Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Tuesday 29 November 2016

TƯỞNG NĂNG TIẾN - VIỆT CỘNG =LÊ HỒNG HÀ=VIỆT CỘNG = TÙ & VƯỢT BIÊN

Tuesday, June 18, 2013


TƯỞNG NĂNG TIẾN * VĂN HÓA THỔ TẢ

Văn Hoá Thổ Tả


1 le dinh dang


Nhược điểm lớn nhất của thể chế chính trị của chúng ta là gì? Là chế độ đảng trị, chuyên chế và mất dân chủ rất nặng nề.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh
————————————-
Khi mới bước chân vào đến miền Nam, có người đã “nẩy ra” một ý tưởng (hơi) ngộ nghĩnh như sau:
Quan sát cảnh vật và sinh hoạt của con người từ Bắc vào Nam, tôi nảy ra ý khái quát này: từ Bắc vào Nam là đi từ miền đất nghèo đến nơi giầu có, từ chỗ hàng năm hễ gặp hạn hán hay lụt lội là đói khát, đến nơi dường như sờ đâu cũng có cái ăn, cây trái, tôm cá ê hề, muốn chết đói cũng khó. 
 Nhưng mặt khác, đi từ Bắc vào Nam là đi từ nơi văn hoá cao đến nơi văn hoá thấp.” (Hồi Ký Của Giáo Sư Nguyễn Đăng Mạnh).
Cách “khái quát này” này đã khiến cho nhà thơ Thiếu Khanh , một người sinh trưởng ở miền Trung, buồn lòng thấy rõ:
Đó là khẩu khí của một bậc đại trí thức ở đất kinh kỳ ngàn năm văn vật nhìn về miền đất tuổi đời non nớt mới ba trăm năm, một cách bao dung và rộng lượng, như một hoàng đế ở trung nguyên nhìn ra man di bốn cõi...”

Nói sao (nghe) đắng cay dữ dội vậy Trời ? Bắc/Nam/Trung gì cũng một nhà hết trơn mà, đúng không?
Tôi e là có đôi chút hiểu lầm giữa ông nhà thơ và ông nhà giáo thôi. Khi đưa ra nhận xét về “độ chênh” của hai nền văn hóa Bắc/Nam (chắc) ý giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh chỉ muốn đề cập đến những nét nền nã của vùng đất cũ (so với miền đất mới) chứ ông không có ý đề cao văn hoá cộng sản – hay còn gọi là văn hóa công nôngvăn hóa vô sảnvăn hoá A.K… – chỉ mới xuất hiện, vài chục năm qua, ở đất nước chúng ta.
Và sự hiểu lầm này – phần nào – có thể là do cái “khẩu khí” của kẻ phát ngôn (thuộc bên thắng cuộc) và cái màng nhĩ (vốn đã mỏng tang) của người buộc phải lắng nghe, bên phe thua cuộc.
Trên một chuyến tầu xuôi Nam khác, một cây bút khác, thuộc thế hệ khác, không có dính dáng chi nhiều đến chuyện thắng/thua trong cuộc chiến vừa qua, đã ghi lại tỉ mỉ một mẫu đối thoại của hai người đồng hành, cùng với nhận xét (rất) khác về văn hoá Bắc/Nam:
- Tên chị là gì?
- Thưa em tên Mơ.
- Mơ gì? Mộng mơ hay quả mơ?
- Tùy, ai muốn hiểu thế nào thì hiểu…
- Quê quán ở đâu vậy?
- Em ở Thạch Thất, Hà Tây.
- Chị công tác ở cơ quan nào?
- Thưa, ở ty Văn Hóa Thông Tin Hà Sơn Bình.
- Chắc chưa vào Ðảng…?
- Vâng, em mới phấn đấu ở cương vị đoàn…
- Chị lập gia đình chưa?
- Em chưa lập, nhưng đối tượng thì có rồi!
- Các cụ nhà ta còn cả chứ?
- Vâng, thầy u em vẫn còn.
- Gia đình được mấy anh chị em nhỉ?
- Thưa, được tám cả thảy…

- Chị đi đâu mà hành lý cồng kềnh thế này?
Nơi em về trời xanh không em…?” Bên này vĩ tuyến 17 không có một câu hỏi thơ mộng, lãng mạn như vậy … Vì vậy những lời yêu đương được mở đầu bằng “Ðồng chí công tác ở cơ quan nào ?” (Thế Giang. Thằng Người Có Đuôi. Westminster, CA: Nguời Việt, 1987).
Chúng ta, tất nhiên, cũng “không nên” chỉ vì vài câu đối thoại (ghi trên) mà lại “nẩy ra cái ý khái quát” ngược lại rằng “đi từ Bắc vào Nam là đi từ nơi văn hoá thấp đến nơi văn hoá cao” – nơi mà người ta gặp nhau chỉ để hỏi (chơi) xem:
Bây giờ tháng mấy rồi hỡi em?
Hay:
Anh đi về đâu mà bụi đường vương trên mái tóc?
Sau một niên học, hay một trại hè – không chừng – dám có những những câu hỏi sát sườn hơn nhưng tuyệt đối vẫn không liên quan gì (ráo) đến lý lịch của nhau:
Anh ơi nếu mộng không thành thì sao?
Nói tóm lại, và nói nào ngay, là thái độ sống nghi kỵ, dò xét không thuộc vô cái nền văn hóa (chết tiệt) nào hết trơn hết trọi – của cả bốn miền, tính luôn miền núi. Hoặc giả, nếu có, đó cũng chỉ là cái thứ văn hóa chi bộvăn hoá đảng ủy,văn hoá lý lịchvăn hoá công anvăn hóa điềm chỉ, hay nói tóm lại là là văn hóa đảng trị mà thôi.
Tôi không tin rằng giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh có chút (xíu xiu) nào thích thú hay hãnh diện gì về cái loại văn hoá thổ tả này, vì chính ông cũng đã (đôi lần) suýt bị “gay go” với nó:
“Vào năm 1983, tôi còn bị đánh một trận nữa. Người ta đánh một bài viết của tôi chưa hề được công bố. Hồi ấy cuộc xung đột ta với Tầu ở biên giới còn nóng hổi. Anh Nguyên Ngọc vừa ở chiến trường ra, được đề bạt làm bí thư đảng đoàn Hội nhà văn, chủ trương làm một cuộc cách mạng trong đời sống văn học, đặc biệt là chống Maoít.
Hôm ấy nhân có một cuộc họp của giới lý luận phê bình văn học ở trụ sở báo Văn nghệ, Nguyên Ngọc và Nguyễn Khải đến hô hào chúng tôi dũng cảm nói sự thật, đảm bảo không sợ bị ‘tai nạn lao động’.
Một số người phát biểu hưởng ứng, trong đó có Hoàng Ngọc Hiến và tôi. Thấy ý kiến nghe được, anh Từ Sơn ở báo Văn nghệ đề nghị viết thành bài để đăng báo.
Bài của Hiến chính là bài ‘hiện thực phải đạo’ nổi tiếng, được coi như mở đầu cuộc đổi mới văn học. Bài đăng được ít lâu thì bị phê phán quyết liệt cùng với bản Đề cương của Nguyên Ngọc.
Vì thế bài của tôi đã lên khuôn vội rút về. Nhưng nhiều người cứ đồn bài này còn táo tợn hơn cả bài của Hiến, và lời đồn đại này cứ lan rộng mãi.
Hoàng Trung Thông lúc bấy giờ là Viện trưởng viện văn học phát biểu trong một cuộc hội nghị ở Viện, nói tôi đã đối lập tư tưởng chính trị với tư tưởng Văn nghệ.
Chuyện này tôi chẳng quan tâm làm gì nếu không liên quan đến kỳ phong học hàm phó giáo sư của tôi lúc bấy giờ. Hồi ấy, người đăng ký phong học hàm, trước khi được đưa ra bầu bán về chuyên môn, phải thông qua đảng uỷ của cơ quan công tác về tư tưởng. Trường hợp của tôi trở thành gay go vì tiếng đồn về bài viết của tôi đã vang đến đảng uỷ trường đại học Sư phạm và đảng bộ khoa văn.”
1983 – 2013: hơn một phần tư thế kỷ đã qua, cả đống nước sông, nước suối, nước mắt, nước mưa – cùng với vô số máu lệ – đã (ào ạt) tuôn ngang qua cầu và qua cống. Tuy vậy, cái thứ văn hoá phong chức thì vẫn còn nguyên vẹn (ở trường Đại Học Sư Phạm, Hà Nội) theo như tường thuật của Nhóm Phóng Viên Điều Tra, thuộc báo Người Cao Tuổi.
Đây là một bài tường trình rất dài, vô cùng luộm thuộm vì quá nhiều điệp ngữ cũng như điệp ý, được đăng thành nhiều kỳ từ hôm 22 đến 30 tháng 5 năm 2013 (và đã được in lại trên trang Dân Luận, vào ngày 1 tháng 6) nhưng chỉ cần xem qua vài câu, trong phần kết luận, người đọc vẫn có thể hiểu được khái quát vấn đề:
“Hội đồng phong giáo sư Ngành Vật lý gồm các giáo sư danh tiếng đầu ngành đã loại ứng viên Nguyễn Văn Minh khỏi danh sách phong chức danh Giáo sư, vì ông Minh không thể là nhà khoa học chân chính, khi ‘man khai, thiếu trung thực’ vi phạm đạo đức nhà giáo, có dấu hiệu vi phạm pháp luật…. Bản lí lịch bí ẩn của gia đình, ông Minh cố tình che dấu, đã bị lộ rõ có 2 thế hệ (4 người) tham gia nguỵ quân nguỵ quyền phản cách mạng.”
Sự việc rõ ràng, đã đến lúc Bộ GD&ĐT cần nhanh chóng xem xét lại có nên để ông Minh làm Hiệu trưởng Trường ĐHSP Hà Nội, thậm chí ông Minh không xứng đáng đứng trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam vì man khai lí lịch.”
2 nguyen van minh
Ông Nguyễn Văn Minh nhận chức Hiệu trưởng Trường ĐHSP Hà Nội. Ảnh: nguoicaotuoi.
Ông Minh, phen này, chắc chết – chết chắc. Nếu may mà sống sót e cũng khó có thể hết ngóc đầu lên nổi. Cụm từ này (“ngóc đầu lên nổi”) tôi cóp lại từ  phản hồi của một độc giả, với bút danh TM 1111, bên dưới bài viết (“Trường Đại học Sư phạm Hà Nội: Gian dối trong hồ sơ tranh cử Hiệu trưởng của PGS,TS Nguyễn Văn Minh”) trên trang Dân Luận:
“Chiến tranh huynh đệ tương tàn đã kết thúc gần 40 năm. Nhà nước VN vẫn ra rả ngày từ ngày đầu về chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc. Nếu đến năm 2013 mà cách xét hồ sơ xem một người trí thức có thể đảm nhiệm chức vụ hiệu trưởng một trường ĐH để phục vụ đất nước vẫn phải quyết liệt phân biệt địch-ta bạn-thù, vẫn phải soi mói, sắt máu và sùng sục căm thù, vẫn phải truy tìm từng người bà con thân thuộc xem có người nào là ngụy quân, ngụy quyền, ác ôn, nợ máu, v.v., thì đất nước này làm sao có thể ngóc đầu lên nổi?”
Ủa, có ai nói gì đến chuyện “đất nước này … ngóc đầu lên nổi” hồi nào đâu, cha nội? Chỉ có ông Tiến Sĩ Vũ Minh Khương nói thế này thôi, và cũng đã lâu rồi:
“Khó khăn trong quyết định của mỗi người chúng ta hôm nay không phải là làm cách gì để đất nước tiến lên mà là làm gì để chúng ta không lùi tiếp nữa, bởi đường lùi của chúng ta còn rộng rãi thênh thang lắm.”
Với chế độ hiện hành, cùng với nền văn hoá thổ tả đảng trị hiện nay – có lẽ – ngay cả đến bác Hồ cũng không biết làm cách nào để “chúng ta không lùi tiếp nữa.” Dù sao, vẫn còn điều may mắn là “đường lùi của chúng ta còn rộng rãi thênh thang lắm.” Giời ạ!
Tưởng Năng Tiến


PHẠM HỒNG SƠN PHỎNG VẤN LÊ HỒNG HÀ

Phỏng vấn Lê Hồng Hà

 – Đảng chỉ còn vai trò kìm hãm xã hội

Tháng 3 6, 2012

pro&contraÔng Lê Hồng Hà, cựu đại tá công an, năm nay 86 tuổi, là người đã tham dự Khóa I cho người Việt Nam về Chủ nghĩa Marx-Lenin tại Bắc Kinh năm 1949 và ở lại làm trợ giảng cho các khóa II, III đến năm 1952. Năm 1953 về nước phụ trách Trường Công an Trung ương (tiền thân của Học viện An ninh hiện nay). Năm 1958 là Chánh văn phòng Bộ Công an dưới thời Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn, là Ủy viên Đảng Đoàn Bộ Công An từ năm 1956. Ông là người đã cùng ông Nguyễn Trung Thành (cựu Vụ trưởng Vụ Bảo vệ Đảng dưới thời ông Lê Đức Thọ), vào nửa cuối thập niên 1990, đề nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) phải minh oan cho những nạn nhân trong vụ án có tên “Vụ án chống Đảng theo chủ nghĩa xét lại làm tình báo cho nước ngoài” (tên thường gọi: “Vụ án xét lại chống Đảng”). Không lâu sau ông đã bị khai trừ khỏi Đảng (cùng ông Nguyễn Trung Thành) và bị vào tù một thời gian.
Phạm Hồng Sơn thực hiện
Phạm Hồng Sơn: Thưa ông Lê Hồng Hà, với cương vị là người đã tham gia Cách mạng tháng Tám, Kháng chiến chống Pháp và chứng kiến Kháng chiến chống Mỹ, thời kỳ Đổi Mới, xin ông cho biết tình hình Việt Nam hiện nay có những vấn đề gì đáng lưu tâm nhất?
 
Lê Hồng Hà: Tình hình chung hiện nay tôi thấy có ba vấn đề lớn nhất. Thứ nhất là sự đánh giá của ĐCSVN về chính ĐCSVN và về hiện trạng đất nước nói chung là sai lầm. ĐCSVN vẫn cố tô vẽ cho thực trạng hiện nay những điều không có, vẫn tự khoe khoang, huyênh hoang rằng nhờ mình thì đất nước mới có nhiều điều tiến bộ. Ví dụ Đảng luôn cho lịch sử của dân tộc từ khi có Đảng là một bản anh hùng ca. Theo tôi, về công cuộc giải phóng dân tộc thì có thể là anh hùng ca nhưng về việc xây dựng và phát triển đất nước thì từ khi có ĐCSVN đến giờ đó là một quãng lịch sử thất bại. Và giải phóng dân tộc vừa qua cũng không như Đảng nói là nhờ chủ nghĩa Marx-Lenin mà cái chính là do nhân dân đã tiếp thu, tiếp nối được truyền thống yêu nước của dân tộc. Chủ nghĩa Marx-Lenin nếu có chỉ có một phần nhỏ là tập hợp được đoàn kết giữa công nhân và nông dân thôi. Còn thực tế đã cho thấy Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN thì càng phát triển lại càng tụt hậu về nhiều mặt so với các nước trong khu vực. Xây dựng và phát triển đất nước mà lại theo chủ nghĩa Marx-Lenin thì sai hoàn toàn. Chủ nghĩa Marx-Lenin là một học thuyết đấu tranh giai cấp, là một học thuyết phản phát triển.
Thứ hai là tình hình xã hội hiện nay ở mức độ xấu chưa từng có, kể từ năm 1975 đến giờ. Sự xuống cấp của đất nước hầu khắp mọi lĩnh vực từ an ninh, đạo đức, văn hóa, giáo dục, xã hội, hay chính trị. Chính trị nghĩa là uy tín của của ĐCSVN đã xuống thấp chưa từng có, gần như không còn ai tin vào cái Đảng này nữa. Như vậy xã hội hiện nay, theo tôi, đang lâm vào một cuộc tổng khủng hoảng toàn diện mà nguyên nhân là do đường lối của ĐCSVN về phát triển là sai.
Thứ ba là vấn đề Trung Quốc. Trung Quốc đã và đang ráo riết thực hiện những kế hoạch dữ dội, xâm nhập, ảnh hưởng, chèn ép, bao vây trên mọi lĩnh vực, kinh tế, an ninh, quốc phòng, lãnh thổ, nhằm thực hiện ý đồ cuối cùng là thôn tính Việt Nam. Còn về phía Việt Nam thì nhiều cán bộ lãnh đạo của Việt Nam lại đã và đang bị Trung Quốc mua chuộc và khống chế. Tất cả những điều đó đều là một quá trình liên tục từ Đại hội VI của ĐCSVN đến nay. Thái độ nói chung của lãnh đạo Việt Nam hiện nay về Trung Quốc lại lờ phờ, không rõ ràng. Đó là một vấn đề hết sức nguy hiểm.
Phạm Hồng Sơn: Vậy ĐCSVN còn đóng vai trò gì đối với đất nước hiện nay?
Lê Hồng Hà: Trước đây Đảng đã từng giữ vai trò tiền phong trong xã hội, thúc đẩy tiến bộ cho xã hội ở một số phương diện. Nhưng đến nay Đảng không còn giữ được những vai trò đó nữa vì Đảng vẫn đi theo hệ tư tưởng Marx-Lenin. Còn về đội ngũ của Đảng, đặc biệt là hàng ngũ cầm quyền, đã bị tha hóa, tham nhũng, xoay sở, vô cảm với đất nước, xã hội. Vì vậy Đảng hiện nay chỉ còn vai trò kìm hãm xã hội thôi.
Phạm Hồng Sơn: Vừa rồi ĐCSVN đã có Hội nghị Trung ương 4 và tiếp theo là một Hội nghị toàn quốc về chỉnh đốn Đảng, ông có kỳ vọng gì?
Lê Hồng Hà: Nói đúng ra thì những Hội nghị được tổ chức rất ghê gớm đó họ đã có những phát hiện cũng có ích chứ không phải là vứt đi nhưng nó không trúng vấn đề chính, không đi vào nguyên nhân gốc. Nhiều cán bộ lâu năm đã có những bộc bạch là nếu cứ ra những nghị quyết kiểu như thế thì sẽ “chẳng giải quyết được cái quái gì cả”. Họ chỉ dựa vào những biểu hiện, rồi tập trung phân tích vào những hư hỏng bên ngoài. Họ chưa nhận ra hoặc không dám nhận ra nguyên nhân gốc của những hư hỏng đó thì làm sao có thể chỉnh đốn được.
Phạm Hồng Sơn: Tại sao họ “không dám nhận ra”?
Lê Hồng Hà: Nếu họ phải thừa nhận sai lầm từ gốc nằm ở cương lĩnh, ở đường lối, ở hệ tư tưởng thì tức là họ phải chấp nhận rằng công tác tuyên huấn là bịp bợm còn công tác lý luận là bế tắc, họ sẽ phải tự cách chức hết, tự nghỉ hết, tức là sự tự “lật đổ”, sự thay đổi hoàn toàn. Mà hiện nay họ vẫn tỏ ra phải giữ quyền lực, địa vị, giữ lợi ích của họ, nghĩa là họ phải giữ những đường lối đó. Không những thế, vừa rồi họ vẫn còn cho rằng ai phê phán đường lối chính trị của họ là sai lầm là đều thuộc lực lượng “chống đối, thù địch”, nghĩa là những gì chúng ta trao đổi từ nãy đến giờ là thuộc lực lượng “thù địch” rồi. Do đó trong tình hình muốn tạo thế chuyển biến cho đất nước Việt Nam thì phải dựa vào dân, chứ dựa vào Đảng, mong muốn đổi mới cái Đảng này cho nó mạnh lên, nó sạch lên thì không có. Trong tình hình hiện nay của đất nước thì cái Đảng này không thể đổi mới được. Chỉ dân mới có thể tạo ra đổi mới. Nếu cái Đảng này có làm được cái gì tiến bộ thì cũng phải dựa vào sức ép của dân. Nhân dân sẽ là người bắt Đảng phải thay đổi.
Phạm Hồng Sơn: Xin ông đánh giá về lực lượng tiến bộ hiện nay?
Lê Hồng Hà: Vì đất nước, xã hội đang lâm vào một cuộc tổng khủng hoảng nên chính điều đó đang tạo ra một đòi hỏi phải thay đổi của bản thân xã hội, của các thành phần trong xã hội. Những vận động, đấu tranh cho tiến bộ đã được nhiều người thực hiện liên tục từ hàng chục năm qua với nhiều bước thăng trầm. Nhưng khoảng 1 đến 2 năm nay phong trào đang lên mạnh với sự xuất hiện của nhiều nhân vật mới, đang trồi lên liên tục và là tổng hợp của rất nhiều cái cụ thể. Nếu lấy mốc thì tôi lấy mốc là Vụ án Cù Huy Hà Vũ, những cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội và một loạt những kiến nghị tập thể, phải kể đến nhất là Kiến nghị có chữ ký ban đầu của 85 vị ở cả trong Nam và Bắc, rồi Kiến nghị của hơn 20 trí thức, rồi Kiến nghị về Bauxite, rồi cả các Kiến nghị của ông Trần Văn Huỳnh (bố Trần Huỳnh Duy Thức).
 Nói chung lực lượng tiến bộ đang trồi lên với nhiều hình, nhiều vẻ và với những quan điểm rất khác nhau. Vấn đề hiện nay là vẫn chưa có ai tổng hợp được về những lực lượng đối lập đang nổi lên ở trong nước, gồm những ai, như thế nào. Việc này cần quan tâm để đánh giá cho chính xác, để hiểu rõ họ như thế nào. Ví dụ nhóm Minh Triết của Nguyễn Khắc Mai, rồi Khối 8406, hay những người đang nằm trong hệ thống như Dương Trung Quốc, Nguyễn Minh Thuyết, Tương Lai, Nguyễn Trung, họ phát biểu còn dè dặt thì đánh giá thế nào, rồi Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Xuân Nghĩa, rồi hiện tượng ở Phú Yên hay là Nguyễn Xuân Diện đi thăm Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Quang Vinh đưa tin về Tiên Lãng, Ba Sàm điểm tin hàng ngày, hay Nguyễn Huệ Chi đi thăm Cù Huy Hà Vũ, rồi Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh lên tiếng đòi thả Bùi Thị Minh Hằng. Rồi ở ngoài nước, tôi thấy có nhiều phát biểu cũng rất giỏi, nhiều hoạt động rất tích cực. Như vậy hiện nay đang có rất nhiều tiếng nói, hoạt động, rất đa dạng, rất phong phú, rất khác nhau, rất phức tạp, rất ghê gớm. Tôi đang quan tâm nhưng chưa tài nào tổng hợp được.
Phạm Hồng Sơn: Ông tiên liệu gì về phản ứng của ĐCSVN trước những “trồi lên” đó?
Lê Hồng Hà: Họ sẽ đi đến chỗ phải đàn áp. Mà một trong những biểu hiện của nó là Đảng vừa ra 19 điều cấm kỵ đối với đảng viên, nghĩa là nó chuẩn bị đàn áp đấy. 19 điều cấm là tước quyền công dân của đảng viên, vi phạm luật pháp. Nhưng điều đó cũng thể hiện Đảng đang ở tâm trạng bất lực. Một biểu hiện bất lực rõ nữa là tháng trước ông TBT Nguyễn Phú Trọng phải đứng ra mời gặp các cán bộ lão thành trong Nam và ngoài Bắc. Hoạt động đó cách đây khoảng 2-3 năm là một chế độ thường niên, nhưng mỗi lần gặp thì lại bị các cán bộ lão thành phê phán, góp ý kiến rất “lộng óc” nên sau đó Đảng đã bỏ đi, không tổ chức nữa. Nhưng rồi dư luận kêu ca nhiều quá nên vừa rồi lại phải tổ chức lại nhưng lại chỉ dám mời những cán bộ lão thành cao cấp như kinh qua Ban Bí thư, kinh qua Thủ tướng, không dám mời mở rộng và cũng không dám nghe hết các ý kiến. Như vậy là Đảng đang muốn xoa dịu, đang muốn tỏ ra có sự đoàn kết, gắn bó giữa lãnh đạo hiện nay với lớp về hưu, nhưng thực tế cho thấy sự chia rẽ, mất đoàn kết trong Đảng là hiện tượng phổ biến.
Phạm Hồng Sơn: Ông là người đã tiếp thêm tiếng nói mạnh mẽ về việc phải bạch hóa và minh oan cho những nạn nhân trong “Vụ án xét lại chống Đảng” thời những năm cuối 1960 đầu 1970. Theo ông, những tấm gương nạn nhân năm xưa đó có ý nghĩa gì với lịch sử và đặc biệt có ý nghĩa gì trong bối cảnh đất nước hiện nay?
Lê Hồng Hà: Đó là những con người xứng đáng với bản lĩnh anh hùng, xứng đáng là tấm gương cho thế hệ hiện nay noi theo. Xã hội cần phải tiếp tục công việc để đòi ĐCSVN phải tuyên bố sửa sai, đòi minh oan cho những con người lịch sử đó để bảo vệ chân lý, bảo vệ pháp luật và trả lại thanh danh cho những con người anh hùng đó.
Phạm Hồng Sơn: Với tư cách là một người đi trước hay nói theo cách thường thấy là một “lão thành cách mạng”, giả thiết nếu có lãnh đạo của ĐCSVN hiện nay đến tham vấn, ông sẽ nói gì với họ?
Lê Hồng Hà: Tôi sẽ nói với họ đúng như những gì đã nói ở trên.
Phạm Hồng Sơn: Ông có những lời khuyên cụ thể nào không?
Lê Hồng Hà: ĐCSVN cần phải họp lại với nhau để thôi hệ tư tưởng Marx-Lenin đi. Tôi không kêu gọi thủ tiêu “anh” nhưng “anh” muốn tồn tại thì phải thực hiện đa đảng, dân chủ, để mà tồn tại.
Phạm Hồng Sơn: Trân trọng cảm ơn ông Lê Hồng Hà.
Bài đăng ngày 06.3.2012
© 2012 pro&contra

HIỀN SỸ * CỘNG SẢN BÁN NƯỚC

Chuẩn! Chúng tao bán nước đó!


Hiền Sỹ (Danlambao)
Theo lời kể về câu chuyện đi biểu tình của mình, chị Trần Thị Nga, một người yêu nước ở Phủ Lý, Hà Nam đã cho ta thấy bộ mặt bán nước trơ trẽn của đảng cộng sản. Đến mức chính viên công an cộng sản có tên Nguyễn Đức Trung, số hiệu 195-456 đã thẳng thừng tuyên bố “Chuẩn!” khi bị chất vấn về việc công an cộng sản làm tay sai cho Tầu.

Trên thực tế, tất cả các cuộc biểu tình của đồng bào trong nước chống giặc Tầu cho đến hôm nay đều bị đảng cộng sản đàn áp dã man. Những kẻ trực tiếp thi hành lệnh của đảng đó là những tên công an, an ninh, côn đồ khoác lên mình khẩu hiệu “Còn đảng còn mình, còn đảng còn tiền”. Nhưng từ trước đến nay, chưa môt tên công an nào dám đối mặt với người dân nói thẳng chúng làm tay sai cho Tầu mà chỉ mị dân bằng luận điệu “giữ hòa bình ổn định, đã có đảng và nhà nước lo”. Câu chuyện ngày 2/6 tại trại giam Lộc Hà của chị Trần Thị Nga đã cho thấy sự trơ trẽn đến mức bỉ ổi của đội ngũ công an nhà cầm quyền cộng sản. Đội ngũ này đang sống nhờ mồ hôi nước mắt của người dân Việt nhưng lại bán linh hồn cho giặc.
Cụ thể, câu chuyện của chị Nga có đoạn, khi chị Nga chất vấn công an tại trại Lộc Hà: "Tại sao chúng tôi đi biểu tình phản đối TQ xâm lược, đánh, bắt, giết ngư dân VN mình mà các anh bắt, đánh đập, giam giữ chúng tôi? Có phải ngành công an các anh đang bảo kê cho TQ xâm chiếm biển đảo, đánh, giết ngư dân hay sao?". Công an viên có tên Nguyễn Đức Trung có số hiệu 195-456 đã trả lời “Chuẩn!”(1). 
Nghe câu nói đó, thật sự chúng ta xót xa cho một dân tộc Việt Nam đã sản sinh ra những người anh hùng như Lê Lợi, Quang Trung lại có thể sản sinh ra một lũ bán nước hại dân như công an cộng sản ngày nay. Lời trả lời của tên công an đã xác nhận đảng cộng sản là một lũ bán nước thật sự chuẩn xác như chính lời xác nhận của tên Trung. Bản chất hèn với giặc ác với dân đã được chính miêng công an của đảng cộng sản xác nhân, điều này cũng cho thấy bản chất trơ trẽn, không biết xấu hổ trước tổ tiên, trước đất nước và trước triệu đồng bào Việt Nam của đảng cộng sản. Và thật đáng buồn riêng cho cha mẹ của tên công an Nguyễn Đức Trung số hiệu 195-456, vì họ đã sinh nhầm một tên bán nước hại dân mà rồi đây lịch sử sẽ ghi vào sách vở như một trong hàng triệu Lê Chiêu Thống của đảng cộng sản. 
Nhưng lần giở những chuỗi sự kiện từ lâu nay, chúng ta có thể thấy rằng những phát ngôn như của tên Nguyễn Đức Trung cũng không có gì xa lạ. Chỉ có điều, nghe nó như một nhát dao cứa vào tim, vào niềm tự hào dân tộc của chúng ta. Hãy nhìn đảng cộng sản giao Hoàng Sa – Trường Sa cho Tầu bằng một công hàm trơ trẽn của Phạm Văn Đồng mà đứng đầu là Hồ Chí Minh. Hãy nhìn những Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, Bãi Tục Lãm mất bởi đảng cộng sản vào tay Tầu. Hãy nhìn từng đợt biểu tình bị đàn áp dã man thì chúng ta thấy rõ ràng lời của tên Nguyễn Đức Trung như một sự khẳng định của đội ngũ công an “Chúng tao bán nước đó! Làm gì được nào?”.
Lịch sử đã chứng minh, Hồ Chí Minh khi đem chủ thuyết cộng sản về gây di họa cho Việt Nam thì đã từng 2 lần là đảng viên đảng cộng sản Trung cộng(2). Bởi vậy, cũng không có gì ngạc nhiên khi đảng cộng sản Việt Nam tiếp nối tư tưởng làm chư hầu cho Trung cộng mà Hồ Chí Minh mong muốn. Để đến hôm nay, những cháu ngoan của Hồ Chí Minh như tên Nguyễn Đức Trung đã thừa nhận sự thật bán nước của đảng cộng sản là “Chuẩn”!
Đảng cộng sản cuối cùng cũng đã lòi cái đuôi bán nước và bản mặt trơ trẽn làm tay sai cho giặc ra trước bàn dân thiên hạ bằng câu nói của tên công an mang tên Nguyễn Đức Trung. Nó như một cái chốt cuối cùng đã bung để lộ ra bộ mặt giả nhân, giả nghĩa của một tên mafia không hơn, không kém. Chính vì vậy, không còn cách nào khác, người dân Việt Nam nếu không muốn Bắc thuộc thêm một lần nữa cần phải đứng lên dẹp bỏ đảng cộng sản Việt Nam. Vì đảng cộng sản Việt Nam chính là con nuôi của Trung cộng. Chỉ có chặt được cánh tay nối dài của giặc Tầu thì dân tộc Việt Nam mới có thể thoát khỏi thảm cảnh một Tây Tạng thứ hai. 
Người dân Việt Nam ngày hôm nay đã không còn u mê như gần 1 thế kỷ trước khi chấp nhận một chủ thuyết hoang tưởng và một lũ phản quốc làm lãnh đạo dân tộc. Những âm mưu bẩn thỉu “hèn với giặc, ác với dân” cuối cùng cũng đã và đang lộ ra trước ánh sáng. Không còn cách nào khác, nhân dân Việt Nam phải đồng lòng, chung tay vạch trần thêm những âm mưu thâm hiểm của đảng cộng sản để có một sức phản kháng cần thiết lật đổ chế độ cộng sản. Chi có như vậy Việt Nam chúng ta mới thực sự trường tồn .
17/6/2013.

SƠN TRUNG * CHÍNH LUẬN 21

THƯỢNG ĐỈNH VÀ  THƯỢNG ĐẲNG

Cuộc họp mặt giữa Obama và Tâp Cận Bình đã diễn ra vào hai ngày 7 và 8 tháng 6 năm 2013 tại khu an dưỡng Sunnylands ở phía đông nam bang California, Mỹ. Một số nhà bình luận lạc quan cho rằng "các nhà lãnh đạo Mỹ và Trung Quốc đã làm việc với nhau gần 8 giờ đàm phán trong bầu không khí được cho là khá thoải mái và cởi mở với một số lượng ít các thành phần tham dự. Hai nhà lãnh đạo đã nói với các phóng viên rằng Mỹ và Trung Quốc thống nhất xây dựng các mối quan hệ mới dựa trên lợi ích chung và tôn trọng lẫn nhau. Cố vấn An ninh Quốc gia Tom Donilon nhận định, các cuộc gặp nói trên là “đáng chú ý, tích cực và xây dựng”.


Một số nhà bình luận viết rằng hai bên đã giải quyết một số vấn đề:

-Hai bên sẽ làm việc cùng nhau để tạo ra các quy chế về an ninh mạng.
-Hai bên sẽ thúc đẩy trao đổi song phương ở tất cả các cấp, bao gồm cả hoạt động quân sự.
-Trong ngày làm việc thứ hai, hai nhà lãnh đạo đã thảo luận về quan hệ kinh tế giữa hai nước, đặc biệt các “ấm ức” lâu nay của Mỹ về việc Trung Quốc vi phạm bản quyền và định giá đồng nhân dân tệ quá thấp khiến kinh tế Mỹ thiệt hại hàng trăm tỷ đô la và cán cân buôn bán của Mỹ với Trung Quốc bị thâm hụt.

-Tuy hai nhà lãnh đạo không công khai nhắc đến vấn đề biển Hoa Đông và Biển Đông sau hội đàm, nhưng Cố vấn An ninh quốc gia Tom Donilon cho biết bên lề là Tổng thống Obama đã nhắc ông Tập rằng Trung Quốc cần tìm kiếm giải pháp hạ nhiệt khu vực trên thông qua kênh ngoại giao.

Ngược lại, theo lời cựu Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì, người có mặt trong buổi làm việc giữa hai nguyên thủ, ông Tập Cận Bình đã lập tức trả lời ông Obama rằng Trung Quốc sẽ “kiên quyết bảo vệ sự toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của mình”.

Sau ngày đầu tiên, hai nhà lãnh đạo đã cho các phóng viên biết, Mỹ và Trung Quốc thống nhất xây dựng các mối quan hệ mới dựa trên lợi ích chung và tôn trọng lẫn nhau. Hai bên nhất trí cần gây thêm áp lực để buộc Triều Tiên từ bỏ tham vọng hạt nhân, không công nhận Triều Tiên là nhà nước vũ trang hạt nhân.

Tuy nhiên một số bi quan, cho rằng giữa hai bên còn có nhiều cách biệt. Giới quan sát tỏ ra hoài nghi : Liệu những biểu hiện bề ngoài vui vẻ, thoải mái giữa tổng thống Barack Obama và chủ tịch Tập Cận Bình có giúp hai bên vượt qua những hố sâu bất đồng trên nhiều vấn đề quan trọng hay không ? Dân biểu Chris Smith, thuộc đảng Cộng hòa, ở New Jersey, chủ tịch tiểu ban nhân quyền Hạ Viện lại thất vọng về cuộc gặp thượng đỉnh không chính thức Mỹ-Trung. Tuy có nêu vấn đề nhân quyền ngay trong phần đầu bài diễn văn, nhưng lẽ ra, tổng thống Obama nên mở đầu mối quan hệ với chủ tịch Tập Cận Bình bằng việc đòi trả tự do cho các nhà ly khai Trung Quốc đang bị cầm tù, trong đó có giải Nobel Hòa bình Lưu Hiểu Ba. Theo thiển kiến, ông Obama nói sơ lược thế là đủ, người quân tử phải có cung cách tế nhị trong buổi sơ ngộ, không nên yêu cầu thế này, đòi hỏi thế nọ như mấy anh vô văn hóa mà ở địa vị cao.

Mai Vân của RFI bình luận rằng quan hệ Mỹ-Trung là vỏ hòa dịu bọc những cái gai (1)

Lẽ tất nhiên trong các cuộc ngoại giao, dù căng thẳng, bất đồng, ngôn ngữ lịch sự bao giờ cũng là cuộc họp diễn tiến trong không khí hòa dịu, hai bên đạt nhiều kết quả tốt đẹp.
Trung Cộng và Mỹ là đối thủ. Từ lâu, Từ thời Mao Trạch Đông, Trung Cộng đã muốn tiêu diệt đế quốc Mỹ để Trung Cộng trở thành đế quốc mới ngồi vào cái ghế "sen đầm quốc tế" của Hoa Kỳ. Nhất là từ thời Hồ Cẩm Đào, Trung Cộng lộ rõ bộ mặt hiếu chiến,  chiếm biển đông, nghĩa là chiếm Thái Bình Dương, đoạt các đảo của nhiều quốc gia Á châu và ngăn cản sự lưu thông của Mỹ trên Thái Bình Dương. Chiếm biển Đông, tuyên bố chủ quyền biển Đông, nghĩa là Trung Cộng chiếm Á Châu và  đe dọa Mỹ. Tất nhiên, Mỹ khó tha thứ.

Đầu năm 2013, Tập Cận Bình đi Nga trong khi đó các vị tiền nhiệm của ông ta thường là đi Mỹ như Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào. Tại Mạc Tư KHoa, Tập Cận Bình hung hăng chỉ trích Mỹ. Thế mà nay ông lại đi Mỹ, như vậy cuộc Mỹ du của ông có mục đich gì?


Như trên đã trình bày, trong hội nghị thượng đỉnh kỳ này, hai bên hứa hẹn sẽ giải quyết những vấn đề nổi cộm trong quan hệ song phương, song những vấn đề đó đem ra trên bàn ngoại giao thì cũng vài năm chưa xong, mà kết thúc tốt đẹp là phải dùng cú đấm. Trong 8 giờ cũng chỉ đi vòng vo, cũng chỉ là hứa hẹn tương lai. Thực chất phải là vấn đề khác.

Phải chăng trước khi đấu võ, người ta cũng dùng đấu văn, hoặc thăm dò tình hình và thái độ kẻ thù và đồng minh kẻ thù. Tập Cận Bình muốn nuốt các nước Á châu nên đến Mỹ để thăm dò thái độ của Mỹ. Nếu Mỹ tỏ ra hèn yếu, sợ hãi thì Trung Cộng sẽ mạnh mẽ xông lên" phanh thây uống máu quân thù".Điều này Đặng Tiểu Bình đã làm trước khi đánh Việt Nam. Trong cuộc họp thượng đỉnh này, Obama bảo Tập Cận Bình phải xuống thang ở Biển Đông. Lời nói nhẹ nhàng nhưng rất là kẻ cả, và như thế, Obama đã tỏ thái độ chống việc Trung Cộng xâm chiếm  biển Đông và tấn công  các  nước Á Châu. Tập Cận Bình và bọn thủ hạ của ông phải hiểu thế.

Có thể Tập Cận Bình có mục đích khác rất quan trọng. Sống thời Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình đã thấy cái tệ hại của cộng sản là ngồi lỳ và nắm nhiều quyền hành. Vì vậy mà ông phân chia các chức vụ trọng yếu cho nhiều nhân vật khác nhau và định kỳ các chức vụ. Việc này cũng có mục đich tránh sự tranh giành, chém giết nhau trong đảng.Thế mà nay, đảng Cộng sản Trung Quốc lại gạt bỏ nguyên tắc phân nhiệm và định kỳ do Đặng Tiểu Bình đặt ra mà trao cho Tập Cận Bình toàn quyền như Mao Trạch Đông. Thế là đảng Cộng sản Trung Quốc đã trao thanh kiếm lệnh và Tập Cận Bình đã đăng đàn bái tướng. Qua việc này, chúng ta thấy đảng Cộng sản Trung Quốc đã trao quyền tướng soái cho Tập Cận Bình để ông có sức mạnh đối nội và đối ngoại, nhất là đối ngoại, nghĩa là xâm chiếm Á châu và đánh Mỹ




Người Trung Quốc cao ngạo, cho mình là trung tâm vũ trụ. Các tiểu quốc phải chầu thiên tử chứ thiên tử không bao giờ hạ cố đến các tiểu quốc. Mao Trạch Đông không bao giờ rời ngai vàng trung tâm vũ trụ của ông. Chỉ có bọn đàn em của ông vì tình thế bắt buộc mà phải sang Mỹ. Bây giờ, quyền uy là thế, khí thế  ngất trời như thế mà Tập Cận Bình phải sang Mỹ? Tại sao ?

Các báo Việt Nam như Đất Việt  (2), Tin 247 (3) đều cho rằng Tập Cận BÌnh phải ’uống chén đắng’ khi sang Mỹ. Chén đắng đó là Tập Cân Bình yêu cầu Mỹ Nhật ngưng tập trận nhưng Mỹ Nhật vẫn làm ngơ. Ngoài ra, ta thấy Tập Cận Bình phải uống nhiều chén đắng chứ không phải một. Tập Cận Bình không được tiếp tại tòa Bạch ốc.Thế là tư thế của Tập Cận Bình coi bộ yếu kém, phải xuống nước, phải  chịu cảnh hạ phong chứ không được cái ưu thế thượng đẳng.  Nhưng vì cần thiết mà phải nhịn nhục như Hàn Tín lòn trôn!


Việc cần thiết cho Trung Cộng là gì? Đó là vấn đề kinh tế.Nhiều báo chí trên thế giới đã nói nhiều vệ sự suy thoái kinh tế của Trung Cộng.Tú Anh của RFI trong bài "Kinh tế Trung Quốc mất đà" có đoạn :"Hàng loạt chỉ số về sản xuất, thương mại được Bắc Kinh công bố cuối tuần qua xác định cường quốc kinh tế thứ hai thế giới đang bị mất trớn. Các thông tin thất vọng này gây ra những tin đồn giảm lãi suất tín dụng với những hệ quả không hay.(4)


Hiện nay, Hoa Kỳ đang cùng các nước đồng minh thảo luận về Hiệp định Hợp  tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TTP).. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Việt Nam và chín quốc gia khác như Nhật Bản, Brunei, Chile, New Zealand, Singapore , Australia, Malaysia, Peru, Mexico ..đang trên bàn đàm phán về tự do thương mại cấp cao, đề cập tới những vấn đề thương mại mới và những thử thách của thế kỷ 21. Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương là cơ hội dành cho tất cả các nền kinh tế lớn phát triển nhanh trong khu vực châu Á Thái Bình Dương - các nước phát triển và đang phát triển - hợp nhất thành một khối kinh tế đại diện cho khoảng 30% GDP toàn cầu. Sự thành công của Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương sẽ đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế, xóa tan rào cản về thương mại và đầu tư, tăng xuất khẩu và tạo thêm các cơ hội việc làm cho mọi người.


Bộ Công thương và Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ vừa tổ chức hội thảo khoa học "Hiệp định hợp tác kinh tế xuyên Thái Bình dương (TPP), ý nghĩa và tác động đối với nền kinh tế Việt Nam”. Hiện tại, TPP đã đi được 16 vòng đàm phán và dự kiến kết thúc vào cuối năm 2013. TPP được kỳ vọng là sẽ tạo ra chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu, trong đó Việt Nam là quốc gia được hưởng lợi nhiều. Tuy nhiên, hội thảo cũng đặt ra cho doanh nghiệp Việt những thách thức cần vượt qua để hòa nhập sân chơi mới này. Không biết Việt cộng suy nghĩ như thế nào. Nhiều người thấy ham vì được chơi với tư bản Mỹ nhưng lại sợ khó mà chơi trò ma quỷ gian lận với thế giới, và nhất là sợ Trung Quốc không cho phép bỏ ngũ!


Trước cuộc Hợp tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương này, Trung Cộng cũng nóng mặt muốn chọi lại Mỹ cho nên Trung Cộng cũng mở ra một cuộc chơi khác do Trung Cộng làm chủ. Đó là tổ chức HƠP TÁC KINH TẾ TOÀN DIỆN KHU VỰC- viết tắt là  RCEP (Regional Comprehensive Economic Partnership)

Được bàn thảo từ 2006, nay RCEP bao gồm 16 quốc gia trong khu vực châu Á–Thái Bình Dương
Các thành viên gồm 10 quốc gia ASEAN (Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Brunei, Việt Nam, Lào, Miến Điện, Campuchia), Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand và Úc (gọi tắt là ASEAN+6) . RCEP không có sự hiện diện của Hoa Kỳ


Theo Trung Cộng, mục đích của RCEP là củng cố thêm hiệp định tự do Thương mại trong khối ASEAN lẫn các quốc gia không nằm trong khối nhằm cân bằng và tạo thêm sức ảnh hưởng lên các hiệp định thương mại này .RCEP có thể giúp thúc đẩy thương mại Việt Nam vượt xuyên ra khu vực châu Á–Thái Bình Dương. Nói văn hoa kiểu tuyên truyền là vậy, nhưng thực chất là  tổ chức này có mục đich  cạnh tranh với Mỹ và kéo các tiểu quốc theo Trung Cộng, tôn Trung Cộng làm minh chủ.


Tuy nhiên, thời gian gần đây Hà Nội thường xuyên có những mối lo ngại lớn hơn về mặt chiến lược đối với sự áp đảo ngày càng gia tăng của Trung Quốc, đặc biệt các vụ tranh chấp quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông. Gần đây Hà Nội đã hoan nghênh tiếp nhận những lời đề nghị mang tính hợp tác từ phía Hoa Kỳ, nhưng những bước tiến này vẫn chưa đủ mạnh đến mức có thể làm Trung Quốc phiền lòng.

Nếu không có sự đối trọng đến từ Hoa Kỳ, Việt Nam có thể sẽ mắc phải sự chi phối kinh tế từ Bắc Kinh, đặc biệt khi Việt Nam vẫn là nước tiêu thụ lượng hàng nhập khẩu rất lớn từ Trung Quốc.


Xem danh sách thì hai bên có khoảng 10 nước tham dự, lực lượng Trung cộng đông hơn. Nhưng thực tế một số nước đứng hai chân như Việt Nam, Lào, Campuchia... Một số là đồng minh của Mỹ. Và một số là kẻ thù của Trung Cộng như Philippines,  Nhật, Ấn Độ...Trung Cộng mời Nhật, Ấn vì lịch sự mà họ đồng ý chứ một khi anh đem quân cướp của, đe đọa tài sản người ta thi đời nào  người ta chịu đồng minh với anh ?

Trong buôn bán phải có sự hòa bình, thân thiện. Trung Quốc có câu:" Hòa khí sinh tài." Việt Nam, Lào, Miên có thể cúi mặt làm y công hay làm công tác giữ nhà, nhưng Nhật Bản, Ấn Độ thì không đời nào giao thương với với quân gian manh và cướp giựt.  Giả sử Trung Cộng không lộ bộ mặt ăn cướp, cách buôn bán gian manh, ăn cắp công trình sáng tạo của người ta, chế tạo hàng giả, hàng độc hại cũng đủ cho người ta chạy làng. Hơn nữa, Trung Cộng thực chất là lạc hậu, nghèo hèn mặc dầu nay mới vươn lên nhưng cung cách của Trung Cộng là cung cách của anh trọc phú ngu dốt  tàn bạo. Cổ nhân ta có câu " Thà làm đầy tớ thằng khôn hơn làm bạn với  thằng dốt" Trung Cộng quả là nghèo hèn, tàn ác và vô văn hóa. Chẳng ai thích làm bạn với những thứ đó.

Thiếu Nhật Bản, Ân Độ, Mỹ thì cái lực lượng này chỉ lả con số không to tướng. Muốn giao thuơng với Nhật, Ấn và các nước Á châu, sao Trung Cộng không giữ thái độ hòa bình , buôn bán thành thật?. Ai dám chơi với bọn ăn cướp cầm dao, cầm súng. Trung Quôc là quê hưong của Tôn Tử,  Khổng Minh, nhưng ai đã bày mưu cho Trung Cộng vừa giơ đao, vừa kêu gọi hiệp tác với Nhật, Ấn?

 Họ tưởng như thế là khôn ngoan sao? Cái ông quân sư nào mà bày ra cái  RCEP quả là đầy tự ái và ngu ngốc vì một khi họ hăm dọa Nhật Bản và Ấn Độ thì hai nước này làm sao mà " công xy" với Trung Cộng?  Công ty lớn, muốn cạnh tranh với Mỹ mà không có Nhật Ân thì làm sao mà cạnh tranh với Mỹ. Thiếu Nhật, Ấn, Mỹ, công ty của Đại Hán trở thành công ty con chuột nhắt. Im lặng thì thôi, còn bày đặt ra chỉ thêm xấu hổ.  Thôi, ông Tập Cận Bình ơi, hai đường phải chọn một. Thương gia phải biết tính toán, giữ chữ tín và thành thật. Còn làm ăn cướp thì phồng mang trợn mắt, hua đao phóng kiếm, hung hãn tàn bạo.  Ăn cướp mà làm thương gia chắc là không thành! Hoặc là ông phải buông đao xuống, cạo trọc đầu và ăn chay vài năm thì may ra gia đạo ông bình an, đất nước ông dù nghèo nhưng không đến nổi máu chảy thành sông, xương chất thành núi.

Một số dân ta chống Mỹ, chê Mỹ, kể cả các quan lớn VNCH nay ngã theo Việt Cộng chống Mỹ cứu nước. Các ông tiến sĩ kinh tế Pháp và Mỹ ơi, dù Mỹ gian ác, nhưng đồng đô la Mỹ thơm lắm, chính các ông đã làm tay sai cho đế quốc Mỹ, và nay các ông đang sống ở Mỹ và Pháp, trên đất tư bản bóc lột, khi các ông dạy học trò cũng là dạy kinh tế tư bản, và  các ông chống Mỹ  nhưng cũng hiểu  thực tế trên đường kinh doanh thương mại, không có Mỹ thì không được. Buôn bán lợi lộc là nhờ dân Mỹ tiêu thụ. Không xuất cảng hàng hóa sang Mỹ và châu Âu thì chẳng nên cơm cháo gì đâu. Hợp tác mà thiếu Nhật Mỹ Ấn coi như bất thành.  Mỹ là khách sộp. Còn bọn Việt Nam, Lào Campuchia, Bắc Hàn, bụng nhỏ, túi không tiền, tiêu thụ có là bao? Malaysia, Philippines, Miến Điện cũng vậy.


Có lẽ thấy thất bại, cho nên Tập Cận Bình sang Mỹ để xin xỏ kiều ăn mày không bị gậy. Ở thôn quê ta, thấy nhà người có đám giỗ mà họ không mời mình, chàng ta liền sang tìm con gà, con chó hay mượn con dao, xin tí lửa để người ta nhìn thấy mình mà mời ăn cỗ... Nguyễn Tất Thành cũng vậy. Câu Ba làm đơn xin học trường Thuộc Địa, thực dân không cho, cậu bèn gửi thư cho Toàn Quyền, cho Khâm sứ Pháp nhờ gừi tiền cho cha cậu, hoặc hỏi thăm tin tức cha cậu..

 Tại sao phải gửi thư cho Khâm sứ Pháp trong khi Nguyễn Tất Khiêm cũng làm việc tại tòa Khâm sứ Pháp tại Huế? .. Đó chẳng qua là cách nhắc khéo Toàn quyền Pháp về cái đơn xin học của cậu , may ra Pháp nhớ lại mà cho cậu vào trường  thuộc địa làm tay sai cho Pháp để tìm đường cứu nước như cậu và bọn đàn em thổi phồng! Cậu Ba chuyên mơ ước viễn vông. Sức học của cậu chỉ lớp ba trường làng, chưa đổ tiểu học, viết cái đơn bằng tiếng Pháp không thông, Anh văn, Pháp văn đều là ngôn ngữ bồi thì làm sao mà vào trường thuộc địa? Muốn làm tay sai cho Pháp cũng phải cử nhân Hán học, Tú tài Pháp Việt như Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim chứ cái thứ bồi như cậu Ba mà đòi ăn xôi gấc sao?

Tập Cận Bình cũng vậy. Đang lúc Mỹ hội nghị về TTP, ông ghé vào xem thử Mỹ có mời ông tham gia TTP hay không. Lần đầu,  họ Tập nói trời nói đất, kỳ tới sẽ vào thẳng xin gia nhập TTP.


Thiên hạ vào TTP mà gạt Trung Cộng ra rìa thật là một điều bất lợi cho Trung Cộng. Vấn đề này là sinh tử của Trung Cộng cho nên Việt Long của RFA đã thấy rõ khi ông đặt nhan đề cho bài phỏng vấn của ông : Hiệp định TPP và Thượng đỉnh Hoa Kỳ – Trung Quốc , và ông đã đặt cậu hỏi:


Trở lại hồ sơ Xuyên Thái Bình Dương, chúng ta biết là có bốn nước nguyên thủy là Brunei, Chile, New Zealand; rồi thêm Hoa Kỳ, Úc, Peru, Việt Nam từ năm 2008; sau đó có Malaysia, Mexico và Canada rồi mới đến Nhật và sau này sẽ còn vài xứ Thái Bình Dương khác. Nhưng cho đến nay, Trung Quốc chưa được mời tham gia. Liệu trong thượng đỉnh lần này giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, đôi bên có thể thỏa thuận về việc đó không? (5)

Lê Thành trong Tuần Việt Nam viết như sau
Muốn khẳng định chỗ đứng và vai trò "minh chủ" của mình tại Châu Á - Thái Bình Dương, dù là Washington hay Bắc Kinh cũng đều cần xây dựng một thể chế kinh tế chung đặt dưới sự lãnh đạo của mình và có những luật chơi do mình viết nên. Đánh vào lợi ích kinh tế luôn là một nước cờ vô cùng cần thiết cho những toan tính lâu dài của hai siêu cường. Vậy nên bên cạnh chiến lược củng cố đồng minh quân sự và mở rộng các cam kết hợp tác quốc phòng, yếu tố kinh tế chính là thành tố quan trọng thứ hai đối với chiến lược "trở lại châu Á" của Hoa Kỳ. Và cũng bởi lý do đó, Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang thu hút sự chú ý không phải của riêng các nhà hoạch định Hoa Kỳ, mà từ cả giới lãnh đạo Trung Quốc.


Ta khó có thể trách các học giả Trung Quốc khi đa số đều có quan điểm Hiệp định TPP chính là một phần công cụ mà Hoa Kỳ sử dụng trong chiến lược kiềm chế sự trỗi dậy của "con rồng châu Á". Một hiệp định nối liền hai bờ Thái Bình Dương, nối liền Châu Mỹ với khu vực kinh tế Đông Á giàu tiềm năng, mà lại do Hoa Kỳ dẫn đầu thì chắc chắn phải khiến cho người Trung Quốc dè chừng và có phần lo sợ.(6)


Trung Quốc lỡ bộ rồi. Muốn buôn bán thì phải giữ hòa khí. Còn làm ăn cướp thì không ai chơi với mình. Tập Cận Bình phải xuống thang Biển Đông, rút lại bản đồ lưỡi bò, và phải cam chịu sự kiểm soát của quốc tế, từ bỏ gian lận thì mới vào được  gia nhập TTP. Nhưng không gian lận thì làm sao có lời? Đi ăn cướp là làm nghề không vốn thì nhẹ nhàng và mau giàu nhất. Có lẽ con cháu Lã Bất Vy hiểu rõ hơn ai hết lời dạy của tổ tông họ: "Vi nhân bất phú, vi phú bất nhân"..Có lẽ đó là con đường mà Trung Cộng đã vạch sẵn và dễ đi nhất, dễ làm giàu nhanh chóng nhất! Nhưng than ôi đó cũng là con đường bất đắc kỳ tử của Tập Cận Bình và Trung Cộng vì " ba đánh một không chột cũng què" !


________

(1). http://www.viet.rfi.fr/quoc-te/20130610-quan-he-my-trung-vo-hoa-diu-boc-nhung-cai-gai
(2).http://www.baodatviet.vn/the-gioi/binh-luan/201306/ong-tap-can-binh-phai-uong-chen-dang-khi-sang-my-2348247/
(3).http://www.tin247.com/d4ng_tap_can_binh_phai_1463buong_chen_dang1463b_khi_sang_my-2-22297604.html
(4). http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130610-kinh-te-trung-quoc-mat-da
(5). . ww.rfa.org/vietnamese/in_depth/tpp-n-sino-us-summit-nxn-06052013122742.html
(6). http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2013-06-09-cau-noi-giua-hai-sieu-cuong-

NGUYỄN THỊ HỢP - VIỆT CỘNG

Thursday, June 20, 2013


LƯU DIỆU VÂN * NGUYỄN THỊ HỢP

Nguyễn Thị Hợp: nỗi sợ hãi của một họa sỹ là sự lập lại chính mình
(Thứ Tư, 18 Tháng Bảy-2012) (Xem: 32840)
 
Họa sĩ Nguyễn Thị Hợp
 
Tiểu sử Họa Sỹ Nguyễn Thị Hợp
Tốt nghiệp trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn năm 1964. Triển lãm cá nhân lần đầu tiên năm 1966 ở Taipei, Taiwan. Từ 1968, tham dự và triển lãm đều đặn với nhóm Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam, Sài Gòn. Từ 1979, triển lãm ở Bonn, Stuttgart, Munich và nhiều thành phố khác ở Đức. Từ 1982, triển lãm hằng năm tại Paris. Sang Mỹ năm 1985, đã bày tranh tại Orange Coast College, đại học UCLA, đại học Minnesota, CSU Long Beach, Pacific Asia Museum, L.A. Artcore, dự triển lãm lưu động "An Ocean Apart" qua một số bảo tàng viện trong nước Mỹ do Viện Smithsonian tổ chức, và tham dự hằng năm các triển lãm chung tại Người Việt, Việt Báo, Viễn Đông ở Little Saigon. Mới đây dự triển lãm "On Being Human" do Picture Art Foundation tổ chức tại Cal State Dominguez Hills. Đặc biệt chuyên về tranh lụa. Đã minh họa nhiều sách xuất bản ở Việt Nam, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, Pháp, Đức, Anh và Hoa Kỳ. Có hai tác phẩm trong sưu tập của Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật Hà Nội.




Hội họa đánh tiếng với Nguyễn Thị Hợp trước hay chính Nguyễn Thị Hợp đã phải lòng hội họa ngay từ cái liếc nhìn đầu tiên?
Đúng ra thì tôi có thích vẽ từ nhỏ. Thời đó trong lớp các nữ sinh được chọn giữa hai môn vẽ và nữ công gia chánh thì tôi luôn luôn chọn môn vẽ thay vì môn sau như đa số các bạn gái khác. Tôi thích vẽ và vẽ liên miên đầy các tập vở chứ không chỉ chờ đến giờ học vẽ (môn vẽ vẫn là môn có ít giờ nhất trong toàn bộ chương trình giáo khoa). Tôi vẽ lung tung, thích gì vẽ nấy, bắt chước những minh họa trong sách báo, bắt chước các truyện tranh (thích nhất là tranh vẽ của Mạnh Quỳnh), nhiều khi là những sterotypes như Lý Toét, Xã Xệ, Zorro, Tarzan, cô tiên trong các truyện cổ tích…


Xong trung học không hiểu sao tôi lại muốn xin vào trường mỹ thuật và điều này quả thật là hoàn toàn ngoài ý muốn của gia đình! Cuối cùng tôi cũng may mắn được sự đồng ý của cha tôi (cha tôi còn đưa tôi vào gặp họa sĩ Lê Văn Đệ lúc đó là Giám Đốc Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật và được trả lời tường tận về ngành học “vẽ” này) với điều kiện sau bốn năm chuyên môn, tôi sẽ phải học thêm một năm sư phạm mỹ thuật để ít ra bảo đảm nghề dạy hội họa sau khi ra trường.


Khi vào trường mỹ thuật, tôi và các bạn cùng khóa may mắn được Thầy Lê Văn Đệ hướng dẫn những môn chính: vẽ khỏa thân, tranh sơn dầu, tranh lụa. Hồi còn ở lớp dự bị thì chỉ được vẽ người mẫu bằng bút chì đen. Lên năm thứ nhất thì bắt đầu dùng chì than. Năm thứ hai được tập vẽ màu nước. Rồi lên năm thứ ba được tập vẽ sơn dầu, lụa và sơn mài. Cả ba thể loại tôi đều thích, và vẽ thử nhiều lần, nhưng cuối cùng tôi chọn vẽ tranh lụa, và lúc ấy tôi mới thực sự tìm ra kỹ thuật và đường lối phù hợp với mình, bắt đầu thấy thích thú tự tìm cho mình một bút pháp riêng và hăng say sáng tác từ đó.




Cảm tình ảnh hưởng đến chúng ta một cách vô thức, âm thầm, nhưng khá mãnh liệt. Có hoặc không có sự hiện diện của tình yêu lớn – Nguyễn Đồng – tranh Nguyễn Thị Hợp sẽ mang những khác biệt, tích cực và tiêu cực, nào về đề tài, màu sắc và cung bậc thấu cảm?


Tôi và anh Đồng gặp nhau khi cùng làm việc cho chương trình truyền hình giáo dục, lúc đó có tên gọi là Ủy Ban Vô Tuyến Truyền Hình Giáo Dục, mà lúc bắt đầu chỉ có một chương trình hằng tuần thôi, đó là chương trình “Đố Vui Để Học”. Chúng tôi chia sẻ nhiều sở thích về mỹ thuật đã đành, mà còn trong nhiều loại hình nghệ thuật khác nữa, đặc biệt chúng tôi cùng thích nghe âm nhạc cổ điển tây phương cũng như ca nhạc truyền thống dân gian Việt Nam. Chúng tôi trở thành vợ chồng vào năm 1968, ít lâu sau biến cố Mậu Thân. Vì sống chung nên khi làm việc đương nhiên có cơ hội trao đổi ý kiến qua lại, có thể phê bình lẫn nhau, và có những bức vẽ chỉ có tính cách minh họa hay trang trí thì chúng tôi cùng vẽ chung. Những tác phẩm vẽ chung này tự nhiên có một bút pháp khác, không mang sắc thái riêng biệt của Nguyễn Thị Hợp hay của Nguyễn Đồng. Có thể có nhiều điểm chung giữa chúng tôi trong quan niệm sống, trong cách nghĩ, trong nguồn cảm hứng… nhưng về đề tài, bút pháp, kỹ thuật, sự tìm tòi… thì bắt buộc mỗi họa sĩ phải rất riêng biệt. Bút pháp trong hội họa, giống như tuồng chữ viết của mỗi người, sinh ra là như thế, có thể tập luyện cho nhuần nhuyễn tinh vi hơn, nhưng khó có thể thay đổi vì những yếu tố khác.




Bằng cách nào đó, những phác họa khỏa thân trong tranh Nguyễn Thị Hợp chuyển tải đậm nét Á Đông truyền thống mà không hề là những biểu tượng dung tục? Đây có phải là chất tố đặc trưng của một nghệ sỹ tinh tế: khả năng cảm nhận mức độ cân bằng giữa khai phá nét mới và gìn giữ nét cổ?


Khỏa thân, cũng như một thí dụ khác – tĩnh vật, là một đề tài quen thuộc trong hội họa. Khi mình vẽ tranh gọi là “khỏa thân”, hay “tĩnh vật”, hay “phong cảnh”, hay “bố cục”, thì phần nào trong đầu mình không coi đề tài là quan trọng, mà chỉ chú ý tới đường nét, sự phối hợp đường nét, hình thể và màu sắc. Renoir, Matisse, Maillol, Henri Moore… đã có những khai thác rất thành công hình tượng người phụ nữ tây phương. Tại sao mình không thử tìm tòi khai thác từ hình tượng người đàn bà Việt Nam? Đặt vấn đề như vậy, nhưng thật ra tôi không hề vẽ theo người mẫu. Hình tượng người đàn bà Việt Nam trong tranh tôi thật ra chỉ là một hình thức hồi niệm, một cái cớ để bắt đầu sáng tạo. Khi mình vạch một nét trên giấy, rất nhiều yếu tố đưa đẩy mình đi, từ những bài học vẽ khỏa thân ở trường, những bài tập ký họa mà Thầy Lê Văn Đệ bắt phải nộp mỗi ngày, tới bao nhiêu những tranh khỏa thân từ thời cổ điển tới hiện đại, và nhất là một cái gì sâu kín trong tâm tưởng, tất cả những yếu tố đó đưa đẩy mình đi tới một bố cục nào đó, phần nào có tính cách tưởng như là tự phát. Còn về cảm giác dung tục hoặc truyền thống mà người thưởng ngoạn cảm nhận được ở tranh tôi, tôi thật sự khó phát biểu thay cho họ.




Phụ nữ là đề tài lớn trong tranh Nguyễn Thị Hợp, thường giữ vai trò “mẫu nghi” và đôi khi còn được “thánh hóa,” nhưng luôn luôn là sự dịu dàng, mềm mại pha lẫn nỗi yên phận, cam chịu. Họa sỹ có bao giờ cảm thấy cần thay đổi đôi chút để thích ứng với hình ảnh phụ nữ hiện đại? Sẽ có giày cao gót, tóc xoắn và váy ngắn trong tương lai không?


Hồi xưa, mẹ tôi thường theo mùa mà gọi những người đàn bà bán hàng rong vào nhà để mua hàng của họ. Mùa sen, mẹ tôi mua sen để lấy nhụy ướp trà, mùa cà cuống, mùa cốm, mùa sắn dây… Có lần tôi thấy có bà tự nhiên vạch vú cho con bú bên cạnh gánh hàng, hình tượng rất đẹp và tạo nên nhiều xúc cảm. Hình tượng người mẹ, hình tượng những người đàn bà nhà quê nằm trong những gì đã tạo ấn tượng trong tôi từ thời thơ ấu, và có lẽ cũng như ở đa số mọi người, những ấn tượng từ thời thơ ấu là luôn luôn bền lâu và khó quên nhất. Những ấn tượng này lúc nào cũng sẵn trong tiềm thức. Nhưng như đã nói trong phần trả lời câu hỏi trên đây, đó chỉ là một cái cớ để bắt đầu hay một cái gì ngấm ngầm ảnh hưởng đến nét vẽ của mình, Vì tranh của tôi không phải là tranh “tả thật”, vẽ theo sự hiện diện của người mẫu sống, mà chỉ là những hình tượng nhằm thể hiện cách nhìn của mình, quan niệm của mình về cái đẹp trong bố cục hình thể, đường nét và màu sắc.


Vì sao người nam có vẻ thiếu vắng trong tranh Nguyễn Thị Hợp so với hình tượng người nữ?
Thật ra tôi cũng có vẽ đàn ông, thí dụ bức Tranh lụa Chàng Trai Việt vẽ theo một truyện kể của Thầy Nhất Hạnh (Hương vị của đất, Lá Bối – A taste of Earth, Parallax Press). Tranh màu nước Kiều chia tay với Thúc Sinh, những minh họa cho cuốn Augen lachen, Lippen blühen (Thơ Hồ Xuân Hương do giáo sư Tiến Hữu dịch sang tiếng Đức, Verlag Simon & Magiera), tranh Chinh


Phụ Ngâm vẽ đặc biệt cho Đêm Chinh Phụ Ngâm của nhạc sĩ Cung Tiến…Vâng, tôi thường hay dùng hình tượng người đàn bà có lẽ chỉ là một thói quen giống như thói quen của rất nhiều họa sĩ “tiền bối”.

Nếu tranh Nguyễn Thị Hợp là âm nhạc chuyển thể thì đó sẽ là một bài ca dao ru êm đềm. Con-người-ngoại-nghệ-thuật của Nguyễn Thị Hợp sẽ mang âm hưởng nào?


Nếu tính tới những ấn tượng sâu xa thời thơ ấu như đã nói trên đây thì “bài ca dao êm đềm” có lẽ không sai để nói về tranh của tôi cũng như con người tôi. Cách đây khá lâu, trường Irvine Valley College có tổ chức một cuộc triển lãm cho tôi và anh Đồng, sau nhiều tuần lễ trò truyện và chọn tranh, họ đã đặt tên cho cuộc triển lãm là “Images of Peace” – “Những Hình Ảnh An Lành” – có lẽ họ cũng có cái nhìn giống như thế. Trong đời thường, dù rất hay đi dự những buổi hòa nhạc cổ điển, ballet và opera, tôi vẫn luôn luôn cảm thấy xúc động mạnh mẽ nhất với ca dao, với dân ca Bắc Ninh, ca Huế, giọng hò miền Nam…


Viết là vẽ một bức tranh bằng ngữ từ sắp đặt và vẽ là viết một truyện ngắn bằng độ màu tương phản. Những tác phẩm và tác giả nào là nguồn cảm hứng cho Nguyễn Thị Hợp khi viết bằng sắc màu?


Nói về những tác phẩm và tác giả văn chương mình thích thì có lẽ quá mông lung. Trong thực tế, cho tới bây giờ, tôi có lấy nguồn cảm hứng và đã vẽ một số tranh minh họa từ sách của thầy Nhất Hạnh: Đường xưa mây trắng, Hương vị của Đất, Am mây ngủ. Rồi tới Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, thơ Hồ Xuân Hương và một vài truyện cổ tích Việt Nam trong loạt sách Folk Tales From Asia vẽ cho trung tâm văn hóa Á châu thuộc UNESCO ở Tokyo.


Người thưởng ngoạn tranh của những thời đại trước thường đóng vai trò thụ động trước các tác phẩm hội họa. Nghệ thuật đương đại lại đòi hỏi người thưởng ngoạn phải đi cùng lộ trình sáng tạo với họa sỹ. Một ví dụ cụ thể hơn, trong cuộc triển nghệ thuật gần đây trưng bày một cuốn sổ được điêu khắc, cắt đán bằng chính tay người nghệ sỹ. Bên trong cuốn sổ là những tờ giấy trắng và người thưởng ngoạn được khuyến khích viết hoặc vẽ lên những trang giấy đó để tạo nên một tác phẩm nghệ thuật trọn vẹn. Họa sỹ Nguyễn Thị Hợp có cái nhìn thế nào với hai phương cách thưởng ngoạn có vẻ trái ngược này? Hay thật ra chúng cũng chỉ là một?


Tôi còn nhớ cách đây khoảng 30 năm, khi mới sang định cư ở Đức (lúc đó là Tây Đức) tôi và anh Đồng có đi xem triển lãm Documenta. Lúc đó chúng tôi mới dọn về Bonn, mới sau hơn một năm được nhận định cư ở Đức. Documenta là triển lãm quan trọng hàng đầu của nghệ thuật Đức và có lẽ của thế giới nữa. Suốt cuộc triển lãm này, chúng tôi đã “thấy” đủ thứ, ngoại trừ tranh, theo như thói quen của chúng ta vẫn gọi “tranh” ở phòng triển lãm. 
 
Tác phẩm của Joseph Beuys – đã mất, lúc đó thường được giới phê bình gọi là Picasso của Đức – là một đống 2,000 khối đá dàn trải ở mặt tiền. Có một họa sĩ rất nổi tiếng được mời từ Pháp sang tham dự, đã cầm theo một thùng sơn nhỏ búng mấy cái để thực hiện hai tác phẩm “lớn”: “Acrylic Trên Cửa Sổ” và “Acrylic Trên Lò Sưởi”. Chúng tôi, cũng như hầu hết người đi xem, nếu không coi catalog và bảng ghi tên tác phẩm, đều tưởng là người lau nhà đã bỏ sót! Chuyện không lạ, nếu ta đã theo dõi phong trào Dada, đã thấy chẳng hạn cái yên và cái ghi-đông xe đạp của Picasso, hay những thứ “readymade” của Duchamp… Phân tích kỹ ra thì cách thức thưởng ngoạn trong trường hợp này hay trường hợp kia có lẽ cũng chỉ là “một”, nếu mà mình “thưởng ngoạn” được. Theo tôi, một phần tùy quan niệm và sở thích của người sáng tác, nhưng phần lớn có lẽ là tùy toàn cảnh sinh hoạt văn hóa xã hội mà người đó đang sống. “Gặp thời thế” thế thì sáng tác “phải thế”… Còn nếu không phải lúc “thời thế” thì rất dễ bị coi là lập dị…

Nỗi sợ hãi lớn nhất của một nhà văn là sự lạm phát của chữ nghĩa theo thời gian, còn nỗi sợ hãi của một họa sĩ?
Lạm phát màu sắc chăng? Cũng dám như thế lắm, vì nhiều “màu mè” quá thì còn gì là tranh nữa! Theo tôi nỗi sợ hãi của một họa sĩ, cũng như ở các ngành hoạt động nghệ thuật khác, là sự lập lại chính mình.

Một bài thơ có thể chất chứa nhiều hồi ức, trải nghiệm riêng tư của tác giả. Có nhiều bí mật thấp thoáng trong tranh Nguyễn Thị Hợp không? Làm cách nào để khám phá được những bí ẩn đó?


Có lẽ tới đây, những gì đã nói trên đây đã phần nào trả lời cho câu hỏi này rồi. Tuy nhiên tôi cũng muốn chia sẽ một dự án đang thực hiện, nếu có thể cho đó là một sự bật mí. Họa sĩ Nguyễn Quỳnh dự trù viết điểm cho chúng tôi mỗi người mười bức tranh. Nay anh đã viết xong được bảy bức. Chúng tôi cũng đang chuẩn bị cho một buổi triển lãm tranh bên Đức vào năm 2013 tại một thành phố nhỏ thuộc Hamburg-Harburg. Đây là dịp sau hơn 30 năm trở lại thăm những người bạn Đức đã đón tiếp và giúp đỡ chúng tôi trong những ngày đầu nơi xứ lạ và giới thiệu cho họ những sáng tác mới của chúng tôi như một lời cảm ơn.


HỢP LƯU

MINH VĂN * NHỮNG MÀN KỊCH

Những màn kịch cuối cùng

Minh Văn

Khi con người sống giả dối và không thực lòng với nhau thì người ta gọi là đóng kịch. Nhiều người cùng đóng kịch để tự dối mình dối người thì gọi là diễn kịch. Công lý và sự thật đã không còn, niềm tin đã thực sự mất đi trong mỗi con người, đó là hiện thực xã hội Việt Nam ngày nay. Cả đất nước giờ đây đang sống những tháng ngày thê thảm nhất, dưới lừa trên, trên dối dưới – tất cả ngập chìm trong mê cung của sự lừa dối không có lối ra. Nói văn hoa hơn, thì cả xã hội Việt nam là một màn kịch lớn, và đó là những màn kịch tăm tối cuối cùng trước khi ánh bình minh xuất hiện.
Tại một kịch trường lớn nhất nước mà người ta vẫn thường gọi là “Hội trường Quốc Hội”. Ở đây họ bàn bạc những vấn đề đại sự quốc gia, có đến hàng ngàn con người từ khắp nơi tụ họp. Căn phòng được trang hoàng lộng lẫy tựa một sân khấu kịch với đủ màu sắc đỏ vàng chói mắt. Các diễn viên chính thì ngồi những hàng ghế phía trên, bên dưới là các diễn viên phụ với đủ giọng 3 miền. Đôi khi họ tranh cãi nhau chí chóe theo kịch bản để đánh lừa người dân về tính dân chủ. Diễn viên nào quên mà đi quá tính “dân chủ” cho phép thì lập tức bị ông trùm sò (chủ tọa) nhắc nhở là hết giờ và đi lạc chủ đề chính, vị diễn viên này liền lập tức ngoan ngoãn ngồi xuống. Thấp thoáng trong đám diễn viên chúng ta có thể thấy vài ba vị sư mặc áo cà sa, mấy vị sắc phục quân đội, một ít người mặc trang phục dân tộc thiểu số…; tất cả đều được tập duyệt và tổng duyệt trước khi diễn kịch để truyền hình trực tiếp lên ti vi.
Tuy người ta chuẩn bị kỹ lưỡng như vậy, nhưng nếu để ý một chút trong cách xưng hô thì chúng ta sẽ biết là họ đang diễn kịch. Ấy là việc họ gọi nhau là “đồng chí”. Từ trùm sò cho tới diễn viên, hay người bị chất vấn đều gọi nhau một duộc như vậy cả. Ai cũng hiểu rằng Quốc Hội là nơi tập trung đại diện cho nhiều chính kiến, tầng lớp, địa phương khác nhau. Vì thế mà quyền và lợi ích khác nhau, dẫn đến những quan điểm và mục đích khác nhau. Không thể nào có chuyện cùng một quan điểm và ý chí được. Có thế thì người ta mới cần họp bàn và tranh luận để phát triển tính dân chủ đất nước. Ấy nhưng chỉ với một từ “đồng chí” mà họ xưng hô với nhau đã thực sự giết chết tính “dân chủ” của người dân Việt Nam. Nó để lộ ra rằng tất cả những người có mặt đều đang diễn kịch để lừa dối nhân dân, rằng họ chính là những con rối do đảng Cộng Sản tạo ra.
Cũng không khó để đoán ra là Quốc Hội đang diễn kịch, vì vị trùm sò cũng là người của đảng, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước. Và lâu lâu để tạo cho người dân quên đi cái cảm giác là mình đang xem kịch, đảng lại nghĩ ra vài trò mới để thay đổi khẩu vị.
Lần này họ lại có một trò mới để thu hút sự quan tâm của người dân, ấy là việc “bỏ phiếu tín nhiệm”. Cái trò xưa như trái đất này ở các nước người ta làm cả thế kỷ nay, bây giờ đảng ta mới thực hiện. Rồi họ lu loa khắp cả nước rằng “Đó là một sự cách mạng lớn”, lần đầu tiên trong lịch sử Quốc Hội bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh lãnh đạo. Theo đó thì các đại biểu (diễn viên) Quốc Hội đi quanh một thùng phiếu để bỏ phiếu tín nhiệm theo danh sách định sẵn. Sau đó người ta công bố kết quả kiểm phiếu, đại khái là đa phần vẫn nhận được sự tín nhiệm cao, chỉ vài người hơi thấp nhưng vẫn bình chân như vại và giữ nguyên chức vụ. Cuối buổi, vị trùm sò đeo cặp kính lão vào và trịnh trọng đứng dậy tuyên bố:
- Thưa các đồng chí, kết quả kiểm phiếu cho thấy đa phần các đồng chí lãnh đạo đảng và nhà nước vẫn nhận được sự tín nhiệm cao. Điều đó cho thấy Quốc Hội đã làm việc nghiêm túc và dân chủ, sự nỗ lực phi thường của các đồng chí lãnh đạo đảng và nhà nước trong sự nghiệp phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân…
Rồi ngài liếc nhìn chiếc đồng hồ điện tử đắt giá mới tậu từ mẫu quốc “Trung Hoa” được treo trang trọng chính giữa kịch trường mà tuyên bố:
- Bây giờ đã đến giờ giải lao, mời các đồng chí tạm nghỉ…
Hết giờ giải lao, đám diễn viên quần chúng bên dưới lại rục rịch vào ổn định chỗ ngồi. Lần này dân chúng xem truyền hình thích thú thấy màn khẩu chiến sinh tử của các diễn viên gà nhà. Có vị phát biểu đến sùi cả bọt mép để chứng tỏ tâm huyết một lòng vì nước vì dân. Ấy thế nhưng vẫn không công hiệu, người dân vẫn lắc đầu nói với nhau: “Nói nhiều rồi, nhưng rồi đâu vẫn hoàn đấy, chẳng thấy thay đổi gì cả”.
Màn cuối và cũng là đòn quyết định để tạo lòng tin nơi người dân, đảm bảo sự tồn vong của chế độ. Đó là việc họ tung ra vài đào kép mới, những người này được ăn mặc chải chuốt cầu kỳ theo kiểu những anh hùng thời đại. Theo đó thì họ sẽ đóng vai anh hùng dẹp bỏ tiêu cực, gánh vác trọng trách non sông trong giai đoạn mới. Qua cách họ phát biểu hùng hồn, chém mạnh tay vào không khí để đoạn tuyệt với tham nhũng, tiêu cực thì người dân đã có vẻ xuôi xuôi mà theo dõi tiếp kịch bản.
Trong khi người dân say sưa theo dõi những anh hùng mới xuất trận và đang mơ về một tương lai tốt đẹp, thì vị trùm sò lại uể oải đứng dậy cất giọng thều thào:
- Đã kết thúc buổi họp ngày hôm nay. Mời các đồng chí chuẩn bị đi ăn cỗ…
Người dân thở dài ngao ngán, họ biết rằng đó là những màn kịch cuối cùng của chế độ trước khi lùi vào bóng tối của lịch sử.
(20/6/2013)
CHUYỂN HÓA
About these ads

CHÍNH TRỊ VIỆT CỘNG

Sự thật sức mạnh của ĐCSVN hiện nay

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2013-06-18

Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
000_Hkg4466688-305.jpg
Cờ phướn tuyên truyền cho Đại hội toàn quốc lần thứ 11 của Đảng Cộng sản Việt Nam (VCP) tại Hà Nội ngày 17 tháng 1 năm 2011.
AFP photo


Trong lịch sử chính trị Việt Nam, đảng CSVN là một đảng chính trị giữ vị trí hàng đầu, về cả chiều dầy lịch sử, thành tích và quy mô. Do cơ chế độc đảng, với số lượng trên 3 triệu đảng viên chiếm khoảng 3% dân số, có mặt ở mọi nơi, trong mọi tổ chức của đời sống xã hội dễ tạo cho người ta cảm giác đảng CSVN có một sức mạnh vô địch. Sự thật sức mạnh của đảng CSVN hiện nay thế nào, thông tín viên Anh Vũ đã có cuộc trò chuyện cùng Tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng, một cựu cán bộ an ninh, hiện là đảng viên đảng CSVN, hiện đang sống ở Sài gòn về vấn đề này.
Anh Vũ: Thưa Tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng, hiện nay số lượng đảng viên đảng CS Việt Nam là khoảng 3,6 triệu người. Nhưng trên thực tế, có khoảng 50% là các đảng viên cao tuổi đã nghỉ hưu và một số đông đảng viên trên danh nghĩa đã không tham gia sinh hoạt đảng sau khi chuyển công tác. Số đảng viên không chức quyền thì chả ai quan tâm đến việc bảo vệ đảng, duy chỉ có số còn lại có chức, có quyền hoặc lớp trẻ trong lực lượng vũ trang bị nhồi sọ thì mới có ý thức về việc này. Ông đánh giá lực lượng đảng viên có ý thức bảo vệ đảng là khoảng bao nhiêu người?
TS Phạm Chí Dũng: Tất nhiên, không phải ai cũng mang ý thức bảo vệ Đảng với cùng một động cơ. Mà có những động lực khác nhau, thậm chí khác biệt hoàn toàn giữa những người được coi là cùng chung một chiến hào.
Từ nhiều năm qua, tôi thấy báo cáo của các cơ quan Đảng thường chỉ thừa nhận một số đảng viên nào đó là “không tốt”. Nhưng những năm gần đây, trước tình hình tham nhũng đã đến mức quá manh động và trầm trọng, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phải cảm thán là tham nhũng và suy thoái đạo đức có thể “đe dọa đến sự tồn vong của chế độ”. Sau đó các báo cáo của Đảng mới chuyển dần từ “một bộ phận” đến “một bộ phận không nhỏ” đối với đối tượng đảng viên biến chất.
Tham nhũng trên thực tế đang trở thành quốc nạn và có nguy cơ kéo tất cả xuống hố, mà Vinashin và Vinalines là những ví dụ điển hình.
-TS Phạm Chí Dũng
Tuy nhiên cách đánh giá này thường bị dư luận người dân và ngay trong cán bộ đảng viên xem là thiếu tương hợp và cố tình che giấu sự thật.
Chỉ vài năm gần đây, có báo cáo của một số cơ quan Đảng thừa nhận khoảng 30% số đảng viên về hưu không sinh hoạt đảng.
Ở một góc độ khác, nhận định của giới quan sát và phân tích chính trị độc lập là có phần trái ngược và khác biệt lớn so với các báo cáo của đảng. Tức là có đến ít nhất 50% số đảng viên về hưu không sinh hoạt đảng, 30% đảng viên đã nhận thức về hiện trạng quá nhiều bất cập, mâu thuẫn và cả xung đột xã hội. Về việc lãnh đạo đảng xa rời thực tế, yếu kém trong công tác điều hành chính quyền - tỷ lệ này phải lên đến ít nhất 70% theo dư luận.
Hiện chỉ còn khoảng 30% đảng viên thuộc về “nhóm thủ cựu” (tức nhóm cách mạng lão thành, nhóm giáo điều, nhóm đặc quyền đặc lợi, nhóm kém năng lực không muốn ra khỏi biên chế…). Khá chua chát nhưng lại cần phải trần thuật một cách hài hước, điều được xem là “một bộ phận không nhỏ” của những nhóm này lại mang tâm lý “còn đảng còn mình”.
Đảng CS Trung Quốc - cho rằng chỉ cần giữ lại 30 triệu tấm thẻ đảng trong tổng số 80 triệu đảng viên như hiện nay. Như vậy, có thể xem rằng Trung Quốc đã gián tiếp thừa nhận trên thực tế chỉ có 30/80 triệu, chiếm khoảng 37%, là đảng viên thuộc loại “trung thành”.
Trung Quốc và Việt Nam lại có nhiều đặc thù giống nhau, đặc biệt là nền chính trị và tâm lý xã hội.
Qua đó có thể thấy, tỷ lệ trung thành với đảng ở Việt Nam vào khoảng 30% trên tổng số đảng viên hiện thời, tức chỉ khoảng 1,2 triệu người.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tỷ lệ 30% trung thành với đảng đã được giới quan sát độc lập ước tính từ những năm 2006-2007, tới nay con số đó có thể thấp hơn. Tuy nhiên, vẫn không hề có một số liệu thống kê chính thức nào từ phía các cơ quan đảng về tình trạng đảng viên xa rời đảng, hay dân gian còn gọi là “thoái đảng”.

Chất lượng đảng viên

668330_e_vinashin_anh_250.jpg
Các bị cáo trong vụ Vinashin tại Tòa án nhân thành phố Hải Phòng hôm 27/3/2012. AFP photo
Anh Vũ: Về chất lượng đảng viên của đảng là một vấn đề phải bàn. Đặc biệt là động cơ vào đảng của tuyệt đại đa số hiện nay là vì lợi ích cá nhân, đó là tham nhũng. Lãnh đạo Đảng CS Việt Nam cũng thừa nhận đây là một quốc nạn và là một trong những nguy cơ nghiêm trọng nhất đe doạ sự tồn vong của Đảng. Ông có đánh giá và nhận xét gì về vấn đề này?
TS Phạm Chí Dũng: Trong các báo cáo của đảng, thường tổng kết về biểu hiện 5 suy thoái về đạo đức, lối sống của đảng viên là:


Thứ nhất là suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên có xu hướng tăng cả về số lượng và phạm vi.
Thứ hai là bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, đó là chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy lợi và chạy tội cho bản thân cho người thân.
Thứ ba, nói nhiều làm ít; nói nhưng không làm. 
Thứ tư, quan liêu, xa dân, thích nghe thành tích, ngại nghe sự thật, việc nhận xét cán bộ chung chung, thậm chí sai lệch với mức “vô trách nhiệm”. Ví dụ vụ tham nhũng và tha hóa đạo đức, lối sống của một số cán bộ đảng viên ở PMU 18 nghiêm trọng vậy mà Phó bí thư đảng ủy cơ quan Bộ Giao thông vận tải vẫn khẳng định: “Trước khi bị khởi tố, họ đều là đảng viên tốt”.
Thứ năm, tham nhũng, nhũng nhiễu dân gây hậu quả nặng nề trên nhiều mặt, không chỉ làm thất thoát tài sản, tiền vốn của nhà nước, của nhân dân mà còn dẫn tới sự hư hỏng của “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên.
Đảng cần bổ sung hai vấn đề đang diễn ra trong đảng và chính quyền, đó là sự lộng hành của Nhóm lợi ích và Nhóm thân hữu.
Đáng chú ý có các biểu hiện tàn bạo và manh động của Nhóm lợi ích và Nhóm thân hữu trong việc trưng thu đất đai ở nông thôn Việt Nam.
-TS Phạm Chí Dũng
Tham nhũng trên thực tế đang trở thành quốc nạn và có nguy cơ kéo tất cả xuống hố, mà Vinashin và Vinalines là những ví dụ điển hình. Chúng ta đang nói về vấn đề lượng và chất và mối quan hệ giữa hai phạm trù này, vì thế tôi cũng nêu ra một đối sánh mới là nợ tính theo đầu đảng viên so với nợ theo đầu người dân.
Chẳng hạn, cho đến thời điểm đổ vỡ, Vinashin có 6.000 đảng viên nhưng lại nợ đến 80.000 tỷ đồng, tức mỗi đảng viên nợ 13,3 tỷ đồng, tương đương 665.000 USD, gấp hơn 800 lần nợ công trên đầu người ở Việt Nam là 800 USD. So sánh như thế để mọi người thấy rằng những người được gọi là “công bộc của dân” có thể mang tính đại diện đến thế nào về đặc quyền, đặc lợi và tất nhiên không thể thiếu cái bị gọi là “nghiệp chướng”.
Dẫn chứng trên cũng chứng minh một nghịch lý về chất lượng đảng viên đương thời: không phải mọi đảng viên đều cùng chung một “dòng máu”, không phải đảng viên  nào cũng mang tư tưởng bảo vệ đảng xuất phát từ một động cơ, cho dù rằng trên danh nghĩa toàn bộ 3,6 triệu đảng viên đều cùng chung một chiến hào.

Sự ủng hộ của quần chúng

Anh Vũ: Sức mạnh của một tổ chức đảng chính trị dựa trên hai yếu tố cơ bản, đó là số lượng cũng như chất lượng của đảng viên. Nhưng yếu tố thứ hai không kém quan trọng là sự ủng hộ của quần chúng. Việc đảng CSVN xa rời nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là việc lấy ruộng của người cày cho các nhà tư bản. Ông đánh giá vấn đề này thế nào?
TS Phạm Chí Dũng: Đây là vấn đề lớn nhất, nóng nhất ở Việt Nam hiện nay. Đang có một sự phân hóa rất lớn trong nội bộ Đảng, thể hiện ít nhất qua việc những đảng viên thuộc Nhóm lợi ích và Nhóm thân hữu, giữa nhóm doanh nghiệp và giới chức chính quyền địa phương, đã cấu kết chặt chẽ với nhau để sẵn lòng bóc lột nông dân và phủ nhận chính những đồng chí đáng tuổi cha mẹ của họ.
Đáng chú ý có các biểu hiện tàn bạo và manh động của Nhóm lợi ích và Nhóm thân hữu trong việc trưng thu đất đai ở nông thôn Việt Nam.
Từ những năm 2006-2007 đến nay, khoảng 70% trong tổng số đơn thư khiếu tố thuộc về lĩnh vực đất đai. Trong số đó, khoảng 70% đơn thứ khiếu tố lại chỉ mặt điểm tên nhiều vụ việc, nhiều cán bộ địa phương ăn chặn tiền đền bù.
Khi bị thu hồi đất, người dân không chỉ phải chịu mức bồi thường thấp mà còn mất nguồn thu nhập thường xuyên, thất nghiệp, sinh hoạt đảo lộn (giao thông, học hành, y tế…), không có chỗ tái định cư. Trên hết, những trường hợp dân oan đã mất niềm tin vào chế độ…
Nhưng hậu quả ghê gớm mà Nhóm lợi ích và Nhóm thân hữu gây ra không chỉ đè lên đầu dân thường mà còn áp chế với cả những cán bộ đảng viên ngay trong nội bộ.
Theo tôi những vấn đề đó là vấn đề đáng báo động, có ảnh hưởng đến ý chí, tư tưởng của các đảng viên và sự tồn vong của đảng, mà hậu quả cuối cùng là  đảng CS Việt Nam cũng khó tránh khỏi đổ vỡ. Do vậy, đảng cần phải nhanh chóng xem xét và điều chỉnh cho phù hợp trước khi quá muộn.
Anh Vũ: Xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Kinh tế Phạm Chí Dũng đã dành cho đài chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/real-power-of-vcp-06182013093402.html

 

Phạm Chí Dũng : Dự cảm chính trường Việt Nam từ vụ bắt ba blogger


DR

Thụy My
Sau khi blogger Trương Duy Nhất, chủ trang blog « Một góc nhìn khác » bị bắt vào ngày 26/05/2013, thì hơn hai tuần sau, ngày 13/6 đến lượt một blogger nổi tiếng khác là Phạm Viết Đào cũng bị bắt theo điều 258 Luật hình sự Việt Nam về « lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân ». Và hai ngày sau đó, tức ngày 15/6 thì blogger Đinh Nhật Uy, anh của Đinh Nguyên Kha – người vừa bị lãnh án cùng với sinh viên Nguyễn Phương Uyên vì tội « tuyên truyền chống Nhà nước » - cũng bị bắt theo điều 258.

Chính trường Việt Nam sắp tới liệu sẽ có những biến động gì khác ? Chúng tôi đã mời nhà báo tự do Phạm Chí Dũng hiện ở Thành phố Hồ Chí Minh, cũng là tiến sĩ về kinh tế, bình luận về vấn đề này. Nhà báo Phạm Chí Dũng cũng đã từng bị bắt vào tháng 7/2012 với cáo buộc lật đổ chính quyền.
RFI : Thân chào nhà báo Phạm Chí Dũng, rất cám ơn anh đã vui lòng nhận trả lời phỏng vấn của RFI. Thưa anh, vụ bắt ba blogger vừa qua có thể cho thấy những dấu hiệu mới nào về chính trị?

Nhà báo Phạm Chí Dũng - Thành phố Hồ Chí Minh
 
18/06/2013
by Thụy My
 
 
Nhà báo Phạm Chí Dũng : Giới phân tích quốc tế và trong nước có thể đã có được vài ba cơ sở nào đó cho việc dự báo triển vọng chính trị Việt Nam trong thời gian tới.
Không khí chính trường trong nửa cuối năm 2013 được hứa hẹn sẽ không quá thâm trầm. Thậm chí là ngược lại.
Và thậm chí, vụ bắt giữ blogger và cũng là nhà văn Phạm Viết Đào cùng bloger Đinh Nhật Uy đã xảy đến khi kỳ họp lần thứ 5 Quốc hội khóa XIII còn chưa kết thúc, tiếp nối cho sự việc bắt giữ blogger Trương Duy Nhất khi kỳ họp này mới chỉ bắt đầu.
Vụ bắt giữ nhà văn Phạm Viết Đào lại xảy ra chỉ hai ngày sau khi có kết quả lấy phiếu tín nhiệm đối với 47 chức danh chủ chốt, trong đó phần lớn tỷ lệ phiếu “tín nhiệm thấp” được dành cho quan chức khối chính phủ, và phần lớn bình luận cho điều bị xem là “thất bại” đã được giới truyền thông quốc tế dành cho Thủ tướng chính phủ và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Một chuyển động đáng chú ý không kém là có vẻ gần giống với hoạt động thăm Bắc Kinh của tân ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Thiện Nhân khi Hội nghị trung ương 7 của Đảng vào tháng 5/2013 còn chưa kết thúc, thông tin về chuyến đi Trung Quốc của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã được mở ra vào những ngày cuối cùng của kỳ họp quốc hội lần này.
Biển Đông lại vẫn là nguyên cớ nổi sóng trong quan hệ giữa hai quốc gia - nếu nhìn từ Bắc Kinh xuống Hà Nội theo một đường kinh tuyến.
RFI : Anh có đọc nhận định của giáo sư Carlyle A.Thayer, giảng viên bộ môn Chính trị học tại Đại học New South Wales thuộc Học viện Quốc phòng Úc, về chuyện “triều cống” ? Anh bình luận như thế nào về nhận định này ?
Tôi nhớ là có đọc, không những đọc mà còn đọc kỹ nhận định của giáo sư Thayer trên RFI và một số đài khác. Theo tôi thấy thì có thể, lá cờ “Mười sáu chữ vàng” chính là lý do để giáo sư Thayer nêu ra một nhận định rằng việc bắt bớ các blogger là chiến lược phục vụ quan hệ cho chuyến đi của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trước khi sang Trung Quốc, như một món quà dâng tiến về cam kết trung thành giữ vững đường lối chủ nghĩa xã hội theo nước bạn.
Tất nhiên lập luận của giáo sư Thayer sẽ phần nào có lý, với điều kiện cả ba blogger bị bắt vừa qua đều liên quan đến luồng tư tưởng và bài viết chống Trung Quốc. Tuy nhiên với trường hợp Trương Duy Nhất, sự khác biệt lớn của blogger này với hai người kia là những bài viết của Nhất ít đề cập đến vấn đề chủ quyền Việt Nam ở khu vực Biển Đông, trong khi lại thường nhấn mạnh đến những vấn đề nội chính quốc gia và đánh giá thẳng thắn một cách đáng kinh ngạc về uy tín không vẹn toàn của một số lãnh đạo cao cấp như Tổng bí thư và Thủ tướng.
Mà như vậy, chúng ta có thể thấy là chân đứng trong nhận định của giáo sư Thayer có thể không chắc chắn lắm.
RFI : Thưa anh, đã có nhiều bài phân tích sau vụ bắt giữ ba blogger vừa rồi, anh nhận xét như thế nào về những bài phân tích này?
Tôi đọc khá nhiều. Nhưng mà cho tới thời điểm này, tôi cho rằng bài bình luận có tiêu đề “Cảm nhận trong ba vụ bắt người liên tiếp vừa qua?” của blogger Người Buôn Gió vào 15/6/2013 chứa đựng những phân tích và đánh giá sâu sắc nhất. Người Buôn Gió có nêu ra một số điểm tương đồng giữa các vụ bắt giữ đã được tác giả nêu bật và so sánh, đối chiếu, gợi cho bạn đọc cái nhìn đa chiều, đa dạng và không kém ẩn ý về những mâu thuẫn nào đó trong “nội bộ”.
Nhưng chúng ta cần lưu ý rằng yếu tố “nội bộ” cũng là điểm tương đồng lớn giữa nội dung thể hiện của hai blogger Phạm Viết Đào và Trương Duy Nhất, trong khi với blogger Đinh Nhật Uy lại không phải như vậy.
Vì thế câu hỏi đặt ra đối với bạn đọc và dư luận là nếu để phục vụ quan hệ “bốn tốt”, người ta chỉ cần bắt hai blogger Phạm Viết Đào và Đinh Nhật Uy là đủ. Nhưng vì sao lại bắt cả blogger Trương Duy Nhất ? Mà việc bắt Trương Duy Nhất đã khiến cho dư luận quốc tế phải đặc tả về điều bị xem là “Nhà nước Việt Nam ghi điểm xấu về nhân quyền”?
Một câu hỏi khác không thể không nghĩ đến là liệu một chính khách nhiều kinh nghiệm ở đất Bắc Hà như ông Trương Tấn Sang lại có thể thiếu khôn ngoan đến nỗi, thay vì gia tăng lấy lòng dân trong bối cảnh người dân bị suy thoái khôn tả niềm tin đối với chế độ như hiện nay, thì lại tăng cường bắt bớ những người chống sự can thiệp của Trung Quốc ngay trước chuyến đi Bắc Kinh của mình - một hành động chắc hẳn càng làm cho lòng dân thêm phẫn nộ?
Nhưng nếu dấu hỏi về ông Trương Tấn Sang là thiếu cơ sở, trở nên vô lý và vô nghĩa thì liệu còn câu hỏi nào khác, hay những gì vừa xảy ra chỉ thuần túy mang một sắc màu nào đó của “nội bộ” ?
RFI : Như vậy theo anh, có dấu hiệu nào khác từ động thái được xem là “nội bộ”?
Theo tôi là có. Tính logic và phản logic của những câu hỏi mà tôi vừa đặt ra lại càng trở nên phức hợp vì có một dấu hiệu rất đáng lưu tâm và cần được “truy xét” cặn kẽ.
Vì nếu mà bạn đọc, dư luận theo dõi thường xuyên thì thấy là không hề diễn ra một chiến dịch “phản tuyên truyền” nào trên các báo Đảng. Không xuất hiện bài chính luận hay xã luận nào về các đối tượng bị bắt giữ, tính từ thời điểm blogger Trương Duy Nhất bị bắt cho đến nay. Như vậy là đã có một sự im lặng.
Sự im lặng bất thường của các báo Nhân dân, Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và của cả vài ba tờ báo nhỏ mang trên mình tư cách “dư luận viên” - những tờ báo khá thường lên tiếng về vấn đề “phòng, chống diễn biến hòa bình” và những vụ bắt giữ, xét xử các nhân vật dân chủ - lóe lên tín hiệu gì?
Với nhiều trường hợp lên tiếng trước đây của báo Đảng, hiển nhiên hành động tuyên truyền này được thực hiện theo chỉ đạo của Ban Tuyên giáo trung ương và từ cả những cấp cao hơn nữa trong những vụ việc đặc biệt, thể hiện một “chủ trương nhất quán trong tập thể lãnh đạo”. Nhưng ứng với vụ bắt giữ ba blogger vừa qua, sự kín tiếng của báo Đảng lẽ nào cho thấy những tờ báo này đã không nhận được một sự chỉ đạo nào? Mà nếu không có chỉ đạo thì cũng có thể không có sự thống nhất giữa các lãnh đạo chăng? Nếu điều này xảy ra, động thái đơn lẻ trong chỉ đạo “chiến dịch” bắt giữ đã đến từ phía nào và từ những ai, nhằm mục đích gì? Đó là những câu hỏi để chúng ta suy xét.
RFI : Thưa anh trong phần trả lời phỏng vấn RFI vào tuần trước, anh có nêu lên vấn đề nguồn tin như là một yếu tố chính trong vụ blogger Phạm Viết Đào bị bắt . Vấn đề anh vừa nêu có liên quan đến “nguồn tin” không và liệu từ đó có thể có những hệ quả nào khác?
Vấn đề nguồn tin vẫn được tôi bảo lưu, và có thể phát triển sang một vài hệ quả khác. Theo những gì mà tôi đã trải nghiệm, thì câu hỏi “Từ ai?” gần như chắc chắn là câu hỏi mà hai blogger Trương Duy Nhất và Phạm Viết Đào đang phải tìm cách thỏa mãn cho các điều tra viên trong quá trình điều tra, xung quanh chủ đề những tin tức rất nhạy cảm của hai blogger này đã thể hiện và khả năng về nguồn tin mà họ nhận được.
Nếu quả những tin tức của hai blogger này là từ nguồn nội bộ và có tính xác thực, vụ việc của họ sẽ là một vấn đề lớn, thậm chí rất nghiêm trọng - theo cách nhìn của những người chỉ đạo bắt giữ. Khi đó, sau công đoạn truy xét nguồn tin sẽ là một lộ trình nào đó dẫn đến người hoặc những người cung cấp nguồn tin, liên quan đến vi phạm đảng viên và có thể cả trách nhiệm pháp lý. Tin tức càng có giá trị nội bộ thì nguồn tin càng có phẩm hạng và có thể càng liên đới những nhân vật cao cấp hơn.
Thực tế an ninh điều tra ở Việt Nam trong một số năm qua đã cho thấy có những vụ việc được xếp vào dạng “quốc gia đại sự”, xuất phát từ những tin tức và nguồn tin quá nhạy cảm trong nội bộ.
RFI : Xin phép được đặt cho anh một câu hỏi « nhạy cảm » : Anh có thể cho biết một ít kinh nghiệm của mình khi bị bắt giam vào năm ngoái ?
Có thể được… Bản thân tôi đã từng có một chứng nghiệm về những rắc rối và nguy hiểm liên quan đến vấn đề nguồn tin. Sự việc xảy ra vào tháng 7/2012, khi tôi bị cơ quan an ninh điều tra bắt khẩn cấp. Tất nhiên, nguồn tin là một trọng tâm trong rất nhiều câu hỏi của điều tra viên đối với tôi. Với rất nhiều câu và cả chữ nghĩa trong vài chục bài viết của mình, tôi đã phải cố gắng chứng minh là không có mối liên hệ nào với một nguồn tin nào.
Thật may mắn, tất cả đã kết thúc với tôi một cách trong sáng, nghĩa là những thông tin trong bài viết của tôi chẳng dính dáng và cũng chẳng liên quan đến bất cứ một quan chức nào trong nội bộ, dù ở cấp thấp nhất. Vấn đề của tôi cũng vì thế có phần lắng đọng hơn.
Vô tình hay hữu ý, chỉ vài tháng sau vụ bắt giữ tôi, chính trường Việt Nam đã “nổi sóng” với quá nhiều dư luận về những đồng chí nào đó bằng mặt không bằng lòng. Hình như mọi chuyện đang phải đi đến điểm thắt nút.
Trong cảm nhận cá nhân, tôi đang tự hỏi là liệu vào năm nay, một kịch bản “nổi sóng” như năm ngoái có lặp lại, sau vụ bắt giữ ba blogger?
RFI : Thưa anh, đặt giả thiết nếu kịch bản này tái hiện thì nó có thể ảnh hưởng như thế nào đối với chính trường và những người hoạt động nhân quyền ở Việt Nam?
Chắc chắn là có ảnh hưởng. Theo tôi nếu kịch bản này lặp lại vào năm 2013, còn có thể đậm đà tố chất bi tráng hơn với biên độ sóng mạnh hơn cả “cơn hồng thủy” năm ngoái, song lại có thể biến động theo chiều ngược lại với gia tốc biến động khá nhanh trong nửa cuối năm nay.
Nếu kịch bản này lặp lại, có thể giáo sư Thayer của Australia sẽ không hoàn toàn đúng. Tức theo cảm nhận của tôi, những gì liên quan đến chính kiến Bắc Kinh có thể chỉ chiếm tối đa 20% trong những hàm ý bắt giữ các blogger.
Nhưng 80% còn lại cũng không hẳn dành trọn vẹn cho những người dân chủ. Những gì mà tôi hình dung về tác động tiêu cực đối với phong trào dân chủ phản biện ở Việt Nam có lẽ chỉ chiếm khoảng 30% trong số 80% này.
Những người dân chủ như Người Buôn Gió có lẽ cũng không phải quá bận lòng về chuyện phong trào dân chủ phản biện sẽ bị “diệt từ trong trứng nước” trong thời gian tới. Cho dù có thể còn thêm ai đó sẽ bị bắt giữ bởi điều 258 - một phạm trù thường liên quan mật thiết đến các vấn đề đấu tranh nội bộ.
Đơn giản vì người ta còn đang quá bận rộn với câu hỏi “Ai là người cung cấp tin này cho anh ?”.
RFI : Như vậy theo anh giới trí thức Việt Nam nên giữ một thế đứng như thế nào trong tình hình hiện nay?
Tình hình hiện nay theo tôi là một bối cảnh nhập nhoạng như hiện thời, có lẽ câu hỏi “Ai là người cung cấp tin này cho anh?” sẽ gián tiếp giúp giới nhân sĩ trí thức Việt Nam - những người có thực tâm dân chủ - cảm nghiệm rõ hơn về chân đứng độc lập cần xác lập của mình. Đó là : Không nên bị lệ thuộc vào bất cứ phe phái “nội bộ” nào, mà chỉ phản biện và tranh đấu cho tất cả những gì thuộc về quyền lợi của nhân dân - dĩ nhiên là nhân dân bao gồm người nghèo và theo nghĩa đa số.
RFI : Chúng tôi xin chân thành cảm ơn nhà báo Phạm Chí Dũng đã dành thì giờ trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ, đặc biệt là trong bối cảnh có thể nói là khá căng thẳng hiện nay tại Việt Nam.
tags: Blogger - Chính trị - Dân chủ - Nhân quyền - Pháp luật - Phỏng vấn - Việt Nam
 http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20130618-nha-bao-pham-chi-dung-du-cam-chinh-truong-viet-tu-vu-bat-ba-blogger
 




Wednesday, June 19, 2013


ĐẶNG CHÍ HÙNG * QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HÒA



Tôi gọi họ là Anh Hùng



Đặng Chí Hùng (Danlambao) -
 Trong cuộc chiến mà Bên thắng cuộc (theo cách gọi của tác giả Huy Đức) đã được đặt vào thế “tất nhiên phải thắng” như tôi từng chứng minh trong 2 bài “Những sự thật cần phải biết - phần 1” thì không thể đem thành bại ra mà luận anh hùng...

Cứ mỗi độ xuân về, những ngày tháng 3 cho đến cuối tháng 4, đã gần 40 năm qua chúng ta thường được nghe những luận điệu lặp lại của những người cộng sản chuyên nghề ngậm máu phun người và làm thí ít mà báo cáo láo thì nhiều về cái gọi là “Chiến thắng lẫy lừng” thì tôi lại phải xuống bút.

Có lẽ tôi không cần phải nói lại về bản thân tôi vì tôi chẳng có cái gốc “Ngụy” để mà đi “chống phá” cách mạng. Nhưng tôi thấy cần phải luận anh hùng với đôi dòng để bạn đọc thấy trong cuộc chiến mà Bên thắng cuộc đã được đặt vào thế “tất nhiên phải thắng” thì không thể đem thành bại ra mà luận anh hùng...

Tại sao tôi nói như vậy? Vì trong cuộc chiến phi nghĩa mà cộng sản gây ra khiến nhân dân điêu linh (Xin xem thêm “Những sự thật không thể chối bỏ - phần 13”) thì kẻ thắng đã được đặt vào thế “được thắng”, còn người “thua” thì thực tế họ không thua mà họ đang thắng trong lòng chúng tôi, những người dù sinh sau đẻ muộn.

Một chế độ nào cũng có những khuyết điểm, Việt Nam Cộng Hòa không là ngoại lệ, nhưng ở chế độ đó con người đúng nghĩa là con người, ở đó con người không phải con vật, con thú cho nhà cầm quyền muốn làm gì thì làm như chế độ tôi đang phải sống. Điều này tôi đã chứng minh ở “Những sự thật cần phải biết - phần 2”. Nói như vậy để chúng ta thấy rằng tôi không có ý ca ngợi VNCH một cách vô lý. Trong con mắt của tôi, đó là một chế độ đáng sống hơn vạn lần so với cộng sản ngày nay. Và nếu được cho lựa chọn thì tôi sẽ quay ngược thời gian về làm người lính VNCH – vì với tôi họ là “Anh Hùng”!

Đã cuối tháng 3 gãy súng (theo lời tác giả Cao Xuân Huy) của gần 40 năm sau cuộc chiến mà ở đó những người anh hùng đã gục xuống vì chính nghĩa. Họ đã gãy súng nhưng họ thực sự là anh hùng. Hãy bình tĩnh nhìn lại họ để xem những gì tôi gọi họ - những người lính VNCH là anh hùng có gì sai không?

Thứ nhất, trong khuôn khổ bài 1,2 “Những sự thật cần phải biết” tôi đã chứng minh rằng: VNCH không phải là “ngụy” và những người lính VNCH phải gục ngã vì họ bị ép phải thua và không còn khả năng để chiến đấu. Họ không thể dùng tay không đánh nhau với đoàn quân đông đảo có vũ khí, đạn dược áp đảo đang tiến theo thế cờ chính trị. Như vậy họ không phải là những người bại trận. Trên thực tế họ bị ép phải “thua”.

Thứ hai, với khẩu hiệu “tổ quốc – danh dự - trách nhiệm” thì quân lực VNCH đã chiến đấu cho tự do miền nam hơn 20 năm trời. Họ không phải là những kẻ đi gây chiến, xâm lược nước khác, khủng bố như cộng sản (Xin xem thêm “những sự thật cần phải biết - phần 3,4”). Vậy cớ sao họ vì an ninh, vì quốc gia mà chiến đấu không thể gọi họ là anh hùng?

Thứ ba, nhìn lại cuộc chiến VNCH và VNDCCH thì ai cũng thấy gương của những ông tướng dám tuẫn tiết theo thành như trường hợp của tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng... Vậy ai còn có thể nói quân lực có những người anh hùng đó không anh hùng? Dám chết cho lý tưởng của mình, dám chết vì thấy rằng mình dù bị ép thua nhưng cũng có trách nhiệm trong nỗi đau đó có thể gọi là anh hùng không? Có! Rất xứng đáng gọi họ là những anh hùng.

Thứ tư, khi so sánh với quân đội nhân dân VN hiện nay tôi càng thấy sự khác biệt của những người anh anh hùng và những kẻ “tự phong anh hùng”. Nếu quân lực VNCH có Ngụy Văn Thà và đồng đội sẵn sàng hi sinh vì biển đảo tổ quốc thì quân đội nhân dân cộng sản không dám “ho” một tiếng với Trung cộng bắn ngư dân và con “tri ân” giặc như một đứa con nít đang xu nịnh đám giang hồ mất nết. Vậy ai là anh hùng các bạn cũng đã biết rồi chứ?

Thứ năm, sau khi cuộc chiến kết thúc, hàng triệu người lính VNCH còn kẹt lại ở VN chịu thương tật, không ai giúp đỡ, không có lương hưu nhưng họ vẫn sống thẳng thắn và điềm đạm. Trong khi đó quân đội cộng sản tự cho mình là anh hùng thì lại vì cái sổ hưu mà đang cố bám lấy cái đảng khủng bố, độc tài và chịu làm thân nô lệ cho Tàu. Vậy ai là anh hùng? Xin giành sự suy ngẫm này cho chính các vị tướng già quân đội cộng sản.

Còn rất nhiều bằng chứng nhưng tôi xin chỉ nêu 5 điều chính cho thấy những người mà tôi gọi là anh hùng – những người lính VNCH là hoàn toàn có cơ sở. Cuộc chiến mà họ phải thua dù họ có chính nghĩa không có ý nghĩa. Điều ý nghĩa đọng lại cho mãi sau này đó là họ đã từng là những người anh hùng, họ xứng đáng được tôn vinh và quan trọng hơn họ đang thắng trong cuộc chiến trong lòng con dân Việt Nam!

Xin ngả mũ tri ân những người lính VNCH - Những người anh hùng - Những người đã đặt nền móng cho ý chí không chịu khuất phục cộng sản khát máu!

28/03/2012



TRƯƠNG TẤN SANG ĐI TRIỀU CỐNG

 

  Chủ tịch Trương Tấn Sang thỏa thuận gì với TQ?

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2013-06-21

Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
000_Del6225382-305
Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh ngày 19 tháng 6 năm 2013.
AFP PHOTO
Khi Chủ tịch Trương Tấn Sang hội đàm với Chủ tịch Tập Cận Bình tại Bắc Kinh hôm 19/6 thì cũng là lúc một cơn bão hình thành trên Biển Đông. Nhưng điều mà nhà lãnh đạo Việt Nam nhắm tới là hóa giải một cơn bão khác trong quan hệ với Trung Quốc đó là tranh chấp Biển Đông.

Mong muốn duy trì hòa bình

Trả lời Nam Nguyên vào tối 20/6/2013, Thạc sĩ Hoàng Việt chuyên gia về Luật Quốc tế Trường Đại học Luật TP.HCM cho rằng, những thỏa thuận mà hai phía Việt Trung đạt được, qua chuyến công du của Chủ tịch Trương Tấn Sang, là một tín hiệu cho thấy nỗ lực của cả hai bên trong việc cam kết duy trì hòa bình an ninh khu vực, trong đó có cả Biển Đông. Thạc sĩ Hoàng Việt nhắc lại sự kiện báo chí ngày 20/6 đưa ra việc hai bên thống nhất thỏa thuận khai thác chung về dầu khí trên Vịnh Bắc bộ, mà trước đây đã có hiệp định phân định. Thạc sĩ Hoàng Việt nhấn mạnh:
“Theo tôi, đấy cũng là một tín hiệu đáp lại việc trước đây đại diện nhóm diều hâu Trung Quốc kêu gọi dùng biện pháp quân sự, tôi cho rằng cuộc gặp này cũng khẳng định một điều: lãnh đạo cả hai nước mong muốn duy trì hòa bình trên khu này trong đó có cả Biển Đông đặc biệt giữa hai quốc gia, đó cũng là điều đáng ghi nhận.
Theo tôi, đấy cũng là một tín hiệu đáp lại việc trước đây đại diện nhóm diều hâu Trung Quốc kêu gọi dùng biện pháp quân sự.
-Thạc sĩ Hoàng Việt
Tuy nhiên tôi thiên về một ý khác, thông thường lãnh đạo Trung Quốc bao giờ cũng mềm mỏng nhẹ nhàng và bao giờ cũng đưa ra những bài phát biểu rất hòa bình, trong khi các lực lượng khác của họ lại luôn luôn có những hành động rất cứng rắn. Vấn đề quan trọng nhất theo tôi, không biết nhà lãnh đạo Việt Nam có thể  cùng bàn bạc với lãnh đạo Trung Quốc để cùng chỉ đạo và thống nhất từ trên xuống dưới của cả hai bên là phải tuân thủ những thỏa thuận đạt được, thì điều đó mới thực sự đem lại hiệu quả và duy trì hòa bình trên vùng Biển Đông.”
Trước sự chứng kiến của ông Trương Tấn Sang và ông Tập Cận Bình, hai phía Việt-Trung đã ký kết 10 văn kiện hợp tác nhiều mặt. Trong đó đáng chú nhất là mở rộng diện tích thỏa thuận trên Vịnh Bắc Bộ về thăm dò tìm kiếm các mỏ dầu khí.
Theo báo điện tử Chính phủ Việt Nam, thỏa thuận được ký kết với nội dung: mở rộng khu vực xác định từ 1541km2 lên thành 4076km2, bao gồm hai phần tương đương nhau từ mỗi bên; và tiếp tục gia hạn hiệu lực của Thỏa thuận thăm dò chung đến hết năm 2016.
Theo VietnamNet, ông Đỗ Văn Hậu Tổng giám đốc Tập đoàn dầu khí Việt Nam xác định thỏa thuận này không ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia mỗi nước trên Vịnh Bắc Bộ. Vì đây chỉ là hợp tác thuần túy về kinh tế, cùng nhau thăm dò, khai thác nếu phát hiện ra dầu khí. Theo cách giải thích của ông Đỗ Văn Hậu thì trong khu vực thỏa thuận mở rộng 4.076km2 trên vùng chồng lấn ở Vịnh Bắc Bộ, việc thăm dò và khai thác sẽ phải là hợp tác giữa hai Tổng công ty Dầu khí của hai quốc gia Việt-Trung.

000_Hkg8715319-250
Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang trong buổi hội đàm với Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường tại Bắc Kinh ngày 20 tháng 6 năm 2013. AFP PHOTO.
 
Hai bên cũng thỏa thuận việc thiết lập đường dây nóng để giải quyết những va chạm trong hoạt động nghề cá trên Biển Đông. Ngoài ra Việt Nam cũng nhận được 2 khoản tín dụng ưu đãi từ phía Trung Quốc, khoản thứ nhất trị giá 320 triệu nhân dân tệ cho dự án hệ thống thông tin đường sắt và khoản thứ hai trị giá 45 triệu USD liên quan tới dự án nhà máy Đạm than Ninh Bình.
TS Sử học Nguyễn Nhã một nhà nghiên cứu Biển Đông hiện sống và làm việc tại Saigon nhận định:
“Mọi người đều biết rõ ý đồ Trung Quốc hiện nay như thế nào ở Biển Đông cũng như trên thế giới. Dĩ nhiên Việt Nam là một nước nhỏ và ở bên cạnh Trung Quốc. Tôi nghĩ những hoạt động của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, cũng như tất cả các hoạt động ngoại giao thì chắc chắn sẽ góp phần làm cho căng thẳng ngày càng giảm đi, nhưng trong thực tế chính trị là vấn đề rất phức tạp.”

Nói một đàng làm một nẻo?

Theo Saigon Tiếp Thị Online, chiều ngày 19/6 tại Bắc Kinh trước sự chứng kiến của hai nhà lãnh đạo Việt-Trung, đại diện Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Trung Quốc đã ký thỏa thuận về việc ‘Thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá.’ Trong khi đó hãng tin Pháp AFP trích tờ Trung Quốc Nhật báo cho biết, với việc thiết lập đường dây nóng, hai phía Việt Nam và Trung Quốc sẽ thông báo cho nhau mọi hoạt động bắt giữ xử lý tàu cá và ngư dân của phía bên kia trong vòng 48 giờ.
Được yêu cầu đánh giá về thỏa thuận thiết lập đường dây nóng về va chạm trong hoạt động nghề cá trên Biển Đông, Thạc sĩ luật quốc tế Hoàng Việt từ Saigon nhận định:
Khi mà mình có đường dây nóng, là một sự tích cực, nhưng việc chúng ta luôn luôn phải đối phó là nói một đàng làm một nẻo, thì cái đó quả thực là  thực tế sẽ có câu trả lời thôi.
-Tiến sĩ Nguyễn Nhã
“Trước mắt chúng ta ghi nhận thiện chí của cả hai bên Việt-Trung về việc này. Thông thường về phía ngư dân Việt Nam thì luôn luôn gặp khó khăn từ phía các lực lượng Trung Quốc và là lực lượng xuất phát của họ. Với việc thiết lập đường dây nóng này thì cũng là cách để lập một kênh để Việt Nam chính thức phản hồi và nó nhanh hơn. Và có lẽ nó giúp cho việc minh bạch hóa khi người lãnh đạo Trung Quốc hay đổ thừa rằng, do các địa phương làm và họ không kiểm soát hết. Tôi cho rằng đây chỉ là một tín hiệu thôi chứ còn khẳng định là nó có hiệu quả hay không thì chắc chúng ta phải chờ đợi.”
Cùng về vấn đề này, trả lời Nam Nguyên vào tối 20/6, Tiến sĩ Sử học Nguyễn Nhã từ Saigon nhận định:
“Khi tôi tham dự Hội thảo Biển Đông ở Quảng Ngãi, các học giả trong đó có cả học giả nước ngoài đã đi thăm tàu đánh cá của ngư dân bị bắn cháy, tàu của ông Bùi Văn Phải. Với việc thiết lập đường dây nóng thì thực tế những sự kiện xảy ra có thể không đến nỗi nặng nề như vậy, khi mà mình có đường dây nóng. Làm được là một sự tích cực, nhưng việc chúng ta luôn luôn phải đối phó là nói một đàng làm một nẻo, thì cái đó quả thực là  thực tế sẽ có câu trả lời thôi.”
Trung Quốc công bố chủ quyền hầu hết khu vực Biển Đông Việt Nam mà họ gọi là Nam Hải, dựa theo một bản đồ công bố trong những năm 1940. Việt Nam cũng công bố những bằng chứng lịch sử cho thấy mình có chủ quyền rõ rệt trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vốn dĩ bị Trung Quốc dùng vũ lực lấn chiếm trong thập niên 1970 và 1980. Biển Đông Việt Nam là đường vận chuyển hàng hải quan trọng và khu vực có trữ lượng dầu mỏ rất phong phú. Ngoài Trung Quốc và Việt Nam còn một số quốc gia khác cũng công bố chủ quyền một số đảo và bãi đá trên vùng biển Trường Sa.
Tranh chấp trên Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc gần đây rất căng thẳng sau rất nhiều vụ phía Trung Quốc bắt giữ tàu đánh cá bắt giam ngư dân Việt Nam đòi tiền chuộc. Hoặc những vụ tàu lạ đâm chìm tàu đánh cá Việt Nam hay vụ tàu Trung Quốc bắn cháy tàu cá Quảng Ngãi hồi tháng 3 vừa qua. Đó chỉ là những vụ việc liên quan đến ngư dân ở lãnh vực dầu khí phía Trung Quốc từng vài lần phá hủy cáp thăm dò địa chất đáy biển của phía Petro Vietnam. Sự lộng hành nước lớn của Trung Quốc đã làm dấy lên làn sóng phẫn nộ của người dân Việt Nam, với hàng chục cuộc biểu tình chống Trung Quốc xảy ra trong thời gian qua. Nhưng chính quyền Việt Nam đã thẳng tay đàn áp bắt giữ những người tham gia biểu tình, sự kiện này càng làm cho lòng dân nghi ngờ mất tin tưởng vào Nhà nước.
Một ngày trước khi lên đường viếng thăm Trung Quốc, Chủ tịch Trương Tấn Sang trả lời báo chí rằng “Việc giải quyết vấn đề Biển Đông là hết sức hệ trọng vì liên quan đến chủ quyền lãnh thổ, đến tâm tư tình cảm thiêng liêng của dân tộc, của người dân.”
Các chuyên gia mà chúng tôi tiếp xúc cùng chung quan điểm là, Chủ tịch Trương Tấn Sang qua chuyến đi của ông có thể cho thấy các nổ lực làm giảm căng thẳng, nhưng làm thế nào để vừa khẳng định bang giao hòa bình, nhận viện trợ Trung Quốc lại muốn bảo vệ ngư dân trên biển, giải quyết đa phương về vấn đề Biển Đông, ít nhất là từ phía nam quần đảo Hoàng Sa đến khu vực Trường Sa, đây thực sự là một câu hỏi rất khó trả lời.
Việc giải quyết vấn đề Biển Đông là hết sức hệ trọng vì liên quan đến chủ quyền lãnh thổ, đến tâm tư tình cảm thiêng liêng của dân tộc, của người dân.” sang nói.Thật là vô liêm sĩ,tụi mafia đỏ csvn không còn một chút lương tri của con người VN mà tổ tiên đã dạy bảo qua bao thời đại chống giặc tàu.Tên mafia đỏ này qua tàu nhận lênh v

 

Biển Đông : Bắc Kinh sẽ tăng sức ép trên Việt Nam nhân chuyến thăm của ông Trương Tấn Sang

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (phía sau, ở giữa) và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phía sau, phải) chứng kiến lễ ký kết hợp tác quân sự tại Đại Lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh. Ảnh chụp ngày 19/06/2013.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (phía sau, ở giữa) và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phía sau, phải) chứng kiến lễ ký kết hợp tác quân sự tại Đại Lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh. Ảnh chụp ngày 19/06/2013.
REUTERS/Mark Ralston/Pool

Trọng Nghĩa
Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang bắt đầu công du Trung Quốc từ hôm nay, 19/06/2013. Chuyến thăm này diễn ra trong bối cảnh Bắc Kinh trong thời gian gần đây không ngớt có những hành động ngày càng quyết đoán trong việc áp đặt đòi hỏi chủ quyền của họ trên Biển Đông, bất chấp tuyên bố chủ quyền của các nước khác trong đó có Việt Nam.

Tuy nhiên, theo nhận định của giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Úc (trường Đại học New South Wales), hồ sơ Biển Đông tuy quan trọng, nhưng chỉ chiếm một vị trí thứ yếu trong các




cuộc thảo luận so với các vấn đề kinh tế. Bắc Kinh, theo ông Thayer, sẽ lợi dụng thế yếu của Việt Nam, cần đến Trung Quốc về mặt kinh tế để gia tăng áp lực trên một trong những nước phản đối mạnh mẽ nhất các đòi hỏi chủ quyền quá mức của Trung Quốc tại Biển Đông.
Trả lời phỏng vấn của RFI qua thư điện tử, giáo sư Thayer trước hết xác định rằng bất chấp các sự cố liên quan đến Biển Đông trong thời gian qua, nhân chuyến công du Trung Quốc của chủ tịch nước Việt Nam, hai bên sẽ cố cho thấy là tranh chấp Biển Đông không hề tác hại đến quan hệ song phương.
« Biển Đông sẽ nằm trong chương trình nghị sự nhưng sẽ không chi phối các cuộc thảo luận... Mặc dù đã có một vài sự cố ngoài Biển Đông được công khai hóa (trong thời gian qua), nhưng Trung Quốc và Việt Nam đang « quản lý » tranh chấp lãnh thổ song phương.
Một nhóm làm việc cấp chính phủ vẫn tiếp tục gặp nhau để thảo luận về các vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Việt Nam đã thúc đẩy một thỏa thuận về việc « không sử dụng võ lực trước » tại Biển Đông. Hai bên cũng đã đồng ý thiết lập một đường dây nóng quốc phòng.
Chuyến thăm của Chủ tịch Trương Tấn Sang có nhiều mục tiêu. Thứ nhất, Việt Nam là nước đi bước đầu tiên trong một chuyến thăm cấp cao. Điều này cho thấy thái độ tôn trọng (respect), nếu không muốn nói là cung kính (deference) đối với Trung Quốc. Các vấn đề kinh tế sẽ rất quan trọng vì lẽ Việt Nam bị thâm hụt thương mại nặng nề trước Trung Quốc... và sẽ phải tìm kiếm thêm đầu tư từ Trung Quốc.
Tóm lại, cả hai bên đều không để cho tranh chấp Biển Đông dâng trào, ảnh hưởng đến quan hệ song phương rộng lớn hơn ».
Theo giáo sư Thayer, trong toàn cảnh như vậy, trên hồ sơ Biển Đông, Việt Nam chỉ có thể nhắc lại những gì đã từng được hai bên đồng ý từ trước đến nay, và tránh gây thêm rắc rối – như tuyên bố ủng hộ vụ Philippines kiện đường lưỡi bò của Trung Quốc chẳng hạn :
« Một lần nữa, Việt Nam và Trung Quốc sẽ ghi nhận là tranh chấp nên được giải quyết song phương (khi không liên quan đến một bên thứ ba), tránh dùng võ lực đồng thời tuân thủ luật quốc tế trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS. Cả hai sẽ cam kết thực hiện bản Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông DOC, và ủng hộ đàm phán về một Quy tắc Ứng xử COC.
Việt Nam sẽ tiếp tục thể hiện sự cung kính Trung Quốc bằng cách không công khai ủng hộ Philippines và vụ nước này kiện (Trung Quốc) ra trước Tòa án Trọng tài của Liên Hiệp Quốc. Việt Nam sẽ tiếp tục giữ một thái độ kín đáo trên vấn đề Biển Đông, ngoại trừ khi phải đối phó với những sự cố cụ thể. Trong các trường hợp đó, Việt Nam sẽ phản đối theo các kênh chính thức ».
Chuyến công du Trung Quốc của ông Trương Tấn Sang diễn ra vào lúc toàn khối ASEAN chuẩn bị Hội nghị Ngoại trưởng thường niên tại Brunei – từ ngày 27/06 đến 02/07/2013 - trong đó vấn đề Biển Đông chắc chắn sẽ được đề cập tới. Theo giáo sư Thayer, Chủ tịch nước Việt Nam có thể sẽ gặp áp lực trên một số vấn đề :
« Trung Quốc sẽ gây mọi áp lực về mặt ngoại giao để ngăn không cho vấn đề Biển Đông bị các cường quốc « bên ngoài » quốc tế hóa hơn nữa. Trung Quốc sẽ nêu bật thiện chí bắt đầu đàm phán về một Quy tắc Ứng xử, nhưng với lời đe dọa ngấm ngầm là tất cả các nước đang tranh chấp với Trung Quốc phải tránh không được chỉ trích Trung Quốc.
Chủ tịch Trương Tấn Sang sẽ tương đối dễ dàng trong việc tán đồng ý kiến của Trung Quốc trong bản thông cáo chung. Các cuộc thảo luận được dự kiến về một bộ Quy tắc Ứng xử là một chuyển biến tích cực mà mọi bên đều mong muốn ».
Trong phần trả lời phỏng vấn của hãng tin Mỹ Bloomberg vào hôm qua, giáo sư Thayer còn nêu bật một trong những mục tiêu không được nói ra của chủ tịch nước Việt Nam nhân chuyến công du Trung Quốc : Tìm hiểu rõ hơn về quan hệ Mỹ - Trung sau cuộc gặp thượng đỉnh Obama-Tập Cận Bình hồi đầu tháng tại California.
Dẫu sao thì Việt Nam, theo nhà nghiên cứu Úc, không thể « nổ súng tiến lên » trên hồ sơ Biển Đông, và phải rất thận trọng trong việc « chọn mặt trận nào » với Trung Quốc.
tags: Biển Đông - Châu Á - Chính trị - Ngoại giao - Trung Quốc - Việt Nam
 http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20130619-bien-dong-bac-kinh-se-tang-suc-ep-tren-viet-nam-nhan-chuyen-tham-cua-ong-truong-ta

Việt - Trung ký 10 văn kiện hợp tác

Cập nhật: 15:05 GMT - thứ tư, 19 tháng 6, 2013
Hôm 19/6, Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang và lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đã chứng kiến lễ ký kết 10 văn kiện hợp tác tại Bắc Kinh.
Đáng chú ý, hai nước sẽ thăm dò dầu khí chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi vịnh Bắc Bộ.
Tập đoàn dầu khí Việt Nam nói thỏa thuận phù hợp với hiệp định song phương về phân định vịnh Bắc Bộ.
Hiệp định này mới gia hạn lần thứ tư, kéo dài đến năm 2016.
Bộ nông nghiệp hai nước lần đầu tiên sẽ lập đường dây nóng để giải quyết các vụ va chạm liên quan ngư dân trên biển.
Ngoài ra còn có thỏa thuận hợp tác giữa hai bộ quốc phòng, và xây dựng trung tâm văn hóa tại hai nước.
Trung Quốc sẽ cấp khoản vay ưu đãi 320 triệu nhân dân tệ cho dự án hệ thống thông tin đường sắt và còn có một hiệp định cho vay liên quan dự án nhà máy đạm than Ninh Bình trị giá 45 triệu đôla.
Hai bên còn ký chương trình hành động giữa hai chính phủ về triển khai quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện.
Đây là chuyến thăm đầu tiên của ông Sang trong cương vị Chủ tịch nước, và cũng là chuyến thăm đầu tiên kể từ khi Trung Quốc có dàn lãnh đạo mới.
Giới quan sát cho rằng hai chủ đề chính trong chuyến đi lần này của ông sẽ là kinh tế-thương mại và an ninh ở Biển Đông.
Những ngày gần đây, truyền thông hai bên đăng nhiều tin bài ca ngợi ý nghĩa của chuyến đi, mà giới chức nói là "nhằm khẳng định chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong quan hệ với Đảng, Nhà nước Trung Quốc; đưa quan hệ hai bên có bước phát triển thực chất theo khuôn khổ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện; thúc đẩy hợp tác cùng có lợi trên các lĩnh vực, nhất là về hợp tác kinh tế-thương mại".
Trong một động thái đáng chú ý, quan chức cao cấp của cả hai bên đều đồng loạt trả lời phỏng vấn về chuyến đi này trên các kênh chính thống, cho thấy nguyện vọng chứng minh ngược lại một số cáo buộc rằng quan hệ Việt Nam-Trung Quốc đang 'có vấn đề' vì mâu thuẫn biển đảo.
Mới nhất, chính Chủ tịch Trương Tấn Sang đã trả lời báo chí Trung Quốc trước thềm chuyến đi của mình.

'Trước sau như một'

Trong phỏng vấn thực hiện hôm thứ Ba 18/6, ông Sang khằng định: "Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trước sau như một hết sức coi trọng việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc".
Tuy nhiên, ông đề cập tới các thách thức mới đặt trước quan hệ Việt-Trung ngày nay, và nhấn mạnh: "Hơn bao giờ hết, cả hai nước đều cần môi trường quốc tế và khu vực hòa bình, ổn định để tập trung phát triển".
Gần đây Việt Nam và Trung Quốc đã có nhiều cuộc va chạm trên Biển Đông. Tuy chưa xảy ra xung đột vũ trang, nhưng rõ ràng an ninh và ổn định đã trở nên quan tâm hàng đầu.
Cả hai bên đều thừa nhận rằng tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông là vấn đề mâu thuẫn lớn duy nhất còn tồn tại giữa hai bên.
"Việc giải quyết vấn đề Biển Đông là hết sức hệ trọng vì liên quan đến chủ quyền lãnh thổ, đến tâm tư tình cảm thiêng liêng của dân tộc, của người dân."
Chủ tịch Trương Tấn Sang
Tiến sỹ Ian Storey, chuyên gia về an ninh châu Á, nói với BBC từ Singapore rằng ở thời điểm hiện tại, "triển vọng có được một giải pháp chính trị hay pháp lý đối với tranh chấp Biển Đông là rất yếu ớt vì thiếu ý chí chính trị của tất cả các bên".
"Bởi vậy trọng tâm của tiến trình này sẽ là giảm thiểu căng thẳng thông qua các cơ chế quản lý xung đột."
Ông Storey dự đoán Việt Nam và Trung Quốc sẽ vẫn còn tiếp tục căng thằ̉ng xung quanh vấn đề Biển Đông, các nguồn lợi trong khu vực này, và do vậy các vụ va chạm vẫn sẽ tiếp diễn.
Chủ tịch Trương Tấn Sang nói ông hy vọng "sẽ cùng các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc trao đổi thẳng thắn, chân thành, tiếp tục có thêm những giải pháp để giải quyết thỏa đáng những bất đồng trên biển giữa hai nước".
Ông Sang cũng bày tỏ nguyện vọng hai bên cùng giữ lập trường "đối xử nhân đạo với ngư dân, xử lý thỏa đáng vấn đề nghề cá".
Ông nói: "Việc giải quyết vấn đề Biển Đông là hết sức hệ trọng vì liên quan đến chủ quyền lãnh thổ, đến tâm tư tình cảm thiêng liêng của dân tộc, của người dân".

Giữ thăng bằng

Tiến sỹ Storey cảnh báo rằng lãnh đạo Việt Nam, nhất là Chủ tịch Trương Tấn Sang trong chuyến đi này, sẽ phải đối mặt với áp lực phải giữ hòa khí với Trung Quốc trong khi tỏ ra thấu hiểu và tôn trọng chính những điều mà ông Sang gọi là "tâm tư tình cảm thiêng liêng của dân tộc" nói trên.
Dư luận trong nước đã nhiều lần chỉ trích ban lãnh đạo Hà Nội là quá "nhu nhược" trước các hành động gây hấn của Trung Quốc.
Biên giới Việt Nam Trung Quốc
Việt Nam đang phải tìm cách thăng bằng quan hệ với Trung Quốc
Ông Storey nói với BBC: "Để giữ thăng bằng, chính phủ Việt Nam đang theo đuổi cùng lúc 5 chiến lược: đàm phán ngoại giao song phương với Trung Quốc; ủng hộ các nỗ lực của Asean trong việc thực thi Tuyên bố chung về Biển Đông (DoC) và xây dựng Bộ Quy tắc Ứng xử (CoC); quốc tế hóa vấn đề Biển Đông thông qua các diễn đàn an ninh khu vực; hiện đại hóa không quân-hải quân để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ; và xây dựng quan hệ thân cận với Hoa Kỳ, quốc gia duy nhất có thể đối trọng lại quyền lực đang lên của Trung Quốc".
Thực tế Việt Nam đã hoan nghênh hiện diện của hải quân Mỹ trong khu vực, cũng như chính sách chuyển hướng về châu Á-Thái Bình Dương của Washington.
Giới chuyên gia nói trong chuyến thăm lần này, ông Trương Tấn Sang sẽ tìm hiểu quan điểm của lãnh đạo Trung Quốc sau khi Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vừa có họp thượng đỉnh với Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama hồi đầu tháng ở California.
Ông Sang sẽ có cuộc gặp với Chủ tịch Tập tại Bắc Kinh.
Vào cuối chuyến thăm, đoàn của Chủ tịch Trương Tấn Sang sẽ có chuyến thăm Quảng Đông trước khi quay trở lại Việt Nam.
Chặng cuối của chuyến thăm sẽ tập trung vào chủ đề kinh tế.
Thương mại Việt-Trung bị đánh giá là chưa xứng với tiềm năng. Trong 5 tháng đầu năm 2013, thương mại hai chiều đạt 18,9 tỷ đôla, tăng 37,3% so với cùng kỳ năm ngoái, theo thống kê của phía Trung Quốc.
Cùng giai đoạn này, thương mại hai chiều của Trung Quốc với Singapore là 30,7 tỷ và với Malaysia là 43,1 tỷ, các con số lớn hơn nhiều.
Thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc ngày càng lớn, từ đầu năm tới cuối tháng Năm đã lên hơn 11 tỷ đôla.
Hãng tin tài chính Bloomberg nhận định ông Trương Tấn Sang sẽ phải làm một bài toán vô cùng khó khăn, là đề cập chuyện biển đảo trong khi vẫn phải kêu gọi trợ giúp và đầu tư của Trung Quốc cho nền kinh tế.
Hai nước đã đặt mục tiêu nâng kim ngạch thương mại song phương lên mức 60 tỷ đôla vào năm 2015.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/06/130619_truongtansang_china.shtml



 
Hí họa của Dân Làm báo
 Chủ tịch Sang đã sang Trung Quốc
CTV Danlambao - Hôm nay, 19/06/2013, chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng đoàn quan chức cao cấp đảng CSVN đã chính thức lên đường sang Trung Quốc. 
Chuyến thăm cấp nhà nước kéo dài 3 ngày của ông Sang diễn ra trong bối cảnh công an CSVN ra lệnh bắt giam anh Đinh Nhật Uy, anh trai sinh viên yêu nước Đinh Nguyên Kha. Hai anh em Uy và Kha đều là người Long An, cùng quê với ông chủ tịch nước.

Đinh Nhật Uy bị khởi tố theo điều 258 Bộ luật hình sự sau khi đã công khai cầm biểu ngữ 'Tàu khựa cút khỏi Biển Đông'. Hành động của Uy nhằm thể hiện sư ủng hộ đối với việc làm của em trai Đinh Nguyên Kha và người bạn Nguyễn Phương Uyên. 
Hành vi đàn áp những người yêu nước trong thời gian qua được dư luận cho là 'món quà' của nhà cầm quyền CSVN đối với TQ, đồng thời cũng là hành động nhằm bảo đảm cho chuyến đi của ông Trương Tấn Sang diễn ra 'thành công tốt đẹp'.
Tháp tùng chuyến đi lần này có ông Nguyễn Thiện Nhân, tân ủy viên bộ chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ cùng hàng loạt các quan chức đứng đầu nhiều bộ ngành quan trọng khác.
Trả lời phỏng vấn báo chí Trung Quốc trước khi đi, ông Sang tiếp tục kêu gọi mối quan hệ hữu nghị, 'hợp tác toàn diện' giữa VN-TQ. Đồng thời nhấn mạnh "Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam không bao giờ quên sự giúp đỡ quý báu của Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc".
Liên quan đến vấn đề Biển Đông, ông Sang hứa hẹn sẽ 'trao đổi thẳng thắn, chân thành' với phía TQ trong chuyến đi gặp Tập Cận Bình sắp tới. Vấn đề đối xử nhân đạo với ngư dân cũng sẽ được đề cập đến.
Lên làm Chủ tịch nước từ cuối tháng 7/2011 đến nay, ông Trương Tấn Sang chưa sang Trung Quốc lần nào. Đối với hầu hết các vị trí chóp bu trong đảng cộng sản, đi Trung Quốc thường là việc làm đầu tiên mỗi khi nắm quyền. Đây vốn là ‘truyền thống’ của nhiều đời lãnh đạo trong đảng, mục đích là để thể hiện sự thần phục ‘thiên triều’ của giới chóp bu cộng sản VN.
Trước đó, tại cuộc ‘Đối thoại chiến lược quốc phòng Việt Trung’ hôm 5/6/2013 tại Bắc Kinh giữa thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh và trung tướng Thích Kiến Quốc, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Phía TQ nói rằng:
TQ đang sửa đổi thỏa thuận về hợp tác biên phòng, và sẽ “cố gắng ký trong chuyến thăm Trung Quốc sắp tới của Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang”.

Những điều sửa đổi trong cái gọi là 'thỏa thuận hợp tác biên phòng' giữa Việt Nam – Trung Quốc cho đến nay vẫn chưa được công bố trước dư luận. Việc ém nhẹm như trên cho thấy nhiều khả năng đây sẽ lại là một thỏa thuận có những điểm rất bất lợi cho Việt Nam.
Viên tướng Tàu dùng chữ ‘cố gắng ký’ ở đây phải chăng mang hàm ý đe dọa, ép buộc ông Trương Tấn Sang phải đặt bút ký?
Qua những thông tin ban đầu, đây được dự báo sẽ là chuyến đi không dễ dàng chút nào cho ông Sang và phái đoàn quan chức đi theo tháp tùng.
Chia sẻ bài viết:
  

NGUYỄN TRẦN LÊ * VƯỢT BIÊN


VƯỢT  BIÊN 
 Nguyễn Trần Lê


    Tôi đứng trước cửa, mắt ráo hoảnh, nắm chặt bàn tay gầy guộc của Mẹ tôi, tim tôi vẫn đập, hình như nhịp có hơi mạnh, nhói lên, nhưng tôi vẫn không thể nào khóc, nhìn đôi mắt buồn rười rượi của Mẹ tôi mà nước mắt đã bắt đầu, lòng như nấc nghẹn. Vì nếu tôi rơi nước mắt thì chắc chắn sẽ còn làm cho sự bịn-rịn lâu hơn.
    Tôi thưa ; “ Thưa Cậu Mợ, con đi, anh đi các em .”




    Mấy đứa em đứng sau Câu Mợ tôi, ngó ra cửa nơi tôi đang đứng. Trời chiều tối,
ánh đèn trong hành lang cư xá Thanh Đa lù mù, tôi không dám nhìn thẳng vào cửa nữa, nắm chặt lấy tay Mẹ tôi và rồi Bố tôi, các em rồi vội bước đi, không dám quay lại, tôi biết rằng đằng sau tôi, nơi cánh cửa Bố Mẹ tôi và các em đang ngó trông theo. Và từ giờ phút này họ sẽ thao thức, không ngủ vì những lo lắng. Vì ngày hôm đó tôi phải tới một điểm hẹn nghỉ qua đêm để sáng sớm hôm sau tới Xa cảng Miền Tây gặp người dẫn đường, tôi và một nhóm ba người nữa sẽ lên xe đò đi Trà Vinh chuẩn bị cho lần vượt biên thứ ba của tôi.




    Mờ sáng trước khi xuống Xa cảng, chúng tôi đã vội ghé vào tiệm hủ tiếu gần đó ăn bữa điểm tâm cuối cùng của Sàigòn.
    Ánh đèn mờ nhạt của Xa cảng, nhưng xe cộ hành khách đã đông, những tiếng rao hàng nhộn nhịp. Chiếc xe Dodge cổ lỗ đã được hơn nửa hành khách, chật chội trên những hàng ghế da cũ kỹ. Bó người trong xe, tôi lơ đãng nhìn ra ngoài, Sai Gòn vẫn còn một nhịp điệu, những tiếng nổ xình xịch của những chiếc xe đò cũ-kỹ. Những người lơ xe mời chào, lôi kéo hành-khách, ‘Đi đâu cô Hai, anh Hai , xe đi Cần Thơ, Vĩnh Long, Trà Vinh đây, sắp khởi hành, mời Bà con cô bác mau lên xe kẻo hết chỗ! Mời chào, níu kéo như vậy, xe thì máy vẫn nổ như dợm chạy làm mọi người vội vàng chạy, trèo kéo lên xe, cứ như thế mãi gần một tiếng sau xe mới chuyển bánh.




    Mặt trời lố dạng, qua khỏi Chợ lớn thì đã lên cao, những dòng xe xuôi ngược, những khuôn mặt xạm kịt vì thời tiết và đời sống. Sài-Gòn sau Giải-Phóng ! 1983, 8 năm sau Giải-Phóng! Nhìn lại những người dân thành-phố, chỉ thấy những bộ áo ngắn! không xe xua, không mầu mè, không kiểu cọ! Làm như quần áo chỉ là để che thân và hòa nhịp với cuộc sống văn minh mới!





         Chợt nghĩ đến những ngày xưa, mỗi lần tầu về lại SàiGòn sau những cuộc tuần dương dài hàng tháng trời . Quần áo tiểu lễ sạch trắng, mũ mão, lon lá đứng dàn chào dọc theo hai bên chiến hạm để cặp cầu Bộ Tư-Lệnh Hải Quân, mà nay đã là một anh chàng thường dân không hộ khẩu, không nghề nghiệp, không tương lai, vất vưởng sống từng ngày sau gần 7 năm được nhà nước ưu ái đã cho đi ‘Học tập cải tạo’. Học tập tiến bộ nhà nước đã tha cho trở về đời-sống một người dân ‘Ngụy’. Và tôi đành phải kiếm đường bôn tẩu cho tương lai, chả biêt ra sao, nhưng ít ra cũng không phải xếp hàng cả ngày để nhận vài trăm gram đường, vài lạng thịt hàng tháng!




    Xe vẫn bon bon theo quốc-lộ 4, qua nhiều chặng kiểm soát của Công An, lơ xe cứ thế quà cáp và những dúi tay để cho xe đi được nhanh chóng hơn . Trong xe,hành khách đủ mọi thành phần, nhưng có lẽ họ là những người lo buôn bán kiếm cơm, hay là một vài người như tôi, chạy đôn đáo để tìm đường vuợt biên cứu khổ. Mặc bộ đồ không giống ai, bộ quần áo cả hơn 10 năm trước, đầu tóc lòa xòa như thằng lơ xe, không một mảnh giấy tùy thân, đầu óc đã sắp sẵn những gì cần thiết để nếu như bị bắt dọc đường. Xe qua Vĩnh-Long, rẽ trái để hướng về Trà-Vinh, đi thẳng là đường về Cần-Thơ, mà trước đây tôi đã qua lại không biết bao nhiêu lần. Dọc đường những ngôi nhà lá chỏng chơ, chung quanh những cây vườn xanh, tiêu điều, chỉ toàn thấy là những lá cờ đỏ sao vàng và những khẩu hiệu quyêt-thắng. Người dân cư lầm lũi sống! Cũng chả biết họ sống như thế nào? 




    Tới thị-trấn Trà-Vinh là cũng đã xế trưa, ghé vào quán làm một đĩa cơm, uống vội ly nước trà đá, người dẫn đường ra hiệu theo anh ta để lên xe Lam về Cầu Quang. Đường đất bụi mờ, 12 người trên chiếc xe Lam 3 bánh, mà gần 2 giờ sau mới tới được thị trấn, chợ búa đã thưa thớt, lếch thếch đi bộ theo anh ta, trời đã sẩm chiều, nên cũng không mấy ai để ý đến mình. Gần 20 phút sau tới một quán nước, anh bảo ngồi uống nước, sau đó anh chạy đi một chốc, rồi một người khác lại dẫn chúng tôi tới một ngôi nhà khác, ngồi chờ một hồi lâu đến tối hẳn rồi mới theo con đường đất của thịtrấn để tới một căn nhà nằm dọc theo bờ sông Hậu. Vừa lách qua khỏi cánh cửa, qua ánh đèn dầu leo lét, người chủ nhà dắt chúng tôi vào ngay một căn phòng phía sau đã chuẩn bị sẵn, và nói cho tôi hay ở đây 2 ngày rồi sẽ có ghe đưa ra  ghe lớn. Cần gì cho họ hay vì hai vợ chồng ở nhà suốt ngày. Sau đó mới biết là vợ chồng người con của họ cũng theo chuyến này, cho nên họ đã chịu ém chúng tôi ở đó.




    Một bữa cơm thanh đạm dọn cho chúng tôi, mọi chuyện vệ sinh cho họ biết để họ coi động tĩnh trước rồi mới cho tôi hay. Mệt mỏi sau một ngày dài từ Sài-Gòn xuống đây, thao thức một lát thì tôi cũng ngủ vùi. Nửa đêm thức giấc vì những tiếng vo ve của muỗi, những tiếng chó sủa bâng qươ, chập chờn. Sáng dậy hơi sớm, đã thấy vợ chồng chủ nhà dọn sẵn cho bữa sáng, cũng chẳng có gì, nồi sôi và ly cà phê. Nhìn qua cửa sổ là sân sau với chum nước và những cây ăn trái, bờ sông không xa, thỉnh thoảng lại thấy những chiếc ghe máy vụt ngang qua cửa sổ. Ngày ba bữa,hôm đầu cũng không thấy gì - êm ả trôi qua- hồi-hộp, nhưng vẫn phải cố gắng tỉnh táo, vì biết rằng có thể ngày mai là sẽ bắt đầu việc của mình.



    Sẩm tối hôm sau, sau bữa cơm chiều, vợ chồng người chủ nhà đưa chúng tôi xuống chíếc ghe đuôi tôm trên chất đầy mía ngụy trang, nấp dưới lòng ghe cùng ba người nữa, dọc sông vẫn còn thấy những ánh đèn thấp-thoáng của các ghe câu hay của những người dân qua lại. Miền quê thật yên tĩnh. Văng vẳng tiếng hò cải lương từ một Radio nào đó. Gần 2 tiếng ngồi bó gối trong lòng ghe, người tôi như cứng lai. Tiếng máy chậm lại rồi ủi vào một bờ kinh. Nằm chờ một hồi, đột nhiên có tiếng máy nổ bình bịch giữa sông, một ánh đèn chớp, qua lại, ghe lớn đã tới, chống sào chạy ngược ra giữa dòng! Chúng tôi vội vàng lên ghe lớn, chỉ kịp trao lại mảnh giấy cho người chủ ghe để nhờ họ trao lại cho người tổ chức chuyển về cho gia-đình tôi thông báo là đã lên ghe lớn (Còn chuyện sau này có được hay không thì cũng chả biết sao). Nhóm của tôi chui tọt vào khoang chiếc ghe bầu chuyên chạy trong sông chở nông sản, trống rỗng. Sau ghe là phòng lái, với tay lái là cái cần dài, ngồi trên mũi ghe có thể lái và nhìn hướng đi được, dưới là khoang của chủ ghe. Máy đươc gắn máy Yanmar xanh hai block, lòng ghe trống rỗng. Một tấm bạt nhà binh phủ kín từ trước tới sau, mà hai bên be ghe đã được đóng cao trên bình thường để nâng chiều cao của lòng ghe



    Hỏi người tài công sông toán thứ hai của người bạn tôi tới chưa?
    Hắn nói sắp tới. (vì phải chia làm hai ba ngả để tiện tránh những sự bất trắc,  toán hai của người bạn cùng khóa, anh ta là tài công chính của một chuyến vượt-biên, đã nhiều lần vượt-biên cũng như đi bán chính-thức cũng không trót lọt, tài-sản gần cạn, cuối cùng được một tổ-chức kêu đi cùng gia-đình, nhưng giờ phút chót chính anh ta lại là người bị tổ-chức bỏ lại chỉ vì tin vào những bói toán, có anh đi thì không thể nào thành-công được). Gặp tôi giữa chợ An Đông, ngồi uống cà phê anh đã rưng- rưng nước mắt kể lại những vất-vả, khó-khăn anh đã chịu đựng trong suốt mấy năm qua, hơn 3 năm cải-tạo được tha về ở dưới tỉnh làm ăn và tìm đường vươt biên, vài chuyến không thành, đi bán chính-thức, nhờ có nghề Hải Quân nên không phải trả tiền, nhưng rồi bị bắt, nằm hộp thêm hai năm nữa, gia-đình vất-vưởng, cuộc đời cứ xui xẻo, đến ngày cuối chính tài công  lại bị bỏ lại. 



Vợ con không biết ra sao vì đi dưới miệt lục tỉnh qua ngõ vịnh Thái Lan, tuy gần nhưng nhiều hải tặc, cầu trời khấn Phật. Thôi thì mày để tao nói chuyện với thằng chủ tầu coi sao? Vì họ làm cho gia đình, phần nữa mày gốc Tầu nói chuyện với dân Tầu chắc cũng không khó lắm, thế là sau vài lần gặp mọi chuyện OK, chờ ngày khởi hành. Hơn một năm trời theo chiếc ghe này, không thấy động tĩnh gì, họ tính quá kỹ. Lên xuống hai, ba lần đi dò đường, coi ghe...mãi đến đầu tháng 4 họ mới quyết định. 49 người chen chúc trong chiếc ghe không một chỗ nằm thoải mái! Đúng là đi tìm sự sống trong cái chết ! Thôi cũng đành phó mặc cho trời đất ! Lạy Trời Phật thương con và mọi người cho chuyến đi được bình-an.


    Quay qua người tài công sông hỏi:  bản-đồ, hải bàn, đèn pin tôi đã mua trao cho chủ ghe trước đây đâu? Mò mẫm trong đêm tối để gắn la bàn, không thể nào có tí ánh sáng cho la bàn. Một tiếng chửi thề ‘Mẹ kiếp’, đã nói cho gắn đèn vào la bàn, nay không có làm sao mà dòm la bàn? người tài công sông im lặng. Anh ta cũng chỉ là một người dân địa phương đi theo ghe để làm và tìm đường vươt-biên.
    Mười năm lính biển thưc-sự tôi chưa bao giờ lái một chiếc ghe bầu như thế này, trên tầu đầy đủ dụng cụ hải-hành, có bão lớn hay sóng to cũng không lo lắng lắm. Đằng này ghe trống trơn, chỉ có tấm bạt đóng nẹp phủ lên trên, 49 nhân mạng trong ghe! Trông chờ vào khả năng đi biển của tôi! Mà thưc sự nghĩ lại khả năng đi biển của tôi là khả năng của một người điều khiển những chiện hạm hay những chiến đỉnh đi biển có điều kiện, chứ đâu chỉ để lái chíêc ghe bầu 9 mét. Đã bước lên là phải làm, cũng đành phải gắn cho xong chiếc la bàn. Cầm cái đèn pin dọi quanh, thỉnh-thoảng liếc vào đó mà lái.
    Từ Cầu Quang ra cửa Trần Đề quả thật không xa, hai bên bờ sông tối như mực, mặt sông loáng thoáng, ngồi trên nóc ghe, tay cầm lái, nhướng mắt nhìn trước mặt để tìm ánh đèn hải tiêu, nước đã bắt đầu lớn, con tầu chạy chầm chậm, khoảng một tiếng sau, đang ngon trớn, tầu tự dưng chậm lại rồi đứng hẳn, thôi chết rồi, mắc cạn, thử lùi bẻ lại tay lái, nhưng không nhúc nhích, tiến tới không được, kêu mấy cậu thanh niên lấy sào chống, nhưng cũng không được, đành chờ. Mọi người hốt hoảng, những tiếng đọc kinh, khấn vái. Hơn nửa tiếng sau, nước đã cao hơn, thử lại một lần nữa, con tầu lướt tới trước, tiếp tục. Thật hú vía. Ra tới cửa sông, gió đã hơi mạnh.



    Biển đen kịt, lờ-mờ những ánh đèn ghe thấp thoáng, những chòm sao chi chít trên trời, đèn la bàn không có, đành phải lái theo kinh nghiệm, nhìn những chòm sao, gió Đông Bắc, lấy hướng 090 thẳng ra khơi, bên trái mờ xa là Hải Đăng Vũng Tầu. Gió đã mạnh hơn cấp 2, nhấp nhô sóng bạc đầu, con tầu lắc lư, hơi chếch xuôi nên cũng đỡ. Ngồi trên nóc ghe xoạc chân ra giữ cần lái, mắt luôn nhìn vào la bàn. Loáng thoáng ánh đèn pin dọi vào la bàn, tôi vẫn cố gắng giữ hướng nhưng cũng không thể nào đúng được, thôi cũng đành để sai biệt + 5 độ. Nhưng nhìn sóng và chòm Nam Tào Bắc đẩu mà đi. Cuộc đời hải nghiệp chưa một lần nào mà đi biển như lần này.
    Ngồi trên nóc ghe, khóac thêm tấm áo mưa của người em rể cho từ lâu nay mới thấy hữu hiệu, có nón che, gọn nhẹ, có túi trước ngực đựng ít kẹo. Đã dự tính dù tầu có chạy chậm nhưng với sức gió và nước hy vọng trong 24 giờ đầu cũng có thể chạy được 100 hải lý, nghĩa là qua khỏi vùng kiểm- soát và ngoài khơi đường tầu buôn chạy, như vậy mơi có nhiều hy vọng hơn. Một đêm cầm tay lái không thể nào nhắm măt được, nhờ có gió biển đã giúp tôi thêm phần tỉnh táo. 



Mặt trời mới nhú lên đàng Đông, nhìn biển rộng bao la, những con sóng bạc đầu nhấp nhô, đã quen với sóng gió, tôi cảm thấy sảng khoái, mới hơn có 9 giờ hải hành, cũng chưa xa bờ được bao nhiêu, tôi và người bạn ngồi trên mũi ghe vừa lái vừa kiểm soát mọi việc, hình dạng những chiếc ghe đánh cá quốc doanh mờ mờ sau lưng. Không một bóng dáng chiếc tầu nào chung quanh, nhường tay lái cho người bạn, tôi nằm ngả lưng ngay tên nóc ghe. Khoảng giữa trưa, trời đổi gió, có it hạt mưa, liếm láp những giọt nước mưa, vị ngọt của viên kẹo làm tôi thấy đỡ một chút, thay phiên nhau 3 người nhưng tôi và người bạn là chính, ôm cần lái, mệt đừ. Mọi người hầu như nằm chết liệt trong khoang, không còn nghe thấy nhưng tiếng đọc kinh nữa. Đã quá mệt mỏi, chắc vậy. Tôi cũng không còn biết gì đã xẩy ra ở trong lòng chiếc ghe nữa! Đâu có biết rằng trong đó họ đã cấu xé nhau vì những giọt nước,miếng ăn. Ói mửa, mệt mỏi, sợ hãi.Chiếc ghe vẫn cứ nhấp nhô. Biển thì vẫn gào.


    Đêm thứ hai biết rằng cũng đã xa hải phận, ước tính, tôi đổi hướng 220, ghe đã bớt nhồi, xuôi sóng nên đã thấy dễ chịu. Trời vẫn mưa lâm râm, thấp thoáng vài ánh đèn tầu, phản ứng tư nhiên, qươ đèn vẫy, nào có ai thấy, quá xa, có ai thấy mình? ngộ nhỡ tầu Liên Xô thì cũng chết dở. Lại tiếp tục, mệt thì nằm soải lưng, tay nắm chặt hai thanh sắt trên nóc ghe.



    Ngày thứ ba công viêc vẫn tiếp tục, hớp vội tí cháo chủ tầu đưa cho, lại chia nhau lái. Nắng lên không bao lâu trời lại chìm vào mầu xám. Biển đêm thật kinh sợ, không biết nó sẽ xẩy ra cái gì nữa.
    Sáng ngày thứ tư, nhấp nhô trên trời đã thấy bóng dáng những con chim hải âu bay lượn, vài chú cá heo lội rượt theo ghe, một tay nắm chặt thanh sắt, một tay cầm cái khăn mặt nhúng tí nước biển thoa mặt cho tỉnh táo. Hình như mình đã nghĩ đến sự sống. Có cá heo tức là có cơ may, có chim là thấy có cơ gần bờ. Nhưng hết ngày cũng chưa thấy gì. Biển vẫn còn đây, bờ vẫn xa !



    Trời đột nhiên trở gió, mưa đã bắt đầu nặng hạt, một ít nước ngọt thấm giọng, mà suốt mấy ngày qua mọi người chỉ uống nước sông lợn cợn, được thêm tí cháo. Nhấm ngụm coca cola mà người tài công sông đưa cho, ôi đã làm sao? Đưa cần lái cho bạn tôi, hai bàn tay nắm chặt nóc ghe, nằm lịm đi không biết bao lâu ? người bạn đánh thức tôi dậy và chuyền cho tôi viên kẹo! Lại tiếp tục thay hắn nắm cần ghe. Ngày thứ tư mây đen vần vũ! có mưa, biển đã dịu lại đôi chút! Hình như tôi có cảm giác có mùi hơi đất nào gần đây! Xa xa một vài đốm sáng của chiếc ghe nào đây. Không biết là đâu, Côn Sơn, Cà Mau? Chỉ có chết nếu gặp ghe quôc-doanh! Nhớt đã gần cạn, tôi đâm lo, bây giờ lại phải nhờ gió để đi, trong khi người cơ khí tắt máy, coi lại máy móc.Vừa giương được tấm buồm dã chiến lên, con tầu như đã hứng được gió, chầm chậm theo hướng đi. Những ánh đèn ghe đã biến mất, nhìn chùm sao Nam tào Bắc đẩu ban đêm theo đó mà đi, thỉnh thoảng vẫn lại phải bấm đèn pin để coi lại hướng. Đến sẩm tối, máy đã sửa xong, tiếng máy nổ làm tôi dịu lại, mọi người bớt cầu kinh niệm Phật, tất cả đều đã mệt mỏi. Bực mình vì người chủ tầu đã không lo liệu nước uống và thức ăn cho đầy đủ, tôi đã phải chửi thề, phần vì sóng biển dập dềnh khó mà nấu nướng, họ cũng cố gắng nấu thêm nồi cháo cho mọi người cầm hơi.



    Sáng ngày thứ năm, biển đã dịu lại, những cánh chim hải âu đã thấy nhiều. Một làn gió nhẹ, mùi muối, mùi nước biển, mùi tanh của cá đâu đây! Mặt trời đã hạ, mờ xa bóng dáng một hòn đảo? Mừng quá ! Cố gắng lướt tới,gần đó chiếc ghe đánh cá đang bỏ lưới. Không rõ là của ai ! Bắc ống dòm thấy dáng lạ, không giống ghe Thái Lan, vì ghe Thái thường cao và lớn, không giống ghe Kiên giang, Quốc doanh, tôi cũng yên tâm. Nhưng cũng phải kêu mấy cậu thanh niên chuẩn bị dao rựa! Trong trường hợp hải tặc là phải ra tay không nuối tiếc. Đến gần,cũng may họ cũng chỉ là những dân đánh cá. Trông dáng Á châu, đen đủi, tôi chắc là dân Indo hay Mã lai. Ra dấu hiệu, tôi nói người chủ ghe nói bằng tiếng Tầu, họ hiểu. Nói cần ít thức ăn và nước uống. Họ đã cho nồi cơm và ít nước uống. Bàn với mọi người nên bỏ chút ít để họ giúp đỡ. Sau một hồi mặc cả, gom được ít vàng, đưa cho họ, nhờ họ dẫn dắt vào gần đất liền một chút. Họ nói sợ vì tầu tuần bắt được họ là chết. Tôi kêu thôi để đêm tối hãy làm. Và khi vào gần bờ tụi này sẽ lo liệu. Hơn 4 tiếng đồng hồ sau chúng tôi mới thấy bóng dáng bờ, ngoài xa là những ánh đèn ghe giăng lưới. Thôi thế là tạm yên.



    Mò mẫm vào được cửa sông, không một tầu tuần nào hay biết. Tới gần  tôi bơi vào bờ cầu cứu, người dân trông thấy họ đuổi ra. Nói ra lại tầu tụi Cảnh Sát nó biết nó sẽ ra ngay, nếu ở trên bờ nó bắt là chết. Lập tức tôi phóng xuông sông, một mảnh nhọn đâm sắc vào chân, máu tuôn sối xả, nhưng tôi chẳng biết đâu cứ thế mà lội ra ghe. Vừa leo lên ghe, trong bờ đã có tiếng loa và ánh đèn ra hiệu đi theo họ! Vòng vo trong lạch ,tôi lái tới cầu căn cứ, hóa ra đây là một làng của thị trấn Dungun. Họ lùa chúng tôi lên bờ, trong khi đám lính đi lục soát khắp ghe. Lếch thếch sắp hàng dọc trong sân trại lính, moị người mệt mỏi nằm la liệt trên mặt đất, những lời cầu kinh, khấn Phật cám ơn đã phù-hộ.



    Có lẽ rằng đã có những chiếc ghe khác tới đây trước đó ! Nên những người lính Mã lai họ cũng không lạ gì những người như chúng tôi, chỉ bắt tập trung vào một khu vực trong sân, chỉ nơi tiêu tiểu. Và tối hôm đó họ đã cho chúng tôi một bữa ăn nóng ‘Mì gói’.  Sướng làm sao! Bốn người lính gác chung quanh. Ăn xong chúng tôi lăn ra đất và ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Đêm lạnh nhưng có xá gì. Đất liền, Tư Do, như đã có. Mừng. Không hiểu giờ này ở nhà cha mẹ anh em tôi có mừng được như tôi bây giờ hay không? hay lại là những đêm ngày thao-thức.


    Mờ sáng nằm nhìn trời mừng rơi nước mắt. Bạn tôi đã ôm chầm lấy tôi và hai đứa cùng khóc,thế là nó đã thoát,nhưng không biết vợ con ra sao ? Vì vẫn chưa liên lạc được. Bữa ăn sáng với một nồi mì gói và ít lon CocaCola đã được trại lính tiếp tế qua Hội Hồng Thập Tự, Lưỡi Liềm Đỏ Mã Lai. Họ đã kêu tôi và chủ tầu lên hỏi cung, từ đâu đi, bao nhiêu người. Ai là chủ tầu, ai lái tầu? mọi cái tôi đều nói hết. Xế trưa, một chiếc xe Búyt của Hội Hồng Thập Tự MãLai đã tới và đưa chúng tôi tới một trại chuyển tiếp khác.



    Ba giờ xe Buýt tới Trangannu. Bàn chân tôi nhức nhối, mặc dù đã được trại lính băng bó. Đi khập khễnh, bạn tôi đã phải cõng tôi đi mỗi lúc cần.
   Ở trại chuyển tiếp,chúng tôi đã gặp một số anh em tới trước. Họ cũng đang chờ chuyến tầu chuyển qua đảo Pulau Bidong. Một tuần nằm chờ, cơm nước có Hội Hồng Thập Tự Malai lo nên cũng yên. Không một đồng xu dính túi, thèm thuốc lá không thể nào kiếm ra. Loay hoay làm quen với một vài người tới trước, họ chia cho vài điếu!
    5 ngày 5 đêm nay thì đã tới đất liền. Ngồi thầm nói “Cậu Mợ ơi, các em ơi! Nếu giờ này gia đình biết được con đã tới được bến bờ MaLai thì chắc mừng lắm.” 



 Tuy nhiên vài người khi còn ở trại Dungun họ đã nhờ lính MaLai gửi giúp những điện tín báo cho thân nhân bên nhà biết là chuyến đi đã tới bình an. Và nhờ đó người chủ ghe sẽ lại nhà thông báo cho gia đình tôi biết. Tôi chỉ chờ có vậy mà thôi.



    Tội nghiệp cho Mẹ tôi, vì lo cho chồng con mà sức khỏe hao mòn. Cha tôi cũng đã phải chịu 6 năm cải tạo suốt từ Long Khánh, Biên Hòa và Hoàng Liên Sơn, Yên Bái. Nghĩ đến những lần mẹ tôi và các em tôi quẩy trên lưng ít thức ăn tiếp tế, trong khi tại nhà mọi người vẫn phải lo từng ngày! Lòng tôi lại nghẹn ngào! Biết bao giờ tôi mới trả được ơn nghĩa sinh thành này. Những ngày chờ đợi, tuy có ăn, có yên, nhưng lòng tôi vẫn tê tái. Ra đi một mình không giúp được một ai trong anh em, gia đình. Tiếc nuối làm sao, lần trước cố đem đi người em trai đi, nhưng không thành phải trở lại, may không bị bắt. Số, tại số. Thôi cuộc đời đã không cho tôi được can đảm và khôn ngoan để bao bọc gia đình thì bây giờ tôi lại tự lo lắng cuộc sống mong có cơ hội giúp đỡ gia đình bằng cách khác vậy.
   


 Con tầu đưa chúng tôi ra đảo cũng khá lớn, chứa hơn 50 người, hơn một giờ tầu mới tới Pulau Bidong, trên cầu tầu, dọc theo bãi biển mọi người sắp hàng đón chúng tôi. Tầu vừa cặp cầu là đã có đại-diện phái-đoàn Cao-Ủy và phái đoàn-trại ra tiếp đón. Những tiếng reo hò, vỗ tay, những lời nồng nàn, ấm cúng, chào mừng chúng tôi đã đến được bến bờ Tư Do. Họ đã tập trung chúng tôi vào hôi trường để khai lý lịch và diễn biến cuộc hải trình. Bốn giờ làm việc, tôi mệt lả. Cũng vừa có tiếng kẻng lãnh cơm. Cũng may, có chút cơm nóng, cá kho, ăn vội cho yên bụng. Còn chuẩn bị cho buổi tối. Có được cái mùng, cái mền cũng đỡ, vài cái chén, đôi đũa, đó là gia tài của tôi khi tới trại. Bộ quần áo độc nhất từ ngày rời Việt Nam vẫn mặc cho đến lúc qua tới Bidong. Một giấc tới sáng không mộng-mị. Yên bình.
Nguyễn Trần Lê


KHÁNH GIAO * TRUYỆN TÙ CỘNG SẢN

Một Hạt Đậu Hai Người Khiêng
 
Khánh Giao
Thứ Ba, Ngày 31 tháng 5-2011
Trong trại tù Tiên Lãnh, khu nhà Ri thật đặc biệt. Tường là những tấm vĩ sắt (grille) xưa kia dùng lót phi đạo cho những phi trường dã chiến. Mái lợp tôn. Bởi thế, mặc dù tường có nhiều lỗ thông hơi tròn nhỏ, không khí trong phòng lúc nào cũng hâm hấp nóng về mùa Hè. Mùa Đông thì gió Bấc luồn vào lạnh thấu xương. Giường ngủ hai tầng là những sạp gỗ. Trên sạp tù nhân nằm sát nhau. Căn phòng 4 m X 12 m chứa trên 70 người. Tù nhân phần lớn là thanh niên và trung niên, phạm tội vượt biên.
Người tù trại cải tạo 23 tuổi
Một đêm Hè oi bức. Sáu giờ chiều thì cửa phòng đã khoá lại. Ðèn điện vẫn sáng cho đến 10 giờ. Ðứng ngoài đêm tối nhìn vào, nhà Ri giống như một lồng sắt to lớn nhốt thú vật. Anh em tù đều ở trần, tay phe phẩy quạt, ngồi tụm nhau để nói chuyện. Nhưng hoạt náo nhất là nhóm những người nghe chuyện kiếm hiệp Kim Dung do giáo sư Lộc kể. Anh ta nhớ từng chi tiết gay cấn, từng cá tính hài hước nhân vật, và gây cho người nghe sự háo hức say mê, và thỉnh thoảng một trận cười khoái trá. Tiểu thuyết Kim dung hàng chục quyển, mà truyện nào cũng tràng giang đại hải, bởi thế tháng nầy qua tháng nọ, Lộc có thể mang lại niềm vui cho anh em trại viên, nhất là làm cho họ quên đi phần nào nỗi đau buồn xa gia đình và thời gian dài dặc « nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại ». Ngoài chuyện kiếm hiêp dài hàng tháng, Lộc còn kể cho anh em nghe nhiều giai thoại hài hước Trạng Quỳnh, chuyện cổ tích Anderson, truyện Tàu từ Phong Thần, Ðông Chu Liệt Quốc đến Thanh Triều Cận Đại. Trí nhớ của anh thật phi thường, nhất là những nhận xét tinh tế của anh về nhân vật. Anh đọc được cả chữ Hán. Một hôm có trại viên gốc Tàu, tội vượt biên được thăm nuôi, mang vào nhiều gói quà bọc trong giấy báo cũ in toàn chữ Tàu. Lộc chú ý đọc và nhận ra đó là tờ Hồng Kông Báo. Tối ấy anh kể cho anh em một giai thoại văn học lý thú mà anh đã đọc trong tờ báo ấy :
Một học trò nghèo tên Trúc Nguyệt Ba lên Bắc Kinh dự thi. Song đến thủ phủ Giang Nam thì hết tiền độ nhật. Anh phải vào chùa thí phát để ăn nhờ cửa Phật. Một hôm ngồi tụng kinh ở chính điện, anh thấy một thiếu nữ đẹp tuyệt trần độ 16 tuổi vào lễ Phật có người hầu hạ đi theo. Anh muốn ghẹo cô. Thấy cô thanh tân, yễu điệu như cành liễu trước sân chùa, bèn vừa gõ mõ, vừa tụng bài thơ sau đây :
Giang Nam liễu, nộn lục bất thành âm.
Chi nhuyễn bất kham khinh chiết thủ
Huỳnh ly phi thượng lực năng cam.
Lưu thủ đãi xuân thâm.
(tạm dịch :
Liễu Giang Nam, xanh non như thể không có bóng. 
Cành mong manh không chịu nổi tay người bẽ phủ phàng,
 cũng như không chịu nổi sức nặng chim huỳnh ly bé bỏng. 
Thôi thì rụt tay lại đợi vài xuân nữa) 
Rủi cho chú tiểu, cô tiểu thư tên là Liễu Nộn Nộn, con quan Tổng Đốc Giang Nam. Nghe bài thơ cô hiểu ý, khóc lóc ra về kể cho cha nghe sự vô lễ của chú tiểu. Tổng Đốc cho lính bắt ngay chàng thanh niên xúc phạm đến tôn quý, nhất là tội thầy chùa phạm sắc giới, xử phải chết trầm mình dưới sông. Ông hoạ lại bài thơ ghẹo gái để minh chứng ông không xử oan. Biết anh ta họ Trúc, ông đọc bài hoạ như sau :
Giang Nam trúc, xảo tượng tác vi đồng.
Phó giữ pháp sư tàng pháp thể.
Giang ba thâm xứ, bạn ngư long.
Tất tri sắc sắc không không.
(tạm dịch :
Với trúc Giang Nam, tay khéo đan một chiếc lồng,
Để cho pháp sư ẩn tàng thân thể, 
Dưới thâm sâu sóng gió dòng sông làm bạn với cá rồng. 
Tất cảm nhận sắc đó rồi không đó). 
Trúc Nguyệt Ba trước khi chết xin quan cho hoạ thơ lần chót. Vì tên lót là Nguyệt anh ta đọc :
Giang Nam Nguyệt. Như cảnh diệc như câu.
Như cảnh bất lâm hồng phấn diện
Như câu bất thượng thuỷ liêm đồng.
Không tự chiếu đông lưu.
Tạm dịch :
Trăng Giang Nam. Khi như gương tròn, khi như móc câu.
Như gương tròn cũng không soi được mặt người đẹp hồng phấn.
Như móc câu cũng không treo được bức tranh thuỷ liêm nơi phòng khách sang trọng. 
Chỉ chiếu suông dòng nước chảy về Đông). 
Ý anh ta nói anh chẳng bao giờ có ý trèo cao, mà chỉ là trăng suông lạnh lẽo.
Quan Tổng Đốc thấy anh là ngưới có tài bèn bỏ tiền cho anh làm lộ phí vào Kinh thi. Quả nhiên Trúc Nguyệt Ba đậu Trạng Nguyên và trở về cưới Liễu Nộn Nộn làm vợ”. 
Ðời sống hàng ngày trong tù cũng là đầu đề cho Lộc kể những chuyện hóm hỉnh. Anh kể là khi xưa đồng quê Việt Nam hưởng thanh bình thực sự. Chứng cớ là chuyện bài thơ Con cóc. Một buổi chiều thơ mộng có nắng vàng, có đàn chim sẻ ríu rít trên mái nhà, ba chàng thư sinh đang nấu sử, xôi kinh chờ ngày ra kinh ứng thí, họp nhau trong sân nhà. Họ đang tìm đề tài để nhã ngọc, phun châu. Họ tư lự nhìn cảnh vật chung quanh. May thay có chú cóc, nghe gió chiều mát rợi thổi vào hang nằm dưới bậc cấp hàng hiên, liền nhảy ra. Thư sinh thứ nhất ứng khẩu đọc ngay :
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi ở miệng hang một lát để ngắm trời xanh biếc, phong cảnh quen thuộc chung quanh. Thư sinh thứ hai xuất tứ, nối tiếp :
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đó.
Ngắm cảnh chán,cóc phải nhảy đi dể tìm mồi. Thư sinh thứ ba tức cảnh sinh tình, đọc hai câu thơ chót :
Con cóc ngồi đó
Con cóc nhảy đi.
Ba chàng vổ tay khi hoàn thành bài thơ tuyệt hảo, và bài thơ đã đi vào lịch sử ! Dĩ nhiên trong cảnh thanh bình đó, bài thơ Con cóc có thể kéo dài vô tận, như là : Con cóc nhảy đi, nhảy vào bụi cỏ ... Nhưng trong trại tù của chúng ta bài thơ ấy chấm dứt rất nhanh :
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Con cóc nhảy ra
Con cóc chết.
Tại sao con cóc chết tức tưởi như vậy ? Vì nó sẽ bị trại viên tóm ngay, chặt đầu, lột da, bỏ vào gô cải thiện (gô là lon nhôm guigoz trong trại tù Cộng sản dùng để nấu nướng. Cải thiện tức là kiếm thêm chất thịt để bồi dưỡng, vì trong tù chỉ ăn cơm độn sắn với nước muối. Ăn uống trong trại tù Cộng sản kém cả chất lẫn lượng.) Ðây cũng là cách Lộc mỉa mai chế độ một cách sâu sắc.
Lộc nguyên là giáo sư Anh văn trường Trung học Phan chu Trinh, Ðà Nẵng. Tốt nghiệp Ðại Học Sư Phạm Sài Gòn môn Anh ngữ. Vì cận thị nặng anh được miễn quân dịch. Anh dạy học được 5 năm thì ngày 29/03/1975, Cộng quân chiếm Ðà Nẵng. Anh được lưu dụng, dạy Anh Ngữ. Song bấy giờ Nga ngữ thịnh hành hơn. Sự phân biệt đối xử với người chế độ cũ, chế độ đàn áp, độc tôn tư tưởng cùng sự dốt nát của cán bộ giáo dục và nhân viên nhà cầm quyền các cấp, làm anh thối chí, và nảy ý định vượt biên. Lộc cùng một số bạn bè vất vả kiếm tiền mua hải bàn, xăng nhớt, thuyền máy ... trong 5 tháng trời mới xong. Riêng Lộc đã phải vay mượn một số tiền lớn. Chuyến đi tuy tổ chức chu đáo, xuất phát từ Trại Cùi Hải Vân, song định mệnh vẫn mạnh hơn tính toán của con người. Sau khi mọi người đã xuống tàu, một tàu đánh cá nhỏ, vào lúc nửa khuya, thuyền trực chỉ ra khơi. Nhưng mới rời bờ đá độ 100 m thì thuyền máy Công an phục kích từ lâu đón bắt. Trọn 40 thanh niên, thiếu nữ bị áp tải về trại giam Chợ Cồn để thẫm vấn rồi sau một tháng tất cả đi cải tạo lao động tại Tiên Lãnh. Lộc và các bạn nhập vào nhà Ri. Thấm thoát mà đã 5 năm tù tội. Gia đình sa sút từ ngày mất miền Nam, Lộc ít được thăm nuôi, mỗi năm nhiều lắm hai lần. Ðồ thăm nuôi nghèo nàn, lèo tèo một thẫu thịt heo kho mặn, vài kí lô đường đen và ít đồ lặt vặt. Phần ăn trại cấp thì sắn là chính, gạo chỉ độ 100 gr mỗi bửa. Thức ăn thì độc một món, nước muối hoặc nước mắm cái nấu loãng. Ăn không no và không đủ chất lượng nên tù nhân chết vì suy dinh dưỡng rất nhiều. Muốn sinh tồn, phải cải thiện, nghĩa là mọi sinh vật dù nhỏ bé và gớm ghiếc đến đâu cũng bị trại viên chộp lấy nấu ăn. Bởi thế bài thơ con cóc kết thúc rất nhanh. Lộc cũng là một tay lão luyện trong nghề cải thiện. Nhưng như anh đã từng than phiền : “caution is not stronger than fate’’, anh là nạn nhân mà định mệnh đã chọn trong cuộc sinh tồn. Câu chuyện thương tâm sau đây đã hằn lên đời anh một vết thương chí mạng. Số là về mùa trồng đậu phụng, mỗi tối, trại viên phải làm thêm giờ gọi là tranh thủ. Ăn cơm tối xong, trại viên được nhà trưởng tập họp dẫn lên sân rộng trước nhà kho của trại để lột đậu. Cứ mỗi tốp 5 người ngồi vòng tròn dưới một gốc cây tàng lá sum sê, dưới ánh sáng một ngọn đèn điện 40 W mắc trên cành cây. Giống như một tiệm cà-phê ngoài trời ở Sài Gòn, song ở đây ngồi bệt dưới đất. Với mùa lột đậu, phải chuẩn bị một cái ghế nhỏ cầm tay hoặc một miếng gỗ dày để lót mông ngồi trong suốt 3 gìờ. Giữa vòng tròn 5 người là hai thúng đầy đậu vỏ, và một thúng trống để đựng đậu hột. Mỗi trại viên được phát một rổ nhỏ. Lấy đậu vỏ vào rổ, rồi trở về chỗ ngồi, bóp từng trái đậu vỏ vỡ ra, mà không làm nát hạt đậu ở trong. Vỏ đậu quăng ra dưới đất, còn hột đậu thì bỏ vào rổ. Khi lột hết rổ đậu thì mang đậu hột đổ vào thúng trống, rồi xúc đậu hột về chỗ, làm tiếp. Vừa lột đậu vừa chuyện vãn với nhau, hoặc nghe Lộc kể tiếp kiếm hiệp Kim Dung cũng là những phút thư giản trong cuộc sống ở trại, nhất là được hưởng gió mát và nhiều khi trăng thanh, giữa vùng rừng núi. Một cái thú nữa là thỉnh thoảng nhót một hạt đậu vừa béo vừa ngọt, mà cơ thể đang cần. Ai cũng ăn lén song rất thận trọng kẻo bọn cán bộ canh chừng, đi lãng vãng trong sân kho bắt gặp. Nhưng rủi cho Lộc. một sự rủi ro hi hữu, vì chỉ có mình anh bị bắt trong suốt mùa lột đậu năm ấy. Vừa lột đậu anh thong thả kể chuyện vui cười để che lấp mình đang nhai đậu sống.
Bỗng từ bóng tối góc sân, tên cán bộ bước ra, đi thẳng đến chỗ Lộc ngồi và ra lệnh :
- “Anh hãy mở miệng cho tôi xem’’.
Tái mặt, anh chưa biết phản ứng ra sao, thì tên cán bộ đã quát lớn :
- “Anh nghe rõ chưa, tôi bảo anh mở miệng ra xem’’. Lộc mở miệng song không thấy hạt đậu nào.
Tên cán bộ lại bảo :
- ‘’Anh lè lưỡi ra xem’’.
Lộc lè lưỡi ra, Lưỡi anh trắng nhờ nhờ, tố cáo rằng anh đã ăn đậu phụng. Tên cán bộ kéo anh ra giữa sân. Bốn tên cán bộ khác đã đến vây quanh anh. Năm tên đều mang bốt mà quân đội miền Nam trước kia dùng đi hành quân, loại bốt da cứng ( chúng tịch thu khi lục soát tù sĩ quan quân đội miền Nam trại Kỳ sơn lên Tiên lãnh). Lúc đầu thì chúng đấm vào mặt, bụng, ngực anh. Anh ngã xuống vài lần. Song chúng kéo anh đứng dậy. Một tên tuyên bố lớn tội trạng anh :
 - “Lâu nay chúng tôi biết đậu phụng lột thất thoát nhiều. Chúng tôi nghi các anh ăn lén. Nay bắt được, chúng tôi trừng trị nặng để các anh chừa thói ăn cắp tài sản Xã hội Chủ nghĩa’’.
Tên cán bộ quản giáo nhà Ri biết lý lịch của Lộc, sẵn dịp lại phun ra những lời phỉ báng theo lối giáo dục Cộng sản :
- “Anh Lộc là một giáo sư ở chế độ thối nát miền Nam. Bởi thế mang danh là nhà mô phạm dạy con em Cần, kiệm, liêm chính theo gương bác Hồ, anh là người ăn cắp, nêu gương xấu. Ðã biết các anh xấu xa từ bản chất, nên chúng tôi tập trung các anh lại để cải tạo. Song các anh vẫn thói nào tật nấy, không chịu sửa đổi, Nếu chúng tôi có tàn ác cũng chỉ để giáo dục các anh.’’
Lâu nay cán bộ trẻ trong trại có phong trào học võ. Họ bắt các trại viên giỏi võ, dạy họ học nào công phu, karaté v.v. Họ thường đem ứng dụng các thế võ học được trên thân thể trại viên phạm lỗi. Những trận đánh bề hội đồng thường xảy ra trên hiện trường lao động.Lộc bị rơi vào truờng hợp nầy. Năm tên cán bộ thay phiên nhau nhảy lên đá song phi vào người anh. Anh ngã xuống, chúng lại nâng anh đứng dậy. Mặt anh đã sưng phù, máu đã ứa ra khoé miệng. Cuối cùng, Lộc nằm bất động trên nền đất, thở thoi thóp. Thế mà bọn cán bộ vẫn chưa tha. Chúng còn đá thêm vào người anh. Tên giám thị trại sợ anh chết nên ra lịnh ngưng đánh và bắt hai trại viên nhà Ri khiêng anh không phải về bệnh xá, mà về nhà Ri. Anh em xúm xít lại quanh anh, trong ấy có cả một bác sĩ tội vượt biên, săn sóc cho anh hồi tỉnh. May mà không có xương nào gảy, chỉ rách môi và vài răng lung lay. Vết bầm thì khắp người. Anh phải nằm tịnh dưỡng suốt 15 ngày mới đi lại được. Nhân câu chuyện thương tâm trên kia, mới có truyền miệng giai thoại :’’một hạt đậu, hai người khiêng’’. Không phải là hạt đậu to nặng đến hai người khiêng, mà phải khiêng người ăn hạt đậu. Một câu chuyện cười ra nước mắt, mà chỉ chế độ vô nhân Xã hội chủ nghĩa mới có. Riêng với Lộc, đó là một biến cố ảnh hưởng sâu xa đến nội tâm anh. Mặc cảm một nhà sư phạm ăn lén vẫn là hình ảnh không đẹp, mặc dù những bức bách của tình thế. Bài thơ sau đây anh làm lúc nằm dưỡng bệnh ở nhà Ri :
Ông Trời sao quá bất công
Riêng tôi gánh chịu đau thương quá nhiều
Quyết tâm phấn đấu bao nhiêu
Bấy nhiêu tù tội, đói nghèo, đau thương
Mẹ già môt nắng hai sương
Chắt chiu dành dụm trăm đường lo toan
Nào là món nợ của con
Vựơt biên vay mượn lãi dồn càng cao
Thăm nuôi mẹ phải lao đao
Thân già nuôi trẻ biết bao đoạn trường
Sao con không nghĩ mẹ thương.
Thèm chi hạt đậu,mà vương trận đòn.
Yếu đau, thân thể hao mòn
Ðể mẹ lo lắng, để con hận đời.
Từ ngày bị trận đòn, Lộc trở nên lầm lì, ít nói. Bạn bè không còn được anh kể chuyện kiếm hiệp Kim Dung. Anh gầy đi, thỉnh thoảng lên cơn đau bụng. Nước da tái dần. Anh phải đi nằm bệnh xá và ít lâu sau được phóng thích vì lý do sức khoẻ. Nỗi mừng được sum họp với mẹ làm anh phấn khởi và tiếp tục phấn đấu để kiến tạo tương lai. Nhưng một tháng sau, mẹ anh đã vĩnh viễn ra đi sau hai ngày nằm cấp cứu ở bệnh viện Ða Khoa Ðà Nẵng vì nhồi máu cơ tim. Nỗi buồn mất mẹ làm anh nằm rũ liệt trên giường mất cả tuần Song anh chổi dậy, mặc dù sức khoẻ kém, mở các lớp Anh văn dạy, để lấy tiền. Trong một năm, công việc làm ăn của anh rất hanh thông. Lớp học anh đông vì thiên hạ đang chuẩn bị vốn Anh ngữ để đựơc nhận đi Mỹ theo chương trình ODP. Chính anh cũng ráo riết nộp đơn để chớp lấy cơ hội ngàn năm một thuở ... Với khả năng Anh văn lưu loát, anh thuyết phục phái đoàn phỏng vấn Hoa Kỳ dễ dàng để được nhận đi qua Mỹ đợt đầu. Cùng đi với anh có người vợ mới cưới, chị Hoa. Chị là học trò cũ của anh, đã mến phục anh từ lâu. Chính chị đã bỏ tiền ra săn sóc cho anh. Sức khoẻ anh có khôi phục đôi phần, Nước da bớt tái. Song anh biết bệnh anh trầm trọng mà chỉ ở Mỹ mới đủ phương tiện cứu anh thoát tay tử thần. Chính vì lý do đó mà anh phấn đãu hết mình để được ra đi sớm, Nhưng số mệnh khắc nghiệt vẫn không tha cho anh. Anh được phái đoàn Mỹ cấp vé máy bay từ Ðà Nẵng vào Sài Gòn ngày Chủ Nhật tháng 09/1989. Sáng Thứ Hai anh đến cơ quan Mỹ nhận giấy tờ để lên máy bay đi Mỹ ngày Thứ Ba. Song tối Thứ Hai ấy anh lên cơn đau bụng cấp. Ðược chở vào Bệnh Viện Chợ Rẩy, anh chết vào lúc nửa khuya, chỉ một mình chị Hoa đứng ở đầu giường. Sau nầy Bệnh viện cho hay là anh chết vì xuất huyết nội trầm trọng. Có một bác sĩ, bạn Lộc ở Ðà Nẵng quả quyết có nghe tiếng xì (souffle) vùng gan, mà anh nghi là có anévrysme trong gan của Lộc, hậu quả của cuộc bề hội đồng trong trại tù. Xuất huyết nội của Lộc chắc là do vở Anévrysme trong gan.
Chị Hoa sau tang lễ chồng, ngậm ngừi lên máy bay định cư ở tiểu bang Chicago. Chị vẫn ở vậy thờ chồng và thường năm về viếng mộ anh ở nghĩa địa gia đình họ Võ, làng Xuyên Trà, Duy Xuyên. Cách đây ít năm chị có khoe tôi là đã xây cất cho Lộc một nhà mồ khang trang. Trên mộ chí có ghi bài thơ Ðường anh làm :
Tôi cố sống sao đúng kiếp người
Kiếp người bi thảm lắm ai ơi
Hỏi tra triết học thêm nghi hoặc
Tìm kiếm văn chương lại rối bời
Vật chất văn minh nhiều kẻ chuộng
Tinh thần tôn giáo ít người noi
Ðâu là chân lý đi tìm mãi
Bí mật huyền cơ tận cuối đời.  
Nếu Lộc được cái may đến bến bờ tự do, chắc anh sẽ có nhiều đóng góp với văn học hải ngoại. Cũng có thể anh sẽ sống yên lành, chỉ chia xẻ tâm tình với vài bạn hữu. Anh là người ham học hỏi, tìm ý nghĩa cuộc sống. Ðau khổ cho anh cảm nhận sâu sắc cuộc sống phù du và anh trân quý những biểu tượng đẹp. Hành động đẹp, tư tưởng đẹp mà không cần một hệ qui chiếu nào. Nói như Lâm ngữ Ðuờng, sau một thời theo những qui tắc luân lý Thiên chúa giáo, đã trở về với cội nguồn triết lý Khổng Mạnh : Tại sao chúng ta không làm một cử chỉ đẹp chỉ vì nó đẹp ?. Anh sống hoà hợp với mọi người và thấy khía cạnh tốt đẹp của họ hơn là chê bai, đả kích Anh thấy chung quanh mình bao nhiêu người, tài hoa đa dạng, đang cố làm đẹp cuộc đời, chứ không phải đi tìm bất tử. Biết bao nhiêu tài hoa trong quá khứ, chết đi mà không để lại cho loài người dấu vết gì, mặc dù họ sống rất đẹp. Anh cũng có cái nhìn bao dung cho những bài thơ con cóc, và chỉ thấy ở đó sự chơn chất của những người bình dị. Tuy cuộc đời anh xui tận mạng, song anh vẫn phấn đãu làm đẹp cuộc đời. Anh chống đối đến cùng những thế lực làm xấu cuộc đòi, như chế độ Cộng sản, bằng những vũ khí mình có được, là những hiểu biết uyên bác và đôi khi với mĩa mai, chế riễu.
Khánh Giao



SƠN TRUNG * HOÀNG ĐẾ TUẦN DU

HOÀNG ĐẾ TUẦN DU

Lúc bấy giờ khắp xứ mất mùa liên tiếp, dân chúng đói khổ. Ban đêm, bọn trộm đi đào khoai, bẻ bắp ngoài nương. Sau ngoài nương rẫy không còn gì nữa, bọn trộm vào nhà chặt chuối, hái cam, ổi và trộm lúa gạo những nhà có máu mặt. Bọn ăn trộm ngày càng nhiều, chúng ngang nhiên kéo đoàn, kéo lũ đi ban ngày cướp của nhà giàu và cướp kho gạo và kho bạc của phủ huyện. Trong đám cướp ô hợp này có Hồ Đại Đởm quê tại Nghi An, sức địch muôn người, nên được chúng tôn lên làm chủ soái, tục danh là ‘’quận[1] Đỏ’’ vì mặt mũi và tóc tai của chàng đều đỏ. Chàng tụ tập dân làng vài trăm, chiếm ngọn Cao Sơn là nơi hiểm trở làm căn cứ địa. Cạnh Cao Sơn là đèo Tung Sơn là con đường giao thông Bắc Nam cho nên ai cũng phải đi qua nơi này. Hồ Đại Đởm thường cho thủ hạ phục kich nơi này cướp bóc dân chúng. Thỉnh thoảng Hồ Đại Đởm đem quân đi đánh các thôn trang và phủ huyện chiếm vàng bạc, vải vóc và lúa gạo. Hồ Đại Đởm là người tinh thông võ nghệ nhưng cũng thuộc hạng lắm cơ mưu. Hồ tuyên bố làm cuộc cách mạng bình đẳng, ấm no, lấy của nhà giàu chia cho người nghèo nên được nguời nghèo và giàu theo ủng hộ. Ban đầu chỉ là quân cướp núi, sau lực lượng hùng mạnh, đánh tan các bọn cướp khác, lập thành một triều đình, và xưng vương, hiệu là Cùng khổ đại vương. Quan quân thua trận, Hồ binh chiếm nửa nước, rồi chiếm trọn nước.

Nhờ công cuộc “cách mạng” vĩ đại thành công, Hồ được toàn đảng, toàn dân tôn lên làm hoàng đế. Từ thôn quê đến thành thị, nhà nhà và các cơ quan bộ viện và huyện xã đều phải treo chân dung của tân hoàng đế. Nếu ai bất tuân phải chịu tội, có thể ngồi tù suốt đời. Mọi người được các quan lại triều đình bắt phải hô to khẩu hiệu" hoàng đế vạn tuế", "cách mạng muôn năm " và mọi người được học tập rằng vị hoàng đế của họ là một bậc đại nhân, đại nghĩa, đại trí và đại dũng. Hoàng đế là bậc minh quân thánh đế, luôn luôn lo nghĩ đến đời sống của nhân dân. Đức vua và triều đình thường vạch kế hoạch năm năm, mười năm để đưa đất nước giàu mạnh gấp mười lần xưa. Các vị thượng thư, các bộ viện tháng tháng dâng lên những báo cáo rất khả quan. Nào là sản phẩm nông nghiệp tăng gấp ba thời trước, diện tích đất đai sản xuất tăng gấp mười, công nghiệp đứng đầu thế giới, nhân dân ấm no, hạnh phúc, và nước ta hoàn toàn xòa đói giảm nghèo.



Ngôi trong cung mãi cũng chán, đức vua muốn đi tham quan thực tế cho biết đời sống của nhân dân ra sao. Điểm quan trọng mà hoàng thượng muốn đến tham quan ngay ngày hôm sau là nhà máy đúc thép Đại Đồng, là một nhà máy đã được các hội nghị khoa học toàn quốc và toàn thế giới đánh giá là lớn nhất thế giới, sản lượng hàng năm là hàng triệu tấn thép, và là một thứ thép tốt nhất thế giới. Tin này được truyền ra khiến Ban tổ chức triều đình quýnh lên. Họ liền cấp tốc triệu tập một buổi họp bí mật gọi là cuộc hội thảo khoa học khẩn cấp để giải quyết tình hình. Tất cả nhà cửa của dân chúng gần vệ đường mà đức vua sẽ đi qua trong một đêm bị triệt hạ sạch, và người ta triệu tập hàng ngàn nông dân trong một đêm phải nhổ lúa ở các cánh đồng xa đến trồng nơi đây để tạo một cánh đồng xanh vô tận. Khi xa giá hoàng thượng đi qua thì đám cận thần chỉ cho vua thấy cánh đồng lúa xanh tươi đến tận chân trời. Và họ tâu rằng nhờ ơn hoàng đế, khắp nước lúa tốt, mùa màng thu hoạch hàng triệu triệu tấn thóc, dân chúng ấm no, hạnh phúc. Và cũng trong một đêm, triều đình cho binh sĩ đột nhập nhà dân chúng tịch thu tất cả đồ kim loại như dao, kéo, búa rìu, soong nhôm, chậu đồng để cung cấp cho nhà máy đúc thép. Khi vua đến nhà máy Đại Đồng, thì các nồi nấu kim loại đang sục sôi, và đổ ra hàng tấn thép. Vua nhìn thấy cảnh tượng như vậy thì rất phấn khởi. Sau cuộc tham quan, đức vua được ban quản trị nhà máy mời vào phòng ăn dùng bữa. Bất ngờ, Hoàng thượng muốn dùng bữa theo kiểu Tây dương cho nên nhà bếp phải dâng nhiều món lạ trong đó có món thịt bò bip tếch, và phải dâng các thứ dao, muỗng nĩa để đức vua dùng. Đức vua ngồi vào bàn, dùng nĩa, dao, muỗng thì vừa khẻ nhấn xuống, nĩa cũng như dao, muỗng đều gãy. Đức vua nhìn kỹ thì dao, muỗng, nỉa đều mang nhãn hiệu nhà máy Đại Đồng sản xuất. Đức vua nổi giận, kêu giám đốc nhà máy và bọn kỹ sư lại tra vấn:

-Tại sao các bản báo cáo đến nói thép Đại Đồng tốt nhất thế sao không cắt đuợc thịt, chỉ đè mạnh là gãy đôi?

Ngài không cho viên giám đốc nói, mà ngài chỉ mặt một kỹ sư trẻ, bắt hắn phải trả lời. Viên kỷ sư trẻ lúng túng, vì tính thật thà và quá sợ hãi đã tâu thật:

-Muôn tâu bệ hạ, nước ta kỹ thuật còn yếu kém, cho nên không tinh luyện đuợc thép tốt, không thể dùng xây nhà, làm cầu, ngay cả làm muỗng nỉa không được tốt. phải nhập cẳng hàng nước ngoài. Vì uy tín quốc gia, các quan đại thần phải nói quá sự thật để cho thế giới khâm phục, nhất là bọn lân bang và bọn đế quốc không khi dể ta..

Đức vua nhớ trong các bữa ăn tại hoàng cung, dao, kéo, muổng, nỉa rất tốt, cũng nhãn hiệu Đại Đồng. Thế sao hai bên khác nhau? Đức vua bèn gọi quan nội thần để tra hỏi. Viên nội thần phải nói thật là các đồ dùng trong cung vốn là đồ nhập cảng đế quốc, khi mua về thì ngài thượng thư bộ Cung Đình dạy xé bỏ nhãn hiệu ngoại quốc, dán nhãn hiệu Đại Đồng, và khắc chạm nhãn hiệu Đại Đồng. . .

Đức vua tức giận, bèn cùng các kỹ sư đi khám xét các kho hàng, khi lôi một kho hàng ra xem thì thấy toàn dao, kéo, búa, liềm, muổng nĩa, mâm thau, chậu đồng cũ xì, mốc thếch và dơ bẩn chất ngỗn ngang trong kho để chờ lệnh nấu lại các mẻ gang thép trình diễn cho vua và thế giới đến xem.



Ở trong nhà máy quá nóng, và đang bực mình vì bị bộ hạ thân tín lừa đối, đức vua bèn ra ngoài sân đi dạo. Xung quanh nhà máy, cây cối rất nhiều và rất xanh tươi. Những cây cam, cây bưởi trĩu nặng trái, những cây hồng, cây đào, cây mận, hoa tím, hoa xanh, hoa hồng rực rỡ. Vua ngắt thử một bông hoa thì tay vua dính đầy mực. Vua xem kỹ thì toàn là hoa giấy. Vua bèn hái thử một trái cam, thì hóa ra cam giả. Người ta đem các trái cam cắm vào các cành cam. Vua tức giận, nhổ thử một cây táo, thì cây táo chỉ là cành cây cắm xuống đất. Vua nhổ thêm vài cây trúc, cây mai, cây thông thì cũng chỉ là cành cây vừa cắm vội xuống đất. Vua tức giận truyền lệnh bắt giam cả bọn. Tin tức truyền ra làm náo động muôn dân. Nhà vua tức giận vì bọn chúng mang tội phản nghịch và khi quân phạm thượng dám dối gạt vua. Khi vua trở về kinh đô, vua ra lệnh các quan viện Hàn Lâm soạn thảo chiếu chỉ, chém đầu bọn cận thần trong cung và bọn lãnh đạo nhà máy Đại Đồng để làm gương cho thiên hạ. Bọn họ thảo chiểu chỉ xong đệ trình vua, chỉ chờ vua ký là đem ra thi hành. Vừa ngồi xuống ghế định ký chiếu chỉ, vua đã thiu thiu ngủ. Vua chợt thấy một vị hung thần hiện ra, mặt đanh ác, răng nhọn chỉa ra như răng lợn rừng, một tay cầm liềm, một tay cầm búa là hai thứ tuyệt thế vũ khí của ngài. Thần linh giận dữ , chỉ mặt vua và nói:

Ta là Ma đạo giáo chủ, chưởng quản ba ngàn thế giới. Ngươi vì tự ái mà muốn chém giết bọn kia hay sao? Ngươi với chúng thật ra là một bọn lưu manh, gian ác. Ngươi cũng lường gạt dân chúng, bảo rằng cướp của nhà giàu chia cho người nghèo nhưng sự thiệt là vàng bạc vào tay bọn ngươi, dân chúng chẳng có cắc bạc hay hột gạo nào. Ngươi nói chia ruộng đất cho dân nghèo nhưng mi cho họ có ruộng đất được vài tháng thì mi thu lại, bắt dân làm nông nô cho mi. Mi huyênh hoang dân chứng dưới chế độ mi không còn cảnh con trâu đi trước cái cày theo sau. Mi mua cày máy đem về cho dân mừng, it bữa mi bán cày máy lấy tiền bỏ túi, dân bây giờ phải cày thay trâu!. Ngày nay người ta chế ra cái xe hơi , chạy khoảng 100km/giờ là an toàn. Cái gì cũng có giới hạn, làm sao tăng năng suất gấp năm, gấp mười? Lái xe 200km/giờ là tự sát. Rõ thật tụi bây xảo trá. Mi tuyên bố láo lếu, vạch kế hoặch nọ, kế hoạch kia, tăng năng suất 30%, 60%., 500% là láo khoét. Một mẫu ruộng làm sao thu hoạch năm tấn, bảy tấn một mùa dù cho có giống lúa thần và phân bón tiên! Mi vạch kế hoạch như vậy thì dân với kỹ thuật hiện nay không thực hiện được thì bọn chân tay mi phải nói láo cho mi vui lòng. Nếu chúnbg nói thật thì mi giết chúng, hoặc cách chức chúng. Vì miếng cơm, chúng phải nói dối! Chính mi bắt chúng nói láo, tập cho chúng nói dối. Trăm ngàn tội lỗi là do mi. Tội mi còn nặng hơn. Mi đã bán nước cho ngoại bang để cầu viện trợ ngoại quốc mà lại khoe mẽ tình bè bạn anh em quốc tế!. Và cũng nhờ bọn kia cùng người khủng bố, tàn sát và dối gạt nhân dân mà mi thành công. Chúng thật ra chỉ theo học sách của ngươi. Nếu chúng có sai lầm thì chỉ “xử lý nội bộ” không nên đem ra chém giết. Không có chúng nó thì làm sao ngươi tồn tại và ta được thờ lạy, và được người ca tụng hoan hô ta? Nếu giết chúng thì sau này ai nối nghiệp ta?

Hôm sau, lúc rạng đông, đức vua bèn ra lệnh một viên Lang trung bộ Hình đến pháp trường đọc chiếu chỉ::

Hoàng đế công minh chính trực, ra lệnh chém đầu bọn giám đốc và phó giám đốc nhà máy Đại Đồng là Nguyễn Văn, Trần Thái, Lâm Liệt vì tội khi quân phạm thượng, lừa dân dối nước. Những bọn khác có liên quan tội tên sẽ bị tù chung thân khổ sai.

Khâm thử!



Chiếu chỉ đọc xong, Hình bộ đem một lũ tù hình sự ra chém đầu, còn bọn giám đốc nhà máy Đại Đồng và những người liên hệ thì thả ra, cho đổi tên họ và chuyển qua làm công tác khác, quyền chức cao hơn và ăn cũng ngon hơn.





--------------------------------------------------------------------------------

[1] Đời Lê mạt, các công thần thường được ban tước quận công. Bọn cướp cũng xưng là quận công như quận he, quận Hẻo, quận Cầu ngoài Bắc. Làm quận công rất sướng. Tục ngữ có câu : Nhất quận công,nhì ỉa đồng.. Trong khi đó, Tây Sơn thường phong cho các tướng là đô đốc.

KHUYẾT DANH * TRUYỆN MA

Kinh hoàng trong đêm

 
Tôi có người cậu lúc trước làm trong ban bảo quản nhà thương được vài năm trước khi sự việc xảy ra. Một câu chuyện đáng ghi nhớ nhất vào thời thơ ấu của tôi, khi cậu tôi kể về sự kinh hoàng mà ông ấy gặp phải vào một đêm để rồi sau đó ông xin nghỉ việc luôn. Tôi nhớ câu chuyện này rất kỹ vì đó là dịp hiếm có, chúng tôi đã năn nỉ ông ấy kể, lúc kể ông có vẻ như đang đi vào một trạng thái xuất thần. ...

Giọng của ông trở nên đều đều và ông cố gắng tránh bất cứ sự xúc động nào...

Ảnh

Khi mới làm việc tại bệnh viện, ông để ý có một căn phòng đặc biệt trong khu bệnh thần kinh mà không bao giờ dùng đến vã lại cửa phòng luôn luôn khóa chặt. Lúc nào ông hỏi thì người Giám Ðốc hoặc là những người làm chung đều nói rằng "đừng thắc mắc" và họ nhanh chóng đổi sang chuyện khác. Ðôi khi họ còn giả bộ không nghe ông hỏi và lờ đị

Vào một đêm khuya, ông thay bóng đèn điện trên trần nhà ở hành lang cách căn phòng này không xạ Gắn bóng đèn mới xong ông vừa leo xuống thang thì bóng đèn mới thay bỗng chớp chớp mấy cái rồi tắt. Ngay lúc này ông để ý thấy nhiệt độ bỗng nhiên xuống thấp và một mùi kỳ lạ từ đâu tỏa ra khắp cả hành lang như một làn khói vô hình.

Ông phải đi ngang qua cái phòng đó về khu vực chính của bệnh viện để lấy một bóng đèn khác, khi gần đến cửa phòng lúc nào cũng khóa mùi hôi thối bắt đầu nồng nặc, rồi ông nghe những tiếng lạ lùng quái gỡ phát ra từ chung quanh cánh cửa đó.

Lúc đầu thì có tiếng giống như ai đang hát, nhưng rồi nó trầm xuống với một giọng lầm bầm lạ lùng. Những tiếng kế tiếp, ông nghe được mang một nỗi xúc động sầu thương: có lúc như là giận dữ, có lúc thì sợ sệt. Mặc dù, không nhận ra được gì, nhưng nó nghe như tiếng bà nội đã qua đời của ông vậỵ

"Mike", tiếng thân yêu quen thuộc khóc lớn, "Cứu bà Mike, chỉ có con mới cứu được bà. Bà ở đây nè, nhanh lên Mikẹ Hãy nhanh lên!"

Lúc đó, cả người đều lạnh ngắt ông thấy thật bối rối, chuyện này làm sao mà xảy ra được? Bà nội đã chết hơn 20 năm rồi mà. Lúc đó người cậu lớn tuổi của tôi tự nhiên sụt sùi khóc như một đứa trẻ thơ.

Ðằng sau giọng nói cầu cứu của bà nội, ông còn nghe được một tiếng kỳ hoặc giống như tiếng cười giễu cợt từ một âm thanh... không thuộc thế giới nàỵ Như là có lực lượng nào thúc đẩy, ông đi đến định mở cửa phòng, nhưng khi vừa cầm cái nắm cửa, ông ngửi thấy mùi cháy khét rất khó chịu nơi bàn tay của ông, và nó đã để lại một vết thẹo lưỡi liềm mà ông phải mang theo cả cuộc đời như là một sự nhắc nhở đau lòng.

Sau đó cái nắm cửa bắt đầu tự động vặn tới vặn lui, rồi đến cả cánh cửa đều rung rinh thật mạnh, tiếp theo là tiếng đập và đá trên cánh cửa rất dữ dội như có ai (hay cái gì đó) bên kia cửa đang cố gắng phá tung cửa để đi rạ

Dưới sự việc như vậy, ông biết rằng mình phải rời khỏi chỗ này ngay lập tức, nên ông chạy nhanh như bay xuống hành lang không thèm quay đầu lại, ở sau lưng tiếng cười kỳ hoặc càng ngày càng vang lớn hơn. Khi chạy ra khỏi đến được bàn làm việc của nhân viên y tá, ông ngã quỵ xuống đất ngất xỉụ

Khi tỉnh dậy, mọi người đứng xung quanh đều ngạc nhiên không hiểu chuyện gì đã xảy ra cho ông. Khi người y tá đến săn sóc vết phỏng, ông đã kể lại những gì ông mới vừa chứng kiến.

Không ai dám đi một mình đến hành lang đó để dò xét, nên người Giám Ðốc đã phái hai người làm việc đến đó để xem tình hình ra saọ Khi trở lại, một trong hai người được phái đi không nói gì hết, anh ta chỉ đi thẳng đến nơi máng áo chụp lấy chiếc áo khoác và lặng thing đi thẳng ra cửạ Còn người thứ hai nói rằng không có chuyện gì lạ xảy ra hết, chiếc thang vẫn còn để ở hành lang như cậu tôi đã để và bóng đèn thì vẫn cháy sáng như thường.

Vài hôm sau, người được phái đi xem xét, để rồi phải nghỉ việc luôn, gọi điện thoại cho cậu tôi và nói với cậu tôi rằng ông ta cũng có một kinh nghiệm giống như vậy nhưng chỉ khác rằng tiếng của người nói bên kia cửa là tiếng của người anh của ông đã chết từ lâụ Và ông cũng nghe được những nỗi xúc động ào ạc không sao diễn tả được từ bên kia cánh cửạ Sau khi nghe xong, cậu của tôi quyết định xin nghỉ việc luôn.

Khi đến gặp người Giám Ðốc để đưa đơn thôi việc, thì cậu mới biết là mình đã bị đuổi ngay đêm hôm đó, và ông còn bị cảnh cáo rằng không được nói chuyện này với bất cứ một ai.

THANH THANH * DUY NĂNG

ĐẾN YOSEMITE

NGHĨ VỀ VIỆT-NAM 
 
 
Tôi đến thăm Yosemite
Vừa từ một đất nước ra đi
Nhìn sông nhìn núi nhìn muôn vẻ
Thơ thẩn trong lòng những nghĩ suy
 
Ôi núi sông này ở một phương
Bên bờ xa thẳm Thái Bình Dương
Có chi khác lạ trong trời đất?
Sao thấy hồn đau nỗi xót thương
 
Bao nhiêu hùng vĩ núi sông này
Có khác gì không, đó với đây
Tôi đến thăm nhìn sao bỗng thấy
Niềm vui xen lẫn nỗi chua cay
 
Non nước tôi trời đất đã cho
Bốn thiên niên kỷ đắp vun bờ
Cớ sao non nước thành xơ xác?
Người một phương mà dạ ngẩn ngơ
 
Người đến đây, Yosemite
Từ khắp bao phương lạ đổ về
Cây cỏ chim muông đời rộng mở
Không nhìn sau trước, không e dè
 
Nói với nhau những gì muốn nói
Trên đường đi không ngại bót đồn
Con sóc nhỏ qua đường chậm lại
Người dừng chân đợi sóc thong dong
 
Ban đêm giấc ngủ đến yên lành
Rất đẹp em và rất đẹp anh
Cuộc sống thênh thang đời mộng tưởng
Lớn dần hương sắc chuyện năm canh
 
Nhởn nhơ ai cũng đầy mơ ước
Hiện rõ trên từng khuôn mặt riêng
Tiếng nói nụ cười không chải chuốt
Không vương vầng trán nét ưu phiền
 
Tôi đến đây dù mới thoáng qua
Lòng bâng khuâng với nỗi quê nhà
Núi sông đâu khác trời cao rộng
Chợt nghĩ mà dâng những xót xa
 
Có khác gì sao cõi lạ này
Cuộc đời mãi mãi rộng dang tay
Còn phương Bách Việt đời thăm thẳm
Tăm tối trùm lên ngày nối ngày
 
Tôi về đây, Yosemite
Mà nhớ mà thương đến những gì
Cuộc mới, nhìn lui về... cố xứ
Thấy ngày mai khác buổi ra đi ...
 
                                       DUY NĂNG
 

 

 

TO YOSEMITE

THINKING BACK TO VIETNAM
 
 
To visit picturesque Yosemite, here I came
Just by becoming an exile being affected;
I looked at this scenery of universal fame
Upon which from my heart I sadly reflected.
 
Oh, this land in this corner of plain mirth
Over this far-away Pacific Ocean shore!
Any unusual things in the entrails of the earth
That send my sobbing soul sinking in sore?
 
How great mountains and rivers: this version!
But, why is it to differ from this glitter
So that suddenly I felt on a mere excursion
A confusing mixture of blithe and bitter?
 
My native home Nature had favored its flag
Nearly five thousand years to fly in its domain.
Alas! Who began to render it a tattered rag?
Its subjects scattered, sulking, suffering pain!
 
People have flocked to Yosemite here,
Each a contentment receiver and a peace giver.
Plants and trees, birds and beasts: clear sphere;
No cause to worry, fear, hesitate, shiver.
 
You may express to one another each view:
No police cordons on your way, the heavy load.
Everybody would stop and wait as due
For the tiny squirrel carefree to cross the road.
 
Night after night your sleep comes securely,
All right for you, honey, and for me too.
Life is wide and smooth like dreams to surely
Increase sounds and colors all the time through.
 
One nurtures of happiness a good sense
Obviously on his or her own face to tomorrow.
His talk and her smile need not be a pretense;
Your foreheads are not furrowed by sorrow.
 
Although for a brief moment here I came,
I did bear a grief for my old nation’s sake.
Such high sky and deep waters are the same,
But just pondering over it makes my heart ache.
 
No difference, yet why in this strange world

Life has incessantly offered its open arms

While my left-behind Vietnam is swirled
Down into misery by the evil that only harms.
 
Well, Yosemite! I have already come here,
This beautiful site, from such a dark chapter.
I think back to my former country dear
And crave for a near future filled with rapture.
 
              Verse translation by THANH-THANH
 
 

From: Chinh Nguyen
To:
Sent: Monday, June 24, 2013 8:49 AM
Subject: [DaiHocVanKhoaSG] Chiều Tưởng NIệm June 30, 2013

Kính chào quí vị.

Chiều Văn Thơ Tưởng Niệm
 
Trong mục đích nhắc nhở về những khuôn  mặt văn nghệ đã đóng góp nhiều trong sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật của Người Việt Hải Ngoại.
Cơ Sở Thi Văn Lạc Việt Trân Trọng Kính Mời Quý Thính Giả bớt chút thời giờ tham dự Một Sinh Hoạt Văn Nghệ độc đáo, ý nghĩa, hiếm có nhất từ trước đến nay.
 
Chiều Tưởng Niệm: Nữ Sĩ Trùng Quang, Nhà Thơ Hà Thượng Nhân, Bình Luận Gia Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Và Nhà Thơ Hà Ly Mạc.
Lúc 1 giờ 30 chiều Chủ Nhật ngày 30 tháng 6 năm 2013, Tại Hí viện trường trung học Yerba Buena, 1855 Lucretia, San Jose.
 
- Với phần vinh danh của thành phố San Jose cho những đóng góp giá trị văn chương, văn hóa của các tác giả kể trên.
- Nhiều diễn giả và thân nhân nói về tác phẩm, cuộc đời của những người đã khuất.
- Phần văn nghệ đặc sắc hướng về những sáng tác văn nghệ của những nhà văn, nhà thơ nhà báo, ở San Jose vừa mới qua đời trong thời gian qua. 
  Được diễn đạt qua những nghệ sĩ: La Vân, Nguyễn Mạnh Hùng, Bảo Ngọc, Y Thức, Thu Tâm, Thu Nga, Vũ Thơ Trinh, Kiều Loan, Nguyên Mai.
- Có thức ăn nhẹ và nước uống.
- Chưa kể mỗi quý khách tham dự còn đươc tặng một tác phẩm do Cơ Sở Thi Văn Lạc Việt và Nhà Xuất Bản Thằng Mõ thân tặng trong dịp kỷ niệm đặc biệt này.
- Buổi sinh hoạt được bảo trợ bởi:
* Hoa Hậu Á Châu Thế Giới 2012 Bích Liên, Tổng Giám Đốc Công Ty Dược Mỹ Phẩm EV Princess và hệ thống Trung Tâm Thẩm Mỹ Bích Liên Skin Care về tài chánh 
* Cùng nhiều cơ quan truyền thông trong vùng về quảng bá
- Mọi thắc mắc xin liên lạc: Nhà Thơ Đông Anh (408) 896-0158, Nhà Thơ chinh Nguyên (408) 279-2532.
- Vào cửa tự do.
 
Hân hạnh được tiếp đón quí vị.

Cơ Sở Thi Văn Lạc Việt Kính Mời.

  
posterrg.jpg


Chinh Nguyên L19

 stampvtlvjpeg.jpg
 
 
 
 
 


 

No comments:

Post a Comment