NGUYỄN THIÊN THỤ * THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM
NGUYỄN THIÊN THỤ
A.PHẦN THỨ NHẤT: CÁC BẢN DỊCH "THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM"
I. BẢN NGÔ ĐIỀNBản này được in trong bộ Văn Đàn Bảo Giám của Trần Trung Viên.Bộ này Trần Trung Viên viết lời tựa năm ât sửu (1926), Dương Bá Trạc năm bính dần (1927), và Tản Đà đề tựa 1934. Nam Ký xuất bản 1932, Mặc Lâm Sai gon tái bản năm 1968. Theo Trần Trung Viên, dịch giả bài thu Dạ Lữ Hoài Ngâm này là Ngô Điền.Theo Trần Trung Viên, ông quê Nam Định, thi đậu Hoàng giáp đời vua Tự Đức. Trứơc làm quan trong nội các, sau thuyện đi nhậm ở một tỉnh xa xôi. Do vậy,lâu không được về quê nên có viết tập Thư Dạ Lữ Hoài Ngâm để than thở niềm tư gia ở nơi đất khách (VĐBG .Tiểu sử các bậc thi hào ViệtNam).
Theo phả hệ họ Ngô làng Tả Thanh Oai, Ngô Điền , thuộc dòng Ngô Thời Sĩ, Ngô Thời Nhậm, người Tả Thanh Oai huyện Thanh Trì , tỉnh Hà Đông , đỗ Hoàng giáp năm 1841.
http://www.phahe.vn/FamilyTree/Pages/ViewFunctionContent.aspx?FamilyTreeID=772&id=391
Theo Đăng Khoa lục, Ngô Thạc 吳 碩 sinh năm giáp tuất ( 1814 ) quán xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Nội, đỗ cử nhân khoa canh tí (1840), đỗ hoàng giáp khoa tân sửu ( 1841) đời Thiệu Trị nguyên niên, làm tri phủ bị cách.
Ngô Thạc là Ngô Điền vì khi đi thi, ông đổi tên. Việc đổi tên ngày xưa là chuyện bình thường và dễ dàng. Như vậy, Ngô Điền là người cùng tuổi với Đinh Nhật Thận, và là người đồng thời với Đinh Nhật Thận, Nguyễn Hàm Ninh, Cao Bá Quát và Tùng Thiện vương.
Còn việc nói ông viết Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm thì e không đúng, ông chỉ dịch bản Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm của Đinh Nhật Thận mà thôi.Trong 99 Chóp Núi, ông Đẩu Tiếp có nhắc đến bản Trần Trung Viên, bản Xuân Lan và bản của Nguyễn Văn Trác, nhưng không đề cập đến Ngô Điền,. Ngoài Trần Trung Viên cũng không ai nói đến Ngô Điền và Thư Dạ Lữ Hoài Ngâm.\
THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM
Đêm thu lặng, bóng giời thấp thoáng
Cách rèm thưa rót chén kim bôi.
Gẫm xem thời sự sụt sùi,
Cõi phù mấy thuở làm vui cho đời.
Người ngắm cảnh, trăng soi hoa nở
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây
Nỗi niềm mấy kẻ tỏ hay ?
Cùng ai trăng gió đêm ngày với thu
Thơ nhã ái bốn câu ba vận
Rượu ly hoài vài chén làm khuây
Trước đèn trong chốn thư trai
Não lòng đất khách, ngậm ngùi người xưa.
Ngoài Hương thủy tiếng ngư văng vẳng
Thuyền ở đâu chèo thẳng bên dương ?
Bồi hồi đêm nguyệt trời sương
Non hàn thuyền khách trông nhường như bay.
Khúc ngư thủy nhớ ngày Đại Đỗ
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ
Mấy thu để tám bài thơ
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng
Xưa ta đi liễu đang thanh tế
Chim hoàng anh mới kể ba câu.
Bằng nay cúc đã hoa thâu
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve
Khi ta đi đào khoe tiếu kiểm
Ngọn đông phong mới điểm ba hàng
Bằng nay lan đã rỏ (1) sương
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu
Làm chi vậy buồn rù (2) đất khách
Nhật quán đồng mượn thích làm khuây
Có đêm nương bóng hồi tây
Ba tiêu khóc lệ, hơi may ngâm trùng.
Làm chi vậy dở dang quán lữ.
Năm sương yên kế nửa vừa rồi
Có khi ngồi nhẫn thư trai
Gió lay bên trúc, nguyệt cài trên lương
Nào có phải như chàng ném bút
Vì vua mà đồng mác (3) cho cam
Luống đem thân thế cát lầm
Khóc ngồi hổ mặt, nghe nằm thẹn tai
Nào có phải như ai vâng hịch
Vì thân mà xa cách cho xong
Bỗng không khách địa binh bồng.
Trông mây lại nhớ, xem bông lại phiền.
Một cánh lá buồm thẳng gióng Giang Lăng.
Lòng quê đâu đã bâng khuâng,
Phút theo buồm nhẹ tếch chừng bể khơi.
Ngày nay đứng trông nơi non thẳm,
Một làn mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã rối bong.
Phút theo mây kéo mấy trùng non xa
Trông tin nhạn biết là đâu tá,
Tâm tình này ai tả cho nên.
Chuông chùa Diệu đế khua rền
Trống vang cửa bể súng rên thành vàng
Lòng quanh quéo sông càng quanh quéo.
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông.
Than đất khách não nùng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Ngậm tình che quạt luống chờ bóng trăng.
Canh khuya những mơ mòng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai.
Thương thay đêm vắng im người,
Ngủ mơ giấc bướm tỉnh rồi gà kêu.
Hoặc có lúc ban chiều trong khổn,
Bước ra thềm lại muốn lên lầu .
Phút nghe con én kêu sầu,
Lược rầu tóc chải gương rầu mặt soi.
Hoặc có lúc gieo thoi đêm tối,
Gọi con đồng vừa tới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy rời chân đạp thoi ngừng tay đưa.
Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua chẳng thấy thư về.
Gác thoi (4) ra đứng bên hè
Đầu thềm con dế rù rì khóc sương.
Trông chẳng thấy chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn trở (5) gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây,
Gẫm tình tựa gối liền tay khêu đèn
Thương thay những ngóng tin sớm ấy,
Ngày gần hôm chẳng thấy thư về
Bó xiêm lửng thửng bên hè,
Mày sầu khóm liễu dì dì khóc ve.
Trông chẳng thấy lại về đứng đợi,
Đoài cầm hiên muốn gợi tay đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lơn,
Buồn thôi xỏ dép ra vườn bẻ hoa.
Nay hẳn bảo trời đà mát mẻ,
Lương nhân ta có dễ gần về.
Biết đâu đường thế khắt khe
Dặm ngàn hồ dễ đi về cho năng.
Này hẳn bảo ta chừng lâu ở,
Ôm khâm trù hay đã có người.
Phong lưu tính đã quen rồi,
Phồn hoa lịch sự lại người Tràng An.
Ví chẳng thể bàn hoàn chi mãi,
Hết xuân rồi hạ lại sang thu.
Lầu hồng cung cấm ấy ru
Anh hùng lại với trượng phu ai từ.?
Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên ba khôn xiết dạ sâu.
Há còn trai trẻ chi đâu,
Phong lưu thói cũ giang hồ thời xưa.
Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương khuê xa khuất dặm trường
Giang hồ dù có biết thương
Thiết tình lại nhớ những đường dặm khơi.
Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trong đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.
Mừng cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Gia đình thời đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.
Vài thằng cháu nhờ ơn cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng trộm cho anh,
Năm nay đã có học hành cùng ai.
Bạn đèn sách một hai tri thức
Mùi lan chi thơm nức một nhà.
Từ phen chén rựợu quan hà,
Vị thành lúc ấy rồi mà dương quan.
Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi trang ?
Mới hay đồng bệnh cùng thương,
Kẻ Tần người lại Tiêu tương một trời.
Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Bằng nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.
Cảnh li biệt lệ đầy hai mắt,
Bóng hương khuê xa khuất dặm ngàn.
Rượu rồi ngồi tựa lan can
Chiêm bao thấy giấc canh tàn về thu.
(Văn Đàn Bảo Giám III,107-111)Lầu hồng cung cấm ấy ru
Anh hùng lại với trượng phu ai từ.?
Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên ba khôn xiết dạ sâu.
Há còn trai trẻ chi đâu,
Phong lưu thói cũ giang hồ thời xưa.
Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương khuê xa khuất dặm trường
Giang hồ dù có biết thương
Thiết tình lại nhớ những đường dặm khơi.
Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trong đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.
Mừng cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Gia đình thời đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.
Vài thằng cháu nhờ ơn cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng trộm cho anh,
Năm nay đã có học hành cùng ai.
Bạn đèn sách một hai tri thức
Mùi lan chi thơm nức một nhà.
Từ phen chén rựợu quan hà,
Vị thành lúc ấy rồi mà dương quan.
Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi trang ?
Mới hay đồng bệnh cùng thương,
Kẻ Tần người lại Tiêu tương một trời.
Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Bằng nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.
Cảnh li biệt lệ đầy hai mắt,
Bóng hương khuê xa khuất dặm ngàn.
Rượu rồi ngồi tựa lan can
Chiêm bao thấy giấc canh tàn về thu.
____
1. VĐBG ghi là rõ. Phải là rỏ, nhỏ giọt
2. Buồn rù: buồn rầu. Không hiểu là do tiếng địa phương, do ép vận, hoặc theo quy định của Bội Văn Vận phủ vần âu đọc U.
3.VĐBG và bản Nguyễn Tài Chất ghi là đồng bác trong khi các bản khác ghi là đòng mác. Mác là cây dao nhọn dài, đòng là loại giáo, mũi nhọn có cán dài
4.VĐBG ghi gác toi, chắc là lỗi ấn công, các bản khác ghi là gác thoi.
5. VDBG ghi là dở, các bản khác ghi là trở.Giở hay trở chỉ là giọng Bắc Trung khác nhau, cũng là quay.
BẢN II.G. CORDIER
"Thu dạ lữ hoài ngâm - Plainte de l’exilé par une nuit d’autume " xuất bản năm 1925.
Thu dạ lữ hoài
Thơ nhã ái bốn câu ba vận
Rượu ly hoài vài chén làm khuây
Trước đèn trong chốn thư trai
Não lòng đất khách, ngậm ngùi người xưa.
Ngoài Hương thủy tiếng ngư văng vẳng
Thuyền ở đâu chèo thẳng biên giương ?
Bồi hồi đêm nguyệt trời sương
Non hàn thuyền khách trông chừng như bay.
Khúc ngư thủy nhớ ngày đại đỗ
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ
Mấy thu để tám bài thơ
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng
Khi ta đi liễu đang xanh tốt
Chim hoàng anh mới hót ba câu.
Bằng nay cúc đã ngậm thâu
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve
Khi ta đi đào khoe tiếu kiểm
Gió Đông phong mới điểm ba hàng
Bằng nay lan đã rò sương
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu
Làm chi vậy buồn dù (1) đất khách
Nhật quan đồng mượn thích làm khuây
Có đêm nương gối phòng tây
Ba tiêu khóc lệ hơi bay ngâm trùng
Làm chi vậy giở dương (2) quán lữ.
Năm sương yên kể nửa vừa rồi
Có khi ngỗi nhẫn thư trai
Gió lay bên trúc, nguyệt cái trên lương
Nào có phải như chàng ném bút
Vì vua mà đồng bác cho cam
Luống đem thân thế cát lầm
Khóc ngồi hổ mắt, nghe nằm thẹn tai
Nào có phải như ai vâng hịch
Vì thân mà xa cách cho xong
Bỗng không cách địa bình bồng.
Trông mây lại nhớ xem bông lại phiền
Ngày nay đứng trông miền bể rộng
Một cánh buồm gióng thẳng Giang lăng
Lòng quê luống những bâng khuâng
Phút theo buồm nhẹ tếch chừng bể khơi.
Ngày nay đứng trông nơi non thẳm,
Một áng mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã rối bồng.
Phút theo mây kéo trùng trùng non xa
Trông tin nhạn biết là đâu tá,
Tâm tình này ai tả cho nên.
Chuông chùa Diệu đế cho rền
Trống vang cửa bể súng ran thành vàng
Lòng quạnh quẽ sông càng cạnh quẽ,
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông.
Thân đất khách não lòng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Ngậm tình che quạt luống chờ bóng trăng.
Canh khuya những mơ màng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai.
Thương thay đêm vắng im người,
Ngủ mơ giấc bướm tỉnh rồi gà kêu.
Hoặc có lúc ban chiều trong khổn,
Bước ra thềm lại muốn lên lầu .
Phút nghe con yến kêu sầu,
Lược rầu tóc chải gương rầu mặt soi.
Hoặc có lúc gieo thoi đêm tối,
Gọi con đồng vừa mới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy rời chân đạp thoi dừng tay đưa.
Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua chẳng thấy thư về.
Gác thoi ra đứng bên hè
Đầu thềm con dế rù rì khóc sương.
Trông chẳng thấy chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn giở gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây,
Gẫm tình tựa gối liền tay khêu đèn
Thương thay những ngóng tin sớm ấy,
Ngày gần hôm chẳng thấy thư về
Bỏ xiêm lững thững bên hè,
Mây sầu khóm liễu dì dì khóc ve.
Trông chẳng thấy lại về đứng đợi,
Đoài cầm hiên muốn gợi tay đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lơn,
Buồn thôi xỏ dép ra vườn bẻ hoa.
Thơ nhã ái bốn câu ba vận
Rượu ly hoài vài chén làm khuây
Trước đèn trong chốn thư trai
Não lòng đất khách, ngậm ngùi người xưa.
Ngoài Hương thủy tiếng ngư văng vẳng
Thuyền ở đâu chèo thẳng biên giương ?
Bồi hồi đêm nguyệt trời sương
Non hàn thuyền khách trông chừng như bay.
Khúc ngư thủy nhớ ngày đại đỗ
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ
Mấy thu để tám bài thơ
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng
Khi ta đi liễu đang xanh tốt
Chim hoàng anh mới hót ba câu.
Bằng nay cúc đã ngậm thâu
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve
Khi ta đi đào khoe tiếu kiểm
Gió Đông phong mới điểm ba hàng
Bằng nay lan đã rò sương
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu
Làm chi vậy buồn dù (1) đất khách
Nhật quan đồng mượn thích làm khuây
Có đêm nương gối phòng tây
Ba tiêu khóc lệ hơi bay ngâm trùng
Làm chi vậy giở dương (2) quán lữ.
Năm sương yên kể nửa vừa rồi
Có khi ngỗi nhẫn thư trai
Gió lay bên trúc, nguyệt cái trên lương
Nào có phải như chàng ném bút
Vì vua mà đồng bác cho cam
Luống đem thân thế cát lầm
Khóc ngồi hổ mắt, nghe nằm thẹn tai
Nào có phải như ai vâng hịch
Vì thân mà xa cách cho xong
Bỗng không cách địa bình bồng.
Trông mây lại nhớ xem bông lại phiền
Ngày nay đứng trông miền bể rộng
Một cánh buồm gióng thẳng Giang lăng
Lòng quê luống những bâng khuâng
Phút theo buồm nhẹ tếch chừng bể khơi.
Ngày nay đứng trông nơi non thẳm,
Một áng mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã rối bồng.
Phút theo mây kéo trùng trùng non xa
Trông tin nhạn biết là đâu tá,
Tâm tình này ai tả cho nên.
Chuông chùa Diệu đế cho rền
Trống vang cửa bể súng ran thành vàng
Lòng quạnh quẽ sông càng cạnh quẽ,
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông.
Thân đất khách não lòng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Ngậm tình che quạt luống chờ bóng trăng.
Canh khuya những mơ màng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai.
Thương thay đêm vắng im người,
Ngủ mơ giấc bướm tỉnh rồi gà kêu.
Hoặc có lúc ban chiều trong khổn,
Bước ra thềm lại muốn lên lầu .
Phút nghe con yến kêu sầu,
Lược rầu tóc chải gương rầu mặt soi.
Hoặc có lúc gieo thoi đêm tối,
Gọi con đồng vừa mới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy rời chân đạp thoi dừng tay đưa.
Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua chẳng thấy thư về.
Gác thoi ra đứng bên hè
Đầu thềm con dế rù rì khóc sương.
Trông chẳng thấy chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn giở gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây,
Gẫm tình tựa gối liền tay khêu đèn
Thương thay những ngóng tin sớm ấy,
Ngày gần hôm chẳng thấy thư về
Bỏ xiêm lững thững bên hè,
Mây sầu khóm liễu dì dì khóc ve.
Trông chẳng thấy lại về đứng đợi,
Đoài cầm hiên muốn gợi tay đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lơn,
Buồn thôi xỏ dép ra vườn bẻ hoa.
Nay hẳn bảo trời đà mát mẻ,
Lương nhân ta có dễ gần về.
Biết đâu đường sá khắt khe,
Dặm ngìn hồ dễ đi về cho năng.
Nay hẳn bảo ta chừng lâu ở,
Ôm khâm trù hay đã có người.
Phong lưu vốn đã quen rồi,
Phồn hoa lịch sự lại mùi Trường An.
Ví chẳng thể bàn hoàn chi mãi,
Hết xuân rồi hạ lại sang thu.
Lầu hồng cung cấm ấy du,
Anh hùng kia mấy trượng phu ai từ.
Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên hoa khôn xiết dạ sầu.
Há còn tuổi trẻ chi đâu,
Phong lưu tính cũ giang hồ thói xưa.
Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương khuê xa khuất dặm nghìn.
Giang hồ dù có biết thương,
Thiết tình lại nhớ những đường rậm khơi.
Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trọng đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.
Mừng cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Gia đình thời đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.
Và thằng cháu nhờ trời cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng hộ cho anh,
Năm nay biết có học hành cùng ai.
Bạn đèn sách một hai tri kỉ,
Mùi lan chi thêm nức một nhà.
Từ phen chuốc chén quan hà,
Vị thành lúc ấy rồi mà dương quan.
Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi chăng ?
Mới hay cùng bệnh thêm thương,
Kẻ Tần người lại Tiêu Tương một giời.
Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Bằng nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.
Cảnh li biệt lệ đầy nước mắt,
Bóng hương khuê xa cách dặm ngìn.
Rượu rồi ngồi tựa câu lơn,
Chiêm bao thấy giấc canh tàn về thu.
___
(1). Dù: VĐBG ghi buồn rù, Tiếng Bắc rù với dù đọc giống nhau hoặc khác nhau nhưng cùng nghĩa.
(2). Dở dương: VĐBG ghi " dở dang". Dang hay dương chữ nôm và nghĩa cũng là một.
III.BẢN NGUYỄN TÀI CẨN
"Khảo
sát về thơ Đinh Nhật Thận" dựa trên bản bản thảo của anh trai là
Nguyễn Tài Chất, xuất bản năm 2008.Bản này có khả năng gần với nguyên
tác nhất là bản chép tay do người cháu đích tôn của Đinh Nhật Thận tặng
lại cho ông Nguyễn Tài Chất. Đây là văn bản hiện được ông Nguyễn Tài
Cẩn lưu giữ và dùng làm cơ sở để so sánh, đối chiếu với các văn bản
khác. Đó là các bản 1902 ( tức bản Trường Thịnh Đường in mộc bản mùa
đông năm Nhâm Dần đời Thành Thái) và bản Nguyễn Văn Đề được công bố ở
cuốn "Trong 99 Chóp Núi" do Hà Xuân Tề đề tựa ngày 4 tháng 7 năm 1941,
tại Huế.
THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM
Đêm thu lặng, bóng giời thấp thoáng
Cách rèm thưa chuốc chén gượng nguôi
“Thiên thời nhân sự tương thôi”
Kiếp chiêm bao dễ mấy hồi người ta ?
Người đối cảnh, trước hoa trăng tỏ
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây
Nỗi niềm ai kẻ tỏ hay ?
Cùng ai trăng gió đêm này với thu
Thơ nhã ái bốn câu buông vận
Rượu ly hoài ba chén làm khuây
Trước đèn trong chốn thư trai
Chạnh lòng đất khách, nhớ người đời xưa.
Ngoài Hương thủy tiếng ngư văng vẳng
Thuyền từ đâu chèo thẳng biên giang ?
Lờ mờ đêm nguyệt trời sương
Thuyền ai tưởng khách Non, lại không !
.
Khúc ngư thủy nhớ ông Đại Đỗ
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ
Hứng thu để tám bài thơ
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng
Xưa ta đi liễu đang thanh tế
Chim hoàng anh mới kể ba câu.
Bằng nay cúc đã hoa thâu
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve
Khi ta đi đào khoe tiếu kiểm
Gió đông phong mới điểm ba hàng
Bằng nay lan đã chồi sương
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu
Làm chi vậy buồn rầu đất khách
Ngày quán đồng mượn thích làm khuây
Có đêm nương bóng hồi tây
Tiếng sương khóc lá hơi bay gọi trùng
Làm chi vậy lạnh lùng quán lữ.
Năm, sương yên hết nửa đi rồi
Có đêm ngồi nhẫn thư trai
Gió lay bên trúc, nguyệt cái trên lương
Nào có phải như chàng ném bút
Vì vua mà đồng mác cho cam
Luống đem thân thế cát lầm
Thấy ngồi hổ mắt, nghe nằm thẹn tai
Nào có phải như ai vâng hịch
Vì thân mà xa cách cho xong
Bỗng không cách địa binh bồng.
Trông mây lại nhớ, xem bông lại buồn
Một cánh lá buồm gióng thẳng về Cồn.
Lòng quê đâu đã cuồn cuồn
Phút theo buồm vượt máy ngàn sóng khơi.
Ngày nay đứng trông nơi non thẳm,
Một làn mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã bồng bồng.
Phút theo mây kéo mấy trùng non xa
Trông tin nhạn biết là đâu tá,
Tâm tình này ai tả cho nên.
Chuông chùa Diệu đế cho rền
Trống vang cửa bể súng rên thành vàng
Sông quạnh quẽ ruột càng quằn quại
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông.
Than đất khách não nùng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Gẫm tình che quạt luống chờ bóng trăng.
Năm canh những mơ màng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai.
Thương thay đêm vắng không người,
Ngủ thời bướm báo dậy thời gà kêu.
Hoặc có lúc ban chiều trong khổn,
Bước xuốn thềm lại muốn lên lầu .
Phút nghe con én kêu sầu,
Lược rầu tóc chải gương rầu mặt soi.
Hoặc có lúc đưa thoi đêm tối,
Gọi con tì vừa tới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy rời chân đạp thoi ngừng tay đưa.
Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua chẳng thấy thư về.
Gác thoi ra đứng bên hè
Tai nghe tiếng dế rè rè khóc sương.
Trông chẳng thấy chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn trở gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây,
Gẫm tình tựa gối liền tay khêu đèn
Thương thay có ngày nhìn sáu khắc
Ngày gần tàn chẳng thấy thư sang
Xuống thềm ra đứng bên đàng
Mày sầu lá liễu hàng hàng khóc ve.
Trông chẳng thấy lại về đứng đợi,
Đoài cầm hiên tay gợi ngón đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lơn,
Buồn tình mang dép ra vườn hái hoa.
Rày hẳn bảo giời đà mát mẻ,
Lương nhân ta có dễ gần về.
Biết đâu đường thế nhiêu khê
Dặm ngàn hồ dễ đi về cho năng.
Rày hẳn nói mình chừng lâu ở,
Ôm khâm trù hay đã có người.
Phong lưu vốn đã quen rồi,
Phồn hoa lịch sự lại mùi Tràng An.
Nếu chẳng thể bàn hoàn chi mãi,
Hết xuân rồi hạ lại sang thu.
Lầu hồng cung cấm ấy ru
Anh hùng lại với trượng phu ai từ.?
Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên ba khôn xiết dạ sâu.
Há còn trai trẻ chi đâu,
Phong lưu thói cũ giang hồ lối xưa.
Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương quan trước mắt mơ màng
Non sông khách có biết chăng
Vẫn tình thì nhớ nhưng đường thì khơi.
Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trọng đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.
Duy cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Trong gia đình đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.
Và thằng cháu giời thương cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng trộm cho anh,
Năm nay biết đã học hành cùng ai.
Bạn đèn sách một hai tri thức
Mùi lan chi sực nức một nhà.
Từ phen chuốc chén quan hà,
Vị thành lúc ấy rồi mà dương quan.
Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi hương ?
Thương ôi đồng bệnh cùng thương,
Một Tần lại một Tiêu tương một trời.
Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Mà nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.
Sầu li biệt tuôn đầy hai mắt,
Bóng hương quan xa khuất dặm ngàn.
Rượu rồi ngồi dựa lan can
Chiêm bao tỉnh giấc đêm tàn về thu.
Hết xuân rồi hạ lại sang thu.
Lầu hồng cung cấm ấy ru
Anh hùng lại với trượng phu ai từ.?
Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên ba khôn xiết dạ sâu.
Há còn trai trẻ chi đâu,
Phong lưu thói cũ giang hồ lối xưa.
Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương quan trước mắt mơ màng
Non sông khách có biết chăng
Vẫn tình thì nhớ nhưng đường thì khơi.
Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trọng đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.
Duy cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Trong gia đình đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.
Và thằng cháu giời thương cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng trộm cho anh,
Năm nay biết đã học hành cùng ai.
Bạn đèn sách một hai tri thức
Mùi lan chi sực nức một nhà.
Từ phen chuốc chén quan hà,
Vị thành lúc ấy rồi mà dương quan.
Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi hương ?
Thương ôi đồng bệnh cùng thương,
Một Tần lại một Tiêu tương một trời.
Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Mà nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.
Sầu li biệt tuôn đầy hai mắt,
Bóng hương quan xa khuất dặm ngàn.
Rượu rồi ngồi dựa lan can
Chiêm bao tỉnh giấc đêm tàn về thu.
Đêm thu lặng, bóng giời thấp thoáng
Cách rèm thưa chuốc chén gượng nguôi
“Thiên thời nhân sự tương thôi”
Kiếp chiêm bao dễ mấy hồi người ta ?
Người đối cảnh, trước hoa trăng tỏ
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây
Nỗi niềm ai kẻ tỏ hay ?
Cùng ai trăng gió đêm này với thu
Cách rèm thưa chuốc chén gượng nguôi
“Thiên thời nhân sự tương thôi”
Kiếp chiêm bao dễ mấy hồi người ta ?
Người đối cảnh, trước hoa trăng tỏ
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây
Nỗi niềm ai kẻ tỏ hay ?
Cùng ai trăng gió đêm này với thu
+Có nhiều bản dịch nhưng sự sai biệt giữa các bản rất ít. Có thể do một dịch giả sau các người khác chỉ sửa chữa vài chữ, hoặc một hai câu.
+Theo Nguyễn Tài Cẩn, bản của Nguyễn Tài Chất và bản của Đẩu Tiếp là gần với nguyên bản của Đinh Nhật Thận.
BẢN4. KỲ ĐỒNG (1875 - 1929)
Một tác giả khác là Kỳ Đồng cũng có một bài thơ Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm cũng viết bằng chữ Hán theo lối song thất lục bát nhưng nội dung là lòng yêu nước, trong khi Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm của Đinh Nhật Thận là nói về nỗi nhớ nhà.
Kỳ Đồng tên thật là Nguyễn Văn Cầm, rất thông minh, mới 10 tuổi đã đi thi hạch. Quan trường thấy lạ, làm sớ về kinh, vua sắc cho 2 chữ "Kỳ Đồng" mới lấy làm tên. Mấy năm sau, họp bạn đứng ra chống Pháp, bị Pháp bắt rồi đày qua Angeria. Ở đây, ông đi học, đổ tú tài khoa học và văn chương. Sau đó Pháp cho ông về Yên Thế. Nhưng năm 1898, vì sợ ông liên lạc với Đề Thám, Pháp lại đày ông đi Tahiti và ông tạ thế ở đó vào năm 1929, hưởng dương 55 tuổi. Bài "Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm" này ông sáng tác và dịch quốc âm lúc chưa bị đày, đang sục sôi chí tranh đấu chống Pháp.(Nay chưa tìm thấy bản bản Hán văn)
THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM
Thiên khí nhập trung thu chi dạ
Tiêu điều kinh tứ tọa sương hàn
Tiên gia biệt chiếm thanh nhàn
Đả tàn kỳ trận, ẩm tàn cúc bôi
Cửu thiên ngoại, lâu đài ca quản
Bích khê liên mãn giản đào hoa
Phương tôn nhất cảm tuế hoa
Du nhiên bất giác thị hà càn khôn
Hào đỗ vũ thiên thôn tịch mịch
Tức trùng thanh tứ bích thê lương
Khả lân tư cổ chiến trường
Đài phong kim thốc ô nhương cô hồn.
Quần hùng trục lộc bôn chi lộc
Tứ hải chiêm chỉ ốc chi ô
Thiên tâm vị yếm Hồ sô
Thủy thâm hỏa nhiệt lai tô giả thùy
Quỳ hoắc hữu tâm nhi hướng nhật
Tàm oanh hà vật khước tri thu
Tây thiên đường bệ giao phu
Hoa cừu cạnh sắc chiên hồ đồng chương
Thiên tầm bách kinh sương bất biến
Song nam kim bách luyện di cương
Cẩu năng thiết thạch can trường
Lưu danh trúc gian lưu phương báo bì.
Y thị nhật nghĩa kỳ xướng xuất
Tương trung tâm thủ nhật ngu uyên
Tẩy thanh cựu quốc sơn xuyên
A đồng khí khái nhất thiên cao hoành
Cái trung nghĩa thanh thiên bạch nhật
Nhi vinh hoa vân bạch cẩu thương
Lập thân sở quý cương thường
Hưu tương nhất mộng hoàng lương tráng hoài
Nhân thế hãn phùng khai khẩu tiếu
Si nhi diệc vị liễu công gia
Khả liên lục đại hào hoa
Du mi Lương quán đề nha Tống đài
DỊCH:
Đêm trung thu trời mây trong trẻo,
Sương đầm đầm lạnh lẽo bốn bên.
Thanh nhàn riêng một cảnh tiên,
Mảng vui cờ thánh rượu hiền tiêu dao!
Ngoài chính cõi đài cao đàn địch,
Suối liền khe nước biếc đào hồng.
Ngày dài thưởng chén rượu nồng,
Càn khôn nào biết là trong hay ngoài !
Tiếng quyên bỗng một trời khắc khoải,
Lại bốn bề dế gọi đau thương.
Buồn thay cảnh cũ chiến trường,
Cô hồn quạ cúng, tên vàng bám rêu!
Hươu một con, ùa theo bao kẻ
Quạ một bầy, bốn bể đều trông!
Giặc Hồ trời hãy còn dong
Nước sâu lửa đỏ dễ hòng kêu ai?
Lòng quỳ hoắc, theo trời mà hướng,
Tiếng oanh già vất vưởng hồn thu.
Lầu Tây chủ khách gật gù
Hoa cừu rạng rỡ, chiên hồ nghênh ngang
Bách ngàn trượng mặc sương với gió,
Vàng trăm rèn càng tỏ thức son!
Cang trường sắt đá chẳng sờn,
Dấu thơm ghi để nước non sau này!
Ngày khởi nghĩa cờ bay rực rỡ,
Tấm lòng trung nào sợ bóng chiều !
Giang sơn cố quốc sạch màu,
Đồng vang vang tiết trời lầu lầu xanh.
Áng trung nghĩa rõ hình nhật nguyệt
Bả vinh hoa mây biếc chó mờ
Cương thường gốc cũ ngàn xưa,
Kê vàng giấc mộng buồn mơ sá gì !
Người đời ít gặp khi cười hả,
Trẻ nhọc nhằn vất vả nào vui.
Sáu đời thịnh trị ai ơi
Lương đình hươu nhởn, Tống đài quạ kêu.
VIETKIẾM FORUM
http://www.vietkiem.com/forums/index.php?showtopic=12626
B. PHẦN THỨ HAI: CÁC BÀI VIẾT VỀ ĐINH NHẬT THẬN
I. ĐINH NHẬT THẬN NIÊN BIỂU (1814- 1855)
Nguyễn Thiên Thụ -Đăng Khoa Lục ghi ông sinh năm giáp tuất (1814) tại làng Thanh Liêu, Tổng Cát Ngạn nay là xã Thanh Tiên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
- Đinh Dậu (1837) thi hương, đỗ cử nhân, thuộc hạng gia ân.
-Mậu Tuất (1838) niên hiệu Minh Mệnh thứ 19, 25 tuổi, đỗ đầu hàng tam giáp đồng tiến sĩ . Bổ tri phủ. Sau phạm lỗi, bị điều đi hiệu lực.
Năm 1843, được hồi phục, nhưng cáo bệnh, sống ẩn dật, đi ngao du và làm thuốc.
-Năm 1854, Cao Bá Quát theo Lê Duy Cự chống triều đình.
-Khoảng 1855, ông bị giam vì liên quan đến Cao Bá Quát.
-Khoảng 1855, viết Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm. It lâu được thả.
-Mất 1856, hưởng dương 52 tuổi.
II. TIỂU SỬ
"Thật trời đã khéo tày vị mà dành riêng cho cụ một khối óc thông minh, một lá gan hào hùng, có lẽ chung đúc lại bởi khí thiêng của sông Lam núi Hồng là nơi cụ sinh trưởng. Lấy văn chương và phẩm hạnh, cụ đã làm Thái Sơn, Bắc Đẩu cho cả một vùng Hoan - Ái là đất tài ba văn vật có tiếng xưa nay"
Đinh Nhật Thận
Đinh Nhật Thận, tự Tử Úy, hiệu Bạch Mao Am, sinh năm Ất Hợi 1815 tại xóm Xuân Vinh, làng Thanh Liêu, Tổng Cát Ngạn nay là xã Thanh Tiên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
Ông nội là Đinh Trọng Mưu mất sớm, thân phụ là Đinh Trọng Miễn con rể của quan tri huyện Thừng. Vốn trước đó Đinh Trọng Miễn là học trò của quan tri huyện sau được gả con gái lớn. Đinh Nhật Thận là con trai thứ hai.
Vốn sáng dạ và có trí nhớ tốt, ngoài việc thông làu kinh sử, Nhật Thận còn tinh thông về y học, dược tính, rất giỏi thơ Nôm, viết văn không cần thảo trước. Sách “Đăng Khoa Lục” chép rằng:
“Ông nổi tiếng có tài nhớ sách, đọc qua một lượt là nhớ … Khi ông làm quan ở Kinh kì, có người muốn thử tài ông, đưa cho ông một cuốn từ điển. Ông nhận sách đọc, ngày hôm sau trả lại mặc cho người kia muốn hỏi gì thì hỏi, ông đều nhớ hết và nói rất rành mạch”
Mặc dù tài cao nhưng không phải cứ thi ngay là đỗ. Khoa thi hương năm Đinh Dậu (1837) ông chỉ đỗ cử nhân, lại thuộc dạng lấy thêm.
Khoa thi hội năm Mậu Tuất (1838) niên hiệu Minh Mệnh thứ 19, không có Bảng nhãn, không có Thám hoa, Đinh Nhật Thận đỗ đầu hàng tam giáp đồng tiến sĩ và là người trẻ tuổi nhất trong bạn đồng khoa. Đứng trước ông có hai Hoàng Giáp là Nguyễn Cửu Trường và Nguyễn Văn Nghị.
Sau khi đỗ đại khoa, Nhật Thận được triều đinh bổ làm tri phủ, ngoài ra còn được làng cấp cho 5 mẫu học điền ở cánh đồng Gia Hội. Tuy nhiên phần lớn ruộng này ông để cho bà con trong thôn cày mà không thu hoa lợi. Ông còn tổ chức khai khẩn thêm đất và chiêu mộ người các nơi đến lập thành làng Gia Hội. Làm quan tri phủ được một thời gian thì ông bị cách chức không rõ nguyên nhân.
Năm 1843 được phục chức nhưng ông cáo bệnh không nhận. Tính tình ông phóng khoáng, thích làm thuốc, làm thơ giao du đây đó lấy việc kết thân bạn hữu gần xa làm trọng. Ông là bạn chí thân của Cao Bá Quát (Bắc Ninh) và Nguyễn Hàm Ninh (Quảng Bình). Sau này Cao lãnh đạo khởi nghĩa nông dân làm loạn khiến ông cũng liên lụy và bị kiềm chế gắt gao.
Vua
Tự Đức biết ông là người học rộng tài cao nên quyết giữ ông lại trong
cung, trước là để kiềm tỏa giữ chân ông, sau là nhờ ông dạy cho các
hoàng tôn.
Sống cuộc sống gò bó, ông đâm ra chán chường trong lòng lúc nào cũng mang nặng nỗi lòng với cố hương. Vào một đêm Thu thanh vắng, độc ẩm tức cảnh sinh tình, ông viết một mạch khúc ngâm nổi tiếng “Thu dạ lữ hoài”. Tất cả những tâm tư tình cảm với gia đình, với quê hương xứ sở được ông thể hiện qua khúc ngâm này. Tuyệt phẩm này được truyền tụng và lọt đến tai vua, vì mến phục tài đức của một nhân cách cao thượng, Tự Đức đã xuống chỉ tha cho ông.
Ông trở về chốn cũ, vui thú điền viên ở Gia Hội. Ông qua đời sớm, tuổi 52. Vùng Cát Ngạn vẫn còn câu ca về ông, rằng:
Non sông Giăng
Nước sông Giăng
Trời sông Giăng
Nhớ chăng
Em
“Thu dạ lữ hoài”
Lừng danh Đinh Nhật Thận một đời tài hoa.
Trích: 39 giai thoại văn chương - Lê Thương
Tham khảo:
1. Đinh Nhật Thận. - Bài viết của tác giả Chu Trọng Huyến.
2. Thanh Chương đất và người. - Nhiều tác giả.
3. Trong 99 chóp núi. - Nguyễn Văn Để.
4. Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận. - Nguyễn Tài Chất, Nguyễn Tài Cẩn
http://tcnao.net/showthread.php?t=43
Sống cuộc sống gò bó, ông đâm ra chán chường trong lòng lúc nào cũng mang nặng nỗi lòng với cố hương. Vào một đêm Thu thanh vắng, độc ẩm tức cảnh sinh tình, ông viết một mạch khúc ngâm nổi tiếng “Thu dạ lữ hoài”. Tất cả những tâm tư tình cảm với gia đình, với quê hương xứ sở được ông thể hiện qua khúc ngâm này. Tuyệt phẩm này được truyền tụng và lọt đến tai vua, vì mến phục tài đức của một nhân cách cao thượng, Tự Đức đã xuống chỉ tha cho ông.
Ông trở về chốn cũ, vui thú điền viên ở Gia Hội. Ông qua đời sớm, tuổi 52. Vùng Cát Ngạn vẫn còn câu ca về ông, rằng:
Non sông Giăng
Nước sông Giăng
Trời sông Giăng
Nhớ chăng
Em
“Thu dạ lữ hoài”
Lừng danh Đinh Nhật Thận một đời tài hoa.
Trích: 39 giai thoại văn chương - Lê Thương
Tham khảo:
1. Đinh Nhật Thận. - Bài viết của tác giả Chu Trọng Huyến.
2. Thanh Chương đất và người. - Nhiều tác giả.
3. Trong 99 chóp núi. - Nguyễn Văn Để.
4. Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận. - Nguyễn Tài Chất, Nguyễn Tài Cẩn
http://tcnao.net/showthread.php?t=43
II.GIAI THOẠI VỀ ĐINH NHẬTHẬN
Nói láo với nhà Vua qua thi phú:
Nói láo với nhà Vua qua thi phú:
“Nói láo” là đặt điều, là bịa ra mà nói, là nói điều không đúng sự thực, và nói láo là một sự xấu.
Ngày xưa, bầy tôi nói láo với vua là mang trọng tội. Chiếu theo luật pháp của các triều đại phong kiến, nói láo với vua là mang tội “khi quân” có thể bị xử trảm. Thế nhưng trong kho tàng văn chương ta có kẻ dám nói láo với vua và chẳng những không bị tội mà còn được nhà vua ban thưởng:
Đinh Nhật Thận thi đỗ Đình Nguyên Khoa Mậu Tuất năm Minh Mạng thứ 19, tức vào năm 1838 dương lịch. Được bổ làm quan ít lâu thì chán cảnh hoạn trường nên cáo quan về sinh sống bằng nghề dạy học và bốc thuốc.
Là bạn thân của nhà thơ “ngông” Cao Bá Quát, vì thế đến đời vua Tự Đức ông bị bắt giải về kinh vì bị tình nghi có nhúng tay vào vụ Cao Bá Quát khởi loạn. Nhưng vì không có bằng chứng nên được tha. Vua Tự Đức mến tài ông nên giữ ông ở lại kinh đô để dạy cho các tôn thất học.
Ngày xưa, bầy tôi nói láo với vua là mang trọng tội. Chiếu theo luật pháp của các triều đại phong kiến, nói láo với vua là mang tội “khi quân” có thể bị xử trảm. Thế nhưng trong kho tàng văn chương ta có kẻ dám nói láo với vua và chẳng những không bị tội mà còn được nhà vua ban thưởng:
Đinh Nhật Thận thi đỗ Đình Nguyên Khoa Mậu Tuất năm Minh Mạng thứ 19, tức vào năm 1838 dương lịch. Được bổ làm quan ít lâu thì chán cảnh hoạn trường nên cáo quan về sinh sống bằng nghề dạy học và bốc thuốc.
Là bạn thân của nhà thơ “ngông” Cao Bá Quát, vì thế đến đời vua Tự Đức ông bị bắt giải về kinh vì bị tình nghi có nhúng tay vào vụ Cao Bá Quát khởi loạn. Nhưng vì không có bằng chứng nên được tha. Vua Tự Đức mến tài ông nên giữ ông ở lại kinh đô để dạy cho các tôn thất học.
Khi
ở kinh thành, một hôm ông cùng các quan đại thần được theo ngự thuyền
ngoạn cảnh trên sông Hương, nhân dịp lúc vua và các quan đàm luận về
đạo đức thánh hiền, ông có nhắc đến câu:
”Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử tử tử, tử bất tử bất hiếu”
(Vua khiến tôi chết, tôi không chết không trung, cha khiến con chết, con không chết không hiếu) và cho đó là một câu chí lý mà mọi người phải theo.
Nghe ông nói vậy, vua Tự Đức mới phán:
- Thế bây giờ trẫm truyền cho khanh nhảy xuống sông này mà chết đi, khanh có làm không ?
Nghe
nhà vua phán, các quan ai nấy đều lo cho số phận của ông vì không nhảy
thì mang tội bất trung còn nhảy thì chết một cách oan uổng. Thế nhưng
ông vẫn bình tĩnh, lạy tạ nhà vua xong rồi lao mình xuống sông Hương.
Giòng nước bắn tung tóe, mọi người đều nghĩ đây là nơi an giấc nghìn thu
của ông Đinh Nhật Thận. Thế là kết liễu một đời tài hoa không tội
lỗi...
Nhưng chỉ giây lát sau, hết dưỡng khí, bị ngộp thở, ông ngoi đầu lên bơi đến bám vào ngự thuyền. Vua Tự Đức thấy vậy bèn hỏi:
- Sao khanh không ở dưới đó mà chết đi còn trở lên đây ?
Ông đáp:
- Thần định ở nhưng vừa xuống tới đáy sông thì gặp ông Khuất Nguyên, ông ấy đuổi thần lên và mắng thần bằng hai câu thơ như sau:
“Ngã phùng ám chúa hàm oan nhẫn!
Nhữ ngộ minh quân nịch tử hà?”
(Ta gặp vua ngu phải chịu chết oan đã đành,
Còn người gặp vị vua sáng suốt sao phải chết đuối?)
Thần nghe ông ấy mắng đúng lắm nên phải lên đây tâu bệ hạ rõ.
Vua Tự Đức nghe qua cả cười, sai thị vệ đón ông lên ngự thuyền, lấy quần áo cho thay, rồi đích thân rót một chén rượu để khen thưởng. Thưởng cho cái tài ứng phó mẫn tiệp mặc dù biết đó là một câu chuyện hoàn toàn bịa đặt, tức là nói láo.
Đó là nói láo đấy, nhưng nói láo mà nhà vua phải khen, các quan phải phục và người đời sau ca tụng mãi mãi. Lối nói láo đó không làm hại gì ai mà trái lại còn tô điểm cho kho tàng văn học thêm phong phú. Ở đời đã mấy ai không nói láo, nhưng đã có mấy ai nói láo có nghệ thuật để thiên hạ biết mình nói láo mà vẫn nghe, vẫn phục và vẫn có thiện cảm!
Người Thanh Chương.
Trích: 39 giai thoại văn chương - Lê Thương .
http://tcnao.net/showthread.php?t=43
Nhưng chỉ giây lát sau, hết dưỡng khí, bị ngộp thở, ông ngoi đầu lên bơi đến bám vào ngự thuyền. Vua Tự Đức thấy vậy bèn hỏi:
- Sao khanh không ở dưới đó mà chết đi còn trở lên đây ?
Ông đáp:
- Thần định ở nhưng vừa xuống tới đáy sông thì gặp ông Khuất Nguyên, ông ấy đuổi thần lên và mắng thần bằng hai câu thơ như sau:
“Ngã phùng ám chúa hàm oan nhẫn!
Nhữ ngộ minh quân nịch tử hà?”
(Ta gặp vua ngu phải chịu chết oan đã đành,
Còn người gặp vị vua sáng suốt sao phải chết đuối?)
Thần nghe ông ấy mắng đúng lắm nên phải lên đây tâu bệ hạ rõ.
Vua Tự Đức nghe qua cả cười, sai thị vệ đón ông lên ngự thuyền, lấy quần áo cho thay, rồi đích thân rót một chén rượu để khen thưởng. Thưởng cho cái tài ứng phó mẫn tiệp mặc dù biết đó là một câu chuyện hoàn toàn bịa đặt, tức là nói láo.
Đó là nói láo đấy, nhưng nói láo mà nhà vua phải khen, các quan phải phục và người đời sau ca tụng mãi mãi. Lối nói láo đó không làm hại gì ai mà trái lại còn tô điểm cho kho tàng văn học thêm phong phú. Ở đời đã mấy ai không nói láo, nhưng đã có mấy ai nói láo có nghệ thuật để thiên hạ biết mình nói láo mà vẫn nghe, vẫn phục và vẫn có thiện cảm!
Người Thanh Chương.
Trích: 39 giai thoại văn chương - Lê Thương .
http://tcnao.net/showthread.php?t=43
III.PHÊ BÌNH
VÀI SUY NGHĨ VỀ VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI VỚI NGHIÊN CỨU THƠ CA và đóng góp mới của Nguyễn Tài Cẩn qua"Khảo sát về thơ Định Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm "(1) ( in trong Tạp chí Ngôn ngữ, số 11/2008Hữu Đạt.
1. Cuộc đột phá của ngôn ngữ học vào lĩnh vực thơ ca
Từ cuối thế ký XIX về trước, việc nghiên cứu thơ ca ở hầu khắp các nước trên thế giới chủ yếu mới chỉ dừng lại ở truyền thống: nghiên cứu tác phẩm văn học theo khuynh hướng xã hội lịch sử . Theo phương pháp nghiên cứu của khuynh hướng này, tác phẩm văn học được coi là sự phản ánh lịch sử trong mỗi một giai đoạn cụ thể. Vì vậy, việc phân tích và đánh giá tác phẩm văn học nói chung đều lấy việc phân tích nội dung trong mối tương quan của nó với xã hội- tức bối cảnh làm nên tác phẩm làm trọng.
Từ cuối thế ký XIX về trước, việc nghiên cứu thơ ca ở hầu khắp các nước trên thế giới chủ yếu mới chỉ dừng lại ở truyền thống: nghiên cứu tác phẩm văn học theo khuynh hướng xã hội lịch sử . Theo phương pháp nghiên cứu của khuynh hướng này, tác phẩm văn học được coi là sự phản ánh lịch sử trong mỗi một giai đoạn cụ thể. Vì vậy, việc phân tích và đánh giá tác phẩm văn học nói chung đều lấy việc phân tích nội dung trong mối tương quan của nó với xã hội- tức bối cảnh làm nên tác phẩm làm trọng.
Phương
pháp nghiên cứu này, trên thực tế, đã đạt được những thành tựu rất
đáng ghi nhận và nó đã ngự trị trong suốt một thời gian dài từ
Aristote cho đến cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên, nếu chỉ nghiên cứu tác
phẩm văn học từ góc độ này thì bản chất nghệ thuật của tác phẩm không
được đánh giá một cách đúng mức. Đó là chưa kể việc áp đặt chủ quan
của nhà nghiên cứu, một tác phẩm có thể bị xem xét lệch lạc theo cách
của xã hội học dung tục. Để khắc phục tình trạng trên, cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX, một nhóm các nhà lý luận văn học Nga và các nhà nghiên
cứu thuộc nhóm các nhà ngôn ngữ học trẻ Moskva đã thành lập ra một Hội
nghiên cứu riêng, gọi là Hội nghiên cứu thơ ca.
Những thành viên tích cực của Hội nghiên cứu này là các nhân vật nổi tiếng như Jakubinski, O. Brik, V. Novikov, B Tomashevski, B. Eikhenbaum, V.Shklovski, Jacovson.. Cương lĩnh của Hội nghiên cứu này chủ trương dùng phương pháp phân tích hình thức đối với tác phẩm văn học nghệ thuật thay thế cho phương pháp nghiên cứu truyền thống theo hướng xã hội lịch sử. Trong đó, lần đầu tiên, ngôn ngữ được coi là một đối tượng nghiên cứu vô cùng quan trọng đối với một tác phẩm nghệ thuật. Bằng phương pháp nghiên cứu mới này, Hội nghiên cứu thơ ca Nga đã tạo nên một trường phái nổi tiếng toàn thế giới, có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều nước và là nguyên nhân hình thành nên nhiều trường phái thi pháp học hiện đại. Những lý thuyết quan trọng của nó đã tạo nên một học thuyết có sức hấp dẫn mạnh mẽ với nhiều ngành khoa học, trong đó có các khoa học như ngôn ngữ học, văn học...Lý thuyết của trường phái này được gọi là lý thuyết của chủ nghĩa hình thức.
Những thành viên tích cực của Hội nghiên cứu này là các nhân vật nổi tiếng như Jakubinski, O. Brik, V. Novikov, B Tomashevski, B. Eikhenbaum, V.Shklovski, Jacovson.. Cương lĩnh của Hội nghiên cứu này chủ trương dùng phương pháp phân tích hình thức đối với tác phẩm văn học nghệ thuật thay thế cho phương pháp nghiên cứu truyền thống theo hướng xã hội lịch sử. Trong đó, lần đầu tiên, ngôn ngữ được coi là một đối tượng nghiên cứu vô cùng quan trọng đối với một tác phẩm nghệ thuật. Bằng phương pháp nghiên cứu mới này, Hội nghiên cứu thơ ca Nga đã tạo nên một trường phái nổi tiếng toàn thế giới, có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều nước và là nguyên nhân hình thành nên nhiều trường phái thi pháp học hiện đại. Những lý thuyết quan trọng của nó đã tạo nên một học thuyết có sức hấp dẫn mạnh mẽ với nhiều ngành khoa học, trong đó có các khoa học như ngôn ngữ học, văn học...Lý thuyết của trường phái này được gọi là lý thuyết của chủ nghĩa hình thức.
Có
thể nói, việc hành thành chủ nghĩa hình thức Nga là một bước tiến bộ
vượt bậc trong nghiên cứu thơ ca nói riêng và nghiên cứu tác phẩm văn
học nói chung. Nó mở ra một chân trời mới cho việc áp dụng các thành
tựu của ngôn ngữ học vào nghiên cứu nghệ thuật. Bởi vậy, ngay từ
những khởi động đầu tiên, các tácgiả nổi tiếng của chủ nghĩa hình thức
Nga đã vận dụng các kết quả nghiên cứu ngôn ngữ học của Baudouin de
Courtenay và Sherba, cụ thể là đã vận dụng các tri thức về ngữ âm học
vào việc nghiên cứu thi pháp học. Một loạt các vấn đề như: lý thuyết
về chủ âm, hệ chủ đề ( được hình thành qua thủ pháp ngôn ngữ), chức
năng thi học của ngôn ngữ, hình ảnh của từ... đã được đặt ra trong các
công trình thi pháp học của Jacovson, Tomashevski...Ngoài ra, những
thành tựu nghiên cứu về ngôn ngữ học tâm lý của nhà ngôn ngữ nổi tiếng
Potebnia cũng bắt đầu được vận dụng vào việc phân tích các yếu tố
ngôn ngữ trong văn bản nghệ thuật.
Những
đóng góp của các nhà chủ nghĩa hình thức Nga có ý nghĩa cực kỳ to lớn
cả lý thuyết lẫn thực tiễn đối với việc nghiên cứu nghệ thuật nói
riêng và văn học nói chung. Chính vì thế, nhà nghiên cứu nổi tiếng
người Pháp Jean Tardie đánh giá " Chủ nghĩa hình thức Nga là trường
phái cách tân nhất thế kỷ" ( [13], tr12). Có thể nói, các thành tựu
nghiên cứu của ngôn ngữ học vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX đã làm thay đổi hẳn một số khuynh hướng nghiên cứu văn học. Đặc
biệt, sau khi lý thuyết ngôn ngữ học đại cương của F.de. Saussure ra
đời thì nhiều vấn đề như: phương pháp so sánh lịch sử, phương pháp so
sánh loại hình, đặc điểm tín hiệu, tính hệ thống của ngôn ngữ... ngày
càng được nghiên cứu sâu. Giờ đây, việc vận dụng các thành tựu nghiên
cứu của ngôn ngữ học vào nghiên cứu thơ ca không chỉ bó hẹp trong lĩnh
vực ngữ âm nữa.
Nó
đã được mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác và thậm chí cả một số vấn đề
của phương pháp luận. Chính vì thế, ở Việt Nam có một số nhà ngôn ngữ
học còn dùng chính các phương pháp nghiên cứu vốn quen được dùng
trong ngôn ngữ học ( như phương pháp miêu tả, phương pháp cải biến,
phương pháp so sánh, đối chiếu...) để nghiên cứu thơ ca nói riêng và
văn học nói chung. Đó là các tác giả như Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Phan
Cảnh, Hữu Đạt, Mai Ngọc Chừ.... Tính ưu việt của cách nhìn ngôn ngữ học
đối với thơ ca là ở chỗ, nó đưa đến cho ta một kiểu tư duy hoàn toàn
mới về cách tiếp cận tác phẩm văn học. Còn việc áp dụng các phương
pháp nghiên cứu của khoa học này đối với văn học sẽ cho ta những luận
cứ khách quan để giải thích các hiện tượng phức tạp của văn chương mà
nếu phân tích theo hướng lý luận, phê bình sẽ gặp những bế tắc không
giải quyết nổi.
Nhất là những trường hợp, khi một tác phẩm có nhiều dị bản thì việc truy tìm nguyên tác càng không thể dựa vào cách nghiên cứu văn học theo con đường truyền thống. Bởi, đời sống hiện thực, xét cho cùng chỉ là môi trường mà nhà nghệ sĩ thâm nhập vào đó để tái tạo lại bóng hình của nó theo con đường sáng tạo riêng của mình. Còn ngôn ngữ mới đích thị là sản phẩm của anh ta. Nó là cái bề mặt của tác phẩm, là cái để biểu thị nên tư tưởng và các giá trị hình tượng. Nếu không thông qua thao tác làm việc của ngôn ngữ học, thì việc phân tích văn chương nói chung và thơ ca nói riêng sẽ không thoát khỏi tình trạng cảm tính, thậm chí mơ hồ. Đó là chưa nói đến các tình trạng thẩm định sai dẫn đến chỗ bình tán tùy tiện làm cho hình tượng tác phẩm bị méo mó không đúng với bản chất của nó.
Nhất là những trường hợp, khi một tác phẩm có nhiều dị bản thì việc truy tìm nguyên tác càng không thể dựa vào cách nghiên cứu văn học theo con đường truyền thống. Bởi, đời sống hiện thực, xét cho cùng chỉ là môi trường mà nhà nghệ sĩ thâm nhập vào đó để tái tạo lại bóng hình của nó theo con đường sáng tạo riêng của mình. Còn ngôn ngữ mới đích thị là sản phẩm của anh ta. Nó là cái bề mặt của tác phẩm, là cái để biểu thị nên tư tưởng và các giá trị hình tượng. Nếu không thông qua thao tác làm việc của ngôn ngữ học, thì việc phân tích văn chương nói chung và thơ ca nói riêng sẽ không thoát khỏi tình trạng cảm tính, thậm chí mơ hồ. Đó là chưa nói đến các tình trạng thẩm định sai dẫn đến chỗ bình tán tùy tiện làm cho hình tượng tác phẩm bị méo mó không đúng với bản chất của nó.
Trong
các thể loại của văn học, thơ là một thể loại rất độc đáo trong sử
dụng ngôn ngữ. Có không ít bài thơ, nếu ta chỉ tiếp cận bằng con đường
nghiên cứu theo truyền thống cũ sẽ không phát hiện được ra điều gì.
Nhưng nếu tiếp cận bằng con đường ngôn ngữ học, tình hình sẽ khác hẳn.
Chẳng hạn, với một số bài thơ như " Chùa Đọi" của Nguyễn Khuyến, "
Nhớ đồng" của Tố Hữu...việc phân tích bằng con đường ngôn ngữ học đã
làm sáng tỏ những nhầm lẫn mà lý luận phê bình văn học mắc phải hàng
trăm năm và nửa thế kỷ nay.
Có không ít người đã nhầm tưởng rằng, nói tới việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học vào văn học là chỉ tới nói việc thống kê hay giải thích từ ngữ trong tác phẩm. Thực ra, đó là một cách hiểu quá đơn thuần vì vai trò của ngôn ngữ học đối với nghiên cứu văn học không chỉ dừng lại ở đó. Nó có phạm vi hoạt động rộng lớn hơn nhiều. Một mặt, nó cung cấp cho ta những cơ sở khoa học để lý giải các quá trình hình thành nên nghĩa hình tượng của tác phẩm. Mặt khác, nó còn tạo ra những khả năng đặc biệt mà bộ môn lý luận, phê bình khó có thể vươn tới được. Đó là việc vạch ra những nét đặc trưng về phong cách trong mỗi nhà văn, nhà thơ; thậm chí cao hơn, việc nghiên cứu ngôn ngữ học đối với văn học còn chỉ ra được những nét đặc trưng của phong cách thời đại hoặc phong cách của mỗi trào lưu văn học cụ thể.
Có không ít người đã nhầm tưởng rằng, nói tới việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học vào văn học là chỉ tới nói việc thống kê hay giải thích từ ngữ trong tác phẩm. Thực ra, đó là một cách hiểu quá đơn thuần vì vai trò của ngôn ngữ học đối với nghiên cứu văn học không chỉ dừng lại ở đó. Nó có phạm vi hoạt động rộng lớn hơn nhiều. Một mặt, nó cung cấp cho ta những cơ sở khoa học để lý giải các quá trình hình thành nên nghĩa hình tượng của tác phẩm. Mặt khác, nó còn tạo ra những khả năng đặc biệt mà bộ môn lý luận, phê bình khó có thể vươn tới được. Đó là việc vạch ra những nét đặc trưng về phong cách trong mỗi nhà văn, nhà thơ; thậm chí cao hơn, việc nghiên cứu ngôn ngữ học đối với văn học còn chỉ ra được những nét đặc trưng của phong cách thời đại hoặc phong cách của mỗi trào lưu văn học cụ thể.
Đặc
biệt, với các tác phẩm thơ ca có sử dụng biện pháp chơi chữ ( như thơ
Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Dương Quảng Hàm...), nếu
không dùng phương pháp phân tích ngôn ngữ học thì không thể nào phát
hiện ra được sự độc đáo trong cách dùng ngôn ngữ của nhà thơ cũng như
tính độc đáo của tiếng Việt. Chẳng những thế, một số kết quả nghiên cứu
thơ ca theo hướng này còn góp phần bổ sung, giải thích sâu hơn về mối
quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, về đặc điểm loại hình ngôn ngữ cũng
như về văn hóa ngôn từ của người Việt. Như thế, thực chất,dù trực tiếp
hay gián tiếp nó đã làm phong phú thêm nhiều cho lý thuyết về phương
pháp nghiên cứu liên ngành đối với nghiên cứu văn học.2. Việc nghiên cứu thơ ca cổ-trung đại Việt Nam
Từ trước đến nay hầu như mới chỉ dừng lại ở phương pháp nghiên cứu truyền thống ( theo hướng xã hội lịch sử). Bởi thế, có khá nhiều hiện tượng văn học, nhà nghiên cứu vấp phải tình trạng bế tắc, không có khả năng giải quyết. Chẳng hạn, với bài thơ " Vũ trung sơn thủy" của Thiệu Trị, nếu chỉ khảo sát theo phương pháp của lý luận, phê bình văn học thì mới chỉ phát hiện được một phần rất nhỏ tài năng và phong cách thơ ca của vị vua hay chữ này.
Nhưng khi sử dụng phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học vào để khảo sát nó, nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn đã đưa ra một kết quả độc đáo khiến ai cũng phải sững sờ. Hóa ra, về hình thức đó chỉ là một bài thất ngôn bát cú, nhưng bên trong nó lại chứa đựng một chiều sâu thăm thẳm của tư duy. Một bài thơ, nhưng có tới 128 cách đọc, tức 128 bài thơ khác nhau, với rất nhiều cách gieo vần khác nhau. Sự độc đáo này có lẽ chỉ tìm thấy ở một ngôn ngữ đơn lập điển hình kiểu như tiếng Việt chứ không thể có ở các ngôn ngữ biến hình, lập khuôn hay chắp dính...
Từ trước đến nay hầu như mới chỉ dừng lại ở phương pháp nghiên cứu truyền thống ( theo hướng xã hội lịch sử). Bởi thế, có khá nhiều hiện tượng văn học, nhà nghiên cứu vấp phải tình trạng bế tắc, không có khả năng giải quyết. Chẳng hạn, với bài thơ " Vũ trung sơn thủy" của Thiệu Trị, nếu chỉ khảo sát theo phương pháp của lý luận, phê bình văn học thì mới chỉ phát hiện được một phần rất nhỏ tài năng và phong cách thơ ca của vị vua hay chữ này.
Nhưng khi sử dụng phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học vào để khảo sát nó, nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn đã đưa ra một kết quả độc đáo khiến ai cũng phải sững sờ. Hóa ra, về hình thức đó chỉ là một bài thất ngôn bát cú, nhưng bên trong nó lại chứa đựng một chiều sâu thăm thẳm của tư duy. Một bài thơ, nhưng có tới 128 cách đọc, tức 128 bài thơ khác nhau, với rất nhiều cách gieo vần khác nhau. Sự độc đáo này có lẽ chỉ tìm thấy ở một ngôn ngữ đơn lập điển hình kiểu như tiếng Việt chứ không thể có ở các ngôn ngữ biến hình, lập khuôn hay chắp dính...
Trước
tình hình như đã nói, việc sử dụng phương pháp nghiên cứu của ngôn
ngữ học để nghiên cứu văn học là một đòi hỏi cấp bách. Có thể nói,
giáo sư Nguyễn Tài Cẩn là một trong các nhà ngôn ngữ học đầu tiên đã
đáp ứng được đòi hỏi này. Như ta đã biết, do bối cảnh thời gian và
hoàn cảnh lịch sử, cho đến nay nhiều tác phẩm văn học cổ Việt Nam (
đặc biệt là thơ chữ Hán và chữ Nôm) vẫn còn ẩn chứa rất nhiều vấn đề
mà nếu nghiên cứu theo phương pháp lý luận và phê bình văn học sẽ
không thể đụng chạm tới. Thứ nhất, chữ Hán và chữ Nôm vốn là loại văn
tự khối vuông, có nhiều nét phức tạp.
Mỗi nét, mỗi dấu của nó đều có những ý nghĩa riêng, bởi vậy nếu chỉ mất một nét hay dấu nào, hoặc mờ một chút thì có thể gây ra những biến dạng khác nhau, dễ làm nên hiện tượng đa nghĩa hoặc mơ hồ về nghĩa. Đó chính là lý do khi sao chép lại các văn bản gốc, người viết có thể tự ý nhuận sắc lại bản thảo theo cái cách riêng của mình. Thứ hai, văn cổ Việt Nam ra đời trong hoàn cảnh kỹ thuật in ấn của ta chưa hình thành hoặc hình thành rồi thì mới ở giai đoạn sơ khai ( khắc in trên gỗ). Việc sao chép văn bản được coi là phương thức chủ yếu để lưu truyền và phổ biến trong dân chúng. Việc sao chép văn bản, như đã nói, thường gây ra nhiều dị bản khác nhau đối với cùng một tác phẩm văn học.
Thời gian trôi qua, đến nay, việc xác định lại xem đâu là văn bản gốc quả không phải là chuyện dễ dàng. Nếu chỉ nghiên cứu tác phẩm văn học theo phương pháp của lý luận và phê bình văn học thì tình hình không tránh khỏi những bế tắc không thể giải quyết. Điều này chúng ta đã gặp nhiều hiện tượng như khi khảo cứu "Truyện Kiều" của Nguyên Du, "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm, "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, thơ chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn Trãi, thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ Nguyễn Trung Ngạn...
Trong bức tranh phức tạp như đã nói, việc vận dụng các thành tựu nghiên cứu của ngôn ngữ học vào nghiên cứu thơ ca cổ có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Một mặt, nó cho ta một cách nhìn mới về các văn bản nghệ thuật vốn là một kho tàng quí báu của văn hóa truyền thống và tiếng nói dân tộc.
Mặt khác, những miêu tả và phân tích theo hướng này sẽ mở ra một con đường đáng tin cậy trong cách tiếp cận văn bản. Hiệu quả tích cực của nó là, đối với các văn bản có nhiều biến thể, việc phục nguyên lại nguyên tác sẽ có những cơ sở khoa học có sức thuyết phục. Đối với các trường hợp còn nghi vấn đối với văn bản về dùng từ hay cách giải thích nghĩa, việc vận dụng các thao tác và thủ pháp phân tích ngôn ngữ học sẽ cung cấp cho ta những luận cứ xác thực để chứng minh và lý giải các hiện tượng nói trên. Đây là trường hợp Nguyễn Tài Cẩn phân tích hiện tượng độc đáo trong cách đọc bài thơ "Vũ trung sơn thủy" của Thiệu Trị [4, 340] hoặc, thơ Nguyễn Trung Ngạn {4,304], hoặc bàn lại một số câu, số chữ trong Truyện Kiều [3,37-54].... Chẳng hạn, câu 1019,1020, các bản Kiều đời Tự Đức ( 1871, 1872, 1875, 1879, 1884) đều ghi:
Mỗi nét, mỗi dấu của nó đều có những ý nghĩa riêng, bởi vậy nếu chỉ mất một nét hay dấu nào, hoặc mờ một chút thì có thể gây ra những biến dạng khác nhau, dễ làm nên hiện tượng đa nghĩa hoặc mơ hồ về nghĩa. Đó chính là lý do khi sao chép lại các văn bản gốc, người viết có thể tự ý nhuận sắc lại bản thảo theo cái cách riêng của mình. Thứ hai, văn cổ Việt Nam ra đời trong hoàn cảnh kỹ thuật in ấn của ta chưa hình thành hoặc hình thành rồi thì mới ở giai đoạn sơ khai ( khắc in trên gỗ). Việc sao chép văn bản được coi là phương thức chủ yếu để lưu truyền và phổ biến trong dân chúng. Việc sao chép văn bản, như đã nói, thường gây ra nhiều dị bản khác nhau đối với cùng một tác phẩm văn học.
Thời gian trôi qua, đến nay, việc xác định lại xem đâu là văn bản gốc quả không phải là chuyện dễ dàng. Nếu chỉ nghiên cứu tác phẩm văn học theo phương pháp của lý luận và phê bình văn học thì tình hình không tránh khỏi những bế tắc không thể giải quyết. Điều này chúng ta đã gặp nhiều hiện tượng như khi khảo cứu "Truyện Kiều" của Nguyên Du, "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm, "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, thơ chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn Trãi, thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ Nguyễn Trung Ngạn...
Trong bức tranh phức tạp như đã nói, việc vận dụng các thành tựu nghiên cứu của ngôn ngữ học vào nghiên cứu thơ ca cổ có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Một mặt, nó cho ta một cách nhìn mới về các văn bản nghệ thuật vốn là một kho tàng quí báu của văn hóa truyền thống và tiếng nói dân tộc.
Mặt khác, những miêu tả và phân tích theo hướng này sẽ mở ra một con đường đáng tin cậy trong cách tiếp cận văn bản. Hiệu quả tích cực của nó là, đối với các văn bản có nhiều biến thể, việc phục nguyên lại nguyên tác sẽ có những cơ sở khoa học có sức thuyết phục. Đối với các trường hợp còn nghi vấn đối với văn bản về dùng từ hay cách giải thích nghĩa, việc vận dụng các thao tác và thủ pháp phân tích ngôn ngữ học sẽ cung cấp cho ta những luận cứ xác thực để chứng minh và lý giải các hiện tượng nói trên. Đây là trường hợp Nguyễn Tài Cẩn phân tích hiện tượng độc đáo trong cách đọc bài thơ "Vũ trung sơn thủy" của Thiệu Trị [4, 340] hoặc, thơ Nguyễn Trung Ngạn {4,304], hoặc bàn lại một số câu, số chữ trong Truyện Kiều [3,37-54].... Chẳng hạn, câu 1019,1020, các bản Kiều đời Tự Đức ( 1871, 1872, 1875, 1879, 1884) đều ghi:
Kiếp này nợ giả chưa xong /Làm chi thì cũng một chồng kiếp sau
Nhưng Nguyễn Tài Cẩn sau khi phân tích những diễn biến cú pháp của nó lại cho rằng, đây là một chữ viết tắt, có thể do mờ mà người chép không nhận ra hoặc do người chép đùa nghich mà chữ "nợ" lại được đổi thành chữ "một". Bởi thế nên hiểu câu này là:Kiếp này nợ giả chưa xong
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau. [3,45].
Cũng bằng phương pháp so sánh và đối chiếu, Nguyễn Tài Cẩn đã đi đến giải thích đúng đắn chữ "lạt" và chữ "nhàm" trong câu 1089,1090.
Thấy nàng lạt phấn nhàm son
Mừng thầm được Thóp bán buôn có lời.
cần được hiểu là Bạc Bà thấy Kiều đẹp đến nỗi phấn son phải nhạt đi mới chính xác. Nếu hiểu theo tinh thần như vậy thì cũng không lấy làm lạ khi có một số bản Kiều khác nhau lại thay chữ "nhàm" bằng chữ "bạt" [3, 46-47].
Sử dụng các thành tựu nghiên cứu và phương pháp của ngôn ngữ học rõ ràng là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với nghiên cứu văn bản nghệ thuật, đặc biệt là nghiên cứu thơ ca cổ. Nhiều kết quả nghiên cứu bằng con đường này còn khắc phục được những sai sót của quá trình dịch từ chữ Hán hoặc chữ Nôm sang chữ quốc ngữ hoặc cách hiểu chưa đúng hình tượng của từ và hình tượng tác phẩm. Chẳng hạn, Hữu Đạt trong công trình [8] đã chứng minh, chữ "nen" trong Truyện Kiều ở câu 48 không phải là động từ "nêm" hay "nen" ( chen) với nghĩa là "chen chúc" như trong cách hiểu của Từ điển Đào Duy Anh[1, 263] và như nhiều người thường nghĩ bấy lâu nay.
Theo tác giả, đây là một danh từ được dùng theo tiếng địa phương Nghệ Tĩnh là "cánh con cào cào châu chấu"[8, 144]. Còn chữ "ngài" trong câu thơ tả ThúyVân (câu 20) không phải là chữ "ngài" theo cách hiểu của Đào Duy Anh. Nó là chữ "người". Vì vậy, "nét ngài' ở đây không thể được hiểu là "lông mày" mà phải hiểu là "co người" mới đúng. Qua phân tích, ông còn chứng minh thêm, chữ "ngài" ở câu 2167 tả Từ Hải dứt khoát không phải là chữ "ngài" theo cách giải thích của cụ Đào Duy Anh với nghĩa " thứ bướm do con tằm hóa ra; cũng chỉ con tằm, tỷ dụ lông mày" [1,274] mà là chữ "đồi" ( mày của con chim đồi- một loài chim trong họ chim phượng hoàng[9, 231]. Với cách nhìn văn bản thơ từ góc độ ngôn ngữ học, tác giả Hữu Đạt đã nêu ra kết luận, trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du có ba chữ "ngài" hoàn toàn khác nhau. Đó là ba chữ đồng âm, nhưng khác nghĩa [9, 227-232].
Nhưng Nguyễn Tài Cẩn sau khi phân tích những diễn biến cú pháp của nó lại cho rằng, đây là một chữ viết tắt, có thể do mờ mà người chép không nhận ra hoặc do người chép đùa nghich mà chữ "nợ" lại được đổi thành chữ "một". Bởi thế nên hiểu câu này là:Kiếp này nợ giả chưa xong
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau. [3,45].
Cũng bằng phương pháp so sánh và đối chiếu, Nguyễn Tài Cẩn đã đi đến giải thích đúng đắn chữ "lạt" và chữ "nhàm" trong câu 1089,1090.
Thấy nàng lạt phấn nhàm son
Mừng thầm được Thóp bán buôn có lời.
cần được hiểu là Bạc Bà thấy Kiều đẹp đến nỗi phấn son phải nhạt đi mới chính xác. Nếu hiểu theo tinh thần như vậy thì cũng không lấy làm lạ khi có một số bản Kiều khác nhau lại thay chữ "nhàm" bằng chữ "bạt" [3, 46-47].
Sử dụng các thành tựu nghiên cứu và phương pháp của ngôn ngữ học rõ ràng là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với nghiên cứu văn bản nghệ thuật, đặc biệt là nghiên cứu thơ ca cổ. Nhiều kết quả nghiên cứu bằng con đường này còn khắc phục được những sai sót của quá trình dịch từ chữ Hán hoặc chữ Nôm sang chữ quốc ngữ hoặc cách hiểu chưa đúng hình tượng của từ và hình tượng tác phẩm. Chẳng hạn, Hữu Đạt trong công trình [8] đã chứng minh, chữ "nen" trong Truyện Kiều ở câu 48 không phải là động từ "nêm" hay "nen" ( chen) với nghĩa là "chen chúc" như trong cách hiểu của Từ điển Đào Duy Anh[1, 263] và như nhiều người thường nghĩ bấy lâu nay.
Theo tác giả, đây là một danh từ được dùng theo tiếng địa phương Nghệ Tĩnh là "cánh con cào cào châu chấu"[8, 144]. Còn chữ "ngài" trong câu thơ tả ThúyVân (câu 20) không phải là chữ "ngài" theo cách hiểu của Đào Duy Anh. Nó là chữ "người". Vì vậy, "nét ngài' ở đây không thể được hiểu là "lông mày" mà phải hiểu là "co người" mới đúng. Qua phân tích, ông còn chứng minh thêm, chữ "ngài" ở câu 2167 tả Từ Hải dứt khoát không phải là chữ "ngài" theo cách giải thích của cụ Đào Duy Anh với nghĩa " thứ bướm do con tằm hóa ra; cũng chỉ con tằm, tỷ dụ lông mày" [1,274] mà là chữ "đồi" ( mày của con chim đồi- một loài chim trong họ chim phượng hoàng[9, 231]. Với cách nhìn văn bản thơ từ góc độ ngôn ngữ học, tác giả Hữu Đạt đã nêu ra kết luận, trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du có ba chữ "ngài" hoàn toàn khác nhau. Đó là ba chữ đồng âm, nhưng khác nghĩa [9, 227-232].
Qua
một vài ví dụ vừa nêu, ta có thể thấy tính ưu việt của phương pháp
phân tích ngôn ngữ học đối với văn bản nghệ thuật. Nó càng trở nên quan
trọng hơn khi đi sâu vào nghiên cứu các loại văn bản có nhiều dị bản
để xác minh hoặc phục nguyên lại văn bản gốc. Khi tiến hành khảo sát về
thơ Đinh Nhật Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm, Nguyễn Tài Cẩn có ý thực
hiện mục tiêu này.
Trước hết cần nói rằng, Đinh Nhật Thận là một danh nhân của xứ Nghệ, một vùng đất có truyền thống hiếu học và khoa cử. Ông là người đậu đầu bảng tiến sĩ thời Minh Mạng thứ 19 và là người trẻ nhất trong kỳ thi này. Với tài năng xuất chúng, nhưng sinh ra không hợp thời, Đinh Nhật Thận gặp khá nhiều trắc trở trong con đường công danh. Chỉ vì tài làm thơ mà trong thời nhiễu loạn, ông bị hiểu lầm là tay chân của Cao Bá Quát, có mưu đồ chống lại triều đình. Cuối cùng ông bị bắt giam.
"Thu dạ lữ hoài ngâm" là một tác phẩm thơ được ông sáng tác trong lúc bị giam lỏng ở kinh đô. Tác phẩm thơ này phản ánh nỗi buồn xa quê của một người có nhiều tâm sự, đồng thời cũng là bức tranh thủy mạc về cảnh đẹp của đất nước chốn Bình sơn hương thủy. Ngoài giá trị về văn học, nó còn là một cứ liệu sống động về các hiện tượng ngôn ngữ của tiếng Việt giai đoạn thế kỷ XIX. Vì thế, công trình " Khảo sát về thơ Đinh Nhật thận qua thu dạ lữ hoài ngâm"(2) là một công trình có đóng góp quan trọng cả đối với nghiên cứu thơ cổ trung đại Việt Nam và cả về phương diện ngôn ngữ học trong khuôn khổ tìm hiểu một số vấn đề về lịch sử phát triển tiếng Việt.
Trước hết cần nói rằng, Đinh Nhật Thận là một danh nhân của xứ Nghệ, một vùng đất có truyền thống hiếu học và khoa cử. Ông là người đậu đầu bảng tiến sĩ thời Minh Mạng thứ 19 và là người trẻ nhất trong kỳ thi này. Với tài năng xuất chúng, nhưng sinh ra không hợp thời, Đinh Nhật Thận gặp khá nhiều trắc trở trong con đường công danh. Chỉ vì tài làm thơ mà trong thời nhiễu loạn, ông bị hiểu lầm là tay chân của Cao Bá Quát, có mưu đồ chống lại triều đình. Cuối cùng ông bị bắt giam.
"Thu dạ lữ hoài ngâm" là một tác phẩm thơ được ông sáng tác trong lúc bị giam lỏng ở kinh đô. Tác phẩm thơ này phản ánh nỗi buồn xa quê của một người có nhiều tâm sự, đồng thời cũng là bức tranh thủy mạc về cảnh đẹp của đất nước chốn Bình sơn hương thủy. Ngoài giá trị về văn học, nó còn là một cứ liệu sống động về các hiện tượng ngôn ngữ của tiếng Việt giai đoạn thế kỷ XIX. Vì thế, công trình " Khảo sát về thơ Đinh Nhật thận qua thu dạ lữ hoài ngâm"(2) là một công trình có đóng góp quan trọng cả đối với nghiên cứu thơ cổ trung đại Việt Nam và cả về phương diện ngôn ngữ học trong khuôn khổ tìm hiểu một số vấn đề về lịch sử phát triển tiếng Việt.
2.1. Đóng góp về phương diện văn bản học
Nhờ có việc công bố cuốn sách, nay bạn đọc có thể xác định được cái văn bản có khả năng gần với nguyên tác nhất là bản chép tay do người cháu đích tôn của Đinh Nhật Thận tặng lại cho ông Nguyễn Tài Chất. Đây là văn bản hiện được ông Nguyễn Tài Cẩn lưu giữ và dùng làm cơ sở để so sánh, đối chiếu với các văn bản khác. Đó là các bản 1902 ( tức bản Trường Thịnh Đường in mộc bản mùa đông năm Nhâm Dần đời Thành Thái) và bản Nguyễn Văn Đề được công bố ở cuốn "Trong 99 chóp núi" do Hà Xuân Tề đề tựa ngày 4 tháng 7 năm 1941, tại Huế. Trước hết cần khẳng định, đây là một đóng góp hết sức quí về mặt tư liệu của anh em Nguyễn Tài Chất và Nguyễn Tài Cẩn đối với việc bảo vệ và giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Nó không chỉ đơn thuần là một tài liệu có giá trị về mặt ngữ văn mà còn là một tài liệu quí về phương diện sử học.2.2. Những đóng góp của Nguyễn Tài Cẩn về mặt ngôn ngữ học
Trong công trình này, Nguyễn Tài Cẩn chủ yếu phương pháp thống kê, so sánh và đối chiếu để phân tích văn bản. Ngoài ra, trong một số trường hợp cần thiết, ông còn dùng phương pháp thay thế, giả định để chứng minh những chữ, những từ đáng nghi vấn kết hợp với việc phẩm bình văn chương từ góc độ cảm thụ ở một chừng mức vừa đủ nhằm làm sáng rõ các luận cứ trình bày. Trên đại thể, có thể coi đây là một phương pháp nghiên cứu tổng hợp, lấy góc độ nghiên cứu ngôn ngữ học làm cơ sở. Với một bản văn học cổ, nếu việc phiên bản không chính xác tất sẽ dẫn đến tình trạng xộc xệch, thậm chí mâu thuẫn giữa hình thức văn tự và nội dung biểu đạt của nó. Chỉ riêng việc thống kê ra những trường hợp có những hiện tượng khả nghiVới một bản văn học cổ, nếu việc phiên bản không chính xác tất sẽ dẫn đến tình trạng xộc xệch, thậm chí mâu thuẫn giữa hình thức văn tự và nội dung biểu đạt của nó. Chỉ riêng việc thống kê ra những trường hợp có những hiện tượng khả nghi về sự sai sót hay nhầm lẫn cũng đã là một việc hết sức công phu, đòi hỏi ngoài sự kiên trì còn phải có khả năng tinh tế trong thụ cảm ngôn ngữ. Nhờ có vốn uyên thâm về Hán học, lại thêm tri thức hiện đại về ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu Nguyễn Tài Cẩn đã chọn lọc và tách ra được rất nhiều hiện tượng liên quan đến sự thiếu nhất quán trong cách sử dụng ngôn ngữ của ba loại văn bản hiện có.
Với một sự lao động cần mẫn, tỉ mỉ và thật sự khoa học, ông đã cung cấp cho người đọc nhiều điều vô cùng thú vị về những biến đổi trong quá trình hành chức của các đơn vị ngôn ngữ ở mỗi cấp độ khác nhau. Trong toàn bộ phần nghiên cứu cơ bản ( tập trung ở chương II phần I ), ông đã cố gắng đứng ở vị trí thật khách quan khoa học để lý giải những chỗ còn nghi vấn từng câu thơ, đoạn thơ và trong toàn bộ tác phẩm. Thao tác nghiên cứu mà ông thực hiện tập trung nhất là luôn luôn hướng vào việc so sánh ba bản chép tay và khắc in, sau đó đối chiếu từng đoạn, từng câu, thậm chí từng từ trong bản của Nguyễn Tài Chất và hai bản còn lại.
Chính vì thế, ông đã đưa ra những nhận xét rất đáng tin cậy. Cụ thể, sau khi khảo sát 980 chữ của toàn bộ bài thơ, ông đã tìm ra 85 trường hợp được dùng với các dị bản khác nhau ( tr 18). Đây quả là một con số không nhỏ. Nó cảnh báo cho ta những lưu ý cần thiết khi tiếp cận không chỉ với "Thu dạ lữ hoài ngâm" mà còn cả với các tác phẩm thơ cổ điển khác nữa. Còn riêng trong công trình này, Nguyễn Tài Cẩn đã tổng kết một số sai sót tạo thành qui luật. Cụ thể, với bản của Nguyễn Văn Đề, ông lưu ý một số trường hợp:
Nhờ có việc công bố cuốn sách, nay bạn đọc có thể xác định được cái văn bản có khả năng gần với nguyên tác nhất là bản chép tay do người cháu đích tôn của Đinh Nhật Thận tặng lại cho ông Nguyễn Tài Chất. Đây là văn bản hiện được ông Nguyễn Tài Cẩn lưu giữ và dùng làm cơ sở để so sánh, đối chiếu với các văn bản khác. Đó là các bản 1902 ( tức bản Trường Thịnh Đường in mộc bản mùa đông năm Nhâm Dần đời Thành Thái) và bản Nguyễn Văn Đề được công bố ở cuốn "Trong 99 chóp núi" do Hà Xuân Tề đề tựa ngày 4 tháng 7 năm 1941, tại Huế. Trước hết cần khẳng định, đây là một đóng góp hết sức quí về mặt tư liệu của anh em Nguyễn Tài Chất và Nguyễn Tài Cẩn đối với việc bảo vệ và giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Nó không chỉ đơn thuần là một tài liệu có giá trị về mặt ngữ văn mà còn là một tài liệu quí về phương diện sử học.2.2. Những đóng góp của Nguyễn Tài Cẩn về mặt ngôn ngữ học
Trong công trình này, Nguyễn Tài Cẩn chủ yếu phương pháp thống kê, so sánh và đối chiếu để phân tích văn bản. Ngoài ra, trong một số trường hợp cần thiết, ông còn dùng phương pháp thay thế, giả định để chứng minh những chữ, những từ đáng nghi vấn kết hợp với việc phẩm bình văn chương từ góc độ cảm thụ ở một chừng mức vừa đủ nhằm làm sáng rõ các luận cứ trình bày. Trên đại thể, có thể coi đây là một phương pháp nghiên cứu tổng hợp, lấy góc độ nghiên cứu ngôn ngữ học làm cơ sở. Với một bản văn học cổ, nếu việc phiên bản không chính xác tất sẽ dẫn đến tình trạng xộc xệch, thậm chí mâu thuẫn giữa hình thức văn tự và nội dung biểu đạt của nó. Chỉ riêng việc thống kê ra những trường hợp có những hiện tượng khả nghiVới một bản văn học cổ, nếu việc phiên bản không chính xác tất sẽ dẫn đến tình trạng xộc xệch, thậm chí mâu thuẫn giữa hình thức văn tự và nội dung biểu đạt của nó. Chỉ riêng việc thống kê ra những trường hợp có những hiện tượng khả nghi về sự sai sót hay nhầm lẫn cũng đã là một việc hết sức công phu, đòi hỏi ngoài sự kiên trì còn phải có khả năng tinh tế trong thụ cảm ngôn ngữ. Nhờ có vốn uyên thâm về Hán học, lại thêm tri thức hiện đại về ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu Nguyễn Tài Cẩn đã chọn lọc và tách ra được rất nhiều hiện tượng liên quan đến sự thiếu nhất quán trong cách sử dụng ngôn ngữ của ba loại văn bản hiện có.
Với một sự lao động cần mẫn, tỉ mỉ và thật sự khoa học, ông đã cung cấp cho người đọc nhiều điều vô cùng thú vị về những biến đổi trong quá trình hành chức của các đơn vị ngôn ngữ ở mỗi cấp độ khác nhau. Trong toàn bộ phần nghiên cứu cơ bản ( tập trung ở chương II phần I ), ông đã cố gắng đứng ở vị trí thật khách quan khoa học để lý giải những chỗ còn nghi vấn từng câu thơ, đoạn thơ và trong toàn bộ tác phẩm. Thao tác nghiên cứu mà ông thực hiện tập trung nhất là luôn luôn hướng vào việc so sánh ba bản chép tay và khắc in, sau đó đối chiếu từng đoạn, từng câu, thậm chí từng từ trong bản của Nguyễn Tài Chất và hai bản còn lại.
Chính vì thế, ông đã đưa ra những nhận xét rất đáng tin cậy. Cụ thể, sau khi khảo sát 980 chữ của toàn bộ bài thơ, ông đã tìm ra 85 trường hợp được dùng với các dị bản khác nhau ( tr 18). Đây quả là một con số không nhỏ. Nó cảnh báo cho ta những lưu ý cần thiết khi tiếp cận không chỉ với "Thu dạ lữ hoài ngâm" mà còn cả với các tác phẩm thơ cổ điển khác nữa. Còn riêng trong công trình này, Nguyễn Tài Cẩn đã tổng kết một số sai sót tạo thành qui luật. Cụ thể, với bản của Nguyễn Văn Đề, ông lưu ý một số trường hợp:
+Cách viết mâu thuẫn với cách đọc.
Ví dụ: đọc là "tiêu điều" thì lại khắc là "vạn điều"(câu 59), đọc là "thùy" lại in là "thính"( câu 83)...
+Cách đọc không nhất trí với các từ điển Hán Việt. Ví dụ: "Diệt" được đọc thành "duyệt" ( câu 63), "ngọ mị" được đọc thành "mụ mị" ( câu 65)...
+ Viết sai so với chữ Hán bình thường. Ví dụ: Chữ "di" ở câu 9, chữ "tăng" ở câu 47... Với bản của Nguyễn Tài Chất, ông cũng cho rằng có nhiều chỗ sai do nhớ nhầm. Chẳng hạn, đổi "sơ liêm" thành "rèm thưa" (câu 2), "lưỡng tam thanh" lại chép thành"lưỡng tam chi"... Qua đối chiếu từng câu, từng chữ trong mỗi dị bản, Nguyễn Tài Cẩn đã phát hiện trong bản 1902 có nhiều sai sót hơn cả ( tr 16-17). Đó chính là lý do ngôn ngữ học để ông nhận định, trong ba bản nói trên thì bản của Nguyễn Tài Chất và bản của Nguyễn Văn Đề gần với nguyên tác hơn. Tất nhiên, để nêu lên được những nhận định và kết luận có tính khái quát như vậy, Nguyễn Tài Cẩn đã phải vận dụng cách tư duy ngôn ngữ học để miêu tả và phân tích các hiện tượng. Đây là phần nghiên cứu công phu nhất. Chẳng hạn, khi phân tích câu 35 và câu 36:
Ví dụ: đọc là "tiêu điều" thì lại khắc là "vạn điều"(câu 59), đọc là "thùy" lại in là "thính"( câu 83)...
+Cách đọc không nhất trí với các từ điển Hán Việt. Ví dụ: "Diệt" được đọc thành "duyệt" ( câu 63), "ngọ mị" được đọc thành "mụ mị" ( câu 65)...
+ Viết sai so với chữ Hán bình thường. Ví dụ: Chữ "di" ở câu 9, chữ "tăng" ở câu 47... Với bản của Nguyễn Tài Chất, ông cũng cho rằng có nhiều chỗ sai do nhớ nhầm. Chẳng hạn, đổi "sơ liêm" thành "rèm thưa" (câu 2), "lưỡng tam thanh" lại chép thành"lưỡng tam chi"... Qua đối chiếu từng câu, từng chữ trong mỗi dị bản, Nguyễn Tài Cẩn đã phát hiện trong bản 1902 có nhiều sai sót hơn cả ( tr 16-17). Đó chính là lý do ngôn ngữ học để ông nhận định, trong ba bản nói trên thì bản của Nguyễn Tài Chất và bản của Nguyễn Văn Đề gần với nguyên tác hơn. Tất nhiên, để nêu lên được những nhận định và kết luận có tính khái quát như vậy, Nguyễn Tài Cẩn đã phải vận dụng cách tư duy ngôn ngữ học để miêu tả và phân tích các hiện tượng. Đây là phần nghiên cứu công phu nhất. Chẳng hạn, khi phân tích câu 35 và câu 36:
An năng mộ mộ......................... hiên
Phong dao đình trúc, nguyệt huyền ốc lương"
ông cho rằng không nên dùng "tây hiên" mà phải dùng "thư hiên" như trong bản của Nguyễn Tài Chất mới hợp lý. Bởi, " rõ ràng chỉ ở trong THƯ HIÊN thì chuyện "thấy được trăng treo trên tường nhà" mới có giá trị [5, 20].
Nếu phương pháp so sánh và đối chiếu giúp ông có thể phát hiện ra được những sai sót, nhầm lẫn của từng văn bản thì biện pháp phân tích theo cách nhìn hệ thống lại giúp cho ông có được cách nhìn bao quát để đánh giá việc hợp lý trong cách sử dụng các biến thể. Nói một cách khác, đó chính là việc lựa chọn các khả năng có thể có ở cùng một vị trí kết hợp để tìm ra một từ/một chữ có nghĩa nét nhất trong việc xây dựng hình tượng đồng thời đảm bảo tính liên kết hệ thống của văn bản.
Chẳng
hạn, khi phân tích câu 121, ông cho rằng, việc dùng chữ "kì huynh" như
bản 1902 và bản của Nguyễn Văn Đề " Kì huynh diệc viết hạnh tai" là
chưa đạt vì chữ "kỳ" mơ hồ, không rõ nghĩa. Trong khi đó, bản của
Nguyễn Văn Chất lại dùng chữ "ngô" (= ta) thì lại ăn khớp với chữ "ngô"
trong câu 123 sau đó [5, 20].
Nói
đến hoạt động của ngôn ngữ thơ ca không thể không nói tới thao tác lựa
chọn. Nhà ngôn ngữ học đồng thời là nhà nghiên cứu thi pháp học nổi
tiếng Jacovson đã từng nhấn mạnh, nguyên tắc hoạt động của ngôn ngữ thơ
là "chức năng thi ca đem nguyên lý tương đương của trục tuyển lựa
chiếu lên trục kết hợp [14,56]. Việc lựa chọn một yếu tố nào đấy trên
trục tương đương/ trục hệ hình hoàn toàn không có tính ngẫu nhiên mà nó
được qui định bởi văn cảnh. Do vậy, với câu thơ 129 và 130, theo các
tư liệu mà Nguyễn Tài Cẩn đưa ra so sánh có thể cho phép ta nhận định, ở
câu 129 thì nên dùng từ"sau" thay cho từ "nhà" như bản Nguyễn Văn Đề
và Nguyễn Tài Chất, còn ở câu 130 thì nên dùng"hồi hương" như bản
Nguyễn Văn Đề chứ không dùng "hồi trang" như bản của Nguyễn Tài Chất và
bản 1902. Bởi, dùng từ "sau" thì câu 129 mới liên kết chặt chẽ với câu
127 theo quan hệ tiếp nối thời gian. Còn dùng từ "hồi trang" thì câu
129 không tạo thành vần thông với câu thơ tiếp theo đó ( câu 131). Cụ
thể, đoạn thơ này sẽ là như sau: Từ phen cất chén quan hà
Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động
Hai anh ta có chóng hồi hương
Thương ôi đồng bệnh cùng thương
Một Tần lại một Tiêu tương một thời.
Ngoài
việc vận dụng các thao tác phân tích ngôn ngữ học, Nguyễn Tài Cẩn còn
hết sức quan tâm đến quan hệ tiếp xúc ngôn ngữ và văn hóa giữa tiếng
Hán và tiếng Việt để bổ sung thêm một số căn cứ khoa học giúp cho việc
nhận diện các hiện tượng còn tồn nghi hoặc chưa có kiến giải rõ ràng.
Bởi vậy, có thể xem chương III của Phần I là chương củng cố các lập
luận được trình bày trong phần khảo sát văn bản thuộc chương II. Tại
chương này, tác giả đã phân tích những ảnh hưởng của thơ chữ Hán đối
với thơ Việt làm theo thể Đường luật, nhưng cũng nhấn mạnh đến những
điểm khác biệt do quá trình diễn biến lịch sử.
Cụ thể, ông nhấn mạnh đến ảnh hưởng xấu của cách gieo vần không hài hòa trong thơ Hán Việt vào thơ ngũ ngôn, thất ngôn thuần Nôm [5,109]. Ngoài ra, ông còn lưu ý độc giả quá trình diễn biến của cách đọc HánViệt đến lúc này đã xa so với tiếng Hán thời Quảng Vận, cho nên văn bản thơ đang khảo sát khó bảo lưu được 100% sự đồng vận theo qui tắc của thơ tiếng Hán. Chính vì thế, ông kết luận "hiện tượng gieo vần mất hài hòa là một hiện tượng các nhà thơ Việt bắt buộc phải chấp nhận. Và khi đã quen chấp nhận trong thơ Hán Việt thì dần dần họ cũng áp dụng sang cả thơ Nôm" [5, 120].
Cụ thể, ông nhấn mạnh đến ảnh hưởng xấu của cách gieo vần không hài hòa trong thơ Hán Việt vào thơ ngũ ngôn, thất ngôn thuần Nôm [5,109]. Ngoài ra, ông còn lưu ý độc giả quá trình diễn biến của cách đọc HánViệt đến lúc này đã xa so với tiếng Hán thời Quảng Vận, cho nên văn bản thơ đang khảo sát khó bảo lưu được 100% sự đồng vận theo qui tắc của thơ tiếng Hán. Chính vì thế, ông kết luận "hiện tượng gieo vần mất hài hòa là một hiện tượng các nhà thơ Việt bắt buộc phải chấp nhận. Và khi đã quen chấp nhận trong thơ Hán Việt thì dần dần họ cũng áp dụng sang cả thơ Nôm" [5, 120].
Những
kết quả nghiên cứu rất có giá trị của công trình " Khảo sát về thơ
Đinh Nhật Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm ", một lần nữa lại cho thấy vai
trò quan trọng của việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu và các
thao tác phân tích ngôn ngữ học đối với thơ ca, đặc biệt là đối với
thơ cổ trung đại Việt Nam. Đó cũng là một công trình có đóng góp không
nhỏ vào việc hình thành môn thi pháp ngôn ngữ học trong nghiên cứu
ngôn ngữ nghệ thuật.
____
Chú:
(1) Nxb ĐHQG Hà Nội năm 2008.
(2) Đinh Nhật Thận, tự là Từ Úy, hiệu Bạch Mao Am, sinh năm Ất Hợi 1815 tại xóm Xuân Vinh, làng Thanh Liêu, Tổng Cát Ngạn nay là xã Thanh Tiên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.Theo nhà nghiên cứu Đinh Xuân Vịnh, ông là chắt nội của Hấu đốc Lĩnh Đinh Nho Côn. mất năm Bính Dần (1866) tại quê nhà.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH.
(1) Nxb ĐHQG Hà Nội năm 2008.
(2) Đinh Nhật Thận, tự là Từ Úy, hiệu Bạch Mao Am, sinh năm Ất Hợi 1815 tại xóm Xuân Vinh, làng Thanh Liêu, Tổng Cát Ngạn nay là xã Thanh Tiên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.Theo nhà nghiên cứu Đinh Xuân Vịnh, ông là chắt nội của Hấu đốc Lĩnh Đinh Nho Côn. mất năm Bính Dần (1866) tại quê nhà.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH.
Đào Duy Anh.1974. Từ điển Truyện Kiều. Nxb KHXH.
Nguyễn Tài Cẩn.2001. Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa. Nxb ĐHQG Hà Nội. Nguyễn Tài Cẩn.2002.Tư liệu Truyện Kiều Bản Duy Minh Trị 1872. Nxb ĐHQG Hà Nội.
Nguyễn Tài Cẩn.2001. Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa. Nxb ĐHQG Hà Nội. Nguyễn Tài Cẩn.2008.Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm. Nxb ĐHQG Hà Nội.
Nguyễn Phan Cảnh.1988. Ngôn ngữ thơ. Nxb ĐH&THCN.
Mai Ngọc Chừ. 2005 . Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng của ngôn ngữ học. Nxb VHTT.
Hữu Đạt. 1993. Jazưk kak Vietnamskoi poezii. Rossiiskaja Akademija nauk. Institut Jazưkoznanija. Moskva
Hữu Đạt. 1996. Đặc điểm của ngôn ngữ thơ và ca dao nhìn từ góc độ giao tiếp. Tạp chí Ngôn ngữ, số 4.
Hữu Đạt. 2000. Ngôn ngữ thơ Việt Nam. Nxb KHXH.
Hữu Đạt. 2007. "Đất nước"- một hình tượng đặc sắc về Tổ quốc và sự cách tân trong ngôn ngữ thơ. Tạp chí Thơ, số 6.
Hữu Đạt. 2007. Nghĩa biểu vật, biểu niệm của từ và việc phân tích chúng trong quá trình tiếp cận hình tượng thơ. Tạp chí Ngôn ngữ, số 11. Nghệ thuật như là thủ pháp. 2001. Nxb Hội Nhà văn.
Roman Jacovson.2001. Ngôn ngữ học và thi học. Tạp chí Ngôn ngữ, số 14.
Hữu Đạt
http://huudat.net/%28A%28rER8ecj3ygEkAAAAYjllNjQzZjUtZWU5Ny00MzcwLWE3YzYtYWUyOGEzYzk3MjIxXLFrxK6mKjNQ4thM2wGQlnLcD7o1%29S%28npifypy2cwskvc55wergwnvy%29%29/ShowArticle.aspx?ID=31
Nguyễn Tài Cẩn.2001. Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa. Nxb ĐHQG Hà Nội. Nguyễn Tài Cẩn.2002.Tư liệu Truyện Kiều Bản Duy Minh Trị 1872. Nxb ĐHQG Hà Nội.
Nguyễn Tài Cẩn.2001. Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa. Nxb ĐHQG Hà Nội. Nguyễn Tài Cẩn.2008.Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm. Nxb ĐHQG Hà Nội.
Nguyễn Phan Cảnh.1988. Ngôn ngữ thơ. Nxb ĐH&THCN.
Mai Ngọc Chừ. 2005 . Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng của ngôn ngữ học. Nxb VHTT.
Hữu Đạt. 1993. Jazưk kak Vietnamskoi poezii. Rossiiskaja Akademija nauk. Institut Jazưkoznanija. Moskva
Hữu Đạt. 1996. Đặc điểm của ngôn ngữ thơ và ca dao nhìn từ góc độ giao tiếp. Tạp chí Ngôn ngữ, số 4.
Hữu Đạt. 2000. Ngôn ngữ thơ Việt Nam. Nxb KHXH.
Hữu Đạt. 2007. "Đất nước"- một hình tượng đặc sắc về Tổ quốc và sự cách tân trong ngôn ngữ thơ. Tạp chí Thơ, số 6.
Hữu Đạt. 2007. Nghĩa biểu vật, biểu niệm của từ và việc phân tích chúng trong quá trình tiếp cận hình tượng thơ. Tạp chí Ngôn ngữ, số 11. Nghệ thuật như là thủ pháp. 2001. Nxb Hội Nhà văn.
Roman Jacovson.2001. Ngôn ngữ học và thi học. Tạp chí Ngôn ngữ, số 14.
Hữu Đạt
http://huudat.net/%28A%28rER8ecj3ygEkAAAAYjllNjQzZjUtZWU5Ny00MzcwLWE3YzYtYWUyOGEzYzk3MjIxXLFrxK6mKjNQ4thM2wGQlnLcD7o1%29S%28npifypy2cwskvc55wergwnvy%29%29/ShowArticle.aspx?ID=31
Hoàn tất ngày 20-3-2010.
Sơn Trung Thư Trang.
Nguyễn Thiên Thụ
TRẦN VĂN TOÀN * TẢN ĐÀ
Tản Đà - nhà thơ giao thời với cái tôi sầu mộng.
I. Tiểu sử và con người
Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu sinh ngày 25-5-1889 (20 tháng 4 năm Kỷ sửu, Thành Thái nguyên niên) tại làng Khê thượng, huyện Bất bạt, tỉnh Sơn tây nay là thôn Khê thượng, xã Sơn đà, huyện Ba vì - Hà tây. Nguyên quán của Tản Đà ở làng Lủ (tức Kim Lũ) huyện Thanh trì - Hà Nội.
Dòng họ của Tản Đà có truyền thống khoa bảng. Thân phụ của ông -Nguyễn Danh Kế đỗ cử nhân, làm quan đến chức Án sát Ninh bình. Anh ruột (cùng cha khác mẹ) với Tản Đà là Nguyễn Tái Tích đỗ phó bảng, làm tri huyện sau đổi sang ngạch Học quan giữ chức Giáo thụ.
Mẹ Tản Đà là Nhữ Thị Nghiêm, một đào hát tài sắc Nam định, lấy lẽ Nguyễn Danh Kế khi ông làm tri phủ Xuân Trường. Bà là người hát hay và có tài làm thơ Nôm. Tản Đà là con trái út của cuộc lương duyên giữa tài tử và giai nhân này.
Cuộc đời của Tản Đà trải nhiều khóc cười. Lên 3 tuổi, bố mất. Năm sau, vì bất hòa với gia đình chồng, bà Nhữ Thị Nghiêm bỏ đi, trở lại nghề ca xướng. Mặc dù ngay từ khi 15 tuổi đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn tây nhưng Tản Đà liên tiếp trượt cả hai kỳ thi hương 1909 và 1912. Cũng mùa xuân năm 1912, ông không qua được kỳ thi vào trường Hậu bổ vì trượt môn vấn đáp tiếng Pháp. Thất bại trong khoa cử gắn liền với đổ vỡ trong tình duyên đã khiến cuộc đời Tản Đà rẽ sang một ngả khác.
Năm 1915, Tản Đà có tác phẩm đăng trên Đông dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh và nhanh chóng có được tiếng vang trên văn đàn. Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà và chính thức chọn con đường của một người viết văn, làm báo chuyên nghiệp. Từ 1916 đến 1926 là những năm tháng đắc ý nhất của Tản Đà. Ông liên tiếp cho xuất bản các tác phẩm: Khối tình con I(1916), Giấc mộng con I (1917), Khối tình con II (1918), Đài gương, Đàn bà Tầu, Thần tiền, Lên sáu (1919), Lên tám (1920), Còn chơi (1921), Tản Đà tùng văn (1922), Thề non nước (1922), Truyện thế gian I và II (1923), nhuận sắc Truyện Tỳ bà (tuồng) của Đoàn Tự Thuật và dịch Đại học (1922), Kinh thi (1924).
Từ năm 1926 đến 1933 ngoài việc xuất bản một số tác phẩm: Giấc mộng con II, Giấc mộng lớn (1932) và in lại thơ văn cũ Tản Đà bỏ hết tâm sức vào việc làm báo với kỳ vọng vào một sự nghiệp văn chương “có bóng mây hơi nước đến dân xã”. Sự lạc điệu của nhà Nho Tản Đà với môi trường đô thị bắt đầu bộc lộ rõ rệt. Tờ An nam tạp chí, bất chấp những tâm huyết của ông chủ báo ngất ngưởng, liên tục bị đình bản vì lý do tài chính và đến năm 1933 (sau 6 lần tái bản rồi đình bản) thì đình bản hẳn. Lần vấp ngã này khiến Tản Đà thực sự chán nản và sự nghiệp của ông cũng đi vào giai đoạn thoái trào. Từ 1933 cho đến những ngày cuối đời Tản Đà làm trợ bút cho các báo, dịch thơ Đường cho tờ Ngày nay, dịch Liêu trai, quảng cáo chữa văn, xem số Hà lạc...Cũng vì sinh kế mà Tản Đà phải trôi dạt nhiều nơi: vào Nam, ra Hà nội, về quê, ra Quảng Yên rồi lại về Hà Đông. Ông mất tại Ngã tư Sở, ngày 7 tháng 6 năm 1939, trong cảnh bần bách, để lại vợ và đàn con mà theo lời thuật của Nguyễn Tuân “vừa yếu lại vừa đuối”.
Cuộc đời của Tản Đà, như thế, dù có những năm tháng đắc ý nhưng nhìn chung là bất như ý và nhiều đổ vỡ. Điều này khiến Tản Đà (vốn đầy tự tín, ngông nghênh) phải đối diện với một cảm nhận không ít mệt mỏi, chua xót: “Mỗi một phen ra đời lại một phen thất bại; mỗi một phen thất bại, đầu tóc lại bạc thêm” (Giấc mộng lớn). Nỗi sầu bàng bạc trong thơ văn Tản Đà một phần đến từ những trải nghiệm rất thực này.
Tuy nhiên, dù phân nửa cuộc đời sau này gắn bó với môi trường đô thị và tập nhiễm không ít lối sống thị dân thì về cơ bản cốt cách của một nhà Nho tài tử vẫn rất đậm nét trong con người Tản Đà. Trong một xã hội mà người ta đã học và làm quen được với sự sùng bái đồng tiền Tản Đà trước sau vẫn chọn lối ứng xử của một khách chơi, một bậc trượng phu đầy hào sảng, phóng túng: Thơ lưng chất nặng, tay buồn rỗi / Bán áo mà mua giấy viết ngông (Dạm bán áo đoạn), Bạc tiền gió thoảng thơ đầy túi / Danh lợi bèo trôi, rượu nặng nai (Tự vịnh). Hoàn toàn không có sự khác biệt giữa hình ảnh Tản Đà trong những câu thơ trên và Tản Đà ngoài đời. Sự thống nhất ấy đã khiến Tản Đà, trong mắt của người đương thời và đặc biệt của những kẻ hậu sinh, trở thành bậc trích tiên. Vô số những giai thoại về Tản Đà đều xoay quanh cái cốt cách khác thường này của ông. Cùng với thơ ca, con người thực của Tản Đà thực sự là một niềm say mê, ngưỡng mộ của nhiều thế hệ. Thậm chí ngay cả khi những sáng tác của ông không còn sự hấp dẫn như buổi đầu xuất hiện thì sự hấp dẫn đến từ con người thực của Tản Đà vẫn không hề giảm sút. Cá tính độc đáo của Tản Đà còn tiếp tục vang bóng trong những giai thoại về Nguyễn Tuân (người bạn vong niên mà sinh thời Tản Đà vốn có biệt nhãn) và nó khiến cho Lưu Trọng Lư dù có lúc không ưa gì cái Tôi kềnh càng của Tản Đà trong đời thực vẫn phải thừa nhận: “con người Nguyễn Khắc Hiếu chính là cái tác phẩm tuyệt xảo, một bài thơ hay nhất trong sự nghiệp của Tản Đà”.
II. Kiểu nhà thơ giao thời: từ nhà Nho trở thành người sáng tác chuyên nghiệp và quan niệm về văn học của Tản Đà.
1/1.1 Thừa hưởng truyền thống của gia đình, Tản Đà ngay từ nhỏ, đã được rèn cặp theo lối học cử tử mà người thầy cũng đồng thời là người anh ruột - phó bảng Nguyễn Tái Tích. Ảnh hưởng của Nho giáo với Tản Đà, như thế, là một ảnh hưởng từ rất sớm và cũng rất tự nhiên như một nét của gia phong. Chính vì thế, Tản Đà vào đời theo một lộ trình đã định trước và cũng khá quen thuộc với một nhà Nho: học hành - đi thi - làm quan (trước để nối nghiệp nhà và với Tản Đà còn có thêm một mục đích rất dễ thương: có được người đẹp trong mộng). Chuyện trở thành nhà văn nhà báo chuyên nghiệp sau này trong cảm nhận của Tản Đà là một sự lỡ dở: Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang / Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng (Đề “Khối tình con” thứ nhất.
Thực tế này lý giải vì sao: trước năm 1913 không thấy phát lộ một khả năng cũng như thiên hướng đặc biệt nào của Tản Đà về lĩnh vực sáng tác văn chương nghệ thuật. Vốn liếng của Tản Đà thời kỳ này dù có xuất sắc hơn người thì chủ yếu vẫn chỉ là chuyện chữ nghĩa đóng khung trong sách vở thánh hiền.
Hiểu thế, mới có thể lý giải được vì sao việc hỏng thi Hương năm 1912 lại khiến Tản Đà chán nản, bi phẫn đến như thế. Ở thời gian này, lối học thi cử truyền thống đã đến hồi kết. Ba năm sau, năm 1915, sẽ là khoa thi chữ Hán cuối cùng ở miền Bắc. Trước Tản Đà không lâu, dù cay cú, dù than thở thì Tú Xương vẫn có thể trọn đời theo nghiệp khoa cử. Đến Tản Đà, sự phá sản của lối vào đời truyền thống ấy đã trở thành hiện thực nhãn tiền. Nhà Nho Tản Đà không còn đủ tự tin, cơ bản hơn, cũng không còn đủ cơ hội để đánh cược vào khoa cử. Bị trượt ra khỏi quỹ đạo truyền thống, hoàn toàn mất phương hướng trong hành xử đấy mới chính là nguyên nhân sâu xa gây ra sự chán nản đến độ “quyết mong tịch cốc để từ trần” ở Tản Đà - mà sự kiện “ý trung nhân xuất giá” chỉ là một giọt nước tràn ly.
1.2 Chính ở thời điểm này, sáng tác văn chương xuất hiện như một phương thức để giải tỏa. Những sáng tác này sau đó sẽ được in ở hai quyển Khối tình và Khối tình con thứ nhất nhưng như Tản Đà đã thuật lại rất rõ: “trong khi đương viết ở Cổ đằng, thực chưa có bụng nào viết văn để in vậy”. Tản Đà chỉ thực sự lựa chọn con đường của một người kiếm sống bằng ngòi bút vào năm 1916. Đây là năm ông lấy bút hiệu Tản Đà. Đặc biệt cũng trong năm này ông từ chối lời mời vào học mà không phải qua thi tuyển của E.Vayrac giám đốc trường Hậu bổ. Ở điểm xuất phát không được chuẩn bị và cũng không hề có ý định để trở thành nhà văn chuyên nghiệp, đến với nghề văn khá muộn nhưng lại rất cương quyết và triệt để trong toàn bộ quãng đời còn lại. Những nguyên nhân nào đã làm nên sự biến đổi đặc biệt quan trọng này ở nhà Nho Tản Đà?
Trong nhận thức mang tính tiên nghiệm của nhà Nho có ba điều cũng là ba lĩnh vực để có thể lưu danh thiên cổ (tam bất hủ): lập đức, lập công và lập ngôn. Mãi cho đến cuối đời, Phan Bội Châu vẫn nhắc lại tiên đề này. Sự tán thưởng với quan điểm lập thân này cũng được Tản Đà công khai bày tỏ: “Đã gọi là thằng người phải có một cái hơn con vật. Hoặc là cái đức hay, hoặc là cái việc hay, hoặc là câu nói hay” (An nam tạp chí - số 8). Cốt cách tài tử lại thêm những pha tạp của lối sống thị dân khiến Tản Đà không bị hấp dẫn bởi những khuôn mẫu của một nhà đạo đức. Ở vào một thời đại mà văn minh phương Tây đã chứng tỏ sự ưu việt hơn hẳn của nó thì ngả rẽ kỳ vọng vào một sự nghiệp kinh bang tế thế cũng trở nên mù mịt đối với một nhà Nho phải “phá nghiệp kiếm ăn xoàng” như Tản Đà. Chỉ còn một mảnh đất cuối cùng: mảnh đất của “lời nói hay” (lập ngôn) để Tản Đà có thể thi thố với đời. Có không ít những nguyên cớ chủ quan và khách quan khuyến khích Tản Đà theo ngả rẽ này. Từ sau những năm 1910, trên cơ sở của môi trường đô thị hiện đại, viết văn làm báo đã trở thành một nghề. Tiếp sau những tờ công báo là sự ra đời của báo chí tư nhân đáp ứng những nhu cầu và thị hiếu mới của tầng lớp thị dân đang ngày một trở nên đông đảo. Danh phận của người viết văn làm báo được thừa nhận và xem trọng. Đây là cơ sở để Phạm Quỳnh có thể tự tin và hào hứng tuyên truyền cho luận điểm: “Các nước Âu Mỹ trọng các nhà văn sĩ hơn các bậc đế vương vì cái công nghiệp tinh thần còn có giá trị quý báu và ảnh hưởng sâu xa hơn là những sự nghiệp nhất thời về mặt chính trị” . Cái không khí mới mẻ của thời cuộc ấy không phải là không có sức hấp dẫn. Thêm nữa, ngay từ bài tản văn đầu tiên của mình in trên Đông dương tạp chí, Tản Đà đã được tán thưởng đặc biệt đến mức ông chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh - với tất cả sự nhạy bén về thị trường của một nhà báo chuyên nghiệp - đã phải mở và dành riêng một mục cho Nguyễn Khắc Hiếu lấy tên là Một lối văn Nôm. Một loạt những bài tản văn tiếp theo như: Cái chứa trong bụng người, Giá ngày, Giá người, Giải sầu đưa lại cho Nguyễn Khắc Hiếu một địa vị danh tiếng trong văn đàn. Những nguyên cớ trên lý giải vì sao Tản Đà đã mạnh dạn để đến với văn học chuyên nghiệp một cách quyết liệt và triệt để đến thế - một lựa chọn mà ngay cả những nhà văn ở giai đoạn 1932-1945 sau này không phải ai cũng có được.
Thực tế này đã đem lại những nét thật sự mới mẻ trong quan niệm về văn học của Tản Đà. Ngay từ năm 1916, trong lời đề tựa cho tập Khối tình con thứ nhất, người ta đã bắt gặp một chân dung và một tuyên ngôn cho sự tồn tại của một loại hình nhà văn mà rồi đây sẽ chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống văn học:
Còn non còn nước còn trăng gió
Còn có thơ ca bán phố phường
Trong quan niệm truyền thống, văn học là một thứ quà tặng để thù tạc. Điều này giải thích vì sao trong văn học trung đại bất chấp một khối lượng lớn những tác phẩm được sáng tác thì trong đời sống vẫn không có khái niệm thi sĩ, khái niệm nhà văn. Người ta gọi Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến...theo phẩm hàm, học vị. Những danh hiệu đó dường như tôn quý hơn và cũng rộng lớn hơn danh hiệu thi sĩ. Làm thơ không phải là một nghề, nó là một phần (được đề cao nhưng không bắt buộc phải có) trong hoạt động sống của một ông quan, của một nhà khoa bảng. Trong sự đối sánh ấy, cái tuyên ngôn về “thơ ca bán phố phường” của Tản Đà là một sự khai sinh cho một danh phận mới: nhà văn chuyên nghiệp, cũng đồng thời nó đem đến cho văn học một thuộc tính mới: thuộc tính hàng hóa. Từ quan niệm mới mẻ về văn học này, Tản Đà sẽ tổng kết cuộc đời mình với tư cách của một người: Khi làm chủ báo lúc viết mướn (Tiễn ông Công lên chầu trời). Chỉ từ Tản Đà người ta mới bắt gặp những trải nghiệm thật mới mẻ của một người viết văn với những điều kiện khắc nghiệt của thị trường: Bao nhiêu củi nước mới thành văn/Được bán văn ra chết mấy lần/Ông chủ nhà in in đã đắt/Lại ông hàng sách mấy mươi phân (Lo văn ế)
Với những mới mẻ trong cách thế hành nghề cũng như trong tầng sâu quan niệm văn học như trên Tản Đà xứng đáng được xem là người tiên phong trên con đường vận động từ lối viết văn làm thơ của nhà Nho sang lối viết văn làm thơ của một nhà văn chuyên nghiệp.
2. Tuy nhiên con đường trở thành nhà văn chuyên nghiệp của Tản Đà càng về sau càng trở nên quanh co và chung cuộc trở thành dang dở.
2.1 Nhà văn chuyên nghiệp và văn chương trở thành hàng hóa - những quan niệm mới mẻ này kéo theo nó một loạt những hệ quả mà quan trọng nhất là tác động của người đọc đến sáng tác của nhà văn. Tự nhìn nhận mình với chức phận: đem “thơ ca bán phố phường” một cách tự nhiên những nhu cầu, thị hiếu của tầng lớp thị dân đã có những tác động không nhỏ đến thực tế sáng tác của Tản Đà. Những tác phẩm xoay quanh đề tài du ký, những câu chuyện tình ái với hình bóng của các giai nhân trong hầu hết những sáng tác của ông cũng như những sầu muộn vẩn vơ trong các tập Khối tình con...- một phần là xuất phát từ cá tính sáng tạo của Tản Đà nhưng mặt khác cũng có sự gợi ý và kích thích từ phía môi trường của độc giả những thập kỷ hai mươi trong môi trường đô thị. Dễ dàng nhìn thấy những tương đồng (ở những mức độ đậm nhạt khác nhau) trong các đề tài và mô- tip nghệ thuật nói trên giữa Tản Đà và một loạt những cây bút đương thời như: Nguyễn Bá Trác, Đoàn Như Khuê, Phạm Quỳnh và muộn hơn một chút là Đông Hồ, Tương Phố, Hoàng Ngọc Phách... Những tương đồng này cho thấy rất rõ đằng sau những sáng tác văn học là những nhu cầu và thị hiếu mới của thời đại mà những người cầm bút một khi đã đi vào con đường một nhà văn chuyên nghiệp ít nhiều đều chịu sự tác động và định hướng của chúng.
2.2 Tuy nhiên, người ta còn bắt gặp một cách hệ thống những quan niệm văn học của nhà Nho truyền thống - đóng vai trò như một khung khổ định trước trong tư duy về văn học của Tản Đà.
Tản Đà là người tự tín và thành thật. Ông tự khen thơ mình nhiều lần và tỏ ra đặc biệt tự hào về thi tài của mình. Nhưng còn có một niềm tự hào khác - cũng là một chức phận mà Tản Đà rất mực đề cao, xem đó như mục đích tối thượng cho hoạt động sáng tác của mình: truyền bá thiên lương cho nhân loại (Hầu trời). Chức phận này Tản Đà suốt đời chẳng bao giờ nguôi quên: Hai chữ “thiên lương” thằng Hiếu nhớ/Dám mong không phụ Trời trông mong (Tiễn ông Công lên chầu Trời). Quan điểm đem văn chương phục vụ cho nhiệm vụ truyền bá thiên lương này, một lần khác, được Tản Đà trình bày một cách khúc chiết và có lập luận chặt chẽ hơn qua lời của Chu Kiều Oanh: “Văn chương có trọng giá, không phải là một sự đùa vui trong ý thú, không phải là một sự đua vui trong phẩm bình, mà phải có bóng mây hơi nước đến dân xã...Sao cho nhân tâm, phong tục được thuần chính, dân trí tư tưởng được khai minh, là chức trách của ngòi bút đại văn gia”. Với cách hiểu này văn chương được đề cao rất mực nhưng cái làm nên giá trị của văn chương không phải ở tự thân văn chương mà ở chức năng giáo huấn, ở khả năng khai minh, chính tâm cho xã hội - một sự tái hiện trọn vẹn cho mệnh đề “văn dĩ tải đạo” quen thuộc của Nho gia.
Giai đoạn giao thời là sự đan xen của hai hệ thống thể loại cũ - mới. Bên cạnh văn - thơ - phú - lục của truyền thống còn là những thể loại mới có nguồn gốc từ phương Tây: truyện ngắn, tiểu thuyết... Vấn đề không chỉ là sự phức tạp trong hệ thống thể loại, cơ bản hơn, còn là sự phức tạp trong cách thức phân loại. Trong bài báo Chữ Nho với chữ Quốc ngữ (1918), Phạm Quỳnh đề xuất quan điểm: “Văn có nhiều lối đã đành, mà văn cũng có nhiều hạng”. Nhiều lối là sự khác biệt về thể loại, phong cách. Nhiều hạng lại là sự phân biệt về tôn ty: cao - thấp, trên - dưới, khinh - trọng. Phân chia các thể loại theo cả hai tiêu chí: nhiều lối và nhiều hạng cũng là đặc điểm nổi bật trong quan niệm thể loại của Tản Đà mà tiêu biểu nhất là trong bài Hầu Trời (1921):
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi
..................
Hai quyển Khối tình văn thuyết lý
Thần tiên, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Trong một loạt những cách gọi tên trên thấy có sự phân loại theo lối: văn vần và văn xuôi nhưng sự đối lập giữa văn thuyết lý và văn chơi, văn vị đời và văn chơi là phân loại theo thứ hạng. Mặc dù thành danh với Giấc mộng con nhưng trong quan niệm của mình Tản Đà không xem trọng tiểu thuyết như tản văn. Sau này khi giới thiệu Giấc mộng lớn, Tản Đà cũng giữ quan điểm này: “chẳng qua là một cuốn văn chơi (TVT nhấn mạnh), tưởng cũng không quan hệ đến những lời phẩm bình của các bậc đại nhã cao nhân vậy”. Văn vị đời - có bóng mây hơi nước đến dân xã - mới là thể loại mà Tản Đà xem trọng. Ông khẳng định: “Văn chương mà không được như các văn Lư Thoa, Lương Khải Siêu thời sự nghiệp có đáng giá là mấy”. Đặt tâm tư học lực của mình vào tản văn chính là một kỳ vọng của Tản Đà vào một sự nghiệp văn chương của Khang, Lương, Lư Thoa - những hình mẫu cho hạng văn vị đời của ông.
Với những quan niệm về tính chất và thể loại văn học như trên dễ hiểu là vì sao từ 1926 trở đi Tản Đà bỏ hẳn những sáng tác thuộc hệ thống thể loại văn chơi để chuyển sang viết báo tuyên truyền cho thuyết thiên lương, kỳ vọng vào một sự nghiệp văn chương giáo hóa, chính nhân tâm, thuần phong tục. Oái oăm thay, lựa chọn này đã khiến ông xa rời quỹ đạo của một nhà văn chuyên nghiệp để trở về với kiểu văn học nhà Nho truyền thống. Áp lực từ phía thị hiếu của độc giả bị thay thế bởi những hành xử quen thuộc trong sáng tác văn học truyền thống. Sự “lại giống” này (chữ dùng của GS Trần Đình Hượu), như thực tế cho thấy, chẳng những khiến Tản Đà đánh mất độc giả mà, cơ bản hơn, nó đồng thời làm mất đi nhu cầu và khả năng (vốn dĩ rất dồi dào) tìm tòi đổi mới văn học theo hướng hiện đại trong những sáng tác ở giai đoạn trước đó của ông. Là một trong những đại diện đầu tiên ở vào thời điểm phôi thai của nền văn học mới cùng với không ít những hăm hở “phá cách vứt điệu luật” nhưng hấp lực từ quan niệm văn học truyền thống đã khiến Tản Đà càng đi càng trở nên bối rối, chậm bước để rồi trở lại với điểm xuất phát ban đầu. Quả thực, không phải cứ có một quan niệm mới là có ngay những tác phẩm có giá trị nhưng nếu không được định hướng từ một quan niệm văn học thực sự mới mẻ thì ngay cả với một tài năng cỡ Tản Đà cũng khó có được khả năng và một xung lực cần thiết cho những cách tân nghệ thuật đích thực.
III.Sầu - Mộng và sự hiện diện của cái Tôi cá nhân
Vấn đề cái Tôi cá nhân trong văn học cho đến nay vẫn là một đề tài mở, cho phép song song tồn tại những cách lý giải và quan niệm khác nhau.
Từ góc độ triết học, có thể nhận thấy: con người ở bất kỳ thời đại nào cũng có chung những nhu cầu cơ bản. Một trong những nhu cầu cơ bản đó là nhu cầu được sống với chính mình. Tuy nhiên, khả năng nhận biết những phương thức để đáp ứng những nhu cầu này ở mỗi nền văn hóa, ở mỗi thời đại là khác nhau. Chính vì thế cái Tôi cá nhân nói chung và cái Tôi cá nhân trong văn học nói riêng là một hiện tượng cần được nhận thức trong những tồn tại lịch sử cụ thể.
Văn học nghệ thuật thời trung đại, một mặt, chịu ảnh hưởng của Nho giáo (thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo); mặt khác, với tư cách là tiếng nói của tinh thần của thế giới tâm hồn văn học nghệ thuật còn là mảnh đất để cái Tôi cá nhân hiện diện. Điều này là cần thiết không phải chỉ bởi đặc thù của hoạt động sáng tạo nghệ thuật: luôn gắn liền với vấn đề phong cách, cá tính sáng tạo, gắn liền với những trải nghiệm của cá nhân người cầm bút. Cơ bản hơn, sự hiện diện của cái Tôi cá nhân trong văn học nghệ thuật còn là một nhu cầu để cân bằng cho đời sống tinh thần của con người, giúp anh ta được sống với chính mình, tạm gác bỏ những ràng buộc, những giới hạn của con người chức phận luân thường. Cách đặt vấn đề như trên giúp chúng ta nhìn nhận về cái Tôi cá nhân không chỉ như một phương diện của nội dung tác phẩm mà còn có vai trò như một tiêu chí để phân biệt hai loại văn chương trong văn học trung đại: văn chương chức năng và văn chương nghệ thuật.
Dấu vết của loại hình văn chương chức năng vẫn tồn tại ở Tản Đà một cách khá rõ nét (chủ yếu ở những tác phẩm thuộc loại văn vị đời) nhưng những sáng tác có ý nghĩa văn học sử quan trọng nhất của ông lại thuộc về loại hình văn chương nghệ thuật. Chính ở những tác phẩm thuộc loại này mà cái Tôi cá nhân bắt đầu hiện diện như một tiêu điểm thẩm mỹ trong những sáng tác của Tản Đà qua hai phạm trù thẩm mỹ chính: Sầu - Mộng
1. Không phải đến Tản Đà văn học Việt Nam mới biết đến chữ sầu. Trong văn học truyền thống sầu là một phạm trù thẩm mỹ và ý nghĩa của nó không chỉ là một tầng vỉa nội dung mà, như trên đã nói, còn là một tiêu chí quan trọng để phân biệt giữa văn học mang tính nghệ thuật phân biệt với bộ phận văn học chức năng. Trong bộ phận văn học chức năng con người chức phận đóng vai trò chủ đạo. Tư thế quan phương là tư thế đã được quy định từ trước trong các tác phẩm loại này. Một cách tự nhiên, cái Sầu cũng như những cảm xúc tự nhiên khác của con người cá nhân không có lý do để hiện diện. Nhưng trong những tác phẩm nghệ thuật thì khác. Ở đó con người được sống với cái Tôi riêng tư của mình với những hoài vọng những day dứt, nỗi đam mê và sự khổ đau, những dự phóng và cả những bất thành, dang dở. Dễ hiểu vì sao cái Sầu luôn bàng bạc trong những tác phẩm mà ở đó tư thế quan phương được thay thế bằng tư thế của một cá nhân với những nếm trải chân thực trong cuộc đời. Sầu, vì thế, là một ô cửa sổ để nhìn vào thế giới của cái Tôi trong văn học trung đại.
1.1 Mạch sầu của Tản Đà, trước tiên, bắt nguồn từ mạch sầu truyền thống. Đấy, thường bắt gặp một cách phổ biến, là cái sầu về kiếp người ngắn ngủi. Tản Đà chấp nhận bi kịch này như một tất yếu của kiếp người, không còn dằn dỗi ông chỉ ngậm ngùi than thở:
Ấy ai quay tít địa cầu
Đầu ai nửa trắng nửa pha mầu xuân xanh
Trông gương mình lại ngợ mình
Phải chăng vẫn giống đa tình ngày xưa
( Bài hát xuân tình).
Càng về sau này, cảm giác về sự hữu hạn của kiếp người càng giày vò nhà thơ. Nó khiến ông bâng khuâng trước cảnh tượng của bông hoa: Đương ở trên cành bỗng chốc rơi (Hoa rụng); chạnh lòng trước ngôi mả cũ ven đường; ngao ngán, thậm chí, hoảng sợ khi phải đối diện với thực cảnh: Tuyết nhuộm đầu xanh, tóc bạc phơ (Thơ thẩn)... Nhận biết đó là một quy luật chẳng thể đổi khác, Tản Đà thể hiện nỗi tiếc đời bằng lời van xin thời gian chậm bước:
Thương thay! xuân chẳng đợi chờ
Tiếc thay! xưa những hững hờ với xuân
Trăm nghìn gửi lại Đông quân
Hãy khoan khoan tới, hãy dần dần lui
(Xuân cảm)
Ý niệm về kiếp người ngắn ngủi mài sắc cảm nhận về thời gian khiến Tản Đà ngay cả khi khai thác những đề tài rất quen thuộc trong truyền thống vẫn có được những nét riêng của mình trong cách khai triển tứ thơ và phô diễn cảm xúc. Cái làm nên không khi bâng khuâng đặc biệt trong Tống biệt không gì khác là những cảm giác về thời gian được cài suốt mạch bài thơ:
-Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
-Trời đất từ đây xa cách mãi
-Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.
Cũng như thế với Thu khuê oán - một đề tài không thể truyền thống hơn được nữa nếu không muốn nói là rất dễ rơi vào sáo cũ và trên thực tế là Tản Đà đã có những câu thơ rất sáo - thì chỗ thoát sáo của ông đấy là điểm nhấn trong cảm nhận về thời gian ở khổ cuối:
Ngày tháng đi chóng, năm canh trường
Lác đác sao tàn lấp lánh gương
Trên trời Chức nữ cùng Ngưu lang
Một giải sông Ngân lệ mấy hàng.
Hệ thống ngôn từ và thi liệu vẫn là của truyền thống nhưng những cảm nhận thời gian trong một loạt những trích dẫn trên dường như là sự báo trước những tứ thơ chất đầy ám ảnh thời gian trong thơ Mới sau này.
1.2 Cái sầu về kiếp người ngắn ngủi là cái sầu của nhân sinh phổ quát. Với Tản Đà, mạch sầu này của ông được phô diễn một cách thấm thía hơn khi nó gắn với cái sầu về thân thế sự nghiệp - nỗi sầu được chắt ra từ những trải nghiệm rất riêng của cuộc đời Tản Đà. Là người ôm ấp nhiều cao vọng nhưng thực tế cuộc đời lại khiến Tản Đà nhiều phen phải đối diện với sự lỡ dở, thất bại. Nếu để ý kỹ, càng về cuối đời - khi mà cảm nhận về quỹ thời gian của đời người cất tiếng ngày một riết róng - thì thơ văn của Tản Đà (hơn bao giờ hết) càng ngậm ngùi nỗi buồn của một kẻ trắng tay với cuộc đời. Mỗi độ năm tận, xuân về lại khiến Tản Đà thêm se sắt bởi nó nhắc nhở ông về những gì dang dở, bất thành. Một năm trước khi mất, trong ngày Tết ông Công, kiểm định cuộc đời mình, Tản Đà viết những dòng thành thực nhất cũng là chua xót nhất:
Khi làm chủ báo lúc viết mướn
Hai chục năm dư cảnh không cùng
Trần gian thước đất vẫn không có
Bút sắt chẳng hơn gì bút lông
Ngày xanh như ngựa đầu xanh bạc
Chán cả giang hồ hết cả ngông
(Tiễn ông Công lên chầu trời).
Cũng chính mạch sầu này trở thành cái nhìn nghệ thuật để Tản Đà viết Giấc mộng lớn -cuốn tự truyện về cuộc đời mình. Nhịp chính trong mạch trần thuật của Giấc mộng lớn là những đổ vỡ trong cuộc đời của Tản Đà. Những sự kiện khác chỉ được kể có tính chất điểm xuyết. Cứ sau mỗi lần thất bại, vấp ngã lại thấy Tản Đà thêm một lần chùng xuống mệt mỏi. Kết thúc tác phẩm, thật thấm thía nhưng cũng thật chẳng thanh thản chút nào khi Tản Đà phải đối diện với chân dung tự họa của mình qua đôi câu đối có ý nghĩa như một tổng kết:
Hơn mười năm bút sắt, bút lông, hao giấy mực chẳng ích gì cho xã hội
Trải ba xứ đường xe đường bể, trụi râu mày còn thẹn với giang san
Khép lại cuốn sách là hình ảnh một kẻ không nhà - một khách giang hồ ngoài ý muốn, mỏi mệt trong mọi ước vọng. Một kết thúc mở, nhưng là cho những bi kịch mà ở điểm mút của nó là một cái chết bất thường trong cảnh túng quẫn. Chung cuộc, kinh nghiệm cuộc đời mà Tản Đà thấm thía hơn cả là một trải nghiệm : “ở đời, chỉ những sự buồn mới là thật” (Xuân như mộng). Ta sẽ còn đề cập đến ý nghĩa mỹ học của hiện tượng này ở phần sau trong sự đối sánh với cõi mộng. Ở đây chỉ xin lưu ý: việc những chất liệu có tính chất tiểu sử của Tản Đà đi vào tác phẩm văn học qua cửa ngõ của cái sầu như trên cho thấy sầu là một phương tiện để cái Tôi thân thế của Tản Đà xuất hiện với tư cách là một phương diện của cái Tôi cá nhân được ý thức.
1.3 Cô đơn là một âm giai khác của nỗi sầu mà qua đó cái Tôi cá nhân trong những sáng tác của Tản Đà hiện diện. Nhà Nho trong truyền thống do ý thức về phận vị đặc tuyển của mình, do tinh thần tự nhiệm nên những nỗi “tiên ưu” (Nguyến Trãi), những cảnh ngộ “ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ” (ta có tấc lòng không biết nói cùng ai - Nguyễn Du) khiến họ không ít phen phải đối diện với nỗi cô đơn. Mạch khác của nỗi cô đơn được khơi nguồn từ cảm hứng thương thân, xót thân ở Hồ Xuân Hương, nàng chinh phụ, người cung nữ... Sự đa dạng là hiển nhiên nhưng vẫn có một mẫu số chung cho những sầu muộn cô đơn trong truyền thống: chúng thuộc phạm trù cái bi. Đấy là cái cô đơn bi phẫn, ưu uất. Đến Tản Đà, cái cô đơn đã bắt đầu có những nét mới lạ trong cách phô diễn, trong diện mạo. Diễn tả cái cô đơn, ngay cả khi bi lụy nhất, Tản Đà cũng thiên về cái réo rắt, buông lơi. Tâm sự cô đơn vì thế không nén lại, u uẩn mà thường chỉ như một hơi thở nhẹ thoát, bảng lảng: Chiều quá khách chơi về đã vãn/Gốc cây thơ thẩn một mình ngồi (Chơi trại hàng hoa), Mạch sầu canh vắng như tuôn/Nhớ ai nước nước non non bạn tình (Đêm đông hoài cảm), Những ai mặt biển chân giời/Nghe mưa ai có nhớ nhời nước non (Mưa thu đất khách)
Bắt gặp nhiều hơn ở Tản Đà là cái cô đơn trong điệu sầu man mác và không hiếm khi nó được vờn vẽ trong một khung cảnh thiên nhiên đầy gợi cảm: Con đường vô hạn khách đông tây/Ta nhớ ai mà đứng mãi đây (Quê nhà chơi mát cảm hứng), Suối tuôn róc rách ngang đèo/Gió thu bay lá bóng chiều về tây/Chung quang những lá cùng cây/Biết người tri kỉ đâu đây mà tìm (Vô đề)
Cái cô đơn ở đây rõ ràng không còn thích thú với cung bậc bi thương, chất chứa vẫn thường bắt gặp trong thơ cổ điển mà bắt đầu hướng tới cái du dương, êm ái thi vị đầy mới mẻ. Dường như bắt gặp ở đây một xu hướng mỹ lệ hóa cái cô đơn và đồng nhất nó với những cảm giác bâng khuâng mơ hồ, thậm chí là mơ mộng trong thế giới nội cảm của nhân vật trữ tình. Những nỗi sầu và cô đơn như thế khiến người ta thích thú nếm trải và khám phá. Cái Tôi cá nhân trong bước khởi đầu tìm kiếm chính mình đã hiện ra trong thơ Tản Đà với gương mặt của những nỗi cô đơn duyên dáng và tình tứ như thế. Nó báo trước cho cái tôi - cảm xúc và sự say mê đặc biệt với những cô đơn, sầu khổ của thơ ca giai đoạn tiếp theo.
2/ 2.1 Cùng với sầu là mộng. Ngay từ rất sớm, trong lời tựa cho cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình: Giấc mộng con, Tản Đà đã tự gọi mình là người mộng. Chỉ cần nhìn vào nhan đề của các tác phẩm (Giấc mộng con I và II, Giấc mộng lớn, Xuân như mộng, Nhớ mộng...) cũng có thể dễ dàng nhận thấy: cõi mộng là không gian nghệ thuật đặc trưng cho thế giới nghệ thuật của Tản Đà. Không ít lần ông bàn luận và triết lý về nó. Trong quan niệm của Tản Đà, con người sống trong hai thế giới. Thế giới thứ nhất là thế giới của những gì đã trải biết. Ông gọi đó là “cảnh ngộ ở đời”. Nhưng còn có một thế giới khác, thế giới của những cảnh ngộ: “thân thể chưa trải biết mà ý thức đã đi trước” - những trải nghiệm thuần túy chỉ có trong tưởng tượng. Đây chính là thế giới của mộng. Được gợi ý từ nhãn quan “tề vật luận” của Trang tử, Tản Đà phân biệt: “mộng là cái mộng con, đời là cái mộng nhớn”. Quan điểm về cõi mộng, một lần khác, được thể hiện đầy đủ và hệ thống hơn qua lời của Chu Kiều Oanh:
“Con người ta ở trong vũ trụ, hình thể có giới hạn mà tinh thần không có giới hạn. Cho nên lấy hình thể mà nói thời ngoài các sự vật hiện tại ở trước mắt, đều là không có; lấy tinh thần mà nói thời phàm cảm giác còn đi tới, tức không phải giả mà là chân”
Mộng trong quan niệm của Tản Đà ở đây có hai điểm đặc biệt quan trọng. Thứ nhất: mộng thuộc về cõi tinh thần, mà cõi tinh thần là “không có giới hạn”. Vậy nên, thế giới của mộng là không có giới hạn, không bị ước thúc bởi những quy tắc của thế giới hiện thực. Thứ hai: mặc dù không thuộc về thế giới hiện thực ở đời nhưng những trải nghiệm trong cõi mộng cũng là một hiện thực - nó “không phải giả mà là chân”.
Điều gì đã khiến Tản Đà quan tâm đến cõi mộng đến độ phải tường giải, thuyết minh về nó một cách trực tiếp và có hệ thống đến như thế trong tác phẩm của mình? Không thể trả lời thấu đáo câu hỏi này nếu không gắn nó với ý thức về cái Tôi. Trong tản văn của mình, Tản Đà nhiều lần triết lý về cái gọi là “thằng người”. Ông nhận thấy đó là một danh xưng cao quý và vì thế công khai giữ một thái độ khinh bạc với sự tồn tại vô nghĩa của những kẻ: “chỉ từ lúc biết ăn cơm, mỗi năm mỗi nhớn lên; lấy một, hai vợ; đẻ ba, bốn con; sống năm, sáu, bảy mươi tuổi; rồi chết, thời nghĩ hơn con lợn kia bao nhiêu?” (Thằng người). Khó chịu đến mức ác cảm với những tồn - tại - vô - nhân - xưng như thế nên dễ hiểu là Tản Đà chủ trương: con người sống ở đời phải quan tâm đến việc: “nuôi cái tài sức, theo cái ý thú, để làm xong cái phận sự mình”. Nhân vật Nguyễn Khắc Hiếu trong Giấc mộng conI khẳng định: “Nếu không có riêng một ý thú, không định được một đích hạn, thời như đội chiếc thuyền nan ra đứng trông cửa bể”. Cái ý thú, cái đích hạn ấy, Tản Đà khao khát có được nó trong cuộc đời thực. Nhưng trong khi chưa được thỏa nguyện, ông có thể tìm thấy nó, được sống với nó một cách thật thỏa nguyện trong cõi mộng. Hai thuộc tính của cõi mộng nói trên: chân thực và không có giới hạn giúp ông được sống với những gì mà mình ao ước, với những gì mà ông cảm thấy có ý nghĩa trong cuộc đời. Mộng với Tản Đà, do thế, không gì khác là những thể nghiệm bằng tưởng tượng. Không bị ràng buộc bởi những giới hạn trong cuộc đời thực, mộng là môi trường để cái Tôi cá nhân hiện diện với những dự phóng để chiếm lĩnh thế giới lý tưởng, qua đó mà nếm trải khám phá những kích thước, những chân trời mới mẻ.
2.2 Trong và bằng thơ văn, Tản Đà theo đuổi những cuộc chơi cũng là những giấc mộng của riêng mình. Ông tuyên ngôn về nó một cách tự tín và ngông ngạo: Chơi cho biết mặt sơn hà / Cho sơn hà biết ai là mặt chơi (Chơi Huế). Những cuộc chơi của Tản Đà thật đa dạng và khoái hoạt . Có cái chơi của thơ rượu đầy ngất ngưởng: Trời đất sinh ta rượu với thơ/Không thơ không rượu sống như thừa (Thơ rượu). Có cái chơi trong thú giang hồ xê dịch - ở đó cái Tôi của ông tìm thấy mình trong cảnh sắc non nước: Chơi Hòa Bình, Chơi Huế, Nhớ cảnh cầu Hàm rồng...Cái mới mẻ trong những bài thơ nói trên (dù chưa thật nhiều về số lượng) là tư thế của Tản Đà khi đến với thiên nhiên như một khách du để tìm kiếm và thưởng ngoạn cái đẹp. Cảm quan nghệ sĩ này bộc lộ rõ nhất trong những trang du ký bằng tưởng tượng của Tản Đà trong Giấc mộng con I. Những địa điểm như hồ Erié, thác nước Niagara, những chiếc quạt nước ở miền thượng lưu sông Madison...là những nơi mà Tản Đà chỉ biết đến qua sách vở. Tuy nhiên chính khao khát phiêu du để kiếm tìm và thưởng ngoạn những điều mới lạ đã khiến những trang viết của Tản Đà tràn đầy một cảm quan nghệ sĩ với những rung động mãnh liệt. Nhờ vào đó cảnh vật phương xa hiện lên sống động trong những màu sắc, âm thanh đầy quyến rũ. Phương xa hiện lên ở đây như một chân trời đầy hấp dẫn, một tiếng gọi đầy quyến rũ đối với chủ thể. Nhu cầu nhận biết về cái mới lạ đã trở thành dấu hiệu định tính của cái Tôi. Điều này khiến cho thiên nhiên trong những trang mộng ký của Tản Đà tỏ ra còn hấp dẫn và sinh động hơn cả những ghi chép theo lối kỷ thực về xứ lạ của Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác - những người dù đã trực tiếp mắt thấy tai nghe về cảnh sắc phương xa nhưng lại thiếu một cảm nhận từ lăng kính của một tâm hồn nghệ sĩ đích thực.
Hấp dẫn và say mê Tản Đà hơn cả là giấc mộng tình ái. Có cái tình bông lơn chòng ghẹo của khách đa tình trong những bài thơ Đường luật hóm hỉnh như: Nhớ chị hàng cau, Đùa cô sư, Bóp vú đau tay...Có cái tình thoảng qua trong cuộc đời bèo trôi nước chảy không ràng buộc, không trách nhiệm của người khách với Vân Anh (Thề non nước). Có cả cái tình luyến ái ngoài hôn nhân mà thanh tịnh của người tri kỷ giữa Nguyễn Khắc Hiếu và Chu Kiều Oanh (Giấc mộng con). Nét đa tình hiện lên rõ nhất trong Giấc mộng con II, ở đó bên cạnh Nguyễn Khắc Hiếu không chỉ có Chu Kiều Oanh mà còn có rất nhiều những giai nhân khác. Cùng với những mỹ nhân ấy, Nguyễn Khắc Hiếu uống rượu, theo “mệnh lệnh của mỹ nhân” mà làm thơ, nghe “Chiêu quân đánh tỳ bà, Dương Quý Phi say rượu đứng dậy múa. Tây Thi hát”. Tham lam hơn (và vì thế mà cũng thật đáng yêu) khi ông dựng nên những cảnh “Dự tiệc có hơn trăm người mà chỉ có một mình mình không phải là mỹ nhân”. Những cảnh yêu đương trong cõi mộng như trên làm phát lộ cái Tôi đa tình, tục lụy nơi Tản Đà. Con người này lên tiên không phải để thoát tục, để tìm thuốc trường sinh mà để tìm giai nhân, tìm vui, tìm ý thú của chính mình.
Tất cả những miêu tả ở trên cho thấy cõi mộng là không gian ở đó cái Tôi của Tản Đà phơi trải những dự phóng, sở thích của mình. Mộng như thế là phương tiện để thám hiểm những chân trời mới lạ trong thế giới tinh thần của cái Tôi. Đây chính là ý nghĩa mỹ học mới mẻ của thế giới ảo mộng mà Tản Đà đem đến cho văn học thời kỳ này. Bên cạnh đó thế giới mộng còn đảm nhận một chức năng khác. Theo Nguyễn Khắc Xương, Chu Kiều Oanh là hình bóng của cô gái trong mối tình đầu (cũng tên là Oanh) của Tản Đà. Cuộc tình trong đời thực, như chính Tản Đà thuật lại trong Giấc mộng lớn, đã có một kết thúc thật ngang trái. Không có được giai nhân của mình trong đời thực, cõi mộng là nơi để Tản Đà được sống và nếm trải những hương sắc ngọt ngào của thế giới tình yêu. Những mất mát trong đời thực được bù đắp, nhân vật được sống với tất cả những gì mình khao khát, mơ ước kiếm tìm. Sau này trên Nam Phong khi phê bình Giấc mộng con, Phạm Quỳnh nhận xét về Tản Đà: “thân chẳng bằng mộng nên mộng cho cam thân”. Lời lẽ không hẳn đã có sự cảm thông, đồng tình nhưng quả thật đã nói đúng một chức năng đặc biệt trong cõi mộng của Tản Đà.
3. Đâu là mối quan hệ giữa hai phạm trù sầu và mộng trong thế giới nghệ thuật của Tản Đà? Quan trọng hơn mối quan hệ này đem lại những khám phá mới mẻ nào về cái Tôi cá nhân trong những sáng tác của Tản Đà?
3.1. Trên những nét lớn, sầu và mộng là sự triển khai những cảm nhận và khám phá về chính mình của cái Tôi trong hai thế giới: hiện thực và lý tưởng hay nói theo ngôn ngữ của chính Tản Đà: trong giấc mộng lớn và giấc mộng con. Việc đặt cạnh nhau của hai thế giới này ngay lập tức cho thấy một sự tương phản gay gắt, một xung đột không thể hòa giải. Cái Tôi trong thế giới của giấc mộng con khoái hoạt, buông phóng, hăm hở, kỳ vọng bao nhiêu thì lại u uất, chán nản bấy nhiêu trong môi trường của giấc mộng lớn. Sự di chuyển giữa hai thế giới này luôn đem đến cho Tản Đà những hẫng hụt, xáo động đầy bất an bởi giữa chúng là vô vàn cách biệt. Cứ mỗi lần tỉnh giấc mộng con để trở về với giấc mộng lớn Tản Đà lại thêm một lần nuối tiếc. Nó làm nên nỗi Nhớ mộng rất đặc trưng cho Tản Đà:
Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi
Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi
Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng
Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán đời.
Cái dư vị ngậm ngùi, bàng bạc những tiếc nuối trong Tống biệt, về bản chất, cũng xuất phát từ cảnh huống tỉnh mộng và nhớ mộng này. Đặc điểm trên khiến cho cái Tôi trong những sáng tác của Tản Đà không còn là một gương mặt thuần nhất. Nó là cái Tôi ngơ ngác đi tìm mình trong sự bất hòa giữa thế giới hiện thực và lý tưởng. Tình trạng này biến nó thành một tồn tại cô đơn, nhiều ẩn khuất. Dễ hiểu là vì sao từ sau Tản Đà cái Tôi sẽ trở nên cực kỳ nhạy cảm với trạng thái cô đơn và sầu khổ trở thành nỗi đam mê đặc biệt trong văn học. Không gì khác đó chính là dung môi để cái Tôi bộc lộ mình một cách trọn vẹn nhất. Lẽ tự nhiên những khái quát trên được nhìn thấy rõ nhất trong các tác phẩm của văn học lãng mạn nhưng cũng không nên quên rằng cả trong những tác phẩm hiên thực sự mâu thuẫn giữa hiện thực và lý tưởng sẽ tiếp tục được đi sâu và thể nghiệm trong những khám phá về cái Tôi cá nhân. Thậm chí, sự thể nghiệm này không chỉ đóng khung trong lĩnh vực văn chương. Sau này, trước cái chết của Tản Đà, tất cả giới cầm bút lúc đó đều bộc lộ một sự xúc động chân thành. Người ta ngưỡng mộ một tài năng, ngậm ngùi về một đấng “trích tiên” cuối cùng nơi dương thế nhưng trong đó không phải không có ít nhiều tâm sự của những kẻ “đồng bệnh tương liên”. Bằng chính cuộc đời của mình họ thấm thía bi kịch của Tản Đà: bi kịch về sự thất thế của những giá trị đẹp đẽ trong một xã hội tư sản hào nhoáng nhưng cũng thật tàn nhẫn lạnh lùng. Khi cái Tôi ý thức về mình thì nó cũng đồng thời nhận diện một cách đầy đủ nhất những giới hạn của mình trong đời sống hiện thực.
3.2. Đâu là điểm thống nhất của cái Tôi giữa tất cả những đối lập sầu - mộng nói trên?
Trong
lời tựa cho tiểu thuyết Giấc mộng lớn, Tản Đà công khai bộc lộ quan
điểm: “...nghĩ như người ta sinh ra trong đời, không ai dễ có mấy thân,
cho nên mình yêu mình là cái tình chung của nhân loại. Một cái yêu mình
đó, không cứ đẹp hay xấu, hay hay dở, mà yêu thời cứ yêu”. Ba chữ “mình
yêu mình” chính là điểm thống nhất của ngòi bút Tản Đà khi viết về cái
Tôi của mình trong mọi biểu hiện. Ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tay Tản
Đà đã lấy tên khai sinh của mình làm tên nhân vật chính. Cả trong Giấc
mộng lớn và Giấc mộng con dù khi viết về kỷ niệm tuổi thơ, thói quen ẩm
thực hay những phiêu lưu trong ảo mộng... cái Tôi của Tản Đà luôn xuất
hiện với những chi tiết, những sở thích rất riêng tư, đôi khi vụn vặt
nhưng bao giờ cũng được thuật lại một cách đầy hứng khởi, say mê. Mọi
cảnh huống trong tác phẩm của Tản Đà chỉ là cái cớ để ông giới thiệu,
phô diễn về cái Tôi của mình. Thú vị nhất là hư cấu của Tản Đà về Chu
Kiều Oanh. Thực chất nhân vật này là một hóa thân của chính Tản Đà trong
hình hài của một giai nhân. Tình yêu, sự tán thưởng, kỳ vọng của Chu
Kiều Oanh dành cho Nguyễn Khắc Hiếu là một cách để Tản Đà bộc lộ sự say
mê của ông đối với chính bản thân mình. Có thể nói đến một Narcissism
trong những sáng tác của Tản Đà. Nhà văn công khai bộc lộ sự say mê đối
với bản thân mình, lấy cái Tôi của mình làm chất liệu cho mọi khám phá
và miêu tả nghệ thuật. Sự tôn thờ và say mê cái Tôi khiến cho Tản Đà và
các tác phẩm của ông trở nên đặc biệt khác lạ. Sự ngông nghênh của nó
khiến người ta tán thưởng nhưng cũng có không ít những dè dặt, thậm chí
là khó chịu trong tiếp nhận. Trên Nam Phong, Phạm Quỳnh bình luận một
cách phẫn nộ: “người ta phi cuồng thì không ai trần truồng đi ngoài phố.
Nhà làm sách cũng vây, không ai đem thân thế mình mà làm truyện cho
người đời xem, nhất là tự mình tán tụng cho mình thì lại càng khó nghe
lắm nữa”. Tuy nhiên, chính cái đặc điểm mà Phạm Quỳnh cực lực lên án nói
trên lại là đóng góp mới mẻ nhất, quan trọng nhất mà Tản Đà đã đem đến
cho văn học: cái Tôi - đến Tản Đà - đã trở thành đối tượng thẩm mỹ trực
tiếp và duy nhất cho sự quan sát và miêu tả của nghệ thuật.
Mặt
khác, với quan niệm: “không cứ đẹp hay xấu, hay hay dở, mà yêu thời cứ
yêu” đã khiến sự say mê cái Tôi ở Tản Đà gắn liền với sự thành thực khi
quan sát và mô tả bản thân. Như ta đã thấy ở trên, Tản Đà không hề tô
vẽ, ngượng ngập khi nói về mình ở những khía cạnh riêng tư nhất. Đây là
lý do giải thích vì sao cái Tôi của Tản Đà như hiện lên trực tiếp trong
tác phẩm với những chi tiết thuần túy tiểu sử. Sự thành thực khiến cho
cái Tôi hiện lên khi thì bông lơn, tự trào khi lại ngộ nhận một cách hồn
nhiên, đa tình mà cũng rất đa đoan với những nỗi riêng, những tâm sự.
Cái Tôi vì thế hiện lên với rất nhiều những màu sắc, rất đa dạng và cũng
rất sinh động, có hồn. Đây là cơ sở để cái Tôi bắt đầu xuất hiện trong
khuôn khổ đời thường, được xét đoán bình giá bằng thước đo của con người
bình thường. Người ta thích thú phát hiện ở nhân vật những nét đồng
dạng với mình, thích thú được trải nghiệm cùng với những kinh nghiệm
sống của nhân vật trong cuộc sống thường ngày. Chính vì thế, những thói
tật của cái Tôi nếu có, cũng dễ được cảm thông chia sẻ. Thậm chí nó còn
xuất hiện dưới dáng vẻ đáng yêu nữa. Một mặt bằng mới trong nhận thức,
quan niệm về con người, trong tiếp nhận văn học đã xuất hiện mà sự thành
thực khi quan sát và miêu tả cái Tôi trong những sáng tác của Tản Đà là
sự mở đầu đầy ý nghĩa.
Trần Văn Toàn
No comments:
Post a Comment