức là các nhà lãnh đạo đương thời ở Việt Nam không hề có tư tưởng dân chủ, dẫn đến việc họ xây dựng ở Việt Nam một chế độ PHI DÂN CHỦ, không tôn trọng nhân quyền.
Tôi vào đảng cộng sản năm 1986. Lúc đó đảng đang có những cố gắng đổi mới. Lúc bức tường Berlin sụp đổ, đã có một vài nhân vật có tư tưởng dân chủ xuất hiện như Trần Xuân Bách, Nguyễn Cơ Thạch, Trần Quang Cơ. Nhưng họ nhanh chóng bị loại ra khỏi guồng máy lãnh đạo. Những tư tưởng dân chủ vừa nhen nhóm đã bị dập tắt.
Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ, đảng cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục theo đuổi chủ nghĩa Mác-Lê Nin một cách mù quáng, khước từ việc tiếp thu những tư tưởng dân chủ và nhân quyền đã trở thành phổ quát, từ đó họ đã đưa đất nước và dân tộc Việt Nam đến tình trạng khủng hoảng toàn diện như hiện nay. Từ đây tôi cũng lý giải được câu hỏi: “Tại sao Việt Nam không có nhân quyền?”. Chính đảng cộng sản là cội nguồn phát sinh mọi suy vong của đất nước. Trước tình hình Việt Nam ngày càng nguy cấp, tôi không thể tiếp tục im lặng mà phải công khai bày tỏ thái độ: dứt khoát từ bỏ đảng cộng sản. Lúc này đây, tôi muốn hô to với thế giới bên ngoài rằng:
- Đất nước chúng tôi đang lâm nguy!
- Đồng bào tôi đang bị đàn áp dưới chế độ cộng sản!
- Hãy quan tâm đến tình hình nhân quyền và dân chủ của Việt Nam!
Về thực trạng ở Việt Nam, tôi có những nhận xét, kết luận như sau:
+ Chế độ hiện tại là chế độ độc tài, đảng trị, phục vụ quyền lợi của những người cầm quyền. Điều 4 Hiến pháp - được sửa đổi và có hiệu lực từ 1/1/2014 - quy định Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền tại Việt Nam, đồng thời là chính đảng duy nhất được phép hoạt động. Chủ nghĩa Mác-Lê Nin coi luật pháp chỉ là công cụ đàn áp của giai cấp thống trị.
+ Hệ thống bộ máy nhà nước được xây dựng và tổ chức nhằm mục tiêu cơ bản là bảo vệ sự cai trị của đảng lên toàn xã hội, coi nhẹ nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của công dân. Do đó, Nhà nước Việt Nam không có thái độ tôn trọng quyền của người dân. Những lãnh đạo cộng sản hiện nay đã trở thành những nhà tư bản đỏ.
Lực lượng công an, cảnh sát được xây dựng hùng hậu. Thay vì tập trung vào nhiệm vụ chính là bảo đảm an ninh và trật tự xã hội, phần lớn họ lại đổ nhiều công sức vào việc theo dõi, trấn áp và ức hiếp nhân dân. Trong thể chế xã hội chủ nghĩa, công an là công cụ bảo vệ sinh mạng của chế độ – nên họ được dung túng như một lực lượng kiêu binh. Tôi rất tâm đắc với khuyến nghị của một quốc gia trong kỳ kiểm điểm định kỳ vừa rồi là Việt Nam nên đào tạo kiến thức về nhân quyền cho lực lượng công an.
Lực lượng quân đội được quy định trong Hiến pháp là phải trung thành với Đảng rồi mới đến Nhà nước và Nhân dân.
Các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án) đều là bộ máy của đảng, phục vụ mục đích cai trị của đảng. Tôi đã từng phát biểu rằng Quốc hội Việt Nam chỉ là một chi bộ của Đảng. Vừa rồi, trước những đòi hỏi chính đáng và thiết tha của trí thức và nhân dân, Quốc hội vẫn bỏ phiếu thông qua sửa đổi Hiến pháp với tỷ lệ 98%. Các đại biểu Quốc hội không thể làm khác được vì họ đều là đảng viên.
+ Các quyền cơ bản của con người không được tôn trọng
Không có bầu cử tự do: Trên nguyên tắc, 5 năm một lần, người dân bầu đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Trong thực tế, họ chỉ được bầu ra những người mà đảng đã lựa chọn từ trước. Không ai có quyền được tự ứng cử. Gần đây, có luật sư Cù Huy Hà Vũ đã cố tự ra ứng cử, nhưng đã bị loại ngay và hiện nay ông đang nằm trong tù. Do vậy, bầu cử chỉ là hình thức. Bản thân tôi đã từng bỏ phiếu thay cho cả gia đình. Có trường hợp, vì để lấy thành tích thi đua, nên có ông tổ trưởng dân phố đã bỏ thay cho những gia đình vắng mặt.
Tự do ngôn luận, bày tỏ ý kiến cá nhân đang bị đe dọa nghiêm trọng nhất: Chính quyền đang áp dụng những chính sách đàn áp tàn bạo lên những người bất đồng chính kiến. Bên cạnh những bản án tù dài hạn, họ đẩy mạnh hình thức sử dụng bạo lực, kể cả việc sử dụng côn đồ để hành hung đối phó, sách nhiễu những nhà bất đồng chính kiến.
Theo các danh sách do các tổ chức nhân quyền tự tìm kiếm và chúng tôi tìm hiểu, hiện có khoảng khoảng 250 người bị chính quyền giam giữ vì các hoạt động xuất phát từ lương tâm. Con số thực cao hơn nhiều vì kiểm kê thiếu sót và vì có những trường hợp bắt giam với những lý cớ ngụy tạo để che giấu lý do chính trị.
Chính quyền thường sử dụng các điều 79, 87, 88, 258 trong Bộ luật hình sự để bắt giam, xử án một cách tùy tiện các nhà đấu tranh dân chủ. Gần đây, họ lại chuyển sang bắt giam các nhà bất đồng chính kiến bằng những lý do khá ấu trĩ. Luật sư Cù Lê Hà Vũ vì tội quan hệ bất chính (với bằng chứng là bao cao su), bắt giam Luật sư Lê Quốc Quân về tội trốn thuế. Họ bắt giam cả những thanh niên mới 20 tuổi như Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha chỉ vì họ bày tỏ lòng yêu nước, chống lại Trung Quốc.
Có nhiều tù nhân lương tâm đang mắc bệnh hiểm nghèo và trong tình trạng hấp hối nhưng vẫn tiếp tục bị giam giữ. Điển hình là 3 ba trường hợp:
- Ông Vi Đức Hồi bị kết án hoàn toàn không có lý do chính đáng, bị kỷ luật biệt giam sáu tháng vì phản đối giám thị cai tù đánh một tù nhân lương tâm khác là Paulus Lê Sơn. Sau 6 tháng biệt giam, ông Vi Đức Hồi tiếp tục bị gia hạn kỷ luật. Hiện nay ông Hồi đang bị biệt giam, trong lúc bệnh tim và cao huyết áp của ông ấy luôn trong tình trạng cấp cứu.
- Ông Đinh Đăng Định, sau một thời gian bị giam giữ đã phát bệnh ung thư. Khi đưa đi khám, bệnh ung thư của ông Định đã vào thời kỳ cuối. Các bác sĩ điều trị cho hay nếu được điều trị sớm hơn vài tháng, ông Định đã có thể cứu được. Hiện nay ông Đinh Đăng Định đang trong tình trạng hấp hối, không còn ăn uống được. Mãi đến vài ngày gần đây ông Định mới được "hoãn thi hành án trong 12 tháng" để trị bệnh ung thư ở giai đoạn cuối.
Đặng Xương Hùng
Thưa các Quý vị và các bạn,
Tôi tên là Đặng Xương Hùng, cựu Lãnh sự Việt Nam tại Genève (2008-2012), cựu Vụ Phó Bộ Ngoại giao đã quyết định ly khai với Đảng cộng sản Việt Nam từ 18/10/2013. Tôi xin cảm ơn UN Watch đã cho tôi cơ hội để đề cập đến tình trạng phi dân chủ và vi phạm nhân quyền ở Việt Nam. Đây cũng là lý do dẫn đến việc tôi quyết định ly khai.
Tôi sẽ trình bày quan điểm của cá nhân tôi, một góc nhìn từ bên trong về thực trạng Nhân quyền Việt Nam. Tôi sẽ cố gắng đưa ra những nhận xét và dẫn chứng để lý giải câu hỏi mà - từ lâu - tôi đã đặt ra cho chính mình:
+ TẠI SAO KHÔNG CÓ DÂN CHỦ VÀ NHÂN QUYỀN TẠI VIỆT NAM?
+ PHẢI LÀM GÌ ĐỂ MANG LẠI DÂN CHỦ VÀ NHÂN QUYỀN CHO VIỆT NAM?
Một chế độ dân chủ cần hội tụ đủ hai yếu tố: Cơ chế dân chủ và Tư tưởng dân chủ. Chỉ khi nào có một người lãnh đạo có tư tưởng dân chủ thì cơ chế dân chủ mới có cơ hội hình thành. Việt Nam thiếu cả hai nhân tố đó. Tức là các nhà lãnh đạo đương thời ở Việt Nam không hề có tư tưởng dân chủ, dẫn đến việc họ xây dựng ở Việt Nam một chế độ PHI DÂN CHỦ, không tôn trọng nhân quyền.
Tôi vào đảng cộng sản năm 1986. Lúc đó đảng đang có những cố gắng đổi mới. Lúc bức tường Berlin sụp đổ, đã có một vài nhân vật có tư tưởng dân chủ xuất hiện như Trần Xuân Bách, Nguyễn Cơ Thạch, Trần Quang Cơ. Nhưng họ nhanh chóng bị loại ra khỏi guồng máy lãnh đạo. Những tư tưởng dân chủ vừa nhen nhóm đã bị dập tắt.
Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ, đảng cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục theo đuổi chủ nghĩa Mác-Lê Nin một cách mù quáng, khước từ việc tiếp thu những tư tưởng dân chủ và nhân quyền đã trở thành phổ quát, từ đó họ đã đưa đất nước và dân tộc Việt Nam đến tình trạng khủng hoảng toàn diện như hiện nay. Từ đây tôi cũng lý giải được câu hỏi: “Tại sao Việt Nam không có nhân quyền?”. Chính đảng cộng sản là cội nguồn phát sinh mọi suy vong của đất nước. Trước tình hình Việt Nam ngày càng nguy cấp, tôi không thể tiếp tục im lặng mà phải công khai bày tỏ thái độ: dứt khoát từ bỏ đảng cộng sản. Lúc này đây, tôi muốn hô to với thế giới bên ngoài rằng:
- Đất nước chúng tôi đang lâm nguy!
- Đồng bào tôi đang bị đàn áp dưới chế độ cộng sản!
- Hãy quan tâm đến tình hình nhân quyền và dân chủ của Việt Nam!
Về thực trạng ở Việt Nam, tôi có những nhận xét, kết luận như sau:
+ Chế độ hiện tại là chế độ độc tài, đảng trị, phục vụ quyền lợi của những người cầm quyền. Điều 4 Hiến pháp - được sửa đổi và có hiệu lực từ 1/1/2014 - quy định Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền tại Việt Nam, đồng thời là chính đảng duy nhất được phép hoạt động. Chủ nghĩa Mác-Lê Nin coi luật pháp chỉ là công cụ đàn áp của giai cấp thống trị.
+ Hệ thống bộ máy nhà nước được xây dựng và tổ chức nhằm mục tiêu cơ bản là bảo vệ sự cai trị của đảng lên toàn xã hội, coi nhẹ nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của công dân. Do đó, Nhà nước Việt Nam không có thái độ tôn trọng quyền của người dân. Những lãnh đạo cộng sản hiện nay đã trở thành những nhà tư bản đỏ.
Lực lượng công an, cảnh sát được xây dựng hùng hậu. Thay vì tập trung vào nhiệm vụ chính là bảo đảm an ninh và trật tự xã hội, phần lớn họ lại đổ nhiều công sức vào việc theo dõi, trấn áp và ức hiếp nhân dân. Trong thể chế xã hội chủ nghĩa, công an là công cụ bảo vệ sinh mạng của chế độ – nên họ được dung túng như một lực lượng kiêu binh. Tôi rất tâm đắc với khuyến nghị của một quốc gia trong kỳ kiểm điểm định kỳ vừa rồi là Việt Nam nên đào tạo kiến thức về nhân quyền cho lực lượng công an.
Lực lượng quân đội được quy định trong Hiến pháp là phải trung thành với Đảng rồi mới đến Nhà nước và Nhân dân.
Các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án) đều là bộ máy của đảng, phục vụ mục đích cai trị của đảng. Tôi đã từng phát biểu rằng Quốc hội Việt Nam chỉ là một chi bộ của Đảng. Vừa rồi, trước những đòi hỏi chính đáng và thiết tha của trí thức và nhân dân, Quốc hội vẫn bỏ phiếu thông qua sửa đổi Hiến pháp với tỷ lệ 98%. Các đại biểu Quốc hội không thể làm khác được vì họ đều là đảng viên.
+ Các quyền cơ bản của con người không được tôn trọng
Không có bầu cử tự do: Trên nguyên tắc, 5 năm một lần, người dân bầu đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Trong thực tế, họ chỉ được bầu ra những người mà đảng đã lựa chọn từ trước. Không ai có quyền được tự ứng cử. Gần đây, có luật sư Cù Huy Hà Vũ đã cố tự ra ứng cử, nhưng đã bị loại ngay và hiện nay ông đang nằm trong tù. Do vậy, bầu cử chỉ là hình thức. Bản thân tôi đã từng bỏ phiếu thay cho cả gia đình. Có trường hợp, vì để lấy thành tích thi đua, nên có ông tổ trưởng dân phố đã bỏ thay cho những gia đình vắng mặt.
Tự do ngôn luận, bày tỏ ý kiến cá nhân đang bị đe dọa nghiêm trọng nhất: Chính quyền đang áp dụng những chính sách đàn áp tàn bạo lên những người bất đồng chính kiến. Bên cạnh những bản án tù dài hạn, họ đẩy mạnh hình thức sử dụng bạo lực, kể cả việc sử dụng côn đồ để hành hung đối phó, sách nhiễu những nhà bất đồng chính kiến.
Theo các danh sách do các tổ chức nhân quyền tự tìm kiếm và chúng tôi tìm hiểu, hiện có khoảng khoảng 250 người bị chính quyền giam giữ vì các hoạt động xuất phát từ lương tâm. Con số thực cao hơn nhiều vì kiểm kê thiếu sót và vì có những trường hợp bắt giam với những lý cớ ngụy tạo để che giấu lý do chính trị.
Chính quyền thường sử dụng các điều 79, 87, 88, 258 trong Bộ luật hình sự để bắt giam, xử án một cách tùy tiện các nhà đấu tranh dân chủ. Gần đây, họ lại chuyển sang bắt giam các nhà bất đồng chính kiến bằng những lý do khá ấu trĩ. Luật sư Cù Lê Hà Vũ vì tội quan hệ bất chính (với bằng chứng là bao cao su), bắt giam Luật sư Lê Quốc Quân về tội trốn thuế. Họ bắt giam cả những thanh niên mới 20 tuổi như Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha chỉ vì họ bày tỏ lòng yêu nước, chống lại Trung Quốc.
Có nhiều tù nhân lương tâm đang mắc bệnh hiểm nghèo và trong tình trạng hấp hối nhưng vẫn tiếp tục bị giam giữ. Điển hình là 3 ba trường hợp:
- Ông Vi Đức Hồi bị kết án hoàn toàn không có lý do chính đáng, bị kỷ luật biệt giam sáu tháng vì phản đối giám thị cai tù đánh một tù nhân lương tâm khác là Paulus Lê Sơn. Sau 6 tháng biệt giam, ông Vi Đức Hồi tiếp tục bị gia hạn kỷ luật. Hiện nay ông Hồi đang bị biệt giam, trong lúc bệnh tim và cao huyết áp của ông ấy luôn trong tình trạng cấp cứu.
- Ông Đinh Đăng Định, sau một thời gian bị giam giữ đã phát bệnh ung thư. Khi đưa đi khám, bệnh ung thư của ông Định đã vào thời kỳ cuối. Các bác sĩ điều trị cho hay nếu được điều trị sớm hơn vài tháng, ông Định đã có thể cứu được. Hiện nay ông Đinh Đăng Định đang trong tình trạng hấp hối, không còn ăn uống được. Mãi đến vài ngày gần đây ông Định mới được "hoãn thi hành án trong 12 tháng" để trị bệnh ung thư ở giai đoạn cuối.
- Linh mục Nguyễn Văn Lý đã bị bịt miệng tại toà và xử mức án 8
năm. Đã bị tai biến mạch máu não và tê liệt, nhưng vẫn tiếp tục bị
giam giữ.
Về tự do báo chí: theo bảng xếp hạng năm 2013, của tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới, trên tổng số 180 nước trên thế giới, Việt Nam đứng thứ 174, Trung Quốc (175), Bắc Triều Tiên (179), Sudan (172), Iran (173), Somalia (176), Syria (177).
Chính quyền đã gia tăng đàn áp, kiểm duyệt thông tin, tăng cường kiểm soát Internet, hạn chế tự do báo chí với nhiều vụ bắt giữ và xét xử bất công. Bộ máy nhà nước Việt Nam rất sợ sự thật.
Việt Nam vẫn là nhà tù đứng hàng thứ hai trên thế giới đối với các blogger và công dân mạng, hiện có 34 blogger đang bị giam giữ. Tháng 09/2013, đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến thêm một bước trong việc đàn áp quyền tự do thông tin, với việc ban hành nghị định 72, 174, cấm các trang blog và trang mạng xã hội tổng hợp và chia sẽ các thông tin thời sự.
+ Không có ai (cơ chế, tổ chức) nào đứng ra bảo vệ người dân
Tình trạng dân oan: Do không được ai đứng ra bảo vệ, người dân phải tự lo lấy, tự đấu tranh, những tiếng kêu cứu của họ rơi lạc vào sự thờ ơ của giới lãnh đạo. Tình trạng chiếm đoạt đất đai của các nhóm lợi ích, hậu quả của liên minh tiền-quyền, đã đẩy người dân bị mất đất vô cớ, hình thành nên tầng lớp dân oan ngày một đông đảo. Khi xẩy ra phong trào người dân đứng lên đòi lại đất đai thì chính quyền lại đàn áp ngày càng thô bạo, như vụ Đoàn Văn Vươn, Hải Phòng và vụ nông dân Văn Giang, Hưng Yên.
Tình trạng tham nhũng: Việt Nam là một trong những nước tham nhũng hàng đầu trên thế giới. Những vụ tham nhũng liên quan đến các quan chức cao cấp vừa bị phanh phui. Việc xét xử Dương Chí Dũng Vinalines đã tiết lộ liên hệ đến không chỉ cấp Thứ trưởng Bộ Công an Phạm Quý Ngọ, mà còn dính líu đến những quan chức lãnh đạo cao cấp hơn nữa.
Những chính sách sai lầm của lãnh đạo Việt Nam đã đẩy đất nước vào cuộc khủng hoảng toàn diện. Cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, đạo đức con người. Cái xấu xa đang dần lấn át cái tốt đẹp trong xã hội Việt Nam. Quan thì rất giàu, dân lại nghèo khó; đất nước thì không mạnh, xã hội thì suy đồi, hạnh phúc thì xa vời.
Để thay cho lời kết luận về tình hình vi phạm nhân quyền ở Việt Nam hiện nay, tôi xin dẫn một nhận xét của ông Benjamin Ismail, Giám đốc phụ trách khu vực Châu Á - Thái Bình Dương thuộc tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới: “[…] Hà Nội không thể tiếp tục lừa bịp Liên Hiệp Quốc và thế giới kiểu này nữa. Hơn ai hết, họ hiểu rõ những gì họ đang làm và những chính sách đàn áp tàn bạo mà họ đang thực hiện.”
Những suy tư và nhận định vừa trình bày đến quí vị không chỉ xuất phát từ một cá nhân đơn lẻ mà là của đông đảo nhân dân Việt Nam và ở ngay cả trong hàng ngũ các nhà lãnh đạo Việt Nam. Nhưng, do hoàn cảnh, họ chưa thể lên tiếng được. Tuy nhiên, niềm hy vọng vẫn mạnh hơn nỗi sợ hãi.
Người dân Việt Nam mong muốn một chế độ chính trị văn minh và lành mạnh, trong đó các quyền con người và các quyền công dân được tôn trọng và bảo vệ để Việt Nam hòa nhập vào với cộng đồng văn minh nhân loại. Ngay thời điểm này, tôi chỉ có một ước mơ cháy bỏng: chính quyền đương nhiệm Việt Nam hãy nghĩ đến tương lai của quốc gia. Việt Nam vẫn có thể làm như Miến Điện: bắt tay xây dựng thể chế dân chủ đa nguyên, thực hiện tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Tất nhiên, để thực hiện được khát vọng này, ngoài những nỗ lực bền bỉ của phong trào đấu tranh đòi dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam ngày một dâng cao, còn cần sự quan tâm và hỗ trợ cộng đồng quốc tế.
Những buổi kiểm điểm Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc như vừa qua và những cuộc hội thảo quốc tế như hôm nay chắc chắn có tác động tích cực lên chính quyền Việt Nam. Theo những tín hiệu mới nhất mà tôi nhận được, họ đã bắt đầu hiểu rằng thời đại mà các chế độ độc tài có thể đàn áp một cách vô tội vạ những người chỉ có tội công khai bày tỏ chính kiến đã qua rồi.
Tôi xin chân thành cảm ơn UN Watch, cảm ơn sự chú ý lắng nghe của toàn thể quý vị.
Đặng Xương Hùng
https://www.facebook.com/dang.xuonghung
TẶNG ĐẶNG XƯƠNG HÙNG
KHEN THAY SĨ KHÍ ĐẶNG XƯƠNG HÙNG
CHỨC TRỌNG QUYỀN CAO CŨNG HẤT TUNG
RŨ ÁO TỪ QUAN KHÔNG LUYẾN TIẾC
ĐÂM ĐƠN BỎ ĐẢNG... CHẲNG A TÙNG.
HƯỚNG VỀ DÂN CHỦ LÒNG SON SẮT,
KHAO KHÁT NHÂN QUYỀN DẠ NẤU NUNG!
TÂM NGUYỆN ĐẤU TRANH VÌ LÝ TƯỞNG
TỰ DO NHÂN ÁI VÀ BAO DUNG!
Hồ Công Tâm
Về tự do báo chí: theo bảng xếp hạng năm 2013, của tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới, trên tổng số 180 nước trên thế giới, Việt Nam đứng thứ 174, Trung Quốc (175), Bắc Triều Tiên (179), Sudan (172), Iran (173), Somalia (176), Syria (177).
Chính quyền đã gia tăng đàn áp, kiểm duyệt thông tin, tăng cường kiểm soát Internet, hạn chế tự do báo chí với nhiều vụ bắt giữ và xét xử bất công. Bộ máy nhà nước Việt Nam rất sợ sự thật.
Việt Nam vẫn là nhà tù đứng hàng thứ hai trên thế giới đối với các blogger và công dân mạng, hiện có 34 blogger đang bị giam giữ. Tháng 09/2013, đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến thêm một bước trong việc đàn áp quyền tự do thông tin, với việc ban hành nghị định 72, 174, cấm các trang blog và trang mạng xã hội tổng hợp và chia sẽ các thông tin thời sự.
+ Không có ai (cơ chế, tổ chức) nào đứng ra bảo vệ người dân
Tình trạng dân oan: Do không được ai đứng ra bảo vệ, người dân phải tự lo lấy, tự đấu tranh, những tiếng kêu cứu của họ rơi lạc vào sự thờ ơ của giới lãnh đạo. Tình trạng chiếm đoạt đất đai của các nhóm lợi ích, hậu quả của liên minh tiền-quyền, đã đẩy người dân bị mất đất vô cớ, hình thành nên tầng lớp dân oan ngày một đông đảo. Khi xẩy ra phong trào người dân đứng lên đòi lại đất đai thì chính quyền lại đàn áp ngày càng thô bạo, như vụ Đoàn Văn Vươn, Hải Phòng và vụ nông dân Văn Giang, Hưng Yên.
Tình trạng tham nhũng: Việt Nam là một trong những nước tham nhũng hàng đầu trên thế giới. Những vụ tham nhũng liên quan đến các quan chức cao cấp vừa bị phanh phui. Việc xét xử Dương Chí Dũng Vinalines đã tiết lộ liên hệ đến không chỉ cấp Thứ trưởng Bộ Công an Phạm Quý Ngọ, mà còn dính líu đến những quan chức lãnh đạo cao cấp hơn nữa.
Những chính sách sai lầm của lãnh đạo Việt Nam đã đẩy đất nước vào cuộc khủng hoảng toàn diện. Cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, đạo đức con người. Cái xấu xa đang dần lấn át cái tốt đẹp trong xã hội Việt Nam. Quan thì rất giàu, dân lại nghèo khó; đất nước thì không mạnh, xã hội thì suy đồi, hạnh phúc thì xa vời.
Để thay cho lời kết luận về tình hình vi phạm nhân quyền ở Việt Nam hiện nay, tôi xin dẫn một nhận xét của ông Benjamin Ismail, Giám đốc phụ trách khu vực Châu Á - Thái Bình Dương thuộc tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới: “[…] Hà Nội không thể tiếp tục lừa bịp Liên Hiệp Quốc và thế giới kiểu này nữa. Hơn ai hết, họ hiểu rõ những gì họ đang làm và những chính sách đàn áp tàn bạo mà họ đang thực hiện.”
Những suy tư và nhận định vừa trình bày đến quí vị không chỉ xuất phát từ một cá nhân đơn lẻ mà là của đông đảo nhân dân Việt Nam và ở ngay cả trong hàng ngũ các nhà lãnh đạo Việt Nam. Nhưng, do hoàn cảnh, họ chưa thể lên tiếng được. Tuy nhiên, niềm hy vọng vẫn mạnh hơn nỗi sợ hãi.
Người dân Việt Nam mong muốn một chế độ chính trị văn minh và lành mạnh, trong đó các quyền con người và các quyền công dân được tôn trọng và bảo vệ để Việt Nam hòa nhập vào với cộng đồng văn minh nhân loại. Ngay thời điểm này, tôi chỉ có một ước mơ cháy bỏng: chính quyền đương nhiệm Việt Nam hãy nghĩ đến tương lai của quốc gia. Việt Nam vẫn có thể làm như Miến Điện: bắt tay xây dựng thể chế dân chủ đa nguyên, thực hiện tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Tất nhiên, để thực hiện được khát vọng này, ngoài những nỗ lực bền bỉ của phong trào đấu tranh đòi dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam ngày một dâng cao, còn cần sự quan tâm và hỗ trợ cộng đồng quốc tế.
Những buổi kiểm điểm Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc như vừa qua và những cuộc hội thảo quốc tế như hôm nay chắc chắn có tác động tích cực lên chính quyền Việt Nam. Theo những tín hiệu mới nhất mà tôi nhận được, họ đã bắt đầu hiểu rằng thời đại mà các chế độ độc tài có thể đàn áp một cách vô tội vạ những người chỉ có tội công khai bày tỏ chính kiến đã qua rồi.
Tôi xin chân thành cảm ơn UN Watch, cảm ơn sự chú ý lắng nghe của toàn thể quý vị.
Đặng Xương Hùng
https://www.facebook.com/dang.xuonghung
TẶNG ĐẶNG XƯƠNG HÙNG
KHEN THAY SĨ KHÍ ĐẶNG XƯƠNG HÙNG
CHỨC TRỌNG QUYỀN CAO CŨNG HẤT TUNG
RŨ ÁO TỪ QUAN KHÔNG LUYẾN TIẾC
ĐÂM ĐƠN BỎ ĐẢNG... CHẲNG A TÙNG.
HƯỚNG VỀ DÂN CHỦ LÒNG SON SẮT,
KHAO KHÁT NHÂN QUYỀN DẠ NẤU NUNG!
TÂM NGUYỆN ĐẤU TRANH VÌ LÝ TƯỞNG
TỰ DO NHÂN ÁI VÀ BAO DUNG!
Hồ Công Tâm
LÃO HỦ * CHUYỆN QUÊ NHÀ
CHUYỆN QUÊ NHÀ
Khi nhà giáo Nguyễn văn Trung lên tiếng
Nhà giáo Nguyễn Văn Trung là người đươc linh mục Cao Văn
Luận cất nhắc dođó bằng cấp chẳng
ra sao nhưng làm mưa làm gió ở Đai Học Huế,sau đó qua sự móc nối của Nhà
văn Thế Nguyên một tay
sai của cộng sản hết ra tạp chí
Văn Mới tap chí Trình Bấy tạp chí Đất Nước tạp chí
Hành Trình tuyên
truyền cho Cộng Sản.Sau 30 tháng
tư Nguyễn Văn Trung tưởng bở nhưng chẳng ăn cái
giải gì vì đến như Thế Nguyên
còn bị cho rơi nên
xin làm trí vận ở hải ngoại sang đinh cư tại Canada.Khi nhà văn Võ Phiến xuất bản bộ sách Văn Học Miền Nam Nguyễn Văn
Trung đã"" Tác dăng nổi
giân"" viết một bài dài
chê bai Võ Phiến đủ thứ nhất là trách Võ Phiến không viết nhiều về nhóm Trình
bấy về các tap chi Trình Bấy Văn Mới Hành
Trình Đất Nước của nhóm này.Ly kỳ nhất là
Nguyễn Văn Trung tiết lộ chuyện ông Nguyễn Linh phó giám
đốc nhà xuất bản Sự Thật đem bộ tiểu
thuyết Loan Mắt Nhung của tác
giả Nguyễn Thụy Long ra yêu cầu nhà thơ Tố Hữu đoc và cho ý kiến vì theo Nguyễn Linh bộ tiểu thuyết Loan Mắt Nhung là bộ tiểu thuyết tiêu biểu cho Văn Học Miền Nam.Tố
Hữu đọc xong bộ tiểu thuyết Loan Mắt Nhung đã tuyên bố miền Băc chưa có nhà
văn nào viết đươc bộ tiểu thuyết cỡ
Loan Mắt Nhung.Theo Nguyễn Văn Trung thì
miền Băc có nhiều nhà văn cỡ Nguyễn Thụy Long nhưng
không có được Loan Mắt Nhung vì đường lối văn nghệ miền Băc
quá khắt khe
Gíao sư Cao
Huy Thuần bốc thơm thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Gíao sư Cao
Huy Thuần tức nhà báo Ba Cao ngoa ngoắt của báo Lập Trường thập niên 60 ở Huế vừa viết một bài đươc báo mạng Quê
Choa trích lại gây sôn sao dư luận
Mở đầu bài
báo này giáo
sư Thuần chê trách tư tưởng Đảng lãnh đao và dân chủ tập trung là tư tưởng toàn trị của một nhúm người dưới thời Staline ở
Nga chứ không phải dưới thời Lê
nin.Chính cái tư tưởng này
làm tan rã Liên Xô và
khối Đông ÂuGíáo sư Thuần
dẫn lời cố chủ tịch quốc hội Lê
Quang Đạo nói""Tachỉ
có lý luận về Đảng trong thời kỳ
cướp chánh quyền,chưa có lý luận về Đảng sau khi co chính quyền.Thế là Đảng bỏ mất vai trò tiên phong dân không tin vào Đảng nữa.Huống hồ vai trò tiên
phong lich sử ngày nay là tiên phong tiến lên
dân chủ và văn minh""
Rồi giáo sư Cao Huy
Thuần nói dứt khoát""Tương
lai ấy Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng nói
rõ trong thông điệp đầu năm bằng cách
lập đi lậplại nhiều lần sự cần thiết phải'""Đổi mới thể chế"".Phải
có thêm động lưc để lấy đà tiến triển…Nguồn động lưc đó phải đến từ đổi mới thể chế.Thủ tướng xác quyếtPhải đổi mới thể chế thì mới cạnh tranh được với thế
giới ngày nayVà nói
thêm Năng lưc cạnh tranh được quyết
định nởi nhiều yếu tố trong đó
có chất lượng thể chế là một trong hai yếu tố quan trọng
hàng đầu""
""Dân chủ vừa là
mục tiêu vừa là động lưc...Dân chủ là xu thế khách
quan trong tiến trình phát
triển của xã hội loài người.Dân chủ và
Nhà nươc pháp quyền là
cặp song sinh trong một thể chế chánh
trị hiện đại.Thể chế chánh trị tôi
xin lậplại.Và hiện đại nữa
Chắc chắn nhân dân sẽ không quên hứng khởi đầu năm này và
sẽ lập lại trong xuốt nẵm như một lời cam kết quân tử""ngôn hành hợp nhất""
Bốc thơm thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng như giáo sư Cao Huy Thuần đúng là
""số dách""rồi xứng đáng đươc gắn""mề
đay""
Nhà báo Bùi Tín
đặt vấn đề
Nhà báo Bùi Tín
nguyên phó Tổng biên
tập báo Nhân Dân,người đang sống lưu vong tại Paris viết trên Blog và đươc đài
Tiếng Nói Hoa Kỳ phổ biến nguyên văn như sau""Suốt
một tháng nay dư luận trong nước không
ngớt bàn luận về bản thông điệp đầu
năm của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.Ý kiến ca ngợi không nhiều,ý kiến dè dặt khá đông,số người hoài nghi không thiếu.Xét về nội dung,có thể dễ dàng khẳng định bản thông điệp rất hay,khá đầy đủ.,rất xâu sắc,làm nức lòng người.Chỉ còn
là chuyện có thưc hiện hay không,thưc hiện đến mức nào,biến thành hành
động và kết quả ra sao
Suy nghĩ kỹ ra thì
quả cực khó.Chỉ có một điều kiện duy nhất là Thủ Tướng lần này không hứasuông như khi hứa""chống
tham nhũng quyết liệt,nếu không sẽ từ chức ngay"".Thủ tướng sẽ trung
thực,nhất quán với chính mình,cố gắng thuyết phục bộ chánh trị và
quốc hội đồng tình nhất trí cao với thông điệp.Cho dù bộ chánh trị và
quốc hội có do dự,lừng
khừng,thủ tướng vẫn kiên trì vững chí cùng
nhân dân thực hiện ,được đai khối trí
thức,nông dân làm hậu thuẫn
rộng lớn xoay chuyển hẳn tình
hình,sẽ được toàn dân hết lòng ủng hộ làm nên
chuyện phi thương làm nên lịch sử
Từ Bùi Tín tới Nguyễn Trung
Nguyễn Trung từng là đai sứ nước CHXHCNVN ở Thái Lan cố vấn của các thủ tướng Võ Văn Kiệt,Phan Văn Khải,viết báo hoan nghênh thông điệp đầu năm 2014 của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.Theo Bùi Tín thì ông Trung đã suy nghĩ miên man về văn kiện này,do đây là sự sống còn của đất nước.Ông nói lên sự băn khoăn của bạn bè trong cuộc gặp đầu năm'""nghi ngờ là tâm trạng phổ biến""..Ông mạnh dạn cảnh báo rằng chớ có chơi chữ,nói cho hay rồi để đấy,""sẽ trắng tay,rất nguy hiểm"".Ông cho rằng thủ tướng không thể một mình làm những nội dung trên,toàn đảng phải nhận ra để cùng toàn dân thực hiện trong sự nghiệp quyết liệt này.Đây là cuộc đấu tranh gay gắt,không có nền dân chủ cho không,không có bữa ăn dân chủ miễn phí
Nguyễn Trung từng là đai sứ nước CHXHCNVN ở Thái Lan cố vấn của các thủ tướng Võ Văn Kiệt,Phan Văn Khải,viết báo hoan nghênh thông điệp đầu năm 2014 của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.Theo Bùi Tín thì ông Trung đã suy nghĩ miên man về văn kiện này,do đây là sự sống còn của đất nước.Ông nói lên sự băn khoăn của bạn bè trong cuộc gặp đầu năm'""nghi ngờ là tâm trạng phổ biến""..Ông mạnh dạn cảnh báo rằng chớ có chơi chữ,nói cho hay rồi để đấy,""sẽ trắng tay,rất nguy hiểm"".Ông cho rằng thủ tướng không thể một mình làm những nội dung trên,toàn đảng phải nhận ra để cùng toàn dân thực hiện trong sự nghiệp quyết liệt này.Đây là cuộc đấu tranh gay gắt,không có nền dân chủ cho không,không có bữa ăn dân chủ miễn phí
Ông Nguyễn Trung cuối cùng
khuyến khích nhân dân cả nước""hãy
túm lấy thông điệp"" bắt
tay cùng thực hiện coi đây là thời cơ đột phá xây dựng thể chế mới và nền dân chủ có
thưc chất,để tuột mất thời cơ này
sẽ mất hết trắng tay
Cuối năm con rắn giã từ bốn ngươi bạn
Cuối năm con rắn Lão Hủ mất bốn ngươi bạn văn bạn báo đó là
nhà thơ Phổ Đức nhà thơ Châu Sơn Thái Vị Thủy nhà thơ Nhị Thu và
nhà báo Nguyễn Sĩ Hưng.Nhà thơ Phổ Đức thì
an táng tại nghĩa trang Gò Dưa [Thủ Đưc Saigon]nhà thơ Châu Sơn Thái Vị Thủy thì hỏa thiêu
tại nghĩa trang Bình Hưng Hòa,nhà thơ Nhị Thu thi antáng tại Mỹ,nhà
báo Nguyễn Sỹ Hưng cũng an táng tại Mỹ.Nhà thơ Nhị Thu từng đươc tác giả Uyên
Thao bốc thơm gọi là thi sĩ lớn của
thời đai nhưng sau khi đi tù
cải tạo về [ vì là sĩ quan cấp tá
quân đội VNCH] đã không nhìn
mặt Uyên Thao coi Uuyên Thao là tên
lừa thầy phản bạn sang Mỹ cũng từ mặt Uyên
Thao luôn.Nhà báo Nguyển Sĩ Hưng từng phụ trách bài vở cho cơ quan ngôn luận của Hội Khổng Học như các tờ Minh Tân và Sinh Lưc vượt
biên sang Mỹ rất sớm vì tránh
sư truy lùng của điệp vien cộng sản Nhị
Hồ và là chỗ dựa cho Uyên
Thao sống múa may quay
cuồng,thế mà Nguyễn Sĩ
Hưng qua đời Uyên Thao làm
như người xa lạ
Pháp Luân công
""quậy""
Pháp luân công ở
VN lúc 9giờ 30 phút ngày
14 tháng 1 năm 2014 kéo tới lăng Hồ Chí Minh ở Ba Đình Hànội
căng biểu ngữ gọi Hồ Chí Minh là ma vương và Đảng Cộng Sản VN là quỉ đảng rồi quay phim đưa lên Internet.Chưa hết 3 tháng 2 năm 2014lúc
10 giờ sáng Chính
Vương của Pháp Luân Công ở
VN là Nguyễn Doãn Kiên cho căng biểu ngữ tố cáo Hồ Chí
Minh là Ma Vương và Đảng CSVN Là
quỉ Đảng rồi vác búa ta đập lăng Hồ Chí MinhDĩ nhiên cả hai vụ Pháp
Luân công""quậy"" đều bị công an dẹp nhưng hình ảnh các
vụ Phap luân công""quậy"" đều đươc đưa lên internet và
thiên hạ xem ai cũng hà hê
Chuyện nhân sự ở VN sau đai hội 12 Đảng CSVN
Trên mạng
internet mấy ngày nay thiên hạ dự đoán nhân sự lãnh đao
Đảng CSVN và nước CHXHCNVNsau đai hội Đảng CSVN lần thư 12 có tới ba danh sách
Danh sách 1
Chủ tịch nước kiêm
Tổng bí thư Đảng CSVN ông Trương Tấn
Sang
Thủ tướng chánh
phủ ông Nguyễn bá Thanh hoăc ông
Hoàng Trung Hải
Chủ tịch Quốc Hội bà
Nguyễn Thị Kim Ngân
Trưởng ban nội chính
ông Phạm Quang Nghị hoăc ông Nguyễn bá
Thanh.Trong trương hợp ông Thanh làm
thủ tướng thì chắc chắn ông
Nghị làm trưởng ban Nội Chính
Danh sách 2
Chủ tịch nước Nguyễn Phú
Trọng
Tổng bí thư ĐCSVNông
Trương Tấn SangThủ tương chánh
phủ ông Nguyễn bá Thanh hoặc ông
Hoàng Trung Hải
Chủ tịch quốc hội bà
Nguyễn Thị Kim Ngân
Trương ban Nội Chính
ông Nguyễn bá Thanh hoặc ông
Phạm Quang Nghị
Danh sách 3
Chủ tịch nước bà Nguyễn Thị Kim Ngân hoăc ông Phùng Quang Thanh
Tổng bí thư ông
Nguyễn Tấn Dũng
Thủ Tướng chính
phủ ông Vũ Đưc Đam
Chủ tịch quốc hội bà
Nguyễn Thị Kim Ngân hoăc ông Phùng
Quang Thanh
Cái ly kỳ là cả ba danh sách đều có
tên bà Ngân vì
bà Ngân là nhân vật nổi trội có ảnh hưởng cả trong ba nhóm ngừơi nhiều quyền lực trong
Đảng CSVN
Chuyện ly kỳ
Trên mạng
internet hiện đang loan truyền chuyện Sáu
búa Lê Đưc Thọ sau khi giết xong Phạm Hùng để triệt bớt quyền lực Nguyễn Văn Linh thì Nguyuễn Văn Linh quyết tâm
ngăn Võ Văn Kiệt lên thay Phạm
Hùng nhưng kẹt nỗi theo hiến pháp thì
chủ tịch Hội Đồng bộ trưởng chết phó
chủ tịch Hội Đồng bộ trưởng thường trưc là
Võ Văn Kiệt thay thế sau đó
quốc hội sẽ bầu người thay thế.Tổng bí
thư Nguyễn Văn Linh không chấp nhận Võ Văn Kiệt làm Chủ Tịch Hội
Đồng bộ trưởng mà muốn Đỗ
Mươi làm chức này bèn
vận động các cố vấn Phạm
Văn Đồng và Lê Đưc Thọ đưa Đỗ Mười đang là phụ tá Tổng bí
thư vào ngôi vị thủ tướng,Phạm Văn Đồng
nói Đỗ Mười chỉ phá chứ làm
gì đươc Lê Đưc Thọ thì ủng hộ Đỗ Mười thế là
Đỗ Mười làm thủ tướng rồi sau thay Nguyễn
Văn Linh làm Tổng bí thư Võ Văn Kiệt phải chậm 5
năm mới làm đươc thủ tướng.Khi Võ Văn Kiệt
lên làm thủ tướng Nguyễn Văn Linh vẫn không ngừng chơi Võ
Văn Kiệt,Nguyễn văn Linh tác
động công an làm ra hai vụ án Dương Văn Ba và bộ trưởng Hải,bỏ tù hai nhân vật thân cận của thủ
tướng Kiệt
.Rồi khi Đỗ Mười bị Lê Đức Anh hạ người ta cứ tưởng Võ Văn Kiệt lên Tổng bí thư nhưng lại bị Nguyễn văn Linh đem lá thư của Kiệt gửi bộ chánh trị do Nguyễn Trung chấp bút cản mũi kỳ đà đưa Lê Khả Phiêu làm Tổng bí thư.Khi Lê Đức Anh hạ Lê Khả Phiêu ai cũng tưởng Võ Văn Kiệt sẽ làm Tổng bí thư nhưng Nguyễn Văn Linh phá ủng hộ Nông Đức Mạnh và quyết hạ Võ Văn Kiệt .Võ Văn Kiệt mất chức thủ tướng nhưng vạch mặt Nguyễn Hà Phan ủy viên bộ chánh trị thương trực ban bí thư là nhân viên tình báo Mỹ khiến Phan mất Đảng đi tù và kịp ""cài"" Phan Văn Khải thay , thế là chính phủ Kiệt không có Kiệt đã tồn tại dù Khải làm thủ tướng có một nhiệm kỳ rưỡi nhưng Kiệt đã sắp xếp để người của Kiệt là Nguyễn Tấn Dũng thay Kiệt lãnh đao chánh phủ Võ Văn Kiệt không Võ Văn Kiệt dù Kiệt bị giết.Điều đáng chú ý là trước khi rời cõi thế Nguyễn Văn Linh đã cho thư ký riêng là Hoàng Dũng công bố lý lich Nguyễn Tấn Dũng là con chợ đen của đai tướng Việt Cộng Nguyễn Chí Thanh
.Rồi khi Đỗ Mười bị Lê Đức Anh hạ người ta cứ tưởng Võ Văn Kiệt lên Tổng bí thư nhưng lại bị Nguyễn văn Linh đem lá thư của Kiệt gửi bộ chánh trị do Nguyễn Trung chấp bút cản mũi kỳ đà đưa Lê Khả Phiêu làm Tổng bí thư.Khi Lê Đức Anh hạ Lê Khả Phiêu ai cũng tưởng Võ Văn Kiệt sẽ làm Tổng bí thư nhưng Nguyễn Văn Linh phá ủng hộ Nông Đức Mạnh và quyết hạ Võ Văn Kiệt .Võ Văn Kiệt mất chức thủ tướng nhưng vạch mặt Nguyễn Hà Phan ủy viên bộ chánh trị thương trực ban bí thư là nhân viên tình báo Mỹ khiến Phan mất Đảng đi tù và kịp ""cài"" Phan Văn Khải thay , thế là chính phủ Kiệt không có Kiệt đã tồn tại dù Khải làm thủ tướng có một nhiệm kỳ rưỡi nhưng Kiệt đã sắp xếp để người của Kiệt là Nguyễn Tấn Dũng thay Kiệt lãnh đao chánh phủ Võ Văn Kiệt không Võ Văn Kiệt dù Kiệt bị giết.Điều đáng chú ý là trước khi rời cõi thế Nguyễn Văn Linh đã cho thư ký riêng là Hoàng Dũng công bố lý lich Nguyễn Tấn Dũng là con chợ đen của đai tướng Việt Cộng Nguyễn Chí Thanh
Vương Trí
Nhàn anh nhà báo
được đào tạo tại Nga về nước khệnh khạng
vô làng văn hết chê NguyễnTuân lại
bài bác Nguyễn Khải,Về Nguyễn Khải Vương Trí Nhàn né
tập tùy bút Tôi đi tìm cái
tôi đã mất tác phẩm để đới
của Nguyễn Khải và cũng là tác phẩm tâm huyết nhất của nhà văn này.Bởi
vì Vương Trí Nhàn
nếu viết về Tôi đi tìm cái
tôi đã mất của Nguyễn Khải thì
khó ăn khó nói
quá Đảng và chủ nghĩa Mác
Lê tanh banh cả rồi ,còn gì mà
bấu víu
Ông lãnh sư bỏ Đảng
Lần đâu tiên
trong ngành ngoại giao của nước
CHXHCNVNcó một ông lãnh sự 30 tuổi đảng
dó là ông ông Đăng Hưng Xương từng
làm tới vụ phó tại bộ ngoại giao nước CHXHCNVN và làm
lãnh sự tại Gnève Thụy Sỹ đúng lúc Đảng và
chánh phủ nước CHXHCNVN kiểm điểm
về nhân quyền tại Hội Đồng Nhân Quyền Liên
Hiệp Quôc mà CHXHCNVN là thành viên.Ông
Xương chỉ tuyên bố mỗi một
câu ông hết chịu nổii Đảng khi Đảng bắt quôc hội thông qua bản hiến pháp mới 2013 của nước CHXHCNVN
Rồi đời Nguyễn Quang Sáng
Sau khi nhâm nhi mấy li Nguyễn Quang Sáng lên
võng ngủ trưa và lúc 16 giờ 15 phút chiều 13 tháng 2 vơ Nguyễn Quang Sáng thấy chồng ngủ trưa hơi lâu lại đánh thức thì Nguyễn Quang Sáng
đã nghẻo lúc nào không biết chết cừng đơ trên võng.Nguyễn Quang Sáng văn nô của Việt Cộng tuy không
nổi bằng Anh Đức nhưng cũng đươc giải Hồ Chí
Minh vì có nhửng cuốn tiểu thuyết bôi bác Phật Gíao
Hòa Hảo và Đức Thầy Huỳnh Phú
Sổ như Dòng sông thời thơ ấu và Dòng sông sáng
Cuộc đời Nguyễn Quang Sáng
là cuôc đời hoang tưởng Sáng dám hoang tưởng ra chuyện tình với nữ nghệ sỉ Kim Chi và
có con với nữ nghệ sĩ này khiến Kim Chi Tác giăng nổi giận làm cho Nguyễn Quang Sang tối
tăm mặt mày trốn chui trốn nhủi mấy tháng trời
Thơ Trần Nhương
Trần Nhương làm
thơ không hay nhưng năm, 2009 ông có
bài thơ Lời mẹ được nhiều người
ngâm nga tán tụng.Để rộng
đường dư luận Lão Hủ xin trích
lại nguyên văn
Lời mẹ
Mẹ tôi nói
Bố các con liệt
sĩ Điện Biên
Anh các con liệt
sĩ Khe Sanh đường Chín
Em các con liệt
sĩ Đồng Đăng xứ Lạng
Đều vì nước hi
sinh
Đều vì con Hồng cháu Lạc
Sao các con lòng đen dạ bạc
Đứa chết ở Đồng Đăng chẳng nhắc lại bao giờ
Ba mươi năm rồi đó
Hay em nó
chết chui?
Hay em nó
hi sinh không chính đáng?
Lũ chúng mày mở mày mở mặt
Sống dư thừa nhờ cái
chết bao người
Cả cái chết cũng
bất công đến thế….
Lòng mẹ đau biết
nhắm mắt sao đây
Hội cựu tù
nhân lương tâm VN
Cuối cùng thì bác sĩ Nguyễn Đan Quế và linh mục Phạn Văn
Lợi ngày 18 tháng 1 đã cùng
với một số cựu tù nhân lương
tâm phát hành tuyên
Cáo thành lập Hội Cựu tù
nhân lương tâm VN.Bản tuyên cáo trước hết đòi nhà
cầm quyền VN phải tha ngay tất cả tù
nhân lương tâm mà họ đang
giam giữ.đồng thời đối xủ với tất cả những tù
nhân lương tâm theo đúng công ước
về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc
mà VN đã ký kết
Tiết lộ động trời
Theo tiết lộ của Thông Tấn xã Vàng Anh thì
hai phiếu không đồng ý thông qua bản hiến pháp
2013 của Đảng CSVN tại quốc hội là
phiếu của đại biểu Dương Trung Quôc và
đai biểu quốc hội Nguyễn Tấn Dũng
Chuyện khó
tin nhưng có thật
Theo báo Dân Trílãnh đao cũ Ủy ban nhân dân
huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh nghe thầy phong thủy nói vì
cái cổng trụ sở huyện là nới củatà khí
vô nên không lãnh đao nào
ngồi lâu đươc muốn tránh tình trạng này phải dựng núi
đá lấp cổng huyện chỉ cho đi cổng phụ thôi.Kết quả là
lãnh đao huyện đã xã hội hóa
việc dựng núi đá mất tới ba năm trời.Kết quả dựng
núi đá lấp cổng huyện xong lãnh đao cũ vẫn phải ra đi lãnh đao mới lên thấy dựng núi đá
lấp cổng huyện làm phiền hà dân chúng quyết định dẹp núi đá
mở lại cổng chính của huyện
nhưng không xã hội hóa chuyện này mà lại trích
ngân sách mấy trăm triêu để làm.Đúng
là chuyện khó tin nhưng có
thật,thế mà ông chủ tịch tỉnh Hà
Tĩnh lại phán rằng chuyện
vặt không có gì phải bàn tán
Nhà thơ Chu Trầm
Nguyên Minh không còn nữa
Nhà thơ Chu Trầm
Nguyên Minh là tác
gia sáng tác trước năm 1975 từng xuất bản 3 tập thơ [có thơ đươc Vũ Thanh An phổ nhạc],ông
tên khai sinh là Phạm Minh Tâm,một nhà giáo
dạy toán quê Bình Thuận vừa qua đơi tại tư
gia chiều 19 tháng 2 năm
2014 và sáng 23 tháng 2 đươc an táng tại nghĩa trang Hoa viên Bình Dương.Chu Trầm Nguyên Minh sau 1975 vẫn sáng tác
nhưng phần đông tác phẩm đươc
phổ biến ở hải ngoại
Chết chưa hết chuyện
Thương tướng Phạm Qúi
Ngọ nhân vật chính trong vụ án tiết lộ bí mật nhà
nước đã chết nên tòa
án Hà nội quyết định xếp vụ án nhưng các
luật sư theo dõi vụ án này nói còn
ông thiếu tướng Thanh nhận 15.000usd ông
Sơn nhận 10.000usd của ông Dũng và
đai tướng Trần Đai Quang người môi giới cho Dương Chí Dũng nhờ Phạm
Qúi Ngọ chạy áncòn
sống sờ sờ ra đó xếp vụ án thế nào được
Chuyện cái
hộ khẩu
Đỗ Hồng Sơn,học sinh lớp 11 Ạ5 trường phổ thông trung học Trần
Hưng Đạo Thanh Xuân Hà nội vì
không có hộ khẩu ở Hà nội nên
bị trường bắt nghỉ học đã viết thư cho
chủ tịch nước Trương Tấn Sang kêu
cứu có đoan như sau""Cháu chỉ mong đươc đi học nhưng bố
mẹ cháu bảo nếu phải chuyển ra trường
dân lập thì cháu phải nghỉ học vì gia đình
không có tiền đóng học phí
chocháu.Cháu viết thư này
cho Bác mong bác nói
với cô hiệu trưởng cho cháu được tiếp
tục đi học.Cháu chỉ mong
muốn vậy thôi""
Kết quả không biết chủ tịch nước Sang can thiệp thế nào mà ông phó giám
đốc sở GDĐT Hà nội Nguyễn
Hiệp Thông đã đưa em Đỗ Hồng Sơn tới học tại trường THPH Dân Lập Phan Bội Châu
gần nhà
Cái hộ khẩu không
ngờ ghê gớm thật
Bẩy dân tộc ở VN có
thể biến mất
Bộ trưởng Chủ nhiệm Ủy ban Dân Tộc Gìang Sèo Phủ vừa cho biết hiện ở VN có 16 dân tộc dưới 10.000 mà chỉ có
9 dân tộc đươc hỗ trợ còn 7 dân tộc
không đươc hỗ trợ tình trạng này
có thể 7 dân tộc này sẽ biến mất lúc nào đó
Bộ máy xóa đói giảm nghèo
ở VN mỗi năm ""ngốn""3 tỷ rưỡi đô la Mỹ
Bà bộ trưởng
Thương Binh Xã Hội Phạm Thị Hải Chuyền trước cái tin bộ máy
xóa đói giảm nghèo
ở VN mổi ngốn tới 3 tỷ rưỡi usd đã nhẩy đổng lên nói
rằng cái tin này sở dĩ có chỉ vì mỗi năm chi 3 tỷ rưỡi usd chosư nghiệp nên thiên hạ hiểu lầm là
chi cho quản lý Theo bà Chuyền chi
cho sự nghiệp là chi cho những
lãnh vưc trực tiếp hỗ trợ ví
dụ như hỗ trợ nhà ở,hỗ trơ cho vay đi học hỗ trợ tiền điện ,hỗ trợ nước sinh
hoạt Đúng là chữ với chả nghĩa,bố sư khỉ
Báo Ngươi Cao
Tuổi tố cáo ông cựu Tổng Thanh Tra Chính phủ Trần Văn Tuyền
Theo báo Ngươi Cao
Tuổi cơ quan ngôn luận của Hội Người Cao Tuổi VN thì ông
Trần Văn Truyền nguyên
bí thư tỉnh ủy Bến Tre cựu Tổng
Thanh Tra chánh phủ không
biết tiền đâu mà có một lô biệt thư to đùng ở Bến Tre và biệt thư ở quận 2 quận 7 quận
5 ở TPHCM.Theo báo Người Cao
Tuổi thì ông Truyền có biệt thự ở Sơn Đông TP Bến
Tre rộng 3 hec ta giường ngũ của vơ chồng ông trị giá nhiều tỷ đồng
Nhân chuyện này
nhà thơ Thái Bá
Tân có mấy dòng thơ khá
thú vi Lão Hủ xin trích lại nguyên văn
Ừ nhỉ sao thế nhỉ
Đảng lãnh đao độc quyền
Cán bộ do Đảng
chọn
mà toàn Đảng
viên
Tức là người tuyên thệ
Luôn tận tụy vì dân
Luôn sáng ngời
đao đức
Liêm chính và kiệm cần
Thế mà là lãnh đạo
vì sao ai cũng giầu
Dù lương chỉ
mấy triệu?
Sư giầu ấy từ đâu?
Mà giầu kinh khủng lắm
Dân không thể nào tin
Nhưng dân tai
nghe nói
và những cái mắt nhìn
Lại nữa ai cũng
biết
Lãnh đạo chức càng to
thì cái sự giầu ấy
Càng trở nên khổng lồ
Nhưng lạ nhất là chuyện
mạng đang ầm lên
chánh thanh tra chánh phủ
là ông Trần Văn Truyền
Ủy viên trung ương đảng
Còn giầu hơn đai gia
có chừng ấy biệt thự
Chừng ấy đất và nhà
Đây mới là của nổi
Vậy của chìm bao nhiêu?
nổi mà dám khoe thế
Chắc chìm nhiều rất nhiều
Ừ nhỉ sao thế nhỉ
Sao ông có thể giầu
Dù lương chỉ mấy triệu
Cái giầu ấy do
đâu?
Thanh tra là soi xét
Đi tìm ra cái sai
Đi tìm bọn tham nhũng
Vậy ông này là ai?
Chánh thanh tra chính phủ
Chừng ấy đất và nhà
Tự hỏi liệu ông ấy
Có bị đảng
thanh tra
Tự nhiên một câu hỏi
Cứ vẩn vơ trong đầu
Hay đảng như dân nói
Đảng bao che cho nhau?
Người dân đã tin tưởng
Đi theo đảng xưa nay
Vậy thì chí ít đảng
Phải làm r4õđiều này
Bác sĩ Nguyễn
Khắc Viện tự tử
Theo một bài
viết của nhà báo Lê Phú
Khải mới phổ biến trên mạng
internet thì ngay khi Liên Xô tan rã ,Đảng CSVN tuyên bố đổi mới bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đã viết
một thư ngỏ yêu cầu Đảng
CSVN giải tán vì thế ông bị lên án
là phản động.Do đó năm 1997 tổng bí thư Đảng CSVN Đỗ Mười tới
thăm ông thì ông quyết định tuyệt thưc đến chết ,và ông chết thật
Thơ Trần Mạnh Hảo về Urainna
Nhà thơ Trần
Manh Hảo vừa có bài thơ về Ucrainna rât hay Lão
Hủ xin mời quí độc giả đọc
và suy nghĩ
Kẻ bắn vào
nhân dân
Leo lẻo""nhân
dân ta""
Máu củaUcrainna
Muôn đời truy tố
hắn
hắn Yanukovich
hậu duệ Staline
Coi dân là thù địch
bắt dân làm
con tin
Hắn lệnh:biến Kiev
Thành Thiên An Môn ngay
lệnh xe tăng đè
bẹp
Cuộc biểu tình
hôm nay!
Sắt thép đã vùng lên
Máu dân lật đổ
hắn
Hắn trốn tìm
cấp trên
Thiên triều Nga
che chắn
Hắn bán Ucrainna
Lấy đồng nhân Rúp
Hà nội dù rất xa
Hắn xin nhờ đến núp
Saigon ngày
24 tháng 2-2014
Nhà báo lão thành Tống Văn Công ly khai Đảng CSVN
Nhà báo Tống Văn Công nguyên Tổng biên tập nhật báo
Lao Động của Tổng liên đoàn Lao Động
VN ngươi trên 80 tuổi đời
55 tuổi Đảng vừa tuyên bố ly khai
khỏi Đảng CSVN .Theo nhà báo Tống Văn Công Đảng CSVN không
còn đáp ứng đươc những yêu
cầu của dân tộc và thời đai nên ông ly khai Đảng một cách thanh thản
LÃO HỦ
Saturday, March 1, 2014
TS. NGUYỄN PHÚC LIÊN * BÀI HỌC UKRAINE CHO VIỆT NAM
BÀI HỌC UKRAINE CHO VIỆT NAM
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 27.02.2014
Web: http://VietTUDAN.net
Những
cuộc Cách Mạng Hoa Nhài tại Bắc Phi và
Trung Đông cách đây một số năm là do Dân NỔI DẬY để tiễu trừ những nhà độc tài.
Tất cả đều có đổ máu. Việc đổ máu ít hay
nhiều là do hai điều đến từ phía quyền lực cai trị: (i) cố thủ giữ lấy độc tài;
(ii) sử dụng bạo lực đàn áp đối với dân nổi dậy. Cuộc Cách Mạng Ukraine mới đây
nhất cũng đã có 82 người chết trong đó 72 dân nổi dậy và 10 công an. Quốc Hội
Ukraine đã lấy quyết định truy tố “tội giết người hàng loạt” của cựu Tổng Thống
Viktor Ianoukovich ra Tòa án Quốc tế La Haye. Bộ trưởng Nội vụ lâm thời Ukraine
cũng mới tuyên bố giải tán BERKUT, một tổ chức có lực lượng 4’500 công an đã có
hành động đàn áp dân và bắn giết dân bằng đạn thực.
Nếu những cuộc Cách Mạng
Hoa Nhài ở trong một xã hội Hồi giáo dưới quyền độc tài của một cá nhân, một
gia đình, thì cuộc Cách Mạng tại Ukraine xẩy ra trong một xã hội đã nhiều năm
dưới chế độ Cộng sản và những người cai trị còn mang tàng tích của những người
đã từng quen thuộc với tập quán đàn áp dân tàn nhẫn mà các chế độ Cộng sản đã
dậy họ trước đây.
Cuộc Cách Mạng của
Ukraine gần với viễn tượng NỔI DẬY của dân tộc Việt Nam hơn cả. Cuộc Cách Mạng
Ukraine cho Việt Nam chúng ta bài học nào ? Chúng tôi thuật lại cuộc Cách Mạng
này và từ đó rút tỉa ra những bài học cho Việt Nam. Chúng tôi xin đề cập những
điểm sau đây:
=> Những thời điểm quan
trọng và những ngày chót của Ianoukovitch
=> Những quyết định của
Quốc Hội Ukraine ủng hộ cuộc NỔI DẬY
=> Dân NỔI DẬY tiễu trừ
được Tổng thống, nhưng còn những vấn đề tồn đọng
=> Việc Dân tộc Việt Nam
tất yếu NỔI DẬY dù với BẠO ĐỘNG
Những thời điểm quan trọng
và những ngày chót của Ianoukovitch
Cuộc Cách Mạng Ukraine xẩy ra trong một hoàn cảnh
Kinh tế Ukraine phá sản trầm trọng mà lý
do chính là tình trạng tham nhũng tràn lan từ chính TT.Ianoukovitch đến những
nhóm cộng sự của ông. Để giải quyết tình trạng Kinh tế suy trầm đến vỡ nợ ấy, Ukraine
có thể nhờ Nga hay nhờ Liên Au. TT.Ianoukovitch dùng quyền lực độc đoán của
mình để đi với Nga, đó là nguyên nhân gần để dân NỔI DẬY phản đối. Cuộc NỔI DẬY
đã kéo dài nhiều tháng giữa mùa đông giá lạnh tại Công trường Độc Lập của Thủ
đô Kiev.
Thái độ cố chấp sử dụng những mưu mô gian xảo
tránh né, rồi cho Berkut, một tổ chức Công an do người thân tín của ông điều
hành, để thực hiện việc đàn áp bắn giết dân khiến cuộc NỔI DẬY mỗi ngày mỗi trở
thành cương quyết đi tới cùng.
Chúng ta ghi nhận những thời điểm sau đây đã làm dân càng cương quyết
(theo FINANCIAL TIMES, ngày 24.02.2014, trang 4):
* Ngày 21.11.2013: Chính
phủ Ukraine đã khép lại hồ sơ sửa soạn ký để vào Liên Au, trong khi đó lại thắt
chặt thêm mối quan hệ với Mạc Tư Khoa. Cuộc NỔI DẬY nhằm phản đối thái độ độc
đoán của TT.Ianoukovitch.
* Ngày 29.11.2013:
TT.Viktor Ianoukovitch dứt khoát từ chối việc ký hồ sơ ở thượng đỉnh với Liên
Au tại Vilnius, Lithuanie.
* Ngày 30.11.2013: Công an
đã tàn nhẫn đàn áp một sinh viên tại Công trường Độc Lập Kiev.
* Ngày 01.12.2013: Những
trăm ngàn người biểu tình tại Công trường Độc Lập kể từ cuộc Cách Mạng Mầu Cam
năm 2004. Cuộc biểu tỉnh 01.12.2013 nhằm phản đối rõ rệt việc không ký vào Liên
Au và việc sử dụng bạo lực đàn áp. Đoàn người biểu tình quyết định cắm trại tại
Công trường.
* Ngày 10.12.2013: Công an
chống nổi dậy tấn công những hàng rào của dân tại Công trường. Dân chúng đẩy
lui Công an để bảo vệ những hàng rào chắn giữ.
* Ngày 17.12.2013:
TT.Ianoukovitch ký giấy nhận sự trợ giúp USD.15 tỉ do Mạc Tư Khoa và việc giảm
30% trên giá cung cấp Khí đốt của Nga.
* Ngày 15.01.2014: Luật
phạt bỏ tù tới 15 năm những ai tham dự biểu tình.
Những quyết định của Quốc Hội Ukraine
ủng hộ cuộc NỔI DẬY
Dân chúng không lùi bước
và sợ hãi trước những đe dọa bỏ tù bằng gian xảo luật pháp. Đoàn người NỔI DẬY
tăng cường chiếm các công sở. Vào những ngày đầu tuần thứ 3 của tháng 2, Công
an Berkut núp ở các tầng nhà quanh Công trương , dùng súng đạn thiệt, bắn sẻ
vào những người biểu tình và những người cắm trại tại Công trường.
Đêm 18.02 sang 19.02.2014, một đêm điên loạn chết
chóc. Một cuộc dàn trận giữa đoàn người biểu tình và công an chống nổi dậy đã
xẩy ra khiến dân biểu tình chết đến gần 60 người. Trước tình hình chết chóc như
vậy, một số những Ngoại trưởng của Pháp, Đức, Anh, Bỉ, Ba Lan ... đến tận Kiev
để tổ chức gặp gỡ giữa TT.Inoukovitch và phe đối lập. TT.Inoukovitch ký những
lời hứa như từ chức chẳng hạn, nhưng dân chúng không tin tưởng và vẫn giữ vững
những vị trí đã chiếm đóng.
Về phía TT.Ianoukovitch:
ra đi không từ gĩa
Nhật báo LE MONDE, ngày 24.02.2014, trang 3, viết
như sau:
“Selon les médias ukrainiens, le président Viktor
Inoukovitch aurait quité Kiev après avoir signé, vendredi 21 février, l’accord
avec l’opposition. Accompagné du chef de son administration, Andrei Kliouev, et
du président du Parlement, Vladimir Rybak, M.Inoukovitch serait monté à bord de
son avion, direction Kharkiv, à l’est du pays òu le Front ukrainien, une
nouvelle formation politique proche de Moscou, doit tenir un congrès samedi.
Mais samedi matin, l’avion prèsidentiel n’avait toujours pas atterri à Kharkov
et les médfias spéculaient sur la destination finale du président, dont le plan
de vol mentionnait la Russie comme la destination finale, après une visite à
Kharkiv et à Marioupol. “ (Theo giới thông tin Ukraine, Tổng thống Viktor
Inoukovitch đã rời Kiev sau khi ký , thứ sáu 21 tháng hai, thỏa hiệp với đối
lập. Hộ tống bởi người trưởng của nội, Andrei Kliouev, và bởi chủ tịch Quốc
Hội, Vladimir Rybak, Oâng Inoukovitch lên máy bay riêng, đi hướng Kharkiv, miền
đông Ukraine, ở đây Mặt trận Ukraine, một tổ chức chính trị mới thân Mạc Tư Khoa, đang mở đại hội trong ngày
thứ bẩy. Nhưng sáng thứ bẩy, máy bay của Tổng thống vẫn chưa hạ cánh ở Kharkov và giới thông tin
dự đoán về hướng đi cuối cùng của Tổng thống, mà chương trình bay đã nói tới
Nga như hướng đến cuối cùng sau khi thăm Kharkiv và Marioupol. “
Về phía Quốc Hội:
những quyết định nhanh chóng
Trước những chết chóc, Quốc Hội Ukraine nghiêng
về phía dân. Và rất nhanh chóng, Quốc Hội Ukraine đã lấy những quyết định dứt
khoát cho tình hình. Tờ báo International New York Times, ngày 24.02.2014,
trang 16, với đầu đề LAWMAKERS TAKE CONTROL IN UKRAINE, viết:
“A day after President Viktor Yanukovych fled the
Ukrainian capital and was removed from power by unanimous vote in Parliament,
lawmakers moved swiftly on Sunday to dismantle the remaining vestiges of his
government by firing top cabinet members, including the foreign minister. With
Parliament , led by the speaker, Oleksandr Turchynov, firmly in control of the
federal government. Lawmakers began an ermergency session on Sunday by adopting
a law restoring state-ownership of
Mr.Yanukovych’s opulent presidential palace, which he has privatized.
Parliament voted to grant Mr. Turchynov authority to carry out the duties of
president of Ukraine, adding his authority to lead the government that
lawmakers has approved on Saturday “ (Một ngày sau khi Tổng thống Viktor Inoukovitch bỏ Thủ đô Ukraine và bị truất hết
quyền lực bằng cuộc bầu phiếu đồng thuận của Quốc Hội, những Dân biểu đã nhanh
chóng cất chức, vào Chúa nhật, những vết tích cuối cùng của chính phủ của ông
bằng hủy bỏ chức vụ của những thành phần nội các, gồm cả ngoại trưởng. Với Quốc
Hội, điều hành bởi Phát ngôn nhân, Oleksndr Turchynov, cứng rắn kiểm soát Chính
quyền Liên bang. Những Dân biểu đã bắt đầu cuộc họp khẩn cấp ngày Chúa nhật
bằng chấp nhận một đạo luật lấy lại Dinh
thự huy hoàng của Tổng thống về cho Quốc gia mà Tổng thống đã chiếm như tư hữu
của ông. Quốc Hội đã bỏ phiếu chấp thuận cho Oâng Turchynov những quyền điều
hành như một Tổng thống của Ukraine, chấp thuận thêm cho ông quyền điều hành
một Nội các y như đã chấp thuận ngày thứ bẩy vừa rồi.)
Ngoài ra Quốc Hội cũng quyết định trả tự do cho
Bà Julia Timochenko, lãnh tụ đảng đối lập với phía ông Viktor Inoukovitch. Thời
điểm bầu Tổng thống mới cũng được quyết định là ngày 25.05.2014.
Dân NỔI DẬY tiễu trừ được Tổng thống,
nhưng còn những vấn đề tồn đọng
Dân chúng Ukraine đã can
đảm NỔI DẬY và đã thành công trong việc tiễu trừ được Tổng thống và nhóm đảng
của ông tham nhũng làm phá sản Kinh tế. Tuy nhiên còn ba vấn đề chính yếu tồn
đọng đòi Dân chúng phải nhất trí lựa chọn giải quyết nữa: (i) vấn đề chia rẽ
Đông—Tây có thể đưa đến phân chia đất nước; (ii) Vấn đề giải quyết tình trạng
Kinh tế bằng lựa chọn Nga hay Liên Au; (iii) Lựa chọn vị Tổng thống tương
lai khả dĩ thỏa mãn hai vấn đề trên đây
Vấn đề chia rẽ
Đông—Tây
có thể đưa đến phân
chia đất nước
Dân chúng Miền Đông Ukraine nói tiếng Nga và có cùng
nền văn hóa Nga. Khuynh hướng của Miền Đông là không vào với Liên Au. Lãnh đạo
của khuynh hướng này là vùng Crimea. Phía Tây phương lo ngại rằng TT.Nga Putin
có thể trợ lực vùng Miền Đông, ngay cả bằng võ khí, để có thể chống lại khuynh
hướng vào Liên Au của Dân chúng Miền Tây Ukraine. Điều nguy hiểm nhất là một
cuộc chiến tranh xẩy ra để có thể đi đến chỗ phải phân chia đất nước. Phía Tây
phương, hai Quốc gia như ngầm được chỉ định để cản ngăn vấn đề này, đó là nước
Đức và Ba Lan. Bà Thủ tướng Đức Angela MERKEL đã điện thoại cho TT.Putin để yêu
cầu phải tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine, nghĩa là tránh những phân
chia.
Thực ra, việc chia đôi
lãnh thổ trong Lịch sử như Việt Nam, Hàn quốc hay nước Đức chỉ là vì Ý thức hệ
trong tiến trình bành trướng từng phần lãnh thổ mà Khối Cộng sản chủ trương.
Ngày nay, vấn đề giữa Đông và Tây Ukraine không còn ý thức hệ hiếu chiến bành
trướng như thời Cộng sản trước đây.
Vấn đề giải quyết
tình trạng Kinh tế
bằng lựa chọn Nga
hay Liên Au
Vấn đề khuynh hướng thân Nga hay Liên Au trên đây
được phân tích theo khía cạnh ngôn ngữ hay văn hóa. Nhưng vấn đề Kinh tế, nhất là trong viễn
tượng phát triển xứ sở, phải được phân tích và chọn lựa theo tiêu chuẩn quyền
lợi nhận được trong ngắn và dài hạn. Ukraine đang trong tình trạng tê liệt Kinh
tế cần những giải quyết ngắn hạn cho hoàn cảnh tức thời. Nhưng vấn đề phát
triển dài hạn Kinh tế phải được nhìn trong viễn tượng thị trường tiêu thụ khả
dĩ nâng đỡ cho sản xuất của một Quốc gia.
Xét tình trạng giải
quyết cấp thời việc tê liệt Kinh tế Ukraine, thì việc chọn Nga hay Liên Au giống nhau. Nhưng nếu xét về Thị trường tiêu
thụ với mãi lực dồi dào trong tương lai, thì cái lý đúng đắn là phải chọn lựa
Liên Au hơn là đi với Nga. Thực vậy, mãi lực của Thị trường tiêu thụ Nga rất
yếu. Đa số dân chúng có mãi lực rất thấp. Chỉ có một thiểu số giầu có thì lại
gửi tài sản ra nước ngoài . Trong khi ấy, Liên Au có mãi lực tiêu thụ dân chúng
cao và rộng rãi. Thị trường tiêu thụ Liên Au còn nối liền với Thị trường tiêu
thụ Hoa kỳ. Chính vì vậy mà việc lựa chọn Liên Au là lựa chọn một tương lai
phát triển Kinh tế dài hạn.
Lựa chọn vị Tổng
thống tương lai
khả dĩ thỏa mãn hai
vấn đề trên đây
Tờ FINANCIAL TIMES ngày 24.02.2014, trang 2, đã
đưa ra danh sách những ứng cử viên sau đây có thể ra ứng cử chức vị Tổng thống
vào ngày 25.05.2014 tới này:
1) Bà Iulia TYMOSHENKO
Bà là cựu Thủ tướng và
là lãnh tụ cuộc Cách Mạng mầu Cam năm 2004
2) Vô địch quyền Anh hạng
nặng Vitali KLITSCHKO
Oâng tham dự cuộc nổi
dậy năm 2013. Năm nay 41 tuổi
3) Oâng Arseny YATSENIUK
Oâng là Luật sư/Ngân
Hàng gia. Oâng được thiện cảm của Hoa kỳ. Năm nay 39 tuổi
4) Oâng Petro POROSHENKO
Oâng là mộ tỉ phú. Năm
nay 48 tuổi. Đã từng tham gia cuộc Cách Mạng mầu Cam
5) Oâng Oleh TYAHNYBOK
Oâng là Bác sĩ Y khoa, 45
tuổi. Đã từng tham dự cuộc Cách Mạng mầu Cam 2004
Dân tộc Việt Nam buộc phải NỔI DẬY
dù với BẠO ĐỘNG
Tình trạng Việt Nam hiện
nay có những điểm khá giống với hoàn cảnh của Ukraine ở những điểm sau đây:
* Phá sản Kinh tế do một
lớp người tham nhũng. Lớp người tham nhũng của Ukraine là lớp người mang tập
quán cai trị độc tài do chế độ Cộng sản đào tạo. Tại Việt Nam, lớp cai trị,
không phải là tàng tích Cộng sản, mà
chính là Cộng sản chính hiệu., đó là điều còn tệ hơn Ukraine.
* Tương lai phát triển Kinh
tế của Ukraine mù mịt. Người dân Ukraine muốn đất nước được phát triển và đang
đi tìm lối thoát. Họ đứng giữa sự lựa chọn Nga hay Liên Aâu. Kinh tế Việt Nam
cũng cần một lối thoát. Dân chúng Việt Nam, nếu chỉ xét về phương diện phát
triển Kinh tế, thì phải dứt khoát lựa chọn Trung quốc hay Thế giới tự do. Trung
quốc có thể giải quyết cấp thời cho ngõ bí Kinh tế của CSVN hiện hành, nhưng
trong viên tượng phát triển Kinh tế VN dài hạn, thì việc chọn lựa Trung quốc là
hoàn toàn đi vào chỗ chết. Việt Nam muốn phát triển dài hạn, buộc phải đi với
Thế giới tự do mới có Thị trường rộng rãi với mãi lực dân chúng cao ở những
nước Tây phương. Nếu CSVN cố thủ đi với Trung quốc, thì đó chỉ vì cố thủ giữ
lấy quyền lực chính trị mà thôi, chứ hoàn toàn không phải là tiêu chuẩn phát
triển Kinh tế.
Dân Ukraine ý thức rõ
rệt tình trạng tê liệt của xứ sở họ và họ đã CAN ĐẢM NỔI DẬY, ĐÃ SẴN SÀNG BẠO
ĐỘNG ĐỂ ĐI TỚI CÙNG LÀ LẬT ĐỔ TỔNG THỐNG và nhóm người tham nhũng của phía ông.
Bài học NỔI DẬY VỚI BẠO
ĐỘNG TỰ VỆ của Ukraine nói với chúng ta rằng Dân Tộc Việt Nam phải biết tự mình
NỔI DẬY DÙ VỚI BẠO ĐỘNG TỰ VỆ để DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN như Dân chúng Urkaine đã
dứt bỏ Ianukovitch dù với giá máu. Tình hình Việt buộc Dân Tộc phải NỔI DẬY,
càng sơm càng cứu mình và những thế hệ tương lai khỏi cảnh nô lệ. Những lời hô
hào đấu tranh ÔN HÒA là đi ngược với thực tế tình hình Việt Nam vậy.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 27.02.2014
Web: http://VietTUDAN.net
Bài 00:
Bài MỞ ĐẦU cho Chủ đề
PHÁT HIỆN VÀ VIỄN TƯỢNG BẠO ĐỘNG
CỦA QUẦN CHÚNG NỔI DẬY
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 17.10.2013
Web: http://VietTUDAN.net
Cách đây hơn 5 năm, chúng tôi đã đọc được
những nhận định của vị Sĩ Quan VNCH HOÀNG ĐẠO THẾ KIỆT rằng tình hình Việt Nam
phải được giải quyết bằng một cuộc ĐỘT BIẾN của quần chúng, nghĩa là một cuộc
NỔI DẬY. Từ đó, chúng tôi lưu ý đến những biến chuyển đưa Dân chúng đến NỘI
DẬY.
Những biến chuyển Quốc tế hiện nay cho chúng
tôi thấy rằng tình hình Việt Nam chỉ có thể giải quyết bằng sự đối diện giữa
Dân Tộc 90 triệu người bị trị tự lực đứng lên và tà quyền đảng CSVN & đám
theo đóm ăn tàn cố thủ gian manh nắm quyền cai trị để bảo vệ những gì đã ăn
cướp được và tiếp tục ăn cướp nữa.
Những tháng gần đây, chúng ta thấy rõ những
Phong trào quần chúng Việt Nam NỔI DẬY. Những Phong trào này không phải phát
xuất mang tính cách đấu tranh chính trị
đảng phái trong nước hoặc từ những “thế lực thù địch“ ngoại lai. Thực
vậy, trong suốt những chục năm trường,
chính trị Việt Nam ở dưới một một Cơ chế độc đảng đàn áp khắt khe, làm sao có
những đảng phái khác khả dĩ thúc đẩy quần chúng. Những đảng phái cũ tị nạn tại
Hải ngoại và những đảng viên dù chỉ về thăm Việt Nam, cũng hoặc bị từ chối nhập
cảnh , bị bắt tại phi trường hoặc bị theo rõi sát trong những di chuyển. Còn
những “thế lực thù địch“ ngoại lai , thì đó chỉ là công thức gian manh lập đi
lập lại để lấy cớ đàn áp dân chúng mỗi khi họ phản đối những bất công của tà
quyền CSVN.
Những Phong trào quần chúng NỔI DẬY hiện nay
hoàn toàn là “nội hóa“ và do chính Cơ chế CSVN từ từ tạo nên trong suốt những
chục năm trường gây tội ác làm quần chúng uất ức. Từ những uất ức chất chồng
này, chúng tôi nhìn thấy viễn tượng BẠO ĐỘNG buộc phải xẩy ra như một định mệnh
phải tới.
Chúng tôi xin viết về những khía cạnh sau
đây:
=> Những
Phong trào NỔI DẬY và mầm mống phát hiện BẠO ĐỘNG
=> BẠO
ĐỘNG phải xẩy ra như một định mệnh
=> Hải
ngoại có thể làm gì hay không nên làm gì ?
Những Phong trào NỔI DẬY
và mầm mống phát hiện BẠO ĐỘNG
Sau
đây là những Phong trào đã và đang NỔI DẬY mà chúng tôi nhìn thấy trong đó mầm
mống BẠO ĐỘNG phát hiện:
1) CÁCH MẠNG
HIẾN PHÁP 2013
Cuộc Cách Mạng đã bắt đầu từ tháng 2/2013.
CSVN đã phải hoãn thời hạn hai lần về việc quyết định Hiến Pháp mới. Điểm căn
bản, nguồn gốc mọi tha hóa Xã Hội và suy thoái Kinh tế là ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP.
Cuộc CÁCH MẠNG nhất thiết đòi bỏ Điều 4 này. Nó là căn nguyên cho những cuộc
NỔI DẬY khác của quần chúng. Việc lấy Chữ Ký đòi phải bỏ Điều 4 đã lên tới con số 55’000 người gồm đủ mọi
tầng lớp xã hội từ trong nước cũng như ở nưới ngoài. Một khi Điều 4 Hiến Pháp
còn đó thì cuộc CÁCH MẠNG vẫn tiếp tục. Điều 4 Hiến Pháp đẩy cả một Dân Tộc vào
sống trong một chiếc ao tù, sống với thân phận nô lệ.
Cái sức mạnh Lịch sử phá tù ngục để sinh tồn
vẫn còn trong mỗi người dân Việt và chắc chắn trong một ngày nào đó không xa,
gông cùm CSVN không thể chịu đựng được sức mạnh vươn lên sinh tồn của toàn dân.
Cả những thời ngoại thuộc Bắc phương lâu dài phải chấm dứt, huống chi CSVN chỉ
là nội thuộc mà triệu chứng nứt rạn đã nhìn thấy qua những đảng viên lâu đời
chán ghét và bỏ đảng.
2) CUỘC NỔI DẬY
CỦA DÂN OAN CHUYỂN SANG BẠO ĐỘNG
Dân Oan đã nổi dậy cách đây 4 năm với Phong
trào Tiền Giang kéo về Sài Gòn và các Tỉnh Miền Bắc kéo về Hà Nội. CSVN không
những không giải quyết được cho Dân Oan mà còn dùng sức mạnh đàn áp dân, cưỡng
chiếm đất đại. Dân Oan trở thành uất ức.
Gia đình Ong ĐOÀN VĂN VƯƠN đã phải ném bom tự
chế. Liệt sĩ ĐẶNG NGỌC VIẾT đã công khai
mở “TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐÍCH THỰC“ để xử và hành quyết tại chỗ những tội phám ức
hiếp cướp nhà đất của dân chúng. Tuần trước đây, dân chúng vùng Hòa Bình đã bắt
trói 5 công an. Dân không còn sợ CSVN kết án hành động chống đối người thi hành
công vụ nữa.
Bà LÊ THỊ NGỌC ĐA, mộ cựu quân nhân CSVN và
cũng là Dân Oan, đã bị bắt nhốt tù 3 năm và mới được thả ra. Khi được thả ra, ý
chí Bạo Động của Bà còn mạnh hơn là trước khi bị bắt vào tù. Bà nói :
«Khi ra họ nói với tôi tiếng nói của tôi nói lên bằng 100 người bình thường
nói, nên họ ghim tôi dữ vậy. Tôi theo cộng sản từ năm 9 tuổi đến năm 26 tuổi
mới được giải quyết về sống với gia đình. Lúc đó bản thân tôi rất cần sự sống
vì tôi còn trẻ thế mà vẫn vì nước, vì dân chiến đấu; bây giờ tôi già rồi tôi
đâu cần sự sống nữa. Nhưng trong cuộc đời của tôi tôi đã cống hiến cho nhân
dân, suốt đời tôi cũng cống hiến cho nhân dân. Hạnh phúc của toàn nhân loại là
hạnh phúc của tôi, nếu họ có hạnh phúc tôi cũng có hạnh phúc.
Hạnh phúc của tôi nằm trong hạnh phúc của dân tộc. Tôi nghĩ như vậy mà
không có tiếc thương, nếu họ có còng tôi, hành hạ tôi cỡ nào thì tôi càng tự
hào vì tôi làm đúng nghĩa. Việt Nam hiện nay hội nhập quốc tế, nên tôi muốn lên
tiếng để quốc tế có sự can thiệp với Việt Nam để nhân dân chúng tôi bớt khổ. Sống
như thế nào, con người cũng phải có quyền sống, quyền tự do; nhưng tôi thấy bây
giờ những người giàu họ có quyền sống chứ những người nghèo không có quyền
sống. »
Cái mầm NỔI DẬY với BẠO ĐỘNG của Dân
Oan là lớn hơn cả. Đây là con đường mà người dân oan ức phải đi từ Phường,
Quận, Tỉnh đến Trung ương. Chúng tôi đã xuất bản 3 cuốn sách về sự OAN ỨC nổi
dậy của Dân chúng:
* DÂN
TRÊN ĐƯỜNG NỔI DẬY DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN (464 trang), xuất bản 2011, Nxb DAY &
NIGHT, Ventura, California USA.
* DÂN
OAN ỨC NỔI DẬY DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN (208 trang), xuất bản 2012, Nxb DAY &
NIGHT, Ventura, California USA.
* CÁCH
MẠNG HIẾN PHÁP 2013 (258 trang), xuất bản 2013, Nxb DAY & NIGHT, Ventura,
California USA.
Ba cuốn trách trên đây theo sát tình hình
biến chuyển tâm tình Dân chúng đến chỗ thù hận toàn diện đối với đảng CSVN.
3) CUỘC NỔI DẬY
TỰ VỆ CỦA KHỐI DÂN CÔNG GIÁO
Việc
NỔI DẬY TỰ VỆ này bắt đầu cách 3 năm từ vụ việc Tòa Khâm sứ Hà Nội, rồi Thái
Hà, Đồng Chiêm, Cồn Dầu… Mới đây nhất là vụ việc Mỹ Yên thuộc Giáo Phân Vinh. Từ
việc cưỡng chiếm đất đai Tôn giáo, CSVN đã phạm thánh với việc đập phá những
biểu tượng lòng tin Tôn giáo. Điều quan trọng nữa là đã độc đoán sử dụng hệ
thống truyền thông độc chiều để vu khống Tín hữu, nhất là Hàng Giáo phẩm. Đó là
sử dụng độc tài mà cái nguồn là Điều 4 Hiến Pháp cho phép. Khối Công Giáo có thể tiến tới việc thành lập
đội ngũ TỰ VỆ như trước đây Giám mục LÊ HỮU TỪ và Linh mục HOÀNG QUỲNH buộc
phải làm để bảo vệ những biểu tượng Tôn giáo, Hàng Giáo Phẩm và chính bản thân
Tín hữu. Quyền TỰ VỆ là quyền tự nhiên ở bất cứ loài sinh vật nào.
Người
dân Công Giáo trên đường đi đến nơi tụ họp cầu nguyện, họ không hô những khẩu
hiệu kích động, nhưng nếu nhìn những CÁN CỜ, CÁN BIỂU NGỮ lớn và chắc nịch,
chúng ta thấy đây là chủ ý sửa soạn một cuộc TỰ VỆ bằng BẠO ĐỘNG khi Công an
CSVN hay đám côn đồ đánh thuê nhẩy vào tấn công đoàn diễn hành bất bạo động.
4) CUỘC NỔI DẬY
CỦA TRÍ THỨC ĐÒI THÀNH LẬP ĐẢNG ĐỐI LẬP
VÀ ĐÒI THỰC THI QUYỀN DÂN SỰ
Từ
nhiều năm nay, Trí thức Việt Nam quốc nội đấu tranh bằng Kiến Nghị, nhưng đảng
CSVN đã bỏ sọt rác, coi khinh Trí thức. Ngày nay tầng lớp Trí thức Việt Nam
quốc nội được tăng cường bởi những đảng viên từ bỏ đảng CSVN. 72 Trí thức đã
công khai ký Kiến Nghị sửa đổi Hiến Pháp trong đó Điều 4 Hiến Pháp phải được bỏ
đi. Cựu đảng viên Ls LÊ HIẾU ĐẰNG đòi lập Đảng đối lập. Và gần đây nhất, 130
Trí thức ký bản TUYÊN BỐ THỰC THI QUYỀN XÃ HỘI DÂN SỰ và nhất quyết lập DIỄN
ĐÀN XÃ HỘI DÂN SỰ.
Trong số những Trí thức này, một số đông là
những người bỏ đảng và đã quen với việc sử dụng bạo động. Nếu việc đòi hỏi của họ tiếp tục bị khinh khi
và chính thân xác họ bị đàn áp, họ có thể trở thành bạo động và tất nhiên được
sự tiếp tay cụ thể của quần chúng nông dân oan ức với Liềm có sẵn và của công
nhân với Búa đang trong tay!
5) ĐỐT NHỮNG
KHO HÀNG TẦU
Cuộc
xâm lăng Kinh tế từ Trung quốc tràn lan khắp nước. Hàng Trung quốc tràn ngập
khiến doanh nghiệp Việt Nam trở thành cơ sản bán hàng cho Trung quốc. Trương
Tấn Sang mới sang Trung quốc ký kết nhất trí gia nhập Tổ chức Tự do Mậu dịch
giữa Trung quốc và ASEAN. Tổ chức được
gọi là CAFTA (Chian Asean Free Trade Agreement). Điều quan trọng là những hàng
độc hại Thục phẩm và Thuốc tràn vào Việt Nam để giết dân chúng trong lâu dài.
Nhà Nước Việt Nam làm tay sai cho quan thầy Trung quốc và hoàn toàn thả lỏng
việc tràn lan này, thậm chí ai nói đến xâm lăng từ Trung quốc là bị đàn áp. Các
doanh nghiệp Việt Nam bị xâm lăng Kinh tế Trung quốc tàn hại. Dân chúng bị hàng
độc hại giết chết trong thời gian. Doanh nghiệp và Dân chúng cũng có quyxền TỰ
VỆ bằng cách đốt những kho hàng Tầu giống như Tây phương đã phải thiêu hủy
những thứ hàng làm hại sức khỏe dân chúng.
BẠO ĐỘNG phải xẩy
ra như một định mệnh
Chúa
Giêsu cách đây hai ngàn năm đã đi giảng thuyết về lòng nhân ái, lòng tha thứ,
bất bạo động trước một quyền lực quân đội lấy giết người để mở Đế quốc La-Mã.
Nhưng Ngài đã một lần lấy roi quất những cánh con buôn, đạp đổ những quầy hàng
của họ trong Đền Thánh Jérusalem vì thấy những kẻ buôn bán gian xảo sử dụng Đền Thờ như nơi trộm cướp tội lỗi. Ngài làm
BẠO ĐỘNG để bảo vệ sự thánh khiết nơi Đền Thờ.
Chúng
tôi rất đắc ý với câu chuyện ngụ ngôn đứa trẻ buộc phải BẠO ĐỘNG mà Đức Giám
Mục Kontum kể trong bài giảng của Ngài. Một người lớn cậy sức mạnh ức hiếp một
đứa trẻ con vốn yếu đuối và sợ hãi người lớn đầy sức mạnh hung ác. Một hôm
người lớn đó nhấn đứa trẻ xuống nước. Đứa trẻ rán chịu đựng rồi nhoi lên thở.
Người lớn lại nhấn nước đứa trẻ lần thứ hai. Đứa trẻ vì sợ sệt nên cũng ráng
nín hơi chịu đựng rồi nhoi lên thở được. Người lớn lại nhấn nó xuống nước lần
thứ ba. Đứa trẻ muốn kiên nhẫn ráng chịu nữa. Nhưng lần này nó thấy yếu sức có
thể bị chết ngộp, nên nó gồng sức vào hai chân đạp thật mạnh vào người lớn để
nhô lên trên mặt nước cứu sống mình. Nó đã làm BẠO ĐỘNG để cứu sống mình.
Trong
những vần Thơ của Thương binh NGUYỄN CUNG THƯƠNG, chúng tôi cũng thấy người
thương binh đã chịu đựng những cảnh khổ uất ức để rồi viết lên vần Thơ kêu gọi
đồng đội từ nước ngoài, vốn khuyên anh hãy kiên nhẫn “bất bạo động“ để “tháo gỡ
độc tài“ giống như đảng Việt Tân kêu gào như khẩu hiệu, gửi súng cho anh để anh
làm BẠO ĐỘNG dù phải chết. Anh viết:
GỬI SÚNG CHO TAO
Nguyễn Cung Thương, Sàigòn, VN
Tao cụt một chân một tay,
Nhưng còn một
tay
Viết thư giùm
cho thằng mù hai mắt
…………………
Có điều tao
không thể hiểu
Bao nhiêu năm
qua
Chúng mày cứ
mãi dặn dò
Thế giới văn
minh, đừng làm gì bạo động
Liệu chúng mày
có thể hoà hợp được không
Với lũ kên kên
hổ báo?
Những con thú
cực kỳ giầu có
……………….
Chúng tao lết
lê trên thành phố Cáo Hồ
Nên biết rõ
từng tên đại ác
Trên bàn tiệc
máu xương dân tộc
Nhà hàng nào
chúng cũng ăn nhậu
Bé gái nào
cũng bị chúng mua trinh!
Chúng ta sẽ
tỉa từng thằng
Đất nước cần
nhiều "quốc táng"
Bớt được mạng
thằng Cộng Sản nào
Thì địa ngục
xã hội chủ nghĩa này
Còn có chút
sáng láng hơn
………………….
Hãy gửi về cho
chúng tao vũ khí
Thằng cụt tay sẽ chỉ cho thằng mù mắt bấm cò
Thằng còn chân
sẽ cõng thằng què quặt
Trận chiến sau
cùng này sẽ không có Dương Văn Minh!
Nguyễn Cung Thương, Sàigòn, VN
Dân vốn hiền lành, nhưng chính CSVN
gieo mầm BẠO ĐỘNG trong lòng dân
Dân
chúng Việt Nam vốn gốc đồng nội, tâm tình hiền lành như thiên nhiên đồng nội
bát ngát lúa xanh non. Tâm tình không bạo động như dân A-rập sống giữa sa mạc
cát khô cứng. Dân Việt Nam cũng không thể chết đói khi sống giữa những đồng
bằng bát ngát, với sông ngòi chằng chịt, với biển cả mênh mông bên cạnh. Cái
địa vực sống ấy tạo một tâm tình hòa bình, hiền lành.
BẠO
ĐỘNG không phải là tính tình của dân chúng Việt Nam, cũng không phải là một chủ
trương. BẠO ĐỘNG chính là do CSVN gieo
mầm trong lòng dân và với những chục năm trường, những tội ác, những bất công
chồng chất lên đầu dân để tạo lòng người UẤT ỨC. Từ lòng UẤT ỨC này, những
Phong trào đấu tranh tự phát mà chúng tôi kể ra trên đây sẵn sàng làm BẠO ĐỘNG
như Chúa Giêsu đã đạp đổ những quầy hàng trong Đền Thờ, như đứa trẻ yếu đuối đã
dồn sức vào hai chân để đạp kẻ hung dữ mà cứu sống mình, như một thương bình
sẵn sàng nổ súng dù biết mình đã là tàn tật.
Trách
nhiệm việc bùng nổ BẠO ĐỘNG ở Việt Nam chính là do đảng CSVN độc tài chất chồng
tội ác lên dân làm dân UẤT ỨC đến cổ họng.
Viễn tượng BẠO ĐỘNG
đến như định mệnh
Trong
những Phong trào đấu tranh kể ra trên đây, chỉ có Phong trào 130 Trí thức đòi
QUYỀN THỰC THI XÃ HỘI DÂN SỰ còn tuyên bố chuyển đổi chính trị hiện hành trong
ÔN HÒA. Thực ra việc ÔN HÒA hay BẠO ĐỘNG không thể biện luận, tuyên bố được như
một chủ trương trên trang giấy viết, mà nó là một tích lũy từ tâm tình để bật
thành hành động. Hãy xét từng Phong trào với lực lượng khả thể sẵn sàng BẠO
ĐỘNG và sẽ BẠO ĐỘNG nếu CSVN vẫn cố thủ giữ nguyên Cơ chế hiện hành để tiếp tục
cai trị Độc tài và cướp của và đàn áp dân.
Chúng
tôi vừa nói đến chữ “NẾU“, nghĩa là viễn tượng BẠO ĐỘNG có hay không trong một
điều kiện CSVN hủy bỏ Cơ chế hiện hành trong ÔN HÒA. Cái nhìn của chúng tôi về
viễn tượng BẠO ĐỘNG như một ĐỊNH MỆNH phải đến, nghĩa là không có chữ “NẾU“ nữa
hay đúng hơn CSVN bất lực không thực hiện được chữ “NẾU“ ấy vì những lý do sau
đây:
=> Điều
4 Hiến Pháp tiên thiên cho đảng CSVN độc quyền cai trị, nghĩa là Điều 4 đó coi
dân như cây cỏ, súc vật hay nô lệ thuộc quyền sở hữu của đảng. Nó tạo nên một
quyền lực hoàn toàn PHI NHÂN BẢN. Cái quyền lực phi Nhân Bản này trở thành một
“ộng kẹ hung dữ “ vô hình nhưng hiện diện khắp nơi khiến chính những cá nhân
đảng viên phải sợ sệt không dám nhúc nhích. Cái ông kẹ hung dữ phi nhân bản này
làm cho chính Bộ Chính trị phải tê liệt không dám có những quyết định công
khai. Tỉ dụ cụ thể là tội ăn cướp của Nguyễn Tấn Dũng tầy đình mà Bộ Chính trị
vẫn trùm chăn trốn bất lực.
=> Đảng
viên CSVN từ lớn đến bé đã tham nhũng bẩn thỉu, mỗi đứa ngậm cục xương trong
mõm như những con chó. Khi con chó ngậm cục xương rồi thì nó cố thủ ngậm chặt
cục xương không nhả ra. Nó chỉ còn nghĩ đến mọi cách bảo vệ cục xương đang ngậm
trong mõm. Những kêu gọi sửa đổi Cơ chế hiện hành có nghĩa là đàn chó CSVN phải
nhả những cục xương ra theo lời khuyên. Chúng không nhả cục xương đã ngậm được
ra đâu trừ khi phải lấy cây gậy đập vào đầu những con chó ấy thì mới mong chúng
chịu nhả cục xương ra. Đó là ý nghĩa ĐỊNH MỆNH BẠO ĐỘNG phải xẩy ra đập đầu đàn
chó để chúng nhả ra cục xương.
Cái
ông kẹ vô hình hiện diện khắp nơi như bóng quỷ dữ làm cho những cá nhân đảng
viên và ngay cả Bộ Chính Trị phải sơ sệt không dám hé họng nói đến việc bỏ Điều
4 Hiến Pháp để thay đổi Cơ chế vì sợ ông kẹ nghe được mà làm hại cá nhân mình.
Đàn chó ngậm cục xương rồi thì khó lòng nhả ra khi chúng ta chỉ nói ÔN HÒA. Như
vậy đảng CSVN không thể thực hiện được chữ “NẾU“ mà chúng tôi đặt ra trên đây. Chính
vì vậy mà dân chúng, để thoát khỏi cảnh nô lệ, phải dùng BẠO ĐỘNG trừ khử đi
cái ông kẹ quỷ sứ vô hình được tạo nên do ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP và đập trên đầu đàn
chó để chúng nhả cục xương ra. BẠO ĐỘNG đến như một định mệnh vì chính đảng
CSVN bất lực sửa đổi.
Hải ngoại có thể làm gì
hay không nên làm gì ?
Trước những Phong trào NỔI DẬY đã bắt đầu
thực sự ở Việt Nam, chúng tôi nhắc tới
ba điểm sau đây:
(i) Chủ
lực DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN là từ Quốc nội chứ không phải từ Hải ngoại mang Cách
Mạng về giải phóng Quê Hương.
(ii) Nắm
chắc điểm này để nhận biết thực chất Hải ngoại chỉ là Lực lượng yểm trợ cho
những Phong trào đang NỔI DẬY tại Quốc nội mà thôi.
(iii) Hãy
dẹp bỏ việc Hải ngoại mơ mộng chạy theo Quốc tế, Mỹ, Anh, Pháp… hoặc Liên Hiệp
Quốc để van xin họ cứu Dân Tộc mình. Việc làm này có thể tạo ảo tưởng cho Quốc
nội làm giảm ý chí đấu tranh. Nhiều khi
việc làm này có thể bị coi như tung hỏa mù dùm CSVN để làm lạc hướng đấu tranh
đang NỔI DẬY tại Quốc nội.
Chính
ở cái điểm thứ ba này (Điểm (iii)) mà mà chúng tôi đọc được trên Diễn Đàn một
số ý kiến phản đối và yêu cầu nêu ra những gì mà Hải ngoại nên làm để yểm trợ
những Phong trào NỔI DẬY tại Quốc nội
Những điều Hải ngoại không nên làm
Một
số những hô hào đấu tranh ở Hải ngoại có pha mùi tư lợi cá nhân hay nhóm: danh
riêng hay quyền lợi. Thực vậy, có những người viết trên diễn đàn để người khác
biết đến tên tuổi của mình. Có những người hay những nhóm chạy theo các Nghị
viên Quốc Hội, những Tổ chức quốc tế hay những Chính quyền nước ngoài vì quyền
lợi kiếm chác vật chất nào đó hoặc để có đà đưa đẩy để có thể nhẩy bàn độc
chính trị giữa Cộng đồng Việt Nam Hải ngoại hoặc có vị trí sau này khi Quốc tế
dàn xếp với CSVN. Những đợt hô hào Hòa Giải Hòa Hợp, “Đối Thoại“ như nhóm Hoàng
Duy Hùng… cũng có pha ý tưởng nhẩy bàn độc kiếm chác những mẩu bánh rơi rụng do
CSVN quẳng xuống cho mà hớp.
Ở
điểm thứ ba trên đây, chúng tôi viết tóm tắt và rõ rệt: “Hãy dẹp bỏ việc Hải ngoại mơ
mộng chạy theo Quốc tế, Mỹ, Anh, Pháp… hoặc Liên Hiệp Quốc để van xin họ cứu Dân
Tộc mình. Việc làm này có thể tạo ảo tưởng cho Quốc nội làm giảm ý chí đấu
tranh. Nhiều khi việc làm này có thể bị
coi như tung hỏa mù dùm CSVN để làm lạc hướng đấu tranh đang NỔI DẬY tại Quốc
nội.”.
Viết
như vậy vì những lý do sau đây:
* Thực
tế Quốc tế Tây phương, qua vụ giải quyết vấn đề Syrie, cho chúng ta thấy rằng
các Chính quyền Tây phương thụt lùi trước những vấn đề Nhân quyền, Tự do, Dân
chủ…, mà chỉ nói đến Quyền lợi vật chất và An ninh cho nước họ. Hiện nay các
nước Tây phương đang túng tiền và họ khó lòng bỏ tiền và nhân lực ra can thiệp
tốn kém để đem Nhân Quyền, Tự do, Dân chủ tặng cho Dân Việt Nam.
* Lý
do nữa là Dân Tộc Việt Nam phải nắm lấy chủ động trong việc giải quyết số phận
của mình. Dân Tộc Việt đã phải trải qua ba kinh nghiệm đau đớn khi Quốc tế đưa
những Giải quyết trên đầu trên cổ mình: (i) Hội Nhị Quốc tế chia đôi đất nước;
(ii) Hội Nghị Quốc tế đình chiến kiểu da báo ở Miền Nam Việt Nam; (iii) Hội
Nghị Hòa bình Paris để CSVN xâm lăng trọn Miền Nam năm 1975. Chúng ta không để
cho Quốc tế quyết định cho số phận Dân Tộc VN nữa mà chính là quần chúng Việt
Nam đứng lên giải quyết trực tiếp với tà quyền CSVN tại Quốc nội, chứ không tại
Geneva, Paris hay New York, Washington…
* Điều
cần phải tránh nữa là những Phong trào đấu tranh ở Hải ngoại tạo ảo tưởng cho Quốc nội khiến ý chí kiên
cường đấu tranh tại Quê Hương bị giảm xuống. Hãy nhắc đến Phong trào Thỉnh
Nguyện Thư van xin TT.Obama xẩy ra giữa lúc Gia đình Oâng ĐOÀN VĂN VƯƠN quyết
liệt với CSVN. Phong trào “Triệu con tim một tiếng nói “ không hề đả động đến
Oâng ĐOÀN VĂN VƯƠN mà chỉ nhắc tới một Nhạc sĩ Việt Khang.
* Còn
tệ hại hơn nữa là vô tình hay hữu ý, một số việc đứng lên đấu tranh ở Hải ngoại
có thể hiểu là trong chủ ý của CSVN tung hỏa mù để làm lạc hướng cái TỬ HUYỆT
của CSVN tại Quốc nội.
* Chúng
ta cũng phải nghĩ rằng nếu Hải ngoại cứ chạy theo những Chính quyền nước ngoài,
thì CSVN lợi dụng việc chạy theo van nài này để tuyên truyền tại Quốc nội rằng
việc đấu tranh hiện nay là do “thế lực thù địch“ hải ngoại thúc đẩy và tài trợ.
Việc tuyên truyền vu khống nhằm làm giảm giá trị tự phát tại Quốc nội.
Những điều Hải ngoại nên làm.
Chúng ta chỉ là Lực lượng yểm trợ cho Lực
lượng đấu tranh thực sự tại Quốc nội. Ơû vị trí yểm trợ, Hải ngoại phải theo
sát những Phong trào đấu tranh tại Quốc nội, chứ đừng tùy hứng hay vì danh hão
hoặc quyền lợi riêng cá nhân và nhóm mà phát động ra những kêu gào đấu tranh
không ăn nhập gì với Quốc nội. Việc yểm
trợ chính yếu của Hải ngoại là Thông Tin:
* Báo
Đài của CSVN là độc chiều tuyên truyền, ngụy tạo để làm lạc hướng quần chúng.
Từ Hải ngoại, chúng ta sử dụng hệ thống Thông Tin “từ trời rơi xuống“ để phổ
biến rộng rãi ở Quốc nội những đợt đấu tranh hiện nay. CSVN là những con chó
đang ngậm cục xương. Chúng chỉ muốn yên thân với cục xương và sợ hãi quần chúng
dùng gậy đập trên đầu chúng. Hãy phổ biến về Quê Hương cái viễn tượng BẠO ĐỘNG
của quần chúng bắt đầu từ Phường, Quận, Tỉnh để cuối cùng về Trung ương. Lúc
này NỔI DẬY ồ ạt chưa thực hiện được vì lực lượng Công an, Quân đội được huy động
đông đảo để đàn áp. Hãy bắt đầu NỔI DẬY từ những đơn vị nhỏ để xé lẻ lực lượng
đàn áp ra mà tỉa từng tên. Liệt sĩ ĐẶNG NGỌC VIẾT đã làm như vậy.
* Tại
nước ngoài, thay vì ký tên Thỉnh Nguyện Thư, Kiến Nghị… gửi lên Liên Hiệp Quốc,
Hoa kỳ, Anh, Pháp… để van xin họ cứu dân mình, thì hày gửi cho họ những Bản Tin
về những Phong trào đấu tranh quyết tử tại Quốc nội. Về phương diện này, nên
gửi những Bản Tin đấu tranh tại Quốc nội cho những Tổ chức đầu tư Quốc tế,
những Phòng Thương mại quốc gia, cho những Công ty Liên Quốc gia đến Việt Nam
khai thác nhân công. Việc đầu tư tùy
thuộc chính yếu về tình hình An Ninh của một nước hay không.
Một ý kiến hỗ trợ BẠO ĐỘNG
mà Hải ngoại có thể làm
Tuần
trước, khi viết bài Viễn Tượng BẠO ĐỘNG của quần chúng, thì tuần này một vị Lão
thành Cách Mạng từ Paris gọi điện thoại cho chúng tôi để góp ý:
“Công an CSVN đã dùng tiền thuê đám côn đồ
xã hội đen để đánh đập bà con hiền lành đến bể đầu. Tỉ dụ ở những vụ như Thái
Hà trước đây và mới đây là Mỹ Yên. CSVN dùng tiền Hồ để thuê xã hội đen. Tại
sao từ Hải ngoại, chúng ta không dùng tiền Đô-la để thuê đám xã hội đen đánh
Công an hay con cái Công an. Từ Hải ngoại, dùng tiền Đo-la mà thuê, thì đám xã
hội đen thích Đô la hơn tiền Hồ “.
Lời
góp ý của Vị Lão thành Cách Mạng rất là khả thi vậy !
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 17.10.2013
Web: http://VietTUDAN.net
600 SỐ BÁO: AUDIO TÓM
TẮT LẬP TRƯỜNG
VỚI VIỄN TƯỢNG NỔI
DẬY CỦA QUẦN CHÚNG
Giáo sư Tiến sĩ
NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 14.11.2013
Web: http://VietTUDAN.net
Tuần này, ngày
14.011.2013, Tuần Báo điện tử VietTUDAN đã ra đều đặn được chẵn 600 số liên
tiếp từ năm 2001 cho đến cuối năm 2013. Mỗi số báo có trung bình 100 trang gồm
Tin Tức và Bình Luận về diễn tiến đấu tranh tại Quốc nội cũng như Hải ngoại
trong mục đích dứt bỏ Cơ chế CSVN hiện hành để thăng hóa Xã Hội và phát triển
Đất Nước.. Như vậy, chúng tôi đã viết chẵn 600 bài QUAN ĐIỂM, mỗi bài trung
bình 3 trang, để bầy tỏ LẬP TRƯỜNG ĐẤU TRANH của VietTUDAN. Những bài QUAN ĐIỂM
này được viết theo Chủ đề cho mỗi giai đoạn biến chuyển đấu tranh tại Quốc nội.
Các bài QUAN ĐIỂM cùng với những bài Nhận Định theo dòng Thời sự được gom lại
trong những Cuốn Sách sau đây được xuất bản do Nxb DAY & NIGHT, Ventura,
California, USA:
1) DỨT
BỎ CƠ CHẾ CSVN ĐỂ PHÁT TRIỂN (216 trang)
2) TÀI
CHÁNH/KINH TẾ THẾ GIỚI: KHỦNG HOẢNG 2007/2008 & HẬU QUẢ CHO VIỆT NAM (425
trang)
3) VIỆT
NAM HỘI NHẬP WTO: ĐIỀU KIỆN TẠO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH (300 trang)
4) DÂN
CHỦ HÓA KINH TẾ (270 trang)
5) DÂN
TRÊN ĐƯỜNG NỔI DẬY DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN (466 trang)
6) DÂN
OAN ỨC NỔI DẬY DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN (208) trang)
7) CÁCH
MẠNG HIẾN PHÁP 2013: ĐƯỜNG TIẾN VỮNG CHẮC (258 trang)
Tất
nhiên cuốn sách thứ 8 mà chúng tôi đã bắt đầu viết và sẽ dự trù xuất bản năm
2014 sẽ mang tựa đề liên quan đến diễn biến hiện nay của quần chúng tại Quê
Hương: PHÁT HIỆN & VIỄN TƯỢNG BẠO ĐỘNG CỦA QUẦN CHÚNG NỔI DẬY.
Lập
trường của chúng tôi đối với CSVN không thay đổi từ năm 1964, năm bắt đầu đấu
tranh của tuổi trẻ Sinh viên tại Sài Gòn, qua thời kỳ Sinh viên tại Thụy sĩ bắt
đầu năm 1965 cho đến 1975 và tiếp tục sau đó. Tờ báo điện tử VietTUDAN đấu
tranh bắt đầu năm 2001, nhân cảm phục của chúng tôi về lòng can đảm của Linh
mục NGUYỄN VĂN LÝ. Lập trường của Tờ Báo điện tử này là DỨT KHOÁT LOẠI TRỪ CƠ
CHẾ CSVN, chứ không thể Hòa Giải Hòa Hợp hay Đối Thoại với một Cơ chế sử dụng
sức mạnh KHỦNG BỐ để bắt toàn dân trở thành nô lệ cả về tinh thần lẫn vật chất.
Để
bảo vệ một LẬP TRƯỜNG ĐẤU TRANH dứt khoát như vậy cho Tờ báo điện tử, chỉ còn
cách là ngồi viết một mình thì mới tránh
được những suy suyển có thể bị ảnh hưởng ngay từ những bạn hữu đã từng sống
chết đầu tranh với nhau từ thuở còn ở Việt Nam. Thực vậy, tin tưởng những bạn
hữu đã từng sống chết đấu tranh trước năm 1975,
nhưng rồi vợ con của những bạn hữu ấy có thể ảnh hưởng lên chồng chỉ vì
sự cám dỗ trở về thăm Quê Hương mà CSVN cho phép. Có thể vì cái VISA về thăm
Việt Nam mà Lập trường của Tờ báo điện tử VietTUDAN bị bám bụi. Chúng tôi viết
lấy một mình và dứt khoát không về thăm Quê Hương khi CSVN còn đó bắt dân làm
nô lệ.
Trong
tuần vừa rồi, chúng tôi được quý Oâng LÊ HỒNG LONG và ĐOÀN TRỌNG HIẾU mời làm
Diễn giả cho một cuộc Hội Luận tại Hoa kỳ với Đề tài VIỄN TỰONG BÙNG NỔ NỔY DẬY
TẠI VIỆ NAM. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn hai Vị đã mời chúng tôi làm Diễn
giả và chúng tôi cảm thấy hãnh diện để nói về đề tài mang tính cách thời sự đấu
tranh gay go hiện nay và trong những ngày tháng tới.
* Đây
cũng là dịp để chúng tôi cắt nghĩa bằng lời nói về LẬP TRƯỜNG ĐẤU TRANH DỨT
KHOÁT KHÔNG THAY ĐỔI của chúng tôi trong quá khứ và nhất là cho những năm chủ
trương Tờ báo điện tử VietTUDAN cũng như trong 7 cuốn sách mà chúng tôi đã xuất
bản.. Trong Hội Luận, suốt 3 tiếng đồng
hồ trình bầy Lập trường và Trả lời những Câu hỏi của các Vị tham dự Hội Luận
được ghi lại :
On Sunday, November 10, 2013 8:10 PM, Hieu
Doan wrote:
Kính mời quý thính giả nghe buổi hội luận với
đề tài ” viễn tượng bùng nổ nổi dậy tại Việt Nam” với Tiến sĩ kinh tế Nguyễn
Phúc Liên. Chương trình được thực hiện ngày thứ năm 07 tháng 11 năm 2013:
* Chúng
tôi cũng đọc trên Diễn Đàn thấy những phát biểu của Gs.TRẦN PHƯƠNG mới đây nhất
tại Hà Nội về Cơ chế Chính trị—Kinh tế định hướng XHCN. Những phát biểu của
Giáo sư tóm tắt những khía cạnh mà chúng tôi đã đào sâu trong 7 cuốn sách về
Độc tài Chính trị nắm Độc quyền Kinh tế. Chúng tôi xin giới thiệu để quý Độc
giả vào nghe:
On Sunday, November 10, 2013 12:14 PM,
sirbing wrote:
Hà Nội và cả nước xôn xao vì những phát biểu
của GS Trần Phương, Chủ Tịch Ủy Ban Khoa Hoc XH , nguyên Phó Thủ Tướng CHXHCN
VN!!!
Người cọng sản đã nhận chân được sự thật, sau
70 nam.
Mời qúy vị
bấm vào link để nghe những lời phát biểu của Giáo Sư Chủ Tịch Úy Ban
Khoa Học Trần Phương (Nguyên là Phó Thủ Tướng nước CH XH CN VN)
- GS
Trần Phương chính thức phát biểu tạ Hà nội: Chũ Nghĩa Xã Hội được đưa ra chỉ để
bịp thiên hạ
- GS
Trần Phương tuyên bố: Chủ nghĩa Xã hội đã thất bại! Chủ nghĩa Cộng sản là ảo
tưởng!
- GS
Trần Phương xác định: "CHÚNG TA TỰ LỪA DỐI CHÚNG TA VÀ CHÚNG TA LỪA DỐI
NGƯỜI KHÁC" (Phần cuối)
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 14.11.2013
Web: http://VietTUDAN.net
Saturday, March 1, 2014
NGUYỄN THIÊN THỤ * NHẬN ĐỊNH VỀ KHỔNG TỬ
NHẬN ĐỊNH VỀ KHỔNG TỬ
Nguyễn Thiên Thụ
Chúng tôi lúc trẻ đã đọc Khổng
giáo. Nay nửa thế kỷ sau muốn xem lại Khổng học. Chúng tôi không hoàn toàn ca
tụng Khổng Tử như các tiền bối ta thời Nho học, cũng không hoàn toàn phủ nhận
cổ học như những người cộng sản. Chúng tôi sẽ xem xét Khổng học với con mắt
khách quan hơn.
Điểm quan trọng nhất trong Khổng giáo là tam cương và ngũ thường. Khi làn sóng Tây học và cộng sản đổ ào vào Việt Nam, nhiều người cực lực phản đối quân chủ. và Nho học. Những đệ tử Khổng môn như Phan Chu Trinh, Phan Khôi, Phan Kế Bính... đã chống Nho học, một mình Tản Đà than thở: "Văn minh Đông Á trời thu sạch/ Này lúc cương thường đảo ngược ru?"
Thiết tưởng, phong trào dân chủ lan mạnh nhưng chỉ có một vài nước Âu Mỹ mới theo đúng tinh thần dân chủ, tôn trọng dân quyền và nhân quyền, còn hầu hết các nước Á Phi thi hành những chính sách dân chủ giả mạo. Nhất là các nước cộng sản, Marx, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Pol Pot coi người dân như giun dế, tha hồ chém giết, bỏ tù, bỏ đói và bắt làm nô lệ. Bọn này xưng là " cách mạng", giải phóng giai cấp", chống áp bức, bóc lột nhưng sự thực, chúng áp bức, bóc lột tàn bạo hơn quân chủ và tư bản.
Chúng xưng xe "bài phong đả thực" nhưng thực sự chúng tham lam hơn phong kiến vì Nga xâm chiếm các nước nhỏ lập liên bang Xô Viết và tràn quân chiếm đóng Đông Âu. Trung Quốc chiếm Mông Cổ, Tây Tạng, xâm chiếm một phần lãnh thổ và hải đảo Việt Nam và muốn chiếm 80% biển Đông theo bản đồ hình lưỡi bò của Trung Quốc. Việt Nam là một tiểu quốc mà cũng đánh chiếm Miên Lào và đe dọa Thái Lan. Chúng huyênh hoang bài phong nhưng độc tài hơn vua quan , chính Stalin, Mao, Hồ đã theo tệ " sùng bái cá nhân", chúng lại theo lệ "cha truyền con nối" và kết bè đảng để nắm độc quyền, kinh tế, chinh trị... Bọn chính trị bộ, trung ương đảng và quốc hội chỉ là bù nhìn, tay sai khiếp nhược của tổng bí thư, một hoàng đế của chủ nghĩa cộng sản.
Những người theo cộng sản quá lạc quan, hoặc là tuyên truỳền khoác lác rằng chế độ cộng sản công bằng tuyệt đối, trật tự tuyệt đối, dân chủ tuyệt đối nên không cần vua quan, lính tráng, công an ... như quân chủ và tư bản. Quan niệm này đưa đến tư tưởng vô chính phủ của thời đầu cộng sản. Nhưng không lâu, dân chúng đã thấy sự tàn bạo , phản dân chủ của Lenin, Stalin, Mao, Hồ nhưng lúc đó thì đã muộn.
Thực tế thì xã hội nào cũng có vua quan mặc dầu danh xưng đổi khác và tính chất chế độ đổi khác.
Thành thử kinh qua cuộc sống bao thời đại, quan niệm tam cương của Nho gia" không sai. Nưoc nào chẳng có vua, nhà nào chẳng có cha mẹ, con cái, vợ chồng. Danh xưng khác nhau, cách đối đãi khác nhau tùy theo phong tục và bản tánh con người . Nước nào cũng có vua, chủ tịch hoặc tổng thống đứng đầu và dưới đó là thượng thư, bộ trưởng... Đừng chỉ trích quân chủ tôn quân, tinh thần quân chủ, ca tụng lãnh tụ càng rõ nét hơn hết trong chế độ cộng sản, cụ thể là Tố Hữu, và bọn văn thi nô hết ca tụng Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, đến Kim Nhật Thành.. . Sau này, Khruschev tố cáo, người ta mới biết Stalin độc tài và tàn bạo hơn bạo chúa Trụ, Kiệt và Tần Thủy Hoàng! Stalin giết các đảng viên cao cấp để băt toàn đảng toàn dân phải cúi đầu làm nô lệ trong khi đó y và Lenin huyênh hoang rằng tự do của cộng sản tốt hơn trăm ngàn lần tư bản!
Các nước Tây phương đẩy mạnh nền dân chủ tự do nhưng cũng có nhyều nước theo quân chủ như Anh quốc, Hòa Lan nhưng quân chủ mà rất là dân chủ. Thành thử những ai lớn tiếng đả kích quân chủ phong kiến thì chỉ là cái loa cho cộng sản.
Nước nào mà chẳng chú trọng giáo dục, mà trọng giáo dục thì phải tôn trọng nhà giáo., tức là trọng sư phụ, giáo sư, giáo viên... Cộng sản coi khinh giáo dục, coi khinh nhà giáo bởi vì họ chọn sinh viên và người làm việc theo lý lịch, họ để giáo viên nam đói phải đạp xich lô, giáo viên nữ phải bán kẹo bánh trong lớp... Lại nữa tệ đoan bằng cấp giả lan tràn, tiến sĩ ma, thạc sĩ dỏm tràn ngập từ trung ương đến thôn xóm là do họa hại coi khinh giáo dục của cộng sản, xem " hồng hơn chuyên" , tiêu diệt trí thức, đày ải trí thức, đưa nông dân lên giữ các chức vụ quan trọng trong xã hội. .
Và xã hội nào cũng quý trọng tình cha con, mẹ con. ngay cả loài vật. Do đó, Khổng tử đề cao vai trò cha mẹ , vợ chồng là đúng. Cộng sản muốn đoạt quyền cha mẹ, phá bỏ gia đình. Họ coi trai gái gần nhau như bầy thú hoang của thời cộng sản nguyên thủy , đẻ con ra đảng sẽ nuôi dạy nó ca tụng lãnh tụ và chém giết . Hồ Chí Minh theo đúng tinh thần tam vô nên đã dạy đảng viên:" Trung với đảng, hiếu với dân" là như thế.
Nhưng chúng đã thất bại. Mao Trạch Đông đã phát phiếu cho thanh niên lao động tốt thì được vào trại nữ vui thú một đêm. Mao cũng lập nhà dưỡng nhi, lập trường dạy, phát sách, cho ăn miễn phí nhưng cuối cùng phải bỏ vì hao tốn quá. Việt Nam cũng theo đó mà ra lệnh ' bãi bỏ bao cấp", nghĩa là cộng sản phủi tay chủ nghĩa xã hội! Và từ đây cộng sản ra mặt bóc lột nhân dân, nhân dân phải nộp tiền học phí, viện phí, trong khi dưới chế độ quân chủ và tư bản, dân chúng được miễn phí nhiều thứ". Như thế là chủ nghĩa cộng sản phải trả con về cho cha mẹ chúng, vì đảng nuôi không nổi, mà trẻ cũng sống không nổi! Trẻ chịu sao thấu cảnh các quan lớn ăn cắp gạo, bỏ đất đá vào gạo bắt trẻ ăn sỏi đá, và anh chị nuôi ăn bớt thịt cá, đường, gạo khiến trẻ luôn luôn đói?
Sự thật thì người cộng sản chỉ trung thành với cá nhân họ, trung thành với tiền bạc, địa vi:" Bảng đỏ sao vàng, sang giàu bỏ đảng". Và họ cũng chẳng hiếu với dân vì họ giết dân, bỏ tù dân và cướp nhà cửa ruộng đất của nhân dân. Nhân dân hay giai cấp vô sản bây giờ trở thành những danh từ vô nghĩa trong trái tim và ngôn từ cộng sản. Hơn nữa, họ phản bội tổ quốc, theo lệnh Nga, Tàu, bán nước cho Nga Tàu để họa Trung Quốc xâm lược ngày nay.
Trong gia đình cũng vậy, nhiều người chỉ trích tam tòng, cho là lạc hậu. Trong gia đình, con còn nhỏ không theo cha mẹ thì theo ai? Luật Tây phương, con trẻ trên 18 tuổi mới có quyền độc lập. Khi lấy chồng, nhiều nước , vợ phải theo chồng, không theo chồng thì theo ai? Anh đưa nàng về dinh hay Em theo anh về nhà là nét đẹp văn hóa của ta, là hạnh phúc lứa đôi, sao lại chỉ trích? Thế nào đi nữa, khi yêu nhau , muốn đi đến sống chung thì phải ở chung, em theo anh hoặc là anh theo em. Đó là việc đương nhiên sao lại chê bai? Cái đáng chỉ trích là sau khi "tòng" và sống chung, người ta đối đãi với nhau như thế nào.
Tại vài nước chồng theo vợ, và tại Việt Nam cũng có lắm chàng trai ở rể. Trong gia đình cũng như trong cơ quan, trên một con tàu phải có người điều khiển. Từ xưa đàn ông là người chủ gia đình cho nên đàn ông chỉ huy cũng là việc thường. Tuy vậy, không phải là đàn bà vô quyền. Trong nhiều xã hội đàn bà nắm quyền, đàn bà uy hiếp đàn ông. Lẽ tất nhiên, chúng ta chống đối việc bất bình đẳng trong gia đình, nữ giới bị coi khinh, hoặc nam giới bị đối xử thô bạo.. Chúng ta phải công nhận trong thực tế, và trong nhiều xã hội, người chồng là trụ cột gia đình. Trong xã hội Việt Nam , xưa nay đa số đàn bà nắm kinh tế, và dân ta chủ trương bình đẳng và cộng tác:"Thuân vợ thuận chồng, tát bể đông cũng cạn" dù một số ông chồng vẫn theo phong cách " chồng chúa vợ tôi".
Rồi khi chồng chết, người đàn bà phải nương nhờ vào con. Không nương nhờ con cái thì nhờ ai.? Một số tái giá, một số ở vậy. Đến khi già thì nhờ con là chuyện thường trong xã hội Việt Nam. Có những trường hợp khó khăn, người phụ nữ cô đơn phải nhờ vào bà con, làng xóm .Xã hội văn minh như Âu Mỹ, nhà nước lo cho người già thì là một lẽ!
Tóm lại , xã hội nào cũng tôn trọng mối tương quan giữa con người với gia đình , và giữa con người và xã hôi. Cái quan trọng là cách đối xử với nhau hợp tình, hợp lý hay không, có chính nghĩa hay không, có nhân ái, công bằng hay không.
Về ngũ thường thì nhân nghĩa lễ trí tín là năm điều tốt. Cộng sản chủ trương tàn sát và gian dối nên ghét nhân nghĩa lễ trí tín. Một số người cho rằng trong thương trường, chính trị làm sao mà có nhân nghĩa. Có chứ. Cách mạng Pháp 1789 mở đầu cho nền dân chủ thế giới. Năm 1861 Abraham Lincoln đắc cử tổng thống và muốn thay đổi dự luật để xóa bỏ thể chế nô lệ, và từ đó đến nay, người Mỹ đã tranh đấu cho tự do, dân chủ, kết quả ngày nay , Obama một người da đen trở thành tổng thống Mỹ . Liên Hiệp Quốc đưa ra luật nhân quyền bảo đảm quyền tự do con người khắp nơi. Nếu kinh doanh mà gian trá thì sẽ bị khách hàng tẩy chay như hàng Trung Cộng có chất độc.
Nói tóm lại, tam cương, ngũ thường đều đúng.
Ở đây, chúng tôi không đi sâu và triết thuyết của Khổng Tử, chúng tôi chỉ trình bày vài tư tưởng của Khổng Tử trong Luận Ngữ. Chúng tôi sẽ nêu lên một vài ưu điểm , và vài điểm mà chúng tôi cho là sai lầm hoặc không thích hợp. Việc phê bình Khổng Tử đã có từ lâu như việc Khổng Tử thăm bà Nam Tử. Nhất là việc Lão Tử chê bai Khổng Tử hữu vi. Tại Việt Nam, Hồ Quý Ly đã viết thiên Bát Dật chỉ trích Khổng Tử, rất tiếc là trong cơn binh lửa, quân Minh đã thu sạch sách Việt Nam nên nay ta không còn giấu tích của họ Hồ.
Nhiều người không hiểu Khổng giáo, chỉ trích Khổng giáo. Họ thiếu suy nghĩ và quá khích. Trong bộ lạc, đất nước, gia đình, xí nghiệp, cơ quan, bộ, viện đều có người đứng đầu. Ta phải tôn trọng họ, tuân lệnh họ nếu họ làm đúng chức trách và đạo đức. Ta tuân hành kỷ luật nhưng không làm nô lệ. Người lính không thể cãi cọ và không chấp hành mệnh lệnh của chỉ huy. Cũng vậy, người nhân viên phải tuân lệnh cấp trên. Tuân lệnh và làm trọn bổn phận chứ không nịnh hót và làm những hành động trái luật và trái đạo đức. Như vậy thì nước nào mà chẳng tôn quân. Tuy tôn quân, trọng chính phủ, người dân vẫn có quyền tự do ngôn luận, quyền biểu tình để tránh độc tài.
Khổng giáo tôn quân nhưng rất quý dân. Chính Khổng tử đã đặt nền tảng cho dân quyền sau này. Khổng Tử tuy tôn quân, nhưng Ngài không hoàn toàn sùng bái cá nhân vua, cúi đầu làm nô lệ cho cá nhân vua và triều đình hung bạo. Tình yêu tổ quốc là tình yêu hai chiều. Chính quyền phải thương dân thì dân mới ủng hộ chính quyền. Không ai có thể đè nép, áp bức dân chúng. Sức nén càng mạnh thì sức nổ càng lớn. Nước nâng thuyền thì nước cũng lật thuyền. Khổng Tử luôn nói đến đạo đức của vua. Vua phải nhân ái, công bằng, nghĩa là phải thương dân. Vua và triều đình tốt phải yêu nước thương dân, không tham nhũng, bóc lột, cướp đoạt thì dân chúng ủng hộ. Trong Luận Ngữ Thiên Vi Chính, Khổng Tử nói:Vi chánh dĩ đức , thí như bắc thần , cư kỳ sở , nhi chúng tinh cộng chi .為政以德、譬如北辰、居其所、而眾星共之(2.1)。("Dùng đức trong chính trị thì như như sao Bắc-Thần đứng một chỗ, mà các vì sao khác đều quay về chầu ) .
Và Ngài cũng nói rằng vua thi hành nhân nghĩa thì dân mến phục chứ không phải cai trị bằng công an : Đạo chi dĩ chánh , chi dĩ hình , dân miễn nhi vô sỉ . Đạo chi dĩ đức , chi dĩ lễ , hữu sỉ thả cách . 道之以政、齊之以刑、民免而無恥。【二節】道之以德、齊之以禮、有恥且格(2.3).(Nếu nhà cầm quyền theo pháp chính , chuyên dùng hình phạt, dân chúng sợ mà không phạm pháp, chứ chẳng phải là biết xấu hổ. Nếu nhà cầm quyền dùng đạo đức, theo lễ nghĩa thì dân biết liêm sỉ, và trở thành người có tư cách).
Theo Khổng Tử, làm chính trị nghĩa là theo chánh đạo, vương đạo. Trả lời Quý Khang tử, Khổng Tử nói : Chính dã, chính dã, 政者,正也, (12.16).
Khổng Tử đã nêu thuyết chính danh:" vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con". Trong khi viết bộ Xuân Thu, Khổng tử đã dùng chữ khác nhau để phân biệt vua tốt và vua xấu. Ngài đã lộ rõ việc vua bạo ngược, dân giết đi là đúng ý trời. Đi xa hơn, sau Ngài, Mạnh Tử tiến lên một bước, nói rõ quyền lợi của dân chúng và đưa ra khẩu hiệu:" Dân vi qúy, xã tắc thứ chi., quân vi khinh " Ông cũng nói rằng vua mà tàn ác là giặc, dân có quyền giết đi. “ Tặc nhân giả vị chi tặc, tặc nghĩa dã, vị chi tàn. Tàn tặc chi nhân vị chi nhất phu; văn tru nhất phu Trụ hỉ, vị văn thí quân dã 「賊仁者謂之賊,賊義者謂之殘;殘賊之人,謂之一夫。聞誅一夫紂矣。未聞弒君也。」 ( Lương Huệ vương hạ)” ( Người làm hại nhân thì gọi là tặc, người hại nghĩa gọi là tàn . Tàn tặc là đứa không ra gì. Ta nghe dân giết tên Trụ chứ không nghe nói giết vua Trụ).
Về chữ hiếu, Khổng Tử dạy rằng con phải kính thờ cha mẹ bằng tấm lòng thành nhưng không phải cúi đầu tuân hành mọi mệnh lệnh và hành vi sai trái của cha mẹ. Con cái phải khuyên can cha mẹ,Khổng tử nói:" Đối với cha mẹ, lúc nào cũng phải giữ sắc mặt vui vẻ, hòa nhã; đó là việc khó mà làm được mới gọi là người con hiếu.[ 2.8]
Con cái có thể khuyên can cha mẹ nếu cha mẹ làm sai. .Khổng tử nói: thờ cha mẹ thì phải biết can gián cha mẹ với lời lẽ ngọt ngào ( khi cha mẹ có sai lầm). Như thấy cha mẹ không thuận lòng, thì vẫn phải cung kính, chứ đừng làm trái nghịch. Nếu cha mẹ giận, bắt mình làm việc nhiều thì đừng oán trách.[4.18]
Mạnh Tử còn nói rõ Vua Thuấn làm vua , nếu cha là Cổ Tẩu phạm pháp vẫn bị trừng trị theo tình thần "Pháp bất vị thân.". Sách Mạnh Tử, thiên Tận tâm thượng, có một chương rằng: “Đào Ứng hỏi rằng: Thuấn làm thiên tử, Cao Dao làm quan tòa, mà Cổ Tẩu giết người, thì làm thế nào? Mạnh Tử trả lời: - Cứ việc bắt đi mà thôi. - Thế thì Thuấn không cấm được ư? - Thuấn cấm sao được mà cấm? (Cái pháp luật của Cao Dao) là có chỗ chịu mà. (:桃應問曰:“舜為天子,皋陶為士,瞽瞍殺人,則如之何?孟子曰:“執之而已矣。” ..「然則舜不禁與?」 夫舜惡得而禁之?夫有所受之也。” [孟子·盡心上] .
Điểm quan trọng nhất trong Khổng giáo là tam cương và ngũ thường. Khi làn sóng Tây học và cộng sản đổ ào vào Việt Nam, nhiều người cực lực phản đối quân chủ. và Nho học. Những đệ tử Khổng môn như Phan Chu Trinh, Phan Khôi, Phan Kế Bính... đã chống Nho học, một mình Tản Đà than thở: "Văn minh Đông Á trời thu sạch/ Này lúc cương thường đảo ngược ru?"
Thiết tưởng, phong trào dân chủ lan mạnh nhưng chỉ có một vài nước Âu Mỹ mới theo đúng tinh thần dân chủ, tôn trọng dân quyền và nhân quyền, còn hầu hết các nước Á Phi thi hành những chính sách dân chủ giả mạo. Nhất là các nước cộng sản, Marx, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Pol Pot coi người dân như giun dế, tha hồ chém giết, bỏ tù, bỏ đói và bắt làm nô lệ. Bọn này xưng là " cách mạng", giải phóng giai cấp", chống áp bức, bóc lột nhưng sự thực, chúng áp bức, bóc lột tàn bạo hơn quân chủ và tư bản.
Chúng xưng xe "bài phong đả thực" nhưng thực sự chúng tham lam hơn phong kiến vì Nga xâm chiếm các nước nhỏ lập liên bang Xô Viết và tràn quân chiếm đóng Đông Âu. Trung Quốc chiếm Mông Cổ, Tây Tạng, xâm chiếm một phần lãnh thổ và hải đảo Việt Nam và muốn chiếm 80% biển Đông theo bản đồ hình lưỡi bò của Trung Quốc. Việt Nam là một tiểu quốc mà cũng đánh chiếm Miên Lào và đe dọa Thái Lan. Chúng huyênh hoang bài phong nhưng độc tài hơn vua quan , chính Stalin, Mao, Hồ đã theo tệ " sùng bái cá nhân", chúng lại theo lệ "cha truyền con nối" và kết bè đảng để nắm độc quyền, kinh tế, chinh trị... Bọn chính trị bộ, trung ương đảng và quốc hội chỉ là bù nhìn, tay sai khiếp nhược của tổng bí thư, một hoàng đế của chủ nghĩa cộng sản.
Những người theo cộng sản quá lạc quan, hoặc là tuyên truỳền khoác lác rằng chế độ cộng sản công bằng tuyệt đối, trật tự tuyệt đối, dân chủ tuyệt đối nên không cần vua quan, lính tráng, công an ... như quân chủ và tư bản. Quan niệm này đưa đến tư tưởng vô chính phủ của thời đầu cộng sản. Nhưng không lâu, dân chúng đã thấy sự tàn bạo , phản dân chủ của Lenin, Stalin, Mao, Hồ nhưng lúc đó thì đã muộn.
Thực tế thì xã hội nào cũng có vua quan mặc dầu danh xưng đổi khác và tính chất chế độ đổi khác.
Thành thử kinh qua cuộc sống bao thời đại, quan niệm tam cương của Nho gia" không sai. Nưoc nào chẳng có vua, nhà nào chẳng có cha mẹ, con cái, vợ chồng. Danh xưng khác nhau, cách đối đãi khác nhau tùy theo phong tục và bản tánh con người . Nước nào cũng có vua, chủ tịch hoặc tổng thống đứng đầu và dưới đó là thượng thư, bộ trưởng... Đừng chỉ trích quân chủ tôn quân, tinh thần quân chủ, ca tụng lãnh tụ càng rõ nét hơn hết trong chế độ cộng sản, cụ thể là Tố Hữu, và bọn văn thi nô hết ca tụng Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, đến Kim Nhật Thành.. . Sau này, Khruschev tố cáo, người ta mới biết Stalin độc tài và tàn bạo hơn bạo chúa Trụ, Kiệt và Tần Thủy Hoàng! Stalin giết các đảng viên cao cấp để băt toàn đảng toàn dân phải cúi đầu làm nô lệ trong khi đó y và Lenin huyênh hoang rằng tự do của cộng sản tốt hơn trăm ngàn lần tư bản!
Các nước Tây phương đẩy mạnh nền dân chủ tự do nhưng cũng có nhyều nước theo quân chủ như Anh quốc, Hòa Lan nhưng quân chủ mà rất là dân chủ. Thành thử những ai lớn tiếng đả kích quân chủ phong kiến thì chỉ là cái loa cho cộng sản.
Nước nào mà chẳng chú trọng giáo dục, mà trọng giáo dục thì phải tôn trọng nhà giáo., tức là trọng sư phụ, giáo sư, giáo viên... Cộng sản coi khinh giáo dục, coi khinh nhà giáo bởi vì họ chọn sinh viên và người làm việc theo lý lịch, họ để giáo viên nam đói phải đạp xich lô, giáo viên nữ phải bán kẹo bánh trong lớp... Lại nữa tệ đoan bằng cấp giả lan tràn, tiến sĩ ma, thạc sĩ dỏm tràn ngập từ trung ương đến thôn xóm là do họa hại coi khinh giáo dục của cộng sản, xem " hồng hơn chuyên" , tiêu diệt trí thức, đày ải trí thức, đưa nông dân lên giữ các chức vụ quan trọng trong xã hội. .
Và xã hội nào cũng quý trọng tình cha con, mẹ con. ngay cả loài vật. Do đó, Khổng tử đề cao vai trò cha mẹ , vợ chồng là đúng. Cộng sản muốn đoạt quyền cha mẹ, phá bỏ gia đình. Họ coi trai gái gần nhau như bầy thú hoang của thời cộng sản nguyên thủy , đẻ con ra đảng sẽ nuôi dạy nó ca tụng lãnh tụ và chém giết . Hồ Chí Minh theo đúng tinh thần tam vô nên đã dạy đảng viên:" Trung với đảng, hiếu với dân" là như thế.
Nhưng chúng đã thất bại. Mao Trạch Đông đã phát phiếu cho thanh niên lao động tốt thì được vào trại nữ vui thú một đêm. Mao cũng lập nhà dưỡng nhi, lập trường dạy, phát sách, cho ăn miễn phí nhưng cuối cùng phải bỏ vì hao tốn quá. Việt Nam cũng theo đó mà ra lệnh ' bãi bỏ bao cấp", nghĩa là cộng sản phủi tay chủ nghĩa xã hội! Và từ đây cộng sản ra mặt bóc lột nhân dân, nhân dân phải nộp tiền học phí, viện phí, trong khi dưới chế độ quân chủ và tư bản, dân chúng được miễn phí nhiều thứ". Như thế là chủ nghĩa cộng sản phải trả con về cho cha mẹ chúng, vì đảng nuôi không nổi, mà trẻ cũng sống không nổi! Trẻ chịu sao thấu cảnh các quan lớn ăn cắp gạo, bỏ đất đá vào gạo bắt trẻ ăn sỏi đá, và anh chị nuôi ăn bớt thịt cá, đường, gạo khiến trẻ luôn luôn đói?
Sự thật thì người cộng sản chỉ trung thành với cá nhân họ, trung thành với tiền bạc, địa vi:" Bảng đỏ sao vàng, sang giàu bỏ đảng". Và họ cũng chẳng hiếu với dân vì họ giết dân, bỏ tù dân và cướp nhà cửa ruộng đất của nhân dân. Nhân dân hay giai cấp vô sản bây giờ trở thành những danh từ vô nghĩa trong trái tim và ngôn từ cộng sản. Hơn nữa, họ phản bội tổ quốc, theo lệnh Nga, Tàu, bán nước cho Nga Tàu để họa Trung Quốc xâm lược ngày nay.
Trong gia đình cũng vậy, nhiều người chỉ trích tam tòng, cho là lạc hậu. Trong gia đình, con còn nhỏ không theo cha mẹ thì theo ai? Luật Tây phương, con trẻ trên 18 tuổi mới có quyền độc lập. Khi lấy chồng, nhiều nước , vợ phải theo chồng, không theo chồng thì theo ai? Anh đưa nàng về dinh hay Em theo anh về nhà là nét đẹp văn hóa của ta, là hạnh phúc lứa đôi, sao lại chỉ trích? Thế nào đi nữa, khi yêu nhau , muốn đi đến sống chung thì phải ở chung, em theo anh hoặc là anh theo em. Đó là việc đương nhiên sao lại chê bai? Cái đáng chỉ trích là sau khi "tòng" và sống chung, người ta đối đãi với nhau như thế nào.
Tại vài nước chồng theo vợ, và tại Việt Nam cũng có lắm chàng trai ở rể. Trong gia đình cũng như trong cơ quan, trên một con tàu phải có người điều khiển. Từ xưa đàn ông là người chủ gia đình cho nên đàn ông chỉ huy cũng là việc thường. Tuy vậy, không phải là đàn bà vô quyền. Trong nhiều xã hội đàn bà nắm quyền, đàn bà uy hiếp đàn ông. Lẽ tất nhiên, chúng ta chống đối việc bất bình đẳng trong gia đình, nữ giới bị coi khinh, hoặc nam giới bị đối xử thô bạo.. Chúng ta phải công nhận trong thực tế, và trong nhiều xã hội, người chồng là trụ cột gia đình. Trong xã hội Việt Nam , xưa nay đa số đàn bà nắm kinh tế, và dân ta chủ trương bình đẳng và cộng tác:"Thuân vợ thuận chồng, tát bể đông cũng cạn" dù một số ông chồng vẫn theo phong cách " chồng chúa vợ tôi".
Rồi khi chồng chết, người đàn bà phải nương nhờ vào con. Không nương nhờ con cái thì nhờ ai.? Một số tái giá, một số ở vậy. Đến khi già thì nhờ con là chuyện thường trong xã hội Việt Nam. Có những trường hợp khó khăn, người phụ nữ cô đơn phải nhờ vào bà con, làng xóm .Xã hội văn minh như Âu Mỹ, nhà nước lo cho người già thì là một lẽ!
Tóm lại , xã hội nào cũng tôn trọng mối tương quan giữa con người với gia đình , và giữa con người và xã hôi. Cái quan trọng là cách đối xử với nhau hợp tình, hợp lý hay không, có chính nghĩa hay không, có nhân ái, công bằng hay không.
Về ngũ thường thì nhân nghĩa lễ trí tín là năm điều tốt. Cộng sản chủ trương tàn sát và gian dối nên ghét nhân nghĩa lễ trí tín. Một số người cho rằng trong thương trường, chính trị làm sao mà có nhân nghĩa. Có chứ. Cách mạng Pháp 1789 mở đầu cho nền dân chủ thế giới. Năm 1861 Abraham Lincoln đắc cử tổng thống và muốn thay đổi dự luật để xóa bỏ thể chế nô lệ, và từ đó đến nay, người Mỹ đã tranh đấu cho tự do, dân chủ, kết quả ngày nay , Obama một người da đen trở thành tổng thống Mỹ . Liên Hiệp Quốc đưa ra luật nhân quyền bảo đảm quyền tự do con người khắp nơi. Nếu kinh doanh mà gian trá thì sẽ bị khách hàng tẩy chay như hàng Trung Cộng có chất độc.
Nói tóm lại, tam cương, ngũ thường đều đúng.
Ở đây, chúng tôi không đi sâu và triết thuyết của Khổng Tử, chúng tôi chỉ trình bày vài tư tưởng của Khổng Tử trong Luận Ngữ. Chúng tôi sẽ nêu lên một vài ưu điểm , và vài điểm mà chúng tôi cho là sai lầm hoặc không thích hợp. Việc phê bình Khổng Tử đã có từ lâu như việc Khổng Tử thăm bà Nam Tử. Nhất là việc Lão Tử chê bai Khổng Tử hữu vi. Tại Việt Nam, Hồ Quý Ly đã viết thiên Bát Dật chỉ trích Khổng Tử, rất tiếc là trong cơn binh lửa, quân Minh đã thu sạch sách Việt Nam nên nay ta không còn giấu tích của họ Hồ.
Nhiều người không hiểu Khổng giáo, chỉ trích Khổng giáo. Họ thiếu suy nghĩ và quá khích. Trong bộ lạc, đất nước, gia đình, xí nghiệp, cơ quan, bộ, viện đều có người đứng đầu. Ta phải tôn trọng họ, tuân lệnh họ nếu họ làm đúng chức trách và đạo đức. Ta tuân hành kỷ luật nhưng không làm nô lệ. Người lính không thể cãi cọ và không chấp hành mệnh lệnh của chỉ huy. Cũng vậy, người nhân viên phải tuân lệnh cấp trên. Tuân lệnh và làm trọn bổn phận chứ không nịnh hót và làm những hành động trái luật và trái đạo đức. Như vậy thì nước nào mà chẳng tôn quân. Tuy tôn quân, trọng chính phủ, người dân vẫn có quyền tự do ngôn luận, quyền biểu tình để tránh độc tài.
Khổng giáo tôn quân nhưng rất quý dân. Chính Khổng tử đã đặt nền tảng cho dân quyền sau này. Khổng Tử tuy tôn quân, nhưng Ngài không hoàn toàn sùng bái cá nhân vua, cúi đầu làm nô lệ cho cá nhân vua và triều đình hung bạo. Tình yêu tổ quốc là tình yêu hai chiều. Chính quyền phải thương dân thì dân mới ủng hộ chính quyền. Không ai có thể đè nép, áp bức dân chúng. Sức nén càng mạnh thì sức nổ càng lớn. Nước nâng thuyền thì nước cũng lật thuyền. Khổng Tử luôn nói đến đạo đức của vua. Vua phải nhân ái, công bằng, nghĩa là phải thương dân. Vua và triều đình tốt phải yêu nước thương dân, không tham nhũng, bóc lột, cướp đoạt thì dân chúng ủng hộ. Trong Luận Ngữ Thiên Vi Chính, Khổng Tử nói:Vi chánh dĩ đức , thí như bắc thần , cư kỳ sở , nhi chúng tinh cộng chi .為政以德、譬如北辰、居其所、而眾星共之(2.1)。("Dùng đức trong chính trị thì như như sao Bắc-Thần đứng một chỗ, mà các vì sao khác đều quay về chầu ) .
Và Ngài cũng nói rằng vua thi hành nhân nghĩa thì dân mến phục chứ không phải cai trị bằng công an : Đạo chi dĩ chánh , chi dĩ hình , dân miễn nhi vô sỉ . Đạo chi dĩ đức , chi dĩ lễ , hữu sỉ thả cách . 道之以政、齊之以刑、民免而無恥。【二節】道之以德、齊之以禮、有恥且格(2.3).(Nếu nhà cầm quyền theo pháp chính , chuyên dùng hình phạt, dân chúng sợ mà không phạm pháp, chứ chẳng phải là biết xấu hổ. Nếu nhà cầm quyền dùng đạo đức, theo lễ nghĩa thì dân biết liêm sỉ, và trở thành người có tư cách).
Theo Khổng Tử, làm chính trị nghĩa là theo chánh đạo, vương đạo. Trả lời Quý Khang tử, Khổng Tử nói : Chính dã, chính dã, 政者,正也, (12.16).
Khổng Tử đã nêu thuyết chính danh:" vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con". Trong khi viết bộ Xuân Thu, Khổng tử đã dùng chữ khác nhau để phân biệt vua tốt và vua xấu. Ngài đã lộ rõ việc vua bạo ngược, dân giết đi là đúng ý trời. Đi xa hơn, sau Ngài, Mạnh Tử tiến lên một bước, nói rõ quyền lợi của dân chúng và đưa ra khẩu hiệu:" Dân vi qúy, xã tắc thứ chi., quân vi khinh " Ông cũng nói rằng vua mà tàn ác là giặc, dân có quyền giết đi. “ Tặc nhân giả vị chi tặc, tặc nghĩa dã, vị chi tàn. Tàn tặc chi nhân vị chi nhất phu; văn tru nhất phu Trụ hỉ, vị văn thí quân dã 「賊仁者謂之賊,賊義者謂之殘;殘賊之人,謂之一夫。聞誅一夫紂矣。未聞弒君也。」 ( Lương Huệ vương hạ)” ( Người làm hại nhân thì gọi là tặc, người hại nghĩa gọi là tàn . Tàn tặc là đứa không ra gì. Ta nghe dân giết tên Trụ chứ không nghe nói giết vua Trụ).
Về chữ hiếu, Khổng Tử dạy rằng con phải kính thờ cha mẹ bằng tấm lòng thành nhưng không phải cúi đầu tuân hành mọi mệnh lệnh và hành vi sai trái của cha mẹ. Con cái phải khuyên can cha mẹ,Khổng tử nói:" Đối với cha mẹ, lúc nào cũng phải giữ sắc mặt vui vẻ, hòa nhã; đó là việc khó mà làm được mới gọi là người con hiếu.[ 2.8]
Con cái có thể khuyên can cha mẹ nếu cha mẹ làm sai. .Khổng tử nói: thờ cha mẹ thì phải biết can gián cha mẹ với lời lẽ ngọt ngào ( khi cha mẹ có sai lầm). Như thấy cha mẹ không thuận lòng, thì vẫn phải cung kính, chứ đừng làm trái nghịch. Nếu cha mẹ giận, bắt mình làm việc nhiều thì đừng oán trách.[4.18]
Mạnh Tử còn nói rõ Vua Thuấn làm vua , nếu cha là Cổ Tẩu phạm pháp vẫn bị trừng trị theo tình thần "Pháp bất vị thân.". Sách Mạnh Tử, thiên Tận tâm thượng, có một chương rằng: “Đào Ứng hỏi rằng: Thuấn làm thiên tử, Cao Dao làm quan tòa, mà Cổ Tẩu giết người, thì làm thế nào? Mạnh Tử trả lời: - Cứ việc bắt đi mà thôi. - Thế thì Thuấn không cấm được ư? - Thuấn cấm sao được mà cấm? (Cái pháp luật của Cao Dao) là có chỗ chịu mà. (:桃應問曰:“舜為天子,皋陶為士,瞽瞍殺人,則如之何?孟子曰:“執之而已矣。” ..「然則舜不禁與?」 夫舜惡得而禁之?夫有所受之也。” [孟子·盡心上] .
Tuy nhiên, Khổng Tử tỏ
ra rất tế nhị trong vấn đề công bằng, lẽ phải và luật pháp. Việc con tố cha
hoặc xử tội cha đều là nan đề, nên tránh. Diệp công nói với Khổng Tử rằng:
" Ở làng xóm tôi có những người rất ngay thẳng rất mực như ông kia ăn trộm
dê, con ra làm chứng khai thực. Đức Khổng Tử nói: " Ở xóm ta người ngay
thẳng cư xử có khác. Cha che lỗi cho con, con che lỗi cho cha, tình ngay thẳng
vẫn ngụ trong đó vậy".[13.8]. Bởi vậy, pháp luật xưa khi cha hay
con phạm tội thì phải theo luật hồi tị, nghĩa là tránh việc xử án, mà giao cho
người khác xử án .
Không biết ai đã nói: Quân xử thần tử,thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu" nhưng xem ra Khổng Tử, Mạnh Tử không hề có ý tưởng này.
Sau đây, chúng tôi xin nêu lên một số tiêu cực trong tư tưởng và cuộc đời Khổng Tử qua Luận Ngữ.
Trước tiên là việc Khổng tử từ quan
rồi bỏ đi chu du thiên hạ. Thuở ấy, vua Tề nước láng giềng muốn làm suy yếu
nước Lỗ bèn đem tặng bộ nữ nhạc 80 người khiến vua quan Lỗ say mê nhạc , bỏ
triều chính, Khổng Tử bèn bỏ nước ra đi. Không hiểu trước khi đi, Khổng Tử có
cố gắng khuyên giải nhà vua không, không thấy tài liệu nào nói việc ông khuyên
giải như thế nào. Luận Ngữ ( 18.4) chỉ nói ông âm thầm bỏ ra đi! . Khổng Tử đã
được triều đình tôn trọng, vua Lỗ đã ban chức Trủng Tể cho ông, là một chức lớn
trong triều đình, tương đương với thừa tướng. Ông làm quan cũng khá lâu, it
nhất cũng bốn năm giữ chức Tư Khấu chứ it ỏi gì! Thế mà cuối cùng rủ áo ra đi!
Điều này cho thấy Khổng Tử quá lạc quan và có it nhiều tự hào khi nói:"
Nếu
có vị vua giao cho ta quyền cai trị trong nước, trong một năm thì quy mô đã
khá, trong ba năm thì thành tựu .
"Cổ ngạn có câu:" Nếu có bậc thánh nối nghiệp trị vì được trăm năm thì đủ khiến những kẻ tàn ác hoá thành hiền lành, và triều đình không cần án tử hình nữa. Lời ấy thành thật lắm thay!
"Như có bậc thánh nhân vâng mạng Trời cai trị thiên hạ, thì sau 30 năm, nền chính trị nhân đạo sẽ phổ cập khắp nơi. [13.10; 13-12].
Khổng tử nói rằng: Đời dùng (ta) thì ta hành động, đời bỏ (ta) thì ta ẩn dật. [7.10].
"Cổ ngạn có câu:" Nếu có bậc thánh nối nghiệp trị vì được trăm năm thì đủ khiến những kẻ tàn ác hoá thành hiền lành, và triều đình không cần án tử hình nữa. Lời ấy thành thật lắm thay!
"Như có bậc thánh nhân vâng mạng Trời cai trị thiên hạ, thì sau 30 năm, nền chính trị nhân đạo sẽ phổ cập khắp nơi. [13.10; 13-12].
Khổng tử nói rằng: Đời dùng (ta) thì ta hành động, đời bỏ (ta) thì ta ẩn dật. [7.10].
Và ngài cũng nói: "Quân tử thích điều nghĩa, tiểu
nhân tham điều lợi."[4.16].
" Giàu với sang ai chẳng ham muốn? Nhưng giàu sang mà trái đạo thì thì người quân tử chẳng tham. Nghèo với hèn thì ai mà ưa? Nhưng vì đạo mà nghèo hèn thì người quân tử chẳng từ khước. Người mà bỏ lòng nhân thì sao xứng danh quân tử? Người quân tử không bỏ lòng nhân dù chỉ trong khoảng thời gian một bữa ăn. Lúc vội vàng, lúc ngửa nghiêng vẫn giữ lòng nhân.[4.5].
" Giàu với sang ai chẳng ham muốn? Nhưng giàu sang mà trái đạo thì thì người quân tử chẳng tham. Nghèo với hèn thì ai mà ưa? Nhưng vì đạo mà nghèo hèn thì người quân tử chẳng từ khước. Người mà bỏ lòng nhân thì sao xứng danh quân tử? Người quân tử không bỏ lòng nhân dù chỉ trong khoảng thời gian một bữa ăn. Lúc vội vàng, lúc ngửa nghiêng vẫn giữ lòng nhân.[4.5].
Thành tín, ham học, chịu chết giữ đạo đức. Không nên vào
nước nguy, không nên ở nước loạn, thiên hạ hữu đạo thì ra làm quan, còn gặp
thời vô đạo thì nên ẩn dật mà tu đạo. Nước nhà hữu đạo ( thịnh trị) mà mình
chịu cảnh bần cùng là điều đáng xấu hổ. Nước nhà nguy vong mà mình giàu sang,
cũng là điều đáng thẹn thùng.[8.13].
Trong trường này, nước Lỗ đã suy
vong, thế mà ngài không ẩn dật, không an bần lạc đạo lại bỏ ra nước ngoài. Ngài
đi đâu? Chắc không phải tị thế, tị nhân tị nạn mà là cầu danh lợi ở các bậc vua
chúa. Ngài hy vọng các vua chúa sẽ dùng ngài vào chỗ chức trong quyền cao. Ngài
tới hầu bà Nam Tử dù bà nổi tiếng dâm đãng. Ngài đưa ra thuyết chính danh để
nhảy vào nước Vệ trong khi bà Nam Tử đã gây ra việc cha con giết nhau. Khổng tử
mưu đưa công tử Triếp nhưng giải pháp này nếu được công tử Triếp chấp thuận vẫn
lại lâm vào cảnh anh em giết nhau, chú cháu tranh nhau, không thực hiện được
thuyết chính danh.
Sau khi từ quan, Khổng Tử cũng đã muốn theo gương Quản Trọng đem tài để kiếm lợi, cho nên ông đã toan tính hợp tác với nhiều quyền thần, gian thần như Công Sơn Phất Nhiễu [17.5], Phật Bật [17.7], nhưng bị các học trò ngăn cản. Ngài tham danh tham lợi nhưng lại muốn che đậy bằng thuyết chính danh và lý tưởng phục vụ đất nước như trong vụ Công Sơn Phất Nhiễu , ngài nói: với Tử Lộ: " Người ta mời mình chẳng có lý do chánh đáng sao? Người ta dùng mình, mình há lại không làm cho đất nước ( Lỗ ) thịnh vượng như thời Đông Châu sao?"{17.5}. Đó cũng là lời Ngài nói với Tử Lộ:"Ta có tài nên dùng, há như trái bầu mà người ta treo mà không ăn sao?[17.7].
Sau khi từ quan, Khổng Tử cũng đã muốn theo gương Quản Trọng đem tài để kiếm lợi, cho nên ông đã toan tính hợp tác với nhiều quyền thần, gian thần như Công Sơn Phất Nhiễu [17.5], Phật Bật [17.7], nhưng bị các học trò ngăn cản. Ngài tham danh tham lợi nhưng lại muốn che đậy bằng thuyết chính danh và lý tưởng phục vụ đất nước như trong vụ Công Sơn Phất Nhiễu , ngài nói: với Tử Lộ: " Người ta mời mình chẳng có lý do chánh đáng sao? Người ta dùng mình, mình há lại không làm cho đất nước ( Lỗ ) thịnh vượng như thời Đông Châu sao?"{17.5}. Đó cũng là lời Ngài nói với Tử Lộ:"Ta có tài nên dùng, há như trái bầu mà người ta treo mà không ăn sao?[17.7].
Than ôi! Số Khổng Tử đến hồi suy
dù Ngài chịu đấm ăn xôi cũng không đưọc. Bà Nam Tử và Tề Cảnh Công đều chê
Ngài, nếu họ mời thì Ngài cũng sa vào danh lợi như những con người tầm thường
khác. !
Ngài hăng hái đi tìm lợi danh, tìm không được thì bi quan. Trước kia ngài nói: ". (Mình là người tài giỏi) Người đời không biết đến mình, mình cũng chẳng lấy làm buồn, như vậy chẳng phải là bậc quân tử sao?(1.1). Nhưng cuối đời thất bại, Khổng tử cũng kêu trời kêu đất : "Ôi đời chẳng biết ta!" [14.36].. Ngài đau khổ vì chim Phượng và Hà Đồ không tái xuất,[9.8] và Ngài bi quan muốn bỏ đi ở nơi rừng núi hoang vu và man dã [9.14].
Ngoài ra, việc chu du thiên hạ này cho thấy Khổng Tử nông nổi. Thời buổi loạn ly, nên ở nhà ẩn cư hay dạy học là hơn, Ngài không được ai giới thiệu, đi lang thang vô định, một mình hay vài người đã là khó, ngài lại dẫn đệ tử theo đông trong một thời gian trên 10 năm. Ngài và các đệ tử có nhiều vàng bạc không? Đi đông và thiếu tiền bạc, không bị đánh, cướp hoặc bị đói thì mới là chuyện lạ.
Chúng ta cũng thấy về chính trị, Khổng Tử rất non nớt, vụng về như vụ Trần Thành Tử. Trần Thành Tử ( đại phu nước Tề ) giết vua Giản công. Khổng Tử tắm gội xong, vào thưa với Lỗ Ai Công: "Trần Hằng ( tên Trần Thành Tử ) giết vua, xin chúa thượng đem binh trừng phạt. Vua Ai công bảo: " Khanh nên đến nói cho ba nhà đại phu nghe đi". Khổng Tử nói một mình: Ta tuy không còn làm quan, vẫn là đại phu, nghe chuyện tày trời đó không lẽ không tâu vua. Sao vua lại bảo ta đến cho ba nhà kia hay? Ngài bèn đến ba nhà đại phu, cả ba đều chẳng tán thành ý ngài. Khổng Tử bèn nói một mình: " Bởi ta là quan đại phu nên chẳng dám im lặng nên phải lên tiếng vậy"[14.21].
Rõ ràng là kiến thức của Khổng Tử thua Lỗ Ai Công và ba vị đại phu kia. Nước Lỗ vốn nhỏ, binh lực, tiền của được bao nhiêu? Đánh Tề có lợi gì? Nếu Lỗ là một cường quốc, và Khổng Tử là một Napoleon hay Thành Cát Tư Hãn thì thế giới lại càng bị đe dọa vì nạn thực dân, đế quốc xâm lược.
Chúng ta cũng nên xét về đạo hạnh của Khổng Tử trong vụ đối xử với Nguyên Nhưỡng. Nguyên Nhưỡng ngồi đợi Khổng Tử. Khổng Tử trách: " Hồi nhỏ, người không biết kính thuận bậc tôn trưởng, lớn lên chẳng làm được gì, đến già chẳng chết đi, chỉ làm giặc cỏ thôi! Ngài bèn lấy gậy gõ vào ống chân Nguyên Nhưỡng [14.43].
Dẫu sao, Nguyên Nhưỡng cũng là bạn già, có lẽ rất lâu mới gặp lại nhau. Dù gặp nhau hằng ngày, Khổng Tử không nên xỉ nhục và trách mắng người ta như thế. Hơn nữa, ở đây rõ ràng là Khổng Tử nói năng thô lỗ và có hành vi thô bạo. Nhân ái và lễ nghĩa không cho phép ta đối xử như thế dù đối với ai.
Nói tóm lại, Khổng Tử có một vài khuyết điểm mặc dầu bao thế kỷ Khổng tử được tôn sùng như một vị thánh.
Nguyễn Thiên Thụ
Ngày 7 tháng 5 năm 2011
Ngày 7 tháng 5 năm 2011
No comments:
Post a Comment