TRẦN VĂN TOÀN * MƯA HUẾ
Mưa Huế
Ai ở Huế lâu ngày cũng biết Huế mưa theo nhiều cách, tùy vào từng thời điểm trong năm. Mưa Huế thất thường như tính cách của một cô gái mới lớn, mang đến thật nhiều tâm trạng...
Xuân sang rồi, mưa Huế về bay bay nhè nhẹ
Huế là thơ, là buồn, là mộng mơ...
Nên mưa Huế da diết như cô nàng đôi tám mộng mơ
Vào độ từ tháng 5 đến tháng 8 âm lịch, Huế thật ít khi mưa mà thay vào đó là rưới lên Huế cái nắng hừng hực của mùa hè. Tuy nhiên vào khoảng thời gian này, đôi khi ông trời cũng cố gắng 'lắc rắc một vài hột' mưa theo như cách nói của người già ở Huế. Những cơn mưa này thật ngắn và và nhiều khi không đủ lớn nên lại càng làm cho không khí càng oi nồng, ngột ngạt thêm. Cái đẹp của cơn mưa rào này, nếu mưa đủ lớn, làm dịu hẳn cả thành phố và in lên bầu trời quang đãng sau đó một cái cầu vồng thật rực rỡ.
"Trời mưa ở Huế sao buồn thế
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày" (Nguyễn Bính)
Tôi chắc rằng thi sĩ này đang nói đến những cơn mưa vào khoảng 10 đến tháng Chạp âm lịch ở Huế. Mưa rả rích, mưa da diết, mưa triền miên, mưa như cố làm chậm lại hoặc làm đông cứng tất cả những gì hoạt náo, tươi vui vốn đã hiếm hoi ở cái thành phố này.
Càng gần tới Tháng Giêng Âm lịch thì mưa nhỏ dần nhưng vẫn còn dai dẳng lắm. Mưa làm cho cái lạnh càng da diết; ngược lại những cơn gió mùa Đông Bắc lại làm cho mưa có vẻ ẩm ướt hơn. Càng về cuối mùa mưa - trước và sau Tết một chút - thường có những cơn mưa phùn, mưa bụi.
Mưa Huế !
Nếu vào những buổi chiều đầu mùa Thu nào đó ở Huế, có những đàn chim bay xao xác từ phía biển lên rừng trên bầu trời đã lãng đãng có mây hồng lam pha sắc tím, đó là khi trời Huế đang chuyển sang mùa mưa.
Sau những cơn mưa giông hiếm hoi vào cuối mùa Hạ „mưa tháng sáu, máu rồng“ là những cơn mưa đầu mùa Thu e dè và rón rén như gió heo mây. Mưa về chiều và thường khi rả rích qua đêm, có giọt ngắn giọt dài là cho người ta ví von với giọt nước mắt rấm rức, chia biệt của Ngưu Lang, Chức Nữ bên bờ sông Ngân.
Thường khi sau đêm Trung Thu là đêm có ánh trăng sáng vằng vặc với bầu trời cao và rõ nhất trong năm, Huế chuyển mình giao mùa và mưa giông bắt đầu về với Huế.
Huế có hai nguồn nước lũ chính là nguồn Dinh và nguồn Bồ. Nguồn Dinh từ thượng nguồn sông Hương trên dãy Trường Sơn chảy dài ra tới biển và nguồn Bồ cũng xuất phát từ dãy Trường Sơn trùng điệp. Chảy theo sông Bồ thuộc quận Hương Trà, rồi cuối nguồn cũng giáp với sông Hương trôi ra biển. Những năm lụt nguồn Dinh, dáng hiền từ của sông Hương biến mất trong lớp cuồng lưu của giòng thác lũ phù sa cuồn cuộn, bứt phá, lạnh lùng cuốn phăng tất cả những chướng ngại trên đường băng băng trôi ra biển. Những đêm trời lụt khi gió mưa vừa tạnh, tiếng cuồng lưu đổ ra đại dương từ cửa Thuận An vọng về theo điệu trầm hùng nghe âm vang như lòng đất trở mình.
Có những vạt nắng riêng trong trời nắng thì cũng có những cơn mưa riêng trong trời mưa. Ai đã từng đi dưới trời mưa dầm của Huế vào lúc chiều tối hay về đêm mới cảm nhận được cái ớn lạnh của những cơn mưa lạ : „Mưa lá“ hay „mưa rùng mình“ nơi đây. Trời Đông lạnh căm căm, đang đi dưới những tàng cây xanh sũng nước mưa, bỗng nghe tiếng gió ào qua biển lá, rồi cả một khối mưa nặng hạt rơi ụp xuống trên đầu. Vô số mảnh nước động trên lá sẵn chờ gió lay, ồ ạt rơi xuống phủ lấy mặt đường trong thoáng gió đi qua. Tiếng lá ướt xào xạc kéo dài trong gió, nghe như tiếng thở dài kỳ bí của hồn mưa Trong nếp sống trầm trầm, êm ả quanh năm. Mưa nguồn và nước lũ đầu mùa thường mang lại cho Huế một cảm giác mạnh, bứt phá và chia sẻ. Trong nỗi lo „mưa sa, nước sỉa“ con người phường trên, xóm dưới dễ tìm thấy tình người gần lại và một cảm giác thuộc về, trong mối tương cảm đồng thuyền đồng hội.
Nước lụt tràn về giúp san phẳng hay che kín một phần những lằn ranh giai cấp. Những dị đồng bon chen rải rác trên đường và chập chờn đầu ngõ sẽ nằm sâu trong nước bạc. Nhìn biển nước dâng lên không phân chia ranh giới, người ta sẽ cảm thấy cần nhau hơn nên nhìn nhau mĩm cười dễ dãi.
Với tuổi trẻ , rủ nhau đi lội nước lụt là một thú vui không hẹn trước. Con đường đi xe đạp hôm nào, giờ chìm trong hồ nước mênh mông sau những trận mưa ào ạt. Tiếng chân bì bõm lội nước, tiếng cười vang rộn rã của từng nhóm mang vẻ dập dìu, làm dáng một cách hồn nhiên.
Ai đó đã nói rất đúng rằng: đến Huế mà chưa được thăm lăng tẩm Hoàng
cung thì coi như chưa đến Huế. Tôi vẫn muốn nói thêm: đến Huế mà chưa
được dong duỗi trên các con đường để tắm mình trong những cơn mưa rả
rích, dìu dịu, lâm thâm thì cũng coi như chưa một lần đến Huế.
Tự xa xưa, người dân chốn kinh thành đã cảm về mưa Huế trong âm thanh
sầm sịch của biển đông gọi gió, trong tiếng rơi nặng hạt đe doạ con nước
tràn bờ:Duyên dáng, nũng nịu, người dân Huế tự xưa âu yếm gọi hạt mưa
xú mình là "hạt mưa tình". Cũng như cô gái Huế, mỗi mùa đi qua, mưa Huế
gọi về những giọt nhớ, giọt thương, nhẹ nhàng và sâu lắng, trầm tư tựa
như nét duyên thầm, nghe như tiếng dạ thưa ngọt lịm... Người Huế yêu vô
cùng đất trời, thành quách; người Huế nhớ vô cùng hạt lệ trời ban...
Một người Huế, sống xa quê, một lần so sánh: hạt mưa Huế vừa nặng, vừa
sâu, từ từ, chầm chậm, trong khi đó cơn mưa Sài Gòn rộ lên rồi tắt làm
người ta chưa kịp nhận ra độ nặng nhẹ của giọt mưa: Mưa xứ Bắc thì phơi
phới bay, thiếu đi độ nặng, độ dày. Huế vào mùa mưa, đất trời tắm mình
trong muôn ngàn hạt . Có lẽ, gọi mưa Huế bằng giọt mới đúng hơn. "Giọt
Huế"- tặng phẩm tạo hoá ban cho để muôn đời cố đô nâng niu, thương
nhớ...
Con người- thiên nhiên hài hoà, quyến rũ. Ai đó nói rằng thiên nhiên là
một phần của tâm hồn con người, là nơi trú ngụ của những trái tim đa cảm
và thanh cao. Vậy thì mưa Huế là một phần của tâm hồn Huế vậy! Còn nhớ,
lần trên con đường nước non ngàn dặm thủa đất trời còn chia cắt, nhà
thơ Tố Hữu từ Trường Sơn nhìn về đất mẹ trong khoảng trời trắng xoá mưa
rơi.
"Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên" (Tố Hữu)
Nghe trong mưa tiếng nói của nỗi niềm. Ôi da diết !Những cơn mưa triền miên như một phần không thể thiếu trong tâm thức người yêu Huế .
Đâu chỉ có lửng lơ chuông chiều, đâu chỉ có thành quách cổ kính, mưa Huế níu giữ bước chân ai một sớm một chiều... Giọt mưa dệt thành giọt nhớ để cho ai chẳng nỡ ra về
Nghe trong mưa lời thì thào của gió của mây. Cửa bước chân lãng du phiêu bồng nơi bến vắng. Nét Huế gọi về trong mỗi tiếng mưa rơi.
Mưa Huế sao nghe da diết quá! Những hạt mưa như cởi mọi u buồn, gắn kết những người con xứ Huế, níu kéo tâm hồn những người đi xa. Giọt thương, giọt nhớ, giọt lệ... mỗi giọt mưa Huế gắn với cuộc sống, tình yêu của mỗi con người, "trận mưa nào cũng đọng giọt tâm tư" (Hải Bằng). Có sống với Huế, với mùa mưa mới thấm thía để khi đi xa lại " thèm" chút mưa trên "đất mẹ". Hãy chia sẽ nỗi nhớ rất đỗi dễ thương mà có sức nặng đến se lòng của Hồ Đắc Thiều Anh để yêu hơn mảnh đất này:
"Khi mô anh về thăm Huế xưa
Nhớ gói giùm em một chút mưa
Gói thêm mớ lạnh từ chân tóc
Buốt thấu buồng tim vẫn chưa bưa
Thôi thì:
Hẹn Huế mùa sau sẽ về thăm
Thăm từng cái lạnh dấu trong chăn
Nghe mưa rả rích trong đêm vắng
Để nhớ vô cùng những tháng năm"
Gọi về trên từng góc phố, hàng cây, mưa làm cho những đền đài thành quách cố đô vốn đã bàng bạc màu thời gian nay lại phủ thêm một màu rêu phong cổ kính. Dường như mưa đang gọi quá khứ về cho những di tích xưa... để ngàn năm con nâng niu, gìn giữ...
Giọt Huế - giọt mưa, giọt bền bỉ, dẻo dai, giọt trong mắt mẹ, mắt bà, giọt vai gầy, giọt duyên thầm của em... Thương lắm ơi mưa Huế, giọt yêu.. giọt thương... giọt chờ, giọt đợi ...
Trần Văn Toản
LỜI NÓI DỐI
Lời Nói Dối Của Ông Chủ Tiệm Mì...
Một ngày, tôi đến dùng bữa trưa ở tiệm mì quen thuộc. Phía bên bàn đối diện có hai mẹ con khiến tôi chú ý.
Cậu con trai mới khoảng 8 tuổi, dáng vẻ béo lùn và chắc nịch; còn người
mẹ là một phụ nữ có làn da rất đẹp, nhưng thân thể lại có vẻ gầy gò và
ốm yếu.
Hai mẹ con gọi một bát mì sợi.
“Mẹ ơi, mẹ ăn chưa?” Cậu bé hỏi.
“Mẹ ăn rồi, con tranh thủ lúc mì còn nóng hãy ăn đi!” Người mẹ mỉm cười xoa đầu con trai mình.
Chỉ một thoáng, cậu con trai đã ăn hết cả tô mì. Người mẹ nhìn chăm chú
vào bát mì của con, khẽ mím môi rồi nói: “Mẹ hơi khát nước con à.”
Cậu bé trả lời mẹ: “Mẹ, vậy mẹ uống tạm nước canh mì nhé!” Người mẹ đem
bát mì còn lại của con húp sạch nước, trông bà giống như vừa mới thưởng
thức cả một bữa ăn thịnh soạn. Chỉ cần nhìn qua cũng có thể đoán rằng,
người mẹ chưa được ăn gì từ sáng.
Khi người mẹ gọi thanh toán tiền, ông chủ tiệm vội chạy ra và nói: “Cô ơi, cô chờ một lát nhé.”
Sau đó, chủ quán bưng ra một bát mì còn nóng hổi, vui vẻ nói rằng: “Hôm
nay là ngày rút thăm trúng thưởng, hai mẹ con chị đã trở thành khách
hàng may mắn, được miễn phí thêm một bát mì!”
Người mẹ cảm kích không ngừng nói “Cảm ơn!” và đón nhận bát mì từ tay chủ quán.
Tôi vốn là khách quen của tiệm mì này. Cả quán hàng chỉ có 5 chiếc bàn
lớn, hơn nữa, từ trước tới nay tôi chưa từng nghe có trúng thưởng bao
giờ.
Khoảng một tuần sau đó, tôi lại đến ăn tại tiệm mì này.
Một lát sau, tôi nghe thấy giọng một đứa trẻ hỏi: “Ông ơi, hôm nay ông có làm rút thăm may mắn không ạ?”
Tôi ngước lên nhìn, đây chẳng phải là đứa trẻ hôm trước sao? Ông chủ suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Làm, hôm nay có làm!”
“Cảm ơn ông, như vậy thật tốt quá! Mẹ cháu muốn uống một ngụm nước súp,
nhưng cháu lại không có tiền ăn mì, vậy cháu có được rút thưởng không
ạ?” Ông chủ đáp: “Cứ yên chí, cháu lại đây và ngồi xuống đi nào.”
Sau đó, ông chủ đến bên cạnh tôi và nói nhỏ: “Phiền anh đi theo tôi một chút.”
“Anh là khách quen của chúng tôi, có lẽ anh cũng hiểu… Anh có thể giúp
tôi giả bộ làm một người trúng thưởng, sau đó đem phần thưởng tặng cho
cậu nhỏ ấy được không? Tôi không muốn cậu bé biết việc tôi nói dối này!”
Tôi đã rất cảm động trước tấm lòng hảo tâm của ông chủ tiệm mà nhận lời
đồng ý.
Tôi quay trở lại và ngồi ở bàn ăn của mình. Ông chủ tiệm đi tới rồi nói to:“Hôm nay bàn số 4 đã may mắn trúng thưởng!”
Ánh mắt cậu bé thể hiện nỗi thất vọng, cậu đứng dậy và định rời đi.
Tôi gọi cậu nhỏ lại và nói: “Cậu bé, ta vừa ăn xong một tô mì, bát mì trúng thưởng này ta tặng cho cháu đấy! Bụng của ta chứa không nổi 2 bát mì đâu!”
Gương mặt cậu bé bừng sáng. Cậu vô cùng vui vẻ, không ngớt nói cảm ơn.
“Mẹ của cháu hôm nay không tới đây cùng cháu sao?” Ông chủ tiệm hỏi.
“Dạ thưa, mẹ cháu mắc bệnh, không thể ra khỏi giường được nữa.” Cậu bé không giấu nổi nỗi ưu thương.
“Vậy trong nhà cháu không còn ai khác sao?” Ông chủ tiệm lại hỏi. “Dạ, ông bà cháu đều đã qua đời, còn cha cháu thì vẫn chưa về…”
“Mẹ cháu có đi làm không?”
“Dạ không, mẹ cháu lâm bệnh, rất dễ ngất xỉu… Cháu lớn rồi, cháu sẽ cố kiếm tiền và nuôi mẹ!”
Thật khó không thể tưởng tượng được rằng một đứa trẻ 7, 8 tuổi lại có thể kiếm tiền!
“Vậy cháu làm gì để kiếm tiền nuôi mẹ?”
“Dạ thưa, lúc trời tối, cháu bày hàng bán ở vỉa hè ạ!”
Tôi đột nhiên thấy xót xa. Đó vẫn còn là một đứa trẻ nhỏ, vậy mà đã sớm phải gánh vác công việc kiếm kế sinh nhai. Trong khi bằng tuổi ấy, những đứa trẻ khác vẫn còn đang tuổi ăn, tuổi chơi, và làm nũng cha mẹ.
Ông chủ tiệm nói: “Vậy thì, từ giờ cháu hãy qua đây giúp ta lau bàn, quét nhà, như vậy cả cháu và mẹ có thể cùng ăn cơm miễn phí ở đây!”
Nghe xong, cậu nhỏ vô cùng hạnh phúc và nở một nụ cười rạng rỡ.
Một ngày khác, tôi có ý đi vòng qua khu bán hàng. Ở một góc vỉa hè, tôi nhìn thấy cậu bé hôm trước, khuôn mặt đỏ bừng, trán nhễ nhại mồ hôi đang ra sức giúp mẹ bán kẹp tóc.
Từ lúc đó, tôi đã trở thành khách quen của cậu…
Nhiều khi, chỉ một hành động nhỏ cũng có thể giúp những người khó khăn có thêm nghị lực để vượt lên. Tôi viết câu chuyện này với mong muốn nhắn nhủ mọi người rằng trên đời này vẫn còn có rất nhiều người tốt.
daikynguyenvn
Tuesday, December 8, 2015
TỰ BẠCH CỦA THIỀU CHỬU
08/12/2015
Tự bạch của Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha
Năm nay tôi 53 tuổi rồi; gẫm lại cái đời quá khứ của tôi, chẳng biết vì
sao mà nó lại như một chuỗi đau khổ dài dặc như thế! Nghe mẹ tôi kể cho
biết rằng khi mẹ tôi1
có mang tôi, sốt rét 6 tháng trời người chỉ còn cái da bọc cái xương,
bụng to vượt mặt mà vẫn phải cố dậy lăn cái cối đá thủng để đập lúa
chiêm. Vì thế nên khi tôi ra đời đã là một đứa trẻ tiên thiên bất túc,
mềm yếu như cái dải khoai. Được 7 ngày đã bị chứng cam ám mục, mủ ở
trong mắt phòi ra, đắp lá mãi mới khỏi. Ngoài 7 ngày, cứ mờ mờ sáng mẹ
tôi cho tôi bú một bữa no, lấy tã quấn chặt đặt nằm trên giường, trên
bụng chèn một cái gối. Tôi nằm ngủ yên, thức dậy đói, khóc chán, mỏi mồm
lại nằm yên; cho đến 11 giờ trưa mẹ tôi đi làm đồng về mới lại ôm con
lên, chùi sạch cứt đái rồi cho bú. Buổi chiều cũng lại sống một cảnh ấy
từ 1 giờ đến 7-8 giờ tối, chỉ có đêm là được nằm với mẹ suốt đêm.
Hoàn cảnh nhà tôi lúc đó chị tôi lên 4, anh tôi lên 2, còn bé cả. Mẹ tôi
đi làm thì đem gửi bà tôi coi hộ, cách đấy độ 3 sào ruộng. Bố tôi2 đi trọ học, nhà nghèo không đủ lương ăn, nhưng sức học khá, nên được một người ở làng Kim Lũ3,
làm tri huyện, có một con trai tên là Cả Khoan học dốt, mới nuôi bố tôi
làm bạn dạy cho con hắn; nhờ đó mà bố tôi học được. Cả nhà tôi lúc đó
sống chỉ nhờ của bà tôi chia cho 6 sào ruộng, mẹ tôi thuê thêm mấy sào
nữa để cấy. Trong số 6 sào có đến 3 sào vườn4,
mẹ tôi trồng cau và rau; có một con bò, thuê một người cày vụ, phải trả
công mất một số thóc. Khi tôi biết bò, mỗi khi mẹ tôi đi làm đồng cũng
đem gửi bà tôi. Nhà gần ao; bà tôi già và loá, sợ cháu xuống ao, đem
nhốt tôi trong một cái cối đá thủng. Tôi khóc chán lại cười, ỉa đái ra
bốc ăn rồi lại giơ lên cười. Mỗi khi mẹ tôi kể đoạn này thì mẹ tôi tỏ vẻ
thương con quá; mà tôi thì cảm thấy một nỗi đau khổ sâu xa, đồng thời
nảy ra một tư tưởng oán hờn cha mẹ, đẻ con ra như thế chỉ là gây cái khổ
cho con. Cho nên mỗi khi tôi khổ vì bệnh tật thì tôi lại càng thương
thân lúc bé quá. Tôi tuy yếu nhưng sáng dạ, nghe ai nói gì cũng nhớ
ngay, lên ba tuổi đã nhớ được cả câu văn của bố đọc.
Tôi lại là một người giầu tình cảm quá. Tôi còn nhớ năm tôi lên 5 tuổi,
mẹ tôi sinh một em trai tên là Niêm được 7 tháng đã biết đi, khôi ngô và
khoẻ lạ. Một buổi chiều hôm ấy, giặc Pháp mở cái trại nuôi ngựa5
ở gần nhà tôi, nó cắm ruộng của đồng nhà tôi vẫn cấy thâm canh. Mẹ tôi
bế em tôi ra xem nó cắm ruộng thì em tôi cảm gió rồi sài uốn ván chết.
Tôi thương em tôi, cho đến bây giờ tôi cũng vẫn nhớ như in cảnh tượng
lúc đó. Tối hôm em tôi chết, bố tôi nằm võng cho tôi nằm bên, hát một
câu rằng: “Làm người trước phải hiếu thân, Cám ơn cha mẹ ân cần với con. Một ngày lỗi đạo thần hôn, Hổ mang khăn áo tự tôn làm người6.” Mỗi
khi nhớ đến, tôi càng thương cảm. Có đêm rét mướt, tôi nằm quây xung
quanh bố, nghe bố tôi kể chuyện căm thù giặc Tây, có hát đùa một câu
rằng: “Thằng bố cu Tây bắn súng đùng. Chim, cò, sáo, vạc chạy lung
tung. Ai mà giết được thằng Tây ấy, Phong tước cho mình đến quận công”. Tôi
nghe thấy nhớ luôn và tấm lòng căm thù giặc hình như nó cũng nẩy mầm từ
lúc đó. Năm tôi lên 6 tuổi, bố tôi thi đỗ, bác tôi thi đỗ7.
Theo lệ làng, phải khao. Các anh em mừng hàng mấy trăm câu đối; suốt
ngày tôi nghe chị tôi, anh tôi ngâm câu đối, bài thơ, tôi cũng ngâm
theo. Do đó tôi nhận được nhiều mặt chữ Nho, đến giờ tôi cũng còn nhớ
được cả hình ảnh lúc đó. Rồi từ đó tôi cũng tập làm thơ, làm câu đối.
Lại có ông bác tôi hiếm hoi8
yêu tôi, tối tối gọi vào ngủ và ra câu đối ứng khẩu. Nhờ đó khiếu làm
văn của tôi nở sớm, 7-8 tuổi đã làm văn tế cóc tế ruồi, mà thích những
lối văn bi cảm lắm. Bố tôi đỗ rồi không ra làm quan với Pháp, chuyên
hoạt động cách mạng, bắt đầu từ Đông Kinh nghĩa thục, chẳng mấy lúc ở
nhà nên chúng tôi thất học từ bé. May nhờ bà tôi9 biết ít chữ Nho nên ngày ngày dạy cho mấy chữ; đó là cái vốn học của cả đời tôi.
Nhà nghèo quá, lúc đó mẹ tôi đã sinh đến 6 con. Nhiều con, càng túng
thiếu nhiều. Chị em tôi 7-8 tuổi đã phải tập làm rồi: chăn bò, cắt cỏ,
gánh nước bằng lọ, thổi cơm, nấu cám lợn; chả làm được cũng phải làm,
con đàn ai chiều? Mười tuổi đã phải tát nước, 12 tuổi đã tập cày bừa.
Nhà có con bò chết dịch mất; mẹ tôi, chị tôi kéo cho tôi bừa, thật là
nhọc nhằn quá. Năm tôi 14 tuổi, bố tôi bị giặc Pháp bắt, khép án mười
năm10
bị đầy ra Côn Lôn. Bắt được hai tháng thì mẹ tôi sinh em út tôi. Con ra
đời không biết mặt bố; lúc bố về, con lạ khóc oà lên. Mẹ tôi lúc này
khổ quá, đẻ được 3 ngày đã phải đi làm, đi thăm bố tôi. Tôi cũng suốt
ngày đứng rình ở cửa nhà pha Hà Nội, hễ thấy giặc giải bố tôi đi ra toà
án binh xử thì chạy theo, bị lũ mật thám đánh đập rất khổ. Căm thù tủi
nhục, thân hèn biết làm gì được. Đọc chuyện ba vị anh hùng Ý Đại Lợi11, thấy ông Gia Phú Nhĩ12
nói với bạn làm mối vợ cho ông rằng: “Ý Đại Lợi là vợ, Ý Đại Lợi là
con”, từ đó tôi đã nảy cái ý muốn là cũng muốn học ông một điểm đó. Năm
1915, nhân đi chợ Hà Đông, trưa về nắng vào nghỉ ở dưới gốc cây bên
đường, thấy phía bên đường làng Mọc có cái trại đẹp, mới lần vào xem;
thì ra là cái lăng tên đại Việt gian Lê Hoan, làm tay sai cho giặc đánh
ông Hoàng Hoa Thám13, được giặc phong làm khâm sai14. Tôi có đề một bài thơ bằng chữ Nho rằng15:
清晨吊九原 種種幽情喧
世態競富貴 人情趨銀仙
公仇拜额上 義務放心邊
Sau đó, tôi không hề nghĩ đến cái đời riêng của tôi nữa; người ta cho là
tôi tin đạo Phật mà không lập gia đình, có biết đâu uẩn khúc của tôi từ
thuở còn thơ dại. Lúc đó nhà tôi tuy nghèo nhưng cả nhà chịu vất vả để
lo cho anh tôi16
đi học trường Pháp-Việt. Bố tôi e giặc Pháp ngờ anh tôi, nên cho anh
tôi nhận bác tôi làm bố nuôi để đi học. Mờ mờ sáng, anh tôi ăn ba bát
cơm, đi học trường cách xa nhà 4 cây số. Lúc lên tràng17
trung học (trường Bưởi), cách xa nhà 8 cây; đi từ 4 giờ sáng, 8 giờ tối
mới về đến nhà, mỗi buổi trưa được 1 xu ăn quà. Còn giấy bút thì làm
thuê bài cho các bạn nhà giầu học kém. 4 năm ròng rã như thế, đủ thấy
cảnh khổ nhà tôi là thế nào! Vì sao mà khổ đến thế? Trước tôi cũng lầm
tin là số phận. Ngày nay được học chính sách mới biết rằng chẳng có số
phận nào cả, chỉ tại thực dân, đế quốc và địa chủ phong kiến mà thôi.
Tôi còn nhớ như in: một hôm vào buổi chiều năm tôi lên 4, em An tôi lên
2, tôi thấy một mụ độ ngoài 30 tuổi béo, đen, mặc áo vải rồng, tới nhà
tôi, cùng ngồi với mẹ tôi ở một cái chõng con. Tôi trông mặt mụ ấy rất
hung ác, mỗi lúc nó lại ngồi xích gần đến mẹ tôi, trợn mắt, trợn mũi,
chỉ trỏ và nói những gì gì tôi không hiểu. Mẹ tôi thì mặt buồn thỉu. Lúc
đó bố tôi mới đi về, mệt nằm ngủ, sực dậy thấy tình cảnh đấy, bố tôi
hình như hiểu ra và căm tức nộ nạt mấy câu. Con mụ béo ấy khoác tay mẹ
tôi chạy thẳng ra cổng rồi tắt cánh đồng đi Hà nội, mãi đến sáng hôm sau
mẹ tôi mới về. Em tôi vắng mẹ, thèm sữa khóc thâu đêm. Tôi cũng nhớ mẹ,
ngủ rồi hoảng dậy, chẳng hiểu là cái gì cả. Sau khi lớn lên, tôi hỏi
mẹ, mới biết con mụ ấy là con dì con già, họ với mẹ tôi; mẹ tôi vay tiền
của nó đến hạn chưa giả nên nó lôi đi. Làng tôi18
có một mụ nữa, người làng Cự Đà lấy lẽ người làng tôi tên là Hai Sốp,
nó chuyên cho vay lãi, hễ mà ai túng thiếu là tự nó đến, nó dỗ cho vay.
Rồi lãi mẹ đẻ lãi con, lãi con thành lãi mẹ, nó cứ rút dần, chẳng ai
quỵt nổi nó. Nó thấy nhà tôi hoạn nạn, nó cho mẹ tôi vay 15 đồng mà trả
đến mấy chục năm chưa xong, cho đến lúc anh tôi và tôi kiếm được tiền,
mẹ tôi cũng vẫn chưa hết nợ. Tôi hỏi mẹ tôi, mẹ bảo rằng còn phải trả
lãi cháu lãi chắt nữa đã xong đâu. Ôi! Sự bóc lột của bọn địa chủ tàn ác
biết nói làm sao cho xiết.
Sinh kế nhà tôi ngặt quá, mẹ tôi thấy tôi không được học, lại phải làm
vất vả quá, muốn tìm cho tôi một lối sống khác. Nhân lúc đó có một người
anh con cô tôi, tên là Tường, lấy vợ, làm một người thông lại ở huyện
An Dương, giới thiệu cho biết rằng ở Đồ Sơn dân cư trù phú, nhiều người
xuống đấy chỉ bán kẹo cũng giầu. Mẹ tôi tin lời, trù tính cho tôi đi.
Nhà không một đồng, lấy đâu ra vốn mà buôn. Mẹ tôi phải nói khó với một
người giàu trong làng, tên là Lý Diễn bảo lĩnh lên vay một phú hộ ở làng
Đào, tên là Lý Hai. Vay có 50 đồng bạc mà phải lễ hai cân giò lụa, một
cái văn tự 6 sào ruộng làm bảo chứng, mẹ cặp chỉ con ký, lý trưởng áp
triện19,
người bảo lĩnh ký; chầu chực như ăn mày từ sáng đến chiều mới được cầm
tiền về, nhục nhã quá! Vì một việc này tôi thề rằng đời tôi hễ ai thiếu
thốn cái gì muốn nhờ tôi, chưa hé miệng tôi đã vâng, có thì giúp, không
thì vay giúp, nếu không giúp được thì lòng tôi đau khổ cũng như người
không vay được. Tôi mà còn một bát gạo, ai đói hơn, tôi cũng nhường ngay
thà tôi chịu nhịn, và chính tôi đối với sự nhịn hai ba bữa là thường
lắm20
Năm mươi đồng bạc sắm đồ lề với thuốc, vì nhà tôi từ trước vẫn làm
thuốc, tôi cũng biết võ vẽ nên mới quyết làm để thêm vào. Sắm mất một
nửa, còn một nửa buôn các thứ bánh khách và kẹo. Một đứa trẻ 16-17 tuổi
đầu, từ trước chưa ra khỏi làng, ngày nay đi tha phương cầu thực, tôi
thật là liều mà mẹ tôi vì con mà lại liều quá. Tôi xuống Đồ Sơn vào hồi
tháng Ba, bắt đầu mùa tôm cá, làm thuốc bán kẹo cũng chạy hàng. Anh em
làm nghề chài lưới, tiền rừng bạc bể, tiền tiêu như rác; bốn tháng đầu
cũng dễ chịu. Đến tháng Tám, tiết thu hơi lạnh, hết mùa tôm, nhân dân
90% hết ăn; cảnh tiêu điều hiện ra, so với mùa tôm thật chả khác hai
thái cực. Từ đó uống thuốc chịu, ăn kẹo chịu, nói nay mai giả, rút cục
hết vốn chẳng thấy ai giả. Vì phong tục ở đây như thế mà tôi ngu dại
không biết. Nhà nghèo, có 6 sào ruộng cầm lấy tiền buôn; ngày nay hết
vốn, thật là tôi giết cả nhà tôi, nếu sau không nhờ bà tôi một món tiền
ruộng riêng ở Trung Lập21
để trả nợ mẹ con nhà Lý Hai. Tôi hết vốn đâm lang thang, lúc theo đi
đánh cá, lúc theo đi vét tôm, đêm giăng đi mò cua bắt ốc ăn trừ bữa. Lúc
gạ vào giúp việc thợ may, vì tôi có ý khéo tay bắt chước, chóng làm
được các việc như đính cúc thùa khuy nên cũng có ngày có việc thì được
một bữa ăn. Đói dễ truỵ lạc; lúc đó tôi buồn, hay gạ các con bạc đi ké
một vài xu. Được thì mua rượu uống, lúc mới còn cay, sau thấy ngọt lừ,
vì cảnh buồn thảm với rượu vẫn có duyên gần lắm. Có khi tôi theo nhân
dân đi bán cá khô, bán mắm tôm, kéo thuyền, đẩy xe bò; gặp cái gì gạ
được dăm ba xu thì làm, đời sống nhầy nhụa quá. Có lần bị đắm tầu, hai
ngày không ăn, tôi đã phải cắm mặt đi ăn xin. Đi sà lúp22
từ Hải Phòng sang Kiến An, vé có 4 xu, tôi cũng không có, cứ đi liều.
Lúc người soát vé hỏi vé, tôi không có tiền, còn một cái khăn rách đội
trên đầu trật xuống gạ bán cho hai bà cụ nông dân cùng đi. Hai bà cụ cho
tôi 4 xu và nói: “Đây, tôi đãi bác, chứ tôi lấy khăn làm gì”. Từ đó tôi
yêu quý các cụ nông dân vô cùng; và suốt đời đi xe hoả, tầu thuỷ, không
bao giờ tôi ngồi với người ăn mặc sang trọng, mà chỉ tìm đến ngồi gần
các cụ, tôi thấy có cái cảnh êm đềm như gần mẹ tôi vậy. Có tiền có đồ
gửi các cụ, chạy lăng quăng hết mọi nơi, chả lo gì mất cắp.
Năm tôi 19 tuổi, cha tôi hết hạn ở Côn Lôn về23
Tôi lần mò về, bố con gặp nhau, nỗi mừng khôn xiết mà nhìn cảnh nhà
tiêu điều, nghĩ đến cái tội phá hoại của tôi thì tôi lại càng đau khổ
quá. Ruộng không đủ làm, cha con tôi mới thuê một gian nhà ở Ngã Tư Sở
thuộc tỉnh Hà Đông làm thuốc Bắc, thuốc Nam24.
Cha tôi có tiếng là ông cử, lại có tuổi; tôi cũng là người vừa thất bại
đau đớn quyết chí phục thù cải tạo lại con người để chuộc tội lỗi. Hết
sức cần kiệm. Hàng thuốc khá đắt; nhưng tình thương người bởi thương
thân kia nó đã sâu lắm, nên tôi chỉ giấu giếm bố tôi giúp đỡ người
nghèo. Ba năm trời chỉ đủ ăn, chẳng thừa được đồng nào.
Tôi là người ốm yếu, đa cảm, lại bị toả chiết25sớm;
thêm vào đó là sự học hành nhờ bà nhiều, nên lòng lành được vun bón
nhiều. Khi bà tôi mất, lúc đó tôi 15 tuổi, thương quá, thấy bố mẹ tôi
mời sư về tụng kinh26. Sư bảo tôi: “Nếu chú tụng được thì tụng cho Bà được nhiều công đức”.
Vì lòng thương và biết ơn Bà, tôi leo lên ghế tụng thật. Sư bảo tôi
tụng kinh Lương Hoàng đến đoạn Phật Thích Ca bỏ ngôi thái tử đi tu khổ
hạnh, lúc đắc đạo vào hàng ngũ khổ cùng, giác ngộ cho người cùng khổ
nhất để nâng dắt lên trên giai cấp phong kiến... Phật lại nói: “Nhân
dân là cha mẹ bao đời kiếp của ta, ta phải hiếu kính cúng dàng; cho đến
muôn vật cũng có tính Phật cả, bình đẳng với ta cả; ta phải làm thế nào
cho thảy đều bình đẳng cả tình cũng như trí”. Vì cái động cơ đó mà tôi cứ mỗi tuổi27
đi gần với đạo Phật. Nhưng tôi đi sâu vào trong nhà chùa, tôi thấy sự
tổ chức không đúng một tý nào, trái lại toàn rập theo khuôn khổ phong
kiến, chia giai cấp rất khắc nghiệt, hưởng thụ xa xỉ, bỏ mất hẳn cái
tinh thần trọng lao động, không theo đúng quy chế: “Một ngày không làm, một ngày nhịn ăn”
của Phật Tổ. Lại còn dùng thuật mê tín vẽ ra đàn tràng cúng kính, đục
khoét đến xương tuỷ nhân dân để mà sống một đời nhàn rỗi no đủ. Vì thế
tôi nhất định không theo chế độ đó, cho đến ngày nay tôi cũng chỉ là một tín đồ tín ngưỡng triết lý mà thôi. Hơn nữa, nếu có dịp, tôi sẽ đánh đổ cái chế độ mục nát ấy; nên sau đó tôi có theo đuổi vào công việc chấn hưng Phật giáo.
Năm 1929-1930, chị lớn tôi lấy chồng nhà giàu, nhưng bị nó đàn áp khổ,
phải ra ở riêng, sinh kế rất thiếu thốn. Tôi biết ơn chị tôi đã tận tuỵ
giúp mẹ tôi nên anh em tôi mới sống được, nên tôi quyết nghỉ bớt việc
làm thuốc, lên ở Hà Nội trông nom giúp chị tôi cho thuê xe đòn đám ma.
Hai năm tận tuỵ, khi chị tôi đã có cơ sống được, tôi mới thôi. Lúc đó có
một em con chú họ là Hiền, mồ côi cha mẹ, ở với dì ghẻ; dì ghẻ ác
nghiệt đuổi vợ em Hiền về với bố mẹ, còn em Hiền thì ngày ăn hai bữa lêu
lổng chơi bời. Tôi lại đứng lên thu xếp với dì ghẻ cho vợ em Hiền về.
Tôi vay được 500 bạc mua cái máy in đạp chân của nhà in Phù Văn về. Anh
em thuê nhà, sắm đồ và rủ thêm vài em sắp chữ. Tôi tập làm máy in rồi ký
giấy với hãng buôn giấy Cáp Pha, mua chịu giấy về kẻ làm vở bán và mở
thêm một cửa hàng sách nhỏ ở nhà 36 phố Sinh Từ28,
vừa bán sách vừa bán hàng quà cho học sinh; tháng tháng chạy tiền thuê
nhà méo mặt, nhất là lo nộp thuế môn bài bằng đi sứ. Tất cả đến 7-8 anh
em lao động cùng làm cùng sống lay lắt qua ngày.
Đến cuối năm 1935, Hội Phật giáo thành lập có rủ tôi29.
Tôi có hỏi bố tôi, bố tôi bảo cho biết đó là cái Hội thằng Tây nó lợi
dụng. Tôi cũng biết cả Ban Trị sự, đa số là tay sai đắc lực như Nguyễn
Năng Quốc30,
Trần Trọng Kim, v.v. Nhưng tôi cũng không sợ, vì dù sao tôi cũng có thể
lợi dụng thực hành cái chí của tôi là đánh đổ chế độ hiện hành thối nát
của nhà chùa. Tôi vào giúp việc Hội; được ít lâu, tôi để hiệu sách cho
em Hiền. Tôi cho Hội mượn cả máy in và Hội sắm một cái máy nhỏ nữa, tổ
chức thành nhà in sách báo nhà Phật31.
Tôi làm quản lý nhà in, viết kinh viết báo nhiều nhất; mục đích chính
vẫn nhằm về chỗ bài trừ mê tín, đề cao tinh thần lao động. Sách báo
không chạy mấy, nhất là báo; tờ Đuốc Tuệ trước ra 3000 số rồi sụt xuống
1000 không hết; người mua không chịu trả tiền. Lỗ vốn nhiều mà kinh tế
thì Hội khoán trắng cho tôi, nên đời sống của anh em nhà in chúng tôi
cũng gieo neo lắm. Ngoài kinh sách nhà Phật, tôi in rất nhiều các sách
như Đạo đức phổ thông, Lịch sử Phổ thông, Vệ sinh Phổ thông, Cách trí
Phổ thông, v.v. để tặng các bạn nghèo học lớp Truyền bá Quốc ngữ. Tôi
cũng cố gắng về việc học. Ngoài lớp các tăng ni học, tôi còn mở rộng dạy
các em ngoài, không lấy tiền; tôi đã bị tên cẩm32
Hàng Trống bắt giữ ở bóp nửa ngày. Tôi đã đề nghị cho Ban Quản Trị nhận
lấy trách nhiệm mở rộng lớp học quốc ngữ, cử hết tăng ni làm giảng
viên, lấy chùa làm trường học, cam đoan một năm tín đồ Phật giáo hết nạn
mù chữ; nhưng Ban Quản trị họ tìm đường thoái thác không dám làm, tôi
lấy làm ức lắm.
Năm 1936, tôi vào giúp việc Hội Tế Sinh do cụ Cả Mọc33
sáng lập bằng tinh thần tự lập, không nhờ Pháp trợ cấp. Ban Trị sự toàn
người sốt sắng như các ông Hoàng Đạo Thuý, Trần Duy Hưng,34 v.v. nên công việc Hội lúc mới cũng khá phát triển. Riêng tôi với cụ Cả Mọc thì nghĩa là đồng chí mà tình như mẹ con35,
vì tôi với cụ cùng thờ một lý tưởng không cần lo cho mình mà chỉ cần lo
cho người, biết sống dưới quyền của giặc là nhục, nên làm việc gì cũng
không phô trương, chỉ cần có lợi thực tế cho giống nòi, không cần giặc
biết. Thằng Bảo Đại thưởng Kim Tiền36, Cụ tôi gửi trả lại. Tên Thống sứ Tô-Năng37 bảo khai tên Ban Trị sự để cho mền đay38, Cụ tôi chỉ vào cái hòm công quỹ nói: “Ông cứ bỏ đầy cái hòm này còn hơn”. Nguyễn Năng Quốc, Hội trưởng Hội Phật giáo hai lần đem xe ô tô đến mời tôi và bảo tôi khai lý lịch để sớ39 vào thằng Bảo Đại cho tôi phẩm hàm, tôi bảo: “Tôi chỉ thích làm người bạch đinh thôi. Lý phó làng tôi khuyên tôi bỏ ra 6 đồng bạc để mua nhiêu 40 cho khỏi đi tuần, tôi cũng đồng ý cứ gọi đi tuần thì đi chứ không mua nhiêu. Nếu cứ ép xin phẩm hàm, tôi sẽ vào rừng.”
Cũng vì chung một chí nguyện chịu khổ sở nhọc nhằn để giúp đỡ đồng bào,
cả đời không ăn ngon mặc đẹp, chỉ kéo đôi guốc cũng đẽo lấy mà dùng,
không ai có gia đình riêng, nên chúng tôi được nhiều người tin lắm. Rất
nghèo mà tiền bao nhiêu cũng có. Năm 1937, lụt tràn hai tỉnh Bắc Ninh,
Bắc Giang. Ngoài sự góp sức vào cơ quan cứu tế, tôi cùng cụ Cả Mọc còn
vận động đi lấy tiền lấy áo; rồi tôi cùng ông Thuý, ông Hưng hàng ngày
đem thuốc, đem tiền, đem áo đi tới từng nhà nạn nhân giúp cho đến sống
thực. Gần khắp hai huyện Quế Dương, Lang Tài, không còn sót mấy nhà mà
chúng tôi không tới hàng bốn năm lượt, ròng rã ba tháng như thế cho đến
lúc lúa chín. Chúng tôi nhận thấy số các em nghèo ở bãi Phúc Xá rất
nhiều, định mở thêm một nơi trông nom các em nữa, đã nhiều lần đưa giấy
cho tên Đốc lý Hà nội là Viếc-Gi-Ty, nhưng nó có ưa gì chúng tôi mà nó
cho. Chúng tôi đành phải tìm ra nơi khác. Vì thế mới mưu tậu cái ấp Phú
Ninh thuộc tỉnh Vĩnh Phúc của con một nhà phong kiến là Nghị Hoành. Lúc
này tài chính của Hội ngày một eo hẹp, vì số chi tăng mà số thu chỉ
trông có 500 hội viên, mỗi tháng góp 5 hào với 3 hào. Chúng tôi phải cầm
cái họ41
và vay tạm các nhà buôn, tậu cái ấp hơn 100 mẫu với giá tiền hơn 1000
đồng (hơn một nghìn). Những tưởng tậu ruộng để thêm nguồn kinh tế cho
Hội, nào ngờ ruộng thì xấu, tá điền bị địa chủ bóc lột nghèo quá, chúng
tôi lại phải vận động ở Hội chính lên giúp thêm. Ba năm đầu chúng tôi
hết sức hô hào, làm được một cái trường học, 5 gian nhà dưỡng lão, 3
gian các em ở và một ngôi chùa nhỏ. Dân ấp cũng khá dần, đã làm được cái
chuồng trâu công cộng bằng gạch, dài 10 gian. Công việc giúp đỡ già cả
tàn tật cũng khá dần, tre ấp đã tốt, dân ấp đã đông thì phát xít Nhật
tới cấm ấp.
Về bên Phật giáo42,
thì từ năm 1943 đến 1945, tôi cùng các đồng chí xây được một cái trường
học ở làng Mọc cách thủ đô 5 cây số, trù tính làm xong chứa được 500
học trò nghèo. Năm 1944, làm xong 1/4, tôi đã mở 4 lớp tiểu học dạy theo
tiểu học không kèm theo Phật giáo tý nào. Ai trả tiền cũng lấy, mà chú
trọng là giúp các em nghèo. Cách trường học độ 500 mét, tôi lại lập một
cái am43
đặt là am Tế Độ, để các hội viên ốm yếu nghèo ngặt khi ốm có chỗ dưỡng
bệnh. Đằng sau mở một khu nghĩa trang để tiện người có giúp không44 người nghèo.
Năm 1944, nạn đói bắt đầu chớm ra, tôi cùng cụ Mọc đã lo mua khoai khô,
sắn khô để dành và đã ăn hạn chế. Năm 1945, nạn đói khủng khiếp. Tôi
cùng cụ tôi thật là chạy bợp đầu. Người đói đầy đường, ai giúp được hết.
Chúng tôi không dám mở to, cứ chiều chiều nắm từ 3 - 400 nắm cơm, nhờ
các anh em Hướng đạo45 đeo đi các ngả đường, dúi vào bọc cho từng người. Tối thì đốt nhiều đống củi ở Hội quán46
cho đồng bào sưởi. Sau ngày Nhật đảo chính, nó lấy gạo của Pháp nấu
cháo cho đồng bào ta đói, nó nhờ chúng tôi đi làm giúp. Trường học tôi
trông nom, nó lấy làm nơi phát cháo. Nó viết mấy chữ lớn: “Bát cháo của
người Nhật”. Nó cho một cách rất khinh bỉ: cho một bữa lại bỏ bẵng hai
ba ngày. Đồng bào kéo đến đông, kêu gào thảm thiết. Tôi vừa tức vừa
thương, quyết tâm tự mình hô hào các nhà từ thiện góp tiền góp gạo; tôi
tự nấu cháo mời đồng bào vào ăn. Quân Nhật tưởng tôi ăn cắp gạo của nó,
cho người xuống điều tra hăm doạ tôi. Tôi không sợ cứ làm mãi; tới
16-6-1945 là 93 ngày, số người ăn một bữa 2 bát cháo là 38.600 bữa, gạo
hết 30 tạ. Thằng Nhật xuống, thấy tôi làm được, nó lườm một cách ghen
ghét rồi bỏ đi. Tiếp theo nạn đói, tới luôn nạn sốt định kỳ. Trường học,
Am Tế Độ đều đầy người ốm. Tính trung bình mỗi ngày tôi phải chôn 15 em
chết; ít lâu sau chật cả 2 sào đất, hôi thối sặc sụa. Rồi quân của
thằng Tưởng Giới Thạch kéo sang chết, nó cũng chôn bừa vào nghĩa trang
của Hội tôi. Hàng ngày tôi sống chung với người ốm và người chết, càng
khổ bao nhiêu càng căm thù tụi thực dân bấy nhiêu. Lúc đó chưa học chính
sách, chưa biết thù địa chủ phong kiến. Đời tôi lao đao và cảm xúc sầu
thảm nhất là ở lúc này.
Tính đã đã đa cảm, lại sống trong cảnh sầu thảm nhiều, nên tôi hết bệnh
nọ đến bệnh kia. Năm 25 tuổi, tôi mắc bệnh khạc huyết thành lao sái, 8
năm mới khỏi. Năm 40 tuổi, lại mắc bệnh thần kinh suy nhược, đầu lúc nào
cũng réo như sáo diều, đêm khó ngủ, tai điếc dần. Bác sĩ Trần Huy Hưng
và bác sĩ Nguyễn Hữu Thuyết47
hết sức chữa cho cũng không khỏi. Cho đến ngày nay bệnh càng nặng, năm
nay lại thêm bệnh hà sống mũi; với cái chết thật là dễ dàng, nếu không
gắng tập thể dục và và điều độ cẩn thận.
Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, phát xít Nhật đầu hàng, tôi lại
cùng Cụ Mọc lên sửa lại ấp Phú Ninh cùng anh Hồ Trọng Lý lúc bấy giờ
làm quản lý cho Hội Tế Sinh. Còn ở Hội Phật giáo, tôi lại xin khai giảng
trường học; số lưu học sinh48
được trên 10 anh, học trò ngoài trên 30 em. Tôi lại xin Chính phủ Kháng
chiến tạm giao cho tôi khai thác cái bãi cỏ trước thực dân Pháp chiếm
của làng Phương Liệt để nuôi ngựa, gần 8 mẫu, xung quanh có ngòi nước.
Tôi cùng hơn 10 em trên 15 tuổi thoát chết đói làm mấy gian nhà, tậu một
con trâu và sắm cày bừa, cùng nhau giẫy cỏ, cầy vỡ, đắp bờ làm ruộng,
trồng khoai, gieo mạ để cấy chiêm. Công việc mới hơi gọn mắt thì thực
dân Pháp xâm lăng, tôi cùng các em đánh trâu, vác cày bừa tản cư. Chính
con trâu tôi làm bây giờ 49 là đã cùng tôi tản cư trên 8 năm nay.
Tám giờ tối tháng 11 ngày 26 âm lịch50
năm 46, tiếng súng nổ ở Thủ đô; tôi thu xếp các em chạy tản cư vào làng
Đan Thầm, Hà Đông. Lúc đó, các em do Hội Phật giáo trông nom có tới 90
em, phần nhiều là 5-6 tuổi, lại vì đói ăn mắc các bệnh lỵ và nề rất
nhiều; nhiều em phải gánh51. Trông nom vào đó có 6 sư ni và anh Nguyễn Quý Tán52
giúp việc dạy các em học. Còn tôi ở lại đến gần Tết âm lịch mới đi, vì
lúc đó có anh Đường Thể Châu giúp trách nhiệm tự vệ kháng chiến khu Sinh
Từ về bảo tôi in giúp các truyền đơn và bản tin chiến đấu; và nhà in
của Phật giáo lúc đó cũng dọn về am Tế Độ. Đến phút cuối cùng thì chúng
tôi đập hết máy, đổ hết chữ xuống ao rồi mới đi; nhà cửa cũng đốt hết53.
Ngoài số em Phật giáo, lại có 21 em do Hội Hợp Thiện trông nom ở Hàng
Bột, lúc tác chiến Hội bỏ các em bơ vơ qua chỗ tôi ở; tôi lại đưa các em
về Đan Thầm. Tất cả người lớn trẻ con trên 130 người; lương thực chỉ
chạy được trên 10 tạ thóc, và trước lúc tác chiến tôi bán cái máy in của
tôi mua riêng được một vạn rưởi đồng đem đi để làm vốn sống. Ở Đan
Thầm, tôi theo chính sách đã xin làng ấy 2 mẫu ruộng cấy chiêm; lúa đã
có đòng thì lại phải bỏ đi. Số các em đông quá lại ốm yếu, nên đã phải
ăn cháo. Tôi chia 20 em đã trên 10 tuổi về chùa Mai Xá, Hà Nam; 21 em
Hợp Thiện được Hội Hợp Thiện tìm đến chuyển đi. Còn 70 em, tôi chuyển về
huyện Phú Xuyên ở làng Trung Lập. Từ đấy chúng tôi đã tham gia vào Bình
dân học vụ ở làng đó. Được vài tháng, thấy tình thế cấp bách lắm, tôi
mới thảo luận với em Nghiêm tôi54 và anh Tán, đưa một số 30 em lên phát rừng mở trại ở trong rừng an toàn Cù Vân55. Còn một số em nhỏ, tôi mua một cái thuyền gỗ đưa các em từ Trung Lập lên Sơn Tây. Suốt ngày tôi cùng em Thành56
mặc cái quần cộc, cởi trần dìm mình dưới sông kéo thuyền đi. Con sông
có trên 30 cái thác, kéo rất vất vả. Đi sáu ngày mới tới Sơn Tây; toàn
thân tôi lột hết một lần da mỏng, y như rắn lột, nhọc nhằn không sao tả
xiết. Tôi tản cư vào làng Yên Mỹ, trú ở nhà tên Tổng Khuông, một địa chủ
cường hào nhất làng. Chật chội quá, tôi làm mấy gian lều lên đồi cho
các em ở; rồi cuốc đồi trồng sắn, cấy rẽ của tên Tổng Khuông 2 mẫu. Rẽ
chia đôi mà nó còn mắng là lũ ăn mày, tôi tức định không gặt; mẹ tôi
khuyên mãi, tôi mới nuốt giận gặt vậy. Ngoài số các em, còn có mẹ tôi
già 72 tuổi và hai chị dâu, một em trai, một em dâu và mươi cháu nhỏ.
Các em đã ốm lại đi xa, bệnh ngày càng nặng; riêng ở Sơn Tây tôi đã phải
chôn một chị dâu, một em dâu và 7 em bé dưới 10 tuổi. Năm 1947, tôi bắt
liên lạc sang ấp Phú Ninh. Cụ Mọc tôi ốm nặng, công việc Hội57
tạm giao cho tôi. Nhưng tôi chưa nhận việc thì anh Hồ Trọng Lý tản cư
tới; thế là Cụ Mọc chuyển sang cho anh Hồ Trọng Lý vì anh vẫn trông nom
việc ấp từ trước. Còn tôi lại về Sơn Tây. Qua 2 tháng, tôi lên Cù Vân
thăm các em, thấy các em ngã nước58
nặng cả, tôi lại xin phép chuyển cả về ấp Phú Ninh làm lều ở riêng một
khu ruộng, cách Hội Tế Sinh 500 thước. Các em yên chỗ, tôi về Sơn Tây để
thu xếp sang cả một nơi. Chưa kịp dọn thì giặc tấn công lên Sơn Tây,
phải chạy một phen vào rừng ẩn nấp. Cuối năm dọn sang Phú Ninh, tôi cùng
các em sang trước, mẹ tôi và em tôi sang sau. Hôm mẹ tôi sang, khi đi
ra bến Sơn Tây thì bị giặc quây, bắt em trai tôi (tức là bố cháu Miễn)
và một em gái là An59,
còn mẹ tôi già, nó không bắt. Được hơn một tháng, em trai tôi trốn
thoát về ở với tôi, còn em gái thì chết mất tích. Năm 1948, vì anh Hồ
Trọng Lý biển thủ thóc gạo của các em, lại kéo bè phá Hội, nên lúc đó
ông Vũ Ngọc Linh Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Kháng chiến tỉnh Phúc Yên
phải về giải quyết, bầu lại Ban Trị sự; tôi chỉ là một chân cố vấn. Ít
lâu sau, chúng tôi theo lời ông Linh bảo, phải thảo lại điều lệ xin phép
Liên khu I. Trong điều lệ mới, có thêm một phần chính là trông nom con
các chiến sĩ tử thương, và chỉ được gửi các em vào các công xưởng lớn,
cho các em sau này thành nghề tốt, chứ không được cho các cá nhân nuôi
làm khổ các em. Chính vì điều này mà tôi phải chịu rất nhiều oán thù, vì
ai thiếu người cũng muốn chiếm một em về làm đứa ở.60
Ngày 5 tháng 12 năm 1948, chúng tôi được phép thành lập Hội Tế Sinh tỉnh
Phúc Yên (Giấy phép số 661/DT). Đầu năm 1949, chúng tôi lại được phép
mở một trường tiểu học cho các em trong Hội và các em ngoài Hội học. Kỳ
thi Bổ túc, trường Hội tôi được giải thưởng lá cờ danh dự thứ hai.
Ngoài việc Tế Sinh, tôi lại được theo các tăng ni vào Hội Phật giáo Cứu
quốc huyện Kim Anh. Ban Chấp hành cùng tôi nghiên cứu mở một lớp học
huấn luyện tăng ni. Tài liệu gồm ba phần chính là: 1. Giáo lý; 2. Lịch
sử; 3. Kháng Chiến; được Huyện bộ Việt Minh Kim Anh đồng ý, số người dự
trên 40 người. Huấn luyện 7 ngày, chúng tôi thực hành giảm ăn; hết khoá
học ủng hộ Quỹ Kháng chiến được 500 đồng. Sau đó lại xin mở lớp huấn
luyện Bình dân học vụ 7 ngày để các tăng ni học rồi chia nhau đi giúp
các xóm trong xã Phú Cường, góp được một phần vào việc thanh toán nạn mù
chữ ở các thôn Ninh Bắc, Cầu Đen, Hưng Gia, Thái Phù.
Ở đây, riêng tôi làm được gần 4 mẫu ruộng, trồng hàng mẫu khoai, nên sự
sống cũng chỉ kham khổ thôi, không đói lắm mà cũng không ai chết cả. Lúa
cấy đã giỗ quạn, có tin dồn dập giặc tấn công, rồi chúng đánh lên đến
Phủ Lỗ, cách Hội tôi 5 cây số. Hội tôi tản cư lên Thanh Trí cách đó 4
cây số. Toàn Ban Trị sự họp bàn việc đưa các em tản cư. Không ai chịu
gánh cái gánh khó khăn ấy, tôi phải xin gánh và quyết định hãy tản sang
Vĩnh Yên. Kẻ gánh người đèo được dăm nồi gạo, dăm nồi đỗ sang chùa Yên
Lạc và chùa Lầm. Tôi vừa thu xếp cho các em yên ổn rồi trở về Phúc Yên
chuyển nốt thì giặc nhảy dù ngay Hương Canh gần Yên Lạc. Thế là đứt liên
lạc. Tôi cùng 3-4 em đánh được con trâu và vác cày cuốc lên ở Phi Đơn,
huyện Đồng Hỷ61.
Thu xếp xong, tôi cùng một em vượt đèo Nhe sang Yên Lạc; còn cách 5 cây
số tới nơi thì gặp giặc càn tới, lại chạy ngoài đồng suốt đêm. Về Phi
Đơn nghỉ một hôm lại vượt qua Tam Đảo. Trời mưa bão, vừa đi vừa lánh
giặc càn phá, 3 ngày mới tới. Trong lúc đó thì các em ở Yên Lạc, trong
15 ngày bị giặc càn hai lần, mất hết; mẹ tôi bị gẫy xương đùi. Tôi cùng
các em thu xếp sang Thái. Tôi và em Nghiêm tôi cùng cáng mẹ tôi. Các sư
và các em đi trước. Đi được 5-6 cây số thì giặc càn tới, chúng tôi cứ
đồng lầy chạy tắt, đằng sau giặc bắn đuổi theo, chạy không còn hơi mà
thở nữa. Đi suốt ngày, tới chân núi Tam Đảo, lúc đó còn tất cả 38 em, em
bé nhất 5 tuổi phải cõng và gánh. Cả đoàn dậy sớm nấu nồi cháo lớn, mỗi
người ăn ba bát và cùng hô khẩu hiệu: “Ba bát cháo, đáo62
Tam Đảo”. Suốt ngày leo trèo, khổ nhất là cáng người què và cõng em bé.
Qua cái dốc Tam Đảo, ai có qua mới biết là hiểm trở ghê người, nhiều
chỗ phải bò hay ngồi xuống bíu rễ cây mới xuống được. Đi đến tối mới tới
chân núi bên này Vĩnh Yên63, vô sự cả. Về Phi Đơn mấy hôm, chỗ ở chật quá mới tìm vào Lý Nhân cách đó 3 cây số. Tiền hết, gạo hết, phải bán nồi bán xanh64,
lên tận Cù Vân mua sắn về nấu cháo. Hôm nào tôi cũng phải dậy từ gà gáy
để giã sắn nấu cháo. Đói quá, khổ quá, hết sắn lại cháo lợn. Cả lớn bé
gần 50 người, ngày ăn có 4 bát gạo nấu với một rổ sề lá khoai lang già, y
như đồ lợn, nên các em mới đặt cho cái tên là cháo lợn. Lúc đó gạo lên
giá cao quá, cảnh đói lan cả đến nhân dân; bộ đội cũng ăn cháo. Một hôm,
có một tiểu đội Vệ Quốc đến đi suốt xóm đong không được gạo, chúng tôi
phải nhường cho 4 ca; nấu cháo chưa nhừ, bộ đội đã húp vội rồi đi. Chúng
tôi cùng các em thấy cảnh thực ấy cảm động vô cùng và tự nhiên thấy như
chết gần hết những nỗi oán đói. Chúng tôi bàn nhau chỉ còn một cách vỡ
đồi trồng rau và làm gạo sáo65 là sống ngay, nhưng lấy đâu ra tiền. Tôi liền viết thư gửi lên Bộ Nội vụ và Liên khu I66.
Chưa đầy nửa tháng đã có giấy gọi đi lấy tiền. Uỷ ban Khu giúp cho một
vạn đồng. Sung sướng quá, tôi cùng các em reo lên. Tiếp theo, lại cho
mua mấy chục thước vải và 300 ký ninh vàng67, bán bớt đi làm vốn; cả nhà ra sức làm gạo sáo, kiếm được đủ gạo nấu cháo và sắn ăn.
Ở đây chúng tôi tuy đói nhưng đối với công cuộc kháng chiến vẫn cố gắng. Công lương68 được nhân dân miễn, nhưng chúng tôi chịu đói lấy thóc đóng. Hưởng ứng lời kêu gọi của Bộ Giáo dục mở vườn trẻ, tôi cử 5 sư ni69
đi dự lớp mẫu giáo 15 ngày; lúc về cố gắng cùng nhân dân sở tại mở được
một vườn trẻ nhỏ có độ 15 em. Theo phương pháp mới, chúng tôi hết sức
săn sóc, các em tiến bộ mau lắm. Sau vì máy bay khủng bố dữ và nhân dân
thấy chúng tôi nhịn đói làm việc nên mới xin tạm đình. Bây giờ nghĩ lại,
tôi thấy chúng tôi liều quá. Các em trong nhà săn sóc chưa xuể, lại còn
săn sóc các em ngoài.
Năm 1950, tôi nhận thấy rõ công cuộc trường kỳ kháng chiến ai cũng phải
gánh một việc; các sư ni trông nom các em và vườn trẻ cũng tạm được, còn
3 sư tăng theo tôi tản cư, như anh Quang tôi trông nom cho từ năm 11
tuổi, anh Tuấn, anh Dưỡng đều ở với tôi. Tuy là sư nhưng cũng có đầu óc
sáng suốt, nghe tôi hướng dẫn đều hăng hái đi đầu quân. Anh Quang, anh
Tuấn vào Cục Thông tin liên lạc70,
còn anh Dưỡng vào chuyên môn điện thoại. Nhờ ơn Hồ Chủ Tịch, ơn Đảng
giáo dục, anh Quang đã tiến tới chiến sĩ thi đua đại đoàn, anh Dưỡng
chiến sĩ thi đua tiểu đoàn, anh Tuấn cá nhân xuất sắc.
Hồi tháng sáu năm 1950, chị Chi, chị Lan71 đi chợ bán gạo, gặp người quen ở Thủ đô ra, cho biết tin là bố chị Chi chết. Hai chị trốn luôn về Thủ đô72
độ nửa tháng lại ra. Vừa tới nơi, tôi họp ngay các sư và các em lại
kiểm thảo và đuổi hai chị đi. Được 7 ngày, chị Lan đi hẳn, còn chị Chi
trở về thú thực là có về Thủ đô, có được bà con cho ít vàng phải bỏ vào
lọ tương mới đem ra được, nay biết tội xin cho ở lại, thề không dám về
nữa. Tôi bảo các em rằng: “Chúng ta phải tự lực cánh sinh; người tự do73 không ăn xin người mất tự do. Vàng của ai cho phải trả lại, dứt khoát tôi không dùng”. Việc này có nhiều người biết đều cười tôi là gàn. Tôi vui lòng chịu gàn, miễn là tôi không luỵ ai.
Chúng tôi tới Lý Nhân chưa đầy một tháng thì mẹ tôi chết74,
vì người già đau đớn, thuốc men không có, ngày vài bát cháo, sống làm
sao được. Tôi trông thấy mẹ chết thỉu dần mà lòng đau đớn vô cùng. Chao
ôi! Thế là bố chết vì giặc, mẹ chết vì giặc, anh chết vì giặc (anh Quế
làm cán bộ trước bạ ở Hiệp Hoà, năm 1948 bị giặc tấn công bắt, giặc dụ
hàng, anh tôi không hàng, giặc mang về Kinh Môn bắn chết, hiện có một
con nhỏ là em Khuê ở với tôi)75, em gái chết vì giặc, chị
dâu, em dâu chết vì giặc. Cái thù không đội trời chung, mà tôi ốm yếu
không ra tiền tuyến giết giặc để báo thù, tủi nhục đau khổ là dường nào!
Tình cảnh thiếu thốn đã khổ, lại thêm cái sự đối đãi ở xung quanh hà
khắc lại càng thêm thương. Các em thiếu thốn đi mót củ khoai, hái ngọn
rau, bị chửi mắng nhục, bị đánh rất đau, luôn luôn phải xin lỗi, nhìn
nhau bằng con mắt cáu ghét. Còn nhớ rằm tháng 8 âm lịch năm ấy, ông Nhân
Phó chủ tịch Huyện Đồng Hỷ có khuyến khích các xã xung quanh đến thăm
các em. Nhưng chỉ có một xã Đồng Tiến đến cho hơn 1 nghìn 400 đồng, lại
toàn giấy rách không tiêu được; sau chúng tôi lại phải thêm tiền vào cho
đủ 5 nghìn để mua công phiếu kháng chiến. Nói đúng ra thì nhân dân cũng
thiếu thốn cả, còn lấy đâu mà giúp được. Uỷ ban Tỉnh có uỷ một uỷ viên
về thăm 2 - 3 lần, thấy tình cảnh thiếu thốn có thông tri cho huyện Đồng
Hỷ đến đón các em để tìm chỗ gửi. Nhưng các em khóc không chịu đi. Uỷ
ban huyện lại bảo tôi đưa các em sang Đồng Bẩm nhờ con mụ Cát Thành Long76
giúp cho vài con bò và mấy mẫu ruộng. Còn đang thu xếp thì giặc tấn
công lên. Thật là may, nếu sang Đồng Bẩm thì khó tránh khỏi nanh vuốt
của con mụ địa chủ ấy được. Ở đây, anh Quang liều về Phúc Yên dắt được
mấy con trâu, bò gửi ở Dóm lên, lạc mất một con, còn một con bán được
trên 5000 đ, được thêm ít vốn làm gạo sáo. Tháng 9 năm ấy, giặc tấn công
lên. Chúng tôi ở trong vòng vây 12 ngày, suốt ngày đêm chui trong các
bụi rậm ngoài đồi núi, nắng dầm mưa dãi, cũng gian khổ lắm. Trước sau
chết mất 4 em. Lý Nhân là nơi hẻo lánh; đồng bào tản cư đến đông, mà
phần nhiều là đồng bào vùng xuôi tản cư lên; nên trong lúc lánh nạn, các
sư ni và các em lớn chắc là có gặp người quen thuộc nên cùng mưu với
nhau về tề gần hết. Lúc yên, kiểm điểm lại chỉ còn 15 em, trừ em Kim, em
Dậu gửi vào xưởng giấy Đoàn Kết của báo Cứu Quốc, em Hơn và em Mỹ gửi
vào hãng thuốc lá Bắc Sơn. Em Hơn sau cũng chết, em Mỹ cũng không thấy
đâu nữa.
Sau khi giặc rút, có Nguyễn Đức Thuận quen với giáo Đức77 Hội trưởng Hội Tế Sinh, cũng ở Lý Nhân rồi theo con gái về tề, nên có xuống thăm vườn trẻ, về bàn với tên Tâm78
rồi xuống bảo tôi rằng cứ đưa các em lên Đồng Tâm, Tâm sẽ để ra 20 mẫu
ruộng cung cấp cho các em và mở một vườn trẻ ở Đá Gân. Tôi tưởng thật
mới gồng gánh lên. Không biết Tâm thấy tôi rồi nhận xét thế nào, hắn lờ
đi không nói gì đến chuyện trước nữa. Thực lại là một cái may lớn nữa
cho các em: Tâm bảo tôi để các em ở trong ấp, tôi không nghe, ở nhờ cái
nhà của Đoàn Nông nghiệp, tức là cái nhà tôi cùng các em sửa sang ở bây
giờ. Tâm bảo Thuận ra bảo tôi rằng còn 2 luống khoai mòng79
ở đầu nhà nay ủng hộ cho các em rỡ lấy mà ăn. Thuỷ chung Tâm không có
ra nhà tôi thăm các em lấy một câu. Tôi đã biết ngay thủ đoạn của nó một
phần nào. Nó bảo Thuận ra bảo tôi rằng cho vài em lớn vào chăn trâu cho
nó, nó nuôi cơm cho. Tôi tức quá, bảo thẳng Thuận rằng: “Các em học
được cả đấy, có giúp cho vài học bổng để các em đi học thì tôi đồng ý,
chứ không bao giờ tôi săn sóc các em để đi làm tôi tớ cho ai.” Tâm từ đó
căm tôi. Tôi vào luôn mấy lần hỏi ruộng và soi80.
Tâm chỉ cho 9 sào ruộng, soi thì không có. Tôi lên Đồng Tâm giữa ngày
Noel năm 1950. Sang năm 1951, Chính phủ hô hào tập đoàn sản xuất. Tâm
cho Thuận rủ ông Du, anh Vân, anh Me, anh Đắc và hai anh em tôi vào tập
đoàn nông nghiệp. Hai anh em tôi vào hai suất, tôi giúp việc bình dân
học vụ trong xóm và giúp các đoàn viên học. Công việc đang tiến hành,
anh em tôi vỡ đất ngoài ven sông, trồng sắn trồng bắp, quyết kế tăng
gia. Tháng 4, em Nghiêm tôi đi phục vụ ở công trường Chợ Mới (Cây Thị,
Bắc Kạn) bị máy bay giặc oanh tạc chết81.
Thế là nhà tôi thêm một tai nạn lớn: 5 cháu mồ côi cả cha mẹ, mới có
mình cháu Miễn là nhớn. Tình thế bắt buộc phải tìm đường sống thêm giúp
tôi, nên cháu mới theo mọi người xuống Trại Cờ buôn muối gánh về Thái
Nguyên bán rồi lân la dám về cả nội thành. Tôi bảo không nên; nhưng tôi
không đủ tài nuôi được cả, nên câu nói cũng kém hiệu lực. Tôi thấy tôi
cũng hèn quá, biết mà không làm được trọn cái biết.
Tập đoàn lủng củng lắm. Thuận cậy thế Tâm, đàn áp đoàn viên, mấy lần
suýt vỡ. Tôi cương quyết bênh anh Đắc mới duy trì được. Vụ mùa thắng
lợi, đoàn viên cũng được lợi khá; nhưng rút lại vẫn là mắc mưu tên Tâm,
vì nó vào nhiều cổ phần nên vẫn ngồi mát ăn bát vàng. Đoàn thù lao cho
tôi 12 nồi thóc về việc học. Tôi hết sức từ rằng: “Tôi giúp người học
từ năm tôi 15 tuổi, cho tới ngày nay tôi không bao giờ đòi tiền, không
bảo ai gọi bằng thầy, không coi ai là trò, chỉ là người biết trước giúp
người biết sau mà thôi. Ngày nay đang lúc kháng chiến, nhân dân đi học
là yêu nước; tôi giúp việc học cũng do lòng yêu nước, tôi không nhận
thóc.” Đoàn cố ép và bảo tôi cứ nhận cho đoàn làm tròn một việc, còn
thóc không dùng lại giúp việc học cũng hay. Tôi đành phải nhận; đồng
thời thông qua gia đình82
là số thóc 12 nồi này là nhà ta không dùng, để tôi sắm sửa vào việc học
và để các anh em trong xóm ai thiếu thì lấy, không lấy lãi, bao giờ giả
cũng được. Ngoài ra, tôi lại đổi thóc cho các anh em có bắp83
ăn trước rồi đến mùa bắp đổi bắp cho tôi; vì tôi tính ăn gạo chỉ được 5
tháng, ăn bắp sẽ được 8 tháng. Việc này tên Tâm đã trù tôi ở một buổi
nó gọi tôi vào nhà nó, có cả một vị uỷ viên Huyện Phú Bình và ông Phó
Chủ tịch huyện Đồng Hỷ; vì tôi để các anh em dùng thóc không lấy lãi, mà
nó thì đầu mùa cho người ta vay 2 nồi, cuối mùa phải trả thành 3 nồi.
Tôi nói: “Đó là vì kinh tế, nhà tôi phải ăn bắp nhiều mà không có soi
trồng nên phải làm thế.” Nó im thin thít. Cũng vì thế mà năm ấy nó không
dám lấy lãi nặng như trước nữa. Số thóc 12 nồi, tôi để các anh em như
cụ Dương, cụ Hò, ông Côn, v.v. dùng, và bán một số, sắm sách báo tranh
ảnh trang hoàng cho trường học.
Cuối năm 1951, Miễn84 về nội thành ra nói rằng: tăng già85 chỉ chuyên làm mê hoặc nhân dân; nạn đàn tràng86
cúng vái, đồng bóng lại tệ hơn ngày xưa. Đó cũng là một cách gián tiếp
giúp bọn thực dân đế quốc dễ bóp chết dân mình. Nghĩ mà thương cho các
bạn cùng một tín ngưỡng, tôi mới gửi tập tài liệu giáo dục tăng già của
Hội Phật giáo Cứu quốc Kim Anh đã nghiên cứu về cho anh Phạm Xuân Đường
(nguyên là con rể nuôi của tôi và cũng đã học tôi mấy năm. Anh trước
theo kháng chiến làm huyện đội dân quân ở quê anh thuộc Hải Dương, sau
anh giả danh vào làm nhà in cho chùa Quán Sứ và hoạt động cho kháng
chiến ở khu phố Quán Sứ. Cuối năm 1952, việc bại lộ, anh bị giặc Pháp
bắt chưa biết còn sống hay chết) để anh tìm cách giác ngộ cho nhân dân
trong nội thành. Trong đó có kèm một bài thơ rằng:
“Nhớ Tổ Bách Trượng xưa, Thật thánh thần lao động: Một ngày chẳng làm
chi, một ngày cam trống bụng. Chúng ta là hạng nào? Mà không biết tự
trọng. Cũng len nhũn lụa mềm. Cũng chè xuân thuốc cống. Cũng xuống ngựa
lên xe. Cũng tiền rương thóc đống. Ngũ dục thả cửa chơi; ngũ cái tha hồ
hống! Hỏi nguồn ở đâu ra? Đục vào lưng quần chúng. Học chưa quá i tờ.
Đạo hoàn toàn ngô ngọng. Hạt gạo nhớn nhường non. Đâu phải là ứng cúng.
Cứ theo lẽ chân thường. Ai cũng có quyền sống. Có làm thì có ăn. Biếng
lười tất mất giống. Đừng tưởng lầm ngày xưa, Người ta còn mê mộng. Mà
dùng cách thôi miên, Mà tính bề lợi dụng. Hết cầu cúng đàn tràng, Lại
bùa bèn đồng bóng. Thả săn sắt đòng đong. Bắt cá rô cá bống. Bòn rút hết
hầu bao, Để tự cung tự phụng! Dân vì đó suy tàn, Nước vì đó lủng củng.
Làm mồi cho thực dân, Dễ bóp cổ bưng họng. Hỡi đệ tử Thích Ca, Đường tu
nhằm cho đúng. Trông gương Phật Tổ ta, Như bể trời lồng lộng, Lục Tổ là
tri lương, Tứ Nhiếp là tầu súng. Hy sinh vô tận cùng, Phục vụ cho đại
chúng. Phúc chí đều như nhau. Viên thành công tu chứng.”87
Miễn về quê. Một người trong họ, ở nhà của cha mẹ tôi và hưởng hoa lợi
cái vườn nhỏ của cha mẹ tôi, thấy tình cảnh thiếu thốn có đưa cho Miễn
một số tiền nhỏ. Miễn đưa cho tôi; tôi trả Miễn và bảo: “Lộc của ông bà
để lại cho các cháu dùng cho đỡ khổ”, chứ tôi chẳng dùng đồng nào, mấy
lần đều như thế.
Năm 1952, năm nay thêm được hơn mẫu ruộng nữa, năng suất cũng tăng lên 15%; hoa mầu kết quả khá, các em tươi dần.
Tháng 7 năm ấy, cán bộ nông hội tỉnh là anh Ngữ về hướng dẫn nhân dân
trong xóm tranh đấu đòi giảm tô đúng mức 25%. Lúc đó tên Tâm còn làm Phó
chủ tịch huyện Phú Bình88;
tay sai đắc lực nhất là Nguyễn Đức Thuận làm Hội đồng nhân dân. Anh Ngữ
họp kín với anh em tá điền cốt cán tại nhà anh Hạ, có cả tôi. Tôi nhận
thấy anh Ngữ đứng hẳn về phe nông dân, nên tin lắm. Họp nửa chừng, Thuận
tới chất vấn anh Ngữ rằng: “Chính phủ bảo giảm tô xuống 1/3 hoa lợi
thường niên là đúng. Tôi thấy ông Tâm giảm từ 8 nồi xuống 6 nồi rưỡi là
quá 1/3 rồi.” Anh Ngữ trả lời rằng: 'Không cứng nhắc như thế, ruộng xấu
làm tốn công, phải giảm đến 50 - 70% cũng có”; và bảo anh Lâm nông hội
xã rằng: “Phải đề phòng kẻ phản động đây”. Cuộc đấu tranh này cũng gay
go lắm. Tên Tâm triệu tập anh em tá điền họp luôn 3 tối, dùng đủ mọi
cách doạ nạt, dụ dỗ, dằn dỗi, chịu lún ăn xin. Nhưng rút cục nó phải
giảm đúng mức và giảm từng hạng ruộng. Trong đợt này có một anh tá điền
già là Nguyễn Văn Đa đi sát và ủng hộ cho Tâm và Thuận, đe doạ tôi rằng:
“Đa số nhân dân về với ông Tâm rồi, ông mà tranh đấu là gãy đấy” và nói
một cách rất hùng hổ rằng: “Chủ điền, tá điền người ta đồng ý là được
rồi; cán bộ còn xúi dục đấu tranh làm gì; cán bộ làm thế là làm loạn
dân”.
Cuối năm 1952, nghe tin bọn tăng già nội thành ra làm tay sai cho giặc
Pháp. Tôi giận quá có viết một bài cảnh cáo chúng gửi về cho anh Đường
tìm cách phổ biến. Nội dung bài ấy có hai phần. Phần 1 chỉ rõ tinh thần
cách mạng của Phật giáo thuyền tông. Phần 2 chỉ rõ chỗ suy kém của Mỹ,
và chỉ cho đường về với kháng chiến (những bản gửi về đều có lưu một bản
lại, xin đính kèm theo đây). Từ khi biết tin anh Đường bị giặc bắt, tôi
không gửi gì nữa và thuỷ chung tôi cũng không có một lời nào chữ nào
với bọn tăng già gian ác cả89.
Chỉ nhận được một tấm ảnh của gia đình anh Đường. Tôi nghe nói anh
Đường bị giặc bắt, vợ con khổ sở lắm; tôi có bảo bớt số tiền của người
quen tôi gửi cho tôi, đưa cả cho vợ con anh Đường mưu sống (số tiền này
chừng độ 1.000 đồng Đông dương).
Đầu năm 1953, tôi đọc báo biết công tác của Chính phủ năm nay có công
tác phóng tay phát động quần chúng bắt địa chủ giảm tô. Tôi là một người
trong giai cấp bị bóc lột, lẽ ra phải cùng giai cấp đấu tranh. Nhưng
thế lực của tên Tâm lúc đó còn mạnh lắm: 1) Tâm còn làm Phó chủ tịch
Huyện, cho đến khi bị cách, dân cũng không biết, vẫn tưởng là nó về nghỉ
phép. 2) Thuận làm Hội đồng nhân dân, duy trì kinh tế của Tâm, mua
chuộc các cán bộ xã riết; ai qua lại đều vào đó cơm nước tinh tươm (vì
lúc đó cán bộ đã hiểu Tâm một phần nào rồi nên vào nhà Tâm ít hơn).
Thuận lại tóm được cả trưởng xóm là Nguyễn Văn Sinh, công an là Nguyễn
Văn Giao (hai người này là hai chú cháu, được Tâm giúp cả thóc và tiền
40 vạn đồng; mãi đến lúc đấu Tâm rồi, họ mới thú và giả nông dân) cũng
ra sức doạ nạt đàn áp nông dân để cho khỏi nảy lòng căm thù đấu tranh.
Phiên họp xóm nào Thuận cũng nói: “Năm nay Chính phủ thực hành chuyên
chính; liệu ốm đòn, tù ốm tử”. Ai có ý thắc mắc về tô tức như ông Xuân,
thì Thuận mắng: “Ông phát biểu dè dặt chứ, liệu không lại ốm đòn”. 3) Lý
Hốt cùng Đĩnh, Sinh, Giao và mấy người trong xóm ngoài xóm nữa tổ chức
một tập đoàn giồng mía, được Tâm cho rất nhiều quyền lợi, lấy cả cây kéo
mía của nhân dân bán chịu cho đoàn, nên đoàn ủng hộ Tâm một cách đắc
lực lắm, tuyên truyền hăm doạ nhân dân, phân tán tài sản cho Tâm rất
nhiều.
Vào hồi tháng 3 - 4 năm ấy, Thuận về phổ biến cho xóm biết cần phải tổ
chức lại các ngành các giới, duy giới Nông hội thì Thuận nói một cách
buông trôi. Nhưng anh em nông dân thì chú trọng nhất giới ấy vì luôn
luôn chúng tôi đem báo Cứu Quốc và sách Phát động vào đọc cho nhân dân
nghe, đã hiểu được phần nào rồi, nhất là cuộc phát động ở Đồng Bẩm90
ảnh hưởng rất mạnh, nên anh em rất nóng sốt với Nông hội. Chỉ trong một
buổi họp có mấy tổ sản xuất liên tịch đã lập được Nông hội, bầu ông
Đoán làm trưởng tổ, tôi làm phó. Lúc đó chưa ai được học hành gì cả,
chưa biết tổ chức thế nào. Nghe lời Thuận bảo củng cố mà chả hiểu thế
nào là củng cố. Điều lệ cũng chẳng có, nhưng anh em nông dân rất hào
hứng, có cái tâm lý căm thù sôi sục muốn nuốt sống địa chủ ngay. Thuận
biết thế, nên lúc họp bầu, nó chẳng nói gì. Đến lúc bàn đến việc tiến
hành, nó mới thắt vào lý là tổ chức sai, không có điều lệ thì làm gì
được. Thế là Nông hội kém sút, phiên họp hão ra về còn bị phái Thuận
cười là phiên họp “không tiền”. Chúng tôi không nản, cử ông Đoán xuống
thôn Đồng Ao hỏi. Ông Đoán không biết chính ông uỷ nhiệm thôn lúc đó là
ông Mẹo kiêm cả đại biểu Nông hội, nên không đến hỏi ông Mẹo, lại đến
hỏi ông Trung là Nông hội xã. Ông Trung bảo ông Đoán xuống xã trực tiếp
với ông Bí thư Nông hội xã, cùng dự buổi họp Nông hội xã một ngày một
đêm. Khi về lại triệu tập Nông hội xóm, có phối hợp với chính quyền để
bình nghị các nông hộ nghèo, rồi lấy thóc nghĩa thương91
cho anh em vay để làm thóc giống. Lúc đó, có mấy anh em mới ở nơi khác
đến như ông Thứ, anh Bản, v.v. đều xin ruộng Tâm, thấy Tâm chỉ cho những
người có tiếng hơn như bà Bằng, nên họ đưa ra Nông hội xóm giúp ý kiến.
Nông hội nhận thấy lúc đó số ruộng của anh em tá điền cũ giả có tới hơn
20 mẫu, mới quyết định cử ông Đoán và tôi trực tiếp thảo luận với Tâm
để số ruộng đó Nông hội bình nghị cho các anh em làm. Chúng tôi tới gặp
Tâm. Tâm bằng lòng đưa cả mảnh bản đồ ruộng ấy để Nông hội dẫn ruộng.
Sau ba hôm lại họp. Phiên họp này quyết định hai việc: thóc nghĩa thương
và bình nghị ruộng. Sắp họp thì thấy Nguyễn Tiến Học Hội đồng nhân dân
xã coi việc nghĩa thương, cùng ông Mẹo tới. Trông sắc mặt mấy người,
chúng tôi đã đoán biết là có sự gì không hay. Phiên họp này Lý Hốt làm
chủ tịch, anh Bản làm thư ký. Ông Mẹo nói qua về việc Nông hội xóm bỏ
qua ông đi thẳng với xã là sai nguyên tắc. Đồng thời ông tự nhận vì bận
quá nên quên cả nhiệm vụ. Còn Học thì nộ nạt nông dân, bênh vực địa chủ
chẳng khác gì bọn quan lại cũ một tý nào. Nó mắng chúng tôi là đội lốt
nông hội ăn cướp ruộng, ăn cướp bản đồ của Tâm, nó đe thằng nào dám động
đến thóc nghĩa thương, nó phá tan tinh thần giai cấp tương trợ nhau.
Thuận ngồi sát cánh thì thầm thụ kế và thỉnh thoảng điểm một câu: “Như
thế là phá rối sự an toàn trong ấp... Ông Tâm là địa chủ tiến bộ... có
phải là Tây trắng [?] đâu”. Học nói rất nhiều, rồi đến Lý Hốt tiếp hơi
mắng anh em nông dân vô ý thức, tổ chức sai, và kết luận: “Ông Tâm vẫn
có quyền lấy lại ruộng, vẫn có quyền đuổi dân ra khỏi ấp”. Thế rồi cả
tụi đó lấy thế lực đại biểu chính quyền bắt ông Đoán và tôi phải sang
xin lỗi thằng Tâm! Thế là Nông hội tan rã. Nông dân bị một thùng nước lã
giội vào ngực, tê tái ra về. Hôm sau chúng tôi tới bảo thẳng cho Tâm là
cứ việc phát ruộng thu tô, Nông hội chưa làm kịp. Tâm cười khẩy và bè
lũ Tâm như Hốt, Da, v.v. thì cười rộ và tỏ vẻ kiêu hãnh lắm. Nhưng chúng
tôi không sợ, nghỉ một vài hôm lại bí mật tìm tài liệu ngấm ngầm đấu
tranh. Tụi chúng biết thế nên cũng cố kết92
nhau và hành động ráo riết, bằng cách gọi 4 tá điền cũ là cụ cai Tư, cụ
Hò, ông Đương và Vượng đến, hứa cho mỗi nhà 4 mẫu ruộng. Hốt thì đi
từng nhà tuyên truyền hăm doạ. Sau đó gần một tháng, tôi thấy ông Đoán
bảo đi lấy tài liệu bí mật gửi xuống Nông hội thôn... Rồi ông Mẹo lên
họp củng cố lại Nông hội. Anh em bầu ông Nguyễn Bá Xuân làm trưởng tổ,
tôi làm phó. Từ đó chỉ có một việc tiến hành lấy tài liệu thôi, cũng vẫn
chưa có điều lệ học tập. Sau khi chúng tôi củng cố lại, tụi địa chủ Tâm
hơi núng, không dám đàn áp như trước nữa. Trong một phiên họp sau khi
được củng cố mấy hôm, tụi Thuận có chủ trương phá bằng cách đưa những lý
luận hiểm hóc ra để bóp chết nông hội. Thuận hỏi: “Tôi là bạn thân của
Tâm, lại là Hội đồng nhân dân xã; từ nay có được vào chơi nhà Tâm
không?”. Tôi nói: “Trong điều lệ có mục kỷ luật tự giác, chắc ông còn
hiểu hơn chúng tôi”. Đỉnh thì đưa ra câu hỏi: “Tôi cũng ở trong đoàn làm
mía, tôi thấy giấy giao kèo của Tâm cho đoàn làm mía không thu tô, thế
là sai. Vậy xin Nông hội cho biết đoàn làm mía nhận có được không?”.
Chúng tôi nói: “Việc đó chúng tôi không hiểu rõ, để đợi thỉnh thị”. Đỉnh
cười và bảo: “Thế là Nông hội vô giá trị”. Rồi thì Thuận báo cáo về tôi
rất nhiều. Sinh cũng báo cáo lung tung. Đã sắp đến ngày được học tài
liệu phát động mà giữa tối nhân dân xóm chúc thọ sinh nhật Hồ Chủ tịch,
Sinh đứng trước công chúng nói: “Phải thanh trừ bọn quấy rối hương
thôn”. Mục đích là đe doạ chúng tôi. Hốt đi tuyên truyền nông dân rằng:
“Đã nắm được đủ tài liệu rồi, phen này thì khối thằng phải tù.” Chính
anh Ngọc còn sợ và bảo ông Đương như thế. Lớp học bí mật mở ra, phe địa
chủ cứ tới, thành ra phải đình ngay và lựa chọn lấy 8 người có tinh thần
tranh đấu bền bỉ xuống đền Đá Gân học 7 ngày. Hết khoá lại mở liên tiếp
ở xóm 4 khoá. Tôi được anh em cử ra làm hướng dẫn; rồi lựa chọn ban
trung kiên, đội chủ lực. Nông dân rất phấn khởi, đoàn kết chặt chẽ. Cuối
tháng Năm, tên Tâm trây thuế vụ hạ, bị bắt cả hai vợ chồng đi. Ở nhà,
con nó phân tán tài sản tứ tung, nhất là đem xuống nhà anh Ba Lê ở Đồng
Tiến, một người có chân trong đoàn làm mía giúp Tâm đắc lực và uy hiếp
chúng tôi cũng khá mạnh. Một buổi sớm, anh em trung kiên thấy nhà Tâm
phân tán tài sản nhiều, bèn báo xuống xã. Xã uỷ công an và uỷ nhiệm thôn
lên giữ lại, làm biên bản xong giao anh Sinh thi hành. Anh Sinh cứ cho
đem đi và còn nói anh em nông dân làm thế là sai. Có người (chú Gioóng)
trông thấy người đến gánh đường mật ở nhà Tâm, đi báo Sinh, nhưng Sinh
lờ đi. Vì những cớ đó mà xã hạ công tác anh Sinh (qua một phiên họp toàn
dân xóm đồng ý). Sau đó, tôi được thôn cử làm đại biểu xóm xuống miền
giúp việc sưu tầm tài liệu và lập hồ sơ. Dự lớp học miền mở ba ngày.
Chúng tôi chả hiểu làm thế nào cả. Xã giao mẫu về thế nào cứ thế mà làm.
Tài liệu tên Tâm tôi cùng anh em lấy được cụ thể, phong phú, nên làm
cũng tàm tạm dễ. Làm xong đưa lên trên, xã bảo không được, phải làm lại
hai lần. Đến lúc đội phát động về lại cho mẫu khác để làm lại. Tôi điếc,
họp chả nghe được thủng mấy câu! Đó là một cớ, còn không biết vì những
cớ gì nữa mà tôi chả được Đội bảo ban hỏi han gì đến. Chỉ như cái máy
biết viết, viết suốt ngày rất vất vả mà tự cảm thấy mình vô vị quá. Lắm
lúc muốn thôi, nhưng nghĩ đến công việc dân giao cho đành phải bấm bụng
mà chịu.
Đội về gần một tháng thì bắt rễ xâu chuỗi, bỏ rơi Xuân và tôi cho đến
cuối cùng mới cho vào Nông hội mới, và Nông hội mới thì bầu cháu tôi là
chị Miễn làm trưởng tổ. Tôi như người trong mộng, ngày ngày xuống miền
cắm cổ viết hồ sơ thôi. Tôi nhận thấy từ Đội đến Nông hội xã vẫn không
tin tôi, có bảo tôi làm bản tự khai lý lịch; tôi làm kỹ lưỡng gửi lên,
cũng chả thấy biểu thị ra sao cả. Công việc xâu chuỗi bắt rễ thì do Chi
bộ làm. Công việc ấn định thành phần thì chỉ định Địa và Phú thôi, còn
Cố, Bần, Trung93
thì mặc dân. Ở lớp học, chúng tôi học bản qui định hai buổi, rồi ai nấy
tự định thành phần, mọi người công nhận, thế là được. Người này trung
cũng kéo cả mọi người lên trung. Đói khổ cũng là trung, chỉ căn cứ vào
điều không làm thuê, thế là trung. Nhân dân thắc mắc nói với Đội, Đội
bảo cứ học nữa đi, thông tự biết. Đến lúc chia quả thực thì chỉ họp dân
bình nghị chia làm 3 hạng: nghèo quá, nghèo vừa, kha khá; rồi theo nhân
khẩu mà chia, chứ không chú trọng vào thành phần mấy.
Định thành phần trên cũng lạ. Như Nguyễn Đức Thuận, do anh Thành phó
phân đội cùng các người thân tín trong chi bộ nghiên cứu cả đêm (tôi
cũng như dân, không ai được biết) mới ấn định thành phần địa chủ; quản
chế tài sản giữa ngày nó cho cưới con gái, phá tan cả đám cưới. Việc này
anh Thanh định, rồi mới hỏi tôi mấy điều, như: Thuận lên đây từ bao
giờ, mức sống thế nào thôi. Tôi cũng nói qua là Thuận ở Hà Nội lên thẳng
đây từ năm 1946, làm ăn không nhất định, lúc làm ruộng, lúc làm tiểu
công nghệ, mức sống cao, bạn chí thân của Tâm, v.v. Thế thôi. Đến ngày
Đội gần rút, anh Hoàng phân đội trưởng thôn tôi lại bắt họp Nông hội trả
lại thành phần, đánh Thuận xuống: nông nghiệp kiêm công thương tiểu tư
sản, tay sai hạng hai, v.v. Sự trả thành phần này, tôi thấy trong nội bộ
Đội không đồng ý nhau. Anh Đại đội trưởng và anh Thành phản đối, mà anh
Hoàng cứ làm. Sau khi trả thành phần, tối hôm trước anh Hoàng phải đấu
dịu với Thuận. Thuận yêu cầu tối hôm sau phải họp xóm tuyên bố cho nó.
Hôm sau Thuận và phe Thuận như Hốt, Đỉnh, v.v. họp nhau ở nhà anh Trung,
cháu gọi Thuận bằng chú ruột, bàn cách trả thù và đi tuyên truyền nhân
dân để giúp sức. Công an là chú Gioóng báo với Đội, Đội lại cử anh Gia,
ông Mẹo về chủ trương buổi họp, đập tan luận điệu của Đỉnh và Hốt, bắt
xin lỗi mới trấn áp được; không thì nó còn xoay nhân dân chưa biết đến
thế nào.
Công việc đấu sửa soạn có vẻ đường hoàng, khổ chủ được bồi dưỡng cẩn
thận, tài liệu phong phú, lý lẽ đúng, đại chúng đông đảo, nên đấu được
thành công mỹ mãn. Thanh toán bắt lũ địa chủ trả nợ rất vất vả, nhưng
tịnh không dùng nhục hình, kết quả như ý .
Về chia quả thực thì không được thoả mãn, vì dân học chưa thông, cán bộ
cũng chịu giải thích rất khó nhọc, nhưng không ai chịu nghe bằng sự
thành thực. Như ông Giao đã có lỗi bị địa chủ mua chuộc, đã được chia
còn đòi mãi, cán bộ giải thích thế nào cũng không nghe, đến nỗi cán bộ
phải tuyên bố rằng: “Các anh em đề cao cảnh giác, kẻo tay sai nó lọt vào
nó phá tan đoàn kết đấy”, rồi Giao mới chịu im. Như anh Choòng thì bảo
cả cán bộ cả dân là làm sai. Lúc chia quả thực thì anh là trung nông,
nhưng anh tranh là bần nông; lúc bình nghị đi dân công cần bần cố nông
thì anh nói anh là trung nông, anh không đi. Cán bộ phê bình anh như thế
là không tin ở Đảng cũng như nhân dân. Anh cũng cứ cãi không im. Những
cớ đó sau này mới thành ra vỡ đoàn kết và đổ cho tại tôi hết. Sự thực là
phiên họp nào cũng có cán bộ Đội phát động cả, còn chả làm nổi vậy.
Riêng đối với tôi, vì anh Hoàng, anh Gia chỉ ăn ở một nhà chú Gioóng, ở
chung với chú Ba Choòng, không thực hành ba cùng, ít tới nhà tôi, không
hiểu tôi, chỉ tin ở sự báo cáo của phe địa chủ. Về bên nhân dân, thì có
mấy người thiếu trẻ chăn trâu bò muốn bắt các em ở với tôi về nuôi, nên
họp riêng mấy người chia quả thực cho tôi 1 cân, cho các em 200 cân, và
bảo các em thành phần khác, tôi thành phần khác. Lúc Đội sắp rút, bảo
tôi phải phân tán các em mỗi em một cửa94;
tôi chả biết nói thế nào, nhưng sau không thấy nhắc đến. Tôi chẳng hiểu
vì cớ gì; chỉ nghe mang máng đâu vì anh Đại đội trưởng không đồng ý.
Ôi! Lúc bình nghị cá nhân gương mẫu trong dịp phát động thì tất cả bầu
cho tôi, mà lúc chia quả thực thì đập tôi một cách nhục nhã. Hơn nữa còn
bắt phải rẽ đàn tan nghé nữa; đau đớn cho tôi biết chừng nào95!
Tình hình ở xóm tôi rất phức tạp: 1/3 là anh em Hoa kiều, 1/3 là nhân
dân mới tản cư tới, 1/3 là anh em tá điền cũ, thì trong đó có Lê Quang
Vượng trước là tay sai cho Tâm, lúc đó quy định là phú nông; hắn lại nắm
được một số cốt cán, khéo dùng nó thì nó đứng vào phe mình, gạt mạnh nó
thì nó kéo một số cốt cán ra. Cho nên công việc đấu tên Tâm lúc đó
giành được thắng lợi tất cả là một sự khó, nếu không có Hồ Chủ tịch, có
Đảng, thì thực chả ai có sức mà đánh gục nó được. Thực tế sau khi phát
động, nông dân đều tươi hẳn lên vì ai cũng được chia trung bình 40-50
cân cả.
Sau khi Đội rút, tình đoàn kết nhạt dần. Phe địa chủ nhè chỗ yếu chênh
lệch về quả thực nên dễ xuyên tạc. Tôi bị chán ghét cũng vì chia quả
thực, mà tai hại nhất thì có hai cớ: 1) Trả lại thành phần Thuận, nhân
dân hoang mang ngờ tôi là có ý hại người. Thuận nhân đó càng dễ xuyên
tạc. 2) Cháu Miễn tôi được Đội cất nhắc vào Uỷ ban; nhân dân cho tôi là
tích cực để luồn lọt cho cháu vào địa vị. Một con nhãi con ở đâu đến lại
vào Uỷ ban, trên cán bộ xóm96.
Cho nên cả các anh em trước cùng một chí một lòng với tôi đều trở nên
thù ghét tôi cả. Thực ra việc này tôi không biết qua một tý gì, mà tôi
không bao giờ có ý định đó. Sự thực là lúc đấu thành công, anh em cán bộ
hỏi tôi, có ý muốn đề cử tôi vào Uỷ ban hay Chấp hành Nông hội; tôi đều
cố từ, vì tôi tự biết tôi hay ốm, không có tài làm chính trị, sinh kế
lại thiếu quá.
Rồi thì con gái lớn tên Tâm ra ở nhà anh Cần, cán bộ thông tin và bình
dân xóm. Uỷ ban nông hội xã về họp hai kỳ bảo đuổi cũng không đuổi. Rồi
con gái thứ hai tên Tâm ra ở nhà anh Ngọc, phó tổ nông hội xóm. Uỷ ban
nông hội xã về họp bảo đuổi còn tự ái cãi lại. Rồi thế lực kinh tế của
phe địa chủ dần dần tràn ngập vào nhân dân, tranh nhau mua đồ, cãi nhau
đắt rẻ, trong xóm rối loạn, chả ai bảo được ai nữa. Nông hội thì 5 tháng
không sinh hoạt được, may còn có Uỷ ban làm việc cứng, không thì nhân
dân chưa biết còn bị tai hại đến đâu.
Vụ mùa năm 1953 kết quả tốt, nhất là nhà tôi, ruộng có cái sản lượng 60 nồi97
một mẫu, tính đồng đều cả tốt xấu lên tới 45 nồi một mẫu, thu hoạch
được 130 nồi, ruộng có 2 mẫu 9 sào. Lợn bán được gần 3 triệu tài chính98,
rau bán được gần một triệu. Sang năm 1954, cố tạo ruộng chiêm cấy được 1
mẫu, thu hoạch được 15 nồi, khoai sọ giồng được hơn 4 sào, gặp nắng
hạn, tôi đào giếng tưới nên tốt lắm. Nhờ thắng lợi ấy nên nhà tôi sinh
kế tiến nhiều, các em đã được dần dần no cơm ấm áo, nhớn nhao khoẻ mạnh
trông ra tuồng cả.
Văn hoá thì em Vũ học lớp 6; Liên, Khuê học lớp 4 trường Huống; còn mấy
em ở nhà thì em Như học tương đương lớp 3; Thị, Báu tương đương lớp 2,
bé nhất là em Kiêm cũng đã biết đọc biết viết. Vì thế mà khi đội cải
cách mới về được một tháng, đã có một số người tung dư luận ầm lên rằng
chính tôi là địa chủ phải đem ra đấu mà chia thóc, chia khoai, chia
người99,
chia trâu (?) Tâm lý như thế thực cũng dễ hiểu cái cơ nguy khốn của tôi
vậy. Có người hiểu thì nói: “Mấy năm trước các em còn bé, đi đâu ông ấy
còn phải gánh, thì chả thấy ai hỏi đến. Ngày nay các em nhớn nhao giúp
đỡ được đôi việc thì mưu chiếm đoạt.” Cũng là một luận lý xác đáng
Từ khi tranh đấu giảm tô rồi, tôi làm việc nhiều, lại bị oan ức nên ốm
luôn 3 tháng, người suy yếu dần. Nhưng giới phụ lão vẫn tín nhiệm tôi,
bầu tôi vào ban chấp hành phụ lão xã, tôi vẫn cố gắng phục vụ. Cán bộ xã
như các ông Tâm, Mẹo, Thụ cũng nhận thấy tôi có chút khả năng, nên
những việc cần đến như Ban cung cấp lương thực, Ban vận động sản xuất,
mua thịt, mua đỗ, chấn chỉnh tổ đổi công, tổ sản xuất, tôi đều cố gắng
phục vụ không dám lười biếng. Đối với các cán bộ từ xã đến xóm, việc gì
cần đến tôi, tôi biết tôi đều làm giúp. Như việc ruộng của tên Tâm, vì
lúc đấu nó, tôi được dự vào việc làm Ban Tịch thu 1/3 ruộng đất, nên tôi
hiểu biết ruộng đất. Nông hội xã về chỗ nào không rõ, gọi tôi, tôi chỉ
ngay. Nông hội xóm chưa quen ruộng đất tính toán, tôi cũng tính giúp, và
cũng giúp sức nhận ruộng không bỏ sót ruộng, và còn tìm thấy được một
số ruộng chưa rõ của ai. Như công an xóm không biết chữ, lúc làm tổng
kết vệ sinh bảo tôi điền vào mẫu khai, tôi cũng làm giúp100.
Chỉ có thế thôi, ngoài ra không có đi lại cầu thân với ai để cầu danh
cầu lợi riêng cho tôi. Cụ thể như nhà ông Tám bí thư chi bộ xã, tôi cũng
không biết ở chỗ nào. Cùng làm việc đấu tên Tâm với Nông hội mà tôi chỉ
ăn cơm ở nhà anh Sang có một bữa với anh Thìn, anh Niên; tịnh không đi
lại với ai nữa. Thế mà lại ghép cho tôi vào tội cấu kết cán bộ, lái tất
cả cán bộ từ xã đến xóm. Tôi không thể hiểu được thế nào là lái, mà lái
để làm gì vậy. Tôi biết tôi là người ít nói, ít thị phi101, không cầu thân với cán bộ nào; vì tôi sợ thân cán bộ thì mình hay cậy thế làm lỗi, nên cán bộ muốn cho thân, tôi cũng lảng.
Cuối tháng 5, Đội về102. Tôi những khấp khởi mừng thầm rằng thế nào Đội cũng đến ba cùng103
với nhà mình, thế nào mình cũng được phục vụ nhân dân trong cuộc cải
cách này. Tôi chủ quan thật vì tôi nhận thấy nhà tôi khổ hơn các anh em
bần cố trong xóm nhiều. Anh em chỉ có một nỗi khổ bị địa chủ bóc lột,
còn nhà tôi lại thêm cái khổ vì đế quốc thực dân, người nào cũng mất cha
mất mẹ mất của mất nhà vì chúng nó. Chính tôi là người đối thủ số một
của địa chủ; ở đây tôi không hề dính dáng tý gì, lòng trong sạch, chí
căm hờn, tự thấy là đúng, có lẽ nào cán bộ lại chẳng đến nhà mình? Dè
đâu sự thực nó không thế. Đội về, tôi được đi họp có hai tối rồi bị bỏ
rơi, một mình một nón, mù mịt chả còn biết gì nữa. Nhân dân thì coi tôi
như kẻ thù, tôi chào hỏi cũng không thèm giả lời. Rồi dư luận ầm lên tôi
có hàng nghìn mẫu ruộng phát canh thu tô, tôi làm quản lý ấp Tế Sinh
..., tôi chính là địa chủ. Lúc đầu còn nhiều người còn dám nói sự thật
cho tôi, sau cứ dần dần bị chèn phải chịu im. Sự thật tôi không có tư
hữu ruộng đất gì cả; chỉ là cố vấn của hội Tế Sinh. Rồi lại cho tôi là
bóc lột các em, sống một đời sung sướng trên xương máu của các em, cho
vay lãi, mua lúa non, cho nuôi lợn rẽ, bóc lột nhân dân. Cho vay lãi thì
tôi tuyệt không, chỉ có nhường cơm sẻ áo thì có; đã nói rõ cái cớ có
thóc để anh em dùng ở trên. Sự thật, người nhà tôi104
có mua của anh Cú 7 nồi lúa non, cùng một lúc với ông Lợi. Ông Lợi mua
hơn chục nồi thì không nói, chỉ buộc riêng tôi; tôi thực không biết,
biết thì không bao giờ tôi để làm thế. Cho nuôi lợn rẽ, cũng người nhà
tôi cho nuôi 4 con; trong xóm cũng nhiều người làm, như chú Gioóng cho
anh Còn nuôi, em ông Giao cho cụ Hò nuôi, v.v. Lúc tôi biết, tôi bắt rẽ
chia ba, để người nuôi hai phần; sự thực có ông Đuơng nuôi lợn rồi. Lại
cho tôi biển thủ của thiếu nhi 70 vạn đồng tài chính. Sự thực là tôi lấy
số tiền thóc thù lao của tôi giúp các em vốn nuôi lợn; nuôi 3 con chết
1, còn 2 con bán được 70 vạn tài chính, trừ cám bã được lãi mấy vạn ủng
hộ Quỹ Thương binh, có biên lai bưu điện. Tôi cày bừa, giúp các em trồng
bắp cấy chiêm, mới có tiền làm trụ sở, liên hoan bốn năm lần. Tôi đem
cả của và sức lao động mưu cho các em vui, lại bị buộc là lợi dụng và
biển thủ. Sự này có sổ sách, có anh Thành phụ trách thiếu nhi biết. Hơn
nữa nuôi lợn có lãi không, nông dân ai cũng biết, làm gì có lãi 70 vạn
mà biển thủ? Riêng nhà tôi 7 người chết vì giặc, vì đói; các em cùng tôi
theo kháng chiến 8 năm, đói rét khổ sở biết bao, ngày nay mới hồi lại
dần, đều do phần lớn sức lao động và làm ăn có kế hoạch của tôi.
Ngày 16 tháng 6 năm 1954, Đội cho gọi tôi vào xỉa xói mắng nhiếc luôn ba
bốn giờ đồng hồ, vu cho đủ các tội ác, dùng những câu nói rất khinh bỉ
hà khắc, chỉ khác đấu một sự là chưa phải quỳ thôi105.
Tôi thản nhiên lòng hỏi lòng không một tội nào tôi có làm, thì tội
không phải là tội tôi, mà là ở bên nói sai thôi. Tôi không oán giận gì
cả, vẫn một niềm kính mến nhân dân, chỉ xin nhân dân nhận xét kỹ, có lỗi
thì giáo dục cho thôi. Tôi không được cãi; vì cãi cũng vô ích, nói vài
câu đã cắt đứt, ai nghe lẽ phải nữa mà nói. Tôi vẫn tin tưởng rất sâu
sắc vào chính sách của Đảng, dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Hồ Chủ tịch,
nhất định nỗi oan kỳ dị của tôi tất có ngày tỏ rõ ra. Cùng chịu khổ với
tôi tối hôm ấy có ông Xuân, chỉ có lỗi hay cãi nhau, mà sự cãi nhau đó,
theo tôi nhận xét chỉ vì tính ông Xuân nóng, theo lối cổ, đối với người
kém tuổi nói như dạy con dạy cháu, mày tao tục tằn, mà phe địa chủ thì
lợi dụng tính ấy trêu cho cãi nhau để buộc tội rồi không có tinh thần
tranh đấu với nó nữa. Sự thật ông Xuân chỉ vào bậc bần nông, tranh đấu
hăng, không dây dưa gì với địa chủ, thế mà cũng bị xử ức đến thế; người
sáng suốt nghe thì sẽ hiểu ngay trong đó nó thế nào rồi. Sau tối làm
nhục tôi, từ đó nhà tôi y như nhà địa chủ, chả ai dám tới nữa, chỉ còn
mỗi anh Bản vì thâm tri tôi là oan nên thỉnh thoảng còn qua lại và trình
bày hộ một đôi câu thôi. Giữa mùa cấy, bắt hai người lớn đi dân công,
tôi cùng các em cố gắng làm; buồn thảm nhục nhã, sống cũng như chết. Tôi
toan tự tử ngay tối 16106,
nhưng nghĩ tới Hồ Chủ tịch sáng như mặt trời, vả lại tôi không có tội
thật, tự hỏi lương tâm không thấy hổ thẹn, nên tôi phải gượng sống để
đợi ngày sáng tỏ. Đối với tôi, sự chết không có giá trị như người khác,
nên muốn chết lúc nào cũng được. Nhưng chết mà có hại cho chính sách thì
tôi vẫn không dám coi thân tôi hơn nước, hơn dân; mà sự thực sống oan
uổng như tôi thì thường tình mấy ai nhẫn nổi.
Nhận xét qua mấy điểm lớn:
Đứng hoàn toàn về mặt khách quan, đủ sự thực, đủ lẽ chính mà nhận xét,
nhất là lúc này, lúc tôi đã không còn quan niệm tử sinh vinh nhục nữa,
mà tôi nhận xét cho đúng đáng thì tôi thấy:
1- Về phần tôi: Bố mẹ, anh em, chị em chí thân 7 người chết vì giặc
Pháp, vì địa chủ phong kiến. Năm 1945, tôi đã phải chôn hơn 100 em chết
đói và sốt định kỳ, phục vụ hàng mấy vạn đồng bào bị nạn đói mà tôi
không thực hiện được chí căm thù xông ra tiền tuyến giết giặc để báo cái
thù không đợi trời chung, chịu sống loanh quanh ở hậu phương phụ trách
trông một số các em, không làm tròn nhiệm vụ, để các em đói rét chết
chóc, tội ấy dù chết vẫn chưa hết.
2- Về phần nhân dân xóm Đồng Tâm: 90% bị lung lạc trong lưới kinh tế của
địa chủ và bị xuyên tạc, do phe địa chủ chi phối, nên đã cam tâm làm
trái lương tâm, sai chính nghĩa; vô hình trung buộc kẻ trung thành với
giai cấp, dứt khoát với địa chủ, như tôi, vào cái oan thiên cổ kỳ oan.
3- Về phe địa chủ: Đã tài cám dỗ nhân dân lại khéo luồn lọt vào gia đình cán bộ107
để đánh lạc hướng đấu tranh của nhân dân và lối chỉ đạo của cán bộ đội
công tác xóm (gia đình cán bộ nói đây có rất nhiều điểm nhân dân thắc
mắc, nhưng nhân dân chưa hết đầu óc cũ, sợ uy thế không dám nói ra; nếu
đội nhận rõ chỗ này có lẽ còn nhiều mánh lới nữa).
4- Về cán bộ đội: Cán bộ đội phát động giảm tô đa số không tin ở nhân
dân, chỉ tin cậy ở chi bộ. Làm việc kém khoa học, thiếu dân chủ, không
thống nhất ý chí, nên để di hại cho nhân dân nhiều quá.
Cán bộ đội công tác xóm tôi: - Chủ quan: có lẽ đã nghe ai nói sao đó,
nên về đến xóm chỉ tìm cách trị tôi, không cần nghe cái phải, chỉ nghe
cái trái. Ai phân trần cho tôi thì bác bẻ, làm người ấy phải sợ mà đành
bỏ lẽ phải. - Tả khuynh: đúng như lời của cụ C.B. trong báo Nhân Dân số
198. - Bắt rễ: anh Sinh: trên tôi đã nói rõ sự này từ xóm đến xã ai cũng
biết. Anh Côn: sát cánh cùng Vượng, đánh chém anh Cú, lại lấy thóc của
mẹ anh, phá tình đoàn kết Việt-Hoa; cho đến lúc đội về cũng chưa dứt
hẳn... Còn nhiều điều nữa, nhân dân biết cả; nhất là hồi chia quả thực,
cụ Hò còn nói toạc ra rằng là nói ngoa để được nhiều hơn. Anh Lợi: nhân
dân bình nghị đi dân công thì thù cả xóm; mua nhiều lúa non, còn nhiều
điều hơn thế nữa có người biết. - Xâu chuỗi: cho cả Hốt, Đỉnh, Đa, Thiệp
(là những người hồi tranh đấu giảm tô đã đứng hẳn về phe địa chủ phản
lại quyền lợi nhân dân) vào nông hội, để thành sức mạnh bóp chết mình
tôi là kẻ tử thù của địa chủ.
Tôi không hiểu tại sao qua những buổi bình nghị, ai cũng thấy rõ 90%
nhân dân đã lạc vào trong tay của phe địa chủ; tội trạng rõ ràng, ai
nghe cũng rõ. Chỉ có một nhà tôi không dính dáng gì mà đội xóm vẫn không
thấu rõ, lại cứ nghe bên mê mà trị bên tỉnh thì thực là tất cả một sự
trái ngược. Có lẽ đúng như trong báo Cứu Quốc108 số 2626 đã thuật một anh đội công tác hết sa vào tổ kén này lại sa vào tổ kén khác, không biết đâu mà lần nữa chăng?”.
Cái án莫 须 有mà ông Nhạc Phi109 phải chịu ở đời phong kiến còn có lẽ; ai ngờ đời nay mà chính bản thân tôi lại bị, thì tôi còn biết van vỉ làm sao được nữa.
Nguyễn Hữu Kha
(ấp Đồng Tâm, xã Đồng Liên, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên)
Sao lục rất đúng ngày 20 – 7 – 54
M Vũ – X – D -
THƯ TUYỆT MỆNH CỦA NGUYỄN HỮU KHA GỬI HỒ CHỦ TỊCH
“ Kính thưa Hồ Chủ tịch
Việt nam Độc lập Thống nhất muôn năm!
Hồ Chủ tịch muôn năm!
Đảng Lao động Việt nam muôn năm!
Đội Công tác thành công mỹ mãn!
Thế giới Hoà bình muôn năm!
Tôi hô 5 khẩu hiệu này trước khi vĩnh biệt Tổ Quốc và nhân dân, để tỏ
lòng biết ơn Người đã trả được thù nước, thù nhà, thù của giai cấp hàng
ngàn năm, trong đó có cả nhà tôi.
Chân thành kính mến kính gửi Hồ Chủ tịch.
Khi cái thư này đến tay Chủ tịch là khi tôi đã vĩnh biệt cõi này. Sở dĩ
tôi dám mạo muội gửi bức thư này với Chủ tịch có hai lẽ:
1- Tôi kính mến Chủ tịch và tin sâu Chủ tịch sáng suốt vô cùng.
2- Tôi tin tôi có một điểm dễ thông cảm với Chủ tịch là một lòng với nước với dân như đối với con.
Với chính sách, có hai lẽ:
1- Để thêm kinh nghiệm cho cán bộ biết ở đời cũng có hạng người chân
thành đặc biệt, khác hẳn người thường; nếu lấy tình thường mà xét đoán
thì nhầm to. Trái lại nên rõ hơn số người để ít dùng chẳng có nhiều mà
làm * kẻ gian ngoan nó lừa được, để công cuộc Cải cách ruộng đất chóng
thành công, nhân dân được hưởng phúc lành no ấm.
2- Đừng có thành kiến với người có tín ngưỡng.
Tôi dâng thư này hoàn toàn đứng trên quan điểm vì nước vì dân:
1- Tôi không xin tuyệt oan. Vì tôi: bố mẹ chết rồi, vợ con không có, anh
em kiến giả nhất phận. Tôi chẳng còn vì ai mà tôi còn vì tôi làm gì
nữa.
2- Tôi không cốt trả thù. Tôi chết không oán hận, vì tôi chết nhận lợi nước lợi dân, lúc chết thản nhiên.
Tôi chỉ chí thành kính khẩn cầu Chủ tịch xét cho tôi hai điểm:
1- Bổ xung cho cán bộ khỏi lầm, hại cho chính sách đúng đắn.
2- Cho các em ở với tôi trước vẫn được sống tập thể, được ăn, được làm,
được học, khỏi mỗi em một cửa, làm trâu ngựa cho người. Các em với tôi
là những người cực khổ cả, thế mà Đội đến thăm nghèo hỏi khổ bỏ hẳn ra
ngoài; các em đều ôm một lòng ân hận vô cùng, chỉ mong có ngày gặp Bác
** để tỏ nỗi lòng.
Tâm thành kính chúc Chủ tịch sống lâu, mạnh khoẻ, để dắt dân gian cõi
Nam Việt cùng tiến lên cõi sung sướng mãi mãi không ngừng.
Một người dân kính mến Chủ tịch
Nguyễn Hữu Kha”
Sao lục ngày 20 – 7 – 54, rất đúng.
Ghi chú:
* Chỗ này bản chép tay mờ nhạt không rõ, mất một chữ (chép ngày
20-7-1954, đã gần 50 năm), cho nên câu văn khó hiểu; để tôn trọng tác
giả, BBT giữ nguyên không sửa. ** Bác là Bác Hồ
Thư này có lẽ cụ Kha viết vào đêm 14 (đêm hôm giỗ thân phụ) rạng
15-7-1954. Sớm hôm đó cụ Kha bí mật quyên sinh. Bản gốc thư chưa tìm
thấy, ở đây sao lại theo bản chép tay của các học trò cụ Kha.
Ghi chú của người sưu tầm, đánh máy và làm các chú thích cuối trang tài liệu này:
Toàn bộ 22 trang đánh máy trên đây (trừ các chú thích cuối trang) là
nguyên văn bức thư Thiều Chửu - Nguyễn Hữu Kha viết gửi Hồ Chủ tịch. Để
tiện cho bạn đọc theo dõi, khi công bố, tôi tách riêng phần đầu ra và
đặt tên là “Tự bạch”, phần cuối đặt tên là “Thư tuyệt mệnh của Nguyễn Hữu Kha gửi Hồ Chủ tịch”.
Ở đây tôi đánh máy theo nguyên gốc bản sao bức thư cụ Kha viết, để lại
và căn dặn các học trò gửi lên Hồ Chủ tịch. Bản sao này do ông Nguyễn
Xuân Dương giao cho tôi cuối năm 2001, khi các con cụ Nguyễn Hữu Tảo sưu
tầm tư liệu chuẩn bị cho Hội thảo kỷ niệm 100 năm sinh Thiều Chửu - Nguyễn Hữu Kha.
Có ba người đã chép tay bức thư nói trên; họ là các trẻ em trong đội Tế
Sinh được cụ Kha nuôi dạy từ cuối năm 1946 (hồi ấy tôi ở trong đội này
hơn nửa năm). Có lẽ vì thời gian quá gấp (sau khi thấy thư, phải nộp
ngay cho Đội CCRĐ) nên họ phải chia nhau mỗi người chép một đoạn bằng
bút mực tím trên các tờ giấy rời, sau đó ghép lại, đóng bằng chỉ khâu.
Ba người ấy có ghi lại tên tắt của mình (MVũ – X – D), có lẽ X. là
Nguyễn Xuân Xưởng, D. là Nguyễn Xuân Dương, hai anh em ruột và là cháu
gọi cụ Kha bằng bác ruột.
Trong thời buổi “Nhất Đội nhì Trời” ngày ấy, nhất là trong bầu không khí
kinh hoàng bao trùm ấp Đồng Tâm sau khi biết tin cụ Kha quyên sinh,
việc sao chép bức thư này là một hành động sáng suốt và dũng cảm đáng
khâm phục. Người chép thư phải làm việc hết sức khẩn trương, không kịp
soát lại. Vì vậy bản sao có vài chỗ nhầm, nhiều chỗ không rõ là điều dễ
hiểu. Mặt khác, do người chép không giỏi chữ Nho nên có một số chữ Nho
viết chưa đúng (tôi đã sửa lại).
Chắc hẳn bản gốc bức thư đã phải nộp ngay cho Đội CCRĐ sau khi sao chép
xong. Trong không khí khủng bố thời ấy, việc chuyển thư này tới Hồ Chủ
tịch là rất nguy hiểm và có lẽ thư chẳng bao giờ tới đích.
Cần nói thêm là cụ Kha bí mật trẫm mình tại Thác Huống trên sông Cầu
sáng sớm ngày 15-7-1954, không ai trông thấy, sau khi đã thắp hương tạ
lễ bốn phương (hương và hoa đồ lễ còn lưu lại trên bờ). Thi hài cụ trôi
xuống hạ lưu sông, đội Tế Sinh tìm được và đưa về an táng. Cụ Kha từ lâu
đã có uy tín cực cao trong cả nước cũng như tại địa phương tạm trú, vì
thế cái chết của cụ đã gây rúng động dư luận, đông đảo người dân địa
phương công khai tỏ lòng tiếc thương. Đội CCRĐ kịp thấy sai lầm và mấy
ngày sau đã sửa sai bằng cách hạ thành phần cụ từ địa chủ xuống trung
nông. Về sau hài cốt cụ được các Phật tử trân trọng rước về an táng tại
Hà Nôi, cuối cùng đưa lên Nghĩa trang Thanh Tước (số mộ 170-C3).
Trước khi có bản chép tay kể trên, tôi có nhận được hai bản từng lưu trữ
ở nhà ông Nguyễn Hải Đạm (con thứ tư cụ Nguyễn Hữu Tảo, do ông Nguyễn
Hải Bằng chuyển cho tôi ngày 9-11-2001). Một bản đánh máy, chữ màu tím
trên 17 trang giấy pơ-luya (tôi hiện còn giữ), về cơ bản giống bản chép
tay, nhưng thiếu “Thư tuyệt mệnh”, thiếu nhiều dấu chấm câu, bỏ sót một
số chỗ và do máy chữ không dấu tiếng Việt nên rất khó đoán đúng một số
chữ, nhất là tên người và địa danh, không đánh máy được chữ Nho, giấy
lâu ngày đã mục, chạm đến là nát vụn. Bản thứ hai có 7 trang đánh máy,
viết dưới dạng phóng tác văn học. Vì ông Đạm đã qua đời năm 2000 nên
không thể tìm hiểu nguồn gốc hai bản này. Cuối cùng chúng tôi quyết định
dùng bản chép tay do ông Dương cung cấp. Chúng tôi làm thêm các ghi chú
cuối trang để giúp người đọc hiểu rõ hơn về các nhân vật và sự kiện có
đề cập trong bài viết của cụ Kha. Tài liệu này được gửi tới các học giả
nhận lời viết tham luận trong Hội thảo kỷ niệm 100 năm sinh Thiều Chửu - Nguyễn Hữu Kha 1902-2002.
________________________________________________________________________
Sưu tầm, đánh máy vi tính và chú thích: Nguyễn Hải Hoành (cháu gọi cụ Nguyễn Hữu Kha bằng chú ruột, con thứ sáu cụ Nguyễn Hữu Tảo). 1-2002
Ông Nguyễn Hải Hoành gửi BVN.
1 Tức cụ Phạm Thị Luyến (1876-1949), quê Đông Phù, Thanh Trì.
2 Tức cụ Nguyễn Hữu Cầu (1879-1946), cử nhân khoa thi Bính Ngọ. Năm 1905 bị Pháp bắt và đày Côn Đảo.
3 Nay là Kim Giang - Đại Kim, Hà Nội.
4
Khu vườn này hiện là nhà ở của các cháu nội cụ Cầu, ở giữa nhà C7 và C8
Khu tập thể Kim Liên; 2 cái ao trong vườn rộng hơn 2 sào, cuối thập kỷ
60 Ban Xây dựng 67 xin gia đình cụ Cầu cho để xây nhà C13.
5 Nay là khu tập thể của Bộ Nông nghiệp, phường Phương Mai, Hà Nội.
6 Đạo thần hôn: đạo làm con (phải hiếu với cha mẹ). Hổ: xấu hổ.
7 Bố là Nguyễn Hữu Cầu đỗ Cử nhân, hai bác trai là Nguyễn Giáp và Nguyễn Thành đỗ Tú tài, khoa thi năm Bính Ngọ (1906).
8 Tức cụ Nguyễn Thành, anh ruột cụ Cầu, đỗ Tú tài, sinh 1 gái 1 trai.
9 Bà nội cụ Kha (tức vợ cụ Thụy), họ Lê, quê làng Trung Lập (nay thuộc huyện Phú Xuyên, Hà Nội).
10 Năm 1915, cụ Nguyễn Hữu Cầu bị thực dân Pháp bắt giam, kết án 5 năm cấm cố và 5 năm quản thúc.
11 Nước I ta li a, ta quen gọi là nước Ý.
12
Tức Camillo Benso Cavour, 1810-1861, quân nhân, nhà chính trị, một
trong 3 khai quốc đại công thần của nước Ý độc lập và thống nhất; chủ
trương lập chế độ quân chủ lập hiến; là Thủ tướng đầu tiên của vương
quốc Sardinia (ở Tây Bắc nước Ý) và Thủ tướng đầu tiên của nước Ý thống
nhất (1861).
13 Tức cụ Đề Thám, lãnh đạo Khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang), năm 1913 bị tay sai Pháp ám hại.
14 Được biết Lê Hoan chỉ là Tổng đốc, không phải là Khâm sai.
15 Nguyên văn chữ Hán. Phiên âm từ Hán-Việt là: Thanh
thần điếu cửu nguyên. Chủng chủng u tình huyên. Thế thái cạnh phú quý.
Nhân tình xu ngân tiên. Công cừu bái ngạch thượng. Nghĩa vụ phóng tâm
biên. Nguyễn Hải Hoành dịch: “Tinh mơ qua bãi tha ma, Vong hồn
bao kiếp kêu la vang trời. Bon chen phú quý thói đời. Lòng người mê mẩn
hướng nơi đồng tiền. Thù chung: trên trán, đưa lên. Nghĩa vụ: canh cánh
không quên trong lòng.”
16
Tức cụ Nguyễn Hữu Tảo (1900-1966). Năm 1924 tốt nghiệp Cao đẳng Sư
phạm, dạy học trường Thành chung Nam định rồi trường Bonnal Hải Phòng.
Xem Phả hệ họ Nguyễn Đông Tác.
17 Từ cổ, tức trường học.
18 Tức làng Trung Tự, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông thời ấy; nay là tổ 81 phường Kim Liên, Hà Nội
19 Đóng dấu chứng nhận.
20
Cụ Kha thường nhịn ăn lấy gạo giúp người đói. Khi học trò mình mắc lỗi
mà không chịu sửa, cụ Kha cũng thường nhịn ăn và ngồi thiền để suy nghĩ
xem tại sao mình chưa thuyết phục được người mắc lỗi.
21 Thuộc huyện Phú Xuyên, Hà Tây.
22 Tầu thuỷ hoặc thuyền máy chở khách.
23 Năm 1920.
24
Cụ Cầu mở hiệu thuốc Lợi Nhân ở Ngã Tư Sở lúc đó thuộc tỉnh Hà Đông (ra
tù, cụ bị quản thúc 5 năm, bị cấm vào Hà Nội sinh sống). Nhà cụ ở Trung
Tự, lúc đó cũng thuộc huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông.
25 Nhụt chí, nản chí.
26 Lúc đó cụ Cầu đang bị đày ở Côn Đảo, có viết văn tế mẹ gửi về nhà.
27 Tức ngày càng.
28 Tức hiệu sách Hoà Ký. Tại đây cụ Kha đã xuất bản một số sách. Phố Sinh Từ nay là phố Nguyễn Khuyến.
29 Nguyễn Hữu Kha là một trong mấy người đồng sáng lập Hội Bắc kỳ Phật giáo.
30
Nguyễn Năng Quốc là Tổng đốc về hưu, năm 1934 làm Hội trưởng Hội Phật
giáo, NNQ mời Thống sứ Bắc kỳ là Auguste Tholance làm Hội trưởng Danh dự
Hội này. Cụ Cầu rất ghét những người làm quan cho Pháp.
31
Tức Nhà in Đuốc Tuệ, đặt tại chùa Quán Sứ, 72 phố Richaud (nay là phố
Quán Sứ), Hà Nội. Chú ý: Cụ Kha và các thợ nhà in đều ở nhà cạnh chùa QS
chứ không ở trong chùa, như một số tài liệu đã viết nhầm.
32 Cảnh sát trưởng thời Pháp.
33 Tức cụ Hoàng Thị Uyển, chị cụ Hoàng Đạo Thuý (cùng cha khác mẹ).
34 Bác sĩ Trần Duy Hưng, từ 1946 làm chủ tịch Uỷ ban Hành chính Hà Nội.
35 Cụ Cả Mọc hơn cụ Kha 30 tuổi.
36 Một loại huân chương làm bằng vàng hình đồng tiền, vua thưởng cho người có công.
37 Đọc trệch từ tiếng Pháp Tholance, tên viên Thống sứ Bắc kỳ hồi ấy.
38 Mề đay, tức huy chương, huân chương.
39 Báo cáo, làm tờ trình lên triều đình.
40 Một chức vị được miễn tạp dịch, phải bỏ tiền mua. Có Nhiêu sẽ được miễn các việc lao động công ích
41 Vai chủ một bát họ. Họ là một hình thức góp tiền cho nhau vay. Ai cầm cái được thu tiền của cả họ.
42 Tức Hội Phật Giáo.
43 Chùa hoặc miếu nhỏ.
44 Giúp không lấy tiền.
45 Thành viên của tổ chức Hướng đạo (Scout) ngày ấy.
46 Tại chùa Quán Sứ.
47 Hai bác sĩ giỏi và nổi tiếng về lòng nhân ái ở Hà nội thời ấy.
48 Học sinh có ăn ở (lưu trú) tại trường.
49 Tức tại ấp Đồng Tâm, xã Đồng Liên, huyện Phú Bình, Thái Nguyên.
50 Dương lịch là 19-12-1946.
51 Chân nề không tự đi được, phải ngồi trên quang gánh để người khác gánh đi.
52 Về sau làm Chánh văn phòng Bảo tàng Hồ Chí Minh. Đã mất.
53 Đêm 17-2-1947, bộ đội ta rút khỏi Hà Nội; cụ Kha rút theo và phá máy, đốt nhà in, thực hiện tiêu thổ kháng chiến.
54 Cụ Nguyễn Xuân Nghiêm (1910-1950), em ruột cụ Kha.
55 Thuộc tỉnh Thái Nguyên.
56 Một trẻ lớn tuổi trong đoàn Tế Sinh. Đã mất.
57 Hội Tế Sinh.
58 Tức mắc bệnh sốt rét.
59 Là hai em ruột cụ Kha: Nguyễn Xuân Nghiêm (1910-1950), Nguyễn Thị An (1904-1949).
60
Dân ấp Đồng Tâm (nơi cụ Kha đang ở khi đó) hiếm con, nhiều người muốn
xin một em trong đoàn Tế Sinh về làm đầy tớ; nhưng cụ Kha không đồng ý,
vì thế một số người oán ghét cụ.
61 Thuộc tỉnh Thái Nguyên.
62 Đáo là (đi) đến. Khẩu hiệu “Ba bát cháo, đáo Tam Đảo” chứng tỏ quyết tâm của đoàn tản cư.
63 Tức bên Thái Nguyên. Dãy núi Tam Đảo chạy giữa hai tỉnh Thái Nguyên và Vĩnh Yên.
64 Một loại chảo thành đứng, bằng đồng, dùng để thổi nấu như nồi, chảo.
65 Xay thóc, giã gạo, lấy được gạo và cám, trấu; bán gạo có lãi, ngoài ra còn được hưởng cám, trấu.
66 Tức Uỷ ban Hành chính Kháng chiến Liên khu I.
67 Thuốc viên có mầu vàng, là loại thuốc chữa sốt rét chủ yếu ngày ấy, rất quý hiếm.
68 Tức thóc công lương, một loại thuế thu từ nông dân hồi ấy.
69 Sư Ni là sư nữ. Sư Tăng là sư nam. Tăng Ni là tên gọi gộp sư nam và sư nữ.
70
Cụ Kha khi làm ở Hội Tế Sinh có quen cụ Hoàng Đạo Thuý, sau 1946 phụ
trách Bộ đội Thông tin; nên cụ Kha giới thiệu các sư tăng vào bộ đội TT.
Ô.Tuấn và Dưỡng đã hy sinh. Ô. Trần Việt Quang nay là đại tá về hưu,
rất nhiệt tình giúp vào việc khôi phục thanh danh cho cụ Kha.
71
Là hai sư nữ trong đoàn, quê Hà Nội. Bà Chi mang ra 6 lạng vàng do
Thượng tọa Tố Liên ở Hà Nội gửi cho cụ Kha. Cụ không nhận, bắt đem trả
TT Tố Liên. Bà Chi bí mật đem vàng cho dân xóm vay lấy lãi. Khi bị dân
xóm tố, bà lại nói là cụ Kha bảo làm thế, khiến cụ Kha bị mang vạ.
72 Hà Nội lúc đó đang bị giặc Pháp chiếm đóng.
73 Vùng kháng chiến ngày ấy còn gọi là vùng tự do. Vùng Pháp chiếm gọi là vùng địch tạm chiếm.
74 Cụ Luyến mất tháng 10-1949.
75 Khuê về sau đi bộ đội, đã hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ.
76
Đúng ra là Cát Hanh Long, tên thật là Nguyễn Thị Năm, một nhà giàu yêu
nước ở Hải Phòng, năm 1946 tản cư theo Kháng chiến chống Pháp, trú tại
đồn điền của mình ở Đồng Bẩm, Thái Nguyên. Trong Cải cách Ruộng đất năm
1954, bị đấu tố là địa chủ phạm nhiều tội ác và bị xử bắn. Vụ này ngày
ấy được tuyên truyền rầm rộ coi là một cuộc đấu tranh lớn trong CCRĐ, ai
cũng căm ghét Cát Hanh Long.
77 Bà Phan Thị Hạnh, có chồng tên là Đức, làm nghề dạy học, nên quen gọi là giáo Đức.
78
Thời thuộc Pháp, Tâm từng làm cai thầu công trình xây dựng đập nước
Thác Huống, hắn kiếm được nhiều tiền bèn tậu ấp Đồng Tâm gần Thác Huống,
trở thành địa chủ.
79 Khoai môn.
80 Đất ven bờ sông, tương đối mầu mỡ. Vùng này là vùng núi đồi, ruộng đất ít và kém mầu mỡ.
81 Cụ Nghiêm về sau được truy tặng danh hiệu Liệt sĩ, có tên trên Đài Liệt sĩ ở khu tập thể Kim Liên.
82 Ý nói bàn bạc nhất trí với gia đình. Cụ Kha coi tập thể trẻ Tế Sinh và các tăng ni cùng đoàn là gia đình mình.
83 Tức ngô.
84 Cháu gọi cụ Kha bằng bác ruột, con gái lớn của cụ Nghiêm. Hiện ở tổ 81, phường Kim Liên, Hà Nội.
85 Các nhà sư. (Từ Trung Quốc, chuyển từ Phạn ngữ, âm Hán Việt là Tăng Già).
86 Đàn dựng lên để làm lễ Phật, nhất là lễ giải oan theo đạo Phật.
87 Ngoài ra cụ Kha còn viết cuốn “Con đường học Phật ở Thế kỷ thứ 20” rồi gửi vào Hà Nội nhờ in tại nhà in Đuốc Tuệ (1952).
88 Xin lưu ý: ấp Đồng Tâm ở vào chỗ huyện Phú Bình giáp giới với huyện Đồng Hỷ.
89
Việc cụ Kha gửi thư và tài liệu yêu nước vào Hà Nội, về sau bị Đội Cải
cách ruộng đất nghi oan là cụ có liên lạc với các tăng già theo địch
trong vùng tạm chiếm, trở thành một cái cớ để đấu tố cụ.
90
Chỉ cuộc phát động nông dân đấu Nguyễn Thị Năm ở huyện Đồng Bẩm (Thái
Nguyên), ngày ấy được tuyên truyền rầm rộ như một phát súng mở đầu cuộc
CCRĐ trong vùng kháng chiến năm 1954.
91 Thóc của Quỹ cứu đói thời ấy.
92 Kết lại thành một khối vững chắc.
93 Địa: địa chủ, Phú: phú nông; cả 2 thuộc thành phần trên. Cố, bần, trung: cố nông, bần nông, trung nông.
94 Tức phân tán mỗi em Tế Sinh về ở một gia đình dân để làm lao động thuê (cửa ở đây tức là nhà).
95 Cụ Kha không bao giờ muốn các em đoàn Tế Sinh bị bóc lột sức lao động. Xem chú thích 60.
96 Uỷ ban chính quyền thôn, chức vụ uỷ viên uỷ ban này cao hơn cán bộ khác trong thôn.
97 Đơn vị đo dung tích, thường dùng để đong thóc gạo, một nồi khoảng 20 lít thóc.
98 Đồng tiền dùng ngày ấy, vì do Bộ Tài chính phát hành, dân quen gọi tắt là (đồng) Tài chính
99 Tức phân chia trẻ em trong đoàn Tế Sinh về các gia đình cần người làm thuê.
100 Cụ Kha lúc đó là người có trình độ văn hoá cao nhất ở ấp Đồng Tâm.
101 Thị phi: bàn tán chê bai.
102 Cuối tháng 5-1954 Đội Cải cách Ruộng đất về ấp Đồng Tâm phát động nông dân làm CCRĐ.
103 Ba Cùng là (cán bộ đội CCRĐ) cùng ăn, cùng ở, cùng lao động với nông dân, nhằm phát động tư tưởng nông dân đứng lên đấu tố địa chủ.
104 Nhà ở đây là nói tập thể đoàn trẻ Tế Sinh và một số sư đi theo cụ Kha, cụ coi tập thể này là nhà mình.
1051 Trong các buổi họp nông dân đấu tố địa chủ thời ấy, người bị đấu phải quỳ xuống trước mặt dân.
106 Tức 16-6-1954. Cụ Kha tự vẫn ngày 15-7, một hôm sau ngày giỗ thân phụ là cụ Nguyễn Hữu Cầu.
107 Chỉ các cán bộ cấp trên thôn.
108 Cơ quan ngôn luận của Mặt trận Liên Việt, là một trong vài tờ báo quan trọng nhất của ta hồi ấy.
109
Danh tướng, anh hùng dân tộc (1103-1142) đời Nam Tống, kiên quyết chống
giặc Kim xâm lược. Tể tướng Nam Tống là Tần Cối (1090-1155; từng bị
giặc Kim bắt, đồng ý làm nội gián cho giặc, sau khi trở về được vua
phong làm Tể tướng tới 2 lần, cộng 19 năm) chủ trương hàng giặc; hắn vu
oan giá hoạ Nhạc Phi, dùng một tội danh 莫须有 “mạc tu hữu” (cụ Kha viết chữ Hán, nghĩa là “có lẽ có”) rồi bắt giam và giết chết Nhạc Phi cùng con trai. Án Mạc tu hữu là nói vụ án vu oan giá hoạ, không có tội nhưng bị vu là có tội.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 393
No comments:
Post a Comment