Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Wednesday, 30 November 2016

CÁC NGÔI CHÙA NỔI TIẾNG TRÊN THẾ GIỚI =CỘNG SẢN=

CÁC NGÔI CHÙA NỔI TIẾNG TRÊN THẾ GIỚI

2013-04-26 09:45:20

CÁC NGÔI CHÙA NỔI TIẾNG 
TRÊN THẾ GIỚI



1. Haeinsa, Hàn Quốc



Ngôi chùa Haeinsa (Hải Ấn tự) nằm trên núi Kaya là một trong những ngôi chùa Phật giáo quan trọng nhất ở Hàn Quốc. Chùa được xây dựng lần đầu tiên năm 802 và được tái thiết lại năm 1818 sau vụ hỏa hoạn thiêu rụi toàn bộ ngôi chùa xảy ra năm 1817. Kho báu ngàn đời của ngôi chùa chính là những tấm gỗ Tripitaka Koreana (Tam Tạng) – một bộ sưu tập đầy đủ nhất các bản kinh, giáo pháp và những thỏa ước Phật giáo còn tồn tại cho đến ngày nay được khắc trên 80.000 tấm gỗ từ năm 1237 đến 1247, được UNESCO chính thức công nhận là Di sản Thế giới năm 1995.


2. Wat Arun, Thái Lan 




Wat Arun hay còn gọi là Chùa Bình Minh nằm bên bờ Thonburi trên dòng sông Chao Phraya, tỉnh Nakhon Sawan, Thái Lan là một trong những ngôi chùa Phật giáo đẹp nhất, cổ kính nhất, thu hút nhiều khách du lịch nhất thủ đô Bangkok, có mô phỏng kiến trúc “Núi vũ trụ Meru” (Mount Meru) của người Ấn Độ. Trong chùa có tháp Phra Prang cao 79m được khảm sành sứ Trung Hoa trên mái nhà và các bệ. Mặc dù là chùa Bình Minh nhưng cảnh chùa được ưa thích nhất lại là lúc mặt trời lặn. 
3. Pha That Luang, Lào



Chùa Pha That Luang theo tiếng thổ ngữ có nghĩa là Tháp vĩ đại hay Tháp xá lợi linh thiêng là một trong những khu di tích quan trọng nhất tại Viêng Chăn, Lào. Được xây dựng năm 1566 dưới triều đại vua Setthathirat (1534 – 1572) theo hình một nậm rượu dát vàng, bên trên phế tích một ngôi đền Khmer trước đó, ngôi chùa có dáng hình một khối tháp uy nghi, khổng lồ đại diện cho sự giác ngộ Phật giáo, trong đó nơi cao nhất đại diện cho thế giới hư vô, nơi thấp nhất đại diện cho thế giới vật chất. Pha That Luang bị phá hủy trong cuộc xâm lược của người Thái năm 1828, được người Pháo xây dựng lại năm 1931.

4. Jokhang, Tây Tạng 



Đại chiêu tự Jokhang, ngôi chùa linh thiêng theo Phật giáo Mật Tông nằm trong trung tâm phố cổ Lhasa ở Barkhor, Tây Tạng là nơi thu hút hàng nghìn tín đồ Phật giáo hành hương mỗi năm. Ngôi chùa do vua Tùng Tán Cán Bố (605 – 649) xây dựng vào thế kỷ thứ 7 (năm 647) khi vương triều này hưng thịnh nhất theo lối kiến trúc pha trộn giữa Ấn Độ, Nepal và Trung Quốc thời Đường trên một khuôn viên rộng 25.000 mét vuông. Jokhang được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới năm 2000.

 Thành phố Lhasa có ba con đường chính để người hành hương sử dụng đi bộ đến đền Jokhang. Nhiều người đã nhất bộ nhất bái dọc theo các tuyến đường để đạt được tâm nguyện chí thành lên Đức Phật.

Chùa Jokhang Temple.

Khuôn viên của chùa Jokhang Temple.

Hai con nai chầu Bánh Xe Pháp Luân và một cái chuông đồng trên mái củachùa  Jokhang Temple.

Những người hành hương  phủ phục trước chùa Jokhang.
5. Todaiji, Nhật Bản 



Đông Đại tự Todaiji, ngôi chùa bằng gỗ được xem là lớn nhất thế giới, được xây dựng tại thành phố Nara, Nhật Bản từ thế kỷ 8 bởi hoàng đế Shomu (701 – 756) , trở thành một trong những thánh địa Phật giáo quan trọng nhất xứ sở Phù Tang. Trải qua rất nhiều lần xây dựng, tu sửa, kích thước của chùa chỉ còn bằng hai phần ba so với Đông Đại tự nguyên thủy. Hiện, chùa còn lưu giữ những bức chạm khắc tinh vi, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc gỗ Nhật Bản cùng hàng trăm di vật, cổ vật quý hiếm khác. Đông Đại tự Todaiji được UNESCO công nhận là “Quần thể đài tưởng niệm mang tính lịch sử của thời kỳ Kinh đô Nara” .


6. Tiger’s Nest Monastery

Taktsang Dzong hoặc Paro Taktsang, cũng gọi là tu viện Taktsang hoặc Tiger's Nest, là một tu viện Phật giáo của người Tây Tạng nổi bật của tông phái Nyingma (phái mũ đỏ), nằm trên một mỏm núi của thung lũng Paro, xứ Bhutan. Được xây dựng vào năm 1692, xung quanh hang Senge Taktsang Samdup, nơi Guru Padmasambhava được cho là đã thiền định ba tháng trong thế kỷ thứ 8. Padmasambhava được biết là đã đem Phật giáo đến Bhutan và là vị thần thành hoàng của đất nước này.

Tu viện được xây dựng vào năm 1692 và xây dựng lại vào năm 1998 sau khi hỏa hoạn. Bây giờ, tu viện bị hạn chế để thực hành nơi ẩn dật và khách du lịch thông thường thì không được thăm viếng.



Tu viện Taktsang


Tu viện Taktsang

7. Wat Rong Khun

Wat Rong Khun ở Chiang Rai, Thái Lan không giống bất kỳ một ngôi chùa Phật giáo nào trên thế giới. Toàn thể màu trắng, cấu trúc trang trí công phu được cẩn vào nhng tấm kiếng tỏa ánh sáng kỳ diệu, được thực hiện trong một phong cách hiện đại rõ rệt. Ngôi chùa là đứa con tinh thần của nghệ sĩ nổi tiếng Thái Lan Chalermchai Kositpipat.
Trên thực tế, ngôi chùa vẫn còn đang xây dựng. Chalermchai hy vọng sẽ mất khoảng 90 năm nữa để hoàn thành, làm cho nó trở thành một ngôi chùa Phật giáo giống như ngôi nhà thờ Sagrada Familia ở Barcelona, Tây Ban Nha!


Wat Rong Khun, ngôi chùa trắng

Wat Rong Khun, nhìn từ xa


Một góc của mái chùa


Kỹ thuật trang trí mái chùa


Tôn tượng Phật điêu khắc, với các đường viền mạ gương khảm


Tay của địa ngục xin tiền lẻ của bạn

8. SHWEDAGON PAYA 

Không ai biết chính xác ngôi chùa Shwedagon Paya ở Myanmar được xây dựng khi nào - theo truyền thuyết kể rằng ngôi chùa đã có 2.500 năm tuổi mặc dù các nhà khảo cổ ước tính rằng ngôi chùa được xây dựng giữa thế kỷ thứ 6 và thứ 10.
Bây giờ, khi mọi người nói "ngôi chùa vàng", họ thường có nghĩa là cấu trúc màu vàng. Nhưng khi nói đến chùa Shwedagon, vàng có nghĩa là được dát vàng! Trong thế kỷ 15, một nữ hoàng của dân tộc Môn đã ban tặng khối lượng vàng bằng với trọng lượng sức nặng của mình cho ngôi đền. Truyền thống này vẫn tiếp tục cho đến ngày hôm nay, nơi người hành hương thường tiết kiệm tiền trong nhiều năm để mua những gói lá vàng nhỏ để dát vào các bức tường ngôi đền.
Như thể tất cả những vàng là không đủ, các chóp của ngôi tháp và mái vòm được bao phủ với hơn 5.000 viên kim cương và hồng ngọc 2.000 (có cả một viên kim cương 76 carat ở trên đỉnh!). Và Ngôi chùa này là một trong những di tích thiêng liêng nhất trong Phật giáo: thờ tám xá lợi tóc của Phật.

Shwedagon Pagoda và tháp vàng

Shwedagon Pagoda vào ban đêm

9. Chion-in Temple

Chion-in Temple được xây dựng vào năm 1234 CE để tôn vinh người sáng lập của Jodo (Tịnh) Phật giáo, một tu sĩ tên là Honen, người đã nhịn đói đến chết ngay tại chỗ đó. Tại một thời điểm, toàn thể là 21 tòa nhà nhưng do động đất và hỏa hoạn, những tòa nhà còn sót lại thì xây dựng từ thế kỷ 17.
Du khách đến đền Chion-in đầu tiên phải đi qua chiếc cổng lớn nhất ở Nhật Bản: Cửa San-mon có hai tầng. Cái chuông của chùa cũng là một kỷ lục: nặng 74 tấn và cần đến 17 vị hòa thượng rung chuông trong lễ đón mừng năm mới.
Một tính năng thú vị của ngôi đền Chion-in là sàn của hội trường "biết hát." Được gọi là sàn uguisu-bari hay Chim sơn ca, tấm ván bằng gỗ được thiết kế để lung lay vì mỗi bước đi nhằm cảnh báo cho các nhà sư là có kẻ xâm nhập!

Cổng chính của chùa Chion-in

 Chùa Chion-in trong mùa đông

Mái chùa Chion-in

Chuông của chùa Chion-in

Cấu trúc sàn nhà Chim Sơn Ca

10. Borobudur

Trong thế kỷ 19, người Hoà Lan xâm chiếm Indonesia họ đã tìm thấy một cổ đại lớn đổ nát vùi sâu dưới rừng nhiệt đới Java. Những gì họ phát hiện ra là một khu tổng thể Borobudur, một kiến trúc khổng lồ được xây dựng với gần 2.000.000 feet khối (55.000 m³) của đá. Ngôi đền có gần 2700 tấm chạm khắc nổi và 504 bức tượng Phật.
Cho đến ngày hôm nay, không ai biết chắc khi nào và tại sao nó được xây dựng, và cũng không rõ lý do nào mà Borobudur bị bỏ rơi trong nhiều năm. Một số học giả tin rằng Borobudur thực sự là một cuốn sách giáo khoa khổng lồ của Phật giáo, những bức phù điêu kể lại những câu chuyện về cuộc đời của Đức Phật và các giáo lý căn bản của Phật Pháp. Để "đọc", một khách hành hương phải thực hiện theo cách của mình thông qua chín nền tảng và đi bộ một đoạn đường dài trên 2 dặm.

Toàn cảnh của Borobudur.

Borobudur
  Borobudur

Borobudur

Tầng trên cùng của ngôi đền Borobudur

Bên trong mỗi tháplà tôn tượng Phật


Những hình điêu khắc tại Borobudur. 

11. ĐIỆN  POTALA
Cung điện Potala, được xây trên đỉnh của ngọn núi Red Mountain ở Lhasa, Tây Tạng, Trung Quốc được xây bởi hoàng đế đầu tiên của Tây Tạng trong 637 CE. Các cung điện hiện nay được xây dựng lại vào giữa năm 1600 của Dalai Lama thứ năm.
Cung điện gồm hai tòa nhà chính, Potrang Karpo (White Palace) và Portrang Marpo (Red Palace). Đây là tòa nhà của vị thứ mười bốn và hiện tại Dalai Lama cho đến khi ông bị buộc phải chạy trốn sang Ấn Độ khi Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng vào năm 1959. Bây giờ là một bảo tàng của nhà nước Trung Cộng.

Tòa cung điện Potala


The White Palace.
12.Boudhanath, Nepal
 
Tọa lạc tại vùng ngoại ô thủ đô Kathmandu, Nepal, Boudhanath là một trong những tòa bảo tháp lớn nhất thế giới. Nơi đây được xem là trung tâm của Phật giáo Tây Tạng ở Nepal, đồng thời cũng là nơi rất nhiều người tị nạn từ Tây Tạng định cư trong nhiều thập kỷ và là điểm thu hút khách du lịch trên toàn thế giới. Tòa tháp màu trắng nổi bật với chiều cao 36m, chung quanh tòa tháp là một vành đai với 108 hình ảnh Phật A Di Đà này còn nổi tiếng bởi trên cả 4 mặt của tòa tháp có chạm khắc đôi mắt Đức Phật nhìn xa bốn phương tám hướng.

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT



PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
BP 60063 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France)
Tel.: Paris (1) 45 98 30 85<br>
Fax : Paris (1) 45 98 32 61
E-mail : pttpgqt@gmail.comPHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
E-mail : pttpgqt@gmail.com



THÔNG CÁO BÁO CHÍ NGÀY 7.5.2013

Thông điệp Phật Đản P.l. 2557 của Hội đồng Lưỡng Viện – Thông tư về Đại lễ Phật Đản của Viện Hóa Đạo, và Thông tư Phật Đản của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ





2013-05-07 | | PTTPGQT

PARIS, ngày 7.5.2013 (PTTPGQT) - Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế vừa nhận được từ trong nước gửi ra Thông điệp Đại lễ Phật Đản P.l 2557 – 2013 của Hội đồng Lưỡng Viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), Thông tư Đại lễ Phật Đản Phật lịch 2557 của Viện Hóa Đạo, và Thông tư Đại lễ Phật Đản chung P.l. 2557 của GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ để phổ biến.

Sau đây là toàn văn ba văn kiện ấy :



GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN TĂNG THỐNG
Thanh Minh Thiền viện, 90 Trần Huy Liệu, Phường 15, Quận Phú Nhuận, Saigon


Phật lịch 2557
Số : 02/VTT/TĐ/TT



THÔNG ĐIỆP
ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PHẬT LỊCH 2557 - 2013
Của
HỘI ĐỒNG LƯỠNG VIỆN GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT


NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Kính bạch chư Tôn thiền đức Tăng Ni
Kính thưa toàn thể đồng bào Phật tử,

Vườn Lâm Tỳ Ni, hoa Vô Ưu rộ nở, ngày đức Từ Phụ Thích Ca thị hiện giáng trần. Hôm nay tất cả phật tử trên khắp năm châu hân hoan đón chào sự kiện trọng đại này. Nhân mùa Phật đản, Hội Đồng Lưỡng Viện kính gửi lời cầu chúc an lành đến toàn thể Tăng Ni và Phật tử trong và ngoài nước.

Hôm nay là ngày lễ trọng đại trong Phật giáo, ngày kỷ niệm đức Phật vì hạnh nguyện độ sinh mà xuất hiện ở cảnh giới khổ đau này. Đức Phật ra đời đã khai mở một lộ trình thăng hoa thánh thiện cho nhân loại, mở ra một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của từ bi và trí tuệ, của tinh thần hài hòa, bao dung và hòa bình cho thế giới. Đạo Phật đã đóng góp rất lớn cho sự an bình, thịnh vượng của nhân loại.

Lịch sử cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho tinh thần vô úy dấn thân phụng sự tha nhân ; và chánh pháp là nguồn an lạc đích thực, khai phóng tâm thức và giải thoát mọi vô minh sai lầm cho muôn loại. Đức Phật dạy : muốn thay đổi thế giới, trước tiên phải chuyển hóa tâm thức con người. Bất cứ hành động nào được điều khiển bởi vô minh vọng động đều chuốc lấy sự bất an, đau khổ. Sự an bình, hạnh phúc đích thực chỉ có được khi biết quan tâm đến hạnh phúc của tha nhân. Chỉ cần quan tâm đến tha nhân thì thế giới đã giải quyết được những vấn nạn khủng hoảng đang đối diện hiện nay và tạo nên một thế giới tự do, dân chủ và bình đẳng cho tất cả con người.

Lịch sử nhân loại đã chứng minh ánh sáng từ bi và trí tuệ của Đạo Phật chiếu soi đến đâu, sự thanh bình thịnh vượng được hiển lộ đến đó. Bất kỳ thể chế chính trị nào biết vận dụng khôn khéo nền văn minh giải thoát của Phật giáo làm nguyên tắc chủ đạo để trị dân thì quốc gia sẽ phú cường thịnh vượng và tồn tại lâu dài. Ashoka đại đế ở Ấn Độ đã biết sử dụng giáo pháp của Phật để trị dân, dẫn dắt đất nước Ấn Độ đi đến chỗ hùng mạnh nhất lúc bấy giờ. Các vị vua nhân từ các triều đại Lý, Trần ở Việt Nam đã khéo léo vận dụng mọi giá trị đạo đức Phật giáo để trị nước, muôn dân chung hưởng thái bình an lạc, quốc gia phú cường, trên dưới đoàn kết một lòng, tạo nên sức mạnh kỳ vĩ, dẹp tan những cuộc tấn công xâm lăng hung hãn của giặc Phương Bắc.

Kính thưa chư liệt vị,

Giữa lúc hàng triệu triệu con tim trên thế gới đang rung động đón mừng ngày Khánh Đản của bậc Đại giác, thì nhiều nơi vẫn vang lên những tiếng nổ kinh hoàng, xé tan ước vọng hòa bình của nhân loại, vẫn vang lên tiếng thét gào uất hận trên đường phố, trong nhà tù, trước khát vọng nhân quyền, khát vọng tự do, hạnh phúc mà các chủ thuyết phi nhân đã cướp đoạt của con người, nhất là trên quê hương Việt Nam thân yêu của chúng ta.

Đức Đệ Tứ Tăng Thống đã nói :

“Đạo Pháp không thể nở hoa nơi giang sơn nô lệ, Dân Tộc không thể hạnh phúc nơi áp bức, đói nghèo”

Trên thực tế đó, nhân mùa Phật Đản năm nay, trước hết, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất khẩn thiết kêu gọi lãnh đạo các Quốc gia trên thế giới, các Quốc gia trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương, nhất là Nhà Cầm Quyền Cộng Sản Việt Nam hãy tôn trọng tinh thần Từ Bi, Trí Tuệ và Bình Đẳng của Đạo Phật đã được Liên Hiệp Quốc công nhận và các Quốc Gia thành viên đều cam kết thực thi. Quí vị lãnh đạo hãy lấy tinh thần Từ Bi, Trí Tuệ và Bình Đẳng ấy làm vũ khí tối thượng để giải quyết các tranh chấp đang đưa nhân loại vào một cuộc chiến tương tàn và đưa Dân Tộc Việt Nam vào con đường nô lệ của một chế độ độc tài toàn trị.

Cũng trên thực tế đó, Giáo Hội khẩn thiết kêu gọi Đồng bào Phật Tử các giới nêu cao tinh thần Lục Độ mà Thiền Tổ Khương Tăng Hội đã xiển dương và các thế hệ Thiền sư Pháp Thuận, Khuông Việt, Vạn Hạnh, Nguyên Thiều, Liễu Quán đã tương tục đứng lên cùng Dân Tộc giữ nước, dựng văn. Và hôm nay Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tiếp tục nêu cao tinh thần vô úy “Giải phóng tự kỷ và tịnh hóa nhân gian tiếp bước đưa Dân Tộc tiến lên đường Văn Hiến như một khẳng định của Trí Tuệ, Từ Bi và Bình Đẳng trước hiện tình của đất nước. Thời cuộc có thịnh có suy nhưng Đạo Phật chưa bao giờ có thăng trầm trong đại nguyện cứu khổ, đó là đưa con người đến bờ Tự Do và Giải Thoát”.

Để đưa con người đến bờ Tự Do và Giải Thoát, chúng ta hãy dũng mãnh thể hiện tinh thần Vô Úy như là bước khởi đầu cho một cuộc cách mạng Dân Tộc mà người con Phật đã phát nguyện : Ngũ trước ác thế thệ tiên nhập.

Trong tinh thần ấy, Hội Đồng Lưỡng Viện kính mong các cấp Giáo hội trong và ngoài nước, các Tổ Đình, các Tự Viện, các Tổ Chức quần chúng Phật Tử và cá nhân của mỗi người con Phật hãy nỗ lực kiến tạo một Mùa Phật Đản đầy đủ ý nghĩa trong giai đoạn hiện tại để báo đền thâm ân của Đức Bổn Sư Thích Ca Từ Phụ.

Kính mong Chư Tôn Đức và Quí Liệt Vị đón mừng ngày Phật Đản trong tinh thần Hộ Pháp, Hộ Quốc và Hộ Dân.

NAM MÔ THƯỜNG TINH TẤN BỒ TÁT MA HA TÁT

Thanh Minh Thiền Viện, Mùa Phật Đản 2557-2013
Thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện
GHPGVNTN
Đệ Ngũ Tăng Thống

(ấn ký)
Sa môn Thích Quảng Độ


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN HÓA ĐẠO
Chùa Giác Hoa - 15/7 Nơ Trang Long – Phường 7 – Quận Bình Thạnh – Sài Gòn


Phật lịch 2557
Số : 05/VHĐ/TT


THÔNG TƯ
ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PHẬT LỊCH 2557
******
VIỆN TRƯỞNG VIỆN HÓA ĐẠO
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT


Kính gởi :
Chư Tôn Giáo Phẩm Hội Đồng Lưỡng Viện
Văn Phòng II Viện Hóa Đaọ
Các Ban Đại Diện GHPGVNTN trên Toàn Quốc
Chư Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni
Đồng Bào Phật Tử các giới.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Kính bạch Chư Tôn Đức
Kính thưa Quí Liệt Vị.

“Khai Thị Chúng Sanh, Ngộ Nhập Phật Tri Kiến” là bản hoài của Đức Thế Tôn khi Ngài xuất hiện trên cõi đời cách đây trên 2500 năm.

Những bước chân đầu tiên trên lưu vực sông Hằng của 2500 trước, nay đã in đậm trên toàn cõi nhân gian. Đã 13 năm qua, Phật Giáo đồ không riêng mình đón mừng Phật Đản, mà cả nhân loại cùng chung niềm hoan hỷ khi Liên Hiệp Quốc nhận ra rằng, chỉ có Giáo Pháp thậm thâm của Đức Phật mới là ngọn đuốc diệt trừ được những tranh chấp, hận thù, phi nhân và cuồng bạo trong đêm dài vô minh của thế gian. Vì vậy Liên Hiệp Quốc đã xiển dương thế kỷ 21 là thế kỷ Tâm Linh.

Lại một mùa sen nở, một mùa Khánh Đản lại về, Viện Hóa Đạo kêu gọi toàn thể Tăng, Tín đồ hãy hóa thân vào nền văn minh của Trí Tuệ Bát Nhã, làm bản tâm của bậc nhân đức, cứu nguy cho đất nước và loài người bằng phương tiện và hành động hiện hữu trong cơn Quốc nạn và Pháp nạn hiện nay :

1/. Đối với bản thân : Hãy thanh tịnh thân tâm để nâng cao năng lượng tâm linh hóa giải những bất an trong tam giới. Đồng thời Vô Úy trong hành động để đưa nhân loại, quốc gia, dân tộc ra khỏi chảo lửa âm ỷ chiến tranh, cướp đoạt và nô lệ.

2/. Đối với gia đình : Hãy Phật hóa thân bằng quyến thuộc, chay tịnh để đền đáp ân đức cha mẹ, ân đức chúng sinh, ân đức Tam Bảo, tham gia các hoạt động xã hội để đền đáp ân đức hồn thiêng sông núi.

3/. Đối với các Đoàn thể Phật Tử : Hãy kiến tạo tinh thần Lục Độ trong cộng nghiệp bằng những hình thức từ thiện, tu bát quan trai, các khóa lễ, nâng cao ý thức thời đại : Phật Giáo là sự đối diện với xã hội chứ không quay lưng với xã hội, nhất là xã hội độc tài toàn trị hiện nay.

4/. Đối với các Ban Đại Diện GHPGVNTN tại các Tỉnh, Thành, Quận, Huyện :

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vẫn đang đối mặt với sự khủng bố, áp bức từ Nhà Cầm quyền Cọng Sản vô thần, phải ý thức rằng những chùa chiền, tháp miếu, những lễ hội Phật Giáo hoành tráng do nhà nước dựng lên chỉ mang tính cách mê tín, chỉ là lớp son phấn che đậy tinh thần bất dung tôn giáo. Do đó chúng ta quyết bảo vệ truyền thống cố hữu dù phải hy sinh.

Vì vậy Viện Hóa Đạo yêu cầu các Ban Đại Diện tùy hoàn cảnh địa phương mà kiến tạo một mùa Phật Đản đầy đủ ý nghĩa, trang nghiêm, thanh tịnh để đồng bào nói chung và Phật Giáo Đồ nói riêng được chiêm bái và hành lễ dù trong điều kiện khắc nghiệt mà Giáo Hội đã, đang và còn sẽ gánh chịu.

Kính Bạch Chư Tôn Đức
Kính thưa Liệt Quí Vị

Như những đóa sen ngát hương trong Mùa Phật Đản, người Tu Sĩ cũng đang bước chân vào Giới trường thanh tịnh để bắt đầu một mùa An Cư Kiết Hạ.

Viện Hóa Đạo kính chúc Chư Đại Tăng pháp thể khinh an trong thời gian trưởng dưỡng thân tâm để hoàn thành hạnh nguyện Hoằng Pháp Độ Sanh trong tinh thần Phật Pháp bất ly thế gian pháp.

Viện Hóa Đạo kính chúc các giới Cư Sĩ tích cực trong việc thân cận Giới trường để hộ trì Chư Đại Tăng trong Mùa An Cư Kiết Hạ.

Sau hết trước tình hình Quốc nạn và Pháp nạn, Viện Hóa Đạo xin trùng tuyên lời dạy của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống làm kim chỉ nam cho mùa Phật Đản Phật Lịch 2557 :

“Đời sống Tâm Linh và Giác Ngộ chỉ được thăng hoa trong một đất nước thanh bình, tự do và toàn vẹn lãnh thổ. Lãnh thổ tự do và toàn vẹn là thiện duyên cho sự phát triễn Tâm Linh và Giác Ngộ. Bởi vậy đời sống tu hành của người Phật Tử cũng là nỗ lực bảo vệ Dân Tộc và Thăng Tiến Dân Sinh.”

NAM MÔ THƯỜNG TINH TẤN BỒ TÁT MA HA TÁT

Chùa Giác Hoa, Mùa Phật Đản năm Quí Tỵ - 2013
TUN VIỆN TRƯỞNG VIỆN HÓA ĐẠO
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
PHÓ VIỆN TRƯỞNG
kiêm
TỔNG VỤ TRƯỞNG TỔNG VỤ TĂNG SỰ
TỲ KHEO THÍCH NHƯ ĐẠT


VĂN PHÒNG II VIỆN HÓA ĐẠO
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HẢI NGOẠI TẠI HOA KỲ
The Vietnamese American Unified Buddhist Congress In The USA
14472 Chestnut St., Westminster, CA, 92683. U.S.A
Tel : (714) 890-9513 ; Fax : (714) 897-8760 - Email : chuadieungu@gmail.com




Số : 201307/VPTT/HĐĐH/TT/CT


THÔNG TƯ
Về Đại Lễ Phật Đản Chung PL :2557


Kính gởi : Chư Tôn đức Giáo phẩm Tăng Ni và quý Cư sỹ Phật tử lãnh đạo các cấp Giáo Hội,
Kính bạch chư Tôn đức Giáo phẩm,
Kính thưa quý Thiện tín Cư sỹ Phật tử,

Kinh Pháp Hoa dạy : “Vì đại sự nhân duyên duy nhất, Đức Phật đã thị hiện Đản sanh”, nhân duyên duy nhất đó chính là “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”.

Với bản hoài như đã dẫn thượng, Đức Từ Phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn đã khai thị vô lượng pháp môn màu nhiệm để giải thoát tận gốc mọi khổ đau của hết thảy muôn loài. Giáo pháp thậm thâm vi diệu của Ngài đã đi trước thời đại hàng nhiều thế kỷ và hiện đang là ngọn hải đăng ngời sáng giữa đêm tối vô minh.

Trong tinh thần tri ân và báo ân cố hữu, Văn Phòng II Viện Hoá Đạo và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ sẽ long trọng tổ chức Đại lễ Phật Đản chung Phật lịch 2557 vào các ngày 25 và 26 tháng 5 năm 2013 tại Chùa Điều Ngự, trụ sở Trung Ương của Giáo Hội.

Chương trình Đại lễ Phật Đản chung gồm có :
Thứ bảy, ngày 25 tháng 5 năm 2013
8:00AM đến 12:00PM : Hội thảo : Vai Trò Hoằng Pháp Trước Giai Đoạn Mới.
1:00PM đến 6:00PM : Kinh Tế Và Tài Chánh Qua Cái Nhìn Của Phật Giáo.
7:00PM : Lễ Thọ Bồ Tát Giới.

Chủ nhật, ngày 26 tháng 5 năm 2013
9:00AM : Thăm viếng và cầu nguyện tại các Tượng Đài.
11:00AM : Thuyết Pháp
12:00PM : Lễ Trai Tăng
1:00PM : Pháp Hội : Đức Phật Và Nền Hoà Bình Thế Giới.
1:45PM : Thắp nến, Thả bong bóng Cầu nguyện Thế giới Hoà bình, Quốc thái Dân an.
2:00PM : Cử Hành Đại Lễ Phật Đản PL : 2557 (Có chương trình riêng).
Để cúng dường ngày Đản sanh của Đức Phật đồng thời nêu bậc ý nghĩa thị hiện cứu khổ độ sanh của đấng Thiên Nhân Sư, kính xin các cấp Giáo Hội hoan hỷ thực hiện những Phật sự sau đây :

Khuyến thỉnh mọi giới phát tâm Tin Phật, Học Phật và Sống Đời Sống Phật ;

Tổ chức các lễ Quy Y, Thọ Bát Quan Trai Giới, ngày Tu học, thực hành Hạnh Đầu Đà v.v… nhằm tạo thắng duyên cho việc tăng trưởng đạo nghiệp, phát huy dụng lực của Bồ đề tâm hầu hoàn tất công hạnh thượng cầu hạ hoá ;

Tại mỗi Tự viện, Tịnh xá, Niệm Phật đường, tuỳ theo hoàn cảnh, tổ chức Đại lễ Phật Đản thật trang nghiêm, thanh tịnh để vừa biểu tỏ lòng tri ân sâu xa lên Đức Phật vừa thành tâm cầu nguyện lãnh thổ lãnh hải Việt Nam được vẹn toàn, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất phục hoạt trọn vẹn, những tù nhân lương thức được tự do, thế giới hoà bình, chúng sinh an lạc ;

Tuyên đọc và phổ biến rộng rãi Thông Điệp Phật Đản của Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN trong chương trình Đại lễ Phật Đản tại quý Tự viện. Văn Phòng Thường Trực của Giáo Hội sẽ gởi Thông Điệp Phật Đản của Hội Đồng Lưỡng Viện đến quý Tự viện sau ;

Tích cực tiếp tay với Giáo Hội trong sứ mệnh hoằng pháp độ sanh, nhất là nỗ lực vận động giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn để dân tộc sớm hưởng được tự do, nhân quyền và dân chủ ;

Thu xếp Phật sự tại địa phương, thân lâm chứng minh, tham dự Đại lễ Phật Đản của VPIIVHĐ và GHPGVNTNHN-HK, đồng thời tham gia đóng góp cao kiến cho các cuộc Hội thảo của Tổng vụ Hoằng Pháp với Chủ đề : “Sứ Mệnh Hoằng Pháp Trong Giai Đoạn Mới” và của Tổng vụ Kinh Tế, Tài Chánh với Chủ đề : “Kinh Tế, Tài Chánh Qua Cái nhìn Của Phật Giáo” được tổ chức vào ngày 25 tháng 5 năm 2013, trước Đại lễ Phật Đản một ngày ;

Mọi chi tiết về Đại lễ Phật Đản chung Phật lịch 2557 xin hoan hỷ liên lạc : Chùa Điều ngự, 14472 Chestnut St., Westminster, CA. 92863. Điện thoại (714) 890-9513. Email : chuadieungu@gmail.com

Quý Tự viện nào cần sự giúp đở của Giáo Hội trong mùa Phật Đản, xin hoan hỷ cho Văn Phòng Thường Trực của Giáo Hội biết để Giáo Hội tuỳ nghi hỗ trợ.

Vì sự xương minh của Phật pháp và phát triển của Giáo Hội, kính yêu cầu các cấp Giáo Hội hoan hỷ toàn tâm thực hiện Thông Tư này.

Trân trọng,
Westminster, ngày 21 tháng 4 năm 2013
Phó Viện trưởng Viện Hoá Đạo
kiêm Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành
(đã ấn ký)
Tỳ kheo Thích Viên Lý


Nơi nhận :
Như trên “để tri hành”
Bản sao kính gởi :
Đức Đệ Ngũ Tăng Thống “để đệ trình tường”
Hoà thượng Viện trưởng Viện Hoá Đạo “để kính thẩm tường”
Đại lão Hoà thượng Chủ tịch VPIIVHĐ “để kính thẩm tường”
Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế “để phổ biến”
Hồ sơ, lưu


 





Quê Mẹ • B.P. 60063 • 94472 Boissy Saint Léger cedex • France • E-mail : queme@free.fr




CHÙA - THỦ ẤN

CÁC CHÙA DANH TIẾNG TẠI TRUNG QUỐC

Thiên Đường Trên Đỉnh Nga Mi


Nga Mi sơn là một trong Tứ đại Phật giáo danh sơn. Vị Bồ Tát bảo trợ của Nga Mi sơn là Samantabhadra, trong tiếng Việt còn được gọi là Phổ Hiền bồ tát.

Chùa Huyền Không


Chùa Huyền Không cách mặt đất khoảng 50m, nằm trên vách núi cheo leo

Chùa Mặt Trời Và Mặt Trăng


Nằm bên hồ Banyu, chùa Mặt Trời và Mặt Trăng là một trong những điểm tham quan nổi tiếng nhất của tỉnh Quế Lâm

Chùa Leifeng


Được xây dựng vào năm 975, bởi vị vua của vương quốc Wuyue

Chùa Yellow Crane


Chùa Yellow Crane là một trong những tòa bảo tháp nổi tiếng nhất ở phía Nam sông Dương Tử và là một biểu tượng của thành phố Vũ Hán

Chùa Tianning


Ngôi chùa Tianning thuộc địa phận thành phố Thường Châu, tỉnh Giang Tô, miền Đông, Trung Quốc gồm 13 tầng làm bằng gỗ quý hiếm.

Chùa Big Wild Goose


Nằm ở Tây An, một trong bốn thủ đô cổ đại của Trung Quốc, chùa Big Wild Goose là một biểu tượng của văn hóa Trung Quốc

Chùa Sakayamuni


Ngôi chùa cổ xưa nhất được làm hoàn toàn bằng gỗ ở Trung Quốc

Chùa Liuhe


Theo nghĩa đen có nghĩa là "Chùa 6 nốt nhạc hoà âm", kỳ quan kiến trúc này nằm ở chân đồi Yuelun ở Hàng Châu, Trung Quốc

Chùa Bạch Mã: Ngôi chùa Phật giáo đầu tiên ở Trung Quốc


Chùa Bạch Mã, ngôi chùa cổ nhất Trung Quốc, nằm cách thành phố Lạc Dương, tỉnh Hà Nam, miền đông Trung Quốc 6 dặm


Hàn Sơn Tự


Trung Quốc là đất nước mà chùa chiền có mặt ở khắp mọi nơi. Trong đó có nhiều thiền tự đã trở thành những di tích linh thiêng níu chân phật tử

CÁC CHÙA DANH TIẾNG TẠI NHẬT BẢN

Các Chùa danh tiếng ở Nhật Bản

Ma Cốc Cổ Tự

01-02-2013 23:00:53 | lượt xem : 178
Ma Cốc Cổ Tự (Magoksa) tọa lạc tại 966, Thôn magoksa-ro, Phường myeon Sagok, Thành phố Công Châu (Gongju-si), tỉnh Thanh Trung Nam đạo (Chungcheongnam-do).

Chiêm ngưỡng ngôi chùa được công nhận là Di sản văn hóa cố đô Kyoto, Chùa Kiyomizudera

27-02-2013 05:53:35 | lượt xem : 383
Tên chùa Kiyomizudera trong tiếng Nhật có nghĩa “Chùa nước thiêng -Thanh Thủy Tự”. Chùa thờ Phật Quan Âm nghìn tay, được công nhận là Di sản văn hóa cố đô Kyoto và từng là ứng viên bầu chọn Bảy kỳ quan thế giới mới năm 2007.

Chùa Hòa Lạc

20-03-2013 05:05:50 | lượt xem : 200
Chùa Hòa Lạc là ngôi chùa đầu tiên của người Việt Nam sống ở miền Tây, Kansai, Nhật Bản.

Royal Grand Hall

20-03-2013 05:24:20 | lượt xem : 331
Royal Grand Hall - Hùng Nghiêm Đại Điện Phật Giáo ở Quận hạt Hyogo, Nhật Bản dường như sẽ phá nhiều kỷ lục trên thế giới. Hyogo, Japan

Chùa Đông Đại

20-03-2013 05:29:58 | lượt xem : 186
Chùa Đông Đại, tiếng Nhật là Todai-ji (Đông Đại tự - 東大寺), là một trong những ngôi chùa cổ nổi tiếng ở Nhật Bản

Asakusa - Ngôi chùa to và nổi tiếng nhất Tokyo

20-03-2013 05:46:45 | lượt xem : 203
Chùa Hòa Lạc là ngôi chùa đầu tiên của người Việt Nam sống ở miền Tây, Kansai, Nhật Bản

Chùa gỗ cổ nhất Nhật Bản

20-03-2013 05:51:33 | lượt xem : 261
Không chỉ nổi tiếng với mùa hoa anh đào nở hay tự hào là đất nước của Mặt trời mọc, Nhật Bản còn nổi tiếng với những công trình kiến trúc chùa cổ

Hōryū Gakumonji - Ngôi chùa nổi tiếng ở Nhật Bản

20-03-2013 05:57:08 | lượt xem : 257
NTO - Hōryū-ji (kanji: 法隆寺, romaji: Hōryū-ji, phiên âm Hán-Việt: Pháp Long Tự) là một ngôi chùa Phật giáo ở Ikaruga, tỉnh Nara, Nhật Bản

Chùa vàng Kinkakuji nổi tiếng ở Nhật Bản

20-03-2013 06:01:00 | lượt xem : 407
Ngôi chùa Kinkakuji ở Kyoto, thường được mệnh danh là Tây Kinh của nước Nhật.


CÁC NGÔI CHÙA DANH TIẾNG TẠI THÁI LAN

10 ngôi chùa nổi tiếng và đẹp nhất Thái Lan

 Nếu nói đến du lịch Thái Lan, không thể không nhắc đến những ngôi chùa hoành tráng, quy mô và lộng lẫy, là niềm tự hào của “đất nước của những nụ cười” này. Thái Lan còn được đặt thêm một một cái tên nữa là “Đất nước của những chiếc áo cà sa”, đặc tả về một tôn giáo lớn mà khoảng 95%  người dân Thái tôn thờ đó là Phật Giáo, được xem là Quốc giáo. Vì vậy, dulichcamthai xin gửi đến quý khách giới thiệu đôi nét về 10 ngôi chùa đẹp lộng lẫy nhất và nổi tiếng nhất Thái Lan để quý khách có thêm kiến thức về đất nước này.

Đặc biệt, trong chương trình du lịch Thái Lan tháng 2 và tháng 3/2013 , chúng tôi có chương trình khuyến mãi du lịch Thái Lan giá rẻ rất hấp dẫn dành cho du khách book tour ngay hôm nay. Đừng chần chừ nữa, hãy gọi ngay 0938 65 77 68 hoặc 0973 35 14 68 để được tư vấn tour Thái giá rẻ ngay.


Nhắc đến Thái Lan người ta nghĩ ngay đến “đất nước của những nụ cười ,đất nước tự do,đất nước của những chiếc áo cà sa”. Tên gọi cuối cùng này đã mô tả một cách sâu sắc về một tôn giáo lớn mà dân tộc Thái đang tôn thờ đó là Phật giáo.Vì 95% dân số của Thái Lan theo đạo phật và được xem như Quốc Giáo.Chính vì thế khi có dịp đến thăm đất nước Thái quý khách không thể bỏ qua trong lịch trình của mình đó là tham quan những ngôi chùa.Xin giới thiệu 10 cảnh chùa đẹp và nổi tiếng nhất đất nước Thái Lan để quý khách tham khảo.

1. CHÙA CHIANG MAN

 

Chùa Chiang Man
      
 Chùa Chiang Man là một ngôi chùa  tại thành phố Chiang Mai, Thái Lan. Đây là ngôi chùa lâu đời nhất tại Chiang Mai, được xây vào khoảng thế kỷ 13. Nó thậm chí còn nhiều tuổi hơn cả thành phố này. Vua Mengrai đã đến sống tại đây trong khi chờ thủ phủ xây dựng xong.
Ngôi chùa nổi tiếng với bức tượng Phật pha lê Phra sae Tang Kamani.Một bức tượng khác cũng làm nên sự nổi tiếng của ngôi chùa này là tượng Phật bằng đá Phra Sila, chạm khắc vào năm 900 tại Ấn Độ.
Vẻ đẹp của ngôi chùa còn được khắc họa ở hình ảnh 15 con voi quay về các hướng, ở tượng Phật đứng cao tuổi nhất vương quốc Lanan Thai (542 năm) và ở bản khắc đá gần cửa phòng lễ thụ chức. Bản khắc đá kể về lịch sử của thành phố, về đế chế Lanna Thai và những người có công đóng góp cho ngôi chùa.

2. CHÙA WAT PHRA KAEW CHIANG RAI VÀ BANGKOK

a.Wat phra Kaew Chiang Rai


Wat Phra Kaew, Chiang Rai
     
 Wat Phra Kaew là một quần thể chùa và tu viện Phật giáo ở Thanon Trairat tại Tambon Wiang, huyện Muueng, tỉnh Chiang Rai, Thái Lan.
Wat Phra Kaew đã được chỉ định làm ngôi chùa hoàng gia đầu tiên ở Chiang Rai ngày 31 tháng 5 năm 1978(năm 2521 Phật lịch).
Ngôi chùa từng được gọi là Pa Yeah (วัดป่าเยี้ยะ hay วัดป่าญะ – Chùa Rừng Tre) vì trên thực tế xung quanh chùa này có tre bao bọc cho đến năm 1434 khi chedi của nó bị sét đánh để lộ ra hình ảnh Phật ngọc bên trong. Sau thời điểm đó chùa được đổi tên thành Phra Kaew.

b. Wat Phra Kaew Bangkok - Chùa Phật Ngọc

Chùa Phật Ngọc
       

Wat Phra Kaew hay còn gọi là Chùa Phật Ngọc ở Bangkok được xem là một trong những ngôi chùa linh thiêng nhất ở Thái Lan. Chùa tọa lạc tại trung tâm lịch sử Bangkok (quận Nakhon), bên trong khuôn viên củaCung điện Hoàng Gia Thái Lan
Việc xây dựng ngôi chùa này bắt đầu khi vua Phật Yodfa Chulaloke (Rama I) dời kinh đô từ Thonburi đến Bangkok năm 1785 . Wat Phra Keo nằm cạnh Cung điện Lớn và có tầm quan trọng bậc nhất trong các ngôi chùa nổi tiếng của Thái Lan, được xem như nhà chùa của Hoàng gia, với diện tích rộng đến 945.000 m², bao gồm hơn 100 tòa nhà cao tầng, và là ngôi chùa duy nhất không có sư sãi. Chùa nổi tiếng không chỉ vì vẻ đẹp của nhiều kiểu kiến trúc, mà còn vì bức tượng Phật bằng ngọc bích thiêng liêng nhất trong hằng hà sa số tượng Phật trên vương quốc. Không giống các ngôi chùa khác, chùa này không có khu nhà ở cho các vị sư mà chỉ có các tòa nhà được trang trí các cảnh linh thiêng, các bức tượng.


3. CHÙA WAT PHRATHAT DOI SUTHEP

 

Wat Phrathat Doi Suthep
       
Chùa Phrathat Doi Suthep (tiếng Thái: วัดพระธาตุดอยสุเทพ Wat Phrathat Doi Suthep) là một trong những ngôi chùa thiêng liêng nhất tại Chiang Mai (Thái Lan) và được nhiều người Thái Lan tin sùng.
Người ta có câu “Chưa đến chùa Phrathat Doi Suthep là chưa đến Chiang Mai”, ” Đây cũng là ngôi chùa linh thiêng ở Chiang Mai “. Suốt 600 năm qua, chùa có nhiều thay đổi và được tu sửa nhiều lần. Trước đây để lên được đỉnh núi phải mất 5 giờ qua một con đường hẹp, nhỏ và nhấp nhô được xem là trở ngại lớn nhất để lên được đỉnh chùa.
Năm 1934, nhà sư Kruba Srivichai đến Chiang Mai để thực hiện dự án xây dựng đường lên chùa. Tin tức lan truyền khắp nơi nên Phật tử khắp nơi đổ về đây góp công sức, kể cả những người dân tộc thiểu số sống ở vùng núi.
Chùa còn là điểm tham quan hấp dẫn của thành phố Chiang Mai, ngoài việc thưởng ngoạn, viếng bái Phật, chùa còn là nơi có thể phóng tầm mắt ngắm nhìn toàn thể thành phố Chiang Mai từ trên cao từ núi Doi Suthep.

4.CHÙA WAT RATCHANADDARAM

 

Wat Ratchanaddaram
     
Wat Ratchanaddaram (tiếng Thái: วัดราชนัดดาราม , tiếng Việt: Chùa Ra- cha -nách -đa -ram) là một ngôi chùa khá lớn nằm ngay giao lộ Ratchadamnoen Klang và Mahachak Road, thuộc quận Phra Nakhon, Bangkok. Ngôi chùa này được xây dựng vào năm 1846 theo lệnh của vua NangKlao, tức vua Rama III.

Nét đặc sắc nhất của chùa

Đằng sau Wat Ratchanaddaram có một kiến trúc đặc sắc và gây chú ý tại Bangkok, đó chính là Loha Prasad. Đài kỷ niệm này do hoàng đế Rama III xây dựng, một cao ốc có mái nhiều tầng chồng lên nhau, rập theo mô hình kiến trúc tại Sri Lanka. Đền kỷ niệm vươn cao 36 m, những chóp nhọn bằng thép bao phủ những tháp tua tủa lên không trung, mệnh danh là tháp kim lọai. Có tất cả 37 tháp.
Đền kỷ niệm có tiếng tăm ấn tượng nhất trong vùng là PhuKhaoThung, còn gọi là Núi Vàng. Đền kỷ niệm cao tới 78 m, chóp đỉnh kề thang gác 318 bậc quanh chân ngọn đồi. Tại đây trưng bày nhiều di vật của đức Phật do Phó vương Ấn Độ tên là Lord Curzon trao cho quốc vương Chulalongkorn vào năm 1877.

5. CHÙA WAT TRAIMIT - Chùa Phật Vàng

 

Wat Traimit
       
Wat Traimit (tiếng Thái:วัดไตรมิตร), còn có tên tiếng Việt là Chùa Phật Vàng, là một ngôi chùa nổi tiếng ở Bangkok, Thái Lan nhờ vẻ đẹp độc đáo, lịch sử của nó, và nhờ pho tượng Phật bằng vàng nguyên khối cao 3 mét đúc bằng vàng khối, nặng 5,5 tấn. Người địa phương cho rằng bức tượng lớn nhất thế giới này biểu thị cho sự thịnh vượng và thuần khiết cũng như sức mạnh và quyền năng. Chùa này tọa lạc ở cuối đường Yaowarat, gần ga Hualampong, thuộc quận Samphanthawong.


6. CHÙA WAT BOWONNIWET

 

Wat Bowonniwet Vihara
   
   Chùa Wat Bowonniwet Vihara (Tiếng Thái:วัดบวรนิเวศวิหาร) là ngôi chùa khá nổi tiếng nằm ở quận Phra Nakhon, Bangkok. Chùa này là trung tâm của phái Thammayut và là ngôi chùa được các triều vua Chakri thường xuyên lui tới. Chùa được xây dựng vào năm 1936, là nơi vua Rama IV lên ngôi và ban hành luật pháp. Hiện nay trong chùa còn phần mộ của vị quốc vương này.


7. CHÙA WAT PATHUM WANARAM

 

Chánh điện chùa Wat Pathum Wanaram
      
Wat Pathum Wanaram (Tiếng Thái: วัดปทุมวนาราม,phiên âm kiểu tiếng Việt: Chùa Pa-thum -wa-na-ram) là ngôi chùa nằm ở quận Pathum Wan , nằm giữa 2 trung tâm thương mại lớn của Bangkokchính là Siam Paragon và Central world, nằm trên đường Siam Square. Ngôi chùa được xây dựng vào năm 1857 bởi vua King Mongkut (Rama 4) là nơi tiến hành các nghi lễ của hoàng tộc ,tôn giáo của vua gần Sa Pathum Palace.

8. CHÙA WAT RAJBOPIT

 

Wat Rajbopit
       
Wat Rạbopit (tiếng Thái:วัดราชบพิธสถิตมหาสีมารามราชวรวิหาร) là ngôi chùa nằm ở phía Nam của Wat Suthat thuộc quận Phara Nakhon, Bangkok. Ngôi chùa này được xây dựng vào thời vua Rama V (1868-1910 AD). Đây chính là điểm tham quan hấp dẫn của Bangkok cạnh Wat Suthat.
Điểm nổi bật nhất của công trình này chính là những khảm sành sứ 5 màu được khảm trên tháp đựng hài cốt chính. Kiến trúc của gian thờ chính mang phong cách Thái, còn phần trang trí nội thất lại có hơi hướng chịu ảnh hưởng của trường phái Châu Âu với một số chi tiết Gô-tích. Đặc biệt nhất và ấn tượng nhất vẫn là những mảng khảm trai trang nhã và những bức phù điêu tinh tế trên các tấm cửa sổ và cửa ra vào của gian thờ chính.


9. CHÙA WAT SUTHAT

 

Wat Suthat

Chùa Wat Suthat Thepwararam (tiếng Thái Lan: วัดสุทัศน์เทพวราราม) nằm trên đại lộ Bamrung Muang ở thủ đô Bangkok.
Chùa xây dựng năm 1807 do hoàng đế Rama I xây dựng và kéo dài tới triều đại Rama III mới hoàn tất. Chùa lưu giữ nhiều tượng Phật mạ vàng nhất và là ngôi chùa cao nhất tại Bangkok.
Toàn bộ khuôn viên chùa được lát bằng đá hoa cương sạch sẽ và bóng lộn. Tượng thờ chính trong gian chính điện là bức tượng Phật mạ vàng (Phra Sisakayamuni) cổ nhất và là bức tượng Phật mạ vàng lớn nhất tại Thái Lan nặng 5,5 tấn.
Tòa thư viện sau chùa được xem là to nhất và là đẹp nhất trong loại này tại Thái Lan. Thư viện này cao 72 m với 68 cây cột bao quanh. Bên trong tòa nhà có bức tượng Phật tọa thiền bằng đồng mạ vàng (PhraPutatrilokachet) khá sắc sảo cao 8,45 m và và bề ngang là 5,2m.

10. CHÙA WAT YAN NAWA

 

Wat Yan Nawa
      
Wat Yan Nawa (Tiếng Thái: วัดยานนาวา, Tiếng Việt: Chùa Thuyền ) là ngôi chùa nằm ở đường Charoen Krung thuộc quận Sathon, Bangkok. Đây là ngôi chùa độc nhất vô nhị vì nó được xây dựng theo hình dáng một con thuyền được xây dựng bởi vua Rama III. Hình dáng chùa được xây dựng theo kiểu kiến trúc hình dáng con thuyền của người Trung Hoa cùng với kiến trúc Thái là các chedi cao vút mang đậm phong cách thời Ayuthaya. Đồng thời ngôi chùa còn là nơi lưu giữ nhiều xá lợi nhất.
Ngoài 10 cảnh chùa nêu trên Thái Lan còn rất nhiều ngôi chùa nổi tiếng khác.

Tìm kiếm trên Google:

  • ngoi den noi tieng o thai lan
  • hinh nen nguoi dep thai lan
  • chùa thái lan
  • hinh nen ngoi chua chu
  • ung ngi chua dep nhat
  • den chua o thai lan
  • nhung ngoi chua dep
  • nhung ngoi chua o thai lan
  • nhung ngoi chua dep nhat thai lan
  • nhung canh chua dep

  

Ý nghĩa các thủ ấn trong tượng Phật ở Thái Lan

Phật giáo hình thành ở Ấn Độ hơn hai ngàn năm trước đây. Từ Ấn Độ, Phật giáo được truyền bá khắp nơi trên thế giới. Văn hóa Phật giáo được các quốc gia hấp thu một cách uyển chuyển không hề áp đặt một cách cứng nhắc. Vì vậy, Phật giáo Thái Lan không giống với Phật giáo Ấn Độ. Điều này thể hiện rõ ở các thủ ấn (cử chỉ của tay) trên các pho tượng Phật ở Thái Lan.
Phật giáo hình thành ở Ấn Độ hơn hai ngàn năm trước đây. Từ Ấn Độ, Phật giáo được truyền bá khắp nơi trên thế giới. Văn hóa Phật giáo được các quốc gia hấp thu một cách uyển chuyển không hề áp đặt một cách cứng nhắc. Vì vậy, Phật giáo Thái Lan không giống với Phật giáo Ấn Độ. Điều này thể hiện rõ ở các thủ ấn (cử chỉ của tay) trên các pho tượng Phật ở Thái Lan. Có rất nhiều các thủ ấn khác nhau, nhưng có một thủ ấn rất đặc biệt ở Thái Lan đó là thủ ấn tượng Phật nằm. Ngoài thủ ấn này, còn có 6 thủ ấn chính khác nữa ở tượng Phật Thái Lan.

1. Thiền ấn (pang sa-maa-ti hay dhyana mudra)



Cử chỉ này thường thấy ở các tượng Phật ngồi. Lòng bàn tay Phật ngửa lên đặt ngay ngắn trong lòng. Tư thế này cho thấy Phật đang tập trung tinh thần nhiếp phục thân tâm.

2. Thí vô úy ấn (pang bpra-taan a-pi hay abhaya mudra)


Khi bàn tay Phật thể hiện động tác này cho thấy Đức Phật không hề sợ hãi trước một kẻ thù hay nghịch cảnh. Tư thế này thường thấy ở cả tượng Phật đứng và tượng Phật ngồi. Có hai biến thể. Một trong các biến thể là cánh tay cong ở cả cổ tay và khuỷu tay. Các ngón tay chỉ lên trên và lòng bàn tay hướng ra ngoài. Trường hợp nếu là cánh tay phải thì có nghĩa là điều phục thú dữ. Nếu là cả hai tay thì có nghĩa là nghiêm cấm thân nhân.

3. Thí nguyện ấn (pang bpra-taa pon hay varada mudra)




Tay phải của Đức Phật chỉ xuống với lòng bàn tay phải hướng về phía trước và các ngón tay mở rộng. Tư thế này thường được thấy trên tượng Phật đứng khi đang cho hoặc nhận của bố thí.

4. Xúc địa ấn ( pang maa-ra-wi-chai hay bhumisparsa mudra)



Trong nghệ thuật tượng Phật Thái tư thế này được gọi là Đức Phật điều phục Mara (Ma vương). Mara là một con quỷ cám dỗ Đức Phật. Tay phải của Phật được đặt trên cẳng chân trong trạng thái chạm vào Trái đất, đôi khi chỉ là tượng trưng. Đây là tư thế thường thấy nhất.

5. Chuyển pháp luân ấn (dharmacakrapravartana mudra)




Ngón tay trỏ và ngón tay cái của mỗi bàn tay chạm vào nhau. Các ngón của bàn tay trái chạm vào lòng bàn tay phải. Đây là một tư thế rất hiếm gặp. Tư thế này nói lên việc Đức Phật chuyển bánh xe pháp với bài pháp đầu tiên của mình.

6. Giáo hóa ấn (vitarka mudra)



Ngón tay cái và ngón tay trỏ, thường là ở bàn tay phải chạm vào nhau, các ngón còn lại hướng lên trên. Cánh tay cong nơi khuỷu tay và cổ tay. Điều này được xem như lời kêu gọi hòa bình. Đức Phật đang nhằm kêu gọi mọi người hãy giải quyết các vấn đề thông qua tư duy lôgic và lý luận.

THÁNH TÍCH PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ


image


Những địa danh này đã lôi cuốn không biết bao nhiêu khách thập phương đến chiêm bái, và nhiều ngôi đền, tháp, bia ký cũng được xây dựng chung quanh những thánh địa này. Tuy nhiên, trong thời kỳ đạo Phật suy tàn tại Ấn Độ, một vài thánh địa đã bị hoang phế tàn rụi theo cát bụi và thời gian.
Lời giới thiệu

Thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên là thế kỷ hoàng kim của các tôn giáo Á Đông. Những biến cố mang tính cách lịch sử vĩ đại đã lần lượt xảy ra tại các nước Đông Phương: Khổng Tử và Lão Tử tại Trung Hoa, Zoroaster tại Iran (Ba Tư), Mahavira và Đức Phật Thích Ca tại Ấn Độ.
Trong vùng lốc xoáy tôn giáo đó, đaọ Phật do Đức Thích Ca sáng lập, đã đứng vững và tiếp tục lớn mạnh như một ngọn đuốc sáng để đáp ứng nhu cầu tâm linh của loài người. Đaọ Phật đã đem đến cho con người một đời sống tâm linh hoàn hảo. Lẽ dĩ nhiên, đaọ Phật cũng không thoát ra ngoài qui luật chung của vũ trụ "thành, trụ, hoại, không," và cũng đã trãi qua không biết bao nhiêu biến cố thăng trầm của lịch sử các dân tộc và tôn giáo; nhưng đạo Phật vẫn tồn tại và còn tồn tại mãi trong dòng sinh mệnh của các đất nước đạo Phật đã đi qua và để lại dấu ấn.
Nói đến đạo Phật, thiết tưởng chúng ta phải nhắc đến vị giáo chủ đã sáng lập ra tôn giáo đó.
Vào thế kỷ thứ 6, năm 566 trước Công Nguyên, tại thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatsu) của một tiểu vương quốc tại Ấn Độ, Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) đã giáng sanh trong sự chờ đón trọng thể huy hoàng của hoàng gia và dân chúng. Thái tử là con của đức vua Tịnh Phạn (Sudhodana) và hoàng hậu Ma Gia (Mayadevi). Thái tử ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), gần sát biên giới Nepal và Ấn Độ.
Một đạo sĩ đã tiên đoán rằng "Thái tử, hoặc sẽ trở thành một đaị vương cai trị tứ châu thiên hạ, hoặc sẽ xuất gia tu hành đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác." Vua cha nghe vậy, vội tìm đủ mọi cách ngăn chận. Nhưng những phương cách đó đều vô hiệu, ngay cả người vợ tài sắc của Thái tử là công nương Da Du Đà La (Yasodhara) và đưá con mới chào đời La Hầu La (Rahula) cũng không thể dẹp tan được ý nghĩ thoát ly mọi ràng buộc thế tục của Thái tử. Thái tử đã nhìn thấy được cảnh sanh, lão, bệnh, tử của con người, đã hiểu rõ sự vô thường thay đổi của vạn hữu hàm linh và Thái tử muốn đi tìm phương pháp giải thoát khổ đau cho chính mình và nhân loại. Không lâu sau đó, Thái tử đã thoát ly hoàng cung, rời xa mái ấm gia đình, dấn thân vào cát bụi.
Sau 11 năm tầm sư học đaọ, khổ hạnh đủ mùi, tham bái cầu đạo với nhiều danh sư, Bồ Tát Tất Đạt Đa vẫn không thấy thoả mãn. Ngài nhận thấy phương cách tu tập, lý thuyết của các đạo sư vẫn tiêu cực bế tắc. Ngài liền bỏ lối tu tập đó và một mình một bóng đến ngồi tham thiền bên bờ sông Ni Liên Thiền (Uruvila). Qua 49 ngày đêm nhập định, Bồ Tát Tất Đạt Đa hoát nhiên đại ngộ, chứng thành quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tôn hiệu là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.  Sau khi chứng đắc chân lý, Đức Phật đã đến gặp năm anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển. Bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật nói về pháp Tứ Đế được gọi là Chuyển Pháp Luân (Dhamma - Chakrapravartana). Giáo lý Tứ Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) xuyên suốt Bát Thánh Đạo hay Bát Chánh Đạo (Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Định, Chánh Niệm) đã hướng dẫn bao nhiêu người giải thoát từ dòng sông đau khổ đến bến bờ cực lạc hạnh phúc.
Suốt 45 năm, Đức Phật và hàng đại đệ tử của Ngài đã đi khắp lãnh thổ Ấn Độ, từ bờ sông Hằng đến những làng quê hẻo lánh, cốt yếu để truyền bá chánh pháp giải thoát lầm mê cho chúng sanh. Ánh sáng đạo Phật truyền đến đâu thì bóng tối vô minh tan đến đó. Hàng triệu triệu người đã tìm thấy hạnh phúc và giải thoát. Đức Phật nhập diệt tại thành Câu Thi Na (Kusinagara) năm 486 trước Công Nguyên. Năm ấy, Ngài được 80 tuổi.
Đạo Phật đã phát triển rực rỡ tại Ấn Độ, nhất là tại thành Câu Xá La (Kosala) và Ma Kiệt Đà (Magadha) còn được gọi là trung tâm Phật Giáo. Nhưng sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng 200 năm, đạo Phật cũng theo những biến cố lịch sử mà có nhiều thăng trầm thay đổi. Trong những biến cố lịch sử đó, trận chiến thảm khốc với quân Kalinga của vua A Dục (Asoka) là bước ngoặt nổi tiếng trong lịch sử Phật Giáo Ấn Độ.
Vua A Dục đã rùng mình tỉnh giấc mộng đế vương khi nhìn xác người ngựa đẫm máu nằm chết la liệt ở chiến trường. Hình ảnh đẫm máu đó đã khích động mãnh liệt lòng vị vua bạo tàn đó, khiến ông ta hối hận đã gây ra cảnh tương tàn hủy diệt sanh linh. Từ đó, A Dục Vương đã chuyển hoá tâm hồn, tìm hiểu đạo Phật và qua giáo lý, A Dục Vương đã thuần hoá từ từ trở thành một vị vua nhân đức nhất của lịch sử Ấn Độ.
Những thánh tích Phật Giáo còn sót lại trên lãnh thổ Ấn Độ đều có dấu ấn trùng tu lại của vua A Dục; nhờ thế mà ngày nay chúng ta có thể học và hiểu rõ thêm về những di tích lịch sử Phật Giáo qua những bia ký và thánh địa.
 


Những Thánh Địa
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã để lại dấu chân Ngài trên toàn lãnh thổ Ấn và hình bóng Ngài đã khắc sâu trong tâm tư nhân loại. Trong thời kỳ chánh pháp hưng thịnh, các địa danh quan trọng đều được nhắc tới. Bốn thánh địa nổi tiếng của Phật Giáo nói riêng và của Ấn Độ nói chung là: Vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) nơi Đức Phật giáng sanh, Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh-Gaya) nơi Đức Phật thành đạo, Lộc Uyển (Sarnath) nơi Đức Phật chuyển pháp luân đầu tiên, và Câu Thi Na (Kusinagara) nơi Đức Phật nhập diệt.
Bốn địa danh quan trọng khác cũng được đề cập đến trong lịch sử Phật Giáo là bốn nơi Đức Phật đã thi triển thần thông để giáo hoá điều phục chúng sanh. Những địa danh đó là: Sravasti (thủ phủ của Kosala) nơi Đức Phật đã thi triển thần thông điều phục Ca Diếp (Puruna Kasyapa), người lãnh đạo phái Tirthika (đạo thờ thần lửa).  Nơi thứ hai là Sankasya, Đức Phật đã lên tầng trời thứ 33 để giáo hoá cho hoàng hậu Ma Gia (mẫu thân của Ngài).  Nơi thứ ba là Rajagriha (thủ phủ của Ma Kiệt Đà), nơi đây Đức Phật đã điều phục con voi say do Đề Bà Đạt Đa sai khiến ra giết Đức Phật. Nơi thứ tư là Vệ Sá Ly (Vaisali), nơi đây Đức Phật đã thọ dụng bát mật ong do đàn khỉ dâng cúng.
Những địa danh nổi tiếng này và những biến cố trong cuộc đời Đức Phật đã là đề tài cho hàng ngàn tác phẩm nghệ thuật Phật Giáo từ xưa cho đến nay.
Những địa danh này đã lôi cuốn không biết bao nhiêu khách thập phương đến chiêm bái, và nhiều ngôi đền, tháp, bia ký cũng được xây dựng chung quanh những thánh địa này. Tuy nhiên, trong thời kỳ đạo Phật suy tàn tại Ấn Độ, một vài thánh địa đã bị hoang phế tàn rụi theo cát bụi và thời gian.
Ngày nay, các nhà khảo cổ Ấn Độ đang trên đường khai quật lại di tích và trùng tu lại các thánh địa.

Thánh địa thứ nhất:
Lâm Tỳ Ni (Lumbini)


Lâm Tỳ Ni (Lumbini), nơi Đức Phật giáng sanh, là một thánh địa ở vùng Rummindei, cách một dặm về phía Bắc vùng Paderia và hai dặm phía Bắc vùng Bhagwanpur nước Nepal. Ngày nay các nhà khảo cổ xác định Lâm Tỳ Ni nằm về phía Bắc quận Basti của xứ Uttar Pradesh.
Theo tài liệu sử Phật Giáo, Lâm Tỳ Ni tọa lạc cách thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) 12 dặm. Sử chép rằng, "Theo tục lệ, Hoàng Hậu Ma Gia phải trở về quê mẹ để sanh nở. Khi đến động hoa Lâm Tỳ Ni, bà cảm thấy trong người sảng khoái lạ thường. Cảnh vật xinh đẹp tươi mát chào đón, chim muông hót ríu rít trên cây, gió hiu hiu thổi làm tâm hồn người dịu êm nhẹ nhàng, Hoàng Hậu thong thả dạo bước ngắm nhìn thưởng thức cảnh trí thiên nhiên.
Khi đến tàng cây Sa La, Hoàng Hậu dơ tay vịn cành hoa sà thấp trước mặt và kỳ lạ thay, Thái tử giáng trần trong tư thế đứng của người mẹ. Chư Thiên tung hoa chào đón, bẩy con rồng phun nước thơm tắm rửa Thái tử và Thái tử đi 7 bước dõng dạc tuyên bố rằng: "Ta là đấng Vô Thượng Đạo Sư của Trời Người." (Thiên thượng thiên hạ, duy Ngã độc tôn). Từ vườn Lâm Tỳ Ni, Thái tử được các cung nô hầu hạ trở về thành Ca Tỳ La Vệ.
Quang cảnh giáng sanh của Thái tử Tất Đạt Đa là đề tài cho hàng ngàn tác phẩm nghệ thuật Ấn mà ngày nay người ta đã tìm thấy trong điêu khắc và tranh vẽ.
Nhận dạng được địa danh của Lâm Tỳ Ni, thiết tưởng chúng ta phải nhớ đến công ơn của vua A Dục. Hai mươi năm sau ngày đăng quang lên ngôi hoàng đế, Vua A Dục đã đích thân đi chiêm bái đãnh lễ các thánh địa và chính Vua đã sai người đúc một cột trụ khắc lên dòng chữ "Địa danh này là nơi Đức Phật giáng sanh." Vua A Dục cũng đã giảm 5% thuế hằng năm cho dân chúng vùng này. Đó là một đặc ân của vua A Dục đối với dân cư địa phương nơi Đức Phật giáng sanh. Bên cạnh cột trụ này, người ta còn thấy một ngôi đền xưa cũ khắc chạm hình ảnh quang cảnh giáng sanh của Đức Phật.
Lâm Tỳ Ni đã trở thành một thánh địa quan trọng hàng đầu đối với người Phật tử. Ngàn năm trước, những du tăng Trung Quốc đều lần lượt viếng thăm Lâm Tỳ Ni. Chung quanh cột trụ do vua A Dục sai đúc, các vị du tăng cũng đã tự đắp lấy những bia đá lớn nhỏ đánh dấu những cuộc viếng thăm cúng dường. Về sau, chính phủ Nepal ra lệnh khai quật vùng này để tìm thêm tài liệu chứng cứ.
 

Thánh địa thứ hai:
Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh-Gaya)


Thánh địa nổi tiếng thứ hai trong lịch sử Phật Giáo là Bồ Đề Đạo tràng, nơi Đức Phật thành đạo. Nơi đây Đức Phật đã tọa thiền suốt 49 ngày đêm dưới tàng cây pipala, bên cạnh dòng sông Ni Liên Thiền. Vì hiện tượng bất diệt đó, địa danh này đã trở thành Bồ Đề Đạo Tràng, và cây cổ thụ pipala được đặt tên là cây Bồ Đề (có nghĩa là "giác ngộ, bodhi tree").
Có thể nói, Bồ Đề Đạo Tràng đã trở thành một cái nôi của lịch sử văn hoá Phật Giáo và các đệ tử Phật đều ao ước được ít nhất một lần đến chiêm bái nơi này. Tòa cỏ Đức Phật ngồi thiền, cây Bồ Đề đều được chăm sóc kỹ lưỡng. Những bia tháp và những cột đá lớn nhỏ chung quanh Bồ Đề Đạo Tràng, do các du tăng Ấn Độ, Trung Quốc và các nước khác tự đắp lấy cúng dường khi đến chiêm bái thánh địa này, và tài liệu ghi chép của ngài Tam Tạng Huyền Trang, đã cho chúng ta hình dung ra được quang cảnh sầm uất rực rỡ của địa danh này trong quá khứ hơn 2500 năm trước. Cây Bồ Đề bây giờ là cây cháu cây chắt của hàng ngàn cây Bồ Đề gốc, nhưng cành lá vẫn xum xuê, thân cây to lớn rắn chắc.
Chính ngài Alexander Cunningham và một số các nhà bác học khác là những người đầu tiên khai quật những bia ký và cột trụ tại Bồ Đề Đạo Tràng này. Đại tháp Bồ Đề đã được trùng tu lại nhiều lần với một kinh phí rất to lớn. Vua A Dục cũng đã xây dựng một ngôi đền tại thánh địa này. Ngôi đền do vua A Dục xây đã được miêu tả nhiều trong nghệ thuật Ấn; tuy nhiên di tích của ngôi đền này đã không còn tìm thấy dấu vết nữa.
Ngôi đại tháp Bồ Đề chúng ta thấy hiện nay là ngôi tháp mới được trùng tu lại sau này. Theo sự miêu tả của ngài Tam Tạng Huyền Trang thì đại tháp Bồ Đề đã được xây dựng từ thế kỷ thứ 7 sau Công Nguyên theo mô hình của một đại bảo tháp tại Miến Điện (Burma).
Hiện nay, ngôi đại bảo tháp tại Bồ Đề Đạo Tràng cao gần 160 bộ và xây theo hình tứ giác. Trên đỉnh là một ngọn tháp nhọn. Trong tháp, người ta khắc chạm hình tượng Đức Phật thành đạo. Phiá Bắc của ngôi tháp là một con đường hẹp cách mặt đất 4 bộ. 
Người ta miêu tả đó là con đường nhỏ mà Đức Phật, sau khi thành đạo, đã đi thiền hành qua lại trên con đường này. Ngoài ra, lại còn có nhiều hình hoa sen được chạm trỗ trên con đường đó vì người ta tin rằng mỗi bước chân Đức Phật đi đều có hoa sen nở tung ra đến đó. Người ta còn thấy một mảng đá cát đỏ cạnh cây Bồ Đề, tượng trưng cho đệm cỏ mà hơn 2540 năm trước, Đức Phật đã ngồi và chứng đạo. Còn rất nhiều những kiến trúc chạm trỗ khác khắc ghi lại hình ảnh của Đức Phật và các đại đệ tử, các Phạm Thiên. Những kiến trúc thẩm mỹ đó đã hấp dẫn hàng triệu người đến chiêm bái Bồ Đề Đạo Tràng mỗi năm càng ngày càng đông, tạo nên một luồng sóng du lịch khổng lồ về quê Đức Phật giúp cho nền tài chánh quốc phòng Ấn thêm một phần lợi tức đáng kể.

Thánh Địa thứ ba:
Sarnath 

Một thánh địa đáng ghi nhớ nữa trong lịch sử Phật Giáo là thánh địa Isipitana hay Sarnath. Nơi đây, trong sự tĩnh lặng của vườn Lộc Uyển, Đức Phật đã khai giảng bài pháp đầu tiên cho 5 anh em ông Kiều Trần Như trước kia cùng tu khổ hạnh với Ngài. Nội dung bài thuyết pháp nói về những khổ đau của kiếp người và những phương cách giải hóa những thống khổ đó. Sự kiện này đã được mệnh danh là "Chuyển Pháp Luân," có nghĩa là Đức Phật chuyển bánh xe pháp đầu tiên đánh dấu một kỷ nguyên huy hòang rực rỡ của một tôn giáo kéo dài bền vững trên 2500 năm cho đến nay.
Sarnath là nơi xuất phát tôn giáo do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập. Vì thế, Sarnath đã trở thành trung tâm Phật giáo lớn nhất tồn tại trên 1500 năm. Trong những thế kỷ đầu tiên của thời kỳ Phật giáo hưng thịnh, dưới triều đại vua A Dục, Sarnath đã trở thành một nơi tranh luận nổi tiếng giữa các tông phái và đạo giáo. Hai ngài Pháp Hiền và Trần Huyền Trang đã đến chiêm bái thánh tích này vào thế kỷ thứ 5 và thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên. Hai ngài đã để lại cho chúng ta nhiều tài liệu giá trị về lịch sử thánh địa này. Nơi đây, vua A Dục cũng đã sai người xây dựng một cột trụ đánh dấu khu vực ẩn cư trong nhiều tòa nhà lớn nhỏ khác nhau của hơn 1500 vị tăng sĩ Phật giáo đến Sarnath. Trong những di tích còn sót lại đó, người ta phải nhắc đến một ngôi đền tuyệt mỹ có tượng Phật bằng đồng trong hình tướng chuyển Pháp luân, một ngôi cổ tháp và một cột trụ bằng đá. Tất cả đều do vua A Dục xây dựng. Thánh địa này đã phát triển rực rỡ trong nhiều triều đại và cũng đã được trùng tu lại nhiều lần. Theo bia ký và những chứng cứ khảo cổ, người ta biết rằng ngôi đền có tượng Đức Phật Chuyển Pháp Luân đã được trùng tu lại theo lệnh của hòang hậu Kumaradevi vào phân nửa đầu thế kỷ thứ 12 trước Công nguyên. Chẳng bao lâu sau, địa danh này bị quân đội của Muhammad Ghori, của đạo quân Huns và Mahmud Ghazni phá hủy hòan tòan, nhưng Sarnath lại được trùng tu do công sức của các tín đồ Tăng Ni Phật giáo khắp nơi. Tuy nhiên về sau, vì đạo Phật đã suy tàn tại Ấn Độ, Sarnath, một địa danh lịch sử nổi tiếng và huy hòang một thời đã bị tiêu hủy mất dấu trong đổ nát hoang tàn của cát bụi thời gian.

Ngày nay, viện khảo cổ Ấn đã tổn phí sức lực và tài chánh thật nhiều trong công cuộc khai quật và trùng tu lại thánh địa Sarnath. Khi chúng ta đến Sarnath từ hướng Varanasi, chúng ta sẽ thấy một mặt phẳng bát giác bằng gạch nung nhô lên khỏi mặt đất. Mặt phẳng này là di tích còn sót lại của một ngôi tháp trước kia đánh dấu nơi Đức Phật đến gặp 5 anh em ông Kiều Trần Như. Ngôi tháp bát giác này được trùng tu lần sau cùng bởi tiểu vương Akbar năm 1588, thuộc triều đại Gupta.
Trong số những di tích tàn rụi còn sót lại không bị các đạo quân tàn phá là ngôi tháp Dhamekh cao hơn mặt đất 150 bộ. Ngôi tháp này được xây cất bằng nguyên liệu bền cứng, những khối đá khổng lồ bằng gạch và mang hình dáng cột trụ. Những hình tượng khắc trên mặt tháp cho chúng ta biết ngôi tháp Dhamekh được xây vào triều đại Gupta thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên. Danh từ "Dhamekh" phát xuất từ nguyên từ Phạn ngữ "Dharmekh - chánh pháp". Cách ngôi tháp này không xa về hướng Tây là một ngôi tháp nhỏ do vua A Dục xây cất. Tháp vua A Dục xây, theo lời miêu tả của ngài Trần Huyền Trang, có thể là nơi Đức Phật tọa thiền thuyết pháp cho 5 anh em Kiều Trần Như. Xa hơn một tí về phía Bắc, là một côt trụ hình đầu sư tử được khắc chạm rất công phu. Cột trụ sư tử này hiện nay được trưng bày tại viện bảo tàng khảo cổ gần đó. Tại ngôi tháp này, chúng ta còn thấy sót lại những mảnh đá lớn của nền nhà chánh điện và những cột lớn nhỏ của một cổng chính dẫn lối vào chánh điện ngôi tháp. Ngòai ra, chúng ta còn thấy rất nhiều mãnh vỡ của các tượng Phật và Bồ tát mang dấu ấn điêu khắc của nhiều triều đại khác nhau. Một bức tượng Phật đẹp nhất tạc bằng đá cát khắc hình Đức Phật Chuyển Pháp Luân là bức tượng tuyệt mỹ mang dấu nghệ thuật điêu khắc triều đại Gupta.
 

Tất cả những bức tượng điêu khắc vào thời đại này đều khắc theo tám biến cố lịch sử của cuộc đời Đức Phật như Đức Phật giáng sanh, thành đạo, chuyển Pháp luân, nhập Niết bàn, thi triển thần thông, v.v. Đáng kể nữa là một bức tàn lọng bằng đá khắc trọn vẹn bài pháp Tứ Đế bằng tiếng cổ Pàli.
Dù đã bị tàn phá nhiều theo thời gian, Sarnath vẫn còn hấp dẫn du khách tìm về Ấn Độ để tưởng nhớ lại hình ảnh Đức Từ Phụ và giáo âm của Ngài vẫn vang vọng bất diệt trong lòng người con Phật.

Thánh địa thứ tư:
Kusinagara


Kusinagara hay Kusinara (Câu Thi na) là nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thâu thần tịch diệt năm Ngài 80 tuổi dưới hai tàng cây Sa La. Địa danh này sau được các nhà khảo cổ nhận dạng là Kasia ở quận Deoria của xứ Utta Pradesh.
Giống như các thánh địa khác liên quan đến những biến cố lịch sử đời Đức Phật, Kusinagara đã trở thành một thánh địa quan trọng để các Phật tử đến chiêm bái đãnh lễ.
Vào thời điểm đó, hàng ngàn tự viện và bảo tháp đã được xây dựng lên chung quanh thánh địa này. Tuy nhiên, không rõ vì lý do gì, có thể bị đạo quân Hồi giáo phá hủy hay do thời gian phai tàn xóa dấu mà thánh địa này đã bị hoang phế tàn rụi. Hai ngài Pháp Hiền và Huyền Trang, khi đến chiêm bái thánh địa này, cũng phải thốt lên lời ta thán bi thiết khi nhìn cảnh vật hoang liêu đổ nát của Kusinagara.
Qua những cuộc khai quật để tìm lại dấu vết, người ta đào được một số những mảnh vỡ vụn của các tượng Phật, những cột trụ loang lỗ. Tuy nhiên, căn cứ trên những dấu hiệu của các di tích còn sót lại đó và những bia ký thì chắc chắn nơi đây là thánh địa nhập Niết bàn của Đức Phật. Ngôi tháp Đại Bát Niết Bàn mà vua A Dục xây cất cũng không có thể tìm thấy được nữa và có thể ngôi tháp này đã bị chôn vùi dưới nền tinh xá Niết bàn xây dựng ở triều đại Gupta.
Tượng Phật nhập Niết bàn
Trong số những di tích đó, người ta tìm được một bức tượng Đức Phật trong tư thế nhập Niết bàn. Bức tượng này cũng bị vỡ vụn và đã được nhà điêu khắc Carlleyle khéo léo hàn gắn chạm trỗ lại. Ngôi đại bảo tháp Ramabhar được dựng ngay tại địa điểm làm lễ trà tỳ kim thân Đức Phật và xá lợi Ngài được phân chia ra làm tám phần đồng nhau cho tám vương quốc lớn mạnh nhất thời đó.
Nơi trà tỳ kim thân của đức Phật
Hiện nay các nhà khảo cổ vẫn còn tiếp tục công cuộc khai quật thánh địa Kusinagara, mong sẽ tìm thêm tài liệu chứng cứ hơn nữa để làm sáng tỏ thêm một địa danh linh thiêng đã được đón nhận kim thân Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Thánh địa thứ năm:
Sravasti


Sravasti, thủ phủ của vương quốc Kosala ngày xưa, được các Phật tử tôn sùng vì nơi đây hơn 2540 năm trước, Đức Phật đã thi triển thần thông giáo hóa các đạo sư thờ thần lửa.
Theo các sử liệu ghi chép lại, Đức Phật đã thi triển các phép lạ như trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, trên thân ra lửa, dưới thân ra nước, hay mặt trời mặt trăng chiếu sáng cùng một lúc trên bầu trời, và nhiều hóa thân của Đức Phật. Những phép lạ đó đã là đề tài cho nhiều tác phẩm nghệ thuật Ấn từ các thời đại cổ xưa cho đến nay.
Ngay trong thời Đức Phật, Sravasti đã là một trung tâm Phật giáo sầm uất phồn thịnh. Chính nơi đây, trưởng giả Cấp Cô Độc đã rãi vàng mua hết đất vườn hoa của Thái Tử Kỳ Đà để xây dựng tinh xá cúng dường Đức Phật và chư tăng. Câu chuyện rãi vàng mua đất của ông Cấp Cô Độc đã khích động mãnh liệt đến các tầng lớp quí tộc vua chúa, khanh hầu, trưởng giả và đó cũng là đầu đề về lòng sùng bái tuyệt đối của ông Cấp Cô Độc cũng như các tác phẩm nghệ thuật Ấn sau này. Càng về sau, nhiều tinh xá, bảo tháp xây cất rải rác chung quanh địa danh này khiến Sravasti thêm nổi tiếng và phồn vinh.
Các nhà khảo cổ tin rằng Sravasti thuộc địa phương Saheth - Maheth nằm sát biên giới quận Gonda và Bahraich của xứ Utta - Pradesh. Nơi đây họ đã tìm thấy vài bia ký liên quan đến tinh xá Kỳ Viên ở Sravasti.

Địa danh Saheth - Maheth gồm có hai vùng riêng biệt. Vùng lớn nhất, Maheth, rộng 400 mẫu, ngày xưa là một tỉnh lỵ trù phú. Saheth thì chỉ rộng có 32 mẫu, nằm độ 0.25 dặm phía Tây Nam của Kỳ Viên tinh xá. Những cuộc khai quật tại vùng Maheth đã cho chúng ta biết được rằng xưa kia Maheth là một thành phố rất giàu có đông đúc. Saheth, tuy nhỏ hơn, nhưng lại nổi tiếng hơn vì nơi đây Đức Phật đã dừng chân để giáo hóa và còn sót lại nhiều nền nhà của tinh xá, tự viện, bảo tháp; cho nên đa số các tăng sĩ, du khách đều ghé tới Saheth để chiêm bái tham quan.
Những di tích trưng bày đó mang dấu hiệu thời đại Mauryan cho đến những năm đạo Phật bắt đầu suy tàn tại Ấn Độ thế kỷ thứ 12 sau Công nguyên. Tại đây, người ta thấy một ngôi tháp cổ nhất được xây cất từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, chứa đựng xá lợi Phật và một tượng đầu Đức Phật tạc ở thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên thuộc triều đại Bala. Tượng đầu Đức Phật này giờ được trưng bày tại bảo tàng Ấn Độ ở Calcutta. Hòang hậu Kumaradevi, vợ vua Govinda-Chandra là người cuối cùng bảo trợ tài chánh kinh phí xây dựng trùng tu lại Kỳ Viên tinh xá năm 1128-29.
Đạo Phật bây giờ đã suy tàn nhiều tại Ấn Độ và địa danh Sravasti, một thời nổi tiếng huy hòang trong lịch sử Phật giáo Ấn, đã bị gót giầy đạo quân Hồi giáo tàn phá thiêu hủy thành bình địa.

Thánh địa thứ sáu:
Sankasya


Một địa danh thiêng liêng khác có liên quan đến cuộc đời Đức Phật là Sankasya, nơi Đức Phật thi triển thần thông lên cung trời Đao Lợi thứ 33 thuyết pháp giáo hóa thân mẫu của Ngài là Hòang hậu Ma Gia và chư Thiên. Đức Phật đã giảng A Tỳ Đạt Ma Luận trên cung trời Phạm Thiên. Sự kiện này đã xảy ra sau khi Đức Phật thi thố phép lạ ở Sravasti.
Sankasya, còn được gọi là Sankisa hay Sanisa Basantapur, thuộc quận Farrukhabad của Utta Pradesh. Địa phương này được biết xác thực là nhờ vào bia ký của vua A Dục khắc trên tượng một con voi đánh dấu thánh địa này.
Không riêng chỉ có hai ngài Pháp Hiền và Huyền Trang đến chiêm bái thánh địa Sankasya, mà có nhiều tăng sĩ Trung Hoa khác cũng đến viếng thăm thánh địa này -- nhưng những tài liệu do họ để lại cũng không còn đầy đủ chứng cứ để xác minh rõ hơn về địa danh này. Ngôi làng hiện giờ ở thánh địa này nằm trên một ngọn đồi, cao độ 41 bộ và rộng cỡ 1,500 mét vuông. Cách đó về hướng Nam độ 0.25 dặm là một ngôi tháp do hòang hậu Devi ra lệnh xây cất. Rải rác chung quanh ngọn đồi này là những đống gạch đá vỡ vụn và những di tích sót lại của cổng thành, đòn ngang, xà nhà, v.v. Những tàn tích này không đủ dữ kiện để chúng ta xác định lịch sử của thánh địa Sankasya.
Tượng con voi do vua A Dục sai đúc là di tích quan trọng nhất đánh dấu địa danh Sankasya và những cuộc khai quật trong tương lai hy vọng sẽ đem lại cho chúng ta nhiều điều lý thú hơn về Sankasya.
Hình bức tượng voi ở Sankasya do vua A Dục sai đúc đánh dấu địa danh này

Thánh địa thứ bảy:
Rajagriha


Rajagriha, thủ phủ của vương quốc Ma Kiệt Đà hùng mạnh, có thể nói rất nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo vì nhiều nguyên do. Không những Rajagriha là nơi Đức Phật đã dừng chân lại nhiều lần trong cuộc đời hành đạo của Ngài, mà nơi đây cũng chính là nơi Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), em họ của Đức Phật, đã âm mưu nhiều lần để giết Ngài. Hơn nữa, tại thủ phủ này, ở động Sattapanni trên ngọn đồi Vaibhara, Đại Hội Kiết tập lần thứ I đã được tổ chức tại đây dưới sự chủ tọa của ngài Ưu Bà Li (Upali) và ngài A Nan (Ananda). Những điểm chính yếu của giáo lý và giới luật của Phật giáo đều nêu lên trong kỳ Đại Hội Kiết Tập này. Vì thế, Rajagriha đã trở thành một địa danh nổi tiếng và quan trọng trong sự thành lập và phát triển Tăng đòan Phật giáo.
Là một thành phố nổi tiếng ngày xưa, Rajagriha bây giờ là một phố thị trong quận Patna của xứ Bihar, bao bọc chung quanh là những ngọn đồi núi chập chùng. Rajagriha còn được gọi là Vaibhara, Vipula, Ratna, Chatha, Udayagiri và Sonagiri. Dưới chân ngọn đồi về phía Bắc của phố thị Rajagriha ngày xưa là vương quốc của vua A Xà Thế (Ajatasatru), con vua Bình Sa vương (Bimbisara). Sau đời vua A Xà Thế, thái tử Udayin kế vị ngai vàng và dời kinh đô Kusumapura đi nơi khác và đời vị vua kế tiếp là Kalasola lại dời kinh đô về Pataliputra, do đó Rajagriha dần dần đã mất đi vai trò quan trọng của nó trong vương quốc. Tuy nhiên, mặc dù có nhiều biến đổi thăng trầm trong chính trường và tôn giáo, Rajagriha vẫn luôn được nhắc đến trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ và lịch sử các đạo giáo khác.
Những di tích của thành phố cổ xưa Rajagriha còn sót lại rất ít. Qua những di tích và bia ký vỡ vụn, các nhà khảo cổ tin rằng thánh địa này đã từng là địa điểm sinh họat của nhiều tôn giáo khác nhau. Ngay cả động Sattapanni, nơi kiết tập Đại Hội Phật giáo lần thứ I, cũng mờ dấu vết. Theo kinh điển và sử liệu, động Sattapanni, nằm về phía Bắc sườn đồi Baibhara và nhà bác học Stein có lý khi ông cho rằng vị trí động đá này tọa lạc phía Bắc trên một mảnh đất rất rộng có nhiều hang động nhỏ. Một kiến trúc đặc biệt đáng kể, Jarasandha Ki Baithak, trên sườn đồi Vaibhara phía Đông, có những hầm nhà lớn nhỏ không đồng đều nhau, được mô tả là nơi ẩn cư của Đức Ma Ha Ca Diếp (Mahakasyapa), vị chủ tọa kỳ Đại Hội Kiết Tập lần thứ I. Về sau, các hang động này đều là chỗ ở của các đạo sĩ Kỳ Na giáo (Jainism) một thời.
Ngọn núi Gridhrakutta một thời là nơi ẩn cư tu hành của Đức Phật, nằm gần sát bên thành phố Rajagriha và theo một số dữ kiện lịch sử cũng như các dân địa phương cư ngụ tại vùng này, thì động Sonbhandar phía Đông đồi Vaibhara có mỏ vàng chưa khai phá tại đây.

Rajagriha, bây giờ là một thắng cảnh hấp dẫn các du khách trong và ngòai nước đến viếng, không những là địa điểm nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo mà còn là một địa danh có nhiều ngọn suối nóng chữa bệnh và an dưỡng.

Thánh địa thứ tám:
Vaisali (Vệ Xá Ly)


Trong thời Phật giáo hưng thịnh, Vaisali, thành phố của vương quốc Lichchhavi hùng cường, là cái nôi của nền văn hóa triết thuyết Phật học.
Đức Phật đã từng dừng chân du thuyết của Ngài 3 lần nơi thành phố này. Nơi đây Đức Phật đã thọ nhận bát mật ong do đàn khỉ dâng cúng và nơi đây cũng là địa phận Đức Phật tuyên bố 3 tháng nữa Ngài sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn. Hơn nữa, Vaisali cũng là nơi kiết tập Đại Hội Phật Giáo lần II hơn 100 năm sau ngày Thế Tôn nhập diệt. Đối với tín đồ Kỳ Na giáo, Vaisali cũng là một thánh địa vì Đức Mahavira, vị đạo sư đời thứ 14 của Kỳ Na giáo ra đời.
Vaisali là một thành phố thuộc quận Muzaffarpur của Bihar. Vào triều đại Gupta, Vaisali là một thủ phủ phồn vinh náo nhiệt. Khách thương, tàu bè, hải cảng buôn bán tấp nập. Các cửa tiệm, nhà băng, công sở, mở cửa suốt ngày đêm. Các kho chứa thóc gạo, lụa là, v.v. của hòang cung đều đầy ngập. Vaisali, thời đó, đã gíup cho triều đại Gupta một thế đứng vững vàng trên vũ đài chính trị cho đến triều đại Mauryan, Vaisali vẫn còn là một thủ đô quan trọng.

Bảo tháp và trụ đá vua A Dục

Hai ngài Pháp Hiền và Huyền Trang đã đến chiêm bái thánh địa này. Theo lời của ngài Huyền Trang, Vaisali chỉ rộng cỡ 10, 12 dặm vuông. Chung quanh Vaisali có vô số những tháp, bia đá không biết cơ man nào mà kể. Nhưng thời gian đã tàn nhẫn xóa sạch những di tích ấy và chỉ còn sót lại ở khu Kolhua, cách 2 dặm về phía Tây Bắc thành phố Raja Bisal Ka Garh, một trụ đá tạc tượng sư tử cao hơn mặt đất 22 bộ.
Trụ đá sư tử này có vẻ giống các trụ đá vua A Dục sai xây đắp nhưng không có một bút tích hay bia ký nào cho chúng ta xác định rõ trụ đá này thuộc thời đại vua A Dục cả. Gần trụ đá này, về phía Nam, có một hồ nước nhỏ, mà tương truyền rằng đó là vũng nước mà hàng 2000 năm xưa, đàn khỉ đã đào để lấy nước dâng Đức Phật uống mỗi ngày. Vì thế, hồ nước này có tên gọi là Rama-Kund hay là Markata-Hraka, có nghĩa là "hồ nước của lòai khỉ." Về phía Tây Bắc, một nền đất của một ngôi đền còn sót lại. Ngôi đền này ngày xưa được vua A Dục sai xây cất bằng gạch nung và một ngôi tháp có dấu hiệu vua A Dục xây còn sót lại trên mảnh đất hoang sơ một thời trù phú và quan trọng này.
Thời gian đã làm phai mờ và rụi tàn bao nhiêu đền đài, bảo tháp, nhưng những thánh địa Phật Giáo vẫn luôn luôn là quê hương tìm về của những người con Phật.

Những Địa Danh Quan Trọng 

Trong thời kỳ Phật giáo phát triển và hưng thịnh, ngoài những thánh địa linh thiêng liên quan đến cuộc đời Đức Phật, những địa danh quan trọng trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ như Sanchi, Nalanda cũng góp phần không nhỏ cho sự huy hòang của Chánh Pháp.
Những tự viện, tinh xá ở Gandhara, Taxila, Purushapura, West Pakistan, East Pakistan đều là những trung tâm văn hóa Phật giáo. Ngòai những nét thẩm mỹ và kiến trúc độc đáo ra, các trung tâm văn hóa Phât giáo này còn là nơi xuất phát những anh kiệt của Phật giáo tạo nên những cuộc tranh luận triết lý văn học rất sôi nổi phấn khởi hào hùng; tiêu biểu là trung tâm Phật giáo Sanchi, Nalanda, Ajanta và Ellora.
Những địa danh này, cũng theo qui luật vô thường của vạn vật mà biến thiên dời đổi. Những di tích còn sót lại đó không đủ đem lại ánh sáng rọi vào quá khứ vàng son của những địa danh này. Tuy nhiên, dù đã mờ nhạt đi trong lịch sử, những địa danh quan trọng này vẫn còn đủ sức hấp dẫn những học giả, tăng ni, tín đồ Phật giáo nối gót nhau lần dò về những miền xa xôi hẻo lánh để tìm lại một chút dư âm thời cực thịnh của Phật Giáo Ấn Độ.
Sanchi 

Sanchi là một trong những địa danh nổi tiếng quan trọng của lịch sử Phật giáo Ấn Độ. Địa danh này không có chút liên quan đến cuộc đời Đức Phật, nhưng Sanchi là một trung tâm văn hóa Phật giáo rất nổi tiếng và phồn thịnh thời Phật giáo cực thịnh. Theo sử liệu và văn chương truyền thuyết Phật gíao, Sanchi là nơi hội tụ các tinh hoa nghệ thuật của Ấn Độ, và có thể nói, Sanchi là tác phẩm kiến trúc, điêu khắc tuyệt mỹ nhất của nước Ấn.
Theo sử liệuTích Lan, vua A Dục đã cưới con gái một thương buôn giầu có và hạ sanh được một thái tử đặt tên là Mahinda. Thái tử Mahinda là một người mộ đạo Phật và rất được Vua Cha và Hòang Mẫu thương yêu. Khi vua A Dục già yếu, ngài muốn đưa hai người con trai và con gái của ngài qua Tích Lan truyền đạo, và tháp Sanchi đã được xây cất trên ngọn đồi vùng lân cận Vidisa, khi thái tử Mahinda dừng chân lại nghỉ ngơi trên đường qua Tích Lan hoằng hóa đạo Phật.
Dù tài liệu có đúng hay không thì những bia ký, tháp tự ở Sanchi đều mang dấu ấn thời vua A Dục và người ta cũng tin rằng chỉ có vua A Dục, vị đại thí chủ hòang gia đó mới đủ tài sức để phát triển Sanchi thành một trung tâm văn hóa Phật giáo phồn vinh và nổi tiếng.
Hầu hết các tháp tự ở Sanchi đều tọa lạc trên một ngọn đồi cao bao bọc bởi một tường đá rắn chắc vào thế kỷ thứ 10 sau Công nguyên. Những ngôi tháp, bia ký này đều có dấu ấn từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên đến thế kỷ thứ 12 sau Công nguyên, tính từ đại tháp Sanchi cao 50 bộ và đường kính của vòm tháp Sanchi là 100 bộ là tháp lớn nhất đến ngôi tháp nhỏ nhất cao không quá 01 bộ, thì những tháp tự lớn nhỏ này tạo cho ngọn đồi một thế đứng hùng mạnh sừng sững.
Ngôi đại tháp ở Sanchi được xây cất bởi gạch đá thời vua A Dục, gồm có những cột trụ cao bằng đá rắn chắc chạy dài bao quanh ngôi tháp, và cổng chính của tháp được xây cất và chạm trỗ một cách điêu luyện đầy thẫm mỹ độc đáo như hình bên cạnh. Hai cột trụ đứng chạm kinh văn nguyên bản tiếng Phạn xưa. Đầu cột tạc 2 con voi đỡ 3 xà ngang, có chỗ trạm chỗ hình voi, sư tử, kinh văn, v.v. tượng trưng những sinh hoạt văn học triết lý của các thời kỳ chánh pháp, tượng pháp Phật giáo Ấn Độ. Bốn mặt đại tháp có 4 cổng gồm 1 cổng lớn và 3 cổng nhỏ. Ba cổng nhỏ kia cũng xây cất và chạm trỗ giống như cổng lớn với các hình tượng voi, sư tử, nam nữ, ngựa, v.v. miêu tả theo những thần thọai về cuộc đời và giáo pháp của Thế Tôn. Những thuyết thần thọai hóa cuộc đời Đức Phật miêu tả trong kinh Bổn Sanh Bổn Sự được các nghệ nhân Ấn đúc kết chạm trỗ điêu khắc trên các cổng thành và tường tháp. Đáng chú ý nữa là hình tượng vua A Dục được chạm khắc trên một cổng thành, miêu tả lại quang cảnh vua A Dục viếng thăm chiêm bái cây bồ đề ở Bồ Đề Đạo Tràng. 
Hình ảnh vua A Dục ở Sanchi là hình ảnh duy nhất được chạm trỗ do các nghệ nhân và thần dân của Vua khắc lại để tưởng nhớ đến công ơn của một vị đại thí chủ của Phật giáo đã hết lòng ủng hộ công cuộc hoằng dương chánh pháp.
Những tác phẩm nghệ thuật này đều phản ảnh lòng nhiệt thành mộ đạo của thần dân địa phương vùng Sanchi. Họ đã tổn phí rất nhiều và phải mất nhiều năm mới hòan thành các tác phẩm kiến trúc tuyệt mỹ này. Từng đường khắc, từng nét chạm, từng nét vẽ đều mang trong nó tâm hồn yêu nghệ thuật, lòng sùng kính, dâng hiến và biết ơn của người nghệ sĩ. Các nghệ nhân này làm công việc đó không phải vì lợi danh, địa vị, cho nên tâm tư họ thỏai mái, an lạc hướng trọn tâm hồn cho nghệ thuật. Vì thế, các tác phẩm đều tóat lên một sức sống mãnh liệt khiến người xem cảm thấy rung động sâu xa như đang sống trong ánh sáng Đạo Vàng Giải Thóat.
Trong số những tháp tự này, có 3 ngôi tháp được người ta chú ý nhiều nhất.
Tháp thứ nhất là ngôi tháp thứ 3, nằm về hướng Đông Bắc của ngôi Đại Tháp, mặc dù là tháp nhỏ nhất nhưng là ngôi tháp kiểu mẫu. Trong căn phòng tôn thờ xá lợi, Tướng Cunningham đã khám phá ra những xá lợi của ngài Xá Lợi Phất và Đại Mục Kiền Liên, hai vị đại đệ tử của Phật. Hai vị này rất nổi tiếng. Ngài Xá Lợi Phất là "Trí Tuệ Đệ Nhất." Ngài Mục Kiền Liên là "Thần Thông Đệ Nhất." Các xá lợi của hai vị đại đệ tử Phật được các nhóm khảo cổ mang về Anh Quốc, trưng bày ở bảo tàng thành phố Luân Đôn, và sau đó mang trả về lại tôn thờ ở Sanchi trong ngôi tháp số 3 này. Ngày xưa, ngôi tháp số 3 này thường hay bị đào xới khai quật.
Ngôi tháp thứ 2, nằm trên sườn đồi phía Tây. Ngôi tháp này không có xá lợi, không có cổng chính, nhưng còn lưu giữ lại một số những đồ dùng của các nghệ nhân ngày xưa để quên lại, và những đồ dùng vật liệu này giúp cho người ta biết được cách đây hơn 2500 năm, các nghệ nhân đã đúc tượng chạm vẽ thế nào. Các nét điêu khắc ở ngôi tháp này có vẻ tân tiến hơn lối kiến trúc của Đại Tháp.
Ngôi tháp nhỏ cuối cùng gần chân đồi phía Tây là nơi tôn thờ xá lợi của ngài Ca Diếp. Ngòai sự đặc biệt này, ngôi tháp còn đặc biệt với những cột trụ, đầu cột, bức tường chạm khắc các hình ảnh vô cùng tuyệt xảo độc đáo.
Nhiều tháp nhỏ rải rác chung quanh Đại Tháp được tìm thấy. Trong đó, người ta đào được nhiều mảnh vụn vỡ của các tượng, bia ký, v.v. Ở Sonari cách Sanchi vài dặm, nhiều di tích được tìm thấy. Ở Satdhara, cách đó ba dặm, người ta lại tìm thấy xá lợi của ngài Xá Lợi Phất trong 2 ngôi tháp nhỏ, giống như xá lợi tìm thấy ở tháp vùng Sanchi. Còn rất nhiều tháp ở vùng Bhojpur, vùng Andher mà các dấu ấn đều mờ nhạt không thể giúp chúng ta xác định được các tháp xây cất vào triều đại Asoka hay sau thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên.
Trong số các tháp tự đó, đáng kể nhất là cột trụ đá vua A Dục với tượng 4 sư tử đâu lưng vào nhau, gần cổng chính Đại Tháp Sanchi phía Nam. Trên đầu cột trụ, có khắc hàng chữ tuyên bố lệnh "Cấm phân rẽ, phá họai Tăng Đòan, sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc" của vua A Dục. Ngòai ra, ngôi đền số 17, số 18 xây cất vào khỏang từ thế kỷ thứ 7 đến thời kỳ thứ 12 sau Công nguyên, với những tượng Phật, cột trụ đá, những bức tường chạm trỗ cũng góp phần vào công trình tuyệt mỹ ở Sanchi.
Những tháp tự ở Sanchi đã được giữ gìn, phục hồi lại rất cẩn thận và khéo léo bởi các nghệ nhân điêu khắc và các nhà khảo cổ bác học. Người có công nhất trong cuộc trùng tu khai quật này là ngài John Marshall, vị cựu tổng giám đốc Viện Khảo Cổ Quốc Gia Ấn Độ. Ông đã tu bổ, sửa chữa, phục hồi lại các di tích và những du khách khi đến Sanchi đều có thể tưởng tượng như đang trở về thời quá khứ vàng son của Chánh Pháp với những ngôi tháp hùng vĩ sừng sững một góc trời.
Ajanta và Ellora
Hai địa danh nổi tiếng đáng kể nữa là Ajanta và Ellora tọa lạc ở vùng Maharashtra. Trong một thung lũng nhỏ hẹp là hang động đẹp tuyệt vời Ajanta với những di tích của những ngôi đền và tự viện.
Từ những tảng đá thiên nhiên, những nghệ nhân đã đẽo gọt, khắc chạm thành những tượng Phật, Bồ Tát hay những tác phẩm nghệ thuật vô cùng tinh xảo. Những bức tường, cột trụ đá, trần động đều được chạm trỗ thật tinh vi xuất sắc mang dấu ấn nghệ thuật Phật giáo kéo dài suốt 800 năm và không có một di tích nào ở Ấn Độ có thể so sánh được với những tuyệt tác này.
Những hang động ở Ellora thì được khai quật và tìm thấy trên một cao nguyên tòan đá rất rộng lớn. Không giống như Ajanta, Ellora tượng trưng cho sự tổng hợp nghệ thuật của 3 nền tôn giáo lớn ở Ấn Độ. Đó là: Phật giáo, Bà La Môn giáo, và Kỳ Na giáo. Ngôi đền Kailasa nổi tiếng của đạo Bà La Môn là tiêu biểu xuất sắc nhất của nền nghệ thuật thế giới với những trần nhà, hành lang thiết kế mỹ thuật, những bức tường thần sống động qua những nét chạm trỗ điêu khắc, những tranh ảnh họa theo những truyền thuyết, tất cả những di tích đó đều được đẽo gọt từ những lòng đá mà ra, khiến cho ngôi đền trong hang động Ellora thêm lừng danh nổi tiếng.
Những hang động ở Ajanta mang dấu ấn những thế kỷ cuối cùng của kỷ nguyên trước Thiên Chúa, và theo thứ tự niên đại, Ajanta đã góp phần vào sự phát triển nghệ thuật, mỹ thuật, điêu khắc, xây cất những kỳ tích. Hang động số 9 và số 10 là những hang động lâu đời nhất nằm sâu tận trong lòng những dãy động đá ở Ajanta. Từ những dãy động đá này suốt đến hang động thứ 19 và 26, người ta thấy vô số những hình ảnh, tượng khắc Đức Phật theo nhiều cách thiết họa khácnhau. Các tượng, tranh ảnh vẽ Đức Phật trong tư thế ngồi kiết già thiền định hay trong dáng đứng Chuyển Pháp Luân. Những nghệ nhân thời xưa đã dâng trọn trái tim nghệ thuật và sự tôn kính sùng bái lên Thế Tôn qua nét vẽ và chạm khắc của họ.

Hang động thứ 16, 17, và 02 là những hang động quan trọng nhất. Hang động thứ 16 và 17 được xây cất từ năm 500 sau Công nguyên và hang động thứ 1 và thứ 2 được xây cất một thế kỷ sau đó. Những hang động này rất đẹp nhờ những cột trụ đá chạm trỗ và sự thóang mát của các dãy hành lang rộng lớn. Nhưng sự huy hòang tráng lệ của Ajanta đúng ra là do số lượng khổng lồ của tranh vẽ. Những họa sĩ nổi tiếng đã vẽ những sự tích đời Đức Phật theo kinh Bổn Sanh Bổn Sự và thêm vào đó là những tranh ảnh vẽ chân dung Đức Phật, các vị Bồ Tát và các Phạm Thiên.

Trong số những hang động trần thiết ở Ellora, 12 hang động dọc theo hướng Nam được trần thiết theo những truyền thuyết Phật giáo, ngòai ra là những hang động theo kiểu Bà La Môn giáo và Kỳ Na giáo. Những di tích ở Ajanta và Ellora thường có dấu chân của các nhà bác học, khảo cổ và nghệ nhân đến chiêm ngưỡng và học hỏi hơn là các du khách, vì hang động này nằm ở vị trí sâu và cao hơn trên rừng núi. Tuy nhiên, Ajanta và Ellora vẫn được liệt kê vào danh sách các danh lam thắng cảnh nổi tiếng ở Ấn Độ.

 
Nalanda
Tu viện Nalanda chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong lịch sử Phật giáo cận đại.  Theo truyền thống, Đức Phật đã viếng thăm tu viện Nalanda vài lần và lịch sử ngôi tu viện này có thể mang dấu ấn triều đại vua A Dục. Tuy nhiên, những cuộc khai quật cũng chưa đủ chứng minh về thời gian xây dựng tu viện này và những chứng cứ như bia ký, dấu ấn, vài di tích còn sót lại trùng hợp với một số điển tích thì tu viện Nalanda phồn vinh và nổi tiếng từ thế kỷ thứ 5 cho đến cuối thế kỷ thứ 12 sau Công nguyên. 
Cũng chính nơi đây, nhà du tăng nổi tiếng Trung Hoa, Trần Huyền Trang, đã đến ở lại vài lần. Ngài đã ghi lại nhiều dữ kiện và sơ đồ của nhiều kiến trúc khác nhau của tu viện Nalanda, một tu viện cũng là học viện có sức chứa đựng hơn 10,000 tăng sĩ tu tập hàng năm tại đây để tu hành, nghiên cứu kinh điển và tranh luận.  Ngài Tam Tạng Huyền Trang cũng ghi nhận sự cúng dường ủng hộ của vua Harsha và nhiều vị vua các triều đại kế tiếp. Ngài Nghĩa Tịnh (I Tsing), một nhà sư Trung Hoa, cũng đến tham quan tu viện Nalanda và ghi nhận lại các tăng sĩ trụ xứ tại Nalanda đã được sự yểm trợ ủng hộ của hơn 200 ngôi làng chung quanh và dưới sự tài trợ của nhiều vị vua.
Nalanda được đi vào lịch sử Phật giáo thế giới vì nơi đây các đạo sư Silabhadra, Santarakshita và Atisa Dipankara đã một thời tu học và góp phần làm rạng danh tu học viện Nalanda.
Sự hoang tàn đổ nát của Nalanda đã khiến du khách đến xem phải bàng hòang tiếc nuối cho một tu viện Phật giáo lừng danh một thời, nay chỉ còn lại vài di tích của những điện thờ, tháp và tăng phòng. Quang cảnh những di tích còn sót lại đó cũng cho chúng ta biết là trước kia, những tháp và điện thờ chiếm chiều dài từ Bắc đến Nam, những tăng xá cho chư Tăng trú ngụ thì trãi dài từ sườn đồi phía Đông đến phía Tây của cả mấy dãy đồi to lớn. Dù bây giờ Nalanda đã tàn rụi, nhưng vẫn cho chúng ta hình dung được quang cảnh sầm uất, phồn thịnh đông đúc của sự sinh họat hàng chục ngàn tăng sĩ cách đây mấy thế kỷ.
Ngôi tháp số 3 là một kiến trúc đồ sộ tọa lạc ở giữa sườn đồi phía Tây Nam và được bao bọc chung quanh vô số những tháp nhỏ. Ngôi tháp đầu tiên chỉ là một ngôi tháp nhỏ, nhưng dần dần được xây cất lớn rộng ra. Ngôi tháp hiện giờ đã được xây rộng ra cả đến 7 lần, mỗi lần xây to rộng ra và chạm trỗ điêu khắc thẫm mỹ hơn, khác lạ hơn. Chân tháp vẫn là hình vuông theo kiến trúc của ngôi tháp đầu tiên, nhưng đến khi xây cất lại lần thứ 5 thì các nghệ nhân đã khắc chạm tô vẽ thêm 4 mặt tháp với những miếng gạch lớn khắc kinh văn Phật giáo ở trên với bút tự ở thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên.
Về phía Bắc ngôi đại tháp này là những dãy tu viện đã được trùng tu xây sửa lại nhiều lần. Ở đây du khách vẫn còn thấy dấu vết của rất nhiều điện thờ, tháp nhỏ, v.v. Tại một bảo tàng viện gần đó, rất nhiều di tích, mãnh vỡ các tượng Phật, Bồ tát được trưng bày. Những di tích này được tìm thấy trong những cuộc khai quật tu viện Nalanda.
Những tài liệu về bia ký tìm thấy ở Nalanda cũng không phải là ít. Người ta tìm thấy những bia ký bằng đồng, bằng đá, bằng gạch và những con dấu, những bút tự bằng đất nung. Những bia ký bằng gạch khắc với những bài kinh hay giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên và những bài thần chú đà la ni, những bia ký này đều được tàng trữ gìn giữ cẩn thận và trưng bày tại Bảo Tàng Khảo Cổ Ấn Độ.
Nalanda vẫn còn nổi tiếng nhờ sự yểm trợ ủng hộ của nhiều vị vua chúa, hòang tộc như các vua Narasimhagupta, Kumaragupta đệ nhị, Vainyagupta và Vishnugupta của triều đại hòang gia Gupta, Sarvavarman và Avantivarman của triều đại Maukhari, Bhaskaravarman của Kamarupa, Harshvardhana của Kanauj và rất nhiều thế hệ các vua chúa khác đã liên tục cúng dường tài trợ tu viện Nalanda trong suốt mấy thế kỷ. Người ta còn tìm thấy một bia ký bằng đá khắc tên hòang tộc của vua Yasovarman của Kanauj, và một bia ký bằng đồng có tên các Vua dòng Pala như vua Dharmapala, vua Devapala, vua Balaputradeva của triều đại Sailendra. Trong đời các vị vua dòng Pala, vua Mahipala đệ nhất là người cuối cùng tài trợ công cuộc tu bổ lại tu viện Nalanda cùng sự góp sức của tu sĩ Vipulasrimitra.

Giáo lý Nguyên Thủy và Đại Thừa Phật giáo được các cao tăng truyền dạy tại Nalanda, nhưng về sau ảnh hưởng của Mật Tông Phật giáo đã lan rộng ra trong giới tu sĩ, và có pha trộn những kỳ bí của Mật Tông Bà La Môn giáo khiến cho nền giáo lý học thuật Phật giáo có phần đổi thay bất lợi, không đúng. Sau này, vì sự chia rẽ mâu thuẫn trong Tăng đoàn, Hồi giáo đã thừa dịp xâm lấn và phá hủy những địa danh nổi tiếng của Phật giáo, và một tôn giáo chân chính, lừng danh với triết thuyết của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni đã bị phai tàn theo thời gian, mờ dấu vết ngay chính tại quê hương Đức Phật.

Lời kết:
Phật giáo là một tôn giáo lớn ở Á Châu. Qua nhiều thăng trầm biến đổi trong lịch sử, Phật giáo cũng bị nhiều tôn giáo khác lợi dụng pha trộn tà thuyết sai lầm vào chánh đạo.
Tuy nhiên, những tirết lý về Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Bát Nhã, Niết Bàn tịch tĩnh vẫn luôn đứng vững và sáng chói trên vòm trời học thuật tôn giáo, và những thánh địa vẫn mãi mãi là nơi tìm về nguồn suối Giải Thóat của những người con Phật trên khắp thế giới.

 Bí ẩn đại bảo tháp ngàn năm tuyệt đẹp 

ở Ấn Độ

Kích thước chữ: Decrease font Enlarge font
image



Được xây dựng trong khoảng từ thế kỷ II TCN đến thế XII, quần thể kiến trúc Đại bao tháp Sanchi đích thực là một trong những kiệt tác Phật môn của người Ấn Độ.

Quần thể di tích Sanchi nằm về phía Bắc của bang Madhya Pradesh chừng 68km. Nơi đây không chỉ là công trình được bảo quản gần như nguyên vẹn suốt hàng ngàn năm qua mà còn được đánh giá là một trong những kiến trúc Bảo tháp Phật môn hoàn hảo nhất.
Tại đây, những người hành hương có cơ hội để thưởng thức tất cả những gì đáng được gọi là nguồn gốc, tinh hoa của nghệ thuật và kiến trúc Phật môn trong khoảng thời gian chừng 1500 năm – gần như bao quát toàn bộ lịch sử của Phật giáo Ấn Độ.

Điều này thật đáng ngạc nhiên, bởi vì địa danh Sanchi không hề gắn với bất cứ sự kiện hay truyền thuyết nào của cuộc đời Đức Phật.
Trong suốt lịch sử tồn tại của mình, nơi đây cũng chưa từng diễn ra bất kỳ sự kiện quan trọng nào của Phật giáo phương Đông.
Người có công xây dựng nên tòa Đại bảo tháp này chính là quốc vương Ashoka Maurya (còn được biết đến là vua A Dục trong kinh Phật, 273-236 TCN).

Ông chính là vị vua nổi tiếng nhất trong lịch sử Ấn Độ, đồng thời cũng là người đóng góp nhiều công đức nhất cho Phật giáo.
Gần 10 năm sau khi bắt đầu triều đại của mình, vào khoảng năm 258 TCN, vua Ashoka Maurya cải đạo sang Phật giáo. Ông được sử sách lưu danh là một trong những vị vua anh minh và hùng mạnh nhất.

Đế chế của ông bao trùm toàn bộ lãnh thổ Ấn Độ và Afghanistan ngày nay. Vương triều của ông thậm chí còn được so sánh với những cường quốc đương thời như Constantine hay Cromwell.

Suốt quãng thời gian 40 năm trị vì của mình, vua Ashoka Maurya đã để lại cho đất nước Ấn Độ không chỉ là những chương sử sách hào hùng, mà còn cả một kho tàng những công trình kiến trúc và nghệ thuật tuyệt vời khiến đời sau phải khâm phục. Sanchi chính là một trong số đó.
Quần thể kiến trúc Sanchi bắt đầu được hình thành khi nhà vua cho xây tòa Đại bảo tháp và dựng lên một cột đá nguyên khối ở chính giữa đỉnh đồi.
Tiếp theo đó, vua Ashoka cũng lần lượt cho xây thêm 8 tòa bảo tháp khác. Những kiến trúc tôn giáo khác, bao gồm các tháp nhỏ và những cổng lớn, lần lượt được bổ sung trong nhiều thế kỷ tiếp theo.
Trong khoảng 600 năm kể từ khi được xây dựng, Sanchi giống như là một cõi Niết Bàn đối với Phật tử bốn phương. Tuy nhiên vào khoảng thế kỷ XII, cùng với sự suy tàn của Phật giáo tại Ấn Độ, Sanchi dần đánh mất tầm quan trọng của mình và cuối cùng đã hoàn toàn bị lãng quên.


Mãi đến những năm 1912-1919, kiệt tác hàng ngàn năm tuổi này mới nhận được sự quan tâm xứng đáng.
Những công trình kiến trúc và nghệ thuật nơi đây bắt đầu được phục hồi và bảo quản như là những báu vật của Phật giáo nói riêng và kho tàng văn hóa nhân loại nói chung.

Đại bảo tháp

Công trình nổi bật nhất trong quần thể kiến trúc Sanchi chính là tòa Đại bảo tháp. Tòa tháp lớn nhất này về cơ bản là một mái vòm gần như hoàn hảo với chiều cao 15m và bán kính 30m, được xây dựng bằng gạch nung và vữa.
Bí ẩn đại bảo tháp ngàn năm tuyệt đẹp ở Ấn Độ
Toàn cảnh tòa Đại bảo tháp 


Bao quanh ngọn tháp là một hàng lan can nằm ở khoảng 1/3 chiều cao từ dưới lên. Trên đỉnh tháp thiết kế phần sân thượng hình vuông khá rộng rãi, cũng có hàng rào bốn phía. Đây chính là nơi hành lễ trong những dịp quan trọng.

Một hàng rào khác, được xây dựng từ những cột đá nguyên khối khổng lồ, bao bọc quanh toàn bộ phần chân tháp. Hàng rào này nối liền với 4 cổng đá uy nghi được chạm khắc vô cùng tinh xảo, gọi là “toran Dwar” và được đặt theo bốn hướng Nam- Bắc- Đông- Tây.
Bí ẩn đại bảo tháp ngàn năm tuyệt đẹp ở Ấn Độ
Cận cảnh chân tòa Đại bảo tháp 

Cả bốn cổng đều được tạc từ những phiến đá nguyên khối có trọng lượng chừng hơn 400 tấn. Phù điêu và tượng được chạm khắc trên mỗi cổng đều miêu tả về cuộc đời Đức Phật và những câu chuyện huyền thoại Phật Môn.
Cổng Bắc

Đây là kiến trúc được bảo tồn tốt nhất trong 4 cổng. Nó gần như còn nguyên vẹn, ngoại trừ hình tượng bánh xe trên đỉnh bị hư hỏng chút ít. Những hình chạm khắc trên cổng này chủ yếu mô tả cuộc sống của Đức Phật.
Bí ẩn đại bảo tháp ngàn năm tuyệt đẹp ở Ấn Độ

Hai cột trụ đều được chạm khắc hình ảnh 4 con voi quay đầu ra 4 phía, bên cạnh là những nữ thần. Ngự trị trên đỉnh cao nhất của cổng là hình tượng Bánh xe công lý (bị hư hỏng như đã nói ở trên). Cùng với đó là vô số bức phù điêu tinh xảo và sống động khắp mọi nơi.

Cổng Nam
Cổng phía Nam theo những nhà nghiên cứu là lâu đời nhất trong bốn cổng. Phù điêu và hình tượng trên cổng này miêu tả cuộc đời Đức Phật từ lúc sơ sinh và những sự kiện về đức vua Ashoka sau khi cải sang Phật giáo.
Bí ẩn đại bảo tháp ngàn năm tuyệt đẹp ở Ấn Độ

Dưới chân hai cột trụ, thay vì chạm trổ bốn con voi như cổng Bắc thì ở đây lại là bốn con sư tử. Hình tượng bốn con sư tử này hiện được Ấn Độ lấy làm biểu tượng quốc gia và cũng xuất hiện trong những đồng tiền của nước này.
Bí ẩn đại bảo tháp ngàn năm tuyệt đẹp ở Ấn Độ


Cổng Tây

Cổng phía Tây được trang trí với những bức phù điêu kể về câu chuyện 7 lần hóa thân của Đức Phật. Ngoài ra ở dưới chân hai cột trụ được chạm trổ hình tượng của 4 vị thần lùn bụng bự đầy vẻ hàm tiếu và phồn thực.
Bí ẩn đại bảo tháp ngàn năm tuyệt đẹp ở Ấn Độ

Cổng Đông
Cổng phía Đông chính là cổng thú kỳ thú nhất. Những hình ảnh chạm trổ trên cổng này tả lại cảnh Phật nhập Niết Bàn với rất đông đồ đệ và Phật tử đứng chầu. Ngoài ra trên cột trụ cũng xuất hiện hình tượng của nữ thần Yakshi đang nhảy múa.

Ngoài tòa Đại bảo tháp uy nghi với bốn cổng đá cực kỳ hoành tráng và tinh xảo, tại Sanchi còn có vô số những tiểu tháp, những ngôi đền và dấu tích của nhiều di sản khác.
Bí ẩn đại bảo tháp ngàn năm tuyệt đẹp ở Ấn Độ


Những công trình này lại ẩn chứa bên trong vô số kiệt tác nghệ thuật và điêu khắc như tượng phật, phù điêu…

Trải qua hàng ngàn năm nắng mưa và hoang phế, có thể Sanchi ngày nay không còn xứng là Thánh địa Phật giáo như xưa. Tuy nhiên chỉ với những gì ít ỏi còn lưu giữ được, nơi đây cũng đã khiến cho chúng ta phải kinh ngạc trước vẻ đẹp cổ kính và uy nghi của nó.
Bên cạnh đó, những kiến trúc tuyệt vời này cũng thể hiện một cách rõ ràng tài năng, kiến thức và cả sức sáng tạo đáng ngưỡng mộ của những con người đã sinh sống từ hàng ngàn năm trước.

AJANTA - 
Một Di Tích Phật Giáo Ngoại Hạng 





Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ cách đây khoảng 2.500 năm và được xem là cuộc cách mạng trong xã hội Ấn Độ vốn có sự phân chia giai cấp sâu sắc. Phật giáo thể hiện tính bình đẳng vì bất kỳ ai cũng có thể đạt được sự giác ngộ nếu thành tâm. Vì vậy, đạo Phật nhanh chóng được truyền bá và được tiếp nhận tại rất nhiều nơi ở châu Á.


Lưu vực sông Hằng thuộc Đông Bắc Ấn Độ là cái nôi của nhiều tôn giáo quan trọng, đồng thời là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa lâu đời của người Ấn Độ. Vào thế kỷ thứ III TCN, nơi đây được xem là cứ điểm của đạo Phật trước khi dòng tôn giáo này được phổ biến khắp Ấn Độ.


Quần thể hang động Ajanta là di tích quý giá đại diện cho thời kỳ hưng thịnh của phật giáo tại Ấn Độ. Đạo Phật chi phối từ lưu vực sông Hằng, kéo dài đến phía nam cao nguyên Deccan. Nằm ẩn mình trong khu rừng rậm hoang vu của cao nguyên Deccan, hang động Ajanta đã bị lãng quên trong một thời gian dài. Vào năm 1819, một nhóm người Anh đi săn cọp trong khu vực này đã tình cờ phát hiện hệ thống hang động Ajanta . Hang động được bố trí theo dạng hình móng ngựa, khoét sâu vào bên trong vách núi đá thẳng đứng cao 76m.


Ajanta tọa lạc ở lưng chừng núi, bên dưới hang động là lòng vực cùng dòng sông Waghora uốn khúc. Ngày nay, tại Ấn Độ, số lượng tín đồ đạo Hindu rất đông, Phật giáo có phần ít phát triển tại nơi mà nó được khai sinh. Tuy nhiên, hang động Ajanta đã trở thành một trong những di tích quan trọng nhất của Ấn Độ, đại diện cho thời kỳ Phật giáo đạt đỉnh cao. Năm 1983, UNESCO đã công nhận quần thể hang động Ajanta là Di sản văn hóa thế giới.

Quần thể hang động không được tạo dựng trong một thời kỳ liên tục. Nhóm hang đầu tiên được kiến thiết vào thế kỷ II TCN, sau đó công việc ngưng lại. Việc hoàn tất hang động Ajanta kéo dài trong gần 800 năm.


Di tích hang động Ajanta có tất cả 30 hang, bao gồm Thánh đường Phật giáo và các khu phụ cận. Các nhà khảo cổ đã đánh dấu các hang theo số thứ tự. Họ phân chia các hang động theo từng thời kỳ xây dựng, gồm hai phần: cụm hang được tạo dựng vào giai đoạn đầu và cụm hang được xây sau này.

Hang số 12 được đẽo trong thời kỳ đầu và được gọi là Tăng viện; đây là nơi sinh sống của những thầy tu ngày xưa. Họ sinh hoạt và tu hành trong không gian chật hẹp.

Các thầy tu dùng bệ đá làm giường ngủ, họ luôn tuân thủ trong quá trình tu hành khổ hạnh theo cách như thế. Hang số 9 cũng được tạo dựng trong thời kỳ đầu. Khác với hang động dành cho các nhà tu hành, hang số 9 có tên gọi là Tháp viện, là một căn phòng dùng làm nơi cầu nguyện.


Tháp viện mang ý nghĩa rất linh thiêng, là nơi tôn thờ thánh tích của Đức Phật. Thời kỳ này hoàn toàn không có sự hiện diện của các tượng Phật. Vì vậy Tháp Phật được xem là một biểu tượng linh thiêng để tôn thờ và phụng sự.

Thời kỳ đầu kéo dài đến khoảng 300 năm. Nhóm hang động thứ hai được tạo dựng vào thế kỷ thứ V, được gọi là thời kỳ sau. Hang số 26 là một điện Phật được xây dựng vào thời kỳ sau với trình độ kỹ thuật cao, các bức tượng chạm khắc đều rất lớn và hầu như tất cả đều còn nguyên vẹn.

Trong hang số 26, chúng ta rất dễ dàng bắt gặp những hình ảnh của Phật giáo thuộc phái Mật tông. Khác với các tượng Phật ở Nhật Bản, hình dáng của tượng Phật trong hang là mô hình tượng Phật phổ biến tại rất nhiều nước ở châu Á.


Khác với thời kỳ đầu, trong nhóm hang động thứ 2, tượng Phật hiện diện khắp nơi. Có tượng phật ngồi thể hiện rằng đã đạt được sự giác ngộ dưới cội bồ đề, xung quanh là sự cám dỗ của quỷ ma. Trước khi giác ngộ, Đức Phật đã trải qua nhiều giai đoạn tu luyện, tất cả đều được thể hiện qua hàng loạt tác phẩm điêu khắc trong hang. Những hình ảnh Phật giáo sống động trong nhóm hang thứ 2 đã phản ảnh sự hưng thịnh của đạo Phật lúc bấy giờ. Trong các hang động này, hình ảnh của phật Như Lai luôn là tâm điểm chi phối mọi vật xung quanh.


Nhờ sự hậu thuẫn của triều đình cùng giới quý tộc và thương nhân lúc bấy giờ nên nghệ thuật Phật giáo Ấn Độ đạt tới trình độ phát triển rực rỡ nhất.

Dòng chảy Phật giáo dần lan rộng và phát triển ra một khu vực rộng lớn. Vào thời đó, Ấn Độ được xem là vùng đất của đạo Phật, nơi hành hương quan trọng đối với những tín đồ sùng đạo. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển, Phật giáo cũng được phân chia thành nhiều trường phái khác nhau. Từ đó, tính chất thuần nhất của đạo Phật cũng không còn nguyên vẹn. Ngoài các bức tượng và hình ảnh có liên quan đến Phật giáo được chạm khắc trên đá, hang động Ajanta còn sở hữu một kho tàng nghệ thuật phong phú và tinh xảo không kém.


Từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ VII là giai đoạn phát triển của nghệ thuật Phật giáo tại hang động Ajanta . Đó là những bức bích họa được vẽ trên tường trong hang động.




Có thể nói, nghệ thuật hội họa của người Ấn Độ cổ đại đã đạt đến chất lượng hoàn hảo về màu sắc cũng như bố cục. Các tác phẩm này đã qua cuộc thử nghiệm thành công của thời gian.

Có được các tác phẩm tượng Phật đạt đến vẻ đẹp đỉnh cao như thế là nhờ vào các họa sĩ và nhà điêu khắc đã thấm nhuần Phật pháp. Chính họ đã gốp phần rất lớn tạo nên giá trị cho quần thể hang động Ajanta .


Tham Quan Chùa Hang Ajanta

Các thánh tích Phật giáo tại Ấn Độ hầu hết đều là phế tích. Khắp nơi là cảnh hoang tàn đổ nát, chỉ còn lại các dấu vết, nền nhà, vài đoạn tường, vài các tháp xiêu vẹo nham nhở. . .v.v. . . .Thời gian tàn phá thì ít nhưng cái chính là vì sự tàn phá hủy diệt của quân Hồi giáo và sự thờ ơ của dân Ấn vốn theo Ấn Giáo trước giáo pháp của Như Lai.

Chúng tôi càng đi theo vết chân của Như Lai thì càng gặp cảnh hoang tàn của phế tích. Niềm tin, lòng thành kính và cái buồn cứ đan xen, quyện vào nhau trong suốt cuộc hành trình của những người con của Phật đang tìm về nguồn cội. . . .
Chắc biết như vậy nên ban tổ chức chuyến hành hương này đã đưa việc tham quan chùa hang Anjata vào những ngày sắp kết thúc. Tổ hợp chùa hang Ajanta nằm ở triền núi sông Waghora, cách thành phố Aurangabad 108 km về hướng đông bắc, thuộc bang Maharashtra. Bởi vì chùa hang Anjata là một kiệt tác về nghệ thuật của Phật giáo đã được Unesco công nhận là Di Sản Văn Hóa Thế Giới. Và cũng bởi vì chùa hang Anjata ở giữa núi rừng heo hút nên đã thoát khỏi các cuộc tàn phá của quân Hồi Giáo. Do vậy tham quan Chùa Hang Anjata trước khi kết thúc chuyến hành hương quay về quê nhà Việt Nam sẽ để lại dư vị ngọt ngào trong tâm những người con của của Phật trước di tích hoành tráng diểm lệ tràn đầy tính nghệ thuật và tính thiêng liêng thể hiện thời kỳ vàng son hưng thịnh của Phật giáo tại Ấn Độ. 
Tổ hợp chùa hang Ajanta nằm trong một dãy núi đá hình móng ngựa giữa cao nguyên Deccan 
 



Tham Quan Chùa Hang Ajanta

Đạo Phật chi phối từ lưu vực sông Hằng, kéo dài đến phía nam cao nguyên Deccan. Nằm ẩn mình trong khu rừng rậm hoang vu của cao nguyên Deccan, hang động Ajanta đã bị lãng quên trong một thời gian dài. Vào năm 1819, một nhóm người Anh đi săn cọp trong khu vực này đã tình cờ phát hiện hệ thống hang động Ajanta.
Hang động được bố trí theo dạng hình móng ngựa, khoét sâu vào bên trong vách núi đá thẳng đứng cao 76m. Lưu vực sông Hằng thuộc Đông Bắc Ấn Độ là cái nôi của nhiều tôn giáo quan trọng, đồng thời là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa lâu đời của người Ấn Độ. Vào thế kỷ thứ III TCN, nơi đây được xem là cứ điểm của đạo Phật trước khi được phổ biến khắp Ấn Độ.

Những ngôi chùa đá này bắt đầu được đục khắc vào thế kỷ thứ II (tr. TL) và kết thúc vào thế kỷ thứ VII (TL), từ thời kỳ các bộ phái Hinayana Phật giáo thịnh hành ở vùng đất này cho đến thời điểm Phật giáo Đại thừa phát triển, từ thời điểm tượng Phật chưa được phụng thờ cho đến khi yếu tố Mật giáo in dấu lên các pho tượng Phật và những vị Bồ-tát. 900 năm cho 30 hang động lần lượt ra đời, để rồi sau 1200 năm bị vùi lấp trong quên lãng, tình cờ được khám phá và trở thành một di sản thế giới qua công nhận của UNESCO.

Các động này do quân đội Anh khám phá năm 1819, khi Ấn Độ là thuộc địa của Anh. Viện Khảo Cổ Ấn Độ tiếp tục khảo cứu và điều tra, xác định được 28 động, và được ghi lại trong các quyển sách của ông James Burgess xuất bản vào năm 1880. Động thứ 29 (15A) được tìm ra vào năm 1956.
Các động Ajanta bắt đầu được đào khoét vào núi vào thế kỷ 2 trước Tây Lịch đầu tiên do các tu sĩ thuộc phái Thượng Tọa Bộ (hang số 8, 9, 10, 12, 13, 15A), và cộng đồng Phật giáo tiếp tục xây dựng trong 700 năm cho đến thế kỷ 5 Tây Lịch. Các hang sau nầy có màu sắc của Đại Thừa (các hang số 1, 2, 16, 17, 19, 26), phản ảnh sự chuyển hướng của Phật giáo Ấn Độ. Một số hang còn xây dựng dở dang, chưa hoàn tất.
Tổ hợp chùa Hang Ajanta nằm trên lưng chừng dãy núi đá hình móng ngựa nhìn xuống một cái vực sâu. Hôm chúng tôi đến nơi đây, cao nguyên Deccan vào mùa khô. Sông Waghora nằm dưới đáy cái vực sâu trước chùa, cạn khô trơ đá sỏi. . . Cây cối rụng lá tiêu điều và ánh nắng chói chang như thiêu như đốt. Nhen sóc, khỉ, quạ, chim chóc, gà rừng lang thang trong khu rừng thưa đầy cọ và cây chà là để kiếm ăn.
Trong tiếng gió thổi ào ào qua núi đá và tiếng quạ kêu buồn bả trên non, có tiếng cười, tiếng nói, tiếng trầm trồ thán phục của khách nhàn du. . . . Du khách rất đông, người nước ngoài và người bản xứ, toàn những người đến đây để xem cái hoành tráng của dãy núi đá khổng lồ đã được sức người đục rỗng ruột thành hang, thành chùa, với vô số cột, vô số tượng, vô số tranh tường, vô số phù điêu tinh xảo diễm lệ.

Từ một dãy núi đá khổng lồ, người ta đã đục đẽo, chạm khắc tạo nên những công trình kiến trúc với tầm vóc kỳ vĩ cùng sự tỉ mỉ, tinh tế trong từng chi tiết. Tất cả có 30 ngôi chùa, ngày nay người ta gọi tên theo số.
Từ ngôi chùa I cho đến ngôi chùa XXX. Trong đó ngôi chùa IX và ngôi chùa X là hai công trình được tạo tác sớm nhất, từ thời Vương triều Andra. Hầu hết các ngôi chùa hang khác được xây dựng, tạo tác trong vương triều Phật giáo Gupta, từ thế kỷ IV đến thế kỷ VIII.

Vương triều Andra bắt đầu từ năm 28 trước công nguyên, kéo dài 460 năm, là một thời kỳ bình yên với sự phát triển khá mạnh về kỹ nghệ và thương mại, có nhiều thành phố mới được xây dựng, rất hưng thịnh. Những công trình kiến trúc thời kỳ này đã đạt đến đỉnh cao của kỹ nghệ, trong đó tiêu biểu là chùa hang số IX và chùa hang số X.
Tất cả các ngôi chùa hang Ajanta đều được tạo tác bằng cách đục khoét sâu vào lòng đá. Mặt ngoài, mỗi ngôi chùa thường có khoảng 20 cột đá đục đẽo liền từ núi đá nguyên thủy, rồi chạm khắc, trang trí công phu. Bước qua hàng hiên là tới đại sảnh, hai bên có hai dãy trai phòng, nơi cư ngụ của các nhà sư. Người ta đục đá tạo tác bàn thờ lớn từ giữa hang đến đáy hang chùa.

Do phải cắt đục lòng núi để tạo thành chùa nên người đời mới gọi là chùa hang. Có những ngôi chùa rất lớn như chùa hang XVI, gian hành lễ rộng đến 400m2. Chùa hang I, chùa hang II cũng có những phòng lễ hội rộng mênh mông với những cột lớn được chạm khắc tỉ mỉ và các đường xoi tế nhị. Chân cột vuông, đỉnh cột có vầng tròn áp trần trang trí những tràng hoa lớn công phu. Chùa hang XXVI có các hàng cột vĩ đại đỡ ngạch cửa khổng lồ với những hình chạm trổ tuyệt đẹp.

(Hang số 10 /Chùa Hang Ajanta) 

 

Điêu khắc đá ở chùa hang Ajanta



Các chùa hang ở Ajanta chứa những bức họa đẹp nhất của nghệ thuật Phật giáo. Dày đặc trên các mái vòm ở các vách chùa hang là những bức tranh màu đặc sắc. Trong 16 ngôi chùa hang có nhiều tranh vẽ bằng màu đỏ, xanh lá cây, xanh lam trên nền đá cẩm thạch, mô tả sinh động những điển tích Phật giáo.
 Đó là những tác phẩm mỹ thuật vừa lộng lẫy vừa thiêng liêng. Ở 14 chùa hang khác có nhiều bức tranh vẽ các tích Phật cùng nhiều bức tranh mô tả cuộc sống nhiều mặt của người dân Ấn đương thời. Chùa hang XVIII nổi tiếng với bức bích họa lớn vẽ một phụ nữ và một đứa trẻ, gương mặt họ bừng lên khao khát hướng tới sự giải thoát. Đó là vợ và con của Đức Phật.

 
Trong chùa hang XIX, một điêu khắc đá tuyệt diệu, tạc hình Phật đứng, áo cà sa bó thân, gương mặt Đức Phật đẹp một vẻ đẹp lý tưởng, miệng hơi mỉm cười, đôi mắt nhìn xuống. Tóc quăn, tai chảy dài, những biểu hiện quý tướng của Phật giới; Nhưng tất cả trông thân thiện và ấm áp lạ lùng. Bức phù điêu đá này được coi là mẫu mực cổ xưa nhất của dáng tượng Phật đứng. Không chỉ là những tác phẩm điêu khắc đá và bích họa mô tả những điển tích Phật giáo một cách toàn vẹn, to lớn và sâu sắc, mà nó bao gồm cả những bích họa và điêu khắc đá mô tả đời sống xã hội Ấn Độ đương thời. Tư tưởng Phật Giáo hòa quyện một cách tự nhiên giữa thế giới thánh thần và đời sống con người.

Có tất cả 30 hang, bao gồm Thánh đường Phật giáo và các khu phụ cận. Các nhà khảo cổ đã đánh dấu các hang theo số thứ tự. Họ phân chia các hang động theo từng thời kỳ xây dựng, gồm hai phần: cụm hang được tạo dựng vào giai đoạn đầu và cụm hang được xây sau này.

Hang số 12 được đẽo trong thời kỳ đầu và được gọi là Tăng viện; đây là nơi sinh sống của những thầy tu ngày xưa. Họ sinh hoạt và tu hành trong không gian chật hẹp. Các thầy tu dùng bệ đá làm giường ngủ, họ luôn tuân thủ trong quá trình tu hành khổ hạnh theo cách như thế.

Hang số 9 cũng được tạo dựng trong thời kỳ đầu. Khác với hang động dành cho các nhà tu hành, hang số 9 có tên gọi là Tháp viện, là một căn phòng dùng làm nơi cầu nguyện. Tháp viện mang ý nghĩa rất linh thiêng, là nơi tôn thờ thánh tích của Đức Phật. Thời kỳ này hoàn toàn không có sự hiện diện của các tượng Phật. Vì vậy Tháp Phật được xem là một biểu tượng linh thiêng để tôn thờ và phụng sự.



Tháp Phật ở chùa Hang Ajanta




 
Chánh điện của một chùa Hang Ajanta, do đục núi đá rồi điêu khắc mà thành






Cứ phải xích vào cây.


Khi quên khóa.

Dori (Xzone/Tri Thức Thời Đại)

Thursday, May 23, 2013


TIN TỨC GẦN XA

 

Philippines: Căng thẳng châu Á có thể dẫn đến xung đột

Philippine Foreign Affairs Secretary Albert Del Rosario addresses the media during a press conference in suburban Pasay City, south of Manila, Philippines, after his return from the ASEAN Regional Forum in Cambodia Friday, July 13, 2012. Del Rosario deplo
Philippine Foreign Affairs Secretary Albert Del Rosario addresses the media during a press conference in suburban Pasay City, south of Manila, Philippines, after his return from the ASEAN Regional Forum in Cambodia Friday, July 13, 2012. Del Rosario deplo
CỠ CHỮ
Ngoại trưởng Philippines hôm 23/5 cảnh báo rằng tranh chấp lãnh thổ tại châu Á đang “tạo căng thẳng gay gắt có thể dẫn đến xung đột” vì có nhiều quốc gia đang đối đầu với Trung Quốc về chủ quyền biển đảo.

Lên tiếng trong một diễn đoàn doanhnghiệp ở Tokyo, Ngoại trưởng Albert del Rosario nói rằng con đường 9 đoạn của Trung Quốc là một đòi hỏi ông gọi là “quá lố” vì nó coi như bao trùm toàn bộ Biển Đông.

Ông nói tiếp, ngoài Biển Đông còn có Biển Hoa Đông, nơi có nhiều nước châu Á lớn đang có những tranh chấp ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ giữa các nước Trung Quốc, Nhật Bản và Nam Triều Tiên.

Ông nói rằng “Các cuộc tranh chấp lãnh hải này đang tạo ra căng thẳng gay gắt có thể dẫn đến xung đột.”

Người ta tin rằng Trung Quốc đang tăng cường năng lực Hải quân tại Thái Bình Dương, và Trung Quốc đang bị các nước láng giềng chỉ trích về thái độ mà họ gọi là ngày càng hung hăng của Trung Quốc trong khu vực, biệt là đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc trên nhiều vùng đất và vùng biển khác nhau.

Ngoại trừ Brunei, tất cả các nước đòi chủ quyền đều có binh sĩ đóng tại các đảo hoặc các bãi san hô tại Trường Sa, quần đảo lớn nhất ở Biển Đông, để khẳng định chủ quyền của mình. 



  •  
 Thứ năm 23 Tháng Năm 2013

 38 năm sau 1975, người Việt Nam lại vượt biển
Thuyền nhân Việt Nam (Ảnh lưu trữ - DR)
Thuyền nhân Việt Nam (Ảnh lưu trữ - DR)
Lưu Tường Quang / Tú Anh
 
460 thuyền nhân Việt Nam kể cả phụ nữ và trẻ em đã đến Úc trong 4 tháng đầu 2013. Gần 40 năm sau ngày Việt Nam thống nhất trong chế độ "xã hội chủ nghĩa", hiện tượng người vượt biển lại tăng cao, bằng tổng số thuyền nhân đến Úc trong 5 năm trước. 
Tuy nhiên, chính sách tỵ nạn của Canberra đã khác, không rộng lượng như thời thập niên 80,90 khi hàng triệu người bỏ nước. Người vượt biển bị tạm giam trong các trại cách ly với tương lai mờ mịt.
Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, trong gần hai thập niên sau ngày 30/04/1975, hơn 1,3 triệu người Việt Nam vượt biên, vượt biển đi tỵ nạn. Trong số này , Liên Hiệp Quốc thẩm định từ 200.000 đến 400.000 người không đến được bến bờ hoặc chết vì tàu bị đắm, bị hải tặc Thái Lan sát hại. Trong khoảng thời gian này, Hoa Kỳ đón nhận 823.000 thuyền nhân , Pháp 96.000, Úc cũng như Canada nhận 137.000 người, Anh quốc 19.000.
Nhưng vào năm 2013, nguyên nhân nào lại thúc đẩy hàng trăm người Việt Nam vượt biển ? Theo luật sư Úc Keye Bernard, trong số thuyền nhân mới đến có một số tín đồ Công giáo từng tham gia tranh đấu bảo vệ giáo xứ Thái Hà. Một số khác bị truy bức trong các vụ tranh tụng đất đai bị nhà nước trưng thu.
Tuy nhiên, chính sách tỵ nạn của Úc, quốc gia tây phương duy nhất gần Việt Nam và cũng là điểm đến của những con người muốn có cơ hội xây dựng đời sống mới, đã trở nên gắt gao hơn. Số phận thuyền nhân ra sao ? Phải trở về Việt Nam hay có hy vọng được định cư ? Trong số 101 thuyền nhân đến Úc trong năm 2011, có sáu người bị đưa về Việt Nam.
Hôm qua 22/05/2013, một phái đoàn của Cộng đồng Việt Nam Tự Do tại Úc đã gặp thủ tướng Julia Gillard vận động chính phủ Úc về vấn đề thuyền nhân. Sau khi nhận được tin nhắn cầu cứu của hai thuyền nhân từ đảo Manus gửi cho RFI, ban biên tập chúng tôi đặt câu hỏi với nhà báo Lưu Tường Quang từ Sydney.
Nhà báo Lưu Tường Quang : « Trong những ngày qua, báo chí quốc tế và Úc đều loan tin có sự gia tăng rất đáng kể của thuyền nhân Việt Nam từ Việt Nam hoặc qua trung gian tại Indonesia đến Úc trong 4 tháng đầu năm 2013 : 460 người xin tầm trú tại Úc. Đây là con số đáng kể nhiều hơn của 5 năm về trước . Có người cho rằng đây là vì lý do kinh tế nhưng cũng có người cho rằng đây là hậu quả của chính sách đàn áp của nhà cầm quyền Hà Nội đối với nhân quyền, tự do ngôn luận và chính kiến tại Việt Nam. 
Có thể, tất cả những lý do đó đều đúng ….nhưng cần phải xem kỷ những thuyền nhân này có lý do chính đáng khi họ liều lĩnh vượt biển tìm tự do tại Úc và những hậu quả khi họ đến lãnh thổ, lãnh hải của Úc thì họ phải đối diện với những khó khăn gì để những ai bị giam cầm trong các trại tỵ nạn tại Úc hiểu rõ tiến trình họ phải đi qua và những ai bị đối xử tàn tệ vì lý do nhân quyền vì lý do chính kiến thì họ sẽ có thể làm gì, suy nghĩ gì cho tương lai của họ…
Nguyên nhân cốt lõi của hiện tượng thuyền nhân gia tăng : « Nhà cầm quyền Việt Nam đương nhiên phải nói là người đi tầm trú là vì lý do kinh tế vì nếu nhìn nhận những thuyền nhân ra đi vì lý do chính trị thì điều đó là một phản ảnh tiêu cực về chế độ của họ…. Nếu chúng ta nhìn lại cái tiến trình cho đến năm 2006 khi Hà Nội tổ chức (thượng đỉnh) Apec thì Hà Nội đã phần nào nới tay đến mức độ mà tổng thống Mỹ George W. Bush đã lấy tên CHXH Chủ nghĩa Việt Nam ra khỏi danh sách các nước cần ưu tư (về tự do tôn giáo)….Trước khi gia nhập WTO ( Tổ chức Thương mại Thế giới) thì họ cũng có những biện pháp gọi là tạm thời cởi mở cho đến 2007. 
Tuy nhiên, sau hội nghị Apec năm 2006 và được vào WTO đầu năm 2007 thì CHXHCN Việt Nam sử dụng những điều luật 79, 88 tuyên truyền chống phá nhà nước và âm mưu lật đổ chế độ là những điều khoản đi ngược lại với những điều khoản bảo vệ tự do ngôn luận, tự do phát biểu ý kiến có ghi trong Hiến pháp 1992 của Việt Nam cũng như hoàn toàn đi ngược lại với công ước quốc tế về quyền chính trị mà Việt Nam là thành viên kết ước… nhà cầm quyền Hà Nội mỗi ngày mỗi siết chặt và gia tăng đàn áp những người yêu nước, những thanh niên sinh viên tranh đấu cho tự do dân chủ.
Ngay giờ phút này, 8 thanh niên Công giáo ở Nghệ An đang bị xét xử phúc thẩm và mới đây vài ngày sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha bày tỏ lòng yêu nước, họ nói vì tổ quốc chống ngoại xâm, vì tiền đồ dân tộc chống tham nhũng là những điều được gọi là chính sách của nhà nước thế nhưng họ bị kết ánt ù rất nhiều năm tại tòa án tỉnh Long An. 
Rõ ràng là chính sách đàn áp nhân quyền đã đưa đến tình trạng nhiều người bỏ nước ra đi. Nếu căn cứ vào định nghĩa của « người tỵ nạn » thì những ai có bằng chứng đang lo sợ bị hành hạ, bị bắt bớ bị tù đày vì lý do chính kiến, hoặc vì lý do chủng tộc hay tôn giáo thì họ thỏa mãn định nghĩa về « người tỵ nạn » theo điều khoản thứ nhất trong Công ước quốc tế về người tỵ nạn 1951-1967.
Trên căn bản đó, nếu họ có ao ước, những hoài bão để cải thiện đời sống kinh tế thì cái hoài bão đó không loại trừ cái khả năng họ được chứng nhận là người tỵ nạn vì căn nguyên cốt lõi vẫn là cái nỗi lo sợ bị trừng phạt, bị tù đày, bạc đãi vì lý do chính kiến hay vì lý do tôn giáo.


Chính sách của Úc đối với thuyền nhân Việt Nam : Từ năm 2012, Úc áp dụng « giải pháp Thái Bình dương , tạm giam thuyền nhân trong các trại di trú trên đảo Nauru và Manus. Đặc điểm của « giải pháp » này là những thuyền nhân tới Úc phải chờ đợi một khoảng thời gian bằng với thời gian đáng lẽ họ phải chờ ở Indonesia để được cứu xét.
Thuyền nhân bị giam trên đất liền hay trên các đảo Christmas, Manus, hãy bình tĩnh chờ đợi … Cộng đồng Việt Nam tại Úc là cộng đồng tỵ nạn và không bao giờ quên đồng hương của mình đang ở trong tình trạng khó khăn. Ngày hôm qua, một phái đoàn của Cộng đồng Người Việt Tự Do, có cả tôi, đã đến gặp thủ tướng Úc Julia Gillard để tranh đấu cho thuyền nhân Việt Nam đang bị giam giữ. Chúng tôi nói hầu hết thuyền nhân Việt Nam không phải là tỵ nạn kinh tế mà vì lý do chính trị. 


Tuy nhiên đây là vấn đề hồ sơ, một vấn đề bằng chứng. Cho nên thuyền nhân muốn xin tư cách tỵ nạn thì cần phải chuẩn bị bằng chứng cụ thể , những lý do có cơ sở vững chắc vì lời khai đầu tiên nó có ảnh hưởng đến vấn đề cứu xét…tôi đương cử hai trường hợp cụ thể. Trường hợp thứ nhất là tàu Hào Kiệt với 53 thuyền nhân đến miền tây Úc năm 2003….. tất cả đều được định cư… ».
 http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20130523-38-nam-sau-1975-nguoi-viet-nam-lai-vuot-bien



Khoảng 1,3 triệu di dân bất hợp pháp từ châu Á sống ở Hoa Kỳ


CỠ CHỮ
Elizabeth Lee








http://www.voatiengviet.com/content/di-dan-bat-hop-phap-tu-chau-a-song-o-hoa-ky/1665991.html

 

PHẠM TÍN AN NINH * NỢ ĐỜI ƠN EM

 
Nợ đời một nửa, còn một nửa ơn em........
Biết bao giờ trả cho xong?
(Viết cho em và những người vợ lính trung hậu)
Phạm Tín An Ninh


Thời còn đi học, lang thang từ Nha Trang đến Sài Gòn, dù con nhà nghèo, học tàm tạm, và nhan sắc dưới trung bình, tôi cũng đã mang tiếng đào hoa. Cho nên có muốn kéo dài thêm cái đời học trò để được mơ mộng đủ thứ chuyện dưới biển trên trời thiên hạ cũng đâu có cho. Rồi có phải thuộc giòng hào kiệt gì đâu, tôi cũng xếp bút nghiên theo việc kiếm cung. 
 
Nói kiếm cung cho nó vẻ văn chương và lãng mạn, chứ thực ra tôi vào lính, mà lại là thứ lính hạng bét thì làm gì có kiếm với cung. Có phải lính tàu bay tàu thủy gì đâu, mà là lính đi bộ. Lúc băng rừng lội suối, mặc bộ đồ trận hôi hám cả tuần không tắm, tôi ghét cay ghét đắng cái ông nào là tác giả cái câu “Bộ Binh là nữ hoàng của chiến trường” mà tôi đã đọc được ngay từ khi mới vào quân trường, đếm bước một hai để hát bài “đường trường xa”.
 
 
 Khổ thì khổ vậy, chứ mấy cô gái bé bỏng hậu phương lại mê lính trong mấy bản nhạc của ông Nhật Trường. Vì “nếu em không là người yêu của lính, ai thương nhớ em chiều rừng hành quân, ai băng gió sương cho em đợi chờ, và giữa chốn muôn trùng ai viết tên em lên tay súng?..”.
 
 
 Nhờ vậy, trong mấy năm đóng quân dọc đường số 1, nơi nào tôi cũng để lại vài mối tình con. Tôi nghĩ đời lính như vậy mà vui, thì thôi chớ tính chuyện vợ con làm gì cho nó vướng chân vướng cẳng. Hơn nữa tôi cũng hiên ngang với đám con gái lắm, thì làm gì có chuyện “chết trong mắt em”. 
 
 Vậy rồi trời xuôi đất khiến thế nào, sau mấy năm đánh đấm ở Quảng Đức, Ban Mê Thuột rồi Bình Định, Phú Yên, đơn vị tôi được mấy cái tàu há mồm chở vào bỏ xuống bãi biển Nha Trang vào lúc đường phố mới lên đèn. 
 
Tôi thấy lòng lâng lâng sung sướng vì không khí yên bình của thành phố biển, mà cũng vì tưởng mình đã được trở về với những “hang động tuổi thơ” của ông Nguyễn Xuân Hoàng. Nào ngờ, khi còn mải mê với mộng mị, tôi bị đánh thức lúc nửa đêm cùng đơn vị leo lên một đoàn xe mấy chục chiếc để tiếp tục “hát khúc quân hành”. 
 
Đoàn xe ra khỏi thành phố, qua Ty Thông Tin, ra quốc lộ 1, trực chỉ hướng bắc. Tôi lại mừng thầm, nghĩ là sẽ được về dưỡng quân ở huấn khu Dục Mỹ. Nhưng tôi đã “ước tính tình hình” sai bét. Đoàn xe dừng lại tại bùng binh, ngã ba Ninh Hòa. Một tiểu đoàn lính đổ xuống cái thị trấn còn đang say ngủ. Đại đội tôi nhận lệnh vào đóng quân trong sân vận động. Sáng hôm sau tôi rủ mấy thằng bạn, quần áo chỉnh tề, ra phía trước “thăm dân cho biết sự tình”. 

Thấy một ngôi nhà mở cửa, bọn tôi bước vào làm quen. Chủ nhà là một cô gái nho nhỏ dễ thương, mời đón mấy thằng lính trời ơi đất hởi mà miệng vui cười, e thẹn nhìn tôi bằng cặp mắt nai tơ. Vậy mà thằng lính ngang tàng như tôi lại chết trong đôi mắt ấy. Bắt đầu từ một chuyện tình cờ như vậy đó, mà tôi trở thành chú rể của Ninh Hòa hơn một năm sau. Trường Trần Bình Trọng cũng vừa có một cô học trò bỏ trường, bỏ lớp, bỏ bạn bè và bỏ cả đội múa ”Trăng Mường Luông ”. 

Bây giờ cứ mỗi lần đọc bài thơ của ông nhà thơ Quan Dương, người Ninh Hòa, là tôi nhìn thấy có tôi trong đó: 

Hồi nhỏ tôi rất anh hùng 
Một mình dám nhảy cái đùng xuống sông 
Bơi nghiêng, bơi ngửa giữa dòng 
Hiên ngang trấn giữ một vùng tuổi thơ 
…………
Lớn lên trở chứng ngu khờ 
Mắt em nào phải bến bờ sông sâu ? 
Cớ sao chưa kịp lộn nhào 
Đành chịu chết đuối, thiệt đau đúng là.. 

Nàng làm vợ lính đúng tám năm. Tám năm khốn khổ lo âu. Vì lúc nào cũng có thể trở thành góa phụ. Đã vậy đứng ở Ninh Hòa lúc nào nàng cũng nhìn thấy hòn núi Vọng Phu sừng sững cuối chân trời! Nhưng rồi nàng không trở thành góa phụ mà lại trở thành tù phụ. Cơn sóng bất ngờ phủ xuống miền Nam, cuốn nàng theo cùng những người có chung số phận. Thân phận bọt bèo với một đàn con dại, cô học trò Trần Bình Trọng bé nhỏ ngày nào bây giờ phải một mình chống chọi với phong ba. 

Riêng tôi, một thằng lính bất ngờ thua trận thì chuyện tù đày nào có than chi. Chỉ tội nghiệp cho “người tình bé nhỏ” ngày xưa. Tôi tự trách mình, giá mà ngày đó tôi đừng ra khỏi cái sân vận động, không gặp nàng, thì biết đâu nàng chẳng tìm lại một cố nhân nào đó - mà tôi thường nghe nàng nhắc đến với lòng ngưỡng mộ - bây gìờ đã là một ông quan hải quân, sẽ đưa nàng xuống tàu ra khơi đi tìm vùng đất hứa. 

Rồi nàng bỗng dưng trở thành con cò lặn lội bờ sông của ông Trần Tế Xương, để nuôi đủ sáu con với một chồng – ông chồng gần tám năm biền biệt ở các trại tù Lào Cai, Yên Bái. 

Tôi còn nhớ lúc ở trong tù, tôi may mắn nằm bên cạnh nhà thơ lớn Tô Thùy Yên. Tôi rất quý anh vì anh là một người tù có tư cách. Thấy tôi dốt nát mà cũng thích thơ văn, anh làm tặng tôi một bài thơ khá dài và hay lắm. Nhưng lúc bị cai tù kiểm tra, tôi nhát gan nên bỏ cả bài thơ vào miệng nhai nát rồi nuốt vào cái dạ dày đang đói. Vì vậy tôi không còn nhớ hết mà chỉ thuộc lòng mấy câu viết về nàng: 

Tám năm áo rách bao nhiêu lượt 
Em vá chồng lên những nỗi niềm 
Từ thuở anh đi nhà tróc nóc 
Con thơ đâu còn biết vui cười 
.................................................
Cô gái Ninh Hòa, thương quá đỗi 
Một mình chèo chống giữa phong ba 

Ra khỏi trại tù, dường như tôi chỉ đem về cho nàng thêm những đắng cay. Với một người chồng còn mang đầy những vết thương cả trên thể xác lẫn tâm hồn, cùng một đàn con thơ dại, giữa một xã hội chất chồng thù hận, nàng biết xoay xở làm sao ? Cuối cùng, nàng phải cùng chồng con, đem sanh mạng đánh một canh bạc cuối cùng. 

Có lẽ ông trời không phụ lòng nàng. Chuyến đi vội vã, chuẩn bị chưa xong, rồi cũng đến được bến bờ. Trong lúc bao nhiêu người tìm cách tận hưởng hạnh phúc của một điều tưởng chừng may mắn nhất của con người, hoặc ít ra cũng ngơi nghỉ để hoàn hồn từ cõi chết, nàng lại tiếp tục làm kiếp con cò trong một vùng băng tuyết mênh mông, lo lắng cho con, để cho chồng học thêm vài ba chữ và vác ngà voi chạy đủ thứ chuyện bao đồng.

Bây giờ những đứa con đã trưởng thành. Nàng chiều chồng để cho mỗi đứa tự chọn đất nước nào nó thích mà dung thân. Mỗi đứa một phương trời. Nàng lại là một hậu phương cho các con đi vào trận mới. Ngôi nhà trở nên trống vắng.
 
 Cuối cùng nàng cũng chì còn có tôi, người lính thất trận năm nào, đã mang đến cho nàng biết bao là hệ lụy. Dư âm cuồng nộ của những cơn dông bão năm nào dường như vẫn còn đâu đó trong giấc ngủ của riêng nàng. 


Tuổi sắp già, mà tôi còn mang nhiều món nợ. Biết làm sao trả cho xong. Nợ núi sông, nợ máu xương bè bạn. Mà khổ thay, tôi thì cứ mãi là thằng lính hèn mọn, bạc tình. Và tôi còn nợ nàng, nợ Ninh Hòa. Mảnh đất hiền hòa đã cho tôi một người vợ chung tình, cùng tôi qua bao cuộc biển dâu. 



NGUYỄN BÁ LONG - NGUYỄN PHÚ TRỌNG

TS. NGUYỄN BÁ LONG * CỘNG SẢN PHÁ HOẠI


HIỆN TÌNH CÁC MẶT TRẬN MỞ RA TẠI HẢI NGOẠI CỦA VIỆT GIAN CS NHẰM CHIẾM LĨNH CỘNG ĐỒNG & CÁC TÔN GIÁO

TS NGUYỄN BÁ LONGHọc Giả Chuyên Về Lý Thuyết Cách Mạng
Tổng Đại Diện kiêm Phát Ngôn Viên Hiến Chương 2000


Trong thời gian vừa qua và trong thời kỳ sắp tới; VC và Việt Gian đã, đang, và sẽ mở nhiều mặt trận  để đưa cộng đồng Việt Nam Hải Ngoại vào vòng tay thống trị của chế độ CSVN. Nhưng các chiến sĩ quyết tử với CS còn nhiều và các nhà ái quốc VN không cam tâm phục vụ cho một đảng và chế độ tham tàn cương quyết đứng lên chống lại; thành ra các mưu toan của chúng không dễ đạt được. Vì có một số bộ phận và thành phần trước đây là người Việt quốc gia hoặc cán bộ, viên chức, cựu quân nhân/sĩ quan QLVNCH đã bán rẻ lương tâm đầu hàng hoặc hoạt động cho giặc; hoặc lập trường chao đảo, đã chủ trương có lợi cho VC; cho nên bài này nhằm phân tích các chiều hướng của Việt Gian CS đã tiến hành hoặc sẽ diễn ra trong những ngày sắp tới, theo chỉ đạo của VC hoặc theo chủ trương điên rồ của các nhóm liên hệ, để nắm hoặc thao túng cộng đồng VN Hải Ngoại, kể cả các tôn giáo.
I. NẮM HẢI NGOẠI LÀ CHỦ TRƯƠNG TIẾN HÀNH TỚI CÙNG CỦA CSVN; BẢO VỆ HẢI NGOẠI KHÔNG CHO VC & VIỆT GIAN, TAY SAI CS THAO TÚNG LÀ CHỦÛ TRƯƠNG BẤT BIẾN CỦA NGƯỜI VIỆT TỊ NẠN
Nghị Quyết 36 của Bộ Chính Trị Đảng CSVN đã nói khá rõ về chủ trương nắm Hải Ngoại của VC. Nhưng từ khi đưa ra Nghị Quyết đến nay đã gần một thập niên, VC cũng chưa đi tới đâu trong sự thu phục Hải Ngoại, trừ một số ít các kẻ bán rẻ lương tâm, đã tách ra khỏi tập thể tị nạn hoặc lén lút cộng tác với VC, và những kẻ này cũng đã bị nhận diện khá nhiều cũng như bị vô hiệu hóa. Chiến lược của chúng ta là bất cứ kẻ nào hoặc nhóm nào ra mặt hoạt động cho CS hoặc có các thái độ/hành động có lợi cho VC là chúng ta TRIỆT HẠ hoặc VÔ HIỆU HÓA ngay (đặc biệt là CÔNG BỐ TRƯỚC CÔNG LUẬN CÁC CHỦ TRƯƠNG/THÁI ĐỘ/HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÁ NHÂN HOẶC NHÓM NÀY). Trong chiều hướng đó, số Đối Lực 144 tháng 5-2013 là một số cực kỳ quan trọng nhằm PHÁ VỠ CÁC NỖ LỰC ĐÃ VÀ SẼ DIỄN RA CỦÛA VIỆT GIAN CS nhằm thu phục hoặc nhuộm đỏ Hải Ngoại. Có 3 mặt trận chính của Việt Gian CS đã hoặc sẽ được phát động hầu thực hiện các chỉ đạo và đáp ứng các mục tiêu của Đảng CSVN trong giai đoạn tới:

 1) Trên mặt trận chính trị, chúng tung ra các chiến dịch XÓA BỎ NGÀY QUỐC HẬN, HÒA HỢP HÒA GIẢI & CỘNG TÁC VỚI VC ĐỂ CHỐNG TRUNG CỘNG. Các vùng xuất phát và trọng điểm của các chiến dịch này là Ottawa, Paris, Houston, Washington D.C. Chúng lần lượt thảm bại trong chiến dịch “XÓA BỎ NGÀY QUỐC HẬN”, “HÒA HỢP HÒA GIẢI”, và bây giờ là luận điệu “BẮT TAY VỚI VC ĐỂ CHỐNG TRUNG CỘNG!”. Luận điệu này thô thiển nhưng nó đánh vào lòng ái quốc của đồng bào, không cảnh giác là dễ dàng sa vào tay VIỆT GIAN CS ngay, vì nói chống TRUNG CỘNG thì người VN ai mà không có lòng dạ đó.  Nhưng cái vế THỨ NHẤT của chiêu bài này nó nguy hiểm lắm, nếu không suy nghĩ có thể sa vào tròng Việt Gian CS dễ dàng: BẮT TAY VỚI VC ĐỂ CHỐNG TRUNG CỘNG là KHÔNG THỂ NÀO (impossible), vì VC KHÔNG BAO GIỜ CHỐNG TRUNG CỘNG, trái lại LÀM THEO LỆNH CỦA TRUNG CỘNG. Chúng ta phải hiểu rằng HỆ THỐNG CỘNG SẢN QUỐC TẾ nay đặt dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng CS Trung Hoa, sau khi Liên Xô (tức Đệ Tam Quốc Tế) bị xóa sổ năm 1991 (Cách Mạng Nga tháng 8-1991). Có thể hiểu rằng những kẻ chủ trương BẮT TAY VỚI VC ĐỂ CHỐNG TRUNG CỘNG không phải không biết VC không bao giờ chống TC, nhưng chỉ đơn giản là chúng muốn BẮT TAY VỚI VC vì chúng hoạt động trong một hệ thống chịu sự chỉ đạo của ngoại bang, mà ngoại bang liên hệ đang muốn bắt tay với VC và TC để THỦ LỢI VỀ KINH TẾ và NGOẠI GIAO. Một mặt chúng phải nghe lời ngoại bang, một mặt chúng được rót nhiều lời đường mật của VC và bọn nằm vùng, bảo rằng chúng sẽ được dành cho nhiều quyền lợi và danh phận nếu chúng cổ võ đường lối “BẮT TAY VỚI VC ĐỂ CHỐNG TC”, vì  nếu chỉ “BẮT TAY VỚI VC” không thì không ai theo, nên chúng phải đưa ra chiêu bài: “BẮT TAY VỚI VC ĐỂ CHỐNG TRUNG CỘNG!”. Người sơ ý không chịu nghĩ thấu đáo có thể bị lừa! BẮT TAY VỚI VC ĐỂ CHỐNG TRUNG CỘNG chỉ có một nghiã là “VỪA LÀM TAY SAI CHO VC, VỪA LÀM TAY SAI CHO TC”, chứ còn CHỐNG TC LÀ KHÔNG BAO GIỜ, vì VC LÀ TAY SAI CỦA TC, làm sao dám CHỐNG TC.  Chúng ta phải nhớ hai chi tiết quan trọng là ĐẢNG CSVN trong thực tế là 1 chi bộ của ĐẢNG CS TRUNG HOA, và Hội Nghị Thành Đô năm 1990 đã chuẩn bị để đưa VN thành một bộ phận của Tàu sau 30 năm, nghiã là vào năm 2020, và việc chuẩn bị này đang được các Thái Thú Bắc Kinh tại Hà Nội tiến hành một cách có hệ thống từ CỜ 6 SAO, GIÁO DỤC CHỮ TÀU, DI DÂN, KINH TẾ, HIẾN DÂNG ĐẤT ĐAI VÀ LÃNH HẢI, MỞ CÁC TRỤC CHIẾN LƯỢC VÀ CHIẾM LĨNH CAO NGUYÊN ĐỂ CHUẨN BỊ CHO CÁC NỖ LỰC TƯƠNG LAI CHIẾM VN v.v. Xin xem thêm bài viết của TS NGUYỄN BÁ LONG nơi trang nhất và bài của TS MAI THANH TRUYẾT về “Thời kỳ Bắc Thuộc mới của VN”. Nội một sự kiện Nguyễn Thiện Nhân sau khi vào Bộ Chính Trị qua Hội Nghị Ban Chấp Hành Trung Ương Khóa 7 chưa nóng đít đã lật đật bay sang chầu Bắc Kinh, thì ta hiểu ngay sự lệ thuộc của Đảng CSVN đối với Đảng CSTH như thế nào? Bởi vậy, nói chuyện VC chống TC là chuyện hoang đường, một Phó Thủ Tướng vừa vào BCT đã lật đật bay sang chầu thiên triều ngay lập tức, thì có khác gì việc làm của các viên chức lãnh đạo An Nam Đô Hộ Phủ ngày xưa đâu? Bây giờ TC đã thiết lập lại ĐÔNG ĐÔ ĐẠI PHỐ tại Bình Dương (gần SG), ĐÔNG ĐÔ ĐẠI PHỐ được thiết lập vào thời kỳ đô hộ của Trương Phụ (thời Kháng Chiến Lam Sơn), mà bây giờ lại được tái lập tại VN. Điều đó nói lên cái gì? Một thời kỳ đô hộ mới tại VN đang được thiết lập. Việt Nam Hải Ngoại chính là căn cứ địa cuối cùng để từ đó người Việt tiến hành các nỗ lực quang phục quê hương một khi VC đã hoàn thành việc xáp nhập VN vào TC theo Hội Nghị Thành Đô. Bởi vậy không bao giờ chúng ta để cho VN Hải Ngoại lọt vào vòng tay VC; nhất là không bao giờ người Việt tị nạn nên nghe lời bọn Hòa Hợp Hòa Giải cổ võ cộng tác với VC ĐỂ CHỐNG TC, vì VC KHÔNG BAO GIỜ CHỐNG TC. Xin xác định lại một lần nữa như thế!

Các nỗ lực BẮT TAY, ĐỐI THOẠI với VC đã được Việt Gian CS phát động đồng loạt từ nhiều trung tâm, bởi nhiều tay sai chứ không phải một người. Các trung tâm chính của nỗ lực này hiện nay là OTTAWA, HOUSTON, PARIS. còn các hoạt động nhằm XÓA BỎ NGÀY QUỐC HẬN của người tị nạn thì trung tâm chính hiện nay là Washington D.C., qua hoạt động của Nhóm Nguyễn Ngọc Bích với Nghị Quyết SJR 455 của Đại Nghị Viện Tiểu Bang Virginia chỉ định ngày 30-4-2013 và những ngày 30-4 của những năm sau đó là “South Vietnamese Recognition Day”, nhưng đã hoàn toàn thất bại: Cộng Đồng Washington D.C - Maryland - Virginia đã không tiếp nhận Nghị Quyết đó, và cộng đồng các nơi cũng như các đoàn thể đều lên tiếng chống lại (xin xem số báo đặc biệt Tưởng Niệm Quốc Hận thứ 38, Khai Thác Thị Trường #90, tháng 4-5-6/2013, với các bài viết của TS Nguyễn Bá Long và 10 tác giả khác, từ trang 6-22); cho nên âm mưu XÓA BỎ NGÀY QUỐC HẬN 30-4 bằng BÀN TAY NGƯỜI MỸ (ban đầu là một chiến thuật rất đắc ý,
tưởng chừng như thành công tới nơi, của NNB) đã hoàn toàn sụp đổ. Rồi các cuộc họp tại Paris của Liên Minh Dân Chủ VN hệ phái lãnh đạo bởi qúy ông NGÔ THANH HẢI, NGUYỄN TẤN TRÍ và LÊ PHÁT MINH, có dính với “VỀ CHUỒNG”; cũng như chuyến đi về VN của một Việt Gian tại Houston, đều nằm trong nỗ lực của CSVN và hệ thống tay sai tại Hải Ngoại mở mặt trận Hòa Hợp Hòa Giải với VC, sau khi các nỗ lực kêu gọi hợp tác với bạo quyền CSVN của một bà bác sĩ trên Internet được đáp lại bằng sự lạnh nhạt của mọi người. Trận đánh từ tháng 4 đến tháng 6-2013 của hệ thống Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN, Phong Trào Hiến Chương 2000, và phong trào kết hợp qua Đại Hội Mở Rộng Toronto năm 2009, khai triển bởi các cây viết chính: TS NGUYỄN BÁ LONG, GS TS NGUYỄN PHÚC LIÊN, Học Giả NGUYỄN QUANG HIỆP (xin coi bài của tác giả Nguyễn Quang Hiệp trong số này) đã và sẽ giáng cho các nhóm HHHG và BẮT TAY VỚI VC  các đòn chí tử nhằm triệt tiêu mặt trận HHHG tại Hải Ngoại. Năm nay, trái với năm 2005 sau chiến dịch DIỄN HÀNH CHO TỰ DO thất bại thê thảm, VT đã rút vào bên trong chứ không chường mặt ra để chủ động lèo lái chiến dịch XÓA BỎ NGÀY QUỐC HẬN, mà nhường cho Nghị Hội Toàn Quốc Người Việt tại Hoa Kỳ của Nhóm Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Mậu Trinh. VT đang lo cố thủ các vị trí đã dành được nên dè dặt với đòn nguy hiểm là XÓA BỎ NGÀY QUỐC HẬN, để cho nhóm cộng tác năm 2005 (Nghị Hội) đứng ra một mình, lãnh đạn!

 2) Trên mặt trận TỪ THIỆN & VĂN NGHỆ nhằm ru ngủ và chiêu dụ người Việt Hải Ngoại, chẳng những để lôi cuốn người tị nạn theo Nghị Quyết 36, chúng còn moi tiền đồng bào. Chúng đã tung ra các đòn:

 - Mở các chiến dịch TỪ THIỆN XHCN khắp các nơi. Nội ở vùng Toronto mà trong Mùa Xuân 2013 này, đã có hàng chục vụ tổ chức văn nghệ và quyên góp từ thiện, mục đích chính là THU TIỀN VỀ VN (chứ không phải chi tiêu tại Hải Ngoại; chỉ có ngoại lệ một vài hội nào đó là có chi tiêu tại Hải Ngoại, còn đa số là đưa tiền về trong nước). Ta thấy rõ ràng cái này đáp ứng đúng mục tiêu của Đảng CSVN coi Hải Ngoại là CON BÒ SỮA cho chúng vắt, dễ nhất là qua TỪ THIỆN XHCN. Bởi vậy đồng bào Toronto hãy coi chừng các hội nào quyên tiền đưa về VN, phải nhận định cho rõ là những người này làm với mục đích gì?

 - Tiếp tục đưa CÁN BỘ & VĂN CÔNG CS RA HẢI NGOẠI để thực hiện Nghị Quyết 36, đặc biệt là ĐVH. Tên ca nô CS dơ dáy này (hun hít một nhà sư ngay trên sân khấu ở Hà Nội) bị người tị nạn tẩy chay khắp nơi. Tại Mississauga đêm 4-5-2013, đồng bào tị nạn đã biểu tình quyết liệt trước địa điểm 6435 Dixie Rd. (Capital Banquet Hall) để phản đối cuộc trình diễn của y. Không thấy người của cộng đồng hoặc bà con tị nạn đi xem đêm văn nghệ này, mà chỉ nghe được giọng của các nhóm người Bắc và các khuôn mặt lạ hoắc (du sinh, lao động v.v.) mà thôi. Điều này chứng tỏ rằng tên ca nô đã không xâm nhập được vào cộng đồng tị nạn và Nghị Quyết 36 còn lâu mới có thể tác động đến cộng đồng VN. Tháng 12/2012, ĐVH đến Montréal đã bị chống mạnh, tháng 5/2013 đến Toronto bị biểu tình quyết liệt. Sắp tới, tên ca nô sẽ đi Vancouver chắc cũng sẽ bị đả đảo tương tự.

 3) QUỐC DOANH CỘNG SẢN (Phật Giáo) đang có những chuẩn bị ráo riết để mở mặt trận tại Hải Ngoại, trên nền tảng của Nhóm “VỀ CHUỒNG” đã từng mở mặt trận hòng “XÓA SỔ VĂN PHÒNG II - VHĐ” đưa toàn bộ Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất Hải Ngoại vào vòng tay QUỐC DOANH CỘNG SẢN trong nước. Hiện nay, chúng thay đổi sách lược là DÙNG TÔN GIÁO  ĐỂ CHIẾM VIỆT NAM HẢI NGOẠI, sau khi chúng đã THẤT TRẬN năm 2007 và thất bại liên tiếp trong các CHIẾN DỊCH CHÍNH TRỊ  do các tay sai và các nhóm Hòa Hợp Hòa Giải thi hành. Ta thấy một sự rất ăn khớp là nhóm LMDCVN qua họp tại Paris có dính với các nhân sự LMDCVN từ Ottawa, Houston, Paris và dính với vị lãnh đạo “VỀ CHUỒNG” tại Paris. Đây không phải vô tình hoặc xã giao mà là một nỗ lực phối hợp rộng lớn cho toàn hải ngoại giữa các nhóm chính trị HHHG, QUỐC DOANH HẢI NGOẠI, QUỐC DOANH CỘNG SẢN và CSVN trong nước. Rồi các nhóm HHHG tại Toronto, Mississauga, Ottawa v.v. bên Canada đều có dính và quan hệ mật thiết với “VỀ CHUỒNG” hết. Một hệ thống báo chí tay sai (có đăng ĐVH trình diễn tại Toronto) cũng liên hệ đến sự tán trợ cho QUỐC DOANH CS “VỀ CHUỒNG” lên lãnh đạo Phật Giáo toàn Canada. Nhưng các nhà ái quốc VN và hệ thống Diễn Đàn Quốc Tế đã nắm vững về các âm mưu và kế hoạch này của QUỐC DOANH CS sắp diễn ra tại Toronto, Canada, nên sẽ đem toàn lực phối hợp với các đoàn thể ái quốc và chống Cộng tại vùng Toronto và Canada bẻ gảy mặt trận này.

QUỐC DOANH HẢI NGOẠI vã các nhóm chính trị HHHG cũng như từ thiện XHCN và tay sai báo chí địa phương là một hệ thống liên hợp hỗ trợ và tiếp sức lẫn nhau. Chúng cố đưa một thượng tọa “VỀ CHUỒNG” lên lãnh đạo Phật Giáo tại Canada, và như thế đặt Phật Giáo VN tại Canada vào hệ thống CS trong nước. QUỐC DOANH HẢI NGOẠI dùng phương tiện là tiền bạc (qua các quyên góp hằng loạt bằng nhiều cách khác nhau) và danh vị để mua chuộc tăng ni nhằm khuynh loát hàng tu sĩ theo phương cách thế tục, kể cả đưa các vị sư quốc doanh trong nước ra. Chúng mở mặt trận đồng loạt, vừa chính trị vừa tôn giáo, liên hệ đến nhiều trung tâm và nhiều nhóm, cá nhân. Chúng cố nắm cho được các phương vị chính trị của ngoại bang để làm bàn đạp và để tăng uy thế, nói cho có nhiều người nghe, và để thuyết phục cộng đồng. Có nhiều người không biết tưởng chúng nắm các phương vị chính trị hoặc dân cử của các nước như Mỹ, Canada v.v. là chống Cộng. Thựs sự chúng chuẩn bị và có ý đồ lâu rồi. Bây giờ chúng cũng giả bộ nói chống Cộng; nhưng những nhà hoạt động theo dõi chúng trong nhiều năm thì đã biết tâm địa chúng và các nỗ lực của chúng. Bởi vậy, hệ thống Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN, Phong Trào Hiến Chương 2000, và 3 phong trào kết hợp qua Đại Hội Mở Rộng Toronto ngày 28-29/11/2009 đã quyết định mở mặt trận đánh vào cùng lúc các nỗ lực của CS, Việt Gian và Quốc Doanh Hải Ngoại về các lãnh vực CHÍNH TRỊ, TÔN GIÁO, TỪ THIỆN XHCN, và TUYÊN VẬN; trong đó, hai mặt trận CHÍNH TRỊ và TÔN GIÁO là tâm điểm của chiến dịch ĐƯA VIỆT NAM HẢI NGOẠI vào VÒNG TAY CS.Sắp tới, sẽ có các trận đánh quyết liệt của các đoàn thể chống Cộng và các nhà ái quốc VN vào QUỐC DOANH HẢI NGOẠI tại Toronto và Canada; ngăn ngừa kế hoạch đưa một vị sư “VỀ CHUỒNG” lên lãnh đạo Phật Giáo ở Canada, và sẽ đặt PG tại đây dưới hệ thống CS trong nước.
Ngày nào các nhà ái quốc VN còn hơi thở là vẫn sẽ QUYẾT TỬ với CS, VIỆT GIAN và QUỐC DOANH HẢI NGOẠI. Không khi nào chúng tôi chấp nhận để các tội đồ dân tộc và lũ BÁN NƯỚC đặt người Việt tị nạn dưới bàn tay tham tàn của bạo quyền CSVN.

II. HƯỚNG ĐI CỦA ĐÁM HHHG & VIỆT GIAN CS HIỆN TẠI LÀ DỰA VÀO NGOẠI BANG ĐỂ BẮT TAY VỚI CS VÀ ĐI NGƯỢC LẠI CỘNG ĐỒNG HẢI NGOẠI
Trước đây chuyện dựa vào ngoại bang để bắt tay với CS ít xảy ra vì các mối quan hệ giữa một số cá nhân trong cộng đồng tị nạn và ngoại bang chưa thật chặt chẻ và ít cá nhân dám nghĩ tới vận dụng ngoại bang để liên hệ với CS vì sợ cộng đồng lên án. Nhưng trong những năm sau này, có một số cá nhân đã trực tiếp bắt tay với CS mà cũng không chết chóc gì, như NCK, PD, NPH v.v. Càng ngày, một số nhân vật chính trị bán rẻ lương tâm trong cộng đồng VN càng nghĩ ra các mưu sâu để hòng vừa bắt tay được với VC để thủ lợi, nhưng tránh bị các lên án của cộng đồng hoặc tiết giảm sự lên án đến mức tối đa. Các con người giảo hoạt này, vừa có trình độ cao hơn các đám đi trước, vừa có tham vọng hơn, nên đã nghĩ ra được nhiều chiêu nhằm đạt được mục đích của họ là BẮT TAY VỚI VC, mà lại được bảo vệ bởi NGOẠI BANG, còn cộng đồng thì cũng hoặc không chỉ trích hoặc chỉ trích ít đi. Trong số những kẻ làm Việt Gian theo hướng này, thì kẻ chọn con đường LÀM CÔNG TÁC CHO NGOẠI BANG là khôn ngoan nhất và tránh né được nhiều nhất những chỉ trích của cộng đồng. Nhưng con người thường có tính tham và muốn nổi tiếng, nhất là những người hoạt động chính trị; cho nên những kẻ LÀM CÔNG TÁC CHO NGOẠI BANG ít khi giữ được tính chất thuần túy là LÀM CÔNG TÁC CHO NGOẠI BANG để lấy tiền công hoặc tiền dịch vụ; mà thường đi xa đến độ lộ rõ những mưu đồ và toan tính tương lai, cũng như bị CS du vào các tình thế BẮT BUỘC PHẢI CỘNG TÁC, nên lúc đầu tính khác nhưng khi đụng vào trận thì không chịu nổi các đòn độc của CS, đã khiến cho một kẻ dùng danh nghiã LÀM CÔNG TÁC CHO NGOẠI BANG biến thành TAY SAI CS và HOẠT ĐỘNG CHO CS. Cho nên cuối cùng ra người ta ít chú ý đến khiá cạnh LÀM CÔNG TÁC CHO NGOẠI BANG bằng những bằng chứng hùng hồn trong quan hệ của người đó với CS, rõ rệt chứng tỏ người này đã lọt vào vòng tay của CS và tự nguyện làm con rối trong cộng đồng để thỏa mãn những gì anh ta đã hứa với các viên chức CS khi được tiếp đãi riêng. Đây là trường hợp của một Việt Gian CS tại Houston đã đi quá xa để bây giờ trở thành con rối hoạt động cho CS chống lại cộng đồng tị nạn. Và hậu quả là không còn ai nghe người này, khi y là con bài bị lộ hẳn rồi. Y đã rõ ràng phục vụ cho VC rồi. Nó khác với trường hợp một người từng là Dân Biểu Liên Bang Hoa Kỳ cũng đi VN nhưng không bị cháy, vì người này đã giữ được khoảng cách cần thiết ,và người này ở vị trí Dân Biểu Liên Bang khi đi thành phái đoàn luôn luôn có nhiều người giám sát, không phải muốn làm gì cũng được; và sau chuyến đi người này cũng chưa có bộc lộ thái độ hoặc hành động gì là tay sai CS. Còn xa hơn nữa thì mình phải chờ mới biết. Có người từng đòi đem máy bay thả bom Miền Bắc trong chiến tranh VN, nhưng sau này thì qùy gối dưới CS, khi chết cũng không được VC cho đem về quê chôn nữa, cho nên một đời thân bại danh liệt, đến nỗi chùa cũng từ chối không dám cúng cho sau khi chết. Thành ra ta thấy làm tay sai VC có nhiều hệ lụy mà gương nhãn tiền nhất là NCK. Hiện có một người cũng thuộc nhóm HHHG ở Canada có một đường hướng tiếp cận với CS qua thế lực và các mối giây liên hệ của ngoại bang, và đây là lúc người này khai triển kế hoạch của mình đã ấp ủ nhiều năm (tức HHHG với CS). Nhưng vì còn sợ cộng đồng VN chỉ trích nên người này trong lúc này còn đi nước đôi, khi thì tuyên bố đòi hỏi dân chủ, bênh vực những người tranh đấu trong nước, lúc lại họp hành với những người chủ trương đối thoại với VC mà không có điều kiện gì, khiến cho nội bộ của chính đảng phái đó, có hai phe, thì phe có chủ trương không HHHG với VC đã lên tiếng bằng một Bản Tuyên Bố rồi. Vì tính cách nguy hiểm của sự lơ lững của người này và nhóm của ông, cho nên kỳ này Diễn Đàn Quốc Tế phải ra số báo này để CẢNH BÁO ĐỒNG BÀO TORONTO VÀ HẢI NGOẠI về chủ trương BẮT TAY VỚI VC ĐỂ CHỐNG TC, về những sai lầm của nhóm này, và điểm danh các nhân sự liên hệ.
Mối liên hệ giữa nhóm này với lãnh đạo “VỀ NGUỒN”, nhóm chủ trương đối thoại với VC ở Houston, và báo chí tay sai sẵn sàng hỗ trợ “VỀ NGUỒN” cũng như ca nô CS, khiến cho người tị nạn ở Toronto và hải ngoại cần đặt câu hỏi về ý chí thật sự của đoàn thể của người này đối với chủ trương “BẮT TAY VỚI VC ĐỂ CHỐNG TC” như thế nào?
Vì bài đã khá dài, tác giả xin đăng tiếp tài liệu sau đây về cuộc biểu tình chống ĐVH tại Mississauga vàsẽ trở lại vấn đề này trong số Đối Lực 145 tháng 6-2013.
Hải Ngoại ngày 19 tháng 5 năm 2013

T/M Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN

TS NGUYỄN BÁ LONG
Chủ Nhiệm




ĐỒNG BÀO TORONTO VÀ HẢI NGOẠI HÃY COI CHỪNG LẬP TRƯỜNG BẤT ỔN CỦA HỆ PHÁI LIÊN MINH DÂN CHỦ VIỆT NAM DO ÔNG NGÔ THANH HẢI, NGUYỄN TẤN TRÍ VÀ LÊ PHÁT MINH LÃNH ĐẠO
Phong Trào Hiến Chương 2000
Ngày 16-5-2013, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam (hệ phái lãnh đạo bởi Cựu Hải Quân Đại Tá NGUYỄN VĂN THIỆN - Hoa Kỳ) đã đưa ra một Bản Tuyên Bố (đăng tải lại phía dưới) minh định lập trường của Liên Minh Dân Chủ do ông lãnh đạo là dứt khoát không có HÒA HỢP HÒA GIẢI với Cộng Sản; trái ngược với lập trường của hệ phái LMDC do ông NGÔ THANH HẢI lãnh đa.o.
Trước lập trường bất ổn nguy hiểm này của LMDC thuộc hệ phái NGÔ THANH HẢI - NGUYỄN TẤN TRÍ - LÊ PHÁT MINH; Phong Trào Hiến Chương 2000 có các nhận định sau:


1. Bắt tay với Việt Cộng để chống Trung Cộng là hoàn toàn sai lầm, nếu không nói là điên rồ, vì không bao giờ Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) chống lại Đảng Cộng Sản Trung Hoa (ĐCSTH). Thực tế, Đảng CSVN là một CHI BỘ của Đảng CSTH, có nhiệm vụ phải thi hành con đường vạch ra của Đảng CSTH, hiện đang lãnh đạo hệ thống cộng sản của những nước Cộng Sản còn lại, sau khi Liên Xô (tức Đệ Tam Quốc Tế) sụp đổ.

2. Lệnh cho CSVN thi hành bởi Đảng CSTH là phải tiến hành các biện pháp để xáp nhập Việt Nam vào với Trung Quốc trong một hạn kỳ nhất định (30 năm), tham chiếu Hội Nghị Thành Đô năm 1990.

3. Hiện các Thái Thú Bắc Kinh tại Hà Nội đang tiến hành các biện pháp dọn đường để chuyển Việt Nam thành một bộ phận của Trung Quốc vào năm 2020, với các biểu hiện như trương CỜ SÁU SAO, chương trình giảng dạy chữ Tàu tại Việt Nam, bỏ chương trình thi sử VN trong điều kiện tốt nghiệp, thay đổi sách giáo khoa Việt Nam theo hướng có lợi cho Tàu và in hình cờ Trung Cộng vào đó, di dân Tàu tự do sang Việt Nam không cần chiếu khán, đặt toàn bộ nền kinh tế dưới sự lệ thuộc Tàu Phù - đặc biệt là 90% gói thầu các ngành đều lọt vào tay Tàu Phù v.v. (xin xem thêm bài viết “Thời kỳ Bắc Thuộc mới của VN” của TS Mai Thanh Truyết ).

4. Không bao giờ có chuyện Đảng CSVN và chế độ CSVN chống Tàu, mà là đang làm mọi cách chuyển giao Việt Nam êm thắm cho Tàu. Do đó biện pháp để Việt Nam thoát khỏi vòng Bắc Thuộc là TIÊU DIỆT CỘNG SẢN chứ không phải là THEO CSVN ĐỂ CHỐNG TÀU. Khi THEO CSVN thì có nghiã là VỪA LÀM TAY SAI CHO CSVN, VỪA LÀM TAY SAI CHO TÀU!

5. Ngoại bang có lý do để BẮT TAY VỚI TÀU CỘNG VÌ KINH TẾ, nhưng NGƯỜI VIỆT TỊ NẠN thì  KHÔNG CÓ MỘT LÝ DO GÌ để VỪA LÀM TAY SAI CHO VIỆT CỘNG VỪA LÀM TAY SAI CHO TÀU CỘNG, trừ khi vì lý do THỦ LỢI CÁ NHÂN và MƯU CẦU DANH LỢI (như một tên Việt Gian tại Houston, nhưng sẽ bị cả VC và TC vắt chanh bỏ võ như chúng ta đã thấy qua kinh nghiệm của đám Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam).

6. Việt Nam Hải Ngoại là CÁI PHAO CUỐI CÙNG để tổ chức QUANG PHỤC VIỆT NAM, trong trường hợp ĐẢNG CSVN BÁN NƯỚC hoàn thành trách vụ CHUYỂN GIAO VIỆT NAM cho Tàu theo tinh thần Hội Nghị Thành Đô; do đó chúng ta phải BẢO VỆ VIỆT NAM HẢI NGOẠI bằng mọi giá không để lọt vào tay Việt Cộng và Tàu Cộng qua con đường HÒA HỢP HÒA GIẢI của bọn TAY SAI CỘNG SẢN và NGOẠI BANG.

7. Trước các con rối làm tay sai cho NGOẠI BANG và CS lại muốn dẫn dắt NGƯỜI VIỆT TỊ NẠN đi vào con đường PHẢN QUỐC qua chiêu bài “BẮT TAY VỚI VIỆT CỘNG ĐỂ CHỐNG TÀU CỘNG!”, Phong Trào Hiến Chương 2000 CẢNH BÁO ĐỒNG BÀO TORONTO và HẢI NGOẠI coi chừng đám TAY SAI NGOẠI BANG và CỘNG SẢN đang làm mọi cách LỪA ĐỒNG BÀO VÀO RỌ HÒA HỢP HÒA GIẢI VỚI VC của chúng.

Hải Ngoại ngày 17 tháng 5 năm 2013
T/M Phong Trào Hiến Chương 2000



TS NGUYỄN BÁ LONG
Tổng Đại Diện kiêm Phát Ngôn Viên


TÀI LIỆU THAM CHIẾU:

          Liên Minh Dân Chủ Việt Nam
               Dân Bản - Tự Do - Độc Lập - Hòa Bình - Trung Lập
      
                     *          *          *                                       
           
Bản Tuyên Bố
          của Liên Minh Dân Chủ Việt Nam

Trong thời gian qua, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam, hệ phái do cựu Hải Quân Đại tá Nguyễn Văn Thiện lãnh đạo, đã có nhiều đóng góp hữu hiệu trong việc tố giác trước công luận trong và ngoài nước các hành vi tay sai bán nước của Cộng sản Việt Nam (CSVN), cũng như vạch trần các hành động của Bắc Kinh xâm lấn lãnh thổ, hải đảo và vùng biển của Việt Nam.  Điển hình  là cuốn phim chiến lược Đại Họa Mất Nước do Đại Gia Đình Nguyễn Ngọc Huy phát hành với các chiến hữu LMDCVN là thành phần nòng cốt trong ban thực hiê.n. Đồng thời, tư tưởng và đường lối đấu tranh đúng đắn trước Đại Họa Mất Nước cũng đã được các anh em chiến hữu và thân hữu quảng bá sâu rộng tại các hội thảo chính trị cũng như trên các diễn đàn Paltalk.  Những nỗ lực trên đã khiến cho lập trường chính trị vì quốc gia dân tộc của LMDCVN được sáng tỏ.


Tuy nhiên, gần đây có nguồn dư luận, mà tuyên truyền của cộng sản đã khai thác để rửa mặt cho họ, cho rằng LMDCVN đã thay đổi lập trường tranh đấu đối với Cộng sản Việt Nam, chẳng hạn như:
             1)- Để chống sự xâm lăng của Trung Quốc, chúng ta có thể hợp tác với CSVN.
             2)- Về phương diện chính trị thì chúng ta với CSVN là hai chiến tuyến, còn trong việc bảo vệ tổ quốc thì chúng ta và CSVN cùng một mục tiêu, chúng ta phải đứng chung với CSVN để bảo vệ tổ quốc.
             3)- Đối thoại với CSVN không điều kiê.n.

Thực ra, dư luận giao động này gây ra do phát biểu từ một số trong thành phần lãnh đạo của LMDCVN thuộc hệ phái do ông Ngô Thanh Hải làm Chủ Tịch UBCHTƯ, ông Nguyễn Tấn Trí là Phó Chủ Tịch, và ông Lê Phát Minh là Cố vấn.  Tất cả các vị đó không còn hoạt động trong đoàn thể LMDCVN của chúng tôi.    
Vì vậy, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam dưới sự lãnh đạo của cựu Hải Quân Đại tá Nguyễn Văn Thiện long trọng minh xác một lần nữa:
Lập trường, mục tiêu tranh đấu cũng như đường lối và sách lược của Liên Minh Dân Chủ Việt Nam trước sau như một, luôn theo đúng con đường mà cố GS Nguyễn Ngọc Huy đã viễn kiến  vạch ra .


Liên Minh Dân Chủ Việt Nam nhận định:
-Nhận định 1:  Lịch sử đã chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn làm tay sai cho ngoại bang.  Trước kia là để phục vụ cho sự bành trướng của Đệ Tam Quốc Tế, gây nên cuộc chiến huynh đệ tương tàn ngay trên quê hương Việt Nam thời chiến tranh la.nh.  Ngày nay ''hèn với giặc, ác với dân'', Cộng sản Việt Nam dâng nộp bờ cõi, hải đảo và biển cả cho Trung Quốc xâm lược, ngõ hầu duy trì sự cai trị của Đảng Cộng Sản trên sự thống khổ của đồng bào ruột thi.t.


-Nhận định 2:  Ngày trước, tổ quốc của CSVN là Xã Hội Chủ Nghĩa.  Ngày nay, tổ quốc của Cộng sản Việt Nam là Đảng Cộng Sản Trung Quốc xâm lươ.c.  Mục tiêu hàng đầu của Đảng CSVN không phải là bảo vệ tổ quốc, mà là duy trì chế độ độc tài độc đảng để tiếp tục vinh thân phì gia trên xương máu của nhân dân và tài nguyên của đất nước Việt Nam.  Do đó, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam không cùng chung tổ quốc với đảng Cộng sản Việt Nam. ĐảngCộng sản Việt Nam là những người bán nước cho quan thầy Trung Cô.ng.  Hợp tác với các thái thú tay sai để chống quan thầy của họ là một hoang tưởng chính trị  không bao giờ thành công mà vô hình chung chúng ta chỉ trở thành những con rối của Bắc Kinh và Hà Nô.i.
 Liên Minh Dân Chủ Việt Nam xác quyết rằng muốn thoát khỏi ách ngoại xâm Trung Cộng, dân tộc Việt Nam không những không thể hợp tác với đảng Cộng sản Việt Nam, mà trước hết phải thay thế họ bằng một chánh quyền mới vì dân vì nước thật sự.


-Nhận định 3:  Luận điệu của Cộng Sản nước nào cũng như nhau là ''để chống kẻ thù số 1 thì có thể hợp tác, làm bạn chiến thuật với kẻ thù số 2 để tiêu diệt kẻ thù số 1''.  Do đó, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam xác quyết rằng Đảng Cộng sản Việt Nam và hành động xăm lăng của Trung Cộng đều là ''hai kẻ thù số 1''.  Toàn dân Việt Nam khắp nơi cần phải đấu tranh chống lại một cách song song.  Liên Minh Dân Chủ Việt Nam dứt khoát không hợp tác hay đứng chung với Cộng sản Việt Nam  với chiêu bài chống hiểm họa Bắc Phương.

-Nhận định 4:  Nước Việt Nam cần một thể chế chính trị dân chủ đa nguyên, đa đảng, thừa nhận đối lập, nhằm đoàn kết toàn dân, và xây dựng chánh quyền trên nền tảng tam quyền phân lập theo đúng tư tưởng dân chủ pháp trị, để mọi công dân có đủ cơ hội thăng tiến tài năng, xây dựng đời sống tự do hạnh phúc, trong một xã hội văn minh, tiến bộ, và phát triển kinh tế bền vững, ổn định cho đất nước.  Từ đó, sức mạnh của toàn dân mới có thể vận dụng để chống hoạ ngoại xâm phương Bắc.


Bởi các nhận định nêu trên, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam long trọng  tuyên bố:

1.- Tiếp tục mở rộng sự liên kết với các đoàn thể đấu tranh trong và ngoài nước để cùng toàn dân đứng lên làm lịch sử trong vận hội đang tới, theo trào lưu dân chủ hóa toàn  cầu, giải thể độc tài đảng trị trên toàn cõi đất nước Việt Nam.
2.- Không chấp nhận đối thoại hay hòa hợp hòa giải với cộng sản khi mà đảng Cộng sản vẫn đàn áp nhân dân, trù dập những tiếng nói đối lập ở trong nước, và cam tâm làm nô lệ cho Tàu.

3.-Cùng toàn dân đấu tranh cho sự Sinh Tồn của Dân Tộc bằng các quyền Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền và toàn vẹn bờ cõi, chống lại đảng Cộng Sản độc tài toàn trị, đàn áp nhân dân  và bán nước, hèn với giặc ác với dân.
4.- Cùng toàn dân đấu tranh chống tham nhũng, cướp đất, hiếp đáp nhân dân, xây dựng công bằng xã hội và nhân quyền, trên nền tảng dân chủ pháp trị.
5.- Thực hiện các lý tưởng cho sự  Sinh Tồn của Dân Tộc mà cố GS Nguyễn Ngọc Huy đã đề ra cho Liên Minh Dân Chủ Việt Nam: Dân Bản, Độc Lập, Tự Do, Hòa Bình, Trung Lập, không nô lệ bất cứ ngoại bang nào.
Làm tại Hoa Kỳ, ngày 16 tháng 05 năm 2013
Chủ Tịch UBCHTƯ/LMDCVN
Cựu HQ Đại Tá Nguyễn Văn Thiện                          


TS. MAI THANH TRUYẾT * BẮC THUỘC

Bắc Thuộc lần thứ 5…

TS Mai Thanh Truyết
 


Kể từ khi tiến chiếm miền Nam của cs Bắc Việt ngày 30/4/1975, chúng ta ngày càng thấy lộ rõ tính nô lệ Trung cộng (TC) của những người lãnh đạo đất nước. Cuộc chiến "có tiếng súng" nổ ra ở biên giới Viê.t-Trung ngày 17 tháng 2 năm 1979 chỉ là sự khởi đầu cho tiến trình Bắc thuộc lần thứ năm của TC. Cuộc chiến không phải chấm dứt 10 ngày sau đó, mà vẫn tiếp tục dai dẳng dọc theo biên giới mãi cho đến năm 1988 qua sự quy phục hoàn toàn của cs Bắc Việt khi TC tiến chiếm quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
 
Và cuộc chiến không tiếng súng bắt đầu.
 
Và hiệp ước biên giới được hai bên ký kết (theo lịnh của TC) như sau:
 
• Cột mốc biên giới số 1116 đã được chính thức cắm vào phía Nam của Ải Nam Quan và cách ải 280 m;
 
• Thác Bản Giốc trở thành một trung tâm du lịch do TC quản lý;
 
• Quan trọng hơn cả là sự hiện diện của người thiểu số Tày dọc theo chiều dài biên giới Viê.t-Trung tới tận tỉnh Quảng Đông. Người Tày có khuynh hướng thân TC và đã được TC khuyến dụ như là một đạo quân thứ năm của TC một khi có chiến tranh xảy ra.
 
Thật ra, những sự kiện vừa nêu trên có thể nói là kết quả của những mật đàm từ trước, Hội nghị Thành Đô ngày 3 và 4 tháng 9 năm1990.
 
Trong quá trình lịch sử, chúng ta thấy rất rõ tham vọng chiếm đóng Việt Nam của người Hán đã xảy ra hàng ngàn năm trước và VN chịu bốn lần ách đô hộ. Và hôm nay, dưới cuộc chiến không tiếng súng, lại thêm một lần nữa, cuộc đô hộ mới đang xảy ra, thể hiện quyết định của Hội nghị Thành Đô trên.
 
Tại nơi nầy, Việt Nam có Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam thời bấy giờ, Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Phạm Văn Đồng, cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên Trung Cộng có Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng. Hai bên ký kết Kỷ yếu hội nghị đồng thuận bình thường hóa quan hệ hai nước. Cuộc gặp mặt bí mật này không được công bố trong nước cho tới khi "bị" bật mí vào những ngày đầu năm 2013..
 
Ngày 5/11/1991, Đỗ Mười, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam và Võ Văn Kiệt, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đến Trung Cô.ng. Ngày 7/11/1991, hiệp định mậu dịch Trung - Việt và hiệp định tạm thời về việc xử lý công việc biên giới hai nước đã được ký tại Nhà khách quốc gia Điếu Ngư Đài, Bắc Kinh.
 
Tiếp theo sau, dưới thời Tổng Bí thư cs Lê Khả Phiêu, Việt Nam ký hai Hiệp định Biên giới trên bộ và phân chia vịnh Bắc Bộ với Trung Cô.ng. Theo báo chí "chiều phải" của Việt Nam, Việt Nam có quan hệ mật thiết "môi hở răng lạnh" với Trung Cô.ng. Hai nước đều do hai Đảng Cộng sản lãnh đa.o.
 
Cuối cùng, công cuộc thực hiện Bắc thuộc hoàn toàn bằng cách biến Việt Nam thành Nam Việt, một tỉnh theo quy chế tự trị phía Nam thuộc Trung Cộng…và ngôi sao thứ năm trên lá cờ TC đã xuất hiện trong các cuộc giao tiếp hòa đàm giữa TC và VN từ năm 2011…để chờ ngày chính thức công bố tự trị vào năm 2020? (Lá cờ TC với 5 ngôi sao xuất hiện lần đầu tiên trên truyền hình Việt Nam vào ngày 11/10/2011 nhân chuyến viếng thăm TC của Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư cs VN để xác định "16 chữ vàng" một lần nữa là: "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai").
 
Chính quan hệ mật thiết môi hở răng lạnh của hai đảng cộng sản cộng thêm sự hèn yếu của cs Bắc Việt khiến cho tiến trình Bắc thuộc ngày càng hiện rõ thêm qua nhiều chỉ dấu từ đó đến nay:
 

Tiến trình Bắc thuộc lần thứ 5:
 

• Di dân Trung Hoa vào Việt Nam
 
Trước năm 2008, người Trung Hoa khi vào Việt Nam được miễn visa (hộ chiếu) và có thể di chuyển tự do trong phạm vi miền Bắc mà thôi. Cuối năm 1980, Thủ tướng cs Nguyễn Tấn Dũng lại miễn hộ chiếu và nới rộng vùng di chuyển của ngưới Tàu đến tận Cà Mau. Quyết định nầy chính là điểm mấu chốt và là điểm khởi đầu thực sự trong âm mưu Hán hóa Việt Nam của TC.
 
Có thể nói hiện nay, sự hiện diện của người Tàu trên khắp hang cùng ngõ hẹp của đất nước. Trong hơn 65 Khu chế xuất, Khu công nghiệp tập trung, không đâu là không thấy công nhân, quản đốc và chủ nhân người Hoa, trong lúc người lao động Việt Nam khắp nơi phải chịu cảnh thất nghiệp! Trong các nhà máy sản xuất có tính cách quốc phòng như nhà máy phát điện, nhà máy gang thép, sản xuất hóa chất công nghiệp…đầu đâu cũng có chủ nhân và công nhân người Tàu…
 
Ngoài 9 tỉnh địa đầu hầu như chịu ảnh hưởng của người Tàu, đường xá mang tên Tàu, hàng quán, chợ búa mang tên Tàu, thậm chí cung cách trang hoàng những ngày Tết cũng đậm nét Tàu như treo lồng đèn đỏ dọc theo các đường phố chính, chưng bày hàng hóa thực phẩm Tàu…
 
Trên 306.000 hecta đất cho Tàu thuê mướn trong 50 năm với giá rẻ mạt, chiếm toàn những vị trí chiến lược trọng yếu ở Bắc Việt, như căn cứ Tam Điệp là nơi Bộ Chính trị cs VN "chạy trốn" trong giai đoạn chiến tranh năm 1979!
 

• Đồng hóa tiệm tiến các dân tộc thiểu số miền Cao nguyên Trung phần
 
Hiện tại, TC đã phối hợp một cách gián tiếp với người Chăm và người thiểu số ở cao nguyên Bolloven bên Lào, Cambodia và nhập nhằng tóm gọn các dân tộc Chăm và Thượng làm một, dưới danh nghĩa Fulro/Chăm để khích động nhu cầu dành lại chủ quyền của vương quốc Champa do một nhóm người Chăm bên Pháp dưới quyền lãnh đạo của một Tiến sĩ người Chăm cổ súy. Nhóm nầy cũng đã được hỗ trợ của thực dân Pháp vốn đã có nhiều quyền lợi tại vùng cao nguyên nầy hồi thời thuộc đi.a. Cũng cần nên biết thêm, người Thượng ở vùng cao nguyên hiện tại cũng đã được các hội thiện nguyệân và tôn giáo Hoa Kỳ yễm trợ dưới danh nghĩa DEGA.
 
Theo tin tức được loan tải trên mạng lưới toàn cầu, họ đã hình thành tổ chức The Cham National Federation of Cambodia (CNFC) và đã được Liên Hiệp Quốc công nhận qua Department of Economic and Social Affairs (DESA) dưới quy chế tham mưu (consultative status) kề từ năm 2009.
 
Một tổ chức thứ hai là The Overseas Cham Unity Organization (OCUO) cũng đang xúc tiến đưa hồ sơ lên LHQ và Thụy Điển để ghi danh xin thành lập Chính phủ lưu vong Chăm (The Cham National Government In Exile). Chính phủ nầy sẽ ở ngoài lãnh thổ truyền thống của Champa là miền Trung VN, mục đích nhằm duy trì sự hiện hữu của chính phủ hoàng gia Champa trước đây. Cũng theo dự định, chính phủ nầy sẽ phác thảo bản hiến pháp và triệu tập Đại hội để bầu ra Thủ tướng và các Bộ trưởng vào nội các.
 
Qua các tin tức trên, chúng ta thấy rõ ràng là phải có bàn tay lông lá của TC mới thực hiện được những dự tính thành lập chính phủ lưu vong của người Chăm. Theo một nguồn tin đáng tin cậy, chính phủ lưu vong ban đầu sẽ đặt trụ sở tại đảo Hải Nam (TC), nơi có một cộng đồng thiểu số người Chăm nay gọi là Utsat cư ngụ. Cộng đồng người Chăm nầy theo sử liệu đã sang tị nạn và định cư tại đây vào thời Lưu Kỳ Tông, một ông vua tiếm ngôi không phải gốc Chăm đã có một thời áp dụng chính sách cai trị hà khắc với dân tộc Chăm năm 988.
 
Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó, dự định trên đã được hủy bỏ vì muốn tránh sự phản kháng của các thành viên LHQ khác, văn phòng chính phủ lưu vong lấy Thụy Điển làm văn phòng tạm là P.O. Bax 122, SE-33523, Gnosjo, vì tại nơi nầy, cũng có một tiến sĩ người Chăm định cư nhằm tạo danh nghĩa để gây áp lực với cs Bắc Việt một khi cần thiết. Và một trụ sở khác của chính phủ lấy Cambodia làm căn cứ địa đặt tại Phnom Penh, P.O. Box 1635 Phnom Peenh 12000. (Cơ sở nầy một lần nữa bị bại lộ do đó TC phải dẹp bỏ vào năm 2012).
 
Sau cùng, khi "Ông Thầy đỡ đầu" người Pháp của vị tiến sĩ Chăm đan cử ở phần đầu qua đời, vị tiến sĩ nầy đi tìm chỗ dựa mới là TC và chuyển trục hoạt động về Malaysia. Nơi đây ông ta đã tổ chức một viện nghiên cứu về dân tộc Chăm, và có nhiều buổi nói chuyện về sự hình thành dân tộc Champa do một đại học ở TC đài thọ.
 
Vậy, câu hỏi được đặt ra là: Trung Cộng giúp người Chăm hải ngoại nhằm mục đích gì?
 
Câu trả lời giản dị sẽ là TC muốn hoàn toàn khống chế VN trong lãnh vực chính tri.-kinh tế-quân sự qua việc kiểm soát vùng cao nguyên Trung phần VN. Nắm được cao nguyên nầy, TC sẽ biến thành một vùng lệ thuộc như miền đất Tây Tạng năm 1959 và Tân Cương 1960. Đã nắm được yết hầu của VN rồi mặc nhiên TC có toàn khả năng khống chế lãnh đạo hiện tại của cs Bắc Việt trong mọi tình huống.
 
Mặt khác, nguy hiễm hơn nữa là sự hiện diện của hàng chục ngàn người Tàu dưới dạng công nhân, hay nhân viên tình báo (?) tại hai địa điểm khai thác Bauxite là Nhân Cơ ở Đăc Nông và Tân Rai ở Lâm Đồng. Sự hiện diện nầy, ngoài các yếu tố kinh tế, và quân sự, còn là một chiến lược đồng hóa người địa phương và thiểu số bằng những cuộc hôn nhân dị chủng để…vài chục năm sau, những nơi nầy sẽ có những người "thiểu số mới"….đứng lên đòi tự trị theo tinh thần của Nghị quyết Dân tộc bản địa của LHQ?
 

• Ảnh hưởng về Văn hóa và Giáo dục
 
Trung Cộng cũng có âm mưu gây ảnh hưởng về văn hóa. Điều nầy đã bàng bạc thể hiện qua nhiều lể hội có tính cách văn hóa xen lẫn y phục, lời ca, điệu múa Trung Hoa. Cung cách cấu trúc, bày trí các vỡ kịch cũng đầy máu sắc và kịch tính Tàu. Những ảnh hưởng trên thể hiện ra sau khi bình thường hóa quan hệ, cho phép các loại hình văn hóa của Trung Cộng được xuất bản rộng rãi tại Việt Nam. Rất nhiều các loại phim TC được dịch và trình chiếu tại các đài truyền hình Trung Ương và địa phương ở Việt Nam.
 
Một khía cạnh quan trọng khác là cách đây hơn 3 năm, TC lại thành lập một Cục giáo dục tiếng Hoa cho người ngoại quốc. Họ đã đào tạo giáo viên sinh ngữ từ bậc tiểu ho.c. Từ năm 2010, họ đã bắt đầu cung cấp giáo viên qua việt Nam để giảng dạy tiếng quan thoa.i. Đây cũng là một âm mưu lâu dài nhằm đem tiếng Hoa vào trong hệ thống giáo dục VN, chuẩn bị cho công cuộc Bắc thuộc toàn diê.n.
 

• Xuất nhập cảng làm tê liệt các ngành sản xuất VN bằng cách tung hàng hóa với giá rẻ ma.t.
 
Trong một chuyến viếng thăm TC của Tổng Bí thư cs Nông Đức Mạnh tháng 5/2008, hai bên quyết tâm và "nhất trí" phát triển hai chiều theo "quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện".
 
Kể từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ kinh tế thương mại Trung – Việt được khôi phục và phát triển nhanh chóng. Kim ngạch thương mại giữa hai nước từ hơn 30 triệu USD năm 1991 lên 22,5 tỷ USD năm 2009, tăng gấp gần 700 lần. TC đã trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam. Lợi ích thương mại song phương mang lại cho hai nước là điều dễ dàng nhìn thấy. Nhưng cùng với thương mại song phương liên tục tăng trưởng, vấn đề mất cân bằng trong thương mại giữa hai nước đã ngày càng bộc lộ. Việt Nam hết sức coi trọng vấn đề nhập siêu trong thương mại với TC.
 
Cũng cần nên nói thêm là TC còn xuất sang Việt Nam nhiều hàng hóa trong lĩnh vực thực phẩm, tiêu dùng với nhiều sản phẩm có tẩm, ướp, bảo quản, chế biến, sản xuất bằng các loại hóa chất độc hại, bằng công nghệ gây hại mà thị trường TC đã tẩy chay khi phanh phui ra các vụ bê bối thực phẩm như các loại hoa quả, thực phẩm, xí muội, ô mai, nước tương, sữa, trứng gà..., ngoài ra còn có đồ chơi trẻ em có chứa chì, dày dép, đồ điện tử độc hại, bạo lực, kích dục, chứa chất nổ, dễ gây thương tích, ảnh hưởng đến nòi giống, sinh sản....
 
TC cũng xuất sang Việt Nam các giống cây trồng, vật nuôi có nguy cơ gây hại đến các giống loài bản địa, gây hại đến nông nghiệp của nước sở tại như ốc bươu vàng, đỉa trâu, sâu, nhộng, trùng cho chim cảnh, rùa tai đỏ và một số giống vật nuôi nguy hiểm khác.... điều đáng lưu ý là những sản phẩm này tràn lan trên thị trường Việt Nam, không thể kiểm soát được và người tiêu dùng Việt Nam đang dùng hàng ngày do giá rẻ và không phân biệt được thật giả, phẩm chất hay xuất xứ.
 
Về phần Việt Nam, hàng hóa xuất cảng sang TC của Việt Nam chánh yếu là dầu thô (năm 2009 xuất trên 8 triệu tấn dầu thô), than đá và một số nông sản và hầu hết các loại rau đậu, ngô khoai…Đối lại VN nhập cảng từ TC các mặt hàng như: máy móc thiết bị, thép, sản phẩm hóa chất, thiết bị vận tải, bông vải, máy móc cho kỹ nghệ dệt, da giày, phân bón và sản phẩm, máy móc dùng trong nông nghiệp, và hàng tiêu dùng. Chỉ tính cho năm 2009, riêng hàng nhập khẩu từ TC chiếm tới 80% tổng lượng nhập khẩu của Việt Nam.
 
Điểm sau cùng cũng cần nêu ra đây là vấn đề trúng thầu của các doanh nghiệp TC trong các dự án có tầm vóc quốc gia của Việt Nam mà báo chí trong nước vẫn đưa lên gần đây. Đa số các dự án lớn đấu thầu công khai thì đều lọt vào tay nhà thầu TC do giá đấu thầu của họ rất rẻ. Vấn đề tham gia của TC trong các dự án nhạy cảm, như trồng rừng ở biên giới, dự bán Bauxite trên cao nguyên Trung phần Việt Nam, các dự án Nhiệt điện ở khắp nơi từ Hải Phòng cho đến Cà Mau. Nguồn vốn cho vay của TC ngày càng tăng chiếm hầu hết tổng lượng vốn vay của Việt Nam, dự báo cho một sự lệ thuộc hoàn toàn của nền kinh tế Việt Nam vào TC.
 
Tóm lại, TC dùng đủ mọi thủ đoạn để xuất cảng hàng hóa, vật dụng, thực phẩm chứa hóa chất độc hại nhằm…ngoài việc làm tê liệt kinh tế VN bằng cách triệt tiêu các kỹ nghệ nội địa của VN, còn làm hủy diệt sức đề kháng chống ngoại xâm của các thế hệ thanh niên sau nầy của VN qua kinh nghiệm ngàn năm giữ nước của dân tộc Viê.t.
 

Thay lời kết
 
Đã hơn 38 năm qua từ ngày lìa xa Đất Nước, hơn lúc nào hết, âm mưu Bắc thuộc lần thứ 5 của Trung Cộng lại hiện rõ trong lúc nầy. Chúng ta còn nhớ, ngay sau khi Liên Sô sụp đổ năm 1991, CS Bắc Việt mới quay về thuần phục TC.
 
Và kể từ đó, trước mặt TC, đảng CSVN mới cam tâm ký hai hiệp ước nhượng đất và nhượng biển cho Trung Cô.ng. Thứ nhất là "Hiệp ước về biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Trung Cộng" ngày 30-12-1999 (mất ải Nam Quan và thác Bản Giốc), và thứ hai là "Hiệp ước phân định lãnh hải" ngày 25-12-2000 (mất khoảng 10,000 Km2 mặt biển vùng Vịnh Bắc Việt).
 
Câu chuyện Tam Sa gồm Hoàng Sa và một số đảo Trường Sa cũng chỉ là kết luận "tất yếu" của tiến trình dâng đất và dâng biển cho TC mà thôi.
 
Qua những sự kiện vừa liệt kê trên đây, chúng ta thấy rõ ràng ÂM MƯU THÔN TÍNH Việt Nam của TC cũng như lý tính thuần phục của đảng cs Việt Nam hiện ta.i.
 
Đất Nước là Đất Nước của chung, của cả dân tô.c. Từ người lãnh đạo quản lý Đất Nước cho đến người dân cùng đinh trong xã hội cần phải được dự phần và chia xẻ trách nhiệm chứ đâu có phải là độc quyền của đảng.
 
Tóm lại, cho đến ngày hôm nay, có thể nói qua những phân tích trên đây, mọi hành xử của đảng CS Bắc Việt đều do CS TC điều khiển từ xa. Việt Nam hoàn toàn không có khả năng quyết định vận mệnh của đất nước mình nếu không có sự "góp ý" của TC.
 
Hiện tại, 16 chữ vàng và 4 tốt trên đã được Trung Tướng CS Ngô Xuân Lịch, Chủ nhiệm Tổng Cục Chính trị cùng phái đoàn 11 tướng lãnh cao cấp khác cam kết và xác định thêm một lần nữa trước Thái thú Tập Cận Bình, Chủ tịch nước Trung Hoa là:"Quân đội hai nước sẽ gương mẫu thực hiện thỏa thuận giữa hai Đảng bằng đối thoại".
 
Chưa bao giờ đất nước Việt có một tập đoàn lãnh đạo hèn với giặc và ác với dân như hiện tại!
 
Nhìn lại lịch sử trong quá khứ, vào năm 1428, Vua Lê Lợi lên ngôi sau 10 năm kháng chiến đau thương và gian khổ để:
 
"Đại cáo Bình Ngô lưng cung nỏ,
 
Giang sơn thu lại chỉ mười năm" .
 
Đó là giang sơn Đại Việt thời xưa!
 
Và vào thời cận đại, Cụ Phan Bội Châu trong phong trào Đông Du để phục quốc đã phải thốt lên:" Phát cây bụi lá gai góc, khó nhọc để mở ra thế giới này, không phải là tay chân của hàng nghìn vạn người chúng ta chăng? Sớm chuyên chở, chiều chuyên chở đất cát để lấp kín khe núi kia, không phải là máu mỡ mồ hôi của tổ tiên hàng nghìn vạn người chúng ta chăng? Tổ tiên ta đem nước để lại cho con cháu. Ta là con cháu, ta nhận nước ở tổ tiên ta. Nước vốn là gia tài của dân ta".
 
Và Cụ viết tiếp:"Sau khi đã duy tân rồi thì dân trí sẽ được mở mang, dân khí sẽ lớn mạnh, dân quyền sẽ phát đạt, vận mệnh nước ta do dân ta nắm giữ. Giữa đô thành, nước ta đặt một toà nghị viện lớn. Bao nhiêu việc chính trị đều do công chúng quyết đi.nh. Thượng nghị viện phải đợi trung nghị viện đồng ý, trung nghị viện phải đợi hạ nghị viện đồng ý mới được thi hành. Hạ nghị viện là nơi đa số dân chúng có quyền tài phán việc của trung nghị viện và thượng nghị viê.n. Phàm là dân nước ta, không cứ sang hèn, giàu nghèo, lớn bé đều có quyền bỏ phiếu bầu cử. Trên là vua nên để hay truất, dưới là quan nên thăng hay giáng".
 
Lời người xưa còn đó!
 
Bao giờ giang sơn Đại Việt "mới" sẽ được lấy lại từ tay CS Bắc Viê.t.
 

Mai Thanh Truyết
 
Ngày Quốc Hận 2013
 


TRẦN NGÂN *ÔNG TRỌNG THẤT BẠI

Tổng bí thư Trọng và 

cuộc Thập tự chinh vô vọng


Dũng cười vào viếng lăng 
Trần Hữu Dũng:  
 
Vài năm trở lại đây, tình hình tham nhũng, chạy chức, chạy quyền ở Việt Nam ngày càng tăng, cộng với kinh tế suy thoái, lạm phát tăng cao, thất nghiệp lan rộng đã đe dọa nghiêm trọng tới niềm tin của người dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản. Tình thế đó đã buộc ban lãnh đạo Đảng phải tìm ra những giải pháp mới nhằm lấy lại niềm tin của nhân dân. Từ khi lên nắm quyền sau Đại hội Đảng lần thứ 11, TBT Trọng và Ban chấp hành TW Đảng đã tiến hành một số biện pháp như:
 - Ra Nghị quyết Trung ương 4 về “Những vấn đề cấp bách xây dựng Đảng hiện nay” và tổ chức rộng khắp phong trào phê và tự phê theo tinh thần nghị quyết này
 - Tái lập Ban Nội chính TW và Ban Kinh tế TW
 Bài viết dưới đây sẽ phân tích ý nghĩa của việc tái lập 2 ban này trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.
 1. Về Ban nội chính và cuộc chiến chống tham nhũng
ngbathanh 
Vào năm 2007, Ban Nội chính TW lúc đó đã được sáp nhập vào Văn phòng TW Đảng. Sau khi được tái lập vào cuối năm 2012, chức năng, nhiệm vụ của Ban Nội chính TW hiện nay đã thay đổi rất nhiều so với trước đó. Nếu như trước đây, nhiệm vụ của Ban rất rộng, chẳng hạn:
 - Giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực xây dựng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa;
 - Nghiên cứu đề xuất và theo dõi việc thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng thành pháp luật nhà nước;
 - Theo dõi việc lập và thực hiện chương trình xây dựng pháp luật của Nhà nước. (thuvienphapluat.vn)
 thì trong 6 nhóm nhiệm vụ của Ban Nội chính TW hiện nay đều có chữ “tham nhũng” (Vnexpress, 4/1/2013). Điều này cho thấy Ban này được lập ra chủ yếu để đối phó với tình trạng tham nhũng tràn lan hiện nay.
 Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là: liệu việc tái lập lại Ban này có giúp được gì trong việc giảm bớt tình trạng tham nhũng hiện nay hay không? Rất tiếc, câu trả lời của tác giả cũng như nhiều người tỉnh táo khác là không, hoàn toàn không.
 Kinh nghiệm chống tham nhũng trên thế giới đã rất nhiều và những nguyên tắc chung được rút ra không gì ngoài những nguyên tắc chính: (i) về mặt thể chế phải có tam quyền phân lập, có sự phân chia và kiểm soát giữa các nhánh quyền lực; (ii) công khai và minh bạch trong những lĩnh vực như: hoạch định và thực thi chính sách, tài sản cán bộ công chức…; (iii) một nền báo chí tự do để người dân có thể giám soát các quan chức của mình… Có những điều kiện này chưa chắc đã có kết quả tốt trong việc chống tham nhũng nhưng nếu không có nó thì chắc chắn không thể chống tham nhũng. Việc lập ra một cơ quan chống tham nhũng trong thời đại ngày nay mà lại thiếu đi những điều kiện nền tảng ở trên mà trông mong nó hoạt động có hiệu quả thì chỉ là sự ảo tưởng.
 Về mặt cơ chế, việc lập ra Ban Nội chính TW như thế này (với chân rết ở tất cả các tỉnh thành, khác với trước kia là chỉ có một số địa phương có văn phòng của Ban) rõ ràng có mục đích là “chống”, tức là có vụ án tham nhũng xảy ra rồi thì sẽ tham gia “xử lý”. Tuy nhiên, cái gốc của tham nhũng ở Việt Nam hiện nay đã ăn quá sâu vào hệ thống, lan quá rộng ra mọi mặt của xã hội thì cách tốt nhất phải là “phòng”, tức là phải cải cách mạnh để triệt tiêu những thể chế tạo ra điều kiện cho tham nhũng như quyền lực, đất đai, đầu tư công, DNNN… Không giải quyết được những vấn đề gốc rễ này mà lại đẻ ra một tổ chức để chống thì không thể nào chống được vì có bịt lỗ này chắc chắn sẽ lại có nhiều lỗ khác xì ra.
 Về mặt hoạt động, cũng như Ủy ban kiểm tra TW của Đảng hiện nay, nó không công khai, minh bạch cho công chúng cách thức hoạt động mà chủ yếu là vận hành trong nội bộ, đa số có mục đích dĩ hòa vi quí, thậm chí là “nhân văn” để duy trì sự ổn định và đoàn kết của Đảng như lời dạy của TBT Trọng: “đấu tranh có lý có tình để tất cả cùng tiến lên chứ không cốt kỷ luật nhiều thì mới tốt. Tính nhân văn của NQ Trung ương 4 là thế”, “quan trọng nhất là bước đầu phải nhóm được cái lò lên, tạo thành hơi ấm thì khi đó củi khô, củi tươi đưa vào cũng phải cháy hết”; “Kỷ luật mà không tính kỹ, mai kia lại ân oán, thù oán, đối phó thành phe phái, làm rối nội bộ, có nên không” (Vietnamnet, 3/12/2012). Với cách chống tham nhũng mà lúc nào cũng sợ làm hại tới “sinh mệnh chính trị” của các quan chức như thế (còn mặc kệ sinh mệnh của dân) thì đừng mong nó có hiệu quả.
 Về mặt con người, có lẽ TBT Trọng và một số người thực lòng muốn chống tham nhũng đã mơ ước tới vai trò của các quan chức trong Ban Nội chính TW giống Bao Thanh Thiên, tuyệt đối trong sạch, “thiết diện vô tư”, hoàn toàn khách quan nên đã “trang bị” cho Ban Nội chính TW một ông Trưởng ban nổi đình nổi đám với những tuyên bố vang trời là Nguyễn Bá Thanh và qui định là Trưởng ban sẽ là Ủy viên Bộ Chính trị. 2 Phó ban là Ủy viên TW (trước đó không hề có)
. Nhưng trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, với một hệ thống chính trị có các quan hệ quyền lợi ràng buộc như mạng nhện thì mơ ước trên đây chỉ là điều viển vông không tưởng. Bản thân Nguyễn Bá Thanh được rất nhiều người kỳ vọng nhưng trước khi ra Hà Nội đã kịp đưa con trai là Nguyễn Bá Cảnh lên làm Bí thư Thành đoàn Đà Nẵng. Chưa kể, ông này khi còn ở Đà Nẵng đã dính không ít tai tiếng về tham nhũng. Ông Trưởng ban đã vậy thì lấy gì đảm bảo các ông phó hoặc cấp dưới không dính vào tham nhũng hoặc các quan hệ lợi ích nhằng nhịt. Với những cán bộ như vậy thì rõ ràng việc xử lý các vụ án tham nhũng sẽ mang nhiều động cơ chính trị với các sự thỏa hiệp và thương lượng để đảm bảo quyền lợi và vị trí của mình, đặc biệt là ở cấp địa phương.
 Như vậy, có thể thấy trước rằng việc lập ra Ban Nội chính TW và coi đó là biện pháp chủ yếu để chống tham nhũng trong giai đoạn tới chắc chắn sẽ thất bại thảm hại vì nó không được hỗ trợ bằng những cải cách thể chế cơ bản. Cách thức hoạt động thì không công khai, minh bạch. Cán bộ của nó, đặc biệt là cán bộ ở cấp địa phương cũng không đáng tin vì có quá nhiều mối liên hệ chính trị rối rắm và có chức vụ hành chính có thể thấp hơn nhiều so với cán bộ chủ chốt ở đó[1]…
 Việt Nam không dám học tập những kinh nghiệm tốt nhất (“best practice”) về chống tham nhũng đã rất nhiều trên thế giới, tức là phải tạo ra môi trường để con người không thể (xử phạt nghiêm minh, không chạy án được), không dám tham nhũng (công khai minh bạch tài sản của quan chức) mà Việt Nam lại muốn tạo ra con người không muốn tham nhũng (Tất nhiên các nước khác cũng giúp quan chức “không muốn” tham nhũng bằng việc trả lương cao cho công chức nhưng với nguồn lực có hạn thì Việt Nam không thể làm theo). 
Việt Nam tạo ra sự “không muốn” tham nhũng chủ yếu bằng động cơ tinh thần, đạo đức. Chẳng hạn, đòi hỏi cán bộ phải có cái “tâm” trong khi chả ai định nghĩa được “cái tâm” là gì (Nếu anh có “tâm”, sao anh không tự nguyện công khai tài sản cho dân biết đi, cây ngay không sợ chết đứng mà). Biện pháp chống tham nhũng, tiêu cực chủ yếu hiện nay vẫn là phê và tự phê, cho cán bộ học tập tư tưởng đạo đức HCM thì đúng là quá ảo tưởng. Tác giả tin chắc rằng 100% người dân Việt Nam chả ai tin rằng đi học tập tư tưởng đạo đức HCM sẽ giúp cán bộ bớt tham nhũng cả. Vậy mà người ta vẫn rầm rộ thực hiện những việc vô bổ này, vừa tốn thời gian, tiền bạc, vừa làm lệch sự chú ý khỏi những việc cần thiết đáng lẽ phải làm.
 Khi kinh tế suy thoái, cái bánh lợi ích bé đi thì việc tranh giành những phần bánh còn lại sẽ trở nên quyết liệt hơn. Trong bối cảnh chính trị nhiều bè phái hiện nay, nhiều khả năng là với cách thức tổ chức và hoạt động như thế này, Ban Nội chính TW sẽ trở thành một công cụ để đấu đá chính trị hơn là chống tham nhũng thực sự (Hãy nhớ ông trưởng ban Nguyễn Bá Thanh đã hạ nhục ông cựu tướng cảnh sát Nguyễn Văn Thanh tới mức dù đã nằm liệt trên giường bệnh vẫn bị đẩy cả giường ra tòa vì ông này và những người khác đã dám tố cáo Bá Thanh tham nhũng).
 2. Về Ban Kinh tế TW và nền kinh tế hiện nay
 20130522172820-vuongdhue 
Do thành tích điều hành kinh tế kém cỏi của chính phủ do thủ tướng Dũng đứng đầu, Đảng đã quyết định tái lập Ban Kinh tế TW để mong xoay chuyển nền kinh tế. Các nhiệm vụ chính của Ban Kinh tế TW gồm có:
 - Thứ nhất, chủ trì hoặc tham gia nghiên cứu, đề xuất xây dựng đường lối, chủ trương, nghị quyết đại hội, các nghị quyết, chỉ thị, quyết định về lĩnh vực kinh tế-xã hội của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; các cơ chế, chính sách lớn về kinh tế-xã hội, phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất, về các vấn đề xã hội …
 - Thứ hai, thẩm định các đề án về kinh tế – xã hội trước khi trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
 - Thứ ba, … Ban Kinh tế Trung ương sẽ giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư nắm tình hình, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết, chủ trương của Đảng về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, sắp xếp, đổi mới, tái cấu trúc các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước, hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính… (Thuvienphapluat.vn)

 Như vậy, Ban Kinh tế TW có 2 nhóm nhiệm vụ chính là: (i) Nghiên cứu, đề xuất các chính sách và (ii) Giúp Bộ Chính trị và Ban Bí thư trong việc kiểm tra và giám sát.
 Với nhóm nhiệm vụ thứ nhất, từ khi ông Vương Đình Huệ lên làm Trưởng ban Kinh tế TW thì ông đã có nỗ lực tiếp xúc với một loạt các trường đại học ở Việt Nam như Đại học Thái Nguyên, Đại học Quốc gia Hà nội… (Tạp chí Tài chính, 29/3/2013) hay Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam (Infonet, 17/5/2013) để ký kết các thỏa thuận hợp tác nghiên cứu.
 Vấn đề đặt ra ở đây là nếu nhiệm vụ chủ yếu chỉ là nghiên cứu, đề xuất chính sách thì có cần tái lập một ban đã bị giải thể và trưởng ban lại phải là Ủy viên Bộ Chính trị hay không? Rõ ràng là không.
 Việc tư vấn chính sách thì bản thân các trường đại học hay viện nghiên cứu có thể làm tốt thông qua cơ chế đặt hàng từ các cơ quan cần nó mà không cần thêm một đầu mối là Ban Kinh tế TW. Nếu đồng ý rằng con đường đi lên của Việt Nam phải là nền kinh tế thị trường có mô hình tương tự với các nước phát triển thì có thể thấy Ban này rất khó có thể có những đóng góp gì đáng chú ý về mặt học thuật hay những chính sách mang tính đột phá để hiện đại hóa đất nước vì nó là một tổ chức của Đảng nên sẽ bị những rào cản lớn về mặt tư tưởng không thể vượt qua. 
Ai đã từng có dịp gặp các cán bộ của Ban Kinh tế TW trước đây thì đều biết năng lực của họ nói chung hạn chế, chủ yếu là cán bộ lý luận, nặng tính hành chính. Các cán bộ mới năng lực cũng khó có thể khá hơn vì đa số đều được đào tạo trong hệ thống các trường của Đảng mà bản thân các trường này cũng có tư duy tụt hậu so với thế giới hàng trăm năm nên cũng không thể đòi hỏi gì nhiều từ các sản phẩm do họ tạo ra.
 Cho dù có tuyển người thực sự giỏi, tốt nghiệp ở các nước phát triển về (theo qui định, Ban Kinh tế TW có thể mời các chuyên gia về kiêm nhiệm vị trí Phó ban (Pháp luật TP.HCM, 5/1/2013) thì họ cũng khó có thể phát huy khả năng trong một môi trường tù túng và bị kìm hãm về mặt tư tưởng và trí tuệ như vậy. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà ông Huệ, TS kinh tế tốt nghiệp ở Slovakia, từng là một giảng viên đại học lâu năm, nguyên hiệu phó Đại học Tài chính Kế toán lại ký kết nhiều thỏa thuận với các đại học và viện nghiên cứu vì chính ông có lẽ cũng hiểu khả năng tư duy và tầm mức trí tuệ của các cán bộ dưới quyền thế nào.
 Nên lưu ý là nhiều nhà khoa học thực sự có tài trong hệ thống các viện nghiên cứu nhà nước (“think tank” quốc doanh) trong lĩnh vực khoa học xã hội cũng vì những ràng buộc về mặt tư tưởng, vì sợ bị chụp mũ là phản động, lệch lạc, suy thoái mà nhiều khi không thể nói thật những điều họ suy nghĩ. 
Như vậy, thử hỏi một ban của Đảng, phải báo cáo cho Bộ Chính trị và Ban Bí thư là nơi có những người tư duy thuộc dạng thủ cựu nhất Việt Nam hiện nay thì làm sao họ dám nói đúng sự thật, đó là nói nếu họ đủ khả năng để nhận ra đâu là sự thật. Trí thức phải có môi trường nghiên cứu chuyên nghiệp, tự do học thuật để tranh luận thẳng thắn, các ý tưởng có thể cọ sát với nhau thì mới có thể tới gần chân lý chứ việc mời một vài chuyên gia, dù giỏi để làm việc theo kiểu “hiến kế” cho các nhà lãnh đạo bảo thủ như mô hình thế này rõ ràng không hiệu quả vì có nghe hay không phụ thuộc rất lớn vào ý muốn chủ quan của một vài lãnh đạo và liệu ý kiến tư vấn đó có tốt hay không cũng khó đánh giá vì chả mấy ai biết được do không được công khai tranh luận.
 Việc nên làm đầu tiên để có một hệ thống think tank tốt là cần bỏ ngay Điều 2 trong Quyết định 97/2009/QĐ-TTg do thủ tướng Dũng ký trong đó quy định khi phản biện thì “không được công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với danh nghĩa của tổ chức khoa học công nghệ”. Chính điều khoản có thể nói là ngu dốt này do một người thường tự hào là ngày nào cũng làm việc với các “trí thức”, người ngay khi mới lên nhậm chức đã ký quyết định giải thể Ban Nghiên cứu của thủ tướng, ban hành đã làm IDS, “think tank” tư nhân duy nhất của Việt Nam phải tự giải thể và cũng bịt hết đường ra đời cũng như góp ý của các “think tank” tư nhân khác.
 Như vậy, có lẽ ý định chính của những người muốn tái lập Ban Kinh tế TW là thông qua nó, dùng quyền lực của Đảng để can thiệp vào quá trình hoạch định chính sách và giám sát các tập đoàn là các bầu sữa của chính phủ do thủ tướng Dũng đứng đầu.
 Năng lực điều hành yếu kém của chính phủ hiện nay là điều không thể phủ nhận nhưng việc quay lại thời kỳ sử dụng quyền lực của Đảng để can thiệp vào các công việc thuộc chức năng của chính phủ, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế chỉ tổ làm mọi việc tệ hơn mà thôi. Chưa nói tới sự chồng chéo về mặt thể chế, lý do cơ bản nhất là tư duy của các lãnh đạo Đảng thường là bảo thủ, tụt hậu rất xa so với mặt bằng chung các lãnh đạo trên thế giới (chỉ nói ở ASEAN thôi đã thua lắm rồi) nên rất không thích hợp cho một quốc gia đang có nhu cầu cấp thiết phải hiện đại hóa và hội nhập nhanh hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Hai cái sai cộng lại không thể thành một cái đúng được, đặc biệt là trong trường hợp này. Nếu điều này xảy ra, nó có nguy cơ càng làm đất nước tụt hậu xa hơn nữa.
 Tóm lại, với việc tái lập hai ban này cũng như một số biện pháp khác đã được tiến hành, TBT Trọng và những người cùng suy nghĩ với ông cũng có thể có mong muốn thật lòng là muốn giảm bớt trình trạng tham nhũng đã quá nghiêm trọng và cải thiện được tình hình kinh tế bi đát hiện nay. Tuy nhiên, rõ ràng cuộc Thập tự chinh được TBT Trọng khởi xướng để chống lại tham nhũng và suy thoái kinh tế chắc chắn sẽ thất bại vì nó được dựa trên một nền tảng tư duy hết sức thủ cựu, đầy ảo tưởng, mang nặng niềm tin tôn giáo hơn là thực tiễn, chủ yếu để đánh lừa dư luận và tự đánh lừa chính mình. Dùng sự sai lầm về thể chế để đối phó với sự sai lầm của một người (thủ tướng Dũng) thì chỉ càng làm tình hình xấu thêm vì con người sai còn có thể thay nhanh chứ thể chế sai khi đã được thiết lập sẽ mang tính bền vững khó thay đổi hơn nhiều.
 3. Con đường gập ghềnh sắp tới của Việt Nam
images 
Như trong một bài viết của tác giả vào tháng 11/2012 về kinh tế Việt Nam (Viet-studies, 20/11/2012), tác giả có nhận định rằng triển vọng trung hạn của nền kinh tế Việt Nam là rất kém vì những lý do chính sau:
 - Hầu hết các cải cách quan trọng cần thiết để giải phóng các nguồn lực tăng trưởng trong trung và dài hạn liên tục bị trì hoãn mà không được thực thi. Nhưng bản thân nhiều cải cách này cũng sai ngay từ định hướng nên kết quả rất khó thành công hay nói đúng hơn là chắc chắn cũng sẽ thất bại.
 - Thể chế chính trị hay nói cụ thể hơn là bộ máy lãnh đạo cấp cao ở Việt Nam hiện nay đã mất khả năng “tự sửa sai” và lợi ích của số đông cán bộ lãnh đạo không còn gắn với với lợi ích của đại đa số nhân dân và đất nước nữa.
 - Nhiều chính sách kinh tế trong thời gian kể từ khi thủ tướng Dũng lên nắm quyền và đặc biệt trong giai đoạn từ năm 2008 trở lại đây có chất lượng rất kém (ví dụ điển hình gần đây là chính sách quản lý vàng của NHNN).
 Đến nay, sau 6 tháng, quan điểm của tác giả vẫn không hề thay đổi mà còn được khẳng định thêm bằng những sự kiện gần đây.
 Các chuyên gia đều thấy các bước cải cách cơ cấu quá chậm hay nói đúng hơn là không tiến được gì, chỉ thấy nói, nói và nói. Trong kỳ họp Quốc hội đang diễn ra, ông Đỗ Văn Đương, ĐBQH phải thốt lên: “Tôi thấy báo cáo của Chính phủ rất sơ sài, không phân tích được nguyên nhân, cũng không thấy rõ ràng giải pháp. Trong một trang mà tôi đếm có tới 23 lần các từ “đẩy mạnh, tăng cường, tích cực”. Ta hô hào rất nhiều mà giải pháp cụ thể không được bao nhiêu”. (Tuổi trẻ, 23/5/2013)
 Tại sao các cải cách cấu trúc rất cần thiết cho tương lai dài hạn của nền kinh tế mãi bị trì hoãn? Rất nhiều người đã chỉ ra nguồn gốc của nó là do các nhóm lợi ích muốn duy trì hiện trạng (status quo), chống lại sự thay đổi và tầng lớp lãnh đạo thiếu đi quyết tâm chính trị để cải cách hoặc còn tệ hơn là chính họ cũng nằm trong các nhóm lợi ích chống lại sự thay đổi.
 Bộ máy lãnh đạo chóp bu của đất nước (Ban chấp hành TW Đảng) hiện nay đã cho thấy họ không thực lòng, không đủ tầm trí tuệ và cũng không có khả năng thực hiện những cải cách mạnh mẽ và cần thiết để đưa đất nước trở lại đường ray tăng trưởng nhanh và bền vững. Đa số họ hiện nay toan tính về quyền lợi cá nhân và phe nhóm nhiều hơn là các vấn đề cấp bách và sát sườn của đất nước. Các cuộc hội nghị của Ban chấp hành TW gần đây diễn ra trong tình hình đất nước suy thoái trầm trọng cả về kinh tế, văn hóa, xã hội nhưng lại không tập trung vào việc tìm ra giải pháp cho những vấn đề đó mà lại chỉ tập trung nhiều nhất vào vấn đề bầu bán nhân sự, mà nằm đằng sau đó là đấu đá vì lợi ích phe nhóm.
 Không có chính sách đột phá nào được đưa ra. Sửa đổi Hiến pháp (phải được Ban chấp hành TW thông qua trước) được quảng cáo rầm rộ, tốn kém, nhưng cuối cùng chủ yếu chỉ là sửa câu chữ, nhiều vấn đề còn đi thụt lùi về mặt tư duy (như điều 70 trong Dự thảo Hiến pháp sửa đổi bắt quân đội phải thề trung thành với Đảng). Những người có trách nhiệm chính trong việc gây ra tình trạng suy thoái nặng nề hiện nay, cụ thể là thủ tướng Dũng, không hề bị trừng phạt mà lại càng được củng cố vị thế chính trị sau Hội nghị TW 7… Những biện pháp được đưa ra để đối phó với tham nhũng và suy thoái kinh tế lại mang tính bảo thủ, đi ngược với thời đại và cầm chắc là thất bại.
 Chỉ cần nhìn người đứng đầu, ông TBT Trọng, là cũng có thể đánh giá được phần nào về chất lượng trí tuệ và bản lĩnh của Ban chấp hành TW hiện nay. Ông cũng bức xúc về tình hình đất nước nhưng những biện pháp ông đưa ra chủ yếu là những công cụ của quá khứ dựa chủ yếu vào niềm tin giống tín ngưỡng tôn giáo với mục đích: “có tình đoàn kết, thương yêu đồng chí; vừa có lý, có tình, …theo phương châm “trị bệnh cứu người”, giúp nhau cùng tiến bộ” (QĐND, 15/10/2012) thì làm sao có thể đối đầu được với những “bầy sâu” tham nhũng đầy mưu mô nham hiểm (theo lời của ông chủ tịch nước) đang nhung nhúc trên khắp đất nước này?
 Về việc sửa đổi Hiến pháp, TBT Trọng nói: “Lần này chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, đã rõ, được thực tiễn kiểm nghiệm và có sự thống nhất cao”. (Pháp luật Tp.HCM, 3/5/2013). Theo cách tư duy này thì đừng mong đất nước có được một Hiến pháp hiện đại, dân chủ, phù hợp với thời đại. Đã gọi là chính trị mà cái gì cũng mong có sự “thống nhất cao” thì chỉ là ảo tưởng, đi ngược lại bản chất con người là luôn đa dạng trong ý kiến và sẽ không bao giờ dám quyết đoán đưa những giải pháp đột phá cho đất nước được. Rõ ràng TBT Trọng và các đồng sự trong Ban Chấp hành TW sẵn sàng hi sinh tương lai của đất nước để giữ được sự thống nhất, đồng thuận trong nội bộ đảng của mình.
 Tóm lại, như đã nói ở bài trước, tác giả cho rằng ngược với câu khẩu hiệu nổi tiếng của TBT Trường Chinh: “Đổi mới hay là chết” thì câu khẩu hiệu của TBT Trọng và TW hiện nay là: “Thà chết (dân) chứ (nhất định) không đổi mới”, “Thà mất nước chứ không đánh mất chế độ”.
 Sau khi đã mất niềm tin ở Ban chấp hành TW thì một số người kỳ vọng nhiều vào kỳ họp Quốc hội lần này với việc lần đầu tiên có việc bỏ phiếu tín nhiệm cho 49 người được Quốc hội bầu. Bản thân có đại biểu Quốc hội cho rằng việc chạy phiếu rất khó vì có 500 đại biểu từ nhiều vùng khác nhau[2]. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ có 500 đại biểu nhưng đại đa số đều có chung một nguồn gốc: Đảng Cộng sản (hơn 91%)![3]. Ở đây, tác giả chỉ xét riêng về trường hợp liệu Quốc hội có bỏ phiếu tín nhiệm ở mức thấp cho thủ tướng Dũng hay không?
 Tác giả có khảo sát thử danh sách đại biểu Quốc hội của 15 tỉnh và 2 thành phố Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh thì thấy số đại biểu giữ các chức vụ trung, cao cấp trong Đảng như: phó bí thư tỉnh ủy, thường vụ tỉnh ủy, tỉnh ủy viên, ủy viên TW, ủy viên BCT, phó bí thư đảng ủy khối… hoặc tệ nhất thì cũng nằm trong huyện ủy… thường rất cao, địa phương nào cũng phải ở mức 2/3 trở lên. Cụ thể, trong 111 ĐBQH của 15 tỉnh thì số này chiếm khoảng 71 người, trong đó có 18 ủy viên TW, 4 ủy viên Bộ Chính trị. Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh mỗi địa phương có 30 ĐBQH, tổng cộng là 60 người thì trong đó số đại biểu là đảng viên cỡ trung, cao cấp trở lên là 40, trong đó có 3 ủy viên TW, 3 ủy viên Bộ Chính trị. Như vậy, tỷ lệ đảng viên trung, cao cấp trong Quốc hội chiếm khoảng 65% trở lên.
 Chắc chắn, suy nghĩ và cách tư duy của số đảng viên trung, cao cấp này không khác nhiều với Ban chấp hành TW và họ cũng sẽ bị ảnh hưởng nhiều bởi quyết định Ban chấp hành TW thông qua các cuộc họp Đảng, các cuộc phổ biến nghị quyết, các mối quan hệ cá nhân, các cuộc vận động hành lang… Trong lịch sử Quốc hội những năm gần đây cũng chưa thấy bao giờ Quốc hội bỏ phiếu trái ý với quyết định từ Ban chấp hành TW cả dù trước đó có thể thảo luận rất sôi nổi với nhiều ý kiến trái chiều. Cứ nhìn ví dụ rõ ràng về dự án bauxite là thấy. 
(Trường hợp duy nhất mà Quốc hội có vẻ có ý kiến độc lập và bỏ phiếu khác với dự kiến là việc không thông qua dự án xây dựng Đường sắt cao tốc nhưng nên nhớ là TW Đảng chưa cho ý kiến về dự án này).
 Như vậy, khi Hội nghị TW6 và 7 đã không thể kỷ luật được thủ tướng Dũng và phe nhóm, thậm chí vị thế của ông này hiện nay còn được nâng cao hơn[4] thì chắc chắn không thể mong các đại biểu Quốc hội lại bỏ phiếu chống thủ tướng được. Chưa tính tới các cuộc vận động hành lang cộng với tâm lý cả nể, xuê xoa, đại khái của người Việt Nam, tác giả tin rằng, tỷ lệ tín nhiệm của thủ tướng sẽ phải từ 70-80% trở lên.
 Nếu có thành viên chính phủ nào bị bỏ phiếu tín nhiệm ở mức thấp thì có lẽ sẽ là thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình. Như trong một bài trước của tác giả về thống đốc Bình (Viet-studies, 23/2/2013) , tác giả cho rằng việc thống đốc Bình đưa NHNN vào cuộc chiến với vàng như hiện nay là một toan tính sai lầm, thiếu suy nghĩ chín chắn, mang lại rất nhiều tác hại cho người dân, cho nền kinh tế và có thể làm tiêu tan sự nghiệp chính trị của thống đốc Bình. NHNN đã đưa ra nhiều lập luận và dẫn chứng để chứng tỏ cách điều hành thị trường vàng hiện nay là hợp lý (Vneconomy, 8/5/2013) . 
Tuy nhiên, chỉ xin nói thêm là bất cứ chính sách vĩ mô nào cũng phải có sự đánh đổi và tất nhiên chính sách về vàng hiện nay của NHNN cũng sẽ phải có một số kết quả nào đó, vấn đề là liệu cái giá phải trả cho các “kết quả” đó có quá lớn hay không. 
Xin nhắc lại là bản thân các lập luận của Marx và những người theo ông về ưu thế của nền kinh tế kế hoạch tập trung so với kinh tế thị trường như: không sử dụng lãng phí các nguồn lực vì không tạo ra sản phẩm thừa, hướng nguồn lực khan hiếm vào những ngành sản xuất có ích cho quá trình phát triển, triệt tiêu sự bất công vì thặng dư của quá trình sản xuất sẽ được đưa vào ngân sách rồi tái phân phối cho người lao động (giống lập luận của NHNN về việc nguồn thu từ giá vàng cao sẽ được đưa vào ngân sách rồi được đầu tư trở lại cho người dân)… đều hết sức hấp dẫn, xác đáng và khó bị bác bỏ về mặt lập luận. Tuy nhiên, cuối cùng rồi thì mô hình đó cũng thất bại vì nó dựa trên quá nhiều giả định không tưởng về bản chất con người và đi ngược lại các qui luật cơ bản của kinh tế thị trường.
 Tác giả tin chắc chính sách quản lý vàng của NHNN hiện nay cũng sẽ không đi ra ngoài sự thất bại này vì nó dựa trên các công cụ hành chính đi ngược hoàn toàn với thị trường, với kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới… Các quốc gia khác cũng đạt được những “kết quả” mà NHNN khoe, thậm chí còn tốt hơn nhiều nhưng họ không bắt người dân và nền kinh tế phải trả một cái giá quá cao như NHNN đang làm ở Việt Nam.
 Chưa kể, chính sách quản lý vàng hiện nay đã đưa NHNN vào cuộc tranh cãi bất tận với đa số các chuyên gia phản đối chính sách này. Người dân cũng bất bình vì khoảng cách giữa giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế. Dù thống đốc Bình và NHNN có biện minh thế nào đi chăng nữa về các chỉ số vĩ mô thì logic của người dân rất đơn giản: không ai muốn mua hàng giá đắt cả. Nếu giá vàng trong nước cao hơn một cách quá phi lý với giá vàng thế giới thì họ đều nghĩ họ đang bị bóc lột bởi những chính sách của NHNN. 
Họ sẽ không còn tin những gì mà NHNN hứa hẹn vì chính trước đó thống đốc Bình đã nói giá vàng trong nước cao hơn thế giới 400.000 đồng/lượng là đã có đầu cơ nhưng hiện nay có lúc giá chênh lệch tới gần 7 triệu đồng/lượng! Tất cả những ai có hiểu biết về hoạt động của một ngân hàng trung ương đều biết rằng một trong những yếu tố then chốt làm nên sự hoạt động thành công của nó phải là sự khả tín hay nói cách khác là mức độ tin cậy của người dân vào NHTW. Những tranh cãi qua lại liên miên với các chuyên gia và sự bất bình của người dân đã làm xói mòn nghiêm trọng uy tín của NHNN và triệt tiêu niềm tin của người dân với tổ chức này. Chính vì thế tác giả hoàn toàn đồng ý với TS Phạm Chí Dũng rằng thống đốc Bình phải ra đi (BBC, 14/5/2013) thì NHNN Việt Nam mới phần nào có thể lấy lại niềm tin của người dân.
 Tóm lại, dù các đại biểu Quốc hội hiện nay trong thảo luận có nhiều phát biểu rất hăng hái và bức xúc về hiện tình của nền kinh tế đến đâu nhưng với chất lượng thể chế, chất lượng chính sách, chất lượng quan chức như hiện nay thì tác giả vẫn chưa thấy đâu là lối thoát của nền kinh tế và tương lai của đất nước còn rất mờ mịt.
……………………………………….
 [1] Về nhân sự lãnh đạo, Ban Bí thư yêu cầu bố trí cán bộ cỡ ủy viên thường vụ tỉnh/thành ủy làm trưởng ban nội chính. Nơi chưa có điều kiện thì giao vị trí quan trọng này cho cấp ủy viên thuộc diện được quy hoạch vào thường vụ tỉnh/thành ủy khóa tới. (Vietnamnet, 5/5/2013).
 [2] Ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa – Giáo dục và Thanh thiếu niên nhi đồng của Quốc hội, Nguyễn Thanh Hải nhận định: “Việc cùng lúc tiến hành lấy phiếu đánh giá tín nhiệm với 49 chức danh quan trọng nhất quả thật sẽ ít nhiều gây áp lực đối với các đại biểu Quốc hội”. Tuy nhiên, bà Hải tin rằng Quốc hội sẽ thực hiện công việc này một cách thực chất vì “với một tập thể gần 500 người, đại diện cho mọi vùng miền, mọi thành phần cử tri trong xã hội thì việc “chạy phiếu” là rất khó. (Kienthuc.net.vn, 21/5/2013)
 [3] Quốc hội khóa 13 có 42 người ngoài Đảng trúng cử, chiếm tỷ lệ 8,40% (Dân trí, 3/6/2011)
 [4] Thủ tướng Dũng là một nhà chính trị cực kỳ khôn ngoan và lão luyện, khác hẳn sự gà mờ và non nớt của TBT Trọng. Hãy nhớ cách thủ tướng xây dựng phe cánh bằng cách thâu tóm quyền lực kinh tế bằng việc giành quyền bổ nhiệm ban lãnh đạo các tập đoàn kinh tế, bổ nhiệm cho hàng trăm tướng công an… Thủ tướng Dũng cũng rất giỏi trong việc xây dựng hình ảnh trước công chúng và lấy lòng giới lãnh đạo quân đội khi thời gian gần đây liên tục đi thăm các quân chủng phòng không, không quân hay sang tận Nga để thị sát các tàu ngầm mà Việt Nam sắp mua. Hiện nay nhiều người có nói rằng nếu có thay thủ tướng Dũng cũng chả có ai xứng đáng để đưa lên. 
Theo tác giả đây cũng chính là cách để thủ tướng Dũng duy trì quyền lực của mình. Tức là khác với những người tiền nhiệm như ông Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải đã có ý thức bồi dưỡng cho những cán bộ kế cận thay thế mình thì thủ tướng Dũng đã cố tình sử dụng những người có năng lực kém, hay phát ngôn những câu trời ơi làm người dân thất vọng (như PTT Nhân hay bộ trưởng Thăng là ví dụ điển hình) để càng làm nổi bật mình và không tạo ra đối thủ chính trị trong tương lai.
QUÊ CHOA
About these ads

No comments:

Post a Comment