Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Wednesday, 23 November 2016

VĂN QUANG = NGUYỄN THIÊN THỤ= HUẾ=TRUYỆN NGỰA

 VOA * HÌNH ẢNH THẾ GIỚI

Thế giới qua ảnh ngày 18 tháng 11, 2013

Phổ biến ngày 18.11.2013
br>THỬ TÀI CHỤP ẢNH CỦA BẠN
Hãy gửi cho VOA những bức ảnh của bạn và ảnh của bạn có thể sẽ xuất hiện trong chuyên mục Thế giới qua ảnh của chúng tôi! Cách gửi ảnh.
Bấm vào đây để xem thêm.



1
Khói bốc lên từ thân ống khói của một nhà máy điện sử dụng khí đốt sau khi mặt trời lặn ở vùng ngoại ô thủ đô Minsk, Belarus.


2
Ứng viên Tổng thống Chile Michelle Bachelet vẫy chào người ủng hộ trong một buổi vận động tranh cử tại thủ đô Santiago. Bà Bachelet nắm chắc phần thắng trong cuộc bầu cử tổng thống, mặc dù bà sẽ phải đợi đến vòng bỏ phiếu lần hai vào tháng sau để đóng dấu chiến thắng.


3
Quân nổi dậy thuộc Quân đội Syria Tự do dùng súng máy hạng nặng chiến đấu chống lại lực lượng chính phủ ở khu dân cư Salah al-Din thuộc thành phố Aleppo phía bắc Syria.


4
Một người đàn ông bám đầy bụi làm việc tại một mỏ vàng lộ thiên ở làng Lukingi trong vùng Mubende, khoảng 150 km về phía tây nam thủ đô Kampala của Uganda, ngày 17 tháng 11, 2013.


5
Núi lửa Sinabung phun tro nhìn từ làng Sibintun ở huyện Karo, Indonesia.


6
Tàu thám hiểm sao Hỏa MAVEN của NASA trên bệ phóng ở Cape Canaveral, bang Florida, Mỹ. MAVEN bắt đầu cuộc hành trình 10 ngày trên sao Hỏa từ ngày 18 tháng 11 năm 2013 và sẽ thực hiện những đo đạc quan trọng về bầu khí quyển trên sao Hỏa để giúp các nhà khoa học hiểu được sự biến đổi khí hậu trong lịch sử của Hành tinh Ðỏ.

7
Dọn dẹp tuyết trên đường phố ở thành phố Cát Lâm, tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc.

8
Một chiếc xe chỏng chơ trên đống mảnh vỡ do lốc xoáy gây ra khi quét qua thành phố Washington thuộc bang Illinois, Mỹ, ngày 17 tháng 11, 2013. Một hệ thống bão di chuyển nhanh gây ra nhiều cơn lốc xoáy, giết chết ít nhất 5 người, làm bị thương khoảng 40 người và san phẳng phần lớn thành phố Washington như nó quét qua vùng Trung tây.

9
Một du khách đi qua hai hàng rào thép gai điện tại khu tưởng niệm Auschwitz-Birkenau nơi từng là một trại tập trung người Do thái ở Ba Lan.

10
Ban công tròn, đóng cửa kể từ năm 1920, và một cầu thang xoắn ốc mới, tại Phòng triển lãm tranh Quốc gia ở trung tâm London, Anh.

11
Các vị sư chuẩn bị thả đèn trời sau khi buổi lễ trong lễ hội Hoa đăng tại một ngôi chùa ở Chiang Mai, Thái Lan, ngày 17 tháng 11, 2013.

12
Một người phụ nữ ở Nairobi, Kenya, hoàn tất một món đồ chơi động vật được làm từ những mảnh dép vứt đi

13
Lính cứu hỏa và nhân viên cứu hộ làm nhiệm vụ tại địa điểm xảy ra vụ tai nạn máy bay chở khách của Nga gần Kazan, thủ phủ nước cộng hòa Tatarstan , khoảng 720 km về phía đông thủ đô Moscow, ngày 17 Tháng 11, năm 2013.

14
Nông dân người Tamil ở Srilanka chở vỏ dừa ở Jaffna, cách thủ đô Colombo 400 km về hướng bắc.

15
Một giống nấm có tên khoa học là Amanita muscaria loại nấm mọc ở thành phố phía tây Thorigné- Fouillard của Pháp. Nấm này là một trong những loại nấm đặc trưng nổi bật nhất với mũ đỏ và những đốm trắng, nổi tiếng với tính độc của nó và khả năng gây ảo giác.

16
Cây thông Noel đẹp mắt được thắp sáng ở Los Angeles, bang California, Mỹ, ngày 17 tháng 11, 2013.:


VĂN QUANG * TẠI SAO DÂN TÔI KHỔ?







Tại sao dân tôi khổ thế này? (kỳ 1)
Văn Quang – Viết từ Sài Gòn


VienDongDaily.Com – 14/09/2013
http://www.viendongdaily.com/tai-sao-dan-toi-kho-the-nay-ky-1-iSXkRVci.html

Trước hết mời bạn đọc một vở kịch ngắn của một độc giả trên tờ báo Người Lao Động ngày 4-9-2013 vừa qua. Vở kịch không có tên và tác giả có cái biệt danh rất lãng mạn là Ngấn Lệ Hoàng Hôn. Nghe cái tên này không thể đoán biết là nam hay nữ. Chỉ hiểu lơ mơ rằng đó là những giọt nước mắt khóc vào lúc hoàng hôn. Nhưng tất cả không quan trọng bằng ý nghĩa thật của nó. Mời bạn đọc ghé thăm màn kịch ngắn này:



- Kịch 1 màn. 1 nhân vật độc thoại.

Nhân vật vào vai thanh tra môi trường, bụng to như cái trống, lom khom lúi húi đếm cái gì đó trong phong bì, rồi cất vào túi và ngửng đầu lên, nhìn xuống sân khấu và nói, “Thưa các đồng chí, thưa bà con sở tại, môi trường ở đây tốt lắm! Các giếng nước rất ngọt và mát, đảm bảo chất lượng môi sinh và vi sinh. Không có dấu hiệu nhiễm độc nước ăn vì thuốc trừ sâu phế thải! Bà con yên tâm cứ xài nước thoải mái, và nếu cần thì bịt khẩu trang khi ngủ, cho nó … êm lỗ mũi, nhé. Xin chào tạm biệt, cuối năm chúng tôi sẽ lên kiểm tra tiếp, nhé”! Hạ màn! (Tác giả: Ngấn Lệ Hoàng Hôn)

Phim và kịch

Vở kịch ngắn tủn nhưng lại nói lên rất nhiều điều phải nói với bà con cô bác. Chắc chắn vở kịch không bao giờ được diễn nhưng nó lại có thật ngoài đời. Thường là như thế, cái có thật khó được phơi bày, cái không thật lại được phô trương rất náo nhiệt. Vở kích tuy ngắn tủn nhưng còn hơn nhiều cuốn phim VN bây giờ, mất hàng chục tỉ, khoe một lô chân dài, một loạt nhà cửa xe cộ choáng lộn, hàng chục anh hùng đường phố oánh lộn tung bừng, phóng xe gắn máy như điên và những cuộc tình vớ va vớ vẩn kiểu yêu đương “dở dăng dở đèn”… Phim chẳng ra phim, hài “rẻ tiền,” đôi khi thô tục, chẳng nói lên được điều gì.

 
Ngoài ra khi xem bất kỳ phim nào, khán giả cũng được hầu hết các đài dộng một đống quảng cáo vào mặt. Cứ chừng 10 phút lại một loạt quảng cáo dài lê thê. Có những màn quảng cáo lố bịch, xấu hoắc, ông bà chủ nhà thuốc nào đó thích lên ti vi, bèn làm quảng cáo thuốc bổ tì bổ thận, vợ chồng lên ti vi rao hàng. Mắt lé, da ngăm, miệng rộng, chân ngắn, nói dai, nói dài, nói dở… Vậy mà, nếu cứ tính trung bình, một ngày xem phim phải xem vài chục lần như thế, làm sao chịu nổi! Khán giả có cảm tưởng tốn tiền thuê bao bị các đài ép xem toàn quảng cáo! Chưa kể đến khi đang xem, màn hình bỗng tắc tịt không rõ lý do. Riêng đài K+ cứ mưa là nghỉ chơi, chỉ có cái thông báo “Tín hiệu thấp, xin xem lại đường truyền hoặc gọi số 19001592 để được hỗ trợ,” xem lại đường truyền hay gọi số ĐT cũng vô ích, chẳng giải quyết được gì. Người ta đành hậm hực tắt máy. Người thuê bao luôn chịu lép vế.


Quay lại với vở kịch không tên ngắn tủn của độc giả trên đây, độc giả đọc chơi còn thú vị hơn xem phim VN. Thật ra vở kịch chỉ thay cho một lời bình luận, ai cũng viết được, nó chỉ mang một “thể loại” khác hơn mà thôi. Vài động tác ngắn gọn, vài lời thoại giản dị mộc mạc, biểu hiện cho một nỗi phẫn nộ bởi thói gian lận, thói vô cảm, sự tha hóa lương tâm đang diễn ra trong cuộc sống. Nỗi đau, sự cô đơn làm nước mắt của người dân chảy dài trong buổi hoàng hôn của nền kinh tế, của cuộc đời nghèo đói bệnh tật. Đó là một thông điệp bằng nước mắt gửi tới những người có trách nhiệm. Thôi thì tạm lấy tên tác giả làm tiêu đề vở kịch, “Ngấn Lệ Hoàng Hôn” cho dễ nhớ. Nhưng vì sao lại có vở kịch này?

Người dân tự đi tìm chứng cớ
Nguyên do bắt nguồn vào ngày 26-8, hàng trăm người dân các xã Cẩm Vân, Cẩm Tâm, huyện Cẩm Thuỷ và xã Yên Lâm, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa đã tự kéo nhau ra chặn chiếc xe tải bị nghi ngờ chở thuốc trừ sâu của Công ty CP Nicotex Thanh Thái đi “phi tang” trước khi có đoàn đến thanh kiểm tra công ty.

Để làm rõ sự thật, sáng ngày 30-8, hàng trăm người dân đã tràn vào phía trong khuôn viên của Công ty CP Nicotex Thanh Thái “khai quật” lên hàng chục phuy đựng hóa chất bị hoen gỉ chôn sâu dưới lòng đất. Nhiều gói thuốc bảo vệ thực vật nhãn hiệu Nitrin 100EC cùng với nhiều vỏ chai nhựa, nắp chai, vòng sắt gỉ cũng được tìm thấy.

Trong khi, toàn bộ gia đình dân các xã Cẩm Vân, Cẩm Tâm, Yên Lâm đều sử dụng mạch nước nguồn ngay cạnh sát công ty để ăn. Gần 10 năm trời lại đây, tại các thôn xóm này đã có rất nhiều người mắc đủ thứ bệnh ung thư, tôi sẽ nói rõ ở đoạn sau.
Số người mắc bạo bệnh liên quan tới việc ô nhiễm môi trường do việc chôn lấp thuốc trừ sâu trong lòng đất đã và sẽ còn gây ra ảnh hưởng tai hại nghiêm trọng chưa thể biết chắc chắn. Nhưng chắc chắn, sự “ô nhiễm” về tư duy, về ý thức, về lương tâm và cách hành xử ảnh hưởng tới sự an lành, an sinh của người dân, của Công ty Nicotex Thanh Thái, là quá rõ.


Sự cô đơn của người dân

Sau đó, người dân tràn vào cả khuôn viên công ty đào bới tìm kiếm “vật chứng” tội ác, nói lên một điều rất đáng buồn “người dân cô đơn quá” khi họ không thể trông chờ vào hành động tích cực nào của các ngành, các cấp, các cơ quan chức năng bảo vệ cho quyền lợi, cho sự sống an lành của họ nên buộc họ phải tự cứu mình. Cái khẩu hiệu “vì dân” mà các bác hay lớn tiếng phát biểu, không biết đang cất giấu ở đâu?

Trước đó, người ta chưa quên vụ dân làng xã Duy Tân, huyện Kinh Môn (Hải Dương), đã phải tự lập “chiến lũy,” đối đầu chống lại công ty Trường Khánh, chuyên sản xuất sản xuất Pro Niken, thứ hóa chất dùng trong mạ hợp kim, khiến môi trường sống của họ bị đe dọa, vì họ cũng cô đơn quá.
Giờ, đến lượt người dân các xã thuộc Cẩm Thủy, Yên Định lại đi theo con đường đau khổ của người dân huyện Kinh Môn.

Cô đơn, vì người dân các xã cho rằng, trong việc này, có dấu hiệu cơ quan chức năng bao che cho công ty, ngăn cản họ, dù họ phát hiện có tới 15 phuy hóa chất không rõ nguồn gốc còn bám đầy đất đỏ bên ngoài vỏ phuy, đang được công ty đưa đi tẩu tán.
Cô đơn hơn nữa, vì từ 15 năm nay, người dân đã kêu cứu. Nhưng dường như các cơ quan chức năng không nghe thấy gì hết.

Năm nào cũng đi kiểm tra, nhưng kiểm tra ngoài hàng rào


Để đến khi vụ việc vỡ lở, bùng phát dữ dội, mới thấy các cơ quan chính quyền các cấp, vội vàng lao vào cuộc. TừUBND tỉnh đếnPhòng Cảnh sát môi trường, Công an tỉnh, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với chính quyền địa phương, sớm làm rõ những vi phạm của Công ty NicotexThanh Thái, đồng thời có biện pháp chấn chỉnh. Nói là “sớm,” nhưng thật ra là quá muộn!
Tệ nhất, là năm nào Sở Tài Nguyên – Môi Trường (TN- MT) Thanh Hóa cũng đều có các đoàn lên kiểm tra mỗi năm một lần, nhưng lần nào cũng… báo trước. Và ông Chi Cục trưởng Chi cục Bảo vệ môi trường cho biết, “Năm nào cũng thanh tra – kiểm tra, nhưng ngoài tường rào(!)” (Theo báo Lao động, ngày 4/9).


Tiêu hủy tốn kém nên cứ tự ý chôn lấp chất độc, ai chết mặc ai


Về sự tàn phá của chất thải này, hãy nghe ý kiến của ông Lâm Vĩnh Ánh (Cục Kỹ thuật, Binh chủng Hoá học- Bộ Quốc phòng):
“Việc tự ý chôn lấp nêu trên của Công ty cổ phần Nicotex Thanh Thái sẽ gây nguy hại cho môi trường, nhất là khi gặp mưa chất độc sẽ phát tán ra môi trường xung quanh.

Nếu doanh nghiệp (DN) xử lý kỹ thuật rồi mới chôn lấp, thì việc làm đó phải được cơ quan chức năng biết và kiểm tra, đánh giá xem việc xử lý đến đâu, có đạt các tiêu chuẩn quy định không.Tuy nhiên, có thể do việc tiêu hủy theo đúng quy định chôn đốt khá tốn kém (khoảng 25-50 triệu đồng/tấn) nên DN đã “trốn” việc tiêu hủy theo đúng quy trình mà tự chôn lấp.”
Tất cả sự tha hóa của những kẻ tham nhũng, nhóm lợi ích, cho đến chuyện chôn lấp hóa chất độc hại, bất kể số phận, tính mạng người dân ra sao, cũng do sự tha hóa lương tâm của những kẻ có trách nhiệm.


Quan thanh tra nói như không có chuyện gì xảy ra


Liên quan tới việc Cty Nicotex Thanh Thái bị “tố” chôn hóa chất độc hại xuống đất gây ô nhiễm môi trường, chiều ngày 4/9, ông Trịnh Quốc Huy, Chánh thanh tra Chi cục Bảo vệ thực vật Thanh Hóa vẫn thản nhiên trả lời như không có chuyện gì xảy ra (?!).
Ông Huy cho biết, năm nào thanh tra chi cục cũng thành lập đoàn cùng với các cơ quan chức năng liên ngành đến thanh tra hoạt động của Cty Nicotex Thanh Thái. Kết quả mới nhất năm 2012 cho thấy công ty này không vi phạm chỉ tiêu nào được ghi trong giấy đăng ký hoạt động. (?)

Trái ngược với thanh tra chi cục bảo vệ thực vật, ông Lưu Trọng Quang, Phó Giám đốc Sở TN&MT Thanh Hóa cho biết, năm 2012 qua kiểm tra, phân tích về không khí có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật nhưng vẫn nằm trong ngưỡng cho phép. Nhưng Về mẫu đất, có một mẫu có 2 chỉ tiêu vượt tiêu chuẩn cho phép. Lần kiểm tra ngày 18/3/2013, mẫu đất có chỉ tiêu Dimithoat vượt 1.2 lần; còn mẫu nước có 2 mẫu (1 mẫu nước ao và 1 mẫu nước hồ) vượt 3.3 lần chỉ tiêu TSS.

Bên cạnh đó, trong báo cáo giám sát môi trường năm 2012 đối với Cty Nicotex Thanh Thái có nhiều vi phạm như: Cty Nicotex Thanh Thái chưa có biện pháp xử lý chất thải nguy hại như: giẻ lau dính hóa chất, cặn bùn , vỏ thùng phuy, bao bì… theo đúng quy định. Chưa thực hiện đầy đủ các giải pháp bảo vệ môi trường theo báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt. Đúng là ông nói gà bà nói vịt.


(Xem tiếp kỳ 2 đăng thứ Hai, 16/9/2013)

Tại sao dân tôi khổ thế này? (kỳ 2)


Văn Quang – Viết từ Sài Gòn
VienDongDaily.Com – 16/09/2013
http://www.viendongdaily.com/tai-sao-dan-toi-kho-the-nay-ky-2-77tS8v7q.html


(Tiếp kỳ 1 đăng thứ Bảy, 14/9/2013)

Đấu tranh tới cùng, dù là phải bán cả nhà để lấy kinh phí
Mặc dù đã được lấy mẫu xét nghiệm trước đó, tuy nhiên người dân vẫn phải “mòn mỏi” chờ đợi kết quả trong “vô vọng.”
Ngày mùng 4/9 họ lại được tận mắt chứng kiến lần thứ hai cơ quan chức năng vào lấy mẫu hóa chất độc hại đi xét nghiệm và nghi ngờ việc làm trên có nhiều “uẩn khúc.”

Dường như việc lấy mẫu lần hai của cơ quan chức năng đã làm cho người dân không còn tin tưởng. Do vậy họ đã tự bật nắp các thùng phuy được chôn dưới đất lên để lấy mẫu tự mang đi xét nghiệm, đồng thời lưu giữ mẫu để “phòng” đối chứng với mẫu của cơ quan chức năng đã lấy trước đó. Như vậy là nhà nước lấy mẫu xét nghiệm riêng và người dân cũng lấy mẫu đi xét nghiệm riêng. Người dân không còn tin tưởng vào những nơi gọi là “cơ quan chức năng” nữa!

Ông Lê Văn Tuấn, người dân ở đây cho biết, “Chúng tôi không làm như vậy thì sau này con cháu chúng tôi sẽ là người trực tiếp phải gánh chịu hậu quả do công ty gây ra. Và chúng tôi sẽ đấu tranh tới cùng, dù là phải bán cả nhà, đất để lấy kinh phí.”

Hàng trăm người dân dựng lều vây kín công ty


Sau nhiều ngày đào bới, người dân đã phát hiện được trên 20 thùng phuy chứa thuốc trừ sâu được chôn dưới lòng đất, trong khuôn viên Công ty Cổ phần Nicotex Thanh Thái. Ngoài ra còn có hàng chục điểm được người dân “khai quật” lên có chứa nguồn nước độc hại, sặc mùi thuốc trừ sâu.
Quanh khu vực nhà máy, mùi thuốc trừ sâu bốc lên nồng nặc, không khí bị đầu độc nghiêm trọng bởi những thùng phuy đựng hóa chất được người dân đào bới lên.

Theo người dân nơi đây, trong khuôn viên công ty này hiện có hàng chục tấn thuốc trừ sâu được chôn dưới lòng đất. Đặc biệt công ty này lại nằm ở chân núi, từ nơi đây có rất nhiều mạch nước chảy thẳng về khu dân cư với hàng trăm gia đình dân đang sinh sống.
Bởi vậy, ngày 3-9, hàng trăm người dân ở các xã lân cận Công ty Nicotex Thanh Thái để giữ nguyên hiện trường nơi đã đào lên 1 lượng lớn hóa chất độc hại. Để tránh công ty tẩu tán thuốc sâu đi nơi khác và thay đổi hiện trường đào bới, người dân đã dựng lều lán thay nhau túc trực quanh công ty.

Chiều ngày 10/9, hàng chục người dân các xã bị ảnh hưởng mùi thuốc sâu quanh Cty Nicotex Thanh Thái đã lên núi tìm kiếm nơi công ty này chôn hóa chất, bất ngờ người dân phát hiện ra một số điểm ở các hang đá có đấu chai, vỏ nhựa và nắp của chai thuốc. Rải rác quanh đó còn tìm thấy nhiều chai lọ thuốc bảo vệ thực vật đã cũ mục.

Theo kết quả điều tra ban đầu, Công an Thanh Hóa đã kết luận Công ty Nicotex Thanh Thái đã thực hiện không đầy đủ tần suất giám sát môi trường, xây lắp không đúng công trình xử lý môi trường (hệ thống xử lý nước thải) theo quy định, làm phát tán mùi hôi nồng khó chịu của thuốc trừ sâu ra môi trường; chưa có biện pháp xử lý bảo đảm phòng ngừa “sự cố” trong việc lưu giữ thuốc bảo vệ thực vật quá hạn sử dụng…


Làng ung thư, suy giảm thần kinh, dị dạng, đẻ non, sẩy thai…


Như trên đã thông tin, nhiều người dân trong những thôn làng xung quanh Công ty Nicotex như: xã Cẩm Vân, Cẩm Tâm (huyện Cẩm Thuỷ) và Yên Lâm (huyện Yên Định, Thanh Hóa) hằng năm phải ăn, hít thở không biết bao nhiêu hóa chất độc hại vào người. Chính vì vậy mà con số mắc bệnh hiểm nghèo tăng lên chóng mặt. Người dân không ngần ngại đặt cho những xã sống quanh Cty Nicotex là “làng ung thư.”

Theo con số thống kê từ Trạm y tế xã Yên Lâm (huyện yên Định), trong vòng hơn 10 năm qua trở lại đây tổng số người mắc bệnh hiểm nghèo của xã đã lên tới con số 315 người gồm các bệnh như: ung thư, suy giảm thần kinh, dị dạng, đẻ non, sẩy thai…

Trong đó, số người mắc bệnh ung thư đã chết là 150 người, hiện tại đang còn hàng chục người mắc bệnh ung thư nằm chờ chết. Sẩy thai 20 người, còn lại là bị thần kinh, dị dạng, đẻ non.
Ông Đào Hồng Quyết, Trạm trưởng trạm y tế xã Yên Lâm cho biết: mỗi năm ở đây có đến cả chục người chết do ung thư, ông Quyết nói:

“Trong 3 xã giáp danh Cty Nicotex thì xã Yên Lâm là xa nhất, nhưng lại có số người mắc bệnh nhiều nhất vì nằm dưới khu vực hạ lưu của sông Mã nên nước sinh hoạt bị ô nhiễm trầm trọng.”
Xã Yên Lâm có 10 thôn, tuy nhiên số người chết và mắc bệnh ung thư tập trung nhiều nhất là ở các thôn như: Cao Khánh 37 người; Thắng Long 38 người và Hành Chính 12 người…
Những người mắc bệnh ung thư hầu hết ở lứa tuổi từ 40 đến 50 với chứng bệnh như: ung thư dạ dày, phổi, gan, vòm họng. Nhưng những năm gần đây số người mắc ung thư ở lứa tuổi trẻ tăng lên rất nhiều.

Sống khổ hơn chết

Theo danh sách trong sổ của ông Quyết, phóng viên báo VN Net đến thăm gia đình chị Phạm Thị Ng. (21 tuổi) thôn Thắng Long.
– Chị Ng. bị căn bệnh ung thư tử cung hai năm nay, giờ chỉ nằm ở nhà chờ chết.
Cũng như chị Ng., còn có nhiều người trẻ khác mắc bệnh như: Lê Thị H (23 tuổi) ung thư vú; Đặng Thị Ng (22 tuổi); Lê Thị Tr (28 tuổi)…

– Cũng chung cảnh “làng ung thư” như xã Yên Lâm, ông Lê Viết Hùng, trưởng thôn Cò Đồm (xã Cẩm Vân, huyện Cẩm Thuỷ) cho biết, thôn Cò Đồm có 75 gia đình dân, với hơn 300 người. Nhưng khoảng 10 năm trở lại đây đã có gần chục người chết do ung thư. Còn số người đẻ non, dị dạng thì không thể đếm xuể. Đúng là cảnh sống khổ hơn chết.

– Chị Lê Thị Tân, thôn Cò Đồm cho biết, đứa con trai chị sinh ra được hơn một năm nhưng cháu không hề biết khóc thành lời, cũng không thể phát âm ra tiếng gì ngoài lắp bắp miệng. Chị Tân cho biết “Nhà tôi cách Công ty Nicotex qua một quả núi. Nhưng mùi thuốc sâu bốc lên nồng nặng, nhất là trời sương mù thuốc sâu càng đậm đặc. Có những hôm ăn cơm mà không thể nuốt nổi. Chúng tôi nghi ngờ nguồn nước ăn ở đây bị thẩm thấu qua khiến con tôi mới bị di chứng thế này”

Tại sao dân tôi khổ như thế này?


- Bà Đinh Thị Lương (61 tuổi), thôn Phong Mỹ, nhà bà Lương có 4 người, chồng bà đã chết do căn bệnh ung thư phổi (năm 2005). Người con dâu thì bị tai nạn, giờ chỉ còn bà và đứa con trai đang mang trong mình căn bệnh ung thư quái ác, chờ ngày về với ông bà tổ tiên. Bà Lương không giấu được những giọt nước mắt trên khuôn mặt già nua mỗi khi nhắc đến người chồng và đứa con trai đang nghi mang trong mình căn bệnh ung thư này.

Nhìn vào di ảnh của chồng, bà khóc như ai oán, “Tại sao gia đình tôi lại khổ đến như vậy. Chồng đã ra đi vì căn bệnh ung thư, giờ đây tôi cũng nằm chờ chết với bệnh ung thư vòm họng. Đứa con trai đang nghi ngờ bị ung thư, nhưng nó không dám đi khám vì sợ bị suy sụp tinh thần rồi không lo hậu sự được cho tôi khi tôi chết.”


Bà Lương cho biết, người dân ở đây khổ lắm. Nguồn nước sinh hoạt chủ yếu là giếng khơi, làng lại nằm ở dưới hạ lưu sông Mã nên hóa chất độc hại của Cty Nicotex theo dòng nước chảy xuống ngấm vào nguồn nước.

Ông Đoàn Quang Tơn, y tá thôn Phong Mỹ cho biết, hiện nay thôn Phong Mỹ cũng có tới cả chục người đang mắc bệnh ung thư. Con số này không dừng lại ở đó, vì lẽ người dân không đi khám nên không biết mình mang bệnh. Chỉ đến khi bệnh nặng thì mới phát hiện là mình sắp chết.


Những di chứng do chất độc gây ra được bù đắp như thế nào?


Tôi tưởng không cần đưa ra lời bình luận nào thêm về thảm cảnh của những người dân đang sống khổ hơn chết của những thôn xóm được gọi là “làng ung thư.” Xin chuyển đến những người gọi là có trách nhiệm với nhân dân câu hỏi ai oán “Tại sao gia đình tôi khổ như thế này?.” Và một câu hỏi được đặt ra:
Sự việc trên sẽ được các cơ quan chức năng làm rõ, những kẻ vi phạm sẽ bị xét xử. Ngoài ra, những người dân bị ảnh hưởng có thể kiện công ty này bồi thường vật chất về những thiệt hại mà họ đã và đang gánh chịu. Thế nhưng, những thiệt hại về tinh thần, những di chứng do chất độc đối với con người hiện tại và các thế hệ tương lai sẽ được bù đắp như thế nào?
Văn Quang (13-9-2013)


NGUYỄN THIÊN THU* THE DIFFERENCES BETWEEN THE COMMUNIST LEADERS

 
THE DIFFERENCES  BETWEEN THE COMMUNIST LEADERS
by  NGUYỄN THIÊN THU
Marx was a confidant philosopher, he always affirmed that his theory was  absolutely correct . Besides , Engels appraised him so much when he wrote:
This law, which has the same significance for history as the law of the transformation of energy has for natural science.( 1 )

Formal logic itself has been the arena of violent controversy from the time of Aristotle to the present day. And dialectics has so far been fairly closely investigated by only two thinkers, Aristotle and Hegel. But it is precisely dialectics that constitutes the most important form of thinking for present-day natural science, for it alone offers the analogue for, and thereby the method of explaining, the evolutionary processes occurring in nature, inter-connections in general, and transitions from one field of investigation to another ( 2) 

Natural Science is an exact science, but philosophy, literature and religion are  the Social Science. Nobody cannot deny the laws of science , on contrary, there are many discords  in politics, religion and philosophy.   It is the same in the Communist world, a lot of communist leaders didn't   follow exactly Marx, even they betrayed Marx. Milovan Djilas  criticized  Marx's dialectic of nature :
In the history of human thought  it would be difficult  to find anything more nonsensical  than the Marxist doctrine on the  dialectic of nature ; yet for all that , it has , by supplementing Marxist ideology , played a tremendous role  in social struggles This could well  lead one to take a rather dim view of human being and their intelligence. (3)
 
I. PROLETARIAT  AND  PEASANT 

Karl Marx  focused on the modern capitalism and proletariat.  The Industrial Revolution was the transition to new manufacturing processes in the period from about 1760 to sometime between 1820 and 1840.  It began in England and within a few decades had spread to Western Europe and the United States.
In 1848,  Marx wrote the Communist Manifesto , the capitalism and the proletariat  were developing. But at that time, the intellectuals established the Communist Party and Karl Marx and Engels wrote the "Communist Manifesto".  In this manifesto, he wrote:"In countries like France, where the peasants constitute far more than half of the population".(4)  

Thus, Marx realized that the peasants were the majority but he forgot them, he only focused on the proletariat class.In common sense, proletariat is the lowest or one of the lowest economic and social classes in a society. In ancient Rome the proletariat consisted of the poor landless freemen. It included artisans and small tradesmen who had been gradually impoverished by the extension of slavery. But in Marxism, proletariat class is only the working class.  Engels defined that: by proletariat, the class of modern wage laborers who, having no means of production of their own, are reduced to selling their labor power in order to live.(5)
Marx proclaimed:" Of all the classes that stand face to face with the bourgeoisie today, the proletariat alone is a genuinely revolutionary class ( 6)  while  he criticized the middle class including the peasants: The lower middle class, the small manufacturer, the shopkeeper, the artisan, the peasant, all these fight against the bourgeoisie, to save from extinction their existence as fractions of the middle class. They are therefore not revolutionary, but conservative. Nay, more, they are reactionary, for they try to roll back the wheel of history.(7)
Although realized the important role of the peasants in the revolution when he said:
Today the question of the peasant movement has become vital not only in the theoretical but also in the most direct practical sense. We now have to transform our general slogans into direct appeals by the revolutionary proletariat to the revolutionary peasantry. The time has now come when the peasantry is coming forward as a conscious maker of a new way of life in Russia. And the course and outcome of the great Russian revolution depend in tremendous measure on the growth of the peasants’ political consciousness (8),  Lenin still followed Marx strictly to highlight the workers.

In China and in Vietnam, at the beginning of the XXth century, the force of capitalism and the proletariat were still weak.According to Đào Duy Anh, under  French colonial rule, Vietnam had 150.000 workers (9).According to Nguyễn Thế Anh,  before 1945, Vietnam had 200.000 workers including children.(10)


Thus, the force of workers in Vietnam under  French colonialism occupied about 1% the population. The force of workers in China, Russia might be the same. In China, the farmers  comprised  far more than half of the population.  Mao Zedong recognized  the power of the farmers,  he  promoted both farmers and workers , so both of them became allies in the Chinese Communist Party.
After Mao Zedong died,  Dèng Xiǎopíng returned to Capitalism with  the market economy. Jiang Zemin came to power following the Tiananmen Square protests of 1989, replacing Zhao Ziyang as General Secretary of the Communist Party of China.  Jiang Zemin presented his Three Represents theory at its Sixteenth Party Congress in 2002."Three Represents" refers to what the Communist Party of China currently stands for.
That is:
It represents the development trends of advanced productive forces.
It represents the orientations of an advanced culture.
It represents the fundamental interests of the overwhelming majority of the people of China.(11)


His theory is very obscure. But in fact, Jiang Zemin abandoned Marx and Mao, and replaced workers and farmers with businessmen and intellectuals. But businessmen and intellectuals are the red capitalists, the family members of the Chinese  communist leaders.

Marx, Lenin, Stalin, Mao Zedong and Hồ Chí Moinh emphasized the workers, but in fact workers and peasants became their victims. With their command economy, they created  Five year plans, Ten year plans to serve  their ambition of rapid industrialization and collectivization of agriculture. However, these efforts often led to less efficient production, ensuring that mass starvation swept the countryside.
In a word,  Communists took advantage of farmers and workers, they killed them, tortured them  and exploited them. When their people , especially the workers and peasants lived in misery, they became the red capitalists enjoyed a splendid life. They betrayed their country and their people. They were the liars.

II.  THE CLASS STRUGGLE
 
Karl  Marx came out with the theory of class struggle, hence many people followed him and praised him so much. Although he was maltreated after the Nhân Văn Giai Phẩm movement in 1956, Trần Đức Thảo wrote:" the class struggle perspective is correct and fundamental. " (12)
 
 Many philosophers and communists in the world respected Stalin, especially Mao Zedong and Hồ Chí Minh. But  everything changed when Khrushchev gave a speech entitled, "On the Personality Cult and its Consequences," concerning Stalin on 25 February 1956  to a closed session of the Twentieth Party Congress of the Communist Party of the Soviet Union. Khrushchev thoroughly shocked his listeners by denouncing Stalin's dictatorial rule and his cult of personality as inconsistent with Communist and Party ideology. After De-Stalinization, Khrushchev launched a lengthy series of reforms. Those reforms were called revisionism.

Khrushchev’s revisionism refers to claims by Soviet leader Nikita Khrushchev that:
• Socialism can be brought about by peaceful, constitutional means within capitalist democracies.
• Socialist and capitalist countries can coexist peacefully.

 The term "revisionism" has been used in a number of different contexts to refer to a number of different revisions (or claimed revisions) of Marxist theory but all kinds of revisionism have the same aim to criticize Marxism.

 In the late 19th century, revisionism was used to describe democratic socialist writers such as Eduard Bernstein (12) and Jean Jaurès, who sought to revise Karl Marx's ideas about the transition to socialism and claimed that a revolution through force was not necessary to achieve a socialist society. The views of Bernstein and Jaurès gave rise to reformist theory, which asserts that socialism can be achieved through gradual peaceful reforms from within a capitalist system.

 In the 1920s and 1930s, the International Left Opposition led by Leon Trotsky, which had been expelled from the Communist International, accused the leadership of the Comintern and Soviet Union of revising the internationalist principles of Marxism and Leninism in favor of the aspirations of an elite bureaucratic caste which had come to power in the Soviet Union.

The Trotskyists saw the nascent Stalinist bureaucracy as a roadblock on the proletariat's path to world socialist revolution, and to the shifting policies of the Comintern, they counterposed the Marxist theory of Permanent Revolution. The Soviet authorities, meanwhile, labeled the Trotskyists as "revisionists" and eventually expelled them from the Communist Party of the Soviet Union, whereupon the Trotskyists founded their Fourth International.

In the 1940s and 1950s within the international communist movement, revisionism was a term used by Stalinists to describe communists who focused on consumer goods production instead of heavy industry; accepted national differences instead of promoting proletarian internationalism; and encouraged liberal reforms instead of remaining faithful to established doctrine. Revisionism was also one of the charges leveled at Titoists as punishment for their pursuance of a relatively independent form of communist ideology, amidst a series of post-World War 2 purges beginning in 1949 in Eastern Europe by the Soviet administration under Stalin.

 After Stalin's death a more participatory, more democratic form of socialism became briefly acceptable in Hungary during Imre Nagy's government (1953-1955) and in Poland during Władysław Gomułka's government, containing ideas that the rest of the Soviet bloc, and the Soviet Union itself, variously considered revisionist, although neither Nagy nor Gomułka described themselves as revisionists, since to do so would have been self-deprecating.
Following the 1956 Secret Speech that denounced Stalin, many communist activists, astounded and disheartened by what they saw as the betrayal of Marxist-Leninist principles by the very people who had founded them, resigned from western communist parties in protest. These quitters were sometimes accused of revisionism by those communists who remained in these parties, although some of these same loyalists also shortly thereafter split from the same communist parties in the 1960s to become the New Left "anti-revisionists", indicating that they, too, were disillusioned by the actions of the Soviet Union by that point in time.

Most of those who left in the sixties started aligning themselves closely with Mao Zedong as opposed to the Soviet Union. E. P. Thompson's New Reasoner was an example.In the early 1960s, Mao Zedong and the Communist Party of China revived the term revisionism to attack Nikita Khrushchev and the Soviet Union over various ideological and political issues, as part of the Sino-Soviet split. The Chinese routinely described the Soviets as "modern revisionists" through the 1960s.(Wikipedia).
In the years 1960, a lot of Vienamese communists adopted the revisionism of Khrushchev with the hope that Socialist and capitalist countries can coexist peacefully and North Vietnam and South Vietnam could live in peace.(Wikipedia- Revisionism)

Khrushchev's party colleagues, Mao Zedong, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ attacked The Modern Revisionism  but in the World War II, Stalin and Mao cooporated with the USA, and Dèng Xiǎopíng
opened China to foreign capitalists' investment. So do the Vietnamese communists.

V. FIVE STAGES OF  HUMAN KIND
 
 Marx divided fives stages in the history of humankind:
- Primitive Communism
- Slave Society
- Feudalism
- Capitalism
- Socialism
Marx demanded a certain, "inevitable" path, a "law of history" that would demonstrate the absolute inevitability of history's reaching its final glory in a communist society. In the Communist Manifacto, he said:" What the bourgeoisie therefore produces, above all, are its own grave-diggers. Its fall and the victory of the proletariat are equally inevitable "(14)


Marx is wrong because of many reasons:
(1). Five stages are avoidable and unecessary.
Until today, there are many tribes living in the forests. In some countries, feudalism coexisted with capitalism.  Communism couldn't conquer  France, England, Autralia, Canada, and the USA. In those countries, Capitalism coexisted with Proletariat.  Capitalism lasts long than communism because the fall of East Europe and USSR at the end of XXth century.

(2). Marx's affirmation of five stages is  contrary to his Dialectical and Historical Materialism.

Dialectics holds that nature is not a state of rest and immobility, stagnation and immutability, but a state of continuous movement and change, of continuous renewal and development, where something is always arising and developing, and something always disintegrating and dying away.
Engels said: "All nature, from the smallest thing to the biggest. from grains of sand to suns, from protista (the primary living cells – J. St.) to man, has its existence in eternal coming into being and going out of being, in a ceaseless flux, in unresting motion and change (15)

 All nature  changes why communism doesn't change? Something is always arising and developing,why communism is worse than capitalim?
Lenin  was  Marx's discipline but he didn' follow strickly his master when Lenin advocated that countries can move on communism without the development of capitalism. Thus, Lenin proved that people can make history, history is a pruduction of human mind,  hence history is not the materialist law. If we can abandoned the stage of capitalism, we also can abandon communism. Communism is evitable! So  Marx's fives stages of history were also production of his imagination, not the law of history.

Moreover, Lenin divided the stage of communism into two phases: socialism and communism. Thus, are there five stages or six stages of history of human development?

In a word, Marxism is  a wrong theory, therefore many people criticized it, even the communist leaders.



Although trying to change USSR with the policy of Perestroika  and Glasnost , at last Gorbachev gave up, he said:"
“We have retreated from the perennial values. I don't think that we need any new values. The most important thing is to try to revive the universally known values from which we have retreated.

As a young man, I really took to heart the Communist ideals. A young soul certainly cannot reject things like justice and equality. These were the goals proclaimed by the Communists. But in reality that terrible Communist experiment brought about repression of human dignity. Violence was used in order to impose that model on society. In the name of Communism we abandoned basic human values. So when I came to power in Russia I started to restore those values; values of "openness" and freedom.” ( Wikipedia)

President Boris Yeltsin also proclaimed": You can build a throne with bayonets, but you can't sit on it for long. Communists are incurable, they must be eradicated.
The sayings of the most famous  communist leaders in USSR are the grace shots given to the communism at its last day

____

(1).Engels.Preface to the Third German Edition of The Eighteenth Brumaire of Louis Bonapart.
http://www.marxists.org/archive/marx/works/1885/prefaces/18th-brumaire.htm
(2). Engels.On Dialectics (1878)http://www.marxists.org/archive/marx/works/1878/05/dialectics.htm
(3). Milovan Djilas .Unperfect Society Beyond the New Class.Harcourt Bruce& World, NewYork, 1969, 83.
(4).Communist Manifesto Part III,
(5). Communist Manifesto. Note by Engels - 1888 English edition.
(6). Communist Manifesto I
(7). Communist Manifesto I
(8).Lenin. The Proletariat and the Peasantry- http://www.marxists.org/archive/lenin/works/1905/nov/12.htm )
(9). Đào Duy Anh. Việt Nam Văn Hóa Sử Cương. Quan Hải Tùng Thư, Huế.1938. 68.

(10). Nguyễn Thế Anh.Việt Nam Dưới Thời Pháp Thuộc, Lủa Thiêng, Saigon. 1970, 256
(11). What Is "Three Represents" CPC Theory?  .http://www.china.org.cn/english/zhuanti/3represents/68735.htm
(12).Trần Đức Thảo. Vấn Đề Con Người và Chủ Nghĩa Lý Luận Không có Con Người Xuất bản lần đầu năm 1988, và in lần hai, Saigon, 1989, 122.
(13).Eduard Bernstein (6 January 1850 – 18 December 1932) was a German social democratic political theorist and politician, a member of the Social Democratic Party (SPD), and the founder of evolutionary socialism and revisionism. Bernstein had held close association to Karl Marx and Friedrich Engels, but he saw flaws in Marxist thinking and began to criticize views held by Marxism when he investigated and challenged the Marxist materialist theory of history.[1] He rejected significant parts of Marxist theory that were based upon Hegelian metaphysics; he rejected the Hegelian dialectical perspective.(Wikipedia)
 (14). Comminist Manufacto, part I.\
(15). Marx and Engels, Vol. XIV,  p. 484.)

NGUYỄN THIÊN THỤ * SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CÁC TƯ TƯỞNG GIA CỘNG SẢN

                      



SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CÁC TƯ TƯỞNG GIA CỘNG SẢN 

 Marx tự hào rằng chủ nghĩa Marx là một khoa học nghĩa là tất cả gì Marx nói là hoàn toàn đúng không ai có thể cãi được. Thí dụ ngày xưa người ta  nói trời tròn đất vuông, mặt trời chạy quanh trái đất. Ai cũng thấy là mặt trời sáng mọc phương đông và tối lặn ở phương tây. Nhưng đó là nói  theo cảm tính, theo cái nhìn sai lầm  của con mắt mình. Khoa học chứng minh rằng  mặt trời là định tinh, nghĩa là đứng một chỗ , còn trái đất là hành tình, nghĩa là quay xung quanh mặt trời.

Nay thì ai cũng công nhận điều này đúng, không thể có ý kiến khác. Một thí dụ nhỏ nữa, các nhà khoa học nói rằng nước sôi ở trăm độ, dù ở châu Âu hay châu Á, nước vẫn sôi ở trăm độ,  không ai dám nói nước sôi ở 90 độ hay 80 độ. Nói theo cảm tính là sai, vì chủ quan, còn khoa học là đúng vì có chứng minh, kiểm nghiệm.
Engels ca tụng Marx, nghĩa là ca tụng ông và chủ nghĩa duy vật của hai ông. Ông nói rằng triết học Marx là khoa học, triết học Marx như là dầu Nhị Thiên Đường chữa bách bệnh; thuyết lý của Marx là thuyết lý khoa học, định luật khoa học. Ông nói:
This law, which has the same significance for history as the law of the transformation of energy has for natural science.
Preface to The Eighteenth Brumaire of Louis Bonaparte (1885)

Dialectics constitutes the most important form of thinking for present-day natural science, for it alone offers the analogue for, and thereby the method of explaining, the evolutionary processes occurring in nature, inter-connections in general, and transitions from one field of investigation to another.( On Dialectics (1878)

Engels nói như vậy là chẳng hiểu gì về khoa học. Không có định luật nào là chung cho các khoa học huống hồ chung cho khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn. Và Marx cũng như Engels quá tự hào và chủ quan vì triết học Marx cũng chỉ là một khoa học nhân văn, không phải là khoa học thuần túy.
Chủ nghĩa Marx không phải là khoa học như Marx quả quyết vì có nhiều lý thuyết gia cộng sản cãi lại lời Marx. Họ là những lãnh tụ cộng sản, không phải là phản động hay kẻ địch xuyên tạc Marx. Và họ cũng không phải là những kẻ ngu si, không hiểu gì Marx mà nói bậy. Điều này cho thấy chủ nghĩa Marx cũng là một loại học thuyết như trăm ngàn học thuyết khác  chỉ có giá trị tương đối mà thôi,  cũng  bị cải biên, suy thoái, mất bản săc buổi đầu , bị phê phán và chống đối. Còn khoa học thì có giá trị tuyệt đối tuy rằng một số vấn đề khoa học theo thời gian cũng bị đào thải, hoặc sửa đổi.

I. CÔNG NÔNG

 Marx viết Tuyên Ngôn Cộng sản năm 1848, lúc này giai cấp tư sản mới manh nha và giai cáp công nhân cũng non kém. và họ là những nông dân bỏ ruộng đồng ra thành thị xin việc làm. Cách mạng công nghiệp mới phát triển tại Anh, còn toàn cầu vẫn là những quốc gia nông nghiệp. Chính Marx thú nhận điều này trong bản Tuyên Ngôn Cộng sản:"
" Trong những nước như nước Pháp, ở đó nông dân chiếm quá nửa dân số"(1)

  Thế mà chỉ một đám nhỏ, không phải là công nhân mà là trí thức, con nhà tư bản, địa chủ, phú hào tụ họp tại Luân Đôn thảo ra Tuyên Ngôn Cộng sản. Bọn họ có tài thật, từ một bóng ma, họ tuyên truyền cổ vũ khiến cho bóng ma này thành một lực lượng toàn cầu!
Lúc Marx viết Tuyên Ngôn Cộng Sản đề cao giai cấp công nhân trừ nước Anh  đi đầu tiên trong việc phát triển khoa học còn các nước khác vẫn là những nước nông nghiệp lạc hậu, đa số dân chúng vẫn là nông dân. 
 Theo Đào Duy Anh, lực lượng thợ thuyền Việt Nam thời Pháp có khoảng 150 ngàn (2). Theo Nguyễn Thế Anh , lực lượng thợ thuyền có khoảng 200 ngàn kể cả trẻ con. Ông cho ta số liệu như sau:


1905
1930
1938
Công nhân mỏ
5.000
53.240
54.950
Công nhân kỹ nghệ và thương mãi
12.000
86.624
61.025
Công nhân nông nghiệp

81.188
70.000
Tổng số

221. 052
185.975


Nguyễn Thế Anh cho rằng những con số trên chỉ có một giá trị tương đối: chúng chỉ bao gồm số công nhân được dùng trong các xí nghiệp tư bản Pháp chứ không kể đến số người làm việc trong những xí nghiệp kỹ nghệ, thương mãi hay nông nghệ Hoa kiều hay của người Việt, chúng lại không bao gồm các công nhân giao thông. hầu hết là phu bắt ở các đia phương, trả theo công nhật. Mặt khác, đa số công nhân không phải là thợ chuyên nghiệp, mà chỉ làm phu, làm thợ theo từng giai đoạn mà thôi. ( 3)

Lúc bấy giờ dân số Việt Nam là 20 triệu. Theo như tài liệu Nguyễn Thế Anh, giai cấp công nhân Việt Nam chỉ chiếm khoảng 1% dân số. Giai cấp công nhân Nga và Trung Quốc có lẽ cũng tương tự.Ngay tại Nga và Trung Quốc đều chưa có giai cấp tư sản và vô sản . Và cuộc khởi nghĩa tháng 10 Nga là do toàn dân, lực lượng chủ yếu là trí thức và nông dân nổi dậy lật đổ Nga hoàng chứ không phải là cách mạng vô sản vùng lên tiêu diệt tư sản như Marx mong muốn. Hơn nữa cuộc cách mạng này không phải do Lênin và Bolchevich lãnh đạo mà do toàn dân đa số là nông dân. Cách Mạng Nga xảy ra hai lần.  Tháng 2/1917, đảng Lao động Xã hội Dân chủ Nga tổng nổi dậy lật đổ chế độ quân chủ Sa hoàng, thành lập nên Nhà Nước Dân Chủ Cộng Hòa Nga, do hoàng thân Lvov cầm đầu chính phủ  Lúc này Lenin ở nước ngoài, Trotsky và đồng đảng Bolshevishs tuyên truyền phản chiến khiến binh sĩ bỏ ngũ cho nên chính phủ suy yếu . Tám tháng sau, tức Cách mạng tháng mười, hầu hết các nhà lãnh đạo các đảng phái dân chủ đều bị lực lượng Bolshevik của Đảng Công Nhân Xã Hội do Lenin lãnh đạo loại trừ, cùng chuyển thể Đảng Xã Hội này thành Đảng Cộng Sản. Lúc này số công nhân còn it thì tư bản vẫn còn it, không phải là một lực lương đe dọa giai cấp vô sản. Vô sản không có, tư bản không có, như vậy là Marx suy diễn, thêu dệt cho thế giới nổi lên cuộc chém giết theo cái đầu óc điên cuồng của ông trong chủ trương " đấu tranh giai cấp" của ông.
Marx đề cao công nhân, nhưng Mao Trạch Đông thấy rõ vấn đề hơn nên đã trung dung mà nêu khẩu hiệu công nông đoàn kết. Công nhân chỉ là 1/100, còn tại nhiều nơi, nông dân chiếm 90%, cần phải đề cao nông dân trong  cuộc kháng Nhật và việc cướp quyền.  Công nhân các nước cộng với cộng sản chỉ có vài chục ngàn, không phải là đa số. Cộng sản lợi dụng lòng yêu nước, dùng  tuyên truyền giả dối và thủ đoạn khủng bố man rợ mà  thành công.

  Ngay tại Anh, thành thị mở rộng, hãng xưởng  phát triển, nhưng công nhân không phải từ trên trời rơi xuống. Họ là những nông dân bỏ ruộng đồng ra thành phố tìm việc. Cái tâm lý họ, tinh thần của họ vẫn là nông dân. Marx cho rằng giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng nhất nhưng bản chất vẫn là nông dân có khác gì nông dân mà bảo họ có tinh thần cách mạng? Tại Việt Nam, bọn cộng sản phải giả làm công nhân mà khich động họ theo cộng sản, biểu tình và phá hoại. Nếu không tuyên truyền, đem thủ đoạn dụ dỗ và khủng bố thì chẳng ai theo. Giai đoạn đầu không có vô sản mà là trí thức. Đỗ Mười,  Võ Chí Công ,Trần Quốc Hoàn ...chỉ theo cộng khi cộng đã mạnh. Các nước khác cũng vậy. Công nhân chỉ theo công sản giai đoạn sau và cộng sản chỉ lợi dụng " vô sản" để họ thành giai cấp thống trị.

Sau cuộc lật đổ chính quyền, các lãnh tụ cộng sản theo Marx  giết hại tư sản, tịch thu tài sản tư sản nhưng tư sản đâu có nhiều, cho nên Mao, Hồ phải đem trung nông, phú nông, đôi khi là bần nông lên làm địa chủ để mà đấu tố và giết hại. Theo Trung cộng, địa chủ chiếm 5% dân số. Trong khoảng 1954, nếu ngoài Bắc có khoảng 20 triệu dân thì một triệu dân là địa chủ.Một triệu địa chủ cộng thêm vơ con, nếu mỗi gia đình có ba con, vị chi  năm triệu người đau khổ...

Nhưng lý thuyết trọng công nhân  của Marx đã bị Mao phủ nhận, rồi sau này Giang Trạch Dân sửa đổi.  Sau khi Mao chết, Đặng Tiểu Bình lên làm "hoàng đế", ông nhận thấy kinh tế Marx Lenin sai lầm, chỉ hại dân tốn của nên đổi sang kinh tế tư bản, tức kinh tế thị trường. Kinh tế tư bản quả nhiên hiệu nghiệm, nó giúp hàng triệu đảng viên thành địa chủ tư bản. Địa chủ, tư bản lúc này chính là cộng sản, không phải là kẻ thù của nhân dân. Họ không phải là kẻ thù mà lại là lãnh tụ của đảng cộng sản Trung Quốc. Tình thế đã đổi thay cho nên Giang Trạch Dân đã sửa cương lĩnh đảng và luật lệ Trung Quốc.  

Trong đại hội 16 của cộng đảng Trung Quốc, tháng 11 năm 2002, Giang Trạch Dân đã đưa ra thuyết Ba đại diện, thì giai cấp tư sản cùng công nông là ba thành phần quan trọng của đảng Cộng sản. Giang Trạch Dân nêu lên thuyết ba đại diện và nay, trong quốc hội Trung cộng đã có vài trăm tỷ phú và triệu phú, vậy vô sản đi đâu rồi hỡi đảng vô sản? Nếu có mặt họ, thì được bao nhiêu mống? Đảng Cộng sản Trung Quốc nay đã bỏ Marx Lê và Mao vào sọt rác nhưng vẫn theo đường lối cai trị của cộng sản, vẫn treo cờ cộng sản vì ông nhận thấy chính sách bá đạo của cộng sản giúp ich cho ông cai trị Trung Quốc với bàn tay sắt. Nhưng một khi  hạ tầng cơ sở là kinh tế tư bản thì thượng tầng kiến trức cộng sản có thích hợp không? Nay Trung Quốc phải thay đổi kinh tế và chính trị, có thành công không?

Nói tóm lại việc Marx đề cao giai cấp công nhân là một điều dối trá vì công nhân chỉ là kẻ bị lợi dụng. Công nhân chẳng thích cộng sản, chỉ trừ công nhân các nước nghèo đói, mất độc lập, nhưng sự thành công tại châu Á là do lòng yêu nước của nhân dân mà đại đa số là nông dân. Công nhân tại các nước tư bản không theo cộng sản. Cộng sản đã thất bại tại các nước công nghiệp mà nơi đây giai cấp công nhân rất lớn mạnh.
 
II. ĐẤU TRANH GIAI CẤP:

Marx đưa ra thuyết đấu tranh giai cấp nhiều người thán phục trong đó có Trần Đức Thảo. Sau 1956, ông bị cộng sản trị tội tham gia Nhân Văn GIai Phẩm,  ông nhận thức rằng lối lý luận cộng sản là lý luận ''không con người'' nghĩa là lối lý luận bất nhân, ông vẫn ca người  chính sách tàn bạo của cộng sản khi ông viết :" Quan điểm giai cấp là hoàn toàn đúng và căn bản. "  (4)

Chính sách đấu tranh giai cấp và chủ trương sắt máu của vô sản chuyên chính của Stalin đã  bị Trotsky chống đối vì cho là quá tàn nhẫn. Chính sách đấu tranh giai cấp của Marx lại bị Khruschev loại bỏ khi ông tố cáo tội ác Stalin và hô hào xét lại. Nội dung chủ nghĩa xét lại hiện đại là phê phán chủ nghĩa cộng sản độc tài, tàn bạo, hô hào bỏ đấu tranh giai cấp, tư bản cộng sản sống chung hòa bình. Đi xa hơn, Khrushchev chủ trương hai miền Nam Bắc Việt Nam hòa bình(5)
Lý thuyết sống chung hòa bình này bị đảng cộng sản Liên Xô và Trung Quốc, Việt Nam phản đối. Nhưng chính Stalin, Mao Trạch Đông đã sống chung hòa bình trong đệ nhị thế chiến. Và sau này, Trung Cộng và Việt Cộng cũng giao thương với tư bản mặc dầu vẫn giữ nhãn hiệu cộng sản.
 Milovan Djilas  nhận định về điểm này:
Trong lịch sử nhân loại không có gì vô nghĩa hơn chủ nghĩa Marx về biện chứng tự nhiên. Đó là một phần phụ của ý thức hệ giai cấp đấu tranh. Thuyết này chỉ làm cho con người tối tăm, ngu dốt.(Unperfect Society Beyond theNew Class, 83)

Thuyết Ba Đại Diện của Giang Trạch Dân, luật thừa kế , chính sách kinh tế thị trường, giao thương với tư bản đã là những phát đại bác bắn vào thành trị cộng sản mặc dầu Trung Quốc, Việt Nam vẫn giữ nhãn hiệu cộng sản.Cuôc vùng dậy của dân Đông Âu và Liên Xô cuối thế kỷ XIX  đã đạp đổ thần tượng Marx Engels, Lenin và Stalin. Cộng sản nay chỉ còn tàn dư tại Trung Quốc Việt Nam. Chừng ấy sự kiện lịch sử đã cho thấy nhiều triết gia cộng sản đã it nhiều phủ nhận Marx, và triết thuyết Marx là một chủ thuyết sai lầm và thất bại

III. NĂM GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI
 
 Marx cho rằng xã hội loài người phát triển theo năm giai đoạn mà giai đoạn cộng sản là tất yếu. Điều này hoàn toàn sai vì khi Marx viết Tuyên Ngôn cộng sản, có nhiều bộ lạc sống trong rừng, không thay đổi gì cả. Và cho đến bây giờ, Việt Nam vẫn có nhiều bộ lạc.  Tại Anh, Nhật và nhiều nước khác, quân chủ vẫn tồn tại trong xã hội tư bản. Và cuối thế kỷ XX, cộng sản đã tiệt tiêu tại Đông Âu và thành trì Liên Xô. Như vậy là chủ thuyết của Marx sai lầm.

Trong khi Marx chủ trương xã hội phải trải qua năm giai đoạn phát triển, thì Lenin chủ trương các nước có thể "tiến lên cộng sản chủ nghĩa " mà bỏ qua phát triển tư bản chủ nghĩa. Như vậy là Lenin suy nghĩ và làm trái với Marx.

Nếu loài người có thể bỏ qua giai đoạn tư bản thì cũng có thể bỏ qua giai đoạn cộng sản. Vậy sau tư bản là chế độ nào?
Sở dĩ Lenin cãi Marx là vì Nga lúc bấy giờ bắt đầu có cơ sở tư bản nhưng thực chất vẫn là một quốc gia nông nghiệp lạc hậu. Nếu theo Marx thì phải chờ đến trăm năm hay vài trăm năm xây dựng tư bản chủ nghĩa thì lâu quá, Marx và đám cộng sản Nga chết hết rồi còn đâu! Vì vậy, sau khi lật đổ các chính phủ dân chủ, Lenin vội xưng vương và lập nên một triều đại cộng sản độc tài .

Marx rất khôn khi chủ trương muốn phát triển chủ nghĩa cộng sản phải thông qua tư bản chủ nghĩa bởi vì lúc này nền kinh tế tư bản vững vàng, đem chân tay vào cướp nhà giàu thì có sẵn vàng bạc, nhà cửa,heo gà, giường chiếu, mặc sức thu hưởng. Còn cướp nhà nghèo thì chỉ có nhà rách vách xiêu. Lenin đành cướp nhà nghèo, dẫu sao thì Lenin vẫn làm hoàng đế tất nhiên là sống huy hoàng, còn bọn dân đen sống chết mặc tụi nó.


Chủ trương của Marx là tịch thu tài sản tư bản và các tư liệu sản xuất là khôn vì cộng sản cướp của người làm của mình , mình từ tay không nay có một mớ vàng bạc, nhà cửa, xe cộ hãng xưởng thật là sướng.  Chủ trương này cũng có lợi là họ có thể tuyên truyền rằng họ  tiêu diệt hết giai cấp bóc lột, giải phóng vô sản, và đem của nhà giàu chia cho nhà nghèo. Tất nhiên những hạng giàu lòng từ bi, nghĩa hiệp và dân nghèo đều hoan hô và quy tụ đông đúc xung quang đảng cộng sản nhưng những đàn kiến khổng lồ!Còn như một số nhóm tổ chức sống theo chủ nghĩa cộng sản mà lương thiện và tự lực thì chật vật, khổ sở lắm.
Marx, Lenin, Stalin, Mao, Hồ ra sức xây dựng chủ nghĩa cộng sản nhưng Khruschev đã phá hoại chủ nghĩa cộng sản gần một nửa. Cuối thế kỷ XX, Gorbachev đã cố gắng cải tạo  với các chính sách
Perestroika  Glasnost nhưng vẫn không vực dậy nổi liên bang Xô viết và nước Nga, ông đành đem chôn cái thây ma  cộng sản xuống ba thước đất , và  ông tuyên bố:
“We have retreated from the perennial values. I don't think that we need any new values. The most important thing is to try to revive the universally known values from which we have retreated.

As a young man, I really took to heart the Communist ideals. A young soul certainly cannot reject things like justice and equality. These were the goals proclaimed by the Communists. But in reality that terrible Communist experiment brought about repression of human dignity. Violence was used in order to impose that model on society. In the name of Communism we abandoned basic human values. So when I came to power in Russia I started to restore those values; values of "openness" and freedom.” 

 Chúng ta đã rút lui khỏi những giá trị lâu đời. Tôi không tin rằng chúng ta cần những giá trị mới. Điều quan trọng nhất của là cố gắng làm sống lại những giá trị mà ta từ bỏ. Khi còn trẻ, tôi thực sự chú tâm vào lý tưởng cộng sản, Một tâm hồn trẻ không thể chối bỏ những vật như công bằng và bình đẳng. Đó là mục tiêu của những người cộng sản. Thực tế rất kinh khủng.  Người cộng sản đã đem lại áp bức vào phẩm giá  con người. Bạo lực được dùng làm khuôn mẫu xã hội. Với danh nghĩa xã hội chủ nghĩa, chúng ta từ bỏ giá trị căn bản của con người. Vì vậy mà khi tôi  nắm quyền lực ở Nga, tôi bắt đầu  lập lại , giá trị của cởi mở và tự do. những giá trị này.(Mikhail Gorbachev. Wikipedia)

You can build a throne with bayonets, but you can't sit on it for long. Communists are incurable, they must be eradicated.
 Anh có thể xây ngai vàng bằng lưỡi lê, nhưng anh không thể ngồi lâu trên đó.
Cộng Sản không thể nào sửa chửa, mà cần phải xóa bỏ đi.
( Russia President Boris Yeltsin -Tổng Thống Nga)
 Đó là những tư tưởng gia, và cũng là lãnh tụ cộng sản đã kết thúc chủ nghĩa cộng sản.


Lý thuyết của Marx không phải là khoa học. Đó chỉ là một mớ kiến thức mươn danh khoa học để lòe đời. Bộ môn khoa học tự nhiên là một khoa học chính xác , nó được nghiên cứu với tinh thần khách quan và phương pháp khoa học. Nó giải thích đúng, áp dụng được và tiên đoán đúng. Những thuyết của Marx chưa kiểm nghiệm đã áp dụng gây thiệt mạng cho hàng trăm triệu người,  bao triệu gia đình đau khổ, và nửa thế giới điêu tàn. Ngay trong hàng ngũ cộng sản, nhiều lãnh đạo đảng cộng sản đã ý thức đươc sai lầm và hiểm họa cộng sản đã lên tiếng phê bình, và hành động chống lại chủ nghĩa Marx,cuối cùng chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ, chỉ còn  tàn dư ở Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn. Một ngày gần đây dông bão sẽ đi qua, và mặt trời sẽ đem lại ánh sáng cho nhân loại.
__________________
(1). Tuyên ngônCS, ch.III. B. chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản.
(2).Đào Duy Anh. Việt Nam Văn Hóa Sử Cương. 1938. 68.
(3). Nguyễn Thế Anh.Việt Nam Dưới Thời Pháp Thuộc, Lủa Thiêng, Saigon. 1970, 256).
(4).Trần Đức Thảo. Vấn Đề Con Người và Chủ Nghĩa Lý Luận Không có Con Người Xuất bản lần đầu năm 1988, và in lần hai, Saigon, 1989, 122.
(5).Chủ nghĩa Xét lại là quan điểm lí luận chính trị đòi "xét lại" những luận điểm của K. Marx và F. Engels về cương lĩnh, chiến lược và sách lược cách mạng... xem nó có còn phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn trên thế giới và trong các điều kiện hiện có trong nước hay không. Những quan điểm xét lại tùy theo trường phái từ xét lại một phần đến xét lại toàn phần học thuyết của Marx và Engels, do đo có chủ nghĩa xét lại hiện đại. Chủ nghĩa Xét lại do E. Bernsteinn khởi xướng
( XÉT LẠI HIỆN ĐẠI- WIKIPEDIA.)



16
Tác phẩm Scallop (con sò) (2003) của nhà điêu khắc Maggi Hambling tưởng nhớ nhà soạn nhạc Benjamin Britten trên bãi biển Aldeburgh, miền đông nước Anh.

CHUYỆN NĂM NGỰA =TRUYỆN KÝ = BÌNH MINH=CĂN NHÀ KHÔNG ĐÀN BÀ

TÚ ANH * CHUYỆN NĂM NGỰA

Năm Ngọ kể chuyện Ngựa trong lịch sử văn chương
Việt Nam và nhiều thành phố châu Á chaủan bị đón năm Ngọ - REUTERS
Việt Nam và nhiều thành phố châu Á chaủan bị đón năm Ngọ - REUTERS
Tú Anh
Đúng vào lúc 12 giờ đêm (nay) 30/01/2014 con rắn của Quý Tỵ bàn giao năm mới cho con ngựa Giáp Ngọ. Theo một số nhà chiêm tinh Á Châu đặc biệt là ở Hồng Kông thì năm Giáp Ngọ sẽ có nhiều biến động và đầy bất trắc, tai tiếng, xung đột, bạo lực cho đến động đất … ở nhiều nước châu Á.
Tuổi Ngọ được mô tả là con người phóng khoáng, nhanh nhẹn, trung thực nhưng từ « Ngựa » lại gây không ít ngộ nhận cho người tuổi ngựa kể cả trong thành ngữ …
Những hình ảnh tuyệt đẹp con ngựa trong lịch sử Việt Nam, từ con ngựa sắt của Phù Đổng Thiên Vương hay sự hy sinh của các chiến mã của Bình Định Vương Lê Lợi có lẽ người Việt nào cũng biết . Nhưng trong cuộc sống hằng ngày tại sao từ Ngựa lại mang hai ý nghĩa lúc khen lúc mắng.
Thành ngữ « thẳng ruột ngựa » là đẹp hay xấu ? Bằng cách nào mà con ngựa Pháp cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng … đủng đỉnh đi vào đời sống và văn chương bình dân của Việt Nam ? Trong bài khảo luận « Ngựa… và Thẳng ruột ngựa », giáo sư Nguyễn Dư ở Lyon tìm cách trả lời các câu hỏi này.
RFI : Nhân đầu năm Giáp Ngọ, RFI, qua phần phỏng vấn sau đây, xin giới thiệu bài khảo luận vừa nghiêm túc vừa ý nhị của tác giả.  Ngựa và… Thẳng ruột ngựa !
Nguyễn Dư : Ngựa không gần gũi người Việt bằng trâu. Ngựa chỉ biết kéo xe, không biết kéo cày. Ngựa còn bị khiển trách là không chịu tham gia khề khà chén chú chén anh. Đảo mắt nhìn quanh chỉ thấy nào lẩu dê, bê thui, nào dồi chó, cật heo, nào… Thôi đừng nói nữa, ta thèm !
Tuy vậy, ngựa chưa phải là hoàn toàn vô tích sự. Ngược lại, ngựa đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt. Thần thoại của ta có cậu bé làng Phù Đổng sinh ra chẳng nói chẳng cười, trơ trơ, nghe tin vua tìm người cứu nước, bèn vươn vai hoá thành chàng trai cao lớn. Chàng xin vua cho đúc một con ngựa sắt để đi dẹp giặc Ân. Giặc tan…
Áo nhung cởi lại Linh-san
Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên. (Đại Nam quốc sử diễn ca)
Hình ảnh đẹp tuyệt vời. Dẹp giặc, giữ nước, cứu dân. Giặc tan, thánh Gióng cưỡi ngựa sắt bay lên trời. Không ở lại lo tính chuyện làm vua! Phải là thánh mới hành động… như vậy. (Suýt buột miệng phê bình thánh Gióng hành động… thiếu suy nghĩ. Tấu lạy Ngài, vạn lạy Ngài, xin Ngài xá tội cho).
Tục truyền vua Lý Thái Tổ (1010-1028) xây thành Thăng Long cứ bị lún, đổ. Xây mãi không được. Vua phải sai các quan đến cầu đảo tại đền Long Đỗ. Lễ vừa xong thì có một con ngựa trắng (Bạch Mã) từ trong đền đi ra, chạy một vòng rồi trở về đền. Vua bèn hạ lệnh bắt xây thành theo dấu chân ngựa chạy.
Thành Thăng Long được hoàn thành. Vua phong Bạch Mã là tối linh thượng đẳng thần, Thành Hoàng của thành Thăng Long.
Ngựa ngự trị trong tín ngưỡng dân gian. Tĩnh, điện trong nhà, hay gốc đa, gốc me, hốc đá ngoài đường được chọn làm nơi nhang khói thờ các ông hoàng, bà chúa, cậu quận. Ban thờ luôn có vài con ngựa để các ngài dùng làm phương tiện di chuyển.
Từ ngày nước ta bị Pháp cai trị, dân ta bất đắc dĩ phải làm quen với ngoại hình, nội tạng của ngựa.
Xưa kia, ai vô phúc phải đáo tụng đình (đến toà án), thì sẽ được biết cái vành móng ngựa. Vành bằng gỗ cao độ một mét, hình bán nguyệt. Trông giống hình miếng sắt đóng dưới móng chân ngựa (fer à cheval). Bị can đứng trong vành nghe quan toà buộc tội, thầy cãi bào chữa. Vành móng ngựa của thực dân ngày nay vẫn còn được dùng.
Mấy ông lính cô-lô-nhần (thực dân) ngoài Bắc rất ngán ngẩm cái mùa đông rét mướt, nhiều mưa phùn. Đóng cái áo bành tô màu cứt ngựa nặng chình chịch mà vẫn chưa đủ ấm. Cái màu xanh lá cây độc đáo! Không sáng như màu hoa thiên lí. Không xỉn như quần áo bộ đội. Không tươi như quần áo công an bây giờ. Khó tả. Dân Hà Nội thời tây cứ trông mặt đặt tên, gọi là màu cứt ngựa. Đúng nhất, hay nhất. Ai cũng hiểu.
Một dạo, thanh niên Hà Nội đua nhau cắt tóc ngắn. Mốt húi cua (court). Mái tóc chỉ còn như cái móng chân (sabot) ngựa. Gọi là đầu móng ngựa.
Vào khoảng những năm 1960, Sài Gòn có mốt tóc đuôi ngựa (queue de cheval). Các cô cột mớ tóc thề thành cái đuôi ngựa con con. Nhún nhảy, rung rinh… Ô mê ly, mê ly đời ta !
Bên cạnh ngựa thần thoại, ngựa của tín ngưỡng dân gian hay ngựa của đời sống hàng ngày, phải kể thêm mấy con ngựa của văn học. Mỗi con một số phận.
Có con mang vẻ đẹp oai hùng :
- Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in (Chinh phụ ngâm)
Có con đồng loã với chủ, làm chuyện lén lút :
- Cùng nhau lẻn bước xuống lầu
Song song ngựa trước ngựa sau một đoàn (Kiều)
Có con hay tự hào, tự tôn :
Ớ ! nầy, nầy, tao bảo chúng bay
Đố mặt ai dài bằng mặt ngựa? (Lục súc tranh công)
Ngựa khoe cái mặt dài thòng với đám trâu, chó, dê, gà, lợn cùng hội cùng thuyền. Không biết rằng dưới con mắt của người ngoài thì mặt ngựa… thấy mà phát khiếp!
Người nách thước, kẻ tay đao
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi (Kiều)
(Đầu trâu mặt ngựa là bọn quỷ sứ dưới địa ngục. Nghĩa đen chỉ bọn hung ác vô lương tâm).
Ngược lại, có con mang mặc cảm tự ti. Tự hạ thấp mình một cách hơi quá đáng.
Tâu rằng: «Hổ phận ngu si,
Đem lòng khuyển mã đền nghì bể sông» (Nhị độ mai)
(Khuyển mã là chó và ngựa. Hai giống vật có nghĩa, mến chủ).
Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai (Kiều)
(Theo thuyết luân hồi của đạo Phật, người nào lúc sống mắc nợ ai mà không trả, thì chết rồi, đầu thai lại làm thân trâu ngựa để trả cho hết nợ).
Có con xả thân vì đại nghĩa :
- Năm 1422, Trẫm (Lê Lợi) thu binh trở về núi Chí Linh, quân sĩ tuyệt lương hơn hai tháng, chỉ đào rễ cây, hái rau và măng để ăn đỡ đói mà thôi. Trẫm làm thịt bốn thớt voi và cả ngựa của mình cưỡi để nuôi quân sĩ, thế mà thỉnh thoảng vẫn có kẻ bỏ trốn … (Lam Sơn thực lục).
Có Con ngựa già của chúa Trịnh (Phùng Cung, 1956) chết thảm thương.
Ngoài ra, bên lề văn học còn có một con… có vấn đề. Thật không ? Ngựa cũng có vấn đề à?
Ta có thành ngữ Thẳng ruột ngựa. Ngắn gọn nhưng… khó hiểu. Chỉ có 3 từ mà còn than khó hiểu à? Chịu khó lật sách ra…
Loay hoay tra tìm trong đống thơ văn cổ của Tàu, của ta thì không thấy danh ngôn, điển tích nào có thành ngữ này.
- Tự vị Huỳnh Tịnh Của (1895), từ điển Génibrel (1898) không có Thẳng ruột ngựa.
- Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc (1928), Thành ngữ tiếng Việt của Nguyễn Lực - Lương Văn Đang (1978) có Thẳng như ruột ngựa.
- Việt Nam tự điển của hội Khai Trí Tiến Đức (1931) lại có Ngay ruột ngựa.
- Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (1988), Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (1989) có Thẳng ruột ngựa.
Thành ngữ Thẳng ruột ngựa và các biến thể được giải nghĩa là: Nghĩ thế nào thì nói ra như thế, không giấu giếm, không nể nang. Cởi mở và thẳng thắn. Tính tình thẳng thắn, bộc trực.
Nói gọn lại, Thẳng ruột ngựa nghĩa là thẳng thắn, nói thẳng.
Thế nhưng, ai cũng biết rằng ruột người, ruột chó, ruột gà, ruột bò hay ruột ngựa, ruột nào cũng… không thẳng. Bộ ruột, bộ đồ lòng nào cũng được sắp xếp lòng vòng, uốn éo trong bụng con vật, con người.
Chúng ta có thể loại bỏ hai câu Thẳng như ruột ngựa và Tính thẳng đuột như ruột ngựa (Hoàng Phê, thí dụ của từ Thẳng đuột) vì thẳng như cái không thẳng là một điều chưa ai chứng minh được. Các tác giả đã chép thừa chữ như.
Còn lại hai thành ngữ có nghĩa giống nhau là Thẳng ruột ngựa và Ngay ruột ngựa,
Xin bàn về câu Thẳng ruột ngựa.
Từ trước đến nay, người ta thường hiểu câu nói được chia thành hai phần : Thẳng / ruột ngựa. Phân chia như vậy vừa đúng ngữ pháp tiếng Việt vừa dễ hiểu. Chỉ phiền một điều là… thẳng như cái không thẳng. Một nghịch lí khó chứng minh!
Chỉ còn một cách chia khác là Thẳng ruột / ngựa.
- Chia cắt kiểu gì ngộ nghĩnh vậy? Ruột ngựa bị chia hai, chẳng có nghĩa gì! Thẳng ruột nghe muốn… lộn ruột. Ngựa đứng một mình lơ láo vô duyên ! Thẳng ruột / ngựa hoàn toàn không có… bản sắc Việt Nam!
- Dạ, đúng vậy. Thẳng ruột ngựa không phải là tiếng Việt của người Việt !
1) Thẳng ruột là dịch từ chữ Hán Trực trường.
Trực trường nghĩa là : Ruột gan ngay thẳng. Tên một chứng bệnh ăn vào thì đi tả ra ngay, tuồng như đại trường thẳng tuột, nên không giữ được đồ ăn (Từ điển Đào Duy Anh).
Thực tế thì không có ruột người hay ruột súc vật nào thẳng cả. Vì vậy, Thẳng ruột chỉ được dùng theo nghĩa bóng. Đào Duy Anh cũng nói rõ là tuồng như đại trường thẳng tuột.
Thẳng ruột (Tự điển Khai Trí Tiến Đức gọi là Ngay ruột) nghĩa bóng là ruột gan ngay thẳng hay lòng dạ ngay thẳng. Trong bụng nghĩ thế nào thì nói thẳng ra như thế, không giấu giếm. Ruột gan, lòng dạ được dùng để chỉ tâm tính con người. Ruột gan, lòng dạ, tâm tính không đặt ra vấn đề thẳng như.
Mấy cách giải nghĩa của các học giả còn thiếu sót. Vô tình hay cố ý các học giả chỉ giải nghĩa hai từ Thẳng ruột và đã bỏ rơi mất từ ngựa.
2) Ngựa của thành ngữ Thẳng ruột ngựa là… ngựa Tây, ngựa thực dân. Ngựa này không biết kéo xe, không ham chạy đua. Ngựa này chỉ để cưỡi chơi trong phòng.
Tiếng Pháp phân biệt ngựa đực (cheval), ngựa cái (jument). Ngựa cái (jument) được văn chương gọi là cavale (gốc tiếng Ý là cavalla). Cavalla (giống cái) và Cavallo (giống đực) của tiếng Ý còn đẻ ra mấy từ của tiếng Pháp như cavalerie (kị binh), cavalier (kị sĩ), cavaleur (mấy ông đi tán gái), cavalière (được Việt hoá thành ca-ve, gái nhảy) v.v.
Vòng vo một hồi mới thấy ngựa (cái) có dây mơ rễ má với gái nhảy.
Mấy em ca-ve, nhảy trên sàn không đủ sống, phải nhảy cả lên giường. Thế là… ca-ve bị biến dạng, trở thành gái điếm. Từ đó, nghĩa là từ ngày thực dân Pháp cai trị dân ta, ngựa (tiếng Việt không phân biệt ngựa đực hay ngựa cái) được dùng để ám chỉ bọn me tây, đĩ tây (Nguyễn Khuyến gọi là Tây kĩ). Chẳng bao lâu ngựa của tây chạy cả vào làng xóm bình dân của ta. Cuối thế kỉ XIX ngựa đủng đỉnh đi vào sách vở.
Tự vị Huỳnh Tịnh Của có câu Thua ngựa một cái đuôi nghĩa là dâm dục quá (tiếng mắng).
Từ điển Génibrel có Nết ngựa : ám chỉ người đàn bà lăng loàn, sa đoạ (de moeurs légères, débauchée). Đĩ ngựa : đàn bà thô lỗ, hạ cấp (poissarde).
Các bà thời thượng trong Nam bắt đầu lớn tiếng chửi nhau là đồ ngựa, hay đĩ ngựa.
Năm 1931, Nguyễn Công Hoan viết Ngựa người và người ngựa, kể chuyện đêm giao thừa, anh phu xe tay bị cô gái điếm lừa.
Ngựa người ám chỉ cô gái điếm. Người ngựa (homme-cheval) là anh phu kéo xe tay. Hai loại ngựa đặc sản của thời Pháp thuộc.
Rốt cuộc, Thẳng ruột ngựa nghĩa là lòng dạ ngay thẳng của gái điếm, hay là nói thẳng, nói thật như gái điếm.
- Trời đất quỷ thần ơi ! Đĩ điếm cũng nói thẳng, nói thật sao ?
- Còn lâu ! Thẳng ruột ngựa phải được « hiểu ngầm » theo một cách khác !
- Cách nào ? Đính chánh lẹ lên.
Trước khi trả lời, đề nghị được lạc đề chút xíu.
Người xưa có câu Thật thà lái trâu và Thật thà lái buôn. Ai cũng biết rằng lái buôn, nhất là lái trâu, đều nói điêu, nói láo, lừa dối khách hàng để kiếm lợi. Không có lái trâu hay lái buôn thật thà. Thật thà lái trâu hay Thật thà lái buôn là một cách nói châm biếm, hài hước, tương tự như Vè nói ngược :
Bong bóng thì chìm/ Gỗ lim thì nổi/ Đào ao bằng chổi/ Quét nhà bằng mai…
Bao giờ cho đến tháng ba/ Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng…
Ai không thích « giễu dở » thì nói : Thật thà cũng thể lái trâu, Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
Người xưa quan niệm rằng gái điếm cũng gian dối như lái buôn. Không có gái điếm ngay thật.
Nghe các em « giãi bày tâm sự » thì tình cảnh em nào cũng đáng thương. Cha chết, mẹ bịnh, một lũ em thơ. Phải bỏ nhà, bỏ quê, lên tỉnh kiếm sống, gởi tiền về nuôi gia đình. Em mới « đi » được một tuần. May sao bữa nay gặp được anh hào hoa phong nhã…
Anh nghe mà muốn rớt nước mắt… cá sấu.
Thẳng ruột ngựa muốn khuyên mấy ông hơi bị bay bướm, lang bang phải coi chừng « ruột gan ngay thẳng… của ca-ve ». Chẳng khác gì người miền Nam ngày trước khuyên nhau đừng tin lời hứa cuội của mấy ông bự hét ra lửa mửa ra khói.
Gái điếm lòng dạ không ngay thẳng. Cuội không giữ lời hứa. Lái buôn không thật thà. Thành ngữ Thẳng ruột ngựa phải được hiểu ngược, hiểu theo lối nói châm biếm.
Thẳng ruột ngựa là kết quả chồng chéo của ba nền văn hoá Tàu, Tây và Ta. Ý nghĩa quanh co chứ không thẳng đuột như người ta thường lầm tưởng, hiểu sai.
- Tôi bấy giờ còn trẻ, tính bồng bột, trả lời thẳng như ruột ngựa . Tôi không bị hạn gì cả. Đế quốc bắt tôi vì tôi làm cộng sản (Nhiều tác giả, Nhân dân ta rất anh hùng) (*).
- Anh Tịch phải năn nỉ mãi. Cũng bởi Út hay nói lô la thẳng ruột ngựa nên anh sợ (Nguyễn Thi, Người mẹ cầm súng) (*).
Nhà văn muốn khen anh cán bộ và cô Út, nhưng e rằng có người hiểu là anh cán bộ và cô Út đang bị chê.
Nói thẳng nhưng đừng nói… thẳng ruột ngựa!
Rắc rối quá! Nói thẳng, nói thật… khó nói quá!
Nguyễn Dư
(Lyon, Tết con Ngựa 2014)
 (*) theo Thành ngữ tiếng Việt của Nguyễn Lực - Lương Văn Đang.

Sunday, November 24, 2013


NGUYỄN SĨ NAM * THẰNG BÚA


 

Thằng Búa
Nguyễn Sĩ Nam


Thằng Búa ! Tất cả tù nhân lớn bé trước sau gì ở cái nhà tù vượt biên ở Vũng Tàu đều phải biết đến thằng Búa. Người nào không biết đến cái thằng tù nhân “ốc tiêu” này đều không xứng đáng gọi là tù nhân.


Thằng Búa có cái đầu tròn quay, to như quả mít, tóc mọc lởm chởm, thưa thớt như một ngọn đồi trọc khô nước. Cái đầu nó thật to muốn lấn át cả cái thân gầy xọm của nó. Ai nhìn vào nó phải thấy ngay cái đầu nó trước nhất, rồi mới đến bộ xương sườn gầy guộc ỏng bụng, kế đến mới tới đôi chân khẳng khiu như hai cây sậy. Thế mà nó cũng có thể bước đi vững vàng, chạy nhảy thoăn thoắt như con chim sẻ vậy. Trông thân hình nó chẳng khác nào một cái búa. Có lẽ vì thế mà người ta đặt tên cho nó là thằng Búa chăng, hay tại Mẹ nó đã khéo đặt tên cho nó ? Chẳng ai hay biết chuyện này cả.
 

Ngày đầu tiên bị tống vô phòng biệt giam ẩm mốc, những tù nhân khác chen lấn hai bên ép tôi đến chảy nước ra. Lúc này tôi lại đâm ra thù mấy ông tù nhân bên cạnh. Trong lúc nóng giận không dằn lòng được, tôi tung cánh chỏ bên trái thụi đại một phát cho đỡ tức, tức thì có một giọng nói sặc mùi oắt con lên tiếng cảnh cáo :

- Cẩn thận nghe cha ! Mới vô mà làm tàng, ông cho một búa đi đời nhà ma bây giờ !


Tôi giật mình thầm nghĩ, quái lạ tại sao giữa chốn gió tanh mưa máu này lại có một thằng nhỏ, mà cái giọng thằng nhỏ chứng tỏ nó không phải là một tay vừa. Tôi cố nuốt nước miếng dằn bụng cho đỡ nhục trong khi cái cổ khô ran không có một giọt nước. Tôi nhận thấy tình hình nơi đây không phải là chốn bình thường nữa rồi. Căn phòng nóng ran như cái lò thiêu. Mồ hôi thiên hạ nhễ nhại trào ra hòa lẫn với mồ hôi của tôi cũng vã ra như tắm bốc lên một mùi khét lẹt đến lợm giọng. Tôi cố chờ một lát cho con mắt làm quen được với bóng tối căn phòng để nhìn cho rõ mặt thằng oắt con nào hỗn xược. Thời gian chờ đợi này cũng hơi lâu. Bỗng có tiếng xì xầm ở góc tối bên kia :


- Rồi ! Lại cảnh ma cũ bắt nạt ma mới nữa rồi !
- Bắt nạt cái gì mà bắt nạt ! Hắn mới vô mà dám tung cùi chỏ thụi vô ba sườn tui một phát, mấy bồ chịu được không ?

- Cảnh cáo là may đó ! Lại tiếng thằng oắt con vang lên.
Tôi biết mình có lỗi nên nín thinh. Đêm đó tôi cố tìm giấc ngủ nhưng không thể nào chợp mắt được. Cảnh tù nhân chen chúc nhau trong căn phòng nhỏ này như nêm cá hộp. Tôi hình dung khung cảnh nơi đây chẳng khác nào cảnh ở địa ngục A tì. Tôi cảm thấy mình nhuốm bệnh và bắt đầu lên cơn sốt dữ dội. Bên ngoài trời đêm đã xuống tự bao giờ. Thỉnh thoảng có tiếng phèng la ở ngoài vọng gác báo động như tiếng cú gọi hồn.




Suốt một đêm nằm rũ liệt, toàn thân bị ê ẩm như đã chịu đựng trăm ngàn vết roi, tôi cố nhướng con mắt dậy để tìm chút ánh sáng thì gặp ngay gương mặt thằng oắt con to chành vạnh, nhoẻn miệng cười phô bày cái nướu răng ra, chỉ còn vài cái răng mọc không đều làm kiểng, trông nó dị hợm hết sức. Nó cúi đầu sát vào mặt tôi giọng trìu mến :
- Sao, anh ngủ được không ?
Cơn giận đêm qua vẫn còn nặng trĩu trong lòng tôi nên tôi chẳng buồn trả lời nó. Thêm nữa, cái đầu nóng như thiêu như đốt, cải cổ khô ran, con mắt cứ muốn sụp xuống như đang đeo quả tạ nghìn cân, tôi đâu còn hơi để mà trả lời.
- Sao, anh còn nóng không ? Đêm hồi hôm em phải xức dầu cho anh đó. Nếu không chắc toi mạng rồi ! Quái lạ ! Cái miệng nó nói thật khó ngửi, có lẽ nó chưa súc miệng nhưng sao lời lẽ có vẻ thâm tình quá vậy ? Lúc bây giờ tôi mới nhận ra là có mùi dầu “cù là” phảng phất trên thân mình. Tôi thầm cảm ơn nó. Nó không có vẻ gì giống cái thằng đêm hồi hôm dọa nạt tôi :

- Đỡ đỡ rồi em. Cám ơn em. Bây giờ tôi mới có dịp nhìn kỹ nó. Trong cái xôn xao náo động của một buổi sáng thức dậy trong tù, đám tù nhân bắt đầu nhao nhao như ong vỡ tổ. Mặc dù không nhúc nhích được một tấc nhưng mọi người đều cố tìm cách làm cho mình có một tư thế thoải mái được càng nhiều càng tốt. Trong lúc đó mùi phân trong cái thùng thiếc đặt ở một góc mà thiên hạ đang “đi” bay tỏa đều đặn khắp phòng khiến tôi phải bịt mũi liên tục. Đám tù nhân cũ trong phòng nhìn tôi cười sằng sặc như chế diễu…
Bỗng có tiếng lách cách như mở cửa, rồi một thằng cai tù ốm nhỏ cặp kè khẩu AK trên tay tiến vào, một thằng khác đứng canh ở bên ngoài. Thằng bên trong tiến lại mở cùm chân cho thằng oắt con bên cạnh tôi rồi ra lệnh trọ trẹ :

Dậy đi lấy nước mày. Số còn lại ngồi im nghe chưa ?
Thằng nhỏ trần trùi trụi đầy ghẻ lở khắp mình đứng phóc dậy một cách quen thuộc. Nó chỉ mặc có một cái quần đùi rách đít. Chờ cho thằng cai tù bước ra ngoài, nó kề miệng vào sát tai tôi nói nhỏ :
- Để em đi lấy nước sôi cho anh rửa mặt !
Nói xong nó phóng theo thằng cai tù để nhập với đám tù khác đi khiêng nước. Tôi lật đật xí chổ trống còn lại của nó để ngã cái lưng xuống nằm một tí cho khỏe. Lúc đó tôi mới để ý thấy có một ông già nằm bên cạnh nó, đêm qua hai người nói chuyện có vẻ tương đắc lắm, ý chừng hai cha con, tôi nghĩ vậy. Ông già nhìn tôi mỉm cười làm quen. Không bỏ lỡ cơ hội, tôi nhỏm dậy chào ông già :
- Con của Bác đó hả ?

 

- Con với cái gì. Nó ở tù còn lâu hơn cái thân gìa này nữa, có điều thấy nó tội nghiệp nên già cũng nhận đại nó làm con cho đỡ buồn. Ông già nói xong, tìm cái mủng dừa còn sạch chia cho tôi một nhúm trà khô để có tí nhâm nhi buổi sáng.
Trong khi chờ thằng oắt con trở lại, tôi tò mò hỏi ông già lý do tại sao nó có mặt nơi đây, ông già buông một câu gọn lỏn :
- Nó giết người !
- Trời ơi ! Nó giết người !?
Tôi há mồm thật to ngạc nhiên hỏi.

- Ừ ! Thiệt chớ giỡn sao !


Lúc đó không ai bảo ai, bọn tù nhân đều quay về phía ông già như chờ đợi những tin sốt dẻo khác nhưng ông vẫn lặng thinh sờ vào mông gãi soàn soạt. Khi đó tôi mới có dịp nhìn tấm thân trần trụi của ông già đúng là một tấm bia ghẻ. Ghẻ mọc từ trên đầu xuống tới chân lộ ra một màu tím thẩm pha lẫn màu máu khô, mủ vàng xì ra ướt nhẹp. Thiên hạ vẫn không để ý đến chuyện đó mà vẫn tiếp tục hỏi ông già về chuyện giết người của thằng nhỏ nhưng ông già lắc đầu trả lời :
- Ai muốn biết cứ hỏi nó !

Bấy giờ, tôi không còn tin miệng lưỡi của thằng nhỏ nữa rồi. Nếu tôi đoán không nhầm thì nó trạc chừng 11 hay 12 tuổi là cùng, miệng còn hôi sữa làm sao nó có thể giết người được ? Nhưng chẳng lẽ ông già nói xạo, kết án hàm hồ một thằng nhỏ mà ông đã coi nó như con. Còn nếu nó giết người thật thì nó giết ai ? Bao nhiêu câu hỏi cứ quay vòng vòng như vụ trong đầu tôi càng khiến tôi mất tin tưởng ở thằng nhỏ. Có lẽ nó là một thằng cực kỳ nguy hiểm không chừng. Tôi nhớ lại lời dọa nạt của nó hồi hôm mà ớn lạnh. Trong khi đó, ở một góc tối của phòng giam, mấy người nào đó xì sầm cho là ông già nói xạo !
Bỗng có tiếng xôn xao ở bên ngoài, thì ra bọn tù khiêng nước nóng đã về. Tôi cũng đoán chừng vậy thôi vì nghe tiếng lanh canh của cái thùng chớ chẳng có chỗ trống nào để mà thấy. Chỉ có một cái lỗ nhỏ như lỗ tò vò thì đã bị thiên hạ dành mất chỗ thở rồi. Tôi cứ nghĩ là mình bất ngờ chết quách một cái là xong, khỏi phải nghĩ ngợi lung tung vô ích. Còn ông già như đã quen với bầu không khí này rồi nên bắt đầu lục trong giỏ xách ra một cái muỗng nhỏ và một gói đường đen như cứt ngựa, sau đó ông bốc một nhúm nhỏ chia cho tôi.

Cuối cùng thằng oắt con cũng chui được vô phòng với một lon Ghi-gô đựng nước sôi, vừa đi vừa hô “nước sôi, nước sôi” khiến mọi người tìm cách dạt ra một bên cho nó đi. Cái miệng nó chu ra thổi phù phù cho nước nguội bớt trông thật vô duyên hết sức. Lúc đó thằng cai tù bắt đầu cho từng tù nhân ra ngoài lấy nước rửa mặt, tôi để ý thấy chẳng có người nào nhỏ như nó. Một già, một trẻ, một trung niên là tôi giống như ba cha con ngồi xúm lại một góc nhâm nhi uống nước trà trông có vẻ đế vương hơn những tù nhân khác. Thằng oắt con luôn luôn o bế tôi khiến tôi thấy đỡ cô đơn đôi chút.
Chợt một hồi kẻng dài vang lên, ông già cho biết đã đến giờ lao động. Ông chỉ tay vào góc phòng, nơi “tọa lạc” của cái thùng thiếc đầy phân của đám tù nhân khốn khổ lúc nào cũng sẵn sàng tỏa ra một mùi hôi thối không chịu được như ngầm ám chỉ đó là công tác “Xã hội chủ nghĩa” đầu tiên. Đám tù nhân cũ cử ra hai người trực cái “lò hơi” này mỗi ngày và luân phiên xoay vần trong số người của họ. Tôi lấy làm lạ hỏi ông già tại sao những thằng tù nhân mới như tôi lại không được phân công kế tiếp thì được ông già giải thích là không dễ gì được cái “vinh dự” ấy. 
 Người nào được cái “vinh dự” khiêng phân đi đổ mỗi sáng phải là người có thành tích tốt, tiêu biểu cho thành phần tù nhân tiên tiến của cách mạng “XHCN” hoặc là phải ở lâu trong tù. Lý do thật dễ hiểu là vì mỗi lần tù nhân nào được khiêng phân ra ngoài đi đổ đều có một cơ hội hiếm hoi bằng vàng để hít thở chút không khí trong lành của buổi sáng mai, có một khoảng đường dài để vận động gân cốt, có một chút khoảng trống để tập thể dục bất đắc dĩ và nhất là được ngắm lén những “người đẹp” cùng chung số phận ở dãy phía bên kia.

Thời gian cứ nặng nề trôi qua. Tù nhân cũ mới gì không cần biết điều bất thần bị gọi lên “làm việc” với bọn quản giáo. Nhiều người được gọi ban ngày, có kẻ bị lôi xềnh xệch vào ban đêm với những cú đánh hộc máu mồm bằng báng súng trước giờ “tẩm quất”. Hầu hết tù nhân đều trở về phòng với tấm thân rũ liệt, rướm máu, cong gập người lại như thân cây chuối bị bổ ngang, nằm bò lê bò càng giữa căn phòng ẩm mốc, xám xịt. Riêng thằng oắt con vì tội trạng rành rành nên bọn quản giáo ít gọi lên. Thay vào đó, chúng bắt thằng nhỏ lao động đến hụt hơi, bắt làm đủ mọi việc không kể nặng nhẹ như khiêng phân đi đổ, gánh nước đổ vào phuy cho bọn chúng tắm, trồng rau muống cho vịt ăn, quét nhà, lau chùi cống xí cho tụi nó, đánh bóng xe đạp v.v… trông chẳng khác nào một tên đầy tớ. Lòng tôi đau như cắt !
Một bữa nọ, trong khi tôi với ông già chờ nó về để cùng chia bo bo bữa ăn chiều thì bỗng một tù nhân hớt hơ, hớt hãi chạy vào cho biết là nó vừa bị mấy thằng quản giáo đánh cho một trận nhừ tử, đang nằm bất động ở trên nhà ăn. Một nhân chứng phụ trách về ẩm thực sau đó về lại phòng có cho hay là trong lúc nấu cháo heo cho lũ cán bộ, thằng Búa đã không dằn được cơn đói xé lòng nên đã múc một chén cháo nóng hổi húp chùn chụt trước khi bỏ rau vào. 
Vô phúc cho nó, một thằng quản giáo đi lớ ngớ xuống thấy nên đã tát cho nó một cái tát nẩy lửa, tô cháo rơi xuống đất bể tan tành. Vốn tánh nóng, sẵn cái dao phay thái rau trên bàn, thằng Búa nhảy bổ tới cầm lấy con dao đâm cho thằng quản giáo một phát nhưng bị hụt, thành ra cả đám cán bộ nghe tiếng kêu cứu của đồng bọn vội chạy vào “bề” cho nó một trận đòn hội chợ chí tử! Những tù nhân đứng gần đó sợ xanh mặt không ai dám vào can. Tôi và ông già lật đật chạy về phía hàng rào trố mắt nhìn qua dãy nhà bếp thì thấy một khối thịt nằm lù lù ở đó. Ông già tức giận chửi thề bên tai tôi :
- Tiên sư nhà tụi nó. Ác độc cũng vừa thôi chứ, nhè con nít mà ăn hiếp !
Người tù nhân khác đứng bên cạnh tiếp :

- Tôi phục thằng Búa sát đất. Nó nhỏ mà gan ! Không có ai ở đây dám chọc giận mấy thằng khốn đó !
Ông già tỏ vẻ hiểu biết :
- Gan là cái chắc. Tôi có coi sơ cái bàn tay nó chẳng giống ai. Tay gì mà đường trí đạo với tâm đạo trùng vào nhau thành một. Trên bàn tay nó chỉ có hai đường. Thảo nào nó nghĩ đâu thì làm đó. Hôm nọ thằng Bảy Công đang lên đồng múa võ thần quyền cho mọi người xem thì bị nó nhảy vào phía sau đâm cho một phát vô lưng, may nó nhảy ra kịp, không thì bị quật chết tươi rồi. Thiệt tội cho nó !

Tối hôm đó, thằng nhỏ được mấy bạn tù nhân khiêng về bỏ giữa phòng lạnh như cắt da để nhờ mấy bạn tù nhân bác sĩ chạy chữa. Nhờ mọi người trong phòng ai cũng thương nó một thân côi cút không người thăm nom nên đã hết sức xoa dầu, đấm bóp, hô hấp liên tục. Nhờ đó mà tỉnh lại. Nhìn những vết u bầm tím sưng vù trên trán, trên mặt, trên ngực, trên lưng nó với những dòng máu đỏ chảy nhòe ra từ mũi và miệng nó, tự nhiên tôi không ngăn được giọt nước mắt đang lăn dài trên đôi má.


Nửa tháng sau, vào một đêm nọ trời mưa tầm tã, trong lúc các bạn tù nhân phơi thân nằm la liệt trên sàn đất cố đổ giấc ngủ sau những ngày bị tra tấn, thẩm vấn liên tục đến căng não ra thì thằng Búa tự dưng trườn lên mình tôi tỉ tê :
- Anh Hai, anh có ghét em không ?
Tôi lấy làm lạ hỏi :
- Không ! Mắc gì mà ghét em ?
Ngập ngừng một lúc nó nói :
- Tại bữa đầu anh mới vô, em đã vô lễ với anh !
Tôi trực nhớ lại câu chuyện sáu tháng về trước và chợt thấy thương nó vô hạn. Tôi vội trả lời :
- Không ! Đó là lỗi của anh. Em không có lỗi gì cả !

Nói xong, tôi đưa tay xoa cái đầu tròn lẳng của nó, lòng tràn ngập tình thương chẳng khác nào tôi thương thằng em ruột của tôi còn ở ngoài quê.
Nhìn lên trần nhà giam, cái đèn tù mù như hết muốn sáng cũng còn cố soi rõ cái cảnh âm u như địa ngục a tì của một tối mùa đông. Gió lạnh từ bên ngoài nện sầm sập vào cánh cửa như muốn giải thoát đám tù nhân khốn khổ.

Những giọt nước mưa buốt giá thỉnh thoảng len vào khe cửa, hắt lên mặt tôi gây một cảm giác vừa đê mê vừa dễ chịu. Tôi nằm yên đưa lưỡi liếm những giọt nước đang đọng trên vành môi. Mấy con chuột chù ở trên trần nhà bắt đầu bám vào mấy sợi dây treo các bịch đồ ăn của tù nhân để kiếm ăn bữa tối. Lúc này thiên hạ ngủ hết nên không ai buồn đuổi chúng nữa.
Nhìn gương mặt thơ ngây, non choẹt và vàng vọt của thằng Búa, tôi chợt nghĩ chắc nó có điều gì muốn nói với tôi đêm nay. Tự nhiên tôi thốt ra :
- Búa ! Anh cám ơn em. Em đã giúp cho anh nhiều quá !

Hình ảnh thằng Búa thay tôi để đi khiêng phân mỗi lần đến phiên trực khiến tôi tự hổ thẹn với nó. Tôi xưa nay vốn không quen ở chỗ hôi thối nên rất ngại đi khiêng phân. Cứ mỗi lần tới phiên trực của tôi, thằng Búa biết trước nên tình nguyện đi làm thế cho tôi. Ơn ấy tôi không bao giờ quên.
Nó ngày càng sa sút thấy rõ, thân ốm o gầy mòn đến trơ xương ra như tàu lá chuối khô. Tôi với ông già lúc nào có đồ tiếp tế cũng đều chia sớt cho nó những phần ngon nhất nhưng những hành hạ khắc nghiệt của bọn cai tù không thể nào kéo sức khỏe nó trở lại bình thường được.
Thấy cái đầu nóng ran của nó cứ rúc rúc vào ngực tôi như con mèo con tìm vú mẹ, tôi thương hại hỏi nó :
- Búa ! Em có điều gì muốn nói với anh ?
- Dạ có ! Anh cho phép em mới nói.
Nó ngóc đầu dậy trả lời. Rồi không đợi tôi cho phép, nó bắt đầu câu chuyện một cách thật bình tĩnh :
- Anh Hai ! Em đã phạm tội giết người !

- Hả ? Em giết người ? Tôi đã biết trước mà vẫn không khỏi thắc mắc. Như không cần để ý đến câu hỏi của tôi, nó tiếp với giọng vừa đủ tôi nghe :
- Hồi trước nhà em ở miệt vườn. Nhà em nghèo lắm. Ba em là lính Nghĩa quân, Mẹ em cày cấy nuôi em nhưng cả hai đều cố cho em ăn học. Đùng một cái tụi giặc Cộng vô đây sát hại ba em, tịch thu luôn cả mảnh ruộng nhỏ bằng cái sân, bắt mẹ em vô làm tập thể gì đó mà không có lấy một hột gạo ăn.
Mẹ em đành gửi em đi chăn trâu nhờ ở nhà một người chú. Tiếng là trâu của chú chớ tụi nó cũng ăn giựt luôn. Thế là em bỏ học. Hàng ngày em đưa trâu lên phía Rạch Dừa cho trâu ăn. Cánh đồng này nằm gần đường lên trường làng. Bực một cái là bọn con cán ngố đi học ngang đây ngày nào cũng mắng nhiếc em là thằng con lũ ngụy. Em tức quá không biết làm sao nên thủ sẵn một con dao.

Một bữa nọ, tụi nó kéo nhau cả bọn đến gây sự với em, cũng mắng nhiếc em là thằng con lũ ngụy. Sau đó nó nhổ phẹt một miếng nước bọt vào mặt em. Trong lúc tức quá, em rút con dao nhỏ xông tới đâm một thằng thấu tim, máu chảy ào ào, bọn còn lại bỏ chạy tứ tung. Từ đó em bị bắt, tính đến nay đã hơn năm năm rồi mà chẳng biết tụi nó sẽ làm gì. Em xin lỗi anh, em đã giết người ! Em đã giết chết một thằng Cộng con. Ít ra em cũng đã trả thù được cho ba em. Em thà chết, quyết không chịu nhục ! Xin anh hiểu và tha thứ cho em !

Nói xong chừng như mệt quá, thằng Búa ho hộc hộc mấy cái rồi nằm úp mặt lên ngực tôi đầm đìa nước mắt. Tôi quá xúc động, khâm phục và thở dài. Thế mà trước đây tôi cứ nghĩ nó là một thằng ác nhơn, ác đức, giết người chả ra chi. Bây giờ ngẫm lại, tôi thấy mình thua nó xa quá ! Tôi bỗng đâm ra thương cái tuổi trẻ khốn khổ của quê hương mình. Thấy nó hối hận, tôi vội hỏi nó :

- Búa ! Ngày mai tụi nó cho anh đi lao động ở Bầu Trũng. Em có cần nhắn ai gì không ?

Thằng Búa như mừng rỡ, ngóc cái đầu dậy, gượng cười nói :

- Vậy hả ? Em nhờ anh một chuyện. Ngày mai là ngày sinh nhật của em, nếu anh có tiện thì mua cho em vài thỏi kẹo. Em thèm kẹo quá mà không có tiền mua. Với lại anh tìm cách nhắn về cho mẹ em biết là em vẫn khỏe. Được không anh ?…

Tôi muốn bật khóc, vội ôm nó vào lòng, thầm hứa sẽ cùng với ông già tổ chức một bữa tiệc vui mừng sinh nhật nó. Tôi và nó ôm nhau ngủ suốt đêm.
Sáng hôm sau, bọn cai tù lùa một đám tù nhân lam lũ xách cuốc, xẻng vác ra Bầu Trũng lao động trong đó có tôi. Thằng Búa hình như bệnh tình càng nặng hơn nằm thiêm thiếp ở một góc. Tôi lật đật giao chai dầu gió xanh lại cho ông già nuôi để xoa đỡ cho nó. Mặc vội cái áo rách tơi tả, chụp cái nón lá lên đầu, tôi hôn nó một cái rồi lật đật bước theo các bạn tù. Ngày hôm đó, nhân lúc ghé một quán nước nghỉ để mua ít kẹo cho thằng Búa, tôi xin phép thằng cai tù đi tiểu ở phía sau rồi vượt thoát luôn.

May mắn thay, chuyến vượt ngục thành công. Ngày hôm sau, tôi về lại căn nhà trọ ở Ngã Ba Ông Tạ, trong túi còn rủng rỉnh mấy bịch kẹo ngọt. Chưa biết gởi xuống cho thằng Búa bằng cách nào, cũng không biết nó còn sống hay đã chết !?


Nguyễn Sĩ Nam
_____________

Nguyễn Sĩ Nam là bút hiệu của một cựu Sinh viên QGHC, khóa Đốc Sự 17.

ĐẶNG ĐÌNH TUÂN * BÌNH MINH VỚI HOÀNG HÔN


Bình Minh Với Hoàng Hôn

Đặng Đình Tuân


Trong một bữa tiệc ở ngoài trời, lúc mọi người đang vừa ăn vừa trầm trồ nhìn ngắm cảnh mặt trời lặn, chợt có người hỏi tôi giữa bình minh và hoàng hôn tôi chọn cái nào. Không đắn đo, tôi trả lời:
- Làm sao lựa chọn được. Bình minh và hoàng hôn là hai hiện tượng thiên nhiên, trái ngược nhau, lại bổ-túc cho nhau. Không có bình minh thì không có hoàng hôn… Xin lỗi, tôi không thể tách ra chọn riêng được. Nhưng nếu ông muốn biết tôi thích cái nào thì không đắn đo mà trả lời ngay là tôi thích bình minh hơn.

- Buổi sáng chắc anh thức dậy sớm lắm nhỉ?
- Rất họa hoằn. Đúng ra thì rất hiếm. Khi tôi ra khỏi nhà trời đã sáng trưng và buổi sáng đã đi được nửa đường rồi. Tại sao ông đoán chắc vậy?
- Tôi nghĩ người thích bình minh thì phải thích sự yên tĩnh, thích không khí trong lành, thích cái tịch mịch, thích cảm giác cô-độc của buổi sáng, thích hướng vào nội tâm và thích thơ thẩn. Muốn được thế thì phải dậy sớm...

- Những điều đó với tôi không có và không còn nữa.
- Ủa, nghe sao mâu-thuẫn. Nếu có thì mới còn chứ.
- Tôi yêu không khí trong lành. Nhưng không chịu được cảm giác cô độc. Tôi thích đi thơ thẩn nhưng sợ cái tịch mịch. Thỉnh thoảng nội tâm có hứng khởi nhưng không bao giờ ghi xuống thành thơ được. Hơn nữa, tôi luôn luôn tìm đủ mọi lý do để buổi sáng được ngủ nướng thêm.
- Phức tạp, khó hiểu.

- Tôi không làm cho ông lầm lẫn đâu. Tôi nói đúng sự thật, đúng ý nghĩ chân thành của tôi đó thôi. Nhưng mà này, ông đã làm tôi nhớ lại được nhiều chuyện. Nếu ông cho phép, mình ra góc kia ít người, tôi sẽ giải thích rõ ràng hơn. Không làm nhàm tai ông đâu.
Hai người mang ly rượu đến góc vườn, xa hẳn mọi người. Chỗ này có sẵn bàn và ghế nhựa, đặt núp trong bóng mấy cây tùng. Nhìn ra trước mặt, những ngọn đồi và thung lũng trùng trùng chạy dài xuống, thấp dần về phía chân trời.



Thành phố nhộn nhịp ồn ào nằm gọn trong thung lũng dưới kia. Những mái nhà chọc trời, với ánh đèn lấp lánh, nhấp nhô chen lẫn với những đỉnh đồi. Mặt trời bây giờ đã trốn gần kín sau đỉnh đồi thấp dưới kia. Ánh sáng dịu hẳn đi. Trên không những gợn mây mỏng giăng vướng rải rác khắp nơi đã đổi mầu sang vừa vàng cam vừa đỏ huyết dụ lóng lánh rực rỡ trong vòm trời xanh. Vài cái sao hôm đã đến, lấp lánh xa thăm thẳm. Hơi ấm ban ngày đã nhường chỗ cho những làn gió chiều gây gây mát. Sương sớm buổi tối đang kéo đến ôm ấp, che chở những cành cây những ngọn cỏ là đà rồi tỏa rộng ra hơn như một tấm chăn ấp ủ, phủ kín, để đưa những thung lũng kia vào giấc ngủ.

Căn nhà nằm trên một đỉnh đồi cao, nên ai cũng nhìn thấy cảnh hoàng hôn đến, không xót một chi tiết nhỏ. Chủ nhà nói khi nào sương mù lên tới đây thì trời mới tối hẳn và cũng hãnh diện cho biết họ đã được cả những cụm mây sáng đến vuốt ve mơn trớn.
- Như mình đang chiêm ngưỡng một bức tranh vẽ.
- Ðẹp quá nhỉ!
Người bạn nâng ly rượu đỏ lên xin được chạm ly, rồi vừa trầm trồ ngắm cảnh vừa nhấp môi uống vừa có vẻ kiên nhẫn chờ đợi.
- Nhiều năm trước đây đời sống của tôi đã phải gắn bó với bình minh. Không tự ý, không lựa chọn. Khi bị đặt trên một con tàu, bị đuổi ra giữa đại dương hoang vắng, đi tới đi lui rồi chờ ngày về bến...
- À, thì ra anh làm nghề biển.

Tôi không giữ được bật lên cười nhưng khi thấy mặt người bạn có vẻ ngơ ngác tôi phải ngừng ngay.
-Gần như thế, nhưng chưa tự tay bắt cá bao giờ, mà chỉ đi xin hoặc mua thôi. Tôi đã là lính hải quân. Và hải quân đã cho tôi cơ hội đặt chân lên nhiều chỗ mới lạ mà có lẽ không bao giờ tự ý tôi muốn đến. Từ đại dương thăm thẳm đến sông ngòi sình lầy hoang vu...
-Tôi hiểu rồi ! Ði biển thì được nhìn bình minh hoài.

- Ðúng, nhưng còn nhiều thứ khác nữa. Ông biết không, sau những buổi tối cô độc vô tận ở giữa trời và nước mênh mông, bình minh báo hiệu ngày sum họp với người thân sắp đến. Sau những đêm tăm tối dài dằng dặc không ngủ đi phục kích và bắn giết ở Năm Căn, Ðồng Tháp Mười, Cửa Cạn, nơi mà chỉ có bẫy rập, sình lầy với muỗi mòng, bình minh là hy vọng mình còn sống sót. Sau những đêm nằm rạp mình tránh đạn pháo kích liên tục nổ dồn trên đầu, bên tai, kinh hoàng và khiếp đảm ở Mộc Hóa, ở Tuyên Nhơn, thấy bình minh đến mới biết mình còn có cơ hội phục hồi. Mắt tôi đã được nhìn, tay tôi đã vuốt ve, miệng tôi đã phải cầu nguyện cho nhiều người. Họ đã cố níu kéo, cố chờ đợi mãi mà vẫn không bao giờ thấy bình minh trở lại thêm một lần nữa.

Tôi nhớ nhất là những lần ở vùng biển ngoài Cửa Cạn Phú Quốc, Vũng Tàu, Phan Thiết, ở vùng đảo nhỏ cạnh Qui Nhơn, Ðà Nẵng và cả Thuận An. Lênh đênh trên chiếc tàu nhỏ thả nhấp nhô theo những lượn sóng. Vừa ngồi chờ sáng. Vừa lẳng lặng làm việc vừa chăm chú quan sát. Bên ngoài con tàu, tất cả chìm đắm trong bóng tối xâu thẳm… Vũ trụ bao la mà mình thì quá nhỏ nhoi yếu đuối... Rồi đột nhiên thấy những thuyền đánh cá từ ngoài khơi tăm tối lũ lượt xuất hiện, kéo nhau trở về bến. Ðèn đuốc của làng nhỏ ở ven biển trơ trọi nghèo nàn chợt bừng sáng lên chào đón. Tối tăm tự nhiên tan biến. Tiếng người cười nói vỡ ra oang oang mừng rỡ. Tiếng trẻ thơ trong trẻo hân hoan cười đùa, gọi nhau vang vọng ra. Và khói lam nấu bếp bắt đầu tỏa lên từ khắp mọi mái nhà.

Tôi đã được chứng kiến sự phục sinh. Sự biến đổi từ địa ngục ra thiên đàng. Sự thua chạy của ma quỷ. Sự khác biệt giữa đêm và ngày. Tôi đã thấy mặt trời mang những ngày mới tinh khôi đi đến. Cùng với hào quang rực rỡ, với lễ lạc, với tiếng ca hát xưng tụng tưng bừng. Người, cảnh và áng sáng hòa hợp như trong buổi đại lễ tín ngưỡng quan trọng. Ðêm thì lẫn lộn, nhập nhằng, tàn ác. Nhưng ngày lại minh bạch, linh động và hiền hòa.

Không thể diễn tả được hết cái sống động của những hình ảnh đó.
Tôi đã hiểu ra được đây mới thực là sự sống. Ðây mới đúng là phép nhiệm mầu, là sự ra đời của đứa trẻ thơ, là bình minh mà tôi chờ đợi, tìm tòi và yêu thương. Con người nhỏ bé đơn sơ ở đây đã hăm hở đón nhận và vinh danh ánh sáng cùng với sự sống. Bình minh này mang đến ý nghĩ ham muốn và tranh đấu. Bình minh này mang cứu rỗi đến cho linh hồn và máu tươi hâm nóng cho cơ thể.

Ngay khi đó hình như nguồn sống mới đã tràn đến, thấm vào, rồi làm cơ thể tôi đổi mới. Tự nhiên tôi không còn có cảm giác lạc lõng, chán chường, thiếu ngủ nữa. Tinh thần và xác thịt biến đổi hoàn toàn sang trạng thái háo hức chờ đợi và sẵn sàng đón tiếp bất cứ biến cố gì sắp xẩy đến.
Không biết tôi có muốn trở lại sống trong những bình minh đó nữa hay không. Nhưng chỉ cần nhớ đến những hình ảnh đó không thôi thì máu nóng lại bừng bừng chẩy.
 
Từ ngày rời bỏ quê hương lưu lạc đến đây, tôi đã trải qua nhiều bình minh khác. Buổi sáng trời vẫn còn tối đã phải leo lên xe buýt. Bình minh đến lúc xe đang chở tôi đến chỗ làm và còn ngái ngủ. Những bình minh này trái ngược hẳn, chỉ mang đến chua xót, bon chen và nuối tiếc.

Chưa có cảnh bình minh nào đẹp, kích thích và cảm động như bình minh ở quê hương nghèo khổ của mình… Tôi quá chủ quan phải không? Tuy nhiên mỗi ngày trôi qua, tuổi chất đống thì ngày mới tinh ở đâu đó đối với tôi cũng là bình minh quý hóa.

 Thêm một ngày mới, thêm những cảm giác và kinh nghiệm lạ cho cuộc đời. Thêm một lần được kiểm chứng và áp dụng lại những kinh nghiệm cũ. Tôi hãnh diện vì còn sống sót cho nên sẽ phải làm thế nào cho những ngày sống mới đầy đủ trọn vẹn hơn. Tôi không ngồi yên chờ đợi nữa mà hân hoan tích cực đón nhận. Vừa để hưởng thụ vừa để làm cho những bình minh chót của cuộc đời phong phú hơn...
 
Mải mê kể lể tôi không biết người bạn đã bỏ đi từ lúc nào. Rời đi không lời thông báo. Ly rượu cạn không còn một giọt. Ông ấy có thể đã nghĩ tôi nếu không say thì điên. Thế nào chăng nữa điều đó không làm tôi bận tâm. Say giữa hoàng hôn mà vẫn tỉnh táo nói chuyện về bình minh. Tôi đang tận hưởng hoàng hôn hiện tại nhưng tinh thần đã háo hức sẵn sàng chờ đón bình minh mới của cuộc đời. Tôi phải cám ơn người bạn đó đã gợi cho tôi cơ hội để nói riêng cho mình tôi nghe, để biết mình muốn gì…
Trích trong một tạp chí Canada.


PHAN XUÂN SINH * CĂN NHÀ KHÔNG CÓ ĐÀN BÀ

 

  CĂN NHÀ KHÔNG CÓ ĐÀN BÀ
PHAN XUÂN SINH


Anh sống với vợ chừng hơn bốn năm, được hai mặt con thì Miền Nam bị mất. Anh học tập theo diện Sĩ quan cải tạo. Vợ phải ra sức nuôi con, không còn trông vào những đồng lương của anh như lúc trước. Chị chạy ngược chạy xuôi, buôn tảo bán tần để kiếm tiền nuôi con còn thơ dại. Hai đứa con lúc đó còn quá nhỏ, nhưng vì không thể gửi cho ai được, mà bồng bế theo thì rất trở ngại. Thuê người giữ thì không có tiền trả, vì vậy chị cứ để hai đứa nhỏ ở nhà một mình, nhờ mấy bà già hàng xóm thỉnh thoảng qua lại coi chừng giùm. Hàng xóm cũng thương cho hoàn cảnh mẹ cút con côi của chị. Họ chăm sóc hai đứa bé mà không lấy một chút thù lao nào. Thỉnh thoảng hôm nào khấm khá, chị mua biếu mấy bà già đó một ít quà tượng trưng lấy thảo, để đền bù cho công lao chăm sóc hai đứa bé khi chị vắng nhà.


 Một hôm, mấy bà già hàng xóm bồng bế hai đứa nhỏ ra ngoài Ủy Ban Nhân Dân Phường, báo cáo là mẹ hai đứa nhỏ nầy đi đâu ba ngày nay chưa thấy về. Chắc bị bắt vì buôn bán trái phép, nên xin Ủy Ban tìm giùm. Ban Thương Binh Xã Hội của Phường nhận lãnh hai đứa nhỏ để nuôi đỡ vài hôm, vì nghĩ rằng thế nào mẹ chúng nó vài ngày sau cũng sẽ trở về.
 
Lúc đó họ sẽ bắt chị làm giấy cam đoan, không bỏ bê con cái bừa bãi v.v…để ép chị vào khuôn khổ của xã hội, đúng với đường lối của nhà nước Cách mạng. Bà Trưởng Ban Xã Hội nghiến răng, hăm he thế nào cũng cho chị một bài học nên thân. Bà phải bắt chị ra Phường học tập, giảng giải cho chị hiểu thông suốt đường lối của nhà nước, trách nhiệm đối với gia đình con cái. Bà đã chuẩn bị một hơi dài những điều phải nhồi nhét vào đầu chị.


Gần một tháng, chị vẫn biệt vô âm tín. Lúc đó không những Ban Xã Hội Phường, mà Bí Thư, Chủ Tịch, Nhân viên của Phường bấn lên. Ðã gọi điện thoại cho Công An Thành Phố, các Công An của các Quận, Huyện Nội Ngoại Thành, xem thử chị có bị giữ nơi đâu để họ can thiệp cho chị trở về để nuôi con. Tất cả đều không tìm thấy manh mối của chị. Hai đứa nhỏ từ khi ra Phường ở, được cho ăn uống đủ thứ nên chúng hay đau bụng, ỉa giải lung tung. Gây nhiều phiền hà cho mọi người. Văn phòng của Ủy Ban Phường biến thành một nhà giữ trẻ. Tất cả mọi người chỉ chăm chú vào hai đứa nhỏ. Nhân viên đều trở thành những người bảo mẫu tốt.

Không tìm ra được chị. Không biết chị đang ở đâu hay chết mất xác rồi. Bây giờ họ quay qua tìm kiếm anh tại các trại cải tạo. Họ nghĩ, anh dễ tìm hơn, anh đang bị nhà nước quản lý, vì hoàn cảnh cấp bách có thể xin anh về để nuôi con. Lần đầu họ nghĩ chỉ cần đưa tên anh lên Ban Quân Sự Quận, rồi Quận chuyển lên Thành Phố, rồi Thành Phố chuyển lên Quân Khu 7. Thế nào cũng tìm ra được anh nhanh chóng, rồi thả ra cho về. Chuyện cũng đơn giản, không có gì nhiêu khê. Yên tâm ngồi chờ, ngày nầy qua ngày nọ vẫn vô hiệu quả. Không biết lá đơn đi chỗ nào. Bà Trưởng Ban Thương Binh Xã Hội, bực mình làm một tờ đơn thống thiết, Chủ Tịch Phường ký tên, Bí Thư chứng nhận. Chính đích thân bà thân chinh mang đơn đi, xin thả anh ra, để về nuôi con.


Trạm khởi đầu của bà tới là Quận. Bà ngồi chờ để được Chủ Tịch Quận chứng nhận trong đơn. Chủ Tịch bận tiếp khách. Bà chờ dài cổ. Khi có chữ ký thì xế trưa, bà phải đạp xe về nhà ăn cơm, nghỉ trưa rồi chiều tính tiếp. Chiều bà đạp xe ra Thành Phố. Ủy Ban đang hội họp không tiếp khách. Bà lại đạp xe trở về. Và cứ thế xin được mấy chữ ký theo hệ thống từ dưới lên trên mất vài ngày. Bà đến Bộ Tư Lệnh Quân Khu 7 (Lúc nầy đóng tại Bộ Tổng Tham Mưu cũ). Bà đưa đơn cho người lính gác cửa, và yêu cầu xin được gặp Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Khu. Người lính đọc đơn xong nhìn bà nói : “Chuyện cỏn con ai giải quyết cũng được, cần gì tới Tư Lệnh”.

Bà trố mắt, nói móc : “Thế chú có giải quyết được không ?”

Người lính trả lời : “Dĩ nhiên không phải tôi, tôi đang gác. Tôi chỉ cho bà nơi giải quyết”

“Thì cứ chỉ đi, tôi tới đó ngay.”

Người lính gác dơ tay chỉ cho bà phòng tiếp khách, vào đó có người lo mọi chuyện. Bà đưa tay quẹt mồ hôi, leo lên xe đạp. Miệng lầm bầm : “Dóc tổ, thứ gác cổng mà đòi giải quyết chuyện đại sự”.

Bà khóa xe cẩn thận, bước vào bên trong, đến chỗ nhận đơn trình bày lý do. Người nhận đơn bảo bà ngồi chờ. Một lúc sau có người ra mời bà vào phòng. Ông Trưởng phòng tiếp tân, báo cho bà biết đây không phải là nơi giải quyết chuyện Cải tạo viên. Ông chỉ bà đến phòng khác. Không biết ông chỉ dẫn thế nào, mà bà đạp xe lòng vòng cả buổi trong Bộ Tổng Tham Mưu cũ, vẫn không tìm được chỗ giải quyết. Sau đó bà nhờ một anh Bộ đội chỉ giùm. Ðơn của bà được chấp thuận, và họ hẹn tuần sau bà tới đây lại sẽ cho biết kết quả.
 
 Ðúng ngày hẹn bà tới, họ đưa cho bà giấy giới thiệu đến Trảng Lớn Tây Ninh gặp Ban Quản Giáo Trại để xin giải quyết. Ngày hôm sau bà lại đón xe đò đi Trảng Lớn. Bà trình bày mọi chuyện với người phụ trách, kèm theo lá đơn có đóng dấu của nhiều cơ quan liên hệ. Cộng với những lời kính chuyển, mong giúp đỡ tận tình. Trưởng Ban Quản Giáo báo cho bà biết là nơi đây chỉ có quyền giam giữ, chứ không có quyền thả người. Bà phải trở lại Quân Khu 7 để xin giấy thả. Ðến đây thì bà đã đuối sức, mới biết chuyện nầy không đơn giản, nhiêu khê quá chừng. Bà không còn kiên nhẫn nhịn nhục được nữa rồi. Bà nói thẳng với ông Trưởng Phòng : “Ðồng Chí ơi, tôi cũng là Cán bộ, mà các ông hành tôi đi cả tháng nay như vậy. Huống chi dân chúng khổ biết chừng nào.”

“Tôi chỉ làm theo mệnh lệnh, bà thông cảm cho tôi. Tôi cũng muốn thả hết họ về cho rồi, nhốt đây làm chi thêm cực. Bà phải gặp cho được Tư Lệnh hoặc Phó Tư Lệnh, đừng để cho tụi nó chỉ bậy bạ, chạy lòng vòng thêm mệt. Chỉ có hai ông nầy giải quyết mới được.”

Kết quả thì bà kiên nhẫn cũng xin được cho anh ra khỏi trại cải tạo. Trảng Lớn, Quân Khu 7 đi đi lại lại nhiều lần, dĩ nhiên không kể thời gian phải chầu chực. Ðôi lúc bà cũng nãn lòng vì cung cách làm việc quan liêu, thế nhưng nếu bỏ cuộc thì mấy đứa nhỏ tính sao. Phường không có ngân khoản chi tiêu cho vụ nầy. Thôi thì ráng làm cho trót.

Anh mặc bộ áo quần bằng bao cát, trên tay cần bao Ny-lon đựng vài vật dụng cá nhân. Tài sản của anh khi xuất trại vỏn vẹn có bấy nhiêu. Hành khách trên xe đò biết anh là dân cải tạo mới ra, nên nhiều người dúi vào tay anh một ít tiền, đồ ăn… anh tự nhiên xúc động. Ngồi trên xe đò, bà kể rõ mọi sự đã xẩy ra của gia đình cho anh biết. Anh chỉ ngồi ôm mặt khóc, phần thương con, phần không biết bây giờ vợ ở đâu. Anh làm sao nuôi hai đứa con còn thơ dại, làm gì bây giờ để sống. Gần xuống xe đò, người tài xế nói vọng ra phía sau : “Lấy tiền bà cán bộ. Còn anh cải tạo mới về, đừng lấy tiền ảnh”. Mấy người ngồi trên xe cười ồ, cái cách phân biệt rất tự nhiên của anh tài xế. Về đến Ủy Ban Nhân Dân Phường, anh nhìn thấy hai đứa con đang chơi ngoài sân thật vô tư. Anh lại ôm con khóc nức nở. Mấy người đi ngoài đường nhìn thấy, họ cũng mủi lòng.

Anh bồng bế con về nhà cũ. Bước vào buồng ngủ anh nhìn thấy vợ và người đàn ông lạ đang nằm ngủ mê man. Cơn ghen tức nổi lên, anh không còn biết mình là dân cải tạo mới thả ra. Anh bỏ con xuống sàn nhà, nhào lại túm đầu chị đánh đá túi bụi. Người đàn ông thức giấc, ngồi dậy xô anh ngã ra sau. Hàng xóm chạy lại bênh anh, cũng nhào vô đánh chị và người tình của chị, miệng họ la lớn : “Ðánh chết gian phu, dâm phụ. Ðánh chết thứ bỏ bê con cái theo trai”. Sau một hồi ấu đả, mặt mày chị và người tình nhân sưng húp. Công an khu vực chạy lại can thiệp, dẫn tất cả ra Phường.

Công an Phường đã biết chị bỏ con cái đi mấy tháng nay, nên họ cũng bực mình. Người công an khu vực hỏi chị : “Chị về lúc nào ? Mấy tháng nay chị đi đâu ?”

Chị trả lời : “Mới về khuya nay. Ði ra Hải Phòng buôn bán”.

“Chị có biết, chị bỏ bê con cái đói khát không ?”

“Biết, mà ở nhà với con lấy gì ăn, cũng chết vậy.”

“Nhưng chị phải có trách nhiệm với con cái chứ ? Nếu không có chúng tôi, con chị chết lâu rồi.”

Chị cúi mặt, trả lời : “Cám ơn các anh.”

Người công an, hỏi chị về anh kia. Chị trả lời mà không chút sượng sùng : “Anh đó là bồ của tôi. Ảnh là cán bộ, giúp tôi làm ăn.”

“Còn chồng chị đây thì sao ?”

“Ổng về rồi thì nuôi con, cả năm nay tôi khổ quá. Tôi giao lại nhà cửa, con cái cho ổng lo. Tôi đi ra không lấy thứ gì hết.”

“Thế chị không thương con sao ?”

“Dĩ nhiên là có. Nhưng người tình không thể bỏ được.”

Thế là bắt đầu từ đó, chị chia tay với anh. Không chút bận bịu, vương vấn gì cả.

Cái cảnh gà trống nuôi con của anh thật tội nghiệp. Anh cũng tái diễn màn nhờ vã hàng xóm như chị trước đây. Mấy bà già nói đùa : “Chớ dại bỏ con đi biệt tích như con vợ mầy. Nó thì được, còn mầy lạng quạng là vô trại cải tạo lại ngay.”

Anh cười, nói đùa lại : “Ðây cũng hơn gì cải tạo đâu.”

Bạn bè giúp đỡ, anh có một số vốn nho nhỏ mở quán cà phê. Che cái lều gần nhà, công an cũng thông cảm làm ngơ. Vì có thể vừa trông con, vừa buôn bán. Không phải nhờ vã mãi hàng xóm được. Anh đặt tên Quán là “Cà phê Năm Râu”. Từ khi cải tạo về, buồn tình anh để râu ria mọc um tùm trên mặt, chẳng thèm cạo. Những người chung quanh gọi anh bằng cái tên theo thứ tự gia đình, cộng thêm ít râu trên mặt. Người Miền Nam hay gọi tên theo vóc dáng, Tư Mập, Hai Lùn v.v… nên gọi anh cũng vậy.

Quán bán lai rai cũng đủ sống qua ngày. Một hôm, ông Trưởng Phòng Thông Tin Văn Hóa Quận đi ngang qua, nhìn thấy tên quán. Ông lập tức về viết giấy mời, bắt anh phải có mặt, lý do cho biết sau. Anh vội vàng gửi con, nhờ bà hàng xóm trông coi giùm quán cà phê. Anh đạp xe lên văn phòng Thông Tin Văn Hóa, cầm tờ giấy mời vào đưa cho cô thư ký tiếp khách. Một giờ sau đó, cô ra mời anh vào phòng ông Trưởng Phòng.

Ông hỏi anh : “Anh là chủ quán Cà Phê Năm Râu phải không ?”

“Dạ thưa, phải”

“Anh có giấy phép mở quán không ?”

Anh ú ớ : “Dạ thưa không có, tôi chỉ xin phép Phường. Hơn nữa quán lẹp xẹp, người ta bảo không cần phải tới Quận.”

“Ngày mai anh về đóng cửa ngay. Lý do là tên cửa hiệu, không phù hợp văn hóa. Cái tên Năm Râu, nghe rất xấc xược và thiếu văn hóa hết sức. Thế mà anh trương nó lên cho mọi người trông thấy. Tướng râu ria của anh, đã thiếu văn hóa rồi. Anh lại bắt mọi người chú ý cái chuyện bê bối của anh hay sao ?”

" Dạ thưa Bác Hồ cũng có râu.”

“A, anh dám cả gan so sánh với Bác à. Anh thật to gan. Râu của Bác đẹp, phong nhả như thần tiên. Nhìn kìa, râu của anh như một đống rác, gắn lên mặt. Ðúng, anh là thứ thiếu văn hóa, phải cho anh một bài học mới được.”

Ông Trưởng Phòng chậm rãi rút điếu thuốc, châm lửa, rít một hơi dài. Lấy giọng, rồi cho anh một bài học về văn hóa tràng giang. Sống phải đúng văn hóa để hòa đồng với xã hội mới. Ông thao thao bất tuyệt, rồi cuối cùng ông lên giọng : “Anh về thực hiện điều tôi nói, tôi chỉ thị về phường theo dõi anh.”

“Dạ thưa đồng chí, tôi về hạ bảng ngay.”

“Không những hạ bảng mà đóng cửa luôn. Thấy mặt anh để mọi người ngứa mắt sao ? Mặt mày anh dơ dáy như vậy, thì làm sao anh đảm bảo giữ vệ sinh được.”

Pháp luật và mệnh lệnh của nhà nước, được tùy tiện xử dụng. Người ta xét xử theo tùy hứng, tình cảm cá nhân. Pháp lý không có chỗ đứng ở đây. Nạn nhân là những kẻ thấp cổ bé họng, không kêu ca với ai được. Làm gì có sự công bình, khi mà đất nước được điều khiển bằng quyền lực.

Thế là quán bán cà phê Năm Râu của anh dẹp tiệm, số vốn bạn bè giúp đỡ kể như đi đời. Ngày đầu, anh chở con đi xem tình hình có thể buôn bán được gì không. Anh đi từ xa cảng Miền Tây, vòng quanh các chợ búa Sài Gòn, Gia Ðịnh. Làm gì cũng phải cần vốn liếng, mà anh thì đào đâu ra tiền. Chán nãn, anh về nhà nằm nghĩ cách nào để sống cho qua ngày.

Chiều, anh ra ngoài chợ Thanh Ða mua kí gạo, để nấu cho cha con ăn. Anh thấy một người đi xe đạp, chở tới một bao cát gạo bỏ mối. Anh mon men tới hỏi thăm. Người nầy nhìn anh một hồi, rồi nói nhỏ : ” Có phải thầy tên Bình không ?”

Anh giật thót người : “Ðúng, tôi là Bình. Tôi làm cu-li chứ có thầy ba chi anh. Làm sao anh biết tôi ?”

“Hồi trước cùng đơn vị với Thầy. Binh nhứt Cẩm.”

Anh nhìn anh Cẩm một hồi lâu, mới nhớ ra. Cẩm lúc đó mang đại liên cho đại đội của anh. Cẩm mời anh sang quán rượu bên cạnh, hai người làm vài xị rượu đế. Anh kể hoàn cảnh của mình hiện tại cho Cẩm nghe. Cẩm cũng nghèo rớt mồng tơi, nhưng còn xoay xở được. Anh thì hoàn toàn bế tắc. Cẩm thấy thương hại cho cha con anh, nên cho anh mượn một ít tiền chỉ cách đi Long An buôn gạo. Cách buôn nầy cũng năm ăn năm thua. Xui xẻo bị Quản Lý Thị Trường, hay Thuế Vụ bắt thì coi như đứt vốn. Còn may mắn trơn trụt thì lãi gấp rưởi. Anh mừng hết lớn, không ngờ mình cũng còn quý nhân giúp đỡ.

Anh lại gửi con cho hàng xóm, bốn giờ sáng thức dậy đạp xe đi Long An với Cẩm. Mỗi ngày anh mua hai giạ gạo, về bỏ mối cho các hàng bán gạo tại các chợ nhỏ. Anh đạp xe luồng lách để tránh các trạm kiểm soát dọc đường. Về tới Sài Gòn, anh tìm các đường hẻm để đi. Vài tháng như vậy trót lọt. Anh và các con được ăn uống tử tế, mỗi ngày có quà biếu xén mấy bà hàng xóm giữ con, tối làm một xị đế cho giản gân cốt.

Thấy làm ăn cũng được, anh và Cẩm dành dụm mua được mỗi người một chiếc xe Gobel chạy dầu. Xe nầy tiếng nổ nghe nhức tai, khói ra còn hơn tàu lửa. Có một điều là khỏi phải còm lưng đạp, lại chở gạo tương đối nhiều. Ngày đầu tiên ra quân, chạy về tới xa cảng Miền Tây. Hai người chia hai ngã, anh vừa quẹo vào một ngõ hẽm, nhìn lại phía sau thì thấy một đoàn quân Quản Lý Thị Trường chạy Honda theo. Một người chạy lên đầu xe anh chận lại. Thế là, anh bị đưa về văn phòng lập biên bản tịch thu số gạo.

Khi anh bước vào phòng, anh lỡ đụng tay vào bình nước trà để trên bàn, bị đổ. Nước chảy ra ướt giấy tờ, cán bộ lập biên bản thấy gai mắt rồi. Nên họ quyết tịch thu gạo, rồi tống cổ anh ra ngoài cho mau. Khi hỏi đến tên họ, anh khai tên là Ðỗ Bình. Người cán bộ mặt đỏ lên, tưởng anh chọc tức mình, chỉ vào mặt anh :

“Ðây là cơ quan, không phải chỗ chơi để anh đùa giởn. Anh vừa đổ bình nước của tôi, tôi chưa hỏi tội. Bây giờ hỏi tên anh nói là đổ bình. Anh muốn gì đây ?”

“Thưa ông, tôi đúng tên là Ðỗ Bình. Ðây giấy tờ của tôi.”

Ông coi giấy tờ, nói : “Trong giấy là Ðỗ Binh, tại sao anh nói là Bình ?”

“Quả thật tôi là Ðỗ Bình, người làm giấy tờ ra trại quên thêm dấu huyền.”

“Tôi không cần biết điều đó. Tôi cảm thấy từ khi bước vào đây, anh có thái độ bất mãn chúng tôi. Anh mới đi học tập trở về, mà không chấp hành pháp luật nhà nước, chưa thông suốt đường lối Cách mạng. Quen thói mánh mung, buôn bán chụp giựt. Tôi đề nghị với công an nơi anh cư ngụ, gửi anh trở lại trại cải tạo.”

Ðến đây thì anh bực mình, nói giọng cà xốc : “Tôi đâu muốn về, nhà nước bắt tôi về để nuôi con. Bây giờ ông muốn đưa tôi đi đâu cũng được, con tôi giao cho Phường nuôi lại.”

“À, anh thách thức tôi. Ðể rồi anh coi.”

Nửa giờ sau, xe công an Quận 11 đến chở anh về giam. Nằm trong phòng giam đến hai ngày, không ai hỏi han gì cả. Anh nóng ruột, chắc hai con anh ở nhà mấy ngày nay đói khát. Không biết mấy bà hàng xóm cho chúng nó ăn uống giùm không. Ðang nghĩ vơ vẫn, thì công an gọi lên phòng làm việc. Họ đưa cho anh vài tờ giấy bắt làm tờ kiểm điểm.

Anh ngồi húy hoáy viết, kể chuyện học tập được phường bảo lãnh về. Không tìm được việc làm, nên đi buôn gạo để kiếm tiền nuôi con. Tuyệt nhiên anh không viết về ăn năn hối hận gì cả. Anh nghĩ thế nào cũng bị hạch họe lung tung, bị giảng giải hăm dọa trước khi cho về. Không ngờ, ngồi một hồi, anh công an dẫn anh ra chỗ dựng chiếc xe Gobel, trên yên còn nguyên hai bịch gạo. Anh công an vừa đi vừa nói : “Anh buôn lậu mà đi xe tiếng nổ lớn gây ồn ào, khói tỏa mù mịt. Gây chú ý. Nên chúng nó bắt anh đúng thôi. Lần sau làm ơn đi xe đạp giùm cho.”

Anh “dạ”. Rồi nhận tờ giấy thả. Leo lên xe chạy về nhà. Con cái được hàng xóm đem ra Phường giao, tự nhiên Phường phải có bổn phận tìm ra anh ở đâu. Anh nghĩ trong bụng chắc công an phường, hay quận can thiệp cho anh về. Anh ra nhận con, chủ tịch Phường gọi vào hỏi : “Gạo anh nhận lại đủ không ?”, rồi ông vừa nói đùa vừa nói thật : “Chúng tôi nhờ Công an quận can thiệp, thả ngay anh ra. Con anh đói gần chết.” Ôm con vào lòng, bây giờ anh mới thấm thía và đau xót. Vì sự sống còn của gia đình, anh đem các con ra để làm trò tung hứng, mặc cả.

Thế là những ngày sau, khi chở gạo về Thành phố anh không phải dọt vô đường hẽm. Cứ đường chính chạy bon bon, mà chẳng cần tránh né. Thuế vụ, Quản Lý Thị Trường, Công An sau nầy đều nhẵn mặt anh. Anh nói với mấy bà hàng xóm, nếu không thấy anh về là cứ mang con ra ngoài Phường giao. Tự động Phường sẽ tìm anh ra ngay, không cần chi phải lo. Thời buổi đó, mọi gia đình đều ăn bo bo, gạo quý lắm. Nên chở được từ miền Tây về trót lọt, thì lãi tương đối khá. Sau nầy anh thấy gạo chở nhiều mà tiền lãi không bao nhiêu, nghe lời mấy bà bán thịt, anh đi Long An mua thịt heo về bán.

Anh bắt đầu nhập vào chuyện buôn lậu thịt, anh cũng dạo một vòng các chợ để biết mối lái, giá cả. Trước khi bắt tay vào việc nầy. Anh lắng nghe các chuyện cười ra nước mắt, bằng đủ các trò để đưa được thịt vào Thành phố. Có bà quấn thịt dưới hai ống chân, mặt quần đen ống rộng phủ bên ngoài. Có bà độn thịt ở bụng giả làm người mang bầu. Xe cứu thương hụ còi inh ỏi, không có người bị cấp cứu, chỉ toàn chở lậu thịt v.v…Thành phố Sài Gòn lúc ấy thiếu thốn đủ mọi thứ, tất cả mọi người chỉ còn lo lắng cho cái ăn. Dân chúng mỗi tháng chỉ được mua 100gr thịt cho một người theo giá chính thức. Muốn ăn thêm phải mua giá chợ đen.

Lương bổng của công nhân viên chức, mỗi tháng chỉ đủ tiền mua được một con gà, họ phải chật vật chạy mánh mung ngược xuôi để nuôi gia đình. Người dân trong nước đều ở trong tình trạng phạm tội, từ cán bộ cấp nhỏ cho tới dân chúng mang một tâm trạng sợ sệt.

Anh rời khỏi nhà lúc 2 giờ sáng. Ðến lò xẻ thịt tại thị xã Tân An, lấy xong rồi quay về ngay. Sợ nắng lên, sẽ làm cho thịt bị hôi. Cứ thế, ngày nầy qua ngày khác anh vẫn đều đặn công việc làm ăn của mình. Ban ngày ở nhà chơi với con, hoặc chở con đi thăm bà con bạn bè.

Một hôm, anh mang các con vào chợ Bà Chiểu lấy tiền thịt bỏ mối, và luôn tiện cho chúng ăn uống. Cha con vừa ngồi xuống hàng bán cháo, thì thấy vợ anh đang đi lại. Chị ăn mặc rất sang trọng. Các con trông thấy mẹ gọi ríu rít, chị quay lại chạy tới ôm chúng vào lòng, quên đi mình bây giờ, quên đi sự dòm ngó của người khác chung quanh. Nước mắt chị chảy ra, nghẹn ngào không nói gì được. Anh thì cúi đầu lặng lẽ. Ðây là cái lúc đối diện thật oan nghiệt cho anh, cho chị. Tự nhiên anh thấy lòng mình chùng xuống.

Những điều hận chị trước đây bỗng dưng bay đâu mất, anh cảm thấy thương chị. Ðúng ra vì oán hờn chị, anh không cho chị lại gần các con. Nhưng không biết vì sao anh không thể làm điều đó được, các con anh cũng cần có tình thương của mẹ. Ðôi mắt của chúng mở lớn sung sướng, vì được mẹ tới ôm hôn. Anh không thể ích kỷ, bắt các con thèm khát những cái mà anh không thể nào tìm ra được cho chúng. Anh vừa thấy xót xa, vừa thấy bằng lòng với sự yên lặng của mình.

Chân đã bước quá xa, không thể nào quay lại được. Lầm lỡ nào cũng gây cho mình một cảm giác đau đớn. Trong lúc thừa mứa vật chất, bây giờ chị lại thèm khát một mái gia đình. Chị đã đánh vở mất những báu vật linh thiên của cuộc sống. Chồng con chị ngồi đó, mà chị không dám nhìn. Lâu ngày gặp lại, đúng ra phải mừng, nhưng chị lại khóc. Ðời sống họ tả tơi, tan tác, chị không giúp đỡ được. Mà chị có giúp thì họ cũng không thể ngửa tay ra nhận. Cái nghèo của họ thật đáng quý, đáng trân trọng.

Anh chở con về nhà, dỗ cho chúng ngủ. Anh đến ngồi bên cửa sổ, hình ảnh chị ôm các con lại hiện ra lung linh. Trông chị bây giờ đẹp thật, da thịt mát rượi, đời sống sung túc đã thay đổi hẳn con người. Còn cha con anh, trông thật thê thảm, quần áo xốc xếch, ốm đói. Căn nhà trống vắng quá, đang thiếu một cái gí đó để khỏa lấp. Thiếu một bàn tay chăm sóc, thiếu một tiếng nói dịu dàng, để sưởi ấm lại gia đình. Gần cả năm nay vì phải lo chạy từng miếng ăn, phải lo cho đời sống các con, chăm sóc chúng, anh không còn nghĩ gì khác hơn. Bây giờ mọi thứ tạm ổn, mọi sinh hoạt vẫn đều đặn. Phải có một người đàn bà trong gia đình. Vâng, anh thầm nhủ như vậy.


Phan Xuân Sinh 

SƠN TRUNG * CÁO HỌC PHÁP THUẬT

CÁO HỌC PHÁP THUẬT

Một con Cáo Trắng đến gặp Thần Rừng để xin được ban cho ít phép thuật. Thần Rừng chấp nhận, với điều kiện, Cáo phải thực hiện được ba điều: Thứ nhất là lấy được viên ngọc lưu ly trong miệng rắn, thứ hai là phải đậu vào trường đại học “Bách thú khoa” và thứ ba là phải làm giám đốc một công ty quốc doanh nào đấy.
Đầu tiên, Cáo Trắng cho đàn em là nhím mang đến tặng rắn món nhái khô vốn là món khoái khẩu của rắn nhưng đã quá “đát” ba tháng. Rắn bị ngộ độc thực phẩm phải đi bệnh viện. Sau đó, thỏ “bắt tay” với bác sĩ gấu kê cho rắn một loạt toa thuốc ngoại nhập. Giá thuốc cao và viện phí quá đắt mà nhà rắn lại nghèo không trả nổi tiền thuốc nên phải đem ngọc đến chỗ thỏ cầm cố.

Sau đó, Cáo đến gặp Sói là trùm tổ chức đường dây thi hộ, bỏ ra một số tiền lớn để Sói làm bằng tốt nghiệp giả, giấy chứng minh nhân dân giả cho mèo rừng thông thái đi thi hộ. Kết quả là Cáo đậu thủ khoa.


Nhờ có ô dù và tấm bằng đại học loại xịn, Cáo xin vào làm ở công ty cổ phần Cổ Cò và được bổ nhiệm làm phó phòng. Về đây Cáo không bỏ qua cơ hội nào để lấy lòng sếp. Từ sinh nhật thủ trưởng đến sinh nhật vợ thủ trưởng, từ đám cưới con thủ trưởng đến mừng thọ mẹ thủ trưởng, từ mừng tân gia, mừng năm mới đến mừng xe mới… tất cả đều được Cáo mừng bằng phong bì dầy cui.

Đó là chưa kể mời thủ trưởng đi khách sạn nhà hàng và… em út. Không chỉ đánh vào mặt tiền, Cáo còn đánh vào mặt hậu là… vợ thủ trưởng. Thỏ thường bảo vợ mình đến rủ vợ thủ trưởng đi shop, đi siêu thị, du lịch… Nhờ vậy mà chẳng bao lâu thỏ nhảy từ phó phòng lên trưởng phòng, phó giám đốc rồi… giám đốc!

Sau đó, Cáo Trắng đến chỗ thần rừng và kể cho thần nghe mình đã hoàn thành ba điều kiện như thế nào. Nghe xong thần lắc đầu thở dài nói:
- “Phép thuật”của nhà ngươi đã lợi hại hơn ta rồi, làm sao ta có thể dạy ngươi được. Để mai ta tâu với Ngọc Hoàng cho ngươi làm thần ở đây, còn ta “lạc hậu” quá rồi, không thể phục vụ tốt triều đình nữa, ta phải về vườn thôi.

THƠ HOÀNG CẦM



EM BÉ LÊN SÁU


Mỗi chính sách của Đảng
Là một tia nắng hồng
Nắng vương mây sám lạnh
Cỏ hoa còn ngóng trông
Ước có nhiều trận gió
Thổi sạch quang vòm trời
Cho tia nắng nhảy múa
Vui hát thực trên đời



I
Em bé lên sáu tuổi
Lủi thủi tìm miếng ăn
Bố: cường hào nợ máu
Mẹ bỏ con lay lắt
Đi tuột vào trong Nam

Từ khi lọt lòng mẹ
Ăn sữa, ngủ giường êm
Áo hoa lót áo mềm
Nào biết mình sung sướng

Ngọn sóng đang trào lên
Ai nghĩ thân bèo bọt
Nhưng người với con người
Vẫn sẵn lòng thương xót



Có cụ già đói khổ
Lập cập đi mò cua;
Bố mẹ nó không còn
Đứa trẻ nay gầy còm
Bỗng thương tình côi cút
Cụ nhường cho miếng cơm

Chân tay như cái que
Bụng phình lại ngẳng cổ
Mắt tròn đỏ hoe hoe
Đo nhìn đời bỡ ngỡ:
"Lạy bà xin bát cháo
Cháu miếng cơm, thầy ơi!"

II
Có một chị cán bộ
Đang phát động thôn ngoài
Chợt nhìn ra phía ngõ
Nghe tiếng kêu lạc loài.

Chị rùng mình nhớ lại
Năm đói kém từ lâu
Chị mới năm tuổi đầu
Liếm lá khoai giữa chợ

Chạy vùng ra phía ngõ
Dắt em bé vào nhà
Nắm cơm dành chiều qua
Bẻ cho em một nửa.

Chị bần cố nông cốt cán
Ứa nước mắt quay đi:
-- "Nó là con địa chủ
Bé bỏng đã biết gì
Hôm em cho bát cháo
Chịu ba ngày hỏi truy"



Chị đội bỗng lùi lại
Nhìn đưá bé mồ côi
Cố tìm vết thù địch
Chỉ thấy một con người

Em bé đã ăn no
Nằm lăn ra đất ngủ
Chị nghĩ: "sau lấy chồng
Sinh con hồng bụ sữa".

III
Chị phải đình công tác
Vì câu chuyện trên kia
Buồng tối lạnh đêm khuya
Thắp đèn lên kiểm thảo

Do cái lưỡi không xương
Nên nhiều đường lắt léo
Do con mắt bé tẻo
Chẳng nhìn xa chân trời
Do bộ óc chây lười
Chỉ một màu sắt rỉ,
Đã lâu năm ngủ kỹ
Trên trang sách im lìm
Do mấy con người máy
Đầy gân thiếu trái tim

Nào "liên quan phản động"
"Mất cảnh giác lập trường"
Mấy đêm khóc ròng rã
Ngọn đèn soi tù mù
Lòng vặn lòng câu hỏi:
"Sao thương con kẻ thù ?
Giá ghét được đứa bé
Lòng thảnh thơi bao nhiêu!
Nhưng bụng nó lúc đói
Giống bụng ta khi nghèo"
Em bé đến ngoài cửa
Thành quen xin miếng cơm
Nhịn cho em một nửa
Chị đưa qua khe tường

Ngồi viết lên từng chữ
Sáng tình yêu con người
Ngoài kia sông núi mở
Thao thao đến chân trời

IV
Có đồng chí cấp trên
Lật từng trang kiểm thảo
Nước mắt mấy giọt liền
Rơi trên tờ báo cáo :
- "Có bầu trời nhân đạo
Còn vương vất bóng đêm
Đồng chí đã thắp đèn
Dòng mực vắt như sữa
Nhức căng hai đầu vú
Nuôi ngày mai lớn lên"
Em bé lên sáu tuổi
Được chăm nuôi lớn dần
Đã tung tăng cặp sách
Cùng trẻ em nông dân
Bướm bay quanh mắt sáng
Cỏ xanh rờn chân em
Cỏ đang lấp bùn đen
Của nghìn năm tội ác

Chị đội thăm trường học
Cờ lên, em đứng chào
Mắt sáng như hôm nào
Được miếng cơm của chị.

(6/1995)
Tập thơ Những bài thơ lẻ


LÁ DIÊU BÔNG

Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ



Chị bảo
Đứa nào tìm được Lá Diêu bông
Từ nay ta gọi là chồng

Hai ngày Em tìm thấy Lá
Chị chau mày
Đâu phải Lá Diêu bông

Mùa đông sau Em tìm thấy Lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông

Ngày cưới Chị
Em tìm thấy Lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim

Chị ba con
Em tìm thấy Lá
Xòe tay phủ mặt Chị không nhìn


Từ thuở ấy
Em cầm chiếc Lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời...
...ới Diêu bông...!

VŨ MÃO * TRẦN ĐỘ

Thư ông Vũ Mão về đám tang Trần Độ




Vũ Mão
Tháng 7 năm 2007 này, vừa đúng năm năm lễ tang ông Trần Độ. Hôm nay tôi viết lại đôi dòng về một khía cạnh đã diễn ra ngày ấy. Tôi là người được Tổ chức phân công đọc Điếu văn vì tôi là Trưởng ban Lễ tang. Còn việc vì sao phân công tôi làm Trưởng ban Lễ tang sẽ được trình bày vào một dịp khác.

Điếu văn đọc tại Lễ tang Ông Trần Độ được phân công chuẩn bị khá công phu. Sau đó, có tham khảo ý kiến của gia quyến. Gia quyến đề nghị bỏ đoạn nói về thiếu sót, khuyết điểm của ông Trần Độ. Bộ phận soạn thảo cũng muốn vậy nhưng không được cấp trên chấp nhận, vì lập luận rằng, phải công bằng và khách quan giữa cống hiến và khuyết điểm. Bản Dự thảo mới, tuy vẫn nói tới thiếu sót nhưng đã được giảm nhẹ và thu gọn lại. Đã có một cuộc họp nhanh, nói cho chính xác là có cuộc hội ý ngay sau phiên họp buổi chiều của Quốc hội. Các ý kiến phát biểu sôi nổi và vẫn giữ ý kiến như cũ, tức là phải nói cả công lao và thiếu sót. Cuối cùng, các đồng chí dự Hội nghị đã vui vẻ dặn tôi: Khi đọc Điếu văn, đoạn nói về những đóng góp của ông Trần Độ thì đọc to; còn về thiếu sót, khuyết điểm thì đọc nhỏ thôi.

Mọi người đều biết tôi không muốn nhận sự phân công này, đặc biệt trong Điếu văn lại phải đọc cả thiếu sót khuyết điểm của người quá cố là điều tối kỵ, chưa ai làm thế bao giờ, nên tôi càng không đồng tình.
Tuy nhiên, tôi không có cách nào khác là chấp hành sự phân công của Tổ chức và tôi đã thực hiện nghiêm chỉnh.

Tại Lễ truy điệu, tôi đọc Điếu văn. Trong lời đọc của mình, khi nói về công lao, thành tích, cống hiến của ông Trần Độ đối với Cách mạng, đối với Tổ quốc và Nhân dân thì tôi đọc to và rõ ràng, hào hùng đầy khí thế. Tôi xúc động thực sự từ đáy lòng mình. Khi đọc đến thiếu sót tôi đọc rất nhỏ, thực chất chỉ mấp máy môi để không ai nghe thấy gì cả. Trong trường hợp này, có thể nói: “Tôi là một Nghị sĩ đã đóng vai một Nghệ sĩ xuất sắc trong diễn đạt và biểu cảm”.

Tôi tự ví von, mình là một Nghị sĩ đóng vai một Nghệ sĩ xuất sắc, âu cũng là sự hài hước để giảm nhẹ bớt nỗi đau của riêng mình. Thế mới biết, dù có dùng bất cứ một thứ nghệ thuật nào và trình độ diễn đạt có siêu đẳng đến mấy cũng không thể thay thế cái công bằng của sự thật, tình nhân ái của con người.
Hội trường Ba Đình, ngày 1/8/2007
1235019_546775972082844_1293673618_n.jpg
Nguồn: Tư liệu của Nhà văn Võ Bá Cường (Trích Thời tôi sống, Nxb Hội Nhà văn, 2012)
* * *

Trần Quang Vinh: Bức thư của anh Vũ Mão

"Trong cuốn sách 'Nhớ nhà văn Trần Độ', có đăng bài 'Bài ca tặng anh Trần Độ' của anh Vũ Mão – lúc đó nguyên là Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội. Bài viết lấy từ một bức thư của anh Vũ Mão viết và gửi cho ông Trần Độ ngày 17 tháng 2 năm 1993 và được gia đình gìn giữ như một kỷ vật thiêng liêng".
1458637_546775432082898_274941577_n.jpg



NGUYỄN QUANG LẬP * ANH CU ĐOM

24-11-2013


Chuyện tình anh cu Đom

Nguyễn Quang Lập
 Thuở bé mình mới biết có người tên xấu như anh Đom. Mình hỏi anh, nói răng anh tên Đom. Anh kể nhà anh đã có 5 con trai, ba mạ anh ráng đẻ thêm một đứa nữa, hy vọng con gái. Ngày mạ anh có chửa, chả biết mấy cô y tá hộ sinh ở trạm xá khám xét thế nào, khẳng định là con gái. Ba mạ anh mừng lắm, mổ heo ăn mừng. Đến ngày sinh, ba anh chầu chực suốt đêm bên cửa sổ. Nghe tiếng trẻ khóc ông nhóng cổ thò mồm qua cửa sổ, nói trai hay gái? Nghe bảo con gái ông cười cái hậc, nói đom! Từ đó anh có tên là cu Đom.


Khi mình lên thung lũng Chớp Ri thì anh cu Đom đã học xong lớp 7, chuẩn bị vào học lớp sư phạm 7+ 2, tức lớp 7 cộng hai năm trung cấp sư phạm là ra trường đi dạy, dốt dạy cấp một giỏi dạy cấp hai. Thời chiến tranh giáo viên thiếu kinh khủng, có lẽ giáo viên nhập ngũ quá nhiều mới có tình trạng đào tạo cấp tốc kiểu đó. Có đợt còn đào tạo sư phạm 10+3, tốt nghiệp lớp 10 học thêm ba tháng là thành cô thầy giáo cấp 2. Kinh.

Anh cu Đom ở xóm Cá, sát ngay xóm của mình, anh chọn học sư
phạm 7+2 vì Trường trung cấp sư phạm Quảng Bình sơ tán lên thung lũng Chớp Ri, đóng sát ngay sau nhà anh. Nếu học tiếp lên cấp 3 anh phải vượt đèo Cao Mại ra phố huyện cách nhà hơn hai chục cây số. Anh học sư phạm như học phổ thông, khi nào cũng một cuốn vở cuộn tròn nhét túi, chẳng thấy túi, cặp gì. Học đựợc nửa buổi anh bỏ lớp tót về nhà chơi với tụi mình, lắm khi anh bỏ học hai ba ngày không tới lớp. Phần vì anh ham chơi, đi học chẳng qua vì đỡ phải đi làm chứ anh chẳng thiết tha gì việc học hành, phần vì anh mê cô Lý.

Cô Lý là cô giáo 7+2 thực tập lớp trường mình. Cô ở cùng xóm với mình, xưa gọi bằng chị nay gọi bằng cô. Gọi bằng cô cho cô mừng thôi chứ cô chẳng dạy dỗ gì mình. Cô Lý hiền lành nhu mì nhưng xấu chết, đen thui từ đầu đến đuôi. Chả hiểu sao anh Đom mê cô Lý. Anh đẹp trai, đánh bóng chuyền giỏi lại biết thổi kèn armonica. Học sau cô Lý nhưng anh Đom còn hơn cô Lý một tuổi vì anh đúp mấy năm liền mới qua được lớp



 7. Một hôm thấy anh Đom đứng đái, mình chạy lại đái gần anh, tranh thủ chiêm ngưỡng con cu rất hoành tráng của anh. Anh nói nhìn cái chi, lên lớp 7 là bằng cu tau thôi mà. Mình nói anh yêu cô Lý à? Anh nói yêu chớ sợ chi không yêu. Mình nói răng anh yêu cô Lý, anh nói con nớ bụ to. Chợt anh vỗ vai mình đánh bốp, nói a nhớ rồi, mi biết mần thơ phải không, duyệt tao bài thơ. Anh lôi ra bài thơ vừa sáng tác tặng cô Lý. “Ôi cái tên Minh Lý/ Tên em đẹp hết ý/ Lý ơi yêu anh tí/ Đêm nào anh cũng bí.” Mình ôm bụng cười rũ, nói anh mần thơ như ẻ. Anh trợn mắt lên, nói thằng ni nói chi rứa bay, thơ tau gieo vần êm như nhíp.
Mình nói anh không biết mần thơ để tui mần cho. Anh ôm lấy mình ra sức nịnh nọt, nói mần giúp anh nghe, anh sẵn sàng cho mi tập giấy năm hào hai mới cứng. Mình nói anh đừng nịnh cô Lý, cô Lý ghét nịnh, phải dọa cô mới sợ. Anh hỏi dọa răng. Mình đọc ngay tức thì, nói nếu mà Lý chẳng yêu Đom/ thì Đế Quốc Mỹ thả bom xuống liền. Anh vỗ tay đánh bốp, nói oa chà hay chi hay ác! Anh chép ngay bài thơ. Hôm sau đưa mình tập giấy năm hào hai, nói cảm ơn mi, nhờ thơ mi tau sờ được bụ con Lý rồi.
Cô Lý ở gần nhà mình, chỉ cách một ngõ nhỏ. Mình vọt về kiểm tra xem anh Đom có nói láo hay không. Cô đang thái rau heo, mình chạy vào hỏi cô, nói cô đang yêu à. Cô cười, nói ừ. Mình hỏi cô yêu ai. Cô ngừng thái rau, mắt mơ màng, nói yêu một người đáng yêu. Mình nhăn răng cười, nói em biết cô yêu ai rồi. Nghe vậy cô Lý tái mặt vội vàng ôm lấy mình, nói em đừng nói với ai cả nghe chưa. Ba cô ghét anh Đom lắm. Mình lại vọt đi tìm anh Đom, nói ba cô Lý ghét anh lắm đó.. Anh cười cái hậc, nói è he, mần cặc chi tau.
Mình đeo lấy anh Đom, đòi anh kể chuyện anh yêu cô. Anh kể hấp dẫn như các chú bộ đội kể chuyện đánh giáp la cà. Anh nói tau hun cái nghe chưa, hắn cho tau một tát nghe chưa, tau không sợ nghe chưa, tau đè hắn ra nghe chưa, hắn cho tau một đạp nghe chưa, tao xé đứt lai quần hắn rồi ngoạm hắn nghe chưa, hắn mềm dần như bún, he he rứa là xong om. Mình nói ngạm chỗ mô, anh nói chỗ hắn đi đái đó, thằng ngu. Mình nhăn răng cười, nói tởm tởm, anh ni tởm gớm bay. Anh đá đít mình, nói ngu, mi đúng là đồ con nít. Từ đó hễ gặp cô mình đều tưởng tượng anh Đom ngoạm cô thế nào. Nghĩ mãi không ra tại sao anh Đom ngoạm thì cô mềm dần như bún. Hi hi.
Một hôm đi học về thấy cô Lý ngồi bó gối dựa tường gạch, nước mắt hai hàng. Chắc ba cô vừa đánh cô. Hôm trước ba cô cầm dao rượt đuổi anh Đom, anh bỏ chạy vào rừng, chạy vòng vèo khiến ba cô đuổi đứt hơi. Anh lừa ba cô chạy vào khu rừng người ta hay bẫy heo. Ba cô sập bẫy, treo lủng lẳng suốt ngày trong rừng. May có người nghe tiếng kêu cứu không ông chết không ai biết.
Mình hỏi anh Đom, nói răng ba cô Lý ghét anh. Anh cốc đầu mình phát, nói thằng ni tò mò tọc mạch gớm. Mình túm áo anh, nói kể đi kể đi. Anh nói cả nhà con Lý căm thù nhà tau như căm thù Đế Quốc Mỹ, nghe chưa. Mình hỏi răng căm thù. Anh nói xưa ba con Lý tố cáo ba tau tham ô ba tạ thóc, ba tau trả thù bằng cách rặp cho được vợ ông ta, nghe chưa. Nay ông ta lên trường sư phạm tố cáo tố cáo ăn cắp mít nhà ông, tao trả thù bằng cách rặp cho được con gái ông ta, nghe chưa. Anh ngửa cổ cười he he he, nói rứa đo rứa đo.
Tất nhiên mình không dám kể chuyện này với cô Lý. Thấy cô khóc, mình cũng thương nhưng chẳng biết nói gì, không lẽ bảo cô bỏ quách anh Đom cho xong. Bỗng cô vùng dậy lao đầu đập tường liên tục, đập đến tóe máu đầu, vừa đập vừa hét chết đi cho rồi! Chết đi cho rồi! Mình sợ quá ôm lấy cô, khóc nói cô ơi đừng chết! Cô ơi đừng chết! Cô ôm đầu hét rất to. nói không, cô phải chết thôi, không ai cho cô sống đâu!
Mình nói với anh Đom, nói anh thôi yêu cô Lý đi cho rồi, tội cô lắm. Anh Đom cười, nói tại hắn yêu tau chớ, tau rặp được rồi, hắn bỏ càng khỏe xác tau. Tối mình về tìm các đọc trộm nhật kí cô, cô viết dài hàng chục trang. Bây giờ chẳng nhớ gì, chỉ nhớ câu: Đom ơi em không thể sống thiếu anh! Đom ơi là Đom ơi. Đom Đom Đom Đom…
Mình chạy tìm anh Đom, nói cô Lý nói không thể sống thiếu anh. Anh cười cái hậc, nói đàn bà con mô nỏ rứa, lẹo phát là dính như keo.. Mình không hiểu lắm, chỉ biết cô Lý coi anh Đom như người tình lý tưởng trong khi anh chẳng mấy quan tâm, chỉ kể chuyện làm tình với cô, đè cô ra sao, ngoạm cô thế nào và cười he he he.
Cô Lý thức trắng mấy đêm liền, rồi bỏ trốn, rủ cả anh Đom cùng đi. Thầy hiệu trưởng nói nhất định trốn vô rừng và huy động cả trường đi tìm. Mình vừa đi vừa gọi, nói anh Đom ơi anh Đom trốn mô ra đi, tụi em đói lắm rồi. Ba cô Lý cầm dao lùng sục khắp rừng, nói cha tổ mi vơ Đom, bắt được tau chặt mi ra ba khúc. Chuyện này ầm ĩ khắp thung lũng.
Cuối cùng cô Lý và anh Đom cũng trở về. Cô Lý xanh như que củi, nằm ốm cả tháng trời, chỉ còn da bọc xương. Hết ốm thì bị chuyển trường, không đuổi dạy, chỉ chuyển trường thực tập thôi. Mình hỏi anh Đom, nói cô Lý với anh trốn mô, sao tự nhiên bỏ về? Anh Đom nói chui vô hang Dơi chớ mô, ăn hết đồ ăn mang theo thì về chớ răng. Anh nói cô Lý mang theo bánh bích qui, thịt heo rừng nướng, xôi cả bọc to, ăn đã thôi. Anh khoa chân múa tay, nói chưa khi mô tau được ăn no như rứa, ngày sáu bữa, cơm no bò cưỡi ngày sáu phát, sướng cực, sướng cực. Anh lại ngửa cổ cười he he.
Bỗng cái miệng anh dần ngậm lại, cô Lý như mọc dưới đất lên, nói anh vừa nói chi, nói lại nghe coi. Anh cười nhăn nhở, nói chi mô nói chi mô. Cô cho anh một tát nảy đom đóm rồi bỏ đi, đi mãi không thấy cô trở lại. Người ta bảo cô Lý ra suối Tranh tự vẫn nhưng không ai tìm ra xác.
NGUYỄN QUANG LẬP
QUÊ CHOA

No comments:

Post a Comment