THÔNG TIN & BÌNH LUẬN VỀ VIỆT NAM & THẾ GIỚI
Ý kiến ông Nguyễn Gia Kiểng về cách thay đổi Việt Nam
Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ RFA
2016-01-24
2016-01-24
Đảng cộng sản Việt Nam họp đại hội toàn quốc lần thứ 12 được nói nhằm vạch ra hướng đi cho 5 năm sắp tới.
Tuy nhiên thực tế có gì khác trước cả về đường lối và con người?
Ông Nguyễn Gia Kiểng thuộc Tập hợp Dân Chủ Đa Nguyên từ Pháp đưa ra
một số nhận định về vấn đề đó. Trước hết ông này có ý kiến đối với kêu
gọi cấp bách phải đổi mới thể chế mà đại biểu Bùi Quang Vinh đưa ra
trong ngày 22 tháng giêng vừa qua.
Ông Nguyễn Gia Kiểng: Nói thay đổi thể chế tôi chắc ông
Bùi Quang Vinh muốn nói thay đổi thể chế để làm kinh tế có hiệu lực hơn.
Đó là điều mà người ta chờ đợi ông ta nói thì đáng lẽ ông phải nói.
Bây giờ nhìn vào cương lĩnh của Đảng Cộng sản, tức hai báo cáo chính trị
và báo cáo về kinh tế - xã hội, thì không có định hướng. Tôi thấy rõ
hoàn toàn: lần đầu tiên một tài liệu đã mất nhiều thời giờ để soạn thảo
nhưng cuối cùng không nói gì cả. Bởi vì chúng ta đang đứng trước một thử
thách rất lớn là sự thay đổi về nhiên liệu. Tại hội nghị COP-21, thế
giới quyết định chuyển hóa từ năng lượng, nhiên liệu dầu mỏ sang nhiên
liệu tái tạo được thì Việt Nam phải ứng phó như thế nào. Giá của nhiên
liệu, đặc biệt của allumin (nhôm) chẳng hạn, sẽ giảm rất nhiều trong
thời gian dài trước mắt, vậy thì kế hoạch bauxite Tây Nguyên phải xử lý
như thế nào; Việt Nam có tiếp tục xây 16 lò điện nguyên tử nữa hay
không? Hay chính quyền đã hiểu rằng nó quá nguy hiểm cho sự tồn vong của
đất nước mà chúng ta không thấy một lời nào trong cương lĩnh chính trị
cả.
Còn những vấn đề khác như khi vào TPP- khối hợp tác xuyên Thái Bình
Dương, thì nền kinh tế phải thích nghi như thế nào? Tôi chờ đợi những
điều đó, tôi đã đọc và không thấy gì hết.
Theo tôi có một việc làm khẩn cấp (khẩn cấp vì không thể làm nhanh)(1), đó là chuyển hóa từ một nền kinh tế dựa trên xuất khẩu sang một nền kinh tế lấy thị trường nội địa làm căn bản. Đó là điều bắt buộc.
Đó là một văn bản rỗng nghĩa. Cho nên trở lại vấn đề ông Bùi Quang Vinh,
nếu có một việc phải làm là phải hủy bỏ bộ kế hoạch đi, hai là phải trả
lời cho những câu hỏi cấp bách về định hướng mới về kinh tế Việt Nam.
Nhưng tôi thấy hoàn toàn không có, cho nên sự đổi mới về thể chế thì có
thể nói là Đảng cộng sản nhìn thấy chế độ đang sa lầy và nếu không đổi
mới thì sự tồn vong của chế độ sẽ bị đe dọa nặng nề, sự sụp đổ là chắc
chắn; nhưng phải nói họ thực sự không biết phải đổi mới cái gì.
Gia Minh: Là người từng có ý kiến về việc thay đổi để có
thể đưa đến một đất nước tốt đẹp mà như ông nói Đảng cộng sản (VN) đang
bối rối không có định hướng rõ ràng, thì theo ông cần phải làm gì lúc
này?
Ông Nguyễn Gia Kiểng: Theo tôi có một việc làm khẩn cấp
(khẩn cấp vì không thể làm nhanh), đó là chuyển hóa từ một nền kinh tế
dựa trên xuất khẩu sang một nền kinh tế lấy thị trường nội địa làm căn
bản. Đó là điều bắt buộc. Việt Nam hiện nay là quốc gia lệ thuộc nặng nề
vào môi trường thế giới. Chúng ta có một chỉ số đo lường sự lệ thuộc
đó. Đó là lấy ngoại thương (xuất khẩu) cộng với nhập khẩu so sánh với
GDP (tổng sản lượng quốc gia). Bình thường những quốc gia lành mạnh
người ta ở mức 50% hay 30%. Những quốc gia xuất khẩu nhiều như Đức (quốc
gia xuất khẩu nhiều nhất tại Châu Âu), tỷ lệ đó là 80%. Trong trường
hợp Hàn Quốc, một nền kinh tế rất mạnh, cũng có ngoại lệ đi tới trên
80%. Còn những nước khác ở mức 50%-60% là nhiều. Nhưng ở Việt Nam mức độ
đó là 200%; tức nền kinh tế Việt Nam sẽ rất lệ thuộc vào những biến
chuyển trên thế giới, và không làm chủ được. Đó là điều rất nguy hiểm.
Trong tình trạng đó, mọi kế hoạch đều rất mơ hồ vì chúng ta không làm
chủ được tình thế. Mọi định hướng đều rất mơ hồ đó là một điều mà trong
dự án chính trị của anh em chúng tôi trong Tập hợp Dân chủ Đa Nguyên với
dự án chính trị ‘Khai sáng Kỷ nguyên Thứ hai’ được coi là một trong 12
định hướng lớn mà nhà nước phải làm ngay từ bây giờ. Bởi vì chuyển hóa
từ một nền kinh tế đặt nền tảng trên xuất khẩu sang nền kinh tế lấy thị
trường nội địa làm nền tảng là một sự chuyển hóa rất khó khăn, không thể
làm nhanh được, phải làm từ từ bắt đầu ngay từ bây giờ. Phải hiểu rằng
tình trạng rất nguy ngập cho kinh tế Việt Nam.
Gia Minh: Hiện nay Việt Nam đang lệ thuộc Trung Quốc rất
nhiều không chỉ về mặt chính trị mà còn về mặt kinh tế vì Việt Nam ở sát
nước này và biết bao nguồn hàng của Trung Quốc cũng như nhiều doanh
nghiệp Trung Quốc đang ở Việt Nam để thao túng, vậy làm sao để hóa giải
tình trạng với Trung Quốc?
Ông Nguyễn Gia Kiểng: Điều thứ nhất là phải giảm bớt những
công trình xây dựng kết cấu hạ tầng do Trung Quốc xây dựng. Hiện nay
Trung Quốc được trúng thầu từ 80-90%. Đó chính là lời của các viên chức
trong chế độ. Chúng ta quá lệ thuộc Trung Quốc. Điều thứ hai chúng ta
phải đặt những người có khả năng thực sự vào những vai trò chỉ huy.
Chúng ta thấy tất cả báo chí đều nói các công trình đó đều rất bê bối,
không đạt yêu cầu; thế nhưng chúng ta chưa thấy vụ án nào hết. Chúng ta
không làm được, tôi chắc rằng Nhà nước (VN) không làm được vì những điều
kiện hợp đồng, tiến trình thi công, công thức tiếp thu từng phần một
không rõ ràng, không cho phép Việt Nam truy tố những chủ thầu bê bối và
bắt họ phải nộp phạt. Thế thì một trong những định hướng là phải giảm
bớt những công trình giao cho Trung Quốc khi mà Việt Nam không thể kiểm
soát được trong quá trình thi công. Ít ra phải giao cho những nước như
Nhật Bản, Hàn Quốc có phương pháp, danh dự, đạo đức nghề nghiệp hơn.
Định hướng thứ hai là phải thiết lập lại kiểm soát ở biên giới chứ không
thể để cho hàng hóa của Trung Quốc tràn ngập vào Việt Nam như chỗ không
người.
Điều thứ ba dù muốn hay không phải chuẩn bị để hợp tác chặt chẽ với TPP
vì không thể nhờ vả Trung Quốc được nữa. Chính Trung Quốc cũng đứng trên
bờ vực thẳm, Trung Quốc đang lâm vào một cuộc khủng hoảng rất lớn. Cho
đến nay, Trung Quốc từng hứa viện trợ cho Việt Nam trong vòng 5 năm hai
chục tỷ đô la Mỹ và cho Việt Nam vay 100 tỷ đô la Mỹ trong vòng 5 năm.
Thế nhưng vừa rồi ông Tập Cận Bình sang Hà Nội cho biết trong vòng 5 năm
tới, Trung Quốc chỉ viện trợ không cho Việt Nam 1 tỷ Nhân dân tệ, tương
đương 150 triệu đô la mà thôi. Tức trong vòng năm năm, chia ra cho mỗi
năm thì mỗi năm được 30 triệu; chia ra cho 90 triệu dân thì mỗi người
được 30 cents, không thấm tháp vào đâu cả. Và số cho vay cũng chỉ 5 tỷ
nhân dân tệ. Việt Nam từ trước đến giờ dựa vào Trung Quốc, lệ thuộc vào
Trung Quốc tức bán hàng mang nhãn mác Trung Quốc và thâm thủng ngoại
thương rất nhiều với Trung Quốc. Vấn đề tự nó phải giải quyết: một là
chính quyền Việt Nam tự lập được, hai là phải sụp đổ vì có muốn dựa vào
Trung Quốc cũng không được nữa.
Bài toán thoát Trung về mặt chính trị cũng như về mặt kinh tế là bắt
buộc. Việt Nam dù muốn hay không cũng không thể dựa vào Trung Quốc được
nữa, Việt Nam chỉ có cách một là thành công trong việc thoát Trung, hai
là sụp đổ mà thôi.
Gia Minh: Nhiều ý kiến cho rằng do những yếu tố khách quan
thúc đẩy Việt Nam đến lúc phải thừa nhận cần thay đổi chính trị, theo
ông đâu là những thúc bách dồn Đảng Cộng sản Việt Nam đến chỗ thay đổi
chính trị?
Bài toán thoát Trung về mặt chính trị cũng như về mặt kinh tế là bắt buộc. Việt Nam dù muốn hay không cũng không thể dựa vào Trung Quốc được nữa, Việt Nam chỉ có cách một là thành công trong việc thoát Trung, hai là sụp đổ mà thôi.
Ông Nguyễn Gia Kiểng: Tôi nghĩ vì từ trước chọn lựa của
các cấp lãnh đạo Việt Nam là dựa vào Trung Quốc để tồn tại. Các cấp lãnh
đạo Việt Nam có thể có quan niện khác nhau trên rất nhiều vấn đề, họ có
thể xung đột với nhau để tranh giành quyền lực; nhưng họ đều đồng ý với
nhau phải dựa vào Trung Quốc để tồn tại. Thế nhưng bây giờ vấn đề là họ
không thể nhờ vào Trung Quốc, không thể dựa vào Trung Quốc, họ cảm thấy
đang dựa vào một bức tường bằng giấy, và họ bắt buộc phải mở cửa, hội
nhập với thế giới dân chủ. Cho nên mới có những chuyến thăm Mỹ như của
ông Nguyễn Phú Trọng gần đây… Không phải ông Trọng muốn cởi mở đâu, ông
ta là một người rất bảo thủ; nhưng không có chọn lựa nào khác. Về chọn
lựa này, tôi nghĩ Đảng Cộng sản (VN) có nhiều cơ hội, nhiều dịp để nhìn
thấy cái bắt buộc chuyển hóa thể chế sang dân chủ; nhưng họ đã từ chối
làm và sau khi từ chối làm nhiều quá, theo tôi nghĩ thời gian đã hết và
bây giờ quá trễ để có thể chuyển hóa. Cho nên giải pháp cho Việt Nam là
phải có một giải pháp thay thế, phải có một lực lượng dân chủ để thay
thế. Chứ tôi nghĩ Đảng cộng sản Việt Nam từ chỗ chần chừ, từ chỗ không
muốn đổi mới đã rơi vào tình trạng không thể đổi mới được nữa.
Gia Minh: Không thể thế nhưng quyền lực vẫn nằm trong tay
Đảng Cộng sản Việt Nam. Với những yếu tố khách quan như vừa nói, theo
ông tình hình đến lúc nào sẽ có những thay đổi phải diễn ra?
Ông Nguyễn Gia Kiểng: Một đặc tính chung của các chế độ
độc tài, nhất là chế độ độc tài cộng sản là cho đến một tuần lễ trước
khi sụp đổ vẫn tỏ ra rất vững vàng. Nhưng rồi nó sụp đổ như là bị ‘nhồi
máu cơ tim’ vậy. Đằng nào cũng sẽ có thay đổi. Điều mà chúng ta lo ngại
là sự sụp đổ của chế độ cộng sản chỉ nhường chỗ cho một khoảng trống
chính trị, do đó có sự hỗn loạn. Nhưng tôi nghĩ cũng không nên quá bi
quan, người Việt Nam cũng có sự chuẩn bị tinh thần. Tôi cũng quan sát sự
thay đổi của những nước chuyển hóa từ độc tài sang dân chủ, tôi thấy
đều không có tổ chức hết. Vì tất cả những chế độ độc tài đều quyết tâm
không để nhen nhóm các tổ chức đối lập. Thế nhưng ở Việt Nam có một giới
dân chủ, hạt nhân dân chủ nghĩ đến sự thay đổi, và ít ra chúng ta biết
phải thay đổi những gì. Đối lập Việt Nam dù chưa có lực lượng mạnh nhưng
biết mình phải làm những gì nên chúng ta sẽ không bở ngỡ như những dân
tộc khác.
Gia Minh: Nhiều người chờ đợi đại hội đảng qua đi và nhân
sự mới được đưa lên thì thấy được hướng, ông có nghĩ nhận định đó đúng
đắn không?
Ông Nguyễn Gia Kiểng: Tôi nghĩ sự chờ đợi đó là tự nhiên,
ai mà không chờ đợi, mặc dù tôi là người đối lập tôi cũng chờ đợi những
khuôn mặt mới. Nhưng phải thực tế nhìn nhận rằng số người đó cũng nằm
trong số những người mà chúng ta đã biết. Tất cả những người đó là sản
phẩm của một guồng máy sàng lọc đã đào thải hết những con người có ý
kiến cá nhân, có suy tư độc lập. Bản lĩnh của những người đó chúng ta
thấy và có thể đánh giá được. Nên tôi nhắc lại một điều là chờ đợi thì
cứ chờ đợi và chúng ta không mong muốn gì hơn sẽ có người tiến bộ, có
người nhìn thấy vấn đề, có người có khả năng.
Tôi trở lại nhận xét rất thành thực là vì Đảng Cộng sản đã từ chối đổi
mới quá lâu và để cho tình hình mâu thuẫn nội bộ, những mâu thuẫn về
quản lý đất nước trong nội bộ tích lũy nhiều quá cho nên, thành thực mà
nói, vào giờ này đã hơi trễ cho Đảng Cộng sản để có thể đổi mới thực sự
và tồn tại được.
Cuộc chiến dường như đã kết thúc
Mặc Lâm, phóng viên RFA
2016-01-24
2016-01-24
Chiều ngày 23 tháng 1 vừa qua Thượng Tướng Võ Tiến Trung, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Giám đốc Học viện Quốc phòng, từ
Đại hội khóa XII đã cho báo chí biết những thông tin quan trọng về kết
quả cuộc đề cử chức danh Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.
Theo tiết lộ của ông Trung thì trong Ban chấp hành Trung ương khóa XI
có giới thiệu 4 người ở lại với cương vị này và ông Nguyễn Phú Trọng là
người thứ 5 được Bộ chính trị giới thiệu lên Trung ương như 4 người
kia, nhưng khác với họ ông không rút tên ra khỏi danh sách đề cử.
Sau khi Đại hội đại biểu khóa XII khai mạc được ba ngày, hầu hết các tờ
báo chính thống của Việt Nam đều chạy cái tít nơi trang nhất: “Duy nhất
đồng chí Nguyễn Phú Trọng ứng cử cho chức danh Tổng Bí thư”.
Theo báo chí có 5 người được đề cử thì hết 4 người xin rút tên trong đó
có Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người được dư luận trong và ngoài nước cho
là ứng viên nặng ký nhất trong vị trí Tổng bí thư khóa XII.
Thượng tướng Võ Tiến Trung cũng cho báo chí biết, sở dĩ Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng không xin rút khỏi danh sách như 4 người kia là vì ông
đã được Bộ chính trị thống nhất giới thiệu trước đó.
Theo Thượng tướng Võ Tiến Trung thì ông Nguyễn Phú Trọng dù lớn tuổi
nhưng được Trung ương khóa XI đồng ý là trường hợp đặc biệt để tái cử
vào chức vụ Tổng Bí thư khóa XII.
Từ nhiều tuần qua tin tức về việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng xin rút tên
ra khỏi danh sách đề cử chức vụ Tổng bí thư đã loan tải rộng rãi trên
mạng Internet và giới quan sát cho rằng đây là kết quả tính theo thời
điểm phe nào mạnh hơn. Tuy không ai xác định là tin rò rỉ từ nguồn nào
nhưng hơn một tháng về trước, từ Hà Nội, nguồn tin ông Nguyễn Phú Trọng
sẽ giữ chức Tổng bí thư thêm nửa nhiệm kỳ nữa đã râm ran trong giới thạo
tin mặc dù giới quan sát không cho rằng đây là khả năng có thể xảy ra
khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng còn khá nhiều quân cờ trong tay để vươn
tới chức vụ cao nhất nước này.
Nói với báo chí bên lề đại hội XII những chi tiết mà người dân từng nghe
vài ngày trước đây như một xác định sự thắng thế của ông Nguyễn Phú
Trọng tiếp tục nắm giữ vai trò Tổng bí thư, ông Võ Tiến Trung trong tư
cách gần như đại diện cho Đại hội XII cho biết ông Nguyễn Phú Trọng ở
lại nhằm kế thừa, tập hợp giữ vững chính trị, giữ vững khối đoàn kết
toàn dân, và đặc biệt là giữ đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Ông Nguyễn Khắc Mai nguyên Vụ trưởng Vụ Nghiên Cứu, Ban Dân vận Trung
ương cho biết ý kiến của ông sau khi nhận được tin này, ông nói:
-Tôi gửi cái thư cho Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, cho Thủ tướng
Chính phủ nói về sự tôn nghiêm của nhà nước và của cái đảng này. Nếu
đảng thật sự văn mình và đạo đức thì phải giữ gìn sự tôn nghiêm!
Người ta đã tố cáo Nguyễn Phú Trọng 14 tội có tính chất phản quốc và
cái tin này đã công khai trên mạng thế thì phải nghiên cứu, phải xét xử,
phải kết luận Trọng vô can vô tội hay Trọng có tội. Tôi không kết luận
14 điều ấy nhưng tôi có chứng cớ của cá nhân tôi có một số điều mà cái
tố cáo 14 tội phản quốc ấy là có cơ sở.
Thế thì đại hội nếu bầu một cái anh mà người ta đã tố cáo là phản
quốc thì cái đại hội ấy là cái gì? Và như thế tức là tôi đã dề nghị đại
hội phải lập một ủy ban xem xét tư cách của Nguyễn Phú Trọng trên cơ sở
như đã bị tố cáo với tội danh có tính chất phản quốc. Đại hội phải bác
bỏ thông tin này và khẳng định Nguyễn Phú Trọng vô tội thì bầu anh ta
mới có lý còn nếu không thì đại hội này đứng trước một vấn đề rất nghiêm
trọng của lịch sử là anh hồ đồ và anh thiếu văn hóa vì người ta tố cáo
như vậy nhưng anh không kiện ra. Nếu anh bầu tức là anh công nhận, anh
đạp lên trên dư luận của xã hội. Thế thì còn gì là văn minh là đạo đức
mà Hồ Chí Minh đặt ra cho cái đảng Cộng sản này?
Từ Đà Lạt, TS Hà Sĩ Phu người từng tranh đấu cho dân chủ nhân quyền
trong nhiều năm qua cho biết nhận xét của ông về vai trò mà ông Nguyễn
Phú Trọng sắp tiếp tục nắm giữ:
-Cái tin này cũng là cái tin chưa thật chính thức, chính thống của cơ
quan phát ngôn thế nhưng từ một ông có tên có tuổi mà lại rất trung
thành với xã hội chủ nghĩa, trung thành với đảng thì nói gì ta phải tin
ông ấy. Tôi nghĩ rằng dựa trên kết quả đó thì thật là đáng buồn bởi vì
nếu phe của ông Trọng mà thắng thì xã hội lại rất ổn định theo Tàu. Phần
lệ thuộc Tàu thì chắc rồi, không trục trặc gì đâu rất là ổn định.
Ông Trọng ở lại thì tôi thấy có mấy điều như thế này. Thứ nhất cái
quan hệ với Tàu không cứng rắn lên được tí nào, đấy là một. Thứ hai thì
vấn đề dân chủ sẽ không có bởi vì ông ấy cứ chủ trương là xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đảng lãnh đạo thì làm gì có tự do? Thứ ba nữa có thể ông
ấy sẽ ở lại một hai năm nhưng ở lại một hai năm thì ông ấy sẽ cản trở
mối quan hệ với nước ngoài ngay cả TPP cũng không đến nơi đến chốn và
ông ta sẽ dẹp nót tất cả những người có quan điểm không đồng ý với cánh
của ông ta.
Tôi nghĩ một người đã thân Trung Quốc mà lại bảo thủ như thế thì chỉ
cần ở lại thêm một hai năm nữa cũng làm cho tình hình xấu đi nhiều.
Người ta đã tố cáo Nguyễn Phú Trọng 14 tội có tính chất phản quốc và cái tin này đã công khai trên mạng thế thì phải nghiên cứu, phải xét xử, phải kết luận Trọng vô can vô tội hay Trọng có tội.
TS Nguyễn Thanh Giang, một người tranh đấu cho dân chủ khác tại Hà Nội
biểu lộ sự thất vọng tuyệt đối của ông trước tuyên bố của Thượng tướng
Võ Tiến Trung, TS Giang nói:
-Nếu cái tin ấy là sự thật thì đấy là một cái tin hết sức đáng buồn,
đáng ngạc nhiên. Không chỉ buồn cho tôi mà buồn cho dân tộc Việt Nam.
Ông Nguyễn Phú Trọng nếu kéo đài một nhiệm kỳ nữa thì với một con người
tuổi tác đã cao, năng lực thì không có gì, ý chí cũng kém, còn bằng cấp,
học vị của ông ấy không nói lên được gì cả bởi vì biểu hiện ra bên
ngoài của ông ấy không có cái gì tỏ ra là một người tinh anh, không có
gì tỏ ra có nghị lực, sáng suốt và nắm bắt được cái viễn kiến của thế
giới và trong nước.
Phát biểu của ông ấy làm cho người ta khẳng định rằng ông chính là
người làm cho Đảng cộng sản Việt Nam tách ra khỏi nhân dân Việt Nam. Và
điều quan trọng nhất là rất nhiều người nghi ngờ rằng ông ấy là nội ứng
của Trung Quốc. Mà nếu không phải là nội ứng của Trung Quốc nhưng cách
cư xử cách giải quyết vấn đề của đất nước và dân tộc như vậy thì chứng
tỏ ông ấy sẵn sàng đẩy nhân dân vào vòng nô lệ của Trung Quốc. Đấy là
cái điều tệ hại hơn tất cả những điều tệ hại.
Thượng tướng Võ Tiến Trung tuy chỉ xuất hiện vài lần hiếm hoi trên mặt
báo khi chuẩn bị Đại hội Đảng khóa XII nhưng có vẻ ông đã được chọn là
người phát ngôn cho đại hội. Những dẫn giải của ông về vấn đề bảo vệ đất
nước có liên quan đến Trung Quốc vài ngày trước đây cho thấy ông đã
được hệ thống chỉ đạo về các phát biểu quan trọng liên quan đến đường
lối quốc phòng trong công cuộc bảo vệ đất nước.
Nhìn ông Võ Tiến Trung dưới một lăng kính khác, TS Hà Sĩ Phu cho rằng
ông Trung là người cùng phe với ông Nguyễn Phú Trọng vì quan điểm riêng
của ông về vấn đề chủ quyền đất nước phù hợp với điều mà ông Trọng từng
theo đuổi trước đây. TS Hà Sĩ Phu cho biết:
-Nhân tiện đây tôi cũng nói về ông Võ Tiến Trung một tí. Ông ta chủ
trương yêu nước mà yêu từ xa. Yêu nước từ xa nghe thì có vẻ cao đạo lắm!
Nó đâm tàu cá của anh, nó thiết lập các cơ quan quan trọng nơi hiểm yếu
của đất nước anh, anh bị xâm lược rất lâu rồi mà lại còn nói chuyện yêu
nước từ xa thì lúc nào mới xa nữa? Đó chính là tiếp tay để cho chế độ
bắc thuộc nó được yên lành, để cho nó chiếm nước mình một cách thật ngon
lành. Theo tôi nghĩ cả cái cánh của ông ta như thế thì ông Trọng đúng
là tiêu biểu cho thân Tàu rồi.
Một điểm nhỏ nhưng ý nghĩa có thể lớn mà ông Võ Tiến Trung tiết lộ cho
báo chí rằng mặc dù những người rút tên ra khỏi danh sách đề cử nhưng
nếu Đại Hội không đồng ý thì họ có thể tiếp tục là một ứng viên cho chức
danh Tổng Bí Thư. Tiết lộ này như một dấu chấm hỏi cho người dân khi
hầu hết tin rằng ván cờ đã được định đoạt, ông Nguyễn Tấn Dũng đã rời
khỏi sân đấu và ông Trọng chỉ việc ngồi đó và chờ đọc diễn văn nhậm
chức.
Lời kêu gọi của BT Bùi Quang Vinh liệu có khả thi?
Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ RFA
Một điều gây sôi nổi trong ngày thứ hai đại hội toàn quốc Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ 12 được nói là kêu gọi đổi mới thể chế chính do đại
biểu Bùi Quang Vinh, bộ trưởng Kế hoạch- Đầu tư, nêu ra.
Kêu gọi cũ được lặp lại
“Một hệ thống chính trị phù hợp với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
trong chiến tranh nay không còn phù hợp nền kinh tế thị trường, thậm chí
còn là rào cản, trở ngại cho sự phát triển”. Đó là câu được trích dẫn
từ bài phát biểu của ông Bùi Quang Vinh, Bộ trưởng Kế hoạch - Đầu tư tại
phiên thảo luận về văn kiện của Đại hội Đảng.
Ông Bùi Quang Vinh thừa nhận Việt Nam đạt được một số thành tựu về mặt
kinh tế trong thời gian ba chục năm qua; thế nhưng so với các nước trong
khu vực có cùng tương quan thì chưa thể bằng lòng bởi Việt Nam còn là
nước nghèo.
Tôi chỉ hy vọng bài phát biểu này phần nào sẽ tác động đến 1510 con người đang ngồi đó và có thể họ có sự nhìn nhận lại, suy nghĩ lại để có những hành động quyết liệt hơn cứu nguy cho đất nước, cứu nguy cho dân tộc trong hoàn cảnh cấp bách này.
-Nguyễn Lân Thắng
Thế rồi so với những quốc gia cũng trải qua chiến tranh như Nhật Bản,
Hàn Quốc, họ cũng từ nền nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu trở nên quốc gia
có nền kinh tế phát triển. Việt Nam có thời gian 40 năm sống trong hòa
bình, độc lập, 30 năm đổi mới nhưng tình trạng vẫn như hiện nay thì yêu
cầu đổi mới là cấp bách hơn bao giờ hết. Đổi mới thì đảng mới có thể
sống còn.
Và theo ông Bùi Quang Vinh nếu thực hiện được chuyện thay đổi hệ thống
chính trị hiện nay thì đảng cộng sản Việt Nam sẽ khôi phục lại được niềm
tin đã mất nơi người dân.
Thực tế khách quan buộc phải thay đổi hệ thống chính trị
Nhiều người nghe và biết về bài phát biểu của ông Bùi Quang Vinh đưa ra
vào ngày 22 tháng giêng vừa qua tỏ ra đồng ý với kêu gọi như thế. Họ
cũng nhận định là thực tế khách quan buộc Việt Nam phải thay đổi hệ
thống chính trị hiện nay cho phù hợp thì mới có thể phát huy hiệu quả
của những chuyển đổi kinh tế lâu nay.
Nhà hoạt động Nguyễn Lân Thắng có ý kiến:
“Thực ra yêu cầu thúc bách hệ thống chính trị của Việt Nam phải có
thay đổi đã có từ khá lâu rồi; nhưng chưa bao giờ nó dồn dập đến như bây
giờ. Và tình hình kinh tế, chính trị dường như đến bước đường cùng rồi.
Có thể chỉ có một sự kiện, một việc nào đó mà tác động thêm một chút
nữa thôi thì như giọt nước tràn ly. Và có lẽ không còn đường nào cho
Đảng cộng sản nếu như vẫn cứ tiếp tục kiên định con đường chủ nghĩa xã
hội, vẫn tiếp tục kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì
tất cả các nguồn lực xã hội cũng như khả năng vay nợ nước ngoài, cũng
như tình hình bi đát của kinh tế, xã hội quá khủng khiếp rồi!”
Một người khác, ông Võ Phù Đổng, cũng trình bày:
“Tôi nghĩ đổi mới về chính trị đó là điều tất yếu, vì Việt nam từ năm
1986 đến nay đã đổi mới rất nhiều về đường lối kinh tế nên tôi nghĩ vấn
đề chính trị phải tương đồng, phải đi theo. Việt Nam đã đổi mới nhưng
đổi mới không đồng bộ. Sức ép trong nội tại của Việt Nam bắt buộc, đòi
hỏi phải tiến tới đổi mới. Tôi nghĩ hiện nay vẫn còn lực cản này nọ,
nhưng chắc chắn nhu cầu đòi hỏi phát triển xã hội là một qui luật.”
Đánh giá ông Bùi Quang Vinh và tính khả thi
Ở Việt Nam lâu nay thường những quan chức Đảng và chính phủ sau khi về
hưu hay có những phát ngôn mạnh mẽ mà khi đương chức vì lý do này hay lý
do khác họ không nói ra. Riêng trường hợp ông Bùi Quang Vinh thì đây
không phải là lần đầu tiên ông có những phát biểu được cho là ‘thẳng
thắn’ như thế.
Cũng mới đây vào ngày tháng giêng này, ông Vinh nói với báo chí trong nước là ‘cứ bình tĩnh, không đổi mới thì Việt Nam sẽ khó khăn, sẽ tụt hậu. đó là điều rõ ràng rồi’.
Trong năm 2013, ông Bùi Quang Vinh có phát biểu được gọi là ấn tượng như ‘Tôi
nói rằng đất nước này cần công khai, minh bạch và không được có tham
nhũng, bởi đó là những thứ này làm cho đất nước này ‘chết’ nhanh chóng
nhất. Công việc này vô cùng khó khăn, động chạm đến rất nhiều người, vì
làm họ mất rất nhiều quyền.’
Thực tế cho thấy ông Bùi Quang Vinh không thể làm gì trong một hệ thống
chính trị nhu lâu nay tại Việt Nam. Và kêu gọi đổi mới mà ông vừa đưa ra
cũng khó được thực hiện như nhận định của nhà hoạt động Nguyễn Lân
Thắng:
Theo tôi đổi mới về mặt chính trị của Việt Nam trong thời gian tới đã đến giai đoạn chín muồi; khoảng từ 60%-70% trong kỳ đại hội đảng từ trong nội bộ đảng có sức ép cải cách rất lớn.
-Võ Phù Đổng
“Thực ra ông Vinh là người mà tôi trong thời gian còn làm việc trong
cơ quan Nhà nước tôi đã từng làm dưới quyền ông ta trong những dự án ở
tỉnh Lào Cai, phía bắc. Tôi rất hiểu con người ông Vinh. Những bài phát
biểu như vậy phản ánh đúng con người ông ta mà tôi từng biết. Tuy nhiên
việc những phát biểu như thế có thực hiện được, có làm được hay không
phụ thuộc vào cả một hệ thống. Tôi chỉ hy vọng bài phát biểu này phần
nào sẽ tác động đến 1510 con người đang ngồi đó và có thể họ có sự nhìn
nhận lại, suy nghĩ lại để có những hành động quyết liệt hơn cứu nguy cho
đất nước, cứu nguy cho dân tộc trong hoàn cảnh cấp bách này.”
Tuy vậy, ông Võ Phù Đổng lại cho rằng thực tế khách quan sẽ đưa đến thay đổi sớm ngay trong năm nay:
“Thứ nhất tôi thấy ông ấy là một trong những người thuộc giới cấp
tiến của chính quyền Việt Nam không phải bây giờ mà đã trong một vài năm
qua rồi. Ông Bùi Quang Vinh có nhiều lần phát biểu tương đối thẳng thắn
là Việt nam cần phải đổi mới. Đôi khi chúng tôi nói đùa đúng ra ông này
hoạt động dân chủ mới đúng. Ông ta không bao giờ tự nhận là nhà hoạt
động dân chủ nhưng sự ăn nói của ông rất gần giống với những anh em dân
chủ. Ông ta được cho là một trong những người cấp tiến của Đảng cộng sản
Việt Nam. Quan điểm của cá nhân tôi cho rằng những phát biểu như của
ông Bùi Quang Vinh, ông Vũ Ngọc Hoàng thì không có gì lạ.
Theo tôi đổi mới về mặt chính trị của Việt Nam trong thời gian tới đã
đến giai đoạn chín muồi; khoảng từ 60%-70% trong kỳ đại hội đảng từ
trong nội bộ đảng có sức ép cải cách rất lớn. Chúng tôi tin rằng trong
năm 2016 này những sự đổi mới chính trị ở Việt Nam chắc chắn sẽ xảy ra.
Vấn đề xảy ra ở mức độ nào thôi. Tôi cho rằng trong năm 2016 này chắc
chắn sẽ dẫn đến những đổi mới nếu không thực sự là đa nguyên, đa đảng
thì cũng có cái gì đó đổi mới được một phần quan trọng để tiến đến điều
đó.”
Tiếng nói của những người được đánh giá là cấp tiến như của ông bộ
trưởng Kế hoạch- Đầu tư Bùi Quang Vinh sắp về hưu vẫn còn quá ít ỏi
trong số 1510 vị đại biểu tham dự Đại hội đảng toàn quốc lần 12. Một
hoạt động 5 năm được mở ra một lần để vạch đường hướng cho cả nước
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/call-urgent-reform-repeated-at-vcp-congress-gm-01232016072740.html
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/call-urgent-reform-repeated-at-vcp-congress-gm-01232016072740.html
Châu Á vào đợt lạnh 'lịch sử'
Nhiệt độ ở Sapa, tỉnh Lào Cai của Việt Nam xuống tới -4 độ C trong khi ở Hong Kong thời tiết lạnh nhất trong gần 60 năm.
Truyền thông trong nước dẫn lời ông Lưu Minh Hải, Giám đốc Đài khí tượng
thủy văn Lào Cai, cho hay đài này đã ghi nhận được nhiệt độ thấp nhất
tại Sapa là -4,2 độ hôm Chủ nhật 24/1.
Đây là nhiệt độ thấp nhất tại Sapa trong 60 năm nay, kể từ khi có số liệu quan trắc.
Tuyết rơi khá dày tại nhiều nơi vùng cao phía Bắc, trong đó có cả ở Ba Vì, ngoại thành Hà Nội.
Đợt rét hiện nay vẫn diễn ra trong những ngày tới.
Tại các nơi khác ở Á châu, nhiệt độ cũng xuống mức kỷ lục.
Đảo Jeju của Hàn Quốc có tuyết rơi dày nhất trong ba thập niên, khiến hàng trăm chuyến bay tới đây bị hủy.
Jeju là địa chỉ du lịch nổi tiếng, và hàng nghìn du khách hiện đang bị kẹt lại nơi đây.
Toàn bộ 517 trong ngày Chủ nhật bị hủy, cũng như 60 chuyến hôm thứ Hai, khi tuyết rơi dày tới 11cm.Ở Hong Kong, nhiệt độ xuống tới 3 độ C, thấp nhất trong gần 60 năm.
Chính quyền thành phố khuyến cáo người dân mặc ấm và không ở ngoài trời gió trong thời gian dài.
Trung Quốc cũng ra cảnh báo về đợt lạnh đang ùa về.
Nhân dân Nhật báo nói thành phố Quảng Châu có tuyết rơi lần đầu tiên từ năm 1929.
Tại Nhật Bản, hãng tin Kyodo nói 5 người chết và hơn 100 người bị thương vì lý do thời tiết trong 24 giờ qua ở nước Nhật.
Giao thông tại nước này bị ảnh hưởng.
Theo Kyodo, lần đầu trong 115 năm có tuyết rơi trên đảo Amami cách thành phố Kagoshima 380km về phía tây nam.
http://www.bbc.com/vietnamese/world/2016/01/160125_cold_weather
Thành phố New York tê liệt vì bão tuyết
- 24 tháng 1 2016
Image
Người dân New York án binh bất động, giao thông ngưng trệ vì trận bão tuyết thuộc loại tồi tệ nhất lịch sử tràn qua.
Nhiều nơi ở Bờ Đông Hoa Kỳ chịu mưa tuyết đổ dày tới 102cm và đợt thiên tai này ảnh hưởng tới 85 triệu người.Nhà chức trách New York bắt đầu hạn chế đi lại lúc 14:30 chiều giờ địa phương thứ Bảy 23/1 (02:30 sáng Chủ nhật giờ Hà Nội).
Tuyết dày đổ xuống các thành phố tại hơn 20 bang từ thứ Sáu.
Thời tiết xấu làm ít nhất 17 người chết, đa phần vì tai nạn giao thông. 11 bang tuyên bố tình trạng khẩn cấp.
Hàng chục nghìn gia đình không có điện và tắc nghẽn giao thông kéo dài trên 12 tiếng đồng hồ diễn ra tại Kentucky và Pennsylvania.
Đợt thiên tai này ảnh hưởng một khu vực rộng lớn ở trong nước, từ Alabama ở miền nam tới Massachusetts ở đông bắc.
Các diễn biến mới nhất ở New York:
Thống đốc bang New York Andrew Cuomo tuyên bố tình trạng khẩn cấp trong toàn tiểu bang.
Gần như hầu hết các chuyến bay tới New York đều bị hủy. Các đường hầm bị đóng cửa và giao thông không thật cần thiết bị cấm.
Dịch vụ tàu điện ngầm và nổi đều bị đình chỉ từ 16:00 chiều giờ địa phương (04:00 sáng Chủ nhật giờ Hà Nội)
Tại đường cao tốc ở Pennsylvania, hàng trăm người bị mắc kẹt trong xe hơi cả ngày.
Trong số đó có 250 sinh viên từ đại học Mary, bang North Dakota. Tuy nhiên ông chủ tịch trường này nói với BBC rằng không ai hoảng loạn.
Tại Kentucky về phía nam, tắc xe dài tới 56km vì mưa tuyết và tai nạn nhưng nay đã giải tỏa.
Hội Chữ thập đỏ đã dựng lều trại bên đường phục vụ người bị mắc kẹt trong giao thông.
Hơn 7.000 chuyến bay tới Bờ Đông bị hủy, riêng hôm thứ Bảy là 4.300. Các sân bay tại Washington DC tiếp tục đóng cửa vào Chủ nhật.
Một người chết hôm thứ Bảy tại Maryland vì đau tim khi đang dọn tuyết.
Tình trạng khẩn cấp được ban bố tại các tiểu bang New York, Tennessee, Georgia, Kentucky, North Carolina, New Jersey, Virginia, West Virginia, Maryland, Pennsylvania, và the District of Columbia
Chính phủ liên bang tạm ngừng hoạt động từ trưa thứ Sáu nhưng Tổng thống Barack Obama vẫn ở lại Tòa Bạch Ốc.
http://www.bbc.com/vietnamese/world/2016/01/160124_newyork_blizzard
Thứ hai, 25/01/2016
Miền đông nước Mỹ ngập chìm trong biển tuyết sau trận bão
25.01.2016
Trận bão tuyết kỷ lục đã đi qua, nhưng đã gây cảnh tê liệt suốt miền
đông nước Mỹ, khiến hàng vạn hộ gia đình mất điện, và làm hơn 10.000
chuyến bay bị hủy trong những ngày cuối tuần. Đối với hàng triệu người ở
lì trong nhà trú bão cuối tuần qua, bão dứt có nghĩa là họ phải bắt tay
vào đào bới tuyết để trở lại sinh hoạt thực tế. Thông tín viên Ramon
Taylor của đài VOA có bài tường trình sau đây.
Tài liệu về thời tiết sẽ ghi nhớ "trận bão mùa đông Jonas" là trận bão tuyết diễn ra theo đúng dự báo, tác động đến 85 triệu người Mỹ từ miền đông nam Hoa Kỳ, đến thủ đô Washington và thành phố New York, nơi tuyết đổ xuống đo được cao đến 68 centimét, mức lớn thứ hai trong sách kỷ lục.
Với những người sử dụng mạng xã hội gọi bão Jonas bằng những tên thân mật khác như Snowmaggedon, Snowpocalypse và Snowzilla, trận bão là một cái cớ để họ chia sẻ những lo lắng hồi hộp, thất vọng và đôi lúc những phán đoán đáng ngờ.
Nhưng giờ đây, trong khi mọi người đang đào tuyết mở đường để tìm cách trở lại với công việc, thì bất cứ cái thú nào cơn bão mang lại đã thực sự không còn nữa đối với nhiều người.
Anh Osvaldo Ayala, một cư dân New York, nói:
"Với những ai có xe hơi, thì bây giờ là ác mộng."
Đặc biệt với anh Osvaldo, khi cái xẻng xúc tuyết của anh nằm trong chiếc xe bị tuyết vùi lấp không mở cửa ra được.
Anh Matt, một cư dân khác ở New York cũng có xe hơi, nói rằng mục tiêu của anh là đào tuyết mở đường cho xong trước khi khối tuyết biến thành khối nước đá.
"Đó là một việc mà nếu như bạn cứ đứng ngó lui lại 3 mét, bạn thấy ngao ngán và chỉ muốn chui lại vào trong nhà mà than thở, nhưng nếu bạn cứ tiếp tục đào, xúc, và đừng nghĩ đến nó quá nhiều, thì khoảng hai tiếng đồng hồ sau, thì hy vọng bạn sẽ không đến nỗi nào."
Song đối với những người lớn tuổi ở thành phố này, thì tuyết chất đống gây ra rất nhiều khó khăn khác.
Ông Robert Meissner là một người lớn tuổi ở New York.
"Tôi nằm trong số những người may mắn. Ở tuổi tôi mà vẫn cố bước ra ngoài được. Nếu không còn đi lại bình thường được , thì quả là một sự liều mạng khi ra ngoài trong lúc thời tiết như thế này.”
Ông Meissner nói trận bão mùa đông năm nay là trận bão lớn nhất mà ông từng chứng kiến trong 59 năm ông ở New York. Nhưng ông nói miễn là mọi người còn xúc tuyết, thì ông vẫn xoay sở được với cái khung tập đi của mình.
Tài liệu về thời tiết sẽ ghi nhớ "trận bão mùa đông Jonas" là trận bão tuyết diễn ra theo đúng dự báo, tác động đến 85 triệu người Mỹ từ miền đông nam Hoa Kỳ, đến thủ đô Washington và thành phố New York, nơi tuyết đổ xuống đo được cao đến 68 centimét, mức lớn thứ hai trong sách kỷ lục.
Với những người sử dụng mạng xã hội gọi bão Jonas bằng những tên thân mật khác như Snowmaggedon, Snowpocalypse và Snowzilla, trận bão là một cái cớ để họ chia sẻ những lo lắng hồi hộp, thất vọng và đôi lúc những phán đoán đáng ngờ.
Nhưng giờ đây, trong khi mọi người đang đào tuyết mở đường để tìm cách trở lại với công việc, thì bất cứ cái thú nào cơn bão mang lại đã thực sự không còn nữa đối với nhiều người.
Anh Osvaldo Ayala, một cư dân New York, nói:
"Với những ai có xe hơi, thì bây giờ là ác mộng."
Đặc biệt với anh Osvaldo, khi cái xẻng xúc tuyết của anh nằm trong chiếc xe bị tuyết vùi lấp không mở cửa ra được.
Anh Matt, một cư dân khác ở New York cũng có xe hơi, nói rằng mục tiêu của anh là đào tuyết mở đường cho xong trước khi khối tuyết biến thành khối nước đá.
"Đó là một việc mà nếu như bạn cứ đứng ngó lui lại 3 mét, bạn thấy ngao ngán và chỉ muốn chui lại vào trong nhà mà than thở, nhưng nếu bạn cứ tiếp tục đào, xúc, và đừng nghĩ đến nó quá nhiều, thì khoảng hai tiếng đồng hồ sau, thì hy vọng bạn sẽ không đến nỗi nào."
Song đối với những người lớn tuổi ở thành phố này, thì tuyết chất đống gây ra rất nhiều khó khăn khác.
Ông Robert Meissner là một người lớn tuổi ở New York.
"Tôi nằm trong số những người may mắn. Ở tuổi tôi mà vẫn cố bước ra ngoài được. Nếu không còn đi lại bình thường được , thì quả là một sự liều mạng khi ra ngoài trong lúc thời tiết như thế này.”
Ông Meissner nói trận bão mùa đông năm nay là trận bão lớn nhất mà ông từng chứng kiến trong 59 năm ông ở New York. Nhưng ông nói miễn là mọi người còn xúc tuyết, thì ông vẫn xoay sở được với cái khung tập đi của mình.
- Xe ủi tuyết chạy trên đường Interstate 95 trong lúc tuyết bắt đầu rơi xuống ở Ashland, Virginia, ngày 22 tháng 1, năm 2016.
- Một người dân dắt chó trong tuyết ở Richmond, Virginia, ngày 22/1/2016
- Bà Donna Przychodzki, cư dân Secaucus, tiểu bang New Jersey, mua 2 xẻng xúc tuyết tại một cửa hàng ở Rutherford, ngày 22/1/2016
- Trận bão tuyết bắt đầu vào chiều thứ Sáu 22/1 và tiếp tục cho đến sáng sớm ngày Chủ nhật. Theo dự báo, tuyết sẽ đổ xuống nhiều tại ít nhất 15 tiểu bang, với những tình huống bão tuyết lịch sử có thể xảy ra tại Washington D.C., Baltimore và khu vực thành phố New York. Các giới chức thời tiết dự báo có khoảng từ 30 đến 90 centimét tuyết.
- Tuyết bắt đầu dính trên mũ và áo khoác của một cảnh sát Điện Capitol thủ đô Washington, ngày 22/1/2016.
- Các chuyến bay bị hủy bỏ trên bảng điện tử tại Sân bay La Guardia ở New York, ngày 22/1/2016.
- Cư dân đi bộ qua đường phố phủ đầy tuyết tại trung tâm thành phố Nashville, Tennessee, ngày 22/1/2016. Phần lớn trung tâm thành phố gần như trống trơn trong lúc các cơ quan nhà nước và chính quyền thành phố đều đóng cửa.
- Nhân viên Duke Energy làm việc để khôi phục điện lại cho một khu phố tại Matthews, tiểu bang North Carolina, ngày 22 tháng 1, 2016.
- Đại lộ Pennsylvania Avenue nhìn về hướng Điện Capitol gần như trống trơn vào buổi sáng sớm 22/1/2016 trong lúc thủ đô nước Mỹ đang chuẩn bị đối phó với trận bão tuyết lớn.
- Một cửa hàng tại Raleigh, North Carolina, quảng cáo những thiết bị 'thiết yếu, cho bão tuyết. ngày 21/1/2016.
- Ông Vincent Ayd (trái), chủ cửa hàng bán dụng cụ Ayd và tài xế Mike Jock dỡ hàng gồm xẻng xúc tuyết và muối để làm tan băng tại Towson, tiểu bang Maryland, ngày 21/1/2016.
- Cư dân ở Silver Spring, Maryland mua muối để làm tan băng. Ngoài vùng thủ đô Washington, tình trạng khẩn cấp cũng đã được tuyên bố ở bang Maryland cũng như ở bang Virginia.
http://www.voatiengviet.com/content/mien-dong-nuoc-my-ngap-chim-trong-bien-tuyet/3161351.html
_____
CHU thich:
(1) . Thông thường những việc đã gọi là khẩn cấp thì phải làm nhanh, sao ông Kiểng lại nói khẩn cấp vì không thể làm nhanh? Ông Kiểng có bị ấm đầu không?
-
Sunday, January 24, 2016
BẰNG TIẾN SĨ CÁC NƯỚC
TẠI SAO THICH DANH XƯNG TIẾN SĨ
Tôi thừa hiểu ở Việt Nam, danh xưng đóng vai trò quan trọng, có khi rất
quan trọng. Có lần về làm việc ở một tỉnh thuộc vùng miền Tây, sau bài
nói chuyện tôi được một vị cao tuổi ân cần trao cho một danh thiếp với
dòng chữ tiếng Anh: “Senior Doctor Tran V. …”. Đây là lần đầu tiên tôi
thấy một danh xưng như thế trong đời. Sau này có dịp tìm hiểu từ bạn bè
tôi mới biết ông là một cựu quan chức cao cấp trong ngành y tế của thành
phố (đã nghỉ hưu), nhưng vẫn còn giữ chức vụ gì đó trong một hiệp hội
chuyên môn. Tôi nghĩ danh xưng “Senior Doctor” (có lẽ nên dịch là “Bác
sĩ cao cấp” hay nôm na hơn là “Bác sĩ đàn anh”). Nhưng tại sao lại cần
một danh xưng phân biệt “giai cấp” như thế? Tôi đoán có lẽ vị đồng
nghiệp này muốn phân biệt mình với “đám” bác sĩ đàn em chăng?
Một lần khác, khi tôi phụ trách lên chương trình hội nghị, tôi thấy ban
tổ chức viết tên diễn giả bằng tiếng Việt và tiếng Anh. Những người có
danh xưng tiếng Việt ví dụ như “TS BS Trần Thị …” được dịch sang tiếng
Anh là “Dr. Dr. Tran Thi …”. Tôi không khỏi cười thầm trong bụng vì chưa
thấy nơi nào trên thế giới có cách viết lạ lùng như thế. Tôi sợ nhất là
trong hội nghị có đồng nghiệp ngoại quốc mà họ đọc được cái danh xưng
“Dr Dr” này chắc tôi tìm lỗ mà chui xuống không kịp quá! Tôi phải rất tế
nhị đề nghị cách viết “đơn giản” hơn là chỉ “Dr” thôi là đủ, nhưng cũng
phải vài ngày trao đổi qua lại, và cuối cùng phải qua vài phút thảo
luận trên Skype người ta mới chịu đề nghị này!
Tôi vẫn còn giữ một danh thiếp khác với dòng chữ: “Dr Specialist II
Nguyễn M”. Một anh bạn người Úc tôi có lần tình cờ thấy danh thiếp trên
bàn nên thắc mắc hỏi tôi “Specialist II” là gì vậy. Lúc đó tôi cũng
chẳng biết, nên đành nói: “I have no idea”, nhưng tôi nói thêm rằng tôi
đoán đó là bác sĩ chuyên khoa gì cấp 2 gì đó. Anh bạn đồng nghiệp cười
nói mỉa mai (rất dễ ghét) rằng: ước gì tao cũng được cấp II nhỉ?
Không nghi ngờ gì nữa: người Việt rất sính danh xưng. Báo chí trong quá
khứ đã nhiều lần nêu vấn đề này. Có nhiều chuyện cười ra nước mắt về
những nhầm lẫn về danh xưng (honorific), tước hiệu, và nghề nghiệp ở
Việt Nam mà tôi từng chứng kiến trong các hội nghị. Nghe những lời giới
thiệu dài lòng thòng như “Giáo sư, tiến sĩ, nhà giáo nhân dân, anh hùng
lao động, bác sĩ Nguyễn Văn …” nó khôi hài làm sao!
Tôi vẫn tự hỏi tại sao người ta thích danh xưng trước tên mình? Kinh
nghiệm của tôi, khi tiếp xúc với những người hay sử dụng danh xưng cho
thấy họ thường dùng danh xưng với những động cơ sau đây:
1. Nuôi dưỡng niềm kiêu hãnh cá nhân. Danh xưng thường có xu hướng bơm
phồng “cái tôi” của một cá nhân, và do đó làm cho cá nhân đó tự đánh giá
cao chính mình hơn là thực tế. Bà Jill Biden, vợ phó tổng thống Mĩ Joe
Biden, từng phàn nàn rằng bà rất “bệnh” khi nhận email và thư gửi đến
gia đình với dòng chữ “Sen. and Mrs Biden” (Thượng nghị sĩ và Bà Biden).
Bà muốn được danh xưng là “Sen. and Dr. Biden”, và thế là bà đi học đế
lấy bằng tiến sĩ Anh văn. Sau 4 năm nghiên cứu, bà được trao bằng tiến
sĩ ở tuổi 55. Câu chuyện bà Biden sính danh là đề tài đàm tiếu của giới
báo chí Mĩ hồi đầu năm nay.
2. Một hình thức tự quảng cáo. Thật ra, một số người sử dụng danh xưng
"Tiến sĩ" hay "Giáo sư" nhắm mục đích tăng giá trị, trọng lượng của ý
kiến của họ. Trong thực tế, công chúng cũng có khuynh hướng xem ý kiến
của một “Giáo sư tiến sĩ” có giá trị cao hơn ý kiến của một … nông dân.
Bởi vì đánh giá cao ý kiến của những vị sư sĩ này, nên ít ai dám chất
vấn hay phản bác lại ý kiến của họ. Nhưng không có bất cứ một lí do nào
để xem ý kiến của một vị giáo sư hay tiến sĩ có giá trị hơn ý kiến của
một nông dân; vấn đề là logic và bằng chứng, vì hai khía cạnh này mới
chính là thước đo giá trị của ý kiến.
3. Mong muốn được người khác kính trọng. Đây là biện minh (hay lí lẽ)
của những người chức sắc tôn giáo, vì họ cho rằng họ cần những “Thượng
tọa”, “Hòa thượng”, “Linh mục”, “Mục sư”, v.v… để tín đồ tỏ lòng kính
trọng họ. Thế nhưng tôi lại nghĩ các Phật tử hay tín đồ Công giáo vẫn có
thể gọi “thầy” và “cha” mà đâu có tỏ ra thiếu kính trọng gì đâu!
4. Gây chú ý. Người sử dụng danh xưng ngầm nói cho người khác rằng họ là
người quan trọng và đáng được kính trọng. Mặc dù họ không bao giờ thú
nhận ý đồ ngầm này, nhưng nghiên cứu tâm lí cho chúng ta biết động cơ sử
dụng danh xưng là để gây chú ý như ca sĩ thích làm trò khác lạ để thu
hút khán giả. Có nhiều lần tôi chú ý đến những danh xưng như “Giáo sư
thực thụ” và tự hỏi nó có ý nghĩa gì. Ở Mĩ, chúng ta biết có 3 bậc giáo
sư: Assistant Professor, Associate Professor, và Professor. Không cần
đến tính từ “thực thụ”, vì chức danh nào cũng thực thụ. Tôi nghĩ chỉ
“Giáo sư” là đủ rồi. (Dĩ nhiên có người có những danh xưng chính thức
như “Distinguished Professor” hay “Honorary Professor” thì họ có quyền
thêm tính từ gì đó cho thích hợp.)
5. Khao khát quyền lực và trần tục. Một nghiên cứu ở Mexico cho thấy rất
nhiều chính trị gia không có văn bằng tiến sĩ nhưng họ vẫn tìm cách mua
danh xưng “Dr” bằng cách tranh thủ hay vận động để được một đại học nào
đó cấp cho bằng “tiến sĩ danh dự” (honour doctor). Với danh xưng này,
họ rất dễ thu hút cảm tình của cử tri và có cơ may đắc cử hơn những
người không có danh xưng. Tình trạng này cũng giống như ở VN, nơi mà các
quan chức rất thích có “TS” trước tên họ.
6. Quảng bá thái độ “elite”, thái độ kẻ cả, hoặc thái độ toàn trị. Những
người này thường tự tô son điểm phấn cho mình bằng cách “tiêm” vào mình
những danh xưng thật kêu và thật ấn tượng và bắt đầu nhiễm thói kiêu
ngạo xem thiên hạ như dưới tay mình.
Ba tôi lúc sinh tiền thường nói rằng những người cần đến danh xưng phía
trước tên mình là một tín hiệu cho thấy người đó hoặc là bất tài, hoặc
là thiếu tự tin. Vì thiếu tự tin, nên họ phải lấy những danh tước đó ra
để tự nâng cao giá trị cho mình. Ngẫm đi nghĩ lại tôi thấy Ba tôi cũng
có lí, bởi vì ở Việt Nam những người thích dùng danh xưng là các quan
chức trong chính quyền. Là quan chức, làm việc hành chính hay chính trị,
họ không phải làm chuyên môn; do đó, có lẽ họ có nhu cầu phải quảng bá
mình như là một nhân vật "văn võ song toàn", và để cho … oai.
Ở Việt Nam, vấn đề danh xưng là vấn đề “merit”. Trước tình trạng tiến sĩ
giấy, tiến sĩ dỏm tràn lan ở Việt Nam như hiện nay, bất cứ ai được giới
thiệu là “tiến sĩ”, người dân ngao ngán nghĩ thầm “lại một tiến sĩ
giấy”. Trong bối cảnh đa số (70% hay 95%) giáo sư Việt Nam không xứng
đáng với chức danh đó trên trường quốc tế, và với hệ thống phong tước
danh như hiện nay thì làm sao danh xưng này củng cố lòng tin của người
dân. Nhưng ở Việt Nam vẫn có những tiến sĩ, những giáo sư thật (tức là
họ có học và có nghiên cứu xứng đáng với danh xưng đó), nhưng khổ nỗi vì
đại đa số những tiến sĩ giấy và giáo sư dỏm kia làm cho công chúng
chẳng biết ai là giả và ai là thật. Do đó, cách đánh bóng danh xưng như ở
Việt Nam gây ra tình trạng vàng thau lẫn lộn.
Cách dùng danh xưng hiện nay lẫn lộn giữa bằng cấp, phẩm hàm danh dự, và
chức vụ. Ai cũng biết cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ là những học vị; phó
giáo sư và giáo sư là chức danh khoa bảng trong trường đại học; những
“nghệ sĩ nhân dân”, “nghệ sĩ ưu tú”, “nhà giáo nhân dân”, “nhà giáo ưu
tú” (toàn bắt chước Trung Quốc!) là những tước hiệu danh dự; còn những
“giám đốc”, “đại tá”, “bộ trưởng”, v.v… là chức vụ. Ở Việt Nam, tôi thấy
trong các hội nghị, những tước hiệu, chức vụ và học vị đều được liệt kê
trước tên người diễn giả, chẳng khác gì một bản lí lịch bằng cấp và
chức danh! Ở nước ngoài, trong các hội nghị khoa học, người ta chỉ giới
thiệu diễn giả bằng một danh xưng duy nhất như “Dr” hay “Professor”, chứ
rất rất hiếm ai giới thiệu thêm chức vụ, và chắc chắn chẳng có ai giới
thiệu diễn giả dài lê thê như ở Việt Nam (nếu có ai giới thiệu như thế
chắc chắn hội trường sẽ cười ầm lên)!
Cách dùng danh xưng như hiện nay chẳng những lẫn lộn thật giả, giữa chức
vụ và học vị, mà còn làm trò cười cho đồng nghiệp quốc tế. Trường hợp
mà tôi thuật lại ở trên về “Specialist II” là một ví dụ điển hình. Bởi
vì chỉ có Việt Nam mới có hệ thống bác sĩ chuyên khoa I, chuyên khoa II,
nên đồng nghiệp quốc tế chẳng thể nào hiểu được. Thật ra, họ cũng chẳng
cần hiểu, họ chẳng thèm tốn thì giờ đọc danh thiếp với những chi chít
“Dr”, “Professor” làm gì; họ quan tâm đến CV, đến thực tài hơn. Có liệt
kê chín mười danh xưng đi nữa mà CV chẳng có gì, thì chỉ làm cho đồng
nghiệp ngoại quốc cười khẩy mà thôi. Khi thực tài không tương đồng hay
còn quá thấp so với học hàm và học vị, thì những danh xưng đó chỉ nói
lên hội chứng inferiority complex (mặc cảm tự ti) .
Nguyễn Tuấn
Tại Sao Người Ta Thích Danh Xưng ?
- Trong xã hội Âu Mỹ sau thời cách mạng Pháp 1789, các nước La-tinh có
vẻ cấp tiến hơn những nước Anglo-Saxon vốn bảo thủ. Trong khi các nước
gốc Anglo-Saxon còn giữ những danh xưng, lối gọi tên và chức tước còn
theo kiểu xưa, các nước La-Tinh xem ít quan trọng lối xưng hô bắt nguồn
từ La-ngữ đối với xã hội dân sự và ngoại giao như "Son Eminence, Son
Excellence",... Họ chỉ dùng cho lãnh vực tôn giáo và ngoại giao. Tuy
nhiên, những danh xưng với chức tước vĩnh viễn thì đó là truyền thống
chung ờ Âu- Mỹ ; chức trước tên riêng cho những giai cấp riêng biệt. Tôi
muốn nói đến giới bác sỹ, luật sư, các vị giáo sỹ và tu sỹ nam nữ tôn
giáo, các giáo sư chính ngạch, các thành viên Hàn Lâm viện quốc gia và
các chúc trong quân đội. Đó không phải là vấn đề để cho thiên hạ kính
nễ, nhưng là danh xưng của một nghề nghiệp tự do hay tôn giáo gắn liền
cả đời với một người, và là lối cư xử của người Âu Mỹ.
- Về vấn đề GIÁO SƯ (professor, professeur), ngôn ngữ Âu-Mỹ rất chính
xác. Họ có nhiều từ để gọi chính xác như tác giả Nguyễn Tuấn nêu lên. Hệ
thống giáo dục Anglo-Saxon không có rườm rà như hệ thống nước Pháp. Các
nước gốc La Tinh khác thì không quan trọng lắm, trừ nước Ý Đại Lợi đã
nổi tiếng một thời về y khoa, hội họa và âm nhạc. Tiếng Vn không ghi rõ
chi tiết liên quan dén giáo sư, nhưng những ngạch giáo sư có thêm
"assistant", "associate", "maître de conférences", "maître assistant"
vân vân... (khó dịch trong tiếng Việt) rất quan trọng. Tựu trung, đó là
những giáo sư -- người ta vẫn gọi là giáo sư trổng -- nhưng theo lối tổ
chức giáo dục, những danh xưng phụ này có hữu dụng của nó. Đó là những
giáo sư chưa vô chính ngạch và cần đợi vài năm dạy học thêm để trở thành
giáo sư có đầy đủ quyền. Chỉ có vậy thôi. Ngoài ra, từ PHÓ trong "phó
giáo sư"," phó tiến sỹ", "phó thạc sỹ" chỉ có trong chế độ XHCN Hà Nội.
"Phó" (Vice, deputy) là chức phụ chứ không phải một thứ bằng cấp. Ngoài
ra, bằng "thạc sỹ"mà chính quyền Hà Nội mượn ở tiếng Pháp trong hệ
thống giáo dục nước này (agrégation) có thể hiểu là cao học (MBA,
Master, Maîtrise) vì một giáo sư "agrégé" (có thể họ có bằng tiến sỹ,
cao học) là một giáo sư thường là dạy đại học lâu năm và đã vô ngạch dạy
học vĩnh viễn qua một buổi thi gọn tuỳ theo ngành do Bộ Giáo dục tổ
chức. Những giáo sư "agrégés" này tuy có khi họ không đi dạy, nhưng họ
vẫn hưởng "thù lao" đã được định sẵn. Thểm một vấn đề khác trong vấn đề
để chúc giáo sư (Prof.) trước tên riêng. Ở VN -- và nhiểu người Việt bên
Mỹ -- như Nguyễn Tuấn viết, họ thích để giáo sư, tiến sỹ trước tên
riêng. Giáo sư trung, tiểu học, đại học... nào cũng để GS trước tên,
nhiều khi kèm với tiến sỹ, thạc sỹ bên cạnh. Có lần tôi đọc "GS Tiến sỹ
Nguyễn Thị Hường", chuyên viên cá ba sa. Bên Tây, chỉ có những giáo sư
chính ngạch được công nhận, những bác sỹ dạy đại học y học và là trưởng
phòng một ngành chuyên môn trong nhà thương công thì mới để "Prof." (GS)
trước tên mình. Người ta không có để tiến sỹ hay thạc sỹ trước tên. Chỉ
có ở Đức, Hoà Lan và vài nước Đông Âu thì họ để Dr (tiến sỹ) truớc tên
riêng. Có người ở Đức còn để hai lần "Dr" vì người này có hai bằng tiến
sỹ.
Nói tóm lại, thời này ở VN mà còn học văn học, sử học, khoa học xã hội,
triết học, ngôn ngữ học, nhân chủng học, tâm lý học, vân vân, theo đường
lối Bác và Đảng (Mác-Lê-Mao) thì chúng ta hiểu tại sao rồi. Đã thích
"nổ" lại càng "nổ" thêm nữa !
CBN
GS Nguyễn Văn Tuấn: 'Giáo sư là chức vụ, chứ không phải phẩm hàm'
Theo ông Nguyễn Văn Tuấn, giáo sư thỉnh giảng tại Đại học New South
Wales (Australia), Việt Nam cần chuyển hướng suy nghĩ giáo sư là một
chức vụ, chứ không phải phẩm hàm và nên trao quyền bổ nhiệm cho các đại
học.
Dư luận có nhiều ý kiến trái chiều khi Đại học Tôn Đức Thắng muốn có
quyền bổ nhiệm giáo sư. Điều này dễ hiểu vì ở Việt Nam, việc một trường
đại học bổ nhiệm giáo sư vẫn còn rất mới và gây nhiều lo ngại. Nhưng ở
nước ngoài, như Australia chẳng hạn, các trường đại học có chính sách và
tiêu chuẩn bổ nhiệm giáo sư từ lâu. Trong bài này tôi muốn trình bày
một vài kinh nghiệm từ Australia để tham khảo và hy vọng góp phần nâng
cao sự hội nhập quốc tế của ngành giáo dục nước ta.
Các đại học ở Australia có 4 chức danh khoa bảng: lecturer (giảng viên),
senior lecturer (giảng viên cao cấp), associate professor (phó giáo sư )
và professor (giáo sư). Nhưng ở các đại học Mỹ có 3 chức danh
professor: đó là assistant professor, associate professor, và professor.
Chữ assistant professor rất khó dịch sang tiếng Việt, vì tuy mang danh
là “assistant professor” (phụ trợ) nhưng những người có chức danh này
chẳng phụ tá cho ai cả mà đã là một nhà nghiên cứu độc lập. Ở cả hai hệ
thống, professor là chức danh cao nhất trong hệ thống học hàm đại học.
Ở Australia cũng như ở Mỹ, giáo sư là một chức vụ (position), chứ không
phải chức danh hay phẩm hàm theo cách hiểu ở Việt Nam.
Không như ở Việt Nam chỉ có những tiêu chuẩn chung chung, các trường đại
học ở Australia và Mỹ đề bạt chức danh này dựa theo ngạch và dựa vào
những tiêu chí cụ thể, tiêu chuẩn rất khác nhau. Trong bài này tôi chỉ
bàn về hai chức danh phó giáo sư và giáo sư, và sẽ gọi chung là “giáo
sư”.
GS Nguyễn Văn Tuấn (phải)
Quy trình
Quy trình đề bạt nói chung khá đơn giản, và theo đúng nguyên lý cơ bản
của hoạt động khoa học, đó là bình duyệt (peer review). Có thể tóm gọn
trong 3 bước chính, đầu tiên là đệ đơn (nộp hồ sơ xin đề bạt), sau đó là
bình duyệt, và sau cùng là phỏng vấn ứng viên.
Ứng viên phải soạn một đơn xin đề bạt. Trong đơn này, ứng viên phải giải
trình thành tích khoa học của mình một cách cụ thể dựa theo những tiêu
chuẩn trên. Cụ thể ở đây có nghĩa là phải trình bày những số liệu, biểu
đồ, phân tích nhằm thuyết phục hội đồng khoa bảng rằng ứng viên đạt tiêu
chuẩn của một giáo sư. Một điều rất quan trọng là ứng viên phải chỉ ra
cho được mình tương đương với ai trên thế giới. Nếu ứng viên xin đề bạt
chức danh giáo sư thì phải chỉ ra cho được mình đã tương đương với người
đã được công nhận chức danh giáo sư trên thế giới.
Bình duyệt đơn được thực hiện qua 2 phía: cá nhân và đại học. Về phía cá
nhân, ứng viên có quyền chọn 4 người bình duyệt (referee) cho đơn mình,
và trường đại học có trách nhiệm phải gửi hồ sơ đến 4 người bình duyệt
này. Bốn người này có thể là đồng nghiệp của ứng viên, và cũng có thể là
người nước ngoài hay ngoài trường đại học. Về phía đại học, họ cũng đề
cử 4-6 người bình duyệt do trường chọn. Dựa vào danh sách này, hội đồng
khoa bảng sẽ chọn 2 hoặc 3 người bình duyệt hồ sơ. Ứng viên không biết
hội đồng sẽ chọn ai trong danh sách. Phần lớn trường hợp, hội đồng chỉ
chọn các nhà khoa học ngoài trường và một số từ nước ngoài, chứ ít khi
nào chọn người trong trường.
Mỗi người bình duyệt sẽ viết một báo cáo đánh giá ứng viên dựa vào các
tiêu chí (nghiên cứu khoa học, giảng dạy, lãnh đạo, phục vụ) và tiêu
chuẩn (trung bình, giỏi, xuất sắc, nổi trội) mà trường đại học đưa ra.
Một trong những điểm mà trường yêu cầu người bình duyệt phải chỉ ra cho
được là ứng viên tương đương với ai (cụ thể là những giáo sư nào, tên
tuổi, ở đâu, địa chỉ) trong ngành trên thế giới. Đây cũng là cách trường
muốn kiểm tra và so sánh thêm về thành tích khoa học của ứng viên. Đến
phần cuối của báo cáo bình duyệt, hội đồng khoa bảng yêu cầu người bình
duyệt phải xếp hạng ứng viên vào hạng mấy trên thế giới (chuyên ngành):
top 1%, 5% 10%, hay 20%.
Sau khi nhận được các báo cáo này, hội đồng khoa bảng sẽ tổ chức một
buổi phỏng vấn ứng viên. Sau khi phỏng vấn, họ sẽ viết một đề nghị lên
hiệu trưởng đại học để chính thức công bố kết quả. Nếu thất bại (không
được đề bạt), ứng viên có quyền khiếu nại và yêu cầu đánh giá lại. Trong
trường hợp này (hiếm xảy ra), hội đồng khoa bảng sẽ chuyển hồ sơ của
ứng viên đến một hội đồng khác mà trong thực tế là một hội đồng khoa
bảng mới để xem xét hồ sơ.
Ngạch đề bạt
Ở Australia, các đại học đề bạt giáo sư theo hai ngạch: nghiên cứu khoa
học (research) và giảng dạy (teaching). Ứng viên phải chọn ngạch mà mình
muốn đề bạt. Chẳng hạn công việc của ứng viên phần lớn là nghiên cứu
khoa học và ít giảng dạy, nên chỉ có thể chọn ngạch nghiên cứu; nếu ứng
viên chọn ngạch đề bạt là giảng dạy thì chắc chắn không đủ tiêu chuẩn để
được đề bạt chức danh giáo sư.
Tiêu chí
Bất kể chọn ngạch nghiên cứu hay giảng dạy, ứng viên sẽ được xét dựa vào
4 tiêu chí như sau: thành tựu nghiên cứu khoa học (research output),
lãnh đạo (leadership), giảng dạy (teaching), và phục vụ (services). Tất
nhiên, nếu ứng viên chọn ngạch nghiên cứu thì hội đồng khoa bảng sẽ đặt
nặng tiêu chí nghiên cứu hơn là 3 tiêu chí kia. Tương tự, nếu ứng viên
chọn ngạch giảng dạy, ngoài thành tích giảng dạy, hội đồng khoa bảng vẫn
phải xem xét đến thành tựu nghiên cứu của ứng viên chứ không phải chỉ
một tiêu chí.
Điều này có nghĩa là một giáo sư phải đáp ứng tất cả 4 tiêu chí, nhưng
tiêu chuẩn thì khác nhau cho từng tiêu chí mà ứng viên chọn ngạch được
đề bạt, không có ngoại lệ. Không phải chỉ công bố một công trình tuyệt
vời nào đó là tự động được chức danh giáo sư. Ở Australia và Mỹ, tôi
biết nhiều người trẻ có những công trình trên những tập san danh tiếng
như Science, Nature, Cell… nhưng vẫn chưa được đề bạt giáo sư.
Điều này dễ hiểu vì để được đề bạt chức danh giáo sư thì ứng viên phải
đáp ứng 4 tiêu chí mà họ chọn.
Nghiên cứu khoa học ở đây bao gồm số lượng và chất lượng công trình
nghiên cứu đã công bố trên tập san quốc tế. Ngoài ra, các bằng sáng chế
(patents) cũng được xếp trong tiêu chí này. Hội đồng khoa bảng dựa vào
những chỉ số như hệ số ảnh hưởng (impact factor, IF) của tập san và chỉ
số H (còn gọi là chỉ số Hirsch, hay H index) của cá nhân ứng viên. Không
có con số cụ thể về IF để đánh giá chất lượng cao hay thấp, bởi vì IF
quá tùy thuộc vào từng bộ môn khoa học, nhưng nói chung, hội đồng chú ý
đến những bài báo được công bố trên những tập san hàng đầu trong chuyên
ngành. Chỉ số H rất quan trọng, vì quyết định một phần sự thành bại của
ứng viên. Các trường đại học danh tiếng và lớn bên Mỹ thường đòi hỏi ứng
viên phải có chỉ số H tối thiểu là 15 (thường là 20) để được đề bạt
chức danh professor.
Không có ngưỡng cụ thể về số bằng sáng chế bao nhiêu để đề bạt, nhưng
hội đồng khoa bảng rất chú ý đến những nghiên cứu làm thay đổi định
hướng của chuyên ngành, những nghiên cứu mở ra một hướng đi mới cho khoa
học, những nghiên cứu mà kết quả được ứng dụng rộng rãi và đem lại lợi
ích cho người bệnh cũng như công chúng.
Ngoài ra, số lượng công trình mà ứng viên chủ trì và giá trị tài trợ mà
ứng viên thu hút từ các nguồn khác nhau cũng được xem là một chỉ tiêu về
thành tựu nghiên cứu. Theo một quy ước bất thành văn, ở cấp giáo sư
(ngành khoa học thực nghiệm), người ta kỳ vọng ứng viên phải thu hút
trên 2 triệu USD cho nghiên cứu.
Giảng dạy và đào tạo (teaching and mentorship) là những chỉ tiêu về số
course học mà ứng viên thiết kế và giảng dạy. Ứng viên phải trình bày
rất chi tiết về số sinh viên, đánh giá của sinh viên ra sao, và thành
tựu trong giảng dạy. Tôi từng thấy có ứng viên đem cả băng video và DVD
để chứng minh khả năng giảng dạy của mình cho hội đồng khoa bảng xem
xét.
Đối với các ứng viên chọn ngạch nghiên cứu thì giảng dạy chính là số
sinh viên cấp thạc sĩ và tiến sĩ họ đã hướng dẫn thành công. Những sinh
viên này hiện giờ ở đâu, làm gì, thành đạt gì trong sự nghiệp. Ngoài ra,
ứng viên còn phải trình bày số nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ (postdoc)
đến “đầu quân” làm việc cho nhóm của mình, và sự nghiệp của các postdoc
này hiện nay như thế nào. Trong phần này, ứng viên cũng có thể viết về
những khóa học ngắn hạn hay những seminar mang tính giáo dục cho đồng
nghiệp mà ứng viên đã thực hiện.
Lãnh đạo không phải là lãnh đạo hành chính, mà là đi đầu trong một lĩnh
vực nghiên cứu. Không có những thước đo cụ thể về tiêu chuẩn này, nhưng
những “tín hiệu” sau đây được xem là liên quan đến “lãnh đạo”: được mời
viết xã luận (editorial), bình luận (commentary), bài tổng quan (invited
review), được mời thuyết giảng trong các hội nghị lớn tầm quốc tế (còn
gọi là invited lecture, keynote lecture…) mà ban tổ chức tài trợ hoàn
toàn, được mời tham gia soạn thảo chương trình khoa học cho hội nghị,
đóng vai trò chủ tọa hội nghị…
Phục vụ ở đây là phục vụ cho chuyên ngành và cộng đồng. Hội đồng thường
xem xét đến những đóng góp cho các tập san khoa học trong vai trò phản
biện, bình duyệt (referee hay reviewer), hay cao hơn là được mời làm
thành viên của ban biên tập cho tập san, hoặc cao hơn là đóng vai trò
tổng biên tập và phó biên tập của các tập san khoa học quốc tế. Phục vụ
trong các hiệp hội khoa học cũng được xem là một chỉ tiêu quan trọng.
Ngoài ra, hội đồng cũng xét duyệt đến những cống hiến bình duyệt đơn xin
tài trợ, tham gia bình duyệt luận án tiến sĩ cho các đại học nước
ngoài, tham gia bình duyệt đơn xin đề bạt của đồng nghiệp nước ngoài. Đó
là những “chỉ tiêu” được xem là đóng góp, phục vụ cho chuyên ngành.
Hội đồng còn xem xét đến những phục vụ cho cộng đồng qua những bài viết
trên báo chí đại chúng, những bài viết trên các tạp chí khoa học phổ
thông, những ý kiến liên quan đến xã hội hay cố vấn cho Nhà nước.
Tiêu chuẩn
Mỗi tiêu chí được đánh giá bằng 4 tiêu chuẩn như sau: trung bình, trên
trung bình, xuất sắc, và nổi trội. Trung bình có nghĩa là đóng góp ở mức
độ kỳ vọng của chức vụ hiện tại, tức là nằm trong hạng top 50%. Trên
trung bình là đóng góp ở mức trên những gì kỳ vọng trong chức danh hiện
hành, tính theo hạng thì mức độ này là top 30%. Xuất sắc là đóng góp nằm
vào top 10% của chức vụ hiện hành. Còn nổi trội là những đóng góp đem
lại tên tuổi cho trường đại học, những đóng góp thuộc vào hàng “top 5%”
của chuyên ngành.
Do đó, nếu ứng viên chọn ngạch đề bạt là nghiên cứu thì hội đồng khoa
bảng đòi hỏi ứng viên phải thuộc hạng xuất sắc (outstanding) và nổi trội
trong nghiên cứu, và trên trung bình ở các tiêu chí lãnh đạo, giảng dạy
và phục vụ. Nếu ứng viên chọn ngạch đề bạt là giảng dạy thì phải đáp
ứng tiêu chuẩn giảng dạy xuất sắc trở lên, nhưng các tiêu chí nghiên
cứu, lãnh đạo và phục vụ thì trung bình hay trên trung bình cũng được.
Kinh nghiệm cho Việt Nam
Đối chiếu những tiêu chí và tiêu chuẩn này với tiêu chuẩn của Việt Nam,
tôi thấy Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng có cố gắng làm theo nước ngoài,
nhưng… chẳng giống ai. Những tiêu chí và tiêu chuẩn mới công bố không
phân biệt được ngạch đề bạt (giảng dạy và nghiên cứu). Ngoài ra, những
tiêu chuẩn rất phức tạp, máy móc, tính toán theo kiểu “cân đo đong đếm”
rất phi khoa học. Tiêu chuẩn tiếng Anh có thể cần thiết nhưng tôi thấy
khá mù mờ, vì rất khó định nghĩa được thế nào là “có khả năng giao
tiếp”.
Qua những gì trình bày ở trên, tôi nghĩ rằng có một số kinh nghiệm, bài học có thể áp dụng ở Việt Nam:
Thứ nhất là nên phân chia ngạch đề bạt. Ở nước ta có nhiều người mà
nhiệm vụ chính là giảng dạy, và xét phong giáo sư cho những người này
không nên đặt nặng vào những tiêu chí liên quan đến nghiên cứu khoa học.
Do đó, cần có những tiêu chuẩn cho những người chuyên về giảng dạy,
nghiên cứu, và thậm chí phục vụ. Có người tuy không giảng dạy và nghiên
cứu khoa học nhưng có thành tích trong việc phục vụ và quản lý, thì
chúng ta cũng nên có cơ chế để công nhận đóng góp của họ. Ở Đại học New
South Wales (Australia) có người từng là chính trị gia, nhưng vì có
nhiều đóng góp cho ngành y tế cộng đồng nên cũng được tiến phong giáo sư
y khoa.
Thứ hai là không nên có những tiêu chuẩn cứng nhắc theo kiểu cân đo đong
đếm. Trái với các tiêu chuẩn đề bạt trong nước về đề bạt chức danh khoa
bảng bằng cách tính điểm bài báo, ở nước ngoài người ta không có những
điểm cụ thể, mà chỉ đánh giá mang tính nửa lượng nửa chất. Về lượng, họ
xem xét đến hệ số ảnh hưởng của tập san, chỉ số trích dẫn của các bài
báo khoa học đã công bố, và nhất là chỉ số H của ứng viên. Họ không đề
ra những con số bài báo cụ thể phải là bao nhiêu để được đề bạt. Những
chỉ số chỉ mang tính tham khảo, vì họ còn phải đánh giá số lượng bài báo
được mời đóng góp hay những lần giảng tại hội nghị quốc tế được ban tổ
chức mời và chi trả.
Thứ ba là vận dụng tối đa hệ thống bình duyệt (peer review). Không như ở
một số nước việc bình duyệt chức danh khoa bảng được thực hiện bằng
cách bỏ phiếu kín, ở nhiều trường bên Australia và Mỹ, người ta sử dụng
hệ thống bình duyệt do chính các đồng nghiệp của ứng viên làm. Triết lý
đằng sau cách làm này là chỉ có đồng nghiệp cùng chuyên môn với ứng viên
là những người đánh giá chính xác nhất về thành tựu và uy tín của ứng
viên. Ngoài ra, để cho đồng nghiệp trong và ngoài đánh giá còn đảm bảo
tính khách quan trong quá trình đề bạt.
Thứ tư là tính minh bạch. Tất cả chi tiết về thủ tục và tiêu chuẩn đề
bạt cho từng chức vụ đều được phổ biến trên Internet. Ngoài ra, danh
sách người trong hội đồng phỏng vấn và lĩnh vực nghiên cứu cần được công
bố cho ứng viên biết trước. Thành phần hội đồng phỏng vấn được tuyển
chọn sao cho đảm bảo bình đẳng giới tính, khoa học và ngoài khoa học,
trong và ngoài đại học… Tính minh bạch còn thể hiện qua quy định ứng
viên có quyền được xem các báo cáo bình duyệt của đồng nghiệp. Ngoài ra,
phải có cơ chế để ứng viên “khiếu nại” nếu đơn xin đề bạt không thành
công.
Cố nhiên, tình hình thực tế ở Việt Nam không thể ứng dụng các tiêu chuẩn
Âu Mỹ để đề bạt giáo sư, nhưng tôi nghĩ có thể dựa vào các tiêu chí
quốc tế như là một bước đầu trong quá trình hội nhập quốc tế. Cần phải
chuyển hướng suy nghĩ giáo sư là một chức vụ, chứ không phải là phẩm
hàm. Mà, chức vụ là phải gắn liền với một đại học, và do đó nên trao
quyền bổ nhiệm giáo sư cho đại học. Vấn đề là tạo ra quy trình minh bạch
và công bằng, chứ không phải những thủ tục rườm rà và tiêu chí không
giống ai. Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể đề ra quy trình để các đại học
làm theo, nhưng không nên can thiệp vào việc bổ nhiệm.
Nguyễn Văn Tuấn
Giáo sư y khoa, Đại học New South Wales, Australia |
GS Ngô Bảo Châu: 'Đại học Việt Nam làm ngược với thế giới'
Vị GS cho rằng, giáo dục đại học đã tụt hậu ngay với các nước trong khu
vực, còn Bộ trưởng Nguyễn Quân nhận định, vấn đề nằm ở tự chủ tài chính,
bản thân ông và Bộ trưởng Giáo dục cũng không quyết định được lương cho
GS Châu.
"Việc xây dựng đội ngũ giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại các trường
đại học ở Việt Nam đang làm ngược quy trình với thế giới ở tất cả các
bước", Giáo sư Ngô Bảo Châu nêu vấn đề tại Hội thảo về “Cải cách giáo
dục đại học" diễn ra tại TP HCM ngày 31/7.
GS Ngô Bảo Châu: "Việt Nam đang đi ngược với thế giới". Ảnh: Nguyễn Loan
|
Theo GS Châu, việc tạo nguồn nhân lực ở các đại học Việt Nam là bồi
dưỡng sinh viên giỏi và đưa các em quay lại trường làm giảng viên. Trong
khi đại học phương Tây hạn chế tối đa các ứng viên địa phương này.
“Đó là tư duy cũ kỹ, sai lầm vì việc tạo nguồn như vậy mang tính chủ
quan, ưu tiên người mình đào tạo, không chủ động đi tìm nguồn khác, dẫn
đến thiếu tính cạnh tranh. Một nhà khoa học trẻ ở Việt Nam hầu như không
có lựa chọn khác ngoài tiếp tục làm ở nơi ông thầy hướng dẫn. Như vậy
anh ta đánh mất đi cơ hội phát triển, sự độc lập khoa học với người thầy
hầu như không có”, ông Châu nêu.
GS Ngô Bảo Châu cũng cho rằng, quy trình tuyển chọn cán bộ giảng dạy ở
đại học Việt Nam mang nặng tính hành chính, theo quy trình tuyển chọn
công chức, viên chức nhà nước mà không có tính đặc thù của môi trường
hàn lâm. Trong khi đại học phương Tây, tiêu chí hàng đầu là khả năng
nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, việc bổ nhiệm giáo sư ở nước ta phụ
thuộc vào một cơ quan cấp nhà nước.
“Gần đây, Hội đồng chức danh chỉ công nhận chức danh giáo sư, còn việc
bổ nhiệm do các trường thực hiện. Tuy nhiên, tôi nghĩ nó còn phức tạp,
các trường vẫn không thực sự được bổ nhiệm giáo sư. Không bổ nhiệm được
một 'ông tướng' thì không thể tự chủ khoa học được”, GS Ngô Bảo Châu
nói.
Về chế độ thu nhập, theo ông Châu, đây là vấn đề phức tạp, cá nhân ông
không tìm ra lời giải đáp thấu đáo. “Lương giảng viên về mặt định lượng
rất thấp đã đành, về cơ chế cũng rất cứng nhắc đưa đến sự phức tạp,
thiếu minh bạch. Các giảng viên phải được hưởng chế độ đãi ngộ của tầng
lớp trung lưu. Trong khi mức lương cố định hiện nay không phản ánh được
điều đó”, GS Ngô Bảo Châu nói và đề xuất lấy thu nhập cán bộ khoa học
giảng dạy làm tiêu chí để đánh giá, xếp hạng các trường đại học.
Cuối cùng, GS Châu nói về việc sử dụng nhân lực cao cấp. Ông dẫn chứng
một GS nước ngoài nổi tiếng tự nguyện qua Việt Nam làm việc nhưng không
được bất kì ưu đãi nào. Trong khi, các đại học Trung Quốc có một nguồn
kinh phí lớn để khuyến khích, mời các giáo sư nước ngoài đầu ngành nghỉ
hưu qua làm việc trong 3 hoặc 6 tháng.
Các đại biểu trao đổi bên lề cuộc hội thảo. Ảnh: Phan Linh
|
Bộ trưởng cũng không quyết định được lương
Hội thảo cũng dành nhiều thời gian để trao đổi về vấn đề quản trị và tự
chủ trong các trường ĐH ở Việt Nam. Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bùi Văn Ga cho rằng, Luật Giáo dục đại học đã giao cho các trường quyền
tự chủ rất cao nhưng lãnh đạo các trường còn dè dặt trong việc thực hiện
quyền, chưa thoát được tư duy bao cấp.
Đồng quan điểm, song Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân cho
rằng, ngoài tư duy bao cấp còn do yếu tố cản trở từ cơ chế. Các trường
luôn thuộc Bộ chủ quản, kinh phí cấp qua Bộ chủ quản thì không bao giờ
tự chủ được. Không có tự chủ tài chính thì mọi tự chủ khác chỉ là hình
thức.
“Ở một đất nước mà tôi hoặc anh Phạm Vũ Luận (Bộ trưởng Bộ Giáo dục)
không ký được lương cho anh Ngô Bảo Châu là điều rất kì lạ. Lẽ ra lương
của anh Châu phải do anh quyết định vì anh ấy là một Viện trưởng nghiên
cứu cao cấp về Toán...”, ông Quân đưa ví dụ khiến cả hội trường vang
tiếng cười.
Quay ra hỏi hệ số lương của GS Ngô Bảo Châu, ông Quân cười nói: “Lương
hệ số 10 bằng lương bộ trưởng, nhưng các thầy ở đây bảo hệ số 10 sao đủ
sống. Lương của một giáo sư mà các cơ sở và đến cả cấp bộ cũng không
quyết định được thì nói gì đến cơ chế tự chủ”.
Bộ trưởng Nguyễn Quân cũng cho rằng, hệ thống luật của VN phức tạp nhất
thế giới, ngành nào cũng giữ khư khư luật của mình. Luật Khoa học và
công nghệ năm 2013 và Nghị định của Chính phủ đã yêu cầu Bộ Nội vụ giao
biên chế nghiên cứu viên cho các đại học (hiện các đại học chỉ có biên
chế giảng dạy).
“Chúng tôi đề xuất nhưng Bộ Nội vụ trả lời rất lạnh lùng rằng là chỉ
giao biên chế theo đúng luật công chức và viên chức, không giao biên chế
nghiên cứu từ năm 2003. Nhưng Luật Khoa học và công nghệ ra đời sau
phải có hiệu lực hơn những luật ra đời trước. Bộ Nội vụ không giao biên
chế nghiên cứu, làm sao Bộ Tài chính có căn cứ để cấp kinh phí cho các
nhà nghiên cứu ở các trường đại học”, ông Quân nói.
Theo người đứng đầu ngành Khoa học, làm được cơ chế tự chủ cho đại học
là một con đường chông gai và gian nan. Một mình Bộ Giáo dục không làm
được mà đây là trách nhiệm của nhiều bộ và nếu không có hệ thống luật
pháp đầy đủ, thông thoáng thì không làm được.
Các đề xuất của GS Ngô Bảo Châu về xây dựng đội ngũ giảng dạy và nghiên cứu khoa học:
Quyết định của Hội đồng tuyển dụng cần được hiệu trưởng phê duyệt trên
cơ sở báo cáo của Hội đồng khoa học và thư giới thiệu đến từ bên ngoài.
Quyết định tuyển dụng và lý lịch khoa học của những người được tuyển
phải được công bố công khai.
Lấy việc bổ nhiệm giáo sư làm trọng tâm cho việc thực hiện tự chủ khoa
học của các trường đại học. Nhận thức rộng rãi giáo sư là một vị trí
công tác chủ chốt, chứ không phải là một phẩm tước danh dự.
Nới lỏng hệ thống thu nhập: bên cạnh thu nhập thông thường theo thang
lương công chức, cán bộ khoa học giảng dạy có thể được hưởng thu nhập
đặc biệt với nguồn từ trong và ngoài ngân sách, do các trường đại học
chủ động quyết định.
Trong kế hoạch đầu tư xây dựng trường, bên cạnh đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất, cần chuẩn bị kinh phí để đầu tư xây dựng đội ngũ nghiên cứu và
giảng dạy.
Thiết lập cơ chế và chính sách để “tận dụng nhân lực thời vụ cao cấp”.
Lấy thành tích xây dựng và nâng cao chất lượng của đội ngũ nghiên cứu
giảng dạy để đánh giá năng lực lãnh đạo trường đại học. Lấy thu nhập cán
bộ khoa học giảng dạy làm một tiêu chí để đánh giá, xếp hạng các trường
đại học
|
No comments:
Post a Comment