MẶC LÂM * BÁO CHÍ VIETNAM CỘNG HÒA
Tự do báo chí của miền Nam VN trước 1975
Miền Nam trước năm 1975 được xem là có một nền báo chí tự do. Mặc dù chịu rất nhiều sức ép từ chiến tranh lẫn của chính quyền, báo chí vẫn đưa ra các vấn đề tham nhũng hay hủ hóa của lãnh đạo chính phủ. Những vụ như còi hụ Long An hay vụ tướng Nguyễn Văn Toàn bị điều tra về quan hệ bất chính với trẻ vị thành niên không phải là hiếm. Các câu chuyện bị báo chí phanh phui này không hề nhỏ mặc dù lúc ấy chiến sự đã đến lúc gay gắt và miền Nam đang phải đối phó với sức ép nặng nề từ quân đội miền Bắc.
Trong vụ vận chuyển hàng ngoại nhập lậu có tên còi hụ Long An, hầu hết báo chí miền Nam đã vào cuộc và ghi nhận mọi chi tiết của vụ buôn lậu mà tên tuổi của người đứng sau bị gián tiếp nêu ra là phu nhân của hai lãnh đạo cao nhất nước đang tại vị. Đoàn xe buôn lậu chở đầy hàng ngoại gồm 7 chiếc GMC và hai chiếc Jeep dẫn đầu bị trạm kiểm sát quân xa tại Tân An phát hiện vào lúc 10 giờ 30 tối ngày 31 tháng 1 năm 1974. Vụ án chấn động này được báo chí Sài Gòn nhanh chóng nhập cuộc và các thế lực đứng sau vụ án không thể làm gì hơn là chấp nhận phán quyết của tòa án quân sự đối với những người trực tiếp tham gia, ngoại trừ những nhân vật chủ chốt.
Báo chí miền Nam tuy hoạt động trong thời kỳ chiến tranh nhưng tiếng nói của họ không phải lúc nào cũng bị nhân danh bí mật quân sự để bịt miệng. Thủ thuật “tự ý đục bỏ” có nghĩa là để trắng cột báo bị kiểm duyệt, tuy được báo chí nhiều lần sử dụng nhưng điều đó lại nói lên một sự thật khác: ngay cả việc bị kiểm duyệt một cách độc đoán thì báo chí cũng có thể lên tiếng tố cáo sự độc đoán ấy trước công luận.
Chúng tôi có cuộc nói chuyện với nhà văn, nhà báo Trùng Dương, bà từng là chủ nhiệm nhật báo Sóng Thần từ khi mới thành lập cho tới khi Sài Gòn sụp đổ. Qua câu chuyện với nhà văn Trùng Dương hy vọng sẽ soi sáng một phần nào nền báo chí miền Nam trước các thông tin ngược chiều về tính chất tự do mà một tờ báo nhận được từ chính quyền miền Nam lúc ấy:
Báo Sóng Thần
Mặc Lâm: Thưa bà, tờ Sóng Thần có thể nói là tuy xuất hiện rất trễ trong làng báo Việt Nam nhưng nó có chỗ đứng đặc biệt trong lòng độc giả của cả miền Nam lúc ấy. Là người xin giấy phép thành lập tờ báo xin bà cho biết hoàn cảnh những ngày đầu tiên của Sóng Thần như thế nào?Tờ Sóng Thần là tờ báo đầu tiên ở Việt Nam có hình thức cổ phần, có nghĩa là mọi người có quyền đóng góp tùy khả năng. Mỗi cổ phần lúc ấy mà tôi nhớ vào năm 1971 là 5 ngàn đồng tiền Việt Nam.Nhà báo Trùng Dương: Tờ Sóng Thần là tờ báo đầu tiên ở Việt Nam có hình thức cổ phần, có nghĩa là mọi người có quyền đóng góp tùy khả năng. Mỗi cổ phần lúc ấy mà tôi nhớ vào năm 1971 là 5 ngàn đồng tiền Việt Nam. Sở dĩ tôi có mặt trong nhóm đó vì các anh Chu Tử, Phạm Văn Lương, Uyên Thao, Nguyễn Liệu và cả anh Hà Thế Ruyệt hồi đó ở trong nhóm Hà Thúc Nhơn thiên về chống tham nhũng.
-Nhà báo Trùng Dương
Ông đại úy y sĩ Hà Thúc Nhơn ở Nha Trang ông ấy chống tham nhũng rồi bị giết chết, thành ra nhóm anh em đó họ đứng ra họ lập thành nhóm Hà Thúc Nhơn. Họ xin giấy phép ra báo không được bởi vì ai cũng ở trong black list (danh sách đen) của chính quyền thành ra họ mới quay qua tôi vì tôi là thân hữu đi lại trong nhóm. Họ bảo thôi đứng ra xin giấy phép ra báo. Thế là tôi đứng ra xin còn bên thông tin họ không nghĩ là tôi có chân trong cái nhóm đó.
Với tư cách nhà văn, hồi đó nhiều nhà văn đứng ra xin giấy phép ra báo nhiều lắm, cuối cùng tôi xin được giấy phép đưa sang cho bên nhóm Hà Thúc Nhơn họ dùng cái giấy phép ấy để xuất bản. Hồi đó ông Chu Tử ông làm tờ tuần báo Đời thì ông có cho mượn nơi đó (platform) mà lăng xê tờ báo cũng như cổ động trong vấn đề góp vốn cho tờ Sóng Thần, từ đó nhiều người nghe tên tờ báo và họ đóng góp, chúng tôi dùng tiền đó và một phần đi vay thêm để ra tờ báo vào cuối năm 1971.
Mặc Lâm: Năm 1971 cũng là năm bầu cử tổng thống và lúc ấy thì rất nhiều chống đối nổi lên tứ phía, đặc biệt là báo chí theo dõi rất sát các ứng viên và họ viết bài về các liên danh rất khác nhau. Báo Sóng Thần sinh ra trong hoàn cảnh này có bị Bộ Thông tin để ý hay khó dễ gì hay không?
Nhà báo Trùng Dương: Tôi nghĩ lúc đó việc tranh cử rất rộn ràng thành thử ra họ không để ý với lại chuyện ra báo thì khi có giấy phép thì mình xuất bản thế thôi. Mình đứng ra lo chuyện tiền bạc, liên lạc nhà in, mua giấy rồi thành lập Ban biên tập bận rộn theo kiểu của mình. Tôi không nghĩ chính quyền họ để ý, họ cũng để ý đi nữa nhưng không có một thái độ nào. Hơn nữa hồi đó ông Nguyễn Văn Thiệu ông ấy bận rộn chuyện tranh cử. Hồi đó tôi nhớ có những liên danh tranh cử trong đó có liên danh của ông Nguyễn Cao Kỳ rồi sau có chuyện lộn xộn gì đó mà lâu lắm rồi tôi không nhớ nữa, làm cho tất cả các liên danh đều rút tên chỉ còn lại mỗi mình ông Nguyễn Văn Thiệu mà hồi đó gọi là độc diễn.
Mặc Lâm: Báo chí miền Nam được cho là hưởng nền tự do báo chí của các chế độ dân chủ, tuy nhiên rất nhiều tờ báo bị kiểm duyệt, bài vở bị cắt đi không cho đăng, bà giải thích thế nào về việc này?
Nhà báo Trùng Dương: Thực ra cũng có, hồi đó báo chí trước khi in, trước khi phát hành thì phải qua kiểm duyệt. Họ đọc xem những tin tức có bị ảnh hưởng gì tới cuộc chiến lúc ấy hay không. Họ chú trọng nhiều đến tin chiến sự nhiều hơn chứ còn những vần đề cá nhân thì họ đi đường khác chẳng hạn như hồi đó báo Sóng Thần đi một loạt bài tố ông tướng Nguyễn Văn Toàn khi ấy ông coi vùng cao nguyên, quân khu II. Có một dạo ông ấy dính vào chuyện vớ vẩn gì đó với một cô bé vị thành niên, rồi phóng viên của báo Sóng Thần tìm ra được chuyện đó và tố ông tội dụ dỗ gái vị thành niên.
Tin đó do một tin từ cảnh sát nhưng mà cảnh sát họ nhẹm đi, phóng viên của mình tìm được cái tin đó và làm cuộc điều tra. Người đứng ra làm cuộc điều tra đó là chị Lê Thị Bích Vân, hồi đó chị là nữ phóng viên sáng giá của làng báo Việt Nam. Chị ấy viết một loạt bài về tướng Toàn thì ông ta kiện tờ báo với lý do là mạ lỵ cá nhân thôi chứ không liên hệ gì tới vấn đề kiểm duyệt hết. Khi có chuyện liên quan đến cá nhân làm bậy thì họ kiện mình theo chiều hướng cá nhân vì mạ lỵ phỉ báng còn về bên chính quyền, bên thông tin thì họ quan tâm và kiểm duyệt đến các tin tức liên quan đến thời sự lúc bấy giờ.
Mặc Lâm: Cũng có dư luận lúc ấy cho rằng nhà báo Chu Tử bị ám sát vì đã viết những bài chống tham nhũng, bè phái và vì vậy các nhóm bị Chu Tử chống đối đã ám sát ông cùng với ký giả Từ Chung. Theo bà thì ai là thủ phạm trong cả hai vụ ám sát này?
Nhà báo Trùng Dương: Ông Chu Tử bị ám sát khi ông làm tờ Sống vào giữa thập niên 1960, hồi đó ông là chủ nhiệm tờ Sống. Chu Tử là người viết rất thẳng thắn thành ra có những lực lượng, những nhóm không ưa ông Chu Tử, thế nhưng ông bị ám sát thì không do những nhóm này họ làm mà là do Việt cộng họ chủ trương.
Trong kế hoạch ám sát của họ thì họ nhắm hai người là ông Từ Chung và ông Chu Tử. Ông Từ Chung thì bị giết chết còn ông Chu Tử thì thoát chết. Cách đây mấy năm tôi có viết bài về ông Chu Tử bị ám sát. Có những tài liệu cho thấy không phải là những phe phái không bằng lòng ông ấy ở miền Nam ám sát ông ấy mà là do cộng sản chủ trương.
Tự do báo chí
Mặc Lâm: Theo bà thì báo chí miền Nam lúc ấy có thực sự được tự do trong vấn đề loan tin hay viết lên chính kiến của mình, kể cả việc chống lại chính phủ hay không?Có thể nói miền Nam lúc ấy có tự do báo chí trước hết là tư nhân có thể ra làm báo, xin giấy phép để làm. Kiểm duyệt thì cũng có nhưng không phải là thứ kiểm duyệt kêu bằng nhẹm đi hay giết người…
-Nhà báo Trùng Dương
Nhà báo Trùng Dương: Trước hết báo chí của miền Nam hồi đó là tư
nhân có quyền làm báo. Đa số báo miền Nam hồi đó là báo do tư nhân làm
chủ. Chỉ có một số thân với chính quyền hay báo của chính quyền nhưng
cũng ít người đọc lắm. Có thể nói miền Nam lúc ấy có tự do báo chí trước
hết là tư nhân có thể ra làm báo, xin giấy phép để làm. Kiểm duyệt thì
cũng có nhưng không phải là thứ kiểm duyệt kêu bằng nhẹm đi hay giết
người… Họ cũng có kiểm duyệt, tất nhiên, nhưng những người làm báo ở
miền Nam tôi nghĩ rằng họ có thể diễn tả những gì mà họ thấy cần. Họ ghi
chép được và họ diễn tả lại.
Mặc Lâm: Bà nhận xét thế nào về nền báo chí hải ngoại từ 40 năm qua khi mà Hoa Kỳ được công nhận là có nền báo chí tự do nhất thế giới?
Nhà báo Trùng Dương: Tôi phải nói rằng báo chí hải ngoại hiện nay
có rất nhiều tự do. Nhiều người nhảy vô làm báo mà không cần căn bản
báo chí và cũng không có bao nhiêu đạo đức nghề nghiệp thành thử ra cũng
có nhiều vấn đề. Quan trọng là họ tự do, họ tự do hơn báo chí miền Nam
rất nhiều vì không có ai đứng ra kiểm duyệt hay kiểm soát họ nhưng họ
chịu sự kiểm duyệt của độc giả.
Mặc Lâm: Bà vừa cho biết là báo chí hải ngoại chịu sự kiểm
duyệt từ độc giả, theo chúng tôi biết thì một số người đọc báo hải ngoại
đã nhiều lần chống lại các tờ báo mà họ cho là thân cộng và trước những
động thái này nhiều tờ báo đã nhượng bộ và có tờ phải thay đổi hẳn quan
điểm của họ để theo ý muốn của độc giả, bà chia sẻ gì về việc này?
Nhà báo Trùng Dương: Cũng một phần nào, thế nhưng không thể nói
là họ hoàn toàn muốn làm gì với tờ báo mà đã làm họ mất lòng. Ở đây ít
ra chúng ta còn có một chỗ để dựa vào nếu chúng ta không bằng lòng.
Chúng ta gom lại đủ những tài liệu chứng cứ thì có thể đưa nhau ra tòa.
Ít ra nó có một nơi để mình trình bày vấn đề của mình rồi tòa quyết
định.
Mặc Lâm: Kinh nghiệm từ tờ Sóng Thần, theo bà xây dựng một tờ
báo thì điều gì khó khăn và quan trọng nhất? Và nếu có dịp làm lại tờ
Sóng Thần thì bà mong mỏi điều gì nhất?
Nhà báo Trùng Dương: Đừng phải lo tiền nhiều quá! Tiền là cái trở
ngại nhất. Bởi thế cho nên vào năm 1972 khi chính phủ đưa ra cái Luật
Báo chí 0072, bắt mỗi nhật báo phải đóng ký quỹ 20 triệu đồng thì mới
được tiếp tục xuất bản. Hồi đó tụi này đi vay muốn chết luôn để mà giữ
cho tờ báo còn tiếp tục. Tuy nhiên nếu nói chỉ lo chuyện tiền không thôi
thì cũng không đúng đâu, nó phải có một cái môi trường mà trong đó luật
báo chí, quyền tự do báo chí được tôn trọng. Điều cần nữa là người
phóng viên được huấn luyện và có được tinh thần đạo đức nghề nghiệp.
Mong mỏi thì nhiều yếu tố lắm thành thử ra nếu nói về vấn đề tiến bạc
không thì cũng không đúng.
Mặc Lâm: Xincám ơn nhà báo Trùng Dương.
TRẦN TUẤN KIỆT * TAO ĐÀN BẠCH NGA VÀ BÁO PHỔ THÔNG CỦA NGUYỄN VỸ
TAO ĐÀN BẠCH NGA VÀ BÁO PHỔ THÔNG CỦA NGUYỄN VỸ
Trần Tuấn Kiệt
Thuở còn bé ở Sa đéc, tôi ở với người cậu Năm là một nhà trí thức mới ở tỉnh nhà. Nhà nghèo nhưng sách vở không thiếu quyển gì, nhất là báo chí của thời kỳ đó.
Thường thì tôi lén lấy xem trong lúc cậu tôi đi làm ở tòa hòa giải Sa đéc. Tôi coi hết các báo trong đó có tờ Phổ thông bán nguyệt san khá mỏng với những nhà văn như Lê Tràng kiều, Thượng Sỹ…
Thời gian qua, sách vở xưa hầu như rêu mốc cả, cậu tôi đi quân dịch rồi đi luôn. Tôi với bà ngoại phải lên Saigon ở nương náu nhà người cậu Tư, nhưng không ở lâu được tôi bỏ nhà ra đi bụi đời từ năm mười lăm, mười sáu tuổi
Tôi nhớ lại năm 1963, ông Nguyễn Vỹ có cho tôi ba ngàn đồng tiền riêng để tôi in tập thơ đầu tiên Thơ Trần Tuấn Kiệt do Bùi Giáng đề tựa và Nguyễn Trung vẽ bìa.
Thời kỳ sung túc nhất của báo Phổ Thông sau này khác với Phổ Thông bán nguyệt san thời xưa, thời tiền chiến. Báo quy tụ hầu hết các nhân vật tên tuổi, các nhà văn hóa từ Bắc di cư vào và các nhà văn miền Nam như Thiếu Sơn, ông Triệu Công Minh là chồng bà Ái Lan tên tuổi lẫy lừng thời đó.
Tôi không làm hẳn ở Phổ Thông, chỉ đến chơi với Nguyễn Thu Minh và vợ là Phương Duyên. Hai người này đều có chân trong tao đàn của Nguyễn Vỹ. Đó là thi đàn Bạch Nga lấy tờ nguyệt san Phổ Thông làm diễn đàn.
Tao đàn Bạch Nga có Nguyễn Vỹ làm chủ soái. Nguyễn Thu Minh làm thư ký và rất đông các thi sĩ đương thời góp mặt như cô Thu Nhi, Tôn Nữ Hỷ Khương, Minh Đức Hoài Trinh (Pháp), Ngọc Hân, Phương Đài,Thùy Dương Tử, Tuệ Mai, bác sĩ Nguyễn Tuấn Phát và tôi.
Lúc này tôi đồng ý vào tao đàn Bạch Nga với Nguyễn Vỹ làm thơ 2 chữ, 10 chữ, 12 chữ, tất nhiên là còn các loại thơ khác. Mỗi năm Tao đàn Bạch Nga mở cuộc thi sáng tác thơ tự do. Tôi phụ trách chấm thi hầu hết các giải này, nhờ thế tôi khám phá ra nhà thơ Thùy Dương Tử ở Quảng Nam làm thơ thật hay để chấm anh giải nhất của Tao đàn Bạch Nga.
Sở dĩ ông Nguyễn Vỹ không bắt buộc các nhà thơ làm thơ làm thơ 2 cước, 8 cước, 12 cươc như ông để tránh bị phản đối kịch liệt như thơ tiền chiến.
Thời đó ông ở nhóm Hàn Thuyên có Đặng Thái Mai, Nguyễn Đức Quỳnh… theo thuyết xã hội thường phê phán các tác phẩm của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam chủ trương Tự Lực văn đoàn. Nổi bật nhất là cụ Thượng Sỹ đưa ra nhiều bài phê bình các tác giả thời đó, tất nhiên là bị nhóm Tự lực văn đoàn tấn công lại dữ dội.
Nguyễn Vỹ nêu lên cách làm thơ hai chữ, mười hai chữ như tây. Người công kích ông nhiều nhất là Hoài Chân, Hoài Thanh trong Thi nhân Viêt Nam cho Nguyễn Vỹ là bất tài, khua chiêng trống rùm beng mà thôi.
Tôi cũng một thời gian chịu ảnh hưởng sự công kích ấy nên sau này khi soạn Thi Ca Việt Nam Hiện Đại, sách dầy 1300 trang do nhà Khai Trí in và tái bản vài lần ở Mỹ, tôi cũng lên tiếng chỉ trích. Công tâm nhận xét thì ông Nguyễn Vỹ đã cố gắng phổ biến Tao đàn Bạch Nga, cổ súy cho thơ từ 2 chữ đến 12 chữ theo Âu châu cũng là ý kiến tốt, muốn đổi mới nghệ thuật thơ mới vì thơ cũ ở VN thời đó đã khá nhàm. Thi phẩm Hoang Vu của ông có giá trị ngang hàng với tất cả những thi nhân đương thời và cả ngày nay.
Phong cách Âu châu, tư tưởng cấp tiến của ông thời đó đã làm xốn con mắt của nhiều người đương thời nhất là Hoài Chân, Hoài Thanh trong khi quyển thi nhân VN của Hoài Chân Hoài Thanh tái bản luôn mà không sửa đổi gì cả. Thế ra cái án văn chương này vẫn còn tiền lệ tạo ra sự coi thường nhà thơ Nguyễn Vỹ bất công đến bao giờ.
Trong bài thơ nổi tiếng Gửi Trương Tửu, Nguyễn Vỹ đã than thở: Nhà văn An Nam khổ như chó. Quả vậy, Vita tác giả Mây Ngàn chết vì lao bên Pháp, Vũ Trọng Phụng chết vì lao ở VN, Anh Hợp chết bên đống rác hay Hàn Mặc Tử lẩn lút đau thương trọn đời về bệnh cùi. Lê văn Trương do anh em chôn cất lúc đó Nguyễn Vỹ lo liệu gần hết, chôn xong thì căn nhà của Lê văn Trương vừa bán ở đường Trần Hưng Đạo phải giao cho người ta.
Cụ Tam Ích tuy được gia đình lo cho đầy đủ nhưng có lần ngồi quán ở Cao Tháng với TTKiệt, cụ cũng nói:
-Mày đi mua cho thày mấy viên aspirin.
Bài thơ của Nguyễn Vỹ đã lột lên chân tướng xã hội của các nhà văn đương thời. Ta thử nhìn lại loại thi ca thời tiền chiến, Xuân Diệu ca ngợi ân tình quên đi những kiếp người khốn khổ. Bài thơ Lời Kỹ Nữ có có cái thi hứng phong lưu thời đại hơn là lột trần ra sự cùng khổ thời đại như Victor Hugo, Chế Lan Viên ca ngợi đất nước Chiêm Thành cũ và nói về sự vong quốc, Quách Tấn ảnh hưởng nặng nề của Trung quốc, Vũ Hoàng Chương viết Kinh Kha sang Tần… Thời đại ấy làm thơ viết văn tả thực dường như chỉ có Gởi Trương Tửu là tiêu biểu nhất. Thế mà Hoài Thanh Hoài Chân đã phớt lờ hay nhắc rất ít lời. Quả nhiên là có nhiều vị kỷ, thiên kiến mà ra vậy.
Mặc dù thời trai trẻ than thở Nhà văn An nam khổ như chó nhưng đến trung niên thì đất nước chia đôi. Các nhà thơ di cư vào Nam, xuất bản sách vở báo chí ra được nhiều độc giả chào đón nồng nhiệt. Báo Phổ thông lúc bán chạy nhất lên đến hai mươi lăm ngàn số.
Nguyễn Vỹ rất nhiệt tình giúp đỡ các nhà văn cũ như Lê Tràng Kiều, Vũ Bằng. Một nhà văn lão thành là cụ Đàm Quang Thiện đã dịch Thần thoại Hy Lạp cho Phổ thông, cả Thẩm Thệ Hà, Thanh Việt Thanh và nhất là Lê văn Trương khi còn sống.
Tao đàn Bạch Nga rất đông vui, lúc nào cũng có các thi sĩ trẻ đến chơi và nhập đoàn. Phạm Công Thiện cũng dịch cho báo. Nguyễn Vỹ gây dựng được thanh thế và giàu có. Ông sắm xe hơi đắt tiền, mướn lầu ở gần Cầu Kho đầy đủ mọi phương tiện.
Nhưng có tài thì có tật, đó là điều người đời dị nghị về ông nhiều. Ngoài gái gọi mà tôi thường gặp ở căn lầu đó, nhiều phụ nữ khác đến với ông vì chuộng danh tiếng tài năng của ông. Vì thế sự ganh tỵ về bè nhóm cũng không phải là ít.
Một hôm tại nhà của bà chị thi sĩ Bích Khê (Tinh Huyết thi phẩm) giữa lúc đông có cả Đinh Hùng, Đinh Cường , ông Nguyễn Vỹ cầm tập Thơ Trần Tuấn Kiệt mới xuất bản và dường như có giới thiệu tôi là một thiên tài mới xuất hiện.
Sau đó một năm, tôi cho in quyển Thơ Nai và gởi tặng nhà thơ Đinh Hùng ở ban Tao Đàn trên đài Phát thanh Saigon. Lúc này cụ Lam Giang Nguyễn Quang Trứ có đề xuất tôi cộng tác cho Đài Phát thanh, giám đốc là nhà thơ Phạm Xuân Ninh tức Hà Thượng Nhân.
Một buổi sáng, chợt họa sĩ Nghiêu Đề chạy đến hỏi:
-Mày có nghe chương trình Tao đàn chưa?
-Tao không nghe. Có gì không?
Nghiêu Đề nói:
-Hồi tối Tao đàn đọc thơ mày trên đài nhưng có vẻ tấn công mày.
Tôi nổi dóa, lập tức đi lên Đài phát thanh ghé vào văn phòng là Hà Thượng Nhân hỏi:
-Đêm hôm qua Đinh Hùng tấn công thơ tôi trên đài, ông có biết không?
Hà Thượng Nhân từ tốn nói:
-Tôi có nghe, mà Đinh Hùng đâu có chê gì đâu?
-Để tôi lấy bài viết của Đinh Hùng cho ông xem lại.
Tôi bỏ đi xuống lầu, đến chỗ ngăn để bài, lấy ngay bài của Đinh Hùng trong ngăn mục Tao đàn ra xem qua, lên trao Hà Thượng Nhân rồi bỏ về nhà.
Từ khi tôi in Thơ Trần Tuấn Kiệt và Thơ Nai, các báo chí đều viết khen ngợi, không ai chê cả nên nên tạo cho tuổi trẻ của tôi lúc đó sự kiêu hãnh. Nay đọc bài viết của Đinh Hùng nói thơ Trần Tuấn Kiệt chịu ảnh hưởng Haikai, tanka… của Nhật bản. Tôi bực bội bèn viết một bài trả lời Đinh Hùng đem đến Phổ Thông. Trong đó tôi tấn công dữ dội Tao Đàn, trả lời cho Đinh Hùng biết loại thơ nhỏ vài ba câu do tôi sáng tạo chứ không hề chịu ảnh hưởng gì của Nhật cả. Thơ Nhật ngoài thi hào Basho, ít có thi sĩ làm thơ hay, kém cả thơ Tàu, thơ Tây nhiều, không thể nói tôi chịu ảnh hưởng thơ Nhật được. Tôi tấn công Đinh Hùng là vọng ngoại và thách ông đấu thơ với tôi ở bất cứ nơi nào.
Nguyễn Vỹ thấy trầm trọng quá nên lưỡng lự không dám đăng. Một là sợ xảy ra bút chiến, hai là thế lực Đinh Hùng rất mạnh. Ông này là bạn của cố vấn Ngô Đình Nhu, thường nằm hút chung mâm đèn với cố vấn. Chỉ cần cố vấn gặc cái dọc tẩu xuống mâm đèn, ra lệnh một tiếng thì Nguyễn Vỹ và tôi bị mật vụ hỏi thăm sức khỏe ngay.
Nguyễn Vỹ trả lại bài viết, tôi cả giận nói:
-Ông không đăng bài tôi trả lời trên Phổ thông, tôi sẽ đăng báo khác.
Lúc đó một thiếu nữ trẻ trung xinh đẹp đi vào, cũng là thi sĩ của tao đàn Bạch Nga, chị Ngọc Hân nói với Nguyễn Vỹ:
-Đăng bài trả lời của anh Kiệt đi anh.
Nguyễn Vỹ nghe nói bèn chiều lòng nàng, bảo với tôi :
-Thôi anh đem bài cho chef typo sắp chữ
Lúc này anh Năm Ô tức thi sĩ Nguyễn Vương, một người thợ sắp chữ và trình bày cho báo Phổ thông, sau đó là báo Nghệ thuật của Mai Thảo, anh cùng quê với tôi ở Sa đéc, lập tức chia bài cho thợ xếp chữ ngay cho kịp số báo tới.
Bài báo vô tình tạo ra một hố ngăn cách và hiềm khích mãnh liệt giữa hai bên.
Tao đàn Bạch Nga ở được một thời gian khi báo Phổ thông lên, rồi đến thời kỳ sa sút, Phổ thông bán ế dần cho đến khi chỉ còn một ngàn số.
Đó là vì thời đại này có nhiều báo ra đời như Văn hóa Ngày nay, Tân Phong của Nhất Linh , báo Văn do Trần Phong Giao làm thư ký, Văn học, nhất là các báo Tiểu thuyết Thứ Bảy… lấy hết độc giả của Nguyễn Vỹ, nhiều lần tôi đề nghị thay đổi từ nội dung cho đến cách trình bày nhưng Nguyễn Vỹ là người kỳ cựu trong làng báo, không khi nào nghe lời một thanh niên còn quá trẻ như tôi, ông trở thành bảo thủ hơn nữa.
Khi báo thất bại, Nguyễn Vỹ thường rủ anh em đến chùa Cổ Sơn Môn chơi giải khuây.
Càng ngày có nhiều báo mới ra, nguyệt san Thời nay toàn dịch tài liệu trên báo ngoại quốc như Selection. Tờ này lấy rất nhiều độc giả của Phổ Thông vì tin tức và bài vở ăn khách. Ngoài ra còn Văn của Trần Phong Giao lấy bài của các tác giả cộng tác định kỳ về in.
Một vài báo của sinh viên như Huyền của Khưu Ban Lâm, Mai Vi Phúc, Nguyễn Á Châu… tôi làm thư ký tòa soạn báo này.
Đáng kể là Văn hóa Ngày nay của Nhất Linh, đối với tờ này là Sáng Tạo của nhóm Trần Thanh Hiệp, Mai Thảo, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Hoàng Bảo Việt, Vương Tân, Trần Dạ Từ… Họ viết nhiều đến chủ nghĩa hiện sinh . Đó là thời của Hiện sinh, ai cũng thích đọc và nghiên cứu về thi ca siêu thực của Breton và các tác giả mới của văn hóa hiện đại. Có cả Văn Nghệ do anh ruột của thi sĩ Quách Thoại là là Đoàn Tường trông nom.
Nguyễn Vỹ và tao đàn Bạch Nga như đóa hoa héo dần, sau này Phổ Thông in một ngàn số mà cũng rất khó bán. Nguyễn Vỹ còn cho ra đời nhật báo Dân Ta do Hải Âu làm tổng thư ký và ông Triệu Công Minh, chồng bà Ái Lan, mới ở Pháp về, hợp tác. Độc gỉả quên dần Phổ Thông để đọc các báo mới từ văn nghệ đến văn học nghệ thuật đều tân tiến.
Anh em chúng tôi làm báo Ngàn Khơi của Nguyễn Hữu Đông rồi tạp chí Tiếng Nói của Trần Dạ Từ. Các báo Văn học, Thế Kỷ Hai Mươi, Đại Học và rất nhiều báo khác tự do ra đời. Các tờ báo như Giáo Dục dường như có bài của Kiêm Đạt. Giáo sưNguyễn Duy Diễn được giới học sinh và phụ huynh sốt sắng ủng hộ. Tân Phong, Thẩm Mỹ, Phụ Nữ Diễn Đàn có nhiều độc giả, Bình Nguyên Lộc ra báo Vui Sống. Quá nhiều sách báo in ấn thời đó phô biến tư tưởng văn hóa Âu Mỹ ào ạt vào VN được giới trẻ hưởng ứng.
Lần cuối cùng tôi gặp Nguyễn Vỹ và cụ Đàm Quang Thiện, người dịch thần thoại Hy Lạp cho báo Phổ Thông ở Ngã Bảy rồi sau đó Nguyễn Vỹ mất vì tai nạn xe ở Tân An lúc gần Tết.
Ngọc Hân là thi sĩ duyên dáng và vui tính trong tao đàn Bạch Nga, người đã nói Nguyễn Vỹ đăng bài Trả Lời Đinh Hùng của tôi. Sau này chị là nghề nhiếp ảnh có lần tôi gặp tại 73 Thị Nghè bây giờ con cháu đầy đàn cả rồi. Nhắc lại thời Tao Đàn Bạch Nga, tôi và chị, ai nấy đều như luyến tiếc một điều gì đó, một thời tự do của tuổi trẻ đã mất rồi.
Trần Tuấn Kiệt
Nguồn: http://vietluanonline.com/020110/taodanbachngavabaophothongnguyenvy.html
Trần Tuấn Kiệt
Thuở còn bé ở Sa đéc, tôi ở với người cậu Năm là một nhà trí thức mới ở tỉnh nhà. Nhà nghèo nhưng sách vở không thiếu quyển gì, nhất là báo chí của thời kỳ đó.
Thường thì tôi lén lấy xem trong lúc cậu tôi đi làm ở tòa hòa giải Sa đéc. Tôi coi hết các báo trong đó có tờ Phổ thông bán nguyệt san khá mỏng với những nhà văn như Lê Tràng kiều, Thượng Sỹ…
Thời gian qua, sách vở xưa hầu như rêu mốc cả, cậu tôi đi quân dịch rồi đi luôn. Tôi với bà ngoại phải lên Saigon ở nương náu nhà người cậu Tư, nhưng không ở lâu được tôi bỏ nhà ra đi bụi đời từ năm mười lăm, mười sáu tuổi
Tôi nhớ lại năm 1963, ông Nguyễn Vỹ có cho tôi ba ngàn đồng tiền riêng để tôi in tập thơ đầu tiên Thơ Trần Tuấn Kiệt do Bùi Giáng đề tựa và Nguyễn Trung vẽ bìa.
Thời kỳ sung túc nhất của báo Phổ Thông sau này khác với Phổ Thông bán nguyệt san thời xưa, thời tiền chiến. Báo quy tụ hầu hết các nhân vật tên tuổi, các nhà văn hóa từ Bắc di cư vào và các nhà văn miền Nam như Thiếu Sơn, ông Triệu Công Minh là chồng bà Ái Lan tên tuổi lẫy lừng thời đó.
Tôi không làm hẳn ở Phổ Thông, chỉ đến chơi với Nguyễn Thu Minh và vợ là Phương Duyên. Hai người này đều có chân trong tao đàn của Nguyễn Vỹ. Đó là thi đàn Bạch Nga lấy tờ nguyệt san Phổ Thông làm diễn đàn.
Tao đàn Bạch Nga có Nguyễn Vỹ làm chủ soái. Nguyễn Thu Minh làm thư ký và rất đông các thi sĩ đương thời góp mặt như cô Thu Nhi, Tôn Nữ Hỷ Khương, Minh Đức Hoài Trinh (Pháp), Ngọc Hân, Phương Đài,Thùy Dương Tử, Tuệ Mai, bác sĩ Nguyễn Tuấn Phát và tôi.
Lúc này tôi đồng ý vào tao đàn Bạch Nga với Nguyễn Vỹ làm thơ 2 chữ, 10 chữ, 12 chữ, tất nhiên là còn các loại thơ khác. Mỗi năm Tao đàn Bạch Nga mở cuộc thi sáng tác thơ tự do. Tôi phụ trách chấm thi hầu hết các giải này, nhờ thế tôi khám phá ra nhà thơ Thùy Dương Tử ở Quảng Nam làm thơ thật hay để chấm anh giải nhất của Tao đàn Bạch Nga.
Sở dĩ ông Nguyễn Vỹ không bắt buộc các nhà thơ làm thơ làm thơ 2 cước, 8 cước, 12 cươc như ông để tránh bị phản đối kịch liệt như thơ tiền chiến.
Thời đó ông ở nhóm Hàn Thuyên có Đặng Thái Mai, Nguyễn Đức Quỳnh… theo thuyết xã hội thường phê phán các tác phẩm của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam chủ trương Tự Lực văn đoàn. Nổi bật nhất là cụ Thượng Sỹ đưa ra nhiều bài phê bình các tác giả thời đó, tất nhiên là bị nhóm Tự lực văn đoàn tấn công lại dữ dội.
Nguyễn Vỹ nêu lên cách làm thơ hai chữ, mười hai chữ như tây. Người công kích ông nhiều nhất là Hoài Chân, Hoài Thanh trong Thi nhân Viêt Nam cho Nguyễn Vỹ là bất tài, khua chiêng trống rùm beng mà thôi.
Tôi cũng một thời gian chịu ảnh hưởng sự công kích ấy nên sau này khi soạn Thi Ca Việt Nam Hiện Đại, sách dầy 1300 trang do nhà Khai Trí in và tái bản vài lần ở Mỹ, tôi cũng lên tiếng chỉ trích. Công tâm nhận xét thì ông Nguyễn Vỹ đã cố gắng phổ biến Tao đàn Bạch Nga, cổ súy cho thơ từ 2 chữ đến 12 chữ theo Âu châu cũng là ý kiến tốt, muốn đổi mới nghệ thuật thơ mới vì thơ cũ ở VN thời đó đã khá nhàm. Thi phẩm Hoang Vu của ông có giá trị ngang hàng với tất cả những thi nhân đương thời và cả ngày nay.
Phong cách Âu châu, tư tưởng cấp tiến của ông thời đó đã làm xốn con mắt của nhiều người đương thời nhất là Hoài Chân, Hoài Thanh trong khi quyển thi nhân VN của Hoài Chân Hoài Thanh tái bản luôn mà không sửa đổi gì cả. Thế ra cái án văn chương này vẫn còn tiền lệ tạo ra sự coi thường nhà thơ Nguyễn Vỹ bất công đến bao giờ.
Trong bài thơ nổi tiếng Gửi Trương Tửu, Nguyễn Vỹ đã than thở: Nhà văn An Nam khổ như chó. Quả vậy, Vita tác giả Mây Ngàn chết vì lao bên Pháp, Vũ Trọng Phụng chết vì lao ở VN, Anh Hợp chết bên đống rác hay Hàn Mặc Tử lẩn lút đau thương trọn đời về bệnh cùi. Lê văn Trương do anh em chôn cất lúc đó Nguyễn Vỹ lo liệu gần hết, chôn xong thì căn nhà của Lê văn Trương vừa bán ở đường Trần Hưng Đạo phải giao cho người ta.
Cụ Tam Ích tuy được gia đình lo cho đầy đủ nhưng có lần ngồi quán ở Cao Tháng với TTKiệt, cụ cũng nói:
-Mày đi mua cho thày mấy viên aspirin.
Bài thơ của Nguyễn Vỹ đã lột lên chân tướng xã hội của các nhà văn đương thời. Ta thử nhìn lại loại thi ca thời tiền chiến, Xuân Diệu ca ngợi ân tình quên đi những kiếp người khốn khổ. Bài thơ Lời Kỹ Nữ có có cái thi hứng phong lưu thời đại hơn là lột trần ra sự cùng khổ thời đại như Victor Hugo, Chế Lan Viên ca ngợi đất nước Chiêm Thành cũ và nói về sự vong quốc, Quách Tấn ảnh hưởng nặng nề của Trung quốc, Vũ Hoàng Chương viết Kinh Kha sang Tần… Thời đại ấy làm thơ viết văn tả thực dường như chỉ có Gởi Trương Tửu là tiêu biểu nhất. Thế mà Hoài Thanh Hoài Chân đã phớt lờ hay nhắc rất ít lời. Quả nhiên là có nhiều vị kỷ, thiên kiến mà ra vậy.
Mặc dù thời trai trẻ than thở Nhà văn An nam khổ như chó nhưng đến trung niên thì đất nước chia đôi. Các nhà thơ di cư vào Nam, xuất bản sách vở báo chí ra được nhiều độc giả chào đón nồng nhiệt. Báo Phổ thông lúc bán chạy nhất lên đến hai mươi lăm ngàn số.
Nguyễn Vỹ rất nhiệt tình giúp đỡ các nhà văn cũ như Lê Tràng Kiều, Vũ Bằng. Một nhà văn lão thành là cụ Đàm Quang Thiện đã dịch Thần thoại Hy Lạp cho Phổ thông, cả Thẩm Thệ Hà, Thanh Việt Thanh và nhất là Lê văn Trương khi còn sống.
Tao đàn Bạch Nga rất đông vui, lúc nào cũng có các thi sĩ trẻ đến chơi và nhập đoàn. Phạm Công Thiện cũng dịch cho báo. Nguyễn Vỹ gây dựng được thanh thế và giàu có. Ông sắm xe hơi đắt tiền, mướn lầu ở gần Cầu Kho đầy đủ mọi phương tiện.
Nhưng có tài thì có tật, đó là điều người đời dị nghị về ông nhiều. Ngoài gái gọi mà tôi thường gặp ở căn lầu đó, nhiều phụ nữ khác đến với ông vì chuộng danh tiếng tài năng của ông. Vì thế sự ganh tỵ về bè nhóm cũng không phải là ít.
Một hôm tại nhà của bà chị thi sĩ Bích Khê (Tinh Huyết thi phẩm) giữa lúc đông có cả Đinh Hùng, Đinh Cường , ông Nguyễn Vỹ cầm tập Thơ Trần Tuấn Kiệt mới xuất bản và dường như có giới thiệu tôi là một thiên tài mới xuất hiện.
Sau đó một năm, tôi cho in quyển Thơ Nai và gởi tặng nhà thơ Đinh Hùng ở ban Tao Đàn trên đài Phát thanh Saigon. Lúc này cụ Lam Giang Nguyễn Quang Trứ có đề xuất tôi cộng tác cho Đài Phát thanh, giám đốc là nhà thơ Phạm Xuân Ninh tức Hà Thượng Nhân.
Một buổi sáng, chợt họa sĩ Nghiêu Đề chạy đến hỏi:
-Mày có nghe chương trình Tao đàn chưa?
-Tao không nghe. Có gì không?
Nghiêu Đề nói:
-Hồi tối Tao đàn đọc thơ mày trên đài nhưng có vẻ tấn công mày.
Tôi nổi dóa, lập tức đi lên Đài phát thanh ghé vào văn phòng là Hà Thượng Nhân hỏi:
-Đêm hôm qua Đinh Hùng tấn công thơ tôi trên đài, ông có biết không?
Hà Thượng Nhân từ tốn nói:
-Tôi có nghe, mà Đinh Hùng đâu có chê gì đâu?
-Để tôi lấy bài viết của Đinh Hùng cho ông xem lại.
Tôi bỏ đi xuống lầu, đến chỗ ngăn để bài, lấy ngay bài của Đinh Hùng trong ngăn mục Tao đàn ra xem qua, lên trao Hà Thượng Nhân rồi bỏ về nhà.
Từ khi tôi in Thơ Trần Tuấn Kiệt và Thơ Nai, các báo chí đều viết khen ngợi, không ai chê cả nên nên tạo cho tuổi trẻ của tôi lúc đó sự kiêu hãnh. Nay đọc bài viết của Đinh Hùng nói thơ Trần Tuấn Kiệt chịu ảnh hưởng Haikai, tanka… của Nhật bản. Tôi bực bội bèn viết một bài trả lời Đinh Hùng đem đến Phổ Thông. Trong đó tôi tấn công dữ dội Tao Đàn, trả lời cho Đinh Hùng biết loại thơ nhỏ vài ba câu do tôi sáng tạo chứ không hề chịu ảnh hưởng gì của Nhật cả. Thơ Nhật ngoài thi hào Basho, ít có thi sĩ làm thơ hay, kém cả thơ Tàu, thơ Tây nhiều, không thể nói tôi chịu ảnh hưởng thơ Nhật được. Tôi tấn công Đinh Hùng là vọng ngoại và thách ông đấu thơ với tôi ở bất cứ nơi nào.
Nguyễn Vỹ thấy trầm trọng quá nên lưỡng lự không dám đăng. Một là sợ xảy ra bút chiến, hai là thế lực Đinh Hùng rất mạnh. Ông này là bạn của cố vấn Ngô Đình Nhu, thường nằm hút chung mâm đèn với cố vấn. Chỉ cần cố vấn gặc cái dọc tẩu xuống mâm đèn, ra lệnh một tiếng thì Nguyễn Vỹ và tôi bị mật vụ hỏi thăm sức khỏe ngay.
Nguyễn Vỹ trả lại bài viết, tôi cả giận nói:
-Ông không đăng bài tôi trả lời trên Phổ thông, tôi sẽ đăng báo khác.
Lúc đó một thiếu nữ trẻ trung xinh đẹp đi vào, cũng là thi sĩ của tao đàn Bạch Nga, chị Ngọc Hân nói với Nguyễn Vỹ:
-Đăng bài trả lời của anh Kiệt đi anh.
Nguyễn Vỹ nghe nói bèn chiều lòng nàng, bảo với tôi :
-Thôi anh đem bài cho chef typo sắp chữ
Lúc này anh Năm Ô tức thi sĩ Nguyễn Vương, một người thợ sắp chữ và trình bày cho báo Phổ thông, sau đó là báo Nghệ thuật của Mai Thảo, anh cùng quê với tôi ở Sa đéc, lập tức chia bài cho thợ xếp chữ ngay cho kịp số báo tới.
Bài báo vô tình tạo ra một hố ngăn cách và hiềm khích mãnh liệt giữa hai bên.
Tao đàn Bạch Nga ở được một thời gian khi báo Phổ thông lên, rồi đến thời kỳ sa sút, Phổ thông bán ế dần cho đến khi chỉ còn một ngàn số.
Đó là vì thời đại này có nhiều báo ra đời như Văn hóa Ngày nay, Tân Phong của Nhất Linh , báo Văn do Trần Phong Giao làm thư ký, Văn học, nhất là các báo Tiểu thuyết Thứ Bảy… lấy hết độc giả của Nguyễn Vỹ, nhiều lần tôi đề nghị thay đổi từ nội dung cho đến cách trình bày nhưng Nguyễn Vỹ là người kỳ cựu trong làng báo, không khi nào nghe lời một thanh niên còn quá trẻ như tôi, ông trở thành bảo thủ hơn nữa.
Khi báo thất bại, Nguyễn Vỹ thường rủ anh em đến chùa Cổ Sơn Môn chơi giải khuây.
Càng ngày có nhiều báo mới ra, nguyệt san Thời nay toàn dịch tài liệu trên báo ngoại quốc như Selection. Tờ này lấy rất nhiều độc giả của Phổ Thông vì tin tức và bài vở ăn khách. Ngoài ra còn Văn của Trần Phong Giao lấy bài của các tác giả cộng tác định kỳ về in.
Một vài báo của sinh viên như Huyền của Khưu Ban Lâm, Mai Vi Phúc, Nguyễn Á Châu… tôi làm thư ký tòa soạn báo này.
Đáng kể là Văn hóa Ngày nay của Nhất Linh, đối với tờ này là Sáng Tạo của nhóm Trần Thanh Hiệp, Mai Thảo, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Hoàng Bảo Việt, Vương Tân, Trần Dạ Từ… Họ viết nhiều đến chủ nghĩa hiện sinh . Đó là thời của Hiện sinh, ai cũng thích đọc và nghiên cứu về thi ca siêu thực của Breton và các tác giả mới của văn hóa hiện đại. Có cả Văn Nghệ do anh ruột của thi sĩ Quách Thoại là là Đoàn Tường trông nom.
Nguyễn Vỹ và tao đàn Bạch Nga như đóa hoa héo dần, sau này Phổ Thông in một ngàn số mà cũng rất khó bán. Nguyễn Vỹ còn cho ra đời nhật báo Dân Ta do Hải Âu làm tổng thư ký và ông Triệu Công Minh, chồng bà Ái Lan, mới ở Pháp về, hợp tác. Độc gỉả quên dần Phổ Thông để đọc các báo mới từ văn nghệ đến văn học nghệ thuật đều tân tiến.
Anh em chúng tôi làm báo Ngàn Khơi của Nguyễn Hữu Đông rồi tạp chí Tiếng Nói của Trần Dạ Từ. Các báo Văn học, Thế Kỷ Hai Mươi, Đại Học và rất nhiều báo khác tự do ra đời. Các tờ báo như Giáo Dục dường như có bài của Kiêm Đạt. Giáo sưNguyễn Duy Diễn được giới học sinh và phụ huynh sốt sắng ủng hộ. Tân Phong, Thẩm Mỹ, Phụ Nữ Diễn Đàn có nhiều độc giả, Bình Nguyên Lộc ra báo Vui Sống. Quá nhiều sách báo in ấn thời đó phô biến tư tưởng văn hóa Âu Mỹ ào ạt vào VN được giới trẻ hưởng ứng.
Lần cuối cùng tôi gặp Nguyễn Vỹ và cụ Đàm Quang Thiện, người dịch thần thoại Hy Lạp cho báo Phổ Thông ở Ngã Bảy rồi sau đó Nguyễn Vỹ mất vì tai nạn xe ở Tân An lúc gần Tết.
Ngọc Hân là thi sĩ duyên dáng và vui tính trong tao đàn Bạch Nga, người đã nói Nguyễn Vỹ đăng bài Trả Lời Đinh Hùng của tôi. Sau này chị là nghề nhiếp ảnh có lần tôi gặp tại 73 Thị Nghè bây giờ con cháu đầy đàn cả rồi. Nhắc lại thời Tao Đàn Bạch Nga, tôi và chị, ai nấy đều như luyến tiếc một điều gì đó, một thời tự do của tuổi trẻ đã mất rồi.
Trần Tuấn Kiệt
Nguồn: http://vietluanonline.com/020110/taodanbachngavabaophothongnguyenvy.html
HOÀNG HẢI THỦY * BÁO CHÍ
Chuyện Ruồi Bâu
Posted on November 28, 2010 by hoanghaithuy\
Trên trang báo này tôi đã viết 3 bài về chuyện những ông Phóng Viên Việt
Nam Thông Tấn Xã Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà viết những bài báo tự đề
cao giá trị siêu chuyên nghiêp văn minh hiện đại của mấy ông – và ghi
công ông Nguyễn Ngọc Linh, ông Nguyên Giám Ðốc Việt Nam Thông Tấn Xã
những năm trên duới năm 1965, nhân vật siêu cừ khôi đã đào tạo những
chàng phóng viên VTX ưu tú làm đẹp mặt cho làng báo Sài Gòn – Theo lời
các ông Phóng Viên VTX thì cái làng báo Sài Gòn trước khi có những ông
Phóng Viên VTX tài tuấn là một làng báo bệ rạc, nham nhở, bần tiện, dzơ
dzáy, đểu giả, ngu độn, bọn ký giả đê tiện của những tờ báo bẩn ấy
chuyên làm tiền, chuyên dùng ngòi bút và tờ báo vào việc đâm thuê, chém
mướn.., một làng báo hạ cấp gồm toàn những thằng phóng viên vô học, ngu
dzốt, một chữ cắn làm đôi không biết.
Những bài báo trên đăng trong Nguyệt san Hồn Việt, Số 325, phát hành Tháng 10, 2010 ở Cali.
Là một trong số những anh ký giả Sài Gòn ngu dzốt, tôi viết mấy bài kể
lể, lời lẽ đã yếu sìu lại lòng thòng – tôi kể không phải để chạy tội –
vì bọn ký giả Sài Gòn trong có tôi trước năm 1965 là năm có những ông
phóng viên VTX ưu tú cùng mình hiên ngang đi vào làng báo, chúng tôi ngu
dzốt thật, chúng tôi bị chửi là ngu dzốt không oan một ly ông cụ nào,
tôi kể cũng không phải để cãi trong bọn ký giả Sài Gòn xưa cũng có nhiều
tên không đến nỗi ngu dzốt và đê tiện quá như các ông phóng viên VTX có
ăn có học làm báo kết tội, tôi muốn nói đến chuyện bọn ký giả Sài Gòn
xưa – xưa trước năm 1965 là năm có những chàng phóng viên VTX đàng hoàng
xuất hiện đem một luồng sinh khí mới vào làng báo Sài Gòn, làm cho làng
báo Sài Gòn sạch đẹp, đàng hoàng hẳn lên – bọn ký giả Sài Gòn xưa sống,
làm báo và kiếm ăn như thế nào. Tôi muốn viết lên chuyện bọn ký giả Sài
Gòn không thể dùng tờ báo của các ông chủ báo để “làm tiền người ta”.
Tôi muốn trình bày qui luật báo chí của nước nào là sản phẩm của nuớc
ấy. Dân, xã hội nước nào tiến bộ, văn minh thì nền báo chí, văn học của
họ tiến bộ, văn minh. Và ngược lại. Ðó là qui luật. Sông có thể cạn, núi
có thể mòn, tượng Già Hồ sẽ ra nằm chổng mông trước chợ Bến Thành, hay
nằm ngửa dưới chân tượng Quách Thị Trang, là chuyện chắc hơn bắp rang,
nhưng qui luật báo chí nước nào là sản phẩm của tình trạng xã hội nước
ấy không bao giờ thay đổi.
Tôi muốn kể với quí vị vài chuyện “ký giả Sài Gòn trước năm 1975 làm săng-ta, tức làm tiền..”
dzễ và khó ra nàm thao, bị gài bẫy, bị bắt, tù tội như thế nào. Ký giả
làm tiền bị bắt ra tòa bị các ông Tòa phang án mấy năm??? Nhưng khi
ngồi vào viết chuyện ấy, tôi thấy chán, tôi thấy tôi viết ba bài về
những chuyện “ruồi bâu, kiến đậu” như dzậy là đủ rồi. Tôi ngưng không viết nữa.
Hôm nay quí vị đọc bài này vì trong những bài viết vừa kể của tôi, có
mấy lần tôi kể chuyện trong cuộc họp báo thứ nhất của ông Chủ Tịch Ủy
Ban Hành Pháp Nguyễn Cao Kỳ, ông Kỳ tuyên bố chính phủ của ông “đóng cửa tất cả các nhật báo, tuần báo Sài Gòn, sẽ cứu xét và cho xuất bản lại sau.” Tôi viết tôi nghi cái trò ruồi bâu “đóng cửa tất cả các báo”
của ông Kỳ là do ông Quân Sư Quạt Giấy Rách Như Phong Lê Văn Tiến mớm
cho. Ðúng như tôi nghi. Quí vị đọc bài dưới đây của ông Nguyễn Ngọc Linh
sẽ thấy.
Ông NGUYỄN NGỌC LINH bút hiệu Râu Cáo, viết trên Bán Nguyệt San NGÀY NAY. Houston, Ngày 15 Tháng 6, 2007.
Bài NÀY KIA KIA NỌ.
Trích: Ngày 10 Tháng 6 là Ngày Quân Lực của Việt Nam Cộng Hòa. Ngày này
năm nào cũng nhắc cho tôi một số những kỷ niệm vui buồn khó quên. Này
nhé, vì bất đồng chính kiến giữa Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng
Phan Huy Quát nên chính quyền dân sự ra tuyên cáo giao trả quyền lãnh
đạo quốc gia cho quân đội. Do đó, một Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia được
thành lập gồm các tướng lãnh, Ủy Ban giao phó cho Thiếu Tướng Nguyễn cao
Kỳ trọng trách lập chính phủ.
Ông Kỳ muốn có một chính phủ chuyên viên trẻ có đủ các thành phần Nam,
Trung, Bắc nhưng ông không quen biết nhiều người trong giới dân sự nên
phải dựa vào mấy ông ngoài quân đội làm cố vấn tìm người. Cho đến hôm
nay tôi vẫn không hiểu tại sao năm xưa ấy ông Kỳ lại đến nhà Luật sư
Ðinh Trịnh Chính để lập chính phủ mặc dù ông không quen biết ông Chính.
Ngày đó ông Chính là Bộ Trưởng Bộ Thông Tin trong chính phủ của Thủ
Tướng Phan Huy Quát, chính phủ mới từ nhiệm, tôi là Tổng Giám Ðốc Việt
Nam Thông Tấn Xã và là bạn ông Chính.
Vì ông Chính cũng không giao thiệp nhiều với giới nhân sĩ dân sự nên
việc cố vấn cho ông Kỳ phải nhờ đến một ông bạn của cả hai chúng tôi, là
Nhà Báo Kỳ Cựu Như Phong Lê Văn Tiến. Dù chưa quen và cũng chưa lần nào
gặp ông Kỳ nhưng khi được ông Kỳ hỏi, ông Như Phong trình bày tiểu sử,
thành tích, khả năng của một số nhân vật một cách rõ ràng, chi tiết, tin
được nên gần như ông Như Phong giới thiệu nhân vật nào là được ông Kỳ
chọn ngay làm Bộ Trưởng. Mỗi khi có ông được ông Kỳ mời vào chính phủ
là ông Chính, hay tôi, lo việc liên lạc và cho đón ngay ông “Tân Bộ
Trưởng” đến gặp Thủ Tướng Nguyễn cao Kỳ.
Thủ Tướng Nguyễn cao Kỳ quyết định sẽ ra mắt chính phủ vào ngày 19 Tháng
6, ông Như Phong viết diễn văn để ông Kỳ đọc; diễn văn gồm 6 chính
sách, 19 chương trình hoạt động. Tôi không nhớ rõ ai là người đề nghị
lấy Ngày 19 Tháng 6, là ngày trình diện Ðại Hội Ðồng Quân Lực, Ủy Ban
Lãnh Ðạo Quốc Gia, Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương làm Ngày Quân Lực Quốc
Gia Việt Nam Cộng Hòa. Kể từ năm 1966 Ngày 19 Tháng 6 chính thức trở
thành Ngày Quân Lưc.
Ngày 24 Tháng 6 Nội Các Chiến Tranh Nguyễn cao Kỳ họp báo. Ông Kỳ năm ấy
mới 34 tuổi, không có kinh nghiệm chính trị, chính trường lại rất bốc
đồng. Khi ông Kỳ từ Phủ Thủ Tướng đi bộ qua đại lộ Thống Nhất để đến Hội
Trường Diên Hồng bên kia đường họp báo, không hiểu vì lý do gì, ông Kỳ
nói với cụ Tổng Trưởng Ngoại Giao Trần Văn Ðỗ là:
“Việt Nam phải đoạn giao với Pháp.”
Lời nói lúc qua đường ấy khiến đương kim Tổng Thống Pháp Charles de
Gaulle, khi được hỏi ý kiến về quyết định (VNCH đoạn giao với Pháp) của
ông Kỳ đã châm biếm mà chơi chữ rằng “Qui est Ky?” ( Kỳ là ai?)
Chắc đã nghe ông Như Phong đề nghị, với sự đồng thuận của ông Chính, tân
chính phủ nên có vài quyết định mạnh bạo để gây tiếng vang, đánh dấu
một giai đoạn mới, nên trong cuộc hội báo, Tân Thủ Tướng Kỳ tuyên bố “đóng cửa tất cả các báo trong nước để xét lại giấy phép xuất bản”
khiến phần đông đại diện báo chí hiện diện, theo gương ông Ký giả Tô
Văn, lớn tiếng phản đối rồi bỏ ra về và ngày hôm sau các báo tẩy chay
không tường thuật cuộc hội báo. Mấy ngày sau ông Kỳ rút lại quyết định
này.
Quí vị vừa đọc một đoạn chuyện thời sự nước ta 50 xưa do ông Nguyễn Ngọc
Linh kể; ông Nguyễn Ngọc Linh năm 1966 là Tổng Giám Ðốc Việt Nam Thông
Tấn Xã, là một nhân viên trong Ban Tham Mưu của ông Nguyễn Cao Kỳ. Lời
kể của ông NN Linh cho thấy ông Như Phong Lê Văn Tiến là người lập ra
cái gọi là Uỷ Ban Hành Pháp do ông Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ Tịch. Cũng rất
có thể, ngoài việc súi ông NC Kỳ làm cú ngoạn mục Tây gọi là “Cú
rơ-tăng-tít-săng” là cái việc “phé-mê bu-tích hằm bà lằng các báo Sài
Gòn,” ông Như Phong còn là người súi ông Nguyễn Cao Kỳ gọi chính phủ của
ông Kỳ là Uỷ Ban Hành Pháp, bắt chước một cách ngu ngốc những cái Ủy
Ban Lá Ða cỉa bọn Cộng Hà Nội. Về vài điểm nào đó ông Như Văn Phong Lê
Văn Tiến là một thứ Lã Bất Vi Quan Hoạn của Quốc Gia VNCH.
Chuyện ông NN Linh kể làm tôi nhớ lại một ngày xa xưa. Năm xưa ấy là năm
1966. Thấm thoát dzậy mà đã 50 mùa thu lá bay kể từ ngày ấy. 50 năm qua
ông Cựu Tổng Giám Ðốc Việt Nam Thông Tấn Xã, người đã sống 35 năm kể từ
Tháng Tư 1975 ở Hoa Kỳ, mới kể lại chuyện xưa làm tôi cảm khái và tôi
nhớ lại.
Ðời người có “Ba vạn chín nghìn ngày” : 39.000. Từ năm 1966 đến
nay đã có – khoảng – 16.000 – Mười sáu Ngàn – Ngày Xanh, Ðêm Thắm – và
những Ðêm Tối Om Mõm Chó Lá Ða Lá Vông trong Nhà Tù Cộng Sản – trôi qua
đời tôi. Thực tình tôi không muốn viết lại chuyện “Nguyễn Cao Kỳ năm
1966, vừa lên chức Thủ Tướng, trong cuộc họp báo ra mắt quốc dân, hung
hăng con bọ xít ra lệnh đóng cửa tất cả các nhật báo trong nước, chinh phủ sẽ cứu xét cho ra lại sau”,
một quyết định ngu dzốt Số Một trong suốt 21 năm hiện diện của Chế độ
Cộng Hòa Quốc Gia Việt Nam – từ 1954 đến 1975 – tôi đã viết về chuyện ấy
hai, ba lần. Nay ông Nguyễn Ngọc Linh viết về chuyện ấy, và vì Nguyễn
Cao Kỳ nói phét, tự đề cao y một cách láo lếu, nên tôi bắt buộc phải
viết thêm bài này.
Năm 1966 khi sự việc Ruồi Bâu Cao Cầy Ðóng Cửa Tất Cả Các Báo xẩy ra tôi
mới có 30 tuổi. Ðúng ra là 34, 35 nhưng cứ viết là 30 cho cõi lòng thêm
tê tái thương đau. Tôi nhớ hình ảnh tôi trong buổi chiều năm xưa ấy tôi
đến Nhà Hội của chính phủ ở Ðường Thống Nhất, dường như tòa nhà Số 2,
bên phải từ Sở Thú đi tới Dinh Ðộc Lập, dự cuộc hội báo của Tướng Kỳ,
người vừa được đưa ra làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương.
Tháng 2 năm 1964, nhật báo Sàigònmới bị bức tử. Chỉ vì báo bán chạy nên
bị bọn cầm quyền – Nguyễn Khánh, Ðỗ Mậu – chụp cho cái tội “cấu kết với nhà Ngô”
và bắt phải chết. Sau 7 năm làm nhân viên nhật báo Sàigònmới, viết tiểu
thuyết cho nhật báo Ngôn Luận, tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, kiếm được
nhiều tiền, đời sống yên ổn, ăn chơi phơi phới, cùng với việc chính phủ
Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, đời tôi đi vào chu kỳ xuống dzốc. Ðã “xuống dzốc” mà còn là “xuống dzốc không phanh.”
Tôi dzạt sang làm nhật báo Ngày Nay của anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt. Nhật
báo Ngày Nay do anh Nguyễn Hoạt làm chủ nhiệm, anh Vũ Khắc Khoan làm
chủ bút, anh Vũ Hoàng Chương giữ mục Thơ Khôi Hài, anh Hiếu Chân viết
báo, anh Vũ Khắc Khoan viết văn, không ông nào biết làm nhật báo. Một số
ông nhà giầu góp tiền, tôi nghe nói là một triệu đồng, cho hai ông làm
nhật báo Ngày Nay. Báo sống được khoảng 10 tháng thì tiêu tan triệu bạc.
Không ai dám bỏ tiền ra nữa và báo Ngày Nay chết. Anh Nguyễn Mạnh Côn
ra nhật báo Tin Báo, tôi về làm với anh Côn. Báo nghèo quá. Có thể nói
Tin Báo là tờ báo nghèo nhất thế giới. Nhân viên tòa soạn chỉ có anh Côn
và tôi. Ðang kiếm được mỗi tháng 20.000 đồng, lúc này mỗi tháng tôi chỉ
có được khoảng 3.000 đồng. Tôi không có cả cái xe Mobylette làm chân để
đi làm.
Tôi đến dự cuộc hội báo chiều hôm xưa đó với tâm trạng chán chường, mặt
mũi rầu rĩ. Tôi nhớ buổi chiều ấy Sài Gòn có cơn mưa, đất trời xanh sám.
Không phải vài ngày sau chính phủ Nguyễn cao Kỳ mới hủy bỏ lệnh “đóng cửa tất cả các báo” mà lệnh đó được hủy ngay trong đêm hôm đó. Ra lệnh rồi hủy lệnh ngay, như trò con nít.
Viết thêm: dường như trong cái gọi là dziễn dzăng Ra Mắt, Chủ Tịch NC Kỳ
chỉ loan báo Uỷ Ban sẽ đóng cửa các báo nhưng chưa ký lệnh đóng cửa. Do
đó hôm sau các nhật báo Sài Gòn vẫn phát hành như thường. Nhật báo Tin
Báo của anh Côn nhân vụ ấy tự chết luôn.
Tháng 6 năm 1966. Sau 3 năm, kể từ ngày lật đổ chính phủ Ngô Ðình Diệm,
những người làm báo ở Sài Gòn được tự do gần như thả dzàn trong việc đả
kích, xuyên tạc việc làm, lời nói, kể cả lăng mạ những viên chức trong
chính phủ Ngô Ðình Diệm, rồi họ đả kích luôn những nhân vật ra nắm chính
quyền sau cuộc đảo chính. Họ được những người có quyền chức nể sợ.
Nhiều người trong chính quyền sợ bị bọn làm báo “kết tội hoảng là tay
sai Nhà Ngô, hay cấu kết với Nhà Ngô.” Bọn ký giả Sài Gòn câm mõm suốt
trong thời gian chính phủ Ngô Ðình Diệm tại quyền, nay được dzịp chửi
văng tê, chửi văng xích chó những người cầm quyền. Họ không sợ chính
quyền nữa. Họ thi nhau chửi người nhà nước. Do đó, khi ông Chủ Tịch Ủy
Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn cao Kỳ đọc diễn văn công bố chính sách
của chính phủ, đến quyết định:
– Ðóng của tất cả các nhật báo, tuần báo đang phát hành, sẽ cứu xét từng báo và cho phép ra lại sau.
Lúc ấy tôi ngồi gần ký giả Tô Văn, cũng ngồi gần chỗ chúng tôi là Ðại Tá
Phạm Văn Liễu, Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát Quốc Gia. Vưà nghe ông Kỳ tuyên
bố, Ký giả Tô Văn đứng ngay lên.
Gần 50 năm đã qua, chiều nay ngồi viết ở Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, Kỳ
Hoa Ðất Trích, tôi thấy ẩn hiện hình ảnh phòng hội, dẫy bàn chủ tọa dài
ngồi đến 10 ông, ông Kỳ ngồi giữa, có ông Nguyễn Ngọc Linh ngồi bên.
Chiều trời muốn mưa, ánh chiều xanh sám. Tôi nghe vẳng tiếng Tô Văn:
– Ðóng cửa tất cả các báo? Nó có coi mình ra cái gì đâu! Không họp nữa. Ði ra.
Ðúng ra Tô Văn chỉ nói lên ý nghĩ của anh, anh không có ý kêu gọi anh em
cùng anh bỏ cuộc hội báo để phản đối. Nói xong, anh đi ra. Dù anh em
không ai đi theo, anh cũng đi ra khỏi phòng hội. Tôi đi theo anh. Nhiều
anh em khác ra theo. Chúng tôi đứng lớ ngớ bên đường, chẳng ai biết mình
phải làm gì. Cuộc hội báo trong Nhà Hội vẫn tiếp tục. Phóng viên truyền
hình Mỹ có quay phim và phỏng vấn vài người đứng ngớ ngẩn ngoài đường.
o O o
Ðây là lời kể của ông Tạ Văn Tài, tôi tìm được tài liệu này trên Internet:
Tạ Văn Tài kể:
Anh Như Phong cùng Ðại Tá Phạm Văn Liễu, lúc đó là Tổng Giám Ðốc Cảnh
Sát – Công An Toàn Quốc, có dẫn Trần Nhu Tráng và tôi vào “Dinh Tân Sơn
Nhứt” của Thủ Tướng Kỳ để bàn việc quốc sự . Tôi ngồi nghe mà thôi. Lúc
đó Tướng Nguyễn Chánh Thi , Tư Lệnh Quân Ðoàn I, đang được Phật Gíáo
Miền Trung ủng hộ, và Phật Giáo đòi chính phủ tổ chức bầu cử quốc hội
để sọan Hiến Pháp mới. Ông Kỳ ngồi trong ghế bành, ngước mắt lên trời,
nói:
“Thằng cha Thi mà găng, tôi sẽ cho Miền Trung thành biển lửa.”
Rồi bà Kỳ đi ra, quàng tay ôm cổ ông Kỳ, nói :
“Anh ơi, đi ngủ đi!”
Tôi nghĩ: Cha này chẳng coi sinh mạng nhân dân ra quái gì và bàn việc nước như rỡn chơi.
Sau này anh Tráng cho tôi hay ông Thủ Tướng Kỳ làm việc nước mà nói
trước, quên sau, đến nỗi anh Tráng phải mỗi ngày làm một bản ghi nhớ cho
ông Kỳ:
“Hôm qua ông tuyên bố như thế này.., thế này..”
Hết bài viết của ông Tạ Văn Tài.
Ðây là lời kể của nhân vật Lý Quí Chung trong Hồi Ký Không Tên:
Lý Quí Chung: …Vào lúc sắp kết thúc tập hồi ký này, tháng 2-2004, một sự
kiện tình cờ nhiều ý nghĩa với tôi xảy ra: Tại TP. HCM tôi gặp lại ông
Nguyễn Cao Kỳ. Nếu tính từ cuộc gặp ông lần đầu khi tôi mới vào làng báo
thì đến nay 40 năm đã trôi qua.
Qua trung gian là Quỳnh Nga, người vợ đầu của tôi, ông Kỳ và tôi có một
buổi ăn trưa tại nhà hàng An Viên của Quỳnh Nga, chúng tôi gặp nhau
trước một ngày ông Kỳ rời TP. HCM trở về Mỹ. Ðây là chuyến về thăm quê
hương đầu tiên của ông Kỳ sau khi ông rời Sài Gòn ngày 29-4-1975.
Những năm khởi đầu cuộc đời làm báo (1964-1965) tôi đã có dịp gặp ông
Kỳ, lúc ấy ông là Thủ tướng Sài Gòn. Tôi dự buổi ăn sáng của Thủ tướng
Kỳ tổ chức tại nơi làm việc của ông trên đường Thống Nhất. Mỗi tuần ông
đều tổ chức một lần ăn sáng với các ký giả báo chí để trao đổi ý kiến về
các vấn đề thời sự. Trước ông và sau ông không có một Thủ tướng nào ở
Sài Gòn làm thế. Nhưng các buổi ăn sáng này chỉ kéo dài trong vài tháng.
Tôi có dự cả buổi họp báo ông Kỳ công bố quyết định đóng cửa tất cả các
báo Sài Gòn hồi năm 1965 – một chuyện có một không hai trước 1975 tại
miền Nam. 2
Trong lúc gặp nhau, nhắc lại chuyện xảy ra 40 năm về trước, ông Kỳ còn kể lại cho tôi nghe một chi tiết bên lề cuộc họp báo:
“Khi tôi vừa công bố quyết định đóng cửa tất cả các báo để tái lập trật
tự thì ở gần cuối phòng họp một nhà báo Việt Nam đứng dậy hô to “Ðả đảo độc tài” và hô hào các đồng nghiệp mình bỏ phòng họp ra về. Nhà báo đó, tôi còn nhớ là Tô Văn. Tôi nói to hướng về Tô Văn:
“Mời anh ngồi lại. Nếu anh bỏ phòng họp ra ngoài vào lúc này tôi sẽ có biện pháp giữ anh lại”.
Ngưng trích Hồi Ký Không Tên.
Tôi – CTHÐ – một tên ký giả ngu dzốt của làng báo Sài Gòn – làng báo
theo lời tả của các ông Phóng Viên Việt Tấn Xã – gồm toàn những thằng
làm báo ngu dzốt – hôm nay, một chiều cuối năm ở Rừng Phong, Xứ Tinh
Nhân, Kỳ Hoa Ðất Trích, tôi viết:
“ Nguyễn Cao Kỳ nói phét!”
“Lý Quí Chung viết láo.”
Anh Lý Quí Chung không có mặt mốc trong cuộc hội báo Ruồi Bâu ấy. Bởi vì
nếu anh có mặt, anh đã thấy, anh phải thấy, anh Nguyễn Cao Kỳ nói phét.
Khi Nguyễn Cào kỳ nói chuyện đóng cửa báo, Ký giả Tô Văn đứng lên, không
hô “Ðả đảo độc tài độc ác” gì cả, anh cũng không kêu gọi ai bỏ phòng
họp đi ra, anh chỉ nói – vừa đủ lớn cho mấy người quanh anh nghe:
“Nó có coi mình ra cái gì đâu. Không họp nữa. Ði ra.”
Trên bàn chủ toạ lúc ấy ông Chủ Tịch UBHP Nguyễn Cao Kỳ – không biết ông
có thấy phản ứng của mấy anh ký giả không, hay ông không thấy – vẫn đọc
tiếp bản diễn văn.
Không có chuyện lúc ấy NC Kỳ nói:
“ Mời anh ngồi lại. Nếu anh bỏ phòng họp ra ngoài vào lúc này tôi sẽ có biện pháp giữ anh lại .”
Nói phét mà không thấy ngượng mồm. Tất nhiên. Tất cả những thằng nói
phét trên cõi đời này đều là những thằng nói phét không ngượng mồm. Vì
lẽ dziản dzị nếu nói phét mà ngượng mồm, chúng đã chẳng nói phét.
Nói phét và ngu. Việc anh Thủ tướng đang họp báo tuyên cáo chính sách
với quốc dzân đồng hồ mà bị người phản đối, bỏ họp, kéo ra đường, là
chuyện quan trọng, chuyện đáng xấu hổ. Không có gì đáng nói trong việc
bọn cầm quyền đe doạ đàn áp người dân biểu lộ ý kiến. Mà lúc đó anh Kỳ “có biện pháp”
thì anh làm ký gì? Ra lệnh cho Xếp Cảnh sát Phạm Văn Liễu chĩa súng lục
vào bụng Ký giả Tô Văn, bắt Ký giả ngồi lại? Hay còng tay ký giả đưa
đi?
Trong 21 năm sống của Quốc Gia VNCH chỉ có một lần một Thủ tướng ậm oẹ
đòi đóng cửa tất cả các báo, chỉ một lần vì toàn dân VNCH chỉ có một anh
ngu như anh Nguyễn Cao Kỳ.
Trong 21 năm từ 1954 đến 1970 Sài Gòn có cả trăm cuộc hội báo, chỉ có
cuộc hội báo của Nguyễn Cao Kỳ bị ký giả Sài Gòn phản đối công khai,
ngay tại chỗ, ký giả bỏ phòng hội, ra đứng đường.
Ruồi bâu!
Tôi gọi những chuyện tôi vừa kề là “chuyện ruồi bâu.”
Tôi kết thúc “Chuyện Ruồi Bâu” ở đây.
DANIEL HEMERY* LA LUTTE », TỜ BÁO CHIẾN ĐẤU
SÀI GÒN THẬP NIÊN 30 :
« LA LUTTE », TỜ BÁO CHIẾN ĐẤU
Daniel HEMERY*
Sau
thất bại của phong trào thường được gọi chung
là « Xô viết Nghệ
Tĩnh » –
các cuộc đình công của thợ thuyền, biểu
tình của nông dân và
các cuộc
nổi dậy diễn ra ở khắp ba kỳ năm 1930 – tiếp theo
đó
là cuộc đàn áp khốc liệt của
chính
quyền thực dân, triển vọng của các phong
trào
cách mạng Việt Nam tưởng như đã héo
mòn
nếu không nói là vĩnh viễn bị
khoá
chặt. Năm 1930, Việt Nam Quốc Dân Đảng bị tiêu
diệt hoàn toàn bởi Sở An ninh Đông
Dương
(Sûreté indochinoise) hùng hậu, hay
nói
chính xác hơn, bộ phận chính trị của
nó
là Ty Mật thám (Police secrète). Đảng
Cộng
sản Đông Dương còn non trẻ thì bị
phá
tung, tuy ra sức xây dựng lại với sự hỗ trợ của
Quốc tế Cộng sản trong hai năm 1931 và 1932, song vẫn
trở tay không kịp trước màng lưới của
công
an chính trị Pháp.
Vậy
mà một yếu tố mới đã đột ngột xuất
hiện, nhanh chóng làm đảo ngược dòng
chảy lịch sử : với cuộc đấu tranh hợp pháp
ở Nam Kì, một mặt trận chính trị mới được
mở ra, do sáng kiến chủ động của những thanh niên
trí thức Sài Gòn [1].
Sáng kiến này làm cho Phủ
Toàn quyền
Đông Dương hoàn toàn bị bất ngờ.
Nó
tạo ra một tình huống nghịch lí : phong
trào cộng sản (hiểu theo nghĩa rộng) ở ngoài
vòng pháp luật, bị truy nã,
tù đày
mà vẫn lên tiếng và hành
động công
khai. Bước đột phá này xuất phát từ
những trí thức miền Nam, hầu hết là
giáo
viên trường tư, trong những năm 1923-1926 đã
tham gia phong trào yêu nước tiến bộ, qua những
năm 1926-1928 khi sang Pháp du học, phần đông
đã
gia nhập Đệ tam Quốc tế hoặc Phe tả Đối lập, đến
1930-1931 thì bị chính phủ Pháp quyết
định
trục xuất trở về Đông Dương. Ý hướng của
họ là tập hợp những lực lượng còn manh nha
thành một mặt trận chính trị, cùng
nhau
hoạt động báo chí, tranh cử, xã hội,
tận dụng những khả năng pháp lí của
chính
quốc được áp dụng một phần tại Nam Kì
(là
thuộc địa do Pháp trực trị, khác với quy chế
bảo hộ ở Trung Kì và Bắc Kì).
Nhân
vật chủ chốt của mặt trận này là Nguyễn
An Ninh, nổi bật trong giới trí thức phía Nam
của thời kỳ giữa hai cuộc đại chiến. Nguyễn An Ninh
đã nhanh chóng được sự chấp nhận bí
mật của Quốc tế Cộng sản qua trung gian của những
phái bộ của Đảng Cộng sản Pháp, chủ yếu
là đoàn Paul Vaillant-Couturier (tháng
8-1933)
và đoàn Gabriel Péri (tháng
2 &
3-1934), là hai dân biểu Cộng sản có uy
tín. Quốc tế Cộng sản tán thành phương
án của Nguyễn An Ninh (và có lẽ
đã
giúp đỡ cả về mặt tài chính)
vì
đối với họ, mặt trận này là cơ cấu thiết
yếu cho sự sống còn của Đảng Cộng sản Đông
Dương ở phía Nam, tạo điều kiện để ĐCSĐD xây
dựng lại tổ chức, tiếp tục các hoạt động bí
mật, vận động đòi trả tự do cho tù nhân
chính trị, và xây dựng một phong
trào
quần chúng công nhân chân
chính
theo mô hình Âu Châu.
Đó chính
là bối cảnh ra đời của nhóm
« La
Lutte » (Tranh đấu) năm 1933 tại Sài
Gòn,
dưới ảnh hưởng tinh thần của Nguyễn An Ninh, một liên
minh hết sức đặc biệt của một số trí thức
trẻ, không hiếm người rất xuất sắc, đến từ
nhiều phía chân trời, cộng sản như Nguyễn Văn
Tạo (1908-1972), Dương Bạch Mai (1904-1965) – hai người
này ở Pháp về, Nguyễn Văn Nguyễn (1910-1953),
trốt-kít như Tạ Thu Thâu (1906-1945), Phan Văn
Hùm
(1902-1946), Huỳnh Văn Phương (1906-1970), Trần Văn Thạch
(1903-1946), Phan Văn Chánh (sinh năm 1906), Hồ Hữu
Tường (1910-1980). Nhóm « Tranh
đấu »
chẳng mấy chốc đã giành được
« thế
thượng phong » về chính trị :
ngay từ
ngày 7-5-1933, giữa lúc cuộc đàn
áp
còn mạnh mẽ, hai người trong nhóm đã
được bầu vào hội đồng thành phố Sài
Gòn và hai năm sau, ngày
12-5-1935, trong
cuộc bầu cử hội đồng mới, bốn người.
Tuy
nhiên, để tồn tại, nhóm « La
Lutte »
phải trải qua một thử thách đầu tiên :
ra được một tờ báo, và ra đều đặn. Với
màu sắc chính trị của họ, đây
không
phải là chỉ đơn thuần là sự ra báo
bình thường, mà thực chất là
tiêm
chích một « vật thể xa
lạ » vào
một môi trường đối nghịch. Thật vậy, sự xuất
hiện của báo « La
Lutte » vào
năm 1933 – chủ đề của bài này
– trong cảnh
quan báo chí Việt Nam và
Pháp ở Đông
Dương đã đánh dấu một bước ngoặt trong
lịch sử báo chí.
Từ
lâu báo chí đã thực sự trở
thành
một lực lượng chính trị. Ngay từ khi Chiến tranh
Thế giới lần thứ nhất kết thúc, một phong trào
chính trị xứng đáng với tên gọi của
mình không thể không có cơ
quan báo
chí. Kể từ thời tờ báo « Le
Paria »
(Người cùng khổ) xuất bản tại Paris (1922-1926)
nhưng được bí mật đưa về Đông Dương, tất
cả các tổ chức cách mạng ít nhiều đều
phải tổ chức chung quanh những tờ báo công
khai hay bí mật, dù những tờ báo
này
nói chung thường yểu mệnh. Tuổi thọ của tờ báo
cũng là một chỉ dấu về thực lực của phong trào
mà nó đại diện. VNQDĐ là một bằng
chứng. Sau vụ Yên Bái, QDĐ chỉ xuất bản được
lẻ tẻ vài tờ báo bí mật ở
biên
giới Trung Hoa [2].
Thực tế là cho đến năm 1933, chính quyền thực
dân đã duy trì toàn vẹn
guồng máy
kiểm soát báo chí và
áp đặt
sự phân cách cứng rắn. Hệ thống báo
chí
gồm hai « tầng » cách
biệt (tuy
cũng có lúc « ăn
khớp » với
nhau) : báo chí cách mạng
Việt Nam bị
cấm đoán và đàn áp, in
bí mật
ở trong nước hoặc ở Pháp hay Trung Quốc, phát
hành hết sức khó khăn và dễ bị khai
báo, chỉ điểm, mật thám khám
xét,
truy lùng ; báo chí
công khai thì
một mặt bị guồng máy hành chính
và
tư pháp khống chế, mặt khác bị báo
Pháp
chèn ép. Hai
« tầng » ngăn
cách nhau, hai ngôn ngữ đối lập :
ý
hướng của « La Lutte »
là nhằm vô
hiệu hoá sự ngăn cách, tạo ra diễn đàn
công khai cho tiếng nói bị cấm
đoán…
« La
Lutte » còn báo hiệu những
biến chuyển khác nữa. Ở Nam Kì, nó
chấm
dứt sự khống chế của các tờ báo thực
dân,
nó làm cho báo chí Việt Nam
giành
lấy tính năng động, tiếng Việt trở thành
chuyển ngữ chủ yếu của báo chí chính
trị, thay thế tiếng Pháp. « La
Lutte »
là nguyên mẫu cho báo chí
cách
mạng công khai xuất hiện ở cả ba Kì năm 1936,
nó cũng báo trước sự ra đời năm 1938 của
báo chí bình dân với số ấn
bản lớn
[3].
Có thể nói « La
Lutte » là
con chim én báo hiệu
« mùa xuân
báo chí » mà phong
trào cộng
sản (hiểu theo nghĩa rộng) vừa là chủ lực vừa
người hưởng lợi chủ yếu. Tháng 11-1938, Sở An
ninh Đông Dương ước tính (một cách cố
tình cường điệu) là ở Nam Kì
có
tới 18 tờ báo cộng sản, trốt-kít hoặc
thân
cộng [4].
Phải nói là lúc này, sự
lũng đoạn
hầu như độc quyền của báo chí thực dân
đã cáo chung : số in của báo
chí
Pháp ngữ ở Nam Kì là 30 580
trong
khi số in của báo chí Việt ngữ lên tới
153 000 ; và tính đến ngày
1-1-1939,
trên toàn cõi Đông Dương, số
tờ báo
tiếng Việt hoặc song ngữ Việt-Pháp lên tới
120, báo tiếng Pháp có 69 tờ, so với
con
số tháng 3 năm 1936 : 67 và 43 [5].
Mặc dù số người đọc báo còn hạn hẹp,
có thể nói tiếng Pháp lúc
đó
đang trở thành ngôn ngữ của báo
chí
dành cho độc giả ngoại quốc, tiếng Việt từng
bước trở thành ngôn ngữ của báo
chí
trong quá trình
« dân tộc
hoá ».
« La Lutte » cần được đặt
vào
bối cảnh của tiến trình chung nói trên,
không phải vì nó đóng vai
trò
quyết định, song nó là khởi điểm chủ yếu,
là cuộc thử nghiệm thành công đầu
tiên
ở Đông Dương của một thể loại báo chí
mới : báo chí cách mạng.
« LA LUTTE » TRONG CẢNH QUAN BÁO CHÍ ĐƯƠNG THỜI
« Dưới
chế độ
(báo chí) phải xin
phép trước, chúng tôi không
có
khả năng phát biểu thành văn bằng tiếng An
Nam, nhóm « La Lutte »
năm 1937 đã
nhận định như vậy. Ông Toàn quyền vừa
thông
báo cho Nguyễn Văn Tạo quyết định không cho
phép xuất bản một tờ báo bằng ngôn ngữ
bản xứ. Như vậy, đối với quần chúng ở thuộc
địa, chỉ có một thứ tư tưởng là tư tưởng
quan phương. « La Lutte »
là tờ báo
Pháp ngữ, nên chỉ một thiểu số nhỏ bé
có thể đọc được. Một nghịch lí đáng
buồn : là cơ quan ngôn luận
bênh vực
quyền lợi của người vô sản, nhưng nó chỉ
đến tay những người trí thức » [6].
Cái nghịch lí đó phát
xuất từ quy chế pháp lí về báo
chí
dựa trên nguyên tắc lưỡng phân, cũng
là
nguyên tắc chung của quan hệ thực dân.
Báo
chí ở Đông Dương được đặt dưới hai quy
chế pháp lí khác biệt. Báo
tiếng
Pháp thì tuỳ thuộc đạo luật ngày
29-7-1881 áp dụng ở chính quốc. Cũng phải
nói
thêm, đạo luật này chỉ được thi hành
một cách hiển minh ở Nam Kì, còn ở
phần
còn lại của Đông Dương, với chế độ bảo
hộ, nó chỉ được coi là khả thi trong
khuôn
khổ bộ Hình Luật. Đó là một
tình
trạng lập lờ mà các công sứ
không
ngần ngại lợi dụng. Tuy nhiên, muốn ra báo
tiếng Pháp, thì chỉ cần khai ở Biện lí
cuộc, miễn là người quản lí tờ báo
phải là công dân Pháp. Do
đó, có
một số khá lớn những tờ báo Việt Nam, xuất
bản bằng tiếng Pháp, do những nhà báo
Việt Nam biên tập. Những tờ này ở Nam
Kì
nhiều hơn ở Bắc Kì, và ngoại trừ một
vài
biệt lệ, giọng điệu chung là trung thành với
mẫu quốc, nếu có phê phán cũng rất thận
trọng và mực thước. Tại Sài Gòn
chính
quyền ít gặp khó khăn với tờ báo
« La
Tribune Indochinoise » (Diễn đàn
Đông
Dương) của nhóm Lập hiến, không như trường
hợp chủ báo thực dân De Lachevrotière
ám
muội và tờ « Dépêche
d’Indochine »
(Tin điện Đông Dương) khá mị dân của
ông
ta. Nhà cầm quyền có thể gây sức
ép
bằng những phương tiện bí mật và hiệu
lực :
đối với nhà in, nếu chủ nhà in là
người
Pháp, chính quyền có thể
không đặt
in cho nhà nước là làm cho họ mất đi
một
nguồn thu nhập lớn, nếu chủ nhà in là người
Việt, còn có thêm nhiều cách
đe doạ
nguy hại hơn ; đối với độc giả, nhà cầm
quyền cũng không thiếu phương tiện áp lực
vì
đa số độc giả là công chức ; đối với
bản thân tờ báo, chính quyền
có thể
cắt giảm trợ cấp thực tế là số báo mua
dài hạn dành cho công sở. Và
cuối
cùng, nhà cầm quyền có thể
dùng
biện pháp đàn áp, đóng cửa.
Cho đến
năm 1933, chính quyền thực dân không hề
bỏ
lỡ dịp nào – thí dụ điển
hình là
trường hợp tờ báo đối lập « An
Nam »
của Phan Văn Trường, xuất hiện năm 1927, năm 1928 bị
đập tan – miễn là các cơ quan
chính
quyền biết tiên liệu. Từ thời Alexandre Varenne,
Đông
Dương đã có sẵn một bộ máy
pháp
luật ác độc, với hai sắc lệnh kí ngày
4-10-1927. Một trong hai sắc lệnh này củng cố điều
91 của bộ Hình luật, đặt ra những vi phạm mới
về báo chí [7]
và cho phép toà tiểu hình
xử lí
những vi phạm này. Điều 91 được bổ sung trở
thành một pháp lệ dễ bề lộng hành
và
sẽ được áp dụng nhiều lần đặc biệt đối với
các nhà báo của nhóm
« Tranh
đấu ». Cuối cùng, tờ báo
nào
khả nghi sẽ bị vây chặt bằng một
« hàng
rào y tế » : toàn
quyền chỉ cần
kí nghị định là cấm nó được
phát
hành ở các xứ thuộc địa. Tờ
« Đuốc
nhà Nam » của lãnh tụ Đảng lập
hiến
Nguyễn Phan Long, ngay từ số đầu, đã bị cấm lưu
hành ở Cao Mên. Năm 1934, « La
Lutte »
tục bản được năm ngày thì bị cấm lưu
hành
ở Trung Kì [8],
và phải khó khăn lắm mới kiếm được một
ít độc giả ở ngoài Nam Kì mua
dài
hạn.
Tại Nam Kì, báo chí Việt ngữ
phải chịu quy chế của sắc lệnh do toàn quyền
Doumer kí năm 1898. Không thể cấm báo
chí
Việt ngữ vì đó là công cụ
chuyển
tải quốc ngữ thiết yếu, nhà cầm quyền đã
moi từ những bộ luật cổ của Pháp những thể lệ
phản tiến bộ nhất để áp dụng cho báo
chí
tiếng Việt. Ra báo phải xin phép trước,
chính
quyền có thể cấm bất cứ lúc nào cũng
được, giấy phép ra báo thì cấp một
cách « dè
sẻn » – ở
Nam Kì từ năm 1927 đến mùa hè năm
1933,
trên 77 đơn xin ra báo, chỉ có 13 tờ
báo
được phép xuất bản [9]
– mỗi tờ báo phải đóng tiền
kí quỹ,
khi đăng bài nào có tính
chất phê
phán thì bắt buộc phải đăng bài trả
lời của chính quyền, các bài
báo
đều bị sở báo chí của chính quyền địa
phương kiểm duyệt trước. Sự khống chế chính trị
trên báo chí như vậy là
tuyệt đối.
Sở báo chí kiểm duyệt các
bài báo
đã được sở Mật thám dịch ra tiếng
Pháp ;
như vậy là công an chính trị
hoàn
toàn chế ngự báo chí Việt ngữ,
là
những tờ báo duy nhất có số lượng phát
hành tương đối lớn. Toà soạn các
báo
luôn luôn sống nơm nớp dưới sự ngăn đe của
những lời cảnh cáo của chính quyền, hoặc
lệnh treo giò (cấm tạm thời) hoặc lệnh trục xuất
nhà báo nguyên quán Trung
Kì hay
Bắc Kì [10].
Khi báo lên khuôn, thanh tra đến
nhà in
để đọc từng dòng những bài bình luận,
phần tin tức quốc tế và các bài tường
thuật những cuộc du hành quan phương. Tình
trạng thối nát lan rộng trong giới báo
chí,
trình độ chung các báo thì
rất tầm
thường.
« Chế độ thực dân chuyên
quyền không chấp nhận cho người ta phê
phán
những sự lộng quyền và tội ác của nó,
báo « La Lutte »
đã phẫn nộ
nhận định như vậy... Báo chí tiếng Nam bị
thống trị nặng nề, hiếm khi nào dám lên
tiếng phản đối, mà phản đối thì cũng rất
nhỏ nhẹ. Không bao giờ họ dám phê
phán
những sai lầm, những sự lộng hành của giới cầm
quyền. Bọn Robin và Pagès luôn
luôn
cũng được tán dương qua ngòi bút của
bè
lũ nịnh thần, những trí thức hay nửa trí
thức có của, hãnh diện được các
ông
chủ ban cho tí chút ân
sủng » [11].
Thế
nên, giữa « phi chính
trị » và
ca ngợi công đức chính quyền thuộc địa,
báo
chí Việt ngữ biết chọn con đường nào ?
Người ta tìm cách nói bóng
nói
gió để phê bình. Trước bộ
máy kiểm
duyệt nghiệt ngã, ký giả của báo
chí
Việt ngữ chỉ có thể dùng những chiến thuật
vòng vo. Những câu văn ám chỉ, những
hàm
ý phê phán, những bài thơ
hai nghĩa là
chỉ dấu của những toà soạn độc lập, và
làm như vậy cũng không dễ vì rất dễ lộ
ra trên mặt bằng xám xịt của báo
chí
tiếng Việt. Trong bối cảnh « ngoan
đạo »
ấy, thật không dễ đánh lừa hay qua mắt kiểm
duyệt. Bộ máy kiểm duyệt có cả một hệ
thống kiểm soát và ngăn đe phong phú,
hầu
như không cách nào chống trả. Ngay cả
đối
với báo chí của nhóm Lập hiến. Một
trong những tờ báo bị theo dõi chặt chẽ nhất
là « Đuốc Nhà
Nam » của
Nguyễn Phan Long, tức là ấn bản tiếng Việt của
tờ báo Pháp ngữ « La Tribune
indochinoise » (Diễn đàn Đông
Dương).
Tháng 5-1931, Sở Báo chí đã
đục bỏ
trên mặt báo này một bảng so
sánh
cho thấy sự chênh lệch đối xử của Toàn
quyền giữa ngành sản xuất cao su và
ngành
sản xuất lúa gạo trong cuộc Khủng hoảng kinh tế
năm 1930, đồng thời kiểm duyệt luôn cả những tin
tức về nạn đói ở Nghệ An. Một phương thức
khác được sử dụng là lật ngược phân
tích : sở kiểm duyệt có thể bắt buộc
phải thêm một vài câu, làm
thay đổi
hẳn ý nghĩa bài báo. Thí dụ
« Đuốc
Nhà Nam » đưa tin đàn
áp những
bộ tộc Phnong ở Tây Nguyên khi họ li khai
và
nổi dậy chống lại bọn quan chức thực dân, mà
tờ báo mỉa mai gọi là « những
vị
Phật sống và ông Trời toàn năng,
không
ai được quyền than phiền », thì Sở
Báo
chí bắt tờ báo phải thêm mấy
dòng
nhắc lại vụ ném bom triệt hạ làng Cổ Am,
biến bài báo thành một lời cảnh
cáo
đe nẹt. Những viên chức kiểm duyệt nói
rõ :
« Chúng tôi thiển nghĩ, khi đọc
một
bài báo như vậy, những kẻ ỏ trên rừng
muốn đụng tới đại diện của chính quyền cũng
sẽ phải suy nghĩ » [12].
Một cách khác là gửi tới tờ
báo
liên quan những lời đe doạ không công bố.
Ngày 29-7-1932, vẫn tờ « Đuốc
Nhà
Nam » đã bị đe như vậy sau khi đưa tin
Nguyễn Ái Quốc từ trần và đăng lại của tờ
« Tiếng Dân » ở Huế
nhưng lại
« bỏ câu kết đạo lí của
bài
báo Tiếng Dân » [13].
Cảnh
cáo là phương pháp hiệu nghiệm
vì
báo nào muốn được tiếp tục xuất bản cũng
phải tuân thủ, ít nhất ở ngoài mặt. Cho
nên, lịch sử các tờ báo tiếng Việt dưới
thời thực dân là một chuỗi những giai đoạn
phản kháng ngắn ngủi, giữa hai giai đoạn là
một thời gian dài phẳng lặng, như nhận xét
của một quan chức khi nói về « xu
hướng »
chính trị của tờ báo nữ quyền
« Phụ
Nữ Tân Văn » thỉnh thoảng có
đăng
bài của những người trong nhóm
« Tranh
Đấu » : « Nhờ nhiều lần
cảnh
cáo, tạp chí này đã tự hạn
chế
vào chương trình giáo dục phụ nữ của
mình. Các bài báo đều nhằm
đề cao
những hành động đáng biểu dương của
đàn
bà An Nam và nêu lên những
tấm gương
sáng của phụ nữ các nước, nhất là phụ
nữ Pháp » [14].
Báo chí quốc ngữ nói chung
là « phi
chính trị », điều này
không nhất
thiết đồng nghĩa với sự nhạt nhẽo, vô vị ;
họ đề cập nhiều – và lắm khi, bằng một
cách
tiếp cận mới – những vấn đề ít nóng
bỏng
hơn chính trị, như là đi tìm một nền
nếp văn hoá mới. Một nhật báo như tờ
« Việt
Nam » của Nguyễn Phan Long (xuất hiện năm 1927,
rồi tục bản trong thời kì 1935-1936), trong 8 trang
có
nhiều minh hoạ tốt, cung cấp rất nhiều thông tin
đứng đắn và những bài báo độc
đáo.
Tuy nhiên, mặc dầu các cây
bút độc
lập cố gắng kiên trì, phải nói
là
báo chí quốc ngữ bị khoá miệng về mặt
chính trị.
« Cho
đến nay, chủ tịch Hội nhà báo viết năm
1937, ở Đông Dương không hề có một tờ
báo quốc ngữ nào của một chính
khách
hay một nhóm chính trị đối lập... Không
có lấy một tuần báo hay nguyệt san nào
thuộc xu hướng vô sản... Báo nào ăn
khách
một chút là lập tức bị tình nghi...
Tuần
san càng bán chạy càng tiến gần đến
miệng huyệt » [15].
Báo chí đối lập vì thế bị
đặt trước một lưỡng đề đơn giản : hoặc là
không được tự do (trường hợp các báo
quốc ngữ có thể với tới độc giả bình
dân) hoặc là không có độc giả
(trường hợp các tờ báo đối lập xuất bản
bằng tiếng Pháp, trên nguyên tắc được sử
dụng quyền tự do ngôn luận). Câm miệng về
chính trị, hoặc lên tiếng mà
không có
người nghe. Sự kềm kẹp của mật thám chính
trị hai năm rõ mười, và cũng đơn giản trong
tất cả sự hà khắc của nó. Tờ
« La
Tribune indochinoise » của nhóm Lập hiến
là
nhật báo nhiều độc giả nhất trong báo
chí
chính trị Pháp ngữ của người Việt Nam, năm
1924 số in là 2000 bản, năm 1927 là 2000 bản,
năm 1938 là 1000. Như viên công sứ
Maillard
năm 1937 nhận xét một cách trắng trợn,
« sự
độc hại thực tế của [những tờ báo này]
bị hạn chế bởi con số rất nhỏ dân chúng An
Nam đọc và hiểu được tiếng
Pháp »
[16].
Vượt qua được mâu thuẫn kể trên
không thể đơn thuần là vấn đề kĩ thuật
viết báo. « La Lutte »
không thể
thoát khỏi lưỡng đề này. Phủ Toàn
quyền tất nhiên từ chối, không cho phép
« La Lutte » ra ấn bản tiếng
Việt :
đơn xin lần thứ nhất, ngày 13-5-1935 bị bác
bỏ, lần thứ nhì, tháng năm 1937, đơn xin ra
nhật báo « Truyền
Tin » cũng bị
từ chối [17].
Nhóm « Tranh Đấu »
cũng không
tìm cách lặp lại mưu kế đã thất bại
năm 1933 của tờ « Trung Lập »
(một tờ
báo phái tả, nhờ người trung gian đứng ra mua
lại một tờ báo đã được phép xuất
bản). Thế là tờ báo công nhân
hợp
pháp đầu tiên ở Đông Dương thuộc
Pháp
sẽ xuất bản bằng ngôn ngữ của chính quyền
và giới chủ ngoại bang.
Nhóm
Tranh Đấu ý thức rất rõ về sự hạn chế
khó vượt qua này, họ đã chủ động chọn
lựa chất lượng nội dung thay vì số lượng bản
in. Hệ quả của sự chọn lựa này là không
thể giải quyết thoả đáng vấn đề truyền thông
với quần chúng là hậu thuẫn của tờ
báo.
Ngoài rào cản ngôn ngữ, phải kể tới nạn
mù chữ (năm 1936, từ 70 đến 80% dân số Nam
Kì,
theo ước tính của một báo cáo
chính
thức) [18].
Vì vậy, số ấn bản của « La
Lutte »
rất thấp : 4 số đầu (ra năm 1933) mỗi số không
quá 500, từ khi tục bản (tháng 10-1934) đến
mùa hè 1936, mỗi số 1000 bản. Với phong
trào
chính trị và xã hội năm 1936, số in
lên
tới 2000 rồi ổn định ở mức 2500-3000, trước khi tăng
thêm một nấc nữa trong năm 1938 [19].
Đó cũng là tình trạng chung của
các
nhật báo Pháp ngữ, chỉ có những nhật
báo quốc ngữ mới đạt được số in quan trọng
(xem Bảng I). Còn các báo định
kì,
ngoại trừ các báo Hoa ngữ, thì tất cả
các tuần báo, nguyệt san Pháp ngữ...
của
người Pháp hay người Việt, số in ít nhất
là
500, nhiều nhất không quá 4000. Độc giả của
« La Lutte » phần lớn
là trong giới
tiểu tư sản Tây học, chủ yếu là tiểu
công
chức, tư chức và trí thức ; tuyệt đại
đa số công nhân, và tất nhiên,
nông
dân, không thể đọc tờ báo,
cùng lắm
là được nghe dịch tóm tắt những bài
báo. Có thể nói,
« La Lutte »
là một tờ báo hầu như không độc giả.
Bảng I : Số ấn bản của những tờ báo lớn ở Đông Dương năm 1938 [20]
Báo Pháp ngữ |
Báo quốc ngữ |
||
Hà Nội :
|
|||
L’Avenir du Tonkin
|
2 500
|
Đông Pháp
(nhật báo)
|
17 000
|
Le Courrier de Haïphong
|
700
|
Ngày Nay (tuần
báo)
|
7 000
|
Sài
Gòn :
|
|||
La
Dépêche de
l’Indochine
|
3 500
|
Điện Tín (ấn bản tiếng
Việt của tờ « La
Dépêche »)
|
10 500
|
L’Impartial
|
1 800
|
Saigon
|
11 000
|
L’Opinion
|
1 200
|
Phóng Sự
|
11 500
|
La Tribune indochinoise
|
1 000
|
Dân Tiến (tuần
báo)
|
7 000
|
Le Peuple (cộng sản)
|
1 000
|
Dân Chúng
(cộng sản, 2 số/tuần)
|
6 000
|
Tranh Đấu (trốt-kít,
tuần báo)
|
3 000
|
Những
ràng buộc và hạn chế nói
trên khiến
cho chức năng của tờ báo cũng bị lệch đi.
« La
Lutte » không thật sự tương ứng với tờ
báo công khai
« Iskra » hay
« Pravda » ở nước Nga trước
Cách
mạng. Các chức năng tuyên truyền, vận động
và « tổ chức tập thể »
mà
Lenin nêu ra hồi đầu thế kỉ XX trong đề cương báo
chí cách mạng Nga [21],
báo « La Lutte »
không thể làm
trực tiếp mà thông qua những tổ chức trung
gian. Trong ý nghĩa đó, « La
Lutte »
gần giống những tờ rơi thời kì đầu của phong
trào công nhân Nga, tập trung tố
cáo sự
bóc lột lao động, dựa trên những thông
tin cụ thể và chính xác của chứng
nhân
và nạn nhân. Chức năng « truyền
bá
chính trị » về toàn bộ đời
sống
chính trị - xã hội ở Đông Dương
là
chức năng trung tâm của « La
Lutte ».
Việc « truyền bá »
này được
quan niệm với mục đích hỗ trợ cho cuộc đấu
tranh của công nhân và quần
chúng nhân
dân mà tờ báo có vai
trò giác
ngộ và cổ vũ, làm cho họ không
còn
cảm thấy cô lập và đơn lẻ. Chức năng của
« La Lutte » là chức
năng « siêu »
báo chí, vừa là tiếng vang của
các
yêu sách thợ thuyền, vừa giúp thợ
thuyền
đề ra những yêu sách. Nó phản
ánh,
mô tả và tập thể hoá từng cuộc đấu
tranh hàng ngày của công nhân.
« La
Lutte là yêu sách của những người phu
xe,
tài xế, công nhân bị sa thải một
cách
võ đoán, của những người đi làm
thuê
bị chủ quỵt lương, của những người đi ở bị chủ
nhân hành hạ, ban biên tập
« La
Lutte » viết. Thử hỏi giới lao động nói
chung còn có cách giác ngộ
chính
trị nào khác hơn là ngày
ngày
đương đầu kháng cự lại những kẻ áp bức
họ ? Chỉ « La Lutte »
có thể
làm cho họ thoát khỏi tuyệt vọng, có
thêm can đảm, mở ra cho họ triển vọng kháng
cự, đấu tranh, thay vì cam chịu nhục nhã như
trước đây » [22].
Tóm
lại, mỗi trang báo « La
Lutte » là
một trang giấy « hiện
hình » theo
nghĩa của Lenin, nó bộc lộ sự vận hành
thường ngày của chế độ thực dân, nó
tập trung những lí do để nói lên sự
phản
đối của nhân dân, nó nắm bắt
tình
hình diễn biến hàng ngày,
lí giải
và tích hợp nó thành một
bản phân
tích toàn cục. Nhìn từ đối phương,
« La
Lutte » hiện rõ là tờ
báo ngạo
mạn, không những dám ngang nhiên tố
cáo
những lộng hành lộ liễu của chế độ thực dân
– điều này, các báo Việt Nam
và
Pháp khác cũng làm, kể cả những tờ
báo
một mực bảo vệ chế độ thuộc địa [23],
và nhiều khi họ viết sâu cay hơn người ta vẫn
tưởng – mà còn tố cáo chế độ
thực
dân, chi li từng chi tiết hàng ngày,
và
liên hệ khía cạnh này với
khía cạnh
khác để vẽ ra một bức tranh toàn cục. Với
chức năng thứ nhì này – cật vất thường
xuyên – « La
Lutte » phá vỡ sự
« đồng thuận » với những sắc
thái
khác nhau của báo chí công
khai trên
vấn đề chế độ thực dân, nó thay thế sự
phê phán lẻ tẻ từng vụ việc bằng sự phê
phán có tính hệ thống và
lí
luận. Do đó, hàng ngày, chế độ thuộc
địa bị đặt vào cái thế bị cáo, bị
động, hình ảnh mà nó muốn tạo ra về
nó bị phủ nhận, những tín điều mà
nó
muốn truyền bá bị đập tan. Mối quan hệ
« cha
– con » mà thực dân
áp đặt lên
người dân thuộc địa, hết sức cần thiết cho trật
tự thống trị, từng bước bị lật ngược, vì
trong cảnh quan của báo chí công khai,
với
ngôn từ duy nhất là ngôn từ của thực
dân
dạy bảo người dân thuộc địa, nay bỗng vang lên
tiếng nói của kẻ bị trị phê phán kẻ
thống trị. Các cơ quan chính trị của
chính
quyền thực dân ý thức rất rõ mối đe
doạ này. Đối với mật thám, tuyên truyền
miệng của cộng sản vẫn là mối nguy hàng
đầu, nhưng tờ báo với hoạt động tổng thể của
nó đã mang lại cho lời tuyên truyền
miệng
một sự nhất quán và hiệu quả mới.
« Tuy
số in nhỏ nhoi, ngay từ năm 1935, Thống đốc Nam Kì
đã viết về báo « La
Lutte »
như vậy, nhưng nó được truyền tay từ người này
sang người kia, và khi cần, được giải thích
miệng cho từng nhóm nhỏ. Nó trở thành
cuốn sổ yêu sách của mọi phần tử bất
mãn,
tự phát hay bị sách động, gửi tới các
cấp công quyền, tổng hợp những yêu cầu trước
đây lẻ tẻ và biệt lập. Nó biểu thị
dũng khí của lực lượng quần chúng, ý
thức về quyền của mình, dám biểu lộ trước
quyền lực, và trước làn sóng như thuỷ
triều dâng cao như vậy, chính quyền cảm thấy
hoang mang... » [24].
Để
khơi dậy một ý thức thực sự trong giới công
nhân, « La Lutte »
triển khai theo hai
hướng bổ sung nhau : một mặt, giúp quần
chúng
có thói quen phản ứng trước mọi vụ việc
độc đoán, bạo lực, mặt khác làm cho họ
ý thức được quy trình của các tương
quan xã hội. Sự « giác
ngộ »
này, nói như ban biên tập của tờ
báo,
đòi hỏi một « sự chuẩn bị tư
tưởng »
cần thiết để mở rộng nhãn quan lịch sử của
các tầng lớp nhân dân.
« La Lutte »
tự xác định như là một kho tư liệu, là
cơ quan giáo dục và định hướng cho phong
trào
công nhân Việt Nam, là công cụ
« huấn
nghiệp » để tìm hiểu thế giới :
lần
đầu tiên ở Việt Nam, một tờ báo cung cấp
nhiều thông tin đến như vậy về chủ nghĩa Mác
và phong trào công nhân quốc
tế. Về
mặt này, « La Lutte »
đóng vài
trò phụ san tiếng Pháp cho hai bản tin
lí
luận của Đảng cộng sản Đông Dương hoạt động
bí mật, « Bôn Sơ
Vic » và
« Tạp chí Cộng sản ».
Nó bổ
sung cho báo chí bí mật, và
cung cấp
cho những tờ báo này rất nhiều tư liệu
và
cả một « hệ quy chiếu ». Dưới
hình
thức ấn bản, nó minh hoạ những phân
tích
chính trị, chuyển tải những khẩu hiệu đấu tranh
của những tờ thạch bản, làm máy khuếch
âm
và trạm trung chuyển cho báo chí
bí
mật mà vẫn giữ tính độc lập của nó.
« La Lutte » đăng tải nhiều
bài
viết của độc giả và những bài của báo
chí bí mật, thí dụ như số 16 đăng lại
bài báo về nhà tù Lao Bảo
của « Tạp
chí Cộng sản » số 7, đề ngày
15-11-1933. Năm 1935, tờ báo vận động chống thuế
thân, song đôi với cuộc vận động của Đảng
Cộng sản Đông Dương trong vòng bí mật.
Mặc dầu bị loại ra ngoài vòng pháp
luật,
phong trào cộng sản nhờ đó có cả một
mạng lưới báo chí, vừa bí mật vừa
công khai, bằng tiếng Việt lẫn tiếng Pháp, số
in không nhiều, nhưng ổn định và nhất
quán.
Cuối
cùng, « La Lutte »
không bỏ qua
một nhiệm vụ tế nhị hơn, không mấy ngoạn mục
nhưng chẳng vô nghĩa chút nào,
mà
những người chủ trương đã vạch ra : làm
thay đổi cục diện báo chí Việt Nam.
Nhóm
« La Lutte » đánh cuộc
với nhau là
họ có thể dẫn dụ báo chí hợp
pháp,
dù muốn hay không, cũng phải nói tới
họ.
Buộc các tờ báo bảo thủ phải công khai
đề cập tới hoạt động của người cộng sản – hiểu
theo nghĩa rộng – là thiết lập được cầu nối,
đi từ báo chí bí mật, thông
qua « La
Lutte », đến những tờ báo công
khai có
ấn số lớn. Dự tính như vậy không chút
nào ảo tưởng. Đã từ lâu các
tờ
báo của nhóm lập hiến hay những tờ báo
chống cộng hăng say nhất ở Sài Gòn như
« La
Dépêche »,
« L’Impartial »,
« La Tribune » cũng đã
chuyển tải
ý kiến của báo chí cộng sản với mục
đích phê phán, chống trả, và
trong
những thời kì khủng hoảng, họ buộc phải nói
rõ lập trường đối với ý kiến của người
cộng sản. Những năm 1930-1931, trong các số ra
hàng
ngày, họ đăng bản dịch tiếng Pháp hay đăng
lại nguyên bản tiếng Việt những tờ truyền đơn
được rải đêm hôm trước ở Sài
Gòn ;
năm 1926-1927, tờ « La Tribune
indochinoise »
bút chiến với « La Nation
annamite »
hay « La
Résurrection », hai tờ báo
ấn hành ở Paris. Đối với báo chí Việt
ngữ, « La Lutte » còn
có ý
dùng cách phê bình để
tác động
tới định hướng của họ, thúc đẩy họ phản đối
chế độ kiểm duyệt, nhất là của Sở báo
chí, lên tiếng đòi quyền tự do
báo
chí, khuyến khích họ noi gương thái độ
của « La Lutte », thúc
giục họ dứt
khoát chọn lựa thế đứng, từ đó thành
lập một hạt nhân bao gồm những tờ báo độc
lập. Vai trò gián tiếp chỉ đạo chính
trị đối với báo chí Sài Gòn
là
một trong những thành công đáng kể của
« La Lutte » [25].
Toàn
bộ dự án kể trên tỏ ra xác
đáng.
« La Lutte » đã
làm được
những gì mà báo chí cấp
tiến năm
1925 thất bại. Nó trở thành tờ báo
chống
thực dân đầu tiên giải quyết được vấn đề
tồn tại : mặc dầu từ tháng sáu 1937 trở
đi, nó đơn thuần là tờ báo
trốt-kít,
« La Lutte » vẫn tiếp tục ra cho
đến
năm 1939. Nó tăng trưởng đều đặn và
liên
tục. Khác với « La Cloche
Fêlée »
phát hành không định kì,
« La
Lutte » ra liên tục mỗi tuần một số,
và
từ ngày 1-11-1936 trở đi mỗi tuần hai số [26].
Khổ báo tăng gấp đôi từ ngày 14-1-1936,
đồng thời cách sắp chữ cũng được cải tiến rõ
rệt [27].
Tờ báo đã tiến lên qua từng chặng
đường : tháng giêng 1936, ổn định
cách
trình bày và chuyển sang khổ
báo mới,
tháng 11-1936 tăng gấp đôi số in và tần
số phát hành, có triển vọng tiến tới
ra báo hàng ngày. Thành
tích này
thể hiện một thực tế quan trọng : « La
Lutte » thật sự trở thành một
phân
cực chính trị trong một môi trường
« khan
hiếm dưỡng khí », điều này
có
được là nhờ huy động những phương tiện độc
đáo, tạo ra xung quanh nó một
« vùng
yểm trợ và âm hưởng » trong
lòng
xã hội miền Nam.
TIẾT KIỆM PHƯƠNG TIỆN
« La
Lutte » là một doanh nghiệp
báo chí
không chính thống một chút
nào. Toà
báo vỏn vẹn là một căn hộ thuê của
« chú Hoả », một
tài phú
người Hoa, số 25 bis đường Lagrandière [28],
ở trung tâm Sài Gòn nhưng gần
sát khu
bình dân, không xa Khám Lớn
và
dinh Thống đốc Nam Kì – có thể
nói chọn
địa điểm như vậy cũng là một sự thách
thức – thiết bị thì sơ sài :
vài
ba cái máy chữ và một xe hơi cũ do Tạ
Thu Thâu mua được. Phòng ốc tối thiểu như vậy
cũng là một chọn lựa có suy
tính :
họ cố ý ở tạm – vả chăng họ cũng không
có phương tiện làm khác –
như những
người đóng thuế còn mắc nợ sở thuế :
năm 1935, khi ban biên tập nhận được những giấy
đòi thuế và đòi tiền phạt vạ tới tấp
gửi đến, họ đã nói đùa rằng
« tờ
‘La Lutte’ chỉ chết khi nào,
vì lẽ này
hay lẽ khác, chúng tôi không
viết bài
được nữa. Trụ sở báo ? Nay đây mai
đó,
tuỳ theo phương tiện mà chúng tôi
có
được. Toà soạn của chúng tôi
thì
đúng là sắc sắc không không.
Đầy
những thứ hầm bà lằng, giá trị tổng cộng
không được mấy chục. Nhưng đối với sở thuế
thì chẳng có chút giá trị
phát
mại nào cả. Xin mời quý
ngài ! Quý
ngài chộp được không khí thì
xin cứ
tịch thu ! » [29].
Sắc sắc không không đúng là
tác
phong chính trị của nhóm « La
Lutte »,
cũng là tác phong các tổ chức
công
khai khác của phong trào cách mạng
Việt
Nam năm 1936 : với một bộ máy vật chất
« nhẹ
tựa lông hồng », họ bám
sát
những thành phần xã hội khốn khó
mà
họ muốn bảo vệ, giác ngộ, vận động và
cùng tranh đấu. Ban đầu, báo đưa in tại những
ấn quán của người Pháp ở Sài
Gòn
[30],
phí tổn rất lớn, nên « La
Lutte »
tìm cách mua một nhà in
riêng [31],
với mục đích nữa là ra một tờ báo
quốc ngữ mà không xin phép, để đến khi
(chắc chắn phải) ra toà thì họ sẽ chứng
minh đạo luật năm 1881 của Pháp về báo
chí
cũng có hiệu lực cho cả báo chí quốc
ngữ. Phải đợi ba năm sau, họ mới thuê được
thiết bị in chữ Pháp, và kể từ tháng
hai 1937, « La Lutte » được ấn
hành
với thiết bị này nên giảm được giá
bán mỗi số báo. Còn dự án
ra báo
tiếng Việt thì không thành.
Biện
chứng « sắc không »
còn được
áp dụng trong cả việc phát hành
báo
và củng cố cơ sở tài chính. Phải
nói
là rất độc đáo. Trước hết là
phát
hành, hết sức khó khăn, gần như phạm
pháp.
Mua một tờ báo « La
Lutte » ở nơi
công cộng là một việc nguy hiểm (có thể
bị theo dõi, cho vào sổ đen...) vì như
vậy
là biểu lộ lập trường chống đối. Do đó,
tư tưởng của nhóm « Tranh
đấu »
đã được phổ biến một cách ngấm ngầm, qua
con đường truyền miệng nhiều hơn là đọc báo
trực tiếp. « La Lutte » được
bày bán
tại các quầy báo Sài Gòn,
nhưng trên
thực tế chỉ có người Pháp dám hỏi
mua. Tuy nhiên, mỗi số báo in ra, hàng
trăm
bản cũng tới tay người đọc nhờ những trẻ bán
rong cất giấu báo trong người, số còn lại do
những học sinh bỏ báo tại nhà, hoặc
bán
ở ngoại ô, trong các trường học [32],
gửi xuống các tỉnh bằng bưu điện hoặc qua mạng
lưới các đại lí nhận báo qua tay
tài
xế xe đò rồi phân phối cho bạn đọc theo danh
sách ghi mua. Các đại lí
kiêm thông
tín viên này dường như là
những
thanh niên đã được đi học trước khi trở
thành tiểu thương, chủ tiệm, thư kí,
giáo
viên ở các thị xã và
thôn làng
lục tỉnh. Ở Rạch Giá (miền Tây), cũng như ở
Long Xuyên, đại lí « La
Lutte »
là một chủ quầy báo [33].
Tại Trà Vinh, là một thương gia kiêm
nhiệm
cả công việc thông tín viên [34].
Nhưng thường thường, ở đồng bằng sông Cửu Long,
« đại lí »
tiêu biểu là
một độc giả truyền tay số báo của mình cho
người khác đọc, hoặc phân phối vài số
báo trong xóm giềng [35].
« La Lutte » còn
phân phối từng
bộ báo đóng thành tập ở các
tỉnh
Nam Kì, sang các xứ khác thuộc
Đông
Dương, có lúc gửi sang cả bên
Xiêm.
Hệ
thống phát hành báo như vậy
– giá
báo lại rẻ [36]
– tất nhiên thu nhập của « La
Lutte »
không thể đều đặn. Mỗi số in ra, tiền bán
thu về không quá mấy chục đồng. Tờ báo
cũng rất ít khi kêu gọi sự ủng hộ tài
chính của giới lao động, ngoại trừ một trường
hợp duy nhất : tháng 8-1935, khi quỹ báo
bị
thâm thủng ghê gớm. Nguyên tắc của
báo
là « trước tiên, kêu
gọi sự đóng
góp của các cộng tác viên
« La
Lutte » và một số bạn bè trong
giới
trí thức và tiểu tư sản » [37].
Đối với độc giả, tờ báo chỉ kêu gọi, và
liên tục kêu gọi, họ cố gắng mua báo
dài
hạn, và đó cũng là cách ủng
hộ có
ý nghĩa chính trị nhất. Cũng nhờ số người
mua dài hạn mà, tháng 9-1935, tờ
báo
đã vượt qua khó khăn về tiền bạc [38].
Thực ra « La Lutte »
không trông
mong vào tiền bán báo để giải quyết
tình trạng bấp bênh tài
chính của
mình. Nhất là tiền mua báo
dài hạn
cũng khó thu về : tháng 10-1936, nhiều
độc
giả mua dài hạn còn nợ 2 năm tiền
báo...
Ngày
nào tờ báo chưa ra được bằng quốc ngữ,
thì
số độc giả của « La Lutte »
không
đủ để nuôi sống tờ báo, do đó, tiền
bán báo chỉ là một phần nhỏ trong
ngân
sách cần thiết. Tài chính chủ yếu của
tờ báo dựa trên hai nguồn. Nguồn tài
trợ
quan trọng nhất là sự đóng góp của mỗi
người trong nhóm :
« chúng tôi
đứng trụ được – năm 1937, ban biên tập
đã
viết như vậy – hoàn toàn là
do sự hi
sinh tiền bạc của chính chúng tôi
và
của bạn bè thân tín... Từ khi
« La
Lutte » ra đời, cách đây ba
năm, cho đến
nay, các biên tập viên đã bỏ
vào
quỹ những món tiền lớn, và cố nhiên,
không người nào trong chúng
tôi nhận
tiền thù lao của tờ báo cả » [39].
Sở dĩ họ có tiền đóng góp cho tờ
báo
là vì họ dạy học ở các trường tư,
lương khá cao. Năm 1936, Hồ Hữu Tường dạy toán,
Phan Văn Chánh khoa học, lương tháng của họ
khoảng 300 đồng, gần như gấp 10 lần tiền lương của
một người làm công trong tiệm
buôn ;
Trần Văn Thạch, giáo sư Pháp văn, lãnh
400 đồng một tháng, Tạ Thu Thâu, giáo
sư
nổi tiếng, 500 đồng [40].
Nguồn tài trợ thứ hai của tờ báo :
đóng
góp của giới trí thức và tư sản tự
do. Những trạng sư, bác sĩ, kĩ sư, giáo sư,
« Việt kiều hồi hương » trẻ tuổi,
nhiều người lại là địa chủ, đã tài
trợ cho tờ báo cộng sản do động cơ yêu nước,
nhưng có lẽ phần nào cũng vì họ cảm
nhận thấy sự bất lực chính trị của giai cấp tư
sản – sau sự thất bại ê chề của nhóm Lập
hiến trong cuộc vận động thành lập một chính
đảng quốc gia giữa năm 1925 và 1930. Thế hệ trẻ
và có văn hoá này của giai
cấp tư
sản, được đào tạo qua trường học của chế độ
thực dân, những người học khoa học cũng như văn
khoa đều có đầu óc canh tân, họ đi tới
chủ nghĩa yêu nước vào thời kì
thoái
trào của xu hướng Lập hiến, đã nhạy cảm
và đồng cảm với những phân tích
chính
trị và sự táo bạo hiên ngang của một tờ
báo như « La Lutte ».
Bên
cạnh mối thiện cảm của xu hướng tư sản liberal « hậu
– lập hiến », phải kể một nhóm
cảm
tình khác : những doanh nhân
nhỏ, mà
lòng ái quốc có tính chất
« bản
năng », tiêu biểu là người chủ
những
công ti khá lớn đã đăng quảng
cáo
trên báo (xem phụ lục). Trong nhóm
này,
có thể kể những người cầm đầu công ti
« Thành
Thành » năm 1930 đã
chứa chấp nhiều nhà cách mạng Nghệ An bị
truy nã, hay ông giám đốc
hãng « Dầu
Khuynh Diệp » ở Huế, bạn thân của
Đào
Duy Anh, độc giả mua dài hạn của « La
Lutte ». Hồ sơ mật thám còn
kê
khai trong nhóm cảm tình viên nhiều
nhà
địa chủ như ông Từ Bá Đuốc,
« trọc
phú » Mĩ Tho, mà đầu năm 1937,
viên
công sứ tỉnh này đã định trả
thù
bằng cách rút giấy phép mang
súng [41].
Nhóm
« La Lutte » cũng biết tổ chức
« kinh
doanh vì cách mạng » như phong
trào
cộng sản bí mật, kế tục truyền thống
« hội
buôn kín » của những thập
niên
trước đó. « La Lutte »
được sự
tài trợ của hãng
« Fabrinat »,
chi nhánh Sài Gòn của công
ti dệt
chiếu ở Phát Diệm, mà sáng lập
viên
là một người đã sang học ở Mạc Tư Khoa trở
về, Nguyễn Thế Rục [42].
Sau cùng, mỗi khi cần thiết, tờ báo lại được
sự hỗ trợ của những tiểu thương trong giới bình
dân Sài Gòn – Chợ Lớn, cũng
là đa
số trong 51 người đăng quảng cáo trên mặt
báo
[43] :
những thầy thuốc Đông y, chủ tiệm may nhỏ, những
người bán dầu thuốc truyền thống, thợ chữa
răng. Họ cũng là những ăng-ten quý báu
của tờ báo trong quần chúng.
« La
Lutte » là một tờ báo
công nhân,
nhưng cơ sở tài chính của nó
là phi
vô sản, nửa tư sản, nửa bình dân, điều
này thực ra không có gì lạ ở
Việt
Nam.
Là
một tờ báo không có phương tiện dồi
dào, « La Lutte » phải
phát huy
mặt mạnh của mình là một ban biên tập
có chất lượng và một màng lưới cộng
tác viên rộng rãi mà tờ
báo đã
xây dựng được. Cực chẳng đã, họ mới làm
theo kiểu « cắt và
dán » mà
các tờ báo khác vẫn làm
thường
xuyên. Đây cũng là một tiêu
chuẩn
chính xác để đánh giá mỗi
tờ
báo : có hay không
có thường xuyên
một bài bình luận về chính trị quốc
tế. Phần lớn các báo đều đăng lại bài
bình luận của báo chí Paris, hay sao
chép,
chắp nối những bản tin của các hãng
thông
tấn ARIP, Agence Télégraphique Indo-Pacifique [44].
Còn « La Lutte »
thì tuần nào
cũng có bài phân tích
riêng về
chính trị quốc tế và chính trị
Pháp,
và đó là những bài
bình luận
hay nhất trên báo chí Đông
Dương. Mặt
khác, tờ báo cũng tránh được những
khuyết tật cố hữu của những tờ báo không
trả nhuận bút (bài gì cũng
đăng,
đăng những bài rỗng tuếch, các mục thường
xuyên không bảo đảm ra đều đặn…) nhờ dựa
vào một ban biên tập ổn định, đủ người để
có sự phân công phân nhiệm tối
thiểu
[45],
bài vở thuần nhất nhờ có thảo luận tập
thể. Các bài báo trên
nguyên tắc
đều không kí tên cá
nhân, trừ
trường hợp có bất đồng ý kiến nghiêm
trọng. « La Lutte » muốn
là cơ quan
ngôn luận khiêm tốn của phong trào
xã
hội, chứ không phải là diễn đàn của
một xu hướng riêng biệt hoặc của vài
nhà
báo cự phách. Đó là một tờ
báo
nhiều thông tin, chính xác, đầy đủ tư
liệu, sắc bén và nhiệt tâm [46],
đứng đầu trong những tờ báo khá nhất ở
Đông Dương thời đó. Ban biên tập
tìm
cách viết sáng sủa, dễ hiểu, hứng thú
và khi mỉa mai thì hết sức sắc bén.
Được
đào tạo trong toà soạn của báo
chí
quốc gia hay báo chí cộng sản ở Pháp,
họ
sử dụng tiếng Pháp thành thạo hơn hẳn đối
thủ người Pháp cũng như người Việt. Đây
cũng là một ưu thế của họ trong các cuộc
bút chiến đôi khi mang lại cho họ những sự
ủng hộ khá bất ngờ. « La
Lutte »
hoàn toàn có thể sánh vai
với các
tờ báo cộng sản ở chính quốc và ở
các thuộc địa khác. Chính quyền chỉ
trích « La Lutte »
là cường
điệu một cách có hệ thống, nhưng qua hồ sơ
lưu trữ thư từ nội bộ của chính quyền Nam Kì,
rõ ràng là họ rất gờm các
phóng
sự điều tra của tờ báo. Còn Julien Godart, bộ
trưởng thuộc Đảng cấp tiến, phái viên do Mặt
trận bình dân gửi sang Đông Dương,
thì
hết sức ca ngợi « La Lutte » ‒
và
cả đồng nghiệp trẻ tuổi hơn nó là tờ
« Le
Travail » (Lao Động) xuất bản ở Hà Nội
–
trong bản báo cáo quan trọng sau khi đi thăm
Đông
Dương năm 1937 :
« Tôi
phải nói lên ở đây ý kiến của
tôi
về những nhà báo, những trí thức
mà
tôi vừa kể. Đó là những thanh
niên
xuất bản tờ « Le Travail » ở
Hà
Nội và tờ « La Lutte »
ở Sài
Gòn, và tổ chức bênh vực thợ thuyền.
Báo của họ rất hay, tương phản hẳn với báo
chí chính trị Pháp ngữ mà
trình
độ khá thấp. Đó là những tờ
báo
chiến đấu, do những người trẻ tuổi đầy nhiệt huyết
làm ra, khi họ bình luận về những sự việc
xác thực đã làm cho người lao động bị
thiệt thòi, thì họ không nương tay.
Các
bản báo cáo chung về kinh tế và
xã
hội mà họ đã thảo ra và trao cho
tôi
đều xuất sắc. Chính quyền tìm đủ cách
cấm đoán « Le
Travail » và
« La Lutte », nhưng điều
này không
thủ tiêu được những sự việc mà họ phát
hiện » [47].
Trong
sự thành công của « La
Lutte »
tất nhiên có yếu tố tài năng của
các
cây bút, đều là những nhà
báo
nghiệp dư bận rộn tứ bề [48],
nhưng quan trọng hơn cả là mối quan hệ chặt chẽ
giữa tờ báo và môi trường xã
hội.
Sang mùa xuân 1937, hầu như không
có một
doanh nghiệp lớn hay vừa nào ở Sài
Gòn,
không có một tỉnh lị nào mà
« La
Lutte » không đăng tin đời sống
công
nhân [49].
Ở các làng, người đưa tin thường là
giáo viên hay một thanh niên
có học. Tờ
báo còn có những nguồn tin ở ngay
các
công sở (họ công bố nhiều tài liệu mật),
trong các nhà tù, kể cả các
banh ở
ngoài Côn Đảo [50].
Giữa toà soạn và đại chúng
còn có
những hình thức giao lưu khác. Ngay từ
tháng
mười 1934 bắt đầu mở mục « Diễn đàn
bạn đọc » khá phong phú khi
vấn đề
chọn lựa liên minh được đưa ra thảo luận. Toà
soạn mời độc giả « cho ý kiến,
phê
bình. Bạn đọc hãy đóng góp
vào
định hướng hành động sắp tới » [51].
Sự tham gia của độc giả càng rõ hơn trong
những bức thư gửi tới toà soạn. Đó thường
là những bài báo gần như
hoàn chỉnh,
và trong nhiều trường hợp, đã thúc đẩy
tờ báo tiến hành điều tra tại chỗ [52].
Trong 156 số xuất bản từ 1933 đến 1937, 70 lá thư
đã được công bố (xem Bảng 2).
Bảng 2 : Thành phần xã hội những người gửi thư
Công
nhân
|
17
|
Công
chức và giáo viên
|
8
|
Nông
dân
|
5
|
Tù
chính trị
|
11
|
Tổng
số
|
41
|
Hơn
một nửa số người gửi thư là lao động ở thành
thị và nông dân (hay người
phát ngôn
của họ), 19 lá thư chỉ nói về điều kiện
lao động và tiền lương, số còn lại đề cập
tới hoàn cảnh của người nông dân, thuế
má, thi hành lệnh ân xá năm
1936. Dưới
dạng chứng từ thành văn hay thông tin
thô
được toà soạn biên tập lại, thư độc giả
trở thành một động lực chính trị mà
« La Lutte » đã biết
cách phát
huy. Nhờ đó, mối quan hệ sống động giữa báo
chí, đấu tranh chính trị và cuộc sống
của nhân dân đã thành
hình, một
điều hầu như chưa từng có trong lịch sử báo
chí Việt Nam. Cũng nhờ đó mà
« La
Lutte » đảm đương được chức năng lẽ ra là
của một tờ báo quốc ngữ của công
nhân :
chức năng « người tổ chức tập
thể »,
chừng nào nới rộng được những hạn chế của
một tờ báo bó buộc phải viết bằng ngoại
ngữ. Là diễn đàn tập trung những lời phản
đối, đồng thời là địa điểm tập hợp, « La
Lutte » không chỉ đơn thuần là
một tờ
báo – năm 1935, ban biên tập
đã viết như
vậy – toà soạn của nó đã trở
thành
điểm hẹn của tất cả những người bị ức hiếp, oan
trái. « La Lutte »
bênh vực họ,
giúp họ khắc phục khó khăn [53].
Nó không còn là một tờ
báo viết
cho những độc giả bị động, thậm chí không
phải là tờ báo viết cho thợ thuyền. Vừa
là
nhân chứng, vừa góp phần hình
thành
ý thức của giai cấp công nhân Việt Nam,
« La Lutte » phát động
được sáng
kiến chủ động của quần chúng cơ sở, và
ngược lại, những sáng kiến của quần chúng
cơ sở đã giúp cho tờ báo nới rộng phần
nào cái vòng « kim
cô »
của tiếng Pháp, hay như họ nói, vượt qua
« giai đoạn vô thưởng vô phạt
của
tuyên truyền đơn thuần » [54],
mà nhập cuộc vào hiện thực nghiệm sinh.
Cấu trúc « La Lutte »
« Hiện
hình »,
« chuẩn bị
tư tưởng », « tuyên
truyền »,
« thành tích nhỏ
bé »...,
nhóm « Tranh Đấu »
triển khai hoạt
động của mình cùng một lúc
trên
nhiều trận tuyến kế cận, được tờ báo nối
liền với nhau bằng những bài bình luận
mà
qua nội dung, ta có để
« đọc »
rõ dự phóng thành văn, và
tính
thống nhất của nó.
Không
phải ngẫu nhiên mà họ đặt tên tờ
báo
là « Tranh Đấu ». Tự
nó, cái
tên ấy chứa đựng một thông điệp có hai
cấp độ ý nghĩa. Cấp độ thứ nhất, ai cũng hiểu,
nhưng hơi ‘văn bia’, sáo ngữ. Cấp độ thứ
nhì
gợi lên mối quan hệ nhiều tầng giữa đối tượng
đấu tranh và môi trường chính trị
liên
quan tới nó. Tên gọi « La
Lutte »,
đứng về mặt lịch sử, không phải là một sự
chọn lựa ngẫu hứng, mà biểu lộ một biến chuyển
trong ý thức dân tộc, điều này
có
thể thấy rõ khi ta điểm qua tên gọi của
báo
chí cách mạng công khai cũng như
bí
mật. Từ năm 1929 trở về trước, những danh hiệu được
sử dụng nằm trong hai cặp khái niệm : tổ quốc
– thanh niên và thực dân
– bóc lột.
Trong cặp tổ quốc – thanh niên, ta có
các
tựa đề :
« L’Annam » của Nguyễn
An Ninh và Phan Văn Trường,
« L’écolier
annamite » (Học sinh An Nam) của Trần Văn
Giàu
và Lâm Hiệp Châu,
« Jeune Annam »
và « Thanh
Niên » của Nguyễn
Ái Quốc, « Việt Nam
Hồn » và
« La Nation Annamite »
(Dân tộc Việt
Nam) của Nguyễn Thế Truyền, « La
Résurrection »
(Tái sinh) của Tạ Thu Thâu [55].
Cặp thực dân – bóc lột :
« Paria »
(Người cùng khổ) của Nguyễn Ái Quốc,
« Nhà
Quê » của Nguyễn Khánh
Toàn. Qua
đó, ta có thể thấy ý thức
cách
mạng bắt nguồn từ sự cự tuyệt cái gọi là
« tiến hoá tranh đấu
luận » –
dẫn xuất từ học thuyết Darwin « xã
hội »
của thế kỉ XIX mà các nho sĩ canh tân
Đông
Á đã chấp thuận – theo đó
các dân
tộc nhược tiểu đương nhiên sẽ bị diệt vong
(« Tái sinh »
là một cái
tên rất gợi cảm) : họ không thể chấp
nhận để cho một dân tộc nhỏ bé tan biến
trong sự im lặng của « Đông
Dương ».
Trong khi đó, cái tên gọi
« La
Tribune Indochinoise » (Diễn đàn
Đông
Dương » hàm ý dân
tộc ấy đặt
ước nguyện của mình (Diễn đàn) trong
khuôn
khổ một thực thể thuộc địa mà họ chấp nhận
(Đông Dương), điều này cũng thể hiện ý
muốn hoà giải của nhóm Lập hiến [56].
Từ
năm 1929 trở đi, một trường ngữ nghĩa mới được lập
ra với sự xuất hiện của báo chí cộng sản
bí mật. Ở miền Nam, báo chí
bí mật
đặt tên theo kiểu Quốc tế Cộng sản
(« Búa
Liềm », « Cờ
Đỏ », « Bôn
Sơ Víc », « Sự
Thật »)
và phong trào công nhân quốc
tế. Còn
báo chí cộng sản công khai chọn những
tên
gọi gần với từ vựng trên nhưng có ý
nghĩa rộng hơn :
« L’Avant-garde »
(Tiền phong), « Le Peuple »
(Nhân dân),
« Le Travail » (Lao động),
« La
Lutte » (Tranh đấu). Những danh từ này
cho
thấy quan tâm xã hội đã được đưa
lên
hàng đầu. Như nhà báo Cao Văn
Chánh
đã viết năm 1935, nhiều nhà quan sát
cũng
nhận thấy « âm hưởng ngày
càng
lớn của hai tiếng ‘Lao Động’ kì diệu
mà
xưa kia ở xứ này đồng nghĩa vói Nô Lệ.
Điều đó chứng tỏ đã diễn ra một sự lật
ngược giá trị » [57].
Đã bước sang trường ngữ nghĩa của đấu tranh
giai cấp, sự trỗi dậy của những lực lượng lịch sử
mới : nhân dân, giới lao động ăn lương.
Ngay khái niệm « tranh
đấu » cũng
mang những sắc thái độc đáo. Nó gợi
lại khẩu hiệu cách mạng năm 1930 – chỉ
có
một con đường : tranh đấu – và đồng thời
mở ra những hàm ý đa dạng hơn (đấu tranh
trong lãnh vực xã hội, và trong
các
lãnh vực khác nữa : tranh cử, tư tưởng,
vấn đề dân tộc…) mà không ưu
tiên
một lãnh vực đặc biệt nào. Nó
có
sức gợi cảm chính trị phong phú và
lâu
bền hơn so với tên gọi của các tờ báo
cộng sản đương thời, cũng giống như khả năng ứng
phó của nhóm "Tranh Đấu" đối với
những tình huống chính trị khác nhau
trong
suốt một thời gian dài.
Cấu
trúc nội dung cũng như hình thức trình
bày
của tờ báo đều chứng tỏ rằng quan tâm về
các vấn đề xã hội từ năm 1930 trở đi
đã
khắc sâu vào ý thức cách
mạng ở
Việt Nam, nếu không nói là
vào nền
văn hoá chung [58].
Khởi đầu, « La Lutte » chỉ
là một
tờ truyền đơn tranh cử lúi xùi. Chẳng mấy
chốc, tờ báo được trình bày
đàng
hoàng, sáng sủa và thanh
thoát không
kém gì những tờ báo đương thời đứng
đắn nhất như « La Tribune
Indochinoise »
của Bùi Quang Chiêu hay
« Việt-Nam »
của Nguyễn Phan Long ở Sài Gòn,
« Tiếng
Dân » của Huỳnh Thúc
Kháng ở
Huế. Một tờ báo có tính chất
giáo
dục và chiến đấu, tương tự như báo chí
công nhân Âu Tây, ít
dùng những
tít lớn, nhưng số nào cũng có một khẩu
hiệu liên quan tới thời sự. Tranh và
hình
ảnh minh hoạ hầu như bao giờ cũng mang nội dung xã
hội [59].
Cấu trúc các đề mục chặt chẽ làm cho
« La Lutte » khác hẳn
các tờ
báo Sài Gòn khác, kết cấu
lỏng lẻo
và tư tưởng mù mờ. Trên mặt
báo
« La Lutte » ít thấy
có những
bài báo « bập
bềnh » không
ăn nhằm tới một mục nhất định, điều này thể
hiện chủ ý của ban biên tập là
không
chạy theo thời sự một cách « kinh nghiệm
chủ nghĩa ». Nội dung tờ báo được tổ
chức một cách mạch lạc và lôgic. Một
vài đề mục xuất hiện ít lâu rồi biến
mất, hoặc lâu lâu mới xuất hiện :
« Khoa
học », « Học thuyết và
Lịch
sử »,
« Sách » xuất hiện
lần lượt 2, 7, 15 lần, hay mục « Lá thư
từ Pháp » do dân biểu cộng sản
Lucien
Monjauvis viết từ Paris kéo dài được
sáu
tháng. Một số mục khác được mở ra nhân
một đợt vận động của tờ báo, như
« Vì
ân xá », mục này bắt
đầu rất
sớm dưới dạng những bài báo nói về
nhà tù, nhưng phải đợi đến cuộc ân
xá
tháng 7-1936 mới kê khai tên
tuổi : đây
cũng là một thí dụ điển hình về sự
giao thoa giữa tiếp cận báo chí và vận
động chính trị. Bốn đề mục chính làm
nên « bộ xương » của
« La
Lutte » : mục châm biếm
« Những
cái đinh nhỏ » hàng tuần
nói về
giới thực dân, mục « Sự kiện trong
tuần »,
nối dài bằng mục « Tin
vắn »
đăng tải những kí sự về chế độ thuộc địa
bạo ngược qua đó « La
Lutte » trở
thành một thứ « nhật báo ra
hàng
tuần », mục « Đời sống người lao
động » tập hợp những thông tin hết sức
phong phú về đời sống công nhân Việt
Nam,
và cuối cùng là mục
« Đời sống
quốc tế ». Trình tự các đề mục
nói trên cũng thể hiện chủ trương chính
trị của nhóm « La
Lutte ». Quan hệ
quốc tế, tố cáo chế độ thực dân một
cách
thường trực, tổ chức phong trào công
nhân
Việt Nam, đó là ba hướng hoạt động và
suy tư chủ yếu của nhóm "Tranh đấu".
Cấu
trúc chủ đề nói trên cũng thể hiện
trong đề tài các cuộc điều tra và
phóng
sự (xem Bảng 3) cũng như đề tài toàn bộ
các
bài báo.Bảng 3 : Đề tài điều tra và phóng sự của "La Lutte"
1) Điều tra
|
|
* tình trạng thợ
thuyền và phong trào công
nhân Việt Nam
|
39
|
* tình hình
nhà tù trại giam, đàn áp,
ân xá
|
14
|
* những vụ xì căng
đan, lộng hành của thực dân
|
7
|
* tình hình
nông thôn, hoàn cảnh nông
dân
|
6
|
* trường học, đời sống
giáo viên, trí thức, vấn đề văn
hoá
|
6
|
* đời sống đắt đỏ
|
1
|
* công sở
|
1
|
* những vấn đề hội đồng thị
xã
|
1
|
* hoàn cảnh người
buôn bán nhỏ
|
1
|
Tổng cộng
|
76 (trong 152 bài
báo)
|
2) Phóng sự
|
|
* biểu tình,
mít tinh
|
5
|
* đình công
|
3
|
* tình hình
nông dân
|
2
|
Tổng cộng
|
10
|
Điểm
qua diện tích bài vở [60]
cho thấy 7 mảng đề tài chủ yếu: bối cảnh quốc
tế của phong trào cách mạng Việt Nam, đấu
tranh chống thực dân, đời sống công nhân,
đàn áp chính trị, phê
phán giai
cấp tư sản Việt Nam, hoạt động tranh cử và đấu
tranh ở hội đồng thị xã, vận động Đông
Dương đại hội 1936-1937 [61].
Cách đo đếm này nặng tính chất kinh
nghiệm chủ nghĩa, kết quả của nó chỉ có
giá trị chỉ dẫn. Muốn thấy rõ cấu trúc
cơ bản của ngôn từ « La
Lutte » và
các mối quan hệ tần số, tất phải đi xa hơn bằng
cách phân tích văn bản. Một trong những
khuyết điểm lớn của phương pháp đo đếm là
trong một bài báo nó hoàn
toàn
bỏ qua những chủ đề thứ yếu có liên quan
tới một đề tài chủ yếu, và do đó,
nó
không cho thấy sự liên kết giữa các đề
tài. Kết quả nghiên cứu thu được càng
nhấn mạnh tính chất sơ lược của cách xếp
loại này, và cũng cho thấy chẳng hạn như
các
vấn đề nông dân không bị xao
lãng như
người ta có thể tưởng. Tuy nhiên, kết quả ấy
cũng xác nhận là trong thời kì
này,
đề tài nông dân vẫn còn
là một
« mô-típ »
thứ yếu trong ngôn
từ công khai của người cộng sản và người
trốt kít, vì tần số xuất hiện của nó
chỉ tỉ lệ thuận với số phát biểu trong đó
vấn đề nông dân chiếm vị trí phụ thuộc.
Một điều hiển nhiên khác: vị trí phụ
thuộc của đề tài dân tộc trong bài vở
của « La Lutte ». Điều
này tự nó
là một vấn đề lịch sử.
Cấu
trúc đề tài « hiển
minh » đã
biến chuyển ra sao ? Kết quả nghiên cứu cho thấy
sự biến thiên theo từng tháng của sự
phân
bố diện tích 7 loại đề tài chính.
Có
hai « pha », trước và
sau thời điểm
bản lề là tháng 5 và 6 năm 1936. Trước
đó, nội dung chủ yếu của tờ báo là
phê phán chế độ thực dân,
thái độ
lịch sử của xu hướng lập hiến trong giai cấp tư sản,
phản đối chế độ lao tù và những đề mục
có tính chất giáo dục ; cho
đến mùa
hè năm 1935, mục công nhân giữ một vị
trí
tương đối khiêm nhường, trái ngược hẳn với
bài vở liên quan tới cuộc tranh cử. Phải đến
cuối năm 1935 và bốn tháng đầu năm 1936, diện
tích bài vở về đời sống công
nhân
mới được mở rộng và ổn định. Đề tài
nông dân đồng thời cũng được chú trọng
hơn. Trong giai đoạn đầu vừa nói, toàn cục
văn bản nói chung có tính chất
giáo
huấn, mô tả và phê phán.
Đó là
giai đoạn phản kháng và tuyên truyền.
Từ
tháng sáu 1936 trở đi, diện mạo chung của tờ
báo thay đổi trông thấy. Mục quốc tế được
tăng cường đáng kể, những nhân tố bên
ngoài chiếm vị trí hàng đầu trong suy
nghĩ của nhóm chủ trương, nhất là
chính
sách Đông Dương của Mặt trận Bình
dân
Pháp và việc mở ra cuộc thảo luận liên
lục và sâu rộng về định hướng của mặt
trận thống nhất, điều này cũng dễ hiểu vì
bản thân nhóm "Tranh đấu", ngay từ đầu,
là một mặt trận thống nhất. Diện tích
bài
vở về phong trào công nhân đạt đỉnh cao
vào cuối năm 1936 và tháng
giêng 1937,
đồng thời các vấn đề nông dân cũng được
nhấn mạnh. Ngôn từ chống thực dân, đề
tài
tranh cử, chống xu hướng Lập hiến tụt xuống vị trí
phụ. Bài vở giai đoạn thứ nhì này
toát
ra tinh thần tiến công, theo định hướng và
thực tiễn chính trị mà nhóm
« La
Lutte » đã chọn lựa, và
càng về
cuối, người ta càng cảm thấy khó khăn. Song
nhìn chung, đó là thời kì
mà họ
làm chủ được biến cố, và đang hoặc đã
giành được thế chủ động chính trị, tới
mức độ nào thì còn cần phải xem
xét
kĩ hơn.
Hai
giai đoạn này cũng tương ứng với tình
hình
chung của thuộc địa Đông Dương. Từ 1934 đến mùa
xuân 1936, cuộc khủng hoảng kinh tế đã lắng
xuống và đồng thời, thời kì thoái
trào
của phong trào nhân dân ở ba
Kì cũng
chấm dứt. Cục diện chính trị xoay chiều với khúc
ngoặt tháng sáu 1936, khi chính phủ
Mặt
trận Bình dân được thành lập ở Paris.
Một chu kì mới đấu tranh chính trị và
xã hội mở ra ở Việt Nam. Sự ăn khớp giữa cuộc
vận động quần chúng và nội dung của
« La
Lutte » là một bằng chứng có
ý
nghĩa về chức năng lôi cuốn của tờ báo trong
hoạt động của công nhân và
nông dân
ở khúc ngoặt lịch sử này. Nói rộng
hơn, trải nghiệm khá kì thú của
nhóm
« Tranh đấu » ở Sài
Gòn và
Nam Kì đã đóng một vai trò
không
nhỏ trong sự xoay chuyển thời cuộc lịch sử ở Đông
Dương trong giai đoạn 1933-1936, với hệ quả ngắn hạn
của nó là : chính quyền thực
dân
đã mất đi cái thế chủ động mà hai năm
trước đó, tưởng như nó đã
giành
lại được.
* Đại Học Paris 7, Pháp
Nguyên tác bằng tiếng Pháp,
Nguyễn
Ngọc Giao dịch sang tiếng Việt.
[1] Xem D.
Hémery, Révolutionnaires vietnamiens et pouvoir
colonial en Indochine. Communistes, trotskystes, nationalistes
à Saigon de 1932 à 1937 [Người cách
mạng Việt Nam và chính quyền thực dân ở
Đông Dương. Cộng sản, trốt-kít và quốc
gia ở Sài Gòn từ 1932 đến 1937], Paris,
François Maspéro, 1975, 524 trang. Trong bản thảo
cuốn sách này, lưu trữ tại Thư viện đại học của
Trường đại học Paris 7 – Denis Diderot, có bảng
phân tích 2639 bài báo đăng
trên 166 số « La
Lutte » ra từ ngày 24-04-1933 đến
ngày 29-08-1937.
[2] Dường như biệt lệ duy
nhất và sớm nở tối tàn là tờ
« Message » của Nguyễn Thế Nghiệp
xuất bản tháng 10-1937. Nhưng VNQDĐ có ảnh hưởng
lớn qua trung gian của hai tạp chí
« Phong Hoá »
(1932-1936) và « Ngày
Nay » (1935) của Nguyễn Tường Tam.
[3] Ở thời điểm 01-01-1939,
số in tổng cộng của các tờ báo định kì
xuất bản bằng tiếng Việt là 153 000 ở Nam Kì,
trong khi đầu năm 1938, tổng cộng số in của các
báo tiếng Pháp và tiếng Việt chỉ
có 35 000, « Revue de
Presse », Centre des Archives d’Outre-Mer
d’Aix-en-Provence (Trung tâm lưu trữ hải ngoại
Aix-en-Provence, từ đây về sau sẽ viết tắt là
CAOM), Indochine Nouveau Fonds (INF), 2418.
[4] Phủ thống đốc Nam
Kì, Note Périodique Mensuelle (Thông
tri hàng tháng, từ đây về sau viết tắt
là NPM), novembre 1938, CAOM, Fonds SLOTFOM, III, carton 59.
[5] Phụ lục đi
kèm lá thư của Toàn quyền, 2.02.1939,
CAOM, SLOTFOM, V, carton 39.
[6] « La
Lutte », 23-05-1937.
[7] Tội
« âm mưu và hành
động phương hại đến an ninh công cộng hay gây ra
rối loạn chính trị nghiêm trọng, gây căm
thù đối với chính phủ Pháp hay
các chính phủ được bảo hộ, vi phạm
pháp luật của xứ sở » bị kết
án từ một đến mười lăm năm tù. Sự thiếu
chính xác của văn bản pháp
lí càng làm cho sự kiểm
soát thêm phần hiệu lực : nhờ
đó, người ta có thể đề phòng cả những
điều bất ngờ…
[8]
« L’administration à
rebours » [Hành chính ngược
đời], trong « La Lutte »,
18-06-1936.
[9]
« Note anonyme sur la liberté de la
presse » [Thông tri không
kí tên về tự do báo chí],
CAOM, INF 1873.
[10]
« Revue de la presse indigène de
Cochinchine » [Điểm báo bản xứ ở Nam
Kì], CAOM, INF 958. Các quyết định kiểm duyệt
không cần nói lí do. Ngày
20-06-1932, báo « Trung
Lập » (nhiều người sau này tham gia
nhóm « La Lutte »
có cộng tác với báo này) bị
thống đốc Eutrope « cảnh
cáo » vì đăng hai
hình ảnh « bài
Nhật ». Ngày 3-10, viên thống
đốc nhắc lại lời cảnh cáo này và
thêm : « Thế mà từ
đó đến nay, tôi luôn luôn được
lưu ý về tờ ‘Trung Lập Báo’
vì những bài báo mà tinh
thần của chúng nếu bỏ qua sẽ có tác
hại. Vì vậy, bản chức quyết định hình thức trừng
phạt cuối cùng là đình chỉ
‘Trung Lập Báo’ trong thời gian 8
ngày » (trích dẫn theo Nguyễn
Văn Sâm, Le régime de la presse en Indochine [Quy
chế báo chí ở Đông Dương], Saigon,
1937, tr 23).
[11]
« La Lutte », 31-08-1935.
[12]
« Revue de la presse indigène de
Cochinchine » [Điểm báo bản xứ Nam
Kì], CAOM, INF 958.
[13] Như trên.
[14]
« Revue de la presse indigène de
Cochinchine », 1er trimestre 1933, CAOM, INF 2415.
[15] Như trên.
[16] CAOM, Fonds de la
Commission d’enquête dans les colonies (dit Fonds
Guernut), dossier Bx [Phông Uỷ ban điều tra ở các
thuộc địa].
[17]
« Silence aux
pauvres ! » [Người nghèo
hãy câm miệng !], « La
Lutte », 25-05-1935 ; « La Lettre
au Gouverneur de la Cochinchine » [Thư gửi Thống đốc
Nam Kì], « La Lutte »,
23-05-1937.
[18]
« Note anonyme sur la commune
annamite » [Thông tri không
kí tên về thôn xã An Nam],
CAOM, INF 1873.
[19]
« Liste des journaux et publications paraissant en
Indochine au 31 décembre 1938 » [Danh mục
các nhật báo và báo xuất
bản tại Đông Dương thời điểm 31-12-1938], phụ lục đi
kèm lá thư của Toàn quyền
Đông Dương gửi Bộ trưởng bộ Thuộc địa, 2-11-1939, CAOM,
SLOTFOM, V, carton 39.
[20] Như trên.
[21] Lénine, Que
faire ? Les questions brûlantes de notre mouvement
[Làm gì ? Những câu hỏi
nóng bỏng của phong trào ta], Paris, Editions
Sociales, 1948, tr. 163. Đây là tác
phẩm mà thanh niên mác-xít
Việt Nam ở Pháp tìm đọc nhiều nhất trong những
năm 1930.
[22]
« Aux lecteurs ! »
[Cùng bạn đọc !], « La
Lutte », 31.08.1935.
[23] Những tờ
báo này nhân danh hình ảnh
mà chế độ thực dân muốn tạo dựng cho
chính nó, đồng thời còn xuất
phát từ mâu thuẫn quyền lợi trong nội bộ
các thế lực tư bản thực dân. Đây
là một ví dụ của thứ chủ nghĩa nhân đạo
« một công đôi
việc » này : năm 1927,
báo « La Volonté
Indochinoise » [Ý chí
Đông Dương] của Henri de Montpezat kết hợp với giới chủ
nhân đồn điền Bắc Kì và Trung
Kì tung ra một đợt vận động ồn ào, tố
cáo nạn phu phen Bắc Kì chết như rạ ở
vùng Đất Đỏ (Nam Kì) và ở quần đảo
Nouvelles Hébrides (« Tân Thế
giới ») ; thực chất là chống lại
các đại công ti cao su ở Nam Kì
và « Compagnie Française des
Nouvelles Hébrides » vơ vét
nguồn nhân lực ở phía bắc, làm cho
các đồn điền tại chỗ không mộ phu được. Một
ví dụ khác : tháng 12-1932,
báo « Dépêche
d’Indochine » tố cáo cuộc
đàn áp đẫm máu ở đồn điền Michelin ở
Dầu Tiếng, song lại bao che giới thực dân tại chỗ bằng
cách phân biệt :
« Người ta có thể nói
đó là thành tích bất hảo
của giới thực dân. Nhưng công ti Michelin
là thực dân sao ? »
(« Dépêche de
l’Indochine », 20.12.1932).
[24] Báo
cáo chính trị của Thống đốc Nam Kì,
29.10.1935, do ông Pagès, nguyên thống
đốc Nam Kì, thông báo cho
tác giả.
[25] Từ năm 1936 trở đi,
tất cả các báo cáo mật của bộ phận
chính trị Phủ thống đốc Nam Kì đều thừa nhận điều
này.
[26] Ngày thứ
năm từ 4.10.1934 đến 31.01.1935, thứ bảy từ 23.02 đến 28.12.1935, thứ
ba từ 14.01.1936 đến 25.02.1936, thứ tư từ 4.03 đến 16.09.1936,
và sau đó, mỗi thứ năm và chủ nhật. Từ
1.02.1935 đến 8.03.1935 chỉ ra 2 số báo (đề ngày
19 và 23.02). Số ra ngày 23.02 lại
đánh số sai, nên không có số
23. Mặt khác, trong bộ sưu tập của Thư viện Quốc gia
Pháp (Paris) cũng như ở CAOM (Aix-en-Provence), thiếu
« La Lutte » số 100 (ra
ngày 23.09).
[27] Cho đến
tháng giêng 1936, các bài
đăng trang nhất đều nằm trọn vẹn ở trang này. Sau khi
« La Lutte » đổi khổ
báo, các bài bắt đầu ở trang nhất được
« xem tiếp » ở trang 2 hay trang
3, trang nhất trở thành trang báo mà
những đề tài hay tin tức được ban biên tập
chú trọng.
[28] Đây
là một căn hộ ba phòng ở đường
Lagrandière (sau này trở thành đường
Gia Long, rồi Lý Tự Trọng). Đầu tháng ba 1937,
toà báo dọn sang một trụ sở rộng rãi
hơn nhiều, ở số 95E cùng đường, cũng là
nhà của « Chú
Hoả ».
[29]
« Depuis quand les affiches de
journaux... » [« Từ bao giờ
mà bích chương báo
chí... »], « La
Lutte », 7.09.1935.
[30] Ở nhà in
Ardin cho đến tháng giêng 1936 (lúc
đó Ardin, đảng viên cấp tiến –
xã hội, là chủ tịch Hội đồng thuộc địa), sau
đó in tại SATI mà chủ nhân
là Fauquenot, giám đốc tờ báo
« L’Alerte ».
Phí tổn rất cao, và thường bị chậm trễ. Chẳng
hạn, hạ tuần tháng giêng 1936, nhà in
SATI xảy ra tai nạn, « La Lutte »
phải tạm ngưng, sau đó phải chuyển sang nhà in
Testelin mới tái bản được, nhưng giá
bán mỗi số tăng từ 6 lên 10 xu.
[31] Phải có một
số tiền là 7000 đồng. Xem bài
« A nos lecteurs »
[Cùng bạn đọc], « La
Lutte », 4.02.1937.
[32] Trong một cuộc
đàm thoại với tác giả bài
này, ông Anh Van, lúc đó
là học trò Tạ Thu Thâu tại một trường
tư thục Sài Gòn, kể lại là
ông đã đi chuyên chở báo
không công cho « La
Lutte ». Tháng 4.1935, trong một cuộc
tổng lục soát ở Trường Bách nghệ Sài
Gòn, đã tìm ra 10 số
báo ; xem « A l’Ecole
des Mécaniciens »,
« La Lutte », 13.04.1935.
[33] Tháng
12.1934, ông ta bị sở sen đầm Long Xuyên gọi
lên, buộc ông phải nộp danh sách những
người ở thị xã đặt mua báo, và cấm
ông không được bày bán
« La Lutte », xem số
báo đề ngày 13.12.1934.
[34] Tháng
6.1937 ông bị bắt, x. « La
Lutte », 20.06.1937.
[35] Theo hồi tưởng của Hồ
Hữu Tường (nói chuyện với tác giả).
[36] 5 xu năm 1933, 6 xu từ
tháng 10.1934 đến tháng 2.1937, tức là
1/7 ngày công của một người phu, tương đương với
giá 2 lít gạo theo thời giá
mùa hè 1936, 10 xu trong hai tháng 2
và 3.1937, sau đó là 7 xu.
[37]
« La Lutte », 14.09.1935.
[38]
« Thế là kẻ hấp hối đã sống
lại… Chúng tôi tự hỏi nông
nỗi gì mà được nhiều cảm tình như
thế… », x.
« Qu’ai-je fait pour ‘La
Lutte’ ? »,
« La Lutte », 7.09.1935.
[39]
« La Lutte », 4.03.1937.
[40] Hồi tưởng của Hồ Hữu
Tường, đã dẫn.
[41] Báo
cáo của Thanh tra Chính trị vụ Esquivillon,
17.05.1937, CAOM, INF 2391.
[42] Đã được
đào tạo tại Trường những người lao động Phương
Đông ở Moskva từ 1925 đến 1928, bị mật thám bắt
giam năm 1931, năm 1936 sáng lập báo
« Le Travail » ở Hà
Nội, từ trần tháng 5-1938. Năm 1934, vào thăm
Sài Gòn, Nguyễn Thế Rục mở một chi
nhánh của « Fabrinat »
đối diện với trụ sở « La Lutte »
và đã cung cấp đủ số vốn cần thiết. Quản
lí chi nhánh là bà Nguyễn
Thị Anh, vợ Tạ Thu Thâu, cựu sinh viên du học ở
Pháp (một trong những nữ sinh Việt Nam đầu tiên đỗ
tú tài). Chi nhánh này
phát đạt khá nhanh chóng. X. hồi tưởng
của Hồ Hữu Tường, đã dẫn.
[43] Theo ông Hồ
Hữu Tường, quảng cáo trên « La
Lutte » không tính tiền, nhưng
khi tờ báo gặp khó khăn về tài
chính thì những người quảng cáo
giúp đỡ tờ báo. Vẫn theo chứng nhân
này, « La Lutte »
không cần tới sự tài trợ mà năm 1934,
Quốc tế Cộng sản đã hứa với Nguyễn An Ninh.
[44] Thông tấn
xã ARIP tuỳ thuộc Cục Kinh tế Đông Dương
và phủ Toàn quyền.
[45] Phan Văn
Chánh thường viết các bài trong mục
« Tin quốc tế », Trần Văn Thạch
mục châm biếm « Những cái đinh
nhỏ » là mục làm nên
sự thành công của « La
Lutte » (một phần độc giả Pháp mua
báo là để đọc mục này, một số người
Pháp cung cấp đề tài cho tác giả
và « đặt
hàng » cho tác giả viết
bài…). Sành tiếng Pháp,
Trần Văn Thạch còn biên tập lại một phần
các bài khác. Hồ Hữu Tường
và Phan Văn Hùm phụ trách trang văn
hoá. Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Nguyễn
và Tạ Thu Thâu viết các bài
chính trị. Theo lời các chứng nhân,
linh hồn của tờ báo là Tạ Thu Thâu. Hồ
Hữu Tường khẳng định phần lớn các bài
xã luận do Tạ Thu Thâu viết, điều này
cũng phù hợp với việc tháng 7-1936, khi Tạ Thu
Thâu sang Xiêm, thì tờ báo
ngừng ra (xem NPM 7.1936). Thư kí toà soạn
là Lê Văn Thu.
[46]
« La lutte » cũng dùng
cả những từ ngữ lăng nhục
(« traître »,
« lèche-botte »,
« flic » – phản bội,
liếm gót giầy, cớm – là những chữ
thông dụng nhất) ; tuy nhiên
ngôn ngữ này được sử dụng có mức độ
và càng về sau càng giảm bớt.
Các từ ngữ này được dành cho bọn cảnh
sát, chức sắc, những quan chức trong chính quyền
thực dân nổi tiếng là hung hãn
và cho cả các lãnh tụ đảng lập hiến.
Nhiều lần « La Lutte » giải
thích (xem số đề ngày 1.11.1934) là họ
không ưa những « từ ngữ bạo liệt
và rỗng nghĩa ». Họ cũng đăng cả những
bài đính chính và trả lời
của đối phương.
[47] Báo
cáo của Justin Godart, phái viên của
chính phủ Léon Blum về các vấn đề lao
động, CAOM, Fonds « Papiers
Agents », 28, carton 3, dossier 77.
[48] Đến mức, chiều
hôm trước cuộc bầu cử hội đồng thị xã năm 1937, Tạ
Thu Thâu đề nghị phải tính đến việc đưa những
công nhân không có
trách nhiệm trong ban biên tập ra ứng cử.
[49] Nhóm "Tranh
đấu" đã học kinh nghiệm của báo chí
bôn sê vích khi họ tiếp cận
các tờ báo và tạp chí cộng
sản Pháp. Khoảng năm 1930, thông tín
viên công nhân là vấn đề trung
tâm trong các vấn đề tổ chức của
« Cahiers du Bolchevisme », tạp
chí lí luận của Đảng Cộng sản Pháp.
[50] Tháng
2.1935, Durocher, một cai ngục cũ, đã ghé qua
toà soạn « La Lutte »
thông báo cho ban biên tập biết về cuộc
bãi công trước đó của tù
nhân, x. « La Lutte »,
23.02.1035.
[51]
« La Lutte », 8.11.1936.
[52] Một thí
dụ : khi nhận được thư của nhân viên
Công ti tầu điện, tờ báo đã mở ra một
loạt bài điều tra rất chính xác
và cụ thể về tình trạng độc quyền giao
thông vận tải đô thị ở Sài
Gòn - Chợ Lớn, « La
Lutte », 15.06.1935.
[53]
« Bilan et perspectives »
[Thành tích và triển vọng],
« La Lutte », 28.09.2935.
[54] Như trên
[55] Những tờ
báo này xuất bản ở Sài Gòn
hay Paris trong khoảng thời gian 1920-1930.
[56] Tương tự, người ta
có thể rút ra những nhận xét
ý nghĩa nếu phân tích các
tên gọi và ngôn từ
« người Đông Dương »
của báo chí thực dân.
[57]
« La Vie indochinoise », tuần
báo xuất bản ở Sài Gòn, 7.06.1935.
[58] Không loại
trừ là hiện tượng này cũng đúng với cả
những người quốc gia (việc nở rộ những tiểu thuyết xã hội
trong văn học Việt Nam thời kì này cho
phép giả định như thế).
[59] 63 tấm ảnh (chưa đăng
ở đâu, nhưng chất lượng kém cỏi) cho thấy ban
biên tập có ý muốn dùng thể
loại phóng sự bằng hình ảnh, cũng như
báo chí đương thời. Đó là
những hình ảnh về đời sống thợ thuyền, ảnh chụp nhanh, hoặc
là hình ảnh chụp trong các cuộc
bãi công 1935-1937 hay trong các cuộc
biểu tình năm 1937.
[60] Diện tích
in, không tính diện tích các
khung quảng cáo, truyện nhiều kì, tựa
bài và tựa đề mục. Đơn vị biên soạn
buộc phải lấy bài báo làm đơn vị. Với
mỗi bài báo, chúng tôi xếp
vào một chủ đề chính (chủ đề này được
thông báo trong tựa đề, và kiểm tra
bằng cách đọc lại bài báo),
và tính diện tích (số dòng)
của bài báo vào chủ đề đó.
Làm như vậy đương nhiên là
tích luỹ ba điều bất tiện về phương pháp
luận : kinh nghiệm chủ nghĩa trong việc phân loại
chủ đề, chủ quan của người viết, chủ quan của người đọc. Và
chỉ xét tới ngôn từ « hiển
minh » của tờ báo.
[61] Thêm
vào đó, phải kể tới những tác động của
Mặt trận Bình dân lên tình
hình Đông Dương, chiếm tổng cộng 6% diện
tích biên tập.
No comments:
Post a Comment