TRIỀU PHONG * ĐÊM ĐÔNG
Tác giả/Nhân vật: Triều Phong |28-12-2015| 29 lần xem | |
Bước ra khỏi “barrack” lòng tôi cảm thấy nhẹ nhõm như ngày xưa được thả
ra khỏi trại lao động dù chưa biết phải đi đâu. Hít một hơi thật dài,
không khí trong lành vào đầy ắp buồng phổi. Chao ôi, cái mùi của gió
biển nồng nàn thoáng qua mới thấy đã làm sao! Mùi của tự do đây mà! Cái
mùi mà tôi đã mất hơn mười bốn năm trời để đi tìm kiếm đến bây giờ mới
có được đây các bạn ơi! Đó là một ngày giữa tháng Sáu năm 1989 ở trại tị
nạn PFAC (The Philippine First Asylum Camp) của Phi Luật Tân mà tôi còn
nhớ.
Sau khi cùng Đủ, cô gái đi chung ghe, chia một ít đồ dùng xã hội của Cao
Ủy tị nạn cấp cho mỗi hai người xong chúng tôi tạm biệt để lo tìm đường
về nhà mới ở ngoài khu. Đứng xớ rớ nhìn dãy nhà lá lụp xụp và mấy con
đường nho nhỏ chằng chịt trước mặt tôi hơi hoang mang. Cúi xuống nhìn tờ
giấy đang cầm trên tay mà Ban Kế Hoạch vừa phát cho rồi ngước lên, dáo
dác ngó xung quanh. Nhà số Ba, khu Tám! Chà, không biết ở đâu đây? Một
người phụ nữ tuổi trung niên, dáng cao, gầy, có khuôn mặt đen sạm, khắc
khổ bước ngang qua. Tôi đón lại hỏi thăm.
Lần theo hướng chị ta vừa chỉ, tôi bước thấp bước cao qua các con đường
lởm chởm đá. Phi là đảo quốc do đó hầu như đất ở đây lẫn đầy đá được cấu
tạo từ vôi nên lâu ngày trở nên cứng vô cùng, đi rất đau chân. Ngang
qua mấy con hẻm nhỏ tôi thấy nhiều người đứng ngồi, tán dóc rôm rả, con
nít thì tụm năm tụm bảy vui đùa rượt bắt, hò hét inh ỏi. Bên hông nhà
người ta để lỉnh kỉnh các bình nhựa bốn lít (litre) và rất nhiều chai hũ
ngoài nắng mà tôi không biết chứa thứ gì bên trong nhưng mỗi khi có
người tới gần thì ruồi nhặng lại bay lên loạn xạ trông thật ghê rợn. Sau
này tôi mới biết đó là những bình hũ người ta dùng để đựng đầu cá, ruột
cá, cá con, cá ươn…trộn với muối, phơi nắng làm nước mắm mà hàng tháng
lúc Cao Ủy đi khám trại, ông Jun, Trưởng Ban Vệ Sinh, đã cho nhân viên
tịch thu tất cả các thứ này mang đi vứt chẳng biết bao nhiêu lần!
Khi đi ngang qua ngôi nhà đầu hẻm tôi thấy trước hàng ba có khoảng hơn
mười thanh niên đang ngồi uống bia, ở trần trùng trục cười nói oang
oang, có người mặt đỏ ngầu, mắt long lên song sọc trông thật dễ sợ. Một
người lên tiếng lúc thấy tôi:
- Nhìn ông này là biết trong barrack mới ra. Chắc ổng phải ở đây trồng hai cây dừa là ít!
Tôi biết họ muốn ám chỉ đến cái “cut off date” hai mươi mốt tháng ba năm
1989 nên phải qua CPA (The Comprehensive Plan of Action) ấy mà. Đó là
chương trình thanh lọc để xác định tư cách tị nạn của thuyền nhân đến
đảo sau ngày đóng cửa trại; một chuyện vô cùng hệ trọng mà những ngày ở
trong barrack tôi luôn nghe mọi người bàn tán với đầy nỗi lo âu sợ hãi.
Và khi dùng từ “trồng dừa” là ý họ muốn nói tôi sẽ phải ở lại đây lâu có
thể tới sáu năm vì một cây dừa từ khi bất đầu trồng đến lúc có trái là
mất đến ba năm.
Tiếng nhạc mở ra từ chiếc cassette để trên bàn sau lưng họ vang lừng cả
xóm “Sàigòn ơi, ta có ngờ đâu rằng! Một lần đi là một lần vĩnh biệt. Một
lần đi là mất lối quay về. Môt lần đi là mãi mãi thương đau. Người tình
ơi, ta có ngờ đâu rằng! Một lần đi là nghìn trùng cách biệt…Giọt nước
mắt cho anh, giọt nước mắt cho em, giọt nước mắt cho bạn bè. Lệ khóc cho
mẹ già, lệ khóc cho người tình ở lại quê hương…”
Lời ca đó lúc này nghe thật não nuột và tôi nhận ra ngay đó là bản “một
lần đi” của ca nhạc sĩ Nguyệt Ánh mà tôi thường lén lút nghe nho nhỏ qua
đài VOA khi còn ở Việt Nam. Hôm nay đây là lần đầu tiên được nghe nhạc
to lớn, công khai giữa thanh thiên bạch nhật làm tôi vô cùng thích thú
dù đang lo lắng trước hoàn cảnh hiện tại nhiều khó khăn của mình. Đúng
là được tự do thì có tất cả!
Cuối cùng tôi cũng đã tìm được ngôi nhà tôi sẽ ở. Nó nằm cạnh vòi nước
của khu, sát gần phi đạo. Nhìn cảnh người ta chen lấn sắp từng hàng dài
ngoằn với nào là xô nhựa, các bình lớn nhỏ chứa từ bốn lít tới hai mươi
lít nằm xếp lẫn lộn chờ lấy nước tôi bỗng thấy oải. Tiếng ồn ào, tiếng
người cười nói, tiếng chửi thề huyên náo cả một vùng. Tôi nhủ thầm trong
bụng “trời, nhà ngay đây thì ở sao nỗi trời!”
Tuy nghĩ thế nhưng tôi vẫn đi vào. Bốn năm thanh niên đang nằm ngồi lỗn
ngỗn trên chiếc chỏng tre ở phòng ngoài trò chuyện chợt im bặt khi thấy
bóng tôi thấp thoáng nơi nghạch cửa.
- Anh được chia vào nhà này hả? Người vừa lên tiếng hỏi là một anh thanh
niên cũng cở trạc tuổi tôi. Sở dĩ anh ta hỏi là vì anh thấy tôi tay cầm
tờ giấy đứng lóng ngóng bên ngoài thì anh ta đã đoán được tôi là
“newcomer” rồi.
- Dạ.
- Cái Ban Kế Hoạch này kỳ cục thiệt nha. Nhà này hai mươi hai người rồi
bây giờ thêm anh nữa thì anh ngủ ở đâu? Vì anh biết, tối ở chỗ này là
tám thằng, trong phòng kia là “hộ gia đinh” nên đã có một cặp, trên gác
Cao Ủy thì chín mạng bên này là gác tư nhân tức là tự người ta bỏ tiền
túi ra làm và gia đình họ có ba người…
Vừa nói anh vừa đưa tay múa vòng vòng xung quanh và giơ ngón trỏ chỉ lên
chỉ xuống. Anh nói một hơi làm tôi bối rối, mắt cứ ngó theo bàn tay
vung vẫy của anh mà cảm thấy ngượng ngùng trước sự từ chối thẳng thừng
ấy. Giải thích xong anh ta ngừng lại giây lát, tôi nhất thời chưa biết
phải làm gì trước tình cảnh bất ngờ ấy. Có lẽ như thấy được cảm giác bẽ
bàng đó của tôi người thanh niên trẻ ngồi kế bên chợt lên tiếng:
- Thôi vô đây nói chuyện chút đi, “người khách không mời” mà tới!
Nói đoạn anh ta nhích vào trong nhường khoảng trống ngoài đầu chỏng cho
tôi. Tuy biết là anh ta đùa nhưng tôi cũng cảm thấy tủi bởi hôm mới vào
barrack, ông Cao Ủy Trưởng Jan Top Christensen đã xuống thăm và cũng gọi
những người chúng tôi như vậy. Thế là tôi bước vào và sau một lúc hàn
huyên thăm hỏi nguyên quán, nơi ăn chốn ở bên Việt Nam, chuyến đi vượt
biên thế nào thì chắc có lẽ họ thấy tôi cũng không đến đổi gì nên anh
Minh, người thanh niên ban đầu, bây giờ tôi biết là chủ nhà, quyết định:
- OK, thôi ông ở đây đi. Có đồ đạc nào thì mang vào luôn!
- Dạ, cám ơn anh. Tui cũng không có gì nhiều, chỉ có hai bộ đồ và một ít thứ mới được cho thôi.
Nói xong tôi giơ gói đồ nhỏ xíu bỏ trong bao ny-lông mà ở đây họ gọi là
“bì bóng” đang cầm trên tay lên. Bổng nhiên thằng nhỏ trạc độ chín hay
mười tuổi nãy giờ ngồi im trong góc chợt cất tiếng:
- Ban ngày ở trong nhà. Tối ra ngoài ngủ làm “cứm dòi nước!”
Mọi người cười ầm trước câu nói khôi hài của nó, riêng tôi thì ngơ ngác hỏi lại:- Cứm dòi nước là gì?
Long, tên người thanh niên thứ hai, ngó qua cái cửa sổ to lớn được mở lên bằng một cây chống nhìn đám đông đang đợi lấy nước bên ngoài hất hàm:
- Cứm dòi nước là làm đại ca phân phát nước ở ngoài này nè!
- À, ra là vậy.
Tôi cười giả lả không hỏi thêm nhưng ít hôm sau tôi hiểu cụm từ ấy là “cớm vòi nước” vì đi đâu cũng nghe nói tới, và rồi tôi biết thêm được rằng đó là một cái “job thơm” bởi có rất nhiều tay đàn anh hay băng nhóm muốn thống trị chuyện chia nước này. Nếu ai giành được quyền phân phát nước cho đồng bào trong khu thì họ sẽ được tiền, được quà cáp và thậm chí còn được cả tình yêu nữa. Có nhiều tay anh chị cặp được bồ hay lấy được vợ là cũng nhờ vụ chia nước này. Do đó vì miếng mồi ngon béo bở ấy mà không thiếu gì chuyện đánh lộn hay đâm chém hoặc giành giựt đặc quyền xảy ra giữa các băng đảng. Không biết ở những trai tị nạn khác thì sao chứ tại PFAC thì đó là một ung nhọt lỡ lói mà Ban Điều Hành trại không thể chữa lành.
Trong lúc bọn tôi ngồi đấu láo thì mấy cô đi lãnh lương thực về và vào bếp nấu nướng. Đến trưa, anh Minh leo ra khỏi chỏng bước xuống đất, ngó thằng nhỏ:
- Thôi Bon dọn bàn ăn cơm đi, đói rồi. Hôm nay cho ông này “tắp đảo” một bữa luôn.
Mọi người giải tán, lục tục đứng dậy. Khi thức ăn, chén bát được dọn lên bàn, bảy tám người ngồi vào. Nhận thấy sự có mặt của mình lúc này ở đây là thừa thải nên tôi dợm bước ra ngoài thì tiếng anh Minh vang lên sau lưng:
- Ông kia hổng ăn à?
Cô gái yên lặng từ lúc tôi vào đến bây giờ mới nhỏ nhẹ:
- Ảnh đâu có hiểu “tắp đảo” là gì!
Mọi người lại cười ầm lên. Thằng Long giải thích:
- Dân vượt biên làm gì mà chẳng biết từ “tắp đảo!” Trưa nay sẳn tiện mời anh tắp đảo ăn với tụi em luôn.
Bữa cơm hôm đó gồm có cá hộp được cho thêm gia vị như hành tỏi mắm muối rồi bỏ lên chảo xào lại làm món mặn, canh đu đủ nấu với thịt heo có thêm rau muống luộc và một chén nước mắm sống nữa. Đó là buổi ăn ngon nhất của tôi sau cả tháng trời đói khát. Ăn uống no nê xong, Nhung; người con gái nấu nướng cho cả bọn lại dọn dẹp, còn mọi người lại nhảy lên chỏng ngồi tán dóc tiếp.
Riêng thằng Bon thì lăng xăng chuẩn bị sang trường AMDEV mà lâu ngày quá
tôi không còn nhớ nó được viết tắt từ những chữ gì nhưng thường nghe bà
con gọi là Êm Đẹp để học tiếng Pháp vì sắp đi Canada định cư.
Rửa chén bát xong, Nhung từ trong bếp bước ra đến gần bên anh Minh:
- Anh Be, anh Be…cho em một đồng mua đé!
Anh Minh nghiêng người, thò tay vào túi móc ra một peso** đưa cho cô
gái. Cô vói lấy cái ca nhựa đi ra ngoài, chừng độ năm phút sau thì trở
vô, trong ca có một cục nước đá. Cô rửa sạch cục nước đá rồi cho nước
lọc vào bưng lên để trên bàn trước mặt mọi người. Bấy giờ thì tôi đã
biết trong nhà này em út gọi anh Minh là anh Ba và hiểu câu cô vừa nói.
Từ đấy tôi ở đó với họ. Họ là những người đến trước ngày “cut-off” nên
đương nhiên được quyền tị nạn mà thiên hạ thường gọi là dân PA (Politic
of Asylum) và đám chúng tôi là PS (Politic of Seeker). Đa số thuyền nhân
ở trại PFAC là người từ Nha Trang đổ ra miệt ngoài, tôi sinh trưởng
trong Saigon chưa bao giờ ra Miền Trung nên đâu biết gì ngoài đó. Vì vậy
tôi nghĩ không biết những người tôi sống chung trong thời gian sắp tới
sẽ ra sao, nhưng dù là người dân ở đâu chăng nữa thì cũng đều là người
Việt Nam, có chung một cội nguồn, cùng chung một kiếp nạn, chịu chung
một số phận nên phải đùm bọc nhau như ca dao tục ngữ có câu “nhiễu điều
phủ lấy giá guơng, người trong một nước phải thương nhau cùng!” Bởi thế
nên tôi vui vẻ, hòa đồng với mọi người xung quanh mà không có chút băn
khoăn nào cả.\
Tuy nhiên mặc dầu đã đến bến bờ tự do nhưng những ngày đầu tắp đảo cũng
lắm nhiều đắng cay. Bởi một hôm đi lãnh lương thực tôi tình cờ gặp lại
mấy người quen cùng ghe tôi mới biết là mình còn may mắn vì gặp được
những người hiền và tốt chứ như chị Hạnh với đứa con gái nhỏ thì thật
tội. Ngày chị tới, các người trong nhà của chị đuổi chị ra không cho vào
khiến chị và đứa bé phải ngồi suốt buổi bên hông nhà. Chị kể lại với
tôi trong tức tưởi ngẹn ngào, nước mắt lưng tròng, cuối cùng chị đành
phải ẳm con đi tìm chỗ khác!
Đó chỉ là sự bắt đầu cho một chuỗi đau thương tiếp nối ngày sau mà đám
người quyết chí ở lại tranh đấu sống chết cho tự do của chúng tôi đã
chịu đựng. Thời ở trong trại giam Chí Hoà (T30) năm xưa tôi đã tìm cho
riêng mình một phương pháp và rèn luyện thành cách lấy “cái tịnh bên
trong mà chế ngự cái động ở ngoài” để giúp tôi tồn tại qua muôn vàn khó
khăn nên tôi rất quyết tâm, chấp nhận sự thực phủ phàng mà sống gần mười
một năm trong trại tị nạn với ý tưởng “phải vượt qua nghịch cảnh bằng
mọi giá, về là chết!”
*
Khi ổn định cuộc sống xong tôi bắt đầu đi học Anh Văn ngay. Ngoài lớp
học chính ở CADP (The Center Assistance for Displaced Persons) ra, tôi
có thể đứng bên ngoài cửa sổ của những lớp Anh Văn khác để học dự thính
suốt nhiều giờ liền. Ngày tối, tôi cứ lẩn quẩn ở các lớp học này. Phải
công nhận rằng đây là khoảng thời gian đi học thật sung sướng trong đời
tị nạn của tôi. Nếu mình chịu khó, ham học thì sẽ có rất nhiều trường
lớp cho mình đi học, vì những lớp Anh Văn của trường CADP bắt đầu từ bảy
giờ sáng tới bảy giờ đêm nên tha hồ học. Đó là chưa kể tới các lớp của
trường HTC (The Holy Trinity College,) trường của Hội Thanh Niên Việt
Nam, trường của Nhà Thờ Nữ Vương Hoà Bình, trường của Hội Thánh Tin
Lành…do các thầy cô là những thiện nguyện viên ngoại quốc tới giảng dạy,
truyền đạo…
Trong không khí được tự do như chim sổ lồng lúc ấy hầu như mọi người đều
hăng hái đổ xô đi học, đi làm thiện nguyện khắp các ban nghành đoàn thể
của người Việt tới cơ quan nước ngoài như The International
Organization for Migrant (IOM), The Community and Family Sevice
International (CFSI), hay văn phòng Cao Ủy…
Kẻ học tiếng Anh người học tiếng Pháp. Trường dạy nghề như dạy điện tử
của thầy Thanh, lớp đào tạo về thợ máy do anh Trần Tiến Nam hướng dẫn
lúc nào cũng đông nghẹt học sinh. Trường Việt Ngữ thì có thêm Việt Ngữ
Một và Việt Ngữ Hai với Ban Giảng Huấn là các thầy cô có trình độ sư
phạm dạy mọi cấp lớp nhằm giúp cho các em không bị gián đoạn nền học vấn
căn bản ở bậc trung học để các em có thể tiếp tục khi được định cư ở
quốc gia thứ ba. Đăc biệt là trong việc bảo tồn nền văn hóa theo tinh
thần “tiếng Việt còn, nước Việt còn” môn Quốc Văn được dạy theo Giáo
Khoa Thư của Bộ Giáo Dục Miền Nam trước năm 1975 cho trẻ em mà trong môn
này không ai là không biết tới Thầy Nguyễn Văn Khớ. Chính nhờ thầy dạy
dỗ, tự hào mình là người Việt Nam, “không thành công thì ắt cũng thành
nhân” mà ngày nay nhiều em đã thành tài ở hải ngoại vẫn giữ được cái hồn
của dân tộc Việt, cái tinh hoa của con Hồng cháu Lạc.
Sinh hoạt trại vào thời điểm này thật sự náo nhiệt, ai ai cũng hăng say
làm việc. Mọi người được khuyến khích tham gia hoạt động nhằm chứng tỏ
cho Cao Ủy và thế giới thấy rằng chúng ta ra đi vì các quyền tự do căn
bản của con người bị chà đạp, thậm chí như việc học vấn để trau dồi kiến
thức cũng bị phân biệt đối xữ, chứ không phải vì miếng cơm manh áo!
Bên cạnh đó các cơ sở tôn giáo cũng phát triển mạnh mẽ. Sinh hoạt tôn
giáo phong phú với các khoá Linh Thao do Cha Nguyễn Trọng Tước (tức Nhà
Văn Nguyễn Tầm Thường) tổ chức, những buổi học Kinh Thánh đều đặn hằng
đêm của Hội Thánh Tin Lành, các buổi lễ lớn của Phật Giáo như Đại Lễ
Phật Đản, Vu Lan Bồn được Chùa Vạn Đức tổ chức long trọng với đông đảo
đồng bào phật tử…đã nói lên khao khát quyền tự do tín ngưỡng. Sự mong
muốn về tự do tôn giáo mà người Việt không có dưới chế độ Cộng Sản Việt
Nam đã được tìm thấy rộng rãi ở trại tị nạn khi ấy.
Phần tôi lúc đó được các anh em đi cùng ghe bảo lãnh với chủ nhà của họ ở
Khu Một cho tôi tới “ngủ ké” chung với họ để tiện việc học hành vì các
lớp tôi đang theo học đều nằm gần đây chứ ngoài ra chủ nhà không cho tôi
chuyển tên vào nên phần lương thực của tôi vẫn ở nhà cũ. Hơn nữa ngoài
giờ học thì giờ giải lao của tôi là Thư Viện CADP cũng gần đấy bởi ở đây
có rất nhiều sách báo tiếng Việt lẫn tiếng Anh và tiếng Pháp vô cùng
giá trị trước năm 1975. Ngoài ra thư viện cũng có lắm truyện ngắn,
truyện dài, hồi ký, bút ký của những nhân vật lịch sử của Miền Nam Việt
Nam hay của các cựu tù cải tạo kể lại mà tôi rất thích thú tìm đọc say
mê hằng ngày.
Mặc dù những người sống chung nhà ở Khu Tám miễn cho tôi phiên đi lên
Ban Lương Thực lảnh vì tôi chỉ có một mình nhưng mỗi ngày tôi đều phải
lội về đó để lấy phần mình mang về Khu Một góp chung với anh em tôi cho
bữa ăn. Đi lên đi xuống giữa hai khu phải mất hơn nửa giờ đồng hồ, nhiều
hôm cầm cái cánh gà bé tí với mấy cọng rau muống hay trái đu đủ xanh bé
xíu đi dưới trời nắng chang chang hay hai ba hôm mới đến lượt mình lấy
trọn nguyên lon cá hộp tròn nhỏ bằng cùm tay em bé hai ba tuổi, không đủ
ăn trong ngày, tôi cũng chán nản thế mà Cao Ủy cứ ngày đêm dọa sẽ cắt
hết mọi thứ nhu yếu phẫm sau này nếu không chiụ hồi hương bây giờ khiến
tôi không hiểu tương lai mình sẽ ra sao nữa?
Đây có thể coi là hành động khủng bố tinh thần của Cao Ủy đối với người
tị nạn trong giai đoạn cuối mùa khiến lắm kẻ trở nên “khùng điên, ba
trợn!”
Với dáng người to, cao, nụ cười hiền từ nở trên môi, Cha đứng yên lặng
trong chiếc áo dài trắng và đôi giày tây đen nhìn tôi chăm chăm Tôi lúng
búng không biết nói thế nào vì tiếng Anh khi ấy chỉ bập bẹ còn trả lời
tiếng Việt thì không biết Cha có hiểu không nên cứ thế mà tôi bối rối
hết vò đầu lại bứt tai đúng kiểu “Vietnamese.”
- Vào đây!
Tiếng của Cha từ tốn, êm ái như ru. Nói rồi Cha nắm lấy vai tay tôi và
quay lưng kéo nhẹ đi vào Nhà Thờ Nữ Vương Hoà Bình cạnh đó. Sự lo lắng
ân cần của Cha đối với người “homeless” như tôi khi ấy khiến tôi nghe ấm
cả tâm hồn xen lẫn một chút bùi ngùi tủi thân!
Cha mở cửa thư viện của nhà thờ cho tôi vào trú ngụ như Thiên Chúa mở
rộng vòng tay đón loài người. Sau đấy lại có thêm vài người nữa cũng
được Cha tiếp tục dẫn vào. Đó là đêm không nhà đầu tiên trong đời của
tôi!
* * *
Lể Giáng Sinh năm ấy tôi đón mừng Chúa Hài Đồng xuống thế cứu chuộc nhân
loại trong sung sướng pha lẫn xót xa. Tôi vui vì được nhìn lại những
hình ảnh thân quen mà tôi từng được sống thời tuổi thơ ở Saigon. Tôi hân
hoan được hít thở lại cái không khí nhộn nhịp, thanh bình của ngày hội
lớn trên xứ sở tự do. Nhưng tôi cũng chua chát khi cảm thấy lẻ loi giữa
những người đang hạnh phúc cùng gia đình người thân ở đây. Nhìn họ tôi
bỗng nhớ tới cha mẹ và em gái tôi vẫn còn ở quê nhà. Bên Việt Nam họ giờ
này làm gì được hưởng mùa Giáng Sinh vui vẻ như tôi ở chốn này?
Để đón chào dòng người đông đảo đổ xô đến và nhằm làm giảm tình hình
căng thẳng trong trại, Ban Điều Hành Nhiệm Kỳ 30 do cựu Thông Dịch Viên
Trần Phi làm chủ tịch đã phát động mừng Chúa Giáng Sinh năm 1989 bằng
cách cấp một ít ngân khoản cho mười hai khu để làm hang đá Đức Mẹ và sẽ
có một ban giám khảo đi từng khu chấm điểm. Khu nào đạt điểm cao nhất sẽ
được nhận một số tiền và quà.v.v…làm trại nhộn nhịp hẳn lên.
Đêm Giáng Sinh, trong ban giám khảo đi chấm điểm có ông Chủ Tịch Trần
Phi cùng với đại diện của các ban nghành đoàn thể, Sister Carina, Sister
Thomasa, Cha Crawford, Đại Đức Thích Thông Đạt…cùng một đám đông đồng
bào và trẻ nhỏ đi sau cổ vũ, hát hò.
Sau khi nhà thờ đã hoàn tất thánh lễ lúc nữa đêm, người ta tụ tập về nhà
cùng nhau ăn “réveillon,” nhạc Giáng Sinh được mở vang lừng các khu, ồn
ào cả trại. Tôi không có thân nhân giúp đỡ nên chẳng có tiền bạc gì để
tiệc tùng như thiên hạ nên nằm đìu hiu trên gác Cao Ủy ngó mông ra màn
đêm bao la qua khung cửa sổ nghĩ vẫn vơ. Trên trời cao những vì sao nhấp
nháy như nhảy múa nhưng không làm tôi vui hơn.
“Chiều chưa đi màn đêm rơi xuống, đâu đấy buông lửng lờ tiếng chuông.
Đôi cánh chim bâng khuâng rã rời….thời gian như ngừng trong tê tái, cây
trúc lá nghiêng theo chiều mây…đêm đông, xa trông cố hương buồn lòng
chinh phu. Đêm đông, bên song ngẫn ngơ kìa ai mong chồng. Đêm đông thi
nhân lắng nghe tâm hồn tương tư …gió nghiêng chiều say, gió lay ngàn
cây….Đêm đông ôi ta nhớ nhung đường về xa xa. Đêm đông, ta mơ giấc mơ
gia đình yêu thương…Đêm đông, ta lê bước chân phong trần tha phương. Có
ai thấu tình cô lữ đêm đông không nhà.”
Tiếng ai như tiếng của ca sĩ Bạch Yến hát bài “đêm đông” của nhạc sĩ
Nguyễn Văn Thương văng vẳng vang ra từ chiếc cassette của chị Lan ở vách
sau nhà nghe nức nỡ không sao tả xiết. Lời ca não nùng, tiếng hát đau
thương đứt đoạn khiến tôi chạnh lòng nhớ cố hương rồi buồn cho thân phận
mình.
Những ngày này trong trại lúc nào cũng tưng bừng náo nhiệt. Hầu như mọi
nhà đều có cây thông do đồng bào vô rừng tìm, lựa cây nào tốt đẹp nhất
chặt đem về rồi mua bông gòn quấn lên các cành cây đoạn giăng dây đèn
“multi color mini-lights” khiến cho không khí Giáng Sinh rộn hẳn lên.
Nhìn mọi người vui vẻ đón Chúa trong bình an, gương mặt của Cha Crawford
rạng rỡ và hạnh phúc hơn.
Ngày xưa, Cha Crawford làm việc ở Việt Nam, chuyên lo cho các trẻ em mồ
côi và tàn tật. Năm 1975, Cha đã đưa một trăm ba mươi em cô nhi về Mỹ
chữa bệnh. Chiến tranh chấm dứt, Miền Nam thua cuộc, Cha về lại Hoa Kỳ.
Khi làn sóng thuyền nhân bỏ nước trốn chạy cộng sản bùng phát, Cha vội
vã sang Bornéo giúp người tị nạn từ năm 1977. Mười năm sau Cha được
chuyển tới PFAC, Phi Luật Tân cho đến lúc trai đóng cửa. Trọn đời Cha đã
hy sinh để lo cho người Việt Nam.
Tình yêu thương người Việt của Cha âm thầm nhưng được thể hiện rõ ràng
hơn bằng hành động mà sau này nhờ nhiều lần tiếp xúc với Cha tôi đã được
chứng kiến như trong lần Phật Giáo phát động biểu tình ngồi bất bạo
động để chống thanh lọc bất công suốt sáu mươi lăm ngày đêm. Cuối cùng
Cao Ủy phải yêu cầu thủy quân lục chiến của Bộ Tư Lệnh Miền Tây với dùi
cui và vòi rồng của xe cứu hỏa tới giải tán. Đoàn biểu tình chống lại
kịch liệt ngay trước Hang Đá Đức Mẹ. Chính Cha Crawford là người đã dùng
búa tạ đập vỡ ổ khóa cổng Nhà Thờ Nữ Vương Hoà Bình cho dân chúng tràn
vào để chấm dứt cuộc giả tán bằng bạo lực vì Cha không can tâm nhìn
chúng tôi bị đánh đập tơi tả, bị vòi nước mạnh thổi bay như những chiếc
lá, ướt sủng trong máu và nước mắt!
Hành động ấy của Cha đã bị Bộ Tư Lệnh lên án mạnh mẽ. Tướng Tanega, tư
lệnh vùng, đã mời Cha sang Bộ Tư Lệnh để bày tỏ sự phản đối dù rằng Cha
là Cha Tuyên Úy của họ. Cha thì chỉ giải thích rằng Cha làm theo ý Chúa
mà thôi.
Tôi còn nhớ có một ngày, Cha đi bộ sang chùa cách đó không xa để gặp tôi
và anh Thiên, Phó Ban Trị Sự Chùa Vạn Đức và Ngài ngỏ ý muốn đưa Sư Cô
Thích Nữ Diệu Thảo sang nhà thờ lánh nạn bởi từ những nguồn tin Cha thu
thập được thì Ngài biết Bộ Tư Lệnh Miền Tây muốn bắt Sư Cô trong chiến
dịch cưỡng bức hồi hương. Đêm đó tôi và Minh Nhí, một người em bên Thanh
Niên Công Giáo và cũng là tay trống của trại, đã âm thầm hộ tống Sư Cô
vô nhà thờ bằng ngỏ sau đối diện với Khu Một. Tại đây, Cha đã sắp xếp
sẳn dưới nền nhà một chỗ nằm cho Sư Cô trong gian phòng nhỏ. Trưa hôm
sau khi bọn tôi đang ngồi chơi dưới bóng cây sứ trước sân chùa thì thấy
Cha từ phố chạy về. Phía sau chiếc xe gắn máy màu đỏ Cha thường đi có
cột một chiếc giường xếp (folding bed) mới tinh. Lúc chạy ngang qua
Chùa, Cha nhìn chúng tôi cười cười. Nụ cười đầy ẩn ý ngày đó có ai biết
ngoài chúng tôi? Đó là chiếc giường Cha mua cho Sư Cô trong những ngày
tá túc ở nhà thờ. Hôm nay đây tôi muốn ghi lại giai thoại này để nói lên
tình yêu thương của Cha đối với người Việt Nam. Sự hài hòa giúp đỡ lẫn
nhau giữa đạo Công Giáo và Phật giáo Việt Nam bên trại tị nạn ngày đó.
Sự tương trợ kính trọng lẫn nhau ấy đẹp đến nỗi mà Cha Nguyễn Trọng Tước
đã phải thốt “tôi chưa thấy Phật Giáo và Công Giáo Việt Nam ở đâu mà
thương nhau bằng ở đây. Nhà Chúa bên cạnh nhà Chùa!”
Tiếc rằng những ngày cuối cùng của trại, vì sức mạnh của đồng tiền mà
người ta đã làm cho hai tôn giáo này bị rạn vỡ từ chuyện “Lập Làng Việt
Nam!”
* * *
Vào ngày chúng tôi kéo nhau lên phi đạo ngăn cản không cho chiếc Airbus
320 chở đồng bào bị cưỡng bức hồi hương vào năm 1996 thì khi hay tin dữ
ấy Cha đã chạy theo chúng tôi cùng với phóng viên Bảo Vũ của đài BBC
đang có mặt ở trại lúc đó để làm phóng sự cưỡng bức hồi hương thuyền
nhân.
“Go home, Father! Go home now! If you dont go, I will shoot you right
away!” Đó là lời mà một người lính trẻ chĩa súng vào Cha và quát ầm ĩ
trên phi đạo trước mặt tôi.
Nhưng Cha chỉ bước giật lùi mấy bước rồi đứng yên lặng, nhún vai nhìn
tôi rồi nhìn anh ta mỉm cười đôn hậu. Sau này gặp lại tôi trong trại Cha
nhắc lại chuyện này và nói sỡ dĩ Cha có mặt với chúng tôi lúc đó là vì
Cha muốn nói với các người lính rằng “hãy thương họ! Họ chỉ là những
người tị nạn khốn khổ thôi, bởi Chúa Giêsu cũng từng là người tị nạn kia
mà!” Nghe Cha nói mà tôi cảm thấy xúc động làm sao trước tấm chân tình
của Ngài đối với chúng tôi
Năm 1998, Chùa Vạn Đức được dời lên Merville ở thành phố Pasay. Khi hay
tin Cha đang nằm trị bệnh ở một bệnh viện ngoài Manila, tôi đã cùng Sư
Cô Thích Nữ Diệu Thảo, anh Trần Tiến Nam, anh Lê Bảo Thiên đến thăm Cha.
Ngài đã rất vui khi gặp chúng tôi, ân cần hỏi thăm đời sống của từng
người sau ngày trại bị giải tán. Cha bảo là Cha nhớ chúng tôi lắm và
Ngài đã xúc động nghẹn ngào khi chúng tôi từ biệt ngài ra về. Nhưng tôi
không ngờ đó là lần cuối cùng tôi gặp Cha bởi sau này trong khi tôi phải
vất vã vật lộn để mưu sinh kiếm sống nên không hay Cha đã được đưa về
Mỹ và về với Chúa vào tháng Ba năm 1999 tại Philadelphia.
Bao năm qua rồi nhưng hình ảnh của Cha Crawford mãi mãi ở trong tôi dù
bây giờ Cha đã về theo tiếng gọi của Chúa. Hôm nay đây tôi vẫn thật sự
bùi ngùi thương cảm mỗi khi nghĩ đến Cha. Vị ân nhân của người tị nạn!
Vị Thiên Sứ của lòng nhân ái!
* * *
Năm nay thời tiết thật lạ, dù đã sắo tới Giáng Sinh mà OH vẫn không có
tuyết và ít lạnh. Vào một sáng chủ nhật, nhiệt độ chỉ khoảng 28 độ F, từ
Beavercreek tôi đi freeway 675 S về nhà. Sau khi vô Exit số Hai và
ngừng lại ở đèn đỏ để vào 725 W tôi bỗng thấy một người homeless đứng
cầm tấm bảng “no house, need food” khiến tôi áy náy. Tôi không đoán được
ông ta bao nhiêu tuồi và người ra sao vì ông ta râu ria xồm xoàm, mặc
nhiều quần áo bẩn thỉu lại đội nón xùm sụp lúc đến gần khi tôi hạ kính
xe biếu ông vài đồng.
Chạy được một khoảng khá xa rồi nhưng tôi vẫn bần thần nghĩ ngợi về
người homeless nọ. Tôi biết, người ta vẫn thường xuyên khuyến cáo không
nên giúp những người vô gia cư này vì đa phần họ là các phần tử xấu. Họ
có nơi ăn ở do chính phủ lo nhưng chẳng qua họ muốn ở ngoài thoải mái và
để sống theo ý họ hơn nên chẳng chịu vào. Tuy hiểu vậy nhưng tôi vẫn
ray rứt, đau lòng khi thấy họ lang thang trên đường phố vì đó là hình
ảnh của tôi ngày xưa. Tôi cảm thấy có tội mỗi lần tôi gặp họ mà không
giúp được gì nhất là trong hoàn cảnh đặc biệt mới của thế giới ngày nay
khi người homeless càng lúc càng nhiều !
Biết rằng chỉ quan tâm và cầu nguyện cho họ thì không đủ nhưng trong mùa
Giáng Sinh sắp tới tôi vẫn mong mọi người hãy đồng tâm xin Chúa ban ơn
cho những kẻ không nhà sức mạnh và may mắn để vượt qua cái lạnh của mùa
đông và vượt qua số phận!
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm!”
Miamisburg, ngày 22 tháng 12 năm 2015Triều Phong TPN
Nguồn Việt Báo
Chú thích:
*: mượn một câu trong nhạc phẩm “đêm đông“ của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương.
**: đơn vị tiền tệ của Phi Luật Tận.
TRẦN VĂN * TÙ CỘNG SẢN
NHỮNG NGÀY ĐẦU VÀO TÙ
TRƯỜNG TRUNG HỌC PÉTRUS TRƯƠNG VĨNH KÝ
Theo thông báo của kẻ cưỡng chiếm miền Nam từ ngày 30.4.75, theo lời
cộng sản nói, những thành phần "có nhiều nợ máu" phải trình diện 3 ngày
13, 14, 15 tháng 6 năm 1975 (tôi có thể nhớ sai ngày dương lịch), nhưng,
chắc chắn là trong 3 ngày trình diện đó có ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch
năm Ất Mão, vợ chồng chúng tôi trình diện vào buổi chiều ngày này.
Cư ngụ ở quận 8 nên chúng tôi trình diện một lúc với các anh em khác
cùng cấp bậc Thiếu tá ở các quận 6, 7 (hình như có thêm quận 9 mới thành
lập không lâu ở bên kia sông Sài Gòn - Thủ Thiêm) tại trường Trung học
Pétrus Trương Vĩnh Ký ở đại lộ Cộng Hòa (VC gọi trường này là Lê Hồng
Phong). Còn những qúy vị khác tùy theo cấp chức trình diện ở các địa
điểm khác, hầu hết là các trường học. Thông cáo của kẻ cưỡng chiếm miền
Nam nói rõ là chúng tôi phải mang theo tư trang (đồ dùng cả nhân) và
đóng đủ tiền ăn 1 tháng, khoảng trên 13 ngàn mấy trăm (bằng 1/3 lương
của một Thiếu tá. Sau đó, trình diện đi tù đợt 2: sĩ quan từ Đại úy trở
xuống đóng tiền ăn 10 ngày…).
Sĩ quan cấp Thiếu tá trình diện ở trường Trung học Pétrus Ký ít hơn các
nơi khác, trên dưới 100 người, vì các quận 6,7,8… nằm ở ven đô - Thủ Đô
Sài Gòn. Người nữ quân nhân duy nhất tại điểm tập trung này, Thiếu tá
Trần Thị Bích Nga, Chỉ Huy Trưởng Trường Xã Hội Quân Đội (trường nằm
trong Trại Lê Văn Duyệt của Biệt Khu Thủ Đô). Thật đúng là hoa lạc giữa
rừng gươm tua tủa của hai phía ta và địch.
Ngày đầu tiên trình diện, chúng tôi được “cách mạng” cho thưởng thức
cách trị bệnh thần sầu quỷ khốc, nằm dài trên ghế học trò, được nhỏ nước
tỏi tươi nồng nặc vào hai lỗ mũi. Ngày sau, truớc khi có “lệnh hành
quân” chuyển đến trại tù chính , chúng tôi được nhà hàng sang trọng Ngọc
Lan Đình ở Chợ Lớn đưa bàn ghế tới, cứ 10 người một bàn như “nhập đại
tiệc”, có đến 7 món ăn mà chúng ta thường gặp trong các tiệc cưới… Khi
nhân viên nhà hàng thân quen Ngọc Lan Đình đến “thết đải”, tự dưng tôi
chảy nước mắt vì tháng 2 năm 1962, khi tôi được các giáo sư và nhà
trường Phước Kiến (266 Đại lộ Khổng Tử, sau đổi tên là trường Phước
Đức.Vụ Tết Mậu Thân, trực thăng xạ kích lầm nơi này làm chết và bị
thương nhiều sĩ quan cấp tá) tổ chức một bữa tiệc linh đình để tiển đưa
tôi nhập ngũ khoá 13 Thủ Đức tại nhà hàng Ngọc Lan Đình. Lúc bấy giờ tôi
là Giám học trường trung học này [kể cả học sinh trung tiểu học có
(3000 hay 5000 em?), học 2 thứ tiếng Việt và Tàu mà tôi làm Giám học đặc
trách về các môn học Việt ngữ, Tiến sĩ Tăng Kim Đông làm Hiệu trưởng,
sau TS Đông làm Tổng Trưởng Giáo dục thời Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc]. Tôi
được TS Tăng Kim Đông mời phát biểu lời từ giã, sau vài lời cám ơn giáo
sư và nhà trường, tôi sực nhớ đến 4 câu thơ xưa của Tàu và lên giọng
to:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngọa sa trường quân mạc vấn
Cổ lai chinh chiến kỷ nhơn hồi.
Tự nhiên tôi chảy nước mắt và khi đó có một giáo sư người Hoa rất qúy
mến tôi, anh cảm kích đọc lại bài thơ này bằng tiếng Hoa (Quan Thoại),
cả thực khách đến mấy trăm người dự tiệc như lắng đọng, cảm kích chia xẻ
với tôi “cổ lai chinh chiến kỷ nhơn hồi”. Đó cũng là dấu ấn khó quên
trong đời đi dạy học của tôi từ tiểu học đến trung học. Sau hơn 13 năm
đi lính, nay cũng chính nhà hàng Ngọc Lan Đình đãi tiển chúng tôi vào
một ngày mai mờ mịt…nên tôi xúc động thật sự. Bài thơ tứ tuyệt ấy lại
đến với tôi và câu cuối cổ lai chinh chiến kỷ nhơn hồi, 13 năm trước cho
đến ngày vào tù, tôi vẫn sống và thăng quan tiến chức. Tôi như thầy bói
suy luận, biết đâu câu thơ này sẽ vận vào cuộc đời ở tù của tôi từ đây…
Trình diện “học tập cải tạo”, một danh xưng bịp của bọn CSBV mà chúng
tôi tự ý đưa thân nạp mạng cho loài quỷ dữ, đúng ngày Tết Đoan Ngọ, mồng
5 tháng 5 năm Ất Mão (1975).
Hai vợ chồng đèo trên 1 chiếc xe đạp, người tài xế trung thành của bà xã
tôi, từ Hóc Môn đạp xe xuống để tiển đưa. Khi chúng tôi mang ba lô vào
cổng trường Pétrus Ký, chú Nhuận tên người tài xế thân thương trung
thành đó, một tay lái xe, một tay cố kềm đưa chiếc xe đạp thứ hai về
nhà. Chúng tôi ở khu lao động, dốc cẫu Chữ Y, đường Hưng Phú - đường đi
đến lò heo Chánh Hưng,. Bốn đứa con nhỏ của chúng tôi, từ 3 đến 9 tuổi,
được cha mẹ chúng để lại chiếc xe đạp làm phương tiện và là một tài sản
sau cuộc đổi đời này.
Viết đến đây, ký ức của tôi bỗng nhiên như thấy cảnh tượng hoang mang, lo sợ, giao động của hơn 38 năm trước như hiện rõ.
Khi Thủ Đô Sài Gòn thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Dương
Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, thời mạt vận của chánh thể VNCH
đã ập đến nhanh quá. Nỗi nhục nhã ê chề của những người lính từng cầm
súng chống quân xâm lược cộng sản Bắc Việt, nay đến thời điểm lâm vào
cảnh cá chậu chim lồng. Tất cả chiến sĩ anh hùng của QLVNCH phải buông
súng và sống trong cảnh phập phồng. Chúng tôi chờ đợi kẻ thù công bố
chính sách đối xử với tù hàng binh mà CSBV rêu rao ra rả hàng ngày trên
các hệ thống truyền thông suốt 2 tháng 5 và 6.1975. Sự phập phồng, lo âu
như cảnh tượng quân Khơ Me đỏ sau những ngày tiến chiếm Thủ Đô Pnom
Penh (Nam Vang) nhốt và giết sạch kẻ thù của chúng. Ý nghĩ này đã xâm
nhập vào tâm tư tình cảm của mọi người, một tương lai mờ mịt u buồn, thê
lương tràn ngập trong suy nghĩ của từng người từng gia đình mà gia đình
chúng tôi cả hai vợ chồng đều là lính, bốn đứa con nhỏ dại sẽ nương tựa
vào đâu để sống?.
THÀNH ÔNG NĂM – LIÊN ĐOÀN 5 CÔNG BINH KIẾN TẠO
Một trăm thiếu tá trình diện ở trường Pétrus Ký, khi chuyển đến thành
Ông Năm ở Hóc Môn (bản doanh của Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo) được
chia thành 2 đội 34 và 35. Tôi ở đội 34, đội 35 có 5 Y sĩ Thiếu tá. Bà
Thiếu tá Bích Nga nhập cùng với quý chị cấp tá khác ở đội nữ, cách đội
34, 35 chỉ một con đường và gần sát hàng rào kẽm gai. Hàng ngày, chúng
tôi có thể trông thấy nhau dùng ánh mắt chia xẻ sự lo âu sâu xa về tương
lai của 4 đứa con nhỏ dại…
Những ngày đầu, nhiều chuyện quan trọng đã xảy ra tại lán của đội 34 và 35 ở trại tù Thành Ông Năm – Hóc Môn:
Chuyện khó tin, nhưng có thật, một tên cán bộ y tá, mặt rỗ khá rõ đến
lán đội 34 và 35, tập hợp 5 ông thiếu tá bác sĩ Quân Y, dẫn ra khỏi lán
bảo đứng nghiêm, 5 ông là bậc thầy của chúng, nghe tên cán ngố này giảng
về vệ sinh phòng bệnh… Hắn dẫn 5 ông bác sĩ tội nghiệp của chúng ta
phải đi xem “thanh sát” các đường mương, nhà cầu, cách làm sạch các chỗ
này. Chưa hết cán ngố còn chỉ bảo cách chửa bệnh nữa cơ làm 5 ông bác sĩ
phe ta cứ ngẫng mặt mà nhìn chịu trận, nín thở qua sông. Về lán, anh
bác sĩ Tôn Thất Thận (lớn tuổi nhất trong 5 ông BS) nằm gần tôi, kể lại
cho chúng tôi nghe mà cùng nhau cười ngất.
Chuyện mà tôi cũng khó quên, anh Hoàng Xuân Định (hiện ở San Jose),
Thiếu tá Quân Cụ, anh em thúc bá với Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, nguyên
Tư Lệnh QĐ1 & QK1, đứng ra nhận lãnh chức Trưởng Ban Văn Nghệ của
trại tù Thành Ông Năm (Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo do Đại tá Dương
Công Liêm làm Liên Đoàn Trưởng). Không biết ai giới thiệu với anh Định,
chọn tôi vào ban văn nghệ, xung vào thành phần đóng kịch vì hát xướng,
giọng vịt đực của tôi bù trất. Sở dĩ, tôi chấp nhận sự chọn lựa này vì
hoàn cảnh bi đát của tôi, vợ chồng đều bị đi tù, ở gần nhau mà chẳng nói
được lời nào với nhau. Tôi luôn bị ám ảnh tình cảnh 4 đứa con nhỏ dại
làm sao mà sống với bà mẹ vợ già cả và thường bị nhiều thứ bệnh. Hơn
nữa, trước khi đi tù, có tin, nhà đang ở của gia đình sẽ có một tiểu đội
bộ đội CSBV “xin” được đến đóng chốt, làm sao mẹ vợ của tôi từ chối,
các con chúng tôi sẽ chịu cảnh ở chật chội, mất tự do. Tôi cần phải làm
cái gì để tạm quên sự lo âu dằn vặt đang ăn sâu vào tâm trí, tôi vào đội
văn nghệ để giết thì giờ.
Suýt chút nữa, ban văn nghệ của anh Hoàng Xuân Định được cách mạng
“chiếu cố” cho vào cùm. Với vỡ hài kịch mà anh Định viết nói về những
ngô nghê, ngu dốt của đám khỉ từ rừng mới về Sài Gòn hoa lệ làm cuộc đổi
đời, dân chúng từ sung túc xuống bần cùng. Dù anh Định viết rất khéo,
nhưng đến buổi phúc khảo, có người trong phe ta làm ăng-ten lập công
(nghe anh em kể lại) phân tích tỉ mỉ cái ý nghĩa của vỡ hài kịch “trình”
với cán bộ “răng đen mã tấu” ngu dốt “đì” chúng tôi. Nhưng, lúc đó cán
bộ cộng sản còn “nới tay” vì mới chiếm Sài Gòn, lòng dân còn nhiều hoang
mang và người “tù cải tạo” vừa đóng tiền nhập trại tù chưa lâu nên toán
văn nghệ chúng tôi thoát hiểm “trong đường tơ kẽ tóc” chỉ bị cảnh cáo
dằn mặt và đuổi về đội.
Chính đội 35 “nổi tiếng” vì có hai chiến sĩ can đảm anh hùng nhất của
chúng ta lúc bấy giờ. Ai bị nhốt ở Thành Ông Năm thời điểm đó đều nghe
danh 2 Thiếu tá của QLVNCH là anh Quách Hồng Quang, cư ngụ ở vùng cầu
Nhị Thiên Đường, Tiểu Đoàn Trưởng Biệt Động Quân ( tôi không nhớ rõ: TĐ
42 hay TĐ 44, có tên là Cọp Xám hay Cọp Ba Đầu Rằn, 2 tiểu đoàn vang
danh anh dũng của vùng đồng bằng sông Cửu Long-V4CT, cộng quân khiếp
sợ). Người thứ hai là Thiếu tá Phạm Hữu Thịnh, đơn vi cuối thuộc Ban
Liên Hợp 4 Bên ở Sài Gòn, anh gốc là An Ninh Quân Đội, cư ngụ ở Dạ Nam
Cầu Chữ Y. Cả hai chiến sĩ anh hùng của chúng ta đã can đảm “trốn trại”
đầu tiên, tìm đường vượt thoát khỏi cảnh tù đày nhục nhã vào một đêm có
gần nửa vành trăng trên bầu trời. Đây là vụ trốn trại đầu tiên khi CSBV
lùa quân cán chính VNCH vào rọ tù của chúng, có thể nói là vô tiền
khoáng hậu mà tôi chứng kiến.
Tôi chơi rất thân với hai anh Quang, Thịnh, vốn tôi quen biết anh Quang
từ miền Tây, lúc ấy tôi là sĩ quan báo chí của QĐ4 từng theo ông Tướng
Tư Lệnh QĐ4 đến thăm viếng đơn vị khi anh Quang còn là Trung đội trưởng.
Anh Thịnh ở phía bên kia cầu Chữ Y, gia đình tôi ở phía bên này cầu Chữ
Y, cả hai anh đều nhỏ hơn tôi 5-6 tuổi và tốt nghiệp trường Sĩ Quan Thủ
Đức sau tôi nhiều khóa. Hai anh Thiếu tá trẻ này xem tôi là niên
trưởng, năm 1975, tôi đã qua tuổi 40.
Trước khi thực hiện chuyện phi thường, liều lĩnh, anh Quang bị đau liên
tiếp nhiều ngày, tôi có tặng nhiều viên thuốc cảm và trị sốt rét mà anh
Quang cần. Còn anh Thịnh, hàng ngày mải mê tập thể dục, anh Thịnh còn tự
chế một cái tạ để tập, hai tay của anh cơ bắp nổi lên cuồn cuộn. Một
lần, tôi hỏi, anh Thịnh nói tôi tập tạ nhằm luyện cho thật khỏe 2 tay để
có ngày sử dụng và ngày ấy là ngày N, giờ G, giờ định mạng của cả hai
anh Quang và Thịnh?.
Khoảng từ 12 giờ khuya đến 2 giờ sáng của một đêm có mưa lất phất, trên
nền trời và cảnh vật, ánh trăng sáng lờ mờ, hai anh Thịnh và Quang đi ra
hướng cầu tiêu ở gần hàng rào kẽm gai, chọn thời điểm thích hợp này
thực hiện cuộc vượt thoát. Nhiều tiếng súng nổ vang trong đêm khuya vắng
lặng và tiếng kẻng báo động vang dội khắp nơi xa gần, đánh thức mọi
người. Tôi choàng ngồi dậy bước ra cửa coi xem có chuyện gì xảy ra, lính
tráng đơn vị canh gác trại tù này, rầm rập chạy với súng cầm tay la hét
om sòm, bảo phải tắt đèn và mọi người ở trong lán không được đi ra
ngoài…
Sáng hôm sau, cán bộ quản giáo cho biết có 2 anh trốn trại thuộc đội 35,
một anh bị bắn chết tại vòng rào trại, một anh bị thương và bị bắt đang
nằm ở y xá. Trong những ngày kế tiếp, chuyện trốn trại của 2 anh Quang,
Thịnh đã được sáng rõ thêm. Khi quản giáo hỏi đội 34 và 35 có anh nào
đem thức ăn cho anh Thịnh đang bị thương, không ai lên tiếng. Tôi tình
nguyện mang thức ăn chánh thức của trại đến tiếp tế cho anh Phạm Hữu
Thịnh. Sau khi mỗ lấy viên đạn còn ghim trong người ra, nay hồi tĩnh,
anh Thịnh lại bị nhốt trong 1 connex, để gần chòi gác, còn bi thảm hơn,
ngày thì nóng như thiêu như đốt, đêm khuya lạnh lẽo đến tận xương tủy.
Mỗi lần đưa thức ăn đến anh Thịnh, trong đầu, tôi xếp sẵn những câu hỏi,
phải thật nhanh và ngắn gọn vì lính gác trên chòi canh lúc nào cũng
nhìn theo dõi tôi khi mang thức ăn đến connex. Nhờ vậy, tôi biết được
khá nhiều về gia cảnh Thịnh, anh còn bà mẹ già, vợ anh gốc người Hoa.
Anh Thịnh còn cho biết sở dĩ anh bị bắn trọng thương vì anh quay lại cứu
bạn mình, anh Quang, quần áo đang bị vướng dây kẽm gai mà anh gỡ ra còn
nhùng nhằng. Lính gác trên chòi canh phát hiện bắn anh Quang nhiều phát
đạn, anh bị thương và nằm dán chặt vào hàng rào. Trong khi anh Thịnh đã
chạy đến cây mít (chúng tôi thường thấy các chị ở Sài Gòn lên kiếm thăm
chồng? đứng lấp ló ở khu cây mít này), cách hàng rào trại chừng trăm
mét. Vừa tới hàng rào dây kẽm gai, anh Thịnh nghe tiếng súng nổ liên hồi
vội quay lưng chạy và một viên đạn cấm vào lưng anh, té qụy. Theo lời
anh Thịnh kể vắn tắt, anh Quang chỉ bị thương còn sống và cái áo của anh
còn dính với mấy móc kẽm gai, đám cán độ trại đến nả bồi thêm vài tràng
đạn nữa, kết liễu đời oanh liệt của một chiến sĩ BĐQ ưu tú can trường
QLVNCH, Quách Hồng Quang, lúc nào 2 chữ sát cộng cũng đến với binh chủng
anh dũng này.
Nếu gia đình chị Thịnh may mắn được sang định cư ở Hoa Kỳ, xin liên lạc,
tôi kể lại những ngày cuối cùng của anh Thịnh từ Thành Ông Năm ở Hóc
Môn cho đến trước 1 ngày anh Thịnh bị xử bắn tại trại Suối Máu - Biên
Hòa mà tôi “làm gan” trò chuyện với anh đang ngồi hớt tóc. Anh Thịnh
linh cảm sẽ khó sống vì đám cán bộ chấp cung thường tỏ vẽ muốn giết anh
để dằn mặt đám tù còn lại. Anh Thịnh còn nhân mạnh với tôi, CSBV tàn ác
lắm, chúng muốn giết anh, khi mỗ lấy đạn không có thuốc tê, thuốc mê gì
cả. Anh đau đớn quá chết ngất không còn biết gì nữa, chúng muốn làm gì
thì làm, may mà anh còn sống đến ngày bị xử bắn.
Thành Ông Năm ở quận Hóc Môn, trại tù đầu tiên đã nhốt chúng tôi, nhưng
trại này chỉ là trại trung chuyển, sau mấy tháng lại chuyển tất cả bò
tứ, bò ngũ (thiếu tá, trung tá) về Suối Máu. Đây là doanh trại của Trung
tâm giam giữ tù phiến cộng của Quân Khu 3 để trao trả với phía bên kia.
Cũng chính trại tù Thành Ông Năm, sau ngày ra tù, một bác sĩ Quân
Y/QLVNCH, Y sĩ thiếu tá Trần Đông A, đã làm cho nhà cầm quyền cộng sản
khiếp phục vì tài mổ 1 cặp song sinh dính lại mà nhiều nước, lúc bây
giờ, thập niên 80 không dám mỗ tách ra. BS Trần Đông A nhờ đào tạo dưới
chánh thể VNCH đã tiến hành ca mỗ thành công và đến nay BS Trần Đông A
vẫn là một trong những bác sĩ giỏi và nổi tiếng nhất của Việt Nam.
TRẠI TÙ SUỐI MÁU
Từ Thành Ông Năm ở Hóc Môn chuyển về Suối Máu, con đường dài 40 -50 cây
số, với đoàn xe quân sự có hộ tống nghiêm chỉnh, theo lẽ di chuyển một
tiếng hay tối đa 2 tiếng đồng hồ là đến nơi rồi. Đàng này, chúng tôi
phải “khẩn trương” tập hợp hành quân từ 6-7 giờ tối mãi đến hơn 7 giờ
sáng hôm sau mới trại Suối Máu – Biên Hòa. Mỗi lần di chuyển là mỗi lần
chúng tôi bị ”bầm vập” thể xác và tinh thần. Chúng dồn nén đám tù này
như con vật, một chiếc xe tải Molotova nhét cả 1 đội 50 người cùng với
đồ đoàng lỉnh kỉnh, chen chúc ngồi bó rọ, dẫm trên chân trên người nhau.
Các xe đều bỏ bạt phủ kín, không đủ không khí để thở, chỉ một cái đánh
rấm của một anh nào đó kể như mọi người lãnh đủ cái mùi khó chịu không
ai thích.
Lần chuyển trại đầu tiên, từ trường Trung học Pétrus Ký chuyển đến Thành
Ông Năm ở Hóc Môn, chúng tôi đã lãnh đủ cái cơ cực khổ sở của cái vụ
chuyển trại bi thảm này. Được lệnh hành quân khẩn trương, từ 9 giờ tối
đã có tiếng tu-hít (còi) thổi gọi tập họp mọi người. Từ trường Pétrus Ký
đến Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo, mười mấy hai chục cây số. Cái dễ sợ
nhất là mỗi đội chúng tôi bị nhốt trong một chiếc xe bít bùng, tiểu
tiện phải đi trong quần vì từ 9 giờ tối đã lên xe, hành quân kiểu gì
không biết của đám khỉ học làm người, mãi đến 6 giờ sáng mới tới Thành
Ông Năm ở Hóc Môn.
Tại Suối Máu, tưởng tôi đã “bỏ mạng sa trường” vì cái bệnh kiết lỵ.
Xin nhắc lại, tôi từ giã ông Yamoto “đi cải tạo”, khoảng giữa tháng
5.1975, ông là Trưởng văn phòng nhật báo Asahi (Asahi Shimbun) tại Sài
Gòn, một tờ báo lớn của người Nhật, có số phát hành các ấn bản sáng
chiều và chữ Anh, trên dưới 10 triệu số mỗi ngày. Tôi đã cộng tác với
ông Yamoto trên 3 năm, qua tài liệu, ông đã hiểu hơn tôi về chế độ “tù
cải tạo” của cộng sản, ông biếu tôi vài trăm đô và đặc biệt tặng 2 “túi
cứu thương” để tôi dấn thân vào cõi chết mà ông chỉ nói úp mở. Lúc bấy
giờ, thời chiến cực kỳ khốc liệt, mỗi ký giả ngoại quốc ở Sài Gòn, gọi
là ký giả chiến trường, đều kè kè bên mình một túi cứu thương, gồm đủ
các thứ thuốc, trong đó có nhiều thuốc trị bệnh sốt rét, kiết lỵ, tiêu
chảy…May mắn cho tôi, ông Yamoto và người phụ tá của ông có 2 túi cứu
thương, ông tặng hết. Nhờ có nhiều thuốc nên ở trong trại tù, nhiều bác
sĩ phe ta khám bệnh cho anh em, biết tôi có thuốc tốt, phụ nhĩ với bệnh
nhân, đến tìm anh Ngà xin thuốc, tôi trở thành dược sĩ bất đắc dĩ mà
chẳng cần học trường Dược ngày nào.
Khi tôi bị bệnh kiết lỵ ngặt nghèo, từ cầu lê lết về đến lán, tôi bước
lên thềm không nổi phải bò mới vào được chỗ nằm và vận dụng hết sức lực
còn lại mở túí balô lấy thuốc trụ sinh trị kiết lỵ uống 2 lần từ tối đến
khuya, tôi không đi cầu nữa.
Tại trại Suối Máu, tôi gặp anh Phạm Đăng Có, Thiếu tá Quân Cảnh, Chỉ huy
trưởng trại giam tù phiến cộng này. Anh Có là em ruột của Đại tá Phạm
Đăng Tấn (đã từ trần cách nay chừng 8 năm ở Virginia, vợ chồng tôi có
đến phúng viếng, tiển đưa), nguyên là Tham Mưu Trưởng QĐ4 & V4CT
thời Trung Tướng Đặng Văn Quang làm Tư Lệnh, đó là hai ông sếp lớn của
tôi. Người anh kế của anh Có là Trung tá An Ninh Quân Đội Phạm Đăng
Năng, có vợ là bạn học với tôi ở Châu Đốc (anh Năng hiện còn ở VN). Anh
Có rù rì với tôi, tụi VC này ác quá, hồi tôi làm sếp ở đây, đám cán binh
của chúng được nằm giường sắt 2 tầng đàng hoàng, nay chúng cho bọn mình
ăn chay nằm đất.
Tại trại Suối Máu, trước ngày lên đường đi ra miền Bắc “xã hội chủ
nghĩa” chúng tôi gồm bò tứ và bò ngũ, được học tập chính sách “khoan
hồng nhân đạo” 12 điểm của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để
thông suốt mà hồ hởi phấn khởi ra miền Bắc nghèo mạt rệp. Cũng chính lúc
này, một tòa án quân sự của quân khu 7 VC được thiết đặt, gần cổng ra
vào trại. Cán bộ trại bắt loa gọi anh em “trại viên” lắng nghe theo dõi
buổi xử án 2 người trốn trại, có trực tiếp truyền thanh. Mỗi đội phải
cắt cử 2 người (thường là đội trưởng và đội phó) đi tham dự phiên xử anh
Phạm Hữu Thịnh và một anh Thiếu tá nữa là Nguyễn Văn Đương thuộc ngành
Tình Báo Quân Đội (tôi vừa mới bìết tên anh Thiếu tá này do một chiến
hữu ở Úc Châu gọi điện thoại cho biết) cũng trốn trại tại Suối Máu. Anh
này trốn được ra khỏi trại Suối Máu, đi xe đò bị chận bắt ở một chốt
kiểm soát nào đó, chưa về tới Sài Gòn. Chúng tôi đang ngồi nghe ngóng,
phiên xử khai mạc, nghe rất rõ, khi gọi tên anh Thiếu tá Đương ra xử.
Sau khi luận tội và kêu án tử hình, vẫn trong tư thế bị còng 2 tay, anh
chiến sĩ anh hùng của chúng ta hô lớn đả đảo cộng sản trước tòa, anh vừa
mới nói đả đảo tiếp theo chắc là đả đảo hồ chí minh. Hai tên bộ đội
dùng tay bịt miệng và sau đó anh bị nhét giẻ vào miệng, kéo sền sệt ra
khỏi phòng. Chừng 2 phút sau nghe tiếng súng AK nổ một loạt mà anh em có
tham dự chứng kiến từ đầu. Trong lúc đó, bất ngờ, dù còn nắng trời đổ
mưa như sụt sùi khóc cho một chiến sĩ anh hùng của QLVNCH bị giết dã man
trước họng súng của quân xâm lược. Được biết, đám cán binh VC không lôi
anh chiến sĩ anh hùng này đến pháp trường cát đã thiết đặt trước mà
chúng bắn anh khi ra khỏi nơi xét xử trước một ụ đất . Buổi chiều, bọn
xét xử, rút kinh nghiệm buổi sáng, khi chúng luận tội, anh Phạm Hữu
Thịnh bị nhét giẽ đầy miệng không cho nói lời nào và đưa đến pháp trường
cát kết liễu đời anh, tội nghiệp anh Thịnh bị hành hạ đày đọa mấy tháng
trong connex, thân hình tiều tuỵ, da bọc xương tái méc, nhưng sắc mặt
anh vẫn bình thản, lạnh lùng và vui vẻ khi tôi hỏi chuyện.
Cộng quân đã đem xử bắn 2 anh em của chúng ta để dằn mặt đám tù còn lại,
trốn trại bắt được là xử bắn, không có khoan hồng nhân đạo gì ráo trọi.
CHUYẾN TÀU THỦY RA BẮC
Qua 2 lần chuyển trại trước đây, nay lại chuyển trại lần nữa vào đêm 10
tháng 6 năm 1976, nghĩa là sau 1 năm chúng tôi nằm tù cộng sản ở miền
Nam. Nay lại ra miền Bắc xã hội chủ nghĩa nghèo khổ mạt rệp, cũng tập
họp từ 7 giờ tối, bị kiểm tra "tư trang", chúng tịch thu vô số đồ dùng
cũng như thuốc men của anh em chúng tôi. Khoảng 10 giờ tối, chúng tôi
được dồn lên xe chật ních cũng như 2 lần chuyển trại trước, mãi đến 6
giờ sáng mới bị dẫn xuống tàu nhỏ, cũ kỹ bẩn thỉu, loại tàu chở vật
dụng, heo, trâu, bò…đậu tại tân cảng Sài Gòn, gần cầu Sài Gòn, trên xa
lộ Sài Gòn – Biên Hòa.
Mỗi chiếc tàu loại nhỏ đó chỉ chở 5-7 chục người là nhiều, đàng này
chúng dồn hình như xấp xỉ 3 trăm người vì chúng tôi chỉ nhìn thấy đầu
đen và người nào người nấy, ở trần trùn trục, mặc vỏn vẹn chiếc quần đùi
mà ngồi chen chúc chịu trận vì không có đủ chỗ nằm. Tôi mạo hiểm lấy ra
một cái võng tự chế khi còn ở Hóc Môn, leo lên thành tàu cao hơn 2 mét
mới có chỗ buộc dây 2 đầu căng võng nằm, còn ở sàn tàu, không ai có thể
đặt lưng nằm được. Bắt chước làm theo tôi có đến cả chục người nữa mà
đám bộ đội áp tải không nói năng gì.
Cái khổ nhất trần gian lúc bấy giờ là đi tiểu tiện trong 2 cái thùng
thiếc miệng tròn dành cho mấy trăm người. Mỗi ngày, từ trên boong tàu mở
nắp ra, thòng dây xuống để chúng tôi buộc vào thùng phân và nước tiểu
lần lượt kéo lên. Vì ở trên cao, cách hơn 5-6 mét, cái thùng lại nặng, 2
tên bộ độ ì ạch kéo lên khơi khơi, làm chiếc thùng đầy lượn đảo qua lại
bắn nước dơ tung toé, rơi xuống trúng người nào người đó chỉ biết kêu
trời, lãnh đủ, nước không đủ uống làm sao mà có nước rữa nên phải “khắc
phục”. Mỗi lần xếp hàng chờ “lấy tài” để tống hai cái của nợ, mất vài
tiếng như chơi. Rủi hơn nữa tới phiên mình được phép trút cái nợ đời ra
là lúc chiếc thùng đầy ắp, còn chỗ đâu mà chứa, đành gọi khan cổ xin kéo
thùng lên. Chờ “bề trên” trông xuống hỏi lý do gì mà kêu cứu, họ mới
thòng dây xuống kéo thùng lên, đồ phế thải dơ bẩn đó phải đổ xuống biển,
còn rữa nữa mới thòng thùng xuống lại, thêm một lần nữa, thùng mới rữa
lại văng nước tung toé. Anh em có dịp la lên chí choé, nhưng nước văng
lần này tương đối “ thơm tho” hơn lần trước từ dưới kéo lên. Trong 4
ngày ở dưới hầm tàu này, có nhiều lần vì đợi tới phiên lâu quá, tôi lại
không đi cầu được, đành rút lui để cho người khác làm “nhiệm vụ xã hội
chủ nghĩa”.
Sau 4 ngày ngất ngư con tàu đi, nhiều người bị say sóng ói mữa tới mật
xanh, may cho tôi, thể trạng tốt không bị ói mữa nên đở tiều tụy hơn
nhiều anh em khác. Cũng vì cái còn khỏe đó mà tôi lãnh cái búa tạ, khi
tàu cặp bến Vĩnh Linh - Đồng Hới, tôi được một thằng bạn mắc dịch lớn
giọng đề cử tôi làm Đội trưởng để “quản lý” anh em trên toa xe lửa khi
có 1 tên bộ đội bảo anh em đề cử đội trưởng.
CHUYẾN TÀU HỎA ĐỊNH MỆNH TRÊN ĐẤT BẮC
Trời đã bắt đầu tối, từng chiếc tàu cặp bến cầu, đổ người lên đông
nghẹt, xếp hàng đôi “2 hàng dọc, đàng trước thẳng” lần lượt tiến bước có
4-5 con chó trận vừa sủa vừa dẫn đầu. Đèn dầu, đuốc được các người dân
nghèo khổ cầm đứng 2 bên đường với các tên du kích cầm súng trường CKC
có gắn lưỡi lê sáng loáng như hù dọa đám tù đói khổ đang lê lết từng
bước nặng nề, sau 4 ngày nổi trôi lênh đênh trên sóng biển. Không biết
dân chúng bị bắt buộc đứng trên con đường này bao lâu để “chào đón”
chúng tôi. Họ nói chuyện râm rang, bàn tán, chữi đổng… rất ồn ào, bọn tù
chúng tôi uể oải, mệt lã, lầm lũi bước đi như kẻ không hồn. Đến ga xe
lửa, cứ 50 người lên 1 wagon (toa), hàng mấy chục cái toa, loại toa tàu
lửa để chở súc vật, đồ đạc, không có ghế ngồi và hoàn toàn kín mít,
không có một cái cửa sổ nhỏ nào cả, 50 người ngồi bó gối chen chúc nhau.
Tôi nhận chân được cái văn minh của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đường
rầy xe lửa quá cũ kỹ từ thời Pháp thuộc để lại, những thanh sắt ngang,
nay biến đâu mất tiêu, chắc cán bộ hỏa xa gỡ đem đi bán sắt vụn để “cải
thiện’ đời sống. Thay những thanh sắt ngang bằng những thanh gỗ, khi
bánh xe cán lên nghe âm thanh phập phình, khập khểnh, chúng tôi có cảm
tưởng đường rầy sẽ “banh xà rông” và tàu hỏa sẽ trật bánh, đưa bao nhiêu
con người cùng khổ xuống sông, xuống ruộng… Tàu hỏa chạy suốt đêm, đến
gần trưa tới Nam Định, ngôi giáo đường Công Giáo giữa thị xã Nam Định
loang lổ phong sương như các tín hữu của tôn giáo này đã từng bị chế độ
cộng sản vùi dập không thương tiếc từ năm 1954 khi đất nước VN bị chia
đôi.
Vì tôi là “xếp” toa này, nên được ngồi ngay cửa lên xuống mở hé, có 2
tên bộ đội ngồi chỉa súng ra ngoài, đó là ân huệ và cũng cái khổ cho
tôi. Đến trưa, trời tháng 5 âm lịch, miền Bắc nóng khủng khiếp, hôm ấy
có thể đến 100 độ F hay cao hơn, toa tàu đóng kín, qua khỏi Nam Định 2
tên bộ đội biến đâu mất và cửa này hoàn toàn bị đóng khóa chặt ở ngoài.
50 anh em chúng tôi mồ hôi mồ kê vã ra như tắm, có người ngất xỉu vì
thiếu oxy. Tôi nảy ra sang kiến kêu gọi anh em nào có vật gì bén nhọn
như cọng dây kẽm… ngồi xuống nạy các khe gỗ ở sàn tàu, may ra có kẻ hở
để gió lọt vào mà thở.
May quá, trong balô của tôi còn sót một cái lưỡi cưa nhỏ xíu và cọng
thép dài hơn 1 tấc mà khi còn ở Hóc Môn, tôi dùng trong việc chạm trỗ
trên các cái lược bằng nhôm, đám cán binh xét tới xét lui, tịch thu biết
bao cái “của quý” loại này rồi, nay còn sót 2 món bảo bối quý hiếm đó.
Tôi miệt mài khơi cạy chừng 10 phút , tàu lửa ngừng lại một ga xép để
nhận tiếp tế và tù được nhận 1 thùng nước để uống mà đội trưởng nhảy
xuống toa tàu, khi 1 tên bộ đội đến mở cửa, phải chạy thật nhanh mang
thùng nước về. Khi tôi ra khỏi toa, tên bộ đội lại khóa cửa, anh em luân
phiên cạy, nạy, móc ra từng mảnh rác nhỏ, đất cát… và may mắn có luồng
gió mát thổi vào khi tôi mang thùng nước nặng 20 lít đưa lên tàu vừa lúc
tiếng còi tàu ré lên, từ từ lăn bánh. Anh em mừng quá vừa có nước uống
đở khát vừa có luồng gió mát thổi vào một cái khe nhỏ bằng đầu chiếc đủa
và dài hơn 1 tấc, gặp thanh gỗ bắt ngang nên tắt tị không “khựi” thêm
được nữa. Bây giờ là cái khổ của người đội trưởng, ai cũng cần khí trời
để thở cho khỏe nên anh em khó nhường nhau mà người đau yếu, nhất là các
anh bị suyễn kinh niên ốm yếu chỉ nằm chờ chết, làm sao chen giành lại
với các anh khỏe hơn?. Tôi bèn có quyết định, lựa 4 anh to con như tôi
hoặc to khỏe hơn tôi, ngồi chung quanh cái lỗ thông hơi cứu tinh này. Ai
ngất xỉu được ưu tiên chuyển tới lỗ thông hơi hít thở vài phút, nhường
chỗ cho anh khác tới thay. Nhờ anh em toàn là cấp chỉ huy cũ nên dễ
thông cảm và tự thấy mỗi người có trách nhiệm giúp đở nhau trong cảnh
cùng cực này. Dù vậy, càng về trưa, càng oi bức mà trời lại đứng gió nên
có nhiều anh em ngất xỉu, tôi phải vỗ cửa bình bịch kêu cứu khi xe
ngừng lại tại một ga nào đó. Nhiệm vụ của đội trưởng là phải dìu hay
phải cõng anh bị xỉu chạy nhanh đến toa cấp cứu. Toa này chỉ là toa có
nhiều cửa mở toang 2 tên bộ đội ngồi ghìm súng trên đó, anh nào may mắn
được đưa đến đây đều được thoát chết vì được thở không khí ở ngoài tràn
vào. Tôi gặp một anh bò ngũ thân quen đang nằm tại đây và anh cho biết
Trung tá Ngô Văn Hùng, Trưởng Khối Kế Hoạch Tổng Cục Chiến Tranh Chính
Trị đã tắt thở, không đưa kịp đến toa cấp cứu này và xác anh ấy bộ đội
áp tải cho khiên xuống rồi, cách đây 1 trạm. Tôi vốn quen biết Trung tá
Hùng, vì khi ông đi làm đều phải đi ngang qua Khối Thông Tin Giao Tế mà
tôi đang phục vụ, ở số 2 ter Đại lộ Thống Nhất – Sài Gòn. Sau này, tôi
nghe còn có thêm vài bò tứ hay bò ngũ cũng qua đời trong chuyến tàu lửa
định mệnh này. Nhờ những cái chết oan khiên của các anh ấy mà từ đó về
sau khi chạy ngang Hà Nội cho tới ga cuối cùng Yên Bái, các cửa lên
xuống đều được mở toang để có không khí lùa vào toa. Nhiệm vụ đội trưởng
quá vất vả của tôi cũng chấm dứt tại bến phà Âu Lâu của tỉnh Yên Bái,
sau đúng 1 ngày 2 đêm “nhậm chức”.
ĐƯỜNG LÊN SƠN LA GIAN KHỔ
Đến nhà ga Yên Bái gần sáng, ngày 16.6.76, bên nây bến phà Âu Lâu, chúng
tôi được lùa đi cũng 2 hàng dọc đàng trước bước. Cán bộ giữ tù thông
báo: Các anh được nhân dân địa phương đón tiếp và mời các anh uống nước
vối cho mát để tiếp tục cuộc hành quân đến các trại. Hai bên vệ đường,
có nhiều thùng nước vối đang còn lửa cháy phừng phực. Trong đời, lần đầu
tiên tôi được thưởng thức nước vối có mùi khói phảng phất của đất Bắc,
uống vào chả ra làm sao và tôi ao uớc nếu có một chén nước trà nóng
trong đêm buồn thảm này uống chắc đả, phê lắm. Đi bộ xuống phà, nghe
nhiều tiếng gà gáy sáng xa xa, báo hiệu một ngày mới nhục nhã và gian
khổ đang chờ đón.
Lên bến bên kia thuộc địa phận khác, có nhiều đoàn xe molotova chờ sẵn,
những người lính áp giải không phân biệt đội nào, cứ lùa tù lên đầy xe
là được, hàng trăm xe lăn bánh đưa chúng tôi người về Hoàng Liên Sơn,
người lên Sơn La, mãi đến chiều, tôi đến Sơn La, rừng núi ngút ngàn bất
tận, đúng ngày 16.6.1976. Sau gần 6 ngày hành quân kỳ cục và khổ nhọc
nhất, tôi đã nhận rõ tương lai mờ mịt của những người tù bị lưu đày lên
xứ “nước Sơn La ma Hòa Bình”, đã đến đây chắc khó trở về sum họp với vợ
con?.
Đoàn xe tù chúng tôi chừng vài chục chiếc, ước đoán cả 5-6 trăm người
được đưa đến tận chân núi, nơi có 2 nhà tù lớn do Pháp khoét sâu vào
vách núi, xây mấy chục năm trước để nhốt tù chánh trị. Sau này CSBV nhốt
tù binh Mỹ và Đại Hàn mà vết tích còn ghi trên vách đá, nay nhốt chúng
tôi. Trong đoàn tù này gồm toàn bò tứ, bò ngũ bên Quân Đội, bổng dưng có
một xe toàn bò tam cũng đổ xuống , ngành cảnh sát đặc biệt, làm thành
một đội riêng.
Chừng 2 tuần sau nhiều đợt tù kế tiếp được chuyển tới và tiếp tục chuyển
tới nữa mà đa số là những anh em thuộc quân khu 9 của cộng sản, ở miền
Tây. Chuyển từ Cần Thơ ra đây và nhiều anh em cấp đại úy trở xuống trình
diện đợt 2 ở Sài Gòn cũng được chuyển đến xã Mường Cơi này, nơi mà
không có đủ nước sinh hoạt hàng ngày cho cả chục ngàn tù binh mà CSBV
gọi chúng tôi khi mới đặt chân lên xứ này.
Đợt tù đầu tiên đến đây lại gặp gần 100 anh em tù bị bắt từ mùa hè đỏ
lửa 1972, ở trận Hạ Lào và đặc biệt có Trung tá Khương, Chỉ Huy Trưởng
BCH Tiếp Vận V1CT bị bắt hồi Tết Mậu Thân 1968 ở Huế. Tình cờ, trong khi
tôi đi lao động cất nhà mới để đón tiếp các anh em chuyển ra sau, gặp
lại anh Nguyễn Văn Thuế, Thiếu tá Pháo Binh cùng học với tôi tại trường
Sinh Ngữ Quân Đội ở đường Nguyễn Văn Tráng Sài Gòn, cuối thập niên 60 để
chuẩn bị đi du học Hoa Kỳ, khi đó chúng tôi còn đeo lon Đại úy. Anh
Nguyễn Văn Thuế bị bắt lọai hàng binh trong mùa hè đỏ lửa 1972 được CSBV
cho ăn bánh vẽ, nghe nói cũng “le lói” trong hàng ngũ bộ đội CSBV cũng
đeo “quân hàm” thiếu tá… Sau xin đổi qua diện tù binh để được trao trả
theo Hiệp Định Ba Lê nên bị cộng sản đì, không những không trao trả mà
còn bị nhốt tù để cùng với những anh em khác cất thêm trại chờ đón chúng
tôi.
Một chuyện hi hữu và thương tâm làm nhiều anh em chúng tôi không cầm
được nước mắt. Một anh Trung tá (quên tên) cùng ở một nhà với nhà thơ
Hoàng Ngọc Liên, Tô Kiều Ngân, Văn Quang ở bên kia hàng rào, nhà bên
này, nằm cạnh tôi có nhà báo Phan Lạc Phúc (đang ở Úc), chúng tôi chứng
kiến một cuộc trùng phùng hi hữu giũa hai bố con truớc cỗng trại. Khi
chúng tôi xếp hàng ra ngoài lao động “đốn tre đẵn gỗ trên rừng”, anh
Trung tá gặp lại đứa con trai yêu quý của anh, cấp bậc Thiếu úy đã bị
ghi nhận là mất tích trong một trận chiến mùa hè đỏ lửa 72, nay lù lù
xuất hiện nhận diện được cha mình cùng đang ở tù chung trại.
Cũng tại trại Sơn La này, người tù chết đầu tiên là nhạc sĩ Thục Vũ, tôi
lại quên tên, anh là Trung Tá làm Trưởng khối Chiến Tranh Chính Trị ở
Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập Ngũ hay là Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung,
anh chết vì đau và sau khi hút được 1 “bi” thuốc lào thoải mái, anh
thanh thản ra đi. Người chết kế tiếp cũng tại K1 có 2 nhà tù đá kiên cố
này là anh Trung tá Tường, nguyên Trưởng Phòng Tổng Quản Trị Quân Đoàn 4
ở Cần Thơ mà tôi gặp anh hàng ngày khi chúng tôi cùng làm việc tại đây.
Anh Tường chết vì uống thuốc tự tử, anh chán đời, chán cảnh tù khổ sai
không biết ngày nào được thả ra…
Trại tù Sơn La, khi chúng tôi đến “tạm trú” đầu tiên chỉ vỏn vẹn có 2
nhà đá có từ trước. Với chừng 100 anh em tù cũ gồm có Biệt Kích nhảy ra
Bắc bị bắt hàng chục năm trước còn sống sót cùng với anh em bị bắt vào
mùa hè đỏ 1972, cuộc hành quân Lam Sơn 719 sang Hạ Lào, cấp bậc từ hạ sĩ
quan đến Trung úy, cấp cao nhứt là Trung tá Khương bị bắt 1968 tại Huế.
Chính toán tiền đạo tù cũ hướng dẫn anh em chúng tôi cách “lao động xã
hội chủ nghĩa” cất thêm doanh trại mới để nhốt tù lần lượt sẽ được
chuyển tới từ trong Nam ra tiếp, trong phạm vi chừng 10 cây số vuông.
Liên trại 2 Sơn La lúc cao điểm có đến 6 trại được phân định nhốt tù rõ
rệt từng cấp bậc. Khu nhà đá gọi là K1, ở sâu trong núi “chuyên trị”
nhốt tù có cấp bậc cao nhất ở đây là Trung Tá, K5 ở đồi chè Mường Cơi,
gần đường lộ chính lên hướng huyện Phù Yên, gồm toàn bò tam và K6 nhốt
toàn bò tứ trong đó có tôi, K6 cũng nằm gần trục lộ chính huyết mạch của
tỉnh Sơn La. Còn K2, 3, 4 mới cất vội vã sau này nhốt các anh em ở các
trại giam từ các tỉnh miền Tây Nam Bộ, tập trung tại các trại giam Cần
Thơ và từ đó chuyển đến Sơn La. Tội nghiệp cho các anh em này đến Sơn La
cũng là nơi trung chuyển để Liên trại ở Hoàng Liên Sơn cất thêm đủ chỗ,
các trại K 2,3,4 của Sơn La sẽ chuyển về đó.
Ở tù cộng sản, trại nào cũng khổ, nhưng mỗi trại tù có cái khổ nhiều ít
khác nhau. Các anh ở miền Tây chuyển trại liên tục và đường lại xa hơn
chắc chắn mệt khổ hơn chúng tôi từ Sài Gòn lên thẳng Sơn La.
TRẠI TÙ HỒNG CA - YÊN BÁI
Chuyện ở tù cộng sản, chúng ta viết hoài viết mãi cho đến chết cũng chưa
có thể chấm hết được. Có đến 1001 chuyện khổ nhục về sự đối xử dã man
tàn bạo của chế độ lao tù CS, cùng hung cực ác dành cho những người ngã
ngựa của chính thể VNCH.
Đến năm 1978, có tin Trung cộng sẽ dạy cho CSBV một bài học, như chúng
ta biết hồng quân TC đã xua hàng chục sư đoàn bộ chiến cùng với không
yễm và pháo yễm đã tấn công vào các tỉnh cực bắc VN, giáp biên giới TC
vào năm 1979. Ba trại 1, 5 và 6 ở Sơn La đã có lệnh “di tản chiến thuật”
trước từ gần cuối năm 1978. Một nửa trại 6 chúng tôi được chuyển về
trại Hồng Ca-Yên Bái do công an quản lý. Đó cũng là thời điểm, chúng tôi
được chuyển sang diện tù thường không còn là diện tù binh như chúng tôi
đến Sơn La được học tập chính sách 8 điểm của bộ đội cộng sản đối với
tù hàng binh.
Chúng tôi thấy có sự khác biệt rõ rệt. Bộ đội quản lý trại tù có phần dễ
dãi đôi chút hơn là đám công an dùng kỹ luật sắt đối với chúng tôi, mỗi
lần di chuyển bằng xe thì 2 người bị chúng khóa chung 1 cái còng số 8,
còn bên bộ đội khi chuyển từ Nam ra Bắc không bị còng, ngoài trừ quý vị
đi bằng máy bay. Tiêu chuẩn ăn uống hàng tháng bị công an xén bớt, ăn
sắn quanh năm thay cơm. Chính sắn tươi quy ra gạo cũng bị công an tính
gian lận. Thí dụ 1 ký gạo ở bên bộ đội quy ra thành 4 ký sắn tươi hoặc 2
ký sắn lát khô. Còn bên công an cứ 3 ký sắn tươi quy ra 1 ký gạo, có
nơi công an chỉ tính có 2 hoặc 2 ký rưỡi sắn tươi thành 1 ký gạo, còn
sắn lát khô, cứ 1 cân (ký) quy ra thành 1 cân gạo. Tiêu chuẩn về cung
cấp đường, thuốc lá, thuốc lào bên công an cũng rút bớt của tù để chúng
bồi dưỡng hoặc mua bán đổi chác với các hợp tác xã trong vùng.
Tóm lại, tại các trại tù do công an quản lý bắt người tù lao động cật
lực chết bỏ, làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm và có thể lao động cả
ngày chủ nhật nữa mà bên bộ đội ít có xảy ra.
Chúng tôi ở trại 6 Sơn La, hơn một nửa chuyển về trại Hồng Ca-Yên Bái,
số còn lại được chuyển về Nghệ Tĩnh. Còn trại 1 bò ngũ và trại 5 bò tam
cũng vậy một số lớn chuyển lên trại Phù Yên gần quận lỵ Phù Yên-Sơn La,
cách chỗ cũ chừng 20 cây số và một số chuyển về đâu đó, hình như cũng ở
Nghệ Tĩnh.
TRẠI TÂN LẬP – VĨNH PHÚ KHÓ QUÊN
Bi đát nhất của cuộc đời ở tù cộng sản của tôi, gần đúng 10 năm, là K1
và K4 liên trại Tân Lập ở Vĩnh Phú. Vì vậy tôi không thể viết qua loa
đại khái giai đoạn này, xin dành cho 1 bài khác vậy. Ở đây, chúng tôi
chỉ tóm gọn, ở tù trại nào cũng khổ mà ai từng ở tù trại Tân Lập so sánh
với các trại tù khác, quả trại này là địa ngục trần gian.
Từ Sơn La về Hồng Ca-Yên Bái, đây cũng là trạm trung chuyển, ở được vài
tháng, ăn được một cái Tết tại Hồng Ca, tất cả “trại viên” được cho ăn 1
bữa khá no còn được tặng thêm gần 2 ký sắn luộc lại có kèm thêm đường
cát trắng của Cuba.
Ôi! hạnh phúc biết bao! vì bao năm tháng ở tù cải tạo, lần đầu tiên tôi
được ăn một bữa no và còn có sắn và đường để mang theo bồi dưỡng cho
cuộc hành trình mới, chưa biết lành dữ thế nào?. Ngoài cổng trại Hồng Ca
có nhiều chiếc xe đò loại nhỏ chừng 20-30 chục chỗ ngồi đậu sẵn để chở
chúng tôi về trại Tân Lập Vĩnh Phú. Cứ 2 người đeo chung 1 cái đồng hồ
số 8, tôi cùng đeo chung đồng hồ với Linh mục Trần Quý Thiện, ngài cùng ở
chung với tôi tổ, đội 8 ở trại 6 Sơn La. Nay tôi được ngồi ghế gần ngài
có dịp tâm sự nhỏ to suốt lộ trình dài nên cũng đở lo nghĩ, sốt ruột.
Khi xe đến bến phà Âu Lâu, chúng tôi xuống xe và đi bộ hai người dung
dăng dung dẻ có cặp song hành, lần lượt xe qua hết thì chúng tôi lại lên
xe. Trên đường đi ngang qua khu chợ đang họp vào buổi sáng gần bến phà,
bỗng nhiên tôi bị đau bụng quặn thắt dữ đội. Báo cáo cán bộ áp giải xin
đi ngoài, tên này không cho, tôi làm liều lôi Cha Thiện vào cái nhà nhỏ
bỏ hoang cạnh đường, xin Cha thông cảm giúp tôi cởi quần cho nhanh và
chưa kịp ngồi xuống là cái của nợ của một bữa ăn no và cộng thêm sắn bồi
dưỡng cùng với đường cát trắng biểu tình lần lượt dzọt ra tới tắp. Tội
nghiệp Cha Thiện chỉ biết nhìn trời hiu quạnh mà hít phải mùi chua lòm
của tôi vừa phóng ra. Quả Cha Thiện rất gentleman ngài xé 1 mảnh báo
Nhân dân có sẵn trong túi đưa tôi làm nhiệm vụ sạch sẽ cuối cùng.
Lên xe, tôi cứ tiếc mãi được một bữa ăn no lại có thêm bồi dưỡng, nay
của thiên trả cho địa mà thân xác tiều tụy của tôi chắng có hấp thụ được
chút chất bổ dưỡng nào.
Về trại Tân Lập với các đồi sắn chập chùng vô tận do các người tù đến
trước trồng trọt, đám tù sau tiếp tục sự nghiệp đào hóc trồng sắn mệt
nghỉ và ăn sắn quanh năm. Một năm chỉ có 5 lần được ăn 1 chén cơm vào
các ngày chiều 30 Tết, trưa Mồng Một Tết, lễ Lao Động 1.5, ngày 2.9 cái
gọi là quốc khánh của CSBV và ngày 1 tháng giêng dương lịch (Tết Tây).
Cái khó quên của tôi, đội 16 rau xanh sau qua đội 5 trồng sắn mà tôi là
thành viên, có 2 anh cùng đội chết vì trời nắng gắt, Trung tá Nguyễn Văn
Lạc, Trưởng phòng An Ninh QĐ2, Thiếu tá Lê Xuân Hường Trưởng khối CTCT
Liên Đoàn 1 BĐQ. Một ngày nắng cực gắt ấy làm cho các cây sắn như muốn
rũ lá, chúng tôi mắt nổ đom đóm như bị ngộp thở. Ai cũng đội nón đàng
hoàng thế mà anh Lạc, anh Hường và 1 anh Trung tá nữa lăn quay ra chết
và còn một anh cũng bị say nắng được chuyển về trạm xá, đến tối mới
chết. Chỉ một ngày bị say nắng đã 4 con người vô tội đáng thương từ giã
cõi đời. Chính nhờ có 4 cái chết oan nghiệt của các anh ấy đã giúp chúng
tôi từ đó về sau, không còn cảnh lao động trong lúc trời đổ nắng đom
đóm nữa. Đây là cảnh trại K1 vừa kể ở trên, tôi ở Tân Lập từ K2 qua K1
rồi bị chuyển sang K4 và sau cùng là K3 . Từ K3, tôi được chuyển về Nam
từ tháng tư năm 1982, trại Z 30D, thuộc huyện Hàm Tân-Thuận Hải, trại
này ở khu vực có tên là Rừng Lá. Đến cuối năm 1984, tôi được thả ra cùng
với một số đông gần 200 người gồm nhiều cấp tá mà trước đó cấp tá thả
ra rất hiếm hoi.
TRẠI TÙ CHÓT: Z 30D – HÀM TÂN (RỪNG LÁ)
Đến năm 1982, khi tôi được quy hồi miền Nam, đóng chốt ở trại Z 30D –
Hàm Tân (Rừng Lá), gặp lại nhiều anh em bò tứ bò ngũ trong lần chuyển ra
đất Bắc đầu tiên ngày 10.6.1976. Khi tàu hỏa đến ga chót là Yên Bái, ai
đi toa nào phải sang sông qua phà Âu Lâu sẽ trực chỉ Hoàng Liên Sơn và
Sơn La, toa nào ở lại Yên Bái thì có xe tải đến đón đưa về các trại ở
Yên Bái.
Đợt đi đầu tiên ra đất Bắc, gồm toàn những người mà cộng sản đã xếp loại
nợ máu nhiều, khó mà được thả ra trong vòng 5 - 6 năm như tin đồn đoán,
hầu hết là cấp tá đến cấp tướng bên Quân Đội và bên hành chánh là những
công chức cao cấp đến hàng Tổng Trưởng, các lãnh tụ đảng phái, tôn
giáo, dân cử…
Bên Quân Đội, những vị từ cấp Đại tá đến Tướng được đi bằng máy bay C130
của ta “bỏ của chạy lấy người”, cứ 2 người đeo chung 1 cái đồng hồ số
8. Bên công chức cao cấp cũng vậy được đi bằng máy bay và cũng đeo đồng
hồ như bên quân sự. Còn cấp thiếu tá, trung tá, hàng Giám đốc nha sở trở
xuống, các đại úy thuộc Cảnh sát đặc biệt hay nhiều người cấp chức nhỏ
nhưng lọt mắt xanh xếp loại nợ máu nhiều của chúng cũng được ra Bắc đợt
đầu.
Cái bịp của CSBV, không những chúng bịp các người tù mà chúng còn bịp
đối với mọi người dân lương thiện trong nước và ngay cả nhiều thành phần
cán bộ của chúng, quốc tế cũng bị chúng cho ăn quả lừa bịp.
Trưóc khi chuyển tù ra Bắc, tại trại Suối Máu-Biên Hòa, CSBV thiết lập
tòa án quân sự bắn 2 anh Thiếu tá trốn trại. Tiếp theo, chúng cho tù học
tập chính sách 12 điểm của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để
mọi người tù an tâm hồ hởi phấn khởi sợ mà ở yên “học tập tốt, lao động
tốt”.
Sau này, CSBV dùng tàu lớn như tàu Sông Hương chở 1 lần mấy ngàn người
tù đổ xuống bến ở gần cảng Hải Phòng để có xe lửa hoặc xe tải đưa đến
các trại tù khắp đất Bắc.
Tại Z 30D có 2 K1 và K2 mà tôi được “biên chế” về K2 ở trong sâu, còn K1
là nơi có BCH trại làm việc nữa. Z 30D là khu rừng lá buông bạt ngàn,
người ta lấy lá làm đủ thứ chuyện. Đường vào K1 và K2 có trồng thật
nhiều sua đũa tha hồ mà ăn bông, nếu ăn bông sua đũa nhiều quá dể bị
“tào tháo” đuổi chạy trối chết.
Được chuyển trại về tới miền Nam, dù ở trại nào, tôi cũng vững tin là
mình sẽ còn sống, lúc ấy quả thật chúng tôi rất vui mừng (hồ hởi phấn
khởi) thấy được đoạn cuối của con đường hầm tối tăm bắt đầu có ánh sáng
hé lộ. Khí hậu thời tiết không còn khắc nghiệt như các tỉnh ở vùng rừng
núi miền Bắc, gần gia đình dễ thăm nuôi và được thông báo những tin tức
hấp dẫn, tù cải tạo sẽ được thả hết qua sự vận động của Bà Khúc Minh Thơ
với chánh quyền Hoa Kỳ. Tất cả tù cải tạo sẽ được qua Mỹ… Nghe vậy chỉ
biết vậy và chúng tôi vẫn bán tín bán nghi, chắc gì Mỹ chịu rước của nợ
các ông tù cải tạo bệnh tật đem qua nuôi báo cô. Chuyện gì đến đã xảy
đến tốt đẹp cho mọi gia đình tù cải tạo từ 3 năm trở lên hoặc ở tù 1 năm
và nếu có tu nghiệp ở Mỹ bất luận bao lâu, cũng được xếp vào diện HO ra
đi đàng hoàng, ngẫng đầu mà đi dưới con mắt khó chịu của cộng sản.
KÉT LUẬN
Ai đã vào tù cộng trên đất Bắc từ Lào Cai, Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú, Sơn Tây… ở tận cùng miền Bắc xuôi vào Nam qua Nam Đình, Nghệ Tĩnh, về miền Trung Bình Trị Thiên, Cao Nguyên, miền Đông Nam Bộ cho đến miền Tây đến vùng cuối Việt Cà Mau, CSBV đã thiết đặt hàng trăm trại tù lớn, khắc nghiệt, lao động khổ sai, thiếu ăn thiếu mặc, hàng ngàn tù lần lượt ra đi về bên kia thế giới. Chưa muốn nói là chánh sách nhân đạo của CSBV xuyên suốt nhằm trả thù cái vụ chúng sinh Bắc tử Nam trong thời chiến vì chúng đi xâm lược miền Nam nên chúng phải trả giá.
Nay miền Nam sụp đổ, CSBV trả thù một cách hèn hạ, tinh vi để cho những người ngã ngựa chết lần chết mòn trong các trại tù đói khổ, lao động khổ sai và bị hành hạ bỏ đói, đau không thuốc chửa trị…
Chuyện tù cộng sản không có bút mực nào mà viết hết và vì vậy mà tội ác của chúng tạo nên căn nghiệp mà luật quả báo của nhà Phật chỉ rõ “chủng quả đắc quả, chủng đậu đắc đậu” và tội nghiệp cho người dân lương thiện Việt Nam ở quê nhà cũng bị vạ lây vì luật nhân quả này./.
Trần Văn
Tuesday, December 29, 2015
TIN QUAN TRỌNG
SẮP CÓ BIẾN TẠI VIỆT NAM! (PHẦN 1) - TRUNG QUỐC BAN HÀNH ĐẠO LUẬT CHỐNG KHỦNG BỐ.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc trong ngày Chủ nhật 27/12/2015 đã phê duyệt đạo luật chống khủng bố (CKB). Đây là một đạo luật cho phép Quân Đội TQ đưa quân viễn chinh ra nước ngoài.
Sáng ngày 28/12/2015 T.T Mỹ Obama đã gọi cho Tập Cận Bình nêu rõ đạo luật CKB của TQ có thể sẽ vi phạm Nhân Quyền trầm trọng, hơn nữa điều 18 trong đạo luật CKB sẽ gây trở ngại cho các hãng kỹ thuật Mỹ tại Trung Quốc.
Điều 18 luật CKB của TQ : quy định các công ty dịch vụ viễn thông và Internet giao nạp kỹ thuật, giải mã, trợ giúp kỹ thuật cho cơ quan an ninh và tình báo quốc gia TQ khi thực thi nhiệm vụ.
Giải thích rõ hơn cho các bạn hiểu về "kỹ thuật, giải mã (encryption)" mà Trung Quốc muốn có. Trong các dịch vụ liên quan tới kỹ thuật số thì quan trọng nhất "mã số" để nhằm giữ KÍN bí mật của khách hàng.
Những email bạn gửi cho nhau, tin nhắn text trên điện thoại, giao dịch ngân hàng, thông tin doanh nghiệp... Điều cần mã số (encryption) để giữ kín bí mật về tài khoản mỗi cá nhân.
Luật Chống Khủng Bố của Trung Quốc đòi hỏi các hãng nước ngoài có dịch vụ điện toán, viễn thông và Internet phải giao nạp toàn bộ mã số của khách hàng, điều nầy có nghĩa là chính phủ sẽ kiểm soát toàn bộ sinh hoạt đời sống cá nhân của người dân.
Hai hãng lớn của Mỹ đang làm ăn tại Trung Quốc là CISCO và IBM ở Trung Quốc sẽ dời bản doanh sang một nước Á Châu khác bắt đầu vào tuần nầy.
Hãng APPLE ở Trung Quốc có những sản phẩm lớn như Iphone, Ipad cho biết là mã số của người sử dụng được mã hóa khác nhau trong mỗi đơn vị sản phẩm. Khi bạn mua một Iphone của Apple thì Iphone của bạn sẽ có mã số riêng biệt.
Hãng Apple cho biết thêm là chính phủ Trung Quốc có đòi họ cung cấp mã số của từng cá nhân sử dụng Iphone cũng không được vì mỗi Iphone có mã số riêng biệt, mã số nầy không nằm ở công ty viễn thông.
SẮP CÓ BIẾN TẠI VIỆT NAM! (PHẦN 2) - TRUNG QUỐC ĐƯA QUÂN VÀO LÃNH THỔ VIỆT NAM.
Chủ Nhật 27/12/2015, Trung Quốc phê duyệt đạo luật chống khủng bố (CKB), cho phép Quân Đội TQ đưa quân viễn chinh ra nước ngoài.
Thứ Hai ngày 28/12/2015 Đại tá Hà Minh Trân – Phó Cục trưởng Cục A67 cho biết: "Tại Việt Nam… lực lượng Công an đã phát hiện 10 đối tượng khủng bố quốc tế là thành viên chi nhánh tổ chức khủng bố quốc tế Al Qaeda và JI nhập cảnh vào Việt Nam".
Điều nầy phù hợp với thông tin nghe được từ chuyến đi của Nguyễn Sinh Hùng ký kết Thống Nhất các điều khoản giữa Quốc Hội CSVN & Quốc Hội TQ.
CSVN đang dọn đường cho Quân Đội Trung Quốc vào Việt Nam với mục đích là "Chống Khủng Bố" nhưng thực chất là để thôn tín nước Việt Nam.
Nguyễn Phú Trọng được lệnh quan thầy Trung Quốc là đẩy Nguyễn Tấn Dũng ra khỏi chức vụ Tổng Bí Thư vào tháng 5 năm 2016, sau đó Nguyễn Phú Trọng sẽ duy trì chức vụ thêm 2 năm nữa từ 2016-2018 để hoàn tất kế hoạch BÀN GIAO NƯỚC VIỆT NAM cho TRUNG QUỐC.
Theo Kế hoạch thực hiện:
(1) Bộ Chính Trị CSVN do Nguyễn Phú Trọng cầm đầu vào tháng 5/2016 sẽ thay thế toàn bộ các tướng lĩnh lãnh đạo Quân Đội CSVN, sau đó bàn giao hết các chức vụ cầm quân cho tình báo Hoa Nam.
(2) Khi Quân Đội Trung Quốc tiến vào Việt Nam để làm nhiệm vụ truy lùng các đối tượng "khủng bố" Quốc Tế thì Quân Đội Trung Quốc (công nhân) có sẵn tại các khu vực Hà Tĩnh ở Vũng Áng, Đà Nẵng và Miền Trung VN sẽ đồng loạt đứng lên nắm hết vị trí quân sự chủ yếu, trong cùng thời điểm đó, các tướng lĩnh Hoa Nam sẽ giải giới Quân Đội CSVN.
(3) Sau khi nắm được KHU VỰC TỰ TRỊ (KVTT) từ ĐÀ NẴNG tới NAM QUAN thì Trung Quốc sẽ Tuyên Bố là KVTT sẽ hưởng đặc ân của nước mẹ là không đóng thuế 3 năm, đồng thời gạo và thực phẩm sẽ được Trung Quốc chở sang Việt Nam tràn ngập trợ giúp cho khu vực Tự Trị.
- Lý do Trung Quốc KHÔNG đòi chiếm hết nước Việt Nam là vì vấn đề an ninh KHÔNG kiểm soát nỗi. Trung Quốc sẽ đóng cửa Biên Giới KHU VỰC TỰ TRỊ ngay tại ĐÈO HẢI VÂN, sử dụng ĐÀ NẴNG là khu vực Giao Thương Cửa Khẩu Biên Giới.
- Miền Nam từ Đà Nẵng vào sẽ được BỎ NGỎ (vô chính phủ).
Kết Luận: Đây là một số điểm chính trong "TOÀN BỘ HỒ SƠ" nằm trong KẾ HOẠCH bàn giao một phần VN cho Trung Quốc. Tất cả điều trên là Sự Thật dựa trên Hồ Sơ Thùy Trang có được. Sự sắp xếp có thể thay đổi tùy vào đấu đá phe cánh trong Đảng CSVN, tuy nhiên Thùy Trang đưa tin nầy trước để mọi người chuẩn bị tinh thần VƯỢT TUYẾN vào Miền Nam trước khi quá muộn.
(*) Điều chúng ta cần phải làm trong lúc nầy là Quan Sát tình hình - Nếu Bộ CHính Trị Đảng CSVN CHO PHÉP Quân Đội Trung Quốc sang VN để "truy tìm khủng bố", thì đây chính là KHỞI ĐIỂM của sự BÀN GIAO, do đó khi nghe tin nầy thì đồng bào HÃY vượt tuyến vào NAM thật nhanh.
Thùy Trang sẽ báo động ĐỎ trên các phương tiện truyền thông khi có biến.
Thân Ái
Nguyễn Thùy Trang
Minhhà
Báo Đài Loan: Việt Nam sắp đại biến, Chủ tịch Quốc hội cầu cứu Tập Cận Bình
Trong hai ngày 23- 24/12/2015, Tập Cận Bình và Du Chính Thanh tại Bắc
Kinh đã lần lượt tiếp kiến Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Sinh Hùng.
Giới quan sát cho rằng, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12 sắp
diễn ra, cạnh tranh trên chính trường đang rất kịch liệt, người được
mệnh danh “đả phá diện mạo độc tài biến tướng”* thuộc phe cải cách là
thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, đang chiếm lấy ưu thế. Việt Nam sắp có biến
cố lớn, Nguyễn Sinh Hùng thăm Bắc Kinh lần này có thể là để cầu tiếp
viện. Ông Trần Phá Không (một nhà bình luận chính trị gốc Hoa tại Mỹ)
cho rằng, nếu chính trị Việt Nam chuyển biến thành công, Trung Cộng sẽ
bội phần lúng túng và bị áp lực.
Tháng 1/2016, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12 quyết định hướng
đi của Việt Nam trong tương lai sẽ diễn ra. Trong Đại hội này, tứ trụ
triều đình đang lãnh đạo Việt Nam, bao gồm tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng, chủ tịch nước Trương Tấn Sang, thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn
Dũng, chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đều đến tuổi về hưu, thế hệ
lãnh đạo Việt Nam mới sẽ lên thay.
Có thông tin cho rằng, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng có thể sẽ
không nghỉ hưu đợt này, mà sẽ tiếp nhận chức vụ Tổng bí thư Đảng Cộng
sản. Trên chính trường Việt Nam, quyền lực cao nhất trên thực tế là
tổng bí thư Đảng Cộng sản, chủ tịch nước, thủ tướng và chủ tịch quốc
hội cũng chịu sự lãnh đạo của Đảng.
Nhưng thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng xuất thân quân đội, đã từng đảm nhiệm
các chức vụ lãnh đạo kinh tế, hành chính; quan chức thuộc cấp đầy khắp
trong 3 lĩnh vực hành chính, kinh tế, quân đội, là nhân vật có thế mạnh
chính trị nổi bật.
Ngoài ra, truyền thông Nhật Bản từng đưa tin, Nguyễn Tấn Dũng là đại
diện cho một phe lớn của Việt Nam, đó là phe miền Nam chủ trương cải
cách chính trị. Vì vậy, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng không có khả năng
áp chế Nguyễn Tấn Dũng. Nguyễn Tấn Dũng đang ở vào thế cân bằng quyền
lực với Nguyễn Phú Trọng, thậm chí ngầm chiếm giữ thế áp đảo.
Có nguồn tin cho rằng, Nguyễn Phú Trọng vô cùng bất mãn với chủ trương
cải cách kích tiến * của Nguyễn Tấn Dũng, trong thời gian Tập Cận Bình
sang thăm Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng và Tập Cận Bình đã có sự trao đổi
về lĩnh vực này.
Trong khi đó, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng được coi là thân cận của Nguyễn Phú Trọng.
Có quan điểm cho rằng, trong thời khắc nhạy cảm này, một trong “tứ trụ
triều đình” là Nguyễn Sinh Hùng thăm Trung Quốc, hội kiến Chủ tịch Tập
Cận Bình và Du Chính Thanh, có thể là có mục đích “cầu chi viện”.
Nguyễn Phú Trọng yếu thế, có thể là hy vọng Trung Cộng triển khai sức
mạnh ngoại giao, giúp sức một tay cho phe bảo thủ.
Nguyễn Tấn Dũng chủ trương cải cách, được mệnh danh “đả phá diện mạo độc tài biến tướng”.
BBC nói, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được cho rằng sẽ nắm giữ lấy chức
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam trong Đại hội Đảng lần thứ 12 vào
tháng 1 năm sau. “Nguyễn Tấn Dũng đứng đầu phái cải cách ở Việt Nam”.
Truyền thông từng đưa tin, theo tiết lộ của một quan chức cao cấp Việt
Nam giấu danh tính, Nguyễn Tấn Dũng gần đây trong một buổi tiệc có nói
rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ có đi theo những giá trị phổ quát của
thế giới, mới có thể tiếp tục lãnh đạo nhân dân Việt Nam, nếu không sẽ
vĩnh viễn không thể thay đổi diện mạo độc tài biến tướng này, nếu như
không có cách nào cải cách, sẽ lập tức giải tán”.
Cũng có nguồn tin rằng, Nguyễn Tấn Dũng thậm chí còn chủ trương đổi tên
nước hiện tại là “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” thành nước “Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa”. Dưới sự ủng hộ đó, đồng đô la sẽ trở thành ngoại
tệ lưu thông chủ yếu ở thành phố Hồ Chí Minh.
Truyền thông còn đưa tin, Việt Nam gia nhập Hiệp định Quan hệ đối tác
Thái Bình Dương (TPP), chính do sự ra sức tác động và triển khai mạnh
mẽ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Chuyên gia bình luận chính trị sống tại Mỹ Trần Phá Không cho rằng, nếu
như Việt Nam có thể cải cách mà trở thành một quốc gia mới tôn trọng
nhân quyền và pháp trị, thì mô hình chuyển đổi đó có hiệu ứng khó lường
hết được. Lúc đó, Trung Cộng sẽ bội phần lúng túng và áp lực, lựa chọn
của Trung Quốc chỉ có 2 con đường: một là cải cách thay đổi để hòa
nhập vào hàng ngũ thế giới văn minh; hai là cố chấp theo đường cũ, đóng
cửa với bên ngoài, cam phận làm bạn với Triều Tiên, trở thành quốc gia
lạc hậu nhất.
Trần Phá Không: Việt Cộng đi trước Trung Cộng trên lĩnh vực cải cách chính trị
Trần Phá Không từng viết bài đăng trên đài Á Châu Tự Do cho rằng, Việt
Nam và Trung Quốc là 2 trong số 4 nước còn lại trên toàn cầu do Đảng
Cộng sản lãnh đạo, cùng với Triều Tiên và Cu Ba. Trung Cộng và Việt
Cộng, tuy có sự thù địch nhất định, nhưng ý thức hình thái giống nhau,
cách thức hành động cũng tương tự. Đều do một Đảng chuyên chính; đều
dùng chính sách trấn áp, bắt bớ, bức hại những người bất đồng chính
kiến và nhân sĩ tôn giáo thuần túy; đều dùng chiêu bài cải cách kinh tế
để giữ lấy chính quyền chuyên chế; đều là những nước tham nhũng hủ bại
nghiêm trọng; đều thao túng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chẳng hạn,
Trung Cộng thao túng cho thị uy chống Nhật, Việt Cộng thao túng cho thị
uy bài Hoa, đến lúc cần thì lại ra tay đàn áp.
Còn sự khác biệt nhau, ngoài khác biệt về cải cách kinh tế, Việt Cộng đã
đi trước Trung Cộng trên lĩnh vực cải cách chính trị. Bắt đầu từ năm
2006, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên công bố báo cáo chính trị
cho toàn dân thảo luận, công khai chương trình hội nghị, Tổng Bí thư
và lãnh đạo các cấp được chọn ra do tuyển cử công khai. Những cách làm
này, Trung Cộng thường bảo “dân chủ trong Đảng” mà đến nay vẫn chưa làm
được, vẫn duy trì tình trạng “đấu đá trong cung đình, hiệp thương mờ
ám”. Tháng 11/2012, Việt Nam quy định bắt buộc cán bộ công khai tài
sản, trong khi Trung Cộng chỉ mới bước vào giai đoạn thí điểm, còn ám
thị rằng kiểu quy định này phải đợi tiếp thời gian 20 năm nữa.
Điểm khác nhau lớn nhất giữa Việt Cộng và Trung Cộng còn ở chỗ, Việt
Cộng lãnh đạo tương đối lý tính và ôn hòa, không tạo ra những tội
nghiệt tày trời như Trung Cộng trong các chính sách: Đại nhảy vọt, Nạn
đói, Cách mạng văn hóa, Thảm sát Thiên An Môn, Bức hại Pháp Luân Công…
Việt Cộng mang nợ máu với nhân dân trong nước ít hơn Trung Quốc.
Chính trị Việt Nam dân chủ hóa 30 năm trước đến giờ, đã khởi bước
Sau Đại hội lần thứ 9, công cuộc dân chủ hóa chính trị ở Việt Nam trên bình diện quốc gia đã thể hiện.
Lãnh đạo tối cao Việt Nam đã hình thành chế độ “tứ trụ triều đình”, tức
Tổng bí thư Đảng Cộng sản, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch
Quốc hội. Tổng bí thư Đảng không kiêm nhiệm Chủ tịch nước và Thống
soái tối cao của quân đội. Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, kiêm
Tổng tư lệnh lực lượng vũ trang, đồng thời là Chủ tịch Ủy ban An ninh
và Quốc phòng, lãnh đạo toàn thể lực lượng vũ trang cả nước. Chủ tịch
Quốc hội lãnh đạo lập pháp và tư pháp. Thủ tướng Chính phủ nắm giữ hành
chính.
Như vậy, quyền lãnh đạo đảng, quyền lãnh đạo quân đội, quyền lập pháp và
quyền hành chính phân lập và hình thành thế quân bình chế ngự nhau.
Hơn nữa, chế độ phân quyền này đã được thực thể hóa ở một trình độ cao,
Tổng bí thư Đảng đã không nắm giữ hết tất cả mọi quyền lực.
Năm 2013, Tổng bí thư đương nhiệm Nguyễn Phú Trọng trong bài phát biểu
được truyền hình đến công chúng Việt Nam, trong lúc nói đến việc không
thể tiến hành kỷ luật một đồng chí X (thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng) đã rơi
nước mắt.
Quốc hội Việt Nam (tương đương“Nhân đại thường ủy hội” của Trung Quốc)
cũng không phải là những con rối. Đại biểu Quốc hội Việt Nam tổng cộng
là 498 người, do cử tri các tỉnh thành trực tiếp bầu cử nên. Vì Quốc
hội tập trung các phần tử tinh anh được dân tuyển từ các nơi trong cả
nước, nên không khí cải cách trong Quốc hội Việt Nam khá mạnh mẽ, là
động lực chủ yếu thúc đẩy dân chủ hóa chính trị ở Việt Nam.
Ngoài ra, tình hình dân chủ trong Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã hình
thành, thể hiện trong các mặt dưới đây: (1) Tổng bí thư do bầu cử mà ra;
(2) Quyền quyết định việc trọng đại thuộc về Ban bí thư Trung Ương;
(3) Thực hiện chế độ chất vấn của Ủy viên Trung ương; (4) Ủy viên Trung
ương và các chức vụ lãnh đạo quan trọng do tuyển cử dân chủ, thông tin
về người ứng cử được công khai.
Tác giả: Vu Phi, biên dịch Minh Nguyệt (Anhbasam)
Nguồn: tw.aboluowang.com, tiếng Trung, Đài Loan, ngày 26/12/2015
THEO DÒNG SỰ KIỆN:
- Bài học nào cho các công ty Đài Loan sau sự kiện Bình Dương?
- Bạo loạn ở Bình Dương, Đồng Nai
- Chủ tịch nước giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và an ninh?
- Chủ Tịch Cuba thăm Trung Quốc và Việt Nam
- Trung Quốc loan báo tập trận trên Thái Bình Dương
- Đài Loan đề phòng diễn biến hòa bình từ Hoa lụ
TỔNG THỐNG OBAMA CẢNH CÁO TRUNG CỘNG
Tổng thống Obama: “Tôi chỉ cần làm 6 việc khiến ĐCSTQ tan tành mà không phải dùng đến một người lính nào!”
Ông Obama đã cảnh cáo quan chức Trung Quốc: Nếu quý quốc dám gây chiến tranh với Philippines, Việt Nam, Nhật Bản, tôi chỉ cần nói ra 6 điều là Trung Quốc tan vỡ, không phải sử dụng đến dù chỉ một người lính.
1. Công bố tài khoản nước ngoài của quan chức Trung Quốc và cho đóng băng.
2. Công bố danh sách quan chức Trung Quốc có hộ chiếu Mỹ.
3. Công bố danh sách người nhà các quan chức cấp cao Trung Quốc định cư tại Mỹ.
4. Ra lệnh thanh tra biệt thự và tình nhân của quan chức Trung Quốc ở Los Angeles.
5. Đưa người nhà quan chức Trung Quốc đang sống tại Mỹ đến nhà tù nổi tiếng của Mỹ ở Guantanamo (Cuba).
6. Tiếp tế vũ khí cho công nhân thất nghiệp ở Trung Quốc (có lẽ chỉ cần áp dụng điều thứ 6 này là đủ). "....
NGA CHƯA CHUẨN BỊ KỊP:
Poutine valide la nouvelle doctrine militaire russe
© Photo: RIA Novosti/ Alexei Druzhinin
MOSCOU, 29 décembre - RIA Novosti/La Voix de la Russie Vladimir Poutine a signé la nouvelle doctrine militaire russe: elle conserve son caractère défensif mais, selon le Conseil de sécurité de la Russie, comprend d'autres articles et termes en rapport avec le changement de "nature des dangers et des menaces militaires", écrit lundi le quotidien Nezavissimaïa gazeta.
Comme dans sa version précédente signée en 2010 par le président Dmitri Medvedev, la nouvelle doctrine considère l'activité de l'Otan comme un danger extérieur. La liste des risques comprend toujours le "déploiement de systèmes stratégiques de défense antimissile" ou encore "de systèmes stratégiques conventionnels d'armes de haute précision". Le concept de frappe globale - partie intégrante de la stratégie américaine de défense - est également présenté comme une nouvelle menace.
Le Conseil de sécurité russe souligne toutefois que la doctrine actualisée "garde son caractère défensif" et que la Russie ne recourra à la force militaire qu'après avoir épuisé "toutes les mesures non-violentes". De plus, il reconnaît la "nécessité d'entretenir un dialogue d'égal-à-égal avec l'UE et l'Otan, et de concourir à la construction d'un nouveau modèle de sécurité dans la région Asie-Pacifique".
La nouvelle doctrine militaire introduit un nouveau concept: la "dissuasion conventionnelle". Selon le Conseil de sécurité russe, cette nouveauté s'explique par la "nécessité de maintenir une aptitude au combat très élevée au sein des forces conventionnelles". C'est apparemment pour cette raison que la doctrine de 2014 évoque des dangers militaires extérieurs liés au changement forcé de l'ordre constitutionnel, au terrorisme ethnique et religieux, au torpillage des traditions historiques, spirituelles et patriotiques, etc. Ces interprétations pourraient être liées aux événements actuels en Ukraine.
Par ailleurs la doctrine actualisée, tout comme le texte précédent, souligne la faible probabilité du déclenchement d'une guerre de grande envergure contre la Russie. Le document souligne également que les "armes nucléaires resteront un facteur important de prévention des conflits militaires nucléaires et conventionnels". Les principes de recours aux forces armées et les conditions d'utilisation des armes nucléaires restent identiques.
Les médias citaient hier le commentaire d'un haut responsable de l'administration américaine, selon qui "la Maison blanche soutient la position russe quant aux menaces de l'extrémisme et des armes de destruction massive, mais n'est pas d'accord avec les estimations des dangers potentiels représentés par l'Otan". Eric Chiriaev, professeur de relations internationales et de psychologie politique à l'Université Georges Mason, estime que "cette doctrine de Poutine n'est pas un phénomène tout à fait nouveau: la menace d'une guerre mondiale nucléaire a diminué, mais la Russie fait face à de nouveaux dangers et d'autres conflits".
Lire la suite: http://fr.sputniknews.com/french.ruvr.ru/2014_12_29/Poutine-valide-la-nouvelle-doctrine-militaire-russe-6795/
De : "'nguoiphuongnam' nguoiphuongnam@iinet.net.au [chinhnghia]"
À : nguoiphuongnam
Envoyé le : Mercredi 30 décembre 2015 1h19
Objet : [ChinhNghia] FW: "THẾ CHIẾN THỨ 3 CÓ THỂ BÙNG NỔ NGAY NGÀY MAI" & Giờ G đã điểm -
From: Thập Ngv
Telegraph :
"THẾ CHIẾN THỨ 3
CÓ THỂ BÙNG NỔ NGAY NGÀY MAI"
Chỉ cần một va chạm nhỏ, Thế chiến thứ III có thể bùng nổ bất cứ lúc nào giữa NATO và Trung Quốc hoặc Nga. Và đây sẽ là cuộc chiến chưa từng có tiền lệ.
Trong 20 năm qua, các nhà lãnh đạo ở London và Washington chỉ chú trọng tới hoạt động quân sự ở Sierra Leona, Bosnia, Iraq, Afghanistan và hiện thời là Syria. Tuy nhiên, thế giới hiện đang chứng kiến một xu thế mới đó là: Sự trở lại của cuộc đua giữa các cường quốc chính trị và nguy cơ đẩy các quốc gia này vào vòng xoáy chiến tranh.
Theo Telegraph, sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhiều người từng cho rằng cuộc xung đột giữa các cường quốc với Nga hay Trung Quốc là điều sẽ không bao giờ xảy ra. Song cuộc chiến này lại dường như đang gần hơn với thực tế.
Chiến đấu cơ Squadron Typhoon của Không quân Anh (phía trên) và máy bay chiến đấu Bear của Nga trên không phận quốc tế ngoài khu vực bờ biển Anh.
Bởi tình hình hiện nay đã hoàn toàn khác so với mấy chục năm về trước khi mà hàng loạt máy bay ném bom của Nga đang ngày ngày tuần tra khắp các vùng biên giới của NATO. Hành động này có thể dẫn tới những va chạm trên không giữa oanh tạc cơ của Nga với các chiến đấu cơ Typhoon của Không quân Hoàng gia Anh.
Nguy hiểm hơn, bầu trời Syria giờ trở nên quá đông đúc với sự xuất hiện cùng lúc của các loại máy bay quân sự Nga và Mỹ tham gia chiến dịch không kích nhằm tiêu diệt Nhà nước Hồi giáo tự xưng IS trong khi đó, NATO cũng cho triển khai hệ thống phòng không ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Trên biển, các vụ đụng độ dường như không thể tránh khỏi khi mà lực lượng tàu thuyền của Nhật Bản và Mỹ đang tìm cách ngăn chặn Hải quân Trung Quốc xâm chiếm nhiều hòn đảo và bãi đã ở khu vực Thái Bình Dương. Chính hoạt động quân sự hóa trên những khu vực mà Trung Quốc ngang nhiên xâm phạm, đã tạo ra một cuộc đua vũ trang ở châu Á trong thời gian gần đây.
Các cuộc xung đột còn có thể được xem là một phần trong những quyết định chính trị lớn nhằm định hình lại thế giới. Bởi hiện nay, sức mạnh quyền lực ở châu Á đến từ tiềm năng quân sự và kinh tế đang dần bắt kịp phương Tây. Đây là nhận định của hai chuyên gia PW Singer và August Cole, đồng tác giả của cuốn “Ghost Fleet: A Novel of the Next World War” (tạm dịch: Hạm đội ma: Tiểu thuyết về Thế chiến tiếp theo).
Điển hình, trong những bài phát biểu liên quan tới “Giấc mơ Trung Hoa”, nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình từng nhiều lần nhắc tới mối liên hệ giữa sức mạnh quân sự và vị thế vượt trội của quốc gia này. Nói cách khác, Trung Quốc đang muốn dần dần thế chân Mỹ để trở thành cường quốc số 1 thế giới.
Theo Giáo sư Graham Allison tại Đại học Harvard, kể từ năm 1500, 11/15 trường hợp tham vọng như Trung Quốc sẽ dẫn tới một cuộc xung đột.
Thậm chí, quyết định khơi mào xung đột không xuất phát từ việc tiềm lực của một quốc gia đang ngày càng lớn mạnh mà đôi khi lại ở sự xuống dốc. Cụ thể, Nga từng là một cường quốc nhưng giờ tình hình kinh tế và chính trị lại tụt dốc. Ví dụ, tuổi thọ trung bình của một đứa trẻ sinh ra ở Nga giờ chỉ tương đương với bạn cùng lứa ở Haiti. Ngay cả việc đẩy mạnh tiềm lực quân sự ở khu vực biên giới và đặt NATO vào tình trạng cảnh báo cao nhất kể từ giữa thập niên 80, cũng được xem là chiến lược không mấy khôn ngoan của Tổng thống Nga Putin.
Vậy bằng cách nào Thế chiến thứ Ba bùng nổ?
Không giống như lực lượng khủng bố Taliban hay IS và thậm chỉ cả đội quân của cố Tổng thống Iraq Saddam Hussein, các cường quốc trên thế giới giờ có thể triển khai lực lượng quân sự tới mọi vùng lãnh thổ. Và giờ là thời điểm thế giới chứng kiến những cuộc chiến giành quyền kiểm soát không phận và hải phận chưa từng xảy ra trong hơn 70 năm qua.
Tuy nhiên, một số dự án mua sắm khí tài lại mới được đầu tư nửa vời. Cụ thể, Anh đã chi 12 tỷ bảng để mua các chiến đấu cơ mới nhưng chương trình này đã không ít lần bị bại lộ và ngay cả tầm hoạt động của các máy bay mới cũng không thể sánh bằng quy mô trong Thế chiến thứ Hai. Thậm chí, chiếc tàu sân bay trị giá 6 tỷ bảng cũng thiếu cả hệ thống phòng thủ chủ chốt để tham gia một cuộc chiến hiện đại.
Chiến đấu cơ F-35 của Mỹ tham gia huấn luyện tại căn cứ không quân Eglin ở Florida.
Ngoài ra, thế giới cũng đang phải chứng kiến cuộc chiến trong 2 lĩnh vực rộng lớn là khoảng không vũ trụ và không gian mạng.
Trong đó, khoảng không vũ trụ giờ được xem là một phần trong hệ thống đầu não của quân đội các nước. Không chỉ có các vệ tinh tình báo quân sự, hơn 80% hoạt động trao đổi thông tin quân sự của NATO còn được thực hiện qua các vệ tinh thương mại. Trong khi đó, năng lực diệt vệ tinh của Trung Quốc lại không ngừng được phát triển kể từ năm 2007. Thậm chí, Nga được cho đang phát triển loại vũ khí bắn hạ các hệ thống trong không gian, nhằm làm suy yếu năng lực của các lực lượng quân sự NATO. Về phần mình, Mỹ đã chuẩn bị sẵn khoản ngân sách 5 tỷ USD cho các kế hoạch chiến tranh vũ trụ.
Tình hình nay đã khác xưa, cuộc chiến không gian mạng không chỉ dừng lại trong những câu truyện viễn tưởng mà hiện đã trở thành một phần trong chiến lược quân sự. Và thực tế, cuộc chiến này đã bắt đầu. Điển hình, các nhóm tin tặc của Trung Quốc từng nhiều lần đột nhập và ăn cắp dữ liệu từ chương trình phát triển chiến đấu cơ hiện đại F-35 cho tới hồ sơ cá nhân của các nhân viên an ninh tại Mỹ mà cụ thể là 1,1 triệu dấu vân tay.
Trong khi đó, Nga sử dụng các cuộc tấn công mạng để đột nhập hệ thống thông tin lien lạc và thương mại của Ukraine còn Mỹ sử dụng Stuxnet, “siêu vũ khí” chiến tranh mạng, để tấn công các cơ sở nghiên cứu hạt nhân của Iran.
Do đó, vấn đề hiện nay không còn nằm ở việc các cường quốc quân sự có số lượng máy bay và tên lửa vượt xa quy mô mà IS hay quân đội của Tổng thống Syria Bashar-al Assad có thể cạnh tranh.
Đối với cuộc đua vũ trụ và không gian mạng, không có bất cứ ranh giới địa lý nào. Hơn nữa, mạng lưới viễn thông và thông tin liên lạc trong ngành dân sự và quân sự dường như không còn sự phân cách dù thông qua hệ thống cáp quang dưới lòng biển hay các nhà cung cấp dịch vụ trong nước. Hoạt động chia sẻ thông tin quân sự và tình báo hay gửi thư điện tử (e-mail) cũng đang diễn ra trên cùng một băng tần. Các loại máy bay không người lái tối tân nhất của Không quân Hoàng gia Anh và hoạt động theo dõi tư gia của các gia đình cũng dùng chung hệ thống đinh vị toàn cầu GPS.
Theo Telegraph, dù muốn hay không, sự bùng nổ của Thế chiến thứ Ba sẽ là lỗi lầm mang tính lịch sử về khả năng kiềm chế và ngoại giao giữa các nước. Song nguy cơ này là không thể loại trừ. Điển hình, trong tuyên bố chính thức hồi năm ngoái, một vị tướng quân đội Trung Quốc từng nhấn mạnh: “Chiến tranh thế giới là một dạng chiến tranh mà cả thế giới phải đối mặt”. Và lời tuyên bố này thật đáng để cân nhắc.
Nội dung được thực hiện qua tham khảo nguồn tin từ trang điện tử của tờ Telegraph (Anh), một nhật báo khổ rộng phát hành buổi sáng hàng ngày tại Vương quốc Anh và nhiều quốc gia khác.
Theo infonet
Giờ G đã điểm
Hội nghị Trung ương 13 vẫn không giải quyết được cái gốc của sự tranh giành quyền lực: đó là trong tứ trụ triều đình hiện nay, giữa Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Sinh Hùng, Nguyễn Tấn Dũng ai sẽ ở lại trong Bộ chính trị tương lai và ai sẽ phải khoác áo ra đi.
Đây không còn là vấn đề cá nhân nữa mà ít nhất thể hiện hai đường lối đối với Bắc Kinh: “Không đổi toàn vẹn lãnh thổ lấy hữu nghị viển vông” và “Tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt – Trung sống bên cạnh nhau bao giờ cũng là thật, không khi nào viển vông“. Bên cạnh đó cũng là giữa hai đường lối “bảo thủ triệt để” hay “đổi mới toàn diện”.
Nếu “Thư của TT Nguyễn Tấn Dũng gửi TBT Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính trị” không phải ngụy tạo thì chứng tỏ rằng qua hội nghị nói trên có kẻ hạ màn đánh lén trong bóng tối và người bị đánh lén và người bị đánh lén đã trả lời công khai trước bàn dân thiên hạ.
Có hai điều nổi bật trong thông cáo chính thức bế mạc Hội nghị Trung ương 13 đã diễn ra từ ngày 14 đến 15/12
1/ “giao Bộ Chính trị tiếp tục chuẩn bị nhân sự trường hợp đặc biệt là Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI quá tuổi, tái cử, để đảm nhiệm chức danh chủ chốt của Đảng và Nhà nước, trình Hội nghị Trung ương 14 xem xét, quyết định.”
Ai cũng biết rằng ông Nguyễn Tấn Dũng yếu thế trong Bộ chính trị, nên sẽ bất lợi cho ông Dũng nếu tương lai của ông do bộ này quyết định. Ông Trọng có vẻ yếu thế không dám để Ban Chấp hành Trung ương bỏ phiếu về việc chọn lãnh đạo trực tiếp của mình.
2/ “Ban Chấp hành Trung ương Đảng thảo luận và thông qua dự thảo Quy chế làm việc của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, dự thảo Quy chế bầu cử tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII; giao Bộ Chính trị, căn cứ ý kiến đóng góp của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, hoàn chỉnh dự thảo các Quy chế nói trên để trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.”
Phải làm lại quy chế bầu cử có nghĩa là quy định về bầu cử do ông Nguyễn Phú Trọng ban ra trong đó cấm đảng viên tự ứng cử, nhận đề cử, nhằm cắt hết cỏ dưới chân ông Dũng đã bị phản đối nên phải làm lại. Quy định này vi phạm điều lệ của đảng một cách nghiêm trọng, nhưng ông Trọng túng thế làm bừa.
Nó cho thấy ban chấp hành trung ương khóa XI đang phân hóa dữ dội, ông Trọng không áp đặt được quan điểm của ông trong Ban chấp hành hiện nay nên dằng dai thời gian bằng cách để Ban Chấp hành Trung ương XII tương lai quyết định.
Đại Hội XII được tổ chức vào ngày 20/1/2016 tức là chỉ còn một tháng thì dù cho có tổ chức được Hội nghị Trungương 14 cũng sẽ không giải quyết được vấn đề cốt tử của tứ trụ muốn nắm mãi trong tay vận mệnh của đảng và qua đó của đất nước.
Cùng lắm là phe ông Trọng trong Bộ chính trị áp đặt để quyết dành phần thắng nhưng thái độ của Ông Dũng và những người ủng hộ đổi mới triệt để sẽ như thế nào vẫn là một ẩn số. Trong cuộc chiến một mất một còn này, ông Dũng và phe của ông chưa chắc đã cúi đầu cam chịu. Và khi đó Đại Hội XII chắc chắn sẽ là một đại hôi cực nóng, nóng, nóng.
Ông Bùi Đức Lại, một chuyên viên cao cấp của Ban tổ chức trung ương trong một bài nhận xét góp ý cho văn kiện đại hội đảng đã cảnh báo một cách đáng sợ rằng: “Giai đoạn tới cuộc đấu tranh giữa các thế lực sẽ có thể diễn biến gay go hơn, quyết liệt hơn, công khai hơn. Không loại trừ một số hành vi cực đoan đối với nhau và đối với những người khác chính kiến (bị đe dọa trong 2 đoạn của Dự thảo)”.
Ra tay đầu tiên là phe Nguyễn Phú Trọng với sự bắt bớ LS Nguyễn Văn Đài. Đặc biệt thời điểm bắt ông Đài cho phép truyền thông trong nước và quốc tế hô hoán lên và đây lại là chủ ý tuyên truyền hăm dọa của phe ông Trọng. Ông Bùi Đức Lại đã chuẩn đoán đúng. Chỉ còn lại câu hỏi bao giờ đến lượt ra tay với ba người con ông Dũng và ngay cả ông Dũng để giúp Trung Quốc yên lòng về “Tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt – Trung sống bên cạnh nhau bao giờ cũng là thật, không khi nào viển vông“
Chỉ còn một tháng nữa thôi, sẽ biết VN có được vực dậy hay không hoặc là tiếp tục xuống bùn đen với XHCN. Giờ G đã điểm.
Nguyễn Trung Chính
(Ba Sàm)
No comments:
Post a Comment