Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Monday 21 November 2016

STALIN *

STALIN

NHIẾU TÁC GIẢ * KHẢO LUẬN VỀ STALIN

http://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2013/08/joseph-stalin-1949.jpg

 Khái niệm chủ nghĩa Stalin là một sự lầm lẫn



Phạm Nguyên Trường dịch


Fałszywe słowo “stalinizm”


Đại diện của chính quyền Nga mấy tháng gần đây đã bất ngờ khởi động – trong khuôn khổ chiến dịch hiện đại hóa – việc lên án “chế đội tội lỗi của Stalin”. Đề tài này đặc biệt được tăng cường trong thời gian thủ tướng Ba Lan, Donald Tusk, đến Katyn. Lúc đó ngay cả thủ tướng Vladimir Putin cũng tự cho phép mình nói một vài câu có tính cách phê phán đối với nhà độc tài Xô Viết. Nhưng hiện chiến dịch phê phán đang đạt đến cao trào. Duma quốc gia Nga lên án Katyn và coi đấy là tội ác của Stalin, còn các phương tiện truyền thông đại chúng và các chính khách Nga thì sử dụng từ “chủ nghĩa Stalin” dưới mọi hình thức có thể. Những tờ báo ra ở Moskva thì viết về cả một chiến dịch “phi Stalin hóa”, do chính tổng thống lãnh đạo, với mục đích là giải thích cho dân chúng biết rằng “chế độ của Stalin” là một chế đội tội lỗi.


Tất cả những chuyện này đã gây ra ở Ba Lan một sự cộng hưởng mạnh mẽ. Các quan chức, các chính khách, các nghệ sĩ và nhà báo của chúng ta, những người đại diện cho những xu hướng tư tưởng hoàn toàn khác nhau, cùng phấn khởi nói và viết về phong trào “phi Stalin hóa” này. Họ làm như sự đoạn tuyệt với di sản của “chế độ Stalin” và hoài niệm về nó là đơn thuốc duy nhất không chỉ đối với sự nồng ấm trong quan hệ Warsawa-Moskva, mà còn là đơn thuốc đối với cả quá trình dân chủ hóa và những thay đổi sâu sắc ở nước Nga vậy.


Nhưng chỉ cần bình tĩnh một chút và tự đặt câu hỏi có tính nguyên tắc: làm sao có thể đoạn tuyệt với cái chưa từng hiện diện? Bởi vì “chủ nghĩa Stalin” huyền thoại là một thuật ngữ do bộ máy tuyên truyền Xô Viết bịa ra. Tất cả bắt đầu vào năm 1956, khi một trong những tên tội phạm lớn nhất trong những năm 30 và 40 của nhà nước Liên Xô là Nikita Khrushchev, kẻ đã cướp được chính quyền Liên Xô, đọc trong đại hội Đảng bản báo cáo mật nổi tiếng có tên là Về tệ sùng bái cá nhân và hậu quả của nó.


Medvedev đi theo bước chân của Khrushchev


Ý tưởng khá đơn giản: đổ tất cả tội lỗi cho Stalin, đặt chủ nghĩa cộng sản tốt đẹp đối lập với chủ nghĩa Stalin. Theo cách giải thích này thì Liên Xô vốn là thiên đường trên trái đất, cho đến khi bất ngờ xuất hiện một kẻ phản loạn với những tham vọng ngút trời, chẳng khác gì một con quỉ nhảy ra từ hộp đựng thuốc lá vậy. Vâng, Stalin thậm chí không phải là người cộng sản chân chính nữa, ông ta chỉ là một nhà độc tài quân phiệt (đúng là ông ta có mặc quân phục thật!), ông ta kẻ đã xuyên tạc những tư tưởng tuyệt vời của Lenin.


Bước ngoặt vào năm 1956, xin gọi đấy là chiến dịch phi Stalin hóa thứ nhất, đã tạo ra ở phương Tây – lúc đó đang muốn tồn tại hòa bình với Liên Xô – một sự phấn khích chưa từng có. Cuối cùng thì tất cả đã rõ ràng: trại tập trung, khủng bố chính trị, những phát đạn bắn vào gáy đối thủ chính trị, thủ tiêu một loạt các dân tộc và những nhóm xã hội, bỏ đói hàng triệu người, xâm chiếm các nước láng giềng – tất cả đều là tội lỗi của Stalin, còn chính chủ nghĩa cộng sản và Liên Xô thì vẫn hoàn toàn “OK”.

Thế thì tại sao bây giờ, tức là vào năm 2010, việc nước Nga độc lập lại sử dụng chiến thuật mà nhà nước Liên Xô toàn trị đã từng sử dụng cách đây 54 năm lại làm cho người ta phấn khích đến như thế? Thật khó hiểu. Khó mà có thể gọi đây là sự tiến bộ. Công nhận rằng Katyn là tội ác của NKVD (Bộ nội vụ Liên Xô -ND) chứ không phải của GESTAPO cũng không phải là điều gì mới mẻ. Thế mà ở Ba Lan người ta lại coi là bước ngoặt có tính thời đại. Thực ra ngay từ năm 1990, tức là một năm trước khi Liên Xô tan rã, Mikhail Gorbachev đã công nhận như thế rồi.

Chiến dịch “phi Stalin hóa” hiện nay, do bộ đôi Putin và Medvedev tiến hành, cũng có cùng mục đích như chiến dịch thứ nhất do Khrushchev thực hiện mà thôi: sơn phết lại Liên Xô, trong lần thăm dó dư luận gần 55% người Nga, tức là đa số cử tri, tỏ ra luyến tiếc Liên Xô. Còn chính Putin thì đã từng nổi tiếng với câu: việc tan rã khối Xô Viết là “thảm họa địa chính trị lớn nhất trong thế kỉ XX”. Tôi xin cam đoan là ông ta chưa thay đổi ý kiến của mình. Vấn đề không chỉ là khi nhắc lại lí thuyết của người Nga về “chế độ Stalin” (tôi đã đọc được ở đâu đó rằng năm 1939 Ba Lan đã bị “nước Đức phát xít và nước Liên Xô của Stalin chia nhau!”) là chúng ta đã tự đưa mình vào kịch bản tuyên truyền của điểm Cẩm Linh. Đây là điều không thể chấp nhận được, nhất là từ quan điểm đạo đức.

Nạn nhân tốt và nạn nhân xấu

Nếu chúng ta công nhận rằng trong lịch sử Liên Xô chỉ có giai đoạn cầm quyền của Stalin (1929-1953) là đáng bị lên án thì ta sẽ nói sao về các nạn nhân trong giai đoạn 1917-1929 và 1953-1991? Vì khủng bố ở Liên Xô không bắt đầu từ khi Stalin nắm được chính quyền và không kết thúc ngay sau cái chết của ông ta. Những người bị giết trong những căn phòng của Ủy ban khẩn cấp vào năm 1919 không đáng thương bằng nạn nhân của Bộ nội vụ trong năm 1937 hay sao?

Tại sao người sĩ quan Ba Lan, tên là Pasternacki, rơi vào tay những người Bolshevik ở Śniadowo, trước khi bị giết đã bị cắt lưỡi, cắt tai và mũi lại không đáng được tôn trọng và tưởng nhớ hơn là người sĩ quan bị giết vào năm 1940? Chỉ vì rằng anh ta đã chết quá sớm, và không có cơ hội trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa Stalin”?

Trong bản báo cáo của mình, chính Khrushchev đã chia nạn nhân thành tốt và xấu rồi: “Sự khủng bố này trên thực tế không nhằm chống lại tàn dư của các giai cấp bóc lột [những người này có thể giết được – tác giả], mà là chống lại những cán bộ trung thành của Đảng và nhà nước Liên Xô, họ đã bị kết tội bằng những bản án bịa đặt, bôi nhọ, vô nghĩa. (…) Do sự nghi ngờ của Stalin (…) mà rất nhiều cán bộ chỉ huy quân đội và cán bộ chính trị đã bị thủ tiêu”, ông ta viết như thế.

Dĩ nhiên là trong thời Stalin cầm quyền đã có hàng triệu người vô tội bị giết hại, thí dụ như những nạn nhân của việc tập thể hóa và công nghiệp hóa. Nhưng ta phải nhớ rằng đối với những nhà trí thức phương Tây và đối với rất nhiều người Nga hiện nay thì chủ nghĩa Stalin là tổ chức đàn áp trước hết là những cán bộ cộng sản. Trong quan niệm của họ thì tội lỗi lớn nhất của ông ta chính là hiện thực hóa luận điểm về cách mạng ăn thịt chính những đứa con của mình.

Xin hãy hiểu tôi. Tôi đánh giá cao nền văn chương, trong đó người ta đã phân tích cơ chế của cuộc Đại khủng bố, tức là giai đoạn khi mà những người cộng sản tự tiêu diệt lẫn nhau dưới trào Stalin. Các tác phẩm của Aleksander Weissberg-Cybulski, của Arthur Koestler, của Viktor Kravtrenko, của Aleksander Sozhenitsyn (rất may là sau này ông đã chuyển từ quan điểm “bài Stalin” sang bài Xô) là những tác phẩm rất hấp dẫn và đáng đọc.

Nhưng những người cộng sản cuồng tín, những kẻ đã bóp cổ “kẻ thù của nhân dân” để rồi ngày hôm sau hấp hối trong bốn bức tường nhà giam của Bộ nội vụ và thuyết phục các nhân viên điều tra rằng mình trung thành với Đảng, tôi lại không thấy đáng thương lắm. Xin nhắc lại rằng Nikolai Yezhov và hàng nghìn đảng viên cộng sản tội phạm khác cũng đã trở thành nạn nhân của các vụ thanh trừng. Nhưng chắc chắn là tôi cảm thấy không thương họ bằng thương hàng triệu người Nga yêu nước vô tội, những người đã bị cộng sản giết hại trong giai đoạn cách mạng và những năm sau cách mạng. Tất cả “những tên phản cách mạng đó”: các nhà trí thức, các nhà quí tộc, các sĩ quan, những người làm nghề tự do và thành viên gia đình họ đã bị giết trong thời gian khi mà chưa ai tưởng tượng được là Stalin sẽ trở thành lãnh tụ Liên Xô chứ chưa nói tới chủ nghĩa Stalin.

Ai đã tạo ra Stalin?

Xin quay lại thời của chúng ta. Các nhà bình luận đã đúng khi nói rằng nếu Nga không chia tay với lịch sử kinh hoàng trong thế kỉ XX của mình thì nó sẽ không thể trở thành một đất nước bình thường được. Phần lớn bệnh tật của đất nước này, kể cả trong cơ cấu quyền lực lẫn trong tâm trí người dân bình thường, đều có xuất xứ từ ảnh hưởng của thời đại vừa qua. Không chỉ dân Nga mà dân chúng các quốc gia láng giềng cũng cảm nhận được một cách rõ ràng những căn bệnh đó.

Việc thanh toán một cách có lựa chọn với lịch sử mà Medvedev và Putin đang tiến hành – đáng tiếc là đã được người Ba Lan chấp nhận một cách thiếu phê phán như thế – sẽ chẳng làm thay đổi được gì. Nước Nga không cần một chiến dịch phi Stalin hóa nào hết, nước Nga cần tiến hành một chiến dịch phi Xô Viết hóa một cách nghiêm túc và triệt để. Cần phải đoạn tuyệt không phải là với truyền thống do Stalin tạo ra – chưa đến một phần trăm dân chúng hiện nay còn nhớ truyền thống này – mà phải đoạn tuyệt với truyền thống của nhà nước Liên Xô.

Vì không phải Stalin tạo ra chế độ toàn trị khát máu này mà chính chế độ đã tạo ra ông ta.
 

Phi cộng sản hóa chứ không phải là phi Stalin hóa!

Nguồn Russ.ru
Phạm Nguyên Trường dịch
Lời tòa sọan tạp chí Nga (Russ.ru): Ngày 12 tháng 10 Tổng thống Dmitry Medvedev kí sắc lệnh bổ nhiệm Mikhail Fedotov làm cố vấn của Tổng thống Liên bang Nga, cũng như sắc lệnh bổ nhiệm ông này làm chủ tịch Ủy ban trực thuộc Tổng thống chuyên trách vấn đề phát triển các định chế của xã hội công dân và quyền con người. Hôm nay Phòng báo chí của Điện Cẩm Linh đã thông báo như thế. Người lãnh đạo mới của Ủy ban tuyên bố rằng “nhiệm vụ đầu tiên của Ủy ban trực thuộc Tổng thống về quyền con người sẽ là phi Stalin hóa nhận thức xã hội cũng như cải cách tòa án và cảnh sát”. Việc bổ nhiệm Mikhail Fedotov lại làm rúng động đề tài Stalin và chủ nghĩa Stalin, một đề tài tưởng như đã chẳng còn làm mấy ai bận tâm nữa. Phải chăng Iojef Vissarionovich [Stalin] đã chết từ lâu và bây giờ chỉ còn trong những cuốn sách giáo khoa lịch sử chứ không còn là vấn đề chính trị và văn hóa chính trị mà người Nga đang thảo luận nữa? Nếu đúng thế thì cần gì phải đấu tranh với nó? … Bài viết của nhà sử học Andrey Zubov sẽ trả lời những câu hỏi này


Phi Stalin hóa nhận thức xã hội đúng là vấn đề cấp bách của nước Nga ngày nay. Tất cả các cuộc thăm dò ý kiến đều cho thấy khỏang một nửa dân chúng Nga có thái độ khoan dung với ông ta, khỏang một phần tư, đôi khi đến một phần ba, còn đánh giá ông ta một cách tích cực nữa. Thế mà rõ ràng là Stalin là một nhân vật khủng khiếp, một bạo chúa, chẳng khác gì Hitler, đấy là nói về mức độ dã man và số máu người đã đổ, số tội ác và những vụ bạo hành đầy bất công dưới thời cai trị của ông ta, đương nhiên là phi Stalin hóa là công việc cần làm, không làm thì xã hội sẽ không thể lành mạnh được.

Nhưng chúng ta cần nói về hai vấn đề cực kì quan trọng khác, thiếu chúng thì quá trình phi Stalin hóa không thể nào xảy ra được. Vấn đề thứ nhất và cũng quan trọng nhất: đúng ra là phải thực hiện quá trình phi cộng sản hóa nhận thức xã hội, tương tự như quá trình phi phát xít hóa ở nước Đức thời hậu chiến vậy. Phi Stalin hóa là một thành tố của quá trình phi cộng sản hóa. 
Nghĩa là chúng ta phải đào tận gốc trốc tận rễ không chỉ những tình cảm tích cực đối với Stalin mà cả thí dụ như đối với Lenin và bộ hạ của ông ta. Đấy không chỉ là vấn đề của xã hội mà còn là vấn đề của nhà nước nữa. Vì vậy mà trong suốt gần hai mươi năm qua, sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, ở Nga vẫn còn nguyên những biểu tượng của quá khứ thời Lenin, thế mà chính Lenin mới là người thành lập chế độ cộng sản và không phải vô tình mà trong lúc Stalin cầm quyền người ta đã viết: Stalin là Lenin của ngày hôm nay.
Lenin vẫn còn là biểu tượng dân tộc chính diện của chúng ta. Thành phố nào, khu dân cư nào, thậm chí làng nào cũng có tượng của ông ta. Trên thực tế, trong tất cả các tòa công sở cũ đều có thể tìm thấy hình của ông ta. Hôm qua tôi vừa tới Trụ sở hội nhà báo: một bức tượng bán thân Lenin to đùng bằng đá hoa cương đứng ngay chân cầu thang. Mấy đường phố ở Moskva mang tên Lenin, đại lộ Lenin, đường quốc lộ mang tên Leningrad, quảng trường Ilich. 
Ở ngọai ô Moskva có nhà ga mang tên Di huấn của Lenin. Thế mà Lenin là nhà độc tài khát máu, là bạo chúa kinh hòang, và theo một số nghĩa nào đó thì còn là người phản quốc hơn cả Stalin. Vì Lenin đã kí hòa ước Brest, Lenin đã tiêu diệt nước Nga lịch sử. Chính Lenin đã phát động cuộc khủng bố đỏ vào tháng 9 năm 1918, với hàng chục ngàn nếu không nói là hàng trăm ngàn nạn nhân, trong đó có phụ nữ, trẻ em, nhà tu hành, đã bị giết và cũng chính Lenin đã kí nghị định về khủng bố đỏ. Lenin viết: treo cổ, nhất định phải treo cổ càng nhiều kulak, nông dân, cha cố, người tu hành, càng tốt – hiện những tài liệu này đã được công bố rồi.
Vì vậy mà việc vi phạm quyền con người một cách tòan diện trong thế kỉ XX ở Nga không chỉ gắn với tên tuổi của Stalin mà còn gắn với tên tuổi của Lenin nữa. Thực ra, Stalin chỉ tiếp tục công việc của Lenin mà thôi. Và câu chuyện không chỉ về Lenin mà còn về tòan bộ nhóm đảng viên cộng sản đầu sỏ nữa. Ở thành phố nào cũng có những đường phố mang tên Quốc tế III, mang tên Volodarsky, mang tên Uritsky, mang tên Klara Setkin, mang tên Voikov, Sverdlov và Dzerzhisky. Ở Moskva có ga xe điện ngầm mang tên Voikovskaia, còn ở Peterburg thì có phố Dybenko ..v..v.. . Đến tận bây giờ mà một số chủ thể của liên bang vẫn còn mang tên những tên tội phạm và sat nhân đó như tỉnh Leningradskaia, tỉnh Svedlovkaia, tỉnh Ulianovskaia, tỉnh Kirovskaia. 

Ở đâu cũng có thể gặp tượng Kirov, thế mà đấy cũng là một tên lưu manh và tội phạm chẳng khác gì Lein và Stalin. Và mặc dù một tên tội phạm là Stalin đã giết một tên tội phạm khác là Kirov, nhưng chẳng có tên nào tốt hơn tên nào. Tất cả những điều này chính là biểu tượng của đời sống của chúng ta, tất cả cùng góp phần hình thành nhận thức cộng sản trong đầu óc người dân, kể cả việc củng cố chủ nghĩa Stalin và là mảnh đất màu mỡ cho chủ nghĩa Stalin mới.


Một người trung bình sẽ coi những hình ảnh này là có ý nghĩa tích cực vì không một đất nước bình thường nào lại dùng tên những kẻ tội phạm và sát nhân để đặt cho đường phố và không dựng tượng cho những kẻ như thế. Luzhkov, người vừa bị mất chức thị trưởng Moskva, nói rằng từ ngày ông ta nắm quyền vào năm 1994, chưa có một tên gọi công cộng nào bị thay đổi cả. Ông ta đã kịch liệt phản đối việc đổi tên ga xe điện ngầm Voikovskaia và ngõ Voikovskye, mặc dù đấy là quan điểm cực kì phi lí: Nhà thờ Nga đã phong thánh cho hòang đế Nokolai II, còn Voikov là kẻ lãnh đạo tổ chức đã hành quyết Nikolai II, nhưng không có ga nào mang tên Nikolai II cả, trong khi lại có ga mang tên Voikovskaia.
Dễ hiểu là nhà nước đang đứng cùng ai, chính quyền đang đứng cùng ai – nó tìm hiểu tên của ai, nó chữa tượng của ai thì là nó yêu người ấy. Xã hội bị giày vò và đau khổ vì chuyện đó, đôi khi có thể là vô thức và dĩ nhiên là mất phương hướng nữa. Thanh niên cho rằng cần phải bắt chước những người được dựng tượng trong ga xe điện ngầm, bắt chước những người mà những con đường và thành phố của chúng ta mang tên. Phi Stalin hóa nhận thức xã hội trong tình hình như thế là việc làm bất khả thi. Cần phải bắt đầu bằng việc phi cộng sản hóa, mà trước hết là phi cộng sản hóa nhận thức của chính quyền. Phi cộng sản hóa phải là phi cộng sản hóa bộ máy quyền lực, cả trên bình diện quốc gia, khu vực và công ty. Việc chính quyền tiếp tục kỉ niệm những ngày lễ của Ủy ban đặc biệt tòan Nga (UBĐB), Cơ quan bảo vệ chính trị quốc gia, Dân ủy nội vụ (DUNV) [Đây là những cơ quan chuyên chính thời Liên Xô – ND] và Cơ quan an ninh Liên bang (CQANLB) như một tổng thể là không thể chấp nhận được. 
Dường như chính quyền sẽ có lợi khi nhấn mạnh rằng Cơ quan an ninh Liên bang hiện nay không có liên quan gì với những tổ chức tội phạm như Ủy ban an ninh nhà nước (UBANNN), Dân ủy nội vụ và Ủy ban đặc biệt tòan nga. Nhưng trên thực tế mọi việc hòan tòan ngược lại – cứ có dịp là người ta lại đúc những huy hiệu mới “80 năm UBĐB – DUNV – UBANNN – CQANLB”, “90 năm UBĐB – DUNV – UBANNN – CQANLB”. Và nhiều quan chức cấp cao tầm cỡ quốc gia, nhiều chính khách hàng đầu lấy làm tự hào khi đeo những chiếc huy hiệu đó. Thế mà ở Nga không có cơ quan nào phạm nhiều tội lỗi và khát máu hơn là cảnh sát chính trị. Vì vậy mà phi cộng sản hóa là một quá trình cực kì nghiêm túc và sâu sắc.
Trong xã hội cũng có một lọat vấn đề rất quan trọng. Không có một đất nước lịch sự và tự trọng nào lại có những cuộc bầu cử như ở nước ta. Ứng viên phải được chính quyền hành pháp đồng ý thì mới được đưa vào danh sách. Những cuộc bầu cử mà sử dụng nguồn lực của nhà nước thì sẽ bị chính quyền làm giả. Thế mà xã hội vẫn yên lặng, xã hội đã quen với chuyện đó rồi. Vì sao? Vì trong thời Xô Viết đã từng diễn ta những cuộc bầu cử hệt như thế: chỉ có một ứng viên được giới thiệu, và bầu cử vẫn diễn ra – thật khôi hài, bây giờ thanh niên không thể nào hiểu được những cuộc bầu cử mà không có lựa chọn như thế. Thế mà đáng lẽ ra chính quyền phải để dân chúng làm quen với cách hành xử khác. Xuyên tạc những cuộc bầu cử lại có thể giáo dục được dân chúng lòng tự trọng hay sao? Mà không có lòng tự trọng thì xã hội sẽ không muốn chia tay với Stalin – sống với “cha già của dân tộc” thì thanh thản hơn, chẳng cần phải bận tâm đến bất cứ chuyện gì hết. Đấy chính là cội rễ của chủ nghĩa Stalin mới.
Ở nước ta người dân vẫn chưa quen với chế độ tự quản, mà cũng chưa có chế độ như thế nữa kia. Chưa quen với báo chí tự do, chưa quen với các phương tiện truyền thông đại chúng tự do, mà cũng không có những phương tiện như thế. Như mọi người đều biết, trên các kênh truyền hình chính, mọi thứ đều được quay từ trước, xem xét trước, rồi sau đó mới đưa lên sóng. Đấy là cách làm của thời Xô Viết, nền kiểm duyệt Xô Viết. Chuyện đó cũng đang diễn ra ở nước Trung Quốc cộng sản. Chả lẽ chúng ta lại coi mình ngang hàng với những chế độ như thế hay sao? Vì vậy mà phi Stalin hóa là một thành tố quan trọng, nhưng chỉ là một trong những thành tố của quá trình phi cộng sản hóa nước Nga mà thôi. Nếu không làm được chuyện đó thì chúng ta sẽ không có tương lai. Chúng ta sẽ mãi mãi là một đất nước dối trá.
 Ngay cả Liên Xô cũng không dối trá hơn vì nó tuyên bố rằng đấy là những nguyên tắc cộng sản và đưa nmhững nguyên tắc đó vào cuộc sống. Ai thích thì thích, ai không thích thì thôi. Còn chúng ta tự tuyên bố là đất nước dân chủ và tự do, trong Hiến Pháp của chúng ta có những nguyên tắc cao cả, có ai lẽ cũng sẵn sàng kí tên dưới những nguyên tắc đó, nhưng trên thực tế chúng ta vẫn có tượng Lenin, tượng Kirov, các phương tiện thông tin đại chúng và những cuộc bầu cử của chúng ta đều bị kiểm soát. Tất cả những chuyện này dĩ nhiên là đều có nguồn gốc từ thời kì Xô Viết.
Trước cách mạng chỉ những người có một số lượng tài sản nhất định mới được tham gia ứng cử và bầu cử, theo quan điểm hiện nay thì đấy rõ ràng là bất công rồi. Phụ nữ không được tham gia bầu cử. Nhưng đấy là luật và hệ thống họat động trong khuôn khổ của bộ luật đó. Nghĩa là không có chuyện luật nói một đằng nhưng trên thực tế người ta lại làm một nẻo. Nhưng đấy chính là điều đã diễn ra dưới thời Xô Viết. Hiến pháp Liên Xô năm 1936 có tất cả các quyền dân chủ, nhưng tất cả những người nghĩ đến tự do, dù chỉ trong thâm tâm, cũng đếu bị đưa vào Gulag hết. Đáng tiếc là hiện vẫn chưa thanh tóan hết được tính nước đôi, lá mặt lá trái, sự dối trá có từ thời Xô Viết. 
Vì vậy mà tôi nghĩ rằng sáng kiến của Mikhail Aleksandrovik Fedotov là hòan tòan đúng, nhưng tôi cho rằng phải mở rộng ra hơn nữa. Vì nếu chúng ta không thực hiện quá trình phi cộng sản hóa xã hội một cách rộng khắp, phi cộng sản hóa một cách tòan triệt, thì chúng ta sẽ không thể đánh bại được Stalin trong tâm trí người dân. Người nào tiến hành việc đó, chính quyền nào thực hiện được việc đó sẽ được các thế hệ tương lai – cho đến khi nước Nga còn tồn tại – cám ơn.
Tôi biết Mikhail Fedotov, tôi biết ông là người có tính nguyên tắc, một người chống cộng, một người có quan điểm dân chủ và tự do. Ông biết rõ Stalin là người thế nào, Lenin là người thế nào. Cho nên đương nhiên là ông tuyên bố như thế. Tôi nghĩ rằng chính việc nhà nước bổ nhiệm ông chứng tỏ rằng trong chính quyền hiện nay đang có một tinh thần phi cộng sản hóa nhất định. Tôi có cảm giác rằng trong chính quyền hiện nay đang có hai xu hướng đối địch với nhau: một nhóm trong đó muốn giữ nguyên và bảo tòan đất nước thời hậu Xô Viết, không muốn làm cho nó trở thành nước Nga thực sự; trong khi đó nhóm thứ hai lại muốn đọan tuyệt với di sản của Liên Xô, nhằm chí ít là cũng để lại thanh danh với thế hệ sau, để không mãi xấu hổ với thế giới và xấu hổ ngay với con cháu của mình, tức là xấu hổ với những người từ Thụy Sĩ hay Anh về nước trong những kì nghỉ hè, vì chế độ cộng sản đã sụp đổ hai mươi năm rồi mà vẫn còn giữ người thành lập ra nó – “Bác Lenin” – trong quan tài kính ngay ở trung tâm của nước Nga. Và có lẽ việc bổ nhiệm Mikhail Fedotov là chiến thắng nho nhỏ của nhóm thứ hai. Tôi rất muốn tin như thế./.
 

Nói rằng Stalin khác Hitler là sai!

Bản tiếng Nga  Inosmi.ru,
Nguyên bản tiếng Ý  Che errore fare differenze, 
 Phạm Nguyên Trường dịch
Dùng con mắt của luật pháp để đọc lịch sử không phải là việc hay, mà đem phân tích theo kiểu tòa án hình sự các tiến trình lịch thì còn dở nữa. Trong những ngày, khi mà Liên hiệp châu Âu thảo luận rồi sau đó bác bỏ việc đánh đồng những nạn nhân của Holocost (Vụ đàn áp và giết hại người Do Thái của chủ nghĩa Nazism) với những nạn nhân của các vụ đàn áp của Stalin, nghĩa là đánh đồng chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa xã hội dân tộc (Nazism), tôi đã vào thư viện và đọc cuốn Koba khủng khiếp của Martin Amis, do nhà xuất bản Einaudi ấn hành cách đây vài năm.


Tôi không tin vào việc hình sự hóa chính trị, tôi coi thường cách tiếp cận theo lối phân tâm, được thể hiện dưới hình thức những bài viết của các nhà sử học, cũng như những bài phân tích tâm thần chủ nghĩa xã hội dân tộc không bao giờ thuyết phục được tôi, tôi cũng bàng quan trước những bài phân tích chủ nghĩa Lenin và chủ nghĩa Stalin được tiến hành trên những tiêu chí như thế. Nhưng cuốn sách này đặc biệt đến nỗi đã buộc tôi phải thay đổi quan niệm. Amis không phải là một nhà sử học, ông là một nhà văn người Anh, con của Kingsley Amis, một người cộng sản khét tiếng trong những năm 30 và 40 của thế kỉ trước, nhưng lại là người chống cộng đầy nhiệt tình trong suốt hai mươi năm tiếp theo. Chủ nghĩa cộng sản của ông là hiện tượng trí tuệ mang đầy màu sắc Anglo-Saxon, dựa trên kinh nghiệm và thực tiễn. 
Marin Amis, sinh năm 1949, theo một nghĩa nào đó thì đã được tiêm liều thuốc làm cho ông phải lặp lại kinh nghiệm của chính cha mình, nhưng thời trai trẻ của ông trùng với sự thăng hoa mới, tuy chóng tàn, của chủ nghĩa cộng sản, điều đó được thể hiện trong những cuộc phản đối vô chính phủ và phong trào đấu tranh đòi giải phóng cho các nước Thế giới Thứ Ba. Tất cả những điều đó làm cho ông trở thành chứng nhân đáng tin cậy của thời và ảnh hưởng của học thuyết đó trong những năm này.
Tác phẩm đã nói được điều gì đặc biệt về Kobe khủng khiếp để độc giả phải quay trở lại với đề tài mà không cần đến sự sụp đổ của bức tường Berlin họ cũng đã đánh giá được cái sự không tưởng đấy tiêu cực của thế kỉ XX này rồi? Amis đã chỉ ra được yếu tố chính, cho phép giải thích gần sáu mươi năm thành công và quyến rũ của chủ nghĩa cộng sản đối với người dân Nga và cả những người nằm bên ngoài biên giới của nó: đấy là một cuộc thí nghiệm do một nhóm các nhà cách mạng chuyên nghiệp – những trí thức tiền phong, những người tự đối lập mình với toàn bộ xã hội – tiến hàng đối với một đất nước sằn sàng hi sinh. 
Nhằm biện hộ cho sự ưu việt về mặt “đạo đức” của chủ nghĩa cộng sản so với chủ nghĩa xã hội quốc gia, người ta thường nói rằng khác với chủ nghĩa xã hội quốc gia, dưới chế độ cộng sản không có việc tiêu diệt một cách có hệ thống một sắc dân nào, không đàn áp một dân tộc cụ thể nào, nhưng người ta lại quên nói thêm rằng đã xảy ra một hiện tượng khủng khiếp hơn, mà cụ thể là: tiêu diệt bằng bạo lực tất cả những gì không phù hợp với hệ tư tưởng của nhà cầm quyền. Chủ nghĩa cộng sản không giết người Do Thái chỉ vì họ là người Do Thái, mà nó tiêu diệt toàn bộ nước Nga: nó giết tầng lớp trí thức, nghĩa là tiêu diệt các chuyên gia, các kĩ sư, các giáo sư, các doanh nhân, điền chủ, nông dân, nhà buôn, nghĩa là giết tất cả, không phụ thuộc vào địa vị xã hội của họ, chỉ vì họ là hoặc bị nghi ngờ là thù địch hoặc bàng quan đối với đường lối mới. 
Đấy là vụ giết tróc dựa trên bạo lực, tố cáo, lừa bịp; vụ giết tróc này chỉ có thể xảy ra vì trong xã hội đã hoàn toàn không còn lòng thương hại và sự đồng cảm. Những mối quan hệ gia đình, bạn bè hay đẳng cấp, thậm chí phong tục đã không còn ý nghĩa gì; chỉ còn lại sự tuân phục tuyệt đối hệ tư tưởng và chính quyền, một chính quyền đang tìm mọi cách nhằm xây dựng xã hội cộng sản trên toàn bộ hành tinh. 
Trả lời cho một luận điểm sáo mòn là mục đích biện minh cho phương tiện hay mục đích tốt đẹp đã bị những biện pháp không phù hợp xuyên tạc, Amis đưa ra nhận xét sáng suốt như sau: “Không thể nào hiểu nối, làm sao mà ý tưởng cho rằng có thể đi qua địa ngục để đến thiên đường có thể sống nổi, dù chỉ một phút, nếu đấy là những người có tư duy lành mạnh. Cứ giả sử “thiên đường”, như Trotsky hứa, bỗng nở hoa kết trái trên những đống tro tàn do cuộc nội chiến trước năm 1921 để lại. Nếu biết trước rằng hàng triệu người đã chết trong công cuộc tạo dựng những thiên đường như thế, thì ai là người muốn sống trong đó? Thiên đường mà phải trả giá như thế thì không còn là thiên đường nữa. Người ta nói rằng mục đích biện minh cho phương tiện, nhưng ở Liên Xô thì người ta chỉ tìm được một thứ duy nhất: đấy chính là phương tiện. 

Có một mâu thuẫn trong lòng mâu thuẫn: người không tưởng, hướng đến sự hoàn thiện, nhưng ngay ở đầu con đường sự nghiệp của mình anh ta đã cảm thấy vô cùng tức tối và giận dữ trước sự bất toàn của chính bản chất của con người. Nadezhda Mandelshtam (phu nhân của thi sĩ Mandelshtam nổi tiếng – ND) đã nói về sự càn rỡ của những người bolshevik, sự thiếu tự tin và thù hằn khủng khiếp và sự tuyệt vọng cũng khủng khiếp của họ.
Điều này cũng giải thích một điểm nữa, rất đặc trưng cho chủ nghĩa toàn trị Mác-Lê Nin. Chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa xã hội dân tộc rất tàn nhẫn đối với đối thủ, nhưng sự tàn nhẫn của họ được thể hiện trong việc tiêu diệt về mặt thể xác. Còn những người bolshevik thì bao giờ cũng tiêu diệt về mặt tư tưởng trước khi giết. Họ không hài lòng khi thấy xác chết đã khuất phục, họ cần linh hồn khuất phục cơ. “Thú tội”, “các phiên toàn” là nhằm mục đích đó, buộc người ta phải công nhận sai lầm, phải chuộc tội và công nhận tính chính nghĩa của những người bolshevik: tôi không chỉ công nhận tội lỗi của mình, tôi ghê tởm con người của chính mình, tôi đề nghị trừng phát tội lỗi của mình…
Cơ cấu của hệ thống đó chỉ có thể tồn tại được nếu sự tàn nhẫn là tuyệt đối, và mọi người đếu tin rằng tàn nhẫn là không tránh khỏi. Chính việc quân sự hóa toàn bộ đời sống xã hội, biến tất cả các thành viên của xã hội thành những người chiến sĩ và người bảo vệ sự nghiệp chính nghĩa và như thế cũng có nghĩa là thành những tên gián điệp, những tên chỉ điểm, những kẻ bán rẻ tất cả mọi người và mọi thứ, mới có thể làm cho chế độ đó tồn tại trong nhiều năm liền. Ngay khi bầu không khí đó dịu đi, ngay khi sự căng thẳng phi nhân tính đó lắng lại – sự căng thẳng như thế không thể kéo dài quá một thế hệ – thì sẽ có khủng hoảng và chế độ bắt đầu tan rã. 
Như Solzhenitsyn đã viết, chính “sức mạnh phi nhân, châu Âu không thể nào tưởng tượng được” là cơ sở cho sự tồn tại lâu dài của chế độ đó. Nhà sử học Robert Conquest giải thích rằng “người ta thường không tin là Stalin đã làm những việc như thế vì không thể nào tin là lại có sự dã man đến như thế. Phương pháp của ông được xây dựng trên những hành động mà trước đây bị coi là không thể tưởng được cả về mặt đạo đức lẫn thể xác”.
Tác phẩm của Amis kể cho ta nghe về một cố gắng nhân tạo trong việc tạo ra “con người mới” phi nhân, một người không còn những đặc điểm của đời sống văn minh, đấy chỉ là một cỗ máy đã lập trình của nhà nước toàn trị, cỗ máy sẵn sàng làm tất cả để phục vụ cho ý tưởng, kể về một xã hội bình đẳng theo kiểu trại lính, đã biến thành một nghĩa địa đấy ám khí.

Sự khó tin của thí nghiệm cho phép người ta giải thích nó, nhưng không thể tha thứ được cho sự tán đồng nó ở phương Tây. Ngày 7 tháng 4 năm 1935 trên tờ Sự Thật [Cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Liên Xô – ND) người ta đã công bố bộ luật cho phép áp dụng đối với trẻ con từ mười hai tuổi (12) trở lên tất cả các biện pháp ngăn chặn tội phạm, kể cá tử hình. Amis cho rằng luật này nhắm hai mục tiêu: “Một – về mặt xã hội – thúc đẩy tiến trình tiêu diệt những trẻ em mồ côi và lang thang, do chính chế độ đẻ ra. Mục tiêu thứ hai – về mặt chính trị – tạo áp lực dã man lên những người đối lập cũ, trong đó có Kamenhev và Zinoviev, những người có con khoảng tuổi đó.
 Chẳng bao lâu sau những người này cùng với gia đình họ đã bị giết. Luật ngày 7 tháng 4 năm 1935 là bản chất của chủ nghĩa xã hội phát triển. Xin hãy tưởng tượng cú đấm của một võ sĩ có đeo găng vào chính mặt bạn”. Thế mà Đảng cộng sản Pháp, khi buộc phải bình luận về đạo luật này, đã coi nó là công bằng. Đúng là trong chủ nghĩa xã hội trẻ con lớn rất nhanh… Câu nói đùa này có thể làm người ta mỉm cười: nhưng đằng sau nụ cười đó là “hai mươi triệu người đã chết”, như phụ đề của tác phẩm Koba khủng khiếp. Có thể so sánh chủ nghĩa xã hội quốc gia với chủ nghĩa cộng sản hay không? Đây là câu hỏi dành cho Cộng đồng châu Âu.
 

Stalin là người đã làm Liên Xô tan rã

Peter Rutland và Philip Pomper
 Phạm Nguyên Trường dịch
Peter Rutland là giáo sư về quản lí nhà nước của đại học Wesleyan University ở  Middletown, Connecticut. Philip Pomper là tác giả cuốn: Lenin’s Brother: The Origins of the October Revolution.” 
Hai mươi năm sau cuộc đảo chính làm tan rã Liên Xô, cần phải trở lại với câu đố về sự cáo chung bất ngờ của nó. Nhân vật nào phải chịu trách nhiệm nhiều nhất về sự sụp đổ của Liên Xô? Câu trả lời thường là nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev (đối với những người theo phái tự do) hay tổng thống Mĩ Ronald Reagan (đối với những người bảo thủ). Nhưng trên thực tế, chỉ có một nhân vật xứng đáng được quan tâm mà thôi: đấy là Josef Stalin. 
Stalin thường được người ta mô tả như là một thiên tài độc ác nham hiểm, người đã lợi dụng sự kém cỏi của phương Tây và sự hiện diện của Hồng quân ở Berlin vào năm 1945 nhằm mở rộng đế chế Xô Viết vào sâu trong lãnh thổ châu Âu. 
Trên thực tế, sự phóng chiếu sức mạnh của Liên Xô vào Trung Âu là sai lầm chiến lược, đã đưa nhà nước Xô Viết đến chỗ diệt vong. Stalin chấp nhận hoàn toàn luận cứ của Vladimir Lenin, cho rằng chủ nghĩa đế quốc là “giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”. Điều này có nghĩa là còn tồn tại thì chủ nghĩa tư bản còn tìm cách bành trường bằng những cuộc chiến tranh đế quốc và chinh phục lãnh thổ. Để bảo vệ Liên Xô trước cuộc tấn công như thế, Stalin quyết định giữ lại những đội quân khổng lồ ngay cả trong thời bình và đầu tư nhằm bảo đảm an ninh cho một dải đất rộng lớn ở Đông Âu, coi đấy là vùng đệm trước những cuộc đột kích trong tương lai. 
Nhưng tư duy chiến lược của Stalin là tư duy cổ lỗ. Trong những thập niên sau năm 1945 đã không hề có một cuộc tấn công đế quốc chủ nghĩa nào. Việc triển khai tên lửa đạn đạo xuyên đại dương có gắn đầu đạn hạt nhân làm cho chiến tranh giữa các siêu cường trở thành phi lí. Hơn nữa, não trạng đế quốc chủ nghĩa đã tự tan vỡ sau những vụ tắm máu liên tiếp trong Thế chiến I và Thế chiến II. Trong suốt thập kỉ sau năm 1945 các đế chế ở châu Âu rơi vào tình trạng phân rã, còn Mĩ thì không quan tâm tới việc xây dựng đế chế hay khởi sự những cuộc chiến lớn trên bộ nữa. 
Như vậy là, Stalin đã bảo vệ mình trước mối đe dọa không tồn tại nữa và ông ta đã biến Liên Xô thành đế chế đa sắc tộc trong thời đại khi mà việc xây dựng đế chế đã trở thành lỗi thời và chủ nghĩa dân tộc đang ngày càng có thêm sức mạnh. 
Những người bảo vệ Stalin – ở nước Nga đương đại hiện vẫn còn nhiều người như thế – mô tả ông ta là nhà lãnh đạo có con mắt nhìn xa trông rộng, người đã cứu Liên Xô khỏi cuộc tấn công của chủ nghĩa quốc xã. Họ biện hộ cho những đau khổ mà nhân dân Liên Xô phải chịu đựng dưới thời Stalin, coi đấy là giá phải trả cho quá trình công nghiệp hóa đất nước một cách nhanh chóng và bảo đảm an ninh cho quốc gia trước kẻ thù – hai điều kiện tiên quyết hằm bảo đảm cho các công dân một tương lai tươi sáng. Nhưng trên thực tế, Stalin đã rơi vào bẫy của những giả định cổ lỗ sỹ của thế kỉ XIX về tính chất của chiến tranh và bản chất của quyền lực trong hậu bán thế kỉ XX. 
Trong khi tìm cách bảo vệ mình trước chủ nghĩa đế quốc phương Tây, Stalin lại đưa nước Nga vào con đường tự hủy diệt. Liên Xô đã è cổ gánh khoản ngân sách quân sự quá lớn, ngốn ít nhất cũng khoảng 25% GDP và phải triển khai mấy triệu binh sĩ để kiểm soát những khu vực thuộc địa ở Đông Âu. 
Trước khi Thế chiến II kết thúc, Stalin đã sát nhập các nước vùng Baltic,Moldova và Tây Ukraine vào Liên Xô. Đa số tuyệt đối dân chúng những vùng lãnh thổ bị chiếm đóng này không muốn trở thành một phần của Liên Xô, thậm chí sau này những nhà lãnh đạo cộng sản của các nước đó cũng có những tình cảm như thế. Nếu Stalin không khăng khăng sát nhập các nước vùng Baltic mà để cho họ đi theo con đường của Phần Lan – tức là độc lập với Nga từ năm 1918 – thì có khả năng là những cố gắng cải cách của Gorbachev trong giai đoạn perestroika đã thu được thắng lợi rồi. Như đã thấy, công cuộc cải cách của ông ta đã trệch hướng vì những cuộc bạo loạn mang tinh thần dân tộc chủ nghĩa ở các nước vùng Baltic và khu vực Caucasus. Hơn thế nữa, việc Gorbachev sẵn sàng chấp nhận sử dụng bạo lực một cách có giới hạn nhằm đè bẹp những người có tinh thần dân tộc chủ nghĩa ở Liên Xô, từ Azerbaijan đến Lithuania, đã làm cho những lực lượng dân chủ ủng hộ Boris Yeltsin rời bỏ liên minh cải tổ. 
Gorbachev được trao Huân chương Nobel Hòa bình vào năm 1990 vì ông đã tự nguyện lãnh đạo công cuộc giải tán đế chế Xô Viết ở Đông Âu một cách hòa bình. Nhưng quyết định quan trọng nhất về việc không sử dụng quân đội Liên Xô nhằm bảo vệ khối cộng sản thì không phải là của Gorbachev, được đưa ra vào năm 1988, mà là của Yury Andropov, được đưa ra vào năm 1981. Đối mặt với phong trào Đoàn Kết ở Ba Lan, chủ tịch KGB lúc đó là Andropov đã thuyết phục Tổng bí thư Đảng Leonid Brezhnev rằng đưa quân vào Ba Lan, tức là lặp lại các sự kiện ở Praha năm 1968, sẽ chỉ có hại cho Liên Xô – đấy là chưa kể quân đội đang bị sa lầy ở Afghanistan. Các lãnh tụ cộng sản Ba Lan phải tự giải quyết lấy công việc của mình – chủ yếu dựa vào thiết quân luật, điều này đã giúp họ giữ được chính quyền thêm vài năm nữa. Năm 1988 Gorbachev chỉ làm một việc là công khai tuyên bố chính sách đã có hiệu lực trên thực tế từ năm 1981 mà thôi. 
Các cường quốc phải thích ứng với những đặc tính luôn thay đổi của hệ thống thế giới, đấy là nói nếu họ vẫn muốn dẫn đầu. Các nhà lãnh đạo phải lo trước thiên hạ chứ không thể chỉ dựa mãi vào những thành tích của quá khứ. Cả các chính khách lẫn các viên tướng đều không được đánh mãi cuộc chiến đã qua. Trong những lựa chọn chiến lược của mình, Stalin đã mắc chính cái sai lầm mà người ta thường mắc như thế. Ông ta tưởng là sẽ còn một Thế chiến II nữa và sẽ còn một hiệp đấu nữa trong trận xung đột mang tính đế quốc chủ nghĩa. Những người kế tục ông ta cũng như hai thế hệ người Nga đã phải trả giá quá đắt ./.

VẠN MỘC CƯ SĨ * CẢM TÁC VỀ TƯỢNG LENIN BỊ GIẬT SẬP

NGHE TIN DÂN NGA KÉO SẬP TƯỢNG LENIN

Chúng bay đừng đăng tin dân Nga kéo sập tượng Lenin
Đừng làm chúng tao hoảng kinh
Nên đăng tin tốt, tin lành
đừng đăng tin  xấu,  điểm gở

Làm báo thì phải biết nịnh bợ
Phải biết tuyên truyền, phải nói dối
Chỉ nên đăng tin thắng lợi
Đừng đăng tin có hại cho đảng mình!
Tao  đây nhân đạo
Chỉ ra lệnh rút bài
Còn như thằng Tố Hữu
Nó giết không tha!
Nó còn giết chết cả nhà !

Chúng bay làm báo
Phải biết tuyên truyền,quảng cáo
Phải biết nói láo
Đừng đăng tin  của bọn phản động
Bọn mắc mưu kế của lũ diễn biến hòa bình!
Làm cho chế độ rung rinh!
Nếu đăng tin
Thì nên theo bản tin Bắc Kinh
Và lệnh của đồng chí Tập Cận Bình
Nó là ông cố nội của tao
Là hoàng đế của đảng Việt cộng quang vinh
Không  phải là đồng chí
Như ông Hồ Chí Minh,
Nịnh bợ và nói láo!
Rất tài tình!

Từ cuối thế kỷ XX
Đông Âu sụp đổ, Liên xô tan tành!
Bọn chúng tao đã tan hồn bạt vía.
Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Văn Linh
Đã sang cầu cứu Bắc Kinh
Dập đầu xin chúng tha tội
Từ nay không dám chống đối Bắc phương triều đình
Từ nay xin làm thân khuyển mã
Xin đem đất đai, nhà cửa
Xin dâng hiến cả  gia đình
Xin đem vợ con làm đầy tớ
Để hưởng chút cơm  canh
Bên cạnh con Miêu, con Cún
Của bọn bành trướng Bắc Kinh
Để được chúng bảo vệ
Còn hơn sống lênh đênh
Giữa biển cả nhiều sóng gió điêu linh.
Thà làm con chó giữ nhà
Để được chút yên ổn
Tao đâu dám xông pha
Giữa núi đỏ rừng xanh
Như những con mãnh hổ
Như đàn voi rừng
Như lũ gấu
Chúng hiên ngang tung hoành
Sống độc lặp tự do, và đấu tranh!

Ngày xưa tao vỗ ngực xưng anh hùng
Vì lúc ấy có Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh
Đứng sau lưng yểm trợ
Chúng cho tao súng ống tiền bạc
Máy bay, hỏa tiễn và xe tăng,
Bây giờ đấu sao lại Bắc Kinh!
Mà bảo tao hy sinh?

Đừng tin chuyện Lê Văn Tám'
La Văn Cầu quên thân mình...
Đó là chuyện xạo
Của đảng chúng mình!
Nếu lính dám hy sinh
Sao còn buộc chúng vào xe tăng?
Nếu đảng ta thắng lợi
Thì sao phải bắt trẻ 15-16 tuổi đi lính
Và bắt đàn bà, con gái vào cuộc chíến chinh?
Để cho Trường Sơn, Ba Vì  phải khóc
Sao phải nhờ tiền bạc, lính tráng và tướng tá Bắc kinh
Để nay chúng đòi nợ mình?
Chúng xiết hải đảo và biên giới
Mà bọn Việt cộng anh hùng
Đâu dám chống đối
Chúng hèn nhát với giặc
Nhưng tàn ác với dân
Bởi vì chúng cam tâm làm nô lệ
Cho bọn đế quốc Băc kinh!
Đi đầu là Hồ Chí Minh
Sau đó là bọn Nguyễn Văn Linh
Đem bán giang sơn và khí tiết
Để kéo dài cuộc sống tủi nhục!
Đảng Cộng sản và lão Hồ là bọn bịp
Bán nước để cầu vinh
Để cầu thắng lợi
Đâu nghĩ gì đến giang sơn và dân tộc  mình!
Tình thế nguy nàn
Tao làm sao cứu nước?
Tao làm sao hy sinh?

Tao đành theo Hồ Chí Minh
Theo Nguyễn Văn Linh
bán nước cầu vinh
Và theo gương anh hùng lòn trôn giữa chợ
Để sống  trăm tuổi
giữa tiếng cười nhạo báng của bọn quần hồng!

Thôi thôi tao già rồi
Cũng đã hưởng đủ mùi phú quý
Cần gì phải hy sinh!
Thôi cho tao sống đời  hòa bình
Với 16 chữ vàng của Giang Trạch Dân
Tao sẽ cắt đất nhường biển
Để được sống an bình!
Tao bây giờ tiền rừng bạc biển
Tao rất sợ chiến chinh
Nếu tao chết
Thì ai hưởng mấy biệt thự, mấy binh đinh?
Mấy triệu đô la gửi ngân hàng ngọai quốc?
Và mấy em chân dài xinh xinh?

Tao sợ lắm
Nay chúng kéo sập tượng Lenin,
Ngày mai chúng sẽ đào mồ Hồ Chí Minh
Và cắt cổ những thằng cộng sản chúng mình.
Chúng tao biết chạy về đâu?
Chạy sang Mạc Tư Khoa hay sang Bắc Kinh?
Còn đâu chức vụ cao cả
Còn đâu vợ đẹp con xinh?
Đừng làm chúng tao hoảng kinh!

Tao biết tao sẽ chết thảm thiết
Khi dân chúng nổi lên giết hết
Và tận diệt đảng cộng sản lưu manh
Nhưng bây giờ tao chỉ ước
Sống được ngày nào hay ngày ấy
Dù  ngày mai sẽ tan theo xác Hồ Chí Minh!

VẠN MỘC CƯ SĨ

TIN THẾ GIỚI


   Biểu tình ở Kiev lật nhào tượng Lenin

Cập nhật: 16:57 GMT - chủ nhật, 8 tháng 12, 2013
Hàng trăm ngàn người đã xuống đường ở thủ đô Kiev của Ukraine hôm 8/12 đòi chính phủ từ chức vì đã từ chối một thỏa thuận lập quan hệ gần gũi hơn với Liên hiệp Châu Âu (EU).
Họ đã lật đổ một bức tượng Lenin và dùng búa đập tan nó.
Nhân chứng nói một nhóm người biểu tinh đã dùng dây và thanh sắt kéo đổ bức tượng Lenin tại Đại lộ Shevchenko.
Sau đó, cho đến lúc tối muộn hôm Chủ Nhật, họ vẫn tiếp tục dùng búa đập tượng.
Những người khác đứng xem và hô to, 'Vinh quang cho Ukraine'.
Dù cả hai nước Nga và Ukraine không còn chủ nghĩa cộng sản, tượng Lenin là biểu tượng của mối quan hệ lịch sử với Moscow, theo các phóng viên bình luận.
Dân biểu Quốc hội Ukraine, ông Andriy Shevchenko, thuộc phe đối lập hô to 'Vĩnh biệt di sản cộng sản'.
Theo một biên tập viên BBC người Ukraine cho biết, đây không phải là bức tượng Lenin đầu tiên bị đập tại Ukraine nhưng là bức cuối cùng, 'to đẹp nhất' ở thủ đô Kiev.
Các lãnh đạo biểu tình đã cho Tổng thống Viktor Yanukovych 48 giờ để giải tán chính phủ.
Họ đang thiết lập các rào chắn bên ngoài văn phòng Thủ tướng.
Ông Yanukovych cho biết ông hoãn thỏa thuận với EU sau khi Nga phản đối.
Tổng thống Vladimir Putin đã thúc giục Kiev tham gia vào một liên minh thuế quan do Nga lãnh đạo.
Trong một diễn biến khác vào ngày Chủ nhật, cơ quan An ninh Ukraine nói họ đang điều tra một số các chính trị gia về nghi ngờ được gọi là "hành động nhằm mục đích chiếm đoạt quyền lực nhà nước".
Ủy ban này không nêu rõ tên các chính trị gia.

Tranh chấp năng lượng

Những người biểu tình đòi giải tán chính phủ
Cả Nga và Ukraine phủ nhận vấn đề Kiev gia nhập liên minh thuế quan cùng với Belarus và Kazakhstan đã được đưa ra trong cuộc họp giữa Putin - Yanukovych tại Sochi, miền nam nước Nga, hôm thứ Bảy.
Các phóng viên trước đó đã suy đoán rằng hai bên có thể đạt thỏa thuận về việc Ukraine gia nhập liên minh thuế quan, để đổi lấy việc giảm giá năng lượng.
Hai quốc gia láng giềng cũng đang cố gắng giải quyết một tranh chấp kéo dài lâu nay về các nguồn cung cấp năng lượng.
Ukraine phụ thuộc vào nhập khẩu khí đốt của Nga, nhưng nhà cung cấp, Gazprom, gần đây đã phàn nàn rằng Kiev chậm thanh toán.
Các tranh chấp về cung cấp năng lượng cho Ukraine trước năm 2009 dẫn tới việc Gazprom từng tạm cắt nguồn cung cấp .
Đường ống đi qua Ukraine cũng bơm khí đốt của Nga tới nhiều quốc gia thành viên EU.
Trước đó, chính phủ Ukraine đã vượt qua một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm ở Quốc hội hôm thứ Ba ngày 3/12.
Các cuộc biểu tình hiện nay ở Ukraine là lớn nhất kể từ cuộc Cách mạng Cam hồi năm 2004.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2013/12/131208_ukraine_protest.shtml

 

Báo VN đồng loạt gỡ bài đập tượng Lenin

Cập nhật: 03:55 GMT - thứ ba, 10 tháng 12, 2013
Một loạt báo trong nước đã phải gỡ bài tường thuật về biểu tình hôm 8/12 ở Ukraina, trong đó có phản ánh việc người dân lật đổ và đập vỡ tượng Lenin.
Các báo như Thanh Niên, Dân Trí, Pháp luật TP HCM, VietnamPlus... đều đã xóa bài và các đường link dẫn tới tin này đều báo lỗi.
Tuy nhiên các bài báo ngắn về cuộc biểu tình ở Kiev vẫn được lưu lại tại một số diễn đàn và blog riêng.
Hôm Chủ nhật 8/12, một nhóm người biểu tinh đã dùng dây và thanh sắt kéo đổ bức tượng Lenin tại Đại lộ Shevchenko ở Kiev. Cho tới tận tối muộn, họ vẫn tiếp tục dùng búa đập tượng.
Tượng đài lãnh tụ Cách mạng Nga Vladimir Iliytch Lenin được coi như biểu tượng cho quan hệ của Ukraina với nước Nga và thời kỳ Xô viết.
Những người tham gia biểu tình hô vang 'Vinh quang cho Ukraina' khi đập tan bức tượng Lenin to đẹp nhất thủ đô Kiev này.

'Chỉ đạo miệng?'

Trong các bản tin mà báo Việt Nam đăng tải trước khi gỡ xuống, đa phần dịch từ tin của các hãng thông tấn quốc tế và còn bản lưu cache trên mạng, người biểu tình Ukraina bị gọi là "đám đông quá khích".
Cũng có báo dẫn lời quan chức địa phương nói đây không phải chủ trương của chính quyền mà chỉ là 'bạo động'.
Tuy nhiên dường như hình ảnh tượng vị lãnh tụ Cộng sản Nga bị đập tan một cách đau thương vẫn bị cho là khó có thể chấp nhận trên mặt các báo chính thống do nhà nước quản lý.
Nguồn tin trong ngành cho BBC hay biên tập một số tờ báo đã nhận 'chỉ đạo miệng' từ quan chức quản lý báo chí về việc phải dỡ bỏ bài về "lật đổ tượng Lenin".
Lệnh chỉ đạo này không được thể hiện bằng văn bản, có thể vì sợ bị rò rỉ ra ngoài như một số trường hợp đã xảy ra trước đó.
Ban Tuyên giáo Trung ương, cơ quan phụ trách báo chí của Đảng, từng bị phản ánh đã "nhắc nhở, khiển trách, kỷ luật" các báo không tuân thủ chỉ thị của ban này.

Hoa Kỳ ứng xử ra sao với một ADIZ biển Đông?

Việt-Long, RFA
2013-12-12

Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
first-kilo-4-vietnam
Táu ngầm Kilo đầu tiên của Việt Nam, một trong những đối thủ đáng gờm của hải quân Trung Quốc
Courtesy of navytechnology.com

Thân này ví xẻ làm đôi!

Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry sẽ đến Việt Nam vào ngày thứ bảy, làm việc tại Sài Gòn , Hà Nội cho tới thứ hai sắp tới, nhằm vào 14 tới 16 tháng 2, rồi đi Tacloban và Manila ở Philippines. Ông Kerry đang làm việc vất vả và cật lực trong hai tuần nay. Tuần trước ông họp hành với các nhà lãnh đạo Israel và Palestine đến cuối tuần mới về Mỹ, hôm qua, thứ ba, ông điều trần trước quốc hội về công việc liên quan đến Iran, Israel và Palestine. Hôm nay, chiều 11 tháng 12, ông lên đường trở lại Israel, Palestine, rồi từ đó bay tới Việt Nam vào ngày thứ bảy. Vì sao Ngoại trưởng Hoa Kỳ phải đi Đông Nam Á vào lúc hồ sơ Trung Đông còn đòi hỏi thêm nhiều thời gian và công sức của ông?

Chính sách chuyển trục

Có thể nếu không bận rộn ở Trung Đông thì chắc Ngoại trưởng Kerry đã đi Việt Nam và Philippines cùng lúc phó Tổng thống Joseph Biden đi Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn quốc. Chuyến đi của phó Tổng thống Joe Biden có thể gọi là "kịp thời" vì vừa xảy ra vụ không phận nhận dạng phòng không (ADIZ) do Trung Quốc áp đặt, sau khi Hoa Kỳ đã cho hai chiếc B-52 bay vào đó trong một hành động thách thức.  Đây chính là lúc Hoa Kỳ cần chứng tỏ quyết tâm trong chính sách chuyển trục chiến lược sang châu Á, đánh tan mọi điều nghi ngại.
Sự nghi ngại bắt nguồn từ khi Tổng thống Obama vì bận rộn việc chính trị nội bộ đã không thể đi dự hội nghị thượng đỉnh châu Á Thái Bình Dương ở Bali. Nhiều nước châu Á đã công khai bày tỏ lo âu về chính sách chuyển trục từng được người Mỹ long trọng cam kết. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã trở thành vai chính nổi bật trên các diễn đàn kinh tế cũng như chính trị và chiến lược trong thời gian đó. Ngoại trưởng John Kerry thay mặt Tổng thống Obama, truyền thông Hoa Kỳ mô tả như một cái bóng mờ chiếm vị trí thứ yếu.  
liaoning-250
Hàng không mẫu hạm Liêu Ninh của Trung Quốc vừa tập dượt ở biển Đông - Courtesy of chinesemilitaryreview
Tuần trước Phó Tổng thống Joseph Biden đã đến Tokyo, Bắc Kinh và Seoul để tìm cách làm dịu mối căng thẳng vì không phận nhận dạng phòng không của Trung Quốc gây ra. Nay Ngoại trưởng John Kerry đi Việt Nam và Philippines, mà theo thông cáo của bộ ngoại giao thì ở Việt Nam sẽ thảo luận về những vấn đề về năng lượng và hiệp ước TPP, về công cuộc hợp tác đối tác toàn diện vừa được ký kết  hồi tháng 7 tại Washington, cùng một số đề tài gọi là song phương và khu vực. Nội dung làm việc đó liệu có đủ để chứng minh quyết tâm trong chính sách chuyển trục chiến lược sang châu Á?

Hiệp định TPP

Chuyến công tác của Ngoại trưởng Kerry tiếp theo hội nghị về hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, khi 12 nước nhóm họp tại Singapore từ ngày 7 đến ngày 10 tháng 12. Ông Kerry củng nối gót phó Tổng thống Biden. Do đó Ngoại trưởng Kerry có thể sẽ thảo luận hai đề tài chính là hiệp ước TPP với Việt Nam, và trấn an Việt Nam về lập trường về an ninh khu vực của Mỹ một khi chẳng may Trung Quốc thiết lập vùng gọi là không phận nhận dạng phòng không ở biển Đông. Hai nội dung đó đủ chứng tỏ quyết tâm trong lời cam kết của Tổng thống Obama, các cựu bộ trưởng ngoại giao và quốc phòng Hoa Kỳ cũng như những đồng nhiệm hiện tại của họ về chính sách chuyển trục chiến lược sang châu Á.

Một ADIZ biển Đông?

Về phía Trung Quốc, đại sứ Trung Quốc ở Manila, bà Mã Khắc Khanh, khi được hỏi liệu Bắc Kinh có thiết lập vùng nhận dạng phòng không ở biển Đông không, đã trả lời rằng Trung Quốc có quyền quyết định thời gian và địa điểm thiết lập một vùng nhận dạng phòng không mới. Tuy nhiên họ Mã nói thêm rằng bà chưa được biết gì về một kế hoạch như vậy cho biển Nam Trung hoa, tức là biển Đông như người Việt thường gọi.
indian-carrier
Hàng không mẫu hạm Vikramaditya của Ấn Độ - Courtesy of ecopackindia.com
Vị đại sứ nói không biết, nhưng liệu Trung Quốc có một kế hoạch như vậy hay chưa? Bắc Kinh lập vùng nhận dạng phòng không ở biển Hoa Đông trước vì đó là việc cần thiết trước tiên đối với họ, với mục đích tái khẳng định chủ quyền của Trung Quốc bao trùm lãnh hải tranh chấp gay gắt với Nhật Bản ở Senkakư/ Điếu Ngư, và đảo đá Ieodo, hay Tô Nham, với Hàn quốc.
Hành động này, nhất cử lưỡng tiện, còn là một phép thử phản ứng và quyết tâm của Nhật bản, Hoa Kỳ và Hàn quốc trước tham vọng bành trướng và tham vọng đại dương của Trung Quốc. Trung Quốc đo lường phản ứng đó để có kế hoạch tinh vi hơn khi thiết lập không phận như vậy ở biển Đông, nơi mà họ có ưu thế về lực lượng vượt trôi hơn nhiều hơn so với Việt Nam và Philippines. Biển Đông cũng là khu vực quan yếu đối với Trung Quốc không khác biển Hoa đông, về mặt nguyên nhiên liệu cũng như thủy lộ huyết mạch cho nền quốc phòng và kinh tế Trung Quốc.

Phản ứng thế nào?

Khi ấy, phản ứng của Việt Nam với Philippines hẳn nhiên sẽ rất cứng rắn về mặt ngoại giao. Còn Hoa Kỳ? Liệu người Mỹ có phản ứng giống như ở biển Hoa Đông, phi cơ chiến đấu của Mỹ có bay vào, để rồi các hãng bay của Mỹ lại phải báo cáo cho Hoa lục về lộ trình và chi tiết phi hành ?
Xem xét kỹ lưỡng, có thể thấy biển Đông không giống như vùng tranh chấp ở biển Hoa đông.
Khán thính giả Kim Nguyên của RFA có ý phê phán khi nêu câu hỏi rằng giả sử Trung Quốc áp đặt không phận đó ở Alaska thì không lẽ các hãng hàng không Hoa Kỳ cũng phải tuân thủ và báo cáo hay sao?
Xin thưa rằng phi cơ Mỹ chỉ được khuyến cáo làm thủ tục đó ở không phận quốc tế bên ngoài nước Mỹ, không thể nói đến không phận ngay trên nội địa Hoa kỳ.
Biển Đông tuy không liên quan đến nội địa Hoa Kỳ nhưng đường Lưỡi Bò chín đoạn của Trung Quốc là một sự lấn chiếm quá trắng trợn, mà Hoa Kỳ và phương Tây cùng với Ấn Độ và các quốc gia đại dương của Đông Nam Á vẫn cực lực phản đối. Vì vậy phản ứng của Hoa Kỳ về một không phận ADIZ trên biển Đông sẽ không thể giống như với phản ứng đối với việc này ở biển Hoa đông.
Việt Nam và Hoa Kỳ hẳn nhiên sẽ thảo luận về vấn đề đó trong chuyến đi của Ngoại trưởng John Kerry sang Việt Nam từ thứ bảy, 14 tháng 12, đến thứ hai, 16 tháng 12 năm 2013.

Không thể áp bức

Có ý kiến cho rằng Trung Quốc sẽ lập ADIZ biển Đông khi nào có đủ lực lượng hải quân tuần tra đến tận Trường Sa, Singapore.
sukhoi-30-MK2
Chiến đấu cơ đa năng Sukhoi 30-MK2, Việt Nam vừa đặt mua của Nga 12 chiếc, giao hàng 2011-2012
Tuy Trung Quốc mới cho hàng không mẫu hạm Liêu Ninh thao dượt ở biển Đông, nhưng môt không phận ADIZ không cần đến hải quân tuần chiến; ADIZ chỉ là phương cách Bắc Kinh dùng để xác định lãnh hải nào mà họ muốn giành chiếm về phần mình vì dồi dào nguyên nhiên liệu, và là thủy lộ tiến vào thềm Hoa Lục.
Thủy lộ biển Đông tấp nập với tàu bè, phi cơ của hàng chục quốc gia Âu Mỹ Á, lại có bờ biển Philippines và Việt Nam sát cạnh, Trung Quốc không thể nào bắt buộc hay đe dọa các nước ấy để họ phải báo cáo phi hành và căn cước  chuyến bay cho đảo Hải Nam.

 http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/how-would-the-us-react-to-a-supposed-china-s-adiz-over-s-china-sea-12122013144131.html
 



 Nhật-Hàn cùng tập trận trong vùng phòng không Trung Quốc 

Quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, biển Hoa Đông (ảnh chụp 13/12/2012)
Quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, biển Hoa Đông (ảnh chụp 13/12/2012)
REUTERS/Xinhua

Trọng Nghĩa
Hải quân Nhật Bản và Hàn Quốc hôm nay, 12/12/2013 xác nhận đã cùng nhau tiến hành một cuộc thao dượt giải cứu trên biển. Điểm đáng chú ý là cuộc tập trận diễn ra tại vùng biển quốc tế, nhưng lại nằm trong khu vực nhận dạng phòng không mới của Trung Quốc. Hải quân hai nước đều phớt lờ các quy định của Bắc Kinh liên quan đến vùng này.

Theo một phát ngôn viên hải quân Nhật Bản, phía Nhật Bản đã cử hai tàu chiến và một chiếc trực thăng tham gia cuộc tập trận, trong lúc theo hãng tin Yonhap, Hàn Quốc cũng đóng góp hai khu trục hạm và hai trực thăng dùng trên biển.
Theo một số quan chức quân sự Hàn Quốc, nội dung cuộc thao dượt bao gồm các bài tập tìm kiếm và cứu hộ trên biển để tăng cường năng lực phối hợp giữa hai bên trong việc đối phó với các tai nạn trên biển.
Theo Yonhap, địa điểm tập trận nằm trên biển Hoa Đông, gần khu vực bãi ngầm Ieodo hiện do Hàn Quốc kiểm soát, nhưng lại nằm trong vùng phòng không của cả ba nước Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc. Yếu tố này đã được phát ngôn viên Hải quân Nhật Bản nhấn mạnh : « Hoạt động này (cuộc diễn tập Nhật-Hàn) đã được thực hiện bên trong cái mà Trung Quốc gọi là vùng ADIZ (vùng nhận dạng phòng không) của họ ».
Cho dù vậy, cả Seoul lẫn Tokyo đều phớt lờ yêu cầu của Bắc Kinh đòi phi cơ các nước khác phải nộp trước kế hoạch bay khi tiến vào vùng nhận dạng phòng không do Trung Quốc áp đặt. Người phát ngôn của hải quân Nhật Bản nói rõ là quân đội Nhật Bản không hề thông báo cho Trung Quốc về việc sử dụng máy bay trực thăng.
Cả hai nước, tuy nhiên, đều xác định rằng cuộc tập trận hỗn hợp hai năm một lần, đã được lên kế hoạch từ lâu, chứ không phải là phản ứng chống lại việc Trung Quốc đơn phương áp đặt vùng phòng không vào hạ tuần tháng 11 vừa qua.
 http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20131212-bien-hoa-dong-hai-quan-nhat-han-cung-tap-tran-trong-vung-phong-khong-trung-quoc
 

NGUYỄN MINH CẦN * ĐẢNG CỘNG SẢN II

Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế . (6)
 
Nguyễn Minh Cần


II. Ðôi điều về Đảng Cộng Sản Việt Nam (ÐCSVN)

Ở đây, chúng tôi không trình bày lịch sử ÐCSVN, mà chỉ phác qua đôi điều nhận xét về ÐCSVN.

1. Khách quan mà xét, trong sự xuất hiện của Ðảng cộng sản Việt Nam/Ðảng cộng sản Ðông Dương (xin viết gọn là ÐCSVN) trên sân khấu chính trị nước ta, những yếu tố bên ngoài đóng vai trò chính yếu. Cố nhiên, không có những yếu tố trong nước - tình hình kinh tế, xã hội, đấu tranh của dân chúng - thì không thể xuất hiện được đảng, nhưng phải nói thẳng rằng khi lập ÐCSVN và trong buổi đầu tồn tại của đảng, những yếu tố bên ngoài thực tế đã đóng vai trò chủ yếu. Cả ý thức hệ, tức là tư tưởng, chủ nghĩa, cả đường lối cụ thể, tức là chiến lược, sách lược, cả các quan điểm về ÐCS... đều du nhập từ nước ngoài. Các chỉ thị cụ thể về xây dựng đảng đều được đề ra bởi người nước ngoài. Tiền tài, phương tiện vật chất ... đều do nước ngoài cung cấp. Thậm chí cán bộ cũng do nước ngoài tuyển lựa, nuôi dưỡng, đào tạo rồi đưa về Việt Nam. Ðó là một thực tế kéo dài trong nhiều năm tồn tại của ÐCSVN.
Ðể minh họa điều vừa nói, xin nêu vài tài liệu cụ thể. Trong tác phẩm "Việc đào tạo những nhà cách mạng Việt Nam trong các trường đại học của nước Nga xô-viết trong những năm 20-30" của nhà Việt học A. Sokolov, có đưa ra con số 67 người Việt Nam đã được nước Nga xô-viết đào tạo từ năm 1925 đến khoảng năm 1936 (trong bài của A. Sokolov tính đến năm 1938, đó là trường hợp của Lin, hay Linov, tức là Nguyễn Aùi Quốc, nhưng điều đó chỉ là trên giấy tờ mà thôi, thực tế hồi đó, Lin, hay Linov không còn học ở Moskva nữa). 
Con số này tác giả đã sưu tập rất công phu khi nghiên cứu ở kho lưu trữ của Cộng Sản Quốc Tế, cộng số học viên Việt Nam đến học ở Trường đại học cộng sản của những người lao động phương Ðông (tiếng Nga viết tắt là KUTV), Trường quốc tế Lenin (MLSH) và Học viện nghiên cứu khoa học các vấn đề dân tộc và thuộc địa (NIINKP). 
Con số này chắc chắn là chưa đầy đủ, vì tác giả không thể biết hết các bí danh học viên Việt Nam đã dùng, không biết được số học viên các trường đặc biệt rất bí mật của ngành quân sự và mật vụ, cũng như có một số người Ðông Dương do ĐCS Pháp cử đến học ở các trường nói trên lại mang tên Pháp nên không thể đoán được (xem sách: „Nước Việt Nam truyền thống“, Quyển 2, Moskva, 1996, tr. 143-177).
Còn để bạn đọc biết rõ phần nào nguồn tài chính QTCS đã chi ra cho việc chuẩn bị thành lập ÐCSVN, chúng tôi chỉ xin dẫn một trong nhiều tài liệu về vấn đề này còn lưu trữ tại RSKHIDNI. Ðó là biên bản cuộc họp ngày 3.3.1927 tại Canton (Quảng Châu) của ba người là Doriot, Voline (đại diện cho Phân bộ) và Lee (ghi theo biên bản, có lẽ đọc là Lý, hồi đó Lý, hay Lý Thụy, làm việc cho Borodin - trong văn bản tiếng Nga có chú thêm: Nguyễn Aùi Quấc) để bàn về vấn đề: chính trị, tổ chức và ngân sách. Biên bản có ghi rõ: "giao cho Doriot viết tuyên ngôn gửi thanh niên Ðông Dương, còn Lee làm dự chi để gửi lên QTCS (Cộng Sản Quốc Tế)". Ðồng thời ở đây cũng kèm luôn "tờ trình" (RSKHIDNI, Kho 495, Bảng kê 154, Hồ sơ 555, tr. 5) về các dự chi trong năm:
"a/ đưa đến Canton 100 tuyên truyền viên: 200 $ X 100 người = 20 000 $ (đô la Trung Quốc);
b/ tối thiểu 10 tuyên truyền viên tự do (chúng tôi không hiểu chữ „tự do“ ở đây nghĩa là gì - NMC): 150 $ X 10 = 1 500 $; c/ nhà in, giấy, việc in ấn = 1 500 $;
c/ chi phí về tổ chức = 7000 $;
d/ đưa 100 người đến học viện quân sự Wampoa (Hoàng Phố) = 5 000 $;
e/ chi phí bất thường = 5 000 $; tổng cộng = 40 000 $ (đô la Trung Quốc).
Chắc cái dự chi này về sau không được thực hiện tất cả, vì phái bộ Borodin quá lợi dụng sự thân thiện của Quốc Dân Ðảng Trung Quốc đã mở rộng hoạt động mạnh mẽ để gieo cấy các tổ chức cộng sản và gián điệp xô-viết vào các nước châu Á và ngay cả ở Trung Quốc, nên cuối cùng cả phái bộ đã bị chính phủ Trung Hoa Dân quốc trục xuất hồi cuối năm 1927.
Cố nhiên, ngày nay, ban lãnh đạo ÐCSVN không thích nói đến những điều này, họ muốn "đề cao“ tính chất "độc lập" của đảng. Nhưng "độc lập“ như thế nào được, khi chính Nguyễn Ái Quốc đã nói trong bài giảng cho cán bộ hồi năm 1926: "... Ðệ Tam Quốc tế là một ÐCS thế giới. Các đảng các nước như là chi bộ, đều phải nghe theo kế hoạch và quy tắc chung. Việc gì chưa có mệnh lệnh và kế hoạch của Ðệ Tam Quốc tế thì các đảng không được làm" (xem: Hồ Chí Minh. T.1)? Việc ra đời của ÐCSVN hồi năm 1930 cũng là theo chỉ thị QTCS. 
Sau khi đại hội „Việt Nam cách mạng thanh niên đồng chí hội“ (1929) xin gia nhập QTCS, BCH QTCS có gửi thư trả lời, phê phán những sai lầm hay thiếu sót trong đường lối cũng như trong điều lệ và chỉ thị cụ thể về cách thức xây dựng ÐCS. Sau đó, QTCS còn ra một chỉ thị nữa vào ngày 27.10.1929 „về việc thành lập một ÐCS Ðông Dương“ với những hướng dẫn cụ thể về nhiều mă.t. Những chỉ thị này kèm theo những sự giúp đỡ về vật chất và cán bộ đã tạo điều kiện cho sự ra đời của ÐCS trên bán đảo Ðông Dương hoàn toàn theo đúng tiêu chuẩn của QTCS.
Không thể phủ nhận rằng nhiều người Việt Nam đã đến với QTCS vì lòng yêu nước. Nhưng khi họ đã tiếp thụ say mê chủ nghĩa Marx-Engels-Lenin-Stalin thì chủ nghĩa quốc tế vô sản (cụ thể là giành chuyên chính vô sản trên phạm vi thế giới) đã trở thành mục tiêu tối thượng của họ, và họ theo sách lược của Lenin-Stalin khéo léo lợi dụng lòng yêu nước của dân tộc để cướp chính quyền, thiết lập chuyên chính vô sản trên đất nước mình nhằm tiến tới mục tiêu tối thượng của họ và QTCS.
 Cho nên việc theo "mệnh lệnh và kế hoạch của Ðệ Tam Quốc tế" là điều dĩ nhiên đối với họ. Nói chung, những người cộng sản trên thế giới đều coi việc giành chuyên chính vô sản ở nước mình, cũng như mở rộng chuyên chính đó ra các nước khác đều là "làm nghĩa vụ quốc tế".
2. ÐCSVN ra đời hồi năm 1930 đúng vào lúc chủ nghĩa Stalin đã hoàn toàn thống trị ở Liên Xô và trong toàn bộ PTCSQT, do đó từ thời ấu thơ đã tiếp thụ sâu đậm lý luận và thực hành chẳng những của chủ nghĩa Lenin, mà cả của chủ nghĩa Stalin. Chủ nghĩa Lenin mà ÐCSVN tiếp thụ từ đầu là qua sự lý giải, diễn dịch của Stalin, qua các sách của Stalin, như "Nguyên lý chủ nghĩa Lenin“ (1924), "Những vấn đề của chủ nghĩa Lenin“ (1926). 
Vì thế có thể nói không sai rằng ÐCSVN tiếp thụ chủ yếu là chủ nghĩa Stalin. Theo quyết định của QTCS, trong thời gian đầu khá dài, hai ÐCS Trung Quốc và Pháp được giao nhiệm vụ "đỡ đầu“ ÐCSVN. Vì vậy, ÐCSVN còn chịu thêm ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc của chủ nghĩa Mao. Việc Nguyễn Ái Quốc vốn là đảng viên của ÐCSTQ, từng phục vụ trong Hồng quân Trung Quốc, và việc Stalin thỏa thuận với Mao Trạch Ðông hồi năm 1950 giao cho Trung Quốc phụ trách Việt Nam càng làm sâu đậm thêm ảnh hưởng chủ nghĩa Mao đối với Việt Nam.
Cái tinh thần sùng bái Stalin và Mao Trạch Ðông trong ÐCSVN đã có một thời gian dài rất nặng, chủ yếu là do các lãnh tụ và bộ máy tuyên truyền của đảng gieo rắc cho cán bộ, đảng viên, rồi truyền ra dân chúng. Chính kẻ viết bài này đã nhiều lần chứng kiến hiện tượng đó. Chẳng hạn, hồi năm 1950, lúc còn làm ủy viên Thường vụ tỉnh ủy Thừa Thiên, đã được TƯ ÐCS (lúc bấy giờ là ÐCS Ðông Dương) triệu tập ra chiến khu Việt Bắc dự hội nghị cán bộ để chuẩn bị cho đại hội 2 của đảng vào năm sau. 
Tại hội nghị đó, Hồ Chí Minh đã giải thích về chủ trương đổi tên ÐCS Ðông Dương thành Ðảng lao động Việt Nam. Sau khi giải thích lợi ích của việc đổi tên đảng là để đảng dễ dàng gần gũi, lôi kéo nhiều tầng lớp dân chúng, nhất là các tầng lớp trên, cả miền Bắc lẫn miền Nam đang còn nghi ngại đảng, ông giơ cao nắp hộp thuốc lá thơm Craven „A“ của ông lên về phía có nhãn hiệu thuốc và nói: „Ðây là Ðảng cộng sản“, rồi ông quay phía trong nắp không có nhãn hiệu và nói: „Còn đây là Ðảng lao động“. Ông lại lớn tiếng hỏi: „Thế thì các cô, các chú thấy có khác gì nhau không?“ Cả hội trường đồng thanh đáp vang: „Dạ không ạ!“. Ông nghiêm nghị nói: „Các cô, các chú nên biết rằng việc đổi tên đảng ta, Bác đã xin ý kiến các đồng chí Stalin và Mao Trạch Ðông rồi (chúng tôi được biết hồi đó ông vừa đi Moskva về), các đồng chí đã đồng ý. Các cô, các chú nên biết rằng: ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Ðông thì không thể nào sai được“. 
Cả hội trường vỗ tay rầm rầm. Tại đại hội 2 của đảng (1951), Hồ Chí Minh cũng đã có những lời tuyên bố tương tự. „Ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Ðông thì không thể nào sai được“. Bạn đọc có thấy không, cái đó là cái gì, nếu không phải là sự sùng bái Stalin và Mao Trạch Ðông đến độ mù quáng? Ðây là một chuyện thật 100%, những người cùng thời với chúng tôi đều biết rõ và nhớ kỹ những chuyện như thế, tiếc rằng không mấy ai chịu viết sự thật lên giấy trắng mực đen!
Ðể chứng minh bằng „giấy trắng mực đen“ là Hồ Chí Minh đã hết sức đề cao Stalin và Mao Trạch Ðông như thế nào, chúng tôi đành phải dẫn ra vài câu trong "Tuyển Tập Hồ Chí Minh“ xuất bản bằng tiếng Pháp hồi năm 1962 (chúng tôi dùng chữ "đành phải“ vì lần xuất bản này xảy ra sáu năm sau đại hội 20 ÐCSLX, là đại hội đã vạch trần những tội ác của Stalin, nên nhiều câu ông Hồ ca ngợi Stalin có thể đã bị xóa bỏ từ lâu rồi):
"La révolution vietnamienne doit apprendre et a beaucoup appris de l’expérience de la révolution chinoise. L’expérience de la révolution chinoise et la pensée de Mao Tsé Toung nous a permis de mieux comprendre la doctrine de Marx-Engels-Lénine-Staline. Les révolutionnaires vietnamiens doivent en garder le souvenir et se montrer reconnaissants“ - Cách mạng Việt Nam phải học và đã học nhiều kinh nghiệm của cách mạng Trung Quốc.
 Kinh nghiệm cách mạng Trung Quốc và tư tưởng Mao Trạch Ðông đã giúp cho chúng tôi hiểu thấu đáo hơn học thuyết của Marx-Engels-Lenin-Stalin. Những người cách mạng Việt Nam phải luôn luôn ghi nhớ và biết ơn Mao Trạch Ðông về sự cống hiến to lớn đó (xem: Hồ Chí Minh. Oeuvres Choisies, t.2, Ele, Hanoi, 1962, p. 221-222). Như vậy là những người cộng sản Việt Nam lĩnh hội chủ nghĩa Marx-Engels-Lenin-Stalin qua sự lý giải và thực hành của Mao Trạch Ðông, qua tư tưởng Mao Trạch Ðông. Tại đại hội 2 ÐCSVN (2.1951), đại hội đã quyết định rằng cơ sở tư tưởng của Ðảng lao động Việt Nam (tức là ÐCSVN) là chủ nghĩa Marx-Engels-Lenin-Stalin và tư tưởng Mao Trạch Ðông. 
Cũng xin nói thêm, đến năm 1986, khi xuất bản „Toàn Tập Hồ Chí Minh“ bằng tiếng Việt - tức là sau khi ÐCSVN và ÐCSTQ đã mâu thuẫn nhau cao độ, thậm chí đem quân đánh nhau dữ dội ở biên giới Viê.t-Trung - thì trong bài này „người ta“ đã cố tình cắt bỏ một đoạn, trong đó có những câu vừa nói trên (xem: Hồ Chí Minh. Toàn Tâ.p. NXB Sự Thật, Hà Nội, 1986, t.6, tr. 12)! Và đây chẳng phải là trường hợp duy nhất của lối làm việc không trung thực khi xuất bản „Toàn Tập Hồ Chí Minh“.

Trong „văn học nghệ thuật cung đình“ Việt Nam, một thời gian dài đã vang lên bao nhiêu bài thơ, bài ca tôn vinh Stalin, Mao Trạch Ðông, Hồ Chí Minh như những bậc thánh sống. Tố Hữu, người cai quản văn nghệ „xã hội chủ nghĩa“ một thời, là nhà thơ chuyên làm những bài tụng ca các vị thánh sống đó:

...“Bữa trước mẹ cho con xem ảnh
Ông Stalin bên cạnh nhi đồng
Aú Ông trắng giữa mây hồng
Mắt Ông hiền hậu, miệng Ông mỉm cười“...

...“Hoan hô Stalin!
Ðờiđời câyđại thọ
Rợp bóng mát hòa bình
Ðứngđầu sóng ngọn gió!
Hoan hô Hồ Chí Minh!
Cây hảiđăng mặt biển
Bão táp chẳng rung rinh
Lửa trường kỳ kháng chiến!“...
...”Stalin! Stalin!
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếngđầu lòng con gọi Stalin!
Hôm qua loa gọi ngoàiđồng
Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao
Làng trên xóm dưới xôn xao
Làm sao, Ôngđã... làm sao, mất rồi!
Ông Stalinơi, Ông Stalinơi!
Hởiơi, Ông mất! Ðất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng,
Thương mình thương một, thương Ông thương mười
Yêu con, yêu nước, yêu nòi
Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu!“...

Còn Ðỗ Nhuận, tổng thư ký Hội âm nhạc, hết lời ca tụng các „lãnh tụ“ kính yêu trong ca khúc của mình:

...“Việt Nam Trung Hoa,
Núi liền núi, sông liền sông,
Chung một biển Ðông,
Mối tình hữu nghị sáng như vừng Ðông.
Anh ở bên ấy, tôi ở bênđây,
Sớm sớm chung nghe tiếng gà gáy rộn,
....
Chung một ý, chung một lòng,
Ðường cách mạng thắm màu cờ hồng
A! A...
Nhân dân ta ca muôn năm
Hồ Chí Minh, Mao Trạch Ðông!“...

Tóm lại, trong một thời gian rất dài, trong thời kỳ bí mật cũng như sau khi cướp được chính quyền, Stalin và Mao Trạch Ðông là những mặt trời, những ngôi sao, những ngọn cờ vẫy gọi ÐCSVN, còn ÐCSLX và ÐCSTQ thật sự là mẫu mực cho ÐCSVN rập khuôn cả về tư tưởng, cả về lề lối sinh hoạt lẫn về kiểu cách tổ chức bộ máy đảng-nhà nước...
3. ÐCSVN ø vốn là một phân bộ của QTCS, một bộ phận của PTCSQT. Mà QTCS xây dựng trên những nguyên tắc tập trung dân chủ, cho nên ÐCSVN, cũng như tất cả các ÐCS khác, phải tuyệt đối phục tùng một trung tâm, trung tâm đó về hình thức là BCH QTCS, về thực chất là tập đoàn thống trị ÐCSLX. Ðúng như Nguyễn Ái Quốc đã nói: „Việc gì chưa có mệnh lệnh và kế hoạch của Ðệ Tam Quốc tế thì các đảng không được làm“. Ðiều này nói lên sự lệ thuộc chặt chẽ của ÐCSVN vào tập đoàn thống trị ÐCSLX (và ÐCSTQ) trong một thời gian dài. Trong thời gian đó, sự sùng bái cá nhân Stalin và Mao Trạch Ðông trong ÐCSVN làm cho sự lệ thuộc này càng trầm trọng thêm.
Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế . (7)
( Nguyễn Minh Cần )
4. Các lãnh tụ cộng sản Việt Nam thường quả quyết rằng với sự ra đời của ÐCSVN, từ năm 1930, "quyền lãnh đạo (cách mạng Việt Nam - NMC) hoàn toàn về giai cấp vô sản" (xem: Lê Duẩn. "Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam". Hà Nô.i. 1956), vì giai cấp vô sản là giai cấp tiên tiến nhất như Marx đã nói. 
Cứ cho rằng "phát kiến" của Marx là một định đề (postulat) không cần phải chứng minh nữa (dù trên thực tế, "phát kiến" đó đã bị thực tế bác bỏ), thì thử hỏi: khi ra đời, ÐCSVN có phải là đảng của giai cấp vô sản không? Hồi đó, ở Việt Nam/Ðông Dương đã trải qua cách mạng công nghiệp chưa? Ðã có giai cấp vô sản chưa? Nếu không có thì làm sao có thể coi ÐCSVN là đảng của giai cấp vô sản được? Và nếu nó không có tính chất vô sản thì nó mang tính chất gì? Giải đáp những câu hỏi này rất cần thiết, vì xây dựng đảng cũng giống như xây cất một ngôi nhà, cái nền móng giai cấp đầu tiên vô cùng quan trọng - trong những giai đoạn sau, khó mà thay đổi bản chất của nó được.
Theo những tài liệu công bố của nhà nghiên cứu mác-xít Trần Văn Giàu, vào năm 1929, ở Ðông Dương có 220 ngàn công nhân, trong đó đông nhất là công nhân và viên chức trong các ngành công nghiệp và thương nghiệp 86 ngàn người (39%) , công nhân đồn điền 81 ngàn người (độ 36,8%), công nhân mỏ 53 ngàn người (24%). Trần Văn Giàu lưu ý người đọc rằng đó chưa kể thợ may, thợ cạo, thợ giặt, chèo thuyền, đánh xe ngựa, kéo xe tay, bồi bếp, v.v... rất đông, lại chưa kể thầy giáo trường công, trường tư, trường đạo (xem: Trần Văn Giàu. "Giai cấp công nhân Việt Nam". Hà Nội 1958, tr.169). 
Chẳng riêng gì Trần Văn Giàu, nói chung giới "học giả mác-xít" của Hà Nội đều có khuynh hướng cố vơ vào giai cấp vô sản nhiều lớp người khác để chứng minh là ở Việt Nam/Ðông Dương đã có một giai cấp vô sản "đàng hoàng" trước khi thành lập ÐCS, từ đó chứng minh "quyền lãnh đạo hoàn toàn về giai cấp vô sản" đã được xác lập vững chắc.
 Họ thường cố ghép bừa các lớp người không thuộc về giai cấp vô sản vào một chữ chung chung là "công nhân", mà lờ đi khái niệm rõ ràng của Marx và Engels về giai cấp vô sản "là giai cấp những người công nhân làm thuê hiện đại, do cách mạng công nghiệp đẻ ra". Phải nói rằng về mặt này, tiếng Việt trước đây đã khá chính xác: trước năm 1945, trong từ vựng của dân tộc đã phân rõ các lớp người trong xã hội bằng những từ "thợ", "phu" và "thầy".... 
Người ta nói "thợ", "thợ máy", "thợ thủ công", v.v... (từ tập hợp là"thợ thuyền"), "phu", "phu đồn điền", "phu mỏ", "phu khuân vác", v.v... (từ tập hợp là "phu phen"), "thầy", "thầy ký", "thầy thông", "thầy giáo", v.v... một cách rất bình thường, hoàn toàn không có tinh thần kỳ thị. Nhưng sau tháng 8 năm 1945, những người cộng sản chỉ cho dùng một chữ "công nhân" cốt làm cho sự phân biệt đó bị xóa nhòa, làm tăng số lượng "giai cấp công nhân".
Xét về bản chất giai cấp vô sản theo đòi hỏi của Marx, thì phải nhận thấy rằng ngay cả thợ thuyền trong nhà máy ở Ðông Dương hồi những năm 20, 30 phần đông vẫn còn quan hệ kinh tế chặt chẽ với nông thôn, nhiều người có ruộng đất ở làng quê, như thế theo Marx, Lenin, là có sở hữu tư nhân. Thợ thuyền, phu mỏ, phu đồn điền, phu khuân vác... hồi đó, phần đông xuất thân từ nông dân, lớp nghèo thành thị và lớp "đáy" xã hội mà Marx gọi là "lumpen-prolétariat" (vô sản lưu manh), điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng, tâm lý, não trạng của cái gọi là "giai cấp vô sản" Việt Nam/Ðông Dương. Với chất liệu xã hội như thế để xây dựng đảng, thì làm sao ÐCS mang được tính chất vô sản? làm sao có thể gọi ÐCSVN là đảng vô sản được? Ðiều này càng về sau càng đẻ ra hậu quả cho dân tộc và cả cho cái gọi là sự nghiệp "vô sản" nữạ
Dù cho cứ gọi chung tất cả khối người đó là công nhân, như các nhà nghiên cứu của đảng đã quyết đoán "lấy được", và cứ giả dụ họ là một "giai cấp vô sản" thật, "sinh ra từ cuộc cách mạng công nghiệp" thật (dù cuộc cách mạng đó không có ở Ðông Dương và Việt Nam!), theo đúng tiêu chuẩn của Marx thật, thì cái tỉ lệ 1,1% công nhân (mà tuyệt đại đa số là mù chữ, không có học vấn hoặc có cũng rất thấp) so với dân số Việt Nam hồi đó (220 ngàn so với khoảng 20 triệu người; theo tài liệu của QTCS thì thống kê dân số toàn Ðông Dương hồi năm 1928 có 20 413 504 người, trong đó người Âu, không kể quân đội, là 20 528 người, dân nhập cư người Á, phần lớn Hoa kiều, là 688 317 người, "người An Nam" 19 700 695 người) thì làm sao có thể khẳng định cái tỉ lệ rất bé nhỏ đó lại nhất định phải có "quyền lãnh đạo hoàn toàn" đối với đại khối dân chúng gồm 98,9% dân số? làm sao có thể khẳng định được rằng ÐCSVN là của giai cấp vô sản và nhất định đảng ấy phải nắm độc quyền lãnh đạo đất nước? 
Thật ra, ngay cả những "nhà lãnh đạo" của ÐCSVN không mấy ai hồi đó đã đọc nổi các tác phẩm chủ yếu của các vị tổ sư của chủ nghĩa cộng sản, nhiều người may lắm là được biết vài nét sơ lược, thế thì làm sao dám quả quyết là "quyền lãnh đạo hoàn toàn về giai cấp vô sản" được? Hơn nữa, các "nhà lãnh đạo" đó phải chăng là vô sản? Trong một tài liệu của QTCS bằng tiếng Pháp, nhan đề "Questions intérieurs du Parti et les fautes opportunistes dans le Parti. Tâches imédiates" (Những vấn đề nội bộ của Ðảng và những sai lầm cơ hội chủ nghĩa trong Ðảng. Những nhiệm vụ trước mắt), bài nói ngày 21.9.1931 (RSKHIDNI ở Kho 495, 
Bảng kê 154, Hồ sơ 561, tr.1-5) có nhận xét như sau: "những sai lầm cơ hội chủ nghĩa trong ÐCSVN là do nguồn gốc xã hội của đảng"... "thành phần xã hội của đảng rất xấu, đa số là trí thức"... "tiểu tư sản thống trị", nên trong đảng có nhiều phần tử cơ hô.i. Ðó là cách nhìn của QTCS đối với ÐCSVN, chúng tôi muốn giới thiệu mà không bình luận để bạn đọc rộng đường suy nghĩ.


Vì thế không lấy làm lạ khi thấy những thành phần không vô sản hoặc thuộc tầng lớp vô sản lưu manh giữ vai vế trọng yếu trong ÐCSVN - tổng bí thư xuất thân là hoạn lợn, ủy viên BCT kiêm chủ tịch nước vốn là cai phu đồn điền từng đánh đập phu phen, ủy viên BCT xuất thân một tên móc túi lại vỗ ngực là công nhân, v.v... Biết bao hiện tượng đáng buồn chỉ làm tủi hổ giai-cấp-vô-sản-lý-tưởng của Marx, như có những ủy viên BCT luôn miệng răn dạy đảng viên về lòng trung thành thì hóa ra là đã từng khai báo phản bội hay thậm chí làm tay sai cho địch, kẻ chết rồi mới phát hiện ra, người bị vỡ lở khi còn tại chức... 
Nhưng, có lẽ, đáng buồn hơn cả là sự lây lan tính chất lumpen (lưu manh) từ lãnh đạo ra đảng viên, trong ÐCS ra ngoài dân chúng và đã tạo nên sự sa đọa rất trầm trọng về đạo đức, nhân cách và tinh thần trong đảng và ngoài xã hô.i. Mà hậu quả của tình trạng này không dễ dàng gì giải quyết trong một vài thế hệ dưới chế độ dân chủ. Quá trình lumpenization (lưu manh hóa) vừa nói thì không riêng gì ÐCSVN bị mà là một hiện tượng phổ biến ở hầu hết các đảng cầm quyền. ÐCS càng hô khẩu hiệu "xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa" bao nhiêu thì kết quả thu được càng ngược lại điều họ nói bấy nhiêu. Các bạn đọc đã từng sống dưới những chế độ khác nhau thì dễ dàng so sánh và thấy rõ điều nàỵ
5. Ngay từ đầu, ÐCSVN được xây dựng theo đúng "lý luận" và mẫu mực của đảng Lenin và Stalin, nghĩa là một hội kín của những kẻ âm mưu, gồm phần lớn là "những người cách mạng chuyên nghiệp" được nuôi dưỡng, đào tạo và chỉ huy từ bên ngoài. Cái "tính chất âm mưu", "hành động khủng bố" thể hiện rõ trong hoạt động của đảng, thậm chí cả về sau này khi đảng đã nắm quyền rồi. Ngay cái nguồn tài chính của đảng suốt mấy chục năm hoạt động bí mật và kháng chiến dựa vào việc buôn lậu thuốc phiện cũng đủ nói rõ cái tính chất của đảng. 
Lúc mới thành lập, ÐCSVN nhắm mục tiêu trước mắt quan trọng nhất là cướp chính quyền bằng bạo lực, dưới sự chỉ huy của "những người cách mạng chuyên nghiệp". Cứ tỉnh táo nhìn vào thành phần xuất thân, trình độ học vấn, v.v.... của "những người cách mạng chuyên nghiệp" đó, thì dễ dàng nhận thấy họ là hạng người chỉ có khả năng tổ chức những cuộc âm mưu, khủng bố, đập phá, đàn áp, cưỡng bức, v.v... chứ không có khả năng làm công việc có tính xây dư.ng. Vì thế, trong suốt quá trình tồn tại, đầu óc sùng bái bạo lực của ÐCS rất nă.ng.
 Trường Chinh đã viết: "Từ ngày ra đời, luôn luôn trung thành với tư tưởng cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Marx-Lenin, ... đảng ta đã xác định con đường cách mạng bạo lực là con đường duy nhất đúng đắn để đánh đổ kẻ thù giai cấp và của dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân (đúng hơn là về tay một nhúm chóp bu trong đảng - NMC), bảo vệ chính quyền cách mạng, đưa cách mạng nước ta đến thắng lợi..." (xem: Trường Chinh. "Ðời đời nhớ ơn Các Mác và đi con đường Các Mác đã vạch ra". Hà Nội, 1969, tr.47-49). Trường Chinh nói những lời này trong dịp kỷ niệm 150 năm ngày sinh của K.Marx (1968), ngay sau vụ bắt bớ, giam cầm hàng loạt cán bộ đảng viên bất đồng với đường lối Mao-ít của hội nghị lần thứ 9 TƯ ÐCSVN. 
Bài nói của ông nói nhằm biểu thị thái độ của TƯ ÐCSVN chống đường lối của ÐCSLX và tỏ tình đoàn kết với phe Mao-ít trong ÐCSTQ, trước ngày Lưu Thiếu Kỳ đặt chân đến Hà Nội để mưu đồ tạo thế liên kết Trung - Việt chống Liên Xô. Những lời lẽ đó phản ánh đúng thực chất tư tưởng của các lãnh tụ cộng sản Việt Nam - đầu óc sùng bái bạo lực rất nặng, không chỉ khi cướp chính quyền và giữ chính quyền, mà cả khi xây dựng "xã hội mới".


Ðể hiểu rõ hơn thực chất của ÐCS là "một hội kín của những kẻ âm mưu", xin hãy nhìn lại lịch sử ngay từ thời kỳ thành lập đảng. Hồi năm 1929, ở Việt Nam đã có những tổ chức cộng sản xin gia nhập QTCS, đó là Việt Nam cách mạng thanh niên đồng chí hội và Tân Viê.t. Nhưng QTCS cho rằng những tổ chức đó chưa đủ tiêu chuẩn ÐCS và đã chỉ thị cho những tổ chức đó phải làm thế nào để trở thành ÐCS. Sau đó, cũng trong năm 1929, từ các tổ chức nói trên đã xuất hiện ba ÐCS - Ðông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng và Ðông Dương cộng sản liên đoàn. Cả ba tổ chức đó đều tự xưng là cộng sản nhưng lại kình chống nhau kịch liê.t. QTCS bèn chỉ thị cho ba ÐCS đó phải thống nhất la.i. 
Ngày 6 tháng 1 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc lấy danh nghĩa phái viên của QTCS mời đại biểu ba đảng đến Hồng Kông họp để thống nhất. Cuộc họp diễn ra trên sân bóng, các đại biểu giả vờ là khán giả xem bóng đá để ho.p. Có ba người đến họp: Trịnh Ðịnh Cửu, đại biểu cho Ðông Dương cộng sản đảng, Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm, đại biểu cho An Nam cộng sản đảng (xem: Trần Văn Giàu. "Giai cấp công nhân Việt Nam". Hà Nội, 1958, tr. 487). Như vậy là không có mặt Ðông Dương cộng sản liên đoàn. Hội nghị quyết định thống nhất ba đảng, kể cả đảng bộ cộng sản của Hoa kiều, thành một đảng, lấy tên là Ðảng cộng sản Việt Nam, chỉ định trung ương đảng chín người. 
Từ đó, TƯ ÐCSVN coi ngày 6 tháng 1 là ngày thành lập ÐCSVN. Trong suốt 30 năm, hàng năm vẫn lấy ngày 6 tháng 1 để kỷ niệm thành lập đảng thì đùng một cái, đến đại hội 3 của ÐCSVN (1960), BCT TƯ đề nghị đại hội thông qua quyết định thay đổi lại ngày thành lập ÐCSVN là ngày 3.2.1930, lấy lý do "các đồng chí Liên Xô cho biết ngày đó mới đúng theo tài liệu lưu trữ của Liên Xô". Tại đại hội, một đại biểu (Lê Minh) lên phản bác đề nghị thay đổi ngày thành lập đảng, thì Hồ Chí Minh ngồi trên chủ tịch đoàn gạt phăng, không cho thảo luâ.n. Thế là đại hội thông qua việc thay đổi lại ngày sinh của ÐCSVN.
Nhân thể xin nói thêm. Cuộc họp diễn ra trên sân bóng ở Hồng Kông được nói đi nói lại nhiều lần trong ba bốn thập niên ròng cứ mỗi dịp kỷ niệm thành lập đảng. Thế nhưng, đến những năm 80, chắc thấy cuộc họp trên sân bóng có vẻ lén lút như cuộc gặp mặt của những kẻ âm mưu, nên người ta đã "viết lại" sử đảng: "Sau 5 ngày làm việc hết sức khẩn trương (từ 3 đến 7 tháng 2) trong hoàn cảnh bí mật, hội nghị đã nhất trí tán thành thống nhất các đảng cộng sản..." (xem: "Lịch sử Ðảng cộng sản Việt Nam". NXB Sự thật, 1985, tr.27).
Những chuyện đại loại như thế có nhiều trong lịch sử ÐCSVN làm nổi bật tính chất "lèm nhèm", không đàng hoàng của một hội kín của những kẻ âm mưụ


Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế . (8)

( Nguyễn Minh Cần )

6. Xin nói thêm một chuyện "lèm nhèm" tương tự nữa: cái gọi là phong trào Xô-viết Nghê.-Tĩnh. Nếu nói đúng sự thật thì trong cuộc nổi dậy mạnh mẽ và dũng cảm của nông dân hồi tháng 8 - 9 năm 1930, không một nơi nào ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh đã lập ra xô-viết cả. Hồi đó, ở một số vùng nông dân nổi dậy, hào lý sợ hãi bỏ chạy, dân làng cử vài người đứng ra lo một vài việc ở xã thôn, và tùy nơi gọi đó là "xã bộ", "xã bộ nông", "thôn bộ", "thôn bộ nông" hoặc không gọi tên gì cả. Thế nhưng khi được tin nông dân nổi dậy ở Nghê.-Tĩnh, Nguyễn Ái Quốc đã vội vã báo cáo hồi tháng 11 năm đó cho QTCS và Quốc tế Nông dân (một tổ chức quần chúng "hữu danh vô thực" của QTCS) là: 
"Hiện nay ở một số làng đỏ, Xô-viết nông dân đã được thành lập". Từ đó, cái tên Xô-viết Nghê.-Tĩnh được tung ra và trở thành "lịch sử": sau này, ban lãnh đạo ÐCSVN cố nói lấy được là ở Nghê.-Tĩnh đã có các xô-viết, đã có phong trào Xô-viết Nghê.-Tĩnh. Trong lúc đó, chính những người viết sử của đảng đã phải thừa nhận trên giấy trắng mực đen như sau: "về chủ trương thành lập chính quyền Xô-viết thì hồi đó không đồng chí nào nhận được chỉ thị hoặc nghe phổ biến" và "khi xã bộ nông đã nắm quyền hành ở nông thôn mà vẫn chưa có quan niệm rõ là ta đã giành được chính quyền". Ðiều đó nói lên gì? 
Một là, ngay ở Nghê.-Tĩnh không đâu có chủ trương hay ý định lập chính quyền, chứ nói gì đến chính quyền xô-viết; hai là, chính ÐCSVN cũng không có chủ trương lập chính quyền xô-viết; và ba là, đảng viên và dân chúng ở các địa phương đó không hề có ai biết "xô-viết" là cái gì cả. Thế mà... úm ba la... lại "có" các "xô-viết"! Lại "có" phong trào "Xô-viết Nghê.-Tĩnh"! Những người viết sử đảng buộc phải xác nhận những điều thực tế nói trên trong sách "Xô-viết Nghê.-Tĩnh", lại cố gượng gạo giải thích:
 "Ðảng đã xác nhận rằng ở Nghê.-Tĩnh đã có chính quyền Xô-viết là căn cứ vào sự hoạt động và những chức năng của chính quyền ấy" (những câu trong ngoặc kép của cả đoạn này đều trích từ sách: "Xô-viết Nghê.-Tĩnh". Hà Nội, 1962, tr. 11, 92-93). Ðó là kiểu ngụy biện, nói lấy được muôn thuở của những người cộng sản. Thử hỏi: thế thì vì sao sau này chính quyền do ÐCS lập ra cũng có "sự hoạt động và những chức năng" đúng như vậy lại không gọi là xô-viết?

Trong việc này có thể có hai khả năng. Hoặc là hồi đó, thấy QTCS đang đề ra nhiệm vụ trước mắt cho các ÐCS là "xô-viết hóa các nước", nên Nguyễn Ái Quốc báo cáo như thế để làm đẹp lòng cấp trên. Hoặc là cán bộ QTCS gợi ý cho Nguyễn Ái Quốc báo cáo như thế để cổ động các nước khác theo gương lập ra các xô-viết. Khả năng đầu nhiều hơn, nhưng dù khả năng nào đi nữa thì đó cũng là sự lừa dối lịch sử.
Trong cuộc nổi dậy của nông dân Nghê.-Tĩnh, lần đầu tiên trong lịch sử, những người cộng sản Việt Nam ở vùng này đã hé ra cho mọi người thấy rõ bộ mặt thật của "chuyên chính vô sản" qua những chính sách và hành động ác liệt của họ, như "Trí, Phú, Ðịa, Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ"... Ðối tượng hàng đầu bị "đánh" là trí thức, mà trí thức ở làng xã Nghệ Tĩnh hồi đó là những ai thì độc giả có thể hình dung được, thiết tưởng không cần phải kể rạ
Nói cho công bằng, khởi đầu chỉ có vài cuộc đấu tranh tự phát, sau đó một vài người trong Kỳ bộ Trung Kỳ, chứ không phải cả Kỳ bộ, mới chủ trương phát động cuộc nổi dậy phiêu lưu này. Thường vụ Trung ương ÐCSVN ở trong nước do Trần Phú làm tổng bí thư thì hoàn toàn không hay biết gì hết về chủ trương này. Thường vụ Trung ương bị đặt trước "việc đã rồi", rất bị động, đã phê phán mạnh mẽ tính chất manh động, tả khuynh của phong trào Nghê.-Tĩnh và rất bực mình vì sự báo cáo vội vã của Nguyễn Ái Quốc với QTCS. 
Ðây là một trong nhiều việc khác thúc đẩy Trung ương ÐCS ở trong nước, một thời gian sau đó, đã gửi thư lên BCH QTCS nói lên sự bất bình của mình đối với Nguyễn Ái Quốc. Người viết bài này đã được đọc nguyên văn bức thư đó tại kho lưu trữ của QTCS (nay là RSKHIDNI). Ðây là nội dung một đoạn: ... "Liên la.c. 
Xin các đồng chí hãy viết trực tiếp cho chúng tôi, vì rằng khi Quốc (tức là Nguyễn Ái Quốc - NMC) truyền đạt thì anh ta nói quá vắn tắt và đôi khi anh ta đưa ý kiến riêng của cá nhân vào mà không xin ý kiến các đồng chí, và cũng không báo cho các đồng chí biết, dù anh ta chỉ là liên lạc viên thôi. Chúng tôi cũng viết trực tiếp cho các đồng chí. Vì sao Quốc lại cứ liên lạc với TƯ và Bắc Kỳ bộ, ở đâu anh ta cũng ra mệnh lệnh, ở đâu anh ta cũng đòi báo cáo. Tình trạng như thế làm cho chúng tôi cực kỳ khó khăn (trong nguyên văn là "khó khăn khủng khiếp" - NMC). 
Thậm chí các đồng chí ở các Kỳ bộ hỏi chúng tôi: "Ai lãnh đạo chúng tôi, TƯ hay là Quốc?" Chúng tôi hy vọng rằng từ nay về sau, về các vấn đề có liên quan đến đảng chúng tôi, các đồng chí sẽ liên lạc trực tiếp với TƯ và các đồng chí sẽ giải thích cho Quốc rằng tình trạng đã xảy ra vừa qua là không bình thường. Nếu Kỳ bộ phải làm báo cáo cho khắp nơi và nhận mệnh lệnh và chỉ thị từ khắp nơi, thì như vậy chúng tôi sẽ rất khó khăn trong việc cung cấp tình hình chính xác cho các đồng chí và điều đó đặc biệt gây ra nhiều khó khăn cho sự lãnh đạo của TƯ đối với toàn thể bộ máy của mình.
 Chúng tôi yêu cầu các đồng chí giải thích ngay cho Quốc trách nhiệm của anh ta là ở việc gì, và đòi anh ta phải chuyển giao cho các đồng chí tất cả những gì anh ta nhận từ chúng tôi (báo, truyền đơn, thông tri, v.v...). Từ nay trở đi, chúng tôi sẽ gửi trực tiếp đến các đồng chí những báo cáo và thư từ bằng tiếng Pháp, còn Quốc thì chỉ có nhiệm vụ chuyển lại các đồng chí mà không cần phải giữ lại ở chỗ anh ta và tự mình nghiên cứu"... 
Ðể bạn đọc thấy rõ vấn đề, người viết cố ý trích dịch từ nguyên bản đoạn có liên quan đến Nguyễn Ái Quốc trong thư của TƯ ÐCS Ðông Dương đề ngày 2.7.1931, viết bằng tiếng Nga và tiếng Pháp, có ghi chữ Tối mật, hiện lưu giữ tại RSKHIDNI ở Kho 495, Bảng kê 154, Hồ sơ 463, toàn văn bức thư ở trang 147-156, riêng đoạn đã dẫn trên đây do chúng tôi dịch ở trang 156. Có thể tin chắc rằng hồi đó, Trung ương ÐCSVN ở trong nước đã nắm được "tính cách" Nguyễn Ái Quốc cũng như "động cơ" của việc ông Nguyễn vội vã báo cáo với QTCS về các "xô- viết" tưởng tươ.ng.

7. Với thực chất đảng-hội kín của những kẻ âm mưu, ÐCSVN đặt ra một thứ kỷ luật sắt vô cùng nghiêm ngặt theo đúng tinh thần của Stalin. Nhiều người mới vào ÐCS thường không hiểu được vì sao lại gọi là "kỷ luật sắt"? Hồi năm1929, đại hội Việt Nam cách mạng thanh niên đồng chí hội (sau này xin viết tắt là Ðồng chí hội), tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam tự đặt cho mình nhiệm vụ "chỉ huy cách mạng Việt Nam... lập vô sản chuyên chính, làm cho cách mạng thế giới chóng thành", đã quy định hình thức "kỷ luật sắt" xử tử đối với các đảng viên phạm một trong những tội như: theo địch, làm hại đến an toàn của đồng chí, cố ý làm sai chỉ thị, mưu phá hoại hội, cố ý làm lộ bí mật (xem: "Lịch sử cận đại Việt Nam".
 Hà Nội 1963, t.4, tr.204). Ðiều đó chắc ít đảng viên cộng sản ngày nay được biết, cũng như không mấy ai được biết về những vụ xử án tử hình của tổ chức cộng sản đầu tiên ấy ở Việt Nam. Chẳng hạn, "vụ giết người ở đường Barbier, Sài Gòn" (nay là đường Lý Trần Quán, thuộc phường Tân Ðịnh, quận 1) hồi năm 1929 mà nạn nhân là một người lãnh đạo Kỳ bộ Nam Kỳ của Ðồng chí hội bí danh là Lang đã bị Kỳ bộ xử bí mật tuyên án tử hình vì tội "đã cưỡng ép nữ đồng chí Trần Thị Nhất bí danh là Lê Oanh 18 tuổi". 
Các tội phạm trong vụ giết người này là Tôn Ðức Thắng, Phạm Văn Ðồng, Nguyễn Kim Cương, Nguyễn Duy Trinh, v.v... đã bị Tòa án đại hình Sài Gòn kết án nặng ngày18.7.1930 (tài liệu sưu tầm của nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến). Hồi tháng 4.1994, người viết cũng đã được đọc về vụ án này trên một tài liệu gửi đến QTCS nhan đề "Từ bản cáo trạng của Tổng công tố Sài Gòn chống những bị cáo của vụ án ở đường Barbier" tại RSKHIDNI ở Kho 495, Bảng kê 154, 
Hồ sơ 564, trang 62-72, trong đó có đưa ra một chi tiết đáng nói ở đây: người bị giết tên là Tan Ðức Toang (vì phiên âm từ tiếng Nga nên chúng tôi không rõ họ Trần hay Tân và tên Toáng hay gì khác), người này đã đánh Tôn Ðức Thắng, nên bị đuổi ra khỏi đảng, sau đó anh ta lập ra tổ chức biệt phái Nam Kỳ Công hội (nếu dịch theo sát tiếng Nga là Liên hiệp nghiệp đoàn Nam Kỳ). Ðó là lý do bị giết. 
Cũng trên tài liệu này có ghi dòng chữ khó hiểu này: "có chú thích của M (?) - chúng tôi cho rằng cải chính điều bịa đặt của ông công tố về việc phân liệt là thừa". Dù nhìn dưới khía cạnh nào thì vụ án giết người này cũng đã xảy ra thật và những người phạm tội cũng là những con người có thật.

Nói cho công bằng thì QTCS đã gửi thư phê phán hình thức kỷ luật tử hình (thành văn) ấy trong điều lệ của Ðồng chí hô.i. Phê phán thì phê phán, nhưng thật ra, ngay trong ÐCS bolshevik Nga/Liên Xô thậm chí khi đã nắm quyền rồi mà hình thức kỷ luật tử hình (bất thành văn) ấy vẫn còn được áp dụng: hàng nhiều thập niên dưới thời Stalin, hàng triệu cán bộ, đảng viên đã bị hành quyết chỉ vì cái "tội" bất đồng chính kiến hoặc phê bình "lãnh tụ" hoặc chẳng có tội gì cả! Thế thì sự phê phán đó của QTCS còn có nghĩa lý gì? Chính vì thế, ở Việt Nam, trong thời kỳ ÐCS còn hoạt động bí mật đã có nhiều đảng viên chỉ vì bị lãnh đạo nghi ngờ mà bị đảng thủ tiêu.
Còn trong thời kỳ ÐCS đã nắm chính quyền thì những đảng viên bất đồng chính kiến với lãnh đạo đều bị lãnh đạo "chấm dứt sinh mệnh chính trị", còn vợ con, anh em, bà con, bè bạn đều bị vạ lây. Ðó là chưa nói đến sự bắt bớ, giam cầm, tra tấn, hành hạ, quản chế, tù tội, có người chết trong tù ngục, có người chết khi bị tù tại gia. Ngoại trừ đảng phát xít và ÐCS, không một chính đảng nào với tư cách là một tổ chức xã hội trong thế giới văn minh này mà có một thứ "kỷ luật sắt" như thế. Kỷ luật sắt đó là một lưỡi gươm Damocles lơ lửng treo trên đầu mọi người bắt họ phải tuyệt đối phục tùng kẻ thống tri..

8. Là một "hội kín của những kẻ âm mưu" hoạt động trong điều kiện cực kỳ khó khăn dưới chế độ thực dân, cố nhiên, ÐCS phải coi trọng nguyên tắc bí mật để bảo vệ mình và thực hiện được ý đồ cướp chính quyền. Ðó là điều đương nhiên. Thế nhưng, khi đảng đã cướp được chính quyền rồi, nguyên tắc bí mật chẳng những không giảm bớt mà lại càng tăng cường thêm, phạm vi giữ bí mật càng rộng thêm, đối tượng giữ bí mật càng nhiều lên, các đề tài giữ bí mật được liệt kê ngày một dài ra.
 Ngay trong ÐCS, một chế độ giữ bí mật được "quy chế hóa" rất chặt chẽ, cực kỳ tinh vi đến nỗi chẳng những dân chúng mà cả cán bộ đảng viên cũng bị tước mất quyền được thông tin khách quan và chính xác. Có thể nói, nguyên tắc giữ bí mật trong ÐCS được thực hiện theo "chế độ khoanh vòng". Vấn đề này chỉ có vài người trong BCT được biết (vòng 1), vấn đề kia chỉ BCT được biết (vòng 2), vấn đề nọ không phổ biến ra ngoài TƯ (vòng 3). 
Vấn đề nào chỉ phổ biến đến bí thư tỉnh và thành phố (vòng 4) thì các ban thường vụ tỉnh và thành phố không được biết (vòng 5), vấn đề nào chỉ phổ biến đến thường vụ tỉnh ủy, thành ủy thì các tỉnh ủy viên, thành ủy viên không được biết (vòng 6), v.v... cứ thế đi xuống tận cơ sở.
 Khi đến đảng viên và người dân thì sự thật bị bóp méo đến chục lần rồi và trở thành điều dối trá trắng trợn! Mà thật ra những điều gọi là "bí mật" có phải là bí mật gì ghê gớm cho cam, lắm lúc đó chỉ là những thông tin mà ở các nước dân chủ đăng đầy trên các báo, ai cũng có thể đọc được! Giữ bí mật để độc quyền thông tin, độc quyền bưng bít và xuyên tạc sự thật là một trong những nền tảng của chế độ độc tài toàn trị. Và đó cũng là một đặc quyền của các đẳng cấp thống trị!

9. ÐCSVN theo nguyên tắc tập trung dân chủ, điều đó có nghĩa là: tập trung là căn bản, còn dân chủ chỉ là hình thức. Nguyên tắc này bảo đảm sự tồn tại mãi mãi của một kẻ độc tài hay một nhóm độc tài toàn quyền thao túng công việc đảng và nhà nước, độc tôn thống trị toàn xã hô.i. Cứ nhìn lề lối sinh hoạt nội bộ ÐCSVN cũng đủ thấy được điều đó. Chẳng hạn, nói về đại hội toàn đảng và đại hội các cấp. Vấn đề không chỉ là phải họp đều kỳ (thực ra trước đây TƯ thường lấy nê hoàn cảnh khó khăn để kéo dài khoảng cách giữa các đại hội), mà còn - quan trọng hơn - cách tổ chức thế nào để bảo đảm được chế độ dân chủ trong đảng.
 Khốn thay, điều quan tâm nhất của tập đoàn thống trị lại không phải là bảo đảm được chế độ dân chủ trong đảng, mà là bảo đảm địa vị thống trị lâu dài, mãi mãi của họ trong đảng-nhà nước. Thông thường khi chuẩn bị đại hội toàn quốc, BCT TƯ đưa ra một đề cương về đường lối, chủ trương, hay kế hoạch kinh tế xã hội (thường dưới dạng dự thảo báo cáo của TƯ) cho đại hội các cấp dưới thảo luận và bầu đại biểu dự đại hô.i. 
Ðề cương này được coi là chân lý, nghĩa là đại hội các cấp chỉ có thể thảo luận theo sự hướng dẫn của cấp trên để "quán triệt", "thấm nhuần", hoặc "thêm râu ria, mắm muối", chứ không thể phản bác, không thể có ý kiến khác biệt hoặc trái ngược, càng không thể đưa ra đề cương khác để cùng thảo luận, tranh luận cho ra lẽ. Những đại biểu nào ở cấp dưới tỏ ra "thông suốt", "nhất trí cao" với đề cương của TƯ thì mới được cử đi dự đại hội cấp trên. Theo lệnh của BCT TƯ, ban tổ chức TƯ phải có nhiệm vụ hướng dẫn các cấp dưới bầu đại biểu đi dự đại hội toàn quốc "đúng yêu cầu của TƯ". 
Làm như vậy, thì chắc chắn bảo đảm trăm phần trăm đường lối cũng như thành phần nhân sự ban lãnh đạo mới mà tập đoàn thống trị muốn sẽ được thông qua. Thậm chí, để chắc chắn đạt được yêu cầu của cấp trên, có khi tại đại hội đảng người ta còn tổ chức bầu cử thử ban chấp hành, nếu không đúng ý lãnh đạo thì lại tiếp tục "đả thông"! Ðấy, bằng cái gọi là "tập trung dân chủ" và "dân chủ có lãnh đạo" như thế, tập đoàn thống trị duy trì lâu dài quyền lực của mình trong đảng, trong nhà nước và xã hộị


Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế . (9)

( Nguyễn Minh Cần )


10. Do những nguyên tắc sinh hoạt như trên, trong ÐCS và trong xã hội "xã hội chủ nghĩa", hình thành rõ rệt một chế độ đẳng cấp có tính chất phong kiến, chủ yếu dựa trên mức độ được cấp trên tin cậy và do đó được hưởng thụ vật chất với mức độ khác nhau trong hàng ngũ cán bộ.
 Người ta gọi đó là "chế độ đãi ngộ cán bộ", nhưng thật ra đó là một chế độ đặc quyền đặc lợi với những quy định cực kỳ phức tạp và phong kiến. Thậm chí khi đã chết rồi, những cán bộ cộng sản cũng "được" phân biệt đối xử theo chế độ đặc quyền đặc lợi đó: từ việc cáo phó được đăng báo hay không, vị trí trên tờ báo - trang nhất hay trang cuối, kèm ảnh hay không kèm ảnh, khổ ảnh to nhỏ, rộng hẹp, cho đến việc chôn cất như thế nào, lễ nghi ra sao, ai được chôn ở đâu, rộng hẹp mấy thước, v.v... Ðấy, người cộng sản vô thần, "chí công vô tư" coi trọng cái chết của họ như thế đấy. Còn những thứ khác liên quan đến sự sống vật chất thì khỏi phải nói! 
Tất cả mọi thứ, từ cái ăn, cái mặc, cái ở, việc chữa bệnh, an dưỡng, nghỉ ngơi, thậm chí đến việc học hành của con cái đều phân biệt đối xử chi li theo đẳng cấp, tôn ti trật tự. Ngày nay, giai cấp cầm quyền cộng sản vẫn tiếp tục duy trì chế độ đẳng cấp để dựa vào các tổ chức chính quyền, các công ty quốc doanh ăn của đút, ức hiếp dân thường, mánh mung làm ăn bất hợp pháp, che đậy cho thân thuộc đứng đầu các công ty gọi là "tư nhân" vơ vét tài sản nhà nước, làm giàu bất chính.
 Chính vì thế, từ lâu rồi trong ÐCSVN đã hình thành một lớp "nịnh thần" - lớp người do khéo bợ đỡ, xu nịnh, a dua cấp trên mà được đề bạt làm cán bộ lãnh đạo, có đủ mọi đặc quyền đặc lợi, mà trước tiên là "đặc lợi" tham nhũng. Lớp "nịnh thần" này là nòng cốt của giai cấp mới thống trị trong xã hội "xã hội chủ nghĩa" Việt Nam, là chỗ dựa của ÐCSVN.
Ngày nay, trong văn chương bình dân dưới thời "xã hội chủ nghĩa" vẫn còn truyền tụng câu ca dao châm biếm cái chế độ phân phối thực phẩm theo đẳng cấp phong kiến đó của "đảng ta"ù:
Tôn Ðản (cửa hàng ở phố Tôn Ðản bán hàng tốt và rẻ cho cán bộ cao cấp) là chợ vua quan,
Nhà Thờ (cửa hàng ở phố Nhà Thờ bán cho cán bộ trung cấp) là chợ trung gian nịnh thần,

Ðồng Xuân (còn nói là Bắc Qua) là chợ thương nhân,

Vỉa hè là chợ nhân dân anh hùng.


11. ÐCSVN ngoài miệng thường tuyên bố là họ đấu tranh cho một xã hội không có giai cấp, đấu tranh cho công bằng xã hội, v.v... nhưng khi đã cầm quyền rồi thì chính họ lại đẻ ra một giai cấp xã hội mới - giai cấp quan liêu nomenklatura, và ngay trong giai cấp đó lại chia ra nhiều đẳng cấp rõ rệt, tạo nên sự bất bình đẳng xã hội trầm trọng nhất. Vì thế đầu óc đẳng cấp "xôi thịt", nạn "mua quan bán chức" nặng nề làm cho số ít người có nhân cách trong đảng thấy xấu hổ, nhưng một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên thì như đàn ruồi lao vào "đĩa mật" đặc quyền đặc lợi, đua nhau còng lưng cúi gối, luồn lọt nịnh bợ cấp trên, cốt để leo lên địa vị cao hơn. 
Lên địa vị cao hơn thì lại muốn cao hơn nữa và quay lại đè nén cấp dưới, hoạnh họe làm tiền để bù vào "chi phí sản xuất" khi phải đút lót cấp trên. Ngày nay, nhiều người vào ÐCS là để kiếm lợi, để vươn lên giai cấp cầm quyền, chứ không phải để đấu tranh cho xã hội công bằng tốt đe.p. Vì thế ở nông thôn Việt Nam nghèo khổ, tối tăm, người nông dân vẫn bị đám "cường hào mới", chủ yếu là cán bộ của đảng, đè nén, áp bức, bóc lột không khác gì dưới thời Pháp thuộc, có khi còn nặng nề hơn vì bộ máy cai trị ở nông thôn ngày nay đông hơn thời Pháp gấp bội (theo thống kê của Trần Văn Giàu, số cán bộ nhân viên nhà nước chỉ trong một tỉnh Thanh Hóa đã đông hơn số công chức toàn Ðông Dương dưới thời Pháp). Còn ở thành thị thì nạn tham nhũng tràn lan, các "quan cán bộ" tha hồ nhận "phong bì" hầu như bán công khai.
 Thậm chí tổng bí thư ÐCS cũng nhận "phong bao" của công ty nước ngoài hàng triệu đô la, những ủy viên BCT TƯ hay ủy viên TƯ, thủ tướng, phó thủ tướng, thống đốc Ngân hàng nhà nước đút túi riêng bạc triệu bị cán bộ đảng viên trung thực tố cáo, khiếu nại bao lần thì vẫn nguyên vị (mới đây một phó thủ tướng và một thống đốc Ngân hàng bị "xử lý nội bộ" theo kiểu "giơ cao đánh khẽ"!), còn những cán bộ đảng viên thật lòng muốn giúp lãnh đạo làm trong sạch bộ máy đảng- nhà nước thì lại bị đàn áp, sách nhiễu, hành hạ "đến sống dở chết dở" (xem: thư của cựu chiến binh Trần Dũng Tiến gửi tổng bí thư Lê Khả Phiêu tố cáo tình cảnh 11 cụ đảng viên bị đàn áp vì đã dám vạch trần tội tham nhũng của các cán bộ cao cấp). Cái gọi là tính chất "tiên phong" của ÐCSVN ngày nay quả thật là sự mỉa mai chua chát.

12. Chính do sự sa đọa đạo đức của cán bộ đảng viên, sự biến chất khủng khiếp của ÐCSVN như vậy, nên hiện nay trong ÐCSVN tình trạng chia bè, lập khối rất trầm trọng và phổ biến dựa trên "nguyên tắc" giành và giữ lợi ích kinh tế và địa vị trong đảng-nhà nước. Các cấp càng cao thì sự đấu đá nhau càng dữ dội và thâm độc để giành và giữ quyền lư.c. Còn ở nông thôn tình trạng năm bè bảy bối thật trầm trọng, các chi bộ đảng ở nhiều nơi dựa theo "nguyên tắc" tộc phái, họ hàng (clan), họ nọ chống họ kia. Cái gọi là "tình đồng chí", "tình giai cấp" chỉ là sự mỉa mai! Tình trạng chia rẽ, bè phái này cũng như nạn tham nhũng là những chứng bệnh nan trị kinh niên của ÐCS kể từ năm 1945, khi đảng bắt đầu cầm quyền. Các "vị" lãnh đạo đảng đều hô hào chống những tệ nạn đó nhưng nào có ăn thua gì vì chính bản thân họ cũng ngập ngụa trong những tệ nạn đó, cho nên mọi cuộc "chỉnh đảng" xưa nay đều chỉ là hình thức.
13. Từ khi ÐCSVN ra đời, ở Việt Nam đã diễn ra cuộc đấu tranh ác liệt, không ngừng giữa chủ nghĩa quốc tế (internationalisme) và chủ nghĩa quốc gia (nationalisme). ÐCSVN theo chủ nghĩa quốc tế vô sản, đặt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trong phạm trù cách mạng vô sản thế giới, nhằm mục tiêu giành chuyên chính cho giai cấp vô sản quốc tế để xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên thế giới. Như thế có nghĩa là ÐCS đặt cách mạng Việt Nam phụ thuộc trực tiếp vào QTCS, chịu sự chi phối của tập đoàn thống trị ÐCSLX
 Còn chủ nghĩa quốc gia (sau này, những người cộng sản Việt Nam thường dùng từ "chủ nghĩa dân tộc" để dịch chữ nationalisme) thì hướng tới việc giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ nước ngoài và xây dựng đất nước độc lập, hùng cường mà không muốn gắn số phận đất nước và dân tộc vào chủ nghĩa cộng sản, nên tích cực chống lại chủ nghĩa quốc tế. Cố nhiên, chủ nghĩa quốc gia gắn nền kinh tế đất nước vào hệ thống kinh tế tư bản thế giới. 
Vì thế ÐCSVN coi chủ nghĩa quốc gia là khuynh hướng chính trị của giai cấp tư sản, là khuynh hướng đối lập, thù địch với mình nên luôn luôn chống chủ nghĩa quốc gia và những người theo chủ nghĩa quốc gia một cách vô cùng ác liê.t. Ðã thế mà vẫn còn bị QTCS nghiêm khắc phê bình. Sau đây, chúng tôi xin trích dẫn một đoạn trong Thư của QTCS gửi ÐCS Ðông Dương hồi năm 1931: "Có nhiều chứng cớ chỉ rằng đảng không hiểu rõ cái nguy hiểm của chủ nghĩa quốc gia cải lương, đảng không kịch liệt tranh đấu, không giải thích rõ cho quần chúng hiểu rõ tính chất phản dân, phản quần chúng của bọn quốc gia cải lương. Dù cái vai tuồng của chúng không lấy gì làm lớn... ... 
Ảnh hưởng của tư tưởng quốc gia cải lương vẫn có ở trong đảng...". (RSKHIDNI ở Kho 495, Bảng kê 154, Hồ sơ 567, trang 8-9, bản tiếng Việt, nên chúng tôi chép lại nguyên văn). Sau khi cướp được chính quyền, việc đầu tiên những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam quan tâm là tiêu diệt các lãnh tụ và các đảng quốc gia để thực hiện nền chuyên chính độc tôn của họ.
 Suy cho cùng, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa quốc gia về thực chất chỉ là cuộc đấu tranh quyền lực mà thôi. Chính vì thế, ngay với những người quốc tế, như Ðệ tứ quốc tế, thì vì đấu tranh quyền lực, những người cộng sản quốc tế cũng sẵn sàng vu khống họ là "gián điệp", "tay sai đế quốc, phát xít"... để thẳng tay tiêu diệt ho..


14. ÐCSVN là một phân bộ của QTCS, phải thực hiện những nghĩa vụ đối với QTCS, mà các lãnh tụ QTCS, thật ra là tay chân của tập đoàn thống trị ÐCSLX, thì chỉ quan tâm đến ý đồ "quốc tế" của họ. Ðó là sự thâ.t. Tuy nhiên, cũng có một sự thật khác là: nghe nói QTCS quan tâm đến việc giải phóng các nước thuộc địa, nghe nói ÐCSVN đấu tranh giành độc lập dân tộc thì nhiều người Việt Nam, nhất là thanh niên trí thức vừa có lòng yêu nước vừa có khát vọng dân chủ, đã hồ hởi đi theo ÐCS với lòng mong ước đất nước được độc lập, dân tộc được tự do, chứ lúc đầu họ không biết rõ về chủ nghĩa cộng sản, về chủ nghĩa quốc tế, về chuyên chính vô sản (cũng có khi ÐCS giấu không nói những điều đó với họ từ đầu). 
Nhưng khi đã vào ÐCS rồi, cũng như "cá đã vào lờ", với sự giáo dục, với kỷ luật sắt và mọi cơ chế kìm chế khác của đảng, dù muốn dù không, cuối cùng họ cũng phải chấp nhận những thứ đó. Càng về sau, khi chế độ cực quyền đã thiết lập rồi thì một số đảng viên có tinh thần dân tộc và ý thức dân chủ càng nhận thấy ban lãnh đạo ÐCS thực tế đã trở thành những kẻ thống trị dân tộc, phản bội những lời hứa hẹn tốt đẹp về dân chủ tự do, về công bằng xã hội, thì họ lên tiếng phản đối. Ðó chính là nguồn gốc của trào lưu bất đồng chính kiến (dissidence) trong đảng.


15. Có điều đáng nói là lúc mới đầu, trong thập niên 30, ÐCSVN lệ thuộc rất chặt vào QTCS, những người lãnh đạo đảng luôn luôn cố tỏ ra đắc lực với QTCS, họ thi hành triệt để mọi mệnh lệnh của QTCS, nên cái tệ giáo điều cứng nhắc trong lãnh đạo của đảng rất nặng nề. Từ đầu và giữa thập niên 40, do bị đứt liên lạc với QTCS, lại gặp rất nhiều khó khăn, nên thời kỳ này ÐCSVN phải gượng nhẹ với các tầng lớp trong dân tộc, hoạt động ít nhiều có tính tự lập hơn, dù về căn bản vẫn tuân theo đường lối chung của QTCS. 
Trong những năm này, ÐCSVN có quan tâm hơn đến những vấn đề của dân tộc, nhờ đó đã tập hợp được đại đa số dân chúng làm cách mạng giải phóng đất nước và tổ chức cuộc kháng chiến chống Pháp. Chính trong thời gian này, đường lối phân biệt giai cấp của đảng chưa được nhấn mạnh, khối đoàn kết dân tộc tuy đã bị sứt mẻ do việc thanh trừng các đảng phái đối lập, nhưng còn chưa quá trầm trọng, dân chúng còn tập hợp quanh tổ chức Việt Minh (ÐCS đã nấp dưới chiêu bài này để che giấu thực chất cộng sản của mình). Trong ký ức nhiều người theo ÐCS trong cách mạng và kháng chiến còn ghi lại nhiều kỷ niệm tốt của thời gian này. Nhưng từ cuối thập niên 40đdầu thập niên 50, sau khi ÐCSTQ chiếm được toàn bộ Hoa lục, ÐCSVN nối lại liên lạc đã với ÐCSTQ và ÐCSLX và lại tiếp tục bị lệ thuộc về mọi mặt vào hai đảng "đàn anh" thì tình hình lại đổi khác, không khí hồ hởi biến mất, nhường chỗ cho sự sợ hãi và thù hâ.n. 
Do tinh thần phục tùng nô lệ các thần tượng Stalin và Mao Trạch Ðông, do đầu óc giáo điều, rập khuôn máy móc các mô hình của Liên Xô và Trung Quốc, trong thời gian này ÐCSVN đã kỳ thị các giai cấp không vô sản, siết chặt "chuyên chính vô sản" (bắt chước Trung Quốc gọi là chuyên chính dân chủ nhân dân) và đã phạm nhiều bạo hành nghiêm trọng gây ra biết bao tai họa cho dân tộc - đặc biệt là trong cuộc "cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức", "hợp tác hóa nông nghiệp", "cải tạo tư sản", "cải tạo công thương nghiệp tư doanh", "vụ án Nhân Văn - Giai Phẩm", "vụ án Xét lại - chống Ðảng", v.v... 
Trong thời gian này, ÐCSVN hăm hở "làm nhiệm vụ quốc tế", tích cực "đấu tranh giai cấp", hăng hái "tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội" để biến "Việt Nam là tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa ở Ðông Nam Á", v.v... nên dân tộc ta đã phải trả giá cao nhất bằng xương máu, mồ hôi, nước mắt và tự do của mình.
16. Càng về sau, nhất là từ khi hệ thống xã hội chủ nghĩa và PTCSQT bị sụp đổ, ÐCSVN đã biến chất rõ rệt, không còn thực chất "cộng sản" nữa. Ðối với tập đoàn thống trị, những cái gọi là chủ nghĩa Marx-Lenin, chủ nghĩa quốc tế vô sản, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội, v.v... ngày nay không còn là niềm tin hay lý tưởng như xưa, mà chỉ là những chiêu bài để che đậy âm mưu giữ vững quyền lực cũng như quyền lợi của họ và của giai cấp quan liêu cầm quyền đất nước, là giai cấp thực tế đang thống trị và bóc lột dân tộc Việt Nam.
Ngày nay, ÐCSVN trên thực tế đã chia ra thành hai "đảng vô sản" đối lập nhau rõ rệt - một "đảng vô sản thống trị" và một "đảng vô sản bị trị", nói cụ thể hơn là một "đảng vô sản" nắm quyền với những đảng viên "vô sản" giàu có, nhà lầu, xe hơi, biệt thự, sống xa hoa phè phỡn, chủ nhân những công ty "quốc doanh" trá hình, thậm chí một số là chủ nhân những tài khoản hàng triệu, hàng chục triệu đô la ở các nhà băng ngoại quốc, chuyên ngồi trên các "ghế " cao để ra lệnh cho toàn đảng, và một "đảng vô sản" của những đảng viên thường, những cựu chiến binh, những người nghỉ hưu nghèo khổ, thật sự vừa "vô sản" lại vô quyền,ăn bữa nay lo bữa mai và chỉ biết cắmđầu cắm cổ chấp hành mệnh lệnh của cấp trên. Giữa hai "đảng vô sản" đó hầu như không có cái gì chung, ngoài những khẩu hiệu "vô sản" rỗng tuếch: muôn năm chủ nghĩa Marx-Lenin, muôn năm tư tưởng Hồ Chí Minh, muôn năm chủ nghĩa xã hội...
                                                

No comments:

Post a Comment