Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Sunday 20 November 2016

VĂN HỌC HẢI NGOẠI * THỤY KHUÊ *

 

ĐỖ QUYÊN * VĂN HỌC HẢI NGOẠI

Văn học Việt ở ngoài nước trong vài năm qua

Đỗ Quyên

Vâng, với cái dễ cái khó mà ai cũng tỏ, tôi tự thấy không dễ viết một bài tổng quan cho báo trong nước, kể chuyện sáng tác của các nhà văn Việt ở ngoài nước. Và tôi viết, khi nhớ câu "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài."
*
Là người trong cuộc, tôi thấy, văn học Việt Nam ở nước ngoài hiện nay cũng không đến nỗi nào, đâu có tẻ nhạt như nhiều người trong cuộc và ngoài cuộc từng bình giá. Tất nhiên, so với mươi năm trước, đa số các sân chơi lớn đã tan hàng. Có được rất ít nhóm còn sống hoặc mới ra, thì lại làm báo chí "trên trời". Sách, báo chí văn học "dưới đất" càng khan hiếm, dễ tạo cảm tưởng không nắm bắt được câu chữ chăng? (Hay vì tôi lạc quan? Với cả nền văn học Việt Nam, sau khi nhìn ra điều hay dở, sự được mất, dù ở xa tôi vẫn thấy... ô-kê, xét về toàn diện, không như nhiều người đang ta thán.)

Về văn chương viết bằng tiếng Việt ở nước ngoài, để nói đúng và hay, thật không đơn giản. Một trong các lý do: có nhiều cách tiếp cận mà mỗi cách cho kết quả khác nhau. Ví dụ: Thể tài, nội dung; Quan niệm, chính kiến; Thế hệ, tuổi tác; Môi trường xuất bản; Thời kỳ, trào lưu; Khu vực địa lý...

Tôi chọn cách sau: Phác họa tác giả theo thể loại, rồi đi vào một số vấn đề nổi bật về nội dung và phương pháp, với thời gian trong vài ba năm nay (tạm tính tới tháng 2-2010), và theo các địa chỉ văn học ở hải ngoại là damau.org, tienve.org, gio-o.com, amvc.free.fr, thotanhinhthuc.org, Hợp Lưu, Khởi Hành, Chủ Đề, Truyền Thông...

Bức tranh xuân:

Làng văn học Việt ở nước ngoài dạo này vẫn ánh lên các tác giả của "thời hoàng kim" (khoảng 1985-1995) và "hậu hoàng kim" (khoảng 1995-2000), trong đó có không ít tên tuổi từng làm nên văn học miền Nam trước 1975.

Thơ: Du Tử Lê, Nguyễn Xuân Thiệp, Luân Hoán, Khế Iêm, Ngu Yên, Thường Quán, Hoàng Xuân Sơn, Nguyễn Đăng Thường, Trần Mộng Tú, Chân Phương, Lê Thị Huệ, Nguyễn Quí Đức, Phan Nhiên Hạo, Nguyễn Thị Thanh Bình, Nguyễn Hoài Phương, Đỗ Quyên, v.v...

Văn: Võ Phiến, Kiệt Tấn, Hồ Trường An, Nam Dao, Kinh Dương Vương, Ngô Nguyên Dũng, Hồ Đình Nghiêm, Hoàng Chính, Nguyễn Thị Thảo An, Miêng, Hoàng Mai Đạt, Lê Thị Thấm Vân, Mai Ninh, Thế Dũng, Lê Minh Hà, v.v...
Phê bình, biên khảo: Đặng Tiến, Đặng Phùng Quân, Viên Linh, Bùi Vĩnh Phúc, Nguyễn Hưng Quốc, Thụy Khuê, Nguyễn Vy-Khanh, Trần Doãn Nho, Đoàn Cầm Thi, Nguyễn Trung Hối, v.v...

Thảo luận, đọc sách: Đào Trung Đạo, Trần Thiện Đạo, Thế Uyên, Phan Huy Đường, Nguyễn Tà Cúc, Phùng Nguyễn, v.v...

Dịch thuật: Hoàng Ngọc-Tuấn, Hoàng Ngọc Biên, Trịnh Y Thư, Nguyễn Ước, v.v...

Ký sự - thể loại còi cọc nhất trong gia đình chữ nghĩa Việt hải ngoại - nay đã có da thịt màu mỡ với Đỗ Kh., Trần Vũ, Đinh Linh, Trùng Dương...

Một số chuyển hoặc thỉnh thoảng chuyển "bàn viết" về Việt Nam: Nguyễn Văn Thọ và Mai Ninh (văn), Thận Nhiên và Trần Nghi Hoàng (thơ), Vũ Ngọc Thăng và Nguyễn Tiến Văn (dịch thuật)...

Vòng nguyệt quế nên được dành cho các tên tuổi quyết định sự chuyển đổi của văn học hải ngoại gần đây. Thơ: Lê An Thế, Đỗ Lê Anhdao, Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Lương Vỵ, Vương Ngọc Minh, Lưu Diệu Vân, Trần Nguyên Đán... Văn: Thuận, Đặng Thơ Thơ, Lữ, Đoàn Minh Phượng, Hoàng Ngọc Thư, Lê Quỳnh Mai, Nguyễn Xuân Tường Vy... Dịch thuật: Lê Đình Nhất Lang... Phê bình, biên khảo: Đinh Từ Bích Thúy, Trần Thiện Huy... Đáng nể là Nguyễn Quỳnh, Ngô Văn Tao và Thái Kim Lan: ba tay bút lão luyện của văn học nghệ thuật Việt chỉ vài năm qua mới chịu tung hoành khắp các lãnh địa (nghiên cứu, kịch, văn, thơ, dịch, tiểu luận...) Các vị mới góp mặt như McAmmond Nguyen Thi Tu (văn), Nguyễn Thị Hải Hà, Nguyễn Hồng Nhung (dịch), Một Danna (thơ, tiểu luận)... nhưng nội lực đã tỏ thâm hậu.

Các nét nổi bật của văn học Việt ở nước ngoài hiện nay:

Một cách hoàn toàn hợp lý đúng thời, cả nội dung lẫn hình thức của dòng văn học này trong vài ba năm qua đã mang vóc dáng khác. Sự thành công về nghệ thuật còn là điều cần bàn thêm, nhưng phải nói rằng tác động của văn học hải ngoại tới đời sống tinh thần người Việt ở đây không còn được như từ năm 1997-1998 trở về trước.

Gần giống văn học trong nước, tính phân tán là điều dễ thấy nhất của văn chương Việt ngoài nước hiện nay. Nói theo ngôn ngữ hậu hiện đại là giải trung tâm.

Về vấn đề địa văn hóa: Hoa Kỳ, về hình thức, tưởng như không còn là trung tâm "văn hóa đọc" của người Việt hải ngoại, khi mà các trang mạng nở rộ, các tạp chí văn học in bằng giấy đã rơi rụng gần hết, sách văn học được xuất bản ít hơn lá mùa thu.

Về thể tài: Nội dung không còn khu biệt ở vài đề tài quan trọng (nỗi nhớ quê hương, nối dài văn học miền Nam, thân phận ly hương, hội nhập định cư...) mà tất cả hòa vào nhau rồi được cộng thêm các đề tài mới, tới mức rất khó định danh đề tài chính như ở các thời kỳ trước; trừ đề tài muôn thuở là tình yêu. Rõ hơn cả là sự liên đề tài với các vấn đề, sự kiện lớn của cuộc sống chính trị, xã hội và văn nghệ ở Việt Nam. Nói gọn: "người và việc" ở trong nước dường như là cảm hứng sáng tạo và động lực đề tài của rất nhiều tác giả ngoài nước.

Về văn phong: giống ở trong nước, rất đa dạng và phân kỳ! Đây lại là điều không dễ hiểu; vì, trên thực tế trong thập niên qua, cuộc sống tinh thần và vật chất ở các nước bản địa mà người Việt định cư không mấy đổi thay. Trong khi đó, đời sống kinh tế, sinh hoạt xã hội ở Việt Nam, với những thăng trầm khó tưởng tượng nổi, đã cho thấy văn chương đúng là hơi thở của thời đại.

1. Sự đồng hành độc lập (và "hòa bình"!) của các cách viết mới trong ba khuynh hướng truyền thống, hiện đại và hậu hiện đại:

Điều này thể hiện rõ ràng cả trong hai thể loại thơ và văn xuôi. Ở đây giới hạn trong thơ. Bốn nhà thơ quan trọng dưới đây đều định cư tại Mỹ; ba người nam thì ở cách "khu chợ Bolsa"... vài câu thơ!

Trần Mộng Tú là "liền chị liền anh" trong thể thơ truyền thống với vần điệu ổn cố, có sức viết hàng đầu góp mặt trên hầu khắp báo chí ngoài này. Khác đa số người viết "cổ điển", sự sống của thơ Trần Mộng Tú là ở cái thần thơ mới, trẻ và sáng. Làm cho chữ (nội dung, đề tài) ở mỗi bài thơ dù cũ và quen được mang những nghĩa (tư tưởng, cảm xúc) khác. Nếu như ngày mai bỗng phục sinh tục lệ của 20-30 năm trước: chép thơ vào sổ tay, tôi xin được "cá" rằng, Trần Mộng Tú sẽ là tác giả số 1 ở hải ngoại và hẳn sẽ lọt Top 10 ở Việt Nam. Đây là đoạn kết của bài Tiễn Phạm Chi Lan, được làm trong mùa thu vừa rồi, khóc thương người bạn vắn số mà đa tài giàu tâm của văn nghệ sĩ hải ngoại: "Tôi gửi một giọt lệ / rơi trên lưng bàn tay / dẫu tay không với tới / cũng xót người hôm nay." Nữ sĩ đã góp phần làm cho Thơ Mới của thế kỷ trước vẫn"trơ gan cùng tuế nguyệt" giữa thời hậu hiện đại.

Trong số các "cây đa cây đề" của văn học miền Nam trước 1975 và ở hải ngoại sau 1975 đến nay, Du Tử Lê là tác giả hiếm hoi còn viết và viết hay. Anh lại viết rất khỏe, xuất bản sách đều gần như mỗi hai năm trong hàng chục năm nay. Tập thơ mới nhất "năm chữ du tử lê và, mười hai bài thơ, mới", đã ra được nửa năm, chứng tỏ nhà thơ hiện đại này - giống như thời mới nổi danh khắp miền Nam - khi cần thì giữ âm nhịp chặt chẽ làm nền cho ý tưởng và ngôn từ bay lên: 1

"em nhường tôi chỗ ngồi
mang theo mọi chú thích".
(Bài "bọc bên ngoài thảm kịch,")

Thế là kể từ nay, với câu thơ trên, "chỗ ngồi" không chỉ là nơi chốn và tình cảm; mà còn là... văn bản!

Ra hải ngoại, tác giả đã kéo thơ hiện đại cuốn vào thi pháp Du Tử Lê, tạo ra những lối rẽ trong thi cảm bằng mọi phương tiện của cú pháp, ký hiệu, dấu; đôi khi làm khó chịu không ít con mắt thơ (và cả con mắt người biên tập, trình bày bài vở.) Nhiều năm trước khi lối viết hậu hiện đại phát triển ở ngoài nước và trong nước, thì các dấu gạch chéo (slash) " / ", dấu gạch nối (hyphen) " - " , cách đặt dấu chấm, phẩy, không viết hoa tất cả các chữ, v.v... đã từng là "thương hiệu Du Tử Lê" rồi! Và điều đó đã thu hút nhiều hưởng ứng cũng như phản đối.

Trích đoạn sau đây từ bài "chào năm mới ở garden grove, california," tôi đề nghị xem như con dấu thơ Du Tử Lê:

"vẫn buồn (kép,)
chia đôi:
thiên đàng / địa ngục.
em chiếc nêm
chêm giữa - -
ngực đơm / môi /
triền thơ ấu nghiêng,
thiêng bầu vú mẹ."
Không chỉ thân thuộc giữa cộng đồng văn nghệ người Việt ở đây, Du Tử Lê là nhà thơ gốc Việt được giới thiệu nhiều nhất trong các trường đại học tại Mỹ. Người Mỹ cũng tinh đời đấy, ít nhất trong chuyện này! Thơ họ Du đi với nhạc điệu như hình với bóng: đó là tiêu chí đầu bảng của thơ Việt; Chữ nghĩa đại chúng lại sang cả: già trẻ Tây-Ta đều hiểu; Tâm trạng di dân rất đặc thù. "Tam đại sự"cho thơ Việt di dân! Hỏi còn gì hơn?
Lê An Thế có tác phẩm Thơ Lê An Thế, tự xuất bản, tháng 6-2009. Đây là một trong các thi tập xuất sắc nhất của thơ hải ngoại mà tôi được biết trong vài năm nay, và cũng có thể là xuất sắc của thơ Việt đương đại nói chung. Tràn ngập tâm thức hậu hiện đại, nhà thơ dẫn những văn bản đến thẳng mọi loại độc giả bằng cách nghĩ cách sống của chính mình. Ngôn ngữ lúc này phải làm đầy tớ! Anh không hoặc chưa dùng nhiều kỹ thuật hậu hiện đại - điều đang và sẽ còn làm rối mắt bực tim đa số bạn đọc, kể cả ở các nước văn chương hậu hiện đại ra đời và phát triển như Pháp, Mỹ... Tập Thơ Lê An Thế có vài bài mang cách nói bình dân, phàm tục, mà đúng chỗ. Trong bút danh mới, người thơ này đã không làm xấu hổ bút danh cũ từng làm náo hoạt văn học hải ngoại thời hưng thịnh: Lê Bi!

Mời độc giả thưởng lãm toàn bộ một sáng tác của Lê An Thế được làm tại Nha Trang năm ngoái, mà tôi đã có trong đầu cả một bài bình:

Nghệ thuật ngồi quán một mình
Có lúc tôi là một làn sóng một ngoại ngữ một cánh cửa
một phụ âm
qua góc quán này một người đàn bà vừa đi vừa nói vào chiếc điện thoại di động
tôi lại thất tình
với chiếc điện thoại di động
khi người đàn bà nhét nó vào túi sau quần jean
mang theo một cái mông đầy sóng
giữa những bức tường không chịu chết này
chúng ta đứng ngồi chồng chéo
tôi lại như một cái chìa khóa
đang thử cắm vào tất cả
mà vẫn giữ được sự cô độc của mình.

Nói về trào lưu, trường phái: Thơ tân hình thức Việt từng do Tạp chí Thơ và nhà thơ Khế Iêm khởi xướng là một cái mốc trên con đường đổi mới thơ Việt Nam.

Thể thơ Tân hình thức (New Formalism) phát sinh ở Mỹ hồi 1980-1990, lan sang thơ Việt trong và ngoài nước từ năm 2000, và phát triển hồi 2004-2005 với các tranh luận căng thẳng, triền miên. Thơ tân hình thức Việt có các đặc trưng: Không vần, nhịp điệu khác hẳn thơ bình thường; Hai kỹ thuật chính: vắt dòng (tùy loại 4-5-6-7 chữ, cả lục bát, thì xuống dòng theo số chữ), và lặp lại; Tứ thơ - đây là điểm quan trọng - có tính truyện; Ngôn ngữ: không tu từ; đời thường, có thể thông tục; Mục đích: đưa thơ lại gần đời sống hàng ngày. Tác dụng: Thật ra, theo tôi, thơ tân hình thức không phổ cập được; như một loại "đặc sản", chỉ hợp một số ít cấu tứ, trạng thái nào đó. Năm 2006, ở Mỹ ra đời tuyển tập tân hình thức Việt song ngữ Thơ không vần - Blank verse, gồm 65 tác giả trong và ngoài nước. Hiện đã in ở cả Việt Nam và Mỹ một tuyển tập mới, khiêm nhường hơn về tầm vóc và mang cái tên tiếng Việt "tân hình thức" hơn: Thơ kể - Poetry narrates, với 22 tác giả Việt toàn cầu. Nếu không tính những thi phẩm cá nhân và những hợp tuyển in ở nước ngoài, thì Thơ không vần - Blank verse (NXB Lao Động, 5-2010) là tuyển tập thơ tân hình thức đầu tiên của Việt Nam.

Cuối cùng, trước khi khép màn sáng tác thơ, tôi muốn nói nhanh rằng, cùng Lê An Thế, nhị vị Đỗ Lê Anhdao (Mỹ) và Nguyễn Đức Tùng (Canada) là các tác giả nổi trội về cách tân thơ Việt hải ngoại trong nửa thập niên qua. Đỗ Lê Anhdao, ngay khi xuất hiện, đã là hai tay thơ - song ngữ - thứ... dữ! Dữ về bút pháp văn chương. Dữ về cả thẩm mỹ nghệ thuật. Dữ luôn cả tính nữ quyền! Ba thứ dữ đó "trị" được nhau, đưa thơ của cô trở thành tiêu biểu cho phong cách nổi loạn đúng đắn với tâm trạng một nghệ sĩ di dân Thế hệ Một rưỡi trên xứ Cờ Hoa. Còn với Nguyễn Đức Tùng, tôi từng có một bài dài mang tên Bình thơ Nguyễn Đức Tùng đăng ở một vài trang mạng. Nhà thơ này như một luận lý gia thực hành, không tuyên ngôn bằng tuyên ngôn. Khoảng 80 bài thơ ngắn của anh có thể xem đã tạo nên một trong những loại "Haiku Việt". Haiku Việt của Nguyễn Đức Tùng đưa ra luận điểm bằng các hình tượng thơ in dấu ấn xã hội, thời cuộc Việt Nam, và được nuôi dưỡng trong phong cách giễu nhại phương Tây và thi cảm phân tâm. Nhưng, đấy là một loại thơ khó, dù không có sự rối rít lộ diện như ở đa số cách viết hậu hiện đại khác.

2. Lý luận và phê bình văn học Việt ngoài nước năm 2009 có được hai tác phẩm về thơ đặc biệt và giá trị:

Đó là Thơ - Thi pháp và chân dung của nhà phê bình văn học Đặng Tiến (Pháp) và Thơ đến từ đâu của nhà thơ, nhà biên khảo Nguyễn Đức Tùng. Điều dễ nhận ra ở hai cuốn sách là các vấn đề của thơ Việt trong nửa thế kỷ qua, ở cả hai miền Bắc và Nam, ngoài nước và trong nước, có lẽ lần đầu tiên được xuất bản ở Việt Nam, trong một hình thức hợp tuyển độc đáo: hoặc là gồm những bài phê bình đã đăng rải rác được viết theo cách tiếp cận riêng để thấy thơ "như một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng" (với Đặng Tiến), hoặc là gồm những phỏng vấn các nhà thơ, nhưng không theo cách thức và nội dung phỏng vấn bình thường mà dùng bút pháp văn chương lấy thơ vừa làm phương tiện vừa làm mục đích (với Nguyễn Đức Tùng).

Riêng cuốn Thơ đến từ đâu là một sự kiện văn học đặc biệt trong năm! Ngay khi mới ra đời đã được dư luận và văn giới quan tâm sôi nổi qua nhiều tháng trời trên nhiều báo chí, trang mạng ở trong cũng như ngoài nước, trên nhiều phương diện trong cũng như ngoài văn chương. Quả là một cuốn sách mang số phận trôi nổi - số phận của Thi ca! Và sự ra đời của nó ở Việt Nam tự thân đã là một kỳ công - kỳ công của Thi ca! Cuộc Hội thảo 6-1-2010 tại Hà Nội, do Trung tâm văn hoá Pháp L'Espace và Công ty TKK Concert phối hợp tổ chức, đã thu hút hàng chục tham luận của các tay bút có uy tín và năng động trong sinh hoạt học thuật và phê bình Việt Nam như Hoàng Ngọc Hiến, Đặng Tiến, Dương Tường, Phạm Toàn, Tô Nhuận Vỹ, Chu Văn Sơn, Văn Giá, Trần Thiện Khanh, Đặng Thân... 
Tạp chí Sông Hương đã tập trung các tham luận này thành Chuyên đề: Về cuốn "Thơ đến từ đâu" trên trang mạng của mình. Cuộc Tọa đàm Thơ đến từ đâu 6-6-2010 đã được nằm trong Chương trình Festival Huế 2010 với chủ đề "Di sản Văn hóa với hội nhập và phát triển", qua tham luận, ý kiến của các văn thi sĩ, phê bình gia khắp ba miền đất nước: Mai Văn Hoan, Phạm Xuân Nguyên, Hồ Thế Hà, Nguyễn Tiến Văn, Hồ Đăng Thanh Ngọc, Phạm Nguyên Tường, Hoàng Vũ Thuật, Khánh Phương, Inrasara, Phùng Tấn Đông... Bản tin của Tạp chí Sông Hương cho thấy hội thảo này "xoay quanh các vấn đề của thơ ca như các xu hướng, các trường phái thơ ca hiện nay, về các khái niệm thơ cũng như những hành trình thơ ca của những người viết trẻ..."

Mong rằng, ý nghĩa chuyển đổi quan niệm nhìn nhận bản thể văn học Việt Nam của hai tác phẩm ấy sẽ còn được độc giả và giới phê bình khắp nơi bàn thảo.
3. Văn học Việt hải ngoại chuyên chở tinh thần thế giới:
Đó như hai núm đồng tiền làm đẹp gương mặt văn xuôi tiếng Việt ở nước ngoài mà trong các thời kỳ trước không sao có được. Đành rằng, trong thơ, như ở các tác giả trên, cũng có "thế giới". Nhưng thơ bao giờ cũng là thơ! Khó... sờ mó được như truyện, ký với các sự kiện, biến cố mang tính sống còn của loài người: khủng bố tôn giáo, xung đột văn hóa... Công này thuộc về các nhà văn McAmmond Nguyen Thi Tu và Hoàng Chính (Canada), Đỗ Kh., Nguyễn Thị Thảo An (Mỹ), và Miêng (Pháp).

Với lối kể chuyện chỉn chu mà tự nhiên, McAmmond Nguyen Thi Tu là tác giả đã quen thuộc của bạn đọc trong nước qua các truyện ngắn đậm đà sự hòa lưu văn hóa, tập tục của người di dân trên thế giới. Nhiều tháng qua, loạt truyện xuất hiện trên trang mạng Da Màu của chị đã làm nở bung những lời bình ngưỡng mộ cùng các phản biện thú vị.
4. Đời sống của người Việt xa xứ:
Từ Đức, đã có hai tiểu thuyết về người Việt ở các nước Đông Âu đều mới được xuất bản ở trong nước vào năm Kỷ Sửu và nhận được sự quan tâm đáng kể. Đó là Quyên của nhà văn Nguyễn Văn Thọ, và Một nửa lá số của nhà thơ Thế Dũng. Nhiều bài viết, phỏng vấn đã dành cho tiểu thuyết Quyên như một trong những cuốn sách tiêu biểu thời đại di dân có tính toàn cầu, ở đó "số phận mong manh của một người phụ nữ Việt trôi nổi trên xứ người đã được văn học soi rọi khách quan và trân trọng." (theo Nguyễn Thị Anh Thư)

Là điều bạn đọc đã biết, nhưng ở đây không thể quên nhắc đến nữ sĩ Thuận (Pháp) từng là "mẹ đẻ" 5 tác phẩm trong đúng ngần ấy năm: Made in Viêtnam (bản tiếng Pháp xuất bản tại Pháp năm 2009), Phố Tàu, Paris 11 tháng 8 (tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam 2006), T mất tích, và Vân Vy.

5. Với sự kiện có tầm vóc và ý nghĩa quan trọng trong sinh hoạt học thuật của nền văn học nước nhà là Hội nghị quốc tế giới thiệu văn học Việt Nam ra nước ngoài (đầu tháng 1-2010, Hà Nội), không ít văn nghệ sĩ hải ngoại có tên trong bài này từng đã quan tâm, tham luận, tham dự.
Tại Hội nghị và trên trang mạng Hội Nhà văn Việt Nam, Thế Dũng có tham luận Trong các xung lực của ngoại giao văn hóa chứa nhiều thông tin cụ thể về văn chương Việt Nam với độc giả người Đức.
Khế Iêm với bài Vài ghi nhận trong việc biên tập thơ song ngữ (trang mạng laxanh.vn) nêu các ý tưởng và kinh nghiệm mới mẻ, thực dụng trong việc dịch thơ từ tiếng Việt ra tiếng Anh.
Tham luận gửi tới Hội nghị của tôi mang tên Đến trường phái thơ Việt từ cảm thức hậu hiện đại Việt đã đề nghị lưu tâm một đề tài xứng đáng làm vùng sáng trong thơ Việt, cần được thể hiện trên văn đàn quốc tế. Đó là trào lưu trường ca Việt Nam! 

Quan niệm rằng, thể loại như một thi pháp, cảm hứng chủ đạo như một phương pháp, chúng tôi chia sẻ cùng nhận định của nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn 3, "về thể loại, sự bùng nổ của trường ca có lẽ là hiện tượng đáng kể nhất của thơ Việt Nam từ nửa sau thế kỷ 20 đến giờ".
Với thống kê sơ bộ còn nhiều thiếu sót, danh sách tác giả và tác phẩm trường ca Việt Nam của chúng tôi cho thấy, kể từ thời Thơ Mới tới nay, có 122 nhà thơ Việt Nam đã viết ít nhất một trường ca hoặc một bài thơ dài có ý nghĩa tương đương. Trong danh sách này, một cách tương đối, có thể xem Phạm Huy Thông là trường ca gia Việt Nam đầu tiên với tác phẩm nổi tiếng "Tiếng Địch Sông Ô" ra đời năm 1935, và mới nhất là Trương Thìn với "Mấy Cõi Rong Vui" vừa ra mắt ở TP Hồ Chí Minh trong tháng 5-2010.

Đội ngũ các nhà trường ca Việt đó từng có cả một "trung đội" lừng danh từ những năm tháng khói lửa chiến tranh 1962-75 và sau đó vài năm là Thu Bồn và Thanh Thảo, là Nguyễn Khoa Điềm và Hữu Thỉnh, là Anh Ngọc và Nguyễn Đức Mậu... được nối tiếp tới thời hậu chiến là những Trần Mạnh Hảo và Thi Hoàng, Nguyễn Trọng Tạo và Hoàng Trần Cương, Trần Anh Thái và Nguyễn Quang Thiều... Còn Trần Dần và Lê Đạt - hai tác giả quan trọng khác của trường ca Việt - thì đã đưa thể loại văn học ngoại cỡ này tới tầm kích lạ lẫm về ngôn từ và sâu sắc về nhân sinh. Ở ngoài nước, ít ỏi không thành phong trào, nhưng cũng có các tác giả với những đóng góp thay đổi cần thiết về cả hình thức, cấu tứ lẫn nội dung, cảm hứng của trường ca Việt; đó là Du Tử Lê và Cao Đông Khánh, là Trần Nghi Hoàng và Đỗ Quyên.

Trường-phái-trường-ca-Việt-Nam - nếu có thể gọi như vậy - đặc sắc và Việt tính! Đó không là một tập hợp có chủ định, có đường hướng của nhóm các thi sĩ chung phương pháp, quan niệm theo một nhóm phái thông thường. Đó là phản ứng dây chuyền sáng tạo"đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" có ý thức của từng nghệ sĩ hòa cùng cảm xúc tráng ca của đất nước và sử thi của dân tộc trong một thời đại bi hùng của nhân loại. Qua thập niên đầu thế kỷ 21, con sông trường ca Việt hiện đại ấy cũng trở mình theo tâm thức chung của văn học Việt Nam và thế giới, từ thể tài, cấu trúc đến giọng điệu, ngôn ngữ. Và, lẽ tự nhiên, đã có không ít biểu hiện của trường ca Việt mang gương mặt hậu hiện đại.
*
Các lối đi, các cây rừng nói trên chưa thể cho thấy rõ khu rừng văn chương Việt Nam ở ngoài nước; và xin coi đó làm lời ước hẹn các bài về sau, trên trang báo này hay nơi khác...
---
Đ.Q
Vancouver & Hà Nội (Hoàn thành 1-2010; Cập nhật: 7-2010)
 

BICH THU * TIỂU THUYẾT VIỆT NAM

Tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 – một cách nhìn

24/05/2013
BÍCH THU

1. Thực tiễn văn học từ sau thời kỳ đổi mới cho thấy có hàng loạt cuốn tiểu thuyết ra đời, trong đó có sự góp mặt của các tác giả hải ngoại. Như vậy tiểu thuyết không rơi vào tình trạng đáng phải lo ngại mà với sự hiện diện ngày càng nhiều của nó, tiểu thuyết vẫn ngự trị văn đàn, vẫn tỏ rõ vị thế cũng như “giá trị tiềm ẩn” của thể loại trong tương lai.

Trong thực tiễn sáng tác văn học nghệ thuật, Việt Nam cũng như ở nước ngoài luôn song hành các tác phẩm viết theo thi pháp truyền thống và hiện đại. Mỗi xu hướng sáng tác đều có chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận của riêng mình cũng như đều có những thành công và hạn chế. Do vậy không vì cổ xuý cách tân mà khước từ truyền thống và cũng không vì truyền thống mà dị ứng với cái mới. Xét cho cùng, khi viết theo thi pháp truyền thống người viết cũng đã nỗ lực đổi mới về nội dung cũng như ở nghệ thuật trần thuật. Nhìn chung, những tiểu thuyết viết theo thi pháp truyền thống phản ánh một cách đầy đủ và trung thực những trải nghiệm của đời sống con người. Về mặt tự sự, nó hấp dẫn người đọc trước hết bằng nội dung chuyện kể, bằng những diễn biến đời sống của một nhân vật mang tính cách giống hay khác với họ. Tính thẩm mỹ của tiểu thuyết bộc lộ ở sự hài hòa, nhất quán của tổng thể và các phân đoạn khiến câu chuyện mạch lạc, lôi cuốn. Về cấu trúc, tiểu thuyết truyền thống dựa trên một cốt truyện, thu hút sự chú ý của người đọc và câu chuyện phải đi tới một kết thúc có hậu, trả độc giả về với “trật tự quen thuộc của đời sống”.


Với những tiểu thuyết viết theo hướng hiện đại đã cho thấy hiện thực là phong phú, phức tạp và không thể hoặc khó có thể “kể lại” được. Ở đây, tiểu thuyết không làm sứ mệnh cung cấp một bức tranh hiện thực về xã hội mà phải “phát minh ra các hình thức”. Mối quan hệ giữa tác phẩm văn học và những gì ở ngoài văn học bị cắt đứt hoặc bị lui lại phía sau; và chỉ còn lại hai mối quan hệ chính: quan hệ giữa tác phẩm văn học với chính nó và quan hệ giữa tác phẩm văn học này với những tác phẩm văn học khác. Tiểu thuyết viết theo xu hướng này có thể còn xa lạ, đánh đố, thậm chí “gây hấn” với độc giả nhưng nó đã mở ra một triển vọng mới cho tiểu thuyết và cho sự tiếp nhận mới của người đọc hiện đại.


2. Sự mở rộng biên độ, đa dạng hóa trong cái nhìn thế giới và con người là một trong những thành tựu nổi bật của tiểu thuyết từ sau 1986 đến nay. Thực tế cuộc sống ở một thời kỳ mới đã dẫn đến sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về hiện thực. Một tư duy văn học mới được hình thành và nhu cầu về đổi mới văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng trở nên bức thiết. Xã hội hiện đại đề cao vai trò của cá nhân và thúc đẩy sự thức tỉnh của ý thức cá nhân. Cái tôi trỗi dậy đòi hỏi được quan tâm đúng mức. Tiểu thuyết trở về với con người, thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người, bảo tồn giá trị của con người trước sự lãng quên của xã hội. Con người cô đơn, con người thân phận trở thành mối quan tâm hàng đầu của các tiểu thuyết gia đương đại. Có thể nói, tiểu thuyết là “công cụ hữu hiệu” của văn học để tái hiện lịch sử theo nhãn quan người viết và tiểu thuyết suy cho cùng vẫn là miêu tả số phận con người. 
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà tiểu thuyết đã khắc hoạ khá đầy đặn về lịch sử của một gia đình, một dòng tộc hay một đời người gắn với những biến động của lịch sử, với những thăng trầm của đời sống xã hội: Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Bến không chồng, Dưới chín tầng trời (Dương Hướng), Dòng sông mía (Đào Thắng), Cõi người (Từ Nguyên Tĩnh), Bến đò xưa lặng lẽ (Xuân Đức), Trăm năm thoáng chốc (Vũ Huy Anh), Cánh đồng lưu lạc (Hoàng Đình Quang), Cõi mê (Triệu Xuân), Luật đời và cha con, Lửa đắng (Nguyễn Bắc Sơn), Tấm ván phóng dao (Mạc Can) Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải), Gia đình bé mọn (Dạ Ngân), Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh), Ba người khác (Tô Hoài), Một mình một ngựa (Ma Văn Kháng)… Các nhà văn đã có một cái nhìn soi thấu một đời người, một thân phận trong hành trình của thế kỷ XX gắn với chiều dài lịch sử qua bao cuộc “bể dâu”. Mỗi tiểu thuyết là một cách khai thác sâu hơn về cõi người, cõi đời để đạt được một tầm sâu cho nhận thức về cõi nhân sinh.


Các tiểu thuyết nói trên đều hướng tới hệ quy chiếu, đó là thế giới riêng của những con người chịu nhiều nếm trải cay đắng, thấm đẫm sắc thái bi hài của số phận. Hơn nữa, tiểu thuyết còn có thêm mảng đề tài về cuộc sống con người Việt Nam ở hải ngoại: Chinatown, Paris 11 tháng Tám, T. mất tích (Thuận), Tìm trong nỗi nhớ, Trên đỉnh dốc (Lê Ngọc Mai), Gió từ thời khuất mặt (Lê Minh Hà), Thảo (Võ Hoàng Hoa), Và khi tro bụi (Đoàn Minh Phượng), Quyên (Nguyễn Văn Thọ)... Sự góp mặt đó làm giàu có hơn đời sống của thể loại, làm cho diện mạo tiểu thuyết phong phú và đa dạng hơn đồng thời tiếng nói về cuộc đời và con người trong tiểu thuyết cũng giàu sắc điệu và đa nghĩa hơn.


3. Hiện thực đời sống con người với những tâm tư, khát vọng, những bi kịch riêng tư chồng chất, những trào lộng, giễu nhại bi hài được các cây bút tiểu thuyết khám phá đến tận cùng, đẩy tác phẩm chạm đến một chiều sâu mới. Trong những năm gần đây nhiều tiểu thuyết mang tính tự truyện đã thu hút độc giả: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Tấm ván phóng dao (Mạc Can), Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải), Đời thường (Phùng Khắc Bắc), Gia đình bé mọn (Dạ Ngân), Một mình một ngựa (Ma Văn Kháng). Tìm đến chất liệu cái tôi, các nhà văn như trở về với chính mình. Với tiểu thuyết tự truyện, cốt truyện được xây dựng trên cơ sở của sự kiện chính về cuộc đời, về con người tác giả. Điều đáng nói ở đây là trí nhớ, sự hồi tưởng, ký ức không lấn át yếu tố hư cấu. Với loại hình tiểu thuyết này, việc đảm nhiệm chức năng tái tạo lại một đoạn đời của người viết được tổ chức theo nhiều kiểu kết cấu khác nhau, đặc biệt đi sâu vào khai thác dòng ý thức mà thành công nổi bật ở Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh).


Có thể nói, tiểu thuyết tự truyện không có gì mới lạ với văn học thế giới nhưng là một loại hình khá mới mẻ với văn học Việt Nam, và nó đã gây được tiếng vang với người đọc. Đây là xu hướng được nhận định là sẽ phát triển, như một ý kiến cho rằng: “Tiểu thuyết tự thuật đã và đang đăng đàn, rồi sẽ chiếm một ngôi vị đáng kể trong nền tiểu thuyết đương đại nước nhà”.


4. Bên cạnh những tiểu thuyết viết theo thi pháp truyền thống là những tác phẩm viết theo thi pháp hiện đại: Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Thoạt kỳ thuỷ, Ngồi (Nguyễn Bình Phương), Chinatown, Paris 11 tháng Tám, T. mất tích (Thuận), Người sông mê (Châu Diên), Khải huyền muộn (Nguyễn Việt Hà), Giữa vòng vây trần gian, Giữa dòng chảy lạc (Nguyễn Danh Lam), Cơn giông (Lê Văn Thảo), Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái), Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh), Kín, Nháp (Nguyễn Đình Tú), 3.3.3.9 - những mảnh hồn trần (Đặng Thân)… Ấn tượng rõ rệt nhất khi đọc các tiểu thuyết này là sự khác lạ, là sự “gây hấn” với truyền thống. 
 
 
Dường như nhà văn không phải đang tái hiện bức tranh hiện thực mà đang trình bày cách thức họ làm ra các kiểu kết cấu nghệ thuật như thế nào. Với những kiểu kết cấu thể hiện tinh thần chối bỏ truyền thống, vượt qua mô thức kết cấu quen thuộc, tiểu thuyết sau 1986 đã xác lập mối quan hệ mới giữa văn chương với hiện thực. Các tác phẩm kể trên đã mở ra những thử nghiệm kiếm tìm hình thức mới cho tiểu thuyết khá phong phú và đang còn tiếp diễn. Quan niệm truyền thống về tiểu thuyết đang mờ dần đi. Với ý thức cách tân quyết liệt và mạnh mẽ, các cây bút kể trên đã góp phần xoá bỏ khoảng cách tư duy nghệ thuật giữa văn học Việt Nam và những nền văn học tiên tiến của nhân loại. Bao trùm trong các tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Danh Lam, Thuận... là một thế giới vô hồn, một thế giới “mờ”, khó tìm thấy một gương mặt chính thống. Người đọc thấy ở các tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy, Ngồi, Giữa vòng vây trần gian, T. mất tích, Kín, Nháp… sự “hồ nghi tồn tại như một loại hình tâm trạng làm nên cảm quan của thời đại mới. Các nhà nghiên cứu gọi đó là dấu hiệu cảm quan hậu hiện đại” (Lã Nguyên).


Các tiểu thuyết theo hướng hiện đại đã tạo nên cảm giác về sự trôi dạt của thân phận con người. Các thủ pháp nghệ thuật như đồng hiện, kỹ thuật dòng ý thức, độc thoại nội tâm, môtíp giấc mơ, ký ức, vọng niệm đã tỏ ra có hiệu lực bộc lộ những miền sâu kín và bí ẩn của con người. Ở đây xu hướng tự do, phóng khoáng trong các kiểu diễn ngôn, sự co giãn, mềm dẻo của kết cấu, sự không liên tục của ý tưởng, chối bỏ sự trau chuốt mang tính tu từ đã góp phần tạo nên giọng điệu mới với các sắc thái thẩm mỹ đa dạng. Tất cả đã nói lên một cái gì đó về một tâm thức đã xuất hiện nhưng không dễ phát hiện trong đời sống hôm nay: tâm thức hậu hiện đại.


Bằng những “âu lo”, “bất ổn” trên bề mặt giọng điệu, nhà tiểu thuyết hướng độc giả đến những “bất ổn”, “lo âu” ở đáy sâu đời sống hiện thực, khiến họ phải trăn trở nhiều hơn, nghĩ ngợi nhiều hơn trước những gì được viết ra. Ở đó hàm chứa một thái độ “kép”, mâu thuẫn và phức hợp; cười cợt, giễu nhại cái cũ song cũng chưa tạo được một niềm tin bền chắc vào cái mới. Đó là thái độ tìm kiếm hơn là khẳng định. Từ đó, giọng điệu ngả sang phía cật vấn, hoài nghi như một hệ quả tất yếu: các nhân vật thường xuyên đặt câu hỏi với chính mình, với những nhân vật khác, với cả chính người viết và người đọc. Trong các tác phẩm Tấm ván phóng dao, Thoạt kỳ thủy, T. mất tích, Giữa vòng vây trần gian... hầu như đều là những câu hỏi còn bỏ ngỏ về thân phận và cuộc đời con người, là những cuộc tìm kiếm bản ngã và cá tính, hạnh phúc và bình yên, niềm tin và lẽ sống còn dở dang, đầy bất an, chưa đến hồi kết thúc.


5. Sự nhoè mờ ranh giới thể loại, sự xâm nhập của các thể loại khác vào cấu trúc nội tại của tiểu thuyết cũng là một nét nổi bật đáng ghi nhận của tiểu thuyết hôm nay. Như Bakhtin đã nhận định: “Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng ta chưa thể dự đoán được hết những khả năng uyển chuyển của nó”. Khả năng phối kết, thu hút các thể loại khác khiến cho tiểu thuyết luôn có xu hướng đổi mới cả về khả năng lẫn nhu cầu khai thác tiềm năng của chính nó. Từ trước đến nay, dung lượng của tiểu thuyết vẫn được coi là một trong những tiêu chí cơ bản để phân biệt nó với các loại hình văn xuôi như truyện ngắn, truyện vừa... Nhưng có một hiện tượng mà người đọc dễ nhận ra là có khá nhiều tiểu thuyết ngắn xuất hiện ở những năm đầu thế kỷ XXI. 
 
Phần lớn các tiểu thuyết đã thu gọn cái “thân xác bề thế” của nó. Từ phía người sáng tác, Tạ Duy Anh, tác giả của các tiểu thuyết ngắn đã nhận định: “Xu hướng ngắn, thu hẹp bề ngang, vừa khoan sâu chiều dọc, đa thanh hóa sự đối thoại, nhiều vỉa ý nghĩa, bi kịch thời đại được dồn nén trong một cuộc đời bình thường, không áp đặt chân lý là dễ thấy. Tiểu thuyết ít mô tả thế giới hơn là tạo ra một thế giới theo cách của nó. Ở con người có thể chiêm ngưỡng mình từ nhiều chiều hơn là chỉ thấy cái bóng của mình đổ dài xuống lịch sử”. Mặt khác sự thu hẹp dung lượng của tiểu thuyết còn phụ thuộc vào sự tương ứng giữa hình thức nghệ thuật với tinh thần của cái hiện thực mà nó phản ánh. Đó là cái hiện thực rời rạc, phân mảnh mà các tiểu thuyết gia hôm nay tìm thấy nơi ẩn náu phù hợp với các mảnh tự sự rời rạc tựa như các truyện ngắn riêng rẽ được lắp ghép thành một sinh thể tiểu thuyết. Trong đó, mảnh này suy tư, liên tưởng về mảnh kia, đoạn này chồng chéo lên đoạn kia tạo nên sự pha trộn, xâm nhập của truyện ngắn kịch, tiểu luận triết học, thơ ca, báo chí, nhật ký, huyền thoại vào tiểu thuyết, tạo nên cấu trúc phức hợp. Ở đây vấn đề “thay đổi dung lượng” cũng liên quan mật thiết với vấn đề xâm nhập của các thể loại khác vào cấu trúc nghệ thuật của tiểu thuyết.


Trong các tiểu thuyết Tấm ván phóng dao, Trí nhớ suy tàn, Thoạt kỳ thủy, người đọc nhận ra chất thơ thẩm thấu vào cơ cấu bên trong của tác phẩm. Sự xâm nhập của tiểu luận triết học trong tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Hồ Anh Thái khiến tác phẩm mang một giọng điệu trầm tư, giàu suy ngẫm, kích thích cảm hứng đồng liên tưởng, sáng tạo của chủ thể tiếp nhận.


6. Sự làm mới cách thức thể hiện tiểu thuyết với hiện tượng liên văn bản xuất hiện một cách thường xuyên ở nhiều cấp độ và dạng thức khác nhau tạo nên kiểu kết cấu truyện lồng truyện. Hình thức văn bản trong văn bản góp phần tạo nên những tiếng nói khác nhau, mở rộng trường nhìn, đa dạng hóa cấu trúc của tiểu thuyết. Với hình thức này, tác phẩm sẽ tạo nên sự liên thông giữa thế giới thực và thế giới ảo (Đi tìm nhân vật, Thoạt kỳ thủy...) và nhân vật trong tiểu thuyết sẽ “được sống lập thể” ở nhiều thế giới khác nhau, nhập nhiều vai khác nhau, các giới hạn không gian, thời gian do vậy được mở ra đến vô hạn (Paris 11 tháng Tám, Và khi tro bụi, Đức Phật, nàng Savitri và tôi...).


Từ sau thời kỳ đổi mới và nhất là trong những năm gần đây, đổi mới tư duy tiểu thuyết ở các nhà văn đã dẫn đến những cách tân quan trọng trên cả phương diện nội dung và hình thức, đặc biệt ở hình thức, ở quan niệm về chất liệu, làm mới ngôn ngữ tiểu thuyết hướng tới tính hiện đại, thậm chí hậu hiện đại của văn học thế giới. Tác động của các tiểu thuyết hướng tới sự cách tân triệt để đã ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề tiếp nhận văn học của độc giả đương đại. Với người đọc nói chung, các tiểu thuyết viết theo lối mới, đặc biệt những tác phẩm có sự kết hợp hiệu quả của cách thức diễn đạt với nội dung mang tính nhân văn sâu sắc đã tạo ra một “trào lưu văn hóa đọc” khá sôi nổi trong công chúng (Giàn thiêu - Võ Thị Hảo, Mẫu thượng ngàn - Nguyễn Xuân Khánh, Mười lẻ một đêm - Hồ Anh Thái, Tấm ván phóng dao - Mạc Can, Dưới chín tầng trời - Dương Hướng, Thượng đế thì cười - Nguyễn Khải). Chính điều này sẽ góp phần nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và “tầm đón đợi mới” với thể loại của người đọc, rút ngắn khoảng cách đẳng cấp của người đọc. Tuy nhiên có một vấn đề đặt ra ở đây là không phải tiểu thuyết cách tân nào cũng có độc giả. Trên thực tế, đã có không ít tác phẩm “gây sốc” với “tầm đón đợi truyền thống” của người đọc. Do cái mới không dễ được chấp nhận, do một số thể nghiệm còn rơi vào cực đoan, người đọc như lạc vào mê cung của các con chữ.


Có thể nói bên cạnh những thành tựu mà tiểu thuyết đạt được cũng đồng thời có những giới hạn của nó ở cả tiểu thuyết theo hướng cách tân và theo thi pháp truyền thống. Ở tiểu thuyết cách tân nhìn chung có sự hấp dẫn vì yếu tố lạ và mới, đặc biệt là về kỹ thuật nhưng đọc không dễ. Ở tiểu thuyết theo hướng truyền thống có những tiểu thuyết hay, được độc giả ưa thích như Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn… nhưng cũng không thể không nói đến những cuốn còn nghiêng về tái hiện hiện thực theo hướng “nệ thực”, ở một góc độ nào đó đã “bật đèn đỏ”, không tạo điều kiện cho các nhà văn có thể phát huy sức mạnh của trí tưởng tượng, của hư cấu nghệ thuật, đem đến cái nhìn nhiều chiều kích của không gian, thời gian về lịch sử và con người. Vấn đề của tiểu thuyết không chỉ là kỹ thuật, cái mới, không chỉ là tái hiện hiện thực một cách sinh động và chân thật. Tiểu thuyết vẫn cần những tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật, phù hợp và đáp ứng tầm đón đợi của người đọc đương đại


B.T

THỤY KHUÊ * NHỮNG NGƯỜI VIẾT TRẺ



Thụy Khuê

Tình thế những người viết trẻ hôm nay


Trước khi giới thiệu và phân tích tác phẩm một số ngòi bút trẻ xuất hiện những năm gần đây đã mang lại nguồn sinh lực mới cho văn học, chúng ta thử nhìn lại tình hình sinh hoạt sáng tác chung trong hai thập niên qua. Có thể chia khoảng thời gian từ 1986 đến 2006 làm ba giai đoạn với ba thế hệ nhà văn khác nhau, quy tụ những ngòi bút đã tạo được một phong cách nghệ thuật của riêng mình.


Trong thời kỳ được gọi là đổi mới, ba tên tuổi Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài nổi bật trong cách đoạn tuyệt với lối viết hiện thực tô hồng quen thuộc cũ; để nói lên sự thực bằng hình ảnh, bằng biểu tượng, bằng ẩn dụ, bằng ký hiệu ngôn ngữ. Một mặt, họ vừa phản ảnh được bộ mặt thật của xã hội như các nhà văn Dương Thu Hương, Lê Lựu, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Quang Lập, v.v... mặt khác, họ đưa ra lối viết độc đáo, trình bày hiện thực khác hẳn những người đương thời. Nguyễn Huy Thiệp tạo khuynh hướng cực thực sắc bén, ngôn ngữ phũ phàng, cô đọng và đã ảnh hưởng sâu xa đến những người đi sau. Bảo Ninh có lối viết trữ tình bi đát rất độc đáo về chiến tranh, nhưng nỗi buồn cũng như văn phong của Bảo Ninh ít ai bắt chước được. Phạm Thị Hoài hình thành thế giới ngôn ngữ mặn, đắng, chua, chát đối chất với thứ ngôn ngữ nhạt, vô vị, lưỡi gỗ của xã hội đương thời, quật khai hệ thống ngôn ngữ tự do sống động và ý nhị của người dân Hà Nội. Phạm Thị Hoài cũng đã ảnh hưởng sâu xa đến một số người viết sau, đặc biệt phái nữ.


Cùng thời điểm đó, ở hải ngoại xuất hiện Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác, bộ trường thiên tiểu thuyết đồ sộ của văn học Việt Nam trong khoảng ba mươi năm gần đây, mô tả cuộc sống và tâm trạng người dân thành thị miền Nam trong suốt 20 năm (1960-1980). Tác phẩm xác định bản chất của người dân miền Nam trong chiến tranh và hòa bình.


Thế hệ thứ nhì -với những tên tuổi như Nguyễn Bình Phương, Bùi Hoằng Vị, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà... ở trong nước và Trần Vũ, Đỗ Khiêm... ở ngoài nước- ít nhiều chịu ảnh hưởng của Nguyễn Huy Thiệp trong khía cạnh: 1- sử dụng nhân vật lịch sử để đả phá sự tôn sùng lãnh đạo. 2- phơi bày mặt thật của xã hội dưới cái nhìn cực thực, tàn nhẫn không nhân nhượng, không thoả hiệp. Nhưng đặc biệt họ vận dụng hai yếu tố mới: tưởng tượng và huyền ảo. Nguyễn Bình Phương ném hoả mù huyền ảo về một vùng đất mà con người bị vùi dập, đánh đập, tàn nhẫn, điên loạn từ lúc còn là thai nhi; vùng đất sản sinh ra những đứa trẻ chết già trong không khí máu mê truyền kiếp. 
 
Dường như Nguyễn Bình Phương có tham vọng viết lại lịch sử đẫm máu của dân tộc Việt Nam. Trần Vũ pha chế các nhân vật lịch sử trong không khí huyền ảo sống chết lộn sòng, trộn trạo quá khứ, hiện tại và tương lai thành những hoạt cảnh tàn khốc và phi lý của chiến tranh, của sự tàn phá văn hoá. Trong truyện Giáo sĩ Trần Vũ chế biến lịch sử truyền giáo, lịch sử thực dân, lịch sử chữ quốc ngữ, lịch sử Tự Lực văn đoàn thành một thứ potion magique, uống vào là bị tẩu hoả nhập ma. Đỗ Kh. -ngòi bút tài tử, globle-trotteur trong văn phong, trong tư tưởng, trong di chuyển, trong bút ký, truyện ngắn- mang lại cho không khí văn học căng thẳng và trầm trọng đương thời cái humour thiếu vắng, ánh mắt nhìn xa về thế giới bên ngoài, để người Việt có thể thấy nỗi đau của những dân tộc khác, hòng thoát khỏi sự tự xoa tự thán một ung nhọt đã tầy của chính mình.


Bùi Hoằng Vị hình thành thứ hiện thực bí mật chôn vùi dưới nhiều tầng, hiện thực "ngụy", hiện thực chui của những thực thể không có quyền phát biểu. Hoằng Vị mô tả điều kiện sống của những người ở dưới tầng trệt thiên đường, một loại công dân hạng nhì sau ngày họ bị giải phóng. Nguyễn Việt Hà trở thành cây bút biếm họa chua cay về bộ mặt bát nháo của xã hội "mở cửa" đương thời. Trường hợp Tạ Duy Anh rất điển hình, những tác phẩm đầu tiên của anh như Bước qua lời nguyền, Lão Khổ, vẫn còn nằm trong không khí hiện thực truyền thống, nhưng đến tiểu thuyết Đi tìm nhân vật (2002), Tạ Duy Anh viết theo cấu trúc mở, đưa người đọc vào những mê lộ đầy bí ẩn, không lối thoát, tác phẩm bao trùm những khía cạnh tối tăm của con người mặt nạ, sống trong một xã hội mật vụ luôn luôn bị theo dõi, hoặc chính mình đi theo dõi người khác. Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh bị chính thức cấm bán, cấm bàn.


Trừ trường hợp Nguyễn Việt Hà và Đỗ Kh. viết dễ đọc, đặc điểm chung của những ngòi bút trong thế hệ thứ hai này là giấu kín hiện thực dưới một thứ bút pháp thần trú, khiến độc giả phải đọc đi đọc lại nhiều lần mới mong tìm ra manh mối, nhất là Nguyễn Bình Phương và Bùi Hoằng Vị.


Tại sao họ lại phải viết kín đáo đến độ khó hiểu như vậy? Có hai lý do: Nhà văn trong nước không thể trình bày trực tiếp sự thực xã hội, sự thực lịch sử, họ phải tìm con đường an toàn hơn bằng cách viết kín, viết khó hiểu, để ít nhất người duyệt không thấy được ngụ ý sâu xa trong tác phẩm. Lý do thứ nhì thuộc về sự đòi hỏi của văn chương hiện hành: các tác phẩm hiện đại thường muốn có cấu trúc mở, hàm chứa nhiều nghiã, nhiều cách đọc và cách hiểu khác nhau. Một tác phẩm mở như vậy chắc chắn khó đọc hơn tác phẩm truyền thống, bắt người đọc phải cộng tác, phải tìm kiếm, phải suy nghĩ.


Nhà nước không có chính sách kiểm duyệt công khai, nhưng tất cả những tác phẩm đụng đến chiều sâu của sự thực như Truyện kể năm hai ngàn của Bùi Ngọc Tấn, Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh, Tuổi hai mươi yêu dấu của Nguyễn Huy Thiệp... trong những chừng mức khác nhau, cách thể hiện khác nhau, đều bị loại trừ. Tập Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu vừa in xong đã bị đánh tơi bời, Nguyễn Ngọc Tư bị kiểm thảo vì Cánh đồng bất tận. Tuy nhiên, mọi người vẫn có thể tìm đọc các tác phẩm giá trị bị cấm qua hệ thống in chui hoặc trên mạng internet.


Tình trạng này dẫn đến phản ứng sau đây của một số nhà văn trong thế hệ thứ ba: nhiều người hướng về khiá cạnh sex, hoặc ngôn ngữ tục, hoặc cả hai. Ở ngoài nước, có lẽ vì muốn biểu hiệu cái gọi là tự do tư tưởng đến muộn; còn ở trong nước, rất có thể bởi vì ai cũng biết những chủ đề chính trị xã hội, không thể có đất sống, người viết bèn xoáy bút xuống những hoạt động hạ bộ của cơ thể, cũng là một cách xác định tự do. Điều đó ít nhiều giải thích hiện tượng lạm phát tình dục, lạm phát chữ tục, trong văn chương hiện nay. Nhưng con đường này khá gian nan.


Nếu người viết chủ ý dùng "chữ tục" để chống lại những "chữ giả" trong thứ đạo đức giả hình của một xã hội cổ hủ, của nền chính trị giáo điều, thì nhất thiết phải có một "tay nghề", một nội lực thâm sâu, một nghệ thuật cao cường xuất chúng. Trên văn đàn kim cổ đã nhiều người dùng độc trị độc như thế: Hồ Xuân Hương hoặc xa hơn nữa François Rabelais. Tại sao họ thành công? Bởi họ rất trào tiếu. Cả hai đều dùng chữ tục và điểm vào sinh hoạt phần dưới của con người để đả phá những tệ đoan xã hội, Rabelais thời Trung cổ và Hồ Xuân Hương cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Tác phẩm của họ chuyên chở cả cười lẫn tục trong một cấu trúc nghệ thuật, ngôn ngữ và tư tưởng hoàn mỹ.


Kinh nghiệm cho thấy tất cả những chuyện tiếu lâm dân gian, được truyền tụng từ đời này sang đời khác, cũng thế, bởi chúng pha trộn hai yếu tố cười và tục như một cặp phạm trù không thể tách rời, hai yếu tố bổ túc cho nhau như âm với dương, như phải với trái. Nếu bạn chỉ nói tục, viết tục không thôi, mà bạn không có humuor thì những cái gì bạn nói hoặc viết ra sẽ chỉ là những lời lẽ thô tục, nghiã là nghe xong, đọc xong người ta khó chịu rồi quên ngay.


Nhưng khi cái tục đi đôi với cái cười thì lại khác: Tục được hoá giải. Bởi tất cả những gì trịnh trọng đều cần được hoá giải bằng tiếng cười: ví dụ chính trị và làm tình là những động tác hết sức "trịnh trọng", trịnh trọng bậc nhất. Bạn không thể cười khi đăng đàn diễn thuyết chính trị; bạn cũng không thấy ông Tổng Bí Thư nào cười khi đọc diễn văn, và đố bạn cười khi làm tình. Để biểu hiện những sinh hoạt có tính chất trịnh trọng, tuyệt đối căng như vậy, cần phải có một sự trung hoà, giải nhiệt. 
 
 
Chất giải nhiệt là tiếng cười. Hầu như các tác giả kiệt xuất trong văn chương xưa và nay đều biết xử dụng tiếng cười như một lợi thế hàng đầu của nghệ thuật, của đấu tranh. Cho nên những hệ thống giáo điều cổ sơ nhất như giáo hội, luôn luôn cấm cười. Những cuốn sách cười đầu tiên của nhân loại bị giáo hội cấm. Các chế độ toàn trị sau này chẳng sáng tác ra điều gì mới, họ bắt chước giáo hội thời cổ. Dưới các thể chế dân chủ, người dân- ngoài diễn văn trịnh trọng của các vị lãnh đạo (đảng phái đối lập hoặc cầm quyền) chỉ thừa dịp là rót vào tai- còn được nghe, đưọc thấy nghệ sĩ nhái lại giọng điệu trịnh trọng các vị đó trên các kênh truyền thanh truyền hình đại chúng. Đó là phương thuốc giải nhiệt đắc lực, bình dân và không tốn kém.


Cho nên, nếu muốn chống lại sự độc tài bằng chữ tục hay bằng các sinh hoạt hạ bộ, thì có lẽ không gì bằng tiếng cười, và chúng ta nên học cái humour cao cường của những người đi trước. Chính cái cười mới là thượng sách, là nòng cốt chống lại các sự trịnh trọng giáo điều. Còn vài ba chữ tục, lẻ tẻ, tung ra rải rác trong văn xuôi, văn vần, không ăn thua gì, đôi khi đặt không đúng chỗ, còn làm cho người đọc khó chịu, gây tác dụng ngược chiều. Bút Tre và Đồng Đức Bốn có những câu thơ tục tuyệt tác. Đỗ Kh. đôi khi cũng có những câu thơ tục dí dỏm. Đó là những người có "uy-mua". Tiếc rằng văn nghệ của chúng ta thiếu các cây bút "uy-mua" như thế, cho nên những lời tục thường thấy trên báo chí sách vở hiện nay phần lớn chỉ là những lời tục tĩu, vô vị.

Điểm thứ nhì, về những sự được gọi là "hot", những màn sex "táo bạo", trong truyện ngắn, truyện dài hiện nay. Dường như ở đây cũng lại có sự thi đua, sự lạm phát, có lẽ vì người viết chưa thấu rõ ý nghiã và bản chất của văn chương.

Phê bình văn học không chú ý đến những màn này, bởi chúng ở ngoài văn chương. Roland Barthes -dẫn tư tưởng của Lacan, Leclaire- có ý cảnh cáo những ngòi bút thiên về khuynh hướng mô tả khoái lạc. Khi đối chất le texte de plaisir (văn bản thú vị, văn bản gây khoái cảm) với le texte de jouissance (văn bản khoái lạc), Barthes cho rằng: "Cái thú vị, cái khoái cảm thì nói được, còn cái khoái lạc không nói được, nó tự cấm " (Le plaisir est dicible, la jouissance ne l'est pas. La jouissance est in-dicible, inter-dite). Tại sao? Bởi kẻ đang nói (hay viết) thì không (hưởng thụ) khoái lạc mà kẻ đang (hưởng thụ) khoái lạc thì không nói (viết). Nhà văn và người đọc (văn bản thú vị) đều chọn chữ nghiã, cho nên không thể chọn khoái lạc. Và "phê bình văn học chỉ chú trọng đến những văn bản thú vị, không bao giờ để ý đến văn bản khoái lạc (...) Phê bình cấm trình bày khoái lạc." (La critique porte toujours sur des textes de plaisir, jamais sur des textes de jouissance (...) La présentation de la jouissance lui est interdite [Trích Le plaisir du texte( Thú đọc sách) Roland Barthes, trang 32]. Nhận xét của Barthes rất thú vị và chí lý.

Các ngòi bút chuyên trị khoái lạc luôn luôn vô ích với văn chương. Văn bản của họ không thú vị. Không là đối tượng của phê bình.

***
 
Trở về với những nhà văn trong thế hệ thứ ba mà chúng tôi chọn để giới thiệu, nét đầu tiên nổi bật và khác biệt đối với thế hệ thứ nhì là nếu thế hệ trước toàn cây bút nam, thì ở thế hệ này (phần lớn sinh trong thập niên 80), lại toàn là nữ. Những ngòi bút mới này vừa có nghệ thuật, vừa can đảm. Đa dạng trong cách trình bày hiện thực, chú ý đến nhiều khía cạnh khác nhau của xã hội đương thời và can đảm nói lên những điều đáng nói, không sợ sức ép của tư tưởng bảo thủ và hệ thống kiểm duyệt lỗi thời. Họ đã viết hoặc đang viết những tác phẩm vượt ra ngoài khuôn xáo cũ, như Ly Hoàng Ly, Vi Thùy Linh, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư, Lynh Bacardi, Đình Đình, Phạm Ngọc Lương. Có người đã thành danh, có người mới viết. Vấn đề chính là làm sao tồn tại. Tiếp tục và tồn tại. Ở hải ngoại, Nguyễn Thị Thanh Bình, một ngòi bút nhiều kinh nghiệm cũng vừa đưa ra những truyện ngắn mới, khác hẳn lối viết trước đây của chị.


Giới thiệu một số những ngòi bút mới xuất hiện trong vài năm gần đây, tiêu biểu cho sự đổi mới tầm nhìn, đổi mới văn phong và đổi mới chính mình, chúng tôi muốn trình bày một diện mạo văn học mà số đông độc giả chưa có dịp tiếp cận, nhất là độc giả trong nước, bởi nó khác hẳn những gì đang được chính thức công nhận. Tiếng nói của những nhà văn trẻ qua phần phỏng vấn (nếu thực hiện được) cho thấy nguyện vọng và tình hình sinh hoạt của những cây bút mới hiện nay ở trong nước. Những chương trình này đã được truyền thanh liên tiếp trên RFI từ đầu năm 2006 đến nay, chúng tôi ghi lại để gửi đến độc giả Hợp Lưu.


Thụy Khuê
Paris, tháng 9/2006
© Copyright Thụy Khuê 2006

NGUYỄN XUÂN HOÀNG * VÀI HIỆN TƯỢNG TRONG VĂN HỌC

VÀI HIỆN TƯỢNG TRONG VĂN HỌC Nguyễn Xuân Hoàng




Nếu lấy những năm 1945, 1954, 1975 – những dấu mốc của lịch sử Việt Nam đương đại - làm dấu mốc cho Văn Học Việt Nam thì điều ấy cũng không lấy gì làm sai lắm.
1945: văn học kháng chiến và văn học đô thị; 1954: văn học ngoài bắc văn học trong nam, và đến năm 1975: Văn học trong nước và văn học ngoài nước, mà ta vẫn thường gọi là văn học hải ngoại .
Trong khi văn học đô thị và văn học kháng chiến chỉ kéo dài có 9 năm, văn học trong Nam-ngoài Bắc kéo dài 21 năm, thì văn học trong nước và ngoài nước tính đến nay đã là 30 năm. Và không biết còn kéo dài bao nhiêu năm nữa .


Ba mươi năm ấy nhìn la .i – cả trong và ngoài nước – chúng ta có khá nhiều tác giả, nhiều đầu sách, nhưng dường như không có tác phẩm nào lớn, theo nghĩa đưa được văn học Việt Nam hoà nhịp vào dòng văn học thế giới . Tại sao ?
Ba mươi năm, sau một cuộc chiến tàn khốc, bao nhiêu xương máu đã đổ xuống, bao nhiêu nước mắt, chia lìa, đau đớn và đau khổ. Cả bên này lẫn bên kia . Thử tưởng tượng [tôi không nghĩ chỉ là tưởng tượng đâu!] trên bàn thờ của một gia đình Việt Nam, bà mẹ đốt nhang trước chân dung hai đứa con, một người lính Cộng Hoà và một người lính Cộng Sản. Hai kẻ thù ngoài mặt trận là hai đứa con yêu của một bà mẹ. Không phải là cái thắng của một chủ nghĩa hay là cái thua của một thể chế, với bà mẹ, đây là nỗi đau hai mặt: cái chết của hai đứa con mang cùng huyết thống đứng trên hai chiến tuyến đối nghịch!


Khi cuộc chiến chấm dứt, nỗi mừng của người thắng trận cũng mang theo nỗi đau của người thua trận. Những vinh và nhục, không phải chỉ một cá nhân, một gia đình mà cả một dân tộc phải mang theọ Và kỳ lạ thay, những bài học mới cho cả hai phía: cái được cho người thua và cái mất cho người thắng.
Nếu tủi nhục và xót xa, cho người này; hãnh tiến và quyền lực cho người kia, thì cái được và cái mất nào cho một bà mẹ trong hoàn cảnh bi thương trên?
Hãy đếm xem có bao nhiêu người trai trẻ bỏ xác trên đường Trường Sơn, bao nhiêu người chôn vùi trong lòng biển cả, bao nhiêu là nạn nhân của hải tặc bạo tàn; bao nhiêu người trong lao tù khổ ải, nhà giam bên này, trại cải tạo bên kia,…chắc rồi cũng sẽ có lúc phai đi theo năm tháng nhưng làm sao mất hẳn trong trí nhớ lịch sử.
Sự đổi đời lớn lao, cắt da xé thịt, một thế hệ lớn lên, thành đạt ở đất nước ngoài Việt Nam, hay vùng vẫy vươn lên trong một đất nước đang còn thay da đổi thịt, thế nhưng văn học chúng ta bên này, bên kia vẫn chưa có tác phẩm ngang tầm với thời đại . Tại sao ?
Đó là một câu hỏi khá lớn cho một bài viết nhỏ. Tôi chỉ muốn giới hạn mấy suy nghĩ quanh vài hiện tượng văn học gần đây trong và ngoài nước để may ra tìm cho nó một câu trả lời .


Trước hết là chuyện Hoa Thủy Tiên trong bài Trò Chuyện Với Hoa Thủy Tiên và Những Nhầm Lẫn của Nhà Văn - trên bán nguyệt san Ngày Nay, Hà Nội [các số 4, 5, 6 các ngày 15/2/2004, 1/3/2004 và 15/ 3/2004] của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Bài viết thực sự đã gây một chấn động lớn trong giới văn học trong nước và ta .o ra những phản ứng nhiều tầng và nhiều hướng. Ông viết: “Khoảng hơn hai chục năm trở lại đây, ở Việt Nam không có những nhà văn có phong độ, khí phách lớn. Đến ngay cả những nỗi buồn cũng không phải là những nỗi buồn lớn. Thái độ hời hợt của xã hội với văn học, cách tiếp nhận của xã hội đối với các giá trị văn học cũng làm mất đi cảm hứng ở nhiều nhà văn nhiệt thành. Đấy là chưa kể đến sự tráo trở và lạnh lùng của cơ chế thị trường vẫn chẳng nể nang gì ai cả.”
Vậy thì văn học Việt Nam hiện nay thiếu gì? Nguyễn Huy Thiệp trả lời “văn học thiếu vắng những tham vọng to lớn”…. “Văn học luôn tránh né một vấn đề nan giải khó nói nhất trong xã hội: không phải khó khăn kinh tế, không phải sex, không phải là tình cảnh chiến tranh… Nó là vấn đề nhân tính. Văn học Việt Nam gần đây mất đi khả năng tưởng tượng, lãng mạn, mơ mộng và nhiệt huyết sống. Nó trở nên thực dụng, ê chề, lọc lõi, oái ăm, đôi khi đểu cáng.”
Để có một nhà văn có giá trị nhân đạo [có lẽ Nguyễn Huy Thiệp muốn nói nhân bản], ông viết, phải dựa vào nhiều yếu tố, không phải chỉ là nỗ lực cá nhân và tự phát, “năng khiếu” như lâu nay người ta vẫn tưởng. Đã đến lúc phải nghĩ đến một týp nhà văn khác: lớp nhà văn trí thức của một xã hội phát triển. Họ viết văn có bài bản, có lý luận, lý lẽ chứ không mò mẫm. Trước đây, ở Việt Nam hầu như chưa có những điều kiện xã hội để xuất hiện týp nhà văn nàỵ Theo ông, văn học giá trị bao giờ cũng đề cao nhân tính, và, một xã hội không có những tác phẩm văn học hay, không có những tác phẩm văn học giá tri . nghĩa là nhân tính mất đi.. . Trách nhiệm đó không phải chỉ ở một người nào mà nó ở toàn xã hội . [bđd].
Đánh giá nền văn học trong nước bằng cái nhìn từ trong, Nguyễn Huy Thiệp viết: “Nhìn vào danh sách hơn 1,000 hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam người ta thấy đa số đều chỉ là những người gìa nua không có khả năng sáng tạo và hầu hết đều… “vô học”, tự phát mà thành danh. Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ, tức là những người chỉ dựa vào “cảm hứng” để tùy tiện viết ra những lời lẽ du dương, phù phiếm vô nghĩa, nhìn chung là lăng nhăng, trừ có dăm ba thi sĩ tài năng thực sự (số này đếm trên đầu ngón tay) là còn ghi được dấu ấn ở trong trí nhớ người đời, còn toàn bộ có thể nói là vứt đi cả.” [bđd].
Chính những dòng chữ này của Nguyễn Huy Thiệp, trong phần thứ ba của bài viết, là ngòi thuốc nổ tạo thành một chấn động liên lỉ.


Chuyện Hoa Thủy Tiên mới nở chưa kịp tàn thì nổ tiếp chuyện “Cái nước mình nó thế!” của Hoàng Ngọc Hiến - giáo sư đại học, nhà nghiên cứu phê bình văn học, tác giả của một nhận định từng làm rung động giới văn học trong nước những năm 80 khi ông đưa ra cụm từ “hiện thực phải đạo”.
Đây là bài phỏng vấn do Phạm Thị Hoài và Trương Hồng Quang thực hiện trên Talawas. Một bài phỏng vấn đậm đặc sôi nổi và mở ra nhiều cánh cửa trong đời sống văn học trong nước. Nó không chỉ liên quan đến những người cầm bút [trong nước] mà còn liên quan đến cả giới chức văn hoá và chính trị . Nổ tung như tạc đa .n, nếu có thể gọi như thế.
Từ Nguyễn Huy Thiệp với bước đầu đi vào thế giới văn chương –đến nhà thơ nữ Xuân Quỳnh, người phụ trách mảng văn xuôi nhà xuất bản Tác Phẩm Mới [tiền thân của Hội Nhà Văn bây giờ], và Nguyễn Duy, Thu Bồn. Rồi Nguyễn Minh Châu, Hà Minh Đức, đến Chế Lan Viên, Tố Hữu, Lưu Quý Kỳ, Bùi Minh Quốc, Vũ Thi . Thường, Nguyễn Đình Thi, cả ông Lê Đức Thọ và Trần Độ..…
Phát biểu về Chế Lan Viên, ông Hiến cho rằng “Nhà thơ lớn nước mình cũng nhà quê, cũng trẻ con cả thôi, cả nước mình nó thế: Nhà quê và trẻ con.”
Hoàng Ngọc Hiến còn cho biết ”Trần Đăng Khoa [người từng nổi tiếng là nhà thơ thần đồng trước kia, đã] tìm mọi cách để hạ uy thế của Nguyễn Huy Thiệp. Đối với Trần Đăng Khoa thì Nguyễn Huy Thiệp là thằng cường hào địa chủ trong văn học cần lật đổ.” Theo ông, cái cách của Trần Đăng Khoa là thế này: “Nguyễn Huy Thiệp là người sắc sảo, trí tuệ ư? Không, sắc sảo trí tuệ cái gì, chỉ có phép nói ngược thôi . Anh nói trắng thì nó nói đen, anh nói phải thì nó nói trái, Thiệp nó chỉ có thế, chứ chẳng có trí tuệ gì…. Họ [Trần Đăng Khoa và những người như ông Khoa] muốn chôn, muốn đóng ván thiên cho Thiệp.” Và ông gọi ông Khoa là nông dân và trẻ con.
Ông cũng nhắc đến tên nhà thơ Hữu Thỉnh [phe bảo thủ, chống đối Nguyễn Huy Thiệp] và Hội Nhà Văn Việt Nam - một tổ chức của Đảng và là “một bộ máy quan liêu, lấn át tính chất nghề nghiệp”, nhưng ngưòi ta vẫn muốn vào Hội vì quyền lợi và được đi nước ngoài . Ông cũng nhắc đến Nguyễn Khoa Điềm, người ở trên đe dưới bu’a, nhắc đến dịch giả Lê Huy Bắc, nhân vật được coi là người giỏi tiếng Anh nhất trường Sư phạm, một trường đại học mẫu mực, trường điểm của nhà nước, tương lai của nền học thuật Việt Nam. Thế nhưng, ông Hoàng Ngọc Hiến cho biết bản dịch của ông Lê Huy Bắc, “một đoạn mười dòng của ông ấy đã có bốn cái contresens, tức dịch ngược hẳn ý của người ta .” Ông cũng nhắc đến Đặng Việt Bích, con trai ông Trường Chinh, muốn làm Viện trưởng trường Đại học Văn Hoá-Nghệ Thuật, nhưng không được vì “quá lười đọc sách, ngu dốt, ích kỷ, nhếch nhác.”
Một câu nói đáng ghi nhận của ông Hoàng Ngọc Hiến: “Theo tôi, dùng tiếng Việt chính xác mới là yêu tiếng Việt, mà cái yếu nhất trong văn học Việt Nam từ 1945 đến nay là không chính xác về từ ngữ. Toàn dùng những từ chung chung, từ khuôn sáo, không chọn được từ chính xác…”


Đó là chuyện văn học do người cầm bút trong nước nhìn từ bên trong. Còn nền văn học hải ngoại qua cái nhìn của người viết và người đọc ngoài nước thì sao ?
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác, tác giả hai bộ trường thiên tiểu thuyết đồ sộ Mùa Biển Động và Sông Côn Mùa Lũ, trong bài “Tình trạng lão hoá trong sinh hoạt văn học” [nxb Văn Mới, 2004] cho biết những nhà xuất bản uy tín trước đây [như Văn Nghệ, Thanh Văn, An Tiêm và mới nhất như Văn Mới] ngày càng ngại bỏ tiền xuất bản sách, nhất là loại sáng tác như thơ, tiểu thuyết. Số ấn bản trung bình chỉ lên đến 500, nghĩa là nếu bán hết may lắm lấy lại đủ vốn, cho nên dù sách xuất bản dưới nhãn hiệu nào, đa số trường hợp đều do chính tác giả bỏ tiền túi in lấy sách của mình. “Tình trạng ấy đưa đến một loạt phụ ứng: sách in ra nhiều nhưng chất lượng không bao nhiêu, nhu cầu quảng cáo để bán sách giết chết ngành phê bình, độc giả đứng trước rừng sách nhiều màu không biết nên mua sách nào sau nhiều lần “trao thân lầm tướng cướp” quyết định không mua sách nữa, không có người mua sách thì ngành xuất bản sa sút kéo theo động cơ thúc đẩy việc sáng tác… Cái vòng lẩn quẩn không lối thoát ấy có thể xảy ra cả trong nước, nhưng ở hải ngoại trầm trọng hơn do tình tra .ng lão hoá của sinh hoạt chữ nghĩa .”
Lão hoá theo Nguyễn Mộng Giác là khi người cầm bút chỉ nhằm viết cho những người cùng cảnh ngộ lưu vong như mình đọc, viết như lâu nay họ đã từng viết: “tiếc nuối một thời hoàng kim đã mất, xót xa trăn trở với những khổ ải đã trải qua, lật từng trang album bồi hồi với những kỷ niệm đẹp, mơ ước ngày trở về có khải hoàn môn dựng trên khắp nẻo đường và gặp lại một quê hương y nguyên như thời hoàng kim cũ…”
Có thể nói thêm là Lão hoá không chỉ ở người viết mà còn cả ở người đọc nữa, bởi vì ở hải ngoa .i số người đọc báo Việt và văn chương Việt ngày như một giảm xuống. Cứ nhìn vào các tạp chí văn chưong như Văn Học, Hợp Lưu hay Văn thì biết.
Đã đến lúc người viết nhận ra rằng tác phẩm của một nhà văn không chỉ nhắm vào một nhóm người, một cộng đồng nhỏ mà là cho cả một dân tộc nếu không có tham vọng có một readership lớn hơn, vượt khỏi biên giới của một quốc gia .
Những câu hỏi rất cũ đặt ra cho người cầm bút như Viết cho ai ? Viết cái gì? Viết như thế nào ? bây giờ vẫn còn có thể đặt lại trong một ý nghĩa mới . Nó không chỉ đúng cho người cầm bút hải ngoại mà theo Nguyễn Mộng Giác, nó còn đúng cả cho người cầm bút trong nước nữa . Ông kể lâu lâu xem một tạp chí hay một tuần báo văn chương trong nước, ông cảm thấy bị xúc phạm khi đọc hồi ký hay truyện ngắn của những cây bút Miền Bắc dùng những “nhân xưng miệt thị như “y”, “hắn”, “chúng”, “bọn nguÿ”, “thằng ngụy” y như trong thời chiến tranh. Rõ ràng là người viết văn ấy viết cho họ đọc với nhau, bất kể những thay đổi trong hơn một phần tư thế kỷ quạ “
Theo nhà nghiên cứu phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc [Chiến tranh, như một thi pháp, Talawas, 27/5/2004] thì trong văn hoá chiến tranh có ba điều đáng kể nhất: “chủ trương phi-nhân hoá kẻ thù, mỹ học về bạo động và đạo đức học về sự phá hoại .” Và trong quá trình phi-nhân hoá kẻ thù người ta tìm cách tước bớt chất ngưòi của kẻ thù bằng một hệ thống đại từ nhân xưng cực hạn chế: “thằng”, “con” và “mụ”…” Những biện pháp phi-nhân hoá kẻ thù như thế làm cho hành động giết người được miễn trừ trách nhiệm đạo đức: giết kẻ thù chỉ là giết một khái niệm, một con thú hay một kẻ chưa thành người vậy thôi .” [bđd].
Đào sâu hơn, Nguyễn Hưng Quốc cho rằng giới văn nghệ sĩ Việt Nam viết về chiến tranh ‘như một cách tái tạo la .i chi’nh mình’. “Những nỗ lực tái tạo ấy thay đổi theo thời gian và theo thời tiết chính trị chung quanh….. Nỗ lực tái diễn dịch và tái cấu trúc quá khứ như thế là hành động phổ quát ở hầu hết mọi người cầm bút. Bởi vậy, đối diện với đề tài chiến tranh, trong đó có chiến tranh Việt Nam, chúng ta không cần, không nên, và thật ra, cũng không thể đặt ra vấn đề chính xác trong việc tái hiện hiện thực.” Và ông kết luận: “Một cuộc chiến tranh có thể mang tính chính nghĩa hay phi nghĩa; nhưng một tác phẩm viết về chiến tranh thì chỉ có vấn đề hay hoặc dở mà thôi .” Và ông thêm, trong thế giới nghệ thuật, cái hay nhất bao giờ cũng được xem là cái đúng nhất. Chiến tranh và Hoà bình của Leo Tolstoi không phải là tác phẩm viết đúng nhất mà là tác phẩm viết hay nhất về cuộc chiến tranh Nga-Pháp. Và khi nó được xem là hay nhất, nó tự động được xem là chuẩn mực, từ đó, không phải chỉ có cuộc chiến tranh Nga-Pháp mà hầu hết các cuộc chiến tranh khác đều ‘bắt chước’ Chiến tranh và Hoà bình.” [bđd].
Cụ thể hơn, Hoàng Ngọc Tuấn trong một bài viết trên Hợp Lưu [số 71, tháng 6&7, 2003] có tựa đề “Văn chương về chiến tranh Việt Nam và nhu cầu sáng tạo bút pháp mới” cho rằng mặc dù “văn chương về chiến tranh Việt Nam cực kỳ phong phú về số lượng, chỉ có một số tác phẩm được xem là những thành tựu nghệ thuật.” Tại sao vậy ? Cũng như cách nhìn trên của Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc Tuấn cho biết phần lớn tác giả xem nhẹ giá trị sáng tạo nghệ thuật và đề cao “sự trung thực”, họ viết như một người lính hơn là như một nghệ sĩ văn chương, cũng giống như một bức ảnh rõ ràng và chính xác và một bức ảnh nghệ thuật có một khoảng cách rất xa . Trong gần hai thập niên trở lại đây, một số nhà văn đương đại của Hoa Kỳ đã nhận ra rằng không phải chỉ có một sự thật, mà có nhiều sự thật về chiến tranh Việt Nam và về bất cứ sự kiện nào xảy ra trong cuộc chiến ấy, và họ nỗ lực tìm kiếm những bút pháp mới có khả năng diễn tả cái hiện thực đa phương, đa tầng của lịch sử và cái tâm cảm cực kỳ phừc tạp của con người trong cuộc chiến ấỵ” [bđd]
Ông nêu ra cuốn tiểu thuyết Paco’s Story của Larry Heinemann làm ví dụ. Theo ông, Heinemann phù hợp với quan niệm thẩm mỹ hậu hiện đại, theo đó tác giả không chủ tâm đưa ra một phán xét chung cuộc nào cả, và độc giả phải đối diện với vô số khả thể diễn di.ch. Sau này, trong số những nhà viết tiểu thuyết hậu hiện đại về chiến tranh Việt Nam, Tim O’Brien với tiểu thuyết The Things They Carried (1990) là đáng lưu ý nhất. Theo Hoàng Ngọc Tuấn trong khi tuyệt đại đa số các nhà văn chiến tranh trong thời hiện đại nỗ lực chinh phục độc giả bằng những sự kiện và diễn biến “như thật” hoặc “hoàn toàn có thật”, O’Brien lại cố làm cho độc giả hoài nghi liên tục bằng những sự kiện và diễn biến không ngừng tự mâu thuẫn nhau.. Hơn thế nữa, ông còn xen vào câu chuyện để, một cách tỉnh táo, lật tẩy chính lối viết của mình.” [bđd]


Nhiều người trẻ gốc Việt hiện nay tại hải ngoại đã không viết bằng tiếng mẹ đẻ mà viết trực tiếp bằng tiếng Anh hoặc Pháp. Họ không đơn giản chỉ viết cho người ngoại quốc đọc. Họ viết như một nhà văn. Một trong những người trẻ cầm bút đó, nhà văn Nguyễn Quí Đức - hồi đầu tháng Ba, 2005, trước một chuyến đi công tác trong vùng Đông Nam Á cho một đài phát thanh tiếng Mỹ do anh làm chủ biên - nói rằng đối với giới trẻ, văn chương ngày nay không còn biên giới, nó đã ra khỏi cái đường biên quốc gia, tuổi trẻ của anh và những người trẻ hơn anh, nhận ra không còn nữa cuộc đối thoại đông và tây, không còn chuyện bắc và nam, không còn chuyện xung đột tôn giáo . Thế giới đã nhỏ hẹp với khoa học kỹ thuật tối tân ngày một biến ảo không lường. Đinh Linh có thời đến sống ở Ý Đại Lợi, đạo diễn lừng danh Trung quốc Trần Khải Ca đến Việt Nam. Đây là thời đại để người ta đi tới chứ không phải để người ta bước lui . Một phụ nữ Thái lấy chồng Đức và sanh con bên Pháp, hay một người Â’n chào đời ở Anh và đi học ở Mỹ. Vấn đề toàn cầu hoá đang là câu trả lời cho những câu hỏi cục bộ của người cầm bút đương thời .
Trước đây gần tám năm, Salman Rushie cũng từng đề cập đến vấn đề trên cho văn học Â’n Độ, trong một bài viết dành cho hợp tuyển Những tác phẩm văn học Â’n Độ điển hình: 1947-1997 [sau đó bài được Tạp chí Dân tộc Â’n Độ (India’s National Magazine) số ra ngày 9- 22/8/1997 kỷ niệm 50 năm ngày Â’n Độ độc lập, in lại .].
“Tiếng Anh là phương tiện giao tiếp thông dụng nhất thế giới; chẳng lẽ chúng ta lại không vui mừng về sự tinh thông của chúng ta về thứ ngôn ngữ mà uy thế của nó càng ngày càng lớn ma.nh. Việc lên án các nhà văn về những thành công của họ trong việc bứt phá các rào cản ngôn ngữ không khác việc làm của chủ nghĩa địa phương hẹp hòi là bao (chủ nghĩa địa phương có thể là thói tật chính của văn học bản địa .) Vai trò quan trọng của văn học được thể hiện ở chỗ, nó là phương tiện có thể tạo ra những cuộc đối thoại giữa các quốc gia trên thế giới…… Văn học sẽ có ít, hoặc chẳng có gì để nghiên cứu với những cái tên chỉ được biết đến trong nước của tác giả.” [Phạm Phương Chi dịch, http://evan.com.vn, 10/3/2005]. Cái nhìn của Salman Rushdie đối với văn học Â’n không khác mấy cái nhìn của Nguyễn Quí Đức đối với sự bế tắc của văn học Việt Nam.


Sau cái tạm gọi là sự “nhếch nhác” của văn học trong nước và cái “lão ho’a” của văn học hải ngoại, liệu văn học Việt Nam bao giờ mới có tác phẩm ngang tầm thời đại .
Phải chăng, để ra khỏi cái ngõ cụt ấy là một nền văn học Việt Nam viết bằng tiếng Anh, Pháp của người viết trẻ ở hải ngoại và sự tiếp thu nguồn văn hoá thế giới một cách chủ động của người viết trẻ trong nước?
Tháng Ba, 2005
NGUYỄN XUÂN HOÀNG



A.A.SOKOLOV * VĂN HỌC HẢI NGOẠI


Thứ Tư, ngày 12 tháng 2 năm 2014

Văn học Việt Nam ở hải ngoại, những vấn đề của sự phát triển hiện nay

  •   A. A. Sokolov
  • Thứ ba, 16 Tháng 4 2013 05:41
  • font size giảm kích thước chữ tăng kích thước chữ
1. Lời mào đầu
Lịch sử di tản của người Việt Nam đến các nước khác mà từ đó đã hình thành cộng đồng của người Việt Nam ở nước ngoài, tính được gần một thế kỷ. Tuy nhiên, sự xuất ngoại ồ ạt từ Việt Nam là một hiện tượng tương đối mới.
Cho đến nay chưa có sự thống kê chính xác về số lượng người Việt Nam hiện đang sống ở nước ngoài. Theo tài liệu của Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam, có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam đang sinh sống trong gần 90 nước trên thế giới, hơn nữa, khoảng 80%  tại các nước phát triển về mặt công nghiệp1. Phần lớn Việt kiều chọn Hợp chủng quốc Hoa kỳ và Canada làm nơi sinh sống, tiếp theo là các quốc gia Âu châu - Pháp, Đức, Ý, Hà Lan và Áo.
Số còn lại tìm nơi định cư tại châu Á - ở Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, hay một số nước Châu Phi và Nam Mỹ.
Việc người Việt Nam lưu vong trên thế giới đã diễn ra qua một số đợt và gắn liền với những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trước năm 1975, người Việt Nam chỉ mới lẻ tẻ di trú ở một vài nước. Những di dân đầu tiên dời khỏi nước Việt Nam hồi đó còn là thuộc địa, họ chủ yếu sinh cơ lập nghiệp ở Pháp với số lượng không lớn. Sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, chủ yếu vào những năm 1960-1970, các nhóm sinh viên từ miền Nam Việt Nam đến học ở Mỹ, Canada, Nhật, Ý và các nước tư bản khác theo kế hoạch trao đổi hoặc theo học bổng cũng như bằng tiền riêng của cá nhân. Một số sinh viên đã vĩnh viễn ở lại tại các nước đó.
Hiện nay một số lượng người Việt Nam đông nhất - gần 1 triệu người - đang sinh sống ở Mỹ. Xứ sở này được coi là một ví dụ về sự phát triển xã hội đa chủng tộc theo kiểu di trú. Trong số các nhóm tộc người vốn là bộ phận cấu thành  của Hợp chủng quốc Hoa kỳ hiện nay, người Việt Nam là một trong số những nhóm tộc người trẻ nhất. Sự hình thành của nhóm này bắt đầu từ nửa sau những năm 70 của thế kỷ XX, và gắn liền với một số đợt lưu vong chủ yếu từ các vùng ở miền Nam Việt Nam2
2. Điểm qua quá trình phát triển
Những giai đoạn hình thành của văn học Việt Nam ở hải ngoại.
Thời kỳ những năm 1975-1980 gắn liền với sự khởi đầu của việc gây dựng văn học của những người di tản Việt Nam ở nơi đất khách quê người.
Sau năm 1975, đa số các nhà văn miền Nam Việt Nam đã dần dần định cư ở Mỹ, Pháp, Châu Úc, Canada và các nước khác.  Đợt di tản đầu tiên gồm có những  người đại diện tiêu biểu nhất của văn học  nghệ thuật  miền Nam Việt Nam trước 1975. Đó là Mặc Đỗ, Nhật Tiến, Bình Nguyên Lộc, Nhã Ca, Duyên Anh, Lê Tất Điều, Nguyễn Mộng Giác, Thanh Nam, Túy Hồng, Nguyễn Tường Bách, Thế Uyên, Linh Bảo Nguyễn Thị Vinh,  Phan Lạc Phúc, Du Tử Lê, Viên Linh, Kiệt Tấn, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Duy( nhạc sĩ), Võ Đình( nhà văn và họa sĩ), Tạ Tỵ( họa sĩ và nhà phê bình), Đinh Cường(họa sĩ),  Khánh Ly( ca sĩ).
Nữ văn sĩ Mai Kim Ngọc từng kể lại rằng  những bước đi chập chững của mình  trong văn học được thực hiện ở trại tị nạn.
Hồi ấy, chúng tôi không nghĩ đến văn học… và có lẽ  đồng bào tôi cũng chưa nghĩ đến văn học. Tất cả những viết lách tôi thấy là những chuyện rất thiết thực, những bản tin chỉ dẫn nội quy của trại, những cẩm nang cho những người sắp rời trại về cách sinh hoạt trong một thành phố Mỹ, những chuyện đi xe buýt, chuyện gọi điện thoại, chuyện mua bán tại siêu thị vân vân và vân vân. Tóm lại những chuyện thuần túy thực dụng và cấp thời, chính xác và ngắn gọn như ngôn ngữ của những hoàn cảnh cấp cứu... Tuy tất cả những gì viết ra không phải là văn học, nhưng rất nhiều tác phẩm chúng ta đã viết với mục đích thực dụng, vẫn có giá trị văn học, không trực tiếp thì gián tiếp. Khi rời khỏi đất nước, ít ai trong số người đó nghĩ tới chuyện rồi đây sẽ sống ra sao. Lẽ cố nhiên, lúc đó chả còn đầu óc đâu mà nghĩ tới văn chương nữa. Nhiệm vụ chủ yếu đối với chúng tôi là sống được cái đã, bởi lẽ phải bắt đầu tất cả từ con số không?6
Những người Việt Nam đến Mỹ, ngoài gánh nặng tình cảm vốn gắn liền với việc chạy trốn khỏi quê hương xứ sở, còn phải trải nghiệm một cú sốc mạnh mẽ về văn hoá khi họ tiếp xúc với một hiện thực mới mẻ, xa lạ và khó hiểu. Xin dẫn ra đây một trích đoạn nữa cho thấy rõ tâm trạng của những người di tản:
Sự việc là thuở mới đặt chân đến Mỹ, chúng ta sống như trong một khoảng chân không văn hóa và tình cảm. Xung quanh chúng ta là một khung cảnh khác, luật pháp khác, phong tục khác, ngôn ngữ khác. Những ngày đầu ra khỏi trại, tiếng mẹ đẻ của chúng ta chỉ  còn dùng được giữa vợ chồng con cái. Ra khỏi cái vòng phấn nhỏ ấy7, tiếng Việt phải bỏ lại.
   Và tất cả cảnh sống ấy xa lạ không hẳn chỉ vì ngôn ngữ…Những người trong chúng ta thông thạo Anh ngữ ngay từ ở Việt Nam lại còn bàng hoàng hơn khi thấy các chương trình ăn khách trên các kênh TV, người Mỹ sinh hoạt với những quá trình hoàn tòan khác lạ, ta không hề dự phần… Họ xử án, họ vinh danh hay lăng mạ lãnh tụ của họ, họ giải trí họ vui họ buồn hoàn toàn khác chúng ta…
   Và ta nghĩ đến tâm sự riêng tư của mình. Cái vui cái buồn, cái làng xưa với bờ tre xanh với con sông nhỏ, với rừng dừa ven biển, với câu hát giọng hò…”8
Mặc dầu có sự khởi động của đời sống văn học, không mấy ai trong số các Việt kiều tin tưởng vào sự thành công của sự nghiệp mà họ đã gây dựng. Những lời sau đây của nhà văn Võ Phiến trong phần mở đầu cuốn Thư gửi bạn  (1976) là sự xác nhận cho những tâm trạng ấy;
Từ ngày bỏ nước ra đi, tôi đâu còn nghĩ đến chuyện nghệ thuật văn chương nữa” Ông giải thích “ Ai lại nghĩ xây dựng một sự nghiệp văn nghệ trong vòng vài trăm ngàn người, tản mát khăp mặt địa cầu, mỗi ngày một xa lạc ngôn ngữ dân tộc, xa rời cuộc sống dân tộc.” Viết với Võ Phiến lúc này chỉ là  để thỏa mãn một “ nhu cầu lẩm cẩm”9
Bước ngoặt trong tâm trạng của giới văn chương đã diễn ra muộn hơn.
Thời kỳ thứ hai của văn học Việt Nam ở hải ngoại bắt đầu vào năm 1980 và trùng hợp với sự xuất hiện của các "thuyền nhân" Trên các trang của tờ tạp chí "Văn", nhà văn Vũ Khắc Khoan đã nhấn mạnh: "những người này - những "thuyền nhân tị nạn" - bằng sự xuất hiện của mình đã khuấy động văn học và nghệ thuật Việt Nam ở hải ngoại, đã thúc đẩy sự vận động của nó tới một giai đoạn mới trong sự hình thành và phát triển."12
Nếu phần lớn dân tị nạn thuộc đợt thứ nhất gồm những người có mối quan hệ nhất định với Mỹ thì những người ở đợt di tản thứ hai phải tự đi tìm cách dời khỏi Việt Nam. Sau khi đến một quốc gia này hay một quốc gia khác ở Đông Nam Á, họ phải chờ đợi khá lâu để nước thứ ba cho phép họ chuyển đến. Và cái quy chế ấy của người tị nạn cũng như việc có được nó đã gây ra ở họ một cú sốc tinh thần sâu sắc, điều này, lẽ tất nhiên, đã được phản ánh trong sáng tác văn học sau này của họ.
Thời kỳ thứ ba(1982-1990), đã đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển tương đối ổn định của văn học Việt Nam ở hải ngoại. Số tác giả mới và số lượng sách được xuất bản đã gia tăng, những nhà xuất bản chuyên nghiệp đã ra đời, và đã xuất hiện một đời sống văn học thực thụ - phong phú và đa dạng. Có thể nói rằng thời kỳ này là thời kỳ thuận lợi nhất và có kết quả nhất trong lịch sử văn học Việt Nam ở hải ngoại.
Vào những năm đó số lượng tiểu thuyết được công bố còn ít. Tác phẩm đáng kể nhất trong thể loại này là bộ tiểu thuyết sử thi 5 tập Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác. Truyền thống của tiểu thuyết (theo cách hiểu của Châu Âu về thể loại này) trong văn học Việt Nam còn khá non trẻ. Để viết được những tác phẩm có quy mô như vậy cần phải có kinh nghiệm sống phong phú và tài năng, do đó, nhiều nhà văn lưu vong có thể bộc lộ mình rõ nét nhất trong các tác phẩm văn xuôi cỡ nhỏ.
 Với sự lưu ý tới tất cả những nhân tố đó, thể loại truyện ngắn về mặt lô gích đã trở thành thể loại dẫn đầu trong văn học Việt Nam ở hải ngoại. Hầu như tất cả các nhà văn mới đều là những cây bút truyện ngắn, trong số đó trước hết cần phải nêu lên những tên tuổi: Thế Giang, Trần Vũ, Vũ Quỳnh Hương v.v....
Vào thời kỳ phát triển tiếp theo, thời kỳ thứ tư (1990-1995) nhịp độ phát triển văn học Việt Nam ở Mỹ đã chậm lại và  ngày càng ít những tác giả mới xuất hiện, ngày càng ít những tác phẩm hay và có giá trị về mặt nghệ thuật được công bố.
Trong giới báo chí hải ngoại, vấn đề về tình trạng đình đốn trong đời sống văn học nghệ thuật của cộng đồng người Việt ở hải ngoại được bàn luận sôi nổi. Và rất nhiều người đã đi đến nhận định cho rằng căn nguyên của nó là những biến đổi chính trị đã diễn ra ở Việt Nam và trên thế giới nói chung. Sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và sự sụp đổ của Liên bang Xô viết, việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa CHXHCN Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa kỳ vào năm 1995, nước Việt Nam cộng sản dần dần hoà nhập với thế giới đã buộc văn học Việt Nam ở hải ngoại phải thay đổi.
Được bắt đầu từ năm 1995 và được tiếp tục cho tới ngày nay, thời kỳ thứ năm trong sự phát triển văn học của cộng đồng người Việt định cư ở Mỹ và ở một số nước khác nhìn chung gắn bó chủ yếu với những vấn đề sau đây:
- Tiếp tục duy trì văn học Việt Nam bằng tiếng mẹ đẻ và bảo tồn những cơ sở văn hoá- văn học Việt Nam đã hình thành tại các nước cư trú hiện nay.
- Sự hoà nhập của các tác giả Việt Nam vào đời sống văn học của nước mà họ đang sinh sống (đối với những người viết bằng tiếng Anh ở Mỹ, Canada và úc, bằng tiếng Pháp ở Pháp v.v....)
- Sự hồi hương (trở về Việt Nam) của các tác giả viết bằng tiếng Việt.
3. Những khuynh hướng chủ yếu của sự phát triển văn học Việt Nam ở hải ngoại
Hoài niệm và hội nhập
Nếu thử nêu lên vắn tắt tình hình văn học Việt Nam ở hải ngoại thì đó là sự phân chia rạch ròi của các nhà văn ra làm hai khuynh hướng mà quan điểm tư tưởng- nghệ thuật và sáng tác được định hướng vào quá khứ hay vào hiện tại. Từ khoá đối với các nhà văn thuộc khuynh hướng đầu là hoài niệm, còn đối với các nhà văn thuộc khuynh hướng thứ hai là hội nhập. Văn học Việt Nam ở hải ngoại được hình thành và tiếp tục tồn tại chính là trong cái hệ toạ độ ấy.
Trong những năm đầu tiên định cư trên đất Mỹ (1975-1979), hoài niệm đã trở thành chủ đề chính trong nhiều tác phẩm của các tác giả Việt Nam mà nét nổi bật là nỗi đau ly tán với quê hương xứ sở, sự cô đơn và sự vô vọng đối với tương lai. Những tình cảm ấy được thể hiện dễ dàng hơn trong thơ so với văn xuôi. Những sáng tác đầu tiên của các tác giả thuộc khuynh hướng này - như Thơ của Cao Tân và "Đất khách" của Thanh Nam -- đã xác nhận điều đó.
Những tình cảm tương tự của những người tị nạn xa xứ cũng được ghi lại trong văn xuôi - trong truyện ngắn và tùy bút của Võ Phiến ( Thư gửi bạn , Nguyên vẹn), của các tác giả khác như Tuý Hồng, Trùng Dương, Thanh Nam. Tuy nhiên, do những điều kiện khách quan của những năm đầu lưu vong, khi việc ra báo định kỳ và hơn nữa, việc xuất bản sách mới chỉ có những bước đi đầu tiên thì chính thơ ca với hình thưc thích hợp về mặt thể loại và hình tượng đã cho phép thực hiện một cách kịp thời nhất một nhiệm vụ khó khăn là thông báo cho những người đồng hương xa xứ về nỗi đau khôn nguôi của mình đối với cố hương.
Dần dần, nét lạc quan đã trở lại với thơ ca hải ngoại, phạm vi những vấn đề do các tác giả đề cập tới được mở rộng và (điều này rất tiêu biểu) trình độ tư tưởng- nghệ thuật của tác phẩm được nâng cao rõ rệt. Niềm tin vào sức mình đã trở lại với mọi người. Cuộc sống của họ ở xứ lạ bắt đầu có ý nghĩa, và điều đó thực ra đã được phản ảnh trong văn học.
Những thay đổi ấy thể hiện rõ nét nhất trong truyện ngắn của Hồ Trường An, tiêu biểu nhất trong số đó là Hợp lưu. Trong những truyện ngắn của mình, tác giả mong muốn truyền đạt nhịp độ và tâm trạng của cuộc sống mới, ở đó nỗi buồn và tiếng cười xen kẽ bên nhau, sự chiêm nghiệm trầm tư và sự hào hứng lao động "như Tây" vì hạnh phúc và sự phồn vinh tương lai của mình ở Mỹ ngày càng có hiệu quả. Nhờ những tác phẩm ấy, như nhận xét của một số nhà phê bình văn học, thái độ đối với quá khứ được ý thức một cách hợp lý hơn, còn thái đội đối với hiện tại và tương lai thì trở nên điềm tĩnh hơn.
Hiện thực dân tộc, hồi ký và tư liệu lịch sử
Ngay từ đợt di tản thứ nhất, trong văn học Việt Nam ở hải ngoại đã hình thành khá rõ ba dòng: 1. Dòng văn chương phong tục (một số nhà nghiên cứu đề nghị dùng các thuật ngữ hiện thực dân tộc  (etnorealisticheskij) hoặc văn hoá dân tộc  (etnokul'turuyj), 2. dòng hồi ký và 3. dòng tư liệu-lịch sử
Dòng đầu tiên gồm đại đa số tác giả là người miền Nam Việt Nam. Cốt truyện trong sáng tác của họ (chủ yếu là thể loại truyện ngắn) gắn liền vói cuộc sống hàng ngày của tầng lớp dân nghèo và trung lưu trong những năm dưới chế độ thuộc địa của Pháp (Hồ Trường An, Xuân Vũ, Ngô Nguyên Dũng, Huyền Châu, Nguyễn Văn  Ba), trong thời kỳ tồn tại của chế độ Việt Nam cộng hoà trước ngày 30/4/1975 (Kiệt Tấn, Hồ Trường An, Nguyễn Tấn Hùng) cũng như trong những điều kiện của chế độ xã hội chủ nghĩa mới sau khi nước Việt Nam thống nhất (Nguyễn Đức Lạp, Võ Kỳ Điện, Nguyễn Văn Sâm). Bên cạnh sự phong phú của  những chi tiết sinh hoạt rực rỡ, giàu hình ảnh của cuộc sống quá khứ ấy, họ đã sử dụng rộng rãi "ngôn ngữ hội thoại", điều đó rõ ràng góp phần thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của văn học Việt Nam ở hải ngoại, trước hết đối với việc giải quyết những nhiệm vụ sáng tác về mặt tư tưởng- nghệ thuật và triết học.
Dòng hồi ký trong văn học Việt Nam ở hải ngoại được hình thành cùng một lúc với việc cuộc sống của họ dần dần ổn định về mặt kinh tế ở Tân thế giới. Những cuốn sách này đã ghi lại quá khứ mới đây của nhiều nhân vật cao cấp trong chính quyền Sài Gòn cũ các tướng lĩnh (Nguyễn Cao Kỳ, Đỗ Mậu, Nguyễn Chánh Thi, Huỳnh Văn Cao, Trần Ngọc Nhuận v.v...) các chính khách (Bùi Diễm, Nguyễn Tiến Hưng, Trần Huỳnh Châu) và các văn nghệ sĩ (Phạm Duy, Duyên Anh, Nhã Ca). Tất cả những cuốn sách ấy chứa đựng (chăc chắn là ở mức độ khác nhau) tư liệu phong phú về các sự kiện và những cách đánh giá cá nhân rất đáng chú ý đối với độc giả bình thường, nhất là đối với các nhà nghiên cứu các nhà nghiên cứu các nhà lịch sử, các nhà xã hội học, các nhà nghiên cứu văn học v.v...
Trong những cuốn sách của mình, các tác giả ấy thường chỉ ghi lại hoặc kể lại các sự kiện; kinh nghiệm sống và sáng tác của họ chưa vươn tới tầm khái quát cao mang tính chất triết lý nghệ thuật cũng như chưa được tạo dựng để đưa họ trở thành các nghệ sĩ ngôn từ.
Có mối liên hệ trực tiếp với dòng hồi ký là những tác phẩm viết về đề tài lịch sử. Cho đến tận ngày nay, nội dung chủ yếu của văn học Việt Nam ở hải ngoại là quá khứ vốn có thể được lý giải và được phản ảnh thông qua số phận cụ thể của từng con người riêng biệt cụ thể cũng như dưới dạng tác phẩm sử thi đồ sộ.
Một cống hiến không thể phủ nhận vào văn học Việt Nam là những cuốn tiểu thuyết Mùa biển độngSông Côn mùa lũ  của Nguyễn Mộng Giác, Người đi trên mây của Nguyễn Xuân Hoàng, Giấc mộng của Nguyên Sa v.v... Cũng phải nhắc tới những tác giả như Thích Nhất Hạnh và Nghiêm Xuân Hồng là những người viết về các vấn đề tôn giáo triết học. Sách của họ, mặc dầu mang tính chuyên biệt nhất định, có giá trị nghệ thuật cao và được phổ biến rộng rãi giữa các độc giả.
4. Những véc tơ của sự phát triển văn học Việt Nam ở hải ngoại
 Khác với các tác giả được định hướng về mặt quan niệm và sáng tác vào những vấn đề của quá khứ (về họ đã được nói tới ở phần trên), khuynh hướng hội nhập trong văn học Việt Nam ở hải ngoại dần dần chiếm những vị trí đáng kể trong những quá trình xã hội và sáng tác đang diễn ra trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Và hiện tượng này có tính chất lô gích. Thế hệ đầu tiên của những người di tản vốn được định hướng vào những gia trị văn hoá truyền thống của Việt Nam và trước hết vào tiếng Việt, ngày một già đi, trong khi đó các thế hệ tiếp theo (thế hệ thứ hai và nhất là thế hệ thứ ba) ngày càng được Mỹ hoá và hầu như không gắn bó tương lai của mình với Việt Nam (mặc dầu ngay cả ở đây cũng có những ngoại lệ).
Nếu chú ý tới sự thống kê thì đa số tác tác phẩm viết về kinh nghiệm hội nhập của người Việt Nam vào cuộc sống Mỹ là do phụ nữ viết. Đó là Vị Khuê, Trần Diệu Hằng, Lê Thị Huệ, Phan Thị Trọng Tuyền, Vi Quỳnh Hương, Nguyễn Thị Ngọc Nhung v.v... Trong số các nhà văn nam giới viết về vấn đề này có Võ Phiến ("Thư gửi bạn "), Nguyễn Bá Trạc ("Ngọn cỏ bồng", "Chuyện một người di cư nhức đầu vừa phải") Võ Đình ("Xứ sấm sét", "Sao có tiếng sóng") v.v...
Trong sáng tác của mình, các tác giả viết về những vấn đề thông thường đối với bất cứ một cộng đồng di tản nào, nhất là ở những giai đoạn hình thành đầu tiên của nó. Đó là sự tan vỡ của cuộc sống yên ổn trước đây, những khó khăn của thế hệ những người di tản đầu tiên do sự khác biệt về văn hoá và ngôn ngữ nên không thể hoà nhập nhanh chóng vào hiện thực Mỹ, sự cô đơn của người già, sự suy thoái hoá về đạo đức, hiện tượng lớp trẻ rút khỏi "cộng đồng người Việt", sự tan nát của gia đình, sự phân hoá xã hội sâu sắc trong nội bộ cộng đồng di tản v.v...
Mặc dầu trong đa số tác phẩm, sự thích nghi và hội nhập của người Việt được miêu tả với sắc thái bi quan - thông qua những dằn vặt lớn lao về đạo đức và những khó khăn vật chất, tuy thế vẫn có những trường hợp ngoại lệ. Chẳng hạn, cây bút văn xuôi Hồ Trường An từng được nhắc tới ở phần trên, trong thiên truyện ngắn "Hoà hợp" đã lạc quan tiếp nhận cuộc sống mới mà ông ta và những người đồng hương của mình đành phải bắt đầu ở Mỹ. Trong truyện ngắn "Gió đêm" Trần Thị Kim Lan viết về sự hiểu biết lẫn nhau giữa những người thuộc các dân tộc khác nhau. Trong những truyện ngắn của mình, Mai Kim Ngọc nhìn chung thiên về việc đánh giá một cách tích cực đối với cuộc sống của người Việt trong những đièu kiện xã hội - văn hoá mới.
Đa số những người di tản thuộc thế hệ đầu tiên không thể hoà nhập vào văn hoá của nước bản địa. Trong khi đó thì thế hệ thứ hai hoặc thế hệ thứ ba- những người dời khỏi Việt Nam từ hồi còn nhỏ hoặc đã sinh ra trên đất Mỹ, học trường bản địa - dễ dàng hoà nhập vào xã hội, và nền văn hoá mới. Đã xuất hiện những tác giả trẻ chỉ viết bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp. Những cuốn sách của họ tái hiện lại các cốt truyện Việt Nam có lẽ với chủ ý dành cho độc giả nước ngoài.
Kinh nghiệm hội nhập vào cuộc sống trở thành đề tài chủ yếu trong các tác phẩm (phần lớn là truyện ngắn) của các nhà văn thuộc thế hệ thứ hai viết bằng tiếng Việt và bây giờ đã từ 40 tuổi đến 50 tuổi trở lên. Ở Mỹ đó là Phạm Thị Ngọc, Nguyễn Hoàng Nam, Ngọc Khôi, Hoàng Mai Đạt, Dương Như Nguyện, Vũ Quỳnh N.H. Đỗ Kh., Bùi Diễm Âu, Võ Đình, Phan Nhiên Hạo, Nguyễn Hương, Nguyễn Danh Bằng; ở Pháp đó là - Thuỵ Khê, Trần  Vũ, Mai Ninh, Thuận; ở Canada, đó là - Nam Giao; ở Úc đó là Hoàng Ngọc Tuấn và Nguyễn Hưng Quốc; ở Đức đó là - Lê Minh Hà v.v... Trong tác phẩm của họ có ít cốt truyện về cuộc sống trước đây ở Tổ quốc, bởi lẽ họ đã ra đi từ hồi còn nhỏ và đối với họ, Việt Nam không phải là cái cảm nhận được và cái mong muốn như đối với thế hệ cha anh của họ. Bởi vậy họ viết về cuộc sống hiện tại của mình, dù đó là Mỹ, Pháp hoặc Nhật, xuất phát từ tình hình thực tế của cái thế giới hiện đại bao quanh họ. Họ rất tự tin, thoải mái trong việc thể hiện tình cảm và bộc lộ những nhận định. Sáng tác văn học không phải là cái chủ yếu trong hoạt động thực tiễn của họ, họ không đóng vai trò chủ chốt trong đời sống văn học của cộng đồng người di tản, tất cả những nỗ lực của họ đều hướng tới sự thành đạt trong xã hội mới. Khác với các nhà văn thuộc thế hệ đầu tiên, đối với nhiều người trong số họ, văn học chủ yếu là sự tiêu khiển, sự giải trí về mặt tinh thần mà không phải là nhu cầu bức thiết của cuộc sống. Hơn nữa, họ đang ở trong một tình thế đặc biệt - họ cần phải đi tìm độc giả của mình vốn, cũng như họ, thuộc về cái thế hệ mà họ có thể chia sẻ những suy nghĩ và tình cảm của mình thông qua các tác phẩm viết bằng tiếng Việt.
Không phải tất cả các nhà văn này nhất quán đi theo con đường đó - viết bằng tiếng Việt. Một bộ phận không nhỏ đã hoặc sẽ nhanh chóng chuyển sang tiếng Anh, tiếng Pháp hoặc các thứ tiếng khác với tư cách là công cụ sáng tác và giao tiếp, bởi lẽ sự lựa chọn này giúp họ hoà nhập vào dòng chảy chung của văn học ở nước họ định cư và vào văn học thế giới nói chung. Nói một cách hình tượng, họ đang tìm sự cân bằng giữa hai thế hệ - thế hệ thứ nhất, lớn tuổi hơn và thế hệ tiếp theo sau họ, trẻ hơn, vốn hoàn toàn hướng tới sự hội nhập vào môi trường mới và ngôn ngữ mới. Cùng với thế hệ đầu tiên, họ sẻ chia lòng yêu mến tiếng Việt, nhưng không xẻ chia gánh nặng tình cảm đối với quá khứ. Cùng với thế hệ thanh niên, họ tiếp nhận một cách thực tế và thực dụng cuộc sống mà hiện nay họ phụ thuộc, nhưng tuy thế trong văn học họ bị ngăn cách bởi rào cản ngôn ngữ- bởi tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Đức. Hiện ở bên ngoài lãnh thổ Việt Nam đã hình thành cả một đội ngũ nhà văn đồng thời thuộc về hai nền văn hoá - văn hoá Việt Nam và văn hoá của nước mà nhà văn định cư. Ở Mỹ, một tác giả tiêu biểu nhất của văn học Việt Mỹ- là Andrew Lam-  một nhà chính luận nổi tiếng và một cây bút chuyên viết truyện ngắn bằng tiếng Anh cũng như Monich Trương, Aimee Phan, Lan Cao, Kien Nguyễn, Lê Thị Diễm Thuý, Dao Strom, Nguyễn Minh Bit, Mộng Lan v.v... Kim Lefevr và Linda Le đã viết những áng văn xuôi rất hay bằng tiếng Pháp. Những tác giả thuộc khuynh hướng này đã thu hút được sự chú ý của những nhà xuất bản sách và giới phê bình, đã nhận được các giải thưởng quốc tế.
5. Tương lai thuộc về độc giả (thay phần kết luận)
Tác phẩm văn học còn sống khi nó được mọi người đọc. Nếu không có độc giả thì văn học ắt bị lãng quên. Bậc trưởng lão của văn học Việt Nam ở hải ngoại là Võ Phiến đã nhiều lần nói rằng ở chốn xa xứ, văn học Việt Nam viết bằng tiếng mẹ đẻ (tiếng Việt) không thể tồn tại lâu dài được nếu không có mối liên hệ với cội rễ của nó, tức là với Việt Nam. Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc đã biểu thị tình trạng đó một cách bi đát hơn:
" Lưu vong thường được mở  đầu bằng một bi kịch chích trị hoặc một bi kịch kinh tế nhưng kết thúc bằng bi kịch văn hoá. Càng ngày tôi càng thấm thía một điều : Sống và viết ở hải ngoại không phải chỉ là sống và viết ở hải ngoại. Khi nhà văn rời quê hương để ra định cư và sáng tác ở một chỗ ở và một bàn viết mà còn thay đổi một thế giới với  mối liên hệ chằng chịt phức tạp để  rồi  - một cách tự giác  hay không -  dần dần thay đổi cách nghĩ, cách cảm từ đó cách viết và cuối cùng, không chóng thì chầy, thay đổi cả căn cước (identity) của chính hắn với tư cách nhà văn nữa" 12
      Để không bị lâm vào tình thế của sự lựa chọn cơ bản như vậy, nhiều nhà văn Việt Nam ở hải ngoại đem tương lai tác phẩm văn học của mình gắn liền với công chúng độc giả ở Việt Nam, song điều đó không đơn giản. Hơn nữa, chúng tôi nhận thấy rằng sách báo của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì có thể dễ dàng tìm thấy trong các thư viện và hiệu sách (chủ yếu của Việt kiều) ở Mỹ, còn tác phẩm của các tác giả  người Việt ở hải ngoại thì rất hãn hữu được xuất bản ở Việt Nam, và nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này trước hết là nguyên nhân ý thức hệ.
Nhà thơ Ba Lan nổi tiếng Milos Forman, giải thưởng Nobel, nhiều năm sống lưu vong ở My và cuối đời đã trở về Tổ quốc, từng nói về số phận của nhà văn lưu vong: "Chúng ta không nghe thấy tiếng nói của nhà văn lưu vong, đó chỉ là một động tác mà thôi", tức là nhà văn đó và tác phẩm của anh ta trên thực tiễn không đến được với độc giả của mình ở trong nước. Song vào những năm gần đây tình hình trên thế giới đã thay đổi: đã xuất hiện Internet vốn vượt qua những khoảng cách khổng lồ và những biên giới quốc gia. Hiện nay tồn tại không ít kiểu xuất bản Internet, qua đó văn học Việt Nam ở hải ngoại đã tới được Việt Nam. Tất nhiên nó không thể thay thế được kiểu xuất bản in ấn; ngoài ra, ở Việt Nam còn có sự kiểm duyệt khắt khe và sự giám sát của nhà nước đối với Internet vốn có thể cung cấp thông tin và sự tiếp cận với các tác phẩm văn học. Nổi tiếng hơn cả là hai tờ tạp chí mạng - Talawas (người phụ trách là nhà văn nữ có tên tuổi Phạm Thị Hoài hiện sống ở Đức) và Tiền Vệ (người phụ trách là nhà phê bình văn học nổi tiếng Nguyễn Hưng Quốc, hiện sống ở Úc) Nhiều tờ tạp chí in ấn ("Hợp lưu", "Văn học", v.v.) cũng có mạng riêng.
Đường lối chính trị của các nhà lãnh đạo CHXHCN Việt Nam hiện nay là tiếp tục phát triển sự hội nhập của nước này với cộng đồng thế giới. Những thay đổi diễn ra trong chính sách nhà nước đối với Việt kiều vốn cần phải trở thành nhịp cầu vững chắc giữa Việt Nam và thế giới bên ngoài đã chứng tỏ điều đó. Chính sách mới này mà ý nghĩa chủ yếu là coi Việt kiều là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam, được ghi trong bản Nghị quyết số 36 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 26/3/2004.
Ở Việt Nam hiện nay rõ ràng có sự chú ý tới sáng tác văn học của kiều bào đang sinh sống ở hải ngoại. Điều này được thể hiện trong một số bài viết hiếm hoi trên báo chí cũng như trong việc xuất bản sách của chính các Việt kiều.
Nhà văn nổi tiếng Nguyên Ngọc, một trong những cây bút hàng đầu của văn học Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp và Mỹ, cho rằng :
" …một tác phẩm viết bằng tiếng Việt, dù của bất cứ ai, viết bất cứ ở đâu, vào bất cứ thời gian nào, miễn là nó hay, thì đều là tài sản chung của dân tộc Việt Nam.. Những người Việt Nam  ở nước ngoài trong mấy chục năm qua đã hoàn thành một khối lượng văn học không thể phủ nhận được. Đó là một bộ phận của văn học Việt Nam hiện đại, và điều này chẳng có gì phải bàn cãi. Cùng với văn học trong nước, văn học hải ngoại làm nên diện mạo của văn học Việt Nam ngày nay.
Sẽ cực kỳ thiếu sót nếu biết văn học Việt Nam ngày nay mà không biết đến văn học Việt Nam hải ngoại. Vấn đề có lẽ chủ yếu  là ở những chỗ này: Sự đóng góp đáng kể nhất của bộ phận văn học này đối với văn học Việt Nam hiện đại là ở chỗ nào và triển vọng của nó ra sao?
 Theo tôi bộ phận văn học này phản ánh số phận của một bộ phận quan trọng trong dân tộc ta mà những người viết trong nước khó có khả năng tiếp cận, hiểu và viết được. Thiếu nó thì văn học chúng ta sẽ khuyết đi một mảng rất lớn và rất quan trọng của khuôn mặt  con người Việt Nam trong thời sóng gió hung bạo của lịch sử dân tộc như chúng ta đã và đang trải qua... Văn học Việt Nam  do vậy sẽ què quặt"13
 Hiện nay, vấn đề chủ yếu, theo nhà văn, là ở chỗ "phải làm thế nào cho cả hai bộ phận đó của văn học (trong nước và ngoài nước) "thông thương " được với nhau, phá dỡ những trở ngại vô lý giữa hai bộ phận của một cơ thể  văn học thực ra thống nhất " 14
Trong thời gian gần đây, Trung tâm Văn hoá và ngôn ngữ Đông Tây, các công ty "Phương Nam" và "Nhã Nam", các nhà xuất bản của nhà nước, đã có những nỗ lực tích cực trong việc xuất bản ở Việt Nam tác phẩm của các tác giả Việt Nam ở hải ngoại. Trên con đường này cũng có những trở ngại nhất định, đó chính là : 1. Thiếu sự chuẩn bị cho các tác giả Việt Nam để tiếp thu nội dung và những đặc điểm về phong cách nghệ thuật trong các tác phẩm của các tác giả hải ngoại, những tác phẩm này rất khác với sách của các nhà văn CHXHCN Việt Nam, và 2. Sự giám sát ngặt nghèo từ phía các cơ quan nhà nước đối với các tác phẩm "có những vấn đề  chính trị " 15 Hiển nhiên, điều thứ hai thường trở thành yếu tố quyết định đối với số phận tác giả lưu vong trên Tổ quốc lịch sử của họ.
Tuy vậy, những ví dụ về việc công bố tác phẩm của các nhà văn lưu vong Việt Nam trên Tổ quốc lịch sử của họ mỗi ngày một trở nên nhiều hơn. Chẳng hạn, giáo sư Nam Dao hiện sống ở Canada, rất có uy tín trong giới khoa học và trong cộng đồng hải ngoại của ông. Trong những năm chiến tranh chống Mỹ, ông đã tích cực giúp đỡ Việt Nam, sau năm 1975, ông thường xuyên về nước. Ông là tác giả của những tập thơ và những tập truyện ngắn cũng như của những cuốn tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết lịch sử. Vào những năm gần đây, ông có hai cuốn tiểu thuyết được in ở Việt Nam - "Trăng nguyên sơ" và "Đất -- trời".
Cây bút văn xuôi Đỗ Kh. thường xuyên sống ở Mỹ. Ở Việt Nam nhà xuất bản Văn hoá thông tin đã cho ra mắt độc giả cuốn " Ký sự đi Tây". Cuốn sách này bán rất chạy và mới đây đã được tái bản.
Năm 1998, bộ tiểu thuyết sử thi gồm 4 tập "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác được xuất bản tại Việt Nam. Tác phẩm này kể về một thời oanh liệt khi nhà Tây Sơn và Nguyễn Huệ trị vì đất nước. Tác giả viết bộ sách này tại Việt Nam, trước khi di tản sang Mỹ.
Vào những năm gần đây, tác phẩm văn học của các tác giả Việt Nam khác đang sống ở hải ngoại đã đến với bạn đọc trong nước: văn xuôi của Mai Ninh ("Ảo đăng"), khảo cứu triết học "Tư duy tự do" của Phan Huy Đường, khảo cứu lịch sử "Thần, người và đất Việt" của Tạ Chí Đại Trường, chuyên luận khoa học "Tôn giáo và xã hội hiện đại" của Cao Huy Thuần. Tại thành phố Hồ Chí Minh có in tập thơ của nhà thơ nổi tiếng Du Tử Lê hiện đang sống ở Mỹ.
Cần phải nói riêng về thế hệ nhà văn trẻ. Phan Việt có nghề chính là nhà xã hội học, hiện sống và làm việc ở Mỹ. Chị được trao giải nhì cho tập truyện ngắn Phù phiếm truyện  tại cuộc thi "Văn học tuổi 20" do báo Tuổi trẻ" và Nhà xuất bản Trẻ (thành phố Hồ Chí Minh) tổ chức.
Nữ văn sĩ Thuận hiện sống ở Paris. Cuốn sách đầu tiên của chị  Made in Việt Nam được xuất bản ở Mỹ. Trong ba năm gần đây, chị cho in một số tiểu thuyết  China town, Paris, 11 tháng 8, T. mất tích. Tác phẩm sau cùng này được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng vào năm 2005. Hai năm sau, một nữ văn sĩ Việt kiều khác là Đoàn Minh Phượng cũng nhận được giải thưởng tương tự về cuốn tiểu thuyết "Và khi tro bụi". Ở tuổi 20, chị đã dời khỏi Việt Nam để sang Đức. Ngoài ra, chị còn là đạo diễn và nhà sản xuất những bộ phim Hạt mưa rơi bao lâu, và Tết Nguyên tiêu.
Rõ ràng là văn học Việt Nam ở hải ngoại rất khó sống nếu thiếu công chúng độc giả ở Việt Nam. Quá trình toàn cầu hoá về kinh tế và văn hoá vốn càng ngày càng có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phải góp phần thúc đẩy việc bắc những nhịp cầu vững chắc giữa văn học ở trong nước và văn học ở ngoài nước, mà điều đó đến lượt nó, sẽ xúc tiến quá trình phục hồi sự công bằng lịch sử- trả lại cho các nhà văn Việt Nam và những tác phẩm của họ ở hải ngoại cho Tổ quốc lịch sử của mình./. 
.....................................
Về tác giả A.A. Sokolov, Phó giáo sư tiến sĩ sử họcViện Phương Đông Viện Hàn lâm khoa học Nga
Đã có trên 100 công trình gồm các bài báo và cuốn sách viết về Việt Nam
--Từ điển Việt Nga đã in ba lần trong đó có hai lần ở Việt Nam
--Hội thoại Nga Việt – Hội thoại Việt Nga đã in 5 lần trong đó 2 lần tái bản ở Việt Nam
--Quốc tế Cộng Sản và Việt Nam Chuyên khảo – Đã dịch và in ở Việt Nam 1999
-- Những người Nga ở Việt Nam ( đang dịch)
-- Nhật ký du lịch Việt Nam của Công tước K.A. Viazemski
Đã dự và đọc tham luận tại nhiều hội thảo về văn hóa Việt Nam, trong đó có bài Văn hóa và văn học VN trong điều kiện tòan cầu hóa đã in trên tạp chí Thông tin khoa học xã hội 2010.
Chú giải
1/ Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác đã với người Việt Nam ở nước ngoài //www.mofa.gov.vn/vi/vdquantam/ns 041215094400, ngày khai thác 21-12-2008. Theo những tài liệu khác, số người Việt Nam ở hải ngoại là hơn 3 triệu người.
2/ Chi tiết hơn, xem : Một số khía cạnh kinh tế- xã hội của việc hình thành cộng đồng người Việt Nam ở Mỹ// Nước Việt Nam truyền thống. M. 2008, T3, tr 162-186
6/ Mai Kim Ngọc. Vài cảm nghĩ về văn học hải ngại// Tạp chí Văn học (California) 1995, số 109, tr. 4,6.
7/ Ở đây muốn nói đến những loại tị nạn được lập ra trên lãnh thổ Hoa kỳ: tại các bang California,  Arcanzas, Florida, Pensilvania.
8/ Mai Kim Ngọc. Vài cảm nghĩ về văn học hải ngoại  (tldd), tr 12
9/ Dẫn theo Nguyễn Hưng Quốc Hai mươi năm văn học Việt nam hải ngoại. Tuyển tập Hai mươi năm văn học Việt nam hải ngoại 1975-1995 Chủ trương Trương Đình Võ Nhà xuất bản Đại Nam California 1995, tập 1, tr 15 
12/ Nguyễn Hưng Quốc. Sống và viết như người lưu vong// Văn học Việt Nam từ điểm nhìn hậu hiện đại. California. Văn nghệ, 2000. Tr 222-234
13/ Phỏng vấn đài BBC 31/07/2003. Dẫn theo: Nguyên Ngọc. Văn học, nội lực, trong ngoài// hoiluan.vanhocvietnam.org, ngày khai thác  13.03.2008.
14/ Sđd
15/ Hoàng Hưng: Nghĩ về hội nhập giữa những người Việt Nam cầm bút//hoiluan.vanhocvietnam.org, ngày khai thác  05.02.2008.
Người dịch: Lê Sơn
Nguồn: Jugo - Vostochnaja: Azija aktual'nye problemy razvitija/ deologija, istorija, kul'tura, polilika, ekonomika Vypusk XI (Ju.VA, 2007-2008). M. Institut Vostokovedenija RAN, 2008, Str 233-254.
Đông Nam Á, những vấn đề cấp thiết của sự phát triển. ý thức hệ, lịch sử, văn hoá, chính trị, kinh tế. Tập XI 2007-2008. M. Viện Đông phương học trực thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga (RAN) 2008, tr 233 - 254

Wednesday, February 12, 2014


BẢO DÂN * NƯỚC CỜ MỚI TẠI Á CHÂU






NƯỚC CỜ MỚI TẠI Á CHÂU
BẢO DÂN 

Đầu năm 2014 thế giới đã có màn ngoạn mục. Cùng một lúc, Đài Loan họp với Trung Cộng (1) và Bắc Hàn họp với Nam Hàn (2). Chó mèo bây giờ ngồi chung với nhau. Được kết quả hôm nay, không biết lành dữ thế nào nhưng  đó là công lao vận động hàng mấy năm trời, chứ không phải là quyết định nhất thời.
Trong đệ nhị thế chiến, Mỹ và Liên Xô ép buộc Quốc Cộng đoàn kết, và 1945, Mỹ cũng ép Việt Cộng và Quốc Gia thành lập chính phủ liên hiệp. Kết quả mối tình gán ghép, gượng ép đó đã tan rã, và Mỹ cũng chẳng ich lợi gì. Đài Loan tuyên bố vẫn giữ chế độ độc lập (3) . Tất nhiên vạn sự khởi đầu nan, từ từ hai bên cha mẹ sẽ cưỡng ép và cuộc hôn nhân sẽ thành tựu mặc dầu không ai biết sẽ dài bao lâu.
Việc gì xảy ra nếu Mỹ trả Đài Loan cho Trung Cộng để lấy Bắc Hàn? Trả Đài Loan thì Mỹ cũng có lợi vì bao tài sản của Đài Loan sẽ chạy sang Mỹ. Nếu Đài Loan về Trung Cộng thì cũng là chuyện vạch đất, vạch bản đồ phân chia thiên hạ mà các cường quốc đã làm trong 1944-1945.Còn Việt Nam thì sao? 
 Bản tin  Vietland  ngày chủ nhật , January 5, 2014 3:43 PM cho biết   Trung Cọng thương lượng với Mỹ và Nga giao VN cho Trung Hoa Bản tin trên còn cho biết chi tiết như sau:

Thông tin nầy chính xác nếu có ai theo dõi chương trình Truyền Hình Hoa Kỳ của Đài CCTV News (San Jose, bang California) trong mấy ngày qua đã thấy Quốc Hội Trung Cộng họp về vấn đề nầy.MỜI XEM TÀI LIỆU ĐÍNH KÈM PHIÁ DƯỚI :TRUNG CỘNG thương lượng với Mỹ và Nga giao VN cho Tàu coi như phần đất thuộc Trung Hoa như HONGKONG và MACA TRUNG QUỐC KHAI MẠC KỲ HỌP QUỐC HỘI CHUẨN BỊ CÔNG BỐ :VIỆT NAM là “Đặc Khu Hành Chính” của Trung Quốc!VIỆT NAM SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP, TÁI TỔ CHỨC CHÍNH PHỦ THEO ĐIỀU KIỆN DO TRUNG CỘNG CHỈ ĐẠO !Trong lúc cả nước đang thờ ơ chủ quan rằng Cộng sản Việt Nam còn gìn giữ độc lập cho đất nước…?VIỆT PRESS INTERNATIONAL Thứ Ba, 05/03/2013, 12:05 (GMT+7)Thực chất, việc đưa ra chiêu bài sửa đổi hiến pháp là do Trung Cộng chỉ đạo trong kế họach chuẩn bị tổ chức lại hoàn toàn guồng máy chính trị CSVN để biến Việt Nam thành “Đặc Khu Hành Chính” (Special Administrative Region – SAR) của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, như qui chế “Một Quốc Gia Hai Chế Độ” đã thực hiện tại Hồng Kông và Macau.Trong kế họach này có những việc nhất thiết phải xảy ra:
1-Qua cuộc họp Quốc Hội kỳ này, Trung Cộng sẽ công bố tập đoàn lãnh đạo mới của họ.
2-Trung Quốc sẽ tái phối trí các thành phần lãnh đạo cho Việt Nam, Nguyễn Sinh Hùng, Chủ Tịch Quốc Hội sẽ thay thế Nguyễn Tấn Dũng trong một cuộc bầu cử phi-dân-chủ.
3-Việt Nam sẽ ngưng tất cả các hợp tác quân sự với Hoa Kỳ và giới hạn quan hệ quốc tế.
4-Sự đặt mua vũ khí từ Nga và trở lại của Nga ở Vịnh Cam Ranh là để ngăn chặn Hoa Kỳ.
5-Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đã mất khả năng chiến đấu và hoàn toàn lệ thuộc Quân Đội Nhân Dân Trung Quốc.
6-Những thành phần thân Mỹ sẽ bị lọai khỏi chính quyền CSVN, Nguyễn Tấn Dũng và lâu la sẽ ra nước ngoài xin tị nạn, những số tiền tham nhũng kếch sù lên hàng trăm tỉ đô la bị các ngân hàng do Trung Cộng kiểm soát đóng băng và giam giữ không cho xuất ngân.
7-Chế độ công an trị sẽ ngự trị trên nhân dân Việt Nam, tất cả các dân quyền, nhân quyền đều bị chà đạp
.8-Trung Cộng tiếp tục chính sách bành trướng ở Biển Đông, cấp visa di dân tự do cho người Trung Hoa đến Việt Nam chiếm đóng, lập nghiệp, và cấm ngư dân Việt Nam ra khơi đánh cá để nắm bao tử của cả nước Việt Nam
.9-Hoa Kỳ mặc cả với Trung Quốc, không trở lại chiến trường Việt Nam, nếu cần thiết sẽ có biện pháp chia đôi Việt Nam, Hoa Kỳ thành lập một quốc gia mới từ Đà Nẳng trở vô. (4)

Tin này không biết thực hay hư, hay chỉ là những phỏng đoán. Nếu Trung Cộng chiếm Việt Nam, tính 200 hải lý từ Cà Mâu thì TháiLan, Singapore , Brunei, Malaysia, Indonesia ....đều thuộc Trung Cộng . Việc phân chia này chỉ tạo thêm lòng tham cho Trung Cộng. Được đằng chân, lân đàng đầu, rồi cũng sẽ đưa đến chiến tranh.
Nếu miền Nam là một quốc gia tự do, khoảng 20 triệu dân miền Bắc và Trung Cộng sẽ tràn vào miền Nam. Rồi họ lại lập Mặt trận giải Phóng, chiến tranh sẽ tiếp tục... Còn Trung Cộng là còn mầm móng chiến tranh. Tất cả nhượng bộ đều chẳng đi đến đâu.

Trong khi đó cuộc vận động vẫn đang tiến hành theo phương sách đả đả đàm đàm. Nhật và Mỹ tuyên bố sẽ ngăn chận Trung Quốc chiếm cứ biển đông (5).Cùng lúc đó ngoại trưởng Mỹ sang châu Á còn Nhật tìm cách liên kết với Ấn, Nga. (6)Thế trận đang vây chặt từng bước trong khi vẫn mở của hòa đàm.

Ngoài ra ta thấy Mỹ cũng chủ động tìm cách hợp tác với Trung cộng trong nhiều vấn đề:
1. Môi trường
Được báo chí đặt câu hỏi, phát ngôn viên Bộ ngoại giao Mỹ khẳng định là để đối phó với hiện tượng thay đổi khí hậu, cần phải có sự hợp tác giữa hai tác nhân gây ô nhiễm nhiều nhất là « Mỹ và Trung Quốc ».

Hồ sơ quan trọng thứ hai là « an ninh hàng hải sẽ được hai bên thảo luận », hàm ý căng thẳng giữa Trung Quốc với Nhật và Hàn Quốc ở biển Hoa Đông , giữa Trung Quốc và Đông Nam Á ở Biển Đông.(7)
2. Không gian




Mỹ chủ hòa hay tạm lui binh? Mỹ tìm cách mua thời gian?Phải chăng Mỹ đang  tìm cách vỗ về cọp đói?
+Phải chăng kinh tế Mỹ suy sụp?
+Phải chăng Mỹ sợ Trung Cộng?
+Phải chăng Mỹ sẽ đứng ngoài mặc cho Nhật, Ấn đánh Trung Cộng?
+Phải chăng Mỹ không cần động binh, vì dân Trung Quốc sẽ thanh toán cộng sản? Hoặc kinh tế Trung cộng sắp sụp, không cần động binh mà Trung Cộng tự hủy theo luật " phủ định của phủ định"?
+Phải chăng Mỹ không cần ra tay, Mỹ cần vài năm sẽ sản xuất dầu trong đá phiến , kinh tế Mỹ tăng trưởng, Trung Cộng sẽ thất bại. Không những thế, các mỏ dầu Trung Đông sẽ trở thành nước ao  tù.Và cái ảo mộng của Trung Cộng chiếm dầu hỏa biển đông sẽ vô ich.
+Phải chăng Mỹ sẽ tuyệt thương với Trung Cộng mà không cần dùng chiến tranh? Phải chăng cái TPP sẽ là cái võng thiên la trói chặt Trung Cộng.
+Phải chăng Mỹ đang thi hành kế sách dụng văn trước khi dụng võ?
-Phải chăng đó cũng là kế nghi binh, giả bộ nhượng bộ, hòa hoãn nhưng sư thật đang chuẩn bị tấn công.
Ngày nay, Mỹ đang ra sức đấu văn,  kéo níu Việt Nam, Cuba, Bắc Hàn,Miến Điện và cả Trung Cộng nữa.
Nhưng an toàn giao thông là do cả hai bên. Nếu ta đi đúng luật, còn đối phương say rượu hoặc ngủ gật khi lái xa thì sao? Mỹ muốn hòa mà Trung Cộng muốn đánh thì sao? Hoặc cả hai bên muốn hòa mà sự việc ngẫu nhiên đưa đến chiến tranh thì sao?  Chúng ta chờ xem cuộc thế xoay vần.
______

Tuesday, February 11, 2014


TỰ ĐIỂN MIỀN TRUNG



Bọ: bố
Con  tru: con trâu
”Con trùn;con giun
”Con ga: con gà
con “cá quả” gọi ra “cá tràu”
Con bồ câu: con bồ cu

”Con ròi: con ruồi
”Con troi”: “con giòi”

Con “mọi : con  “muỗi”
Con cấy: con gái

Cươi: cái sân ( ngoài cươi: ngoài sân . Trái cau tươi rụng trữa cươi tau)
Choa :ta, tao bọn tao
y: con gái

Chộ: thấy



Đàn ôông: đàn ông

đấy: đi đấy: đi đái
Đọi: bát ( ăn nên đọi, nói nên lời)

ẻ: ỉa

Già: cái già: cái nhà
Giôông: chồng

giôông (dôông ): dông bão

Hói: cái rạch, chi nhánh của giòng sông nhỏ



Ló: lúa
Lả: lửa
Lè :  Đùi
lèn: núi đá



Mạ: Mẹ



Mệ:bà
 Mi :  Mày  ( “mi đi mô đó” là “Mày đi đâu đấy”)

Mô :  Đâu ?
 Mụ: bà, con mẹ
Nác: nước
Nậy: lớn ( mau nậy: mau lớn)
Ni :  Này (cái ni, thằng ni: cái này, thằng này)
 Nương: vườn ( ruộng nương)

Ngài : người( con ngài: con người ; Ngài ta : người ta. Trăm năm trong cõi ngài ta)
Ngái: xa (ngái quá: xa quá)
Ngày mơi: ngày mai
Ngày Mốt :  Ngày Kia( vd : “mốt tau mới về” là “Ngày kia tao mới về” )



O: cô (cô gái)
O: Em hay chị của bố.
Óng nác: uống nước
Ôộng mệ: Ông bà
Ôông mụ: ông bà

 Rào: sông (ngoài rào: ngoài sông)
 Rạ: cái rạ: cái rựa
Rứa :  Thế  (như rứa: như thế)
Răng :  Sao (nói răng: nói sao?)
(vd “Răng rứa ?” là “sao thế?” )
Rầm tra: cái sàn ở gần trần nhà để cất đồ.

Rọng: ruộng

Su: sâu ( ruộng su: ruộng sâu, một lỗ su su mấy cũng vừa)
 Sương : gánh ( sương lúa: gánh lúa)

Tau :  Tao


Tê :  Kia  (bên tê: bên kia)
 tra:ông già (ông tra mụ tra: ông già, bà già)
 Triêng : cái triêng, cái gánh
Troong: trong
Trốc :  Đầu ( trên trốc: trên đầu)
Tru : con Trâu
Trữa: giữa ( trữa nhà: giữa nhà)

 Trượng: dượng (chồng của cô)



xéo: cút đi.
xị:  chị ( chị em: xị em)
 xửi:chửi






VŨ THƯ HIÊN * TRẦN ĐỘ

Vũ Thư Hiên - Trần Độ, người của sự thật (vài kỷ niệm vặt với Trần Độ)

Nhà văn Vũ Thư Hiên
Chia sẻ bài viết này
Tôi ra tù cuối năm 1976. Bận bịu với đủ thứ việc để kiếm ăn, hai năm sau tôi mới có dịp gặp lại Trần Độ. Ra khỏi cuộc chiến, với tư cách phó chính uỷ kiêm phó bí thư quân uỷ Quân Giải phóng MNVN, nghe nói anh rất bận, nào tham gia viết quân sử, nào tổng kết kinh nghiệm chiến tranh… Trong bữa rượu đạm bạc chỉ có ba người, ngoài hai chúng tôi còn có một chị cán bộ trẻ, tên Oanh thì phải.
Trần Độ có biết tôi vừa ở tù ra. Anh nhìn tôi thương hại, bảo:
- Chú có làm gì sai thì Đảng mới bắt chú chứ.
Tôi sững người. Vậy ra anh chẳng biết gì về vụ án nhóm "xét lại chống đảng" mà tôi bị người ta đính vào sao? Cái nhóm này không phải một tổ chức, chẳng phải một đảng, thậm chí cũng chẳng phải một nhóm, nhưng được người ta bịa ra, đặt tên rất kêu là “Nhóm tổ chức chống Đảng, chống Nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài”. Kỳ thật, một vụ án ầm ĩ như thế, nhiều cán bộ cao cấp bị khai trừ, bị bắt, bị bỏ tù, trong Đảng có báo cáo, rất nhiều người biết, mà anh lại không biết. Mà không phải mình anh không biết. Hơn chục năm sau (1988), khi tờ “Truyền thống Kháng chiến” của “Câu lạc bộ Những Người Kháng Chiến Cũ” ra đời ở Sài Gòn, tướng Trần Văn Trà kêu tôi tới nhà anh ở đường Nguyễn Thị Minh Khai (tên mới của đường Pasteur) để bàn chuyện tờ báo, tôi mới hiểu - thậm chí cả tướng Trần Văn Trà cũng chẳng biết gì về vụ này. “Hồi đó tôi đang lo đường vận chuyển vũ khí trên biển. – Trần Văn Trà nói - Có, tôi có nhận được một thông tin từ Ban tổ chức Trung ương, rất sơ sài. Chúng tôi bận tối tăm mặt mũi, chẳng ai để ý”.
Khiếp thật. Thì ra ngay ở trong Đảng người ta cũng chia ra nhiều cấp, nhiều đối tượng trong việc nhận hoặc không cần được nhận thông tin. Tôi dùng chữ Đảng viết hoa ở đây để chỉ cái đảng độc tôn, cho tiện, chứ không phải với ý khác.
Tôi cười buồn, nói với Trần Độ:
- Em có nói gì bây giờ anh cũng sẽ nghĩ là em thanh minh. Tốt hơn hết là ta cạn với nhau chén rượu này, kèm một giao ước: “Anh sẽ xem xét sự việc bằng con mắt của mình, để rồi có kết luận”. Em chờ câu trả lời của anh trong bữa rượu sau. Anh hứa chứ?
Anh gật đầu, cạn chén.
Trần Độ hơn tôi đúng 10 tuổi. Tôi coi mình là đứa em của anh, không dám lắm lời.
Rồi gần một năm sau mới có bữa rượu thứ hai.
- Em lắng nghe câu trả lời của anh. – tôi nói.
Anh lắc đầu, thở dài:
- Một lũ chó má! Không thể ngờ.
Nhiều thời gian trôi qua với rất nhiều sự kiện: anh chuyển qua công tác Đảng, à công tác dân sự: Trưởng ban Văn hoá-Văn nghệ, Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Phó Chủ tịch Quốc Hội, anh hoạt động tích cực trong những chức trách được Đảng giao phó, sau đó những tiếng xì xào trong nội bộ Đảng về những hành xử không đúng đường lối, không có đảng tính của anh (xúi giục tổng bí thư Nguyễn Văn Linh “cởi trói” cho văn nghệ sĩ, tháo gỡ việc ngăn sông cấm chợ, toa rập với Nguyên Ngọc đưa ra bản “Đề dẫn” về văn nghệ sặc mùi chống Đảng vv…).
Cũng vào thời gian đó, tôi biết anh khuyến khích nhiều người làm công việc tìm về cội nguồn các dòng họ. Chẳng bao lâu sau, tôi được một anh bạn ở Bộ Nội vụ cho tôi đọc một chỉ thị của bộ anh: “Bọn phản động đang dùng kế sách tìm về cội nguồn (nhận họ, họp họ) để hạ thấp vai trò của Đảng. Phải ngăn chặn việc này”. Anh Hoàng Minh Chính bình: “Hay! Trong các cuộc họp họ, anh bí thư Đảng vốn được coi là cao hơn hết trong mọi vai vế xã hội, thì nay có thể bị ông trưởng tộc quát: “Anh ra ngồi kia, đây là họp họ, không phải họp đảng hay chính quyền”!
Văn Cao là người rất chăm chú theo dõi thời cuộc, nói: “Trần Độ thẳng quá, hỏng! Cao Biền dậy non, phí”!
Tôi đồng ý với Văn Cao. Trần Độ được phong trung tướng cùng lúc với Lê Đức Anh, nhân vật sau này làm mưa làm gió trong chính trựờng, nếu biết xuôi dòng anh rất có thể sẽ lên cao nữa trong hệ thống quyền lực.
Nhưng không ai có thể can ngăn Trần Độ. Anh không phải là nhà chính trị biết lui tới, biết náu mình chờ thời. Anh hành xử như một người thẳng thắn, chỉ biết một mực đấu tranh cho chân lý. Những phát biểu của anh lúc này lúc khác, chỗ này chỗ nọ, luôn làm chối tai người cầm quyền. Mà có phải anh chỉ phê bình sơ sơ chế độ toàn trị, từ chỗ nhỏ nhẹ, anh dần dần nói trắng ra ý muốn thay thế nó bằng chế độ dân chủ, tam quyền phân lập… Người ta theo dõi anh từng bước, nên những lời nói của anh, dù trong chỗ thân tình, đều được thu thập, báo cáo lên “trên”.
Còn nhớ năm 1997 tôi ở thành phố Strassbourg, chung nhà với Nguyễn Chí Thiện. Một hôm, Trần Độ gửi cho tôi bài viết mới của anh, bảo tôi xem lại trước khi công bố. Tôi đưa anh Thiện cùng đọc. Thiện đọc, nói anh bất bình với một số câu chữ trong đó. Khi nói chuyện điện thoại với Trần Độ, tôi đưa ống nói cho Thiện, bảo nhà thơ cứ nói thẳng ý kiến của mình. Thiện bỗ bã: “Không hiểu sao anh vẫn còn có thể dùng những từ “giải phóng”, “Mỹ-nguỵ” trong bài viết, người đọc ở hải ngoại sẽ khó chịu, không hay chút nào”. Anh Độ cười hề hề: “Chết chửa, mình lỡ viết theo cách nói quen đấy, cậu đúng, sửa lại hộ mình nhá. Xem ra thói quen thật nguy hiểm, là một cái tật cần phải đấu tranh để loại bỏ”.
Chuyện Trần Độ bị khai trừ Đảng năm 1999 thì ai cũng đã biết. Đảng cộng sản vốn không thích vạch áo cho người xem lưng cũng đã kiên nhẫn lắm với Trần Độ. Lẽ ra người ta phải khai trừ anh từ lâu.
Một lần khác, ở Frankfurt am Main (CHLB Đức), trong cuộc trò chuyện điện thoại với Trần Độ vào năm 2001, có mặt một chú em rất hâm mộ bác Độ, chú này đòi được nói với bác vài câu: “Bác ơi, cái đảng của bác kỳ quá, ai lại chống tham nhũng mà lại chống từ cấp cơ sở? Quét nhà thì người ta phải quét từ tầng trên xuống tầng dưới chứ!”. Anh Độ cười lớn: ”Hay, cậu nói rất hay. Chỉ sai một chút thôi, cái đảng ấy không phải của tôi. Cậu tên gì ấy nhỉ?”, “Dạ, cháu tên Cóc, Nguyễn Văn Cóc. Dễ nhớ lắm, bác ạ. Ở Đức này chỉ có mình cháu có cái tên xấu xí ấy thôi”. Anh Độ lại cười: “Xấu gì mà xấu, cậu ông Giời phán đúng lắm, cái đảng ấy toàn làm lộn ngược thôi!”.
Anh nói anh bị đảng của anh khai trừ là may. Như thế, anh được rũ khỏi trách nhiệm “trước những vũng bùn mà cái đảng ấy đang chui vào một cách được gọi là sáng tạo”. Khai trừ anh ĐCS thêm một lần phô trương cái hẹp hòi của mình, không chịu nghe bất kỳ lời nói ngược nào. Hành hạ anh cho tới khi chết, cấm người đi đưa tang không được dùng chữ “Vô cùng thương tiếc”, ĐCS lại càng cho thiên hạ thấy nó tiểu nhân tới mức nào trong sự hằn thù.
Đảng của anh khai trừ anh, bù lại anh được nhân dân đón anh vào lòng. Anh bị nhà cầm quyền căm ghét, bù lại anh được tình yêu thương của đồng bào. Anh được rất nhiều, mà không mất gì, nói cách khác, cái người ta cho là mất chẳng đáng gì với anh.
Khi lâm bệnh, anh không cần dùng đến thuốc của nhà nước mà anh ngờ vực, đã có đồng bào gửi thuốc cho anh. Trong những người lo lắng cho anh tôi muốn kể hai người rất sốt sắng lo cho anh tới ngày cuối cùng là Tưởng Năng Tiến và Đinh Quang Anh Thái. Trong những bức thư hiếm hoi gửi cho tôi, anh không bao giờ quên nhắn tôi gửi lời cảm ơn hai bạn mà anh không biết mặt.
Được tin anh mất, tôi không khóc nổi. Nước mắt chảy ngược vào tim. Tôi cảm được rằng mất mát này lớn hơn rất nhiều mất mát cho riêng tôi, đứa em yêu mến và kính trọng anh. Mất mát này là của cả dân tộc đang nhọc nhằn, vất vả đi tìm quyền sống, quyền làm người.
Trong bức thư cuối cùng Trần Độ gửi cho tôi trước khi mất, anh dặn: “Giai đoạn chuẩn bị cho sự chuyển đổi chế độ có thể kéo dài. Việc hàng ngày của ta, không được quên, là nâng cao dân trí. Dân trí được nâng cao bao nhiêu thì sự chuyển đổi sẽ thuận lợi bấy nhiêu. Thời cơ đến, việc mới thành. Chuẩn bị tốt thì thành tốt”.
Thời cơ mà ta chờ đợi sẽ đến, bao giờ cũng bất ngờ, nhưng vẫn là quy luật. Như nó đã từng xảy ra cùng với sự kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai đã đưa lại nền độc lập cho các nước thuộc địa. Như nó đã đến với sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.




QUÊ CHOA * VỤ HÔI CỦA Ở QUẢNG BÌNH

Phải truy tố ngay hành vi viết bài xuyên tạc, bịa đặt: Vụ hôi nhãn dã man tại Quảng Bình

Nguyễn Quang Vinh
NQL: Không phải Quảng Bình Quảng Bọ mà Quê Choa lên tiếng, ở đâu cũng thế kẻ nào cũng thế, bịa đặt vu không cho dân lành là trọng tội, cần phải lên án.
Ảnh bên: Một cảnh như thế này được VTC News bình luận:"Thùng container chở hàng bị người dân quây kín"

Vấn đề không phải mình là người Quảng Bình mà phẫn nộ trước bài viết của VTC News  ( Tại đây!) hoàn toàn xuyên tạc và bịa đặt việc người dân xã mền núi rẻo cao huyện Minh Hóa đã cướp sạch hàng ngàn thùng nhãn giá trị 1,3 tỉ từ một vụ tai nạn xe lao xuống vực, thậm chí bịa đặt cả việc các cơ quan chức năng có mặt khoanh tay đứng nhìn...và sau đó nhiều báo dẫn nguồn tin ảnh và bình luận nặng nề.

Vấn đề là cần phải xử lý nghiêm để chấm dứt trò lấy thông tin hóng hớt, hấp tấp, một phía, cưỡng dâm thông tin, đang trở nên đáng báo động hiện nay ( từ vụ cô gái cưỡng dâm tài xế tacxi ở Hải Dương và nhiều việc khác).

Chuyện tai nạn xe chở nhãn xảy ra từ ngày 21/1 mà sau tết mới đưa tin, và chỉ hỏi qua loa, hỏi một chiều, cùng với một số bức ảnh cung cấp rồi phán bừa, dùng những từ vu cáo bịa đặt nặng nề, xúc phạm đến bà con các dân tộc thiểu số ở vùng quê yên bình này là không chấp nhận được.

Mình trao đổi thông tin với thiếu tướng Từ Hồng Sơn, giám đốc công an Quảng Bình chỉ với tư cách bạn bè, và thấy rằng, việc củng cố ngay hồ sơ để truy tố tội vu cáo, bịa đặt khi đưa thông tin là cần thiết, và yêu cầu VTC và các trang mạng hóng hớt theo ngay lập tức phải xin lỗi công khai nhân dân huyện Minh Hóa, nhân dân Quảng Bình.

Làm báo, trong những hoàn cảnh cụ thể, có thể xảy ra thiếu sót, chuyện đó là tai nạn nghề nghiệp, sai thì sửa, thì cải chính, xin lỗi công khai, nhưng vụ việc này vượt quá điều đó, xâm hại nghiêm trọng đạo đức người làm báo, dẫn tới vu khống và bịa đặt là không tha thứ được, đặc biệt lại vu khống và bịa đặt, bôi nhọ đồng bào dân tộc thiểu số thì càng phải nghiêm trị.

Rứa thôi.
Xem thêm: Quảng Bình: Có đúng đã xảy ra chuyện hôi của?
Linh Đan
Những ngày qua, trên truyền thông đưa tin và hình ảnh về một vụ "hôi của" xảy ra tại huyện miền núi Minh Hóa (Quảng Bình) khi một xe đầu kéo container chở trái cây nhập khẩu bị tai nạn. Các nguồn tin đã dùng rất nhiều từ ngữ như "man rợ", "dã man"... để mô tả sự việc. Vậy đâu là sự thật?

Ngày 9.2, PV Lao Động đã có mặt tại huyện miền núi Minh Hóa để tìm gặp các nhân chứng và các cơ quan liên quan để tìm hiểu sự việc. Theo thông tin trên các báo mạng phản ánh, sự việc xảy ra tại địa bàn xã Dân Hóa (H.Minh Hóa) nhưng thực tế xác minh thì lại khác - xảy ra tại thôn Thanh Long (xã Hóa Thanh, H.Minh Hóa).


 Vị trí chiếc xe bị nạn. Ảnh: LINH ĐAN
 Có mặt tại vị trí bị nạn, theo quan sát của PV, vị trí xe bị nạn ở đoạn đường rất quanh co, hiểm trở. Từ mặt đường xuống đến khe suối khoảng 70-80m với dốc gần như thẳng đứng. Từ vị trí bị nạn đến nơi có dân ở khoảng 1km, cách trung tâm xã Hóa Thanh khoảng 12km.
Việc tìm gặp các người dân ở địa bàn xã Hóa Thanh rất khó khăn, vì phần lớn người Nguồn và đồng bào dân tộc nơi đây đều vào rừng làm rẫy từ sáng sớm đến tối mới về. Vừa gặp PV, Phạm Hồng Sơn -

Vị trí chiếc xe bị nạn. Ảnh: LINH ĐAN 
 
 Theo ông Sơn, sau khi đến hiện trường, có khoảng 50-70 người dân đã có mặt tại đó, không có lái xe. Tại thời điểm trên, một số người dân đã nhặt số nhãn bị rơi vãi ăn, một số thì lấy bỏ vào túi. Ông Sơn đã cùng 2 đồng chí công an thuộc Đồn CA Hóa Tiến đã yêu cầu người dân không được lấy hàng hóa của xe bị nạn, khi đó người dân nghiêm túc chấp hành yêu cầu của CA. Sau đó, có thêm 5 đồng chí CA nữa được điều động đến để bảo vệ hiện trường.

Để hiểu rõ hơn về sự việc, PV đã tìm gặp các người dân và cũng là các nhân chứng, họ đều khẳng định rằng, không có chuyện người dân xông đến hiện trường để cướp nhãn, không có chuyện tài xế xe van xin người dân đừng cướp nhãn mà người dân chỉ nhặt những quả nhãn rơi vãi ăn mà thôi. Họ còn cho biết, phần lớn số nhãn bị rơi vãi đã bị dập nát, không còn nguyên vẹn, nằm lẫn với bùn đất. Sau khi lực lượng CA có mặt, yêu cầu người dân không được lấy số hàng bị rơi vãi, người dân đều nghe theo vì... sợ. "Với lại, chuyện xe bị tai nạn, hàng hóa rơi xuống đường, xuống vực cũng xảy ra nhiều rồi, xưa nay chúng tôi không bao giờ lấy hàng cả" - anh Đinh Xuân Bình (SN 1990, trú thôn Thanh Long) thẳng thắn nói.

Anh Cao Ngọc Tý (SN 1984, trú thôn Thanh Lâm, xã Hóa Thanh) còn cho biết, thậm chí người dân địa phương khi chèo thuyền qua khe suối dưới khu vực bị nạn, thấy nhiều thùng nhãn bị rơi gần khe suối đã dùng thuyền chở số nhãn trên và sau đó giao cho CA.
.

 Các mảnh xốp từ chiếc xe bị nạn còn rơi vãi bên lề đường. Ảnh: LINH ĐAN
 
 Trao đổi với PV Lao Động, Trung tá Đinh Xích Thắng - Đồn trưởng CA Hóa Tiến - cho biết, theo biên bản vụ việc: "vào lúc 12 giờ ngày 21.1, anh Lê Văn Công điều khiển xe ô tô biển 89C-016.53 kéo rơ moóc 98R-000.13 chạy theo hướng Cha Lo về ngã ba Khe Ve, khi đến Km 108+500 thuộc địa bàn thôn Thanh Long, khi xuống dốc, cua gấp xe đã bị nổ lốp, mất lái và lật trên mặt đường. Container rơi xuống vực sâu, hàng hóa bị hư hỏng hoàn toàn không sử dụng được". Ông Lê Văn Công - tài xế cùng ông Phạm Hồng Sơn - Trưởng CA xã Hóa Thanh và ông Ngô Văn Thái - CA viên xã Hóa Thanh thống nhất ký vào biên bản.

Ông Sơn - Trưởng CA xã Hóa Thanh - thì cho biết, khoảng 14 giờ, ông Trịnh Văn Bảy (SN 1975, trú TP.Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên - là người đại diện cho Cty Bích Thị) đại diện cho Cty đến hiện trường để xử lý vụ việc. Ông Bảy nói hoa quả đã bị dập nát hết rồi nên cho người dân lấy, đừng bảo vệ nữa.


  Vị trí bị nạn đã được dựng hàng rào che chắn tạm thời. Ảnh: LINH ĐAN
 Sau đó, ông Bảy đã ký vào bản cam kết khẳng định container bị đổ xuống vực sâu làm cho hoa quả bị vỡ nát, một số người dân nhặt lấy nên ông đại diện cho công ty không lấy nữa.

Chính vì vậy, sau khi được sự đồng ý của đại diện công ty, lực lượng CA có mặt tại hiện trường không ngăn cản người dân vào nhặt số nhãn bị rơi vãi đã bị dập nát nữa. Đến khoảng 16 giờ, chiếc xe bị nạn được giải phóng khỏi hiện trường để tránh ùn tắc giao thông.

Thông tin từ Đồn Biên phòng Ra Mai (xã Trọng Hóa, H.Minh Hóa) cho biết, thông tin phản ánh vụ việc xảy ra tại địa bàn xã biên giới Dân Hóa không chính xác đã làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự vùng biên giới. Thực tế đã chứng minh, khi có sự việc xảy ra trên địa bàn các xã biên giới, lực lượng Bộ đội Biên phòng cùng lực lượng CA luôn phối hợp tốt để xử lý, không để các trường hợp đáng tiếc xảy ra.

Thượng tá Phạm Quang Du - Trưởng CA huyện Minh Hóa - khẳng định với PV "ngay sau khi có thông tin phản ánh, chúng tôi đã triển khai lực lượng, tập hợp các nhân chứng liên quan để làm rõ vấn đề. Kết quả thẩm tra cho thấy, thông tin phản ánh là chưa chính xác, không đúng bản chất sự việc". Ông Du còn cho biết, đoạn đường 12A từ Cửa khẩu Quốc tế Cha Lo về đến Ngã ba Khe Ve rất quanh co, hiểm trở nên đã xảy ra nhiều vụ TNGT. Chính vì vậy, việc tổ chức thực hiện bảo vệ hiện trường lực lượng CA địa phương rất có kinh nghiệm. Nếu xảy ra tại xã biên giới Dân Hóa và Trọng Hóa thì sẽ có thêm sự hỗ trợ của lực lượng Biên phòng. Sau khi xảy ra sự việc, tài xế và đại diện chủ xe rất đồng thuận. Chính vì vậy ông rất bất ngờ với thông tin phản ánh trên.
 QUÊ CHOA

TIN THẾ GIỚI


Ngoại trưởng Mỹ đến Châu Á trong lúc Nhật xích lại gần với Nga, Ấn Ðộ

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry và Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida sau một cuộc họp tại Bộ Ngoại giao ở Washington, ngày 7/2/2014.
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry và Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida sau một cuộc họp tại Bộ Ngoại giao ở Washington, ngày 7/2/2014.
CỠ CHỮ
Scott Stearns











Biển Đông : Mỹ lại chống dùng võ lực áp đặt chủ quyền

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry nhân kỳ dự hội nghị ASEAN tại Brunei - Reuters
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry nhân kỳ dự hội nghị ASEAN tại Brunei - Reuters

Trọng Nghĩa
Kể từ ngày 13/02/2014 tới đây, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry lại lên đường công du châu Á với các chặng ngừng tại Seoul, Bắc Kinh, và Jakarta. Hồ sơ Biển Đông chắc chắn là một điểm nóng trong chương trình nghị sự của người lãnh đạo ngành ngoại giao Mỹ.

Chuyến công du châu Á của Ngoại trưởng Mỹ diễn ra vào lúc khẩu chiến Mỹ Trung vẫn tiếp diễn về tính chấp phi pháp của đường lưỡi bò mà Bắc Kinh dùng để khoanh vùng chủ quyền của họ trên Biển Đông và các động thái quyết đoán của Trung Quốc nhằm áp đặt yêu sách biển đảo của mình.
Trong buổi họp báo thường kỳ tại Washington vào hôm qua, bà Marie Harf, Phó Phát ngôn viên bộ Ngoại giao Mỹ đã nhắc lại rằng Ngoại trưởng John Kerry sẽ công du châu Á từ ngày 13 đến 18 tháng 2, và sẽ lần lượt ghé Seoul, Bắc Kinh, Jakarta rồi Abu Dhabi.
Trả lời câu hỏi của một nhà báo về nội dung các vấn đề mà ông Kerry có thể bàn bạc với Trung Quốc, bà Marie Harf chưa cho biết cụ thể những cho rằng ngoại trưởng Mỹ sẽ nhắc lại quan điểm chống lại việc dùng sức mạnh để giải quyết tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông, từng được ông Danny Russel Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đặc trách châu Á Thái Bình Dương trình bày trước Tiểu ban Châu Á – Thái Bình Dương thuộc Ủy Ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ vào tuần trước.

Riêng về phản ứng của Trung Quốc trước nhận định công khai của ông Russel về tính chất không phù hợp với luật pháp quốc tế của tấm bản đồ 9 đường gián đoạn được Bắc Kinh dùng làm cơ sở để đòi chủ quyền trên Biển Đông, Phó phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ cũng nhắc lại tuyên bố của ông Russel theo đó « tính chất khiêu khích trong một số hành động của Trung Quốc đã làm nảy sinh nhiều mối quan ngại trong vùng về ý đồ lâu dài của Trung Quốc ».

Riêng về tấm bản đồ đường lưỡi bò, bà Harf cho biết là trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đã xác định rằng : « Căn cứ theo luật quốc tế, mọi đòi hỏi chủ quyền trên Biển Đông, như đường chín đoạn của Trung Quốc, phải lấy cơ sở từ các thực thể lãnh thổ đã được Luật Biển Liên Hiệp Quốc quy định, và luật quốc tế phải là cơ sơ duy nhất có giá trị để đòi hỏi chủ quyền trên Biển Đông ».
tags: Biển Đông - Hoa Kỳ - Ngoại giao - Quốc tế - Tranh chấp - Trung Quốc
 http://www.viet.rfi.fr/quoc-te/20140211-hoa-ky-nhac-lai-quan-diem-chong-viec-dung-vo-luc-de-ap-dat-chu-quyen-tai-bien-dong

 

 Tiếng chuông cảnh báo

Việt-Long - RFA. Tổng hợp tài liệu
2014-02-11

Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
chu-2
Chuyên gia tài chính quốc tế Charlene Chu, "người đánh chuông"
Courtesy of wantchinatimes.com

Nêu lên số nợ của Trung Quốc trên thực tế gấp ba con số mà giới tài chính quốc tế thường ước tính, một chuyên gia về hệ thống ngân hàng Trung Quốc từng cảnh báo rằng Trung Quốc sẽ bị đè bẹp với số nợ xấu tới 15 ngàn tỉ đô la, làm cho ngành bất động sản và kiến thiết hạ tầng cơ sở tạo nên bong bóng khổng lồ chưa từng có trong lịch sử.
Sinh trưởng ở Hoa Kỳ, tốt nghiệp đại học Yale, nhà phân tích, chuyên gia tài chính Charlene Chu của công ty Fitch làm việc ở Bắc Kinh đã cảnh báo sự sụp đổ về tài chính của Trung Quốc từ năm 2009.

Tiếng chuông cảnh báo

Năm ngoái, bà nói Trung Quốc sẽ phải đối đầu với cuộc khủng hoảng nợ sau khi tiền cho vay tăng đến gấp đôi tổng sản lượng nội địa. Nhà chiến lược toàn cầu về tài chính Albert Edwards của công ty tài chính ngân hàng đa quốc Société Général SA tại Paris gọi bà là "nữ anh hùng", đáng được thưởng huân chương danh dự nhờ dự báo về bong bóng kinh tế tài chính Trung Quốc.  

buiding-china
Công trình xẩy dựng ở Bắc Kinh - Courtesy of thirdage.com

Cảnh báo này của bà khiến công ty Fitch hồi tháng tư, 2013, hạ thấp điểm đánh giá những món nợ dài hạn tại Trung Quốc bằng tiền địa phương. Đó là lần đầu tiên một trong ba công ty lượng giá tài chính hàng đầu thế giới hạ điểm Trung Quốc.
Bị những nhân vật chóp bu về tài chính của Trung Quốc ghét bỏ, vì đã nhiều lần nói đến thực tế Trung Quốc đang lâm vào trạng huống bành trướng nợ nần đáng ngại, nhưng bà Chu vẫn ca ngợi Trung Quốc đã để bà được tự do phát biểu một quan điểm khá tiêu cực cho xứ này.
Bà mới nghỉ việc tại Fitch hôm 14 tháng 1, sau 8 năm làm việc, và được mời làm chuyên gia cho công ty Autonomous nghiên cứu về ngân hàng.  Bà cho biết không có áp lực nào từ phía Trung Quốc cũng như từ Fitch khiến bà nghỉ việc.

Hệ thống "cái bóng"

Charlene Chu đã giải thích về sự hình thành ở Trung Quốc một ngành công nghiệp ngân hàng trong bóng tối, tạm gọi là hệ thống ngân hàng "đen", là cơ chế ngầm mà ngày nay phải chịu trách nhiệm về những số nợ khổng lồ của hệ thống ngân hàng chính thức của Nhà nước Bắc Kinh.
Đúng như bà trình bày trong một cuộc phỏng vấn hồi tháng 5, sang tháng 6 Trung Quốc đã lung lay vì nợ xấu khi tổng nợ từ các ngân hàng và các cơ sở tài chính lên đến 198% GDP, so với 125% hồi năm 2011.
Từ năm 2011 công ty Fitch đã bắt đầu tính toán tổng nợ của nền kinh tế bằng cách cộng các tài sản ngoài kế toán chi thu như thư tín dụng, món tài trợ ngoài ngân hàng cùng nợ của các  ngân hàng nước ngoài, để tìm ra mọi hình thức tài chính trong nền kinh tế do ngân hàng trung ương công bố.
Lên tiếng lần đầu tiên từ khi về làm việc cho Autonomous, Charlene Chu nói bà biết chắc rằng hệ thống ngân hàng Trung Quốc phải sụp đổ.
"Khu vực ngân hàng đã bành trướng ra thêm từ 14 ngàn tỉ tới 15 ngàn tỉ đô la  trong khoảng thời gian 5 năm. Trung Quốc không cách nào tránh khỏi những khó khăn khổng lồ".
Đằng sau những khó khăn đó là một loạt những trở ngại về các quỹ tín thác, những công trình quản lý tài chánh, và nợ ngoại tệ tăng vọt dù chính phủ có nhiều nỗ lực hạn chế sự vay mượn của các ngân hàng lớn.
Những cảnh báo này của bà Chu lại chứng tỏ hiệu nghiệm trong mấy tuần nay khi Ngân hàng Công Thương Trung Quốc (ICBC) không có tiền trả gần 500 triệu đô la cho một quỹ tín thác đã cam kết. Sự kiện này làm nảy ra mối lo sẽ xảy ra tình trạng ngân hàng vỡ nợ như tại Mỹ trong cuộc khủng hoảng tín dụng 2007.
Vụ bội tín của ICBC dường như đã được giải quyết, nhưng nhà phân tích Charlene Chu nói chắc rằng mối liên hệ giữa hệ thống ngân hàng chính thức và hệ thống "đen" sau lưng nó vẫn là một mối nguy.
Bà thường xuyên nhấn mạnh quan điểm mà giới kinh tế gia và giới học thuật Trung Quốc gạt bỏ, rằng các ngân hàng Trung Quốc thường dính líu đến những thương vụ "sau hậu trường" trong nhiều vụ làm ăn "đen" như vậy. Các viên chức và chuyên gia Trung Quốc nói ngược lại, khu vực ngân hàng "đen" với hệ thống ngân hàng chính thức hoàn toàn tách biệt, nếu hệ thống "đen" có sụp đổ cũng không thành vấn đề.
Bà bác bỏ quan niệm đó, vì vụ ICBC vừa nói là một bằng chứng rõ ràng là đã có mối liên hệ chằng chịt giữa hai hệ thống ngầm và chính thức. Nhiều người thấy yên tâm khi khối ngoại tệ dự trữ, ước đoán gần 4 ngàn tỉ đô la, sẽ được dùng để cứu nguy một khi hệ thống tài chính gặp khủng hoảng. Nhưng bà Chu cho rằng đó chỉ là ý mong cho mọi sự tốt lành, vì khối ngoại tệ dự trữ không thể được sử dụng tới mức người ta tưởng, lý do là nó phải được ngân hàng trung ương bù đắp. Khi nhìn vào bảng cân bằng tài chính của ngân hàng người ta không thể đem hết phía "sở hữu" tức là vốn liếng tài sản để yểm trợ cho quỹ dự trữ, mà không lưu ý đến phía "nợ nần" là trách nhiệm tài chánh của ngân hàng.
building
Những buiding đón chờ các nhà đầu tư Âu Mỹ- Courtesy of dreamstimes.com

Khác với phương Tây

Tuy nhiên, trong khi bà nói là không biết quyền hạn của nhà cầm quyền tới đâu trong việc ném tiền ra giải quyết vấn đề, bà cũng cho rằng có nhiều lý do khiến cuộc khủng hoảng của Trung Quốc diễn ra khác với những gì được thấy ở phương Tây. Ở phương Tây các lực thị trường được tung hết khả năng vào trận đồ "nợ nần vay trả trả vay", nhưng ở Trung Quốc có chính quyền can thiệp, và những vụ vỡ nợ được cô lập trong một thời gian, để coi nó như một sự kiện riêng rẽ không lặp lại. Tuy nhiên câu hỏi sinh tử là liệu vào lúc nào những cái gọi là "sự kiện cá biệt" ấy kéo nhau trở thành một làn sóng vỡ nợ? Khi đó chính quyền không thể đối phó theo cách họ giải quyết một sự kiện riêng lẻ.
Tuy chuyên gia Charlene Chu ca ngợi Trung Quốc đã để bà được tự do bày tỏ ý kiến, những nhận xét của bà Chu thực ra đã không gây chút thiện cảm nào với các ngân hàng và công ty tài chính Bắc Kinh, chỉ gây khó khăn thêm cho bà và công ty Fitch. Bà khó tìm ra những thông tin về những dữ kiện bên trong hệ thống ngân hàng Trung Quốc, nhưng không phải tỏ ra ”biết ơn" sự "chiếu cố " của đảng Cộng Sản càng giúp sự phân tích của bà công bằng, vô tư hơn.
Thêm vào đó, bà cho biết vị trí "đứng bên ngoài" khiến bà ít đau lòng hơn là thấy hết những gì đang diễn tiến trên xứ sở này. Vị trí đó khiến bà đi chu du nhiều nơi để kiểm tra sớm nhất công tác xây dựng những "thành phố ma" mà công ty xây dựng khai là đã có 100% người sử dụng. Thực ra các kiến trúc ấy gần như bị bỏ hoang, chỉ có mặt những toán nhân viên bảo trì cùng một số gọi là những doanh nhân nản lòng thoái chí.
Bà nói điều quái lạ là những kiến trúc mới gần như hoàn toàn trống trải nhưng đều có người đã mua hết. Cảnh trạng chứa đựng nhiều mâu thuẫn, nhưng một số lượng đáng kể những tòa bất động sản đã được kiến tạo trong mấy năm qua, trong khi nhiều dự án như vậy vẫn được tiến hành. Điều này là lý do chắc chắn gây lo ngại về bong bóng bất động sản. Trái bong bóng nổ bùng sẽ để lại một nước Trung Hoa rất khác lạ, và đó là nền kinh tế sau khi bùng phát khủng hoảng đáng lo ngại nhất.
Phương Tây có thể áp dụng một loạt biện pháp ngay lúc nghiêng nghiêng khởi sự sụp đổ, nhưng Trung Quốc khó lòng chịu nổi đà tăng trưởng chậm lại , như một nền kinh tế "đi xe đạp" thường được nói tới, hễ chậm quá, muốn dừng lại là đổ nhào.

Ảnh hưởng quốc tế  
empty
Những building bỏ trống ở Thượng Hải - Courtesy of chinasnippets.com

Theo bà Chu, nền kinh tế xứ này là một thị trường phát triển với một mạng lưới an sinh xã hội rất chắc chắn. Nếu lãnh vực tài chính gặp vấn đề, mức tăng trưởng sẽ phải chậm lại nhiều trong một thời gian dài, và đó là lúc khủng hoảng. Nhiều nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc nhận thức được cuộc chơi "đánh đu với tinh" như hiện nay, nhưng với nền kinh tế và chính trị lệ thuộc vào đà tăng trưởng 7%, họ vẫn chưa thể có quyết tâm giựt bỏ mâm cơm an sinh xã hội. Vấn đề chính ở chỗ đó. Cuộc khủng hoảng tệ hại, và để cho tình trạng kéo dài chỉ khiến hậu quả tệ hại hơn, nhất là đối với cả hệ thống tài chính quốc tế.
Them vào đó là vấn đề giới kinh doanh nội địa Trung Quốc vay mượn ngoại tệ. Thẩm quyền tài chính Hồng Kông cho biết ngoại tệ chảy vào Trung Quốc đã tăng gấp hơn 4 lần trong ba năm qua, vượt quá ngưỡng 1 ngàn tỉ đô la.
Chính vì thế khi gánh nợ càng kéo dài, phần thua thiệt của quốc tế càng gia tăng. Trung Quốc còn ổn định ngày nào là nhờ ngày đó còn it lệ thuộc vào nguồn ngoại tệ bên ngoài. Khi trạng thái thay đổi, tình hình càng thêm bấp bênh, giới đầu tư sẽ mất đi khẩu vị về thị trường Trung Quốc như trước đây.
Các nhà đầu tư không thể lơ là trước những vấn đề ngày càng trầm trọng của hệ thống tài chính Trung Quốc. Họ đã bắt đầu rất thận trọng khi mở túi tiền bỏ vào nền kinh tế thứ nhì thế giới này. Và Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama vừa tuyên bố Hoa Kỳ đã vượt qua Trung Quốc lần đầu tiên đẻ trở thành nơi thu hút đầu tư đứng đầu thế giới.
 http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/the-shadow-system-02112014160506.html


  Đài Loan muốn cải thiện quan hệ với Trung Quốc, nhưng vẫn giữ quy chế độc lập

Phái đoàn Đài Loan tại khu mộ Tôn Trung Sơn ở Nam Kinh, Trung Quốc, ngày 12/10/2014
Phái đoàn Đài Loan tại khu mộ Tôn Trung Sơn ở Nam Kinh, Trung Quốc, ngày 12/10/2014
REUTERS

Đức Tâm
Lần đầu tiên kể từ khi đảng Cộng sản Trung Quốc lên nắm quyền tại Trung Hoa lục địa, năm 1949, một phái đoàn cấp cao của Đài Loan đã tới Nam Kinh, ngày hôm qua 11/02/2014, bắt đầu chuyến công du chính thức Trung Quốc trong vòng bốn ngày.

Ngay trong ngày đầu tiên của chuyến viếng thăm « lịch sử » này, hai bên đã đạt được đồng thuận về việc mở văn phòng liên lạc, càng sớm càng tốt, tại Đài Loan và Trung Quốc. Các cuộc thảo luận tại Nam Kinh là một bước tiến lớn trong tiến trình thầm lặng bình thường hóa quan hệ song phương, được khởi đầu cách nay khoảng hai chục năm.
Theo giới quan sát, Bắc Kinh và Đài Bắc đã dàn xếp từng chi tiết cho cuộc gặp chính thức đầu tiên này. Chuyến viếng thăm diễn ra vào dịp Tiết Nguyên Tiêu, (Yuan Xiao – 15 tháng Giêng âm lịch), với lễ cầu mong hòa giải và đoàn tụ gia đình. Nơi tiến hành đàm phán cũng mang tính biểu tượng : Nam Kinh vốn là thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc, trước khi chính quyền Tưởng Giới Thạch rút chạy sang Đài Loan, năm 1949.
Đối với Bắc Kinh, thiết lập tiếp xúc trực tiếp giữa các cơ quan của hai bên là nhằm đề cập đến các vấn đề chính trị. Cho đến nay, Tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu vẫn từ chối mở đối thoại chính trị, lo ngại là khả năng hành động bị thu hẹp và buộc phải thảo luận vấn đề hòa giải với Trung Quốc.
Xu hướng chung tại Đài Loan là thận trọng, cảnh giác : Không tiến hành các thảo luận chính trị nếu chưa giải quyết được vấn đề bảo đảm an ninh cho Đài Loan, bởi vì gần 800 tên lửa của Trung Quốc vẫn chĩa vào Đài Loan và Bắc Kinh thường xuyên đe dọa, nếu cần, sẽ dùng vũ lực đánh chiếm đảo.
Thông tín viên RFI trong khu vực, Florence de Changy, nhận định :
« Chi tiết đầu tiên mà người dân Đài Loan ghi nhận trong cuộc gặp chính thức giữa hai quan chức Trung Quốc và Đài Loan phụ trách quan hệ song phương, đó là việc các quan chức này sử dụng chức danh chính thức của mình. Chi tiết này rất quan trọng đối với Đài Loan, vì thông thường trong các cuộc gặp trước đây, Đài Loan không được dùng tên gọi chính thức để không làm phật ý Trung Quốc. Ví dụ, trong các Thế Vận Hội, Đài Loan có tên là Đài Bắc Trung Quốc, chứ không dùng tên Đài Loan hoặc tên chính thức là Trung Hoa Dân Quốc, hay không có cờ của Đài Loan trong các phòng họp chính thức.

Vấn đề là cuộc gặp này gây lo ngại chứ không tạo sự hào hứng tại Đài Loan. Người dân trên đảo lo ngại là chính phủ hiện nay đi quá xa trong các cam kết với Trung Quốc và Đài Loan rơi vào bẫy của Bắc Kinh. Tuy nhiên, người ta cũng nhấn mạnh đến những tiến bộ cụ thể có thể đạt được nhờ có đối thoại dễ dàng giữa hai bên.

Thực vậy, hai triệu dân Đài Loan hiện sinh sống tại Trung Hoa lục địa không có cơ quan đại diện lãnh sự. Sinh viên Đài Loan du học tại Trung Quốc không có bảo hiểm y tế. Còn đối với những người Đài Loan bị giam giữ trong tù tại Trung Quốc, họ không hề có một sự trợ giúp tư pháp nào.

Thế nhưng, gần 80% dân Đài Loan vẫn mong muốn giữ nguyên trạng tình hình hiện nay, tức là Đài Loan duy trì sự độc lập trên thực tế đối với Trung Quốc ».
Ông Jean Pierre Cabestan, chuyên gia về Trung Quốc, giảng dậy tại Hồng Kông, lưu ý : « Cần phải dè chừng các biểu hiện bên ngoài và nhất là hãy cố gắng nhận diện các cạm bẫy đằng sau những nụ cười ». Ý đồ của Bắc Kinh là « buộc Đài Loan phải tiến hành các thương lượng chính trị nhằm tiến tới thống nhất ».
Theo báo Le Monde, đại đa số dân Đài Loan cho rằng không nên đặt ra vấn đề thống nhất, chừng nào hệ thống chính trị tại Bắc Kinh chưa thay đổi. Họ muốn giữ nguyên trạng và tin chắc rằng chính Đài Loan đang có một nền dân chủ với « các đặc trưng Trung Hoa ».
tags: Châu Á - Phân tích - Quan hệ - Trung Quốc - Đài Loan - Độc lập - Đối thoại 
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20140212-dai-loan-muon-cai-thien-quan-he-voi-trung-quoc-nhung-van-giu-quy-che-doc-lap

Trung Quốc và Đài Loan tiếp tục đối thoại cải thiện quan hệ song phương

Trưởng đoàn Đài Loan Vương Úc Kỳ phát biểu trong cuộc họp lịch sử tại Nam Kinh, ngày 11/02/2014
Trưởng đoàn Đài Loan Vương Úc Kỳ phát biểu trong cuộc họp lịch sử tại Nam Kinh, ngày 11/02/2014
Reuters

Đức Tâm
Hôm nay, 12/02/2014, tại Nam Kinh, quan chức Trung Quốc và Đài Loan tiếp tục các cuộc thảo luận nhằm cải thiện quan hệ song phương. Cuộc đối thoại được tiến hành từ hôm qua và được cả hai bên đánh giá là mang tính lịch sử.

Tuy nhiên, giới quan sát cho rằng không nên thổi phồng quá mức ý nghĩa của sự kiện này vì còn rất nhiều chủ đề nhậy cảm trong quan hệ song phương, như tường trình của thông tín viên RFI Stéphane Lagarde từ Bắc Kinh :
« Không hề có những dòng chữ nào nói đến Trung Hoa Dân Quốc gắn trên vòng hoa được đặt trước ngôi mộ của Tôn Trung Sơn, cha đẻ của nước Trung Hoa hiện đại, tại thành phố Nam Kinh, sáng nay. Ông Vương Úc Kỳ (Wang Yu Chi), Bộ trưởng Đài Loan phụ trách quan hệ với Trung Quốc không muốn làm phật ý chủ nhà.
Cử chỉ này cho thấy mối quan hệ mong manh và nhậy cảm giữa Trung Hoa quốc dân và chế độ cộng sản. Chính quyền Bắc Kinh vẫn coi Đài Loan là một tỉnh của Trung Hoa lục địa. Do vậy, cả hai bên đều cố gắng giữ thái độ trung dung trong cuộc gặp mang tính lịch sử này : Chú ý không làm mất lòng nhau, và đồng thời vẫn tiến hành đối thoại.
Các vấn đề chính trị nhậy cảm được đặt sang một bên, nhưng lần đầu tiên, hai bên đề cập đến chủ đề vượt ra khỏi phạm vi quan hệ kinh tế và thương mại. Quyết định thành lập văn phòng liên lạc, được đưa ra trong ngày hôm qua, được coi là một bước tiến quyết định trong việc gia tăng đối thoại song phương.
Tuy nhiên vào thời điểm hiện nay, hai bên tránh không đề cập đến một cuộc găp chính thức trong tương lai giữa Tổng thống Đài Loan và Chủ tịch nước Trung Quốc ».
 http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20140212-trung-quoc-va-dai-loan-tiep-tuc-doi-thoai-cai-thien-quan-he-song-phuong

Báo động: Người Trung Quốc lại sắp lập căn cứ ở Quảng Trị

Tác giả chụp ảnh với một lão nông ở địa phương, người có hơn 8 sào đất thuộc diện sẽ bị thu hồi, hôm 4.2.2014, trên con đường đất đỏ dẫn xuống biển (khu đất dự án nằm ngay trước mặt chúng tôi; sau lưng chúng tôi, cách gần 1km, là Hải đội 202, Vùng Cảnh sá
Tác giả chụp ảnh với một lão nông ở địa phương, người có hơn 8 sào đất thuộc diện sẽ bị thu hồi, hôm 4.2.2014, trên con đường đất đỏ dẫn xuống biển (khu đất dự án nằm ngay trước mặt chúng tôi; sau lưng chúng tôi, cách gần 1km, là Hải đội 202, Vùng Cảnh sá
CỠ CHỮ
Trong những năm qua, dư luận đã nhiều lần lên tiếng trước tình trạng người Trung Quốc, thông qua chiêu bài lập dự án kinh tế dưới nhiều hình thức khác nhau, đã chiếm lĩnh được những khu vực hiểm yếu về an ninh - quốc phòng trên cả nước trước sự “ưu ái” và “chủ quan” đến mức khó hiểu của những người có trách nhiệm.

Các dự án trồng rừng đầu nguồn ở một số tỉnh miền núi phía bắc của tập đoàn InnovGreen và việc tập đoàn Formosa thực hiện dự án đầu tư xây dựng khu liên hợp gang thép và cảng Sơn Dương tại Khu Kinh tế Vũng Áng là những ví dụ điển hình.
Mới đây, trong lần ghé thăm Cửa Việt (Quảng Trị), chúng tôi lại nhận được một tin hết sức đáng lo ngại: Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam (một công ty sản xuất thức ăn gia súc, thuỷ sản và chăn nuôi hàng đầu Việt Nam, trước đây thuộc tập đoàn C.P. Group của Thái Lan, nhưng đã bị Trung Quốc thâu tóm kể từ năm 2011) sắp được giao 96,1ha đất, kéo dài hơn 2km dọc theo bờ biển và chỉ cách cảng Cửa Việt chưa đầy 1km.

Cửa Việt nhìn từ cầu Cửa Việt.
Cửa Việt nhìn từ cầu Cửa Việt.



Nhà văn Xuân Đức, một người con của tỉnh Quảng Trị, đã viết về Cửa Việt như sau:

Những năm đánh Mỹ, nếu Quảng Trị là cửa ngõ của cả hai thế lực tiêu biểu của loài người thì Cửa Việt chính là cuống họng của ống thực quản nuôi sống sức mạnh của kẻ xâm lược cho vành đai trắng nam giới tuyến để kháng cự với sức mạnh tổng lực của chúng ta từ Miền Bắc tràn vào. Lính thủy đánh bộ, vũ khí, thiết bị quân sự Mỹ vào cảng Cửa Việt, lên Đông Hà rồi theo con sông Hiếu để lên Cam Lộ, Khe Sanh... Cùng với các điểm chốt thiết yếu trên bờ từ biển lên rừng như cao điểm 31, Dốc Miếu, Cồn Tiên, lên đồi 241, Phulo, Đầu Mầu, Động Tri, Tà Cơn v..v.. Con sông Cửa Việt (hoặc sông Hiếu) hợp thành một phòng tuyến mà McNamara coi là bất khả xâm phạm. Và vì thế, cuộc chiến đập tan phòng tuyến Gio Linh, Cam Lộ, Khe Sanh (hàng rào điên  tử McNamara) nói chung, cuộc chiến trên cảng Cửa Việt và sông Cửa Việt nói riêng đã trở thành quyết chiến điểm khốc liệt nhất có ý nghĩa quyết định sự thành bại của cả chiến trường Miền Nam.

Như vậy, có thể nói Cửa Việt là một khu vực trọng yếu và hết sức nhạy cảm về an ninh – quốc phòng.

Khu đất dự kiến thu hồi cho Công ty C.P. Việt Nam nằm gọn trong vùng đất canh tác của làng Hà Tây, xã Triệu An, huyện Triệu Phong. Người dân ở đây cho chúng tôi biết, dự án này đã manh nha từ năm 2011. Chính quyền địa phương và nhà đầu tư đã vài lần gặp gỡ với dân để trao đổi về dự án, lần gần nhất là vào ngày 12.1.2014.

Theo tìm hiểu của chúng tôi thì cán bộ địa phương hầu như không “lấn cấn” gì với dự án.

Điều này là vì một số lý do. Thứ nhất, do họ nằm trong bộ máy nên luôn đề cao ý thức chấp hành những “chủ trương lớn” của đảng và nhà nước. Thứ hai, đất đai của họ chủ yếu cho người khác thuê mướn chứ họ hiếm khi trực tiếp canh tác nên việc bị thu hồi đất đối với họ không quan trọng. Thứ ba, có lẽ là quan trọng hơn cả, những mảnh đất công, bờ ruộng, lối đi… nằm rải rác trong khu đất dự án (không thuộc đất canh tác của các hộ dân) sẽ được họ tìm cách “phù phép” để chia nhau bỏ túi theo kiểu “sống chết mặc bay…”, một hiện tượng phổ biến khắp cả nước.

Với người dân thì họ đặc biệt quan tâm đến những vấn đề thiết thân với mình: (i) sau khi bị thu hồi đất đai canh tác thì họ sẽ làm gì để mưu sinh? (ii) giá đền bù sẽ được áp như thế nào, liệu có tương xứng với giá trị đất đai canh tác của họ hay không, hay lại rẻ mạt như khắp các tỉnh thành khác? (iii) khi dự án đi vào hoạt động, nếu phần đất xung quanh khu vực dự án bị ô nhiễm (điều rất dễ xẩy ra, đặc biệt là những ao nuôi tôm nằm sát biển của bà con) khiến họ không tiếp tục canh tác hay nuôi trồng thuỷ sản được thì xử lý thế nào, ai là người phải chịu trách nhiệm.

Những người nông dân chất phác, thuần hậu ở đây không biết được đằng sau Công ty C.P. Việt Nam là Trung Quốc, và việc người Trung Quốc (mà gần đây đã xuất hiện ngày càng nhiều ở Quảng Trị) kéo sang theo dự án rồi sinh cơ lập nghiệp, xâm chiếm không gian sống của họ là điều không khó đoán, qua những “dự án” mà người Trung Quốc thực hiện trên khắp cả nước thời gian qua. Họ lại càng không ý thức được những hệ luỵ tiềm tàng về an ninh - quốc phòng của một dự án do người Trung Quốc làm chủ ngay sát nách Cửa Việt như thế gây ra. Đây là trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, cũng như đòi hỏi sự lên tiếng kịp thời của công luận.

Hải đội 202, Vùng Cảnh sát biển II, nơi chỉ cách dự án do Cty Trung Quốc làm chủ chưa đầy 1km về phía Nam
Hải đội 202, Vùng Cảnh sát biển II, nơi chỉ cách dự án do Cty Trung Quốc làm chủ chưa đầy 1km về phía Nam

Tỉnh lộ 64 nối Cửa Việt với thị xã Quảng Trị, khu vực dự án nằm song song và chỉ cách con đường này hơn 100m
Tỉnh lộ 64 nối Cửa Việt với thị xã Quảng Trị, khu vực dự án nằm song song và chỉ cách con đường này hơn 100m





Bên phải là tỉnh lộ 64, cách bờ biển khoảng 1km, nối Cửa Việt với thị xã Quảng Trị; bên trái là đường đất đỏ dẫn xuống biển (đây là ranh giới phân chia đất canh tác của làng Phú Hội và làng Hà Tây, xã Triệu An).
Bên phải là tỉnh lộ 64, cách bờ biển khoảng 1km, nối Cửa Việt với thị xã Quảng Trị; bên trái là đường đất đỏ dẫn xuống biển (đây là ranh giới phân chia đất canh tác của làng Phú Hội và làng Hà Tây, xã Triệu An).





Đường đất đỏ chạy từ tỉnh lộ 64 thẳng xuống biển. Bên trái con đường là đất đai canh tác của làng Phú Hội, bên phải là của làng Hà Tây (dự kiến thu hồi để giao cho Cty C.P. Việt Nam). Khu đất dự án nằm song song với tỉnh lộ 64 (cách mép đường đỏ vài chục mét)
Đường đất đỏ chạy từ tỉnh lộ 64 thẳng xuống biển. Bên trái con đường là đất đai canh tác của làng Phú Hội, bên phải là của làng Hà Tây (dự kiến thu hồi để giao cho Cty C.P. Việt Nam). Khu đất dự án nằm song song với tỉnh lộ 64 (cách mép đường đỏ vài chục mét)


Một ao nuôi tôm nằm sát bờ biển của bà con làng Hà Tây
Một ao nuôi tôm nằm sát bờ biển của bà con làng Hà Tây
Liệu có nhất thiết phải thu hồi những thửa ruộng phì nhiêu ngay sát một khu vực trọng yếu và hết sức nhạy cảm về an ninh - quốc phòng như Cửa Việt cho một công ty của Trung Quốc hay không? Ai sẽ phải chịu trách nhiệm về những hệ luỵ kinh tế - xã hội và đặc biệt là an ninh quốc phòng từ quyết định khó hiểu này?
Liệu có nhất thiết phải thu hồi những thửa ruộng phì nhiêu ngay sát một khu vực trọng yếu và hết sức nhạy cảm về an ninh - quốc phòng như Cửa Việt cho một công ty của Trung Quốc hay không? Ai sẽ phải chịu trách nhiệm về những hệ luỵ kinh tế - xã hội và đặc biệt là an ninh quốc phòng từ quyết định khó hiểu này?
Dự án này rất có thể lại là “tác phẩm” do Phó Thủ tướng Tàu “phụ trách kinh tế” Hoàng Trung Hải “đạo diễn”, giống như việc ông ta đã “dâng” đến 90% các công trình hạ tầng trọng điểm quốc gia cho nhà thầu Trung Quốc, quê hương của ông ta, “dâng” phần lớn các mỏ khoáng sản của Việt Nam và ngành điện Việt Nam cho Trung Quốc, âm mưu “Hán hoá” nền kinh tế Việt Nam, hay mở đường cho người Trung Quốc chiếm lĩnh cả vùng g Áng (huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh)… Xin lưu ý là lãnh đạo tỉnh Quảng Trị, kể cả lực lượng công an ở đây, phần lớn là tay chân thân tín của PTT Tàu Hoàng Trung Hải. Đó là lý do vì sao vợ chồng tác giả bài viết (Lê Anh Hùng – Lê Thị Phương Anh, những người đang tố cáo ngài PTT Tàu này về những tội ác khủng khiếp như gián điệp, buôn bán ma tuý và giết người suốt mấy năm nay) thường xuyên bị công an và côn đồ ở đây khủng bố, bắt cóc, cướp bóc, hành hung, triệt đường sống.

Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

 

Gia nhập TPP: cơ hội và thách thức

Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
2014-02-11

Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
Trưởng đoàn đàm phán của Quan Hệ Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) từ 11 quốc gia, Australia, Brunei, Canada, Chile, Singapore, Mexico, New Zealand, Peru, Mỹ và Việt Nam tham dự cuộc họp báo chung tại Singapore vào ngày 13 tháng 3 năm 2013.
Trưởng đoàn đàm phán của Quan Hệ Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) từ 11 quốc gia, Australia, Brunei, Canada, Chile, Singapore, Mexico, New Zealand, Peru, Mỹ và Việt Nam tham dự cuộc họp báo chung tại Singapore vào ngày 13 tháng 3 năm 2013.
AFP
Nghe bài này
Năm 2013 đã trôi qua, các cuộc đàm phán TPP giữa Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn còn nhiều bế tắt mặc dù Mỹ đã hết sức khuyến khích Việt Nam trong nhiều cuộc đám phán. Tuy nhiên trở ngại lớn nhất vẫn tiềm ẩn từ nền kinh tế, chính trị Việt Nam trước khi gia nhập TPP. Mặc Lâm phỏng vấn TS Lê Đăng Doanh, nguyên giám đốc Viện Nghiên Cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) để tìm hiểu thêm về vấn đề này, trước tiên TS Lê Đăng Doanh nhận xét những thuận lợi khi Việt Nam tham gia vào TPP:
TS Lê Đăng Doanh: Trước hết cần khẳng định rằng nếu Việt Nam tham gia TPP thì sẽ được nhiều quyền lợi. Một là trong số 12 nước TPP thì Việt Nam có nhiều cơ hội bổ xung nền kinh tế của mình với những nền kinh tế khác, đặc biệt là Hoa Kỳ và Nhật Bản. Mới đây Nhật có cho biết sẽ thực hiện sự hợp tác trong nông nghiệp và chế biến nông, thủy sản để sản xuất tại Việt Nam nhưng có thể xuất khẩu về Nhật với mức thuế suất về phía Nhật Bản là 0%. Như vậy là một cơ hội rất tốt để Việt Nam có thể phát triển nông nghiệp, thủy sản cũng như chế biến và phát triển công nghiệp thực phẩm.
Cần khẳng định rằng nếu VN tham gia TPP thì sẽ được nhiều quyền lợi. Một là trong số 12 nước TPP thì Việt Nam có nhiều cơ hội bổ xung nền kinh tế của mình với những nền kinh tế khác, đặc biệt là Mỹ và Nhật Bản
TS Lê Đăng Doanh
Điểm thứ hai đặc trưng của TPP là Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới có những yêu cầu cao hơn rất nhiều. Nếu những hiệp định thương mại tự do trước đây chỉ yêu cầu tự do hóa về thương mại hàng hóa thì Hiệp định thương mại tự do sau đó mở ra tự do hóa thương mại dịch vụ, đầu tư, tài chính, tiền vốn và bây giờ hiệp định TPP này nó yêu cầu có sự thống nhất về quy định và hành xử của nhà nước trong đó có các quy định rất phù hợp với Việt Nam thí dụ như cạnh tranh, kiểm soát độc quyền. Nó cũng yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước phải công khai minh bạch và không được ưu tiên ưu đãi gì.
12 bộ trưởng thương mại Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và Việt Nam tham dự Đối tác Thái Bình Dương Trans (TPP)có một buổi họp bên lề tại cuộc họp APEC ở Indonesia (2013)
12 bộ trưởng thương mại Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và Việt Nam tham dự Đối tác Thái Bình Dương Trans (TPP)có một buổi họp bên lề tại cuộc họp APEC ở Indonesia (2013)
Mặc Lâm: Thưa Tiến Sĩ, một trong những khó khăn khi Việt Nam gia nhập TPP là vấn đề cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài nhất là với các nước tiên tiến sẽ là một thách thức lớn cho doanh nghiệp Việt Nam. Theo TS thì những khó khăn ấy Việt Nam phải chuẩn bị như thế nào?
TS Lê Đăng Doanh: Việt Nam bước vào sân chơi TPP thì một là phải có những cải cách mạnh mẽ và điều ấy cho đến nay Việt Nam có đề ra phương hướng sẽ cải cách nhưng còn nhưng biện pháp cụ thể thì chưa thấy rõ.
Thứ hai nữa như ông nói có một số mặt hàng của Việt Nam sẽ khó có khả năng cạnh tranh được. Điều đáng lo nhất đối với Việt Nam là về mặt hàng công nghiệp với quy định xuất xứ của sản phẩm. Thí dụ như đối với sản phẩm dệt may thì TPP quy định từ sợi trở lên phải có hàm lượng TPP 70%. Điều đó có nghĩa là người Việt Nam phải phát triển công nghiệp và dịch vụ trợ giúp cho dệt may như nhuộm, chỉ may, cúc áo, chất độn để cho hàm lượng đạt được 70% . So với hiện nay chủ yếu là nguyên liệu Trung Quốc là nước không phải TPP chiếm đến 60-70% tùy từng loại mặt hàng, đấy là một thách thức.
Thách thức thứ hai là công khai minh bạch. Lâu nay tuy chúng ta nói công khai minh bạch nhưng chúng ta chưa thực hiện được vì nó đòi hỏi một cái tâm rất lớn bởi nó có thể đụng chạm đến các lợi ích nhóm
TS Lê Đăng Doanh
Thách thức thứ hai là công khai minh bạch. Lâu nay tuy chúng ta nói công khai minh bạch nhưng chúng ta chưa thực hiện được vì nó đòi hỏi một cái tâm rất lớn bởi nó có thể đụng chạm đến các lợi ích nhóm.
Điều thứ ba rất quan trọng đó là nông nghiệp thì 5 ăn 5 thua có nghĩa là các sản phẩm về thủy sản, cây trồng tứ lúa cho tới cà phê, hồ tiêu thì Việt Nam có lợi thế nhưng sản phẩm về chăn nuôi thì Việt Nam hiện nay đang lạc hậu rất lớn. Nếu không kịp thời có cải cách và thay đổi thì các mặt hàng ấy khó cạnh tranh với các mặt hàng như thịt heo từ Đan Mạch, từ Canada, Hoa Kỳ rất rẻ. Hay thịt bò, sữa…đấy là các thách thức rất lớn
Một thách thức cuối cùng nữa là Việt Nam có chấp nhận cải cách hay không.
Trong hiệp định TPP nó có những quy định phải công khai việc mua sắm của chính phủ, quy định về luật công đoàn tức là quyền tự do lập công đoàn của người lao động…hiện nay chúng ta đang hy vọng Việt Nam có thể tiến những bước tiến mạnh mẽ để có thể kết thúc đàm phán TPP trong thời gian gần nhất. Có tin nói sẽ cố thực hiện trong năm 2014 này.
Các sản phẩm về thủy sản, cây trồng tứ lúa cho tới cà phê, hồ tiêu thì Việt Nam có lợi thế nhưng sản phẩm về chăn nuôi thì Việt Nam hiện nay đang lạc hậu rất lớn
TS Lê Đăng Doanh
Mặc Lâm: Thưa TS một trong những quy định của TPP là việc đấu thầu phải công khai minh bạch và được giám sát. Tuy nhiên đây là miếng bánh béo bở nhất mà nhóm lợi ích đang chia chát với những người trách nhiệm. Làm cách nào Việt Nam có thể đối phó hữu hiệu để đạt được yêu cầu do TPP đề ra?
TS Lê Đăng Doanh: Việc các nhóm lợi ích trục lợi trên việc đấu thầu thì Việt Nam đã biết và chính ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại hội nghị III của Ban chấp hành trung ương ngày 15 tháng 10 năm 2011 đã nêu đích danh lợi ích nhóm và tư duy nhiệm kỳ.  Thế thì việc cải cách đó nằm trong lợi ích của Việt Nam nhưng lại không phù hợp với lợi ích nhóm. Tôi rất hy vọng sự đồng thuận về nguyên tắc mà ông Tổng bí thư đã nêu lên với yêu cầu về công khai minh bạch về đấu thầu và mua sắm của chính phủ ở TPP sẽ có sự đồng thuận với nhau.
Mặc Lâm: Mới đây qua kiểm điểm định kỳ phổ quát về nhân quyền của Việt Nam (UPR) thì nhiều nhà làm luật của Mỹ tỏ ý không hài lòng và tuyên bố sẽ ngăn cản Quốc hội Mỹ chuẩn thuận hiệp định này đối với Việt Nam. Theo TS nếu không vào được TPP thì Việt Nam sẽ thiệt thòi gì và liệu TPP có phải là chiếc đũa thần đối với nền kinh tế Việt Nam đáng để Việt Nam phải xem xét và điều chính sách của mình về vấn đề nhân quyền cho phù hợp?
TPP không phải là chiếc đũa thần, mà chiếc đũa thần chính là sự cải cách của con người Việt Nam, nhà nước VN. TPP chỉ có thể là chất xúc tác, kích thích để VN có thể mạnh mẽ hơn trong việc thực hiện cải cách mà thôi chứ TPP không làm thay được cho VN
TS Lê Đăng Doanh
TS Lê Đăng Doanh: Theo tôi thì Việt Nam vẫn còn có thời giờ và gần đây nhận thức trong xã hội về quyền con người đã được nâng cao lên rất rõ rệt và bản hiến pháp của Việt Nam mới thông quan năm 2013 này trên lời văn đã nhấn mạnh nhiều hơn về quyền con người so với bản hiến pháp trước đây. Thế thì ta vẫn còn hy vọng Việt Nam vẫn còn thời gian để thực hiện một số cải cách về quyền con người đáp ứng yêu cầu để hai bên có thể thống nhất với nhau được.
Nếu không gia nhập TPP được thì như ông thấy Việt Nam vẫn đang đàm phán một hiệp định thương mại tự do với liên minh châu Âu và Việt Nam sẽ là thành phần của cộng đồng kinh tế ASEAN. Tuy nhiên chúng ta có thể thấy cộng đồng ASEAN phần lớn là các nền kinh tế đang cạnh tranh với Việt Nam trong khi đó nếu vào TPP thì sẽ có nhiều nền kinh tế bổ xung cho Việt Nam.
Thí dụ như Hoa Kỳ hay Nhật Bản. Những sản phẩm mà họ cần dùng mà họ không sản xuất nữa thì họ sẽ nhập từ Việt Nam như dệt may, da giày, hàng nông sản và thủy sản….
Trong khi đó ngược lại tại ASEAN Việt Nam đang phải cạnh tranh về dệt may da giày với rất nhiều đối thủ. Trong TPP hiện nay chưa có Thái Lan, Ấn Độ cho nên các đối thủ cạnh tranh về gạo cũng như các thứ khác của hai quốc gia này cũng là lợi thế cho Việt Nam.
Tôi nghĩ rằng TPP không phải là chiếc đũa thần, mà chiếc đũa thần chính là sự cải cách của con người Việt Nam, nhà nước Việt Nam. TPP chỉ có thể là chất xúc tác, kích thích để Việt Nam có thể mạnh mẽ hơn trong việc thực hiện cải cách mà thôi chứ TPP không làm thay được cho Việt Nam
Mặc Lâm: Xin cám ơn TS Lê Đăng Doanh đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.

Con đường TPP của VN ‘còn nhiều ổ gà’

Cập nhật: 12:16 GMT - thứ ba, 11 tháng 2, 2014

Lãnh đạo VN và Hoa Kỳ cam kết đẩy mạnh đàm phán TPP hồi tháng 7 năm 2013.
Việt Nam tin rằng sẽ có thêm lợi ích từ Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) nhưng trước mắt còn gặp nhiều trở ngại.
Trong bài viết 'Vietnam and the TPP Traverse Rough Seas Towards Promised Land' trên trang Bấm www.vietnam-briefing.com, tác giả Edward Barbour-Lacey cũng nói về những rủi ro khi Hà Nội đặt bút ký TPP.
TPP được xem là thỏa thuận chiếm 40% GDP toàn cầu và chiếm khoảng 30% mậu dịch quốc tế.
TPP cũng được chính quyền Hoa Kỳ xem là cách để Washington củng cố quan hệ với các nước châu Á để đối trọng với ảnh hưởng của Trung Quốc.
Việt Nam tin rằng TPP sẽ tạo điều kiện tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu tại các thị trường mới, cũng như duy trì các thị trường truyền thống.
Trong những năm qua, 50% đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là từ các nước thành viên TPP.
TPP dự kiến sẽ giúp nhiều ngành tại Việt Nam như may mặc, giày da, đồ gỗ…và khiến các sản phẩm của Việt Nam cạn tranh hơn các sản phẩm của Trung Quốc bởi Trung Quốc không tham gia TPP.
Hơn nữa, TPP sẽ giúp Việt Nam tạo môi trường luật pháp minh bạch hơn trong bối cảnh Hà Nội đang sửa đổi các văn bản liên quan tới đầu tư, luật đất đai và đấu thầu.
'Hệ quả tiêu cực'
"Khi ta xem các thỏa thuận mậu dịch tự do khác từng có trong lịch sử, có thể biện luận rằng lợi ích kinh tế là nhiều hơn chi phí phát sinh từ các thỏa thuận như TPP"
Tuy nhiên, chặng đường tới hoàn tất đàm phán TPP không dễ dàng.
Tác giả bài viết nhận định điều ông gọi là “TPP có thể có một số hệ quả tiêu cực với Việt Nam.”
“Đặc biệt là việc tăng cạnh tranh mạnh từ các nước có thể làm tê liệt một số khu vực kinh doanh quản ly yếu kém của Việt Nam.
“Ngoài ra, trong một số lĩnh vực Việt Nam có lợi thế như các sản phẩm nông nghiệp thì Việt Nam sẽ không thể tận dụng được việc giảm thuế.
Thậm chí ngay ở Hoa Kỳ TPP không phải được tất cả âu yếm. Hiện có cuộc chiến giữa khu vực có lao động được tổ chức tốt (có nghiệp đoàn) với các công ty đa quốc gia vốn hưởng lợi chủ yếu từ TPP.
“Những người phản đối gọi thỏa thuận này là “lén lút, phi dân chủ và giết chết việc làm”
“Khi ta xem các thỏa thuận mậu dịch tự do khác từng có trong lịch sử, có thể biện luận rằng lợi ích kinh tế là nhiều hơn chi phí phát sinh từ các thỏa thuận như TPP.
Tác giả, cũng bàn về dự luật nông nghiệp Hoa Kỳ đã tạo ra những điểm gây tranh cãi theo đó có một điều khoản cho phép Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ triển khai chương trình kiểm tra cá tra của Việt Nam vì lý do an toàn thực phẩm.

Xuất khẩu VN sang Hoa Kỳ 2013

  • Hàng dệt và may mặc (8.61 tỉ USD)
  • Giày da (2.63 tỉ USD)
  • Đồ gỗ (1.98 tỉ USD)
  • Máy tính, đồ điện tử (1.47 tỉ USD)
  • Thủy sản (1.46 tỉ USD)
  • Máy móc, công cụ, phụ kiện (1.01 tỉ USD)
Tuy nhiên ngay cả một cơ quan thanh tra độc lập của Quốc hội Hoa Kỳ (Bấm GAO) đã gọi chương trình này là “lãng phí và không cần thiết.”
Việt Nam đang có động thái trả đũa để bảo vệ ngành cá tra và nhiều nhà phân tích tin rằng Hà Nội có thể đưa chủ đề này ra kiện tại WTO và rằng có khả năng việc thực hiện TPP có thể bị trì hoãn.
Trong năm 2013 xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng 21.3% so với năm trước đó, đạt 23.87 tỉ USD. Tức là 18% xuất khẩu của Việt Nam là sang Hoa Kỳ.
Việt Nam nhập hàng hóa trị giá 5.23 tỉ USD từ Hoa Kỳ trong năm 2013, tăng 8.3% so với 2012.
Cả Việt Nam và Nhật Bản đều kêu gọi Hoa Kỳ hoàn tất thỏa thuận khung TPP trước chuyến thăm của Tổng thống Obama sang châu Á vào tháng Tư.
Cả hai nước lo ngại rằng nếu Hoa Kỳ càng cần nhiều thời gian để hoàn tất quá trình này thì lại càng có thêm khả năng Hoa Kỳ sẽ đưa ra thêm các thay đổi đối với thỏa thuận.
Tin vui, như báo Japan Times đưa, là cả hai nước đều ủng hộ Hoa Kỳ mạnh trong vai trò tại châu Á và xem Washington có ảnh hưởng làm ổn định khu vực hiện có các tranh chấp lãnh thổ, tác giả Edward Barbour-Lacey kết luận.

'Thế lực cản TPP'
Ông Kerry từng nói ông đã trao đổi thẳng thắn và cởi mở với người tương nhiệm phía VN về một loạt các chủ đề bao gồm nhân quyền.
Cho tới nay chính phủ Hoa Kỳ khuyến cáo Việt Nam phải có cải thiện nhân quyền rõ rệt như một trong các điều kiện để sớm hoàn tất vòng đàm phán TPP.
Tuy nhiên trong cuộc phỏng vấn với BBC ngày 02/02/2014, tiến sỹ kinh tế Phạm Chí Dũng nói với BBC về điều ông gọi là có thể một thế lực trong nội bộ đảng và ngành an ninh vốn không muốn Việt Nam "gần gũi với phương Tây" và không muốn Việt Nam ký TPP.
Ông Dũng, trong một Bấm bài viết khác cho BBC, cũng từng bình luận rằng khoảng 80-90% nguyên phụ liệu dùng để sản xuất hàng xuất khẩu của nển kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc vào Trung Quốc và Nhà nước Việt Nam sẽ vào thế khó xử khi bắt buộc phải chuyển đổi vùng nhập khẩu nguyên liệu.
"TPP dĩ nhiên là một lối thoát, thậm chí là một lối mở tươi lành nhất mà chính thể một đảng ở Việt Nam có thể vận dụng để ít nhất cũng tạm làm yên lòng dân chúng, hạn chế được phần nào những phẫn uất của dân nghèo về sự tàn bạo của các nhóm lợi ích, và cách nào đó tạm thời kìm giữ những ý tưởng hoặc hành động cần phải thay đổi thể chế chính trị.
"Thế nhưng điều kỳ lạ là dù vẫn ngầm xem TPP là một cái phao cứu sinh, trong suốt ba năm qua Hà Nội vẫn hầu như chẳng làm gì để bổ túc cho hồ sơ ứng cử viên TPP như cải cách kinh tế và giảm tính độc quyền của khối doanh nghiệp nhà nước, tăng tính minh bạch và tính hữu dụng cho cuộc chiến chống tham nhũng, kể cả một số vấn đề liên quan khác như môi trường, quyền lập hội lao động…", nhà báo bị cấm xuất cảnh và bị thu hộ chiếu mới đây bình luận.
 http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2014/02/140211_vn_tpp_progress.shtml

 Madrid phát lệnh truy nã Giang Trạch Dân : Bắc Kinh nổi giận
Cựu chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân và cựu Thủ tướng Lý Bằng - REUTERS /Andrew Wong
Cựu chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân và cựu Thủ tướng Lý Bằng - REUTERS /Andrew Wong

Tú Anh
Chính quyền Trung Quốc tuyên bố « bất bình » sau khi tòa án Tây Ban Nha xác nhận đã gửi lệnh truy nã ông Giang Trạch Dân, cựu chủ tịch Trung Quốc về tội « diệt chủng », áp bức người Tây Tạng.

Trong khuôn khổ điều tra chính sách « diệt chủng » mà Trung Quốc tiến hành tại Tây Tạng trong hai thập niên 1980-1990, thẩm phán thụ lý hồ sơ Ismael Moreno, ngày hôm qua 10/02/2014 đã xác nhận đã gửi lệnh truy nã quốc tế mà đối tượng là cựu chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân và cựu thủ tướng Lý Bằng.
Thẩm phán Ismael Moreno đã tuân theo phán quyết của Tòa án quốc gia ngày 18/11/2013, theo đó có nhiều « chứng cớ » hai nhà cựu lãnh đạo Trung Quốc « can dự » vào những hành vi bị nguyên đơn thưa kiện. Mỗi người đều có trách nhiệm về « chính trị và quân sự » trong giai đoạn điều tra kể trên.
Vụ kiện lãnh đạo Trung Quốc do Ủy ban Ủng hộ Tây Tạng CAT và tổ chức Mái Nhà Tây Tạng đứng đơn nhắm vào năm lãnh đạo Trung Quốc mà đứng đầu là Giang Trạch Dân, Lý Bằng và đến tháng 11/2013 thì mở rộng đến Hồ Cẩm Đào, vừa hết quyền miễn nhiễm bảo vệ chủ tịch nước.
Tư pháp Tây Ban Nha thẩm định là có thẩm quyền điều tra vì hai lý do : thứ nhất, một trong những nguyên đơn là một người tỵ nạn Tây Tạng nhưng mang quốc tịch Tây Ban Nha, ông Thubten Wangchen. Lý do thứ hai là tòa án Trung Quốc cho đến giờ vẫn chưa chấp thuận điều tra theo yêu cầu của nạn nhân.
Hôm nay 11/02/2014, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung quốc Hoa Xuân Oánh tuyên bố « rất bất bình và kiên quyết chống lại các hành động » mà bà gọi là « sai lầm » của tư pháp Tây Ban Nha. Bắc Kinh lên tiếng yêu cầu Madrid giải thích.
Cũng dựa vào tinh thần « công lý phổ quát » và lệnh truy nã quốc tế, mà vào tháng 11 năm 1998, thẩm phán Tây Ban Nha Baltasar Garzon đã bắt nhà cựu độc tài Chi lê Augusto Pinochet tại Luân Đôn suốt nhiều tháng dài. Đến tháng 3 năm 2000, với lý do tuổi già sức yếu, tướng Pinochet mới được hồi hương.
Chính quyền Tây Ban Nha chuẩn bị thông qua một dự luật « hạn chế thẩm quyền phổ quát » của tư pháp liên quan đến những vụ kiện tương tự. Dự luật này, nếu được Quốc hội biểu quyết trang ngày hôm nay, sẽ có giá trị hồi tố đối với trường hợp truy nã các lãnh đạo Trung Quốc.
Thủ tục truy nã phải « đình hoãn »để xem xét lại cho đến khi chứng minh được là đã « tôn trọng mọi điều kiện quy định ». Amnesty International (Ân xá Quốc tế) chỉ trích mạnh dự luật giới hạn thẩm quyền thẩm phán của chính phủ Tây Ban Nha.
tags: Châu Á - Châu Âu - Pháp luật - Quốc tế - Tây Ban Nha - Trung Quốc
 http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20140211-tay-ban-nha-tung-lenh-truy-na-giang-trach-dan-bac-kinh-noi-gian
 

VẠN MỘC CƯ SĨ * VIỆT NAM ANH HÙNG






VIỆT NAM ANH HÙNG

VẠN MỘC CƯ SĨ 

HỒN MA THỨ NHẤT


Các đồng chí
Ta đánh Mỹ
là đánh cho Nga, 
cho Tàu
Vì họ rất giàu
Họ rất mạnh 
Còn ta nhỏ bé
Phải làm nô lệ
Phải làm lính đánh thuê
Đó là nghĩa vụ quốc tế
Của những cộng đảng đàn em
Để có cơm thừa canh cặn
Làm gì có độc lập
Làm gì có tự do
Làm gì có ấm no
Trong thiên đường cộng sản!...

HỒN MA THỨ HAI

Các đồng chí
Ta đánh Mỹ

Là đánh thay cho Nga, Tàu
Vì nước ta giàu
Quân ta mạnh
Và ta đây anh hùng
Còn  Mao Trạch Đông
Là thằng chết nhát
Và  mấy triệu quân Chệt
Là quân hèn mạt,
Và bọn Liên Xô
Cũng là đống rác!
Cho nên ta phải đánh Mỹ
Làm cho vũ trụ chuyển rung
Để đảng ta thành đảng đại anh hùng 
Ta phải giải phóng toàn thế giới
Mỹ, Nhật, Pháp Anh Đức phải quỳ gối! 
Dù phải hy sinh vài thế hệ
Dù đốt sạch cả Trường Sơn
Các đồng chí
Sẽ đưọc phong liệt sĩ
Dù đất nước này thành rừng hoang
Các đồng chí đừng suy nghĩ
Người Trung Quốc anh em  sẽ thay Việt Nam quản lý
 Ta phải đánh thắng đế quốc  Mỹ
 Để  cho Thế giới  hàng triệu người phải  ước mong
Qua một đêm sẽ biến thành người nước Việt.
 Để rồi đẻ con gái sẽ  đem bán cho  chệt
Sinh con trai cho đi bốc vác ở Singapore
Thế là độc lập
Thế là tự do,
Thế là ấm no
Dưới ngọn cờ Cộng đảng quang vinh
Đệ nhất hành tinh!


HỒN MA TẬP THỂ



Thưa đại đế Đặng Tiểu Bình
Thưa đại đế Giang Trạch Dân
Thưa  đại đế Hồ Cẩm Đào
Chúng thần Nguyễn Văn Linh
Chúng thần Lê Đức Anh,
Chúng thần Đỗ Mười
Chúng thần Nông Đức Mạnh
Chúng thần Phan Văn Khải
Xin cúi đầu vạn bái
Tuân lĩnh 16 chữ vàng
Xin mãi làm nô lệ
Xin dâng Hoàng Sa, Trường Sa
Xin dâng cả nước Việt
Đặt dưới chân  Đế quốc Trung Hoa...
Chúng con sẽ theo chân già Hồ
Mãi mãi làm kiếp cộng nô
Chúng con sẽ ra tay tiêu diệt
Những kẻ nào đòi Độc lập, tự do... 



GHI CHÚ:
Danh ngôn của Lê Duẩn còn đưọc ghi ở nhiều nơi:
(1). Wikipedia,viết về Lê Duẩn
(2).Vũ Thư Hiên, Đêm Giữa Ban Ngày, Nxb. Văn Nghệ, 1997, tr. 422, phần chú thích.
(3). Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng CSVN từ 1991 đến 2000, phỏng vấn của đài BBC,Ông trả lời:
 Chính sách này dựa trên nền tảng "một lý do quan trọng mà cố Tổng bí thư Lê Duẩn có lần đã giải thích một cách đơn giản: Ta đánh là đánh cả cho Trung Quốc, cho Liên Xô!".
Trong khi khen ngợi thành công trong đấu tranh ngoại giao để đi đến thực sự kết thúc chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam, ông Cầm cũng nói đến điều mà ông gọi là 'cơ hội bị bỏ lỡ'.
Trước hết, theo ông, cơ hội hòa hợp dân tộc bị bỏ lỡ sau Hiệp định Paris "do chủ trương tràn ngập lãnh thổ của Sài Gòn".
Đồng thời, trong những năm sau đó, "cơ hội bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam với Hoa Kỳ bị đẩy lùi hàng chục năm".Một lần nhỡ thời cơ, hận muôn đời '
 http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/01/130124_nguyenmanhcam_hiepdinhparis.shtml
(4). Lời của Nguyễn Mạnh Cầm cũng được ghi lại trong cuộc phỏng vấn Tuần ViệtNam
http://vietnamweek.net ngày 24-01-2013, http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/su-kien-nong/2013-01-23-dan-toc-va-thoi-dai-voi-noi-ham-moi
(5).Ngọc Trân, Đài RFA. Giải Phóng miền Nam cho ai (2)
 http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/liber-s-vn-f-who-n-by-who-2-nt-04292011170009.html


 


ĐỀN THỜ LÊ DUẨN

CSVN xây lăng xây đền thờ cho công thần của họ cũng không phải là chuyện đáng ngạc nhiên. Điều đáng chú ý là tấm băng đơ rôn với những chữ xuẩn ngốc trên mọi khía cạnh, như một cục nước miếng dơ bẩn chúng công khai khạc vào lương tri và sự thông minh của nhân loại. Một sự vụng về hay một biểu dương của sự toàn trị của đảng CSVN trên dân tộc VN ?
CSVN như một chất độc, từ từ thấm vào cơ thể, với thời gian đã làm băng hoại xã hội, làm tê liệt đối kháng. Hệ thống cai trị tinh vi và con rất mạnh.
Bắt đầu trích

Đền thờ trị giá 5 tỷ cho kẻ tuyên bố: "Ta vào Nam nổ súng là đánh cho Trung Quốc, đánh cho Liên Xô".
Hoàng Thanh Trúc (Chinhluan) - Những ngày tháng cuối năm, theo phong tục tập quán Việt Nam, trong mọi người chúng ta, vì đạo lý tri ân (nhớ ơn) hay dành một phần tâm linh hướng về người thân đã khuất và cho những người vị quốc vong thân.
Mới đây, chắc củng trong chiều hướng ấy, hướng về người vị quốc vong thân nên ngày 18 tháng 1 năm 1974 ông CT/Nước Trương Tấn Sang đã đến xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh cắt băng khánh thành một cái đền thờ xây dựng trị giá tới 5 tỷ đồng cho một nhân vật quá cố có tên Lê Duẩn cựu TBT/đảng CSVN (*) mà nói theo người xưa "trâu chết để da, người ta chết để tiếng" ông ta đã để lại cho dân tộc Việt Nam một tiếng nói bất hủ của ông là: "Ta vào Nam nổ súng là đánh cho Trung Quốc, đánh cho Liên Xô"
Từ câu nói như quân lệnh chỉ đường ấy mà hàng triệu thanh niên hai miền Nam Bắc Việt Nam đã nằm xuống, một nửa chết vì chống lại và một nữa chết vì muốn nhuộm đỏ miền Nam theo lệnh của đảng CSVN và quốc tế CS, Liên xô và Trung Quốc.
Hình như nhờ xương máu Việt Nam như trải đường đó mà Liên Xô từ CS/XHCN mới tiến lên được dân chủ đa nguyên, đa đảng, như phương Tây hiện nay.
Còn Trung Quốc củng nhờ đó mà nới rộng lãnh thổ về phương Nam, đưa Ải Nam Quan vào viện bảo tàng và nhất là nhờ xương máu Việt Nam quét Mỹ đi nên Trung Quốc có điều kiện rảnh tay một mình một cõi "giải phóng" luôn Hoàng Sa và Biển Đông của Việt Nam!
Và chính ông ta (Lê Duẩn) củng có một sáng kiến rất thực dụng, ngoài phân xanh, phân chuồng, phân bắc, thì ông vận dụng sáng tạo thêm một thứ phân nửa là phân "người chết" để sau 30 tháng 4/1975 kết thúc chiến tranh đích thân ông ký giấy chỉ đạo lùa gần nữa triệu sĩ quan công chức chính phủ miền Nam vào rừng sâu núi thẳm "cải tạo" 1/3 số tù nhân đó thành "phân người" vùi xuống đất bón trực tiếp cho xanh cây lá.
Người dân Việt Nam muốn hỏi ngài CT/Nước Trương Tấn Sang rằng: Đó có phải là công lao to lớn "vì tổ quốc Việt Nam" hay không? Mà cái đền thờ của ông Lê Duẩn toàn là gỗ quí hảo hạng, tượng của ông ta đúc bằng đồng nặng tới hàng tấn?
http://www.vietagenda.org/index.php?option=com_content&view=article&id=201%3A29011493ft3gzwnyt&catid=93%3Attm-world&Itemid=491


  ĐỀN THỜ LÊ DUẨN

Lê Duẩn Toàn Tập Tái Bản

. Đinh Tấn Lực
gate[5]


Cận Tết là mùa gió chướng. Tuyên giáo Trung ương len lén và thui thủi mình ên làm một cú rao vặt “chống TQ” miễn phí. Báo chí trong luồng không chỉ đặc biệt chú tâm vào chủ đề rất đỗi thời sự là cứu đói giáp hạt 15 tỉnh… hay các chủ đề chính yếu thường trực cướp/giết/hiếp/mông/vú/kỹ thuật leo đỉnh vu sơn/đặc trị loạn cường dương… mà còn thoang thoảng mùi nhang khói giữa hồ:


“(Chinhphu.vn) – Ngày 18/1(/2014), huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh long trọng tổ chức lễ khánh thành đền thờ cố Tổng Bí thư Lê Duẩn. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang; Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu; lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương và tỉnh Hà Tĩnh cùng đông đảo người dân đến dự”.


Giang hồ điểm báo bật ra hàng loạt câu hỏi mắc mứu (rất dễ mắc nghẹn): Tại sao giờ này? Tại sao Hà Tĩnh? Tại sao Lê Duẩn?…

Tại sao giờ này?


Tại sao không trùng khớp vào ngày sanh hay ngày chết của đương sự?


Còn lại là gì, bốn mươi năm Hoàng Sa chăng? Có thể lắm! Một kiểu thông điệp “chống Tàu” rất đằm thắm trong định hướng chủ động: Âm thầm thay thế mọi cuộc tưởng niệm công khai và long trọng trọng khác (được côn an tập trung dồn sức giải phóng bởi bụi máy cưa cắt đá), bằng cuộc tưởng niệm rón rén nhắc tên một tay tổng bí có thời nức tiếng “Nga hơn Tàu”.


Thế thì người ta có thể đúc rút ngay đây một kết luận nhỏ: Thông điệp này vừa điên vừa hèn.


Bởi Lê Duẩn, dù chỉ mới học xong lớp sáu nhưng đã từng vang danh trong toàn thể Đệ Tam Quốc Tế bằng câu danh ngôn: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”, như một hồi âm cho câu danh ngôn của Mao là “Quyết tâm đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”. Tức là, Lê Duẩn hết lấy xương máu người Việt để đánh Mỹ cho Liên Xô và Trung Quốc, rồi sau đó, bật ngược, lại lấy sinh mạng người Việt đánh Trung Quốc cho Liên Xô, trong cả hai trận chiến Tây Nam và Chính Bắc. Có gì là quá, khi gọi đó là một kẻ hung hăng/háo chiến/hám quyền/ngu muội… chỉ biết hãnh diện được phục vụ quan thầy và lạnh lùng trên xương máu đồng bào cùng tương lai đất nước?


Nối tiếp truyền thống đó, lũ hậu duệ ngày nay có gì khá hơn, một khi vẫn khư khư ôm gối trùm chăn, không dám công khai phản đối kẻ xâm lược, mà chỉ thỏ thẻ bảo dân “đảng từng có người chống TQ ngày xưa đấy chứ!”, rồi lại tiếp tục hùng hổ dàn quân đàn áp, đánh dập, bắt bớ, giam cầm, xách nhiễu trả thù những người nhiệt tâm báo động về nguy cơ Bắc thuộc lần cuối cùng?


Liệu rằng điều đó sẽ mang ý nghĩa gì, khi một đảng và nhà nước vô thần rắp tâm lập đền thờ cho một kẻ sử dụng núi xương sông máu của đồng bào mình để lập công với mớ quan thầy từng được xếp hạng xuất chúng về tội ác tiêu diệt đồng chủng?
*
Tại sao Hà Tĩnh?


Tại sao Hà Tĩnh giỗ người Quảng Trị?


Mấy năm trước, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Lê Duẩn, báo TTO đi tin:


“Cũng trong sáng qua (7/4/2007) tại Đông Hà đã diễn ra lễ khánh thành tượng đài cố TBT Lê Duẩn và công viên mang tên Lê Duẩn”… “Từ mảnh làng nghèo chợ Sãi, Triệu Phong, chàng trai Lê Văn Nhuận (tức đồng chí Lê Duẩn) đã được sinh ra, nuôi dưỡng bằng hạt phù sa của dòng Thạch Hãn và đã ra đi theo lý tưởng của cách mạng để Quảng Trị có được một người cộng sản vĩ đại, một di sản tinh thần vô giá cho các thế hệ học tập noi theo”.


Vậy thì Hà Tĩnh chen lấn điều gì ở đây, một khi Quảng Trị đã chính thức và công khai hãnh diện có thằng con Lê Duẩn là “một người cộng sản vĩ đại”?


Giành con chăng?


“Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn vốn là người con của quê hương Cẩm Duệ (Cẩm Xuyên), trong thời kỳ Hà Tĩnh triển khai xây dựng công trình đại thủy nông Kẻ Gỗ, với cương vị của mình đã có nhiều quyết sách giúp đỡ Hà Tĩnh đẩy nhanh tiến độ, sớm hoàn thành công trình. Biết ơn cố Tổng bí thư, nhân dân địa phương đã đặt tên cho hòn đảo giữa hồ Kẻ Gỗ là đảo Cụ Duẩn và nhân dịp kỷ niệm 180 năm thành lập tỉnh, ngày 15-10-2011 vừa qua Tỉnh ủy, UBND, HĐND tỉnh Hà Tĩnh đã quyết định phối hợp với gia quyến cố Tổng Bí thư xây dựng đền thờ cố Tổng Bí thư Lê Duẩn tại đảo cụ Duẩn”.


Chẳng ai rõ chuyện con ruột/con nuôi/con này/con nọ… ra sao, chỉ biết mọi nỗ lực tranh giành này đều theo đúng quy trình.


Ở đó, hồ Kẻ Gỗ, từng có thời triển khai dự án xây nhà trên bè nổi đón cụ Tổng Bí, đặt chết tên là Bè Lê Duẩn. Kế đó là dự án nâng cấp cái cù lao giữa hồ thành Đảo …Cụ Duẩn. Nay, Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã long trọng triển khai dự án lập đền thờ cụ Duẩn.


Tất nhiên, mọi dự án đều đẻ ra đô xanh lẫn vàng ròng. Lại ngay vào lúc mà các nguồn dư luận về mọi đảo khác đều cần phải lắng xuống bên dưới đảo cụ Duẩn, thì không thể bảo thiếu lô-gích cái việc triển khai dự án tầm cỡ tâm linh cả đảng này!
*
Tại sao Lê Duẫn?…


À, đây mới chính là cốt lõi của mọi cốt lõi:


“Hôm nay 7/4, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Tổng bí thư Lê Duẩn(7.4.1907– 7.4.2007) – người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, người con trung hiếu của quê hương Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị đã tổ chức khánh thành công trình tượng đài và công viên mang tên đồng chí Lê Duẩn tại thị xã Đông Hà”.


Lê Duẩn từng đeo những huy chương nào của dàn đồng ca báo chí trong luồng?
Người con trung hiếu của quê hương Quảng Trị (mỗi ngày ăn vài củ khoai để nhớ mẹ nghèo);
Người học trò xuất sắc của Hồ Chí Minh (số người “được hy sinh” cao hơn thầy);
Nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng VN (nắm kỹ thuật đu dây quân viện và kinh viện).


Trước đó, Lê Duẩn đã có những kỳ tích điền kinh nhảy cóc, nhảy rào và nhảy cao nào?
Tân Việt Cách mạng Đảng (1928);
Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (1929);
Đảng Cộng sản Đông Dương (1930).


Kỷ lục Guinness của Lê Duẩn là gì?
Ngồi ghế Tổng bí thư đảng suốt ¼ thế kỷ: 1960-1986 (chuyển sang từ trần).


Tác phẩm (để đời) của Lê Duẩn gồm những gì?
Bản “Đề cương Cách mạng miền Nam” (1956). Từ đây đẻ ra Cục “R” và cái mặt nạ có tên là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”, chỉ rớt xuống ngay sau khi miền Nam bị nhuộm đỏ;
Chiến dịch “Đường 9 Khe Sanh” (1968). Trận biển người nướng quân các sư đoàn 304/308/320/ 324B/325, với tổng cộng 40.000 bộ đội dưới biển bom xăng đặc và cơn mưa pháo M107… còn có tên khác là “Điện Biên Phủ thứ nhì”, nhằm mục tiêu nghi binh cho định hướng mùa Xuân 68.
Trận Tổng tấn công Tết Mậu Thân (1968). “Hoan hô Xuân 68 anh hùng! Hãy gầm lên như sấm sét đùng đùng. Tất cả pháo! Và xông lên, dũng sĩ!” (thơ Tố Hữu). Các dũng sĩ đã theo lệnh xé bỏ hiệp ước đình chiến đón Xuân. Với hệ quả là hàng vạn đồng bào ở Huế bị bể sọ hay bị chôn sống tập thể dọc những con đường trắng;
Đại lộ kinh hoàng Quảng Trị (1972). Dài khoảng 9 cây số người, cả dân lẫn lính miền Nam, gồng gánh di tản và bỏ xác dưới trận mưa pháo kích cùng những loạt pháo trực xạ của “quân đội giải phóng”, từ Quảng Trị, qua Hải Lăng, về tới Mỹ Chánh. Đây là cuộc thảm sát quy mô nhất trong suốt trận chiến nhuộm đỏ miền Nam, ngay trên vùng đất lề quê thói của Lê Duẩn. Cổ thành Quảng Trị, sau đó, được cắm cờ miền Nam, nhưng “không còn một viên gạch nào không dính vết đạn”;
Hủy bỏ Hiệp định Hòa bình Paris (1973). Mỹ rút quân ra khỏi miền Nam VN và chấm dứt hầu hết các nguồn viện trợ quân sự cho Sài Gòn. Quân đội Bắc Việt được tăng cường khẩn cấp vào chiến trường B, sử dụng nguồn quân viện gia cố của LX & TQ để mở rộng các khu vực da beo làm bàn đạp tấn công miền Nam;
Đẩy mạnh Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975). Nối tiếp các Chiến dịch Mùa Xuân 1975 & Chiến dịch Giải phóng Huế-Đà Nẵng. Dẫn đến việc chấm dứt cuộc chiến tự vệ ngăn chận làn sóng đỏ (và bảo vệ chính thể tự do dân chủ còn non trẻ) của miền Nam;
Chiến dịch Cải tạo công thương nghiệp miền Nam Việt Nam (1975). Mật danh là Chiến dịch X2. Tiến hành bất ngờ đợt một vào nửa đêm 9/9/1975, đợt hai từ ngày 4 đến ngày 6 tháng 12, 1975. Rất nhiều doanh nhân miền Nam tự tử. Số đông mua bãi vượt biên. Chiến dịch nối tiếp là Kinh Tế Mới, di dân thành phố không còn vốn liếng làm ăn về miền rừng núi. Chiến dịch tận diệt tư thương miền Nam kéo dài đến cuộc đổi tiền cũng bất ngờ và ảnh hưởng toàn bộ nhân dân miền Nam vào ngày 5/5/1978.
Nâng tầm “Tư tưởng” làm chủ tập thể (1977). Một danh ngôn khác của Lê Duẩn, phát biểu tại trường đảng Nguyễn Ái Quốc ngày 13/3/1977: “Loài người cho đến nay đã có ba phát minh vĩ đại có ý nghĩa bước ngoặt của lịch sử. Thứ nhất là tìm ra lửa. Thứ hai là tìm ra cách sử dụng kim khí. Thứ ba là làm chủ tập thể”;

Tuyên chiến & xâm lăng Campuchia (1978). Nhằm thỏa lệnh Liên Xô chống lại chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc. Bao gồm các Sư đoàn 2/4/5/7/9/10/31/302/303/304/307/309/320/ 325/330/339/341/Sư đoàn không quân 372/các Lữ đoàn thiết giáp 12 -22-26/các Lữ đoàn pháo binh 24-262/Lữ đoàn 25 công binh/Lữ đoàn đặc công 198/Trung đoàn đặc công 117/các Lữ đoàn hải quân đánh bộ 101-126… Lực lượng này tiến chiếm Nam Vang và giữ quân trên đất Chùa Tháp cho đến 1989 mới rút quân ra khỏi Campuchia. Sự thiệt hại nhân mạng lên đến nhiều vạn người. Số bộ đội bị cụt chân vì mìn cóc TQ, trên thơ Nguyễn Duy, “Nạng gỗ khua rổ mặt đường làng”. Hệ quả kinh tế là VN bị cấm vận và cô lập đối với thế giới tự do suốt 10 năm.
Chống đỡ cuộc chiến “giáo trừng” phía Bắc (1979). Theo Wiki, đây là một “cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và CHXHCNVN”. Bắc Kinh gọi nó là “cuộc chiến giáo trừng”, dạy cho VN một bài học trả đũa vụ xâm lăng Campuchia. Còn ký giả Nayan Chanda của tạp chí Viễn Đông Kinh Tế (Far Eastern Economic Review) thì gọi nó là cuộc chiến “Huynh Đệ Tương Tàn” (nguyên tác Anh ngữ Brother Enemy: The War After the War). Sáu tỉnh cực Bắc của VN, giáp ranh với TQ, bị san bằng, nhiều cột mốc biên giới bị dời vào phía trong lãnh thổ VN. Vẫn theo thơ Nguyễn Duy, “Mẹ liệt sĩ gọi con đội mồ lên đi kiện”.
Chiến dịch Z30, tịch thu gia sản “bất chính” của nhân dân từ Nghệ An ra Hà Nội (1978). Đây là trận càn quét tài sản của nhân dân có nguồn gốc từ các nước tư bản.
Chiến dịch Cải cách Giá-Lương-Tiền (1985). Đổi tiền lần thứ nhì. Bản vị hàng hóa là vàng. Chỉ số giá bán lẻ thị trường tăng vọt 587,2%. Chỉ số lạm phát lên 4 chữ số. Giá vàng tăng nhanh hơn giá hàng hóa. Theo GS Đặng Phong, chính sách Giá-Lương-Tiền vỡ trận. Hệ quả trực tiếp là nhân dân trở thành những “người chết hai lần”. Báo cáo chính trị trong Đại hội VI (Lê Duẩn vừa chuyển sang từ trần) trở thành bản báo cáo lịch sử của đảng CSVN.
*




Lê Duẩn, người học trò xuất sắc của Hồ Chí Minh, có một ước mơ tột bực, được phát biểu thành một danh ngôn năm 1976 là: ”Trong vòng mười năm nữa, mỗi gia đình ở Việt Nam sẽ có một radio, một TV và một tủ lạnh“. Đến năm 1986, Lê Duẩn qua đời, với một đất nước Việt Nam khánh tận, một dân tộc Việt Nam phân cấp thiếu đói, đói và đói gay gắt, một quốc gia Việt Nam bị khinh miệt và sợ hãi đối với cả thế giới loài người.

Lê Duẩn, người con trung hiếu của quê hương Quảng Trị, và là con nuôi của Hà Tĩnh, trong suốt 25 năm ngồi ghế Tổng bí thư, và thông qua 3 cuộc chiến 75/78/79, đã điềm nhiên bình thản hóa thân nhiều triệu bộ đội, dân công, thanh niên xung phong thành những tờ “giấy báo tử bay đầy mái rạ” (theo thơ Nguyễn Chí Thiện)…
Lê Duẩn, nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng VN , đã khẳng định và cả đời theo đuổi điều khẳng định sắt máu như sau:


“Chế độ ta là chế độ chuyên chính vô sản. Chuyên chính trước hết phải là đường lối của giai cấp vô sản. Cốt tủy của chuyên chính vô sản là ở đó chứ không phải là ở chỗ sử dụng bạo lực. Đường lối đó là sự kết hợp lý luận Mác – Lê Nin với thực tiễn cách mạng của nước mình. Đường lối đó là khoa học nhất, là đúng quy luật, là bắt buộc. Đường lối đó không hề nhân nhượng với ai, chia sẻ với ai và hợp tác với ai cả. Đó là chuyên chính. Đường lối đó là: nhất thiết phải xóa bỏ giai cấp bóc lột, xóa bỏ chế độ sản xuất cá thể, xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Nhất thiết phải làm thế, không cho phép ai đi ngược lại. Đó là chuyên chính. Đường lối đó nhất thiết phải là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Không ai được chống lại. Đó là chuyên chính. Đường lối đó là đường lối của giai cấp công nhân, không ai được chống lại. Ai chống lại những cái đó thì bị bắt. Đó là chuyên chính”.


Một Lê Duẩn, với ngần ấy “trí tuệ” lẫn “công đức”, và được lũ “hậu duệ” của đảng, sau các thứ “đúc tim cho tượng ngựa”, hay dâng “cỗ đầu trâu” nhập vong cho tượng, hiện đang dồn sức tâng công bằng những tượng đài cho đến đền thờ… đã nói lên điều gì?
Đứa nào giật giải “Trăm công với giặc – Nghìn tội với dân”?
Phép thử xem dân trí thời lướt mạng có khác thế kỷ 20?
Vô thần hậu duệ dâng hương lên Tổng vô thần tiền bối?
Nhân rộng chủ nghĩa “Tản thiêng về làng” ra khắp chốn?
Đánh nhòe dư luận về những quần đảo giữa biển bằng một cù lao giữa hồ?
Ta từng có lãnh đạo kỵ Tàu đó chứ chẳng chơi?
Giết dân không thôi chưa đủ khốn nạn, phải thờ đứa giết dân không nhợn mới đủ đô/đạt chuẩn?
Sau cùng: Ai bảo “Hèn với giặc – Ác với dân” chỉ là xu thế thời đại mới đây nào?
denthoLeDuan
23-01-2014 – Nhân ngày giỗ thứ 25 nhà văn Nguyễn Minh Châu, tác giả tiểu luận “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn học minh họa”.
Blogger Đinh Tấn Lực

SƠN TRUNG * NGƯỜI VÀ THÚ



NGƯỜI VÀ THÚ
SƠN TRUNG

Con người là loài vật như thế nào? Một triết gia đã đặt câu hỏi này, và một đồ đệ của ông đã trả lời: "Con người là loài động vật không có lông lá và đứng trên hai chân". Định nghĩa như vậy ta coi như là đúng, thế nhưng vị triết gia cầm con gà đã vặt trụi lông ném ra trước mặt đồ đệ của ông và hỏi:" Có phải đây là con người của anh không?"


Một triết gia khác, Blaise Pascal đã nhận định :

" Con người không phải là thiên thần, cũng không phải là thú vật, nhưng bất hạnh lại muốn rằng người muốn làm thiên thần lại làm thú vật"

( L'homme n'est ni ange ni bête, et le malheur veut que qui veut faire l’ange fait la bête).

Qua nhận định của Pascal ta có thể nhận định thế gian không ai là thánh thiện hoàn toàn ngoại trừ những thánh nhân giáng thế. Còn phàm nhân có thể chia ra các hạng:

(1). Muốn làm thiên thần và đã có những hành động tốt.

(2).Muốn làm thiên thần lại hóa ra hành động thú vật.

(3).Họ giả mang bộ mặt thiên thần, mang danh nghĩa chính đạo, hoặc ngang nhiên để lộ bộ mặt và con người thú vật  để hành động thú vật.
Trường hợp thứ nhất thì khó quá, không biết ai thánh thiện. Nếu có thì rất it, nếu theo Phật giáo mà phân chia thứ bậc đạo hạnh thì e  một vài kẻ đắc đệ nhất thiền, đệ nhị thiền nhưng chưa ai thành Phật.
Trường hợp thứ hai thì khá nhiều. Các nhà tu hành tất là muốn làm bậc thánh nhưng lực bất tòng tâm. Họ là những người leo núi , đã leo lên khá cao nhưng rồi trượt chân té xuống thung lũng sâu. Ngày nay, một số các bậc tu hành Phật giáo, Thiên chúa giáo đã mắc tội tà dâm. Đức Gíáo hoàng BENEDICTUS XVI tức Giáo hoàng Biển Đức XVI, ở ngôi từ tháng 4-2005 đến 28-2-2013 thì từ chức để giáo hoàng FRANCISCUS, S.J. tức Giáo hoàng Phanxicô kế vị từ 13-3-2013 cho đến nay. Không tin tức nào nói rõ nhưng tin rò rỉ cho biết là giáo hoàng phải từ chức vì ngài đã không dẹp được đám linh mục, giám mục dâm ô trong giáo hội. Ngày 5 -2-2014, đài BBC loan tin LHQ lên án Vatican vì các vụ hiếp trẻ. (1)

Tạo hóa đã bắt ta phải dùng vật chất mà tồn tại, không ai sống mà không cần nhu cầu vật chất. Không ai sống mà không ăn, không uống. Có ăn uống thì có bài tiết. Trong mình ta mang bao nhiêu tanh hôi, bao nhiêu dục vọng. Cổ nhân Việt gọi là "tứ khoái" nhưng thực ra là "Tứ thiết yếu". Có ai không cần ăn? Không cần uống? Có ai không cảm thấy đòi hỏi của vật chất? Ta đói bụng, ta phải kiếm cái gì lấp cái dạ dày trống rỗng. Ta leo lên cây hái trái, xuống sông bắt cá, hay lên rừng săn nai tức là ta đã phục vụ nhu cầu của ta, dục vọng của ta. 
Ta không thể nhịn đói lâu. Con người sẽ bị dồn nén. Cổ nhân nói đúng tâm lý xã hội "l.. tù, c.. lính". Người ta bị bắt giam, buộc phải đi lính nên bị ẩn ức. Thế thì các vị tu hành tại sao lại nhảy vào cái thế giới ẩn ức này? Quyển truyện Tiếng chim hót trong bụi mận gai (The Thorn Birds) của nữ văn sĩ Colleen McCullough đã nói lên tâm lý của những kẻ tu hành. Họ cũng tham danh, tham tiền và tham sắc như chúng ta. Tôi không dám nói tất cả là tham dục vì có thể có những kẻ thánh thiện, lòng không rung động trước danh vọng, tiền tài và sắc dục. 
Nhưng thực tế cho thấy nhiều vị tu hành đã ngã gục, và một số đã cải cách thể chế tu hành. Đạo Tin Lành là một sự sáng suốt. Thích Nhất Hạnh trong Đạo Phật Ngày Nay đã lên tiếng đòi lấy vợ. Phan Khắc Từ, Lê Tôn Nghiêm, Trần Thái Đỉnh đã có vợ, nhưng Lê Tôn Nghiêm là chính nhân vì công khai cởi áo nhà dòng, còn Trần Thái Đỉnh thì sau 30 tháng tư năm 1975 mới đem các con ra trình diện ban quân quản trưòng Đại Học Văn Khoa, và khoe với Việt Cộng là ông giác ngộ, đã từ bỏ tôn giáo. Trần Đỗ Dũng mỉa mai mà nói với tôi rằng các cha cởi áo và  bỏ chúa vì " Chúa thì xa, lá đa thì gần"!
Thôi thì chúng ta cũng thông cảm vì  ta với các thầy, các cha đồng bệnh tương lân , đều " mang một bầu nhân dục". Phật dạy chính mệnh, chính nghiệp. Hành động thì cũng phải rõ ràng, đừng che đậy, giấu diếm, thế gian và đạo không bắt buộc ai.
Muốn làm giàu thì đi buôn, muốn làm quan thì phải học giỏi hoặc lập nhiều chiến công, muốn cả sông đông chợ thì lập gia đình, nào ai bắt phải tu hành diệt dục?

Nếu đi tu mà thấy mình không chịu được những cấm đoán nghiêm ngặt thì xin cởi áo nhà tu, tại sao mang áo tu hành mà làm chuyện dâm ô? Nếu muốn tu mà cũng muốn có vợ thì nên theo đạo Tin Lành, hay phái Tân tăng Nhật bản, nghĩa là phải có một giáo phái mới, y phục mới, đừng nửa nạc nửa mỡ như Phan Khắc Từ, Nhất Hạnh. Bên Phật giáo, con đường rất rộng rãi và tự do. Đức Phật cho lập ra phái tu sĩ và phái cư sĩ.

 Ai có thể giữ đạo hạnh thì xuất gia, ai muốn sống đời bình thường thì làm cư sĩ. Nhiều cư sĩ Việt Nam nổi danh như Trần Trọng Kim, Đoàn Trung Còn , ông Thầy nước lạnh ( thân phụ của Sơn Hồng Đức ở Gia Định). Một số đi tu là do nhu cầu chứ không do cầu đạo. Một số cha mẹ cho con vào chùa là để kiếm cơm, hoặc trốn quân dịch. Một số đi tu lâu năm đã lên sư cụ bây giờ bỏ ra ngoài thì sống vào đâu? Một số sư bao năm tu hành đã  vơ vét được  một số tài sản, ra ngoài đời không sợ đói, nhưng không dám công khai sợ ê mặt! Thôi đành ở chùa, ở nhà thờ, mặc áo dà, áo thâm, xưng cha, xưng thầy, được kính trọng và lợi dưỡng, và tiếp tục con đường dâm ô. Tuy nhiên cũng không loại trừ trường hợp, các cha, các thầy bị Việt Cộng vu khống, kiềm chế.


Trường hợp thứ ba, là trường hợp giả thánh thiện, giả đạo đức. Đó là trường hợp Nguyễn Tất Thành sang Pháp để kiếm cơm, rồi làm đơn cầu xin vào trường thuộc địa làm tay sai cho Pháp thế mà bọn Việt cộng tung hô là bác "tìm đường cứu nước". Cụ Bảng ra làm quan cho Pháp lại bảo là cụ từng tuyên bố: "Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ", nghĩa là "Quan trường là nơi nô lệ trong những nơi nô lệ, mà lại càng nô lệ hơn hết". Ông anh bác, bà chị bác cũng làm việc cho Pháp thế mà Việt Cộng bảo cả nhà bác làm cách mạng chống Pháp. 
Bác gần gũi Phan Chu Trinh và nhóm Nguyễn Ái Quốc rồi tiếm danh Nguyễn Ái Quốc và các tác phẩm của họ. Hoàng Văn Hoan người Nghệ lần mò đến nhà Hồ Học Lãm rồi thông đồng cùng Nguyễn Tất Thành , Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp tiếm danh hiệu Hồ Chí Minh và Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của Hồ Học Lãm. Hồ Chí Minh là Nguyễn Tất Thành hay Hồ Tập Chương đều là tay sai đệ tam quốc tế, bán nước cho Trung Cộng thế mà cái miệng bô bô "Không gì quý hơn độc lập, tự do". 
Chủ nghĩa cộng sản nghĩa là phải dân chủ, bình đẳng vì nhắm san bằng bất công xã hội nhưng chủ trương đấu tranh giai cấp và vô sản chuyên chính là phản dân, hại nước, phản dân chủ, tàn ác, cướp mọi tự do của con người. Chủ nghĩa cộng sản và những lãnh đạo cộng sản chính là thú vật 99%

 Chủ nghĩa cộng sản phải có tính cách xã hội nhưng nay cộng sản ra sức bóc lột, dân chúng phải trả mọi thứ tiền trong khi quân chủ và tư bản, nhân dân nghèo không phải trả học phí, và viện phí.Tại Canada, Úc, Thụy Sĩ, Thụy Điển, giàu nghèo đều khỏi trả học phí và viện phí, ngoại trừ sinh viên Đại Học. Những nước này là tư bản nhưng bản chất rất cộng sản nhân bản. Ngày nay, cộng sản cướp tài sản quốc gia, cướp nhà đất nhân dân, đánh chửi, bỏ tù nhân dân. Cộng sản chính là thú đội lốt người, bản chất thú vật hiện ra trong ngôn ngữ và hành động.
Cái bệnh vô văn hóa đang phổ biến khắp nơi tại Việt Nam.  Rõ rệt nhất là công an, họ thẳng tay đánh dân, chửi mắng dân chúng, gọi mọi người bằng thằng, con. Tại các công sở, các cửa hàng, bọn cán bộ hạ cấp mà cũng hống khách , khinh miệt nhân dân. Đó là những con thú hiện nguyên hình thú nhăn nanh, trợn mắt, gầm gừ trước mặt nhân dân. Ngày xưa đất nước ta không thế. Đa số có giáo dục, có văn hóa, có tình người. Chỉ tại cộng sản với chính sách và con người vô sản đã tạo ra một  xã hội như thế, và những con người như thế.
Tuần trước, các báo đài thế giới đưa tin rằng trong một cuộc điện đàm dường như bị nghe lén và được đưa lên Internet, bà Nuland đã dùng một từ thô tục tỏ ý chê trách lập trường của Liên hiệp châu Âu khi nói chuyện với đại sứ Mỹ tại Ukraina Geoffrey Pyatt (2).
Có bản tin nói rõ hơn là bà đã ĐM bọn châu Âu. Đài BBC viết: Tin mới nhất trong ngày 7/2 cho hay Thủ tướng Đức Angela Merkel đã lên án Hoa Kỳ vì vụ việc, cho rằng lời lẽ của quan chức Hoa Kỳ là "không thể chấp nhận được".
Một giọng nói giống với của Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ, bà Victoria Nuland, trong đoạn ghi âm đã văng tục khi nhắc đến EU.
Bà đã dùng từ 'f...' trong tiếng Anh để cho rằng Liên hiệp châu Âu là đồ bỏ đi.
Hoa Kỳ cho biết bà Nuland đã "xin lỗi vì những bình luận nói trên".(3)
Nước ta vì cái họa cộng sản vô sản đưa người vô học và vô hạnh lên lãnh đạo đất nước cho nên sa đọa, xấu xa như thế. Còn Mỹ là cường quốc bậc nhất hoàn cầu, có nền văn minh, văn hóa nhất hành tinh, các viên chức Mỹ đều xuất thân đại học tại sao lại có những quan chức ăn nói như thế?
Trong thời tôi học Đại học Sư Phạm Saigon, tôi được nghe  một người Mỹ đến nói chuyện tại trường, Tôi kính phục người này vì ông ta nói rất ngoại giao, rất lịch sự. Có thể nói là ông đã nắm hết 100% bí quyết của sách Đắc Nhân Tâm và Nghệ Thuật nói chuyện trước quần chúng. Nhưng qua các sự kiện gần đây, tôi lại nhận thấy một bộ mặt khác của người Mỹ. Người ta bảo trong người Mỹ có hai con người. Một ông truyền giáo và một chàng cowboy. Nay thì thấy nước Mỹ quả có nhiều vấn đề:
(1). Phải chăng cơ sở ngoại giao nhiều nước chính là cái nơi mua danh bán tước của kẻ có tiền của, làm ngoại giao để rong chơi và it trách nhiệm. Ngoại giao Việt Nam cũng là ổ gián điệp, buôn lậu, buôn người, buôn bạch phiến...
(2). Phải chăng bà này có thái độ thực dân, phát xít của bọn"sô vanh nước lớn"? Cái thái độ này nên bỏ vì chỉ làm cho thế giới chán nản nghĩ rằng nước Mỹ vô văn hóa, mang tính cô bồi thô bạo.
(3). Nền ngoại giao của Mỹ có vấn đề . Mỹ nhục mạ cộng đồng châu Âu, Mỹ tỏ ra thô bạo với nhà nữ ngoại giao Ấn Độ như khám thân thể, nhốt chung với người nghiện. Phải chăng đó cũng là bệnh hách dịch của "sô vanh nước lớn"? Yêu cầu giới chức Mỹ xét lại.  Đó  không phải là  ngôn ngữ, hành động của một quốc gia  có trình độ văn hóa, văn minh cao, và  lịch sự, đạo đức. Nước Mỹ phải tỏ ra gương mẫu xứng đáng là một cường quốc, và các  viên chức Mỹ phải tỏ ra có tài và có đức độ. Đức độ trươờc tiên là nói năng nhã nhặn, lịch sự và thận trọng. Chốn quốc tế hội đồng không phải là hàng tôm hàng cá, mong các vị  hiểu cho. Nước Việt Nam ngày xưa  nghèo hèn, nhưng trong chỗ công quyền không ai chửi thề như vậy. Trong xã hội, hai chữ lễ nghĩa  đã được tô đậm nét. Học trò đi học, đầu tiên là phải biết lễ"Tiên học lễ, hậu học văn."
(4). Người Mỹ văn hóa cao, chức trọng cũng có vấn đề.Theo các nhà nghiên cứu, người Mỹ còn tệ hơn trẻ con Hà Nội ngày nay!

+Khi Kissinger báo cáo việc Do Thái năm 1973 xin cứu viện, Nixon chửi thề:Khốn kiếp" (Goddamn it), Nixon chửi thề, "hãy dùng bất cứ loại nào chúng ta có. Nói với họ là hãy gửi bất cứ
cái gì có thể bay".(4)

+Sau khi giới thiệu Tổng thống Obama lên bục phát biểu ở căn Phòng phía Đông của Nhà Trắng hôm thứ ba vừa qua, ông Biden đã ôm hôn chúc mừng Tổng thống Obama và thì thầm vào tai ông: “Đây quả là một thành công lớn!”, nhưng giữa cụm từ “thành công lớn” ông chêm một từ chửi bậy vào (a big f**king deal). Tờ báo này nói thêm: Đây không phải là lần đầu tiên một Phó tổng thống Mỹ bị bắt gặp nói bậy. Năm 2004, Phó tổng thống Dick Cheney cũng đã bị bắt gặp chửi thề với một thượng nghị sỹ tại Thượng viện. (5)


Trung Đạo trong bài Khi cấp lãnh đạo chửi thề viết:Tổng Thống Barack Obama gọi anh ca sĩ nhạc “rap” nổi tiếng Kayne West là “thằng c.c..” (a jackass), Phó Tổng Thống Joseph Biden từng nói thẳng với một Thượng nghị sĩ đảng Cộng Hòa, “Anh nói tôi nghe đ…lọt lỗ tai” (gimme a fucking break) khi ông chính trị gia đối lập lên lớp thuyết giảng về những điều chính phủ Obama phải làm để kích cầu kinh tế đúng cách. Trong lúc cuộc suy thoái vẫn còn chạm đáy, chính bà cố vấn Christina Romer, trông rất hiền lành, cũng từng vừa lắc đầu vừa than, không biết làm sao giúp dân chúng Hoa Kỳ “chóng vượt qua giai đoạn “như c…này” (nguyên văn: “holy shit”).

Tất cả những điều nêu trên đều có thật xảy ra ở Toà Bạch Ốc, nhiều tới độ hầu như ngày nào các nhà báo cũng phải nghe, dù ít khi người dân Mỹ đọc được trên mặt báo. Nếu có nhắc đến thì giới thạo tin ở Washington cũng chỉ thì thầm với nhau trong các bữa nhậu, chẳng hạn như bên Cộng Hòa vừa cầm ly whisky vừa than, “Bọn Dân Chủ ưa chửi thề làm mất phong cách Toà Bạch Ốc”, hoặc bên Dân Chủ tay cầm chai bia, vừa ngửa cổ vừa tu, vừa chê bai: “Đám bảo thủ Cộng Hòa rỗi việc chỉ đặt chuyện chê bai người khác.” Đương nhiên, xen kẽ với những lời chỉ trích của cả hai phía, chắc chắn là những chử đệm nghe khá chói tai, nếu không “đ.m.” thì cũng “đ.bà”!!!

Những nhà báo chuyên nghiệp, sống chết với nền chính trị tại thủ đô, đều nói chính quyền Obama không phải là chính quyền duy nhất có những viên chức cao cấp ưa chửi thề văng tục. Bằng chứng là nếu có dịp vào nhà kho của các đài truyền hình để xem những cuốn videotape hay nghe lại những cuộn băng cassette của các ký giả báo giấy, có lẽ chằng ai ngờ các ông các bà lớn ở thủ đô lại chửi tục nhiều đến thế. Những bằng chứng được ghi lại này hầu như không bao giờ được công bố mà thỉnh thoảng mới thấy xuất hiện trên mặt báo. Nguời viết phải thật khéo léo, để độc gỉa có thể nhận ra ngay chuyện ông bà lớn văng tục mà không bị ông chủ bút chê trách là viết bậy.

Một trong những nhà báo ở trong danh sách “nghe” chửi thề nhiều nhất là ông Haynes Johnson, chuyên viết tin chính trị cho tờ Washington Post. Ông kể rằng: “Đi đâu cũng thấy có người chửi thề, từ Toà Bạch Ốc cho đến những chuyến đi theo các ứng cử viên tranh cử. Và “hầu như không có nhà báo nào muốn đăng những câu chửi thề tục tĩu đó trên mặt báo, hoặc phổ biến trên truyền hình, hoặc qua làn sóng phát thanh.”

Những câu chửi thề này, ông Johnson “được” hay “bị” nghe — chỉ vì ông là người theo sát sinh hoạt chính trị từ thời Dwight Eisenhower cho đến nay. Mỗi lần nước Mỹ có một vị tổng thống mới hoặc sau mỗi cuộc vận động tranh cử, bao giờ ông cũng viết sách kể lại, và bằng mọi giá ông phải “lọc” lại những câu chửi thề tục tĩu ghi được”. Ông nói thêm: “Là nhà báo thì phải bảo vệ người cung cấp tin cho mình. Nghĩa là đừng bao giờ đăng nguyên văn những gì họ nói với mình”. Lý do: trong những lời đó có tiếng chửi thề đi kèm và “rất là kỳ cục nếu trích dẫn nguyên văn lời họ nói ra.”

Những nhà báo kỳ cựu của Mỹ đều nhìn nhận Tổng Thống Lyndon Johnson và Richard Nixon là hai nhà lãnh đạo đứng đầu danh sách những người chửi tục nhất nước Mỹ. Trường hợp của ông tổng thống tiêu tan sự nghiệp vì vụ Watergate còn đặt biệt hơn, những cuốn băng bí mật ghi lại những sinh hoạt của ông khi còn tại chức, cho thấy ông sẵn sàng văng tục khi nói đến người Do Thái và người Mỹ da đen. Ngay lúc đang bị Quốc Hội và báo chí soi mói về vụ Watergate, ông Nixon cũng không quên chửi thề. Ông chỉ thị cho một nhân viên thuộc quyền phải ém nhẹm sự thật bằng câu nói: “tôi đ. cần biết chuyện gì xảy ra, chỉ biết là anh phải câm cái mõm chó lại, không được tiết lộ gì cả.”

Đoạn băng quan trọng này sau đó được công bố công khai, và tức khắc các vị chủ bút phân vân có nên đăng lại nguyên văn hay không. Ông chủ bút Abe Rosenthal của nhật báo New York Times, là người quyết định “không thể đăng nguyên văn”, ông tuyên bố một câu nói bất hủ trong làng báo “chúng tôi chỉ bỏ đúng một chữ thôi !”, trong khi tờ Washington Post lại cho đăng nguyên con, không thiếu chữ nào.

Nhưng đó là chuyện của thời xa xưa, vì dường như những năm đầu thiên niên kỷ 21, mọi chuyện đều được công khai hoá, kể cả chuyện các lãnh tụ mở miệng chửi thề. Ông bà lớn nào vừa mới chửi thề xong cùng hình ảnh đi kèm với tin tức đã xuất hiện ngay trên youtube. Điển hình, từ thời ông Geoge W. Bush ngồi trong Nhà Trắng, ít nhất hai lần dân chúng Hoa Kỳ thấy cảnh ông số Một văng tục: lần đầu ở Thượng Đỉnh Quốc Tế Moscow 2006, khi ông Bush đưa ra nhận xét về các hành động của bọn khủng bố Hezbollah đối với người dân Do Thái, và lần thứ nhì hồi 2007 khi ông đưa ra quan điểm cá nhân về ký gỉa Adam Clymer (của tờ New York Times), gọi anh nhà báo này là “thằng cà chớn nhất nước” (major league ass hole). Và ông số Hai, Dick Cheney, đang đứng ngay bên cạnh, gật đầu ủng hộ “thằng đó thì nói làm gì cho bẩn mồm.”

Cả hai chuyện đều được ghi lại qua ống kính truyền hình, nhưng báo chí Mỹ nói khéo rằng chuyện này đã xảy ra ở bên Nga! Ký giả Adam Clymer thì tỉnh bơ, nói với các đồng nghiệp: “Tổng Thống và Phó Tổng Thống không công bằng đối với tôi.” Tại sao anh lại than thở như vậy? Câu trả lời tuyệt vời nghe được từ chính nhà báo bị chửi, “Đã chê thì nên chê cho tới nơi tới chốn. Phải chi Tổng Thống gọi tôi là thằng cà chớn nhất thế giới thì hay hơn là cà chớn nhất nước.”

Sôi nổi nhất vẫn là chuyện hồi tháng Chín, khi ông Obama văng tục vì bực bội anh ca sĩ Kayne West, đi kèm với hình ảnh được phổ biến trên toàn thế giới xem. Chuyện xảy ra thế này: Tối hôm trước, đài MTV trao giải thưởng hàng năm và nữ ca sĩ Taylor Swift đoạt giải với cuốn video âm nhạc xuất sắc nhất trong năm. Và anh ca sĩ Kayne West nhảy lên sân khấu, chụp micro nói ban giám khảo sai lầm, vì theo anh, ca sĩ Beyoncé xứng đáng nhận giải hơn. Ngày hôm sau, khi ông Obama trả lời phỏng vấn đài CNBC, ông vẫn bực tức về chuyện tối hôm trước, ông chửi anh ca sĩ “cà chớn” là “thằng c.c…”

Ông Obama không ngờ tất cả những gì ông nói đều được thu vào ống kính, và sau đó nguyên cuốn tape được đưa từ Phòng Bầu Dục về đài trung ương CNBC cắt xén để chia sẻ với các đài khác. Kết quả: nhà báo truyền hình Terry Moran nhanh tay, đưa ngay lên youtube, kèm theo lời bình phẩm: “thấy Tổng Thống chửi thề chưa?”. Ít phút sau, chính đài ABC bắt Terry Moran phải lấy xuống, kèm theo lời xin lỗi về việc nhân viên của mình “đã sai lầm khi phổ biến đoạn thu hình nguyên tắc không được quyền phổ biến ra ngoài.”

Tin hành lang Toà Bạch Ốc không phủ nhận chuyện tổng thống Obama…thỉnh thoảng có…chửi thề, nhưng “ông sếp chúng tôi là người hiền nhất” trong số những người đang góp phần điều khiển đất nước, chính sách quốc gia. Trong số báo phát hành vào tháng sáu, tạp chí uy tín, The New Yorker, cho đăng nguyên văn một đoạn đối thoại của nhóm cố vấn thân cận nhất của Tổng Thống, để bàn chuyện cứu nguy kinh tế cho nước Mỹ và toàn cầu. 

 Đọc đoạn này, độc giả thấy ngay cảnh ông Rahm Emanuel bực bội nói lớn “các anh định làm cái đ…gì thì cũng phải cho tôi biết với chứ” (I want to know what the fuck you guys are doing), trong khi ông Phó Biden ngợi khen ông Cố Vấn Kinh Tế Larry Summers bằng câu “thằng chó đẻ đó thông minh nhất” (the smartest son of a bitch), đồng thời ông Cố Vấn Tối- Cao David Axelrod cũng bầy tỏ cảm tình dành riêng cho ông Tổng Trưởng Tài Chánh Timothy Geithner bằng câu “thằng chó đẻ đó làm việc cực lắm” (that poor son of a bitch). Ông Geithner là người được Tổng Thống giao trách nhiệm điều hành gói kich cầu trị giá gần cả ngàn tỷ dollars.

Người tung đoạn tin này lên mặt báo là ký giả Ryan Lizza, nổi tiếng ờ Washington vì chuyện gì anh cũng biết, chỗ nào anh đi cũng lọt, tin của Toà Bạch Ốc kín đến đâu anh cũng tìm ra. Trên trang blog của mình, anh giải thích như sau, “Lý do tôi quyết định viết nguyên văn những gì nghe được vì muốn người đọc mường tượng thấy sự căng thẳng sôi nổi trong phòng họp khi bàn về những điều cần làm để cứu nguy nền kinh tế quốc gia. Đọc xong lời giải thích mới biết thêm một chuyện: chửi thề càng nhiều, tình hình càng…căng!!!

Đệ Nhất Phu Nhân có chửi thề không? Chưa hề thấy báo chí loan tin bà Michelle văng tục, nhưng lời đồn đại đương nhiên phải có. Đầu tháng Mười 2009, bà dẫn một phái đoàn đi Copenhagen (Đan Mạch) để vận động cho thành phố Chicago được trao vinh dự tổ chức Olympic 2016. Và nghe kể là khi được tin Chicago bị Ủy Ban Tuyển Chọn loại ngay vòng đầu, bà Michelle buộc miệng… chửi thề. Phải thưa ngay chuyện này không biết đúng hay sai, nhưng trở thành chuyện vui cho đám nhà báo đến Copenhagen săn tin. Có một anh Việt Nam bảo bà Michelle Obama thông minh lắm, mới sang xứ Bắc Âu vài ba ngày mà đã thông thạo tiếng…Đan Mạch.

Cũng cần nói thêm, theo nhân viên dưới quyền bà Chù Tịch Hạ Viện Nancy Pelosi, thì “sếp chúng tôi không bao giờ chửi thề”. Trong một bữa tiệc do Quốc Hội khoản đãi báo chí, một cô môi đỏ, móng tay đỏ, jupe đỏ, giầy cũng màu đỏ nói với đám ký gỉa “phụ nữ chúng em đâu có ăn nói kỳ cục như cánh đàn ông”. Ý muốn nói bà Chủ Tịch Hạ Viện có giận đến đâu cũng nhất định không nói tục, dù bà là người rất nóng tính.

Thế còn bà Hillary Clinton? Nhân vật ngoại giao số một của nước Mỹ thì lại có khiếu chửi thề, từ lúc còn giữ vai trò mẫu nghi thiên hạ. Chuyện kể rằng, từ thời còn là sinh viên, bà đã thích uống diet Dr. Pepper, nên đi đến đâu, nhân viên luôn lo sẵn loại nước uống này cho Đệ Nhất Phu Nhân. Có lần theo chồng đi New York, ở lại có một đêm, nhìn thấy cả trăm lon nước ngọt xếp ngay ngắn trong tủ lạnh, bà phán ngay một câu “đ.m, sao nhiều thế” (Oh shit, too much). Bây giờ làm Ngoại Trưởng, bà chỉ uống nước lạnh nên không rõ bà còn chửi thề nữa hay không. 

Chuyện “đồn đãi ngoại giao” nổi tiếng nhất của bà Clinton xảy ra năm 2000, khi bà tháp tùng chồng sang thăm Việt Nam. Khi nghe nhân viên báo cáo ông Clinton bị “ngài” Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu đem chuyện Mỹ tham dự vào cuộc chiến Việt Nam và sau đó còn áp dụng luật cấm vận với Hà Nội, để than phiền trách cứ. Bà giận dữ: “Cái thằng đ…già đó là ai, tài cán đ…gì mà lên lớp chồng tôi?” (who is that fucking old guy?). Điểm đáng nể là, chỉ vài giờ sau đó, bà diện thật đẹp, cùng chồng đi dự tiệc, cười tươi như hoa, tuyên bố: “chúng tôi từ lâu đã mong ước có ngày sang thăm Việt Nam.”, bà bắt tay với “ngài” Chủ Tịch Nước và Phu Nhân, niềm nở nói: “Giời ạ, chúng tôi mừng được gặp ông bà” (oh my God, glad to meet you).

Nhưng nổi tiếng đến mức có thể lãnh” giải thưởng chữi thề” toàn quốc là ông Chánh Văn Phòng Rahm Emanuel, có biệt hiệu là “vua chửi thề” của nước Mỹ” từ khi còn làm việc dưới trào Bill Clinton. Ông này mở miệng ra là phải Đ.M. và nói rất nhanh, đến độ có lần không hiểu lý do gì, ông và ông Chủ Tịch Điều Hành Đảng Dân Chủ, Howard Dean cãi nhau, ông nói nhanh đến mức không ai nghe ông nói gì, ngoại trừ hai tiếng “đ. m.” không ngớt được lập đi lập lại.

Chính Tổng Thống Barack Obama đã từng đem ông Chánh Văn Phòng này ra diễu cợt. Năm rồi, trong buổi tiệc do Hội Báo Chí Toà Bạch Ốc tổ chức, ông Obama nhắc nhở mọi người, “Bữa cơm tối nay được tổ chức một ngày trước Mothers’ Day”. Sau đó, Tổng Thống nói tiếp: “Mỗi năm, cứ đến ngày của Mẹ thì anh Rahm lại thấy ngượng ngùng, vì ở nước Mỹ anh là người dùng chữ đ…mẹ nhiều nhất.”(6)

Ôi, Cộng sản vô văn hóa và tàn bạo đã đành, nước Mỹ văn minh nhất mà cũng thế ư? Ta biết  hướng về đâu  để thấy một bầu trời xanh trong? Nhưng hai bên có chỗ khác nhau là người Mỹ chửi thầm còn cộng sản thì công khai. Hàng triệu năm, ta đã mất bộ lông, cái đuôi và móng vuốt nhưng cái răng cắn xé, cái tay đánh đập, cái miệng chửi mắng vẫn còn đây!
Muốn thế giới hòa bình thì chính ta phải có tâm hòa bình. Trong chính trị và quân sự, công thành thì dễ, công tâm thì khó. Nay Trung Cộng ngang ngược làm cho thế giới lo ngại, nhất là các nưóc Á Châu. Trung Cộng tỏ ra hung dữ, bạo tàn, người ta trông mong Mỹ, Nhật, Ấn Độ  hoà bình và lịch sự trong cách đối xử cho dù phải động binh.  Và các nước này phải đồng tâm giải quyết cái họa Trung Cộng xâm lược.  Trong cuộc chiến này, vấn đề vận động chính trị, vấn đề công tâm rất quan trọng. Ngành ngoại giao và các lãnh tụ các quốc gia phải thận trọng mọi bề, trong đó có cẩn trọng ngôn ngữ.
Các nước phải đoàn kết, tôn trọng lẫn nhau. Trong thế cờ quốc tế , Mỹ phải tôn trọng các đồng minh, nhất là khối Âu châu, và các đồng minh Á châu như Ấn Độ, Nhật Bản, Indonesia, Philippines. Thái độ và ngôn ngữ của người Mỹ đối với châu Âu và Ấn Độ vừa qua rõ là khiếm nhã, là vô lễ, làm tổn thương các đồng minh. Trong trường hợp nhà ngoại giao Ấn Độ vi phạm một tội trạng nào đó như mang bạch phiến, tài liệu gián điệpv. v.., người Mỹ lại càng thận trọng và tế nhị ứng xử chứ không phải lỗ mãng như thế. Hy vọng nước Mỹ cần thay đổi về ngôn ngữ, cử chỉ và chính sách theo lễ nghĩa để xây dựng hòa bình cho thế giới.


Blaise Pascal có lý lắm ! Con người không là thiên thần cũng không là thú vật, nhưng trong loài người cũng như loài vật  cũng  có nhiều cấp bậc.Con sư tử, con hổ công khai vồ người, vồ loài vật. Con rắn âm thầm tấn công kẻ thù. Con trâu, con bò ăn cỏ nhưng cũng biết tự vệ. Con nai, con thỏ, không bao giờ tấn công ai. Con sâu cái kiến cam phận thấp hèn. Con chim khoan thai bay trên trời xanh. Con cá thung dung lội dưới nước. Về con người cũng có sự khác biệt chứ không phải ai cũng như ai. Trong loài người sẽ có kẻ  80% thánh thiện và 20% thú vật.  Có kẻ 60% thánh thiện và 40% thú vật. Có kẻ 90% thú vật , 10% thánh thiện..Ta là ai? Những người xung quanh ta là ai?

Ta cầu mong thế giới hòa bình, con người  đối đãi với nhau trong tình huynh đệ và bác ái. Tuy nhiên, ta cũng đừng đòi hỏi tuyệt đối. Thế giới ta chỉ là một thế giới tương đối!

Một vũng nước trong, mười dòng nước đục,
Một trăm người tục, mới được một người thanh,
Biết ai tâm sự như mình,
Mua vôi tô lấy tượng Bình Nguyên Quân!

____

 

No comments:

Post a Comment