Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Sunday, 27 November 2016

NHỮNG CON ĐƯỜNG NGOẠN MỤC -CHUYỆN HÀ NỘI - CÁC CHÙA Ở MIỀN NAM

NHỮNG CON ĐƯỜNG NGOẠN MỤC

 NHỮNG CON ĐƯỜNG NGOẠN MỤC
 
10. Đại lộ xuyên biển – Florida, Mỹ
 
Con đường này nối các hòn đảo nhỏ ở vịnh Florida bằng 42 nhịp cầu lớn. Nó được xây dựng vào năm 1938, dọc theo một tuyến đường sắt cũ đã bị phá hủy bởi trận cuồng phong.
 



Trong suốt 4 giờ lái xe, bạn sẽ có cơ hội tận hưởng ánh nắng và hương vị của biển.

Trong thời gian nghỉ lễ, giao thông ở đây có chút chậm hơn nhưng chắc rằng mọi du khách đều muốn dành thêm thời gian nán lại trên con đường này.
 
9. Đường Iroha-zaka – Nhật Bản
 
Iroha-zaka là một cung đường quanh co nối trung tâm Nikko và Oku-Nikko. Con đường gốm 48 đường lượn, mỗi góc đường có một bảng chữ cái cổ Nhật Bản. Những từ bắt đầu bảng chữ cái I-ro-ha đã trở thành tên cho cung đường này.
 


 
Con đường này là sự kết hợp của hai làn đường, một đi xuống và một đi lên, cả hai đều có 48 đường lượn, phù hợp với 48 chữ cái trong cổ tự Nhật Bản.
 
8. Đường Đại Tây Dương – Na Uy
 
Con đường 5 dặm nối hai vùng Molde và Kristiansund này được bình chọn là công trình thế kỷ của Na Uy.
 



Địa hình không bằng phẳng, đôi chỗ thô ráp của con đường chính là điều đặc biệt, bởi nó tương ứng với sự dâng cao và rút xuống của thủy triều. Cảnh quan hai bên đường có thể kích thích bất kỳ lái xe ưa mạo hiểm nào.
 
7. Đèo Oberalp – Thụy Sĩ
 
Con đèo nối trung tâm Thụy Sĩ và vùng Graubunden Oberland là một cung đường quen thuộc với nhiều lái xe Châu Âu.
 



Tuy nhiên, cái lái xe chỉ có thể đến đây vào mùa hè. Khi mùa đông đến, con đèo được chặn phương tiện giao thông để dành làm tuyến đường bộ hoặc dốc trượt tuyết cho khách du lịch.
 
6. Đường Trollstigen – Na Uy
 
Một trong những địa điểm đáng lưu ý nhất của vùng Fjord ở Na Uy chính là con đường quanh co Trollstigen. Với thác nước Stigfossen cao 320m ngày đêm tung bọt trắng xóa, quanh cảnh hai bên đường hết sức hùng vĩ và ngoạn mục.
 



Đây là một con đường tương đối khó đi bởi kích thước hẹp và độ dốc 9%. Bù lại, khi vượt qua Trollstigen, bạn sẽ được “trả công” bằng quang cảnh hùng vĩ khi nhìn từ trên cao.
 
5. Đường hầm Guoliang – Trung Quốc
 
Đường hầm này được xây dựng chỉ trong vòng 5 năm, tại dãy núi Taihang, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Trong quá trình thi công, nhiều người đã thiệt mạng.
 



Vào năm 1977, đường hầm chính thức được mở cửa để lưu thông. Đường hầm được đục từ dãy núi dài 1.200 mét, cao 5 mét, rộng 4 mét. Nơi đây được mệnh danh là “con đường không chấp nhận bất cứ sai lầm nào”.
 
4. Đường núi Jebel Hafeet – Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất
 
Đây là con đường trải dài 7,3km với 60 ngọn núi cao 1.219m. Quang cảnh hai bên đường rất đẹp với sa mạc hùng vĩ bên dưới Tập hợp các khúc cua và đường thẳng được kết hợp với nhau một cách hoàn hảo.
 


 
3. Đèo Stelvio – Italy
 
Tọa lạc trên rặng núi phía Đông nước Ý, đèo Stelvio nối vùng Valtellina và thung lũng Adige, có độ cao 1,7 dặm (khoảng 2.757m) trên mực nước biển. Đây là tuyến đường núi lớn thứ hai được xây dựng trên dãy Alps.
 



Tuyến đường này có 48 khúc quanh gấp, một số điểm khá hẹp và độ dốc lớn. Với những người đam mê xe hơi, đây là một con đường có độ thử thách lớn, đáng để chinh phục.
 
2. Đường Lysebotn – Na Uy
 
Với những khúc hẹp và độ dốc “khủng”, Lysebotn được xem là một trong những con đường ngoạn mục nhất Châu Âu. Những người ưa mạo hiểm sẽ hoàn toàn bị cuốn hút với 27 khúc cua và gần 1,1km đường hầm.
 



Với sự uốn lượn đặc biệt, nhiều người đã liên tưởng nó với trò tàu lượn tốc độ mạo hiểm thường thấy ở các khu vui chơi. Con đường thú vị dài hơn 30km này chắc chắn sẽ làm những người mê mạo hiểm nở nụ cười rạng rỡ.
 
1. Đường Transfagarasan – Rumani
 
The Transfăgărășan (theo tiếng Rumani) là con đường nhựa cao nhất và ấn tượng nhất của đất nước này. Được xây dựng vào khoảng năm 1970 - 1974 với danh nghĩa một tuyến đường quân sự chiến lược của cựu độc tài Nicolae Ceausescu, con đường này kết nối hai địa danh lịch sử Transylvania và Wallachia.
 



Từ con đường Transfagarasan nhìn về phía bắc, du khách sẽ bị choáng ngợp vởi nhiều phong cảnh ngoạn mục. Tọa lạc trên dãy núi Carpathian, con đường còn dẫn du khách đến hồ Balea – một hồ băng có tuổi thọ hàng ngàn năm.
 
 

VƯƠNG TRÍ NHÀN * CHUYỆN HÀ NỘI


Chuyện văn nghệ Hà Nội nghe ở Moskva 1987 (kỳ II)

18/11
Nguyên Ngọc kể:
- Buổi gặp anh em, ông Linh còn nói nhiều câu cay đắng lắm. Ví dụ bảo: "Tôi cũng là người bị nạn, tôi hiểu anh em". Sau này loại câu như thế người ta phải cắt đi.
- Nhưng mà chưa chắc làm thế đã tốt đâu. Cởi trói cho văn nghệ lúc này, mà những điều kiện khác (kinh tế, xã hội) chưa có, thì cũng không được việc gì. Bọn xấu bị đánh động nó cụm lại phản công cho mà xem. Ông Tố Hữu đã mỉa mai Trần Độ, à, các anh bây giờ được cởi trói rồi phải không!

- Nguyễn Đình Thi nói gì ở hội nghị? Thi bảo, tôi tha thiết đề nghị các anh đừng phát động quần chúng. Phát động quần chúng thì những người không có tài năng sẽ nổi lên, diệt hết người có tài.
… Cái ông Thi này căn bản rất ích kỷ. Ông ta có yêu ai bao giờ đâu. Một tay bẻ hết mấy cành phù dung. Ông ta diệt tạp chí chuyên về văn học nước ngoài rồi, lại còn sẵn sàng diệt trường Nguyễn Du nữa ấy chứ. Bây giờ chung quanh toàn những Kim Lân, Thợ Rèn thì còn được việc gì.
- Đọc báo chí Hà Nội đủ thấy chưa đâu vào đâu cả. Mà cấp trên thì đã ghét lắm rồi. Ông Nguyễn Đức Tâm rêu rao trên tờ Lao động: “Đây, báo đăng bài của tên Lê Dụng(?) một tên về hưu (trước là thứ trưởng Bộ Công An) đặt vấn đề công tác tổ chức…” Rồi cả Bộ chính trị chửi bới, chỉ trừ có ông Linh là không nói gì, sau lại đỡ hộ. Trong TW, ông Linh cô độc lắm. Hôm gặp văn nghệ sĩ, mấy anh em nhà mình cứ một giọng xin TW bảo chúng tôi, bảo chúng tôi. Thế là ông Linh đỏ mặt lên "Hãy tự cởi trói mình trước khi trời cứu". Tức nói đến Trung ương là nói đến chỗ rất đau của ông.
Với bài ông Linh, coi như Đại hội Nhà văn đã xong. Giờ chỉ còn minh hoạ. Và làm công tác tổ chức.

Nhàn: Các anh chuẩn bị đón họ phản công.
Nguyên Ngọc: Đúng. Khải nó bảo bây giờ Bộ Chính trị ông nào cũng dính với một vụ rồi, thì còn làm sao mà giẫy ra được nữa.

Tôi (VTN) hay nghĩ cái được nhất của những cuộc họp này là nói rõ rằng văn nghệ của ta rất nghèo.
Lạ thật là cái võ của các ông trên. Một mặt, các ông ấy chê bai mình cấm đoán mình. Mặt khác, ông ấy lại bảo ta có một nền văn nghệ xuất sắc. Thế thì còn biết đằng nào mà lần. Trói xong lại bảo đố mày bay lên – hồi chiến tranh, Nguyễn Minh Châu đã mấy lần nói với tôi cái câu ấy, lần nào nói xong cũng cười khà khà sung sướng.

Nguyên Ngọc kể tiếp:
- Chính ông Trần Độ là do ông Linh đưa trở lại. Vì ông Linh với ông ấy quen nhau từ hồi ở trong rừng. Bây giờ ông ấy vẫn bảo tự do về kinh tế thì có tôi(Nguyễn Văn Linh), tự do về văn hoá thì có anh (Trần Độ).
Ông Độ nghĩ ra được nhiều việc cụ thể lắm. Ví dụ, ông ta đề nghị sẽ có nghị quyết của Ban bí thư về các vụ án văn nghệ trước đây.
Ông Khải bây giờ đã trả sao, trả mũ, chuyển sang sinh hoạt ở Hội nhà văn. Ông ấy vẫn đận đà không muốn ra Hà Nội. Nguyên Ngọc bảo ông phải ra, tôi không làm hộ đâu.

Nguyên Ngọc trở về báo Văn nghệ như thế nào?
Một lần nói chuyện, Nguyễn Minh Châu có ý giá trao tờ báo cho Nguyên Ngọc thì hay nhất.
May đâu, gặp dịp Nguyễn Đình Thi và Chính Hữu lên gặp Trần Độ. Nhân Trần Độ bảo: “Các anh phải củng cố tờ báo Văn nghệ cho tốt" ông Nguyễn Đình Thi buột mồm "Hay là anh Ngọc trở lại báo.”
Ông Độ khôn lắm, không nói gì. Lúc tiễn ông Thi và Chính Hữu ra cửa, ông ấy mới bảo các anh nhớ bàn ý kiến về báo Văn nghệ, như ý anh Thi vừa nói.
Nguyễn Đình Thi biết hố rồi, về, tính lại. Triệu tập các ông trong ban thư ký có mặt ở Hà Nội. Thống nhất đồng ý để Ng Ngọc về. Rồi gọi vào cho Chế Lan Viên và Anh Đức, chờ ý kiến cuối cùng.

Về sau, họp thường vụ, Anh Đức mặt tím bầm (ai đó bảo: mặt như cô hồn), đứng lên nói:
- Tôi biết thừa bụng các anh rồi. Chính các anh cũng không muốn anh Ngọc về, nhưng các anh lại đẩy việc quyết định cho chúng tôi để đằng nào cũng được việc, mà tôi với anh Chế Lan Viên lại mang tiếng ác. Nhưng tôi với anh Chế Lan Viên bàn nhau rồi, chúng tôi đồng ý, cho các anh biết mặt.
Đấy, Anh Đức là cái loại trắng trợn đến thế kia chứ, Nguyên Ngọc nói thêm. Anh em nó vẫn bảo Anh Đức ít chất Nam bộ hơn ai hết.

Còn ông Chế Lan Viên, cũng lạ lắm. Khi tôi về báo Văn nghệ, vẫn là Nguyên Ngọc kể, tôi đã viết thư cho nhiều người, mời viết cho báo. Trong đó có Hà Xuân Trường (ông Trường trả lời nói là bận, không viết được) và có Chế Lan Viên. Nhưng bọn thằng Duy đại diện Văn Nghệ ở Sài Gòn nó không thích Chế Lan Viên, nên nó cứ kệ đấy. Ông Chế Lan Viên lên Sài Gòn tìm thư thì nhận trong thùng thư, chứ chúng nó không chuyển.

Ông Chế trả lời: “Nhận được thư Nguyên Ngọc, mình với Thường mừng lắm, giá thư thất lạc có phải sinh chuyện không".
Rồi ông ta góp ý kiến với báo nhiều điều rất cụ thể.
Hôm Nguyên Ngọc vào Sài Gòn, cùng với Nguyễn Duy, Ý Nhi đến chỗ Chế Lan Viên chơi. Chế Lan Viên cảm động ra mặt.
Chế Lan Viên bây giờ luôn luôn nói:
- Khen Trung Quốc không ai bằng tôi mà chửi Trung Quốc cũng không ai bằng.
--Tôi theo Đảng, Đảng sai tôi sai, Đảng đúng tôi đúng!
Tôi nghĩ, vẫn lời Nguyên Ngọc nói, thế thì ai cần anh nữa.
Nói chung, Nguyên Ngọc nhận xét Chế Lan Viên giỏi biến báo lắm, mà cả ông Trần Độ cũng nhận xét vậy.
Gặp Trần Độ ở Sài Gòn, Chế Lan Viên nhận ngay tôi là người giáo dở. Tôi ủng hộ Đào Vũ về báo Văn nghệ, nhưng tôi không trao quyền cho hắn làm tổng biên tập, mà chỉ làm quyền thôi, thế là giáo dở chứ gì. Tôi với Nguyên Ngọc giận nhau, nay tôi lại ủng hộ anh ấy về thay.

- Thế theo anh, Chế Lan Viên là người thế nào?
- Chính ông ta là người rất nhát, nên ông ta phải đánh mình tàn tệ thế, để một là khỏi mang tiếng liên quan, hai là chính ông ta cũng không có đằng nào mà rút nữa.
- Thế còn Nguyễn Khải?
- Nguyễn Khải lại là chuyện khác. Chuyện năm 1979, mình chả nghĩ làm gì, chứ vợ mình nó giận lắm. Một lần, Tâm nó gặp ông Khải ở đường, nó nói mát: "Anh Khải lâu không thấy sang nhà", Khải nó là người thông minh, nó biết. "Tôi là thằng phản bội, còn dám vác mặt đi đâu nữa". "Thế anh đã đọc Xốt nhi cốp chưa?". Khải chưa đọc, nhưng cũng đoán ra đấy là cuốn sách viết về thằng phản bội, nói loanh quanh rồi chuồn.

Nói chung Khải là người quá nhạy, cứ nghe cánh Nguyễn Đình Thi doạ cho mấy câu, thế là lại dao động, Nguyên Ngọc lại phải lên dây cót thêm v.v..
Tôi nghĩ, ông Khải không hết mình trong mọi chuyện, một phần vì bỏ việc tổ chức còn sáng tác, chứ Nguyên Ngọc ngoài việc ấy ra, chả có việc gì khác!

30-11
Gặp Hồ Ngọc bên sân khấu.
Hồ Ngọc kể hôm gặp ông Linh, anh em mình nói nhiều chỗ hố lắm. Ông Tô Hoài, ông Huy Cận thì lẩm cẩm rồi. Có buổi, tôi ngồi gần chỗ Trần Độ, nghe Huy Cận đến tỉa tót: “Anh Trần Độ, anh đừng quên tôi đấy nhớ". Ôi, nhà thơ Lửa thiêng gì mà khốn nạn thế !
Sau này bọn điện ảnh và các ngành nó bảo bọn văn học nó nói như bố ấy, còn chúng mình nói như trẻ con.
Có một việc là trong giờ nghỉ, ông Trần Độ có hội ý với ông Linh. Xong, ông Trần Độ nói chúng tôi vừa thống nhất là sẽ cho chiếu phim Hà Nội dưới mắt ai.
Thế là về sau ông Hải Ninh nghệ sĩ nhân dân cũng lên than thở đề nghị xét lại vụ Bãi biển đời người của ông ta. Anh em nó trêu: Bãi biển đầy ruồi.
Rồi bà Xuân Thanh lên khóc lóc nói rằng cháu không được lên lương, cháu không được đi học v.v.
Chả ra làm sao cả.
Cũng có một chuyện vui nữa. Dương Thu Hương lên phát biểu, nói khá rõ về vai trò người trí thức.
Nhưng đặc biệt nhất là đoạn cuối, Hương nó nêu có những người hôm qua vừa bị đánh thì nhăn nhó, kêu khóc, mà lúc được dùng lại thì sung sương rên lên, nói rằng mình như hạt bụi.
Hạt bụi gì, cuốn theo chiều gió à?
Kể ra, như thế là nói Nguyễn Đình Thi sát sạt rồi.
Ông Thi có khôn hồn thì im đi, vì thật ra, trong hội nghị cũng chỉ một phần ba người ta biết cái câu hạt bụi ông nói ở đại hội nhà văn lần trước. Thế cho nên, Nguyễn Khải ngồi cạnh Nguyễn Đình Thi đã phải giật giật Nguyễn Đình Thi mấy lần, ngăn ông ta lại.
Nhưng Nguyễn Đình Thi cứ lên. Nói là cấp trên đừng phát động quần chúng, rồi nói là chúng ta cũng có thành tựu của chúng ta chứ, những Con trâu, Vùng mỏ hồi nào.
Rõ là ấm đầu.
Đến đoạn cuối, Nguyễn Đình Thi lại quay về chuyện Dương Thu Hương vừa nêu. Tôi có nói trí thức là hạt bụi. Đấy là tôi muốn chống lại tôn giáo. Tôn giáo bảo con người chỉ là hạt bụi. Nhưng chúng ta là hạt bụi có tư tưởng. Anh em cười ồ cả lên, đến con người cũng chả có tư tưởng, nữa là hạt bụi.
Sau chuyện đó, uy tín của ông Thi càng giảm sút.

Còn như tôi, Hồ Ngọc, nói thế nào? Tôi chuẩn bị kỹ lắm. Tôi dẫn Lê - nin, tôi dẫn Mác đầy đủ. Khi không có tự do, thì con người ta trở nên ti tiện -- Mác nói vậy, và chỉ tôi mới lôi ra được thôi.
Tôi thấy có những anh em mình nói còn trật lắm. Anh Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng văn nghệ rất khó nắm bắt. Như thế là rơi vào bất khả tri rồi. Hoặc Lưu Quang Vũ nói rằng các ông tuyên huấn không nghe được gì cả, nói thế cũng là quá.
Tôi nghĩ phải tìm được một giải pháp vừa phải.Chuyện tôi cho là quan trọng nhất - chúng ta phải biết quý tài năng. Tôi bảo biết quý tài năng là biểu hiện của nhân dân văn hoá, đất nước văn minh. Không biết quý tài năng thì thôi, chịu. Và tôi đọc ra mấy câu thơ anh em nó sáng tác "Xưa kia đất nước rã rời-- cho nên nghệ sĩ coi trời bằng vung - Ngày nay đất nước anh hùng - cho nên nghệ sĩ coi vung bằng trời
Anh em nó bảo tôi bạo.
Nguyễn Kiên ra cười nhoẻn với tôi: "Không phải tôi coi vung bằng trời, mà cái góc vung đã bằng trời". Nói được như thế là anh em quý rồi.
Sau buổi phát biểu ở đấy, tôi thấy anh Nguyễn Khải, anh Nguyên Ngọc cảm tình với tôi hơn. Tôi cũng thấy cánh mình phải chạy đi chạy lại với nhau, không thể đứng rời ra được. Ông Trần Độ, ông Hạnh cũng coi tôi là một người có thể tin cẩn được, vẫn gọi tôi lên luôn! Tôi bảo các ông đừng can thiệp quá sâu vào mọi chuyện như ông Hà Xuân Trường. Kệ cho anh em nó làm là tự nhiên được.

Quyển sách mới của Dương Thu Hương không phải hay, nó viết nhiều chỗ cẩu thả, phô, nhưng nó có tâm huyết của nó. Còn chửi thì ghê lắm. Đã có người đọc trệch đi Chuyện tình kể trước lúc rạng mông cơ mà. Tôi góp ý kiến với Dương Thu Hương đủ thứ. Hôm nọ, ngồi có cả Nguyễn Khải, tôi mới bảo này, lần sau, cô đừng đăng những bài thơ như bài tuyên ngôn trên Văn nghệ vừa rồi nữa nhé. Cũ lắm. Nguyễn Khải bảo tôi cũng nghĩ, nhưng không dám nói.

Hôm gặp ông Linh, giới sân khấu cũng nhảm. Mẹ Thành chúa cơ hội thì lúc nào cũng mời mọc “cái này để mời anh Linh đi xem ạ!” Giờ nghỉ, thấy ông Linh ra, Hồ Ngọc phải tránh đi, nhưng cả bọn Lưu Quang Vũ, Hoàng Quân Tạo cùng xô đến... Vũ dám làm tất cả các việc mà Vũ vẫn chế giễu. Trong vở Chết cho điều chưa có cũng lại có “những việc cần làm ngay”, có “đồng chí NVL”.
Tôi nghĩ đến Vũ những ngày chống Mỹ. Tưởng là khác rồi, nhưng đâu có khác!

Ông Vũ Tú Nam kể Nguyễn Phan Hách bảo sướng quá, bây giờ cởi ra gỡ ra rồi, tha hồ viết.
Nguyễn Kiên: Viết khó hơn bao giờ hết chứ. Xưa muối hiếm kiếm được một hạt cũng quý. Nay cả làng người ta có muối rồi. Có biết tra không, hay có nồi canh, lại làm hỏng.

2/12
Nguyễn Quân kể:
- Hôm gặp ông Linh, tôi bảo các anh không đốt sách tôi, không xé tranh tôi, thế là được rồi. Còn nếu các anh làm vậy, tôi chỉ trách nhà tôi vô phúc. Và làm với nhiều người, thì cả nước vô phúc.
- Đất nước gì mà tri thức gặp vua còn kêu đói, kêu không có tất, thì ra cái thá gì nữa. Ông Nguyễn Đình Thi dẫn đủ thứ Hy La ra, bảo rằng người ta có thể tin vào cái sai, nhưng nếu tin thì vẫn có thể thành công trong văn nghệ - Solokhov tin vào Stalin, vẫn có Sông đông êm đềm. Thế thì còn nói sao được nữa! Khả năng tiếp cận chân lý của anh ở đâu.
Ông Mạnh với mấy ông bảo khi bị khinh bỉ, thì con người ta ti tiện đi. Nhưng có đúng thế không? Sao người trí thức lại để mình bị ti tiện đi được.
Sở dĩ nước ta không ra gì, vì trí thức nước ta không tạo được bi kịch lớn. Chứ cứ như ở Nga này, lúc nào gần nửa trí thức nó cũng ngồi tù, thì làm sao nó không lớn được.
Một người như Trần Dần biết điều đó đấy. Gặp tôi về việc đứa con, ông ấy chỉ bảo thôi đừng bới mọi chuyện ra làm gì, có gì đáng bới. Thế là biết đấy.

À, lại nói chuyện gặp ông Linh, ông Tào Mạt cũng mang những ý rất cũ ra rao giảng. Tôi phải bảo bây giờ không phải thời văn nghệ sĩ dâng Sách bình Ngô, cũng không phải thời làm hề. Anh hãy quan niệm văn nghệ như một nghề, đấy mới là điều cần thiết.
Bố Tào Mạt cứ dạy cả nước làm vua, thì còn ra cái lý cố gì nữa!

Nói chung, tôi hay có lối trả lời khiến các lão rất ngại. Như ông Thanh lại có lần đến bảo: Bây giờ mình sắp về hưu, hôm nào mình đến cậu bảo mình vài vấn đề cơ bản của nghệ thuật, có gì cần, làm cố vấn cho các anh. Tôi mới bảo, sao lại thế được? Mười năm nay em giảng cho anh, anh không hiểu thì một hai buổi hiểu sao nổi. Mà tuổi của anh thì không học được rồi, giá anh cứ thi vào khoa tại chức trường em, chắc em cũng đánh trượt anh thôi.
Lại có nhiều ông phê phán tôi phá hoại nền mỹ thuật nước nhà.
Tôi mới bảo ngay nền mỹ thuật nước nhà không yếu đến mức một mình tôi phá được đâu. Còn như sau tôi, người ta không thể vẽ như anh Cẩn trước đây, đấy lại là chuyện khác.


7/12
Quân lại nói về lần gặp ông Linh:
- Mọi người thường nói là mong trên thông cảm. Không thể có chuyện như thế, chúng ta không nên đặt ra câu hỏi cũ, rồi tìm cả câu trả lời mới. Vấn đề bây giờ, là đặt ra những câu hỏi mới. Ví dụ nên có luật làm sao để các thành uỷ, tỉnh uỷ không can thiệp vào công việc của các nhà hát hay đoàn kịch. Chứ còn có người duyệt, thì tức là có lúc thông cảm lúc không thông cảm,rồi có bao giờ ra sao.
- Tôi còn đề nghị thêm một điểm. Là cấm người viết phê bình nói nhân danh Đảng. Muốn gì thì muốn, phải nhân danh cá nhân. Sai đúng bàn sau.
- Chính ông Trần Độ cũng phải công nhận là ở nước ta, người biết cứ đi hỏi người không biết. Hội đồng nghệ thuật thông qua rồi, lại còn đi hỏi Bộ trưởng. Trần Độ vốn ghét Văn Phác nên bảo vậy.
Cũng như bác ấy, bác biết sao được về mỹ thuật bằng cháu, mà cháu vẫn phải hỏi bác —Ng Quân nói lại Trần Độ.
- Cái tội của nước mình, là dạy cho dân triết học, mà bắt trí thức học lễ, trong khi, suy cho cùng, chỉ trí thức mới cần triết học, còn dân chỉ cần học lễ - lễ theo nghĩa rộng, nghĩa là phép cư xử.

Trà: Quân có cái thánh thiện của nó. Nó hiểu được âm nhạc, tôn giáo.
Nhàn: Tôi thấy ông Quân có cái vô tư của người bên ngoài nhìn vào, không có những cái rác, cái bọt bẩn mà do sống quá lâu trong giới, mình cũng bị nhiễm.

27/12
Một người bạn cũ, kể chuyện Hà Nội - Sài Gòn.
          -  Sau khi  Phan Ngọc cho in  Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều , Cao Xuân Hạo bảo “Đọc xong quyển này, thấy người tài nhất là ông Phan Ngọc, thứ hai là Đảng ta, thứ ba mới đến Nguyễn Du.”
- Ông Hạnh phó ban hiện nay, cũng rầu lắm. Hôm họp ở Ban văn hoá văn nghệ thấy mặc cái quần có miếng vá, trông khá khốn khổ. Lại còn cãi nhau tay đôi với tay Hoài Lam nữa ( HL giáo sư mỹ học, ông Hạnh xưa cùng học với hắn). Mình phải bảo anh đừng làm thế mà chết. Ông Hạnh phải “tháo chốt ngay”.

Ở Sài Gòn, loại như ông Trần Bạch Đằng, cũng rất muốn chân TTK Hội những người viết văn thành phố. Trên bàn, rồi vẫn chọn ông Sáng (ông Anh Đức tự nguyện nhường vì nhắm vào trung ương). Trần Bạch Đằng ngồi nhà Anh Đức, từ 7g sáng, tới 2 giờ chiều, chỉ đay đi đay lại một câu: Anh là nghệ sĩ còn tôi là chính khách, tôi phải có chức vụ.
Ông Đằng cực đoan đến mức ông Nguyễn Văn Linh, ông Võ Văn Kiệt cũng phải sợ, không dám dùng.

Quanh cuốn Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử, nhiều người bảo tất nhiên Sử định buôn to. Nhưng loại như Tố Hữu thì không, lão không ơn huệ ai đâu. Thậm chí lão còn muốn nói là nhờ tôi mà anh trở nên nổi tiếng nữa, vậy anh phải cám ơn tôi mới đúng.
Chứ cám ơn anh thì tôi cũng là tầm thường như mọi người hay sao ?

Nước mình, ai người ta cũng bảo kỳ vừa rồi, đau nhất ông Tố Hữu. Đoàn Giỏi tới thăm về, kể lúc nghe tin, Tố Hữu lạnh cả sống lưng. Ngay Lê Đức Thọ cũng bất ngờ, vì việc đại hội không tín nhiệm Tố Hữu.
Phan Hồng Giang và Từ Sơn đến nhà TH chơi. Nghe đồn Phan Hồng Giang có nói với Tố Hữu một câu:” Chỉ tiếc là nay không có chú, tức là Trung ương mất đi những người trí thức có suy nghĩ...” Thế là Tố Hữu bưng mặt khóc (?!)
Hoài Thanh xưa nay vẫn bảo, văn nghệ nước ta, được Tố Hữu phụ trách còn là khá!

Những chuyện khác.
Ông Lê Đình Kỵ hồi trước khá đứng đắn. Nghe nói khi thơ Trường Chinh ra, có người bảo Lê Đình Kỵ phê bình đi, Kỵ bảo có phải thơ đâu mà phê bình.
Sau có người mách rằng câu ấy đã đến tai Đặng Xuân Kỳ, con Trường Chinh. Thế là Lê Đình Kỵ sợ lắm, phải viết bài, phát trên đài, in báo. Trước đó, nhờ Bảo Định Giang đọc hộ. Bảo Định Giang chỉ bảo anh trích sai nhiều quá.
- Ôi, quan trường là chuyện ghê gớm không ai lường nổi. Ông Trần Độ đại hội lần trước có chân Uỷ viên trung ương, mà không bố trí công tác đã buồn lắm, toàn đi chơi với bọn Trần Quốc Vượng, Hoàng Ngọc Hiến. Nghe nói (có anh kể) có lần Trần Độ phải đến khóc với Trường Chinh cơ mà. Mỗi lần đại hội, lo đến đái ra máu chứ. Vì có thể công lao từ trước đến nay mất hết.
... Chính trị nó lạ lắm. Ông Nguyễn Văn Linh có lần hô Lê Duẩn muôn năm, lại có lần bảo ý kiến của anh Sáu Dân (Võ Văn Kiệt) là thế này, thế này. Khen hết lời ! Ông Nguyễn Văn Linh chỉ ghét ông Tố Hữu. Nghe nói vụ Cù Lao Tràm, ông Tố Hữu nhận định đã có một bàn tay bẩn dúng vào (tức NVL). Thế là Nguyễn Văn Linh càng cáu, về quyết trị bọn thằng Nguyễn Mạnh Tuấn thêm.
- Hiện nay, bọn CA văn hoá ở Hà Nội không thích gì loại truyện ngắn Tướng về hưu đâu. Đến thảo luận ở ban văn hoá văn nghệ cũng rất căng. (Loại như Phan Cự Đệ trước đây, đều là cộng tác viên của cục 78 cả đấy chứ. Đi xem phim, cứ giơ cái thẻ cộng tác với cục 78 ra, là vào hết!)

- Ông Phạm Văn Đồng bây giờ còn hay nói là mình kinh tởm các nước phương Tây, bởi văn minh của nó phi nhân tính lắm. Tức y như cũ.
Loại như ông Đồng, ông nào cũng có nhận quà biếu vidio, casset. Con cái bây giờ cũng phải buôn, vì hồi trước, chả có gì. Còn ông Nguyễn Khải, ông Chế Lan Viên thì nói gì nữa. Đi họp CA, cũng phải đi.
Đến bây giờ, mà trong buổi họp làm Bách khoa từ điển, ông Đồng còn bảo những khó khăn hiện nay rồi sẽ qua đi, vài năm nữa chúng ta sẽ đạt tới bước tiến mới, nhìn lại hôm nay sẽ khác.
Lâu nay, tôi quý ông Đồng lắm. Mình cứ lấy ông Đồng đối lập với ông Trường Chinh. Nhưng sự thật, ông Đồng có quý gì ai đâu. Toàn nói chuyện trừu tượng, chung chung. Đến lúc mình lỡ có viết gì, lại mắng mình. Nghe bảo năm 1974, ông ấy nói Nguyễn Thành Long ghê lắm.

-- Ông ấy chả cứu ai cả.
-- Đúng rồi, đến cả Trần Việt Phương, ông ấy cũng không cứu.
-- Nghĩa là ông ấy gọi các văn nghệ sĩ đến chơi, như người xưa gọi cô đầu đến hát. Xong thì thôi, không còn dây dưa gì.

Trần Đăng Khoa có lần kể với Trà một chuyện nhỏ, giờ Trà kể lại với tôi.
Lần ấy Khoa dẫn một đoàn thiếu nhi đến nhà Tố Hữu chơi.
-- Bác ơi, nhà của bác đây đấy à, thích quá nhỉ!
-- Không, đây là nhà của nhân dân, các cháu ạ!
 http://vuongtrinhan.blogspot.ca/2013/08/chuyen-van-nghe-ha-noi-nghe-o-moskva_22.html

BBC * THUYỀN NHÂN MỚI

Tại sao thuyền nhân liều mạng tới Úc?

Cập nhật: 14:17 GMT - thứ năm, 5 tháng 9, 2013
Mỗi tháng, hàng ngàn người di cư bước chân vào cuộc hành trình nguy hiểm vượt Ấn Độ Dương để tìm cách tới bờ biển Úc dù chính quyền Úc đã có chính sách bắt và gửi họ sang các trại bên ngoài Úc.
Nhiều người bỏ chạy vì tình trạng rối loạn ở các nước như Afghanistan, Iran và Sri Lanka.
Họ phải trả những khoản tiền rất lớn cho các đường dây buôn người, những người thường vận hành tàu thuyền thiếu an toàn rời khỏi Indonesia.

Vấn đề người tị nạn là một chủ đề nổi bật trong chiến dịch vận động tranh cử tại Úc, với cả hai bên chính đảng cam kết có các chính sách cứng rắn để ngăn chặn làn sóng người nhập cư.
BBC đã nói chuyện với ba người di cư ở các giai đoạn khác nhau trong hành trình của họ .
Habib là một nhà hoạt động dân quyền 41 tuổi ở Kabul. Ông có ba con gái lên chín, tám và ba tuổi. Ông và gia đình đang hy vọng sẽ rời khỏi Afghanistan bất kỳ ngày nào.

Tàu chở người lậu bị cảnh sát Australia phát giác


Tàu chở người lậu bị cảnh sát Liên bang Australia phát giác
Tôi đã làm rất nhiều trong việc bảo vệ quyền của những người dân bị ảnh hưởng bởi bạo lực. Vì tôi đưa các vụ việc ra tòa nên đã gặp phải rất nhiều khó khăn.
Tôi bị bỏ tù ba lần và tôi đã bị đánh hai lần. Lần thứ hai tôi bị đâm - họ tìm cách giết tôi.
Tôi nhận ra rằng nếu tôi chết thì vợ và ba con gái tôi sẽ phải đối mặt với một tương lai vô cùng đen tối. Vì vậy, tôi quyết định rời khỏi Afghanistan.


Tôi chọn Úc vì đó là một quốc gia quan tâm đến nhân quyền.
Tôi muốn con gái tôi có thể đi học ở một nơi yên bình, nơi chúng sẽ không phải thường xuyên nghe tin tức về bạo lực, đánh bom tự sát và những vụ giết người.
Tôi có một số họ hàng sống ở Indonesia. Họ giúp tôi liên hệ với một công ty du lịch ở Kabul mà công ty này có tiếp xúc với đường dây buôn người.
Tôi chưa gặp chính những người buôn người đó nhưng công ty này nói rằng chẳng bao lâu chúng tôi sẽ khởi hành.

Tất nhiên đây là một canh bạc lớn. Không thể tin cậy những kẻ buôn người. Nhưng những người này đã giúp đưa họ hàng của chúng tôi đi và chúng tôi không có lựa chọn nào khác, vì vậy chúng tôi phải tin vào họ.
Chúng tôi được nói cho biết là đầu tiên phải đến Ấn Độ. Sau đó, họ sẽ đưa chúng tôi đến Malaysia và tiếp đó đến Indonesia.

Chúng tôi phải trả cho họ $21.000 để có visa đi học và đi làm của Malaysia. Tức là $6.000 cho tôi và vợ tôi, và $3.000 cho mỗi con gái chúng tôi.
Chúng tôi phải trả một nửa số tiền này trước khi đi và phần còn lại trả sau khi tới Malaysia. Có được từng ấy tiền là cả một khó khăn.

Tôi đã phải vay mượn một số, và chúng tôi đang bán tất cả tài sản và đồ dùng gia đình của mình để trang trải phần còn lại.
Chúng tôi đã nghe tin tức trên TV và trên đài phát thanh về sự nguy hiểm của chuyện vượt biển từ Indonesia đến Australia. Tàu thuyền không phải là loại đi biển được, họ chất quá tải và nhiều tàu đã bị chìm.

Nhưng bất chấp điều đó, chúng tôi thấy hầu hết người tị nạn đều đến được Australia và bắt đầu cuộc sống mới ở đó.
Chúng tôi sẵn sàng chấp nhận khó khăn để tới được một nơi chúng tôi sẽ có một cuộc sống yên bình.
Tôi phải rời khỏi đất nước của mình để bảo vệ cuộc sống của tôi và xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho các con tôi.
Nó khiến tôi thật buồn vì tôi sinh ra ở đây và mộ cha mẹ tôi cũng ở đây. Nhưng tôi không có cách nào khác.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2013/09/130905_australia_refufees_stories.shtml

NGUYỄN THIÊN THỤ * CÁC CHÙA Ở CÁC TỈNH MIỀN NAM

 


CÁC CHÙA Ở CÁC TỈNH MIỀN NAM
Nguyễn Thiên Thụ
 

100. CHÙA BỬU PHONG - Biên Hòa

Chùa tọa lạc trên núi Bửu Long, cao khoảng 37m, thuộc xã Tân Bửu, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, gần khu du lịch Bửu Long. Chùa được dựng vào thế kỷ XVII. Lúc đầu chỉ là một thảo am, sau do Thiền sư Pháp Thông xây cất thành ngôi chùa nhỏ. Chùa được trùng tu mở rộng vào năm 1829, vào cuối thế kỷ XIX và các năm gần đây. Chánh điện được bài trí trang nghiêm. Chùa còn bảo tồn một pho tượng Di-đà cổ và đã tôn tạo vườn tượng Phật lộ thiên khá lớn.


 
 Mặt tiền chùa Bửu Phong

Chung quanh vùng núi có nhiều ngôi tháp cổ. Chùa là một danh lam thắng cảnh ở miền Nam, hàng năm đón nhận hàng vạn du khách, Phật tử đến tham quan, chiêm bái. Nép mình phía sau Văn miếu Trấn Biên - “Quốc tử giám” của Nam Kỳ, chùa Bửu Phong thuộc phường Bửu Long, TP Biên Hòa (Đồng Nai) tọa lạc trên vách núi, ở độ cao chừng 40m. Đây là ngôi chùa cổ có niên đại gần 400 năm với lối kiến trúc nghệ thuật độc đáo mang đậm nét văn hóa Bắc Bộ tồn tại giữa lòng miền Nam.
 Trước cổng chùa Bửu Phong có đôi câu đối:  
“Bửu thạch long đầu, cổ cảnh linh qui tại/
 Phong sơn hổ cứ, vạn đại chiếu phùng tồn”. 
(Dịch nghĩa là: “Đá quý rồng chầu, cảnh xưa rùa linh thường hiển hiện,
Đỉnh non cọp ngự, muôn đời phượng múa hãy còn đây).

Chùa Bửu Phong


Đường lên chùa



Mặt tiền chùa


Chùa được tiếp tục trùng tu, mở rộng từ đầu thế kỷ XIX đến nay. Năm 1829, Tham tướng Nguyễn Văn Hiệp và Hương bảo Nguyễn Văn Tâm đã tổ chức xây cất lại ngôi chùa.

Mặt bên chùa



Toàn cảnh chùa


Năm 1898, Hòa thượng Thích Pháp Truyền tiếp tục tu sửa giảng đường, nhà tổ... Năm 1944, Hòa thượng Thích Huệ Quang tổ chức trùng tu, mở rộng hậu đường. Năm 1963, Yết-ma Thiện Giáo cho xây đài Quán Thế Âm trước chùa. Năm 1964, Hòa thượng Thích Huệ Thành cho xây đài Tam Thế Phật.
 

Từ năm 1974 đến nay, Ni sư Thích Nữ Huệ Hương đã không ngừng sửa chữa, trang trí ngôi chùa. Ni sư đã cho tôn tạo một giếng cổ ở sườn núi trước chùa có tên là giếng Gia Long.
 
Giếng Gia Long

Trang trí ở mặt tiền chùa

 Bên trong chùa được bài trí theo lối kiến trúc miền Bắc , bao gồm: Chính điện, giảng đường và hậu tổ thông nhau; ngoài ra còn có nhiều phòng ni phái và nhà dưỡng tăng. Nền được lát gạch tàu, gạch bông; bộ khung vì kèo làm bằng gỗ quý. Những bức tường xung quanh được xây dựng bằng gạch thẻ, mái lợp ngói âm dương.
Bửu Phong Cổ Tự - Chùa Bửu Long
 Đường lên chùa Bửu Phong

 Mặt tiền chùa Bửu Phong được trang trí tinh xảo, công phu bằng các bức phù điêu, ghép từ các mảnh sành mang tính nghệ thuật caọ Những họa tiết đắp nổi trên tường hết sức đa dạng, có cả tứ linh, tứ quý, ông Nhật, bà Nguyệt, rồng chầu mặt trời, mây dây cách điệu… thể hiện cho ước mơ quyền uy, sức mạnh và sự an nhàn, thịnh vượng. Trên những cột trụ chính giữa mặt tiền có khắc các câu đối nói lên ý nghĩa tên chùa: “Bửu nhạc dịu dàng như Thứu Lĩnh/ Phong sơn đẹp đẽ tựa Kỳ Viên”. Điều đó tạo cho mặt tiền chùa vừa rực rỡ trang nghiêm, vừa uy nghi cổ kính.


Vườn tượng Phật tam thế

Chính điện chia làm ba gian thoáng rộng, trên hai hàng cột đắp rồng ẩn mây sơn son thếp vàng uy nghiêm. Gian chính giữa thờ Tam thế Phật, tả hữu thờ thập điện Minh Vương. Các tượng được tạc rất sống động. Ở giảng đường và nơi thờ Tổ có các tấm liễn, hoành phi, bao lam được chạm khắc công phu, thể hiện nhiều đề tài phong phú được bố trí hài hòạ Trong chùa hiện còn lưu giữ xá lợi Phật quý giá. Chùa này ở trên một ngọn núi nằm trơ trọi giữa cánh đồng, sau 1975 đã bị người ta lấy đá khiến cho chùa gần bị  hủy  hoại.

101. CHÙA ĐẠI GIÁC - Biên Hòa

Chùa Đại Giác còn gọi là Đại Giác cổ tự, chùa Phật lớn hay chùa Tượng; xưa thuộc thôn Bình Hoành, xã Hiệp Hòa, tổng Trấn Biên .Chùa tọa lạc ở số 393/A2, ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, trong vùng đất cổ cù lao Phố. ĐT: 061.850551.




Theo tài liệu còn lưu tại Giáo hội Phật giáo Thành phố Biên Hòa, thì vào giữa thế kỷ 17 có ba nhà sư thuộc phái Lâm Tế tông, từ miền Trung đến Đồng Nai hoằng hóa đạo Phật.
Nhà sư Thành Nhạc cùng một số phật tử đến vùng đất ven sông Đồng Nai (nay là xã Bửu Hòa, TP. Biên Hòa) dựng lên chùa Long Thiền (1664); nhà sư Thành Trí theo đoàn di dân làm nghề khai thác đá lên vùng núi Bửu Long cùng người Hoa ở đây dựng lên Chùa Bửu Phong (1679), nhà sư Thành Đẳng, cùng một số người chèo ghe, thuyền đến Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa, TP. Biên Hòa) khẩn hoang và dựng lên chùa Đại Giác .


 
 

Buổi đầu, chùa có kích thước nhỏ hẹp, được tạo dựng bằng cột gỗ, vách ván, và lợp ngói âm dương. Thời Thiền sư Tổ Ấn-Mật Hoằng trụ trì, Nguyễn Thị Ngọc Anh, là công chúa thứ ba của chúa Nguyễn Phúc Ánh có đến trú tại chùa một thời gian[2].
Năm Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) nguyên niên (1802), nhớ ơn, nhà vua sai quan trấn Trấn Biên cho binh thợ đến xây cất, đem tượng binh đến chở đất và dặm nền chùa (nên sau này người dân còn gọi là chùa Tượng). Ngoài ra, nhà vua còn dâng cúng một pho tượng Phật A-di-đà bằng gỗ mít cao 2,25 m. Vì thế nên chùa còn có tên là chùa Phật Lớn (hiện pho tượng vẫn còn được thờ tại chùa). Năm Gia Long thứ 13 (1814)[3], vua cho mời Thiền sư Tổ Ấn - Mật Hoằng ra làm Tăng cang chùa Thiên MụHuế.

Cây bồ đề
Tháng 10 năm Minh Mạng nguyên niên (1820), nhà vua lại cho tu sửa chùa Đại Giác. Khi ấy công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh đã trở lại Huế, cũng gửi vào cúng một bức hoành phi lớn khắc ba chữ "Đại Giác Tự" thiếp vàng, bên mặt có khắc: "Tiền Triều Hoàng nữ đệ tam công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh" (hiện vẫn còn treo ở phía trước chánh điện)[4].
Năm Nhâm Thìn (1952), do lũ lụt, chùa bị hư hại nghiêm trọng. Năm 1959, được sự đóng góp của nhân dân trong vùng, Trụ trì chùa là Hòa thượng Thiện Hỷ (1921 - 1979), đã cho xây cất lại toàn bộ ngôi thờ bằng vật liệu hiện đại: tường gạch, cột bê tông cốt thép, có lầu chuông, lầu trống, đến ngày 12 tháng 8 năm 1961 mới khánh thành.
Chùa Đại Giác có diện tích khoảng 3.000 m2 với hai cổng xây bằng gạch ra vào, xung quanh có tường rào bao bọc. Sau nhiều lần trùng tu, hiện nay chùa cất theo lối chữ tam (三) với ba dãy nhà ngang nối liền nhau.
Mặt tiền chùa quay theo hướng Tây Bắc nhìn ra sông Đồng Nai. Giữa sân trước chùa là một cây bồ đề lớn, do Hòa thượng Đinh Tông trồng vào ngày rằm tháng 11 năm Kỷ Mão (1939) và pho tượng Phật Quan âm Nam Hải đứng trên tòa sen. Bên tả và phía sau là khu vườn rộng trồng cây trái, bên hữu là khu bảo tháp với nhiều mộ tháp của các vị trụ trì viên tịch.
Tuy bên ngoài, mái hiên chùa thấp và có lối kiến trúc hiện đại, nhưng bên trong chùa, vẫn còn theo kiểu mẫu của các chùa xưa ở vùng Đồng Nai, với các cột tròn và cao vút, tạo không gian thoáng đãng. Chùa gồm chánh điện, nhà khách, phòng chư tăng, trai đường và nhà bếp.

102. CHÙA LONG THIỀN -Biên Hòa

Chùa Long Thiền nằm bên hữu ngạn sông Đồng Nai,  thành phố Biên Hòa , trước kia thuộc thôn Bình Long, huyện Phước Long, dinh Trấn Biên
Địa chỉ:.
Chùa Long Thiền
K2/3B Tân Bình, P. Bửu Hòa
TP. Biên Hòa, T. Ðồng Nai


Theo tài liệu lưu tại Giáo hội Phật giáo tỉnh Đồng Nai, chùa Long Thiền được xây dựng vào năm 1664 do tổ sư Thành Nhạc, người miền Trung vào khai sáng. Chùa Long Thiền tọa lạc trên một vùng đất long mạch qúy. Trước chùa có sông Đồng Nai, sau lưng chùa có núi Châu Thới, từ chùa tỏa ra quanh vùng, từ xã Hoá An đến Thạnh Hội là “ long mạch của Thanh Long “, còn mũi Châu Thới dựng lên như cánh đuôi rồng, chùa Long Ẩn biểu trưng miệng rồng, núi Bửu Phong biểu thị “trái châu“ ví như rồng ngậm trái châu.


Trải qua bao thế kỷ, ngôi chùa được khang trang như hiện nay đã phải qua ba lần trùng tu. Lần thứ nhất vào năm 1748, đời tổ Phật chiếu dòng Lâm tế thứ 35 xây dựng thêm chánh điện bằng gỗ ba gian, hai chái, có thêm nhà Tổ làm bằng vách ván. Gần một thế kỷ sau, vào năm 1842, đời tổ Tiên Đức dòng Lâm tế thứ 37 trùng tu chùa lần thứ hai. Lần này, Tổ đường được tu bổ lại, cất thêm khách đường và nhà trù (nhà bếp), tường xây gạch, nền lót gạch tàu, nóc vẫn lợp ngói âm dương. Diện mạo chùa khang trang, nghiêm kính được đông đảo Phật tử gần xa đến chiêm bái.

 Chùa - Long Thiền - Pagoda

Hơn một trăm năm sau, chùa được trùng tu lần thứ ba do hòa thượng Thích Huệ Thành dòng Lâm tế thứ 40 chủ trì. Nguyên do trùng tu lần này là chùa bị ảnh hưởng nặng nề bởi trận bão lụt năm 1952 (Nhâm Thìn) . Năm ấy, hơn một tuần lễ, thành phố Biên Hòa chìm trong biển nước mênh mông, chùa Long Thiền chỉ còn cái nóc nhô trên mặt nước và có nguy cơ sụp đổ.

 

Lần trùng tu thứ ba đã đem lại cho ngôi chùa diện mạo mới. Giảng đường, khách đường, tăng đường được xây, mở rộng thêm. Mái lợp ngói tây, riêng nhà trù lợp tôn xi măng. Tường được xây dựng lại hoàn toàn bằng gạch thẻ với chất liệu mới vững chắc. Nền lót gạch tàu và gạch bông, giảng đường có thêm gác lửng. Chánh điện được tôn cao thêm 1 mét, với hành lang, sảnh mở rộng thêm ra hai bên.




Trên khu đất bằng phẳng, trước có sông lặng lờ nước chảy, chùa Long Thiền uy nghiêm, cổ kính nhưng rất hữu tình.

Chùa được xây theo lối kiến trúc hình chữ tam, mặt chính chùa hướng ra sông theo hướng Đông Bắc. Khoảng sân rộng của chùa có nhiều cây cổ thụ tỏa bóng mát. Những nét chạm trỗ công phu của tiền đình khi có ánh nắng của buổi áng xuyên qua tán lá trông lung linh, tuyệt đẹp.

 
Chùa Long Thiền

 Dưới gốc cổ thụ có tượng Phật Di Lặc tọa thiền. Bên tả là nhà tăng, bên hữu là hòn giả sơn phổ đá, tượng Phật Quan Âm đứng uy nghi với nét mặt nhân từ, khoan dung, chan chứa và từ bi. Khuôn viên chùa là khu vườn rộng, còn lưu lại những bảo tháp cổ trong đó có bảo tháp của tổ sư Thành Nhạc khai sáng với tấm bia bằng đá xanh chạm trỗ tinh vi. Ngoài ra, còn có hai ngôi mộ cổ –“ mộ Song hồn “- của vị đại thần và phu nhân có công với việc khai hoang lập ấp, xây dựng Long Thiền tự.
 
 

Từ ngoài nhìn vào, ta thấy sự uy nghi, bề thế của ngôi chùa. Chánh điện, nhà thờ Tổ, giảng đường, tăng đường, nhà trù tiếp nối nhau. Tuỳ theo chức năng của từng nơi trong chùa mà cách bài trí từng mảng hài hòa nhau. Phần chánh điện uy nghiêm tôn kính. Bệ thờ chính thờ Phật Di Đà, Thích Ca, Ngọc Hoàng, Tam Thế Phật, Đức Địa Tạng, Ông Tiêu... và các vị Bồ Tát. Đối xứng hai bên thờ Già Lam, Linh Sơn cùng Thập điện Diêm Vương. Dối diện bàn thờ chính là bàn thờ bằng xi măng hai mặt thờ Tiên Diệu Đại Sĩ, Tam châu Hộ pháp cùng đức Thiên Thủ, Thiên Nhãn. Những hàng cột chính trong chánh điện chạm khắc tinh tế đề tài hoa điểu, bát tiên, lý ngư hóa long, nhựt nguyệt, tứ linh được sử dụng trang trí một cách tinh tế trong chánh điện tăng thêm nét cổ kính cho ngôi chùa. Trên khắp xà ngang treo hoành phi khắc chữ Hán sơn son thếp vàng sắc sảo với nội dung về chánh pháp, khuyên nhủ con người với lòng từ bi bác ái.

Hiện nay chùa Long Thiền là trụ sở của Giáo hội Phật giáo tỉnh Đồng Nai. Hàng năm, vào các dịp lễ lớn: Phật Đản, ngày vía, ngày giỗ tổ (18 /12 âm lịch) ... rất đông thiện tâm tín hữu, tăng ni Phật tử đến cúng.

 
Bảo tháp cố hòa thượng Huệ Thành

Với một lịch sử ra đời khá lâu- 1664 – Long Thiền tự được xem như là cái nôi của trung tâm truyền bá Phật giáo vào vùng đất Nam Bộ. Không những thế, nơi đây còn minh chứng cho sự hiện diện của người Việt ở đất Đồng Nai từ giữa thế kỷ XVII, họ khai hoang lập ấp ở xứ Đồng Nai trước khi nhóm khai khẩn Trần Thượng Xuyên đến (1679) đặt cơ sở nền tảng cho thống suất Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược phía Nam (1698) thiết lập bộ máy hành chánh trên vùng đất Đồng Nai.

Là một kiến trúc tôn giáo, là một cái nôi của trung tâm Phật giáo xứ Đàng Trong cùng với sự đóng góp trong sự nghiệp cách mạng nước nhà, chùa Long Thiền có một vị trí trong lịch sử của vùng đất Đồng Nai.


 
Vườn tháp

103. CHÙA LINH SƠN - Vũng Tàu.

Linh Sơn Cổ Tự nằm trên đường Hoàng Hoa Thám, tuy không đồ sộ, rộng lớn nhưng là ngôi chùa lâu đời nhất ở Vũng Tàu. Lúc đầu chùa được xây dựng trên triền Núi Nhỏ nhưng đến năm 1919 khu vực này bị thực dân Pháp chiếm dụng để xây dựng biệt thự cho hoa tiêu Pháp. Ngay sau đó một ngôi chùa khác được xây dựng và tồn tại đến ngày hôm nay. Trong chính điện có thờ một tượng Phật cao 1,2m bằng đá có phết vàng được điêu khắc rất khéo léo tạo nên vẻ từ bi và sống động trên nét mặt của đức Phật.

 

Truyền thuyết kể lại rằng cách đây hơn một trăm năm có đoàn ghe chài lưới từ miền trung vào đánh cá ở Bãi Trước. Trong khi kiếm củi ở Núi Lớn tình cờ họ phát hiện hai pho tượng Phật bằng đá vùi dưới đất trên sườn núi gần Bãi Dâu. Họ cùng đào lên rồi cùng chờ đến hôm sau xin mang về.



  

Dân địa phương biết tin vội kéo đến xem và cho rằng đó là di tích lịch sử của đại phương nên cương quyết đòi giữ lại. Nhóm dân chài Miền Trung năn nỉ mãi mới lấy được pho tượng nhỏ đem đi. Pho tượng lớn được dân chài rước về thờ, chính là pho tượng hiện nay ở Linh Sơn Cổ Tự.
(Địa chỉ: 6, Hoàng Hoa Thám, Phường 2, TP Vũng Tàu)




  104. NIẾT BÀN TỊNH XÁ (Chùa Phật Nằm)

Đường Hạ Long, phường 1, Tp. Vũng Tàu. "Niết Bàn Tịnh Xá " còn gọi là chùa "Phật Nằm" được xây dựng trên sườn núi nhỏ, hướng mặt ra biển.Chùa được khởi công xây dựng từ năm 1969 và khánh thành vào năm 1974 bằng tiền quyên góp của đồng bào phật tử. Thượng Tọa Thích Thiện Huệ đại diện đứng ra lo toan việc xây dựng. Đây là một trong những ngôi chùa đẹp nhất ở Vũng Tàu với những đường nét kiến trúc hiện đại. 


Ở phía trước chùa là một cột cờ cao 21m, được chia làm thành 42 bậc biểu tượng cho 42 trang kinh phật đầu tiên được lưu truyền vào Việt Nam vào thế kỷ thứ II. Cổng chùa có 04 chữ "Niết Bàn Tịnh Xá" tức là nơi thanh cao nhất của đạo Phật.

Tịnh xá

Chùa được khởi công xây dựng từ năm 1969 và khánh thành vào năm 1974 bằng tiền quyên góp của đồng bào phật tử. Thượng Tọa Thích Thiện Huệ đại diện đứng ra lo toan việc xây dựng. Đây là một trong những ngôi chùa đẹp nhất ở Vũng Tàu với những đường nét kiến trúc hiện đại. 


Ở phía trước chùa là một cột cờ cao 21m, được chia làm thành 42 bậc biểu tượng cho 42 trang kinh phật đầu tiên được lưu truyền vào Việt Nam vào thế kỷ thứ II. Cổng chùa có 04 chữ "Niết Bàn Tịnh Xá" tức là nơi thanh cao nhất của đạo Phật.


Tượng Phật nằm ở Niết Bàn tịnh xá  

Hai bên cổng chùa là 02 pho tượng "Thần Thiện" và "Thần Ác".
Khu điện thờ chính của chùa đựoc bày trí thành một vườn hoa Sa La theo cảnh Đức Phật nhập Niết Bàn. Nổi bật trong khu chánh điện này là bức tượng "Phật Nằm", dài 12m tượng trưng cho"Thập nhị nhân duyên" và được đặt lên bộ thờ 2,5m. Mặt ngoài của bệ thờ có đắp hình tượng các đồ đệ của Phật Thịch Ca đang chứng kiến lúc Ngài nhập điện.


Niet Ban Tinh Xa Pagoda, Vung Tau, Vietnam  

Phía trước chính điện có một chiếc lư đồng lớn với hình tượng bốn con vật Long, Lân, Quy, Phụng gọi chung là "Tứ Linh". Chiếc lư này là kết quả sau hơi hai năm lao động nghệ thuật miệt mài của một nghệ nhân ở tỉnh Bến Tre và đem tặng cho chùa năm 1971. Song song với lư ở hai bên là hai toà tháp cao khoảng 5m. Tòa bên trái có tượng Phật A Di Đà, toà bên phải có tượng Phật Dược Sư.
 


Lư đồng tứ linh

Hậu điện dùng làm nơi thờ Phật Thích Ca và các vị tổ có công truyền bá Đạo Phật. Sau tượng Phật Thích Ca có treo một bức tranh vẽ hình " Đạt Ma Sư tổ " là vị cao tăng truyền bá giáo lý nhà Phật. Pho tượng nghìn mắt, nghìn tay biệu tượng thần thông phi thường của nhà Phật



Tầng hai có chiếc thuyền rồng còn gọi là Thuyền Bát Nhã, dài 12m. Đó là con thuyền Bát Nhã sẽ cứu vớt mọi người ra khỏi khổ ải rồi đưa đến chốn vĩnh cửu bất diệt.
Phía sau thuyền Bát Nhã là điện thờ Phật Quan Âm Bồ Tát. Tượng Phật được thể hiện theo hình dáng một phụ nữ hiền hòa đức độ, tay đổ bình nước cam lộ xuống để chữa bệnh cho dân chúng và làm cho cõi trần thêm sạch.
 

105. CHÙA THÍCH CA PHẬT ĐÀI -Vũng Tàu
 
Thích Ca Phật Đài là khu di tích kiến trúc Phật giáo của phái Nam tông, nằm trên triền núi Lớn, thuộc thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Men theo con đường Trần Phú, đi qua Bến Đá, Bến Đình, du khách sẽ trải qua nhiều cảm xúc khác nhau với cảnh quan tuyệt đẹp của nơi đây: ba phía là biển, thuyền tàu đầy bến, ban đêm rực ánh đèn.



Trước đây, vùng đất này cây cối rậm rạp, không có người sinh sống. Năm 1957, ông Lê Quang Vinh, một công chức thời Pháp thuộc, bất mãn với chế độ nên đã bỏ lên đây dựng chùa để tu hành, gọi là Thiền Lâm tự. Năm 1962 Giáo hội Phật giáo nhận thấy Thiền Lâm tự toạ lạc ở một vị trí có khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, là vùng đắc địa tụ kết khí thiêng, lại thuận tiện giao thông đi lại cho chư tăng, Phật tử thập phương hành hương nên đã lập đồ án xây dựng quy mô Thiền Lâm tự thành Thích Ca Phật Đài. Công trình được khởi công ngày 20/7/1961. Sau hơn 19 tháng xây dựng, ngày 15 tháng 02 năm Quý Mão (1963), Thích Ca Phật Đài được khánh thành.
Thích Ca Phật Đài, TP.Vũng Tàu


Chùa tọa lạc trong khuôn viên rộng khoảng 5ha, bao gồm hai khu vực: phía dưới là Thiền Lâm tự, phía trên là Thích Ca Phật Đài.Ngay dưới chân núi Lớn, sát đường đi du khách sẽ thấy một cổng tam quan to lớn với 4 trụ cột vươn lên vững chắc, thanh thoát. Trên cổng có biểu tượng pháp luân, tức bánh xe luân hồi trong pháp lý nhà Phật. Tám chiếc căm xe tượng trưng Trung đạo. Vòng ngoài có bốn núm tiêu biểu cho Tứ Diệu Đế. Trên bốn cột của tam quan là bốn búp sen biểu tượng cho sự trong sạch, tinh khiết, thanh cao của Nhà Phật.


Qua cổng tam quan, men theo từng bậc đá quanh co trên sườn núi, du khách có thể vừa đi vừa thưởng ngoạn cảnh đẹp hai bên. Một bên vách núi nhẵn nhụi như tường thành, một bên là lũng sâu soải dài ra phía biển. Gần đến đỉnh là một khu rừng thưa ríu rít tiếng chim trong các tán cây.

 
Bảo tháp Mâu ni

Cảnh tượng đầu tiên mà du khách nhìn thấy là toà Bảo tháp. Đây là nơi ghi nhớ và tưởng niệm người đã có công khai sơn tạo tự: nhà sư Giác Pháp tức quan phủ Lê Quang Vinh. Tiếp theo là khu Vườn tượng, ở độ cao 25m. Đây là khu vực của những công trình điêu khắc được xây dựng dựa theo những sự tích cuộc đời Đức Phật Thích Ca, từ khi Người ra đời đến khi nhập cõi Niết Bàn.


106. CHÙA PHƯỚC HẢI- Vũng Tàu


Chùa tọa lạc tại số 65 Nguyễn Bảo (số cũ : 54/7 đường Tự Do), phường 6, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. ĐT: 064.562323.

 

Theo tài liệu của Bảo tàng Bà Rịa – Vũng tàu, chùa được dựng vào năm 1886. Đây là một trong những ngôi chùa cổ ở thành phố Vũng Tàu, kiến trúc dạng tứ trụ của chùa cổ miền Nam.
Năm 1956, chùa được đại trùng tu, mặt tiền xây lầu. Năm 1993, chùa tiếp tục trùng tu, tạo cảnh quan thoáng đãng.





Qua tam quan, ở ngay sân sau chùa có đài Quan Âm. Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Hai pho tượng lớn được tôn trí ở trung tâm là tượng đức Phật Thích Ca thành đạo và tượng đức Phật nhập niết bàn. Chùa còn giữ pho tượng cổ Visnu (thế kỷ thứ VII).
Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1992.


107. CHÙA ĐẠI TÒNG LÂM- Vũng Tàu

 Là một trong những ngôi chùa rộng, đẹp với cảnh quan thiên nhiên tươi xanh bốn mùa, chùa Đại Tòng Lâm tọa lạc ở xã Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, nằm bên trái Quốc lộ 51 hướng đi Vũng Tàu, cách Saigon 70km.

Rủ Nhau - Mua sắm Cộng đồng


Chùa do hòa thượng Thích Thiện Hoa và hòa thượng Thích Thiện Hòa khai sơn vào năm 1958, sau đó được trùng tu lại vào năm 1982, cổng tam quan vững chãi xây bằng đá vào năm 1974. Với khuôn viên sân chùa rộng đến gần 100ha, du khách ngay khi vừa bước qua cổng chùa sẽ được chiêm ngưỡng, thưởng thức một không gian xanh mát, hai bên lối đi trồng rất nhiều loại cây thẳng tắp, chánh điện được đặt ở phía đối diện vườn hoa mai, phía trước là tượng Quan âm bồ tát thanh thoát. Ngay bên cạnh chánh điện còn có tượng Phật nằm với chiều dài gần 2,5m, cao chín tấc. Nối dài ra khoảng đất trống phía sau chùa, cảnh quan thiên nhiên lại càng xinh đẹp, yên ả hơn nữa. Vòng ra bên trái chánh điện là con đường trải sỏi dẫn tới một không gian bát ngát cây cỏ. Ngay giữa khoảng đất rộng phía trước hồ nước bên trong chùa là bức tượng đứng Quan âm Nam Hải cao 17m. Đứng ở đây, khách vãn cảnh nghe gió lộng mênh mông, tiếng chim hót ríu rít trên những cành cây và còn có thể ngắm cảnh trời xanh ngắt một màu.



Cách hồ nước một đoạn không xa là bức tượng Phật ngồi dưới gốc bồ đề tuyệt đẹp. Cội cây xù xì, thân cây cao thẳng tắp vút lên trời. Phía trước cụm cảnh quan này còn có hai chú hạc đứng chầu. Đây là một trong những cảnh quan được nhiều du khách trầm trồ khen ngợi. Gần đó, nhà chùa xây dựng một chánh điện mới rộng hơn, cao hơn chánh điện cũ bên phía cổng chùa. Ngôi chánh điện mới nhìn ra bốn hướng đều thấy mênh mông cây cối với những không gian tuyệt đẹp như chốn bồng lai. Những mái ngói cong cong của ngôi chùa in trên nền trời làm nổi bật những đường nét điêu khắc được chạm trổ tinh xảo. Mỗi chiều về, giữa ánh nắng nhạt màu, khi tiếng chuông chùa hòa quyện vào gió, vào mây, du khách đến đây như thấy lòng mình thư thái hẳn.

 108. THIỀN VIỆN THƯỜNG CHIẾU -Vũng Tàu

    Thiền Viện Thường Chiếu rộng hơn 50 hecta nhưng bây giờ còn hơn 20 hecta vì phân chia ra nhiều Thiền Viện và một số thất riêng của qúy Thầy Cô và Hòa Thượng Thích Nhật Quang quản lý chung tất cả các Thiền Viện trong khuôn viên Thường Chiếu. Thiền Viện Thường Chiếu có mười ban ngành với tổng số lượng hơn 200 vị Tăng và hơn 70 chú tiểu độ tuổi từ 6-16, ngoài ra có một Hoa Viên hơn 70 vị Ni dành riêng cho các cô các bà từ độ tuổi ngoài 40 - 60 muốn đi xuất gia khi tuổi về già.
Trụ trì: HT Thích Nhật Quang.
Địa chỉ: ấp 1C, huyện Long Thành, tỉnh Ðồng Nai
Ðiện thoại: 061.3542.631, 061.3841.




Chùa Phước Lâm tọa lạc tại số 65, đường Nguyễn Bảo, Phường 6, thành phố Vũng Tàu là một trong số ít những ngôi chùa cổ của tỉnh Bà Rịa – Vũng TàuChùa Phước Lâm được xây dựng ở chân núi lớn (núi Tương Kỳ) lúc đó có tên Phước Sơn Tự Vào khoảng năm 1944, thực dân Pháp lấy khu vực ở gần chùa làm trường bắn cho Trường thiếu sinh quân, nên chùa được dời xuống vị trí hiện nay. Từ ngày chuyển vị trí, chùa đã qua 4 đợt trùng tu vào các năm 1944, 1956, 1965 và 1993. Chùa Phước Lâm Tự có diện tích trên 6.000m2, Tổng thể chùa gồm 04 khu chính: Tam quan, chùa Phước Lâm, Tượng Phật Bà Quan Âm, nhà ở của tăng ni và khu vực vườn tháp. được xây dựng theo phong cách kiến trúc Ấn Độ.


Ngôi chánh điện Phước Lâm Tự rộng 500m2, được bài trí các bàn thờ: Thờ 03 pho tượng Tam Thế, tượng Thích Ca Mâu Ni tọa thiền trên tòa sen, hai bên có Anan và Ca Diếp; tượng Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn và Thích Ca sơ sinh. Phía trước chánh điện thờ tượng Quan Âm Chuẩn Đề 12 tay, Phật bà Quan Âm, Tượng Quan Âm Bồ Tát ngồi trên đài sen. Bên trái tòa chánh điện thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, hai bên có ông Khuyến Thiện và Trừng Ác. Bên Phải tòa chánh điện thờ tượng thần Vishnu bằng đá có 04 tay, tượng cân đối, tạc khá công phu, kỹ lưỡng sơn màu son.Nguồn gốc pho tượng này là do người dân khóm Bỉnh Sơn, thuộc phường Thắng Nhì phát hiện trong lúc đào giếng. Niên đại của pho tượng bước đầu được các nhà bảo tàng học BR-VT được xác định vào khoảng thế kỷ VII-VIII. 



Do được xây dựng lại nên chùa Phước Lâm Tự mang phong cách hiện đại và có phần ảnh hưởng phong cách kiến trúc Ấn Độ, bên cạnh đó chùa Phước Lâm Tự vẫn mang những nét đẹp về lịch sử văn hóa cổ xưa của ngôi chùa Việt. Trong chùa hiện nay còn lưu giữ pho tượng thần Vishnu cổ (TK VII-VIII) một tác phẩm điêu khắc bằng đá có giá trị và một đại hồng chung bằng đồng được đúc vào năm Ất Mùi (1895). Chùa Phước Lâm hiện đang lưu giữ các cổ vật như tượng thần Vishnu, đại hồng chung... là những báu vật minh chứng quí báu để các nhà chuyên môn nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng trên vùng đất Vũng Tàu xưa. Chùa Phước Lâm được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 1992



109.CHÙA GIÁC NGẠN -Tây Ninh
 
Chùa giác Ngạn nằm trên tỉnh lộ 781, từ thị xã Tây Ninh đến huyện Châu Thành, một trong những ngôi chùa cổ ở Tây Ninh hiện còn tồn tại. Chùa thuộc ấp Bình Phong, xã Thái Bình trong một khung cảnh hoang sơ yên bình, một kiến trúc cổ kính, gần gũi với văn hoá dân gian, phảng phất nét đẹp
truyền.thống của Phật Giáo Việt Nam. Ngôi chùa được xây dựng trên diện tích khoảng 400m2 toạ lạc trên một khu đất rộng 1ha. Mặt trước chùa là một mặt dựng gồm 3 gian cao 8m, hai bên có thang lầu bắc lên.Trước sân là một núi đá khá đẹp và đơn giản, bên trong núi có tượng đức Phật Quan Thế Âm Bồ Tát. Còn có pho tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni màu trắng trang nghiêm.


  Bên phải chùa là nghĩa trang, nơi yên nghỉ của Phật tử quá cố. Chùa Giác Ngạn do phái Phật giáo Lục Hòa Tăng xây dựng cách đây hơn 100 năm, sau chùa Thiền Lâm, cùng thời với các chùa Phước Lâm, Cao Sơn, Long Sơn, Hạnh Lâm, Cẩm Phong. Lúc đầu chùa chỉ được xây dựng bằng vật liệu đơn sơ. Cho đến năm 1950 mới được xây dựng kiên cố theo kiến trúc hiện nay.
Người sửa chữa, xây dựng lại ngôi chùa là hòa thượng Thích Giác Thiền từ núi Bà Đen đến.



  


110. CHÙA THIỀN LÂM -Tây Ninh

Ngày xưa, nơi đây là một gò đất cao mọc đầy dây kén nên dân gian gọi là Gò Kén, tên gọi đó tồn tại cho đến ngày nay dẫu loại dây kén đã hoàn toàn biến mất từ lâu. Do đó, chùa Thiền Lâm còn được dân gian gọi là chùa Gò Kén cho đến bây giờ.
Picture

Chùa Thiền Lâm do hoà thượng Thích Trí Lượng khởi xây với hình thức ban đầu tre lá đơn sơ từ cuối thế kỷ XIX. Thiền Lâm là một trong những ngôi chùa cổ ra đời sớm nhất ở Tây Ninh.


Vào năm 1925, hoà thượng Thích Từ Phong (tên huý là Như Nhãn), đệ tử của hoà thượng Thích Trí Lượng cùng các tín đồ Phật giáo đã xây dựng ngôi chùa lại kiên cố trên một khuôn viên rộng 20.000m2 (ngày nay diện tích này đã bị thu hẹp lại).
 
 
Chùa tọa lạc tại số 5/11 ấp Long Trung, xã Long Thành Trung, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh. ĐT: 066.846801. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.



Chùa do Hòa thượng Thích Từ Phong sáng lập, được khánh thành vào năm 1925. Chùa nằm trên một gò đất mang tên gò Kén, cạnh quốc lộ 22, cách thị xã Tây Ninh 5km, nên thường được gọi là chùa Gò Kén. Kiến trúc chùa do kiến trúc sư Học Đình vẽ kiểu. Chiều dài ngôi chùa khoảng 30m, chiều rộng khoảng 15m, hai mái lợp ngói móc.




Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chùa thờ nhiều tượng Phật, Bồ tát, La hán, Minh Vương... Chùa còn giữ nhiều pho tượng cổ bằng gỗ. Trước chánh điện có đài Quan Âm.
Chùa được trùng tu năm 1970.

111. CHÙA PHƯỚC LƯU -Tây Ninh


Chùa Phước Lưu nằm cạnh Quốc lộ 22A, đối diện với bệnh viện và sân vận động Trảng Bàng. Chùa tọa lạc ở 259 quốc lộ 22, thị trấn Trảng Bàng, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. ĐT: 066.880093. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.Chùa trước đây là am Bà Đồng, đến năm 1900, hình thành chùa Bà Đồng. Tổ Trừng Lực thuộc chi phái Thiền Liễu Quán đã tổ chức xây lại ngôi chùa và đặt tên Phước Lưu.


Chùa Phước Lưu được xây dựng vào giữa thế kỷ 19. Ban đầu chỉ là một cái am nhỏ, gọi là am Bà Đồng, sau này được xây dựng thành chùa nên cò tên gọi là chùa Bà Đồng.
Năm 1900, Tổ Trừng Lực thuộc đời thứ 42, phái Liễu quán đã quyên góp tài chính của phật tử địa phương và cộng đồng người Hoa ở Trảng Bàng sửa chữa và mở rộng chùa, đặt tên là chùa Phước Lưu.

Phước Lưu: Chùa - Pagode - Pagoda


Từ lúc xây dựng đến nay đã qua bốn lần trùng tu, sửa chữa vào các năm 1943, 1946, 1975 và 1990. Đây là một ngôi chùa được xây dựng bề thế, khang trang. Hệ thống tượng phật và các đồ thờ tự có giá trí cao so với các chùa phật ở Tây Ninh. Ngoài tượng phật Di Lặc, có tượng Di Đà Tam Tôn bằng gốm thếp vàng được mang từ Trung Quốc sang (gốm sứ đời Thanh). Với 15 tượng Phật được làm bằng chất liệu đất nung thành gốm sứ đời Thanh (chế tác từ Trung Quốc).

Chùa Phước Lưu là nơi có nhiều tượng phật cùng nhiều hiện vật cổ được tạo tác có giá trị nghệ thuật cao như: 4 bàn tủ khảm trai, bộ tràng kỷ mặt đá. Đặc biệt có 2 đĩa lớn (đường kính 55cm), 2 chóe lam lớn. Với những họa tiết, hoa văn đường phủ men lam là những hiện vật cổ có giá trị độc đáo.
Với lối kiến trúc đẹp, hòa với tổng thể thiên nhiên. Một ngôi chùa đã được giới thiệu trong “Việt Nam danh lam cổ tự”.

Chùa đã được trùng tu nhiều lần vào các năm 1945, 1946, 1968, 1975, 1990. Chánh điện được bài trí trang nghiêm. Chùa còn bảo tồn nhiều pho tượng cổ, như bộ tượng Di Đà Tam Tôn bằng gốm, thếp vàng; bộ tượng Thập bát La hán; bộ tượng Thập Điện Minh Vương và các bao lam với nét chạm khắc tinh xảo.



112. CÁC CHÙA TRÊN NÚI BÀ ĐEN - Tây Ninh

-CHÙA LINH SƠN  (Điện Bà)


Chùa thường được gọi là chùa Bà, tọa lạc trên núi Bà Đen, thuộc ấp Ninh Trung, xã Ninh Sơn, thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Núi Bà Đen ở Tây Ninh, cách Saigon 110 km. Từ xa nhìn núi Bà Đen như một chiếc nón lá úp trên đồng bằng. Đây là ngọn núi cao nhất ở Miền Nam.
Núi Bà Đen còn gọi là núi Điện Bà, còn có tên là Vân Sơn, vì thường có mây phủ. Và còn có tên là núi Một. Núi Bà Đen Tây Ninh là một quần thể miếu chùa, tổng hợp đạo Phật và Tiên Thánbh, trong đó điện Bà lớn hơn hết, thờ một vị nữ thần là Linh Sơn thánh mẫu.


 


Tương truyền kể rằng: xưa kia có một người con gái là Lý Thị Thiên Hương ở Trảng Bàng, nhan sắc lộng lẫy, do tình duyên trắc trở, người con gái này bỏ lên núi và bị bọn phỉ giết chết, xác khô đen. Tên núi là Bà Đen có từ đó. Bà Đen có núi đá gập ghềnh, cây cối xanh tốt, trên có chùa Vân Sơn trông xuống hồ nước, nước hồ trong lặng. Đường lên đỉnh núi quanh co, có rất nhiều cảnh trí do thiên nhiên tạo ra. Lên trên cao, hướng về phía đông nam là ngọn núi Cậu. Hướng về phía tây bắc là ngọn núi Heo và núi Phụng.
 




-CHÙA HANG, CHÙA THƯỢNG, CHÙA HẠ

Tại núi Bà Đen, trước kia có nhiều chùa, nhưng từ khi có chiến tranh thì các chùa bị hư hại. Hơn nữa, nơi này là chiến khu cộng sản, chẳng ai dám lên cúng tế, thăm viếng. Sau 1975, Việt Cộng thấy tôn giáo cũng là phương cách làm giàu, và cũng là phương cách bảo vệ an ninh, tình báo. Do đó, một số cán bộ, bô đội phục viên cho vào ở các chùa và lập các chùa.  Bà. Bà Nguyễn Thị Định (1922), quê tỉnh Long Xuyên (An Giang ngày nay) là cán bộ cộng sản, nay trở thành Thích Nữ Diệu Nghĩa, Viện chủ cai quản các chùa trên núi Bà Đen.

 Hoi xuan nui Ba

Tại Bà Đen có ba khu triển lãm bảo tàng được hình thành. Đó là động Kim Quang, khu chùa Hang và Chân Núi. Toàn bộ quần thể núi Bà rải rác có nhiều chùa, nhưng chỉ có ngôi chùa chính có quy mô lớn. Ngoài chùa Thượng (chùa Bà) còn có chùa Hạ, chùa Trung. Những ngôi chùa này đã được xây dựng từ lâu đời, nhưng qua các cuộc chiến tranh ác liệt, bom đạn tàn phá nên đổ nát. Những ngôi chùa hiện nay được xây dựng lại từ các năm 1995, 1997.



Phật Niết Bàn (núi Bà Đen - Tây Ninh)

Từ những ngày đầu tiên xây dựng chùa có các vị tổ sư: Chủ tổ Thiệt Diệu, Tế Giác, Đại Cơ, Đạo Trung, Tánh, Thiền Hải Hiệp (nay còn tháp ở chùa). Tiếp đến là Thánh Thọ Phước Chí (tại vị 1871 - 1880). Tổ Trừng Tùng Chơn Thoại kiến thiết chùa phật, nhà giảng đường (tại vị 1880 - 1910). Tổ Tâm Hòa Chánh Khâm (tại vị 1910 - 1937) xây cất chùa tổ bằng đá (1922 - 1924), nhà tổ bằng đá (1937). Tổ Nguyên Cơ Giác Phú, Nguyên Cần Giác Hạnh lập tháp cho bổn sư và sư huynh (1939), Sư Nguyên Bộ Giác Ngọc (tự DiNa) trụ trì từ 1946 - 1957. Hòa Thượng Nguyên Chất Giác Điền (tại vị 1952 - 1957) thay mặt hàng năm lo liệu lễ vía Bà và khai trường hương, trường kỳ. Từ năm 1956, lập ra Hội núi Điện Bà do bác sĩ Nguyễn Văn Thọ giữ chức danh Hội trưởng.

113 . CHÙA VĨNH TRÀNG -Mỹ tho


Chùa Vĩnh Tràng tọa lạc ở đường Nguyễn Trung Trực, xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. ĐT: 073.873427. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Cổng chùa được trùng tu năm 2005, phía trên được tôn trí tượng Đức Phật A Di Đà

 
Chùa vốn là một thảo am do ông Tri huyện Bùi Công Đạt xây cất vào khoảng đầu thế kỷ XIX. Đến năm 1849, Hòa thượng Thích Huệ Đăng trụ trì đã tổ chức xây dựng thành ngôi đại tự và đặt tên là chùa Vĩnh Tràng. Kế vị trụ trì là Hòa thượng Thích Thiện Đề. Khi ngài viên tịch, ngôi chùa hương tàn khói lạnh.




Năm 1890, bổn đạo đến chùa sắc tứ Linh Thứu thỉnh Hòa thượng Quảng Ân – Chánh Hậu về trụ trì. Năm 1895, ngài đã tổ chức xây lại ngôi chùa. Chùa lại bị hư hỏng nặng vì trận bão năm 1904. Từ năm 1907 đến năm 1911, ngài đã khuyến giáo tín đồ đóng góp công của đại trùng tu ngôi chùa và mời điêu khắc gia Tài công Nguyên đảm nhận phần trang trí và tạc các tượng thờ trong chùa.







Hòa thượng Chánh Hậu gốc người Minh Hương, sinh năm 1852 tại làng Điều Hòa, tỉnh Định Tường (cũ). Năm 1876, ngài quy y thọ giới với Hòa thượng Thích Minh Phước tại chùa Bửu Lâm. Ngài đã được cử làm Thủ tọa chùa sắc tứ Linh Thứu từ năm 1880, trụ trì chùa Vĩnh Tràng từ năm 1890, và đã thường xuyên mở các lớp gia giáo để đào tạo tăng tài. Ngài viên tịch vào năm 1923. Hòa thượng Tâm Liễu – An Lạc (tức HT. Minh Đàng, thế danh Lê Ngọc Xuyên) kế tục, cho xây cổng tam quan, mặt tiền, chánh điện và nhà tổ.

 


Cổng giữa của tam quan làm bằng sắt theo kiểu Pháp. Hai cổng hai bên làm bằng xi măng, dạng cổ lầu, được ghép toàn mảnh sành sứ với nhiều đề tài bông hoa, thú vật, truyện tích... do thợ Huế làm, trong đặt tượng chân dung HT. Chánh Hậu và HT. Minh Đàng do nhà điêu khắc Nguyễn Phi Hoanh thực hiện vào năm 1933.

Chùa rộng khoảng 2 hecta. Trước có sân kiểng và tượng đức Phật Thích Ca tham thiền dưới cội bồ đề. Bên phải có ao sen, tượng đài Bồ tát Quan Thế Âm, hai bên có nhiều ngôi tháp cổ của các vị Hòa thượng tiền bối, phía sau có hội trường và phòng phát hành kinh sách. Trong khuôn viên chùa còn có nhiều cây cao bóng mát và vườn cây ăn trái. Mặt tiền chùa được xây bằng bê tông nửa Á nửa Âu. Đây là môtíp La Mã xen với môtíp Phục Hưng, bông sắt Ấn Độ, gạch men Nhật Bản. Những câu chữ Hán viết theo thể truyện xen với những câu niệm Phật chữ quốc ngữ. Đứng xa trông vào nóc chùa mường tượng như năm tháp Ăngkor.



Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Tượng Phật Trung Tôn, bộ tượng Di Đà Tam Tôn (đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quan Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí), tượng Đản sanh, tượng Di Lặc và tượng Thất Phật Dược Sư được tôn trí ở án giữa. Hai bên án thờ có tượng hai vị Hộ Pháp, tượng chân dung Hòa thượng Chánh Hậu và Hòa thượng Minh Đàng. Chùa còn đặt thờ nhiều tượng như Quan Âm, Địa Tạng, Ngọc Hoàng, Minh Vương... Đặc biệt, hai bên vách có thờ bộ Thập bát La Hán, mỗi tượng cao khoảng 0,80m, cỡi trên các con thú như trâu, ngựa, lạc đà,... là những tác phẩm tượng tròn độc đáo của Nam Bộ.





Chùa có nhiều bao lam và hoành phi, câu đối. Các bao lam ở đây được chạm trổ công phu, như bộ bao lam Bát tiên kỵ thú đặt ở gian giữa.Vĩnh Tràng là ngôi cổ tự danh tiếng bậc nhất ở miền Nam.

114. CHÙA THANH TRƯỚC -Gò Công


Chùa tọa lạc tại ấp Gò Tre, xã Long Thuận, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Chùa được dựng vào năm 1826, có tên là chùa Phật Linh. Tương truyền chùa do các mục đồng dựng lên vào năm 1826. Lúc đầu, đây chỉ là một thảo am nhỏ có tên là Phật Linh. Đến khi Thiền sư Ngô Thiện, thuộc dòng Lâm tế chính tông đời thứ 39 về trụ trì, chùa mới được xây cất tôn nghiêm và lấy tên là Thanh Trước. Năm 1851, hoà thượng Chân Hội về làm trụ trì đã cho trùng tu và mở rộng ngôi chùa. Năm 1896, hoà thượng Hải Tràng cho trùng tu chùa. Hoà thượng Hoằng Thông đã cho sửa chữa vào các năm 1946, 1958 và 1989.


Chùa Thanh Trước
Chùa Thanh Trước






Khi xưa, khuôn viên nhà chùa rất rộng, nay chỉ còn khoảng 1 ha. Qua các lần trùng tu, diện mạo chùa Thanh Trước cũng đã thay đổi khá nhiều. Nhưng bên trong chánh điện vẫn còn bảo lưu được nét kiến trúc cổ với 40 chiếc cột gỗ đen bóng và rui mè, mái ngói. Các bệ thờ đã được xây dựng lại và tô bằng đá mài. Ở bàn thờ tổ không thờ tổ Đạt Ma mà thờ đức Tỳ Ni Đa Lưu Chi với một khung kính ghi rõ tiểu sử. Hậu tổ có 4 tấm linh vị của các dòng Lâm Tế chính tông đã trụ trì ở chùa. Trong chùa còn lưu giữ nhiều di vật quý, như tượng Đức Phật, chân dung Tổ Tì Ni Đa Lưu Chi, ở khuôn viên chùa có tháp Tổ.


115. CHÙA PHƯỚC LÂM- Cai Lậy


Chùa tọa lạc tại xã Phú Nhuận, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Từ Saigon  theo quốc lộ 4 đến Cai Lậy, đi tiếp khoảng 7km đến cầu Phú Nhuận, quẹo phải theo đường vào cầu Rạch Cá Rắn, đi hơn 2km thì đến chùa. ĐT: 073.829223. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.

 

Tài liệu của chùa cho biết, chùa được thành lập vào hậu bán thế kỷ XVIII. Theo một số nhà nghiên cứu hiện nay, chùa được ngài Trừng Trữ, hiệu Quảng Huệ, khai sơn vào khoảng giữa thế kỷ XIX. Ngài tịch vào ngày 17 tháng 9 năm Đinh Hợi (1887). Về sau, ngài Khánh Huy về trụ trì, đã cho tái thiết ngôi chùa vào năm 1921, khai Trường Hương từ năm 1923. 
 
 Toàn cảnh chùa - 1998

Ngài là vị cao tăng, học rộng đức cao, có nhiều đệ tử ở khắp nơi. Vào năm 1932, ngài dự kiến đại trùng tu ngôi chùa, để có chỗ rộng rãi cho chư tăng các nơi về tu học, nhưng vì nhân duyên đã mãn, ngài viên tịch, nên việc trùng tu phải đình lại. Kế thế trụ trì là ngài Tịnh Biên – Nguyên Đắc (1932 – 1960), ngài Nguyên Trí – Tịnh Trí (1960 – 1974) và Tỳ kheo ni Nguyên Hiền (1974 – 1987) đều có tổ chức trùng tu.




Ngôi chùa ngày nay tọa lạc trong một khuôn viên rộng 2ha, được xây dựng bằng vật liệu kiên cố.
Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chính giữa thờ đức Phật Thích Ca tọa thiền trên Kim Cang tòa. Tượng đức Phật cao 3,5m, nặng hơn 1 tấn, đúc tại chùa năm 1998. Hai bên điện Phật là phù điêu hai vị Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền, cùng sáu bức phù điêu về lịch sử đức Phật Thích Ca: Đản sanh, xuất gia, cắt tóc, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập niết bàn. Chùa còn lưu giữ nhiều tấm biển, câu đối, tượng thờ, long vị cổ.Phước trạch khánh do tâm hòa hiệp thập phương tâm thành tâm đồng chú nguyện.
Lâm tùng huy tại giác thượng kỳ tứ chúng giác viên giác phổ hương triêm.

(câu đối năm 1923)

116. CHÙA PHÁP BẢO- Mỹ Tho
 

Chùa tọa lạc ở số 44/448 đường Lý Thường Kiệt, phường 5, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Điện thoại: 073.878168, 073.878169. Chùa thuộc Hệ phái Phật giáo Nam tông.Ngôi chùa được xây dựng vào năm 1966.



Chùa Pháp Bảo, tọa lạc tại số 44 / 448 Đường Lý Thuờng Kiệt - Phường 5 -Tp. Mỹ Tho - Tỉnh Tiền Giang. Nguyên trước đây gia đình ông Phán Lễ ( Ông Nguyễn Văn Lễ, làm công chức bậc trung gọi là Phán hoặc thông phán - gọi tắt là Phán Lễ, cho nên vợ ông là bà Phan Thị Trường - được gọi là Bà Phán Lễ ) là một gia đình giàu tại Mỹ Tho, có nhiều ruộng đất - trong đó có mảnh đất ông bà cho những người nghèo đến lập mộ chôn cất miễn phí.
Năm 1966: Qua sự giới thiệu của Cô Bảy An ( là Phật tử Nguyên Thủy - người Mỹ Tho ), ông bà Phán Lễ đã hoan hỷ cúng mảnh đất ấy để Giáo hội làm chùa. Lúc bấy giờ Hòa Thượng Giới Nghiêm ( hitasīlo Mahathera )  là Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam nhận lãnh phần đất này sau khi người dân đã hốt cốt mả để chính quyền bàn giao miếng đất ( gần 1 hecta ) cho Giáo hội.


Ngày 27 / 02 / 1966: Ngài Tăng Thống cùng chư Tăng và Phật tử từ Sài Gòn xuống Mỹ Tho làm lễ an vị Phật và bàn giao ngôi chùa nhỏ ( được lợp lá đơn sơ, chưa dựng vách ) cho ngài Hòa Thượng Pháp Lạc ( Sukhadhammo Mahathera ) quản lý và xây dựng. Hòa Thượng Giới Nghiêm ban hiệu chùa là Pháp Bảo ( vì chùa cùng hệ thống là chùa Phật Bảo ở quận Tân Bình - TP.HCM - chùa Tăng Bảo ở tỉnh Quảng Ngãi ). Vào hạ ( 06 / 11 / 1966 ) Cô Trần Thị Thự làm chủ lễ dâng y Kathina đầu tiên tại ngôi chùa Pháp Bảo này.

 

Năm 1967: Hòa Thuợng Pháp Lạc xin phép Giáo hội làm lễ đặt viên đá đầu tiên, chính thức khởi công xây dựng ngôi chùa Pháp Bảo.
Ngày 03 / 01 / 1968: Làm lễ an vị Phật, và thờ năm viên Xá Lợi Đức Phật được tổ chức trọng thể dưới sự chứng minh của ngài Tăng Thống Giới Nghiêm, mặc dù phần xây dựng chánh điện chưa hoàn tất. Cổng tam quan chùa được xây dựng vào năm 1974.

 

Năm 1990: Hòa Thượng Pháp Lạc tạo thêm bốn Phật cảnh trong khuôn viên chùa ( Đản Sanh - Thành Đạo - Chuyển Pháp Luân - Nhập Niết Bàn ).
Năm 1997: Xây Tăng xá gồm sáu phòng dành cho khách nghỉ ngơi.
Ngày 12 / 05 / 2001: ( Nhằm ngày 20 / 04 năm tân tỵ ) Hòa Thượng Pháp Lạc viên tịch tại chùa Pháp Bảo - hưởng thọ 98 tuổi ( 40 năm hạ lạp ). Sinh thời ngoài việc xây dựng chùa Pháp Bảo - Mỹ Tho, Ngài còn sáng lập nhiều ngôi chùa Phật Giáo Nguyên Thủy khác như: Chùa Phước Hải - Châu Thành - Tiền Giang, Chùa Bình Long - Phan Thiết - Bình Thuận, Chùa Thái Bình - Bất Nhị - Quảng Nam, Tịnh Thất Bửu Thanh - Gò Công Đông - Tiền Giang.


Hiện nay đất chùa chỉ còn lại 1 hecta, qua những đợt trùng tu và xây dựng mới, chùa Pháp Bảo trở nên khang trang - thoáng mát - thanh tịnh - trang nghiêm thu hút nhiều Phật tử đến lễ bái và tu học sinh hoạt. Hàng năm vào rằm tháng 04 ( âm lich ) chùa cung thỉnh Xá Lợi Phật trên bảo tháp xuống chánh điện cho chư Tăng Ni Phật tử gần xa chiêm bái.
Với vai trò là người kế tục trụ trì - Đại Đức Bửu Hiền cố gắng thu thập qua nhiều phương tiện như băng - đĩa - kinh - sách tài liệu để giới thiệu, cũng như tranh ảnh từ Thái Lan - Sri Lanka giúp cho chư Tăng tu nữ Phật tử thuận lợi trong việc nghiên cứu tu học, ngoài ra trong thư viện chùa còn có ba bộ kinh tam tạng tiếng Thái - Camphuchia - và tiếng Anh ( do ngài Thiền Sư Kim Triệu ở mỹ hiến cúng ). Đồng thời qua đó thực hiện ý nguyện của Hòa Thượng Pháp Lạc khi ngài còn tại thế là: Xây thêm phòng ốc mở lớp học Pali tạo điều kiện cho Tăng Ni Phật tử học hỏi thực hành giáo lý nhà Phật và hiểu rõ về nhân qủa, dự kiến sẽ thỉnh các vị Sư Sri lanka tới giảng dậy, đào tạo Tăng tài lớp kế thừa Hoằng Truyền Phật Pháp Lợi Lạc Quần Sanh.
Hàng tháng, chùa tham gia các hoạt động từ thiện tại Tân Mỹ Chánh, hội người mù,  bệnh viện tâm thần Nhị Bình tại huyện Cai Lậy.
Có thể nói chuẩn xác là Hòa Thượng Pháp Lạc chính là vị Tổ khai sáng nền Phật Giáo Nguyên Thủy Tại Tỉnh Tiền Giang, và chùa Pháp Bảo là ngôi chùa tiêu biểu của Phật Giáo Nguyên Thủy Tải Tỉnh Tiền Giang.































 Tam quan chùa được xây năm 1974. Chùa được trùng tu vào năm 2004.


Chùa có nhiều công trình xây dựng như giảng đường, tăng xá, cốc tu, tháp mộ Hòa thượng Pháp Lạc (cao 13m), cùng vườn tượng Phật lộ thiên như: vườn Lâm Tỳ Ni, tượng Thái tử tu khổ hạnh, tượng Phật thành đạo và tượng Phật nhập niết bàn.Cảnh chùa thoáng đãng, thanh tịnh, trang nghiêm.


Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chính giữa thờ đức Phật Thích Ca tọa thiền trên Kim Cang tòa. Tượng đức Phật cao 3,5m, nặng hơn 1 tấn, đúc tại chùa năm 1998. Hai bên điện Phật là phù điêu hai vị Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền, cùng sáu bức phù điêu về lịch sử đức Phật Thích Ca: Đản sanh, xuất gia, cắt tóc, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập niết bàn. Chùa còn lưu giữ nhiều tấm biển, câu đối, tượng thờ, long vị cổ.

117. CHÙA LINH PHONG- Mỹ tho

Chùa tọa lạc tại 178/1, thị trấn Tân Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. ĐT: 073.831489. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.Ngôi chùa nhỏ được xây cất vào cuối thế kỷ XIX.
Trước đây, chùa do Hòa thượng Thích Minh Giám trụ trì. Năm 1940, ông Hộ Thông tổ chức trùng tu và thỉnh Hòa thượng Thích Đạt Hương về trụ trì. Năm 1988, Hòa thượng viên tịch. Sư cô Thích Nữ Tắc Hoa trụ trì hiện nay.


Mặt tiền chùa

Toàn cảnh chùa

Chùa đã được trùng tu vào các năm 1916, 1940, 1955,1989. Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chùa tôn trí tượng Di Đà Tam Tôn, Thập bát La hán, Thập Điện Minh Vương... Chùa giữ được một số pho tượng cổ.


Chùa Hội Thọ  


118. CHÙA HỘI THỌ- Cái bè

Chùa có tên là Kim Chương, hiện tọa lạc ở ấp Mỹ Hưng, xã Thiện Trí, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. ĐT: 073.753244. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa nguyên là chùa sắc tứ Kim Chương, chùa sắc tứ Phổ Quang, chùa sắc tứ Thiên Trường, là ngôi đại già lam bậc nhất ở đất Gia Định.Chùa do ngài Đạt Bản, quê ở Quy Nhơn, khai sơn năm Ất Hợi (1755), gốc ở thôn Tân Triêm, huyện Bình Dương, nay ở vào khoảng chùa Lâm Tế, đường Nguyễn Trãi, SAIGON.

Chùa Hội Thọ

Chùa Sắc tứ Kim Chương đổi tên là Sắc tứ Phổ Quang tự khi Đông cung Nguyễn Phúc Dương về Gia Định và mượn chùa để lên ngôi. Năm 1804, chùa sắc tứ Kim Chương đã mở Đại giới đàn đầu tiên ở Nam Bộ. Đây là một sự kiện quan trọng ở vùng đất phương Nam.
Năm 1813, Thừa Thiên Cao Hoàng hậu hỷ cúng một vạn quan tiền, sai tướng Trần Nhân Phụng đêm lính thợ đến trùng tu chùa. Chùa được triều đình Huế cử tăng cang về trụ trì và đổi tên chùa là Sắc tứ Thiên Trường tự. Theo Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí thì bấy giờ chùa rất rộng lớn: trước có sơn môn và nhà thiêu hương, trong có chánh điện, hai bên có Đông lang và Tây lang, phía sau có phương trượng và nhà chứa kinh sách.
Năm 1859, khi quân Pháp tấn công Gia Định, Tăng cang Hòa thượng Minh Giác đã chuyển ngôi quốc tự và Phật tượng về Cái Bè, đổi tên là Hội Thọ tự. Chùa đã bị hư hỏng gần như hoàn toàn qua những năm tháng chiến tranh. Ngôi chùa hiện nay được dựng đơn sơ vào năm 1982.

Đài Quan Âm

Hoa sen

Năm 1992, Ban Trị sự Phật giáo tỉnh bổ nhiệm Đại đức Thích Phước Huy về trụ trì chùa, nhưng sau đó không lâu, Đại đức qua đời. Phía sau chùa có 3 ngôi tháp. Tháp Hòa thượng Minh Giác, tháp Hòa thượng Thiệu Long, tháp Yết ma Quảng Tục.
Chùa còn giữ được nhiều bài vị và tranh chân dung của các vị Tổ. Bộ tượng gỗ do Thừa Thiên Cao Hoàng hậu cúng năm 1813 gồm các pho tượng Địa Tạng, Đạt Ma, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Minh Vương, Già Lam, Phán Quan được tạc đặc sắc. Đặc biệt, pho tượng đức Phật A Di Đà bằng đất sét cao 0,55m, ngang gối 0,40m, đang tọa thiền, có niên đại khoảng đầu thế kỷ XIX, là một tác phẩm mỹ thuật đặc sắc của Gia Định xưa.
119. CHÙA BỬU LÂM -Mỹ Tho
 
Chùa tọa lạc tại đường Anh Giác, phường 3, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. ĐT: 073.876613. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa do bà Nguyễn Thị Đạt xây dựng vào năm 1803. Chùa đã trải qua 10 đời truyền thừa, trụ trì đầu tiên là Hòa thượng Từ Lâm, nguyên ở chùa Hội Tôn (Bến Tre). Hòa thượng Thiên Trường đã cho trùng kiến ngôi chùa vào năm 1905.

 

Chùa Bửu Lâm - 1992

Mặt tiền chùa


Hòa thượng Thích Huệ Thông cho sửa lại mặt tiền năm 1994 – 1995 và tiếp tục tôn tạo ngôi chùa khang trang. Hòa thượng hiện là thành viên Hội   đồng Chứng minh Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Chánh điện được bài trí trang nghiêm. Chùa bảo tồn nhiều pho tượng và bộ tượng cổ, nhiều bao lam chạm trổ tinh xảo. Chùa nay vẫn giữ nét đẹp cổ kính, là ngôi cổ tự danh tiếng ở miền Nam.

120. CHÙA PHƯƠC LONG-Gò Công

Ngôi chùa tọa lạc ở ấp 7, xã Tân Tây, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang.Chùa do thiền sư Vô Đại - từ miền Trung vân du vào Nam hoằng đạo - lập nên vào khoảng giữa thế kỷ XVIII. Lúc đầu, chùa có kết cấu rất đơn sơ. Từ khi thành lập đến nay, chùa đã trải quà nhiều lần trùng tu, sửa chữa.
Ngôi chùa hiện nay gồm 3 gian 2 chái, được nâng đỡ bởi các cột tròn bằng danh mộc. Chánh điện tuy không đồ sộ nhưng tập trung rất nhiều tượng quý. Sau chánh điện là hậu tổ - nơi đặt bài vị các tổ truyền thừa dòng Liễu Quán trong đó, có bài vị của tổ Chánh Niệm Hải Hội và tổ Bảo Tạng Hải Bình - 2 danh tăng có nhiều công sức hoằng truyền dòng Liễu Quán vào Nam Bộ, tuy 2 ngài không trụ trì tại chùa. Các vì kèo của gian hậu tổ còn ảnh hưởng khá đậm phong cách Huế kiểu giả thủ.

Chùa Phước Long.


121. CHÙA HỘI TÔN- Bến Tre

Tọa lạc tại ấp 8 - xã Quới Sơn (Châu Thành), Hội Tôn cổ tự được biết đến là ngôi chùa cổ nhất và có giá trị lịch sử văn hóa ở Bến Tre. Theo danh bộ lịch sử những ngôi chùa do Ban Đại diện Phật giáo huyện Châu Thành biên soạn, Hội Tôn cổ tự được thành lập vào năm 1740, do bà Cù Thị Báo và con gái Trần Thị Mỗi ở ấp Quới Hòa Đông tạo lập. Với thảo am ban đầu, những người mộ đạo quanh vùng thỉnh mời hòa thượng để tụ tích hoằng dương Phật pháp. Sau khi tụ tích, ngoài việc truyền dạy giáo lý Bắc tông, Hòa thượng Long Thiền còn dạy cho bổn đạo và cư dân trong vùng cách đóng thuyền bè, cách ươm tơ, dệt lụa, võ nghệ… Đến nay, Hội Tôn cổ tự trải qua 18 đời trụ trì.
 
  


Theo lời kể của ông Hồ Ngọc Sánh, cháu đời thứ 6 của người lập Hội Tôn Tự, những năm 1804-1805, chùa được cất lại bằng gỗ, gồm chánh điện, sân khấu, nhà Tổ, phòng sư sãi, tăng ni, lẫm lúa, nhà đãi, nhà trù… Xung quanh trồng cây ăn quả, sao, dầu, gõ và 2 cái ao nuôi cá phóng sinh. Năm 1884, chùa được trùng tu một lần nữa nhưng vẫn giữ gần như nguyên vẹn nếp xưa. Do chiến tranh tàn phá, năm 1947, chùa được xây dựng lại, còn giữ nhiều cột gỗ nhưng vách bằng tường, mái lợp ngói. Tuy không còn hình dạng của chùa cũ nhưng vẫn đậm nét văn hóa Việt theo kiến trúc dạng chữ đinh. Năm 1973, chùa một lần nữa được trùng tu và vẫn giữ nét cổ kính của một ngôi chùa mái ngói âm dương vốn có.Chùa hiện nay còn giữ một số bản gỗ khắc kinh (chữ Hán), nhiều pho tượng cổ như: Hộ Pháp, Tiêu Diện, Minh Vương...Trong vườn chùa có 15 bảo tháp các ngài Bảo Chất, Quảng Giáo, Tâm Định, Chánh Hòa...
 

Trên đây là hình chùa mới xây. Ngày nay, cộng sản tái thiết chùa, phá chùa cũ làm chùa mới, họ lấy tiền bạc nhưng đã làm mất dấu vết cổ tích.

122. CHÙA GIÁC THIÊN- Vĩnh Long



Chùa tọa lạc tại số 70 đường Trần Phú, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. ĐT: 070.822328. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa do bà Trương Thị Lâu (sau bà xuất gia, pháp danh Như Đạt) xây dựng vào năm 1906. Chùa đã được trùng tu nhiều lần.



Chánh điện được bài trí trang nghiêm. Chùa có nhiều tượng Phật, Bồ tát là những tác phẩm điêu khắc có giá trị nghệ thuật. Thượng tọa Thích Phước Tú đang tiếp tục trùng tu, trang trí ngôi chùa.

Chùa Giác Thiện phát gạo cho dân

123. CHÙA PHÁP HẢI
- Vĩnh Long

Chùa tọa lạc ở số 195 đường Trần Phú, phường 4, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. ĐT: 070.828909. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa do Thiền sư Pháp Hải xây dựng vào năm 1962.
Chùa được trùng tu vào năm 1980. Trước đây, chùa là trụ sở Hội Phật học Nam Việt tỉnh Vĩnh Long


Chùa - Pháp Hải - Pagoda


124. TỊNH XÁ NGỌC VIÊN - Vĩnh Long

Tinh xá tọa lạc tại số 14/20/2 đường Xóm Chài, phường 2, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. ĐT: 070.823827. Chùa thuộc hệ phái Khất sĩ, Giáo đoàn 1.Tịnh xá được dựng vào cuối năm 1948, là một trong những dấu tích đầu tiên khai mở giáo pháp của Tổ sư Minh Đăng Quang. Năm 1949, Đại lễ Tự tứ Tăng và Vu lan bồn được tổ chức với quy mô lớn tại tịnh xá đã ảnh hưởng rộng khắp trong sinh hoạt Phật giáo của toàn sơn môn hệ phái.


Tổ đình Tịnh xá Ngọc Viên


Ban đầu, ngôi chánh điện hình chữ nhật (tượng trưng thuyền Bát nhã), dài 16m, rộng 8m được dựng bằng cây lá đơn sơ trên mảnh đất do ông Lê Quang Nhiêu cúng dường, giữa đặt pháp tháp tôn trí đức Phật Thích Ca. Đến năm 1971, đức Trị sự Thích Giác Như đã tổ chức trùng tu ngôi chánh điện với những vật liệu bán kiên cố. Phía sau pháp tháp thờ Phật là bàn thờ ảnh chân dung Tổ Sư cùng tủ kinh Chơn Lý, là bộ sách ghi những bài thuyết pháp của Ngài trong 10 năm hành đạo (1944 – 1954).




Ngôi chánh điện mới được Thượng tọa Thích Giác Giới tổ chức khởi công xây dựng vào ngày 06 – 8 – 1993, khánh thành trọng thể vào ngày 08–01–1995 trên mảnh đất (kế ngôi chánh điện cũ) do ông Trần Quang Minh (pháp danh Thiện Niệm) và bà Lê Thị Nho (pháp danh Nhu Ngọc) cúng dường. Kiến trúc chánh điện hình bát giác (tượng trưng Bát Chánh Đạo) với ba tầng mái (hai mái trên lợp ngói móc Biên Hòa, mái dưới lợp fibro sơn đỏ). Chánh điện có đường kính 18,10m, cột cái cao 11,40m, cột hàng 4 cao 3,50m. Tượng đức Phật Thích Ca bằng đá trắng cao 1,60m được tôn trí ở pháp tháp giữa chánh điện. Trên tháp thờ bộ Đại Tạng kinh Việt Nam, phía sau thờ ảnh Tổ Sư Minh Đăng Quang.

Tôn tượng Đức Bổn Sư tại Chánh điện Tổ Đình Ngọc Viên

Di ảnh Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang tại Chánh điện Tổ Đình Ngọc Viên

Bộ Chơn Lý hiện còn được thờ tại Tổ Đình Ngọc Viên



Với diện tích đất 6.193m2, ngoài ngôi chánh điện, Tịnh xá đã tôn tạo, xây dựng nhiều công trình khác như: cốc Tổ Sư (lập năm 1948, trùng tu năm 1999) bên cạnh cây bồ đề do chính Tổ Sư gieo trồng, nhà thờ Cửu huyền thất tổ, nhà Tỳ kheo, nhà Sa di, nhà khách nam Phật tử, nhà khách nữ Phật tử, các cốc nhỏ dành cho các sư tĩnh tu, thư viện, trai đường, nhà bếp...
Nhiều vị cao đồ của Tổ sư đã đến trụ xứ, tu học tại tịnh xá như: Trưởng lão Nhị Tổ Giác Chánh, Trưởng lão Giác Tánh, Trưởng lão Giác Như...


Cốc Tổ sư Minh Đăng Quang tại Tổ đình Ngọc Viên
Cây Bồ Đề do đích thân Tổ sư trồng tại Tổ Đình Ngọc Viên
Giảng đường Pháp Vân
'
Nhà Thọ Trai

Các sinh hoạt tín ngưỡng, hướng dẫn Phật pháp cho giới cư sĩ và chương trình tu học hàng ngày của chư Tăng được duy trì thường xuyên, nghiêm túc. Bên cạnh đó, Hòa thượng trụ trì Giác Giới cũng động viên chư Tăng và Phật tử tịnh xá tích cực đóng góp trong các mặt phát triển của Phật giáo tỉnh nhà, đặc biệt là công tác giáo dục và từ thiện xã hội.
Giờ Tụng Giới Bổn Tăng

Giờ Thiền Tọa
 Giờ Thiền hành

Giờ học Pháp tại Giảng đường Pháp Vân


Tịnh xá hiện còn lưu giữ nhiều di vật của Tổ Sư như: giường nằm bằng gỗ, hai bồ đoàn, một biển ghi Đoàn Du Tăng thường treo trên xe khi hành đạo, một giá để kinh...
Tịnh xá ngày nay còn là một cơ sở Phật giáo hoạt động tích cực trong công tác giáo dục và từ thiện xã hội tại địa phương.


Giờ Thọ Trai


Tịnh xá thuộc Giáo đoàn 1 là Giáo đoàn Du tăng đầu tiên của Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam, nay là hệ phái Khất sĩ, một trong chín tổ chức thành viên tham gia Ban vận động thống nhất Phật giáo, thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày nay. Giáo đoàn 1 do Tổ Sư Minh Đăng Quang thành lập năm 1944, trực tiếp thu nhận Tăng Ni xuất gia, hướng dẫn hành đạo. Trong mười năm hành đạo, Tổ Sư đã chứng minh thành lập hơn 20 ngôi tịnh xá đầu tiên, thu nhận hơn 100 Tăng Ni xuất gia và truyền thọ Tam quy Ngũ giới cho hằng chục vạn tín đồ Phật tử tại gia. Giáo đoàn 1 hiện có 21 ngôi tịnh xá, tịnh thất.
Đây là ngôi Tổ đình của hệ phái Phật giáo Khất sĩ Việt Nam. Hệ phái này hiện có hơn 400 ngôi tịnh xá từ Quảng Trị đến Cà Mau.


125. CHÙA PHƯỚC HẬU - Vĩnh Long
Chùa tọa lạc tại xã Ngãi Tứ, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. ĐT: 070.720574. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa được dựng vào hậu bán thế kỷ XVIII. Thiền sư Hoằng Chỉnh ở Quảng Ngãi vào tu đã trùng tu chùa vào năm 1895 và 1910. Chùa được tiếp tục trùng tu và mở rộng dưới thời Hòa thượng Khánh Anh từ năm 1939 và Hòa thượng Thiện Hoa từ năm 1961 đến năm 1972.


Chùa được trùng tu năm 1995. Chùa có hai ngôi tháp đẹp nổi tiếng, là tháp Thiện Hoa và tháp Đa Bảo. Năm 1972, Hòa thượng Thích Thiện Hoa viên tịch, Thượng tọa trụ trì Thích Hoàn Phú đã cho xây tháp Thiện Hoa, thờ linh cốt của Ngài.


Chùa Phước Hậu

Mặt tiền chùa

Tháp Đa Bảo được kiến tạo vào năm 1966, gồm ba tầng. Tầng trên thờ tượng đức Phật nhập niết bàn và Xá lợi Phật. Tầng giữa thờ Pháp Bảo (một bộ kinh Pháp Hoa). Tầng dưới: Phía Đông thờ linh cốt Tổ Khánh Anh, phía Nam thờ linh cốt HT Thích Quảng Đức, phía Tây thờ linh cốt Tổ Khánh Hòa, phía Bắc thờ linh cốt Tổ Huệ Quang, trung tâm thờ đất Phật tại tám Phật tích ở Ấn Độ.
Toàn cảnh chùa

Lễ giỗ tổ Khánh Anh hàng năm vào ngày 29 và 30 tháng giêng Âm lịch trở thành ngày hội của đông đảo Tăng Ni, Phật tử và dân chúng địa phương.
 
126. CHÙA TIÊN CHÂU - Vĩnh Long
Chùa tọa lạc ở ấp Bình Lương, xã An Bình, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Chùa ở cù lao An Bình, cách trung tâm thị xã Vĩnh Long khoảng 1km theo hướng Tây – Tây bắc. Qua sông Cổ Chiên, chùa cách bến đò khoảng 100m. ĐT : 070.858965.

Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.Chùa Tiên Châu, tức Tiên Châu Tự, còn có tên là chùa Di Đà [1]; là một ngôi chùa cổ nhất ở tỉnh Vĩnh Long (Việt Nam)[2].Chùa Tiên Châu nằm trên bãi Tiên, bên tả ngạn sông Cổ Chiên, thuộc cù lao An Bình (tên tục là cù lao Táng)[3]. Xưa nơi đây thuộc làng Bình Lương và An Thành (nay là ấp Bình Lương, xã An Bình [4]), huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.  


 


Mặc dù chỗ ngôi chùa tọa lạc cách trấn thành Vĩnh Long không xa (chỉ cách có con sông Cổ Chiên), song ở đây không khí tĩnh mịch, cây cối tốt tươi, nhà ở thưa thớt. Theo truyền thuyết, vào những đêm trăng thanh gió mát, thỉnh thoảng có tiên nữ xuống trần tắm gội và đùa giỡn. 

 

Do đó, bãi sông này được đặt tên là bãi Tiên (Tiên Châu) hay bãi Bích Trân. Ngoài ra, vì vùng đất này có nhiều rạch nhỏ, ghe thuyền có thể qua lại dễ dàng nên còn tên là bãi Bát Tân (có nghĩa là đi bốn phương tám hướng).


Nói về chùa Tiên Châu, trong sách Đại Nam nhất thống chí có đoạn:

Chùa Di Đà ở trước bãi Bích Trân, thuộc địa phận huyện Vĩnh Bình, do Hòa thượng Hoàng Đức Hội dựng, nước chảy vòng quanh, am viện thanh u, tục gọi chùa Tiên Châu, lại gọi là chùa Tô Châu[5].


 Nói về bãi Tiên, trong sách Gia Định thành thông chí có đoạn:
Ở phía bắc trấn thành, chu vi 12 dặm, sắc cây xanh biếc, ánh nước long lanh như ngọc bích. Lại có tên là Bát Tân, ý nói bến nước thông cả tám hướng. Nơi này làm cồn cát bảo vệ cho sông Long Hồ, hai bên khép lại như cái vạt áo, quanh vòng ôm lấy hai thôn Bình Lương và An Thành. Bên bờ có những ngư dân phơi lưới, treo tơi, ẩn hiện nơi ngọn rừng, gốc cây. Sông thu thuyền câu giỡn nguyệt, hát hò dưới rặng bần, lênh đênh bên cồn cát trắng, bập bềnh qua lại, tạo nên lạc thú của dân chài [6].

Theo bài viết về chùa Tiên Châu của tác giả Trần Thành Trung, thì khoảng giữa thế kỷ 18 ở nơi bãi Tiên đã có một am nhỏ bằng tranh tre vách lá, gọi là am Bãi Tiên. Người gầy dựng là Hòa thượng Giác Nguyên (trụ trì: ? -1801), người gốc Thừa Thiên, đệ tử của Thiền sư Liễu Quán (? - 1743), theo phái Tịnh độ tông, thờ Phật A-di-đà [7]

 

Năm 1801, sau khi Hòa thượng Giác Nguyên viên tịch, Ni sư Diệu Thiện đến chăm nom am Bãi Tiên. Đến đây, ni sư đã vận động tín đồ và khách thập phương quyên góp tiền của, cất lại am, rồi đổi tên gọi là chùa Bãi Tiên.



Chùa Tiên Châu do Hòa thượng Hoàng Đức Hội dựng có hình chữ "tam", gồm ba gian nối liền nhau là chánh điện, hậu tổ và hậu liêu. Trong chùa có tất cả 96 cột gỗ tròn bằng danh mộc, các kèo, xuyên, trính bằng căm xe, gõ đỏ được chạm trỗ khéo léo của các nghệ nhân địa phương và từ Huế vào. Sau đó, chùa Tiên Châu còn được trùng tu nhiều lần, mà lần sửa đổi quan trọng nhất là vào năm Kỷ Hợi (1899). Khi ấy chùa có bốn gian, gồm tiền đường, chánh điện, trung đường và hậu tổ. Mỗi gian đều làm theo kiểu tứ trụ, được nới rộng theo chiều ngang dọc nhờ các kèo đấm kèo quyết. Bộ giàn trò bằng gỗ quý, mái ngói âm dương, xung quanh đóng vách bổ kho.

Vào khoảng năm 1945, quân đội Pháp đến tái chiếm Vĩnh Long. Từ dưới tàu chiến dàn ở sông Cổ Chiên, họ đã nã đại bác lên bờ. Đạn bay tới tấp vào chùa, nhưng chỉ trúng các cột kèo, còn các tượng Phật chẳng xây xát gì[8]. Đến sau Tết Mậu Thân (1968), chùa lại bị chiến tranh làm cho hư hại nhiều. 

Vì thế, ông Đốc phủ Võ Văn Châu đã đứng bán 5 cây sao của chùa đồng thời vận động tín đồ và khách thập phương, để có tiền trùng tu lại chùa, theo bản thiết kế của Hòa thượng Thiên Hương từ Sài Gòn đem về. Nội điện vẫn giữ như cũ, dựng lại mặt tiền bằng vật liệu bê tông. Sau đó, chùa có chiều dài 46 mét, rộng 20 mét. Trên nóc có 5 ngọn tháp, tháp ở giữa là lớn hơn cả, chánh giữa tháp treo biển Tiên Châu Tự.
Năm 2009, cổng chùa Tiên Châu lại được xây mới, và toàn bộ ngôi chùa cũng được sơn phết lại.


127. CHÙA XIÊM CÁN -Bạc Liêu


Chùa Xiêm Cán nằm cách thị xã Bạc Liêu 7km trên đường ra vườn chim Bạc Liêu. Đây là ngôi chùa của người Khmer lớn nhất và đẹp nhất trong vùng. Chùa được xây dựng hồi thế kỷ 19 với kiến trúc độc đáo. Trên những hàng cột là phù điêu các tiên nữ và những quái vật. Theo triết lý của người Khmer, đó là những thử thách đối với Phật tử trên bước đường tu thành chánh quả.

 
 
 

 Trên mái vòm và cầu thang chùa đều chạm trổ họa tiết có hình rắn vì họ quan niệm rằng tấm lòng từ bi hỷ xả của Đức Phật đã thuần hóa được loài vật nguy hiểm này. Chùa Xiêm Cán mang kiến trúc Angkor của người Campuchia, thể hiện ở những họa tiết độc đáo nơi mái vòm, tường, các hàng cột và cầu thang.


 


Đối với chùa Khmer, chánh điện thường quay về hướng Đông vì họ cho rằng con đường tu hành của Phật đi từ Tây sang Đông. Thông thường, ở đâu có chùa thì đồng bào Khmer tập trung ở xung quanh để học chữ, học giáo lý và học nghề. Vì vậy nên họ ví ngôi chùa là "trung tâm văn hóa của người Khmer". Chính vì sự gắn bó mật thiết như thế nên họ rất tự hào về văn hóa của dân tộc mình.

  


Ngôi chùa Xiêm Cán này do chính tay các nghệ nhân địa phương xây dựng bằng những phương tiện hết sức thô sơ. Bên trong chánh điện của chùa đã phản ánh tính thẩm mỹ rất cao của người Khmer với những hoa văn độc đáo. Ở vị trí trung tâm trên nóc sala trang trí hình ảnh đền Angkor Wat, nơi khởi nguồn của phong cách kiến trúc Khmer. Người Khmer tu theo thuyết của Phật Thích Ca nhưng theo hướng của Phật giáo Tiểu Thừa nên trong Chánh điện thờ Phật Thích Ca là chính.

Chùa mang kiến trúc Angkor của người Campuchia, thể hiện ở những họa tiết nơi mái vòm, tường, các hàng cột và cầu thang.Gian chính điện nằm ngay trung tâm của khuôn viên, trên nền cao 1,5m, nhiều bậc cấp và có hành lang bao quanh.
 
 

Trên mái vòm và cầu thang chùa đều chạm trổ họa tiết có hình rắn vì họ quan niệm rằng tấm lòng từ bi hỷ xả của Đức Phật đã thuần hóa được loài vật nguy hiểm này.
 


Với hai màu chủ đạo là đỏ và vàng, kiến trúc ở đây lúc nào cũng rực rỡ dưới nắng, dường như không chịu sự chi phối của thời gian
 
 
Tượng Phật nằm là nơi được nhiều người dân hương khói
 
 
Cột trụ biểu là hình tượng của con rắn 5 đầu, dùng để thắp nến vào những ngày lễ.

 
Tháp chuông cổ, trên tầng 2 là nơi thờ xá lị
   
Nơi đây cũng có những sala là nơi sư sãi nghỉ ngơi 
  
Hoa văn chạm khắc đều mang đậm phong cách của người Khmer

 

Bên trong điện thờ trưng bày nhiều bức vẽ về quá trình khổ luyện của Đức Phật, có thể coi là tư liệu quý báu cho những  người theo đạo Phật.
  
  

Khu mộ tháp yên bình dưới bóng cây

 
 
 


 Một điều đặc biệt nữa là xung quanh 4 bức tường của chánh điện bày trí rất nhiều hình vẽ giải thích quá trình tu hành khổ luyện của Đức Phật từ lúc sinh ra, đến lúc làm Thái tử cho đến khi vào cõi Niết bàn. Đối diện chánh điện là cột trụ biểu, là hình tượng của con rắn 5 đầu, dùng để thắp nến vào những ngày lễ ngụ ý rằng giáo lý Phật pháp sẽ soi sáng cho nhân loại, giúp mọi người sống hướng thiện như chính loài rắn đã thiện. Dù cuộc sống còn không ít những lo toan nhưng dân tộc Khmer rất mộ đạo.
 Không chỉ gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc, họ còn cố gắng xây dựng cho những ngôi chùa ngày càng to lớn và đẹp đẽ hơn. Không chỉ choáng ngợp bởi vẻ bề thế và lộng lẫy của chùa Xiêm Cán, người Khmer ở đây còn rất mến khách. Họ thật thà, chân chất, hiền lành và luôn cần cù, sáng tạo.
 Qua bao đời người, họ đã lao động, vun đắp tạo cảm giác thư thái cho những người ghé thăm chùa. Vào những dịp lễ hội lớn như lễ Ok Om bok, lễ Chol Chnam Thmay, lễ Đôn Ta, không khí chùa thật rộn ràng. Ngày nay, người ta cảm nhận một sắc thái văn hóa đang phồn thịnh và rất đặc trưng của người Khmer đang từng ngày được gìn giữ, phát huy nhằm làm đẹp hơn, phong phú và đa dạng hơn cho văn hóa Việt Nam.

128. CHÙA TAM BẢO - Rạch Giá

Chùa Tam Bảo là một ngôi chùa cổ tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Chùa Tam Bảo được lập bởi bà Dương Thị Oán, ban đầu có kết cấu đơn sơ, vật liệu chính là tre nứa. Trong thời gian bị Tây Sơn truy đuổi Nguyễn Ánh đã từng trú ẩn tại đây và được bà tặng những cuộn tơ tằm quý giá để làm quai chèo không đứt khi vượt biển[1]. Chính vì thế sau khi lên ngôi, năm 1803, vua đã ban biển Sắc tứ cho chùa, từ đó, chùa được gọi là Sắc tứ Tam Bảo - 敕賜三寳[2].


Sau khi Hòa thượng Trí Thiền và Sư Thiện Ân bị bắt, chùa Tam Bảo bị đóng cửa, không ai được lui tới. Sau 1945 chùa mới được mở cửa lại. Tăng tín đồ Phật tử và nhân dân tổ chức một lễ cầu siêu lớn tại chùa để cầu nguyện cho Hòa thượng Trí Thiền, Sư và các đồng chí đã chết.

.


Chùa tọa lạc nơi cao ráo, thoáng mát, trước cửa chùa có ao sen rộng và hòn non bộ. Trước chánh điện là những tượng Phật lớn trang nghiêm, trầm mặc. Chánh điện được thiết kế theo kiểu thượng lầu hạ hiên. Các bàn thờ được chạm trổ công phu, thếp vàng rực rỡ theo dạng “Lưỡng Long triều Nguyệt”, “Song Phụng Triều Châu”, “Bát Tiên”… với màu sơn son thếp vàng còn rực rỡ. Các tượng phật, bồ tát bằng gỗ như Di Lặc, Chuẩn Đề, Địa Tạng, Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm Thế Chí… được điêu khắc với trình độ mỹ thuật cao.



129. CHÙA HẢI SƠN - Hà tiên

Chùa  này còn có tên là Chùa Hang. Chùa Hải Sơn tọa lạc ở xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. ĐT: 077.854544. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Đây là một di tích nằm trong khu Du Lịch Hòn Phụ Tử cách Ba Hòn 18km, và cũng là điểm hành hương và cũng là điểm tham quan của Hà Tiên-Kiên Giang. Chùa nằm nơi chân núi An Hải Sơn. Vì là núi đá vôi bị xâm thực hàng ngàn năm, nên phía sau chùa có một hang rộng ăn thông ra tới biển, nơi có Hòn Phụ Tử.

Tập tin:Chùa Hang - Kiên Giang.JPG


Chùa được thành lập vào khoảng đầu thế kỷ XVIII. Thời bấy giờ, một vài nhà sư Xiêm La theo đoàn ngư dân đánh cá đến vùng đất Hà Tiên đã đưa hai pho tượng đức Phật Thích Ca đến thờ phụng trong một hang núi tự nhiên tại hòn Chông. Ngôi chùa do các vị sư Xiêm La quản lý đến năm 1770. Sau đó, do chiến tranh, các vị sư Xiêm La về nước, chùa bị bỏ hoang một thời gian. Cư dân địa phương đã thỉnh các vị sư gốc Khmer đến trụ trì chùa, nhưng không bao lâu, các vị sư này chuyển sang xây dựng ngôi chùa Ba Trại (gọi Ba Trại vì chùa nằm trong vùng căn cứ nghĩa quân Ba Trại dưới chân núi Hòn Chông của Lãnh binh Nguyễn Trung Trực).
Năm 1800, hai anh em ruột Võ Thường Lễ và Võ Thường Nghĩa (chưa xác định được pháp danh) trùng tu lại ngôi chùa cũ và đặt tên là Chùa Hang. Kế tục trụ trì chùa Hang cũng là một nhà sư người Việt có pháp danh là Thiện Tông.




Hang đá phía sau chùa Hải Sơn chạy theo trục Đông Bắc - Tây Nam, chiều dài hơn 50m, cửa động nhìn ra biển. Chiều dài hang ăn thông 40m, chỗ hẹp nhất chỉ khoảng 3-4 người đi lọt. Phía trong hang, có các hình dáng kỳ quái do nước ăn mòn tạo nên.

130. CHÙA LONG QUANG -Cần Thơ


Chùa Long Quang (tên chính thức là Long Quang Cổ Tự, chữ Hán: 隆光古寺) là một ngôi cổ tự bên bờ sông Bình Thủy; hiện tọa lạc tại số 155/6, khu vực Bình Chánh, thuộc phường Long Hòa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ, Việt Nam.

Chùa Long Quang do Thiền sư Thiện Quyền [2] lập vào năm Minh Mạng thứ 5 (Giáp Thân, 1824). Lúc đầu, chùa chỉ là một am nhỏ bằng cây lá. Đến năm 1829, Thiền sư Thiện Quyền cho cải tạo lại thành một ngôi chùa bậc trung. Có thể, trong khoảng thời gian này chùa được đặt tên là Long Trường với ý nguyện cầu mong ngôi chùa được vững bền [3]. Năm 1835, Thiền sư lại cho trùng tu chùa.


Đường nhỏ vào chùa qua nhiều kênh rạch
Sau khi Thiền sư Thiện Quyền qua đời, khoảng năm Kỷ Mùi (1859) có nhà sư Quảng Hiền (họ Trần) đến làm Trụ trì chùa. Lúc bấy giờ ngôi chùa đã bị hư hỏng nặng, Sư bèn vận động đồ chúng góp công của xây dựng lại chùa, đến khoảng năm 1861 thì hoàn thành và đổi tên lại là Long Quang.
Năm Kỷ Sửu (1889), có Hòa thượng Từ Quang (pháp hiệu Ngộ Cảm), đến làm Trụ trì chùa. Ở đây, nhà sư vừa tu, vừa bốc thuốc chữa bệnh cho dân, nên được nhiều người tôn kính. Năm 1922, nhà sư Từ Quang đã cho tạc khoảng 50 pho tượng thờ bằng gỗ giáng hương. Đặc biệt hơn cả là bộ Thập Bát La Hán (mỗi tượng cao 80 cm, có tư thế ngồi khác nhau trông rất sinh động) được chạm khắc và đục đẽo từ một khối gỗ, chứ không chắp ghép từng phần. Các tác phẩm ấy đều do một thợ nhóm điêu khắc (đứng đầu là ông Tài Công Kiểm) ở Cần Thơ xưa thực hiện [1].
 
Chính điện chùa Long Quang
 
Sau khi Hòa thượng Từ Quang viên tịch (1924), học trò của Hòa thượng là nhà sư Trí Thới [4] lãnh nhiệm vụ Trụ trì chùa. Năm Canh Ngọ (1930), ngôi chùa đã bị xuống cấp trầm trọng, lại được sự ủng hộ của các Phật tử, nên sư Trí Thới liền cho tái thiết lại chùa, đến cuối năm 1930, thì hoàn thành. Sau lần trùng tu này, chùa có quy mô kiên cố (tường gạch, mái lợp ngói) gồm một ngôi chánh điện (3 gian) rộng rãi và một nhà khói (nhà bếp).



Tòa chính điện chùa Long Quang







Sân chùa


Bia ghi lịch sử chùa





Nhà giảng pháp

Một bên chùa



Ban thờ Tổ




Nội điện

Tượng thờ các vị La Hán bằng gỗ


Điện Phật



Điện Phật





Tượng Ông Thiện





Ban thờ Quan Thế Âm Bồ Tát


Không gian nội điện




Điện Phật


Mái chùa










Nhà khách
 
Trong khoảng thời gian này, nhà sư Trí Thới có mời ông Tòng Hiên (là một Văn Thân ở Quảng Ngãi chạy vào Nam lánh nạn) đến ở tại chùa, để bốc thuốc và dạy chữ cho người dân ở địa phương [5].
Tháng 9 năm 1945, quân Pháp trở lại Việt Nam lần thứ hai. Ủng hộ công cuộc chống Pháp của nhân dân Việt, chùa Long Quang trở thành nơi nuôi chứa của nhiều chiến sĩ hoạt động trong nội thành. Năm 1947, hưởng ứng lời kêu gọi "Tiêu thổ để kháng chiến", Thiền sư Trí Thới hiệp cùng tăng chúng tại đây đã tháo dỡ toàn bộ chùa Long Quang để làm vật cản ngăn tàu Pháp tại Rạch Cam; đồng thời hiến hết các đồ thờ bằng đồng để đúc đầu đạn, trong đó có một đại hồng chung cổ [1].




Năm 1963, Thiền sư Trí Thới viên tịch. Năm sau (Giáp Thìn, 1964), thầy Thích Chơn Khánh [6] đến trông coi chùa. Lúc bấy giờ ngôi nhà chùa đã xuống cấp, lại được Phật tử và nhân dân trong vùng ủng hộ, nên thầy Chơn Khánh đã tiến hành xây cất lại chùa Long Quang trên nền cũ.
 


Vườn tháp

Khi công trình gần xong, thì bị bom đạn chiến tranh làm hư hạị nhiều nên phải làm lại, mãi đến năm Bính Ngọ (1966), ngôi chánh điện mới được xây xong. Theo tài liệu, thì trước năm 1975, trong cuộc đấu tranh chống Hoa KỳViệt Nam Cộng hòa, chùa Long Quang cũng từng là nơi ở, là điểm liên lạc của nhiều cán bộ thuộc Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt NamCần Thơ[1].
Trụ trì chùa được gần 20 năm, năm 1983, nhà sư Thích Chơn Khánh viên tịch. Gần 10 năm sau đó, nhà chùa không có nhà sư nào đến làm chủ trì. Việc nhang đèn được một số Phật tử ở gần chùa trông coi.
Đàng sau chánh điện


Đến năm Nhâm Thân (1992), nhận được lời thỉnh cầu của các Phật tử tại địa phương, Ban trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Cần Thơ bổ nhiệm Đại đức Thích Bình Tâm[7]. Tháng 12 năm 1994, các ban ngành chủ quản hiệp cùng Trụ trì và các Phật tử đã tái thiết lại ngôi chùa Long Quang với dáng vẻ như hiện nay [1].
Năm 2010 - 2011, ngôi chùa lại được tu sửa.
Ban đầu, các vị sư của chùa tu theo phái Lâm Tế có nguồn gốc từ Trung Quốc. Hiện nay nhà chùa đã gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam và chuyển thành hệ phái Bắc tông.

 Điện thờ Phật


Chùa Long Quang tọa lạc trong một khuôn viên rộng khoảng 7.000 m2 nằm cạnh con đường nhỏ trải nhựa và một con rạch nhỏ. Từ ngoài vào trong, có các hạng mục đáng chú ý sau:
Cổng tam quan bằng gạch với hai tầng mái ngói, đầu mái uốn công có gắn hoa văn. Bên trên nóc có gắn đôi rồng trắng ngẩng cao đầu quay ngược vào bánh xe pháp luân ở giữa. Hai cột chính có đôi hai câu liễn đối bằng chữ Hán.
Ngôi chánh điện rộng 324 m2, xây theo lối kiến trúc "Thượng lầu Hạ hiên" (ảnh 2), với mái ngói và tường gạch, cà có tất cả 5 cửa ra vào (trước: 2, sau: 1, bên hông: 2).

Hoa, cây cảnh

Ngay giữa trung tâm là điện thờ chính. Ở đây, bên trên có treo bức hoành phi bằng gỗ được chạm trổ tinh xảo ở giữa gắn bốn chữ Hán Đại Hùng Bảo Điện; bên dưới gắn khung bao lam cũng được chạm trổ hoa văn tinh xảo thếp vàng, hai bên cũng có gắn hai câu liễn đối bằng chữ Hán.
Điện thờ chính được đóng bằng gổ có 2 bậc. Bậc cao kê 3 ghế thờ, tôn trí ba pho tượng Tam Thế Phật (A Di Đà, Đại Thế Chí, Quán Thế Âm) bằng gỗ cao hơn một mét tạc theo tư thế ngồi; bậc thấp tôn tượng Bồ Tát Di Lặc.
 

 Vườn chùa
Ở phía trước bậc cao vừa kể là tượng Phật Thích Ca nhập niết-bàn, bằng gỗ dài một mét, được chạm trổ hoa văn tinh xảo. Đối diện điện thờ chính là bàn thờ Vi Đà Hộ PhápTiêu Diện Đại Sĩ (Ông Tiêu).

131. LIÊN TRÌ CỔ TỰ -Cần Thơ,

Chùa Liên Trì – còn gọi là Liên Trì Cổ Tự, có khuôn viên trên 3.000m2 nằm trên một diện tích đất rộng 21.000m2, tọa lạc tại số 10/15, tổ 9, khu vực Thới Thạnh, phường Thới An Đông, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Hiện nay chùa thuộc hệ phái Bắc tông, do Thượng tọa Thích Thiện Tài làm trụ trì.
Theo dân chúng, chùa hình thành cách đây gần 200 năm, vào đầu thế kỷ XIX, năm Nhâm Thân – 1812 (năm Gia Long thứ 11).




Thời đó vùng đất này còn rất hoang sơ, bà con người dân tộc Khmer cùng với các sư sãi dựng lên ngôi tự viện trên một gò đất cao. Ban đầu chùa còn rất đơn sơ cột cây mái lá và chưa có tên, chỉ biết theo cách gọi truyền miệng với nhau là “Chùa ông Lục”. Lâu dần, vùng đất này có nhiều người Kinh đến định cư sinh sống, người Khmer và các sư sãi dần dần chuyển sang vùng kế cận, từ đó ngôi chùa nhỏ và mấy chiếc thảo am không người trông coi nhang khói. Đến năm Nhâm Ngọ - 1822 (năm Minh Mạng thứ 3), có vị Thiền sư Liễu Thông, tự Chơn Giác thuộc dòng Thiền Lâm Tế (đời thứ 37) tình cờ vân du đến đây, Ngài vận động bà con dân làng cùng sửa sang lại và thu nhận thêm nhiều vị tăng đến cùng tu học.




Đến năm Kỷ Dậu - 1849 (năm Tự Đức thứ 3) có thầy du tăng pháp danh Thiện Quả, (tục gọi ông Đạo Quạ) đến sửa sang lại ngôi chùa, thu nhận đệ tử, hành đạo và trụ trì chùa được 9 năm. Năm Mậu Ngọ - 1858, Thầy Thiện Quả đi hành đạo nơi khác, truyền trụ trì lại cho đồ đệ tên là Thầy Hai người ở Trà Cú (Trà Lòng) tiếp tục trông coi chùa được 18 năm, đến năm Bính Tý – 1876 Thầy Hai viên tịch. Từ đó chùa không còn người trụ trì, chỉ có bà con trong xóm sớm hôm nhang khói.
Mãi đến năm Canh Thìn – 1882 (năm Tự Đức thứ 36) có được vị Thiền sư Phước Định - húy Đạt Thiền, thuộc dòng Thiền Lâm Tế (đời thứ 38) về hành đạo. Thiền sư Phước Định là người Việt nhưng có thời gian sang học đạo tại chùa Tâm Băng, tỉnh Bát Tom Pong - Campuchia. Từ đó, ngôi chùa được trùng tu xây cất lại khang trang, nhiều bà con tín đồ tin tưởng quy tụ đến chùa ngày càng đông. Trong thời gian này, có nhiều người đến nhập môn tu học xin làm đệ tử của Thiền sư và đều tu đắc đạo như các vị: Yết Ma Phước Quang(1), Giáo Thọ Từ Quang(2), Phước Chơn, Từ Minh... Dựa vào quang cảnh có ao sen bên hông chùa, Thiền sư Phước Định chính thức đặt pháp hiệu cho chùa là “Liên Trì Cổ Tự”.




Hòa thượng Phước Định trụ trì chùa được 29 năm thì tạ thế vào ngày 30 tháng 7 năm Tân Hợi (1911) hưởng dương 52 tuổi. Sau khi Hòa thượng Phước Định viên tịch, đệ tử thứ hai của Ngài là Giáo Thọ Từ Minh, húy Ngộ Thúy kế thế trụ trì chùa Liên Trì, nối tiếp truyền trì sự nghiệp đạo pháp do Hòa thượng Phước Định để lại thêm được 19 năm sau. Đến năm Canh Ngọ - 1930 do phải chuyển tu nơi khác, Thầy Từ Minh đã trao truyền chùa cho đệ tử là Thầy Niệm Pháp.
Trong thời gian này, nền chùa (ngôi chánh điện) nằm sát mép rạch, bị sạt lở gần tới nền, và phần mái vách cũng xuống cấp mục nát, nên phải dời vào bên trong cho an toàn. Thầy Niệm Pháp đã kêu gọi bà con dân làng và các tín đồ phật tử cùng chung xây dựng lại ngôi chùa. Đồng bào, tích cực tham gia đóng góp nhiều tiền của, vật liệu để xây dựng mới lại ngôi Tam Bảo (cách nền chùa cũ sát mép rạch vô khoảng 40 mét), trên nền chùa hiện nay.

132 .CHÙA PHẬT HỌC NAM VIỆT -Cần thơ

Chùa tọa lạc ở số 11 đại lộ Hòa Bình, thành phố Cần Thơ. ĐT: 071.827685. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa trước đây là trụ sở của Hội Phật học Nam Việt tỉnh Cần Thơ, được Hội Phật học kiến tạo vào năm 1951.
Chùa trải qua nhiều đời trụ trì. Hòa thượng Thích Thiện Phước về trụ trì chùa từ năm 1965 là vị trụ trì lâu năm nhất. Hòa thượng viên tịch năm 1993. Đại đức Thích Minh Thông kế vị trụ trì đã tiếp tục có nhiều đóng góp và phát huy vai trò của chùa trong những hoạt động Phật sự tại địa phương.


Đại đức Thích Minh Thông đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa vào hai năm 1998 — 1999. Ngày nay, chùa là một tòa phạm vũ uy nghiêm ở trung tâm thành phố Cần Thơ.
Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Ba pho tượng lớn tôn trí ở trung tâm là tượng đức Phật A Di Đà, đức Phật Thích Ca và đức Phật Dược Sư.
Chùa là nơi quy tụ đông đảo Phật tử đến sinh hoạt và nghe giảng pháp, cùng nhiều đoàn khách trong nước, nước ngoài tham quan, chiêm bái.

133. CHÙA HỘI LINH- Cần Thơ


Chùa Hội Linh, còn có tên gọi khác Hội Linh Cổ Tự, thuộc hệ phái Bắc tông - tọa lạc trên diện tích 6.500m2 tại số 314/36 đường Cách mạng Tháng Tám (cách đường khoảng 200 mét), phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.
Chùa Hội Linh được khởi lập vào ngày rằm tháng hai năm Đinh Mùi – 1907, theo dòng Thiền Tông Lâm Tế. Chùa do một gia đình phật tử - ông Phạm Văn Bường (pháp danh Thông Lý) và bà Nguyễn Thị Tám (pháp danh Thông Ngọc) cúng dường đất cho Hòa thượng Thích Khánh Hưng, thế danh Quý Thanh Hương đứng ra trông coi xây cất.

Cổng chùa

Ban đầu chùa được cất đơn sơ bằng cột cây, vách và mái lợp lá, cửa chùa quay ra hướng (Đông Bắc) sông Hậu, đặt tên “Hội Long Tự”. Vì chùa nằm ở ngọn một con rạch nhỏ, nên còn có tên là chùa Xẽo Cạn. Vị trí chùa trên một diện tích đất khá rộng gần 1ha ở địa phận thôn Thái Bình, tổng Định Bảo (thời Pháp thuộc); đến năm 1958 đổi lại thành xã An Bình, tổng Định An, quận Châu Thành, tỉnh Phong Dinh; đến năm 1992 được đổi lại phường An Thới, thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ; Và hiện nay tọa lạc tại số 314/36 đường Cách mạng tháng Tám, phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.


Mặt tiền chùa



Hòa thượng Thích Khánh Hưng trụ trì chùa từ ngày khởi lập đến ngày mùng 5 tháng 3 năm Giáp Dần – 1914 viên tịch. Sau khi Hòa thượng Khánh Hưng mất, Hòa thượng Thích Hoằng Đạo, thế danh Võ Văn Nhuận sinh năm Mậu Dần – 1878 thay thế trụ trì cho đến ngày mùng 7 tháng 6 năm Nhâm Tuất – 1922 thì thâu thần thị tịch, hưởng dương 45 tuổi. Mặc dù thời gian trụ trì chùa chỉ 8 năm, nhưng hòa thượng Khánh Hưng là người được bà con phật tử tin tưởng. Theo 2 bảng khắc gổ còn lưu tại chùa, ghi công đức của 75 thiện nam, tín nữ phật tử đồng hỷ cúng 2078 đồng, để hòa thượng xây cất mới ngôi chùa bằng vật liệu kiên cố - tường gạch mái lợp ngói. Mặt tiền chùa được điều chỉnh quay ngược lại về phía đường Cách mạng tháng Tám, hướng Tây Nam và đổi tên thành “Hội Linh Cổ Tự”.

Toàn cảnh chùa
 
134. TÂY AN CỔ TỰ -Châu Đốc

Chùa tọa lạc ở ngã ba núi Sam, xã Vĩnh Tế, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang. Chùa được Tổng đốc Doãn Uẩn cho xây dựng vào năm 1847. Năm 1861, chùa được trùng tu chánh điện và hậu tổ. Kể từ đời Phật thầy Minh Huyên trụ trì đến nay, chùa đã trải qua 7 đời truyền thừa. Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Kiến trúc chùa ngày nay được tôn tạo dưới thời Hòa thượng Bửu Thọ vào năm 1958. Ngài cho xây 3 ngôi cổ lầu,mặt tiền chùa và sửa lại chánh điện, tạo nét kiến trúc phương Đông kết hợp với kiến trúc Ân Độ.
 


  Ở chánh điện và hậu điện, có khoảng 200 pho tượng, đa số bằng danh mộc. Chùa còn có nhiều hoành phi và câu đối. Chùa là ngôi danh lam bậc nhất ở An Giang và Nam Bộ. Hàng năm có hàng vạn du khách, Phật tử đến tham quan, chiêm bái. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.





Năm 1847, Tổng đốc An-Hà (An GiangHà Tiên) là Doãn Uẩn (1795-1850) vui mừng vì lập được đại công đánh đuổi được quân Xiêm La, bình định được Chân Lạp, nên đã cho xây dựng một ngôi chùa bằng tường gạch, nền cuốn đá xanh, mái lợp ngói; và đặt tên là Tây An tự với hàm ý trấn yên bời cõi phía Tây [2].



Năm 1861, Hòa thượng Hoàng Ân (Nguyễn Nhất Thừa) cho trùng tu lại chính điện và hậu tổ. Năm 1958, Hòa thượng Thích Bửu Thọ (18931972) đứng ra vận động xây dựng mới ba ngôi cổ lầu, mặt chính và ngôi chính điện, nên chùa có diện mạo như ngày hôm nay.
Vị sư trụ trì đầu tiên là Hòa thượng Nguyễn Văn Giác (17881875), pháp hiệu Hải Tịnh, tu theo phái Lâm Tế, nên có người còn gọi chùa Tây An là chùa Lâm Tế [3].
Cũng trong khoảng thời gian này (tức vào những năm 1850) ông Đoàn Minh Huyên (1807-1856), người sáng lập ra đạo Bửu Sơn Kỳ Hương (1849) đến tu tại chùa, nên chùa càng nổi tiếng.





Vườn tháp chùa Tây An Các vị sư trụ trì chùa Tây An gồm: Hải Tịnh (thế danh Nguyễn Văn Giác), Hoàng Ân (thế danh Nguyễn Nhất Thừa), Huệ Quang (thế danh Nguyễn Trang Nghiêm), Thuần Hậu (thế danh Huỳnh Văn Đắc), Thiện Pháp (thế danh Ngô Văn Hòa), Thích Bửu Thọ (thế danh Nguyễn Thế Mật), Huệ Châu (thế danh Hồ Thạch Hùng), Định Long (thế danh Phạm Văn Trực), Huệ Kỉnh (thế danh Trần Văn Cung).[4]
Sách Đại Nam nhất thống chí viết về chùa Tây An như sau:

Chùa ở địa phận thôn Vĩnh Tế, huyện Tây Xuyên, nguyên tổng đốc Doãn Uẩn cho xây dựng năm Thiệu Trị thứ 7 (1847). Chùa đứng trên núi, mặt trước trông ra tỉnh thành, phía sau dựa vào vòm núi, tiếng người vắng lặng, cổ thụ âm u, cũng là một thắng cảnh thiền lâm vậy[5].[6] Chùa Tây An tọa lạc trên nền cao, thoáng rộng, trong khuôn viên có diện tích 15.000 m2. Phía sau có núi Sam như bức bình phong nổi bật lên với màu xanh thẫm. Điểm ấn tượng nhất của chùa là mặt chính với ba ngôi cổ lầu nóc tròn hình củ hành, màu sắc sặc sỡ nhưng hài hòa.



Tây An Cổ Tự (Chùa Tây An)


Chùa cất theo lối chữ “tam”, có kiến trúc kết hợp phong cách nghệ thuật Ấn Độ và kiến trúc cổ dân tộc Việt. Chùa được xây dựng với các vật liệu bền chắc như gạchngói, xi măng. Nơi cổng tam quan là tượng Quan Âm Thị Kính, bên trong cổng là một sân chùa nhỏ có một cột phướn cao 16 m.
Mặt tiền chùa, ở giữa là tháp thờ Phật cao hai tầng. Tầng trên là tượng Phật đứng giữa lầu cao, mái tròn cong, đỉnh nhọn như các tháp xưa ở Ấn Độ. Bốn cột tháp ở tầng dưới có các hộ pháp trấn giữ, phía trước có tượng hai con voi: bạch tượng và hắc tượng.



Chính điện là dãy nhà rộng, hai tầng mái, lợp ngói đại ống, cột gỗ căm xe, nền lát gạch bông. Hai bên là lầu chiêng và lầu trống hình tứ giác, trên đỉnh trang trí các tượng tứ linh (long, lân, qui, phụng) rất mỹ thuật. Đại hồng chung ở lầu chuông được tạo vào năm Tự Đức thứ 32 (1879).
Trong chính điện có khoảng 150 [7] pho tượng lớn nhỏ: tượng Phật, Bồ tát, La hán, Bát bộ kim cang, Ngọc hoàng, Huỳnh đế, Thần nông v.v...Đa số tượng đều làm bằng danh mộc, chạm trổ công phu và mỹ thuật, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc Việt Nam vào thế kỷ 19. Ngoài ra chùa còn có nhiều hoành phi và câu đối, màu sắc rực rỡ.



Chùa Phú Thạnh (Chùa Truông)
 


135. CHÙA PHÚ THẠNH-Châu Đốc

Chùa thường được gọi là chùa Truông, tọa lạc ở tổ 24, ấp Châu Long 6, xã Vĩnh Mỹ, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang.Chùa thường được gọi là chùa Truông, Chùa được dựng vào giữa thế kỷ XIX, đại trùng tu vào năm 1934 và những năm gần đây. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm, kiến trúc chùa mang cả phong cách A-Âu. Chùa là ngôi cổ tự nổi tiếng ở Châu Đốc.

 
  
   

  

136. TỊNH XÁ NGỌC GIANG -Long Xuyên.

  Tịnh xá tọa lạc tại số 80B đường Trần Hưng Đạo, phường Mỹ Xuyên, thị xã Long Xuyên, tỉnh An Giang.Tịnh xá tọa lạc tại số 80B đường Trần Hưng Đạo, phường Mỹ Xuyên, thị xã Long Xuyên, tỉnh An Giang. Tịnh xá được xây dựng vào năm 1960. Sư Giác Thảo đã tổ chức trùng tu, mở rộng vào năm 1992. Tịnh xá thuộc Giáo đoàn 1 của hệ phái Phật giáo Tăng già Khất sĩ Việt Nam.

Tịnh Xá Ngọc Giang

137. CHÙA LONG HƯNG-Châu Đốc


Chùa Giồng Thành, tên chữ Long Hưng tự, thuộc xã Long Sơn, huyện Phú Tân, là một ngôi cổ tự danh tiếng của tỉnh An Giang.Chùa Giồng Thành tọa lạc trên một khu đất rộng, nhiều cây cối tươi tốt, cách đường lộ nhựa Phú Tân - Tân Châu và hữu ngạn sông Cái Vừng (một đoạn của sông Tiền) khoảng 300m, và chỉ cách thị trấn Tân châu (huyện Tân Châu, tỉnh An Giang) 3 km. Nghĩ địa thế đồn Châu Đốc (do Trấn thủ Vĩnh Thanh Lưu Phước Tường chủ trì xây dựng năm 1815)[1] chật hẹp, chưa được tiện lợi để bảo vệ bờ cõi, đầu năm Quý Tỵ (1833) vua Minh Mạng đã ban lệnh cho Tổng đốc An Hà là Lê Bá Cương và Tuần phủ An Giang là Ngô Bá Nhân (hay Nhơn) chọn địa điểm khác để xây dựng thành trì.



Sau khi lựa được đất Long Sơn (trước đây thuộc Tân Châu Bảo) là nơi ở về thượng du, địa thế cao ráo, qua lại tiếp ứng, thiệt là chỗ hình thế hiểm trở, bèn đem việc ấy tâu lên, được nhà vua chấp thuận[2]. Năm 1834, thành Châu Đốc bị triệt phá. Tuy nhiên chưa rõ lý do gì, nhà vua lại thay đổi quyết định, tức cho xây dựng lại ở nơi cũ, còn công trình ở Long Sơn thì bị bỏ dở dang (hào thành chỉ đào được một số đoạn và chưa xây một viên đá hay viên gạch nào).
Theo sách Địa chí An Giang thì năm 1875[3], trên một giồng đất của tòa thành bị bỏ dở dang, Hòa thượng Trí Trang (Trần Minh Lý, 1825 - 1899) đã dựng lên một ngôi chùa nhỏ bằng tre lá, và được gọi là chùa Giồng Thành [4].
Đến năm 1927, Hòa thượng Chánh Hườn (1879 - 1947)[5], là người xã Long sơn, nhận thấy cửa thiền ngày càng đông tín đồ mà chùa thì quá cũ kỹ và chật hẹp, nên đã xin với nhà cầm quyền Pháp, cho đi quyên góp để xây cất lại ngôi thờ Phật.


Chùa Linh Sơn ( An Giang ) 

Năm 1970, Hòa thượng Chơn Như (1925 - 1972)[6]. cho trùng tu lại chùa theo kiến trúc kiểu Ấn Độ. Và đây là lần trùng tu lớn nhất, và tồn tại cho đến ngày nay.
Chùa Giồng Thành được cất theo chữ "Song Hỷ", gồm có 3 gian: chánh điện, nhà giảng và hậu tổ. Chánh điện và nhà giảng có 3 nóc [7], nhà hậu tổ có 3 nóc. Chánh điện thờ Phật Thích-ca Mâu-ni, Nam Tào, Bắc Đẩu. Nhà giảng thờ Phật Mẫu và nhà hậu tổ thờ các hòa thượng trụ trì chùa. Chùa lợp ngói móc, cột chánh điện bằng gỗ căm xe có vẽ rồng. Mặt gió của chùa cất theo kiểu Ấn Độ, phía trước trên nóc chùa có tháp hai tầng hình phễu úp ngược, nên phải và bên trái nóc chùa có hai tháp.
Vào những năm đầu thập niên 20 của thế kỷ 20, hội kín tên Thiên Địa hội (kèo xanh, kèo Vàng) của Phan Xích Long, đã chọn chùa Giồng Thành làm cơ sở để qui tụ người chống thực dân Pháp, bởi Hòa thượng Chánh Hườn là hội viên Hội kèo vàng [8].

 
 Một bên chùa

138. CHÙA LINH SƠN- An Giang

Chùa Linh Sơn (Ba Thê) còn được gọi là chùa Phật bốn tay núi Ba Thê, tọa lạc tại xã Vọng Thê (nay là thị trấn Óc Eo), huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, Việt Nam. Đây là một trong những địa điểm hành hương nổi tiếng của tỉnh. Chùa Linh Sơn được xây dựng vào năm 1913 (và được trùng tu mấy năm gần đây), cách chợ Vọng Thê khoảng 2 km về hướng đông. Ngôi chùa nằm trên nền một gò đất cao, bên những đại thụ râm mát, nơi triền núi Ba Thê, cạnh Khu di tích Nam Linh Sơn thuộc nền văn hóa Óc Eo.

Vào năm 1913, dân địa phương phát hiện một pho tượng Phật bốn tay ở tư thế đứng, cao 1,7 m, nằm sâu trong lòng đất khoảng hai mét, tại khu vực dân cư gần chợ Ba Thê. Trước đó, người dân cũng đã tìm thấy hai tấm bia được làm bằng đá bùn có chiều cao khoảng 1,80m, dày khoảng 0,22m, khắc chữ cổ mà nhiều nhà nghiên cứu nói có thể là chữ viết của dân tộc Phù Nam xưa. Đặc biệt, khi đặt tượng Phật vào giữa hai tấm bia này thì rất khít khao. Do sự linh ứng ấy, dân chúng quanh vùng góp công của xây dựng chùa Linh Sơn để thờ phụng và cũng từ đó, chùa có tên dân gian là chùa Phật Bốn Tay cho đến ngày nay. Vì vậy, dân quanh vùng khi ấy bèn góp công, góp của dựng lên một ngôi chùa đặt tên là Linh Sơn Tự để tôn thờ tượng Phật và gìn giữ bia cổ.
 


Từ thành phố Long Xuyên, theo tỉnh lộ 943, băng qua những cánh đồng lúa chín vàng mơ mênh mang tận chân trời, du khách đến thị trấn núi Sập, thủ phủ của huyện Thoại Sơn. Vượt dòng Thoại Giang đi thêm hơn 10 cây số nữa, ta sẽ tới thị trấn Óc Eo, nơi đây được các nhà khảo cổ xem như là “cái rốn”, trung tâm của nền văn minh, văn hóa Óc Eo.

Văn hoá Óc Eo là tên gọi chung của một nền văn minh gắn liền với vương quốc Phù Nam huyền thoại, có địa bàn trải rộng từ Tây đến Đông Nam bộ ngày nay. Trải qua trên dưới một ngàn năm trăm năm với bao biến động của thiên nhiên và lịch sử, nền văn hóa ấy đã bị mai một và dần rơi vào quên lãng. Ở thị trấn Óc Eo, có một ngôi chùa được người dân gọi bằng cái tên rất ấn tượng là chùa Phật Bốn Tay, tên chữ là “Linh Sơn cổ tự”.

Tam quan Linh Sơn cổ tự. 



Sân chùa Linh Sơn.


 Chánh điện chùa Linh Sơn ở Óc Eo thờ pho tượng Phật Bốn Tay. Pho tượng nầy có hình thể và nét mặt không giống như những tượng Phật thường gặp ở đa số các chùa chiền thuộc hệ phái Bắc tông. Tượng Phật Bốn Tay mặc y tiểu thừa, vẻ mặt và hình dạng ngài phốp pháp, sắc màu lam nhã, mắt mở lớn, ngồi kiết già và mỗi tay cầm một linh vật nhỏ. Tay phải trên cầm xâu chuỗi. Tay trái trên bắt ấn, tay phải dưới cầm chuông nhỏ, tay kia cầm trái châu. Đặc biệt ngài có đội chiếc nón như các vị Lạt Ma Tây Tạng. Nguyên tượng bằng đá đen, bán thân, về sau được gia cố thành tư thế ngồi.


Theo lời kể của sư trụ trì Thích Thiện Trí và lời truyền tụng trong dân gian thì vào năm 1913, khi người Pháp cho xe ủi đất làm đường và xây bót Ba Thê dưới chân núi, gần chợ, người ta phát hiện một pho tượng bằng đá đen có bốn tay, cao 1,7 mét, còn nguyên vẹn, nằm sâu dưới mặt đất khoảng 2 mét. Người Khmer quanh vùng tập họp thanh niên trai tráng khỏe mạnh khiêng tượng về núi để thờ, vì cho đó là tượng Neata Phrom tức thần Núi - theo tín ngưỡng thờ ông Tà của người Campuchia. Nhưng không hiểu vì sao tượng quá nặng, không sao di chuyển nổi. Sau nhờ những bô lão người Kinh đứng ra lập bàn thờ khấn vái. Thật lạ lùng, lúc ấy pho tượng mới được khiêng đi nhẹ nhàng.



Bàn thờ trong chánh điện chùa Linh Sơn.


Tượng Phật có 4 cánh tay.
 Trước đó, hai tấm bia đá bùn cũng đã được tìm thấy. Mỗi bia cao khoảng 1,8 mét, dày khoảng 20 cm, bề ngang khoảng 80 cm. Trên bia có khắc chi chít cổ tự, không ai đọc được. Đặc biệt, khi đặt tượng Phật vào giữa hai tấm bia này thì rất khít khao. Do sự linh ứng ấy, dân chúng quanh vùng góp công của xây dựng chùa Linh Sơn để thờ phụng và cũng từ đó, chùa có tên dân gian là chùa Phật Bốn Tay cho đến ngày nay.

Chùa Phật Bốn Tay có khuôn viên rộng khoảng 4.000 mét vuông. Chánh điện có kiến trúc đơn giản, diện tích chừng 100 mét vuông, quét vôi vàng, mái lợp ngói vảy cá, hai góc mái trước được đắp rồng uốn lượn. Nhưng pho tượng Phật bốn tay được coi là “báu vật” vô giá.



Cây dầu Bốn Ngón.



Hòa thượng Thích Thiện Trí trụ trì từ năm 1967 cho biết: chùa Linh Sơn do sư tổ Thiết Ma Nhiên Chánh khai sơn năm 1912, tượng Phật đem về chùa sau một năm (1913). Chùa được trùng tu năm 1983. Pho tượng Phật bốn tay là một di sản văn hóa Óc Eo, có cùng niên đại với tượng Bà Chúa Xứ ở núi Sam, Châu Đốc. Trong các chùa chiền Phật Giáo Việt Nam xưa nay không thấy có thờ tượng Phật bốn tay, chỉ có tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn có 18 tay. Theo các nhà nghiên cứu, thật ra, tượng Phật bốn tay chính là tượng thần Visnu có rắn thần Naga bảy đầu tạo thành tán che phía sau. Riêng hai bia đá có chữ khắc vẫn chưa được giải mã, đây là loại cổ tự có cùng gốc với chữ Brami của người Ấn Độ, được sử dụng từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ VI sau công nguyên.

Ở phía sau chùa Phật Bốn Tay, gần di chỉ Nam Linh Sơn (thành cổ Óc Eo) có một cây dầu mọc từ gốc lên bốn nhánh thân suông thẳng đều tỏa ra rất lạ, thon thả như những ngón tay! Dân địa phương gọi cây dầu nầy là cây Bốn Ngón. Cây Bốn Ngón thuộc họ khộp (dầu lông) cao chừng 50 mét, mình trơn. Có người còn cho đó là những ngón tay của Phật .
Về thành cổ Óc Eo, xem tượng Phật Bốn Tay, cây Bốn Ngón, du khách như ngược về quá khứ, đắm mình trong không gian một thời của vương quốc Phù Nam, nay chỉ còn là huyền thoại.


139. CHÙA HÒA THẠNH (An Giang)

Chùa thường gọi là chùa Cây Mít, tọa lạc ở xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, cách thị xã Long Xuyên 87km.Chùa Hòa Thạnh

Chùa thường gọi là chùa Cây Mít, tọa lạc ở xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, cách thị xã Long Xuyên 87km. Chùa được xây dựng vào khoảng thế kỷ XIX và được trùng tu mở rộng vào những năm 1921-1923. Hòa thượng trụ trì Diên Minh là hội viên thường trợ của Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học vào những năm 1930. Chùa còn bảo tồn nhiều pho tượng cổ có giá trị nghệ thuật. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.


  


140. CHÙA XVAY TON- An Giang

Chùa Xvay-ton (chùa Xà Tón) tọa lạc ở khóm 3, thị trấn Tri Tôn, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang là một trong những ngôi chùa của đồng bào dân tộc Khmer. Chùa được dựng sơ sài vào thế kỷ XVII. Đến năm 1896, chùa được xây dựng kiên cố cho đến nay.




Các vị cao niên người Kher và các vị sư sãi ở đây cho biết, chùa Xà Tón đã được xây dựng cách đây hơn 200 năm. Lúc đầu, chùa được dựng bằng gỗ, lợp lá, nền đất. Ngày xưa vùng Tri Tôn còn hoang vu, rậm rạp, dân cư rất thưa thớt. Trên những ngọn cây to cao nhiều cành, nhiều lá có từng đàn khỉ (Xvay) đu vào nhau, nối đuôi nhau mà chuyền đi (ton). Bà con Khmer dựng chùa thờ Phật ở đây và đặt tên chùa là Xvayton (biến âm thành Xà Tón cho dễ đọc).




Năm 1896 và 1933 chùa Xà Tón được xây dựng lại bằng gạch ngói, cột bằng gỗ câm-xe, nền chùa đắp cao 1,8 m đễợc xây bằng đá xanh. Giống như các chùa Khmer khác ở đồng bằng sông Cửu Long, chùa Xà Tón cũng theo cùng một quy cách bố cục và kiến trúc thống nhất. Chính điện chùa Xà Tón nằm ở trung tâm khu đất của chùa. Chính điện được xây theo hướng đông-tây có nóc nhọn và hai mái cong gợi hình ảnh nằm dài uốn cong của rắn thần Naga, rắn thần chỉ sự dũng mãnh.


141. TỔ ĐÌNH PHẬT GIÁO HÒA HẢO - Long Xuyên

 Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (tức 4 tháng 7 năm 1939), Huỳnh Phú sổ bắt đầu khai đạo, khi ông chưa tròn 20 tuổi. Nơi tổ chức lễ khai đạo chính là gia đình ông. Ông đã lấy tên ngôi làng Hòa Hảo nơi mình sinh ra để đặt tên cho tôn giáo mới của mình: đạo Hòa Hảo hay Phật giáo Hòa Hảo. Sau đó, ông được các tín đồ suy tôn làm giáo chủ mối đạo, và gọi ông bằng cái tên tôn kính là Huỳnh Giáo Chủ. Tổ đình Phật giáo Hòa Hảo, xưa thuộc làng Hòa Hảo; nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, Việt Nam. Đây là nơi khai sinh ra đạo Phật giáo Hòa Hảo vào năm 1939 do Huỳnh Phú Sổ (1920 - 1947?) sáng lập.

Kể từ đó, ông lần lượt làm nhiều bài thơ ca, sau được tập hợp lại thành quyển Sấm giảng thi văn giáo lý, có phần gần gũi với tư tưởng thần bí và tín ngưỡng dân gian ở Nam Bộ lúc bấy giờ.
Phật giáo Hòa JHảio bắt nguồn từ phái Bửu Sơn Kỳ Hương của Phật Thầy Tây An, kết hợp tam giáo nhưng Nho và Phật là trọng tâm, là tôn giáo của người cư sĩ, không cần đầu tròn, áo vuông, không cần chùa chiền to lớn, không thờ tượng ảnh. Bửu Sơn Kỳ Hương lấy trấn điều thay thế tượng Phật, sau Hòa Hảo lấy trần nâu  thay trần điều.


File:Tổ đình PGHH.jpg Trả lời kèm Trích dẫn




Nói đến Phật giáo Hòa Hảo, là nói đến Bửu Sơn Kỳ Hương là nói đến nmột chuổi chùa chiền thờ Phật, thờ Phật Thầy, quan Cố Quản Trần Văn Thành, , Bùi Tăng chủ,  Nguyễn Trung Trực...




Nơi giữ hóa thân của Đức PHẬT THẬY, "Trước khi viên tịch NGÀI dặn dò bổn đạo không được làm mồ mả nguy nga, không xây đấp nấm mồ, hãy trải phẳng mặt, để sau nầy hậu thế có thể dùng để canh tác.. thật cao quí thay quan đìểm hữu ích nhân loại chúng sanh của vị hoạt Phật"


Cổng lên ngôi mộ của Đức THẬT THẦY TÂY AN tại núi Sam, tỉnh Châu Đốc (nay là tỉnh An Giang)


Cổng vào ngôi cổ mộ của BÙI TĂNG CHỦ, là một trong các vị Hiền thủ được Đức PHẬT THÂY giao nhiều trọng trách hoằng hóa nền Đạo


Ngôi cổ mộ và thờ tự Đức Cố Quản TRÂN VĂN THÀNH, một trong những vị đại đệ tử của Đức PHẬT THẦY, được thế gian truyền tụng là một trong 12 vị hiền thủ của đạo.

Ngôi PHƯỚC ĐIỀN TỰ là nơi Đức PHẬT THẦY đặc chân chửa trị bệnh dịch lần đầu cho dân chúng, sau đó Ngài cho thành lập "Trại Ruộng" nhằm khuyết khích dân chúng lo làm ăn - tu hiền, phát triển đời sống trong các miền quê hẻo lánh. Thụôc vùng Lánh Linh.

Cổng trước ngôi Cổ Tự giờ được trùng tu khá khang trang, sau nhiều chục năm dài hoang vắng.


Ngôi NAM THANH TỰ một trong những di tích sau khi Đức PHẬT THẦY viên tịch người tín đồ hệ phái Bửu Son Kỳ Hương lập nên những ngôi thờ tự để ghi nhớ công đức hoằng hóa độ sanh thuộc vùng Láng Linh.

Cổng trước đền thở Quan Thượng Đẳng Đại Thần NGUYỄN-TRUNG-TRỰC tọa lạc tại Rạch gía, Tỉnh Kiên Giang.

Ngôi chùa 'Tòng Sơn' tọa lạc tại Xẽo Môn, Long Kiến (Nay thuộc Đồng Tháp) Nơi Đức Phật Thầy trị bệnh độ đời. (nay cũng bị thay đổi hẳn hình dáng)

Ngôi Cổ Tự "Tòng Sơn" hiên nay đã bị thay đổi hầu như toàn diện, mất hẳn tính chất nguyên thủy.

Chính điện Ngôi Tòng Sơn





 

Cây Lâm dồ (Đa) có từ khi tín đồ tu sửa Ngôi Cổ từ lúc còn cây lá. - Dinh Ông tọa lạc tại Cù Lao Ông Chưởng, Chợ mới (AG)

Ngôi Chùa PGHH tọa lạc tại Định Quán do một tín đồ ( sống ở Canada) phát tâm tạo dựng vào năm 2007.

Ngôi "Tây An Cổ Tự" tại núi Sam, trước là Tỉnh Châu Đốc. Có lúc nhà đương cuộc buộc Đức Phât Thầy về ngu tại Ngôi cổ tự nầy.




Phước Điền Tự" thuộc dòng Bữu Sơn Kỳ Hương tọa lạc tại Thới Sơn (Nay là Tỉnh Angiang). Trước đây Đức Phật Thầy cho lập trại ruộng hầu giúp cho đồng bào có thêm phưong tiện trong đời sống.


File:Tổ đình PGHH.jpg Trả lời kèm Trích dẫn


142. CHÙA TRÊN NÚI CẤM  
- CHÙA PHẬT LỚN  -
 
Chùa Phật Lớn được xây dựng năm 1912, trên một khoảng đất rộng bên triền, gần đỉnh núi (ở độ cao 526 m so với mặt nước biển)[1]. Sở dĩ có tên như thế là vì trong chùa có thờ một tượng Phật cao 1,8 m. Vào thời điểm ấy, pho tượng này cao lớn hơn các tượng thờ khác ở trong vùng. Và gọi vậy, còn để phân biệt với chùa Phật Nhỏ ở hướng đông, cũng trên núi này.
Sau khi ông Bảy Do (Cao Văn Long), người đầu tiên xây dựng và tu ở chùa, bị thực dân Pháp bắt, chùa Phật Lớn trở nên hoang vắng. Mãi đến năm 1914, ông cựu hương quản làng An Khánh [2] đến núi Cấm thấy cảnh chùa hoang phế quá, bèn đến chùa Linh Sơn (Sài Gòn) nhờ Cò Mi Chấn (Phó Hội trưởng Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học) đứng ra xin phép để được tái thiết chùa.


Tập tin:Chùa Phật Lớn núi Cấm.jpg
 Toàn cảnh chùa Phật lớn

Tìm mọi cách mà nhà cầm quyền không chấp thuận, ông Chấn bảo ông Lầu làm liều cất đại một am lá để che mưa nắng cho tượng Phật. Có người mật báo với Chủ tỉnh Châu Đốc, ông Lầu bị tra vấn, còn Cò Mi Chấn thì nhận được công văn của tỉnh buộc phải tháo dỡ am. Nhưng Cò mi Chấn trả lời qua thư rằng: Theo tục lệ An Nam, không thể để Phật ngồi giữa trời dầm mưa, dãi nắng như thế... Chủ tỉnh lại gởi công văn lần nữa, lần này Cò mi Chấn đáp: Cái am lỡ cất rồi, tôi là người đạo Phật, sợ phạm tội nên không dám dỡ!... Nhờ sự đôi co ấy mà am không bị phá bỏ và tượng Phật được bảo 
 quản tốt cho đến nay
 .
Hiện nay (tháng 7 năm 2008), chùa Phật Lớn đang được tôn tạo lại trên nền cũ có mở rộng diện tích lên đến 13,6 ha gồm khu chánh điện, nhà chuông, khu nhà nghỉ, hệ thống điện, nước... để phục vụ cho việc thờ cúng và cho khách đến hành hương hay vãng cảnh.

Tượng Phật Di Lặc lớn nhất châu Á trên núi Cấm Cao gần 34 m, đặc tả rõ nụ cười an nhiên, từ bi, hỉ xả, tượng Phật Di Lặc màu trắng sáng trên đỉnh núi Cấm (An Giang) vừa được tổ chức Kỷ lục châu Á công nhận là tượng Phật lớn nhất châu Á.

phat2-132807-1371801239_500x0.jpg 

Tượng có chiều cao từ chân đến đỉnh là 33,6 m, diện tích bệ 27x27 m, khuôn viên tượng Phật rộng 2,2 ha. Bức tượng đặc tả rõ nét nụ cười an nhiên, từ bi, hỉ xả và bụng to đặc trưng của Phật Di Lặc. Chân đế bệ tượng làm bằng đá gắn kính phản xạ cao cấp màu xanh ve mang ý nghĩa một khối kim cương.

-CHÙA VẠN LINH

 Chùa Vạn Linh, thường được gọi là chùa Lá, tọa lạc ở ấp Vồ Đầu, xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Chùa nằm trên núi Cấm vùng Thất Sơn, nơi có bảy ngọn núi nổi tiếng là núi Két (Anh Vũ sơn), núi Giài Năm Giếng (Ngũ Hồ sơn), núi Tượng (Liên Hoa sơn), núi Nước (Thủy Đài sơn), núi Dài (Ngọa Long sơn), núi Tô (Phụng Hoàng sơn) và núi Cấm (Thiên Cẩm sơn).

Thượng tọa trụ trì Thích Hoằng Tri cho biết chùa nằm ở độ cao 550m, còn núi Cấm cao 716m, dài 7.500m. Chùa do Hòa thượng Thích Thiện Quang khai sơn năm 1927, bấy giờ chỉ là một am tranh. Hòa thượng khai sơn thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời 40, đệ tử của Hòa thượng Viện chủ tổ đình Phi Lai Thích Chí Thiền.

 
Do đức độ và tài trị bệnh của Hòa thượng khai sơn, Phật tử và bệnh nhân đến chùa mỗi ngày một đông, Ngài đã cho xây dựng ngôi chùa quy mô to lớn vào năm 1941. Ngài viên tịch vào ngày 26 tháng 11 năm Quý Tỵ (31-12-1953).

Chùa Vạn Linh (núi Cấm)


Ngôi chùa do chiến tranh đã bị hư hỏng từ những năm 1945-1946.
Đến năm 1976, ông Hai, pháp danh Thiện Thới, đệ tử của Hòa thượng Thiện Quang đã cho xây ngôi chùa nhỏ, được người dân địa phương gọi là chùa Lá.
Chùa Vạn Linh

Mặt tiền chùa

Chùa Vạn Linh - nhìn từ phía sau


143. CHÙA ÂNG- Trà Vinh

 Chùa Âng (tên KhmerAngkorajaborey) là một ngôi chùa cổ trong hệ thống chùa Khmer của tỉnh Trà Vinh; hiện tọa lạc bên quốc lộ 53, thuộc khóm 4, phường 8, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, Việt Nam. Chùa nằm cách trung tâm thành phố khoảng 5 km, nằm trong khuôn viên thắng cảnh Ao Bà Om, và đối diện với Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer của tỉnh.



Đây là một trong những ngôi chùa tiêu biểu trong hệ thống 141 ngôi chùa Khmer ở Trà Vinh [1]. Theo Bảng Di tích lịch sử chùa Âng, thì chùa có từ năm 990... Đến năm 1695, ngôi chính điện được xây dựng lại bằng tre lá. Năm 1842, chùa được xây dựng lại bằng gỗ quý (rui, mè và 60 cây cột), lợp ngói và tường xây. Sau đó, chùa còn được trùng tu vài lần nữa [2].
Chùa nằm trong khuôn viên có diện tích khoảng 4 ha, có hào nước sâu bao bọc, và được xây dựng theo lối kiến trúc-trang trí chùa Khmer Nam Bộ.

Cổng chùa Âng

Cổng chùa được xây dựng với ba ngọn tháp ở trên, có đắp hình chằn. Hai bên trụ cổng là hình vũ nữ Kẽn naarr và tượng người đầu chim (Krũd).

Chính điện chùa Âng (chính diện)

Chánh điện quay về hướng Đông, tọa lạc nên một nền cao 2 m [3]. Mái của chính điện được cấu tạo gồm ba cấp, hai mái trên cùng thì dốc và cao hơn mái còn lại. Các gò mái có thần rắn Naga, đuôi cong vút, tượng trưng cho sự dũng mãnh vĩnh cửu.

Ở các đầu cột là những tượng vũ nữ Kẽn naarr và tượng người đầu chim (Krũd) với hai tay chống đỡ mái. Quanh chính điện có trụ cột, hàng rào với đầu thần Bayon bốn mặt. Ngoài ra ở đây còn có tượng chằn Yeak mặc áo giáp với khuôn mặt dữ dằn…[4].
Ngoài ra, trong khuôn viên chùa còn có các hạng mục công trình khác như: trai đường, giảng đường, các Tăng xá và các tháp chứa di cốt...



Các tượng Phật Thích Ca trong chính điện Như bao ngôi chùa thuộc hệ phái Phật giáo Nam tông Khmer khác, bên trong chính điện chùa Âng cũng chỉ thờ duy nhất là Phật Thích Ca. Bệ thờ Phật rộng gần 30 gồm bốn bậc. Tượng Phật chính cao 2,1 m.
 

Xung quanh có khoảng 50 tượng Phật khác nhỏ hơn. Ba phía vách chính điện có các bức tranh vẽ kể lại cuộc đời đức Phật Thích Ca. Trần chính điện được trang trí bốn bức bích họa lớn theo chủ đề: Phật Thích Ca đản sinh, xuất gia, đắc đạo và nhập niết bàn.




 Một trong số bức tranh tường vẽ về cuộc đời Phật Thích Ca trong chính điện

Và cũng như nhiều ngôi chùa Khmer khác, chùa Angkorajaborey không chỉ là nơi tu hành của các vị sư, là nơi thanh niên Khmer đến tu học, mà còn là một trung tâm văn hóa. Hàng năm, lễ hội Ok Om Bok (rằm tháng 10 âm lịch) là lễ hội lớn nhất của chùa.


144. SẮC TỨ QUAN ÂM CỔ TỰ - Cà Mâu

Chùa tọa lạc ở số 84/14 đường Rạch Chùa, phường 4, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. ĐT: 0780.831370. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa do Hòa thượng Tô Quang Xuân dựng vào giữa thế kỷ XIX, bấy giờ chỉ là một am nhỏ để ngài tu hành và chữa bệnh cho dân. Sau ngài về tu ở chùa Kim Chương (Gia Định) lấy pháp hiệu là Thượng Trí hạ Tâm. Vua Thiệu Trị đã sắc phong Hòa thượng cho ngài năm 1842 và sắc tứ chùa Quan Âm.
Kiến trúc chùa hiện nay được các Hòa thượng Thích Thiện Tường và Thích Thiện Đức xây dựng năm 1936.

Năm 1842 năm Thiệu Trị thứ II, Hiến Tổ Chương Hoàng Đế, triều Nguyễn đã xuống chiếu sắc phong cho ngôi chùa của ông sáng lập với tên gọi là "Sắc Tứ Quan Âm Cổ Tự". Hiện nay nhiều hiện vật như tượng, hoành phi, câu đối và nhiều đồ thờ phụng khác như những di vật văn hóa Phật giáo của thời kỳ khẩn hoang. Đó là những hiện vật có giá trị về mặt lịch sử và mỹ thuật độc đáo còn được gìn giữ đến ngày nay.


Quan Âm Cổ Tự - Ngôi chùa huyền thoại Cà Mau

  Tưởng cũng nên nhắc lại Chiếu vua ban thuở nào :
Chiếu rằng :
Trẫm nghĩ chốn kỳ duyên mậu thạnh trăm hoa đua nở đầy cành, cảnh sắc ta bà.
Hương thủy bao trùm hoa tạng muôn xưa không diệt không sanh,
Bờ bỉ vơi vơi từng nghe nương một cành lau mà đến trời Tây vời vợi sang qua nhờ chiếc thuyền Từ đã trưng việc cổ để nghiệm đời nay,
Vừa đọc tố chương bỡ ngỡ ve vang trước mắt,.
Duyệt xem văn sớ từng ngày đã cỡi hạc quy tiên.
Người linh địa cảnh nên linh, vương pháp tâm đồng Phật pháp.
Triều đình không có chi hơn kính phong hòa thượng và ân ban gấm vóc,

http://www.thesaigontimes.vn/Uploads/Articles04/88528/841b6_anh_3.jpg




Lễ kỳ siêu cho người quan thân nơi cảnh lạc ban.
Giờ đây người đã viên tịch nơi chùa danh thắng Kim Chương.
Hỡi ơi !
Tiên cảnh không trần thiên đường có nẻo,
Vinh hạnh thay ! Kính tỏ tấm lòng.
Hoàng thượng ân ban một đạo và gấm vóc đôi cây gọi là ân huệ triều đình làm sáng tỏ công đức của ngài.
Khả kính thay !
Hoàng triệu Thiệu Trị đệ nhị niên
Nhâm Dần niên 1842 Tháng 6 mùng 3.


Quan Âm Cổ Tự - Ngôi chùa huyền thoại Cà Mau

Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chính giữa tôn trí tượng Di Đà Tam Tôn (đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí). Bàn phía trước đặt tượng Thất Phật Dược Sư, Bồ tát Chuẩn Đề, Bồ tát Phổ Hiền, Bồ tát Địa Tạng và Bồ tát Di Lặc. Nhà Tổ thờ tượng Tổ sư Đạt Ma, Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Địa Tạng và long vị chư Tổ. Tiền đường đặt thờ tượng Hộ Pháp và Tiêu Diện.


Trong khuôn viên chùa có tháp mộ của Hòa thượng Thích Trí Tâm, một danh tăng ở miền Nam, với nhiều truyền thuyết về ngài, biết trước những việc sắp xảy ra và chữa lành những bệnh nan y cho nhiều người và thú vật.



Xin đọc :
NGUYỄN THIÊN-THỤ * NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO

SO SÁNH GIẤY BẠC - TIN PHẬT GIÁO - TRUNG CỘNG XÂM LƯỢC- HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ HẢI Ý * SO SÁNH GIẤY BẠC

Giấy bạc của hai nước Việt Nam

 

TIN TỨC PHẬT GIÁO



    THÔNG CÁO BÁO CHÍ NGÀY 4.9.2013
Trước sự chấn động và thỉnh cầu của chư Tăng Ni và đồng bào các giới trong và ngoài nước, Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ chấp nhận tiếp tục lãnh đạo Giáo hội - Quyết định thành phần nhân sự Văn phòng II Viện Hóa Đạo do Đức Tăng Thống ban hành



2013-09-04 | | PTTPGQT

PARIS, ngày 4.9.2013 (PTTPGQT) - Kể từ khi Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế phát hành Cáo Bạch từ nhiệm chức Tăng Thống của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ hôm 1.9.2013, sự chấn động âu lo, sững sờ dâng ngập tâm tư người Phật tử từ trong ra ngoài nước, từ chư Tăng Ni đến đồng bào Phật tử và đồng bào các giới. Như ngọn sóng lớn chồm lên trên nỗi tiếc thương và tuyệt vọng trước tình hình đen tối của đất nước và sự ngửa nghiêng của Giáo hội.

Từ khuya ngày 1.9 cho đến suốt ngày 2.9, Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế đã chuyển trình Đức Tăng Thống tất cả những phản ứng hay thỉnh nguyện thư cầu thỉnh Ngài bỏ ý định từ chức của chư Tăng Ni và đồng bào hải ngoại. Tổng cộng trên một trăm trang.

Nhiều Hòa thượng ở miền Trung lặn lội về Saigon đến Thanh Minh Thiền viện đảnh lễ xin Ngài nghĩ tới cuộc vận động Giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn chưa thành, lãnh thổ lãnh hải bị ngoại nhân xâm chiếm, nhân tâm ly tán, phân hóa, đồng bào trong nước sống cảnh đói nghèo, thiếu tự do, nhân quyền, chế độ độc tài toàn trị vẫn còn thống trị, để van nài Ngài trở lại lèo lái con thuyền Giáo hội trên phong ba bão táp. Chẳng hạn như Hòa thượng Thích Như Đạt, Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) kiêm Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự, Hòa thượng Thích Thanh Quang, Tổng Thư ký Viện Hóa Đạo kiêm Tổng vụ trưởng Tổng vụ Thanh Niên, Huynh trưởng Lê Công Cầu, Vụ trưởng Gia Đình Phật tử Vụ Viện Hóa Đạo (là tổ chức trẻ của Giáo hội), v.v…

Vào lúc 9 giờ sáng ngày 3.9, một số chư Tăng giáo phẩm thuộc Viện Hóa Đạo do Hòa thượng Thích Viên Định dẫn đầu, y hậu chỉnh tề, đến Thanh Minh Thiền Viện ở Saigon, ba lần đảnh lễ Đức Tăng Thống xin sám hối đã không khâm tuân việc xử lý nội bộ của Đức Tăng Thống trước đây, và xin Ngài đảm nhiệm trở lại việc lãnh đạo tối cao Giáo hội. Đồng thời xin hứa khâm tuân bất cứ quyết định gì của Đức Tăng Thống, đặt biệt là việc cách chức Hòa thượng Thích Chánh Lạc ra khỏi Giáo hội vì lý do đức hạnh.

Cùng thời gian này, Hòa thượng Thích Viên Lý, cũng điện thoại về xin đảnh lễ Đức Tăng Thống, sám hối với Ngài và rút lại ý định lưu nhiệm Hòa thượng Thích Chánh Lạc trong chức Chủ tịch Văn phòng II Viện Hóa Đạo hoặc Cố vấn.

Đức Tăng Thống đã mủi lòng trước sự thỉnh cầu tha thiết của Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo Thích Viên Định đại diện chư Tăng, cũng như Ngài đã mủi lòng trước đây khi đọc gần 100 trang Thỉnh nguyện thư hay các bài viết do Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế chuyển trình về thỉnh cầu Ngài tiếp tục lãnh đạo Giáo hội.

Khoảng 11 giờ trưa giờ Paris cùng ngày (3.9), Đức Tăng Thống gọi điện sang cho Cư sĩ Võ Văn Ái, Phát ngôn nhân Giáo hội và Giám đốc Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, về cuộc gặp gỡ với phái đoàn chư Tăng Viện Hóa Đạo. Chúng tôi ngỏ ý xin Ngài cho phép loan tải ngay tin mừng này để chia sẻ với đồng bào hải ngoại đang sống trong cảnh âu lo, buồn thảm, hoang mang suốt mấy ngày qua.

Nhưng Ngài dặn hãy chờ một vài hôm. Chớ vội vã. Vì Ngài bảo để xem Quyết định Ngài sắp ban hành về việc truất chức Chủ tịch Văn phòng II Viện Hóa Đạo của HT Chánh Lạc có đạt sự đồng thuận của các ngài trong Hội động Lưỡng Viện như đã hứa hay không.

Hôm nay ngày 4.9, Đức Tăng Thống cho chuyển sang Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến bản Quyết định thành phần nhân sự Văn phòng II Viện Hóa Đạo là cơ quan lãnh đạo Giáo hội ở hải ngoại. Qua Quyết định này, Hòa thượng Thích Chánh Lạc không còn giữ chức vụ gì trong Giáo hội, đặc biệt chức Chủ tịch kiêm Tổng Ủy viên Hoằng pháp. Chúng tôi sẽ cho scan bản Quyết định 2 trang do Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ ấn ký gửi kèm bản Thông cáo báo chí hôm nay. Dưới đây là danh sách thành phần nhân sự Văn phòng II Viện Hóa Đạo (xem bản scan toàn văn Quyết định đính kèm) :

Chủ tịch : HT Thích Viên Lý
Phó chủ tịch : HT Thích Trí Lãng
Phó chủ tịch : HT Thích Trí Minh
Tổng thư ký : HT Thích Chơn Trí
Tổng Ủy viên Kế hoạch : Pháp sư niên trưởng Thích Giác Đức
Tổng Ủy viên Hoằng pháp : HT Thích Thiện Hữu
Tổng Ủy viên Truyền Thông : TT Thích Giác Đẳng
Tổng Ủy viên Thanh niên : HT Thích Huyền Việt
Tổng Ủy viên Tài chánh kiêm Đặc trách Liên lạc Úc châu : HT Thích Phước Nhơn
Tổng Ủy viên Từ thiện Xã hội kiêm Đặc trách Liên lạc Canada : HT Thích Thiện Tâm
Tổng Ủy viên Ngoại vụ : Cư sĩ Võ Văn Ái
Tổng Ủy viên Đặc trách Liên lạc Quốc tế : Cư sĩ Hồng Chi Ỷ Lan
Tổng Thủ bổn : Sư Bà Thích Nữ Nguyên Thanh


Thỉnh Nguyện Thư do Thôn Vỹ Dạ phát động lấy chữ ký trên Internet trong ngày 2.9 và đã thu được 147 chữ ký :

From : ThonVyDa
Sent : Monday, September 02, 2013 12 :13 PM
To : undisclosed recipients :
Subject : Thỉnh nguyện thư thỉnh cầu HT Quảng Độ tiếp tục vai trò Tăng Thống

Kính thưa quý đồng hương, Phật tử :

Mấy ngày qua, chúng ta sững sờ trước thông bạch từ nhiệm của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ.
Bao nhiêu năm qua, Ngài đã cùng Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang đẩy mạnh công cuộc vận động Giải trừ Quốc Nạn và Pháp nạn. Trong khi mọi người hoang mang không biết phải làm gì và tin ai thì chính Ngài là ngọn đuốc soi đường. Hình ảnh Ngài là niềm hy vọng và sự tin tưởng cho người con Phật ưu tư về tiền đồ Đạo Pháp và Dân tộc khắp năm châu.

Xin quý đồng hương Phật tử ký vào thỉnh nguyện thư thỉnh cầu Ngài tiếp tục vai trò Tăng Thống của GHPGVNTN.

Trân trọng,
ThônVỹDạ

Chúng con, những Phật tử hải ngoại ưu tư cho mạng mạch và tiền đồ của Giáo Hội nói riêng và cho công cuộc vận động giải trừ Pháp nạn và Quốc nạn nói chung trước quyết định từ nhiệm của Ngài. Vì tiền đồ của Phật giáo và Dân tộc, chúng con cúi đầu thỉnh cầu Ngài tiếp tục ngôi vị Tăng Thống của Giáo hội. Được vậy là phước duyên lớn cho quê hương đất nước. Chúng con cầu nguyện Hồng ân Chư Phật, Chư Lịch Đại Tổ Sư, Chư Thánh Tử Đạo gia hộ Ngài pháp thể khang an, Phật sự viên thành và hạnh nguyện viên mãn. Phật tử hải ngoại

Đồng ký tên : Michael Bui Garden Grove, California USA - Thanh Nguyen-Brem, Germany - Lam Nguyen Tampa, Florida USA – Nguyễn Duy Thông, Montpellier, France - Tuan Hoang Sachse, Texas USA - Túc Trương Dallas, Texas USA - Que Nguyen Lawrenceville, Georgia USA - Hồng Yến Trần Norkesville, Virginia USA - Chanh Nhan Laurel, Delaware USA – Lac Tieu Brooklyn, New York USA - Hiến Tống Garden Grove, California USA - Huy Nguyen Grand Prairie, Texas USA – Sum Ngoc Duong Denver, Colorado USA - Sa Phan Dallas, Texas USA - Tam Tran Dallas, Texas USA - Anh Hoang Santa Ana, California USA - Co Cao Sacramento, California USA - Terry Phan Houston, Texas USA - Hien Cao Allen, Texas USA - Thao Dam Garland, Texas USA - Davis Nguyen Sacramento, California USA - Anh Pham Garden Grove, California USA – Vu Trong Khai, Tuệ Mỹ, Australia – Ton Nu Hoang Hoa Tampa, Florida USA – Tan Vinh Ho, Australia - Freedom VietNam Manchester, United Kingdom - Qui Nguyen Santa Ana, California USA – Huong Nguyen Sugarland, Texas USA - Diệu Thúy Vo Murphy, Texas USA - Hien Pham Thornton, Colorado USA - Be Tran Houston, Texas USA - Ngoan Le San Jose, California USA - Am Tran Stockton, California USA - Thanh Luong San Diego, California USA - Dan Le San Jose, California USA - Giang Phu Plano, Texas USA - Huong Nguyen Thornton, Colorado USA - Kelly Pham Thornton, Colorado USA - Minh Tam Tran Morrow, Georgia USA - Victor Pham Plano, Texas USA - Bryant Pham Thornton, Colorado USA - Anh Tâm Nguyễn Khắc Florisant, Missouri USA - Nguyet Le Lawrenceville, Georgia USA - Minh Lam Denver, Colorado USA - Bao Kim Vu Springfield, Virginia USA - Can Khong Denver, Colorado USA - Thanh Le Chicago, Illinois USA - Dang Nguyen Toronto, Canada - Hai quang Pham Tornto, Canada - Hưng Lâm Mobile, Alabama USA - Vinh Ho, Australia - Ai Ton Garland, Texas USA - Amos Pham the Houston, Texas USA - Khiem The Tran Yukon, Oklahoma USA - Peter Nguyễn New Orleans, Louisiana USA - Vinh Cao Fountain Valley, California USA - Bac Tran Pearland, TX 77584, Texas USA - Đức Ly Bùi Seattle, Washington USA - Tho Le Centennial, Colorado USA - Mai Xuan Portland, Oregon USA - Trach Ha, San Jose, California USA - Dan Vo Pháp danh : Tâm Thành, Sanjose, California USA - Nguyen Thinh, Australia - Son Tran San Diego, California USA - Can Bui Minneapolis, Minnesota USA - Minhhung Khuong USA - Cang Nguyen Orlando, Florida USA - Nhu Thuy Le Littleton, Colorado USA - QUE NGUYEN El Monte, California USA – Khanh Le, Colleyville, Texas USA - Giac Ha San Jose, California USA - Thanh Phan Tacoma, Washington USA - Nhut Tran San Jose, California USA - Hoa Nguyen Houston, Texas USA - Sanh Dang Mesquite, Texas USA - Hanh Ha Aurora, CO 80013, Colorado USA - Chanh Dinh Aurora, Colorado USA - Dieuvien Tran Garland, Texas USA - Helena Vu Denver, Colorado USA – Brian Vo Stockton, California USA - Trung Ung Le, Germany - Dung Nguyen Vancouver, Canada - Luyen Nguyen Wichita, Kansas USA - MINH NGUYEN, Australia - Luan Nguyen Bruxelles, Colorado USA - Hoi Nguyen Hyde Park, Massachusetts USA - Truong Luu Gaithersburg, Maryland USA – Dinh Van Ho Kansas City, Missouri USA - Huong Bui Littleton, Colorado USA - Dien Hoang Odense, Denmark - An Nguyen St.Paul, Minnesota USA - Vinh Nguyen Westminster, Colorado USA - Văn Đáo Nguyễn Amersfoort, Utah USA - Thanh Nguyen Broomfield, Colorado USA - Hoang Nguyen Denver, Colorado - Ngoc Quang Le Westminster, Colorado USA - Kim Tran Monterey, California USA - Minh Ngoc, Australia – Tan Pham San Jose, California USA - Thiet Trương Dallas, Texas USA - Lanthanh Nguyen Mission Viejo, California USA - Phung Nguyen San Jose, California USA - Lu Dam San Jose, California USA - David Ha Houston, Texas USA - Loan Nguyen Denver, Colorado USA - Thanh Truong Olympia, Washington USA - Kiều Túy Nguyen Bellevue, Washington USA - Mai Huong Tran Thi Philadelphia, Pennsylvania USA - Thuan Do Anaheim, California USA - Cuong Nguyen Los Angeles, California USA - Be V. Huynh Houston, Texas USA - Ham Tran Seal Beach, California USA - Giang Le, Australia - Dai Vo Houston, Texas USA - Khac Nguyen, Australia - Amrin Hồ Seattle, Washington USA – Quốc Việt Khối 8406 Hoa Kỳ Nguyen San Jose, California USA - Hung Nguyen Santa Ana, California USA - Ban Bui Littleton, Colorado USA - Nathan Nguyen Westminster, California USA - Kha Nhan Nguyen Littleton, Colorado USA – Lang Nguyen Portland, Oregon USA - LongDuc Mach Saigon Việt Nam - Edward Laurson Denver, Colorado USA - Amy Nguyen Littleton, Colorado USA - Phuong Nguyen Santa Ana, California USA - Khong Bach Littleton, Colorado USA - Thanh Lam Nguyen Littleton, Colorado USA - Vien Ha Midway city, California USA – Duyen Đoan Portland, Oregon USA – Tuyet Ta Houston, Texas USA - Anh Nguyen Yukon, Oklahoma USA - Thuc Vu Seattle, Washington USA - Kim Truong Calgary, Canada - Tri Nguyen Aurora, Colorado USA - Tony Ho Santa Ana, California USA - Long Hoang Co San Jose, California USA - Son Bui Westminster, Colorado USA - Henrik Nguyen sacramento, California USA - Cat Le, Australia - Le Thanh Nguyen, Australia – Lieu Do Dang, Australia - Hang Huynh Mobile, Alabama USA - Niệm Trần Marlton, New Jersey USA - David Hoang Denver, Colorado USA - Tony Hoang Denver, Colorado USA.



Một vài Thỉnh nguyện thư hay bài viết tiêu biểu trong số gần 100 trang chuyển trình Đức Tăng Thống hôm 2.9.2013 :

From : YungKrall
Sent : Monday, September 02, 2013 3 :16 AM
Subject : Đại lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ từ nhiệm chức vụ Tăng thống....

Kính thưa các bạn,

30 tháng Tư năm 1975 chúng ta mất Miền Nam Vietnam vào tay Cộng sản.

1 tháng 9, 2013 Phật tử Viêt Nam mất Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Là con của Phật, xin anh chị em dìu dắt nhau nuôi dưỡng Bi Trí Dũng trong tâm để vượt qua mọi thử thách trong những tháng ngày sắp tới.
Xin cầu nguyện cho Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ và sát cánh cùng Ngài trong công cuộc giải trừ Quốc nạn và Pháp Nạn.
Với lòng thành kính.

Đặng Mỹ Dung
(tức Yung Krall, tác giả sách “The thousands Tears” Việt dịch «Ngàn giọt lệ rơi)

----- Original Message -----
From : Huong Tran
Sent : Sunday, September 01, 2013 7 :02 PM
Subject : Kính gửi chư Tôn Đức, qúy vị trong hàng lãnh đạo GHPGVNTN VP 1, 2 VHĐ v/v - Dai lao Hoa thuong Thich Quang Do tu nhiem chuc Tang Thong

Trước hết, con xin kính đãnh lễ và xin vấn an qúy Ngài thân tâm luôn an lạc, Đạo Pháp viên thành, dìu dắt chúng sanh vượt qua bể khổ về bến Giác.

Thưa qúy chư Tôn Đức,

Đọc bản Cáo bạch từ Hội đồng lưỡng viện GHPGVNTN gửi ra về việc Ngài Tăng Thống Thích Quảng Độ từ nhiệm. Qua bản thông bạch này, không những một mình con mà con nghĩ đây là một tin khiến cho toàn thể Phật Tử khắp nơi trên thế giới phải bị hụt hẫng và lo lắng cho vận mệnh tương lai của GHPGVNTN trong và ngoài nước.

Như chúng ta đều biết, Ngài Tăng Thống Thích Quảng Độ là vị Cao tăng được Quốc Tế biết tới nhiều nhất, hơn cả Nhất Hạnh, nhờ vào đó, tiếng nói của Phật Giáo GHPGVNTN trong nước mới được Quốc Tế lắng nghe và để ý tới. Nay Ngài ra thông bạch từ nhiệm và nếu Giáo Hội để Ngài từ nhiệm thì đây không phải chỉ là sự thiệt thòi cho GHPGVNTN Văn phòng I Viện Hóa Đạo mà cả GHPGVNTN Văn phòng II Viện Hóa Đạo cũng bị ảnh hưỡng, như vậy không phải là cái phước cho Phật Giáo.

Biết rằng sự từ nhiệm của Ngài Tăng Thống bắt nguồn từ biệt nghiệp của một cá nhân tu sĩ trong Giáo Hội, nhưng con vẫn mong các Ngài hãy vì Phật Giáo, vì Giáo Hội mà đưa ra một giải pháp tốt nhất để cứu vãn vấn đề. Có lẽ các Thầy nghĩ rằng con không là gì để đưa ra lời khuyên và mong cầu đối với sự việc quyết định của các Thầy trong Giáo Hội, nhưng xin các Thầy hãy vì Đạo Pháp, vì Phật Giáo GHPGVNTN Văn phòng I và II Viện Hóa Đạo để suy nghĩ lại (…)

----- Original Message -----
From : HT Bao Vuong
To : PTTPGQT (IBIB) ; queme.democracy@gmail.com ; bao ve chanh phap ; chutonthanhviengiaohoi@googlegroups.com
Sent : Monday, September 02, 2013 5 :37 AM
Subject : Kính gởi HT Thích Quảng Độ Đệ Ngũ Tăng Thống GHPGVNTN Tại Việt Nam

Kính Bạch Hòa Thượng Tăng Thống,
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Chúng Tôi,
HT Thích Huyền Tôn

Thành viên Hội Đồng Chứng Minh.
Tăng Giáo Trưởng Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hải ngoại Úc Đại lợi – Tân Tây lan ; và HT Thích Như Huệ

Thành Viên Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương
Hội Chủ Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Hải ngoại Úc Đại lợi – Tân Tây lan
Từ phương xa Úc Châu Khẩn thiết yêu cầu kính bạch Hoà Thượng :

Sau khi đọc lời Cáo Bạch số 06 /VTT/TT Ngày 30 tháng 8 năm 2013 của Hòa thượng phát ra từ Thanh Minh Thiền Viện ở Sàigòn Việt Nam, thật vô cùng chới với và lo cho tiền đồ của GHPGVNTN !!!

Nên cấp tốc, bất luận thế nào xin mạn phép cáo bạch với Hoà Thượng những điều cần phải giải quyết ngay trong vòng 24 giờ để cứu vãn tình trạng nguy cấp như Cáo bạch đã phát ra của Hoà Thượng.

- Thứ nhất : Hoà Thượng Phải vững trụ ở cương vị TĂNG THỐNG. để bảo toàn cho GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT. Là Tăng Thống Ngài Từ chức với ai ??? Bao năm tù ngục và đức kiên nhẫn của Hòa thượng là vì ai ? Không phải vì Giáo Hội hay sao ?

- Thứ Hai : Hoà Thượng Tăng Thống xin cấp tốc ra Giáo Chỉ Bãi bỏ “Cáo Bạch số 06/VTT/TT (…)

----- Original Message -----
From : Gop gio
Sent : Sunday, September 01, 2013 8 :19 PM
Subject : [GiongLacHong] Đức Tăng Thống THÍCH QUẢNG ĐỘ từ nhiệm - VÌ ĐÂU NÊN NỖI ?

VÌ ĐÂU NÊN NỖI ?

Sáng hôm nay 1-9-2013, chúng tôi đọc được bản Cáo Bạch của Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ, đương kim Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt, Ngài quyết định “lui về tịnh tu để trưởng dưỡng tâm thân” --tức rút lui khỏi chức vụ “Tăng Thống Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhứt, kể từ ngày 30-8-2013.
Đây quả là một TIN SẤM SÉT làm cho không những giới Phật tử bàng hoàng lo âu… mà đối với những người có thiện cảm, gắn bó với Giáo hội cũng hoang hoang (…)

Võ Văn Sáu Báo GÓP GIÓ, Hoa Kỳ


----- Original Message -----
From : NGUYEN DUY
To : PTTPGQT (IBIB)
Sent : Sunday, September 01, 2013 8 :56 PM
Subject : RE : [PTTPGQT] - Dai lao Hoa thuong Thich Quang Do tu nhiem chuc Tang Thong

Nam Mô A Di Đà Phật,

Chúng con, Phật Tử Nguyễn-Duy Thông và gia đình, xin được phép ghi tên vào danh sách thỉnh cầu Ngài tiếp tục giữ chức vụ Đệ Ngũ Tăng Thống để hướng dẫn tín đồ Phật giáo trong thời mạt pháp hiện nay. Chúng con tin chắc rằng tất cả tín đồ Phật giáo trong nước cũng như hải ngoại chỉ tin vào Ngài mà thôi.

Thật là kỳ lạ !! Đúng là thời Mạt Pháp !! Chúng con hoàn toàn đồng ý tuân theo Quyết định của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ.

Ngài thật xứng đáng làm Đệ Ngũ Tăng Thống. Chúng con hoàn toàn đồng ý tuân theo Quyết định của Ngài. Các vị Tăng sĩ chống lại Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, không xứng đáng để con kính phục.

Nguyễn -Duy Thông, Giáo sư Đại học Montpellier, Pháp Quoc.

----- Original Message -----
From : Chau Nguyen
Sent : Monday, September 02, 2013 2 :07 AM
Subject : Cung kính Thỉnh Nguyện.

Chúng con,những thành viên và thân hữu Khuôn Hội PhậtGiáo Đôn Hậu,vùng South Bay Nam Los Angeles, cung kính toàn tâm, toàn ý, hổ trợ và khâm tuân ý chỉ của Đức Tăng Thống, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ. (…)

Chúng con rất là bất an và ưu tư lo lắng cho mạng mạch và tiền đồ của Giáo hội nói riêng và cho công cuộc vận động giải trừ Pháp nạn và Quốc nạn nói chung, trước quyết định từ nhiệm Giáo Vụ Tăng Thống của Đức ngài Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ.

(…) Chúng con thỉnh cầu quí ngài Giáo Phẩm vì tiền đồ của Phật Giáo và Dân Tộc hãy cung thỉnh Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ tiếp tục Giáo Vụ Tăng Thống GHPGVNTN bằng cách cung thừa ý chỉsáng suốt và trí tuệ "Cắt bỏ ung nhọt" của Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ.

Được vậy là phước duyên lớn cho Quêhương Đất nước và cho con thuyền của Giáo hội đang trong cơn phong ba bảo táp của vô minh ác trị, bạo ngược và tham tàn.

Đại diện Khuôn Hội Đôn Hậu.

Chánh Hồng,Nguyễn Thanh Châu.


----- Original Message -----
From : Di Tran
To : vovanai
Sent : Monday, September 02, 2013 9 :25 PM
Subject : Thinh nguyen thu

Chúng con là Phật Tử thuộc các Khuôn hội Huyền Quang tại Đức Quốc xin đê đầu đảnh lễ Đức Đệ Ngũ Tăng Thống, chư vị Hòa Thượng trong hàng Giáo Phẩm, cùng Chư Tôn Đức thuộc GHPGVNTN.

Chúng con vô cùng bàng hoàng kèm nỗi đau đớn, thất vọng không bút mực nào tả xiết khi đọc được bản tin từ nhiệm của Đức ĐệNgũ Tăng Thống được đăng trên bản tin Quê Mẹ.

Tuy là hàng Phật Tử nhỏ nhoi nhất trong GHPGVNTN, nhưng chúng con xin mạo muội đạo đạt thỉnh nguyện lên Đức Đệ Ngũ Tăng Thống.

Chúng con trộm nghĩ dù tình hình hiện nay có như thế nào chăng nữa cũng không bằng bao hiểm nguy cá nhân Ngài Đệ Ngũ Tăng Thống cũng như Quý Ngài Tăng Thống tiền nhiệm đã nguyện hứng chịu.

Đó cũng là sự thật bi tráng từ bao đời lịch sử xa xôi đến hôm nay, đạo Phật từ bi trên đất nước Việt Nam luôn hứng chịu và có cùng số phận với vận mạng Dân Tộc và Tổ Quốc. Đại Lão Hòa Thượng đã không màng hiễm nguy đến mạng sống, như một đấng Từ Phụ luôn dẩn dắt Phật Tử từng suy nghĩ, từng bước đi, dù trong vòng lao lý vẫn luôn kề cận cùng chúng con trong mọi tình huống hung hiễm của Giáo Hội, kèm chung với họa mất nước !

Chúng con đồng lập nguyện kính xin Đức Đệ Ngũ Tăng Thống hồi tâm chuyển ý, tiếp tục mạnh mẽ lấy lại sự trong sáng của Giáo Hội và vì non sông Tổ Quốc Việt Nam thâu hồi lại Sắc Lệnh, chúng con xin lạy sám hối từ nay đến mãn kiếp.
Đức quốc, ngày 2 tháng năm 2013

Ký tên : Nhật Quang Trần Di Nhơn
Đại diện Khuôn hội Huyền Quang Frankfurt a.M
kiêm Chủ tịch Ủy ban Điều hợp

Minh Hải Đặng Ngọc Sơn
Đại diện Khuôn hội Huyền Quang München

Thiện Thủy Phan Thị Thanh Vân
Đại diện Khuôn hội Huyền Quang Rhein-Main

-------------------------


Oakland, CA ngày 02 tháng 09 năm 2013.
CUNG THỈNH NGUYỆN THƯ.

Chúng con Phật Tử của Đạo Tràng Tam Bảo, Oakland Tiểu Bang California. kính cẩn đê đầu đảnh lễ Ngài. Chúng con rất đau khổ, không những nước mắt chảy, mà máu con tim của chúng con cuồn cuộn khi đọc bản Cáo Bạch của Ngài.

Kính Bạch Ngài, hơn 38 năm qua, Ngài cùng với Ngài Đệ Tứ Tăng Thống đã vì mạng mạch của Phật Đà, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất nói riêng và toàn dân Việt Nam nói chung, các Ngài đã Dũng Mãnh nói lên những tiếng nói chung cho toàn dân Việt trước bạo quyền Cộng Sản, lèo lái con thuyền của Giáo Hội qua không biết bao nhiêu là phong ba. Nếu không có sự hy hiến cao cả của Quí Ngài thì ngày nay danh xưng GHPGVNTN đã không còn.

Hành trạng “Bồ Tát vì chúng sanh khổ đau mà gạt lệ nhảy vào ; vì biết chúng sanh cùng với mình là MỘT THỂ” của Quí Ngài bút mực không thể tả hết được.

Bản thân của chúng con trước khi Xuất Gia là “Anh Lính Việt Nam Cộng Hòa”, chúng con đã đi trên quê hương điêu tàn đỗ nát không biết bao nhiêu năm. Vì nhận thức rằng : Chính Trị, Kinh Tế, Khoa Học không thể đem lại Hòa Bình Chân Chính cho nhân loại ; chỉ có nền Giáo Dục Từ Bi, Trí Tuệ của Phật Đà mới cứu khổ nhân loại và đem lại đời sống Chân Thiện Mỹ cho chúng sanh. Do đó, chúng con đã đổi màu áo hoa rừng và được phước báo khoát lên người chiếc Ca Sa của Phật, Học Phật và Nguyện theo con đường của Chư Phật Như Lai cùng Lịch Đại Tổ Sư.

Kính Bạch Ngài, ngày nay nếu GHPGVNTN “không có Huyền Quang, không có Quảng Độ” thì Giáo Hội này thuộc về ai ? Có phải là đã hiến mình theo ước mong của Đảng Cộng Sản VN hay chăng ?!

Chúng con là toàn thể Phật Giáo Đồ, Quân Dân Cán Chánh Miền Nam Việt Nam Tỵ Nạn Cộng Sản tại Vùng Bắc California, kính xin đê đầu thành tâm đảnh lễ dưới chân Ngài. Ngưỡng mong Ngài hãy thương xót chúng con, 90 triệu người Việt Nam trên quê hương ta và GHPGVNTN truyền thừa trên 2,000 năm mà Lịch Đại Tổ Sư cùng với Tín Đồ đã hy hiến đời mình gìn giữ. Chúng con đã xa quê hương, mất tất cả, chỉ còn lại MỘT CON THUYỀN GHPHVNTN để nuôi sống tâm linh. Con Thuyền này đã được Hai Ngài lèo lái cho đến ngày đến bờ đến bến. Giờ đây nếu Ngài bỏ chúng con, chúng con còn ai để nương tựa ? Ngài đã thương xót chúng con kính xin Ngài hãy thương cho trọn.

CHÚNG CON ĐÊ ĐẦU ĐẢNH LỄ DƯỚI CHÂN NGÀI. KÍNH CUNG THỈNH NGÀI HÃY Ở LẠI NGÔI VỊ ĐỆ NGŨ TĂNG THỐNG ĐỂ LÈO LÁI CON THUYỀN GHPHVNTN.

Khể Thủ,
Tây Hữu Đệ Tử
Thích Kiến Chơn cùng toàn thể Phật tử và Đồng Hương Vùng Đông Vịnh.

----------------------------

Sacramento ngày 2 tháng 9 năm 2013
Thỉnh nguyện thư kính trình Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng thuợng Quảng hạ Độ

Ngưỡng bạch Đức Đệ Ngũ Tăng Thống

Con và đại chúng đạo tràng chùa Thường Quang, là thành viên của GHPGVNTNHN tai Hoa Kỳ Văn Phòng II Viện Hoá Đạo.

Sau khi đọc Cáo bạch của ngài, chúng con như bị sét đánh ngang tai, cảm thấy hụt hẫng, rồi nghĩ đến, mà ưu tư cho mạng mạch và tiền đồ của Giáo hội nói riêng và cho công cuộc vận động giải trừ Pháp nạn và Quốc nạn nói chung, trước quyết định từ nhiệm Giáo Vụ Tăng Thống của Ngài.

Chúng con đồng loạt xin noi gương chư Tăng Giáo Phẩm trong Văn Phòng II Viện Hoá Đạo, xin thành tâm đảnh lễ và cúi xin ngài lưu lại trong Giáo vụ Tăng Thống, chỉ có trí tuệ tuyệt luân của ngài mới lèo lái con thuyền chánh pháp qua khúc quanh gồ ghề nầy. Chúng con xin nguyện khâm tuân mọi hướng dẫn và quyết định của ngài.

Kính thư,
Con
Thích Nữ Tịnh Thường
Và đại chúng đạo tràng chùa Thường Quang

----- Original Message -----
From : anhdung nguyen
To : PTTPGQT (IBIB)
Subject : Re : [PTTPGQT] - Thinh nguyen thu cua 12 thanh vien VP2 VHD gui Duc Tang Thong

Kính gởi Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế,

Trong suốt ngày hôm qua, lòng người Phật Tử tại hải ngoại như nằm trên lửađỏ vì khiđọc Cáo bạch củaĐức Tăng Thống Thích QuảngĐộ, nước mắt cứ chực trào ra. Nayđọcđược Thông cáo báo chí nầy của quý 12 vị trong Văn phòng II Viện Hóa Đạođồng ký tên thỉnh nguyệnĐức Tăng Thống bỏýđịnh từ chức, mong rằng Bồ Tát sẽ giải cơn Pháp nạn nầy vàĐức Tăng Thống sẽ bỏýđịnh từ chức.

Thiện Bửu Nguyễn Anh Dũng

KINH TIẾNG GẦM SƯ TỬ

(…) Đối với tôi, chẳng những tôi bình thản trước tin Hòa Thượng Thích Quảng Độ từ nhiệm Hội đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN, mà tôi còn kính trọng Hòa Thượng Thích Quảng Độ nhiều hơn nữa, tin tưởng vào Phật Giáo một cách mạnh mẽ hơn nữa.

Đức Phật thường nói nếu người tu hành giữ gìn giới luật một cách nghiêm minh, thì sự sinh tồn của đạo Phật có thể kéo dài cho tới vài ngàn năm. Tôi thấy trong khi một vài đạo giáo khác có hàng ngàn tu sĩ phạm giới tình dục bị đưa ra tòa án xét xử, thì đạo Phật chỉ có một người phạm giới tình dục bị đưa ra tòa án xét xử ;

Tôi thấy trong khi một vài lãnh đạo các tôn giáo khác tìm mọi cách để che đậy việc phạm giới của người trong đạo của mình, thì lãnh đạo tối cao của GHPGVNTN là người phơi bày ra ánh sáng những người phạm giới trong đạo của mình ; tôi thấy trong khi những người lãnh đạo tối cao của một vài tôn giáo khác âm thầm từ nhiệm gây ra không biết bao nhiêu câu hỏi trên thế giới, thì người lãnh đạo tối cao của GHPGVNTN dõng dạc từ nhiệm một cách danh chính ngôn thuận mà không ai có thể mở miệng hỏi bất cứ một câu gì trên thế giới…

Và hơn tất cả, lời tuyên bố từ nhiệm của Hòa Thượng Thích Quảng Độ là tiếng gầm của một con Sư tử chúa, mong cho chúng ta sớm ý thức được giáo lý Duyên sinh mà chấm dứt tranh chấp nội bộ.

Trong tiếng gầm này pháp âm của Đức Phật vẫn còn vang dội… Chúng con xin nguyện học hỏi và thực hành tiếng gầm của con Sư tử chúa của Ngài. Xin cúi đầu đảnh lễ và cầu nguyện Đức Phật gia hộ cho Ngài trong suốt quảng đường còn lại…

(2-9-2013)
Duyên Sinh


AI CHỐNG ĐỐI VỚI MA VƯƠNG CỘNG SẢN ĐÂY ?

Những nhận định và quyết định thanh tịnh hóa Giáo hội của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ là hoàn toàn chính xác. Không làm như thế Phật giáo sẽ bị diệt vong. Cần phải tự bỏ nạn Bé phái và cần vâng lời Đức Tăng Thống để cứu Giáo hội.

Phật giáo đồ Việt Nam trên toàn thế giớixin đứng sau lưng Ngài để chấn chỉnh Giáo hội và đối phó với Ma vương Cộng sản.

Ngài từ nhiệm vì lý do nội bộ, nhưng Ngài quên một điều : Ai đối phó với Ma vương Cộng sản đây ?

Ngài dứt áo ra đi trước một nội bộ Bè phái và Bất vâng lời, cũng do Bè phái. Nhưng còn hàng triệu Phật tử sau lưng và một sứ mạng Đối phó Ma vương Cộng sản và Bắc phương để cứu Đạo pháp và Dân tộc. Ngài ra đi thì ai lo đây ? Ngài ra đi có khác gì tự động bàn giao Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cho Cộng sản, và Cộng sản thì sẽ tự động bàn giao đất nước cho Tàu phù trong vài năm nữa !

Xin Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ ở lại để chống chọi với cơn sóng dữ phủ trùm lên Đạo pháp và Dân tộc.

Kính cẩn,
Thay mặt Diễn Dàn Quốc tế các phong trào dân chủ Việt Nam
Nguyễn Bá Long, Canada


From : Hoang Nguyen
Subject : Thỉnh nguyện thư của GĐPT Nguyên Thiều

VĂN PHÒNG II VIỆN HÓAĐẠO
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HẢI NGOẠI TẠI HOA KỲ
TỔNG VỤ THANH NIÊN - GIAĐÌNH PHẬT TỬ VỤ
BAN HƯỚNG DẪN TRUNGƯƠNG
GIAĐÌNH PHẬT TỬ NGUYÊN THIỀU – CHÙA NHƯ LAI
Đoàn quán : 2630 W Iliff Ave., Denver, CO 80219

THỈNH NGUYN THƯ

Ngưỡn
g BchĐứcĐ Ngũ Tăng Thống

Đi Lão Hòa Thưng Thích QuảngĐ

Chúng con những Huynh trưởng, Giáo viên Phật Pháp, Việt ngữ và Phụ huynh ký tên dướiđây thuộc Gia Đình Phật tử Nguyên Thiều, trực thuộc Ban Hướng dẫn Trung ương, dưới sự hướng dẫn của HT Thích Huyền Việt, Tổng vụ Thanh Niên, GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ, Văn phòng II Viện Hóa Đạo.

Chúng con tha thiết cung kính cúi xin Ngài hoan hỷ lưu lại ngôi vịĐức Tăng Thống GHPGVNTNđể tiếp tục lãnh đạo chúng con trong công cuộc giải trừ Pháp nạn và Quốc nạn cũng như lèo lái con thuyền GHPGVNTN qua khỏi cơn bảo táp hiện nay.

Cung kính thỉnh nguyện, đồng ký tên : Không Hiến – Nguyễn Thế Vinh – Nguyên An Hiến Phạm – Không Lỗi Hoàng Hùng – Thị Huy Nguyễn Hoàng – Không Lực Phạm Viết Hùng – Nguyên Trinh Lê Như Thủy – Nhuận Quý Bùi Văn Hòa - Không Triết- Nguyễn Thị Lành - Không Bạch- Nguyễn Xuân Thanh - Không Bảo- Trần Thị Minh Ngọc - Không Yến- Trần Thị Minh Hằng - Không Kiều- NguyễnThịThanh Thảo

----- Original Message -----
From : Duong Le
To : pttpgqt@gmail.com
Sent : Wednesday, September 04, 2013 6 :17 PM
Subject : THU THINH NGUYEN

VĂN PHÒNG II VIỆN HÓA ĐẠO
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HẢI NGOẠI TẠI HOA KỲ
Hội Phật Giáo Việt Nam Trung Tâm Georgia
CHÙA VIÊN THÔNG
3064 Oakcliff Rd, Doraville, GA 30340
770-457-7253, 404-667-2664

Phật lịch 2557- Sep.01.13

THƯ THỈNH NGUYỆN
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Ngưỡng bạch Đức Tăng Thống,

Chúng con xin đãnh lễ Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất,

Qua Cáo Bạch số 06/ VTT/TT ngày 30.08.2013, chúng con được biết Đức Đệ Ngũ Tăng thống, vì lý do bất khả kháng, có ý định lui về tịnh tu. Chúng con bàng hoàng, rã rời, buồn đau, lo lắng…

Trong nỗi niềm xót xa đó, chúng con xin được dâng lên Ngài thỉnh cầu sau đây :

Ngài hiện thân là bóng mát che chở, là ngọn đuốc rực sáng trong giai đoạn đầy khó khăn thử thách mà Giáo hội đang góp phần giải trừ Pháp nạn và Quốc nạn.

Do đó chúng con xin thành kính đãnh lễ và thành tâm cúi xin được góp phần thỉnh cầu Đức Tăng Thống tiếp tục vai trò Lãnh Đạo tối thượng của Giáo Hội.

Chúng con nguyện cầu Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ Pháp Thể khinh an chúng sanh dị độ và tiếp tục lèo lái con thuyền giáo hội vượt qua bảo táp phong ba.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Hoa kỳ, tiểu bang Georgia, thành phố Doraville,
01 tháng 9-2013
TM. Ban Điều Hành Hội Phật Giáo Việt Nam Trung Tâm Georgia- Chùa Viên Thông
Tâm cung Lê Văn Dương, XLTV. Hội Trưởng,

Đính kèm danh sách hộ trì Tam Bảo gồm 72 Phật tử thành viên Hội PGVN-TTGA.






 

GS. PHẠM CAO DƯONG * VIỆT NAM ĐÃ VÀ ĐANG MẤT NƯỚC



Chúng Ta Đã và Đang Thực Sự Mất Nước

“Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làmmồi cho giặc, thì tội phải tru di.” Vua Lê Thánh Tông dụ bọn Kiến Dương Bá Lê Cảnh Huy, năm 1473


“Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái lan, Miến Điện, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po. Một vùng như Đông-nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản..xứng đáng với sụ tốn kém cần thiết để chiếm lấy…Sau khi giành được Đông-nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô- Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt gió tây.”
“Chúng ta phải chinh phục trái đất. Mục tiêu của chúng ta là toàn thể trái đất.”
 Mao Trạch Đông tuyên bố trước Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, năm 1959


Nói về hiện tình đất nước ở vào thời điểm 2013 mà không nói tới tham vọng và cuộc xâm lăng của người Tàu, cuộc xâm lăng mới nhất, đang xảy ra trên lãnh thổ của nước ta là một điều vô cùng thiếu sót. Vì vậy thay vì góp thêm nhận định về hiện trạng kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục ở trong nước hiện tại, tôi xin phép Ban Tổ Chức và toàn thể quý vị cho tôi được nói đôi chút về đề tài nóng bỏng này, đề tài tôi tạm gọi là “ Chúng Ta đã và Đang Mất Nước”.

Vì thời giờ có hạn, tôi chỉ xin nói ra những điểm chính. Sau buổi hội thảo ngày hôm nay tôi sẽ xin ghi lại những chi tiết đầy đủ hơn và sẽ xin gửi tới quý vị sau. Cũng vì thì giờ có hạn, tôi sẽ không nói tới hay đúng ra không nói nhiều về Biển Đông với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Đường Lưỡi Bò của Trung Cộng và những gì đế quốc mới này đã và đang làm ở trong vùng biển này như thành lập Thành Phố Tam Sa, thiết lập các cơ cấu hành chánh, chánh trị, quân sự, đưa các tàu hải tuần xuống đe dọa các quốc gia liên hệ chặn bắt, các tàu đánh cá của ngư dân, đặc biệt là ngư dân Việt Nam…Lý do là vì tất cả đã trở thành đề tài thời sự thế giới, được nói tới gần như hàng tuần và luôn cả hàng ngày trên các đài phát thanh, các đài truyền hình quốc tế cũng như các đài phát thanh, đài truyền hình của người Việt, trên các trang mạng từ nhiều năm nay và đương nhiên trong những buổi gặp gỡ giữa anh em, bạn bè chúng ta.

Tôi cũng không nói hay nói rất ít về bản “Tuyên Cáo về việc Nhà Cầm Quyền Trung Quốc Liên Tục Có Những Hành Động Gây Hấn, Xâm Phạm Nghiêm Trọng Chủ Quyền Toàn Vẹn Lãnh Thổ Việt Nam Trên Biển Đông”, ngày 25 tháng 6 năm 2011 và bản “Kiến Nghị Về Bảo Vệ Và Phát Triển Đất Nước Trong Tình Hình Hiện Nay” của các nhân sĩ, trí thức nổi tiếng ở trong nước gửi Quốc Hội Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 10 tháng 7 cùng năm và nhiều kiến nghị khác mà mọi người đều biết trước là sẽ không bao giờ được trả lời hay chỉ được trả lời quanh co hay gián tiếp.
Tôi cũng không nói hay nói rất ít về lối trả lời gián tiếp các nhà trí thức kể trên của Đảng CSVN xuyên qua một bài báo đăng trên tờ Đại Đoàn Kết theo đó những người cầm quyền ở Việt Nam hiện tại đã tỏ ra vô cùng lúng túng trước câu hỏi về bản công hàm của Phạm Văn Đồng nhân danh Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà gửi Chu Ân Lai, Chủ Tịch Quốc Vụ Viện nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, ngày 14 tháng 9 năm 1958. Đây là lần đầu tiên những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam, đã thừa nhận là họ đã lựa chọn nhường các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng để đổi lấy sự giúp đỡ của Trung Cộng trong cuộc xâm chiếm Miền Nam bằng vũ lực của họ sau đó. Đây cũng là lần đầu tiên họ, những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam, công nhận các chính phủ Quốc Gia Việt Nam thời Quốc trưởng Bảo Đại và sau đó là Việt Nam Cộng Hòa là những chính phủ hợp pháp có trách vụ quản trị các quần đảo này theo Hiệp Định Genève cũng như những nỗ lực không thể chối cãi mà những chính phủ quốc gia này đã làm để bảo vệ các quần đảo này trong suốt thời gian các chính phủ này tồn tại.


Lý do chính yếu khiến tôi không nói hay chỉ nói rất it về những sự kiện kể trên là vì tất cả hiện thời ở Biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mới chỉ là diện, là bề ngoài, là mới chỉ là bắt đầu. Tất cả rồi cũng sẽ được giữ nguyên trạng trong một thời gian dài và dù muốn hay không Hoàng Sa cũng đã mất rồi, còn Trường Sa thì cũng mất nhiều phần, còn nhiều thế hệ nữa Việt Nam mới có thể lấy lại được hay có cơ hội lấy lại được. Trung Hoa Cộng Sản trong mọi hoàn cảnh cũng đã chiếm được và giữ được những phần quan trọng kể từ sau khi họ chiếm Hoàng Sa từ trong tay Việt Nam Cộng Hòa hồi tháng Giêng năm 1974 trong sự im lặng, đồng lõa của chính quyền Cộng Sản Hà Nội. Cái giá để cho Đảng CSVN xâm chiếm miền Nam và thống nhất đất nước ta bằng võ lực phải nói là quá đắt cho dân tộc Việt Nam và cho chính họ.


Hoàng Sa, Trường Sa hay rộng hơn Biển Đông chỉ là những gì nổi bật bề ngoài, là cái diện ai cũng có thể thấy được trong tiến trình mất nước của dân tộc Việt Nam đầu Thế Kỷ 21 này. Vậy thì cái điểm nằm ở đâu? Thưa quí vị, nó nằm ngay trên đất liền, trên lãnh thổ của chính quốc Việt Nam. Nó nằm rải rác ở khắp lãnh thổ nước ta chứ không riêng ở biên giới phía bắc, đành rằng ở biên giới phía bắc, người ta đã ghi nhận những sự nhổ và lui cột mốc, sự mất ba phần tư Thác Bản Giốc, những sự chiếm giữ các cao điểm có tính cách chiến lược từ trước và sau trận chiến 1979 giữa hai đảng Cộng Sản Á Châu và có thể từ xa hơn nữa, từ đầu thập niên 1950, khi CSVN mở cửa biên giới phía bắc để nhận viện trợ của Trung Cộng nhằm tiếp tục cuộc chiến tranh chống Pháp và gián tiếp chống lại chính quyền Quốc Gia Việt Nam lúc đó đã được thành lập bởi Cựu Hoàng Bảo Đại.

Những thắc mắc về sự mất mát này cho tới nay vẫn chưa được hoàn toàn giải toả dầu cho đã được nhiều người đòi hỏi. Tôi sẽ nói thêm ở phần cuối về vấn đề này. Có điều là đến giờ thì hai bên đã ký kết những thỏa ước và những cột mốc mới đã khởi sự được “cắm” rồi. Những điểm này tuy nhiên chỉ là ở dọc vùng biên giới. Quan trọng hơn và nguy hiểm hơn, bức thiết hơn là những điểm, mà không phải là điểm hiểu theo ý nghĩa đen của danh từ, nằm sâu ngay trong lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam, dưới quyền quản lý của chính quyền Cộng Sản hiện tại nhưng vượt ra ngoài sự kiểm soát của chính quyền này. Những điểm vừa cố định, nằm nguyên một chỗ, vừa di động khắp nơi trên lãnh thổ, điển hình là những mỏ bauxite trên cao nguyên, những khu rừng đầu nguồn nằm ở cửa ngõ của những vùng biên giới Việt-Trung và Lào-Việt , những khu vực trúng thầu, những địa điểm thu mua các nông sản, những vùng nông dân bỏ trồng lúa, trồng khoai, những trại nuôi cá, điển hình là trại nằm không xa quân cảng Cam Ranh là bao nhiêu mà các nhà cầm quyền địa phương sau cả gần chục năm không hề biết, những khu phố kiểu Đông Đô Đại Phố ở Bình Dương … Tất cả đã trở thành những “thực dân địa” của người Tầu ngay trong lòng của lãnh thổ Việt Nam, nơi những ủy ban nhân dân vẫn còn làm chủ. Nói cách khác, theo lời của các tác giả của Bản “Kiến Nghị Về Bảo Vệ Và Phát Triển Đất Nước …” ngày 10 tháng 7 năm 2011 mà tôi đã dẫn trên đây thì “…mặt trận nguy hiểm nhất đối với nuớc ta mà Trung Quốc muốn dồn quyền lực và ảnh hưởng để thực hiện, đó là: thâm nhập, lũng đoạn mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá của nước ta.

Đó là mặt trận vừa uy hiếp, vừa dụ dỗ nước ta nhân danh cùng nhau gìn giữ ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, gây chia rẽ giữa nhân dân ta và chế độ chính trị của đất nước, vừa lũng đoạn nội bộ lãnh đạo nước ta, làm suy yếu khối đại đoàn kết thống nhất của dân tộc ta, làm giảm sút khả năng gìn giữ an ninh và quốc phòng của nước ta. Đánh thắng nước ta trên mặt trận nguy hiểm nhất này, Trung Quốc sẽ đánh thắng tất cả.” Nói cách khác đó là chiến lược dùng quyền lực mềm thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam để nhẹ ra là đưa Việt Nam đến chỗ phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, còn nặng ra là chiếm luôn cả nước. Đến lúc đó thì Hoàng Sa, Trường Sa và Đường Lưỡi Bò đương nhiên sẽ trở thành biển đảo của Trung Quốc.


Hãy tưởng tượng ngay trên Cao Nguyên Miền Nam, địa diểm chiến lược quan trọng nhất đã chi phối toàn bộ an ninh của miền nam Việt Nam và sự thống nhất của lãnh thổ quốc gia trong quá khứ, trong một khu vực rộng lớn, nằm ngoài sự kiểm soát của cả chính quyền trung ương lẫn chính quyền địa phương của người Việt, là một khu vực dành riêng cho người Tầu, không ai được nhòm ngó, không ai được ra vào. Họ được tự do mang người của họ vô, mang người của họ ra, được chở đồ của họ vô, chở đồ của họ ra một cách tự do, thong thả không qua một sự kiểm soát nào. Những người này là những người nào? những đồ này là những đồ gì ? Làm sao biết được, ai mà biết được… cho đến biến cố tầy trời nổ ra? Cũng vậy, ở những khu rừng đầu nguồn và ở những địa điểm của những công trình xây cất có tính cách căn bản nhằm cung cấp điện năng, khoáng sản, dầu khí…những lãnh vực thuộc loại tối quan trọng liên hệ tới an ninh của quốc gia. Hãy nhìn vào con số 90% các “gói thầu” thuộc loại này được mở ra ở trong nuớc đã lọt vào tay các nhà thầu Trung Cộng.

 Nhiều gói lên tới hàng tỷ Mỹ kim với những món tiền lót tay không phải là nhỏ, từ 10% đến 15% tiền thầu. Hậu quả là những công trình do họ thực hiện phần lớn có phẩm chất kém, thời gian thi công kéo dài trong khi các nhà thầu Việt Nam, vì không đủ vốn, không đủ thế lực chỉ còn bất lực, đứng bên lề các đại công trường trên đất nước mình. Nhưng nguy hiểm hơn hết vẫn là nạn nhân công người Tầu do chính các chủ thầu người nước họ mang sang để lao động thay vì các nhân công bản xứ. Ở khắp nơi, từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Đồ Sơn đến Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, đến Đà Nẵng rồi vô tới Bình Dương và Cà Mau…chỗ nào có nhân công người Tầu đều có những khu cư xá riêng cho họ, kèm theo là các chợ búa, các cửa hàng, các trung tâm dịch vụ, các nhà nghỉ, các quán cà phê, karoke mang chữ Tàu… để phục vụ cho họ. Người Việt Nam không riêng chỉ có thể đứng nhìn mà còn trở thành nạn nhân của tất cả những tệ hại do họ gây ra như ăn uống, nhậu say không trả tiền, phá phách, tiểu bậy, trêu gái, đánh lộn , kéo hàng trăm người đánh hội đồng người bản xứ khi có tranh chấp…

Những người Tầu được gửi sang Việt Nam để lao động kể trên thuộc thành phần nào? Họ có phải thuần túy là dân lao động có tay nghề hay là những quân nhân thuộc những đơn vị đặc biệt, những đặc công tình báo được gửi sang để thực hiện một mưu đồ hiểm độc lâu dài hơn? Hiện tại chưa có gì là rõ ràng mà chỉ là ức đoán. Có điều là họ hiện diện ở khắp nơi trên toàn quốc Việt Nam mà các nhà cầm quyền từ trung ương đến địa phương đều đã không kiểm soát được hay làm lơ không kiểm soát. Mặt khác, nếu nhìn vào những gì Trung Cộng đã làm ở Tân Cương, ở Mông Cổ và luôn cả ở Tây Tạng trong thời gian gần đây thì không ai là không khỏi lo ngại. Tỷ lệ số người gốc Hán ở các xứ này đã tăng gia dáng kể và sự cạnh tranh cũng như kỳ thị với sự thiên vị của nhà cầm quyền đã gây nên những cuộc bạo loạn trầm trọng. Liệu Việt Nam có thể tránh khỏi tình trạng đang xảy ra cho các nước này hay không?


Ta không được biết, nhưng chỉ nhìn vào miền cao nguyên với các công trình khai thác bauxite, với lượng nhân công gốc Tầu đông đảo, phần lớn là những thanh niên chưa có hay không có vợ, hậu quả của nạn giới hạn hai con của chính quyền Trung Cộng người ta không thể không lo ngại cho tương lai của miền đất chiến lược quan trọng bậc nhất của đất nước Việt Nam này, miền đất mà Hoàng Đế Bảo Đại coi trọng đặc biệt với danh xưng Hoàng Triều Cương Thổ. Những thanh niên này sẽ lấy các thiếu nữ Thượng, sẽ sinh con đẻ cái và tất cả sẽ trở thành công dân xứ Thượng. Nếu điều này xảy ra thì rất là êm thắm, chỉ trong vòng hai thế hệ hay ba chục năm, chưa tới năm mươi năm, thời gian thuê các rừng đầu nguồn với giá rẻ mạt, những người Thượng gốc Tàu sẽ trở thành chủ nhân của các cao nguyên và qua một cuộc đầu phiếu êm ả và hợp pháp, miền đất rộng lớn, nhiều tài nguyên này sẽ trở thành của Tầu và biết đâu qua một tiến trình tương tự toàn bộ cả nước Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh mới của nước Tầu, tỉnh Quảng Nam rộng trên ba trăm ngàn cây số vuông hay hơn nữa nếu bao gồm cả hai nước Lào và Căm bốt, sau hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, biên giới phía nam nước Tầu sẽ được mở rộng tới Vịnh Thái Lan về phía nam và về phía tây, tới bờ sông Cửu Long.


Đó chính là ước mơ của những người tự nhận là Đại Hán mà suốt một ngàn năm vừa qua họ không đạt được. Điều này không phải là không thể đến cho dân tộc Việt Nam, dân tộc Lào và dân tộc Căm-pu-chia trong nửa thế kỷ tới. Tất cả sẽ có thể xảy ra một cách bất ngờ “trước khi người lính của chúng ta được quyền nổ súng” nói theo lời của một tướng lãnh của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam trong một đoạn video được phổ biến rất rộng rãi và trong một thời gian dài trước đây. Chỉ tiếc là tính cách chính xác của đoạn video này cho tới nay chưa được phối kiểm. Vị tướng lãnh này là Trung Tướng Phạm Văn Di, Chính Ủy Quân Đoàn 7 của quân đội này.


Những gì tôi kể ra trên đây chỉ là những gì dễ thấy và được nhiều người thấy. Còn có nhiều hiện tượng khác tiềm ẩn hơn, thâm độc hơn do người Tàu cố ý gây ra như nạn hàng hóa rẻ tiền, thiếu phẩm chất của họ tràn ngập Việt Nam trong đó có những hàng độc hại, những thực phẩm có chứa các hóa chất gây bệnh chết người hay làm hại cho sức khoẻ cho loài người nói chung mà ảnh hưởng sẽ kéo dài trong nhiều thế hệ. Việc người Tàu xây hàng loạt nhiều đập trên thượng nguồn sông Cửu Long và sông Hồng Hà đe dọa sự an toàn và phong phú của các đồng bằng châu thổ của các sông này, từ đó đe dọa cuộc sống của nhiều chục triệu người dân ở đây cũng là những hiện tượng người ta cần chú ý. Chưa hết, chuyện Trung Cộng tung tiền ra và đứng sau hai nước ở phía tây Việt Nam là Căm Bốt và Lào cũng đã và chắc chắn sẽ còn gây ra rất nhiều khó khăn cho Việt Nam mà những gì Căm Bốt đã làm trong Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN vừa qua là một bằng cớ, y hệt những gì Cộng Sản Bắc Việt đã gây ra cho Việt Nam Cộng Hoà trong cuộc chiến tranh vừa qua.


Trên đây mới chỉ là hiểm họa do người Tàu từ phương bắc đem tới. Còn có những hiểm họa khác do chính những người lãnh đạo ở Việt Nam hiện tại vì tham lam, vì trình độ hiểu biết kém cỏi, vì kiêu căng, vì mang bệnh thành tích… đã và đang gây ra cho chính dân tộc mình. Tôi muốn nói tới việc xây dựng bừa bãi và cẩu thả các đập thủy điện ở khắp nơi mà Sông Tranh 2 chỉ là một trường hợp điển hình. Nguy hiểm hơn nữa là việc xây dựng các nhà máy phát điện hạch tâm, khởi đầu là ở Phan Rang, bất chấp những kinh nghiệm khủng khiếp của người Nga ở Chernobyl, người Nhật ở Fukushima hay những sự thận trọng của người Pháp, người Đức, người Mỹ khi những người này quyết định cho đóng cửa hay ngưng hoạt động các lò điện này ở nước họ.

Nga, Nhật, Mỹ, Pháp, Đức… là những nước giàu có, tiền bạc nhiều, lại có những nền khoa học và kỹ nghệ cao, những chuyên viên giỏi, những người thợ có kinh nghiệm và vững tay nghề mà còn thận trọng tối đa như vậy, còn Việt Nam mình thì mặc dầu còn kém cỏi về đủ mọi mặt nhưng đã bất chấp tất cả. Người ta đã không đếm xỉa gì đến sự cảnh cáo của dư luận quốc tế cũng như quốc nội, Giáo Sư Phạm Duy Hiển ở trong nước, Giáo Sư Nguyễn Khắc Nhẫn ở bên Pháp, những chuyên viên thượng thặng của người Việt đã hết lời can ngăn và đã viết nhiều bài điều trần với những lời lẽ vô cùng thống thiết nhưng không ai để mắt, để tai tới…cho đến khi đại họa xảy ra thì mọi sự đã quá muộn. Nên nhớ là với Fukushima, người Nhật chỉ riêng để làm sạch miền biển liên hệ đã phải bỏ ra nhiều tiền bạc, công sức và dự trù sẽ phải để ra bốn mươi năm mới thực hiện nổi. Tham nhũng và nhất là bệnh thành tích phải chăng là nguồn gốc của đại nạn này? Việt Nam phải là nhất, là cái gì cũng có, nhất là ở thời đại Hồ Chí Minh, Đỉnh Cao Của Trí Tuệ Loài Người. Cuối cùng chỉ tội nghiệp cho người Chàm vì địa điểm thiết lập những nhà máy này chỉ cách Tháp Chàm có năm cây số. Nếu chuyện gì xảy ra, con số hơn một trăm ngàn người còn sót lại của một dân tộc đã một thời hùng cứ ở miền trung và miền nam Trung Phần Việt Nam, có thời đã đánh bại người Việt, tràn ngập kinh đô Thăng Long, với một nền văn hoá giàu về hình tượng, nơi xuất thân của Nhạc Sĩ Từ Công Phụng, Ca Sĩ Chế Linh và nhiều người khác … sẽ một lần nữa bị tiêu diệt và lần này chắc chắn là lần chót. Nên biết thêm là nhà cầm quyền ở Việt Nam hiện dự trù sẽ thiết lập tổng cộng từ 8 đến 10 nhà máy điện hạch tâm, phần lớn là ở miền Trung mà Phan Rang chỉ là khởi đầu với 2 nhà, mỗi nhà 2 lò.

Tất cả đều là mua của Nhật, Nga và luôn cả Đại Hàn sau các cuộc thăm viếng của các nhà lãnh đạo Đảng và chính phủ. Họ viện cớ là các nhà sản xuất đều nói là các lò họ làm là an toàn một trăm phần trăm nhưng ai mà tin được những kẻ ở giữa ăn huê hồng từ những hợp đồng tính từ 3 tỷ, 5 tỷ, 10 tỷ Mỹ Kim trở lên. Nểu chẳng may những vụ rì rỏ hay phát nổ của các lò xảy ra như ở Chernobyl hay Fukushima xảy ra thì một phần ba dân số cả nước, phần ba dân số bị coi là có quê hương “đất mặn đồng chua”, là “đất cày lên sỏi đá” , là “nghèo lắm ai ơi” với “mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn”, nơi “Trời làm cơn lụt mỗi năm, khiến đau thương lan tràn, ngập Thuận An…”, bây giờ lại bị đe dọa có thêm một đại nạn mới do chính các nhà lãnh đạo của nước mình gây ra treo sẵn trên đầu.


Trên đây chỉ là một số những gì đã và đang xảy ra trên đất nước Việt Nam của chúng ta mà mọi nguời ít nhiều còn quan tâm tới quê hương của mình, của ông cha mình đều nhận thấy. Còn rất nhiều chuyện khác lớn hơn, quan trọng hơn và có tính cách chiến lược hơn như sự lệ thuộc về chính trị, về kinh tế và luôn cả về văn hóa của Việt Nam vào Trung Quốc, nhất là việc cấm đoán người dân không được tỏ thái độ dù cho chỉ là để bày tỏ lòng yêu nước của mình, giam cầm, bắt bớ hành hạ, không cho họ biết tới những gì đã thực sự xảy ra liên hệ tới sự thịnh suy, tồn vong của quê hương và dân tộc họ. Đa số người dân đều mù tịt và vì mù tịt nên đa số đều dửng dưng, nếu không nói là vô cảm. Nhiều người đã ví giai đoạn mất nước và luôn cả diệt vong của dân tộc Việt Nam như một người đang hấp hối với cái chết từ bàn chân đã lên tới đầu gối và đang từ từ lên dần cho đến khi miếng bông đặt trên mũi đương sự không còn chuyển động nữa.


Câu hỏi được đặt ra là những người đang lãnh đạo đất nước ta hiện tại có biết rằng, như một truyền thống ngàn đời, Đảng Cộng Sản Trung Quốc hay ít ra là những người lãnh đạo của đảng này ngay từ những ngày đầu đã nuôi mộng làm chủ thiên hạ giống như Tần Thủy Hoàng ngày trước hay không? Hay là họ vẫn tin tưởng vào “mười sáu chữ vàng” và “bốn tốt” mà Cộng Sản Tàu đã tặng họ để tự lừa dối và lừa dối dân mình? Câu trả lời là có.

Bằng cớ là năm 1979, khi hai đảng cơm không lành, canh không ngọt, môi không theo răng bị răng cắn bật máu, Cộng Sản Việt Nam không những chỉ tố cáo trước người dân ở trong nước mà còn trước dư luận thế giới qua những tài liệu do chính họ xuất bản từ Hà Nội, theo đó Mao Trạch Đông ngay từ giữa thập niên ba mươi của thế kỷ trước đã nuôi mộng theo chân Tần Thủy Hoàng muốn làm bá chủ của cả thế giới, bắt đầu là Đông Nam Á. Trong hai tài liệu nhan đề Sự Thật về Quan Hệ Việt Nam-Trung Quốc Trong 30 Năm Qua bằng tiếng Việt do Nhà Xuất bản Sự Thật ấn hành năm 1979 và tái bản năm 1980, và Chinese Aggression Against Vietnam, Dossier do Vietnam Courrier chủ biên, xuất bản ỏ Hà Nội năm 1979, ngay từ những trang đầu, người ta có thể đọc được những chi tiết như sau:


Ngay từ năm 1939, trong tài liệu nhan đề Cách Mạng Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Trung Quốc do chính ông viết, Mao Trạch Đông đã nhận định: “Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp đi nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận lãnh thổ của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận, Anh chiếm Miến Điện, Bu-tan, Nê-pan và Hương Cảng, Pháp chiếm An Nam…” Tiếp đến, một bản đồ trong một sách giáo khoa đã vẽ nhiều lãnh thổ của các nước trong vùng biển Đông Nam Á và Biển Hoa Đông là thuộc Trung Hoa. Sau đó, năm 1959, trong một buổi họp của Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, khi nói về bang giao quốc tế, Mao Trạch Đông phát biểu rõ hơn nữa về tham vọng thống trị toàn cầu của mình. Lãnh tụ này nói: “Chúng ta phải chinh phục trái đất.


Mục tiêu của chúng ta là toàn thể trái đất” hay hạn hẹp hơn và kế hoạch hơn: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái lan, Miến Điện, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po. Một vùng như Đông-nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản..xứng đáng với sụ tốn kém cần thiết để chiếm lấy…Sau khi giành được Đông-nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt gió tây.”


Về sự lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở biên giới Trung Việt, qua tài liệu Chinese Aggression Against Vietnam , Cộng Sản Hà Nội tố cáo Trung Quốc vi phạm các Công Ước 1887 và 1895 ký kết giữa Nhà Thanh và nước Pháp, lấn chiếm 60 địa điểm trên lãnh thổ Việt Nam ngay từ trước năm 1949, sau đó, từ sau năm 1949, bất chấp sự xác nhận lại các công uớc này bởi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà vào năm 1957-1958, Cộng Sản Bắc Kinh lại sáp nhập thêm trên 90 địa điểm khác ở biên giới giữa hai nước.


 Chưa hết, cũng theo tài liệu này, từ sau năm 1974 con số các cuộc xâm nhập lại tiếp tục gia tăng mạnh mẽ hơn với 179 vụ năm 1974, 294 vụ năm 1975, 812 vụ năm 1976, 873 vụ năm 1977 và 2.175 vụ năm 1978. Cuối cùng ngày 10 tháng 2 năm 1979, hai tiểu đoàn chính quy Trung Cộng đã tiến sâu 2 cây số vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm đồn kiểm soát Thanh Loa, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Vẫn chưa hết, trong trận chiến biên giới Hoa Việt lần thứ hai 1984-1987, sau một trận đánh ác liệt ở núi Lão Sơn, mà người Việt quen gọi là Núi Đất hay tọa điểm 1502, thuộc xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, quân Trung Cộng đã chiếm được núi này, 3.700 lính phòng thủ Việt Nam đã hoàn toàn bị tiêu diệt, xác của họ đã bị đơn vị chống hóa chất của bên địch thiêu hủy không còn vết tích. Lão Sơn không phải là tọa điểm duy nhất bị quân Trung Cộng đoạt mà còn nhiều tọa điểm khác như các tọa điểm 1030, 852, 211, 138, 156, 166, 167, 168… nằm sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Sau trận này Việt Nam đã mất thêm từ 600 đếm 1000 cây số vuông lãnh thổ về tay Trung Quốc. Có điều lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam đã giấu nhẹm không cho dân chúng biết gì về trận chiến bi thảm này cho mãi đến khi Trung Cộng phổ biến phần nào trên các mạng của họ. Điều nên biết là trong thời gian này Trung Cộng luôn luôn dùng thủ đoạn cho di dân của mình sang khai thác đất đai hay cư ngụ trên lãnh thổ thuộc Việt Nam dọc biên giới, rồi sau đó áp lực bắt Việt Nam phải công nhận những vùng đất này là thuộc nước họ. Sự kiện này giải thích tại sao lại có chuyện điều đình và sửa lại các công ước mà trước Nhà Thanh đã ký với Pháp mà nội dung đã được hai phía làm sáng tỏ không lâu, trong các năm 1957, 1958 trước đó, như tôi đã nói ở trên qua các hiệp ước 1999, 2000.


Chiến thuật này đang được họ dùng ở Biển Đông trên một quy mô rộng rãi hơn, lớn hơn qua việc họ chiếm Hoàng Sa và một số đảo thuộc Quần Đảo Trường Sa rồi tìm cách hợp thức hóa sau này. Việt Nam giấu nhẹm nhưng Trung Cộng thì coi là quan trọng và quảng bá rộng rãi. Họ đã cho công bố hình ảnh Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương tới thăm địa điểm Lão Sơn này, kèm theo hình ảnh những công sự và đường sá mà họ thiết lập sau đó, nhắm về phía Việt Nam. Những sự kiện này khiến cho những ai quan tâm đến sự sống còn của đất nước không khỏi không liên tưởng tới sự kiện Giang Trạch Dân đã bay thẳng từ Trung Quốc đến bơi ở biển Mỹ Khê, Đà Nẵng như là biển nhà của mình thay vì phải qua Hà Nội gặp chủ nhà trước hay Hồ Cẩm Đào đến bơi ở biển Hội An khi đến dự Hội Nghị OPEC, hay chuyện Đảng Cộng Sản Việt Nam cho phép và bảo vệ các thanh niên người Hoa rước đuốc thế vận qua Saigon và các đảo trong khi mọi cuộc tụ tập của người Việt đều bị đàn áp, cấm đoán.


Trước tình trạng cực kỳ nguy hiểm kể trên, câu hỏi được đặt ra là khả năng đề kháng của người Việt Nam như thế nào và những người có trách nhiệm bảo vệ đất nước và sự tồn vong của dân tộc đã có thái độ ra sao và đã làm gì? Để trả lời cho câu hỏi này, có lẽ chúng ta còn cần có nhiều buổi hội thảo khác với những đóng góp của nhiều thuyết trình viên khác. Tạm thời tôi chỉ xin mời quý vị đọc lại bản kiến nghị mà tôi đã đề cập đến trong phần đầu của bài thuyết trình hay những bức thư mà Hòa Thượng Thích Quảng Độ hay những bài viết của nhiều vị nhân sĩ, trí thức như Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Đại Sứ Việt Nam ở Trung Quốc và nhiều người khác ở trong nước viết trong ít năm gần đây.

Trước khi ngưng lời, tôi xin được trích dẫn lời của Thiếu Tướng Lê Duy Mật, nguyên Phó Tư Lệnh kiêm Tham Mưu Trưởng Quân Khu 2, Chỉ Huy Trưởng Mặt Trận Hà Giang trong thời gian chiến tranh biên giới, khi ông trả lời Biên Tập Viên Mặc Lâm của Đài Á Châu Tự Do, RFA, ngày 17 tháng 2 năm 2013 về sự kiện là “nhiều gia đình liệt sĩ của cuộc chìến 1979 đã không biết hài cốt con em mình nằm tại đâu vì sau đợt cắm mốc biên giới thì phần đất Việt Nam chôn hài cốt liệt sĩ đã thụt sâu về phía Trung Quốc. Thiếu Tưóng có nghĩ rằng nhà nước phải làm một điều gì đó để mang lại công bằng cho những người này hay không?” Nguyên văn câu trả lời của Tướng Lê Duy Mật như sau:


“Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói gì với Trung Quốc, nếu không phải bàn với ngoại giao Trung Quốc, quân đội Trung Quốc, nhà nước Trung Quốc thì mới có thể giải quyết được.”
Câu trả lời của Tướng Mật là về các liệt sĩ đã hy sinh trong trận chiến Việt Trung 1979 và 1984-1987, nhưng nội dung của nó đã bao gồm toàn bộ các vấn đề liên hệ đến bang giao Trung-Việt trong hiện tại. “Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói gì với Trung Quốc” là nguồn gốc của tất cả. Đó là lý do tôi lựa chọn đề tài cho buổi thuyết trình ngày hôm nay, chưa kể tới tình trạng vô cảm của không ít người Việt trước hiện tình vô cùng nguy hiểm của đất nước, sự mất tin tưởng của đa số người dân và sự bất lực của giới trí thức và sự bất cập không đối phó được với tình thế mới trong mọi sinh hoạt từ chính trị đến kinh tế, xã hội và luôn cả văn hóa ở Việt Nam sau 38 năm Cộng Sản làm chủ toàn thể đất nước, và 27 năm đổi mới .

Lãnh đạo cấp cao của hai đảng Cộng Sản đã thỏa hiệp với nhau những gì trên đầu người dân Việt Nam từ sau cuộc chiến biên giới Trung-Việt, từ sau Hội Nghị Thành Đô 1990, từ sau những buổi gặp gỡ của Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và sau này Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang với các nhà lãnh đạo Trung Quốc? Chỉ có những người này mới biết được nhưng không bao giờ và sẽ chẳng bao giờ họ nói ra cả. Về điểm này, tôi xin được nhắc lại lời Vua Lê Thánh Tông dụ bọn các ông Thái Bảo Kiến Dương Bá Lê Cảnh Huy năm Hồng Đức thứ tư, 1473, nguyên văn như sau:


“Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di.”

Lịch sử đã được chép, đang đuợc chép và sẽ còn được chép dù cho môn sử học, vì lý do nào đó, trái với truyền thống của dân tộc, trái ngay cả với nhận định “dân ta phải biết sử ta” của Hồ Chí Minh và ngược lại với chương trình giáo dục của bất cứ quốc gia độc lập và có chủ quyền nào, kể cả các quốc gia tiền tiến về khoa học và kỹ thuật, không còn được coi là quan trọng trong chương trình giáo dục của Việt Nam hiện tại. Đây cũng là một lý do khác đã và đang làm cho chúng ta mất nước.
Xin cảm ơn Quý Vị đã kiên nhẫn lắng nghe hay đã đọc và đọc lại bài thuyết trình này.

Xin kính chào Quý Vị.
Phạm Cao Dương


Chú thích:
Đây là nguyên văn bài thuyết trình tác giả đọc tại buổi hội thảo mang chủ đề “38 Năm Nhìn Lại: Hiện Tình và Tương Lai Việt Nam” do Hội Ái Hữu Bưởi-Chu Văn An Nam California tổ chức ngày 14 tháng 7 năm 2013 tại Coatline Community College, Thành Phố Westminster, California.
www.vietthuc.org

Friday, September 6, 2013


HUỲNH NGỌC CHÊNH * TRUY BỨC ĐẾN BA ĐỜI?


Đứa bé một tháng tuổi và người mẹ trẻ nầy là tội phạm quốc gia cần phải trừng trị?


TRUY BỨC ĐẾN BA ĐỜI? 

Đứa bé một tháng tuổi và người mẹ trẻ nầy là tội phạm quốc gia cần phải trừng trị? Thời phong kiến, vua tự cho mình là con trời, ai có ý gì không đồng tình với vua liền bị ghép vào tội phản nghịch, bị tru di đến ba họ và xử trảm đến ba đời.

Tưởng cái thời mông muội ấy đã qua, đất nước đi vào thời kỳ văn minh dân chủ, quyền con người được tôn trọng như pháp luật đã ghi, người dân có quyền nói lên bất kỳ ý kiến nào của mình, dù cho tiếng nói ấy có khác với đường lối của bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào, miễn không vi phạm pháp luật.

Ấy vậy mà không phải như thế. Ông Huỳnh Ngọc Tuấn vì những bài viết đi ngược lại chủ trương đường lối của đảng cầm quyền cách đây trên mươi năm, đã phải bị đi tù.

Tưởng rằng chỉ mình ông làm thì ông chịu (dù không đúng). Nhưng không, các con ông đều bị liên lụy. Con gái lớn của ông là Huỳnh Thục Vy đã không vào được đại học, phải tự học ở nhà rồi sau đó bị biết bao điều phiền nhiễu kể ra không hết. Con trai ông là Huỳnh Trọng Hiếu, mới đây bị cấm đi ra nước ngoài một cách bất ngờ, khi đã ra đến sân bay, mà không cần có lý do chính đáng. Rồi mới đây nhất, con gái út của ông là Huỳnh Khánh Vy, được học bổng đi Úc thì bị gây cản trở một cách khó hiểu để rồi phải bỏ học.

Nhưng vẫn chưa hết, việc trả thù còn được đẩy đến tận cùng của sự ti tiện mà ngay cả quan lại nhũng nhiễu thời phong kiến thối nát cũng không thể nào hạ tư cách của mình xuống thấp hơn nữa để gây ra. Khi Huỳnh Khánh Vy lập gia đình, hai vợ chồng trẻ không dám ở trong nhà của ông Tuấn, nơi liên tục bị quấy nhiễu, bèn thuê một căn phòng tạm trú tại Đa Nẵng để tìm sự yên ổn cho sự ra đời của đứa con đầu lòng.

Thế nhưng thế hệ thứ ba của gia đình họ Huỳnh nầy vẫn không được yên ổn kể từ lúc chưa sinh ra đời. Chủ nhà cho đôi vợ chông trẻ thuê và đôi vợ chồng trẻ liên tục bị hạch sách quấy nhiễu. Đứa bé trong bụng mẹ phải liên tục theo mẹ di chuyển chỗ ở, từ khi thụ thai cho đến lúc chào đời, đến 5 lần.

Cuối cùng khi bé chào đời, hai vợ chồng trẻ phải đành đưa cháu về Tam Kỳ, nhà ông ngoại Tuấn để trú ẩn vì không còn chỗ nào để thuê được nhà dù biết về đây cũng chẳng an toàn gì.


Tội phạm một tháng tuổi?



Tội phạm một tháng tuổi?


Quả nhiên đúng như vậy, chỉ ở được vài đêm, nhà ông ngoại Tuấn liền bị bọn xấu (???) lén lút ném mắm tôm và cá thối vào nhà. Nôi đứa bé chưa tròn tháng tuổi cũng ướt đẩm nước cá thối. Đứa bé một tháng tuổi ấy cũng là tội phạm quốc gia hay sao?


Nếu xét thấy ba đời nhà ông Huỳnh Ngọc Tuấn đều có tội trước pháp luật thì cứ mang cả ba đời ấy ra xét xử và cần thiết cứ xử trảm hết kể cả đứa cháu ngoại chưa tròn tháng tuổi như thời phong kiến cho hả dạ. Còn nếu không căn cứ vào pháp luật để buộc tội được ba đời nhà họ thì hãy để họ sống tối thiểu cho ra những con người.


Chúng ta có còn đang sống trong thời đại văn minh và trong xã hội loài người hay không đây?

Xem nhật ký trên Facebook của Jane Hoàng Huỳnh Thục Vy để cảm nhận cái cùng cực của sự ti tiện mà ba đời nhà nầy phải gánh chịu.

Lại những trò bẩn của an ninh cộng sản (5 ảnh)

Nửa đêm ngày 3 tháng 4 năm 2013, lúc cả gia đình đang ngủ, thì ba tôi nghe tiếng xe gắn máy trờ tới trước nhà, sát chỗ ông ngủ (phòng ngủ ba tôi ngay sát mặt đường làng). Sau đó, là tiếng ào ào, nước văng tung tóe và một mùi hôi thối kinh khủng bốc lên. Ba tôi bật dậy và thoáng thấy chiếc xe máy chở hai tên thanh niên rồ ga bỏ chạy. Cả nhà thức giấc và hiểu ra đó là trò bẩn thỉu của an ninh mà nhiều người bất đồng chính kiến đã từng phải chịu trước đây như cụ Hoàng Minh Chính, bà Trần Khải Thanh Thủy… và gần đây là chị Bùi Hằng. Nhân tiện, xin nhắc lại là trước đó, họ đã bỏ hai con rắn độc vào nhà tôi năm ngoái. Khi tôi làm việc với an ninh, tôi đã tố cáo họ dùng rắn độc hãm hại người nhà tôi.Tên an ninh Huỳnh Ngọc Truyền đã nói: “Gia đình mấy người làm gì để hàng xóm căm thù mà muốn giết mấy người đó thôi”. Vậy là cả đêm hôm qua, cả nhà tôi mất ngủ kẻ cả em bé chưa đầy một tháng tuổi, một sản phụ còn yếu và một cụ già 87 tuổi. Có một điều lạ là, những nhà hàng xóm xung quanh nhà mình mọi ngày cứ đến tối là thắp điện sáng trước cửa nhà, ngay sát đường. Nhưng đếm qua, cả ba nhà đó đồng loạt không thắp điện như mọi hôm.
 
 

Mắm thối được tạt vào ngôi nhà của thế hệ thứ nhất: Nhà ông Huỳnh Ngọc Tuấn


Dọn dẹp đến 4g sáng vẫn chưa hết mùi thối


Nước thối chảy ra khắp đường
Jane Hoang
4 tháng 4

Rứa là hết cả bao dủ dẻ của em gái mình. Người quê mình khi sinh đẻ xong hay uống thứ nước nấu từ thân cây dủ dẻ để bổ sung chất sắt. Đó là loại nước uống dân gian lâu đời và cũng rất thơm ngon. Nhưng cả bao dủ dẻ đã bị nước cá thối đổ vào tối hôm qua. Ba mình, em rể, em trai và cả chồng mình đã mất hai ngày để đi chặt những cây dủ dẻ hiếm hoi còn sót lại ở vùng quê mình đem về để dành. Cái nôi e m bé chưa kịp nằm cũng ướt đẫm nước bẩn. Giờ cái phòng ba mình còn nguyên cái mùi như mùi tanh hôi như cái mùi ở những bến cảng cá. Ai đã từng sống gần những bến cá này mới biết được. Khổ kinh! Mình không tức giận, chỉ thấy buồn nôn. Cái mùi cá thối, tôm chết giống y như mùi của chế độ cộng sản. Cả nhà mình đang chuẩn bị tinh thần để chờ đón những đợt sách nhiễu tiếp theo. Xin cô chú bác, anh chị em yểm trợ tinh thần.




Phải di chuyển chỗ trọ 5 lần từ ngày mang thai đến ngày sinh



Thế hệ thứ 2 và thứ 3: Cậu và cháu không lúc nào được yên thân
Jane Hoang
Ngay 9 tháng 4
Nguồn: Huỳnh Ngọc Chênh


NGUYỄN THIÊN-THỤ * NGÀY CUỐI CÙNG CỦA HỒ CHÍ MINH


    NGÀY CUỐI CÙNG CỦA HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thiên -Thụ

I. VIỆT CỘNG DỐI TRÁ CHE ĐẬY

Năm 2008, GS Hồ Tuấn Hùng, người Đài Loan  hoàn thành cuốn "Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo"  (Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh), sách được Nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành tại Đài Loan vào ngày 01/11/2008 (mã số ISBN: 9789866820779). Hồ Tuấn Hùng sinh năm 1949 (có tài liệu nói là sinh năm 1948), tại Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan, là cháu ruột  Hồ Tập Chương (mà ông khẳng định chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh). Theo Giáo sư Hồ Tuấn Hùng, Hồ Chí Minh xuất thân là người thuộc sắc tộc Khách Gia (Hakka, người Việt gọi là Hẹ ) tại huyện Miêu Lật, địa khu Đồng La, Đài Loan. Tài liệu của Sophie Quinn Judge (Ho Chi Minh: The Missing Year), và tài liệu của Hồ Tuấn Hùng cho biết   Nguyễn Tất Thành, là kẻ mạo danh Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh  cũng là kẻ mạo bí danh Hồ Chí Minh của nhà cách mạng Việt Nam Hồ Học Lãm cũng như Nguyễn Ái Quốc-  đã mạo nhận Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh hội của Hồ Học Lãm. Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã bị cảnh sát Anh quốc bắt gian, bị ho lao rồi chết. Có tin đồn Hồ Chí Minh đã được cảnh sát Anh quốc thả nhưng với bịnh lao thời đó, sống trong khí hậu lạnh lẽo của vùng Trung Quốc và Nga, lại chưa có Penecilin  thì e khó sống. Nếu sống được, Hồ Chí Minh cũng khó thoát bàn tay của Stalin trong thời đại khủng bố. Quốc Tế III cùng Trung Cộng đêm Hồ Tập Chương thay Hồ Chí Minh về làm chủ tịch nước VNDCCH đệ tiện việc xâm lăng Việt Nam và thế giới.

Hồ Tuấn Hùng quả quyết :"từ năm 1933 đến năm 1938, người lưu lại tại Mạc Tư Khoa là Hồ Tập Chương chứ không phải Nguyễn Ái Quốc.... "Những cấp cao của đảng CS quốc tế, Trung Cộng và Việt Cộng một mặt toàn lực che đậy những hoạt động của HCM (Hồ tập chương) từ năm 1929 đến 1933, một mặt không ngừng truyền tin giả rằng HCM tức là Nguyến Ái Quốc để làm NAQ sống lại trên sân khấu lịch sử ". (Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo)

Tài liệu này làm chấn động học giới nhưng cộng sản Việt Nam im lặng.Trong bài này, chúng tôi nói về ngày cuối của Hồ Chí Minh.

Từ trước đến nay, nhiều tài liệu  khác nhau viết về giờ cuối của HCM.  Trước tiên là báo Việt Nam nói về phút cuối của HCM. Họ đề cao HCM yêu dân ca, yêu nước Việt Nam . Nghệ sĩ ưu tú Quỳnh Hoa (?) viết rất "chân thành sâu sắc" trong bài"Tình yêu Bác Hồ giành cho những khúc dân ca".
Đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài báo, lời ca, câu truyện… ngợi ca vẻ đẹp con nguời Hồ Chí Minh - đó là vẻ đẹp của sự hoàn mỹ nhưng không xa lạ, vĩ đại mà gần gũi thân thương, toả sáng mà ấm áp hiền hoà. Bản thân Người, cuộc đời của Người là nguồn đề tài bất tận cho tất thảy những ai khao khát mong muốn cái đẹp “gieo mầm cho sự sống”.. . Và trước muôn vàn câu truyện kể về Người, trái tim tôi lại trào lên xúc cảm trước những phút giây cuối cùng trong cuộc đời Bác – đó là câu truyện về tình yêu của Người dành cho những khúc hát dân ca. Vào buổi sáng ngày 2/9/1969, đây là buổi sáng cuối cùng trong cuộc đời 79 mùa xuân của Bác. Bởi sau 9 giờ sáng hôm ấy Người thực sự bước vào “ cuộc trường chinh nhẹ cánh bay”, để lại cho nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới một niềm đau thương, mất mát không thể nào diễn tả nổi bằng mọi ngôn từ.

Không gian của câu truyện cũng chỉ thu nhỏ trong căn nhà A67. Căn phòng này cách ngôi nhà sàn của Bác chỉ vài chục bước chân. Trước đó, theo lời đề nghị của bác sỹ, để tiện cho việc theo dõi, chăm sóc sức khoẻ của Người, ngày 18/8/1969, các đồng chí trong Bộ Chính trị và những đồng chí trực tiếp chăm sóc Bác đã chuyển Bác xuống ở căn phòng này.


Sau gần 20 ngày chống chọi với bệnh tật, Bác đã yếu lắm. Nhưng hễ tỉnh lại là ngay lập tức, Người hỏi thăm tình hình chiến đấu ở miền Nam, tình hình lũ lụt ở miền Bắc. Người còn dặn các đồng chí trong Bộ Chính trị phải làm sao tổ chức ngày lễ Quốc khánh thật long trọng để nhân dân vui, phải bắn pháo hoa cho nhân dân phấn khởi. Trong những giây phút cuối cùng, đứng giữa ranh giới mong manh của sự sống và cái chết, đối diện với quy luật nghiệt ngã của sự tồn vong Bác vẫn luôn nghĩ cho đồng bào, cho đất nước mà “ nâng niu tất cả chỉ quên mình”. Nằm trên giường bệnh, sáng 2/9, lúc này Người đã rất mệt, mong muốn cuối cùng của Người là được gặp và thăm đồng bào miền Nam không thực hiện được, hơi thở của người mỗi lúc một yếu dần. Các đồng chí trong Bộ Chính trị và các bác sỹ không ai nỡ rời xa Người dù chỉ là một phút. Lần đầu tiên tỉnh lại sau cơn đau, Người nhìn xung quanh rồi hỏi:
- Trong các chú có ai biết hò Huế không?

Mọi người lúng túng nhìn nhau, quả là một tình huống không ai chuẩn bị trước. Thường ngày, Người vẫn thường nói “ miền Nam luôn ở trong trái tim tôi”, thêm vào đó Huế vốn là mảnh đất gắn bó cùng Người suốt một thời gian dài tuổi thơ. Giờ đây, trong những phút cuối cùng, có lẽ Người mong muốn mang hình ảnh miền Nam yêu thương, hình ảnh núi Ngự, sông Hương với những kỷ niệm buồn đau theo mình vào cõi vĩnh hằng bất tử. Nỗi niềm ấy của người dường như ai cũng thấu hiểu, nhưng tìm nghệ sỹ hò Huế lúc này thật khó.


Lần thứ hai tỉnh lại, Người lại hỏi. Lúc này giọng người đã yếu hơn nhiều:

- Trong các chú, ai có thể hát cho Bác nghe một làn điệu ví dặm Nghệ Tĩnh được không?
Thêm một lần nữa sự im lặng và bối rối bao trùm căn phòng. Câu ví dặm câu hát dân ca xứ Nghệ đã bao bọc và nuôi dưỡng tâm hồn Người từ thủa lọt lòng. Ngươì lớn lên và đi ra thế giới từ chiếc nội văn hoá quê hương mặn mòi tình nghĩa ấy. Trước giây phút sắp biệt ly Người khao khát được nghe, được sống trong hơi ấm quê hương.

Lần thứ ba tỉnh lại, Người ngỏ ý muốn nghe một khúc dân ca quan họ Bắc Ninh, lần này thật may mắn khi cô y tá bé nhỏ Ngô Thị Oanh tiến lại gần Bác: “Thưa Bác, cháu xin hát cho Bác nghe ạ”. Với chất giọng trong trẻo của người con gái Vĩnh Phúc, chị cất lời hát “ Ngươì ở đừng về”.. Căn phòng nhỏ chìm trong tiếng hát. tiếng hát hay tiếng lòng! Không ai phân biệt được. Chỉ biết rằng lời quan họ sâu lắng, tha thiết quá. “ Người ơi, người ở đừng về. Mà người ơi, người ở đừng về” đã nói hộ lòng người. Cô y tá càng hát càng ngẹn ngào, những người xung quanh không ai cầm được nước mắt. 9 giờ 47 phút ngày 2/9/1969 trái tim vĩ đại của Bác Hồ đã ngừng đập, để lại muôm vàn tình thưong yêu cho đồng bào cả nước. Sinh ra và lớn lên từ trong câu hát dân ca, từ điệu ví dặm ầu ơ ngọt ngào đằm thắm của mẹ, cuối cùng Ngươì thanh thản nhẹ nhàng bước vào cuộc trường sinh bằng âm hưởng tiếng hát dân ca.


Sau này, trong một bài báo tôi còn đựơc biết chị Ngô Thị Oanh, cô y tá viện quân y 108, người hát khúc hát dân ca “ Ngươì ở đừng về” vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời Bác kể lại: Sau khi chị hát xong, Bác Hồ nhìn chị, chị cảm giác như Bác đang mỉm cười. Người còn bảo lấy bông hoa hồng bạch trên bàn mang tặng chị. Cử chỉ nhỏ mà ý nghĩa thật to lớn. Cho đến phút cuối đời, quên cả nỗi đau đang vò xé, Người vẫn giành trọn niềm yêu thương, sự quan tâm đặc biệt cho mỗi người, đặc biệt là phụ nữ. Và bông hoa hồng nhỏ bé ấy chị đã ép khô để luôn giữ và xem nó là vật kỷ niệm thiêng liêng theo chị suốt cả cuộc đời. (HCM, XXIV)

 II. TRUNG QUỐC BẬT MÍ
 
Cũng viết về giờ phút cuối của HCM, báo Trung Quốc trong bài "CỰU ĐẠI SỨ TQ TỪNG NHƯ THƯ KÝ RIÊNG VÀ Ở BÊN HỒ CHÍ MINH ĐẾN CUỐI ĐỜI". (Bài này được báo Quân Đội Nhân Dân Việt Nam dịch và đăng lên  báo, chắc chắn là nguồn tin của đảng  ta chứ chẳng phải Mỹ ngụy xuyên tạc)
Người đó là Trương Đức Duy,phiên dịch tiếng Việt có thâm niên của nước ta, sinh năm 1930 ở Quảng Đông, từng là Hoa kiều học tập tại Việt Nam.Năm 1954, tham gia thành lập Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, phụ trách phần phiên dịch và điều tra nghiên cứu, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Trung Quốc tại Việt Nam.

Năm 1967, Hồ Chí Minh bị bệnh đến Trung Quốc nghỉ dưỡng, Trương Đức Duy làm phiên dịch theo suốt cả thời gian này. Trong khoảng thời gian 2 năm sau đó, Trương Đức Duy luôn ở bên Hồ Chí Minh cho đến khi Hồ Chí Minh qua đời.   ...

Trị liệu được hơn 2 tháng, hiệu quả chữa trị rõ, Hồ Chí Minh rất hài lòng, vì nhớ đến cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của Việt Nam, nên ngày 1 tháng 7 năm 1967 đã rời Quảng Châu quay về Hà Nội."

It lâu, HCM bị bệnh, lại được đưa qua Trung Quốc, nằm tại Nhà điều dưỡng Trung ương Ngọc Tuyền Sơn ở Bắc Kinh dưỡng bệnh trong hơn nửa năm.

Trong khoảng thời gian 2 năm tiếp đó, Tổ chăm sóc y tế còn từng 3 lần đến Hà Nội chữa bệnh cho Hồ Chí Minh. Mùa hè năm 1969, Hồ Chí Minh muốn để cho Tổ chăm sóc y tế được về Trung Quốc nghỉ phép 1 tháng, tiện thể nhờ Trương Đức Duy mang thư đến cho Thủ tướng Chu Ân Lai luôn.  


 Vào trung tuần tháng 8 năm đó, Hồ Chí Minh ra ngoài đi thị sát đột nhiên bị cảm, dẫn đến viêm phế quản cấp, từng bị choáng mất một lúc. Cả bệnh tim và bệnh mạch máu não cùng phát, tiếp đến viêm phế quản chuyển thành viêm phổi cấp.

Bắt đầu từ ngày 25 tháng 8, Bắc Kinh điều sang thêm liên tiếp 2 tốp chuyên gia và đội chăm sóc y tế Đông, Tây y…, mang theo các loại thuốc cấp cứu và dụng cụ đáp chuyên cơ tới Hà Nội. Các thầy thuốc Trung Quốc thay phiên túc trực ngày đêm bên giường bệnh Hồ Chí Minh, đã dùng một loạt các biện pháp trị liệu, nhưng đều không thấy có hiệu quả.

“Tôi còn nhớ rất rõ, trong những ngày tháng cuối cùng ấy, ông cụ tỏ ra rất yên lặng”. Trương Đức Duy nói, ông luôn ở trước giường Hồ Chí Minh, có lần Hồ Chí Minh bị hôn mê khi tỉnh lại, nhìn thấy hộ lý Trung Quốc đứng bên giường còn yêu cầu các cô hát.

Hai cô hộ lý liền khẽ hát bài hát “Ca ngợi xã hội chủ nghĩa” đã quen thuộc với mọi người.


Hồ Chí Minh nghe xong mỉm cười gật đầu, mãn nguyện chìm vào giấc ngủ.

Rạng sáng ngày 2 tháng 9, Hồ Chí Minh đã không còn tự chủ được hơi thở, tim ngừng đập hoàn toàn. Các bác sĩ Trung Quốc đã sử dụng mọi loại thiết bị, nhưng cuối cùng vẫn không thể hồi phục được nhịp tim cho ông cụ.
Ba tốp chuyên gia chăm sóc y tế do Chu Ân Lai lệnh điều thêm vào ngày hôm đó còn chưa kịp tới Hà Nội thì tử thần đã cướp đi mất sinh mạng của Hồ Chí Minh. Đồng hồ điểm đúng 9 giờ 47 phút ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ Chí Minh đã không vượt qua nổi cái mốc 79 tuổi. (Nguồn: “Báo Pháp chế buổi chiều”) (HCM, XXIII )

Gần đây, một người lớn lên trong thiên đàng XHCN đã viết cảm xúc của mình trong ngày " bác đi xa" . Đó là Mẹ Nấm trong bài "Đâu Mới Là Sự Thật?"

Trong năm học cuối cấp 2, mình có một buổi ngoại khóa tìm hiểu về dân ca - ca dao Việt Nam, cô giáo mình đã hát và giới thiệu bài hát "Lời Bác dặn trước lúc đi xa" - của nhạc sỹ Trần Hoàn - để làm ví dụ minh họa cho giá trị tinh thần vô giá của kho tàng ca dao - tục ngữ - dân ca Việt Nam.

Khi Internet xuất hiện, mình có đọc ở đâu đó bản tin về việc "nghe nhạc trên giường bệnh của Hồ Chí Minh, nó hoàn toàn trái ngược với những gì mình được nghe, được học. Mình nhớ là mình có đem việc này trao đổi với vài người lớn và họ bảo mình thật là vớ vẩn khi đi tin vào mấy tờ báo "phản động".


Khi search trên Google sự ra đời của nhạc phẩm "Lời Bác dặn trước lúc đi xa" nó ra thế này:

“Chuyện kể rằng trước lúc Người đi xa... Bác muốn nghe một đôi làn quan họ. Ôi may sao bỗng có em gái nhỏ... Rồi căn phòng xao động trong nước mắt. Những lời ca nức nở tái tê, rằng Người ơi Người ở đừng về...” - Những ca từ trong bài hát: “Lời Bác dặn trước lúc đi xa” của nhạc sỹ Trần Hoàn mỗi khi cất lên đã làm lay động hồn người bao thế hệ kể từ khi Bác Hồ đi xa mãi mãi. Nhưng hẳn nhiều người còn chưa rõ, nhân vật “em gái nhỏ” ngoài đời đó là ai?...

Hạnh phúc bất ngờ

Chúng ta đều biết rằng, ngày 2-9-1969, Bác Hồ - vị Cha già của dân tộc đã vĩnh biệt đồng bào, đồng chí, mãi mãi đi vào cõi vĩnh hằng. Những giây phút cuối cùng bên giường bệnh của Người là một câu chuyện thật giàu chất nhân văn, mỗi lần nghe đến, ai cũng thấy nao lòng. Một trong những câu chuyện lịch sử thật cảm động này là nguồn cảm hứng cho nhạc sĩ Trần Hoàn sáng tác ca khúc “Lời Bác dặn trước lúc đi xa”. Trong ca khúc của Trần Hoàn có nhân vật “em gái nhỏ” đã hát khúc dân ca trong một hoàn cảnh đặc biệt, chính là chị Ngô Thị Oanh, quê ở vùng đất bãi Yên Lạc - Vĩnh Phúc, nguyên y tá Viện Quân y 108 (nay là Bệnh viện Trung ương Quân đội 108).

Về những giờ phút cuối cùng bên Người, chị Ngô Thị Oanh kể, năm đó, chị vừa tròn 20 tuổi, là y tá công tác tại khoa phòng mổ Bệnh viện 108. Ngày 22-8-1969, Chính uỷ Viện 108, Lê Đình Lý gọi 4 người, gồm có bác sĩ chủ nhiệm khoa Nguyễn Xuân Bích, bác sĩ Lê Phúc và 2 y tá Trần Thị Quý và Ngô Thị Oanh chuẩn bị đi làm nhiệm vụ đặc biệt. Khoảng 18 giờ ngày 23-8, cả đoàn lên chiếc xe hồng thập tự đi làm nhiệm vụ mà không biết đi đâu. Vào đến Phủ Chủ tịch, mọi người mới biết được vinh dự vào chăm sóc sức khoẻ Bác. Một lát sau, đồng chí Vũ Kỳ, thư ký của Bác Hồ đến nói với mọi người trong tổ công tác: “Mấy hôm nay Bác mệt, cấp trên yêu cầu các cô, các chú đến chăm sóc sức khoẻ Bác”.


Nghe đồng chí Vũ Kỳ phổ biến về nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ Bác Hồ thì chị Oanh và mọi người... run lên vì hạnh phúc đến quá bất ngờ. Đêm đầu tiên tại Phủ Chủ tịch, mọi người không ai ngủ được vì niềm hạnh phúc sắp được ở bên người Cha kính yêu của dân tộc. Sáng hôm sau, đồng chí Vũ Kỳ đưa đoàn vào gặp Bác. Bác mệt, nằm trên chiếc giường gỗ. Đồng chí Vũ Kỳ vẫy hai chị em gồm Oanh và Quý đến bên giường, giới thiệu với Bác: “Đây là hai y tá của Bệnh viện Quân đội 108 vào chăm sóc sức khoẻ Bác”.


Bác xua tay nói: “Chú đừng làm phiền đến các cháu. Còn chiến tranh, để các cháu phục vụ thương bệnh binh. Sức khoẻ Bác chưa đến nỗi...”. Nhưng hai nữ y tá Oanh, Quý vẫn được ở lại phục vụ Bác thường xuyên, cho đến ngày Người ra đi...


“Những lời ca nức nở, tái tê...”

Chị Oanh còn nhớ, sáng sớm 2-9, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào thăm Bác. Bác hỏi: “Sáng nay các chú tổ chức đồng bào mít-tinh thế nào?” Một lần, Bác đang hỏi chuyện về vùng quê Yên Lạc, Vĩnh Phúc của chị thì đồng chí Vũ Kỳ đi vào. Là người giúp việc Bác từ những ngày đầu cách mạng, nên đồng chí Vũ Kỳ hiểu được tâm nguyện của Bác lúc này. Ông nói với chị Oanh: “Cô có biết hát thì hát Bác nghe?” Tuy chưa bao giờ hát đơn ca, chỉ thỉnh thoảng tham gia văn nghệ quần chúng ở đơn vị, nên chị Oanh có vẻ ngập ngừng. Thấy vậy đồng chí Vũ Kỳ động viên: “Cô cứ mạnh dạn lên”.

Chị Oanh thoáng nghĩ điều hạnh phúc được vào phục vụ Bác, giờ lại được hát cho Bác nghe, hạnh phúc càng được nhân lên. Chị mạnh dạn xin phép Bác hát bài: “Chiến sĩ quân y làm theo lời Bác” của nhạc sỹ Đỗ Niệm. Hát xong, đồng chí Vũ Kỳ động viên: “Cô có thuộc bài dân ca nào thì hát tiếp đi nhé!...”. Lần này, mạnh dạn hơn, chị Oanh hát bài dân ca quan họ Bắc Ninh: “Người ơi, người ở đừng về”. Trong tâm trạng bùi ngùi, lo lắng trước sức khoẻ của Người, chị Oanh chẳng thể hát trọn khúc dân ca, nhưng vẫn được Bác động viên, vỗ tay và bảo đồng chí Vũ Kỳ lấy bông hồng đang cắm trong lọ tặng chị. Được Bác tặng hoa, chị Oanh sung sướng và hạnh phúc vô cùng, cứ đứng ngây ra, ấp úng mãi mới nói được nên lời cảm ơn Bác...


Sau này, trong một lần nhạc sĩ Trần Hoàn được nghe đồng chí Vũ Kỳ kể câu chuyện về cô y tá hát dâng Bác khúc dân ca quan họ “Người ơi người ở đừng về”, tâm hồn người nghệ sĩ bỗng dâng trào cảm hứng sáng tác. Không lâu sau đó bài hát “Lời Bác dặn trước lúc đi xa” ra đời với những cảm xúc thiết tha, lay động lòng người. Điều đáng nói là dù giai điệu mà hầu như người dân nước Việt nào cũng thuộc lòng: “Bác muốn nghe một đôi làn quan họ. Ôi may sao bỗng có em gái nhỏ... Rồi căn phòng xao động trong nước mắt. Những lời ca nức nở tái tê, rằng Người ơi Người ở đừng về...” mà Nhạc sĩ Trần Hoàn sáng tác ra khi mới chỉ nghe kể về cô gái, chưa một lần gặp mặt. Một thời gian sau, ông quyết định đi tìm cô gái để thoả mãn lòng mong mỏi của khán thính giả nghe nhạc. Và nhạc sĩ đã gặp cô tại Viện Quân y 108 trong trang phục nữ chiến sĩ áo trắng...


Bông hồng trắng buổi ấy cùng một vài kỷ vật khác trong những ngày cuối cùng bên Bác, chị Ngô Thị Oanh giữ gìn như báu vật. Cho đến tận bây giờ, mỗi lần nghe ca khúc của nhạc sĩ Trần Hoàn, chị lại chan chứa nước mắt..."


http://bbp.bienphong.com.vn/nd5/detail/trang-nhat/ho-so-tu-lieu/chuyen-ke-rang-truoc-luc-nguoi-di-xa/36888.001055.html

Hôm qua, được đọc một bài báo cũng nói về "hoàn cảnh nghe nhạc" trước lúc ra đi của Hồ Chí Minh, trên trang Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, mình thấy phân vân quá.

Ba lần Bác cười trước lúc đi xa
QĐND - Thứ Hai, 25/01/2010, 20:33 (GMT+7)

“...Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã rời xa chúng ta, nhưng hình ảnh ba lần nhìn thấy nụ cười hiền hậu của Người mãi khắc sâu trong tôi. Sự nhẹ nhàng thanh thoát, những ngôn ngữ, cử chỉ thân thiết của Người, tôi luôn mang theo suốt cuộc đời...”.

Là y tá trưởng của Bệnh viện Bắc Kinh, từ những năm 60 của thế kỉ trước, tôi làm công tác chăm sóc sức khỏe bên cạnh Thủ tướng Chu Ân Lai. Tiếp nhận chỉ thị của Thủ tướng Chu Ân Lai, tôi được phân công vào đội ngũ chăm sóc sức khỏe Chủ tịch Hồ Chí Minh.



Ngày 24-8-1969, trời Bắc Kinh oi nồng, không một chút gió. Đêm xuống, tôi giội ào một cái cho mát, chuẩn bị lên giường đi ngủ. Đột nhiên nghe tiếng gõ cửa dồn dập. Tôi vội dậy mở cửa. Thì ra là người của bệnh viện tới, nói rằng: “Có việc khẩn, lập tức lên đường”.

.......


Bác mỉm cười sau khúc hát của tôi

Ngày 31-8-1969, bệnh tình của Bác đột nhiên tăng lên. Hôn mê không tỉnh. Các chuyên gia bình tĩnh, kịp thời đưa ra biện pháp cấp cứu phù hợp. Bác sĩ Hồ Húc Đông xuyên kim vào tim Bác để bơm thuốc trợ lực tim. Thành công rồi! Chủ tịch Hồ Chí Minh từ từ tỉnh lại, Bác mở mắt ra, nhìn khắp một lượt các y, bác sĩ trong phòng. Mọi người cảm động không nói nên lời. Tổ trưởng Trương Hiếu lại gần bên Bác, khẽ gọi: "Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, Người thấy trong mình hiện giờ thế nào? Còn chỗ nào chưa thấy thoải mái?". Bác khẽ lắc đầu, một lúc sau Bác ra hiệu muốn ăn một chút.

Chiều hôm đó sức khỏe của Bác đã có chuyển biến tốt lên một chút, Bác nói muốn nghe một câu hát Trung Quốc. Các đồng chí đề nghị tôi hát. Tôi nói thật là hát cũng không tốt lắm, nhưng để vui lòng Bác, vì tình hữu nghị Trung-Việt, tôi đã hát một bài hát mà nhiều người thuộc và hát được, bài hát có nội dung chính là ra khơi xa phải vững tay chèo. Bác nghe xong rất vui, Bác nở nụ cười hiền từ. Bác nắm nhẹ tay tôi, tặng tôi một bông hoa biểu thị cảm ơn. Đó là lần thứ ba tôi thấy Bác cười. Và đó cũng là nụ cười cuối cùng của Người.


Sáng ngày 2-9-1969, trái tim Chủ tịch Hồ Chí Minh ngừng đập. Người đã vĩnh viễn đi xa. Chúng tôi không cầm được nỗi buồn, nước mắt tuôn trào. Đứng bên giường bệnh của Người, vô cùng buồn thương… và từ biệt Người. Ngày 9-9-1969, toàn bộ tổ chữa trị đã cùng lãnh đạo và nhân dân Việt Nam tham gia lễ truy điệu được cử hành tại Hội trường Ba Đình. Hai ngày sau chúng tôi rời Hà Nội về nước. Để ghi nhận công lao của các bác sĩ, y tá trong các tổ y tế đã tham gia chữa trị cho Bác Hồ, Chính phủ Việt Nam đã tặng nhiều huân chương cao quý cho thành viên trong tổ y tế.


* Vương Tinh Minh, y tá trưởng Bệnh viện Bắc Kinh, thành viên Tổ bác sĩ Trung Quốc sang Việt Nam chữa bệnh cho Bác Hồ, tháng 8-1969.

NGUYỄN HÒA biên dịch
http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-VN/61/43/242/242/242/101538/Default.aspx
(HCM, XXV)

Qua các tài liệu trên, chúng ta sẽ thấy vô cùng phức tạp. HCM giờ cuối nghe nhạc Việt hay nhạc Tàu? Tại sao người Trung Quốc "săn sóc" HCM cho đến phút cuối? Điều này cho ta biết Hồ Chí Minh là người Trung Quốc cho nên luôn luôn được Trung Quốc, săn sóc, bảo vệ để khỏi tiết lộ bí mật. Vì ông Hồ là người Trung Quốc cho nên Vũ Kỳ cũng là người Trung Quốc. Quân Trung Quốc , người Trung Quốc bao vây xung quanh Hồ Chí Minh rất chặt chẽ nhất là giờ phút cuối.  Bác sĩ Việt Nam ư?Y tá Việt Nam ư?Đừng có sờ vào cái móng chân ông Hồ. Ai cho phép bọn nô lệ Việt Nam lại gần?  BS Tôn Thất Tùng, Dương Bạch Mai,.. chỉ là những con bù nhìn.  Có thể sau khi ông Hồ từ trần, các xác của ông đã được đem về Trung Quốc. Các xác ở Ba Đình không biết là của ai. Tại sao Việt Nam lại nói khác?Vì họ cũng phải giấu diếm. Việt Nam ta lúc này sống trong lãnh đạo tập thể, làm ăn tập thể cho nên nói dối cũng là tập thể! Cả một tập thể dối trá từ HCM, Trần Hoàn, Vũ Kỳ cũng như Trường Chinh, Tố Hữu,  Sơn Tùng,  Chế Lan Viên, đều là những bon gian manh, dối trá, mà  Quỳnh Hoa,Ngô Thị Oanh cũng chỉ là những con ma, những người giả việc giả.Họ nói dối để che đây hành vị bán nước của họ. Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Tố Hữu, Trần Hòan.. lẽ nào không biết từ lâu chúng đã tôn một người Trung Cộng lãnh đạo nước ta?Họ đã đồng mưu với Hồ Chí Minh dâng đất cho Trung Quốc và cam phận nô lệ, phản bội công lao tiền nhân.

III.  TIN ĐÀI LOAN- CHÁU HỒ CHÍ MINH VỀ THĂM ĐẤT TỔ ĐÀI LOAN:

Cháu Nội Hồ Chí Minh Thăm Đài Bắc
Đăng ngày: 04:52 24-01-2010

TAIPEI (VB, Trần Đông Đức) Hồ Chí Minh có vợ con, không phải là chuyện bí mật đối với các sở tình báo Trung Quốc, Đài Loan, Liên Xô. Điều này đã được viết trong nhiều sách và tài liệu, mặc dù còn bị bưng bít ở VN. "Cháu nội của Hồ Chí Minh thăm viếng Đài Loan" là bản tin đặc biệt của nhà văn Trần Đông Đức, dịch từ công báo Đài Bắc Huyện Phủ, Trung Ương Xã Đài Loan. Toàn văn bản tin như sau.

Lời giới thiệu: Trong lúc dân Việt Nam trong nước chưa được quyền bàn tới những bí ẩn về chuyện Tổng bí thư ĐCS Việt Nam Nông Đức Mạnh là con của Hồ Chí Minh, thì tại Đài Loan - Nhân chuyến viếng thăm của Trần Phương, con ruột của Nông Đức Mạnh hiện đang làm trưởng uỷ hội dân tộc thiểu số, xử lý thường vụ quốc tế được báo chí Đài Loan đưa tin "Trần Phương, cháu nội của lãnh tụ Hồ Chí Minh" một cách rất bình thản.


Thông tin này coi cá nhân của Trần Phương như là một yếu nhân của Việt Nam đã đến Đài Loan hai lần và người đó là con của Nông Đức Mạnh.


Có dư luận cho rằng Nông Đức Mạnh cũng đã từng để báo chí ngoại quốc "bắn tiếng" giùm có quan hệ cha con với Hồ Chí Minh và sử dụng lá bài huyền thoại tinh thần để đạt được mục tiêu chính trị. Đến đời con cháu cũng làm tương tự.


Báo chí Đài Loan không để ý hoặc cố ý nhấn mạnh chuyện Nông Đức Mạnh là con ngoại hôn của Hồ Chí Minh. Chúng tôi xin dịch bản tin này lưu trữ lại trong website của huyện phủ Đài Loan từ tháng trước. Mọi suy đoán về nhân vật Trần Phương, dụng ý và tham vọng của cha con Nông - Trần xin giành cho độc giả. Chúng tôi hy vọng có nhiều nhân sĩ trong nước sẽ kiểm chứng được thông tin về con cái của Nông Đức Mạnh và chức vụ họ đang nắm tại Việt Nam.


Khi dịch bản tin chúng tôi không có tư liệu để rà soát tên chính xác của bộ phận cơ quan và chức vụ mà Trần Phương đang nắm giữ, chỉ mô phỏng địa vị theo bản tin Hoa Ngữ.

Bản tin của Trung Ương Xã, do ký giả Hoàng Húc Thăng tại Đài Bắc Huyện Phủ báo đề ngày 24/09/2004.


Cháu nội của Hồ Chí Minh, Trần Phương tới thăm Huyện Phủ Đài Bắc quan sát sự phát triển thành thị.


Trần Phương, xử lý trưởng uỷ ban dân tộc thiểu số, xử lý thường vụ quốc tế của Việt Nam hôm nay (09/24/2004) đã tới thăm huyện phủ Đài Bắc. Phó huyện trưởng Tăng Tham Bảo tiếp đón và giới thiệu kinh nghiệm phát triển của huyện Đài Bắc. Trần Phương là con của hiện nhiệm tổng bí thư Nông Đức Mạnh, là nhân viên tiếp ban chính trị góp ý trợ giúp cho phụ thân của mình. Ông nội của Trần Phương là Hồ Chí Minh, lãnh tụ tinh thần của Việt Nam. [Tha đích tổ phụ thị Việt Nam tinh thần lãnh tụ Hồ Chí Minh].


Trần Phương nói rằng vài năm gần đây, người ngoại quốc đầu tư tại Việt Nam như thương nhân Đài Loan tỉ lệ rất cao. Ông ta nói rằng chính phủ Việt Nam đặc biệt chú ý đến ba hạng sản nghiệp như cơ giới, điện tử và nông nghiệp. Đối với hoàn cảnh đầu tư tại Việt Nam, cần nhà cầm quyền tại Đài Loan có lòng tin, và Trần Phương còn có ý muốn mời thủ trưởng huyện phủ Đài Bắc đến viếng thăm Việt Nam.


Trần Phương đến Đài Loan lần này là lần thứ hai. Ông ta nói: làng thôn Việt Nam còn quá bần cùng, so với sự giàu có của nông dân Đài Loan. Cho nên đặc biệt tới đất này để quan sát tận mắt.

Tăng Tham Bảo kể rằng, trước kia còn làm trong bộ kinh tế, ông ta đã từng tới Việt Nam, đối với hoàn cảnh đầu tư ổn định (tại Việt Nam), trước mắt (Đài Loan) đã có nhiều dự án rất thành công.


Qua những lời giới thiệu, Trần Phương hiểu rõ khái lược về huyện phủ Đài Bắc, chuyến đi này theo ông là tới Đài Loan cốt để học hỏi. Sau khi về nước, sẽ dự tính tuyển chọn một thành thị nào đó học tập theo hướng đi của Đài Bắc huyện phủ.


***Ghi chú của người dịch: Huyện Phủ Đài Bắc bao gồm cả thành phố Đài Bắc, thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan. Việt Nam cũng như nhiều nước không có ngoại giao với Đài Loan mà thừa nhận Đài Loan là bộ phân của Trung Quốc theo sức ép của Trung Cộng

http://vn.360plus.yahoo.com/theodore-roosevelt/article?mid=26&fid=-1

SBTN: Đài Loan Loan Tin Cháu Nội Hồ Chí Minh Thăm Đài Bắc

Date: Aug 05,2010 06:20 pm

Tin Đài Bắc - Hồ Chí Minh có vợ con, không phải là chuyện bí mật đối với các sở tình báo Trung Cộng, Đài Loan, Liên Xô. Điều này đã được viết trong nhiều sách và tài liệu, mặc dù còn bị bưng bít ở Việt Nam. Trong tuần qua tờ Công báo Đài Bắc đã loan một tin cho biết cháu nội của Hồ Chí Minh thăm viếng Đài Loan, khi cho rằng Trần Phương là con ruột của Nông Đức Mạnh hiện đang làm trưởng uỷ hội dân tộc thiểu số, xử lý thường vụ quốc tế đã đến thăm đảo quốc này, mà báo chí Đài Loan gọi họ Trần là cháu nội của lãnh tụ Hồ Chí Minh một cách rất bình thản.

Báo chí Đài Loan không để ý hoặc cố ý nhấn mạnh chuyện Nông Đức Mạnh là con ngoại hôn của Hồ Chí Minh, chỉ nói Trần Phương tới thăm Huyện Phủ Đài Bắc quan sát sự phát triển thành thị, và đã được Phó huyện trưởng Tăng Tham Bảo tiếp đón và giới thiệu kinh nghiệm phát triển của huyện Đài Bắc. Bài báo viết rõ ông nội của họ Trần là Hồ Chí Minh, lãnh tụ của đảng Cộng sản Việt Nam. Họ Trần tuyên bố vài năm gần đây, người ngoại quốc đầu tư tại Việt Nam như thương nhân Đài Loan tỉ lệ rất cao, và nói nhà cầm quyền Việt Nam đặc biệt chú ý đến ba hạng sản nghiệp như cơ giới, điện tử và nông nghiệp.


Đối với hoàn cảnh đầu tư tại Việt Nam, cần chính phủ Đài Loan có lòng tin, và Trần Phương còn có ý muốn mời thủ trưởng huyện phủ Đài Bắc đến viếng thăm Việt Nam. Trần Phương đến Đài Loan lần này là lần thứ hai. Mới đây một người con khác của Nông Đức Mạnh là Nông Quốc Tuấn đã được đưa lên làm Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Bắc Giang, phụ trách công tác xây dựng Đảng. Đây là khu vực đã diễn ra cuộc biểu tình của hàng chục ngàn người chống lại Công an, khi chúng lợi dụng quyền lực đã đánh chết một thanh niên tại địa phương chỉ vì lái xe không đội nón an toàn. (HCM, XXXVI )


IV. KẾT LUẬN:

Hồ Chí Minh là người Tàu cho nên được người Tàu bảo vệ. Không đời nào một đại sứ Trung cộng lại làm thư ký, làm đầu bếp cho một tên Việt Nam. Hơn nữa giờ chót, ông Hồ rõ là thích nghe điệu ca tiếng Hoa chứ không yêu điều hò Huế, hay dân ca Thanh Nghệ Tĩnh... Báo chí Trung Quốc,. kể cả tin tức Đài Loan tất nhiên đáng tin cậy hơn là những tay gian nịnh, bợ đỡ  như Trần Hoàn,Nghệ sĩ Quỳnh Hoa..
Điều này là bí mật của cộng sản nhưng Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang, Bủi Tín... đều không dám tiết lộ. Nhưng bàn tay không che nổi mặt trời..
Tin này đã được đài SBTN và các blog loan báo, trong khi đảng Cộng sản Việt Nam im lặng. Năm 2008, Hồ Tuấn Hùng tiết lộ rằng Hồ Chí Minh là Hồ Tập Chương người Miêu lật Đài Loan được Trung Cộng  đưa về làm lãnh tụ đảng Cộng sản để tiện bề thôn tính VIệt Nam. Việt cộng lúc đó cũng im lậng. Nếu thiên hạ nói sai thì bọn họ mồm năm miệng mười chửi bới um sùm. Cũng như lần trước, GS Lê Hữu Mục tố cáo bác "cầm nhẩm" Ngục Trung Nhật Ký của một ai đó mà họ im lặng rất lâu.Cổ nhân nói " Danh bất chính tắc ngôn bất thuận". Dối trá nhưng khi bể mánh thì rất ngượng ngùng, khó nói.....

Trich Nguyễn Thiên Thụ
HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ
 HỒ CHÍ MINH MYTHS AND MASKS,



HỒ CHÍ MINH, THE LAST DAY

In 2008, in a book entitled "胡志明生平考 Hú zhì míng sheng píng kăo (Hồ Chí Minh' Life), 胡俊熊 Hú jùn xióng affirmed that Nguyễn Ái Quốc had died, and Hồ Chí Minh was a Chinese named Hồ Tập Chương 胡集璋 Hújízhang. He belonged to the 客家 kè jia ( Hakka) race, a minoriry in Miêu Lật 苗栗 miáo lì,Đồng La 銅鑼 tóngluó in Taiwan, and he was the same family with Hú jùn xióng .

Vietnamese Communists kept silent , but they tried many times to prove that Ho Chi Minh was a Vietnamese in the news about The last day of Hồ Chí Minh.

I. VIETNAMESE COMMUNISTS TOLD LIE 

+ Ms Quỳnh Hoa wrote an article entitled " Uncle Hồ 's love for the Vietnamese folksongs" : In the last day, Hồ wanted to hear the folk songs, so Ms. Ngô Thị Oanh, a nurse, sang a song of Quan Họ, "Người ơi người ở đừng về" (Please stay here, don't leave us"! (HCM, XXIV)

II. CHINESE NEWSPAPER REVEALED THE SECRET

A Chinese newspaper recounted the last day of Hồ Chí Minh in an article entitled "Former Chinese Ambassador and Individual Secretary of Ho Chí Minh lived with Hồ to the end of his life ". This person was Trương Đức Duy who worked beside Hồ Chí Minh as a translator, and a cook from 1967 to the end of Hồ's life.He followed Hồ from Vietnam to Chinese hospital in Peking. The group of Chinese physicians and nurses always stood near Hồ 's bed. Hồ asked a Chinese nurse sing a song. She sang " Praising Socialist scociety".After hearing that song, Hô died.(HCM,XXIII )`.

In an article entitle" Where is the truth", Mẹ Nấm recited her state of mind when she was a school girl, and hear the song entitled " Uncle Hô sayings before he goes away" by Trần Hoàn . This song had rooted from a story:" Before Uncle Hồ died, he wanted to hear a folksong, consequently, Ms. Ngô Thị Oanh sang the song " Người ơi người ở đừng về" with happiness and tears!
http://bbp.bienphong.com.vn/nd5/detail/trang-nhat/ho-so-tu-lieu/chuyen-ke-rang-truoc-luc-nguoi-di-xa/36888.001055.html

But later, she read an article entitled "Three times Uncle laughed before he went away" in the Journal of People Army:"I am a head nurse in an hospital in Peking, in charge of care for the health of Chou En-lai. Later I was in charge of care for Hồ Chí Minh. Unfortunately, Hồ 's health became worse. At the last time, he said he wanted to hear a song. Everybody pushed me, so I sang a song...After hearing that song, he smiled and hold my hand and said thank you. That was the third time and the last he smiled.
http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-VN/61/43/242/242/242/101538/Default.aspx (HCM, XXV)

Those news gave us a lot of useful information.
+Vietnamese communists were the liars.
+At the end of his life, Hồ heard a Chinese song, not a Vietnamese song. And at the end of Hồ 's life, he was surrounded by a lot of Chinese, especially Hồ was served by a Chinese ambassador . That event proved that Hồ Chí Minh was a Chinese, so he was protected to the end of his life by the Chinese government in order to keep their secrecy. Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trần Hoàn surely knew the truth.

III. About Hồ Chí Minh grandchildTaipei 04:52 24-01-2010: A grandchild of Hồ CHí Minh, Trần Phương, cam to Taipei to visit his family.
http://vn.360plus.yahoo.com/theodore-roosevelt/article?mid=26&fid=-1
http://www.sbtn.net/default.aspx?LangID=38&tabId=193&ArticleID=51194&Page=1 (HCM, XXXVI )

With those events and a lot of evidence, we can conclude that Hồ Chí Minh was a Chinese. It was a plot arranged by the Chinese communist party and the Komintern in order to occupy Vietnam. Its consequence was clear when Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng signed the agreements selling our country to China.

The body of Hồ Chí Minh also had trouble. In the war, Vietnamese communists had to move it into the mountain. How about this body in such condition? If it was destroyed, so the body in Ba Đình was a body of another man, a Chinese or a Vietnamese? or a fake corpse made ​​of wax?
In future, by the study with DNA, the study of appearance, characters, and the memoir of the senior communists, we will understand the total truth.


 

No comments:

Post a Comment