TÂN DÂN * MẶT TRẬN HOÀNG CƠ MINH
“Mặt
Trận Kháng chiến Hoàng Cơ Minh” bịp hay không? Sự thật ngay trong “Khu
Chiến” những ngày đầu. Phỏng vấn ông Hoàng Xuyên về “Chiến khu Hoàng Cơ
Minh”.
Hỏi: - Thưa bác Hoàng Xuyên, bác là nhà báo đầu tiên được về thăm Khu Chiến của “Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam” mà người ta thường nôm na gọi là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, tuy nay đã rõ rệt đen trắng nhưng vẫn còn là đề tài để đồng hương tranh luận. Có nhiều người đến nay vẫn còn mù quáng hoạt động cho Mặt Trận ấy, nhưng hầu hết đều kết tội bọn chủ chốt anh em Hoàng Cơ Minh, Hoàng Cơ Long, Hoàng Cơ Ðịnh đều là những tên đại bịp mà các ông Phạm Văn Liễu, Phạm Ngọc Lũy, Trần Minh Công vì thơ ngây nhẹ dạ nên cũng bị mang tiếng lây. Bác không phải là đoàn viên Mặt Trận, chỉ là một nhà báo duy nhất được mục kích cái Khu Chiến giả tạo và tham dự “Lễ Tuyên Bố Bản Cương Lĩnh Chính Trị”, tiếng nói của bác chắc chắn trung thực để gióng lên một tiếng chuông vô tư theo sự tai nghe mắt thấy hầu làm sáng tỏ thêm vấn đề. Trước hết xin hỏi tại sao không là một người khác, mà bác lại có cái may mắn được mời về thăm Khu Chiến?
Hỏi: - Thưa bác Hoàng Xuyên, bác là nhà báo đầu tiên được về thăm Khu Chiến của “Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam” mà người ta thường nôm na gọi là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, tuy nay đã rõ rệt đen trắng nhưng vẫn còn là đề tài để đồng hương tranh luận. Có nhiều người đến nay vẫn còn mù quáng hoạt động cho Mặt Trận ấy, nhưng hầu hết đều kết tội bọn chủ chốt anh em Hoàng Cơ Minh, Hoàng Cơ Long, Hoàng Cơ Ðịnh đều là những tên đại bịp mà các ông Phạm Văn Liễu, Phạm Ngọc Lũy, Trần Minh Công vì thơ ngây nhẹ dạ nên cũng bị mang tiếng lây. Bác không phải là đoàn viên Mặt Trận, chỉ là một nhà báo duy nhất được mục kích cái Khu Chiến giả tạo và tham dự “Lễ Tuyên Bố Bản Cương Lĩnh Chính Trị”, tiếng nói của bác chắc chắn trung thực để gióng lên một tiếng chuông vô tư theo sự tai nghe mắt thấy hầu làm sáng tỏ thêm vấn đề. Trước hết xin hỏi tại sao không là một người khác, mà bác lại có cái may mắn được mời về thăm Khu Chiến?
Ðáp: - Tôi xin đính chính ngay, đó là một “đại bất hạnh”, một “sai
lầm to lớn” chớ không phải là may mắn khi tôi nhận lời đại diện tờ Văn
Nghệ Tiền Phong đi về cái Khu Chiến “dởm” đó để cũng bị mang tiếng lây!
Chuyện Mặt Trận Hoàng Cơ Minh cũ rích rồi, bươi ra làm gì nữa để đồng
hương phải lợm giọng?
Hỏi: - Xin bác cứ vui lòng cho biết ý kiến.
Ðáp: - Tôi quen ông Phạm Văn Liễu từ khi còn ở Sài Gòn. Năm 1975
sang tị nạn tại Hoa Kỳ, ông Liễu thường liên lạc với tôi, tâm tình cho tôi
biết sơ qua về dự định thành lập “Mặt Trận” với nguyên trung tướng Nguyễn
Chánh Thi, rồi sau với cựu phó đề đốc Hải Quân VNCH Hoàng Cơ Minh. Dĩ
nhiên tôi hết sức khuyến khích.
Tháng 7 năm 1983 ông Liễu từ miền Nam Cali điện thoại cho biết hôm sau sẽ
cùng với 4 người nữa đến nhà tôi ở Milpitas và yêu cầu “tiện nội” tôi sửa
soạn cho một bữa cơm trưa 5 người ăn. Khoảng 2 giờ chiều, Liễu đến giới
thiệu với tôi những khuôn mặt mà tôi chưa gặp lần nào như Hoàng Cơ Minh,
luật sư Vũ Ngọc Tuyền, luật sư Nguyễn Tường Bá và Phạm Ngọc Lũy. Tôi được
mời dự thính hội nghị bàn tròn để nghe Hoàng Cơ Minh phân tích về tình
hình thế giới liên quan đến “cái thế” xuống dốc của Cộng Sản Việt Nam và
sự cần thiết khẩn cấp có một lực lượng võ trang của người Việt hải ngoại
bắn một tiếng súng khai hỏa là các tổ chức cách mạng bí mật chống Cộng
trong nước sẽ đồng loạt nổi dậy thì “cái thế tất thắng” (Minh thường dùng
cụm từ này) của chúng ta chắc chắn rõ rệt như hai cộng hai là bốn. Cuối
cùng, Minh cho biết hai tuần sau sẽ có một số cán bộ nòng cốt từ Hoa Kỳ về
Khu Chiến. Trong lúc ăn cơm Liễu cho biết Phạm Ngọc Lũy đã nhận lời giữ
vai hề “Chủ tịch Ủy Ban Yểm Trợ Kháng Chiến Trung Ương” và yêu cầu luật sư
Vũ Ngọc Tuyền nhận chức Ủy Trưởng Tài Chánh và tôi làm Phụ tá. Ông Tuyền
và tôi đều giữ yên lặng không nhận lời mà cũng không từ chối. Tin buổi họp
này bị tiết lộ nên một vài báo Việt ngữ địa phương đã đăng rằng nhà con
trai tôi là địa điểm của một buổi họp kín lịch sử. Ít hôm sau, tôi điện
thoại hỏi luật sư Vũ Ngọc Tuyền về vai tuồng được mời thì ông cười trả
lời: “Ðó là các ông ấy đề nghị chứ tôi đã nhận lời đâu!” Tôi trả lời cũng
cùng quan điểm.
11 giờ đêm ngày 10/12/1981, Liễu điện thoại từ Sacramento rủ tôi về Khu
Chiến. Trong lúc ngái ngủ, tôi hỏi không suy nghĩ:
“Khu Chiến nào?” Liễu cười chê tôi là anh cả quỷnh rồi nói: “Ngoài
MTQGTNGPVN thì làm gì còn có Mặt Trận nào để rủ về Chiến Khu?” Tôi hỏi lại
tại sao lại rủ một anh già yếu như tôi, thì Liễu cho biết Ðài Truyền Hình
CBS đã cử cameraman Nguyễn Ngọc Ấn. Liễu biết tôi có một ít kinh nghiệm về
nhiếp ảnh nên yêu cầu tôi cùng đi, để phụ trách thu vào ống kính những bức
ảnh lịch sử mà anh vững tâm tôi có thừa điều kiện làm tròn việc đó.
Hỏi: - Bác nhận lời?
Ðáp: - Không, tôi từ chối! Tôi nhắc cho Liễu biết tôi đã 64 tuổi
(năm 1981) sức đâu mà băng rừng, lội suối, trèo non, thì Liễu thuyết phục
rằng, phụ nữ người ta còn đi về như đi chợ, tại sao một “lão gân” như tôi
lại không đi được? Rồi anh cho biết, đến biên giới sẽ có các anh em chiến
sĩ võ trang đón hướng dẫn vào Chiến Khu, họ sẽ mang hết hành lý, máy ảnh,
máy quay phim, mình chỉ chống gậy thơ thới hân hoan đi, khi nào mệt thì
dừng lại nghỉ. Liễu cũng cho biết hành trình từ biên giới vào Chiến Khu
mất hai ngày. Tôi hỏi biên giới nào, thì Liễu trả lời: Bí mật quân sự đến
nơi sẽ biết! Tôi yêu cầu để tôi suy nghĩ và bàn với tiện nội nếu đi được
sẽ trả lời, thì Liễu muốn tôi nhận lời ngay bằng cách cho tôi biết là có
cả Phạm Ngọc Lũy, Hồ Anh, chủ nhiệm báo Văn Nghệ Tiền Phong và một kỹ sư
trẻ tuổi ở Oregon cũng cùng đi. Ðến Bangkok sẽ có “phái đoàn Nhật Bổn” gồm
một giáo sư người Nhật tên Tonoko và một số sinh viên Việt Nam trong nhóm
Người Việt Tự Do sống lâu năm ở Nhật, trong đó có Ngô Trí Dũng, Nguyễn Văn
Ðoàn vân vân... sẽ cùng nhập bọn đi Chiến Khu. Tôi vẫn không dứt khoát
nhận lời.
Còn hai tuần lễ trước ngày lên đường thì Liễu điện thoại cho biết Hồ Anh
và Phạm Ngọc Lũy bị bệnh không đi được. Ðể tôi trả lời dứt khoát nếu không
sẽ tìm người khác, Liễu cho biết Hồ Anh đề nghị sẽ trả tiền vé máy bay khứ
hồi cho cả Liễu và tôi với điều kiện tôi nhận lời viết bài tường thuật cho
báo Văn Nghệ Tiền Phong. Tôi điện thoại cho Hồ Anh để sáng tỏ vấn đề, đồng
thời tôi vẫn bảo Hồ Anh nên cố đi để viết theo đường lối của tờ báo, thì
anh ta thuyết phục tôi rằng cứ việc ghi đầy đủ tất cả những gì tai nghe
mắt thấy rồi về viết lại. Nếu cần anh ta sẽ hiệu chính sau. Sau cùng Hồ
Anh bảo tôi cứ viết như những bài tôi đã viết cho VNTP trong năm năm qua
mà Lê Triết đã có lần “cho điểm” là văn viết vững, rất pro! Thật ra, trước
năm 1975, tôi đã từng là thông tín viên chiến trường cho NBC, KTLA Los
Angeles, British Commonwealth International News Agency và thông tín viên
tự do (free lancer) cho UPI, AP và tuần báo Newsweek, vân vân trong 13
năm, với những biến cố sôi động xảy ra hàng ngày tại Nam Việt Nam, tôi đã
viết hàng ngàn bài tường thuật bằng Anh văn. Vậy thì một bài tường thuật
tầm thường dù là “du ký về Khu Chiến” có gì mà tôi không viết nổi. Tôi dè
dặt là vì chơi với Hồ Anh từ lâu, biết tính anh ta trở mặt như trở bàn
tay, khi nào muốn lợi dụng ai thì nói như xẻ cửa xẻ nhà, nhưng khi nào vì
mục đích “mị độc giả”, anh sẽ dùng tờ “lá cải” của anh đặt điều vu khống -
như vẫn làm-để bôi bẩn bất cứ ai kể cả bạn thân. Tôi sẽ nói thêm về bài
báo đăng trong VNTP số 475 ngày 15/10/1995 Hồ Anh “bôi bẩn” tôi chỉ vì tôi
từ chối không làm chứng trong vụ Mặt Trận kiện Hồ Anh, Cao Thế Dung và
Nguyên Vũ hồi tháng 11 năm 1994 tại San Jose.
Hỏi: - Ðã biết thế, sao bác lại nhận lời đi Khu Chiến để viết bài
cho VNTP?
Ðáp: - Vì Hồ Anh than rằng hắn thật sự bị bệnh và quá bận, năn nỉ
tôi cố gắng giúp hắn, hắn đã đưa tiền cho Liễu để mua vé máy bay khứ hồi
cho Liễu và tôi rồi. Vốn có máu giang hồ cộng với lòng tò mò muốn biết sự
thật có kháng chiến hay không, sau khi bàn sơ qua với tiện nội, một giờ
sau khi tôi điện thoại dứt khoát nhận lời đại diện tờ VNTP đi Khu Chiến.
Theo lời yêu cầu của Liễu từ hai hôm trước, mọi người phải có mặt trước 5
giờ chiều Chủ Nhật 22/2/82 tại nhà Nguyễn Văn N., một đoàn viên của Mặt
Trận ở Oakland để cùng ra phi trường San Francisco. Ðến nơi, tôi thấy cả
Phạm Ngọc Lũy và Hồ Anh, không ai có dáng điệu gì đau ốm cả. Tôi hỏi thì
Liễu nói nhỏ vào tai tôi: “Họ là những con thỏ gan to bằng... con kiến.
Thoiạ đừng hỏi nữa!” Sau bữa cơm do các anh chị em đoàn viên Mặt Trận khu
Oakland khoản đãi để chúc chúng tôi... một ra đi sẽ trở về! Phái đoàn Hoa
Kỳ chính thức lên đường gồm có Phạm Văn Liễu, bí danh Trần Trung Sơn,
trưởng đoàn, tôi, đại diện bất đắc dĩ tờ lá cải VNTP, Nguyễn Văn Ấn, quay
phim cho CBS, kỹ sư trẻ tuổi Trường Sơn Bổn Tài từ Oregon tới. Chúng tôi
được khoảng 20 đoàn viên Mặt Trận đưa tiễn tại phi trường San Francisco.
Mọi người vui vẻ đứng chụp hình lưu niệm với phái đoàn, dĩ nhiên không ảnh
nào thiếu mặt hai con “thỏ đế”! Lợi dụng lúc nhân viên đài truyền hình CBS
phỏng vấn Phạm Văn Liễu trước khi lên phi cơ, Hồ Anh kéo tôi ra một nơi
dặn dò tôi nhớ ghi mọi chi tiết những gì tai nghe mắt thấy để về viết bài
và chụp nhiều ảnh. Tôi riễu “biết rồi, khổ lắm, nói mãi!” 11 giờ đêm,
chúng tôi vui vẻ bước lên phi cơ và sau 15 giờ bay, chúng tôi đến phi
trường quốc tế Vọng Các. Ra đón tại phi trường có Nguyễn Kim Hườn, bí danh
Nguyễn Kim (hiện giữ chức Tổng Vụ Hải Ngoại sau khi Phạm Văn Liễu bị anh
em Hoàng Cơ Minh hạ bệ). Rồi ông bà Nguyễn Chí Trung, bí danh Phan Thái
Hòa (hồi còn mồ ma VNCH, ông Trung được bác sĩ Trần Kim Tuyến cử sang làm
tình báo tại Tòa Ðại Sứ VNCH tại Bangkok; khi miền Nam VN sụp đổ, ông
Trung ở lại và trở thành công dân Thái. Ông bà Trung rất thạo Thái ngữ nên
đã thành công trong công tác môi giới trung gian với giới chức thẩm quyền
Thái Lan để thuê đất rừng làm Khu Chiến cho Mặt Trận). Phái đoàn Nhật Bản
gồm năm thanh niên cũng ra đón tại phi trường để cùng nhập bọn với chúng
tôi đi Khu Chiến.
Hỏi: - Bác có thể “bật mí” cho biết đích xác Khu Chiến nằm ở đâu
không?
Ðáp: - Trong loạt bài du ký của tôi chỉ có một đoạn bắt buộc tôi
phải viết sai vị trí của Mật Khu, vì cả Hoàng Cơ Minh lẫn Phạm Văn Liễu
đều nhiều lần nhắc nhở mọi người, nếu muốn CSVN đem máy bay đến tàn sát
thì hãy tiết lộ địa điểm Mật Khu cho mọi người biết. Chúng tôi nghĩ vấn đề
quan trọng là họ có thật sự chiến đấu hay không, còn vấn đề giữ bí mầt địa
điểm Mật Khu là điều họ không cần dặn chúng tôi cũng có ý thức bảo mật
điều đó. Ít năm sau, mặt nạ bịp bợm của Mặt Trận bị phơi bày, tôi đã viết
một bài trần tình coi như “viên đạn ơn huệ” (coup de grace) đăng trong
VNTP số 233 kể rõ tất cả những bịp bợm và nói rõ địa điểm Khu Chiến nằm
sâu trên lãnh thổ Thái Lan, thuộc tỉnh Ubon, làng Bultarit, cách biên giới
Cao Miên khoảng 15 cây số.
Tôi xin kể tiếp là sau khi chúng tôi ra khỏi phi trường Bangkok thì ông bà
Nguyễn Chí Trung hướng dẫn mọi người lên hai chiếc xe Toyota minivan đi
đến làng Ubon, cách Bangkok khoảng 500 kilômét về phía Ðông Bắc, ngừng tại
một tiệm ăn nhỏ để dùng bữa. Thái Lan có khoảng 500 ông đại tướng, mỗi ông
chia nhau làm chủ một cơ sở thương mại; ông thì làm chủ một số nhà tắm
hơi, ông thì cai quản một số sòng bạc, ông thì có một số ổ mãi dâm, vân
vân... Ðại tướng Sud Sai làm vua vùng Ubon để khai thác gỗ, đồng thời cho
thuê một số đất rừng hoang để tổ chức chiến khu như loại Chiến Khu Hoàng
Cơ Minh, Nguyễn Văn Chức (Công Binh) vân vân... Có lần ông Nguyễn Chí
Trung hỏi tôi nếu tôi muốn có mấy mẫu đất để làm “chiến khu”, chỉ cần chi
cho tướng Sud Sai 20.000 mỹ-kim tiền vào cửa là xong ngay, ngoài ra chỉ
phải trả mỗi tháng 3.000 mỹ kim tiền thuê.
Cơm nước xong, mọi người lại lên xe, chạy thêm khoảng 30 cây số thì đến
một làng hẻo lánh có tên là Bultarit nằm ngay bên cạnh một khu rừng già.
Xe đến một con đường mòn độc đạo, có một khúc cây dài (barrière) chắn
ngang do hai anh lính địa phương canh gác. Ông Trung xuống xe đưa cho hai
người lính xem giấy phép do thủ tướng Thái Lan ký. Anh lính xem xong, chạy
vào trình một sĩ quan cấp trên. Viên sĩ quan trẻ tuổi đi ra nói với ông
Trung rằng anh không biết Thủ Tướng là ai, chỉ được lệnh Ðại Tướng không
cho ai vào nếu không có giấy phép do chính đại tướng ký. Thì ra câu “quan
thì xa, bản nha thì gần” được áp dụng khắp mọi nơi. Ông Trung cố thuyết
phục viên sĩ quan trẻ tuổi nhưng vô hiệu, đành phải cho xe lui đến một
phòng ngủ rẻ tiền gần đó, mọi người xuống để ông bà Trung lái xe trở về
Bangkok vận động. Chúng tôi ăn trực nằm chờ ở Bultarit 12 ngày. Ông bà
Trung trở lại với giấy phép của tướng Sud Sai sau khi đã nộp 2.000 mỹ-kim
tiền mãi lộ. Sáng ngày 7/3/1982 chúng tôi rời phòng ngủ, lại lên xe vượt
qua gác canh để vào đường mòn dẫn đến một cánh rừng rậm, xuất hiện 5 người
ăn mặc quần áo đen, tay cầm súng. Nhạc sĩ Trần Thiện Khải, bí danh Trần
Khánh, tươi cười tiến đến cho biết anh được lệnh dẫn một tiểu đội đến đây
đón chào chúng tôi và hướng dẫn mọi người vào Khu Chiến. Anh phát cho mỗi
người một bộ bà ba đen, một đôi dép râu “Bình Trị Thiên”, một khăn rằn ri
và một chiếc mũ bằng vải đen, rồi yêu cầu mọi người vào gốc cây hay bụi
rậm gần đó để thay quần áo. Mười phút sau, chúng tôi đã thật sự “lột xác”
thành những dị nhân... nửa người nửa ngợm thì Trần Khánh yêu cầu mọi người
tập họp để anh thuyết trình. Anh lập lại lời đã nói: “Tôi được lệnh chiến
hữu Chủ Tịch ra đây đón chào chiến hữu Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoại
(Phạm Văn Liễu) và quý vị trong phái đoàn Hoa Kỳ và Nhật Bổ và mời quý vị
theo tôi vào Mật Khu của chúng ta. Ðường vào Mật Khu có hơi vất vả, nhưng
các anh em chiến sĩ chúng tôi vừa có bổn phận hộ tống, vừa mang hành lý
dùm quý vị. Ngoài ra, xin quý vị cứ an tâm, suốt lộ trình vào Mật Khu đều
có binh sĩ võ trang của ta đóng rải rác. Ðường đi sẽ phải mất hai ngày,
chúng ta sẽ phải ngủ lại đêm nay tại một trạm giao liên”.
Phải nói rằng Hoàng Cơ Minh và đồng bọn đã mất khá nhiều ngày giờ để soạn
thảo một vụ bịp có quy củ, mặc dù đôi khi tréo cẳng ngỗng vì ông nói gà,
bà nói vịt! Ði được một đoạn đường khá xa, đến một cái đồi dưới ánh nắng
khó chịu vùng nhiệt đới thì Khải cho biết có một phụ nữ vào thăm Khu Chiến
đến đây bị sỉu nên các anh em chiến sĩ đặt địa danh cho nơi đây là “đồi Bà
Sỉu”. Rồi đến một khu đầy dây leo chằng chịt thì cũng có tên là “đồi
Tarzan”, rồi “suối Yamamoto” để kỷ niệm một thân hữu Nhật Bổn đã vào Khu
Chiến đến đây vì nóng bức quá phải xuống tắm. Quá trưa, mọi người ngừng
dưới một khu rừng rậm, bóng mát dầy đặc, trên nhiều cây cổ thụ có những
cụm lan rừng nở đầy hoa. Gần đó là vài vũng nước đọng trên vài khối đá to
bằng cánh phản đầy rêu và cung quăng bơi lội. Khải nói địa danh này là “hồ
Xuân Hương”. Ăn trưa xong, mọi người lại khăn gói bị gậy lên đường đi một
quãng qua “Suối Mơ”, vì cách đó khoảng 500 mét có một cái thác nhỏ. Vất vả
nhất là lúc băng qua một vùng cát trơ trụi không cây cối dài khoảng 4 cây
số. Nắng trên trời chiếu xuống hắt hơi nóng dưới cát lên khiến mọi người
vô cùng khó chịu, nơi này cũng được đặt tên là “sa mạc Kháng Chiến”. Khi
mặt trời đã lặn, chúng tôi đến một nơi có sẵn một nhà sàn, mái tranh, vách
lá còn khá mới mà Khải nói đó là “trạm giao liên”. Các anh em “chiến sĩ”
chia nhau công tác, người thì đem thức ăn ra (sôi nếp, muối vừng, cá khô,
lạp xưởng...), người lo chụm lửa nấu nước, người lo trải báo làm nơi bày
thức ăn. Các anh em khác vác súng chia nhau mỗi người một góc để bảo vệ an
ninh cho mọi người. Ðêm hôm đó, chúng tôi được nằm trên căn nhà sàn ọp ẹp,
còn các anh em “chiến sĩ” thì mắc võng nằm chung quanh.
Sáng hôm sau, mặt trời vừa hừng sáng, mọi người lại chuẩn bị lên đường. Từ
đây đường đi phần nhiều dưới bóng mát và ít phải leo trèo nên đỡ mệt.
Khoảng quá ngọ, chúng tôi được hướng dẫn leo lên một ngọn đồi đầy tre già
mọc chi chít. Ðến một ven đồi, Khải chỉ cho mọi ngườithấy xa xa phía dưới
khoảng 5 cây số đường chim bay, có đường mòn và rải rác vài căn nhà tranh
mà Khải nói đó là “khu vực của Việt Cộng”, rồi y phịa ra những chuyện giật
gân rằng khoảng nửa năm về trước, hai chiến sĩ của ta đã phục kích chỗ gần
bản doanh của địch, phá hủy một xe Jeep, giết chết hai tên Việt Cộng,
nhưng một trong hai “chiến sĩ anh dũng” của ta đã đền nợ nước. Cái đặc
biệt là tuy chết nhưng chiến sĩ can trường của ta vẫn ôm trong người khẩu
tiểu liên! Mỗi người tìm một chỗ dưới rặng tre để ngồi nghỉ trong khi Khải
ra lệnh cho ba chiến sĩ trong “đội thám báo” đi trước thám thính xem có an
toàn hay không. Nửa giờ sau, Khải cho biết các chiến sĩ đã trở về và cho
biết tình hình tương đối an toàn nên mọi người âm thầm luồn lách qua những
rặng tre để đi thêm khoảng 30 phút thì trong bụi rậm nhô ra “chiến hữu chủ
tịch” và “bộ tham mưu” của ông. Sau này tôi đoán 3 anh “thám báo” chỉ là
“đóng kịch” cho có vẻ quan trọng, thật ra họ đi trước báo cho Hoàng Cơ
Minh biết chúng tôi đã đến nơi để ra đón.
Hỏi: - Ngày giờ... “lịch sử” ấy là ngày nào?
Ðáp: - Khoảng 2 giờ chiều (giờ địa phương) ngày 7/3/1982. Hoàng Cơ
Minh gầy gò, mảnh khảnh trong bộ bà ba đen, râu ria cũng gần giống ... già
Hồ! Ðầu tiên, “ông Chín” (bí danh của Minh) tiến đến ôm chặt, bắt tay Phạm
Văn Liễu và tươi cười nói:
“Ðây là Chiến Khu của chúng ta, xin mời tất cả các chiến hữu đi theo tôi”.
Rồi ông ôm từng người và giới thiệu các chiến hữu trong Bộ Tham Mưu gồm có
thiếu tướng Tư Lệnh Lê Hồng, bí danh Ðặng Quốc Hiền, Nguyễn Trọng Hùng,
Trần Văn Lộc, Hoàng Nhật, v.v... Ði khoảng 100 mét thì đến “đại bản doanh”
(sic!) của Mặt Trận. Ðây là một khu đất rừng khoảng hơn một mẫu tây, cây
nhỏ và cỏ tranh được dọn sạch, chỉ còn rải rác một số cây cổ thụ. Mọi
người được dẫn vào “hội trường” là một căn nhà mái tranh, vách tre dài
khoảng 15 mét, rộng 5 mét. Cuối nhà là một bàn thờ Tổ Quốc làm bằng cây
rừng cao khoảng 1 mét 30, trên tường có hình bản đồ Việt Nam đè lên lá
quốc kỳ Việt Nam màu vàng ba sọc đỏ. Trên bàn thờ ở giữa là một lư hương
lớn bằng đồng khói hương nghi ngút, hai bên có hai cây cắm nến
(chandeliers) cũng bằng đồng, một bên là đĩa trái cây, một bên là một bình
bông cắm các loại hoa rừng. Dọc theo chiều dài của các bức tường, treo rải
rác những cụm hoa lan (orchids) đủ màu sắc. Ðầu bên này căn nhà, đối diện
với bàn thờ là lá quốc kỳ VNCH được ghim chặt vào tường. Giữa căn nhà,
theo chiều dài là một bàn dài làm bằng thân cây rừng, hai bên có hai dẫy
ghế dài cũng làm bằng thân cây còn cả vỏ. Ðầu bàn hướng về phía trên bàn
thờ là một ghế cá nhân có dựa tay cũng bằng cây rừng. Vào đến “hội
trường”, Hoàng Cơ Minh ngồi trên chiếc ghế chủ tọa và mời tất cả các “đồng
chí” an tọa hai bên. Ngồi cạnh Minh bên tay mặt là Liễu, bên trái dành cho
tôi, người lớn tuổi nhất trong đám. Sau những lời chào sáo ngữ, Minh lại
“vở cũ soạn lại” kể lể và phân tích những khó khăn Việt Cộng đương gặp
phải nhất là vấn đề kinh tế lụn bại, mức sống của người dân sau 7 năm độc
lập, thống nhất vẫn đói khổ, Việt Nam được xếp hạng là một quốc gia nghèo
nhất thế giới nên dân tình oán trách, những phong trào cách mạng trong
nước bí mật thành hình chỉ chờ hải ngoại “bắn súng lệnh” là họ sẽ nhất
loạt đứng lên tiêu diệt bọn Cộng Sản khát máu. Ðến phần phát biểu ý khiến,
tôi hỏi vấn đề lương thực có đủ cho các anh em chiến sĩ thì Minh đáp: “Nhờ
tinh thần vượt mọi khó khăn, quyết tâm diệt Cộng giải phóng quê hương nên
các chiến hữu cũng như cá nhân tôi, cơm thì ngày được ăn với cá khô, một
tuần phải xen kẽ một vài bữa cháo hoa với trứng vịt muối, đau ốm thì chỉ
có aspirin và tylenol. Nói đến đây, Minh vén ống quần lên cho tôi thấy từ
đầu gối xuống đến mắt cá chân có nhiều mụn nhọt to bằng vẩy cá hay đồng
quarter, rồi nói tiếp: “Chính bản thân tôi bị ghẻ lở như thế này mà cũng
không dám bỏ tiền đi khám bác sĩ.” Hít một hơi thuốc lá, Minh lại nói:
“Quần áo không ai đủ mặc, nhưng ai cũng vui vẻ hăng hái làm nhiệm vụ.” Tôi
lại hỏi: “Sao không sắm lấy ít chiếc nỏ để anh em chiến sĩ săn hươi nai,
cáo chồn... tưởng cũng giải quyết được phần nào vấn đề lương thực.” Minh
cười: “Có chứ, thỉnh thoảng cũng hạ được hoặc heo rừng hoặc mang mễn,
nhưng hàng ngày thì có hai đồng chí có kinh nghiệm cao về “bẫy chuột”. Vì
sợ chuột nghe thấy nói đến tên mình sẽ không vào bẫy nên các anh em cứ
phải nói trệch hỏi nhau”hôm nay được mấy ông chí, chứ không dám dùng danh
từ “chuột”! Tôi lại hỏi có được sự trợ giúp trực tiếp hay gián tiếp của
Hoa Kỳ không, thì Minh trả lời: “Hoàn toàn không. Trước hết chúng ta phải
tự cứu và phải làm được những gì cụ thể tốt đẹp mới mong người ngoài trông
thấy rồi trợ giúp chúng ta.” Rồi ông phịa ra câu chuyện: “Nếu có tiền thì
công cuộc giải phóng quê hương rất nhanh, vì cách đây không lâu có một
tiểu đoàn địch, khoảng 300 người, liên lạc cho biết muốn đem cả vũ khí
chạy về với chúng ta. Nhưng chúng tôi không dám nhận vì tiền đâu mà nuôi
họ ăn hàng ngày. Người nào không có quần áo, vũ khí thì tiền trang bị vũ
khí, quần áo mỗi người cũng phải tốn khoảng 200 mỹ-kim.” Rồi Minh kết
luận: “Công cuộc giải phóng quê hương là nhiệm vụ chung của mọi người Việt
Quốc Gia, tôi yêu cầu các chiến hữu khi trở lại Hoa Kỳ hãy dùng cơ quan
ngôn luận kêu gọi đồng hương khắp nơi trên thế giới tiếp tay cùng chúng
tôi thì chắc chắn quê hương chúng ta sẽ được giải phóng một ngày không
xa.” Sau khoảng 2 giờ trao đổi ý kiến mà đúng ra là để nghe “ông Chín”
phịa ra những chuyện trên trời dưới biển, mọi người được mời tham quan một
vài nơi như nhà bếp, sân tập dượt quân sự, ngôi nhà tranh nhỏ nơi “ông
Chín” làm việc và ngủ, rồi ông dẫn đến một cái suối nước chảy rất yếu,
cách “đại bản doanh” khoảng 100 mét, được gọi là “Suối Thiên Phù”, vì -
theo lời Minh - ở một khu rừng thiêng nước độc như thế này, bỗng có một
ngọn suối nằm ngay bên cạnh Mật Khu thì quả là thượng đế thương mà phù hộ
cho những người chiến đấu vì quê hương. Khi mặt trời đã bắt đầu lặn, chim
chóc đã xào xạc bay về tổ, mọi người được mời đến một góc rừng, dưới mấy
cây cổ thụ có một bàn dài làm bằng thân cây rừng. Ngay gần đó là một lều
tranh dùng làm nhà bếp. Ông Chín ngồi đầu bàn, mọi người ngồi hai bên. Ông
Chín cho biết bữa cơm hôm nay là “đại tiệc” vì được ăn rau, cá khô, lạp
xường và ruốc thịt heo.
Sau bữa “đại tiệc”, tôi được một chiến hữu dẫn đến một căn lều nhỏ chỉ vừa
một người nằm, giữa đám cỏ tranh cao ngất. Vì có muỗi và đêm lạnh nên anh
chiến sĩ mắc cho tôi chiếc mùng cá nhân màu cứt ngựa và một mền đơn cũng
của nhà binh. Suốt hai ngày đi đường mệt nhọc, tôi nằm xuống là ngủ như
chết. Khoảng 5 giờ sáng hôm sau, Liễu đến chòi tôi ngủ, ngồi bên cạnh và
cho tôi biết hôm nay, tại buổi lễ tuyên bố Bản Cương Lĩnh Chính Trị, lúc
đến phần đại diện các đoàn thể phát biểu ý kiến thì tôi là người lớn tuổi
hơn cả trong phái đoàn Hoa Kỳ sẽ được mời ra phát biểu đầu tiên. Sau những
lời ca tụng sự hy sinh và can trường của các anh em chiến sĩ, Liễu dặn tôi
đừng quên tuyên bố lớn rằng tôi sẽ “ủng hộ Mặt Trận 2.000 mỹ-kim để mua vũ
khí”. Tôi ngồi nhỏm dậy bảo Liễu: “Tôi đem theo 2.000 mỹ-kim, nhưng nằm
“valise” 12 ngày ở làng Bultarit, phần nhiều ăn uống tôi phải bỏ tiền ra
trả, cộng thêm tiền mua rượu, quà tặng các anh em chiến sĩ, tôi làm gì còn
đủ hai ngàn mà tặng ai?” Liễu cười bảo tôi: “Vì có gần 30 người ở Thái và
Lào đến dự nên anh (tức tôi) chỉ làm cử chỉ cò mồi chứ đâu có phải bỏ tiền
ra mà sợ.”
Sau khi rửa mặt, tôi được một “chiến hữu” đem hành trang của tôi gồm hai
máy ảnh cùng nhiều phim ảnh và cuốn sổ đựng trong hai bao da đen, hướng
dẫn tôi đến địa điểm hành lễ là một khu bằng phẳng nằm bên cạnh đồi, phía
trong là một phiến đá thiên nhiên mặt bằng phẳng như một bức tường cao
khoảng hơn 10 mét, rộng 5 mét. Một lá quốc kỳ VNCH màu vàng ba sọc đỏ vĩ
đại được căng thẳng trên mặt tường đá. Phía dưới có ba hàng ghế dài để Chủ
Tịch và Ban Tham Mưu ngồi hàng ghế trước, còn các đồng bào và phái đoàn
các nước ngồi hai hàng ghế sau. Những khẩu hiệu dài nền vàng chữ đỏ được
giăng từ cây cổ thụ này sang cổ thụ kia kín cả khu hành lễ. Dưới mỗi khẩu
hiệu là những lá quốc kỳ VNCH treo dầy đặc như một rừng cờ. Ðến địa điểm
hành lễ khoảng 8 giờ, tôi thấy ông Minh và mọi người trong Bộ Tham Mưu đã
có mặt đầy đủ. Ông Minh, Liễu và Lê Hồng ra đứng nơi chiếc cổng duy nhất
để đón các đơn vị võ trang vào tham dự buổi lễ. Loa phóng thanh bắt đầu hô
to: “Ðây là tiểu đoàn Pháo Binh 27 vào khu hành lễ” thì khoảng 20 anh chị
em chiến sĩ vũ trang đủ loại súng săn cổ lỗ sĩ, mousquetons, tiểu liên
AK..., đi đầu là chiến hữu chỉ huy đơn vị vừa đeo súng vừa vác hành lý,
cùng đi hàng một qua chiếc cổng được “chiến hữu Chủ Tịch” tươi cười vỗ tay
đón chào. Rồi đại đội “Thám Báo 36”, trung đoàn “Xung Kích 45”, “trung đội
Cảm Tử 72”, vân vân và vân vân... Ðiều đáng chú ý là số của mỗi đơn vị,
nếu cộng lại đều thành số hên “9 nút”. Khoảng gần 200 chiến sĩ vừa đực vừa
cái lần lượt vào đứng chung quanh khu hành lễ. Tôi đứng chụp hình khi họ
đi qua khiến tôi lại nhớ đến cái đoàn quân “Tàu phù ô hợp” của Lư Hán khi
sang miền Bắc nước ta tước võ khí quân đội Nhật năm 1945. Có những chiến
sĩ lối phục sức. mặt mày, tóc tai khá kỳ dị! Trong lúc hành lễ, lợi dụng
đệ tứ quyền của một nhà báo tôi len lỏi đi vào những nơi các binh sĩ đứng
để chụp ảnh và phỏng vấn một số chiến sĩ đứng phía sau thì không ai thèm
trả lời! Ðến một nơi khác, tôi lại hỏi thì một chiến sĩ người Việt bảo
tôi: “Họ là người Lèo, đâu có biết tiếng Việt mà bác hỏi!” Thì ra, Bộ Tham
Mưu Mặt Trận đã thuê khoảng 3/4 số người Lèo giả là binh sĩ đứng phía sau
với mục đích “mập mờ đánh lận con đen” để chúng tôi chụp hình quay phim
quảng cáo với đồng hương rằng lực lượng của Mặt Trận có nhiều, rất nhiều,
nhưng chỉ có một số tối thiểu từ các mặt trận gần về tham dự mà thôi. Thật
ra thì thực lực quân số của Mặt Trận vỏn vẹn có khoảng không hơn 40 thanh
niên ốm yếu lấy từ các trại tị nạn ra.
Buổi lễ khởi sự bằng nghi lễ thông thường: chào quốc kỳ, phút mặc niệm,
đến diễn văn khai mạc của ông Phan Thái Hòa, lời hiệu triệu chiến sĩ của
tướng Ðặng Quốc Hiền (Lê Hồng), diễn văn của Trần Trung Sơn (Phạm Văn
Liễu) rồi kế tiếp là “hịch” của chủ tịch Hoàng Cơ Minh; sau đó Bản Cương
Lĩnh được đọc to, mọi người đồng loạt giơ quả đấm lên cao hô to “Việt Nam
Ðộc Lập Muôn Năm! Ðả Ðảo Cộng Sản!” Sau đó một số chiến sĩ được tuyên
dương công trạng và được gắn huy chương trong đó có bà Cao Thị Phượng Loan
(vợ Nguyễn Chí Trung), Trần Văn Lộc là hai người có công tiếp tế đều đều
cho Mặt Trận. Chiến sĩ Hoàng Nhật được khen thưởng vì đã chỉ huy mặt trận
tả ngạn sông Cửu Long đánh nhiều trận làm đối phương thiệt hại lớn về nhân
mạng và vũ khí (sic!). Cuối cùng là phần phát biểu của đại diện các phái
đoàn và đoàn thể. Tôi được mời đầu tiên.
Hỏi: - Bác vẫn nhớ lời Liễu dặn đấy chứ?
Ðáp: - Nhớ lắm chứ! Ðó là “nghề của chàng mà”! Năm 1945 tham gia
“Mặt Trận Kháng Chiến Nam Bộ” tôi bị thực dân bắt cùng Huỳnh Tấn Phát nhốt
trong Khám Lớn Sài Gòn 18 tháng. Ở trong tù tôi đã tham dự một lớp huấn
luyện về tài hùng biện trước công chúng nên sau khi lớn tiếng ca ngợi
“lòng hy sinh dũng cảm vô biên của các chiến sĩ, con yêu của tổ quốc Việt
Nam đã vì đại cuộc mà hy sinh cả gia đình hạnh phúc, lẫn cuộc sống đầy
tiện nghi tại các quốc gia văn minh về đây hăng say làm lại lịch sử. Ðể tỏ
lòng ngưỡng mộ sâu xa đó tôi xin ủng hộ Mặt Trận số tiền hai ngàn mỹ-kim
để mua thêm súng đạn diệt thù. Tôi mong rằng hiện diện tại đây cũng có
nhiều vị mạnh thường quân yêu nước sẽ nhiệt liệt ủng hộ không những tinh
thần mà cả vật chất để các anh em chiến sĩ có thêm phương tiện làm tròn sứ
mạng”. Sau khi tôi dứt lời, tiếng vỗ tay vang dội cả khu rừng.
Khoảng 12 giờ thì buổi lễ bế mạc, sau khi tiễn phái đoàn Việt kiều ở các
nước lân bang ra về, ông Chín vui mừng hướng dẫn chúng tôi đi tham quan
một số cơ sở kể cả việc dẫn vào một hang đá trong đó có một máy điện nhỏ
cũ rích và một số dụng cụ mà ông Chín nói đó là để thiết lập đài phát
thanh. “Vì không có tiền”, ông Chín nói tiếp, “nên cứ phải mua dần dần mà
chỉ dÔám mua đồ cũ chớ tiền đâu mà mua dụng cụ mới! Chỉ trong một thời
gian ngắn chờ một số máy móc ở Nhật gửi về đài phát thanh sẽ có thể hoạt
động, chắc chắn vùng Ðông Nam Á, nhất là Việt Nam có thể nghe rất rõ tiếng
nói của Mặt Trận!”
Chiều hôm đó, ông Chín dành cho tôi và chú Nguyễn Ngọc Aãn của Ðài CBS lần
lượt phỏng vấn. Trong lúc phỏng vấn, ông Minh nhắc đi nhắc lại rằng chú Ấn
và tôi phải giữ tuyệt đối bí mật địa danh của Mật Khu và khi trở về Hoa Kỳ
tôi phải dùng mọi phương tiện thông tin để thuyết phục đồng hương Việt Nam
khắp thế giới hãy yểm trợ “tất cả cho Mặt Trận” thì đại sự mới mau thành
công. Ông nói ông và các chiến hữu của ông đã uống máu ăn thề rằng con
đường độc đạo họ phải đi là con đường “Ðông Tiến” hướng về quê hương Việt
Nam, kẻ nào đi giật lùi kể cả ông Minh, những người phía sau có quyền xả
súng. Ông và các chiến hữu của ông cũng đã quyết liệt nói với vợ con rằng
chỉ sau khi Việt Nam được thật sự giải phóng khỏi ách thống trị của Cộng
Sản thì họ mới trở lại với gia đình; ngược lại hãy coi họ như đã đền nợ
nước. Sau cuộc phỏng vấn, tôi ngỏ ý cho Minh biết hôm sau chú Ấn và tôi sẽ
quay phim, chụp ảnh đời sống của các anh em chiến sĩ đồng thời phỏng vấn
họ thì Minh nói ngay rằng các chiến sĩ, sau buổi lễ đã trở về đơn vị tác
chiến hết, chỉ còn vài chiến hữu ở lại canh gác, không còn ai mà phỏng
vấn. Minh cho biết, sáng sớm hôm sau, điểm tâm xong thì tất cả các chiến
hữu trong hai phái đoàn Hoa Kỳ và Nhật cùng ra về. Tôi ngạc nhiên hỏi tại
sao không cho chúng tôi ở thêm một ngày nữa để nghỉ ngơi và có dịp quan
sát doanh trại thì Minh nhanh trí trả lời: “Trước khi các chiến hữu vào
thì chúng tôi mong từng giờ từng phút, nhưng sau khi hành lễ xong thì
chúng tôi lại mong quý chiến hữu rời nơi này càng sớm càng tốt, sợ số
người từ các quốc gia khác đến tham dự buổi lễ có Cộng Sản trà trộn, họ về
từ chiều hôm qua có đủ thì giờ báo cho địch biết đem máy bay đến bỏ bom
tàn sát, trách nhiệm đó ai chịu? Tôi mong các chiến hữu thông cảm.” Tôi đi
lang thang gặp một số cán bộ hỏi dò: “Mặt Trận có bao nhiêu chiến khu?”
người thì nói rất nhiều, người thì nói năm sáu chiến khu. Về quân số thì
họ “tiết lộ” rằng có nhiều ngàn người rải rác trên các mặt trận, kể cả tại
quê nhà vùng giáp ranh Việt Lèo. Có chiến hữu cho tôi biết đây là Ðại Bản
Doanh số 7, nhưng mươi phút sau hỏi một chiến hữu khác trong Bộ Tham Mưu
thì lại xác nhận đây là Bản Doanh số 9. Hỏi một binh sĩ thì anh này “tân
binh” nên nói thật: “Cháu vào đây gần 3 tháng, nhưng có đánh đấm gì đâu.”
Lúc chúng tôi rời Mật Khu, ông Chín đứng chặn lối ra bảo tôi: “Bác Hoàng
Xuyên là người lớn tuổi hơn cả, yêu cầu bác nói với tất cả các anh em
trong hai phái đoàn Nhật và Hoa Kỳ chụp được bao nhiêu cuốn phim, xin đưa
cho tôi, tôi sẽ giao cho hai chiến hữu võ trang đi theo. Khi đến Bangkok
sẽ trả lại đầy đủ cho các chiến hữu, vì sợ đến chỗ đồn canh, lính Thái xét
tịch thu hết thì không lẽ chúng ta lại tổ chức lại buổi lễ để chụp hình
quay phim hay sao?” Tôi làm theo lời Minh yêu cầu, thu tất cả phim đưa cho
Minh, nhưng riêng tôi, có hai cuốn mỗi cuốn 36 kiểu chụp hết rồi nhưng tôi
ngại lấy ra cứ để trong máy, nhờ đó mà sau này còn có một số ảnh phổ
biến.
Hỏi: - Cũng có khá nhiều ảnh Chiến Khu được phổ biến trên các báo,
nhất là trên tờ VNTP, vậy ảnh ấy của ai?
Ðáp: - Tôi đã nói tôi còn hai cuốn phim, mỗi cuốn 36 kiểu nằm trong
hai máy ảnh, là phim tôi chụp buổi lễ, tôi không đưa ông Minh nên mới có
ảnh mà in lên các báo. Một điều tự tố cáo cái mưu mô xảo quyệt của Mặt
Trận là lúc vào làng Bultarit đến Chiến Khu thời gian đi mất hai ngày,
nhưng khi trở ra bằng đường tắt bằng phẳng dễ đi, lại chỉ mất có hơn hai
giờ.
Hỏi: - Bịp bợm như thế với mục đích gì?
Ðáp: - Tôi đoán, có lẽ lúc đầu họ bàn với nhau dẫn phái đoàn đi
vòng vo trong rừng để họ nói láo rằng Mật Khu nằm trên lãnh thổ Cao Miên.
Nhưng sau, họ đổi ý dẫn về bằng đường tắt cho chính họ đỡ vất vả.
Hỏi: - Lúc đi vào “mật khu”, bác và mọi người không biết họ dẫn đi
vòng vo tam quốc hay sao?
Ðáp: - Làm sao định hướng được, nhất là họ dẫn vào những khu rừng
già dầy đặc, tối om, có chỗ người hướng dẫn phải dùng dao chặt những cây
nhỏ để có lối đi. Lấy một thí dụ, chúng ta được dẫn đến một khu phố đông
đúc ở bất cứ thành phố nào rồi bảo ta tìm đường về khách sạn, ta có làm
được không? Chiến hữu Chủ Tịch rời Chiến Khu sau chúng tôi, thế mà khi
chúng tôi đến khách sạn ở Bangkok đã thấy chiến hữu chủ tịch có mặt ở
khách sạn, tắm rửa, thay quần áo sạch sẽ rồi. Chiến hữu chủ tịch tìm tôi
và gặp ở chân cầu thang, câu đầu tiên chiến hữu chủ tịch hỏi: “Bác Hoàng
Xuyên hứa ủng hộ Mặt Trận 2.000 dollars, một số anh em chiến sĩ chờ bác
đưa tiền để họ đi mua súng đạn ngay!” Tôi ngạc nhiên hỏi lại Minh: “Thế
anh Liễu không nói gì với anh à?” Minh lắc đầu. Tôi yêu cầu Minh cho tôi
vài phút để gặp Liễu rồi sẽ nói chuyện lại. Gặp Liễu, tôi cằn nhằn thì
Liễu cười nham nhở xin lỗi vì nhiều việc nên quên chưa nói cho Minh biết
và Liễu hứa sẽ tìm ngay Minh để nói rõ vấn đề. Sau khi gặp Liễu, chỉ năm
phút sau gặp lại tôi, Minh đổi ngay thái độ thờ ơ, mặt lạnh như tiền! Tôi
hơi khó chịu, nhưng vẫn hỏi về những cuộn phim thì Minh bảo tôi hỏi một
chiến hữu khác, tồi chiến hữu khác lại chỉ cho một chiến hữu thứ ba, rốt
cuộc không ai biết ai là người giữ mấy chục cuộn phim! Rứa là... hòa cả
làng
Hỏi: - Lạ nhỉ! Sao họ lại muốn giữ độc quyền, không muốn để các
người thông tin có tài liệu phổ biến những cái họ muốn quảng bá? Phái đoàn
Hoa Kỳ sau khi rời Bangkok thì đi đâu, có chuyện gì xảy ra không?
Ðáp: - Câu trả lời này xin nhường cho các “quan” có thẩm quyền
trong Mặt Trận. Trên đường trở về Hoa Kỳ, chúng tôi theo Liễu ghé Tokyo
một tuần lễ để Liễu họp các anh em trong nhóm “Người Việt Tự Do”. Chúng
tôi được thong thả nên rủ Tài đi Atami thăm ông bạn đồng tuế Lê Văn Quý,
một nhà bác học Việt Nam nổi tiếng đã từng bán trên 200 bằng sáng chế
(inventions) cho Chính Phủ Nhật. Ngồi trên xe lửa tốc hành, tôi nói cho
Tài biết những cái “tréo cẳng ngỗng” trong Mật Khu, tôi nghi đây lại là
một trò bịp mà nếu chúng tôi không khéo sẽ bị vạ lây. Tôi nhắc lại số
lượng các chiến sĩ tham dự buổi lễ phần đông là người Lèo, số các đơn vị
chiến đấu đều “9 nút”, những lời tuyên bố trái ngược nhau, tại sao lại dẫn
đường đi vòng vo trong rừng đến hai ngày trong khi chỉ cần vài giờ. Tại
sao lại lừa dối để chiếm mấy chục cuộn phim, thái độ lạnh nhạt của Minh về
số tiền 2.000 dollars, vân vân. Tôi nói khi trở lại Hoa Kỳ có lẽ tôi sẽ
không viết lách gì cả. Lập tức Trường Sơn Bổn Tài nổi khùng liền lên lớp
tôi: “Cháu nghĩ rằng bác là tay sai Cộng Sản thì hãy có ý nghĩ bất hợp tác
như thế! Bác nên nhớ khi Hồ Chí Minh thành lập đảng Cộng Sản Ðông Dương
trong hang Pac Bó chỉ có ba người. Thế mà, sau khi được quần chúng tích
cực tham gia ủng hộ, họ đã giành được độc lập trong tay thực dân Pháp và
làm cho Mỹ phải bỏ chạy khỏi Ðông Dương. Vạn sự khởi đầu nan, bác phải để
cho người ta có cơ hội, có đà vươn lên đại sự mới thành công được. Chưa gì
bác đa định phá hoại ngay thì chỉ có địch mới có những hành động vô trách
nhiệm như thế!” Ðể tránh một cuộc tranh luận với một người trẻ đương đầy
nhiệt huyết, tôi cáo lỗi rời chỗ đó đi về phía phòng vệ sinh.
Hỏi: - Tại sao bác viết cho VNTP?
Ðáp: - Về đến nhà hai tuần lễ, tôi vẫn ở trong tình trạng bất động
trong khi Hồ Anh hàng ngày hai ba lần điện thoại hối thúc tôi viết bài, sợ
để lâu tin tức sẽ thiu (stale news). Tôi nói rõ tất cả cho Hồ Anh biết
những uẩn khúc, nghi kỵ tai nghe mắt thấy của tôi, kể cả việc Minh và Liễu
dặn chú Ấn (CBS) và tôi đánh lạc hướng đường vào Mật Khu, thì Hồ Anh nói
việc ấy không quan trọng. Cuối cùng Hồ Anh bảo tôi cứ viết lại đầy đủ để
anh ta định liệu. Loạt bài du ký “Về Thăm Chiến Khu Vùng Giải Phóng” được
đăng trên VNTP từ số 151 (ngày 1/5/1982) đến số 156 (ngày 16/7/1982). Sau
loạt bài của tôi thì hầu như, trừ những người cố hữu chống đối Mặt Trận vì
lý do này hay lý do khác, tất cả người Việt hải ngoại đều thật sự lên cơn
sốt, ai cũng phải công nhận từ trước đến giờ chưa có một phong trào đấu
tranh nào được hầu hết mọi người cuồng nhiệt ủng hộ như Mặt Trận HCM.
Những “Phong Trào Yểm Trợ Kháng Chiến” được mọc lên khắp đó đây trong một
thời gian kỷ lục. Riêng ở Hoa Kỳ tại bang Cali, ngoài “Ủy Ban Yểm Trợ
Kháng Chiến” địa phương, người ta còn thành lập ở các công tư xưởng, hãng
buôn những nhóm “yểm trợ kháng chiến” riêng rẽ do một người được anh chị
em bầu lên làm “Trưởng ban” có nhiệm vụ thâu tiền yểm trợ hàng tháng của
mọi người trong nhóm không cần biết người đó có ưng thuận đóng góp hay
không. Nơi thì họ ấn định tiền yểm trợ tính theo bách phân (percentage)
của tiền lương mỗi cá nhân. Tại các siêu thị, các phòng mạch bác sĩ, nha
sĩ, bệnh viện, rạp hát, rạp chiếu bóng và cả tư gia cũng có những “Hộp
Kháng Chiến” để mọi người có dịp tham gia tỏ lòng yêu nước. Ngoài ra,
người ta còn thường xuyên tổ chức, tại những đô thị lớn trên khắp thế giới
những nơi có đông người Việt cư ngụ, những đêm liên hoan, văn nghệ có
chiếu phim Kháng Chiến với giá vé cắt cổ, vậy mà những rạp hát chứa năm
sáu ngàn người không còn chỗ trống.
Hỏi: - Thời gian đó nhiệm vụ của bác làm gì?
Ðáp: - Người ta yêu cầu tôi đóng vai “nhân chứng sống” phải khoác
vào người bộ áo bà ba đen, đi giép râu, quàng khăn rằn ri đến các nơi tổ
chức văn nghệ để ba hoa chích chòe kể lể cuộc hành trình đầy... gian khổ
vào Mật Khu! Cũng có những nơi như Sacramento, Oregon mời cá nhân tôi đem
cuốn phim đến chiếu và nói chuyện tại một rạp hát cho hàng ngàn người
nghe. Tôi cũng khá bận rộn vì các báo, đài truyền hình Mỹ đến phỏng vấn.
Ðiều lạ lùng nữa là, tôi không là cái quái gì trong Mặt Trận, thế mà mỗi
buổi tối khách vào ra nườm nượp!
Hỏi: - Bác có nghĩ rằng bác cũng chịu một phần trách nhiệm về sự
lừa bịp của Mặt Trận không?
Ðáp: - Nào có ai nghĩ đến chữ “ngờ”, nhất là trước đó các báo đã
không ngớt lời ca tụng ông Minh là một tướng sạch, đứng đắn và ông Liễu là
một chuyên viên đảo chánh nặng lòng với quê hương đất nước, tin cậy được.
Ai cũng tưởng các ông ấy kháng chiến thật chớ nếu biết họ bịp bợm thì
riêng tôi, được ăn cái “dải rút” gì đâu mà mất công ủng hộ các ông ấy! Nếu
kết tội tôi thì những người khác cũng có tội “ngây thơ” nên bị bịp lừa như
tôi.Tóm lại, anh em Hoàng Cơ Minh biết lợi dụng đúng lúc, đúng thời điểm
lòng căm thù Cộng Sản của người Việt bỏ nước ra đi đã lên đến tột độ, tổ
chức kháng chiến để tha hồ móc túi đồng hương một cách công khai vô tội
vạ. Cũng có thể, lúc mới đầu Hoàng Cơ Minh định dấn thân thật sự kháng
chiến giải phóng quê hương, nhưng sau thấy đường về Việt Nam dài quá, vạn
triệu khó khăn nguy hiểm không khác gì đường lên Hỏa tinh trong khi tiền
yểm trợ ồ ạt vào như nước, lòng yêu nước bị lòng tham chi phối, Minh lơ là
để mấy ông em, nhất là Hoàng Cơ Ðịnh, một người trẻ tuổi đầy tham vọng,
tha hồ thao túng bằng cách dựa trên uy thế và tiền tài của Mặt Trận, dùng
sắt máu thẳng tay đàn áp những người dám chống đối Mặt Trận.
Hỏi: - Theo sự xét đoán của bác thì Mặt Trận có ai về được Việt Nam
chưa?
Ðáp: - Tôi tin chắc 100% rằng chưa, mặc dù tờ báo Kháng Chiến của
Mặt Trận thường đăng những tin giật gân tưởng tượng nào là quân du kích
của Mặt Trận vẫn tung lựu đạn vào xe quân sự của địch, đặt bom phá hủy
nhiều cơ sở địch ngay tại Sàigon Chợlớn hoặc các chiến sĩ Mặt Trận đã phục
kích đoàn xe quân sự địch trên đường Sàigòn Ðàlạt đốt nhiều xe và giết
nhiều địch, vân vân. Nếu quả những biến cố này thật sự xảy ra thì không
thể nào bưng bít được bọn phóng viên quốc te. Ngoài ra, thời gian đó,
nhiều đồng hương được gia đình bảo lãnh đi thẳng từ Sàigòn sang Hoa Kỳ
bằng máy bay, rất ngạc nhiên về những tin thất thiệt của tờ Kháng Chiến.
Họ nói ở Sàigòn vẫn yên tĩnh, không hề nghe thấy báo chí hay ai nói đến
những “chiến công” mà tờ báo Kháng Chiến đã trắng trợn tưởng tượng phịa
ra. Thật là chuyện “đêm giữa ban ngày”!
Hỏi: - Thời điểm nào bác ngưng hoạt động cho Kháng Chiến?
Ðáp: - Ngày 16/4/1982 Hoàng Cơ Minh đến Santa Ana mà các báo chí
loan tin bịp rằng “Phái đoàn Mặt Trận do chiến hữu Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh
cầm đầu từ quốc nội (sic) đến thăm đồng hương hải ngoại. Một cuộc meeting
khoảng trên 5.000 người tụ tập lại tại một rạp hát để đón Chủ Tịch Hoàng
Cơ Minh đến có xe máy dầu cảnh sát Mỹ hộ tống. Người ta coi Chủ Tịch Hoàng
Cơ Minh như một vị cứu tinh dân tộc. Khi ông Minh bước ra khỏi xe thì
tiếng hoan hô vang dội, người ta xúm lại công kênh ông Minh lên cao như
công kênh một cầu thủ túc cầu đã đá lọt lưới đối phương nhiều bàn.”
Ngày 17/4/1982 Minh chủ tọa một cuộc họp báo có Trần Minh Công ngồi bên.
Dưới hàng ghế ký giả có tôi. Khi nghe Minh lớn tiếng tuyên bố “Mặt Trận
hiện có 10.000 chiến sĩ võ trang đầy đủ đương chiến đấu rải rác tại nhiều
nơi ở quê nhà”, tôi vô cùng sửng sốt vì một câu tuyên bố quá láo khoét
thốt ra từ cửa miệng một người lãnh đạo. Bởi vì, nếu quả thật Mặt Trận có
đến 10.000 người võ trang đầy đủ thì chắc chắn đã xảy ra nhiều cuộc đụng
độ, mà đã có đụng độ thì không tài nào giấu nhẹm được bọn phóng viên quốc
tế. Thật sự lực lượng Mặt Trận có khoảng không đầy 50 người. Nếu nói phét
thổi phồng thành 500 đã là quá, còn có thể nghe được. Cho ra con số 10.000
là khinh thường dư luận quốc tế, khinh thường đồng hương và là một điều vô
ý thức, nếu không muốn nói là ngu xuẩn! Tôi lập tức ra khỏi phòng họp báo
và gọi ngay điện thoại cho Liễu biết kể từ giờ phút đó, tôi không còn dính
líu đến Mặt Trận, và dù vé máy bay đã mua rồi tôi cũng sẽ không dự “Ðại
Hội Chính Nghĩa” tại Hoa Thịnh Ðốn được tổ chức vào tháng sau. Không tham
dự đại hội này để làm trò hề, Liễu giận tôi lắm. Hai năm sau có một sự nứt
rạn giữa Hoàng Cơ Minh và Phạm Văn Liễu. Vì sợ mọi trách nhiệm về tiền bạc
sẽ đổ lên đầu mình, Liễu quyết liệt bằng những văn thư chính thức yêu cầu
Phan Vụ Quang (tức Hoàng Cơ Ðịnh) phải trình cho Liễu xem sổ sách kế toán,
thì lập tức Hoàng Cơ Minh dùng quyền của mình thẳng tay cách chức Liễu cho
Nguyễn Kim Hườn thay thế. Nhờ hai bên tố nhau, những bí mật bịp bợm của
Mặt Trận được bật mí cho công chúng biết. Tôi rất mừng đã dứt khoát lánh
xa Mặt Trận.
Tiện đây tôi cũng nói phớt qua về cụ Phạm Ngọc Lũy, đối với tôi không hề
có “ân oán giang hồ”, tôi vẫn kính mến mặc dù cụ ít tuổi hơn tôi. Một vài
thân hữu tỏ vẻ tiếc tiền vì đã mua lầm hai cuốn hồi ký mà cụ không hề nói
lên được điểm nào mà mọi người trông đợi về cái bịp bợm của Mặt Trận mà cụ
là chủ tịch ủy ban yểm trợ trung ương khiến đã có lần tờ VNTP đưa nghi vấn
là cụ cũng có chia “verbe”. Trọn hai cuốn hồi ký cụ chỉ kể lể “cái thằng
tôi đáng ghét” lẫy lừng của cụ. Họ cũng cho biết có khoảng một dòng rưỡi
viết về tôi (Hoàng Xuyên) thì cụ lại dùng ngôn từ hằn học, thiếu vô tư,
ngụ ý bênh Hoàng Cơ Minh và trách cứ về việc tôi bỏ phòng họp báo để chống
đối lời nói khoác lác quá trớn của Hoàng Cơ Minh.
Hỏi: - Theo bác, thì Hoàng Cơ Minh có thật đã bị giết chết ngày
26/8/1987 mà các báo đã đăng tải?
Ðáp: - Lúc ở trong “Mật Khu”, tôi đã chụp chân dung Hoàng Cơ Minh
nhiều khía cạnh để sau này có tài liệu đắp tượng ông ta là vị... “anh hùng
dân tộc”, nên khi tấm ảnh ông Minh nằm chết đăng trên báo thì đem những
tấm hình đã chụp ra so sánh, tôi xác nhận đó là Hoàng Cơ Minh.
Hỏi: - Vì sao người ta lại cố giấu nhẹm việc Hoàng Cơ Minh chết?
Ðáp: - Tôi phân tách theo ngu ý của tôi, nếu Mặt Trận tuyên bố
Hoàng Cơ Minh chết thì ai là người kế vị? Hoàng Cơ Long, bí danh Lý Thái
Hùng, người lùn thấp, hình dáng kỳ dị, không thể thay Minh được; Hoàng Cơ
Ðịnh trẻ quá, hiếu thắng, thiếu chín chắn, làm lãnh tụ sẽ không ai theo;
Nguyễn Kim Hườn, bí danh Nguyễn Kim, một cựu thiếu tá lái trực thăng của
Không Lực VNCH, là một thanh niên cowboy sở trường về ăn chơi hơn là đấu
tranh. Vấn đề quan trọng là nếu loan tin Minh chết, tất cả cái “chaine”
hàng trăm hiệu Phở Hòa ở Hoa Kỳ và các nơi trên thế giới sẽ không ai chịu
đóng “hụi chết” hàng tháng cho Mặt Trận nữa. Những cơ sở thương mại khác
cũng sẽ ra mây gió. Vấn đề yểm trợ cũng sẽ tan rã ngay. Trong tam thập lục
kế thì “kế ngậm miệng” là thượng sách để kéo dài thời gian móc túi đồng
hương thêm được đồng nào hay đồng nấy, rồi mai hậu trước việc đã rồi, ai
muốn hiểu ra sao thì hiểu.
Hỏi: - Tin Hoàng Cơ Minh chết đã hơn 10 năm qua, ai cũng biết là
ông ta thật sự chết rồi, sao đến nay vẫn có người hăng say làm việc cho
Mặt Trận?
Ðáp: - Những cơ sở kinh tài vẫn làm ra tiền thì khi đã sẵn đồng
tiền trong tay, thiếu gì kẻ lạy lục để xin việc làm, vừa được tra lương
tháng hậu hĩnh vừa được tiếng ra cái điều ta cũng đấu tranh chống Cộng.
Hỏi: - Bác có biết vì sao Hoàng Cơ Minh bị giết không?
Ðáp: - Năm 1993, tôi về Việt Nam ghé Bangkok chơi một tuần, người
ta kể cái chết của ông Minh như sau, xin kể lại đúng nguyên văn, còn đúng
hay sai tôi hoàn toàn không có ý kiến! Họ nói rằng khi nhiều “chiến khu”
của người Việt được tổ chức trên lãnh thổ Thái Lan thì Chính phủ Cộng Sản
Việt Nam gởi công hàm chính thức trách Chính phủ Thái Lan đã dung túng
những phần tử chống đối họ, lập chién khu trên đất Thái để mưu đồ lật đổ
Chính phủ Cộng Sản Việt Nam. Họ yêu cầu Chính phủ Thái dẹp ngay những
“chiến khu” ấy đi, nếu không họ sẽ đem xe thiết giáp vượt biên giới tàn
sát tất cả. Tưởng là CSVN chỉ đe dọa suông thôi nên giới chức địa phương
Thái Lan chỉ “cảnh cáo” những người sống trong các “chiến khu” kia nên kín
đáo hơn, chớ không có biện pháp cương qưyết, vì còn muốn kéo dài để thu
tiền thuê hàng tháng. Thấy chính phủ Thái lơ là, CSVN liền gởi tối hậu thư
(ultimatum) cho Chính phủ Thái cho hạn ba tháng nếu những “chiến khu” nêu
trên chưa dẹp thì CSVN sẽ đem quân đội và xe bọc sắt vượt biên giới xan
bằng tất cả khu đó, mọi thiệt hại về vật chất và nhân mạng Chính phủ Thái
hoàn toàn chịu trách nhiệm. Lần này Chính phủ Thái triệu tập phiên họp bất
thường tại Quốc Hội để bàn về việc CSVN khiếu nại và quyết định cấm không
ký chiếu khán nhập nội (entry visa) cho Hoàng Cơ Minh. Các chiến hữu trong
Mặt Trận lúc đó mới thật sự lo lắng, một mặt báo cáo cho Hoàng Cơ Minh
biết, một mặt tìm địa điểm rời Chiến Khu về phía Tây Bắc. Khi tìm được địa
điểm rồi, họ vận động xin Chính phủ Thái cho phép Hoàng Cơ Minh đến Thái
Lan lần chót để dọn Chiến Khu sang đất Lào, nhưng sự thực vẫn nằm trên
lãnh thổ Thái, sát với biên giới Lào. Chính phủ Thái ưng thuận. Minh đến
Thái Lan vào Mật Khu họp tất cả mọi người để dùng ba tấc lưỡi trấn an các
chiến hữu. Khi nói chuyện xong thì có ba chiến hữu trẻ tuổi tuyển mộ từ
các trại tị nạn đứng lên xin phát biểu. Họ nói họ sống trong chiến khu đã
hơn hai năm mà không thấy đánh đấm gì cả trong khi hàng ngày tinh thần họ
vô cùng bị căng thẳng vì sự đe dọa của quân đội CSVN sẽ tràn sang tàn sát
bất cứ giá nào.Minh dùng mọi lời lẽ để thuyết phục, nhưng một anh chàng
khăng khăng nhất định xin ra khỏi Mật Khu để trở về trại Tị Nạn.
Sáng hôm sau hai người còn lại thấy bạn mình bị mất tích một cách bí mật
trong đêm vừa qua nên hết sức sợ hãi về số phận củamình. Họ kín đáo ra vẻ
vui lòng ở lại, rồi chờ ít ngày sau trong lúc thuận tiện cả hai đều vượt
Mật Khu và dặn một người bạn thân ở lại báo tin cho họ biết đích xác ngày
dọn chiến khu. Họ quyết tâm trả thù cho người bạn xấu số bằng cách mật báo
cho quân Pathet Lào biết quân số, võ khí của Hoàng Cơ Minh. Ðúng ngày đã
định, đoàn quân vỏn vẹn không quá 50 người, kẻ khiêng, người vác lương
thực và một số ít ỏi vũ khí. Khi đến một khu rừng già thì quân Pathet Lào
đông gấp 5 lần phục kích bao vây tứ phía giết trên 20 mạng, bắt sống 19
người đem về giao cho CSVN. Vài ngày sau, lấy khẩu cung những tù binh đều
khai trong số những người bị bắn chết có Hoàng Cơ Minh. CSVN lại cho người
trở lại nơi phục kích thì tìm thấy xác Hoàng Cơ Minh nên chụp ảnh rồi loan
báo cho các báo chí biết.
Ngày 25/4/1998 vừa qua đi hành hương tại chùa Tây Tạng ở Quận Pomona,
California, tình cờ gặp Lê Tấn K đã giữ một vai trò quan trọng của Mặt
Trận trong lúc phôi thai, quả quyết với tôi rằng Hoàng Cơ Minh chỉ mới
chết hồi tháng 10 năm 1997. Tôi hỏi tin Hoàng Cơ Minh chết rất bất lợi cho
Mặt Trận tại sao lại để đến hơn 10 năm vẫn không cải chính mà cải chính
thì khó khăn gì, Hoàng Cơ Minh chỉ cần tìm một anh ký giả tầm thường nào
chụp chung một tấm ảnh để họ loan tin, thế là đủ cải chính mọi tin tức sai
lầm từ trước và đưa uy tín Mặt Trận trở lại. Nếu còn sống sao hồi cuối năm
1994 khi Mặt Trận kiện Cao Thế Dung, Hồ Anh và Nguyên Vũ đã vu khống Mặt
Trận thuê người giết vợ chồng ký giả Lê Triết, được xử tại tòa án San Jose
trong 21 ngày có tôi tham dự. Luật sư Nguyễn Tâm, biện hộ cho bên bị, đã
thẳng thắn chỉ vào mặt Hoàng Cơ Ðịnh tức Phan Vụ Quang nói rằng: “Các ông
là những người chuyên môn bịp bợm, chuyên môn nói láo. Nếu các ông vẫn nói
láo rằng Hoàng Cơ Minh hiện nay còn sống thì xin cho biết hiện ông ta ở
đâu?” Bị đưa vào chỗ bí, Ðịnh trả lời “ấm ớ hội tề” rằng Minh di chuyển
thường xuyên nên không nhất định ở đâu! Một lãnh tụ lớn của một phong trào
mà đi đâu, ở đâu lại không liên lạc cho những yếu nhân trong Bộ Tham Mưu
biết thì điều đó nói với con nít chúng cũng không tin! Ðén đây Lê Tấn K
trả lời cù nhầy rằng nếu muốn biết sự thật về cái chết của Hoàng Cơ Minh,
xin hỏi bà Châu nào đó là người làm bảo hiểm cho Minh.
Hỏi: - Bác nói vì trong vụ Mặt Trận kiện Hồ Anh và báo VNTP năm
1994, bác từ chối không nhận làm chứng theo lời yêu cầu của luật sư nên Hồ
Anh đã trở mặt “bôi bẩn” bác trên báo VNTP, xin cho biết thêm chi tiết.
Ðáp: - Trong 21 ngày đến San Jose hầu tòa, Hồ Anh đến ăn ở nhà tôi.
Hàng ngày tôi lấy xe chở anh ta đến Tòa để cùng tham dự rồi tan giờ lại
chở hắn về. Trước ngày xử, luật sư Tâm, biện hộ cho Hồ Anh yêu cầu tôi
nhận làm chứng cho Hồ Anh bằng cách “lật tẩy” những trò bịp bợm trong
chiến khu. Tôi từ chối vì lớn tuổi không muốn gây ân oán giang hồ với ai
nữa. Thế là Hồ Anh tỏ vẻ khó chịu với tôi, y bắt tôi phải lái xe phạm luật
lưu thông khiến đã có lúc tôi định ngưng xe giữa đường đuổi hắn xuống tìm
taxi mà đi. Tôi về kể lại chuyện cho tiện nội nghe, thì bà vợ tôi khuyên
nên cố gắng nhẫn nhục giữ hòa khí, vì chỉ còn ít hôm nữa tòa xử xong, hắn
sẽ cút.
Hỏi: - Bác đã dự 21 ngày Tòa xử, vì yếu tố nào đã làm Mặt Trận thua
kiện?
Ðáp: - 90% nhờ bài trần tình dài hấp dẫn của Phạm Văn Liễu, rồi
nhân chứng Nguyễn Xuân Phát, với một lối hành văn vững vàng bằng Anh ngữ
phơi bày tội ác của Mặt Trận khiến 19 trong số 20 người trong Bồi Thẩm
Ðoàn biểu quyết các bị cáo Hồ Anh, Cao Thế Dung và Nguyên Vũ vô tội.
Hỏi: - Sao đã có lần bị Hồ Anh nói xấu trên báo mà Phạm Văn Liễu
lại ra Tòa cứu kẻ nói xấu mình?
Ðáp: - Xin cám ơn đã đặt câu hỏi này , để một lần nữa thấy Hồ Anh
không buông tha bất cứ ai. Sau khi Tòa tuyên bố Mặt Trận thua kiện, tôi
hỏi Liễu câu hỏi như trên thì Liễu cười chua chát: “Giữa hai thằng đáng
ghét, dĩ nhiên mình phải hạ thằng đáng ghét nhiều hơn trước. Còn thằng
kia, để nó có cơ hội ăn năn hối cải về những hành động ngu xuẩn của
mình”.
Hỏi: - Hồ Anh đã viết gì để “bôi bẩn” bác?
Ðáp: - Hắn viết rằng tôi “không phải là ký giả” và đã nhầm lẫn nhờ
tôi để viết bậy bạ về cái chiến khu của Mặt Trận, nay hắn xin lỗi đồng
hương(!).
Hỏi: - Chính Hồ Anh năn nỉ bác đi “chiến khu”, năn nỉ bác viết bài,
rồi những bài bác viết mà Hồ Anh, một người nhiều kinh nghiệm về nghề làm
báo, đã đọc và có đủ thì giờ cân nhắc trước khi cho đăng lên báo kia mà?
Ðáp: - Thì VNTP nổi tiếng là tờ báo “trẻ không tha, già không
thương”, chuyên đả phá không từ một người nào, từ Ðức Giáo Hoàng đến các
cha cố, thượng tọa, tăng ni, cựu công chức cao cấp, tướng tá VNCH đến các
nhân sĩ tên tuổi, đồng nghiệp, thân hữu, vân vân. Có lần Hồ Anh sang miền
Tây đi chơi với tôi hai tuần thăm mấy tiểu bang miền Tây Bắc Hoa Kỳ và
Vancouver, trong lúc ngồi xe hơi Hồ Anh cho biết sẽ có ngày y hỏi thăm sức
khỏe cụ Chử Ngọc Liễn là vị cao niên khả kính gần 100 tuổi lúc nào cũng
“tròn như hòn bi” không làm mích lòng ai và ông Nguyễn Tấn Ðời là người
đồng bệnh ung thư với Hồ Anh thường điện thoại cho tôi hỏi thăm và nhờ tôi
nói cho Hồ Anh biết những thuốc nào dùng công hiệu chữa ung thư hay tên
bác sĩ chuyên về bệnh hiểm nghèo này. Tôi khuyên Hồ Anh không nên gây thêm
oán thù nữa nhất là những người không hề chạm dến quyền lợi của y thì Hồ
Anh lớn tiếng bảo tôi: “Anh còn phải dạy tôi làm báo nữa à? Báo mà chỉ có
tin tức không thì người ta xem tivi hay đọc báo Mỹ chứ mua báo của mình
làm gì?” Thì ra đó là đó là đường lối của một cơ quan ngôn luận có nhiều
độc giả mà người ta lại cứ tưởng chủ trương của một tờ “lá cải” do một tên
hạ cấp làm chủ. Tôi cười xin rút lui ý kiến. Tôi điện thoại kể cho cụ Chử
Ngọc Liễn, nghe xong cụ la làng: “Ối giời ơi! Ối cha mẹ ôi! Tôi có làm
điều gì xằng bậy, có trêu trọc ai đâu mà định bêu xấu tôi? Tuy hay đả phá,
trêu chọc gây sự với mọi người, nhưng Hồ Anh lại là một tên hèn nhát
nhất!
Ði chơi với tôi, đến đâu y cũng sợ như lúc nào cũng có người theo dõi để
hạ sát. Việc Hồ Anh viết trong báo nói tôi không phải là “ký giả” để bôi
bẩn thì trước hết tôi chưa bao giờ vỗ ngực tự nhận là “ký giả”, lý do dễ
hiểu là tôi không sống bằng nghề viết báo thì “ký giả” hay “ký thiệt” đối
với tôi không là cái đếch gì cả. Vả chăng, “ký giả” là cái quái gì? Chữ
Hán định nghĩa “ký” là ghi chép, “giả” là người. Vậy thế nào mới là ký
giả? Nếu sợ có người cưỡng đoạt cái chức cao quý ấy sao hắn không đăng ký
trình tòa để giữ độc quyền? Loạt bài “du ký thăm chiến khu” của tôi đăng
trong 6 kỳ báo VNTP thì có ba số Hồ Anh đã mở đầu, tự động giói thiệu tôi
là ký giả đại diện cho tờ báo lá cải của y. Ngoài ra, nếu tôi không phải
là “ký giả” thì sao không hỏi tôi, y tự động gi tên Hoàng Xuyên vào trang
đầu của tờ VNTP cùng với bút hiệu những người trong Ban Biên Tập liên tục
trong 20 năm? Những bài viết về “chiến khu” gởi cho y, tôi đã nói rõ mọi
uẩn khúc để tùy y định liệu. Y là nhà báo chuyên nghiệp, “ký giả” thứ
thiệt, sau khi đọc xong phải biết những bài tôi viết dở hoặc không có lợi
thì y cho đăng lên báo làm gì? Vì cái “bệnh kinh niên” chuyên bêu xấu
người khác, dù người đó là tôi, ngoài tình bạn ra, tôi còn là ân nhân giúp
đỡ hắn rất nhiều, kể cả Anh văn y gần như “i-tờ-rít” nên năm 1976 bị một
nhà in người Việt bắt nạt làm khó dễ, tôi phải tìm giúp y một nhà in khác
rẻ hơn để y in báo liên tục 15 năm, rồi thỉnh thoảng y lại nhờ tôi tìm
giúp người làm ở Cali gởi sang, mặc dù không ai làm được lâu vì bị bóc lột
sức lao động quá đáng. Nay hắn nói xấu tôi, tôi không bận tâm, không cho
điều đó là xấu, vì “ngậm máu phun người, miệng mình bẩn trước”. Hắn thuộc
loại vô liêm sỉ “vừa nhổ xong lại có thể cúi xuống liếm sạch ngay”. Rồi sẽ
có một ngày vì quyền lợi tờ báo, vì muốn mị độc giả, ta không ngạc nhiên
thấy hắn bá ngọ cả những bậc sinh thành ra hắn!
Hỏi: - Nghe nói nhờ loạt bài của bác mà số phát hành tờ VNTP vọt
lên một cách kinh khủng?
Ðáp: - Vì quảng cáo từ mấy số trước nên ngay số khởi đăng loạt bài
du ký của tôi, báo VNTP gởi bán các nơi đều hết sạch, độc giả nhôn nhao
tìm đọc, các đại lý gọi điện thoại về Tòa soạn yêu cầu gởi thêm báo. Tôi
điệnthoại hỏi thì Hồ Anh tỉnh bơ trả lời: “Ðâu có tăng được số nào, thụt
đi thì có. Trong cuốn Mặt Trận, Cao Thế Dung cũng xác nhận tờ VNTP lúc
thường phát hành 3.000 số mỗi kỳ là con số kỷ lục ở hải ngoại, nhưng khi
loạt bài du ký của Hoàng Xuyên bắt đầu đăng thì số phát hành vọt lên 6.000
rồi 10.000, rồi 15.000. Nhờ thế mà chỉ trong hai năm Hồ Anh đã tậu thêm
một ngôi nhà và một miếng đất ở Virginia, đó là chưa kể xe nọ xe kia.
Nhưng nay, vì chuyện chửi bới người khác quá nhàm, bài vở quá tầm thường,
không ai đọc. Tờ “lá cải” dường như không ai thèm nhắc tới.
Hỏi: - Những bài bác viết, Hồ Anh trả tiền nhuận bút có hậu hĩnh
không?
Ðáp: - Hậu lắm lắm! Ai đã từng viết cho VNTP đều than bị bóc lột
tim óc và mồ hôi, sức lao động, vì số tiền nhuận bút ốm đói. Hồ Anh gởi
check trả tôi... “rất sòng phẳng” mỗi bài 20 dollars, vị chi 6 bài được
120 dollars.
* Cuộc phỏng vấn đến đây cũng quá đầy đủ, xin thành thật cảm ơn bác Hoàng
Xuyên đã cho chúng tôi những tài liệu thật quý báu.
Tân Dân
VÕ THỊ TRUC GIANG * CỘNG SẢN DỐI TRÁ
Nguồn tin tráo trở/ Medienmanipulation
Hồi xưa, còn ở dưới quê, nông thôn miền nam VN thì hẻo lánh, dù cách Sài Gòn, thủ đô chỉ 80 cây số mà thôi, vậy mà tuổi thơ của tôi lớn lên chỉ là nắng mưa ong bướm cây cỏ, sông rạch phù sa, song song với đạn bom của khủng bố kinh hoàng, chết chóc của cuộc chiến tranh Nam Bắc. Nguồn tin tức qua báo chí, đài Radio, truyền hình còn bé thì tôi nào có thiết tha theo dõi, tuổi thơ của tôi chỉ biết rằng Việt cộng là quân mặt trận giải phóng miền nam, còn con trai miền Nam phải đi lính để giữ gìn bờ cõi chống lại giặc thù. Rồi năm 1975 miền Nam thua trận, tôi là đứa con gái mới lớn, buồn vì vận nước nỗi trôi. Gia đình ly tán. Nghèo.
Ngày tôi được nhận vào trường Cao Đẳng Sư Phạm Tiền Giang, tôi học làm cô giáo vì tôi yêu nghề này. Dưới thời Xã hội Chủ Nghĩa Cộng sản VN thì giáo sinh chúng tôi phải thuộc nằm lòng lý thuyết cộng sản, phải học thuộc và nói như con vẹt, thế mới là học tập tốt, được kết nạp vào đoàn, vào đảng nếu có thêm gia đình là “cách mạng”.
Thi nhiệm kỳ I, gặp giờ thi môn Sử, gần hai giờ trôi qua tôi vẫn còn ngồi đờ người trước trang giấy trắng. Môn sử tôi bị “không điểm”, vì không có chữ nào, thầy Hiểu trưởng trường sư phạm "ưu tiên" cho tôi thi lại đợt hai. Chính ông là người gát thi, xem tôi làm bài. Trong phòng chỉ có tôi và ông ta! Tôi không biết mình đã tiếp thu, hoặc cố nuốt cho trôi nổi không những chủ thuyết Karl Marx, Lenin, Hồ Chí Minh...Tôi nguệch ngoạc viết vài chữ cho có lệ, đợt thi môn Sử lần hai này tôi cũng trợt tuốt, may mà có những bộ môn khoa học tự nhiên, toán, lý hóa, sinh vật, đã kéo qua cho tôi đủ điểm trung bình. Tôi được lên lớp không phải ngồi học lại.
Bị cộng sản trấn áp tinh thần quá nên tôi đã trốn đi. Sang đây, trưởng thành theo thời gian, đam mê theo dõi thời sự quốc tế. Buổi sáng thì nghe radio ra rả tin thế giới, trưa thì đọc báo trên internet, tối thì xem tin tức của đài truyền hình. Qua truyền thông đã thu thế giới lại thật nhỏ, qua màn ảnh nhỏ bé tôi có thể biết hết mọi sự kiện xảy ra.
Tôi thấy dường như óc suy nghĩ của mình có xu hướng ngã theo đà của tuyên truyền, qua làn sóng truyền thông ảnh hưởng khá nhiều. Có nên tin tưởng tuyệt đối những nguồn tin tới tai thính giả ? Xứ tự do đời nào nhà nước họ ra lệnh kiểm duyệt ngăn chận tin xác thực ! Nhưng đặc biệt tin tức về VN thì đài ARD, đài ARTE, họ tường trình khác hẳn những gì chứng nhân như tôi trải nghiệm qua trong quá khứ! Dường như sau màn ảnh có bàn tay lông lá nào đó mua chuộc để phóng viên nhà báo thao túng, làm công cụ tuyên truyền, có lợi một chiều cho họ!
Nhờ mạng lưới Internet, nhờ đọc nhiều bài báo khác nhau, ý kiến khác nhau, những điều mà chúng ta không nghe, không thấy phổ biến trên đài, dần dần những ý kiến, tư tưởng khác nhau đó ung đúc thành ý tưởng của riêng mình. Tôi trở thành nhà văn vì tôi muốn gióng tiếng nói của mình thay cho những ai nghĩ mà không có cơ hội nói. Nhiệm vụ của nhà văn là phải vạch trần những gì của Sự Thật, phải trả Sự Thật lại cho Lịch sử.
Vậy, đừng tin vội vàng những nguồn tin mà bạn nghe, đọc trên báo, trên đài, trên Internet, mà hãy dùng thời gian, kiến thức, cẩn thận kiểm chứng bằng nhiều nguồn tin khác nhau, bạn sẽ tìm ra một luồng sáng mới. Đó là óc nhận xét riêng.
Thật đấy!!
Võ Thị Trúc Giang Lúa 9
25.Nov 2015
TRẦN GIA PHỤNG * CỘNG SẢN KHỦNG BỐ
Bảy mươi năm khủng bố
Khi CSVN cai trị đất nước theo luật rừng, CS sử dụng khủng bố để trấn áp quần chúng, bảo vệ quyền lực. Cộng sản dùng tất cả các phương tiện để khủng bố, kể cả việc thiết lập và nuôi dưỡng các băng đảng lưu manh côn đồ làm tay sai để khủng bố dân chúng, không khác gì những tổ chức cướp bóc phi pháp, mà nổi tiếng nhất là MAFIA...
3824325_13270" style="font-size: small; text-align: justify;"> Vào giữa tháng 11-2015, cả thế giới xúc động về tin khủng bố tối Thứ Sáu 13-11-2015 tại các địa điểm giải trí ở Paris. Trong toàn cảnh Âu Châu thanh bình từ khi thế chiến thứ hai chấm dứt năm 1945 cho đến nay, tin tức và hình ảnh khủng bố dồn dập trên truyền hình, gây xôn xao dư luận khắp nơi, kể cả ở Bắc Mỹ vì Bắc Mỹ cũng là một trong những mục tiêu mà khủng bố đã từng nhắm tới.
Xem cảnh khủng bố trên truyền hình, những người Việt Nam lớn tuổi liên tưởng ngay đến những chuyện khủng bố ở quê nhà trước đây. Thảm cảnh khủng bố diễn ra khắp nơi ở Việt Nam cũng từ năm 1945; qua nhiều hình thức khác nhau, hoặc ám sát, hoặc thủ tiêu, hoặc đặt chất nổ, hoặc quăng lựu đạn, hoặc pháo kích, hoặc phá đường, giựt sập cầu cống, phá đường “rầy” xe lửa, hăm dọa tống tiền...
Khủng bố ở Việt Nam và khủng bố Âu Mỹ đều nhắm gây sợ hãi trong quần chúng nơi bị khủng bố, quấy phá đời sống xã hội, nhưng hai bên có những điểm khác nhau khá rõ rệt.
Khủng bố nội địa
Các cuộc khủng bố ở Âu Mỹ đều do những phần tử Hồi giáo cực đoan chủ trương, được sự hỗ trợ của những tổ chức Hồi giáo quá khích giàu có ở Trung Đông, chính yếu nhờ tài nguyên dầu hỏa. Như thế, những cuộc khủng bố ở Âu Mỹ do người nước ngoài thực hiện, đa số đến từ các nước vùng Trung Đông, hoạt động khủng bố ở những vùng, những nước không phải là quê hương của họ và dân chúng không phải là đồng bào ruột thịt của họ. Khủng bố chỉ tấn công những nước mà họ xem là địch thủ, muốn đe dọa hay trả thù như Hoa Kỳ (vụ 11-9-2001), Pháp (vụ 13-11-2015)…
Khủng bố ở Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay, hoàn toàn do đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) và chế độ CSVN thực hiện. Các chế độ CS trên thế giới chủ trương đấu tranh giai cấp, tranh cướp chính quyền, vận dụng mọi nguồn tài lực chiến đấu giữ vững thành quả cách mạng, tiêu diệt tất cả những thành phần bị xem là nguy hại cho chế độ CS.
Riêng tại Việt Nam, CSVN từ khi cướp được chính quyền ngày 2-9-1945 cho đến ngày nay, thường xuyên tổ chức, chỉ huy những cuộc khủng bố, ám sát chính trị, giết hại dân chúng, đồng bào trên quê hương mình. Như thế có nghĩa là chính một thành phần người Việt theo chủ nghĩa CS, khủng bố toàn dân Việt, để phát triển chủ nghĩa CS hoặc để bảo vệ chế độ CS.
Đây là một loại khủng bố nội địa hiếm thấy trên thế giới. Cộng sản Việt Nam không từ bỏ bất cứ hành động dã man nào khủng bố người đồng chủng, nên CSVN cũng chính là những kẻ diệt chủng. Một nhà báo Pháp, Jean Lacouture cho rằng những chế độ độc tài bóc lột dân mình như là những nước thực dân ngoại lai, nên gọi đó là “autocolonisation”, tạm dịch là “thực dân nội địa” hay “tự thực dân”. Chế độ CSVN được sắp vào loại nầy. Nay CSVN lại thêm thành tích là “khủng bố nội địa” đối với dân Việt.
Mục đích khủng bố
Mục đích khủng bố nhắm phá hoại đời sống, gây sợ hãi, đe dọa các đối tượng mà khủng bố nhắm đến. Quân Hồi giáo quá khích đại đa số là người Ả rập, khủng bố nhắm mục đích trả thù những điều mà họ cho rằng khiêu khích tôn giáo (như vụ báo Charlie Hebdo ở Paris ngày 7-1-2015), hoặc trả thù những điều mà họ cho là những vụ án bất công đối với những người Hồi giáo, hoặc vỉ các căn cứ Hồi giáo hay các nước Hồi giáo ở Trung Đông bị tấn công. Quân khủng bố quá khích Hồi giáo còn tin rằng khi khủng bố tự sát là họ hy sinh để được đấng Allah cứu rỗi, lên thiên đường. Nói cách khác, quân Hồi giáo cực đoan khủng bố theo niềm tin tôn giáo, hy sinh cho một cuộc thánh chiến, hoặc hy sinh vì lý tưởng quốc gia Hồi giáo mà họ mong muốn xây dựng. Niềm tin tôn giáo dựa trên Hồi giáo, một tôn giáo, xuất hiện từ thế kỷ thứ 7 ở Saudi Arabia, là nền tảng văn hóa của người Ả-rập ở Trung Đông. Từ nhiều thế kỷ trước, do những mâu thuẫn về chính trị, văn hóa và tôn giáo giữa người Ả-rập và người Tây phương với niềm tin Ky-tô giáo, phát sinh những tranh chấp và chiến tranh qua lại, tạo nên hận thù “truyền kiếp”, mà cho đến nay vẫn còn tồn đọng lại ở những thành phần Hồi giáo Ả-rập cực đoan.
Trong khi người Ả-rập cực đoan chiến đấu, khủng bố các nước khác vì lý tưởng Ả-rập, vì tôn giáo Ả-rập, thì khủng bố ở Việt Nam do CSVN chủ trương, chỉ khủng bố, giết hại người Việt Nam vì chủ nghĩa Mác-xít ngoại lai. Chủ nghĩa Mác-xít phát xuất từ Âu Châu, là nền tảng tư tưởng của các chế độ CS ở Liên Xô và ở Trung Cộng, hoàn toàn ngược lại với văn hóa dân tộc Việt Nam. Chủ trương của các chế độ CS là độc tài toàn trị, chỉ nhắm mục đích bành trướng chủ nghĩa, thâu tóm quyền lực. Hồ Chí Minh do Liên Xô huấn luyện và tài trợ để lập đảng CS, và nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Cộng, cướp chính quyền ngày 2-9-1945. Từ đó, HCM và đảng CS luôn luôn làm tay sai cho Liên Xô và cho Trung Cộng, hành động theo mệnh lệnh của Liên Xô và Trung Cộng. Quân khủng bố CSVN hoạt động theo mệnh lệnh của đảng CSVN, vì quyền lợi của đảng CSVN và CS quốc tế mà thôi.
Chuyện khủng bố ở Pháp hay ở Âu Mỹ khá hiếm hoi, lâu lâu mới xảy ra, nên khi xảy ra, liền làm cho mọi người kinh hoàng. Người Việt Nam chạm mặt hằng ngày với khủng bố từ khi đảng Cộng Sản Đông Dương, mặt trận Việt Minh (VM) do Hồ Chí Minh lãnh đạo, cướp được chính quyền ngày 2-9-1945. Khủng bố xảy ra thường xuyên “như cơm bữa”, liên tục và dày đặc khắp nước, từ năm 1945, xuyên suốt qua hai cuộc chiến 1946-1954 và 1960-1975, sau đó tiếp diễn cho đến ngày nay.
Mức độ tàn ác
Nói chung, khủng bố bạo lực, gây thương tích, giết người, cướp sự sống của người khác đều là tàn ác. Khủng bố nào cũng tàn ác. Tuy nhiên mức độ tàn ác khủng bố của các tổ chức ở Trung Đông khác với khủng bố CSVN.
Ví dụ rõ nét nhứt là trong chiến tranh, khủng bố Hồi giáo quá khích thi hành án tử hình nạn nhân bằng cách chặt đầu, làm cho nạn nhân nhanh chóng chết liền tại chỗ. Trái lại, trong hoàn cảnh không có chiến tranh, chỉ do Cải cách ruộng đất, CSVN chôn nạn nhân xuống tận cổ, chừa cái đầu ở trên mặt đất, rồi buộc nông dân kéo bừa qua lại, răng bừa móc miệng, móc mắt, móc đầu nạn nhân đau đớn cho đến chết. Hoặc CSVN cho dìm nước nạn nhân, sặc sụa rồi kéo lên, cho tỉnh lại, xong rồi dìm xuống nước trở lại. Sau nhiều lần chết đi sống lại, nạn nhân mới chết. Thảm cảnh CCRĐ không sách vở nào tả hết được.
Sau những cái chết bi thảm vì khủng bố thời Cải cách ruộng đất, đến thời kỳ Mậu Thân Huế đầu năm 1968. Cộng sản tùng xẻo nạn nhân Từ Tôn Kháng cho đến chết ở Gia Hội. (Nguyễn Lý Tưởng, “Mậu Thân ở Huế”, đăng trong tuyển tập Thảm sát Mậu Thân ở Huế, Phong Trào Giáo Dân Hải Ngoại, California 1998, tr. 89.) Còn chuyện chôn sống là chuyện rõ ràng trong biến cố Mậu Thân ở Huế, không cần chứng minh.
Trước Mậu Thân hơn 20 năm, tại Quảng Ngãi cũng xảy ra chuyện CS tùng xẻo, chôn sống năm 1945 mà lúc đó ít người biết. Riêng trong ba tuần lễ kể từ 19-8-1945 tại Quảng Ngãi, VM giết hại 2,791 người vừa chức sắc, chức việc, tín hữu đạo Cao Đài, kể cả phụ nữ, trẻ em và giết bằng nhiều cách như chém đầu, chôn sống, thả biển, và tùng xẻo như thời Trung cổ. (Theo Bạch thư Cao Đài Giáo ngày 9-9-1999, do vị đại diện đạo Cao Đài là Ngọc Sách Thanh, từ San Bernadino, California, gởi cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc và Ủy Ban Quốc tế Nhân Quyền.)
Phải nói rằng CSVN khát máu và giết hại người Việt đồng chủng một cách tàn bạo, dã man không thể tưởng tượng nổi. Mức độ khủng bố tàn ác khiếp đảm đến nỗi, có lần nhà văn Nguyễn Tuân vừa khóc, vừa tâm sự với anh em văn nghệ sĩ: “Tao còn sống đến bây giờ là còn biết sợ.” (Nhiều tác giả, tuyển tập Trăm hoa vẫn nở trên quê hương, Nxb. Lê Trần, California, 1990, tr. 79.)
Hãy nghe Tố Hữu, một nhân vật cộng sản cấp Bộ chính trị trung ương đảng, kêu gọi cán bộ CS:
“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng.
Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt.”
“Giết, giết nữa bàn tay không phút nghỉ”, thật khát máu còn hơn lời kêu gọi của các lãnh tụ Hồi giáo khủng bố hô hào trong các video do quân khủng bố phát tán. Hơn nữa, giết đồng bào Việt Nam không gớm tay chỉ để “Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt.” Thật là hết nước nói!
Mục tiêu khủng bố
Những cuộc đánh bom, đặt chất nổ của nhóm quá khích Hồi giáo nhắm mục đích trả thù hoặc gây sợ hãi nơi các nước địch thủ, không có chủ đích giết riêng một người nào, nhất là trẻ em và phụ nữ. Ngược lại, CSVN có chủ đích rõ ràng theo từng giai đoạn khi khủng bố.
Lúc mới nắm được quyền lực năm 1945, CSVN tìm giết những lãnh tụ chính trị trên toàn quốc không theo CS, khiến những lãnh tụ khác sợ hãi phải trốn tránh hoặc bỏ ra nước ngoài, để CSVN độc quyền chính trị. Ở các địa phương từ tỉnh, xuống huyện, xã, CS khủng bố và giết hại một cách bừa bãi và dễ dàng tất cả mọi người, chỉ cần quy chụp là Việt gian, tay sai thực dân Pháp là giết ngay. Rất nhiều chuyện khủng bố ngoài trí tưởng tượng của người đời nay, kể lại có thể có người không tin. Số người bị CS khủng bố giết lúc đó tổng cộng trên toàn quốc lúc đó có thể lên đến trên 200,000 người.
Sau năm 1954, cai trị đất Bắc, CS khủng bố bằng những kế hoạch đổi tiền, công tư hợp doanh ở thành phố, và Cải cách ruộng đất ở nông thôn. Cuộc CCRĐ lần nầy giết hại khoảng 172,000 người, chưa kể thảm cảnh của gia đình nạn nhân. Sau cuộc CCRĐ, nông thôn Bắc Việt Nam hoàn toàn bình lặng và thần phục mệnh lệnh của CSVN, để CSVN tấn công Nam Việt Nam.
Ở Nam Việt Nam, sau năm 1954, CSVN tiếp tục ứng dụng các phương pháp khủng bố giống thời kỳ trước năm 1954, như ám sát, đặt chất nổ, phá đường, đắp mô, giựt sập cầu cống, quăng lựu đạn, tấn công các đồn bót nhỏ lẻ tẻ, bắn sẻ và đặc biệt có một loại khủng bố mới là pháo kích vào các thành phố.
Trong chiến tranh, pháo kích và đặt chất nổ tấn công địch thủ là chuyện thường xảy ra. Cộng sản pháo kích và đặt chất nổ các căn cứ quân sự Hoa Kỳ cũng là chuyện bình thường, nhưng ít hơn các cuộc khủng bố dân Việt. Hầu như tất cả các thành phố Nam Việt Nam đều bị pháo kích và hầu như người dân Nam Việt Nam nào cũng từng có lần nghe tiếng đạn pháo kích vào thành phố. Ngoài các các căn cứ quân sự, các nơi đóng quân, CSVN còn cố tình pháo kích vào các bệnh viện, các trường học, các khu dân cư để đe dọa dân chúng.
Tháng 1-1972, CSVN đặt chất đổ tại Trại họp bạn đầu năm của học sinh các trường Quy Nhơn tại Sân vận động thành phố, giết hại nhiều giáo sư và học sinh tập họp vui chơi đón Tết. Rồi tháng 3-1974, CSVN pháo kích Trường Tiểu học Cai Lậy vào buổi sáng, trong giờ học, giết hại 33 học sinh và làm bị thương 55 học sinh. Đặt chất nổ trong lúc học sinh cắm trại trong sân vận động, hoặc pháo kích ban ngày vào trường học trong giờ học, không thể nói là lầm lẫn mà rõ ràng là một vụ khủng bố cố ý đánh vào học sinh. Những học sinh non trẻ tội tình gì mà CS khủng bố, giết hại?
Khủng bố Trường Tiểu học Cai Lậy ngày 9-3-1974
Người Việt Nam, nhất là người miền Trung không bao giờ quên chuyện CSVN khủng bố thường dân trong Tết Mậu Thân ở Huế, tùng xẻo người sống ở Gia Hội, bắt giết các tu sĩ, các giáo sư bác sĩ ngoại quốc đến dạy Đại học Y khoa Huế, chôn sống nạn nhân trong các nấm mồ tập thể...
Do hoàn cảnh chính trị thế giới, cuối cùng chiến tranh chấm dứt ngày 30-4-1975, nghiêng thắng lợi về phía CSVN, mà một thượng nghị sĩ Mỹ, ông John Mc Cain (đảng Cộng Hòa, Arizona), đã phát biểu tại Sài Gòn ngày 29-4-2000 rằng “những kẻ xấu đã thắng cuộc chiến Việt Nam”. (Nguyên văn: "wrong guys" had won the Vietnam War...) (Los Angeles Times, April 29, 2000, David Lamb, Times Staff Writer, “'Wrong Guys' Won War, McCain Tells His Stunned Vietnamese Hosts”.)
Khủng bố tập thể
Sau năm 1975, dân chúng Việt Nam tưởng rằng nạn khủng bố đã qua, nay có thể sống một cách thanh bình, thoải mái làm ăn sinh sống. Tuy nhiên, chế độ CS vẫn không để yên, tiếp tục chính sách khủng bố, mà lần nầy xuất hiện một hình thức khủng bố mới là “khủng bố tập thể”, tức không chỉ khủng bố cá nhân như trước, mà khủng bố thường trực toàn bộ dân chúng miền Nam Việt Nam.
Đầu tiên, nhà nước CS phỉnh phờ những công chức, sĩ quan chế độ cũ đi học tập cải tạo từ một tuần đến một tháng, nhưng rồi bắt giam vô thời hạn trong các trại tập trung trên rừng thiêng nước độc, không biết ngày về. Cộng sản vừa muốn giải tán hệ thống tổ chức của chế độ cũ, vừa khủng bố nặng nề tinh thần công chức, sĩ quan chế độ cũ, và khủng bố tinh thần gia đình công chức và sĩ quan, răn đe mọi người hãy ở yên, không được vọng động, phải thi hành mệnh lệnh của nhà cầm quyền CS, thì thân nhân mới được sớm về đoàn tụ gia đình, nếu không thân nhân sẽ đi học tập vô thời hạn. Giam người trong tù chẳng những để khủng bố tù nhân mà còn để khủng bố thân nhân.
Cách khủng bố tập thể thứ hai của CSVN là khủng bố kinh tế bằng các chiến dịch đánh tư sản mại bản (comprador) là những nhà kinh doanh lớn buôn bán với ngước ngoài (xuất nhập cảng), rồi đánh tư sản dân tộc, đến tiểu tư sản, tịch thu tài sản, nhà cửa. Song song với việc đánh tư sản, CSVN ra lệnh đổi tiền ngày 22-9-2975, 500 đồng Việt Nam Cộng Hòa đổi được 1 đồng mới, và mỗi gia đình chỉ đổi được 200 đồng mới. Cũng là một hình thức khủng bố tài chánh. (Sau đó, CSVN đổi tiền lần thứ hai ngày 3-5-1978, và lần thứ ba ngày 14-9-1985.)
Trong khi đó, CS đưa ra chương trình kinh tế mới, buộc gia đình có thân nhân học tập cải tạo đi kinh tế mới với lời hứa hẹn là đi kinh tế mới thì thân nhân sẽ về đoàn tụ gia đình sớm. Vì thương con, thương chồng, nhiều gia đình phải bỏ nhà cửa ở thành phố, đến lập nghiệp ở những vùng hoang dã, tự lo sản xuất để sinh sống, trong khi CS cướp nhà của họ ở thành phố.
Kế hoạch khủng bố tập thể còn được thực hiện dưới chủ trương chính sách kinh tế chỉ huy, ngăn sông cấm chợ, ai ở đâu chỉ được mua bán tại chỗ và tất cả đều phải vào Hợp tác xã do nhà nước quản lý và phân phối hàng hóa bằng tem phiếu. Bất cứ cá nhân nào muốn mua gì đều phải xin tem phiếu của nhà cầm quyền mới được mua. Trong đời sống, cứ vài ngày, công an khu vực đến thăm nhà dân một lần, dò hỏi đủ thứ việc, kể cả chuyện ăn uống trong gia đình để dò xem mức độ giàu có của mỗi gia đình. Công an khu vực thường xuyên dòm ngó gây phiền hà và làm cho dân chúng lo ngại không ít, là một thứ khủng bố tinh thần mới xảy ra với người Việt khi CS cầm quyền.
Cuộc khủng bố tập thể trên đây đã làm cho Việt Nam suy sụp, đưa đến nguy cơ chính đảng CSVN cũng bị sụp đổ, nên sau 10 năm khủng bố, CSVN thay đổi sách lược, bắt đầu cởi trói kinh tế, quay lại chính sách kinh tế thị trường, nhưng theo “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên, CSVN vẫn không từ bỏ chủ trương khủng bố để bảo vệ chế độ đảng trị toàn trị.
Khủng bố lòng yêu nước
Trong thời gian chiến tranh, Hồ Chí Minh và CSVN cầu khẩn Trung Cộng viện trợ. Sau năm 1975, CSVN muốn trốn nợ Trung Cộng và thân thiện hơn với Liên Xô. Tuy nhiên, khối Đông Âu và Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, CSVN phải quay qua cầu cứu Trung Cộng và càng ngày càng lệ thuộc Bắc Kinh.
Dân tộc Việt Nam vốn yêu nước và có tinh thần chống ngoại xâm, rất lo ngại một thời kỳ Hán thuộc mới trên đất nước chúng ta. Những cuộc mít-tinh hay biểu tình chống Trung Cộng bắt đầu diễn ra, và đều bị nhà cầm quyền CS chận đứng.
Nhà nước CSVN bắt giam ngay tất cả những ai biểu lộ thái độ chống Trung Cộng, mở đầu là luật sư Lê Chí Quang. Tháng 10-2001, luật sư Quang phổ biến bài viết “Hãy cảnh giác với Bắc triều”, chỉ trích nhà nước CS nhượng bộ Trung Cộng trong các hiệp ước về biên giới và lãnh hải, liền bị bị bắt ngày 21-2-2002 vì bị vu cáo tội “tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam”, và bị tuyên án 4 năm tù giam, 3 năm quản thúc.
Từ đây, càng ngày càng diễn ra nhiều cuộc biểu tình chống đối Trung Cộng. Tất cả cuộc tập họp lớn nhỏ, tất cả những ai viết báo, viết blog, dù hoạt động ôn hòa, bất bạo động, mà tỏ ý chống Trung Cộng, đều bị CSVN hành hung và bắt giam ngay.
Nổi tiếng trong nhóm nầy là vụ nhà báo Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày) bị bắt năm 2008, blogger Tạ Phong Tần, chủ blog “Công lý và Sự thật”, bị bắt năm 2011. Điều đáng nói thêm ở đây là thân mẫu bà Tạ Phong Tần là Đặng Thị Kim Liêng đã tự thiêu ngày 30-7-2012 để phản đối nhà nước CSVN đã bắt giam trái phép con bà.
Trước và sau Điếu Cày, Tạ Phong Tần còn nhiều vụ đối kháng chống nhà cầm quyền CSVN làm tay sai cho Trung Cộng. Danh sách đưa ra sẽ khá dài. Ở đây chỉ xin nhắc lại vụ sinh viên Nguyễn Thị Phương Uyên bị kết án tại phiên tòa Long An ngày 16-5-2013 chỉ vì sinh viên trẻ tuổi nầy đã dùng máu của mình viết hai câu khẩu hiệu nổi tiếng: “Tàu khựa cút khỏi Biển Đông” và “Đảng cộng sản chết đi”. Ngoài ra cũng không thể quên một cuộc biểu tình rầm rộ trên toàn quốc vào tháng 5-2014, đã bị đàn áp mạnh mẽ vì gây thiệt hại nặng cho các công ty Trung Cộng và một số công ty bị hiểu lầm là của Trung Cộng.
Như thế, chỉ vì muốn chạy theo Trung Cộng để bảo vệ quyền lực, CSVN quyết tâm tiêu diệt lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam. Tiêu diệt lòng yêu nước là một tội khủng bố phản quốc chưa bao giờ xảy ra trong quá khứ. Hãy thử tưởng tượng, một dân tộc không còn lòng yêu nước sẽ chắc chắn là một dân tộc bạc nhược, mất gốc và dần dần tiêu vong!
Khủng bố những hoạt động bất bạo động
Việt Nam là một nước tham nhũng nổi tiếng trên thế giới. Tham nhũng trong tất cả các ngành nghề, và đặc biệt có một loại tham nhũng gây ồn áo nhứt là chuyện cướp đất, cướp nhà thường xuyên xảy ra khắp nước. Dân oan bị cướp nhà cướp đất đi khiếu nại kiện tụng (khiếu kiện), chẳng những không được nhà cầm quyền CS xét xử, mà còn bị CS khủng bố bằng nhiều cách, nhất là cho côn đồ tấn lưu manh công đánh đập những người khiếu kiện.
Trước tình cảnh nầy, nhiều người cảm thấy nhân quyền và dân quyền bị xúc phạm nặng nề liền lên tiếng trình bày sự thật trên các blog, trên facbook, trên Internet, và từ đó đòi hỏi công lý, tự do, dân chủ, cũng bị khủng bố tiếp. Danh sách những nhà hoạt động dân chủ bất bạo động bị đàn áp càng ngày càng nhiều, và điều đặc biệt là càng bị khủng bố đàn áp, thì càng có nhiều người tham gia hoạt động bất bạo động đòi hỏi dân chủ tự do. Hoạt động bất bạo động bị khủng bố đến độ những công tác từ thiện, cứu trợ cho dân nghèo bị lụt lội, bão tố cũng bị đàn áp luôn.
Nhà cầm quyền CS khủng bố càng ngày càng nặng tay, đánh đập những người bị bắt tạm giam đưa đến nhiều cái chết thương tâm. Có tài liệu ghi nhận rằng trong các năm gần đây, có trên 20 trường hợp bị bắt vào đồn công an thì “vào sinh ra tử” (vào sống ra chết).
Trường hợp mới nhất lại càng đặc biệt hơn nữa là trường hợp em Đỗ Đăng Dư, 17 tuổi bị công an huyện Chương Mỹ, Hà Nội bắt giam vì nghi ngờ trộm cắp khoảng 1,5 triệu đồng Việt Nam (khoảng 70 USD). Em bị giữ ở trại giam số 3 và bị đánh đến chết ngày 10-10-2015. Đặc biệt là vì ngày 3-11-2015, hai luật sư Lê Văn Luân và Trần Thu Nam đến nhà mẹ của nạn nhân là bà Đô Thị Mai ở xã Đông Phương Yên, huyện Chương Mỹ (Hà Nội) để thảo luận về việc bảo vệ quyền lợi cho gia đình nạn nhân. Khi ra về, hai luật sư bị 8 tên côn đồ chận đường, hành hung, gây thương tích khá nặng. Điều nầy chứng tỏ nhà nước CS không đủ khả năng giải quyết nên phải nhờ bọn du côn lưu manh hành hung ngăn cản luật sư.
Kết luận
So sánh khủng bố của nhóm cực đoan Hồi giáo và khủng bố của CSVN, khác biệt căn bản là: một bên là khủng bố quốc tế và một bên là khủng bố nội địa. Khủng bố quốc tế tấn công ở những nước mà họ cho là thù nghịch; trong khi khủng bố nội địa lại giết hại những người đồng chủng ở trong nước.
Chế độ CSVN là một chế độ độc tài toàn trị, là một thứ tự thực dân trên quê hương Việt Nam. Người Việt liên tục đứng lên đòi hỏi công lý, tự do dân chủ, chống lại chuyện làm tay sai cho ngoại bang. Chế độ CSVN có hiến pháp, có pháp luật, nhưng điều 4 Hiến pháp 1992, quy định rằng đảng CSVN là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”; nghĩa là đảng CSVN không cai trị theo hiến pháp và pháp luật mà cai trị theo nghị quyết của đảng CS, theo ý muốn từng giai đoạn của đảng, tức CS đánh võ tự do trong luật pháp, hay đánh võ rừng, theo luật rừng.
Khi CSVN cai trị đất nước theo luật rừng, CS sử dụng khủng bố để trấn áp quần chúng, bảo vệ quyền lực. Cộng sản dùng tất cả các phương tiện để khủng bố, kể cả việc thiết lập và nuôi dưỡng các băng đảng lưu manh côn đồ làm tay sai để khủng bố dân chúng, không khác gì những tổ chức cướp bóc phi pháp, mà nổi tiếng nhất là MAFIA.
Vì chỉ khủng bố nội địa, người Việt khủng bố người Việt, nên khủng bố CSVN ít bị quốc tế chú ý hay lên án, vì chẳng liên quan đến họ hay đến quyền lợi của họ. Và cứ thế, tính đến nay, người Việt Nam trải qua 70 năm trường kỳ khủng bố (1945-2015). Chưa hết đâu, Việt Nam còn CS thì chắc chắn còn khủng bố.
(Toronto, 22-11-2015)Trần Gia Phụng
--
No comments:
Post a Comment