Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Monday, 21 November 2016

VŨ ĐỨC KHANH =VIỆT NAM VÀ CHIÊM THÀNH= XUÂN VŨ

LS. VŨ ĐỨC KHANH * NGOẠI TRƯỞNG KERRY


Thông điệp 'trở lại Việt Nam' của Ngoại trưởng Kerry?

Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry dự Thánh Lễ tại Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn, ngày 14/12/2013.
    Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry dự Thánh Lễ tại Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn, ngày 14/12/2013.

  • Tin liên hệ
    Edward Snowden là một người can đảm
    Nợ công 2013: Cuộc tranh đấu giữa hai số liệu
    Nhập siêu từ TQ: Cấp độ báo động ngày càng lớn và những cái tai ngày càng điếc
    Hoài niệm và thương tiếc cố ca nhạc sĩ Việt Dũng
    Thông điệp 'yêu thương, hòa giải, hướng đến tương lai'
    Tuổi hưu và phúc lợi ở Mỹ
    Mỹ đã có ảnh hưởng nào ở Việt Nam?

    Vũ Đức Khanh


    06.01.2014

    Hôm 14/12/2013, khi Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry dự Thánh Lễ tại Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn, nơi từng là thủ đô của miền Nam Việt Nam, một đồng minh của Mỹ ở Đông Nam Á, thông điệp được chuyển đi rất rõ ràng, đó là Washington sẽ tiếp tục thúc đẩy cải thiện nhân quyền tại Việt Nam, trong đó có cả tự do tôn giáo.

    Nhưng chuyến đi thăm của ông Kerry không đơn thuần là một chiến dịch vận động cho tự do, dân chủ và cải thiện nhân quyền ở Việt Nam.

    Hoa Kỳ cũng đang tìm cách tăng cường quan hệ song phương và tái khẳng định cam kết chiến lược của Washington tại Việt Nam và trong khu vực để giúp đối trọng với sự quyết đoán ngày càng gia tăng của Trung Quốc về tranh chấp lãnh thổ.

    Tại Hà Nội, hôm 16/12, Ngoại trưởng Kerry, một cựu sỹ quan hải quân Hoa Kỳ từng tham chiến ở Việt Nam, đã thông báo Mỹ sẽ cung cấp một khoản viện trợ bán quân sự đầu tiên 18 triệu USD riêng cho Việt Nam, khởi đầu với việc huấn luyện và cung cấp năm tàu tuần tra cao tốc cho lực lượng cảnh sát biển Việt Nam như một phần của chương trình phát triển năng lực hàng hải tại Đông Nam Á.

    Đồng thời, nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ cũng đã gặp gỡ cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam để vận động quan hệ kinh tế “đối tác xuyên Thái Bình Dương” (TPP), một Hiệp định thương mại tự do, mà nếu thành hình, sẽ là cơ hội thương mại tuyệt vời không chỉ đối với Mỹ trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương mà còn cho các nhà xuất khẩu Việt Nam.

    Theo dự kiến, Hiệp định TPP sẽ sớm kết thúc trong vòng đàm phán tháng 1/2014 để mở đường cho chuyến công du châu Á - Thái Bình Dương của Tổng Thống Obama vào tháng 4/2014.

    Cam kết hướng đến tương lai

    Ngay ngày thứ hai sau khi đến Việt Nam, hôm 15/12, ông Kerry đã đến Cà Mau, một địa danh của chiến trường xưa nhưng không phải để ôn lại kỷ niệm mà để cùng hướng đến tương lai.

    Chuyến thăm ngắn ngủi này ở vùng duyên hải cực Nam của Việt Nam tự nó đã nói lên tầm quan trọng địa - chính trị của Việt Nam đối với nền an ninh, hòa bình và thịnh vượng chung ở Biển Đông.

    Nó là biểu tượng của sự cam kết “trở lại Việt Nam” của Hoa Kỳ và cho cả tương lai của khu vực.

    Hôm 5/12, tàu tuần dương USS Cowpens của Hoa Kỳ đang quan sát hàng không mẫu hạm Liêu Ninh đầu tiên của Trung Quốc thì bị một tàu chiến Trung Quốc ra lệnh phải dừng lại.

    Các giới chức Hoa Kỳ tuyên bố rằng “chiến hạm USS Cowpens đã phải tránh để khỏi đụng nhau khi chiến hạm Trung Quốc cắt ngang trước mũi chiến hạm Mỹ”.

    Truyền thông quốc tế cho biết, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel đã gọi “các hành động của Trung Quốc trong sự cố trên là vô trách nhiệm…” Ông Hagel cũng cảnh báo rằng “những sự cố như thế có thể khiến cho căng thẳng trong khu vực trở nên trầm trọng thêm.”

    Bất luận là ai đã có lỗi, nhưng vụ việc này, một lần nữa đã buộc Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á phải thực sự “quan ngại” về sự ngày càng quyết đoán của Trung Quốc trên Biển Đông.

    Mặc dù Mỹ luôn cố duy trì chính sách trung lập đối với các vụ tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải trong khu vực, nhưng dù sao Washington cũng đã gây không ít khó chịu cho Bắc Kinh trong những năm gần đây bằng cách lien tục khẳng định “quyền tự do hàng hải” ở Biển Đông như một phần của “lợi ích quốc gia” trọng yếu của Hoa Kỳ.

    Căng thẳng Mỹ-Trung nhất định đã, đang và sẽ gây “lo ngại” cho các quốc gia trong khu vực.

    Tại Philippines, hôm 17/12, Ngoại trưởng Kerry cũng hứa là sẽ cung cấp thêm một ngân khoản viện trợ quân sự 40 triệu USD để nâng cấp hải quân Philippines.

    Những động thái này từ Việt Nam đến Philippines được xem như là những nỗ lực của chính sách “chuyển trục” của Hoa Kỳ với khu vực, và lập trường này dường như ngày càng rõ nét hơn.

    Đối với Hà Nội, Hoa Kỳ đã thành công ngoạn mục khi chuyển đổi từ cựu thù thành một đối tác chiến lược mới trước sự tức giận của Bắc Kinh, một đồng minh trụ cột của Hà Nội trong chiến tranh Việt Nam ở thế kỷ trước.

    Cái gai nhân quyền

    Bang giao Mỹ-Việt đã được cải thiện đáng kể và đều đặn kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ với nhau; quá khứ cũng đã lùi dần và tương lai đang được nỗ lực rộng mở nhưng giao hảo hai nước vẫn còn sa lầy trong hồ sơ nhân quyền.

    Từ lâu, nhân quyền đã là cái gai trong quan hệ của hai nước.

    Hà Nội tiếp tục làm ngơ trước các cáo buộc về thành tích nhân quyền tồi tệ của mình, và thường nêu lập luận “khác biệt về văn hóa” để biện minh cho những bất đồng. Trong khi Washington tiếp tục phê phán thì Hà Nội vẫn đàn áp thẳng thừng các nhà hoạt động dân chủ và nhân quyền trong nước, những người đã dám lên tiếng chỉ trích chính quyền.

    Từ quá trình đàm phán về Hiệp định thương mại Mỹ-Việt năm 2001 đến quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới năm 2007 cho đến các cuộc đàm phán đang diễn ra với Hiệp định TPP, Việt Nam hầu như chưa có một nỗ lực nào đáng kể để cải thiện thành tích nhân quyền của mình. Một điều kỳ lạ đến mức không thể chấp nhận được là Hoa Kỳ chưa hề có một biện pháp nào buộc chính phủ Việt Nam phải có những chuyển đổi tích cực theo hướng tự do, dân chủ hóa, ngoài những lời chỉ trích suông, dù đôi khi được dư luận cho là tương đối khá mạnh mẽ.

    Điều đó có phải vì người dân Việt Nam chưa gây đủ áp lực hay đơn giản chỉ vì Hoa Kỳ đang có một hậu ý hay nghị trình khác với Chính phủ Việt Nam?

    Người ta thường nói rằng người Mỹ rất thực dụng; có lợi họ mới làm. Nhưng cho đến nay, chúng ta có thể thấy rằng Hoa Kỳ tương đối rất kiên nhẫn trong cách tiếp cận với Hà Nội.

    Ngoại giao của Washington với Việt Nam đang mang đặc trưng của “củ cà rốt hơn là cây gậy!”

    Và lần này ông Kerry đã không đến Việt Nam với hai bàn tay không, điển hình là ông đã đề xuất viện trợ quân sự được cho là rất cần thiết cho Việt Nam. Chính ông Kerry cũng trấn an bằng cách cam kết bảo vệ “quyền tự do hàng hải trên Biển Đông” mặc dù ông không quên nhắc khéo rằng “nhân quyền là một trong những trọng tâm của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ” và dĩ nhiên Việt Nam sẽ không là trường hợp ngoại lệ!

    Thực ra Hoa Kỳ cần gì ở các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam đến độ phải nhẹ nhàng đến thế?

    Và giả sử nếu Hà Nội tiếp tục thách thức không cải thiện nhân quyền như Washington từng nhắc nhở, liệu chính quyền Obama có sẵn sàng tiếp tục nâng cấp quan hệ giữa hai quốc gia?

    Trong ván cờ chính trị quốc tế và khu vực hôm nay, Washington cần hiểu rằng dân gian Việt Nam có câu: “Quan nhất thời - Dân vạn đại”. Nói rõ ra rằng không một chính quyền nào có thể tồn tại mãi mãi, chỉ có Dân mới tồn tại muôn đời.

    Nhân quyền là gì nếu không phải là những quyền thiêng liêng cơ bản nhất của người dân ví dụ như quyền tự do ngôn luận, quyền lập hội, lập đảng tham chính?

    Một chế độ không tôn trọng nhân quyền liệu có thể tồn tại lâu dài được chăng?

    Washington cũng nên hiểu rằng quyền lực luôn là cứu cánh, và bạo lực luôn là ưu tiên hàng đầu của các chế độ toàn trị, độc tài, quân phiệt, phát-xít và Cộng sản!

    Cộng sản Hà Nội cũng sẽ không là ngoại lệ!

    Lịch sử cũng từng chứng minh rằng “lòng dân là ý Trời” cho nên để “chiến lược chuyển trục” thành công, Washington nên chọn “đồng minh” là nhân dân Việt Nam hơn là “đồng hành” với lãnh đạo Cộng sản Hà Nội.

    Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả. Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
    Vũ Đức Khanh

    Vũ Đức Khanh là luật sư và giáo sư luật bán thời gian tại Đại học Ottawa, chuyên nghiên cứu về chính trị Việt Nam, quan hệ quốc tế và luật pháp quốc tế.

    http://www.voatiengviet.com/content/thong-diep-tro-lai-vietnam-cua-ngoai-truong-kerry/1824696.html

NGUYỄN THIÊN THỤ * QUAN HỆ VIỆT NAM VÀ CHIÊM THÀNH


 

QUAN HỆ VIỆT NAM  VÀ CHIÊM THÀNH
I. VIỆT NAM THỜI HÙNG VƯƠNG
Ở đây, chúng tôi xin trình bày sơ lược về đời Hùng vương, sau đó sẽ đề cập đến mối quan hệ Chiêm Thành Việt Nam kể từ thời này.
Về đời Hùng vương, nước ta là một quốc gia văn minh giàu mạnh nhất vùng Nam Á. Thực ra, chúng ta it có tài liệu lịch sử  đời  Hùng Vương. Phải chờ hơn 50 năm sau ,  khi quân Trung Quốc xâm chiếm Việt Nam, chúng ta mới có tài liệu của nhà Hán viết về Việt Nam thời này. Và những sự kiện này cũng có thể cho biết thực tại lịch sử vào đời Hùng Vương.
Bàn về dân số Việt Nam,  trong Dư  Địa Chí, Nguyễn Trãi đã dùng tài liệu Hán Thư, và sau này Lê Quý Đôn đọc Hán Thư đã nhận định:
Vào thời nhà Hán làm vua Trung Quốc, nước ta có 143.743 hộ ( nóc nhà), và 981. 828 nhân khẩu. .  .  Nay thông cả hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây- vào thời Hán  - chỉ được 71.805 hộ, 389.673 khẩu. Như vậy, vào thời Hán, hộ nước ta chiếm hơn phần nửa tổng số hộ của Nam Việt trong đó có Lưỡng Quảng, và khẩu của nước ta chiếm gần bằng hai phần ba tổng số khẩu của Nam Việt. (Phủ Biên Tạp Lục I, 28).
Không những dân số đông, mà nước ta vào thời Hùng Vương là một trung tâm văn hóa rất lớn.
Lê quý Đôn viết:
Hơn nữa lúc Tôn Quyền chưa chia Giao Quảng hai châu ( Giao Châu và Quảng Châu), và vào thời đại Lưỡng Hán (Tiền Hán và Hậu Hán), chức quan Thứ sử Giao Chỉ kiêm quản cả Lưỡng Quảng, trị sở tại huyện Long Biên. Như thế há chẳng phải người ta đã lấy đô thành nước ta hiện nay làm nơi trung chính tâm điểm, để bốn phương tấu tập tụ hội hay sao? (Phủ Biên Tạp Lục I,  29).
Chúng ta có người đông và nhiều người giỏi. Trong khoảng Hán, Đường, chúng ta có nhiều nho sĩ học giỏi và sang làm quan tại Trung quốc như như đời Hán Minh Đế (58-75) có Trương Trọng làm thai thú quận Kim Thành;  đời Hán Linh Đế, Lý Tiến làm thư ùsử Giao Chỉ năm  187; Lý Cầm; đồng thời với Lý Tiến làm Tư lệ hiệu úy; và Khương Công Phụ đậu tiến sĩ làm quan đến chức  Bình Chương. Diều này cho thấy tinh thần Hán học đã thịnh hành từ mấy trăm năm trước, đến đây đã khai hoa kết quả.
Ngày rằm tháng hai niên hiệu Hội Phong thứ năm (1096), sư Thông Biện  đã trình bày cùng Thái hậu (mẹÏ Lý Nhân Tông) vài nét về lịch sử Phật giáo Việt Nam. Sư đã đem việc sư  Đàm Thiên (Trung quốc) bàn việc vua Cao Tổ nhà Tùy (589-604) đã xây hơn 150 ngôi chùa ở Trung Quốc, lại muốn xây chùa ở Giao Châu. Sư Đàm Thiên nói:
Xứ Giao Châu có đường thông sang Thiên Trúc. Khi mà Phật pháp truyền sang Trung Quốc, chưa đến Giang Đông, thì người ta đã lập trên hai mươi chế đa (caitya: Linh Tháp) tại Luy Lâu, và người ta kể có hơn năm trăm tăng sĩ dịch được mười lăm bộ kinh. Do đó, người ta nói rằng giáo pháp được truyền đến Giao Châu trước Giang Đông vậy' ( Trầàn Văn Giáp, 46).
Chúng ta có thể nói rằng đời Hán (202 tr. Tây Lịch- 220 TL), Giao Chỉ là một trong những trung tâm Phật giáo sớm nhất Trung Hoa và Việt Nam. Lúc bấy giờ Trung Quốc có hai trung tâm Phật giáo Bành Thành và Lạc Dương ở phía bắc, còn phương Nam chỉ  một trung tâm Phật giáo Giao Châu .
Nhiều học giả cho rằng buổi đầu người Việt Nam sang Trung quốc du học và các nho sĩ Trung quốc sang Giao Châu truyền bá Phật pháp. Các học giả này sai lầm. Nhìn vào tiểu sử Mâu  Bác và Khương Tăng Hội, ta thấy hai vị này trưởng thành tại Việt Nam và tốt nghiệp Phật học, tinh thông Hán, Phạn tại Việt Nam. Cộng vào đó, những Trương Trọng, Lý Tiến, Lý Cầm, Khương Công Phụ, ta thấy nước ta có nhiều nhân tài do ta đào tạo. Trăm năm trồng người, nguồn gốc văn hóa và giáo dục đã lớn mạnh từ mấy trăm  năm  trước nghĩa là từ  các đời Hùng Vương.
Về nông nghiệp, nước ta cũng là một trung tâm sản xuất lúa gạo trong vùng. Theo sách Giao Châu hay Nam Việt Chí của Tăng Cổn chép năm 877  đã khen ngợi việc sản xuất lúa gạo ở ta rất có hệ thống  :
Đất Giao Chỉ xưa rất phì nhiêu, xưa có quân trưởng là Lạc hùng, kẻ giúp việc là Hùng hầu, ruộng gọi là Hùng điền, dân khai khẩn lấy lúa ăn gọi là Hùng dân (Nguyễn V ăn Siêu, P ĐDC,tr.55)
Nước ta trồng lúa gạo đã lâu đời, sáu trăm năm trước đời Hán. Theo Lê Quý Đôn, Thiên Trung Ký của Thủy Kinh Chú chép:
Đất Tượng Lâm biết cày tính đến nay đã hơn sáu trăm năm, đốt cây trồng lúa cũng như lề lối của Trung Hoa  ( Vân Đài Loại Ngữ I, tr.486).
Theo Lê Quý Đôn, sách Quảng Đông Tân Ngữ chép:
          Lĩnh Nam có nhiều thóc tẻ, mà ở Giao Chỉ nhiều nhất. Còn thóc nếp thì ở An Nam có nếp trắng, nếp vàng, có đến hơn hai mươi giống, họ dùng gạo tẻ nấu cơm và gạo nếp nấu rượu ( Vân Đài Loại Ngữ I ,486.)
Năm 183 tr. Tây lịch, bà Lữ hậu nắm quyền, cấm xuất cảng kim loại, và đồ điền khí sang Việt Nam, điều này chứng tỏ nông nghiệp ta phát triển, dân ta giàu sang, yêu thích vàng bạc cho nên có nhu cầu nhập cảng hàng Trung quốc.
Vì nước ta trồng lúa nhiều cho nên nhiều trâu bò và nấu nhiều rượu. Khi Lộ Bác Đức đem quân giết Lữ Gia, ba vị Lạc Hầu đã phải mang ba trăm trâu, sáu ngàn vò rượu và sổ hộ của ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam đầu hàng (Ngô  Sï Liên, tr.87). Do đây, ta thấy thuyết nói rằng Nhâm Diên dạy dân ta cày bừa khai khẩn ruộng đất là điều sai lầm.
Theo học giả Wilhelm G. Solheim II., nước ta là một nước nông nghiệp sớm nhất thế giới, có 15 ngàn năm trước Tây  lịch. Về công nghệ và mỹ thuật, dân ta rất thiện nghệ trong việc đúc đồng , Giao Châu Ký của Tăng Cổn chép:
Người Việt đúc đồng làm thuyền.  Khi nước thủy triều xuống thì trông thấy (Nguyễn Văn Siêêu, tr.18   ).
Sách BácVật Chí nói:
Giống sơn man ở Giao Châu, Quảng Châu gọi là Lý Từ, cung của họ dài hơn một thước, đúc đồng làm mũi tên, đầu tên bôi thuốc độc, tên trúng vào người nào, người ấy tất chết. Ngày nay sơn man vẫn dùng cung ấy, hổ báo cũng sợ trốn (Lê Quý Đôn, Vân Đoài Loại Ngữ I, tr. 438)
Đỉnh cao của việc đúc đồng và nghệ thuật chạm trỗ tinh vi là trống đồng. Theo học giả W.G.  Solheim II, trống đồng là sản phẩm đặc sắc của Việt Nam, có tuổi là 3.5000 năm trước Tây lịch.
Trên đây, chúng ta đã nghiên cứu sơ về văn hóa thời Hùng Vương. Tiếp theo, chúng tôi trình bày hành chánh đời Hùng vương và mối liên hệ ngoại giao và đất đai giữa Việt Nam và Chiêm Thành.
Khảo về quốc hiệu nước ta, Trần Trọng Kim viết:
Nước Việt Nam thời Hồng Bàng (2897- 258 tr. Tây lịch), gọi là Văn Lang, đời Thục An Dương Vương thì gọi là Âu Lạc. Đến đời nhà Tần (246-206 tr.tây lịch?) lược định về phía nam thì đặt là Tượng Quận.  Năm 207, Triệu Đà đánh được An Dương Vương rồi sáp nhập nước Âu Lạc thành một nước gọi là Nam Việt .   . .. Sau nhà Hán (202tr. Tây lịch - 220 sau Tây lịch) dứt nhà Triệu, chia Tượng Quận ra làm ba quận Giao Chỉ,Cửu Chân và Nhật Nam ( Việt Nam Sử Lược, 15-37)..
 Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi là quyển sách đầu tiên viết về lịch sử và địa lý nước Việt Nam. Nguyễn Trãi viết:
Vua trước tiên là Kinh Dương Vương, từ khi bé đã có thánh đức được phong tại VIệt Nam, tức là tổ đất Bách Việt. Tương truyền nước Việt ta, vua đầu tiên là Kinh Dương là dòng dõi Viêm Đế xứ Bắc. Cha là Đế Minh đi tuần thú tới Hải Nam, lấy nàng Vụ tiên nữ, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục có đức độ một vị thánh minh, vua rất yêu quý, muốn truyền ngôi. Lộc Tục cố chối từ, nhường cho anh. Vì thế, Đế Minh phong Lộc Tục ở Việt Nam, tức là Kinh Dương Vương. Hùng vương nối nghiệp, đặt tên nước Văn Lang, chia nước làm 15 bộ: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường,Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải,Vũ Đình, Hoài Hoan, Cửu Chân, BÌnh Văn, Tân Hưng, Cửu Đức (Hạ, 731)
Các sách sử ký khác như sách  của Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú cũng chép 15 bộ nước ta về đời Hùng vương mặc dầu nhiều tài liệu có đôi chút khác nhau. Tài liệu của Nguyễn Trãi chép sót một bộ là bộ Văn lang kiêm thủ đô. Phan Huy Chú nói rõ: Chỗ nhà vua ở gọi là nước Văn Lang (24).
Trần Trọng Kim ghi chép 15 bộ như sau:
1.Văn Lang ( Bạch Hạc, Vĩnh Yên)
2. Châu Diên ( Sơn Tây)
3.Phúc Lộc ( Sơn Tây)
4. Tân Hưng (Hưng Hóa, Tuyên Quang)
5. Vũ Định ( Thái Nguyên, Cao Bằng )
6. Vũ Ninh ( Bắc Ninh)
7. Lục Hãi ( Lạng Sơn)
8.Ninh Hải ( Quảng Yên)
9.Dương Tuyền ( Hải Dương)
10.Giao Chỉ ( Hà Nội, Hưng Yên,Nam Định, Ninh BÌnh)
11. Cửu Chân ( Thanh HóÙa)
12. Hoài Hoan ( Nghệ An)
13.Cửu Đức ( Hà Tĩnh)
14. Việt Thường ( Quảng Bình, Quảng Trị)
15.Bình Văn (?)
Khi viết về 15 bộ, Trần Trọng Kim cũng  viết rằng năm tân mão (1109 tr. Tây lịc), đời Thành vương nhà Chu, có nước Việt Thường ở phía nam xứ Giao Chỉ sai sứ đem chim bạch trĩ sang cống, nhà Chu phải tìm người thông ngôn mới hiểu được tiếng nói, và ông Chu công lại chế ra xe chỉ nam để đưa sứ Việt Thường về nước (25)
II. CHIÊM THÀNH VÀ VIỆT NAM LÀ MỘT
Từ thời Hùng Vương, nước Văn Lang là một quốc gia văn minh và giàu mạnh. có 15 bộ, phía bắc giáp Động Đình Hồ, phía nam giáp Hồ Tôn. Các sử gia đều bác bỏ ranh giới phía Bác vì quá xa, không đúng. Ở đây,  chúng ta không đề cập đến các bộ khác, chỉ chú trọng đến bộ Việt Thường, là phần tổ quốc phía nam, có liên hệ đến Chiêm Thành.
Có hai thuyết khác nhau. Một thuyết cho rằng Việt Thường là Việt Nam, và nhiều tác giả, học giả theo thuyết này.
+ Hán Việt Từ Điển của Đáo Duy Anh định nghĩa Việt Thường và Việt Nam như sau:
Việt Thường là tên nước ta ngày xưa về đời Hùng Vương, chỉ miền đất từ Thanh hóa vào Nam..    .       Việt Nam: tên nước ta. Nguyên nước ta xưa tên là Việt Thường, từ đời Bắc thuộc gọi là An Nam đến đời Gia Long góp hai tên cũ mà đặt là An Nam.
+ Sách Sơ HọcVấn Tân  là sách giáo khoa Việt Nam dạy trẻ sơ học có câu:
Kỳ tại bản quốc, cổ hiệu Việt Thường;
Đường cải An Nam, Hán xưng Nam Việt.
(Ở nước ta,  xưa gọi Việt Thường, nhà Đường đổi làm An Nam, nhà Hán gọi là Nam Việt)
Nguyễn Trãi trong Dư Địa Chí ( Ức Trai Tập)  cũng theo thuyết này: Giao thiệp với Bắc triều lần lượt xưng là Việt Thường, Giao Chỉ, An Nam ( bản QVK, Hạ, 743).
Ngô Sĩ Liên cho rằng  đời Chu gọi Việt Nam là Việt Thường Thị, tên Việt bắt đầu từ đấy ( Toàn Thư I,  59). Truyện cống chim bạch trĩ khiến cho Trần Trọng Kim thắc mắc: Vậy đất Việt Thường và đất Giao Chỉ có phải là đất của Hùng Vương lúc bấy giờ không? (25).
Một số thuyết cho rằng Việt Thường là Chiêm Thành.
Tự Điển Từ Hải viết:
Việt Thường là tên một nước Nam man ngày xưa, ở phía nam Giao Chỉ. Truyện Nam Man trong sách Hậu Hán Thư chép rằng: Phía nam nước Giao Chỉ có nước Việt Thường Khi Chu công lên ngôi, Việt Thường sai sứ sang cống chim trĩ, phải thông dịch ba lần.
Và định nghĩa Chiêm Thành:
Tên một nước xưa, tức Việt Thường.
Về phía Chiêm Thành, họ nghĩ sao? Người Chiêm Thành tự xưng là Việt Thường và nhận truyện cống chim trĩ đời nhà Chu là của họ.Trong một bài biểu họ dâng vua Trung Quốc có đoạn:
Thiết dĩ: Việt Thường trùng dịch văn thịnh đức nhi quy Châu ( Nước Việt Thường dùng nhiều lớp thông dịch, mới vào chầu Trung Quốc, vì nghe thịnh đứcc của nhà Chu ( Lê Tắc, 137)
Một số tài liệu Việt Nam cũng cho rằng Việt Thường là Chiêm Thành. Nguyễn Văn Siêu trong Dư Địa Chí, khảo về Chiêm Thành viết:
Chiêm Thành: phía đông giáp bể, phía tây đến Vân Nam, phía Nam giáp Chân Lạp, phía bắc liền An Nam, phía đông bắc đến Quảng Đông. .  .  là đất của Việt Thường Thị xưa, đời Tần là huyện Lâm  Ấp, thuộc Tượng Quận, đời Hán thuộc Tượng Lâm, thuộc quận Nhật Nam ( 82)..     . .Thuận thành (  tức Binh Thuận) là dòng giõi còn lại của nước Chiêm Thành, ngày xưa là Lâm Ấp, là đất họ Việt Thường ngày trước, là huyện Tượng Lâm quận Nhật Nam nhà Hán (181)
Đời Hùng Vương, nước Việt Thường đã là một bộ trong nước Văn Lang. Nói rõ hơn, Chiêm Thành và Việt Nam là một. Khảo về Chiêm Thành, Nguyễn Trãi viết:
Chiêm Thành xưa là huyện Tượng Lâm, thuộc bộ Việt Thường ta, quận Nhật Nam sau đổi là Lâm Ấp (Ức Trai tập, hạ, 821).
Nếu thời Hùng Vương, Chiêm Thành và Việt Nam là một thì biên giới phía nam, Hồ Tôn là nước Phù Nam, sau là Chân Lạp. Còn khi Chiêm Thành tách ra khỏi Văn Lang, lập thành một mước riêng, biên giới phía nam là Hồ Tôn, tức Chiêm Thành.
Việc Việt Thường đến chầu nhà Chu năm tân mão (1109 tr. Tây lịch), cho thấy Việt Thường là một quốc gia độc lập. Việc liên hiệp trong khối Văn Lang có thể trước hoặc sau thời này. Hoặc là Chiêm Thành và Việt Nam liên hiệp trong một thể chế rộng rãi, nghĩa là trong khối Liên hiệp Văn Lang, Việt Thường vẫn có quyền độc lập ngoại giao. Dẫu sao, đất và dân Việt Thường đã sáp nhập nước Văn Lang từ lâu. . Thời H ùng vương, đất đai nước Văn Lang đã đến  Hà Tĩnh, Quảng Bình,   vì bên cạnh Hoài Hoan ( Nghệ An), có Cửu Đức ( Hà Tĩnh) và Việt Thường ( Quảng Bình, Quảng Trị).
Các sách sử của ta đều cho rằng Nghệ An là đất xưa của ta, nhưng theo Phương Đình Nguyễn Văn Siêu,  Nghệ An là đất của nưiớc Việt Thường đời Chu, quận Tượng đời Hán, quận Cửu Đức đời Ngô, quận Nhật Nam đời Tùy, châu Diễn đời Đường (135).
Tạï sao lại có những ý kiến khác nhau như thế?
          1.   Có lẽ cái tên Việt Thường đã làm cho đa số người lầm lẫn Việt Nam với Việt Thường.
          2. Cuộc chiến tranh Chiêm Việt kéo dài hơn 1.600 năm nên không ai nghĩ đến thời Hùng Vương Chiêm  Thành Việt Nam sống chung  trong  đại gia đình Văn Lang.
         3.Việt Thường ở trong Văn Lang cho nên Việt Thường cò thể hiểu là Việt Nam. Có thể chính người Trung Quốc cũng không phân biệt. Vì vậy mà sử Thế giới cũng như sử Trung Hoa không đề cập đến nguồn gốc Chiêm Thành trước Tần Hán. Có thể họ biết Việt Thường thuộc Việt Nam nhưng họ không muốn nói ra. Không có tài liệu nào nói nguồn gốc Chiêm Thành trước đời Tần, như vậy thuyết của Việt Nam nói Chiêm Thành (Việt Thường) thuộc Văn  Lang là điều đáng tin cậy.
Trong Văn Lang, hai nước Chiêm Thành và Việt Nam chung sống hòa bình và thịnh vượng. Mọi sự đổi thay từ khi quân nhà Tần xâm chiếm Bách Việt.  Năm đinh hợi (214 tr. Tây lịch)  Tần Thỉ Hoàng sai Đồ Thư đem quân đánh Bách Việt ( Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây). An Dương Vương hàng phục nhà Tần. Quân Tần chia đất Bách Việt và Âu Lạc thành ba quận:
-         Nam Hải (Quảng Đông)
-         Quế Lâm (Quảng Tây)
-         Tượng Quận (Bắc Việt)
Năm canh ngọ (111 tr.Tây lịch) Hán Vũ Đế sai Lộ Bác Đức và Dương Bộc  đánh nước Nam Việt của Triệu Đà,  cải thành Giao Chỉ bộ, chia thành 9 quận:
1.       Nam Hải ( Quảng Đông)
2.       Thương Ngô (Quảng TâÂy)
3.       Uất Lâm (Quảng Tây)
4.       Hợp Phố ( Quảng Đông)
5.       Châu Nhai (đảo Hải Nam)
6.       Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam)
7.       Giao Chỉ( Bắc Việt)
8.       Cửu Chân (Trung Việt)
9.       Nhật Nam ( Trung Việt)
III. LÂM ẤP ĐỘC LẬP VÀ
    CHIẾN TRANH CHIÊM VIỆT
Năm giáp ngọ (34), Trưng Vương nổi lên và thất bại. Đến cuối đời Hán, năm nhâm dần (102), ở huyện Lâm Aáp, quận Nhật Nam, Khu Liêu nổi lên lập nước Lâm Ấp, và xưng là Lâm Aáp quốc vương (Nguyễn Siêu, 83) . Từ đây, Việt Nam và Chiêm Thành chia làm hai. Việt Nam bị Trung Hoa đô hộ, còn Lâm Ấp độc lập. Từ dây nước Lâm Âp thường đánh phá nước ta. Ta có thể chia cuộc chiến tranh Chiêm Việt thành hai giai đoạn:
1.Giai đoạn I: Từ 102 đến 980: Lâm Ấp tấn công, Việt Nam chịu đựng:        
Nước Chiêm Thành ban đầu gọi là Lâm Ấp, sau gọi là Hoàn quốc. Con cháu của  Khu Liêu thường đánh cướp các quận Nhật Nam, Cửu Chân, gây nên một điều lo lắng cho Giao Châu. Các thứ sử Giao Châu như Nguyễn Phu, Đỗ Tuệ Độ đã nhiều lần đánh dẹp. Các vua Lâm Ấp như Phạm Đạt, Phạm Dương Mại chơi trò hai mặt. Họ áp dụng chính sách sớm đầu tối đánh. Họ cũng biết lối nịnh trên đạp dưới, một mặt họ triều cống Trung quốc, một mặt cướp phá Giao Châu, khiến cho dân ta luôn sống trong không khí cướp bóc và chiến tranh. Đời Đường,  quan An Nam  đô hộ là Trương Chu đánh bại, họ rút lui về đất Chiêm Nhân nên đổi quốc hiệu là Chiêm Thành
( Nguyễn Siêu, 85; Trần Trọng Kim, 55-56).
Tóm lại, từ đời Hán, Chiêm Thành thường đem quân cướp phá đất Giao Châu ( Giao Chỉ) , trong khi nước ta bị lệ thuộc Trung quốc, không có binh bị, phải nhờ các quan quân Trung Quốc đánh dẹp, nhưng người Chiêm Thành luôn luôn tấn công dân Việt, đem lại đau thương cho dân Việt. Đến khi nước ta độc lập, các vua ta mới tổ chức binh bị để phòng thủ.
2. Giai đoạn II: Từ 982 đến 1697: Quân Việt Nam phản công.
Năm tân dậu (541), Lý Bôn nổi lên vì nhận thấy dân ta bị ách đô hộ Trung Quốc lại bị Chiêm Thành cướp phá ngày đêm. Nhưng Lý Nam Đế làm vua không được lâu vì quân Trung Quốc sang xâm lấn. Sau Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh nổi lên giành độc lập nhưng không được bao lâu. Kịp khi Lê Hoàn lên ngôi (980), năm 981 đã đem binh đánh nhà Tống  và năm 982 đánh Chiêm Thành . Kể từ khi Khu Liêu lập quốc đến nay, gần tám thế kỷ, dân Việt Nam phải chịu đựng bao cuộc tấn công của Chiêm Thành, nay mới có cuộc tấn công lần thứ nhất để trả lời cho việc Chiêm Thành bắt giam sứ giả Việt Nam.
Đến khi Lý Thái tổ ( 1010-1028) lên ngôi, xây dựng triều chính vững chắc, lập được triều đại lâu dài, các vua ta mới thực sự bảo vệ được nhân dân khỏi nạn ngoại xâm cả hai phía bắc nam. Năm giáp thân (1044), vua Thái tông đi đánh Chiêm Thành vì họ không chịu triều cống và thường xuyên quấy nhiễu mật biển nước ta. Quan ta đánh tan quân Chiêm tại Ngũ hồ (?) ,tướng Chiêm Thành là Quách Gia Ghi chém vua SạÏ Đẩu xin hàng. Vua tiến quân vào thành Phật Thệ ( làng Nguyệt Hậu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, giết nhiều người, bắt về 5.000 người và 30 voi. Vua ban đất đai cho họ làm ăn. Đời Lý Thánh Tông, năm kỷ dậu (1069), đánh thắng Chiêm Thành, bắt được Chế Củ. Chế Củ xin dâng đất ba châu là Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính để chuộc tội.. Vua tha cho Chế Củ về nước. Ba châu này nay thuộc Quảng Bình và Quảng Trị. Chiêm Thành lại sang quấy nhiễu, vua sai Lý Thường Kiệt đánh Chiêm Thành. Năm ất mão (1075), Lý Thường Kiệt cho người sang ở ba châu mà Chế Củ dâng ngày trước. Năm quý mùi (1103), quốc vương Chiêm Thành là Chế Ma Na chiếm lại ba châu, sang năm, Lý Thường Kiệt đem binh sang đòi lại, quân Chiêm Thành thua to , phải trả lại ba châu..
Từ đấy cho đến  hết đời Lý, quân Chiêm  vẫn sang quấy nhiễu nước ta. Đến đầu đời Trần, mối giao hảo giữa hai nước khá thân thiện. Năm tân sửu, (1301), Thượng hoàng ( Nhân Tông ) đi thăm phong cảnh Chiêm Thành, ước gả Huyền Trân công chúa cho Chế Mân, Chế Mân xin dâng hai châu Ô, Rí làm lễ cưới. Năm 1307, vua Anh Tông thu nhận hai châu Ô Rí đổi thành Thuận Châu và Hóa Châu.
Một vài sử gia cho rằng Thượng hoàng sang Chiêm Thành dò thám quân tình. Điều đó là không cần thiết vì thiếu gì người sai phái mà thượng hoàng phải đem thân vào nơi hiểm nguy. Việc vua sang Chiêm có lẽ do ý muốn du ngoạn và ngoại giao.
Sau Chế Mân mất, Chế Chí lên nối ngôi, thường chống đối nước ta. Vì vậy, năm tân hợi
( 1311), vua Anh Tông, Huệ Võ Vương Trần Quốc Chân và Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đem ba đạo binh qua đánh Chiêm Thành, bắt Chế Chi đem về phong vương, song chẳng bao lâu Chế Chí mất. Từ đó, hai nước sinh ra thù hận.. Hễ gặp lúc nước ta suy đồi, Chiêm Thành cất quân sang đánh phá.  Trần Dụ Tông say mê chơi bời, trong khi đó Chế Bồng Nga là một ông vua anh hùng. Năm mậu thân (1368), sứ Chiêm Thành sang đòi đất Hóa Châu. Vua Dụ Tông sang đánh Chiêm Thành, rốt cuộc vua chết trận, Đỗ Tử BÌnh, Hồ Quý Ly chạy trốn. Năm quý hợi (1388), Chế Bồng Nga đánh Thăng Long nhiều phen như vào chỗ không người . Vua quan bỏ kinh thành mà chạy saqng Đông Ngạn. Năm canh ngọ (1390), Chế Bồng Nga bị bắn chết. Chiêm Thành suy yếu từ đây. Năm  canh thìn (1400), Hồ Quý Ly lên ngôi, sai tướng Đỗ Mãn đem quân đánh Chiêm Thành nhưng thất bại. Năm nhâm ngọ (1402), Đỗ Mãn đem binh lấy đất Chiêm Động ( phủ Thăng BÌnh, Quảng Nam), Cổ Lũy ( Quảng Nghĩa) và đặt quan cai trị, dân Chiêm ở những nơi này bỏ đi. Năm quý mùi (1304), quân nhà Hố tiến đánh Đồ Bàn nhưng thất bại. Đến đời Lê, bang giao giữa Việt Nam và Chiêm Thành có lúc tốt đẹp,có khi gay cấn. Năm bính dần (1446), quân Chiêm thường sang đánh Hóa Châu, vua Lê sai  Lê Thụ, Lê Khả chiếm thành Đồ Bàn, bắt Bí Cai và lập người cháu là Mã Kha Qui Lai lên làm vua.
Quan trong nhất là khi Lê Thánh Tông lên ngôi vua Chiêm Thành là Tr à Toán quấy phá Hóa Châu, đồng thời sang sứ sang nhà Minh cầu viện. Vua Lê Thánh Tông một mặt cho sứ sang Minh triều giải thích, một mặt đem quân bình Chiêm. Quân Lê đánh Thi Nại, Đồ Bàn, bắt được Trà Toàn, chiếm đất Đồ Bàn, Đại Chiêm, và Cổ Lũy lập  đạo Quảng Nam, đồng thời cắt Chiêm Thành làm ba nước là Chiêm Thành, Hóa Anh và Nam Phan. Em Trà Toàn là Trà Toại trốn vào núi, gửi thư cho vua Minh xin phong vương. Vua Lê Thánh Tông sai Lê Niệm tiến quân bắt Trà Toại về kinh sư. Vua Minh bắt Thánh Tông trả đất nhưng ngài không chịu.
Năm  mậu ngọ (1558), Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa. Từ đây Nguyễn Hoàng phát triển miền Nam.
-Năm canh hợi (1611) Nguyễn Hoàng đánh  Chiêm Thành lập phủ Phú Yên.
-Năm quý tị (1653) vì vua Chiêm Thành là Bà Thấm đánh Phú Yên, chúa Nguyễn Phúc Tần đánh lấy Phan Rang trơ ra làm phủ Diên Khánh ( Khánh HòØa), còn từ Phan Rang trở vào thuộc Chiêm.
- Năm quý dậu (1693) vua Chiêm Thành là Bà Tranh không chịu tiến cống, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu KÍnh đem binh bắt Bà Tranh và quần thần đem về Phú Xuân, đổi đất Chiêm Thành làm Thuận Phủ, bắt dân Chiêm mặc y phục Việt Nam.
- Năm đinh sửu ( 1697), đặt  phủ Bình Thuận, lấy Phan Rang, Phan Rí làm huyện Yên Phúc và Hòa Đa.  Đến đây Chiêm Thành mất hẵn.
Tổng kết, dân Việt Nam phải chịu đựng hơn 800 năm bị Chiêm Thành đánh phá, sau đó phải mất hơn 800 năm để tấn công và phòng thủ.Thời Hùng Vương, nước ta và Chiêm Thành là một. Đến cuối đời nhà Hán, nuớc ta bị Trung quốc đô hộ, còn Lâm Ấp độc lập. Đáng lý họ nên sống hòa bình với dân Việt Nam, họ lại đánh phá liên miên trong khi Việt Nam ngoại thuộc, không quân lực chống cự. Đến khi nước ta thoát ách ngoại xâm, Chiêm Thành vẫn không nhường bước. Do đó các vua ta phải áp dụng chính sách lấy chiến tranh để bảo vệ hòa bình.
Kể từ 892, Lê Đại Hành đem binh đánh Chiêm Thành lần thứ nhất đến năm  1697 là 805 năm, Chiêm Thành  mới bị tiêu diệt. Bàn về sự kiện này, Trần Trọng Kim viết rất chí lý:
Nước Lâm Aáp chính là nướ Chiêm Thành ngày trước đã từng qua mấy trăm năm, cùng với họ Lý, họ Trần đối địch, chống với quân Mông Cổ, không cho xâm phạm  vào cõi, lập nên một nước có vua, có tôi, có chính trị, có luật pháp. Nhưng chỉ hiềm vì người nước ấy cứ hay sang cướp phá ở đất Việt Nam, thành ra hai nước không mấy hòa thuận được với nhau.
Đã là đối địch thì không sao tránh khỏi được cái luật chung của tạo hóa là : khỏe còn, yếu chết. . Vì vậy cho nên từ khi vua Thánh Tông nhà Lê đã lấy đất Quảng Nam và chia nước Chiêm ra ba nước rồi, thì từ đó về sau thế lực nước ấy mỗi ngày mỗi kém, dân tình mỗi ngày một suy. Chẳng những là đến nỗi mất nước với chúa Nguyễn mà chủng loại Chiêm Thành bây giờ cũng chẳng còn được mấy nghìn người nữa. Một nước như thế, mà nay như thế, dẫu rằng nước ấy đồng hóa với nước ta mặc lòng, song cũng thương tâm thay cho những nước yếu hèn không tránh khỏi đượccái họa: cá nhỏ bị cá lớn nuốt (328-329).
                                                           
Tài Liệu:
Lê Quý Đôn. Phủ Biên Tạp Lục I, Lê Xuân Giáo dịch. QVK, Sài gòn, 1972.
Lê Quý Đôn. Vân Đài Loại Ngữ. Tạ Quang Phát dịch. QVK. Saigòn, 1972.
Lê Tắc. An Nam Chí Lược.  Đại HọÏc Huế, 1961).
Phan Huy Chú. Lich Triều Hiến Chương Loại Chí.  Dư Địa Chí. Khoa Hoc XảÕ Hội, Hà Nội,1992.
Ngô Sĩ Liên. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư I, KHXH, Hà Nội, 1967.
Nguyễn Siêu. Phương Đình  Dư Địa Chí. Ngô Mạnh Nghinh dich. Tự Do, Sàigòn, 1959.
Nguyễn Trãi. Dư Địa Chí. Ức Trai Tập, I, II. Hoàng Khôi dịch.  Phủ QVK, Sàigon, 1972.
Solheim II., Wilhelm G.  New Light on a forgotten Past.  National Geographic.Vol 139 . No 3, March, 1971.
Trần Văn Giáp. Phật Giáo Việt Nam. Van Hạnh. Sai gòn, 1968.
Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược. Tân Việt, Sài gòn, 1958.
(Dòng Việt, số 17, 2005, 222-236)



XUÂN VŨ * CHUYỆN TỤC VỀ VÙNG THANH= BIỂN ĐÔNG =

XUÂN VŨ * CHUYỆN TỤC VỀ VÙNG THANH

Cầu Hàm Rồng-Thanh hóa

  CHUYỆN TỤC VỀ VÙNG THANH
 XUÂN VŨ




Trời rét, mặt ao đóng váng. Tôi đang ngủ mê mệt sau một buổi gánh nước dân vận mệt nhừ. Bỗng giật mình. Có tiếng léo nhéo ngoài đường.

Giọng đàn bà lọt qua phên liếp hở hang, rõ từng tiếng:
"Mày ăn l. bà, mày uống nước l. bà."

Bất giác tôi kéo tuột chăn xuống khỏi mép tai để nghe cho rõ. Chuyện gì vậy? Chuyện gì mới sáng đã chào nhau kinh khủng đến thế? Một giọng khác cũng đàn bà nhưng đã sồn sồn:

"Mày giành cả cứt cho bố mày đây hở? Đã đến giỗ tổ tiên nội ngoại mày rồi đấy hở?"
"Phải, cứt béo nên mày mới giật mang về!"
"Của anh đội miền Nam, anh ấy tứa vào đầu chỗ ấy được, tao không giành, tao không giật!"
"Đứa nào giành đứa nào giật bà bắt bà bỏ l. bà, bà khép lại cho chết bố chúng nó."
Càng đối đáp, chữ nghĩa càng thơ mộng hơn và hình như hai đối phương đang tiến lại gần nhau, sẵn sàng xáp chiến.
 



 Bọn tôi là lũ dân tập kết mới từ tàu Arkhangels Liên Xô leo lên bờ Sầm Sơn và cuốc bộ về đây với những đồ lề cõng trên lưng như những con lạc đà bất đắc chí. Người ta bảo cho biết nơi đóng quân là một vùng đã giảm tô từ hồi kháng chiến. Đó là làng Phượng Vỹ có chợ Nghè chợ Phủ cách cầu Hàm Rồng không xa. Tên làng tên xóm và cảnh trí đều đẹp như tranh. Đúng là một bức tranh sơn thủy sống mênh mông, tình tứ: Thanh Hóa.


Những thằng bạn từ ngoài Bắc vô Nam đã khoe với chúng tôi như vậy và khi ra đây, chúng tôi cũng thấy như vậy.

Người ta cũng còn cho biết ở đây đang tiến hành cải cách ruộng đất đợt 3. "Có tên địa chủ lọt lưới X. giả nghèo giả khổ đi ăn xin, chớ có nhầm ném cái gì cho hắn ăn là phạm chính sách. Lại còn một đám con địa chủ bị tống ra khỏi nhà, chúng đi lang thang đụng đâu ngủ đó và ăn cắp kinh hồn!" Đám trẻ này tôi gặp hàng ngày:
Những con người đang biến thành súc vật. Còn tên X., sau này tôi biết ra thì hắn chỉ có đâu dăm sào ruộng. Tôi nghĩ, làm chủ một khoảng đất chó ngồi ló đuôi mà là địa chủ, thì dân Nam Kỳ có bao nhiêu địa chủ? (90%) Thì còn ai đấu? Nhưng bởi cái chính sách nó treo lững lơ trước mặt, bọn tôi không đứa nào dám nói gì. Sợ lắm nữa là đằng khác. Ra đường, ngó thẳng như ngựa bịt mắt. Gặp mấy chị đàn bà vén váy tiểu roong roỏng trong chiếc nồi su ở góc sân, miệng vui vẻ "Mời anh đội miền Nam về nhà em xơi nước," cũng không dám đáp, sợ phạm chánh sách.
Ra đây tôi mới được biết nước tiểu cũng dùng tưới rau không bỏ phí của giời như ở trong Nam. Thực ra việc dùng những bài tiết của người để bón hoa màu đã thấy V. Hugo nói tới trong một đoạn sách viết về người Tàu, không lạ lùng gì. Có lạ chăng là bây giờ ta mới biết.

Ra miền Bắc thì rõ ràng là ta độc lập rồi: Tây đã rút. Còn Hạnh Phúc thì chánh sách bảo phải đi tới đó bằng "hai chân" của mình. Chân thứ nhất là nông trường thì chờ Liên Xô viện trợ máy cày. Còn chân thứ hai là hợp tác xã thì đang tiến hành mà Thanh Hóa là lá cờ đầu.


Hợp tác xã là cái gì? Tôi được giải thích trong một buổi học chung với bần cố nông. Nghe qua, thấy cũng hăng hái. Mười năm đánh Tây, có biết sản xuất là gì, ngay nghe cách thức sản xuất tập thể thì thấy hạnh phúc như trái chín, cứ với tay là hái bỏ vào mồm nhai. Đã từ lâu, người ta làm như thế "Au Pays de Staline." Dễ ợt. Dân Liên Xô ngày nay sung sướng như tiên, muốn gì có nấy! (Ông Tây nào đã sang Liên Xô về viết ra sách đó, đã hại cả thế giới, nay còn sống không?)


Cuộc khẩu chiến ngoài đường trở nên quy mô và gay gắt hơn vì bây giờ hai người đã trở thành hai phe. Mỗi người một tiếng bênh phe mình. Ngủ chung nhà với tôi là một anh người Bắc, cấp bậc trung đội phó, tốt nghiệp lục quân được gởi vô Nam, nay vinh quy bái tổ, nhưng hiềm nỗi chưa được lên chức. Hắn có vẻ bần thần, nhưng không dám tỏ ra bất mãn, vì càng bất mãn thì càng thiệt thân. Theo lệ thường, bạn đến xứ mình thì mình phải niềm nở săn đón, như lúc còn ở trong Nam, bọn tôi từng lôi hắn về nhà giết gà thết. Tưởng hắn sẽ làm như thế với bọn tôi, nhưng không, hắn tuyệt nhiên không nói đến chuyện về thăm bố mẹ nữa là rủ bọn tôi về nhà.




Mãi về sau, hiểu ra thì không phải hắn tệ bạc chi đến thế. Số là hắn có một người cậu phú nông đang được ở trên cứu xét để nâng lên địa chủ. Kẻ nào vô phúc được cứu xét thì khó thoát. Về quê trong tình hình đó thì quả là không nên, thằng nào ngốc đến đâu cũng hiểu như thế.

Cái vụ đấu khẩu ngoài đường, hắn có nghe, lẽ nào lại không, nhưng hắn cứ nằm im lìm trong chăn màu cứt ngựa kia từ lúc có tiếng léo nhéo ngoài đường. Thấy thế, tôi đoán chắc hắn có điều gì không thoải mái, nên tôi tốc chăn ngồi dậy vạch liếp ngó ra.



Nhà chỉ cách mặt đường một mảnh sân con và một hàng dậu thưa nên tôi mục kích cuộc chiến đấu như xem văn công. Một trẻ một già, cả hai đều váy nâu, yếm nâu và đều vấn tóc nhưng bà trẻ có lẽ vì múa may hăng quá nên tóc sút ra, đuôi tóc quất qua quất lại sau lưng tùy theo động tác. Bà ta nhảy tưng lên, miệng hò vang, tay vỗ bèm bẹp vào đùi non.

"Bà chìa ra đây này, có ngoạm thì vào mà ngoạm!"
"Bố tiên sư nhà bay, chui vào của bà đây. Của bà to, bà rộng chứa cả họ nhà mày, cả tổ nhóm nhà mày!"
"Cha tiên sư con tố điêu thằng X. để được lên cốt cán!"
"Tao lên cốt cán thì có động gì tới con cho thằng đội trưởng ngủ để nó chia quả thực cái chõng tre nát."

"Cái chỏng tre nát chẳng đẹp hơn cái mâm gỗ to bằng cái tẻng của bà, thế mà có đứa phải cho thằng đoàn viên đáng tuổi con tốc váy mấy phát đấy!"
"Tốc váy mấy phát chưa bằng chửa hoang đẻ con bóp mũi đút bụi tre!"

Tôi nghe bất nhẫn tâm can. Nhưng dường như chưa đã nư giận, hai bà lăn xả vào nhau, túm tóc nhau. Rồi có lẽ ai cũng nghĩ rằng mình đúng và cần được bênh vực, cho nên cả hai cùng kêu lên một lúc khi vừa túm được tóc đối phương hoặc bị đối phương túm tóc.




"Ôi làng nước ơi! Ôi làng nước ơi!"
"Ôi giời cao đất dày ơi! Con đĩ nó giết tôi!"
Đám con nít tự nãy giờ có lẽ thập thò ở đâu đó, thấy cuộc ấu đả nổ to, hốt hoảng chạy tủa đi trốn trong khi có thêm dăm người lớn xuất hiện, mỗi người một tiếng thúc giục bồ nhà:
"Đánh chết cha con đĩ rỏm chửa hoang kia!"
"Đập đầu con sọm già cho tao. Nó, chính nó là thủ phạm!"
Hai người đàn bà càng hăng tiết. Bà trẻ buông tóc đối phương để chụp lấy váy.
Mụ già cũng buông tóc tóm lấy gấu váy của bà trẻ. Cả hai đã tóm được gấu váy của nhau giằng xé xà quây kịch liệt, nhưng may quá chẳng bên nào thành công trong sự bóc lột đối phương ra.


Chuyện đánh nhau của dân địa phương, thế mà lại nguyên do ở chúng tôi.Tối hôm đó, cơ quan chúng tôi, toàn thể Phòng Chính Trị Phân Liên Khu Miền Tây, phải họp để phân tích, tổng kết rút kinh nghiệm.


Khi cái cơ quan gồm hơn trăm người này về đóng ở đây, thì một vấn đề trong sinh hoạt được đặt ra và thi hành ngay: đào hố vệ sinh. Mỗi một ban đều phải có hố riêng. Những hố này được đào ngoài lũy tre làng ở những gò nỗng có nhiều mả loạn. Bộ phận của tôi thiết kế mỹ thuật một cái rất đẹp ở giữa những lùm rậm trong phần đất của tổ Tiên Tiến, còn bộ phận bạn thì xây một cái gần đó, không đẹp lắm, thuộc phần đất của khóm Quyết Thắng.

Nhà nông ta có cái thiệu cơ bản trong nghề nghiệp là "nhất nước nhì phân tam cần tứ giống." Tôi thấy có những thửa ruộng được tưới nước chuyển tới ba tầng gàu giai mà kinh hồn.



Còn phân thì quý nhất là phân người, cũng còn gọi là phân Bắc. Bọn Nam Kỳ mới ra, nào biết mình là những chiếc máy sản xuất loại phân ấy. Vì thế nên coi sản phẩm của mình là bứt cỏ, bỏ ở đâu mà không được, miễn phóng nó ra thì thôi, đâu có kể số gì.
Tiếng rằng nhất ỉa đồng nhì quân công, nhưng có chỗ kín đáo vẫn tốt hơn bốn bề trống trải.

Trong kháng chiến có bài hát Đoàn Quân Đi của Việt Lang, rất phổ biến. Tôi rất thích bài hát đó. Trong bài có câu: "Phá tan biên cương loài người sống thân yêu! Ngay mai lớp dân lầm than không còn buồn đau, đập tan gông cùm đẫm máu, đời vang lên đại đồng khúc ca!" (Đừng nghĩ thế mà nhầm. Nhầm to. Một cục phân còn không nhường nhau kia, lại nói chuyện phá tan biên cương và đại đồng ca. Đại đồng ca Nga Hoa, Việt Hoa chăng?)


Sáng nay chị Hĩm của khóm Tiên Tiến đi kiểm tra hố phân của mình như thường lệ. Chị bỗng thấy phân trây đầy trên đường vào hố, phân trát cả trên hai thanh cây tre tươi gác ngang miệng hố. Vì thế anh chị đội miền Nam ghê mà không đến. Có kẻ phá hoại! Địa chủ! Không, địa chủ không còn đất nên không cần phân. Vậy kẻ phá hoại là ai?

Chị Hĩm rảo bước sang hố Quyết Thắng của bà Cò. Hố Quyết Thắng địa điểm xấu nhưng bữa nay sản lượng lại vung đầy. Chị Hĩm nhận ra kẻ phá hoại là ai rồi. Chị quyết dứt tình làng xóm lâu đời, nghĩa hợp tác xã keo sơn, chị cất tiếng chửi mụ Cò, người đáng tuổi mẹ chị.

Cuộc chửi nhau, đánh nhau của hai người đàn bà đã kéo dây tới sự thù hằn giữa hai khóm của một hợp tác xã cùng có một mục đích xây dựng miền Bắc thành thiên đàng để sống một cuộc sống làm tùy sức, hưởng theo nhu cầu ở đâu đó, vào một năm nào đó.

Thanh Hóa, vùng đất xanh cuối cùng của miền Bắc, cửa ngõ vào miền Trung, đối với tôi còn là thơ là văn từ thuở ấu thời. Hình ảnh cầu Hàm Rồng trong sách Quốc Văn, Hòn Trống Hòn Mái, Kho vàng Sầm Sơn, Ngọn đèn dầu lạc v.v... tất cả nét đan thanh bỗng hóa ra trần tục, tục tằn vào ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngày tôi ly hương.

Cuộc họp đi đến kết luận là "các chiếc máy sản xuất phân" phải phân phối sản lượng đều cho hai khóm Quyết Thắng và Tiên Tiến. Nghĩa là mười lăm cái đi bên này mười lăm cái đi bên kia mặc dù cái Quyết Thắng không đẹp cũng phải đi. Như vậy để tránh sự mất đoàn kết như đã xảy ra.

Bọn Nam Kỳ chúng tôi rất hoang mang, nhưng cấp lãnh đạo đả thông ngay, và chúng tôi cũng thông ngay một cách dễ dàng, rằng đó là tàn tích của đế phong, xã hội chủ nghĩa sẽ gội rửa dần.
Nhưng thông được chuyện ngoài xóm thì chuyện đế phong lại xảy ra trong cơ quan.

Nhà tôi ở, vách đất, phên liếp hở hang, gió lùa vào như những tia nước đá, nhưng nhờ có tấm chăn bông Trung Quốc nên tôi ngủ được yên lành. Nhiều đêm nghe đám trẻ con trong nhà ngọ nguậy dưới bếp, tôi không ngủ được vì biết tổ rơm không đủ ấm cho chúng. Tôi đem cả chăn màn xuống ngủ chung với chúng. Nhờ ngủ chung với chúng tôi nghe chúng nói chuyện nọ chuyện kia với nhau mà phát hiện ra rằng chúng đói, lạnh. Vậy mà lâu nay tôi ngỡ chúng no, ấm.


Kể từ hôm biết chúng đói, mỗi lần xách chén đi ăn cơm, tôi thấy mình hơi kỳ cục. Của dân, vì dân, do dân là như thế này ư? Khi đến nhà ăn, tôi lại càng thấy mình kỳ cục đang sống trong một xã hội kỳ cục. Không giai cấp là thế này ư? Trên bàn ngất nghểu một ông cao cấp ngồi ăn đặc tiểu táo năm món hẳn hoi. Ở một bàn thấp hơn một dúm trung cấp áo sơ mi trắng giày cộp đen ngồi quanh mâm tiểu táo ba món: canh, kho, xào. Và cũng trong cái nhà ăn đó, tràn lan dưới đất là đám kaki dép cao su ăn đại táo hai món: canh, kho.
Bọn này ngồi chồm hổm không có bàn ghế chi cả. Cứ sáu trự ghép thành một mâm. Ăn nửa chừng thì hết thức ăn, xin anh nuôi cho thêm tí muối. Vô sản là thằng nào? Là ta, là hắn, hay là bọn kia?... Nên biết là tất cả những người ăn khác tiêu chuẩn ấy vừa thoát ra khỏi chiến tranh và còn hăng hái chiến đấu cho một xã hội không giai cấp ở đâu đó, cụ thể là theo khẩu hiệu vì nhân dân quên mình. Tôi thường ăn lưng lửng bụng rồi đứng dậy đến thúng cơm xúc một chén đầy ém chặt và cơi lên có ngọn trước cặp mắt lườm lườm của anh nuôi. Tôi vừa lua vừa nói: "Tớ bỏ quên cái màn phơi ngoài sân, tớ phải về nhanh kẻo địa chủ X. nó quơ mất!"
Bằng cách đó tôi được anh nuôi tán đồng và lọt qua cả cặp mắt của mấy chú bảo vệ cơ quan, đem được bát cơm về nhà cho lũ trẻ. Ba đứa. Hai trai, một gái. Chúng chia nhau dưới bếp. Chúng mừng nhưng không dám reo. Chắc chúng cũng biết, ăn như thế là phạm chánh sách.
Nhưng chẳng được bao lâu, có lẽ do sự khoe khoang của chúng với đám trẻ lối xóm, nên công việc tiếp tế của tôi bị lộ và bị chặn lại. Cơ quan lại họp và đe kỹ không ai được mang cơm về nhà cho nhân dân hoặc trẻ con, vì đó là vi phạm chính sách.
Trước kia thì vào giờ ăn, có một đám trẻ lảng vảng quanh nhà ăn để anh nuôi ném cho tí cháy, nhưng từ khi việc tiếp tế của tôi bị phát giác thì không còn một bóng. Ai có con phải giữ riệt chúng ở nhà, thà cho chúng ăn rau muống nấu với cám để khỏi bị kiểm thảo.
Nhiều lần trong bữa ăn, tôi bị nghẹn vì chợt nhớ đến lũ trẻ ở nhà ngồi quanh nồi cám lẫn với rau muống bố mẹ chúng đã nấu sẵn trước khi ra đồng.Tôi sống hết mùa đông trên đất Bắc như một cực hình. Từ mùa đông ấy trở đi, một sự hối hận dày dò tôi khôn nguôi: "Mình đi đâu thế này? Bỏ quê hương bỏ cha mẹ mà đi thế này?"


Cuộc sống ở miền Bắc, trong một thời gian ngắn đã cào tuốt tất cả những mộng tưởng tốt đẹp trong đầu tôi có được từ quyển Au Pays de Staline, về nông trường, về hợp tác xã và về cái hạnh phúc thiên đàng với tới được dễ dàng mà ông Tây đã vẽ ra kia.

Ở trong Nam, cây mạ cao quá lưng quần, người yếu không nhổ mạ nỗi, còn ở Bắc thì cây mạ chỉ bằng bụi hành, người nhổ mạ ngồi trên một chiếc ghế con rứt từng tép như trẻ con đùa. Tôi lại nhớ những bài học về bản tính tư hữu của nông dân, và những phương pháp khắc phục. Tôi thấy khó viết hoặc không biết được về "cái chân" này. Tôi bèn quăng thân vào "cái chân" kia, tức là một nông trường mới thành lập ở Nghệ An để tìm đề tài và hy vọng sẽ viết được một quyển như Đất Vỡ Hoang (Terre Défrichée) của Sô-lô-cốp. Nhưng sau hơn năm lăn lóc ở đó, tôi cũng cảm thấy không viết được, mà nếu có viết ra được thì không nhà xuất bản nào dám in, nhược bằng có liều mạng mà in thì tác giả lẫn giám đốc xuất bản sẽ thù lao nhau trong Hỏa lò.

Cái khổ của tôi là đeo đẳng mộng văn thơ từ thuở còn là học trò, rồi lớn lên cũng vẫn cảm thấy mình không làm gi được ngoài viết văn.
Nỗi day dứt về quê hương và gia đình, cộng với những điều kỳ cục trong mấy năm dằng dặc trên đất Bắc làm cho tôi thấy mình đi lạc đường. Sống trong nước mình mà cứ tưởng nước ai. Do đó tôi quyết chí trốn về Nam, sống dưới gầm cầu cũng được. Nhưng ý chí là một chuyện, thực địa là một chuyện khác. Trốn ngã nào?
Trước nhất tôi khẳng định rằng: đi đâu cũng được, miễn ra khỏi miền Bắc thì thôi! Cho nên trước nhất, tôi nhắm mục tiêu cảng Hải Phòng. Ở đó có nhiều hoa tiêu, người Nam Bộ. Tôi xuống đó với lý do lấy đề tài miền Nam. Những đêm mưa lất phất tôi trùm áo mưa đi lang thang trên bến Sáu Kho nhìn những con tàu ngoại quốc ra vào, tàu Anh, tàu Pháp, tàu Ba Lan..., tôi muốn biến mình thành một loại lươn chạch đeo lái tàu để ra biển, rồi buông tay cho sóng xô tới đâu thì tới.
Ngủ nửa đêm nghe tiếng còi tàu vờn trên mặt sông, giật mình thức giấc, lệ dầm chan. Nhiều lần hoa tiêu Nam Bộ cho tôi cùng đi trên tàu hoa tiêu ra tận phao Zéro dắt tàu khách vào bến, hoặc đưa tàu từ bến ra tận phao Zéro. Tôi có định nhảy sang tàu ngoại quốc nhưng không dám. Đi kèm hoa tiêu có công an, hai ba trự.
Thôi đành chào Hải Phòng, tìm đường bộ thử xem. Nhìn lên bản đồ thấy tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An giáp Lào. Đường Bái Thượng, Hồi Xuân, La Hán ăn thấu ranh Lào. Cho nên tôi lại men vào các đơn vị Nam Bộ quen cũ đóng rải rác khắp các Huyện Nông Cống, Thọ Xuân, Bái Thượng. Qua được Lào thì việc về Sàigòn là chuyện quá dễ. Để tránh sự dòm ngó của bộ đội, tôi không sống với đơn vị mà ra ở với nhân dân.
Nhờ đó tôi nghe được tiếng dân than tự đáy lòng: "Bây giờ khó sống hơn thời Pháp!". Tôi bật ngữa ra. Hóa ra thế! Lúc bấy giờ chủ trương hợp tác xã đã thi hành dược đâu hơn ba năm rồi. Đọc báo Nhân Dân thì thấy phấn khởi lắm. Hợp tác xã sơ cấp ở khắp nơi. Nông dân đang đạp lùi Hợp tác xã sơ cấp để tiến lên Hợp tác xã trung cấp và Hợp tác xã cao cấp. Nghĩa là Bình Minh đã dậy. Với Kholkhoz, với nông trường quốc doanh, chủ nghĩa xã hội, bước đầu của chủ nghĩa cộng sản, đã lắp ló kia rồi. Toàn dân không anh dũng tiến lên ư?
Nhưng thực tế tôi đang sống ở Thọ Xuân thì nông dân được đảng "tác" mãi mà "bất hợp" hoặc nếu ngoài mặt có tác thì trong bụng lại không hợp, cũng như ta thường nói: bằng mặt chẳng bằng lòng. Còn ở Nam Bộ thì lại có câu: dạ trước mặt đấm C. sau lưng.
Hữu ngạn sông Chu có một cánh đồng chạy dài từ Bái Thượng đến Thọ Xuân. Bên thị trấn Bái Thượng có một đập nước rất lớn do Pháp xây từ lâu. Tôi thường đến đó vào những buổi trưa buổi chiều xem nước chảy qua những bậc đá như để giải phiền, hoặc tắm giặt, nhưng kỳ thực là để tìm đường.
Tôi ở trọ trong nhà một anh nông dân tên Tập. Anh chị có bốn con. Anh chính là người than với tôi như trên. Nhà anh mỗi năm thiếu 9 tháng ăn. Cấy xong vợ chồng quơ quào làm bất cứ nghề gì.Cò Tập rất khỏe mạnh. Hình dáng anh làm cho tôi liên tưởng tới người con trai trong Trống Mái ở Sầm Sơn. Bầy con anh, anh đặt tên rất vần: Tập (bố), Tành, Hành, Hẹ, Tỏi. Tôi nói: "Tập Tành thì phải Hành Quân, chớ sao lại Hành Hẹ?"
Anh bảo: "Hành quân đi chiến dịch, tôi biết rồi, khiếp lắm. Tôi muốn nó là hẹ nấu canh, tỏi chiên cá!" Tôi hơi thẹn. Tưởng mình đem văn hoa ra dạy dỗ người ta ai dè người ta có văn hoa của người ta. Chị Cò thì đau ốm luôn, còn anh Cò thì ngày nào cũng đi đốn củi trên rừng. Một gánh củi của anh bằng hai gánh của người khác. Các phiên chợ Đầm, chợ Lược, chợ Ngọc Lặc đều có củi của Cò Tập gánh tới. Làm khỏe như trâu mà nồi cơm nhà vẫn độn khoai. Đám con ăn khiếp quá, lắm khi cơm độn khoai không đủ cho chúng ngốn, phải nấu cháo sền sệt, nửa cơm nửa cháo. Hồi chiến dịch Điện Biên anh dẫn đầu xe thồ gạo từ Thanh Hóa đến Lai Châu. Anh được giấy khen và trong cải cách ruộng đất anh được cấp cho ba sào ruộng hạng ba thuộc vạc đất của một "ông địa chủ" đã bỏ đi Nam hồi 54.

Khi chánh sách Hợp tác xã được ban hành, nông dân trong xóm đều "tự nguyện" phá bờ ruộng riêng rẽ để làm ăn chung. Nhưng Cò Tập thì hẹn nay hẹn mai, mãi đến hai năm cũng không chịu phá bờ. Các ông bà xã viên thấy gân bờ ruộng Cò Tập cứ nằm ườn đó thì xốn mắt lắm bèn tìm cách bao vây, rún ép. Ban đầu, chất vấn. Cò Tập bảo: Vào Hợp tác xã là tự nguyện, ai muốn thì vào, ai không muốn thì thôi, không được bắt ép!" Quả thật Cò Tập nói đúng chánh sách nên kẻ chất vấn lại cụt lý. Nhưng cái lý do quan trọng nhất, anh không nói ra, là xã viên trây lười, kẻ làm ít cũng được chấm như người làm nhiều. Anh mà vào thì anh sẽ làm gấp đôi, nhưng anh cũng chỉ hưởng một công. Một công Hợp tác xã là mấy cân thóc, mấy cân khoai làm sao đủ trám miệng bầy nhóc của anh đang ăn khoe như vâm kia.
Thế là Cò Tập dằng dai bất hợp với Hợp tác xã. Đã thế thì ông bà xã viên tiếp tục bao vây. Ruộng Cò Tập nằm lọt thỏm ở giữa ruộng hợp tác, ông bà xã viên bịt đường ra vào. Cò Tập không nao, Cò Tập có thừa sức lội vòng ba lần để đến ruộng nhà.
Đó là thời kỳ xã hội chủ nghĩa bấp bênh nhất. Phong trào cải cách ruộng đất lố cồn, sửa sai qua loa đập dập, Nhân Văn Giai Phẩm vừa bị đè bẹp nhưng nhân tâm nghệ sĩ bất phục, Quỳnh Lưu đại loạn cũng vừa "dẹp" xong. Ở đây dân cư một số ra biển để trốn đi Nam, số còn lại thì xao xác hãi hùng. Bây giờ đến sự chống đối Hợp tác xã mấp mô nỗi lên. Để vỗ an, Trung Ương bèn cho ông đại tướng Nguyễn Chí Thanh cởi áo lính, mặc xi-vin, đi xe jeep có cần vụ mang cơm gà cá gỏi và nước ngọt quốc doanh theo hầu, đi một vòng từ thượng tới hạ... du, từ rốn miền Bắc đến thắt lưng vĩ tuyến 17, xem qua Hợp tác xã. Khi trở về, ông đại tướng trổ tài nói cho thơ ký ghi ra thành một bài chính trị - tùy bút pha chè tràng giang đại hải đăng cả chục kỳ trên báo Nhân Dân, với cái tên ca dao: "Cây Đa bến cũ, con đò khác đưa." Ý nói đất cũ người cũ nhưng với chánh sách mới của đảng, người và việc tiến vọt!
Cụ Hồ xem xong kêu chú Thanh thuỏng cho gói thuốc lá thơm Con Mèo Đen Ảng Lê và vỗ vai khen: "Chú có con mắt hơn mấy chú kia." Từ đó Hoàng Thượng ban cho Nguyễn cây giản bằng đồng chín đốt, tiền đả gian nhân hậu đả loạn thần nào dám chống chính sách Hợp Tác Xã của triều đình.

Hồi đại tướng chưa đeo giản còn chữa có ai dám cãi huông là nay đã đeo giản ấy rồi. Bài Cây Đa trở thành một thứ cẩm nang cho mọi tầng lớp cán bộ và xã viên hợp tác. Gặp khó khăn cứ giở ra, cẩm nang sẽ chỉ bảo cách khắc phục.



Một buổi trưa tôi đi tắm từ đập Bái Thượng về, thấy trong nhà vắng teo. Anh Cò đi rừng chưa về đã đành, còn chị Cò và bọn thằng Tành thằng Hành đâu? Tôi xuống bếp thấy nồi cơm vần trên than lạnh tanh bỏ đó. Tôi bước ra vườn ngó phía đồng. Lúa vừa gặt. Người ta đang làm gì mà chạy lố xố ngoài đó, về hướng ruộng Cò Tập. Tôi cảm thấy có chuyện chẳng lành, nên cũng tất tả chạy ra. Một vụ án mạng do Cò Tập gây nên, không đến nỗi chết người, nhưng có máu. Người ta vừa đem võng ra đến nơi và vực kẻ bị thương lên võng. Một cái chân của y bị chém đứt lìa đang nằm trên vũng máu, những bắp thịt co giật, những ngón chân hãy còn ngo ngeo. Tôi đã từng thấy như thế trong chiến tranh Nam Bộ. Tôi che mắt quay mặt. Cò Tập đang ngồi trên bờ ranh, mắt đỏ như mắt chó dại, con dao rừng quẳng bên cạnh. Công an, Chủ tịch, du kích rí rố bàn biện pháp...
Số là hồi chiến tranh, theo ông bà nông dân trong xóm vui miệng kể, thì một anh Tây tàu bay say rượu, lái tàu bay ngang đây bỏ chơi một trái bom. Trái bom nổ đúng gân bờ ranh tạo thành một cái giếng, miệng giếng thật tròn, một nửa nằm bên này, một nửa nằm bên kia bờ ranh. Cò Tập được chia ba sào đất có nửa cái giếng ấy và đây là nguyên do gần của án mạng hôm nay. Cái giếng lần hồi trở thành cái ao thu hút được rất nhiều binh tôm tướng cá đến trú ngụ. Cái bờ ranh bị thực dân phá vỡ kia, không một ai có ý định đấp lại, vì tốn rất nhiều công. Cho nên khi Cò Tập cắm thẻ nhận ruộng, tự nhiên một nửa cái mặt nước không nằm trên ruộng Cò Tập cũng trở thành của Cò Tập. Cò Tập thả rau muống, rào chà gai nên không ai câu được. Lợi lộc cá tôm rau rác Cò Tập hưởng từ cái ao đó làm nhiều người xốn mắt, nhất là Cò Tập khăng khăng không chịu vào hợp tác xã thì sự xốn xang lại càng có lý do dâng cao hơn. Nhiều xã viên định lấy về cho hợp tác nhưng Cò Tập tuyên bố nếu muốn lấy thì cứ lấy một nửa, nghĩa là đắp ranh ngăn đôi, chứ không cho lấy cả ao. Xã viên thấy rõ sự cương quyết của Cò Tập nên im luôn, để giữ cảm tình. Biết đâu nay mai còn nhờ riêng Cò Tập việc nọ việc kia. Hổm rày chị Cò ra vào thăm chừng ao để định ngày tát. Chị hớn hở nói với tôi: Năm nay chắc được mẻ to, nhà tôi thế nào cũng mời anh đánh chén một bữa đấy!" Tôi ừ ào cho qua, chứ thực tình tôi cho là tát lên giỏi lắm nửa giỏ cá, đánh một bữa thì còn gì bán. Ngày tát ao tôi sẽ kiếm cớ "chuyển quân."
Sáng hôm nay chị Cò ra thăm ao thì gặp người ta đang tát.Mấy ông xã viên chứ chẳng ai lạ. Họ đã được Ban quản trị cầm cán để dứt điểm Cò Tập. Có dứt điểm được Cò Tập thì sự thi hành chánh sách vùng này mới thông được. Cò Tập còn đứng đó, lại có vẻ phây phây hơn xã viên thì nhiều ông bà lung lay cái lập trường rục rịch đòi rút ra, mệt chánh sách lắm.
Thấy chị Cò, có người vọt miệng nói cợt:
"Năm nay chị cho chúng em biết mùi ao cạn hay sâu! Cái ao đáng lẽ ông Tập chỉ được một mép, mà hắn lại tóm cả hai, bên này lẫn bên kia luôn.
Người kia tiếp:
"Hái trái đếch nhớ kẻ trồng cây! Nhà bà ăn cá đã ba năm, cấm có quẳng cho bọn này cái xương đầu cá mút cho biết mặn nhạt."
Chị Cò nhỏ nhẹ:
"Tôi có biết cái gì đâu ạ! Các ông muốn gì hãy đợi bố nó về đã."
"Thằng Tập về đây thì đã có cái này hầu chuyện hắn." Một người mang súng, trật súng ra khỏi vai đánh rốp, nói.
Chị Cò chẳng dám đối đáp thêm nữa. Thấy cây súng chị càng hãi. Chị biết cây súng chẳng phải của hăn, mà là của thằng em vợ làm công an.
Về đến nhà, chị bảo thằng Tành chạy lên rú cho bố hay người ta tát cái ao. Cò Tập mới đốn được nửa gánh củi nhưng nghe con nói bèn bó gộp gánh về thẳng ruộng. Đến nơi gặp đám tát ao đang sửa soạn bắt cá. Cò Tập ném gánh củi, nư giận nổ bùng nhưng cố đấu dịu:
"Ơ, có con cá mè to quá! Được bao nhiêu chia hai nhé các cụ!"
Hai người tát ngừng tay, một người cười khề khề:
"Bố khỉ có tát gàu nào mà đòi chia!"

Người kia cũng hùa theo:
"Trước kia bảo chia hai, đằng ấy chẳng nghe, bây giờ hợp tác lấy cả."
"Ai bảo thế?"
"Thì nó là như thế, cần gì ai bảo?"
Cò Tập cố nén:
"Thôi, tôi chỉ xin vài con be bé đủ kho một bữa cho các cháu."

"Một cái nhớt cũng không cho ngửi!"
"Thôi thì các ông bắt cả thì bắt, nhưng mùa này thì tôi ngăn đôi, tôi tát phần tôi, hợp tác tát phần hợp tác!"
"Không có vụ ngăn đôi. Bờ người ta đang phá, bờ gì lại đắp?"
Ông có đeo súng đã bắt được con cá chép to, sấn tới trước mặt Cò Tập: "Cả ao là thuộc về hợp tác kể từ hôm nay - Đảng cấp đất cho anh là để anh vô hợp tác. Nếu đảng biết anh ngoan cố thì đảng chả cấp cho anh cả một hòn phân."

"Đảng bảo hợp tác là tự nguyện."
"Tự nguyện đối với những người giác ngộ kia, còn lạc hậu như anh thì phải có biện pháp mạnh!"
"Biện pháp mạnh là thế nào?"
"Là cúp phân, cắt phiếu! Mạnh nữa là đi tù!"
Cò Tập bật lại:
"Tù là những đứa khoét bồ hợp tác mang về nhà kia, cúp phân là cúp những đứa cho điểm vị tình nữ xã viên trây lười để tối tối mò tới kia!"
"Phản động!" - Ông kia trỏ mặt Cò Tập.


Cò Tập vẫn sấn tới và moi thêm những việc kín của hợp tác, làm ông kia nổi cáu vung tay định thoi Cò Tập. Cò Tập gạt phắc. Ông kia lùi lại nhưng bị cái gân bờ ranh phải gió cản chân làm ông ta bổ ngửa, cái đít đã lọt qua ruộng hợp tác còn đùi thì gác lên bờ ranh, bàn chân lại còn nằm bên ruộng Cò Tập. Ông ta chòi lia lịa cố đứng dậy nhưng tay bị kẹt vào lỗ nẽ không rút lên được, còn tay kia lại mắc cầm con cá chép. Thấy Cò Tập có vẻ tấn công mạnh hơn, ông ta la hoảng: "Đem súng đây!" Cây súng ông ta vừa đút vô bụi để rảnh tay bắt cá.

Cò Tập bất thần rút con dao rừng ra khỏi cái vỏ gỗ to xù đeo ở thắt lưng bằng sợi dây da trâu. Con dao rộng bản, anh từng khoe với tôi, rèn bằng díp xe ô tô, cây to bằng cổ chân phạt ngọt như chuối. Một tiếng "phật". Dao sắc thế, cái đùi lại kê trên bờ ranh như nằm trên thớt, gì mà chẳng lìa!

Chiều hôm đó, tôi cuốn gói đi để khỏi phải thấy những chuyện buồn của gia đình anh Tập và nhất là để khỏi nghe bọn thằng Tành khóc sau khi anh Tập bị trói dẫn đi.
Mãi hơn một năm sau tôi có dịp về Thọ Xuân. Bất ngờ tôi gặp một người quen vùng Cò Tập. Tôi lôi anh ta vào một quán nước vối, thết anh một tô đầy. Không đợi tôi hỏi, anh ta nói ngay:


"Cò Tập đi tù. Ruộng bị tịch thu!"
"Còn cái ông kia?"
"Chống nạng nhưng không được lãnh sổ thương binh."
"Không chết là may!"
"Hợp tác cũng không trợ cấp, lấy cớ là hợp tác không chủ trương mà do mấy người kết bè làm càn."
"Còn chị Cò và mấy đứa nhỏ?"
"Lo gì, chị ấy được ông Phó chủ nhiệm tới lui giúp đỡ thường xuyên."
Vậy là gia đình Cò Tập tan nát. Tôi hiểu tiếng "giúp đỡ" qua giọng nói chế giễu của anh chàng.


Tôi cứ luôn luôn tự hỏi: Hợp tác xã thắng nổi óc tư hữu của nông dân không? Ngó chừng khó tiêu diệt hơn Điện Biên Phủ. Mà thật vậy. Nó đã được chứng minh qua vụ cái hố vệ sinh và cái ao con. Tôi thầm nghĩ: giá mà ông đại tướng ổng đi xe jeep đến đây để chứng kiến cái vụ này ngay trên mép cái ao, một nửa là cá thể một nửa là hợp tác, thì có lẽ Cây Đa của ông sẽ có thêm cành lẫn củ. Nhưng chắc chắn ông sẽ không bao giờ chịu nghe nguyện vọng của dân mà ông càng chà đạp lên đó. Người cộng sản bao giờ cũng giải thích mọi sự việc theo ý định của họ chứ không hiểu nó theo luật tự nhiên.
Ông sẽ bảo: "sự việc Cò Tập chỉ là hiện tượng chứ không phải là bản chất. Đây chỉ là việc lẻ tẻ không phải phổ biến. Bản chất nông dân là đoàn kết đấu tranh chống giặc thì họ cũng sẽ đoàn kết khắc phục khó khăn trong sản xuất." Hoặc nữa. "đó là tự phát chứ không phải tự giác." Sở dĩ Cò Tập hành động như vậy là vì anh ta chưa thấm nhuần chính sách. (Còn các bệnh trây lười, moi vựa đem về nhà là hiện tượng hay bản chất, là tự phát hay tự giác?) Người cộng sản là loại người quá tự phụ, bởi thế, không bao giờ dám nhận lỗi lầm. Có chăng thì rồi cũng kiếm cớ đổ dấy phần lớn cho kẻ khác.
Rất tiếc tác giả bài tùy bút "Cây Đa" nay không còn ở trên trần thế để nối thêm một đoạn dài cho đọc giả báo Nhân Dân thưởng thức.
Vâng, Cây Đa bến cũ, con đò xưa ọp ẹp nhưng chuyến nào sang cũng đến bến. Còn con đò bây giờ của đảng ông đưa đã chắc gì mới hơn? Khách trên đò kinh hãi không phải vì sông to vì nước cả, không phải vì đò nát, vì cặp chèo ngắn mà chính vì lái ẩu lái ngu, lạch xuôi không đi, lại cứ nước ngược mà lao vào. Cho nên từ bấy đến nay chưa có chuyến nào đến bến.
Đò hiện giờ đang ở giữa dòng nước xoáy, đinh long ván vỡ và nước tràn vào. Đã bao nhiêu lần đò thay lái. Tưởng đã thoát nguy, nhưng không, đò vẫn lao sâu vào dòng thác lũ và đang đắm. Chắc chắn sẽ đắm. Lái có mù hay không mà chẳng thấy khách hoảng hốt nhảy khỏi đò, bơi lấy thân?
4-86


TIN BIỂN ĐÔNG

Nhật phê phán TQ về Biển Đông

Cập nhật: 03:13 GMT - thứ ba, 14 tháng 1, 2014
Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản, Itsunori Onodera nói các quy định nghề cá do tỉnh Hải Nam của Trung Quốc đưa ra có hiệu lực từ 1/1/2014 chỉ khiến cộng đồng quốc tế lo ngại.
Phát biểu này của phía Nhật đã bị Trung Quốc bác bỏ hôm nay 13/1/2014.
Bà Hoa Xuân Oánh, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đã nói trong ngày rằng phía Trung Quố

 c “hoàn toàn không thoải mái” về phát biểu của quan chức Nhật Bản.
Phía Trung Quốc cũng nhắc rằng Nhật Bản không hề có liên quan gì đến Biển Đông.
Quy định của tỉnh Hải Nam nói các tàu thuyền đánh cá nước ngoài phải xin phép khi vào ‘vùng biển thuộc thẩm quyền của chính quyền đảo Hải Nam ở Nam Hải”.
Tỉnh này định nghĩa khu vực do họ quản lý chiếm gần hết Biển Đông và họ bác bỏ các tuyên bố chủ quyền từ Philippines, Đài Loan, Malaysia, Brunei và Việt Nam, theo Reuters.
Tuần trước, Hoa Kỳ đã nói tuyên bố đòi hỏi của Trung Quốc buộc ngư dân nước ngoài đánh bắt ở Biển Đông phải xin phép là 'khiêu khích và nguy hiểm'.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng ngay lập tức đã phản hồi lại bình luận của phía Hoa Kỳ, qua lời bà Hoa Xuân Oánh nói rằng "Chúng tôi bày tỏ sự không hài lòng và phản đối những nhận xét của phía Hoa Kỳ."
Phía Trung Quốc khi đó nói, "Trong 30 năm qua, các quy định về ngành thủy hải sản có liên quan của Trung Quốc đã được thực hiện nhất quán một cách bình thường, và chưa bao giờ gây ra bất kỳ căng thẳng nào".
Hiện quan hệ Trung Quốc với Nhật Bản vẫn căng thẳng vì các tranh chấp quanh nhóm đảo Senkaku/Điếu Ngư ở biển Hoa Đông.

Thêm về tin này

Các bài liên quan

  • Mỹ chỉ trích TQ về Biển Đông
    10.01.14
  • 'Không có tiếng súng ở Biển Đông'
    11.01.14
  • Trung - Nhật tranh cãi trên sóng BBC
    06.01.14
  • TQ tăng cường khống chế Biển Đông
    09.01.14
  • Mâu thuẫn Biển Đông được hâm nóng lại?
    13.01.14
     
     Việt Nam, Philippines, Đài Loan bác bỏ quy định đánh cá mới của TQ
    CỠ CHỮ
    Việt Nam, Philippines và Đài Loan cùng lên tiếng phản đối quy định đánh bắt cá Trung Quốc đòi ngư dân nước ngoài phải xin phép Bắc Kinh để được hoạt động tại Biển Đông.

    Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị hôm thứ Sáu nói rằng những hoạt động của phía Trung Quốc là “bất hợp pháp và vô giá trị, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam,” và yêu cầu Trung Quốc “hủy bỏ những việc làm sai trái.”

    Hội Nghề cá Việt Nam cũng lên tiếng phản đối quy định mới của chính quyền tỉnh Hải Nam.Phó chủ tịch hội, ông Võ Văn Trác, bày tỏ quan ngại rằng những hành động của Trung Quốc sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những ngư dân, kế sinh nhai và gia đình của họ.

    Về phần mình, Bộ Ngoại giao Philippines nói những quy định mới của Trung Quốc "làm leo thang căng thẳng, làm phức tạp tình hình ở Biển Đông một cách không cần thiết, và đe dọa đến hòa bình ổn định của khu vực."

    Philippines cho biết đã yêu cầu đại sứ quán của mình ở Trung Quốc làm rõ những quy định này.

    Đài Loan nói rằng họ không công nhận bất kỳ động thái hay tuyên bố đơn phương của bất kỳ nước nào, và kêu gọi các bên tuyên bố chủ quyền tuân thủ luật pháp quốc tế, giải quyết tranh chấp lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình.

    (AP, Kyodo News)
     

      Mỹ, các nước Á châu chỉ trích TQ về qui định mới ở Biển Đông

    Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị
    Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị
    CỠ CHỮ
    Hoa Kỳ và các nước khác ở Á châu Thái bình dương đã lên tiếng chỉ trích các qui định mới của chính quyền tỉnh của Trung Quốc nhằm hạn chế hoạt động ngư nghiệp của tàu nước ngoài trong vùng biển có tranh chấp ở Biển Nam Trung Hoa mà Việt Nam gọi là Biển Đông.

    Hôm thứ Năm, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Jen Psaki nói rằng hành động này của Trung Quốc sẽ làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông.

    Bà Psaki nói “Việc thông qua những hạn chế này đối với hoạt động ngư nghiệp của các nước khác trong những khu vực có tranh chấp ở Biển Đông là một hành động có tính chất khiêu khích và có thể gây nguy hiểm.”

    Trong cuộc họp báo thường lệ hôm thứ Sáu, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh, phản bác những phát biểu của Washington.

    Bà nói “Chúng tôi bày tỏ sự thất vọng và chống đối đối với những phát biểu liên hệ của Hoa Kỳ mà quí vị vừa nói tới.

    Mọi người ai nấy đều biết Trung Quốc là một nước bao quanh bởi đất liền và biển, có một bờ biển dài và có rất nhiều hải đảo. Dựa theo luật pháp quốc tế và các công ước quốc tế, cùng với luật lệ và qui định của quốc gia, chính phủ Trung Quốc có quyền và bổn phận quản lý các hải đảo liên hệ cũng như các tài nguyên phi sinh học.”

    Theo những qui định mới, do chính quyền tỉnh Hải Nam của Trung Quốc ban hành, tất cả các tàu đánh cá nước ngoài phải xin phép giới hữu trách Trung Quốc trước khi đi vào vùng biển mà Bắc Kinh cho là thuộc chủ quyền của họ.

    Những qui định mới, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2014, áp dụng cho gần 2/3 diện tích 3 triệu rưỡi cây số vuông của Biển Đông, nơi Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền với Việt Nam, Philippines, Đài Loan, Malaysia và Brunei.

    Trong một thông cáo công bố hôm thứ Sáu, Bộ Ngoại giao Philippines nói rằng những diễn tiến mới này “làm leo thang căng thẳng, làm cho tình hình Biển Đông trở nên phức tạp một cách không cần thiết và đe dọa tới hòa bình và ổn định của khu vực.”

    Việt Nam cũng phản ứng trước hành động của Trung Quốc bằng cách tái khẳng định yêu sách chủ quyền đối với vùng biển có nhiều tài nguyên này.

    Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị hôm thứ Năm tuyên bố Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và tất cả những hoạt động của nước ngoài không có sự chấp thuận của Việt Nam trong khu vực này đều là bất hợp pháp và không có hiệu lực.

    Vụ tranh cãi về các qui định mới của Trung Quốc ở Biển Nam Trung Hoa xảy ra tiếp theo sau việc Bắc Kinh tuyên bố thiết lập một Vùng nhận dạng phòng không mới trong khu vực có tranh chấp ở Biển Đông Trung Hoa, nơi Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền biển đảo với Nhật Bản và Nam Triều Tiên. Vùng nhận dạng phòng không đó đã gặp phải sự chỉ trích kịch liệt của Hoa Kỳ, Nhật Bản và Nam Triều Tiên.

    Giờ đây các nhà phân tích đang tranh luận với nhau về vấn đề là trong thời gian tới đây Trung Quốc có tuyên bố một vùng nhận dạng phòng không mới ở Biển Nam Trung Hoa hay không.

     

    TQ phản bác chỉ trích của Nhật Bản về quy định đánh bắt cá

    Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Doanh nói rằng quan chức Nhật Bản lên tiếng chỉ trích Trung Quốc 'trước tiên hãy tìm hiểu đầy đủ luật pháp và quy định của Trung Quốc'
    Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Doanh nói rằng quan chức Nhật Bản lên tiếng chỉ trích Trung Quốc 'trước tiên hãy tìm hiểu đầy đủ luật pháp và quy định của Trung Quốc'
    CỠ CHỮ
    Bắc Kinh đã phản ứng mạnh mẽ về chỉ trích của Nhật Bản đối với quy định hạn chế đánh bắt cá mới mà Trung Quốc vừa áp đặt ở Biển Đông, lưu ý rằng Nhật Bản không hề liên quan trực tiếp đến vấn đề.

    Trong cuộc họp báo ngày thứ Hai, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Doanh nói rằng quan chức Nhật Bản lên tiếng chỉ trích Trung Quốc “trước tiên hãy tìm hiểu đầy đủ luật pháp và quy định của Trung Quốc” và rằng Nhật Bản có “động cơ thầm kín.”

    Hôm Chủ nhật, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera nói rằng quy định về đánh bắt cá được chính quyền tỉnh Hải Nam của Trung Quốc phê duyệt, có hiệu lực từ ngày 1 tháng Giêng, khiến cộng đồng quốc tế lo ngại.

    Ông Onodera nói

    “Đơn phương ban hành quy định như thể xem vùng biển là của riêng mình và áp đặt những hạn chế lên tàu đánh cá là điều mà quốc tế không chấp nhận được”.

    Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản cho rằng động thái này đến quá sớm sau khi Trung Quốc đơn phương xác lập khu vực nhận dạng phòng không vào cuối năm ngoái.

    Quy định mới bắt buộc tàu đánh cá nước ngoài phải xin phép Trung Quốc để đi vào vùng biển tranh chấp ở Biển Đông mà chính quyền địa phương nói thuộc thẩm quyền của mình.

    Phát ngôn viên Hoa nói quy định này là một sự sửa đổi hoàn toàn mang tính kỹ thuật đối với luật đánh bắt được áp dụng từ 30 năm nay.

    Tuần trước, Mỹ gọi quy định mới của Trung Quốc ở Biển Đông là "khiêu khích và có thể gây nguy hiểm". Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã bác bỏ phát biểu này và cáo buộc Mỹ can thiệp vào nội bộ khu vực.

    Quy định mới này cũng khiến những nước đang có tranh chấp lãnh hải với Trung Quốc như Việt Nam và Philippines lên tiếng phản đối.
     http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-phan-bac-chi-trich-cua-nhat-ban-ve-quy-dinh-danh-bat-ca/1829274.html

    TQ không cho tàu cá nước ngoài hoạt động ở phần lớn Biển Đông

    Theo qui định mới, tất cả các tàu đánh cá nước ngoài đi vào khu vực quản lý hành chánh mới của Hải Nam phải có sự cho phép của giới hữu trách Trung Quốc.
    Theo qui định mới, tất cả các tàu đánh cá nước ngoài đi vào khu vực quản lý hành chánh mới của Hải Nam phải có sự cho phép của giới hữu trách Trung Quốc.
    CỠ CHỮ
    Trung Quốc ra lệnh cho tàu đánh cá nước ngoài phải xin phép chính quyền địa phương trước khi đánh bắt hoặc thăm dò tại 2/3 diện tích Biển Đông, nơi Bắc Kinh có tranh chấp chủ quyền với Việt Nam, Philippines, Đài Loan, Malaysia và Brunei.

    Theo tin của hãng thông tấn AP, lệnh mới này bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2014 sau khi được công bố bởi chính quyền tỉnh Hải Nam hồi hạ tuần tháng 11 năm ngoái.

    Theo qui định mới, tất cả các tàu đánh cá nước ngoài đi vào khu vực quản lý hành chánh mới của Hải Nam phải có sự cho phép của giới hữu trách Trung Quốc.

    Qui định mới còn nói rằng tàu nào vi phạm sẽ bị xua đuổi, cá tôm bắt được sẽ bị tịch thu và bị phạt vạ với tiền phạt lên tới 82.600 đô la; và trong một số trường hợp, tàu đánh cá có thể bị tịch thu và thủy thủ trên tàu sẽ bị truy tố theo luật pháp Trung Quốc.

    Đây là lần đầu tiên Trung Quốc đưa ra một yêu sách pháp lý rõ ràng đối với ngư trường nằm trong phạm vi của đường chín đoạn đứt khúc, thường được gọi là “đường lưỡi bò” mà Trung Quốc tự ý vạch ra và cho là “hải phận lịch sử” của họ.

    Bộ Ngoại giao Việt Nam chưa bình luận gì về các qui định mới của Trung Quốc. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Philippines, ông Raul Hernandez, hôm nay cho biết chính phủ ở Manila đang xác minh tin này với các đại sứ quán của họ ở Bắc Kinh và Hà Nội.
    Hãng thông tấn AP trích thuật tin tức của báo chí do nhà nước kiểm soát ở Việt Nam cho biết một chiếc tàu hải giảm của Trung Quốc đã tông vào một chiếc tàu đánh cá của Việt Nam hôm 3 tháng 1 gần quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa). Trong vụ việc đầu tiên sau khi Trung Quốc đưa ra qui định mới, lính Trung Quốc đã dùng súng điện và dùi cui đánh đập các ngư phủ Việt Nam và tịch thu 5 tấn cá cùng với ngư cụ của họ.

    Các nhà phân tích cho rằng hành động này của Trung Quốc có phần chắc sẽ làm cho vụ tranh chấp ở Biển Đông trở nên căng thẳng hơn. Ông John Tkacik, một chuyên gia về Trung Quốc từng làm việc tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, nói rằng “Đây là một diễn tiến quan trọng, nhưng không phải là bất ngờ.” Ông nói thêm rằng việc tuyên bố khu vực quản lý mới của tỉnh Hải Nam dường như là một phần của chính sách của Trung Quốc nhằm siết chặt dần dần sự kiểm soát của họ trong khu vực.

    Theo ông Tkacik, Bắc Kinh đang bước ra khỏi sự mơ hồ trước đây về qui chế pháp lý của “đường chín đoạn” để ban bố “một biện pháp cấp tỉnh” để xem phản ứng của các nước khác như thế nào. Ông Tkacik cho biết các nước Đông Nam Á có thể thông qua Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển để thách thức vùng cấm đánh cá mới của Trung Quốc. Ông nói rằng “Với loan báo này, Trung Quốc rõ ràng là đang xem thường công ước của Liên hiệp quốc.”

    Trung Quốc và Việt Nam từng xảy ra nhiều vụ đụng độ quân sự ở Biển Đông trong 40 năm qua. Năm 1974, Trung Quốc đã dùng sức mạnh để chiếm quần đảo Hoàng Sa từ tay chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Năm 1988, hải quân Trung Quốc cũng đã tấn công các lực lượng hải quân Việt Nam để chiếm đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa), gây tử vong cho hơn 60 binh sĩ Việt Nam. Năm 2005, các tàu của Trung Quốc đã bắn vào hai chiếc tàu đánh cá của Việt Nam, giết chết 9 người.

    Các đoạn phim video do phía Việt Nam đăng tải trên internet cách nay vài năm cũng cho thấy các tàu tuần của Trung Quốc nổ súng bắn vào các ngư phủ Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa.
     
 

No comments:

Post a Comment