LÊ PHÚ KHẢI * ĐẠI HỘI XII
23/12/2015
Trước thềm Đại hội 12
Lê Phú Khải – một người ngoài Đảng
Nhiều người quan tâm đến tình hình đất nước đã hỏi tôi: “Theo ý anh, ai
trong Bộ Chính trị hiện nay sẽ làm Tổng bí thư tại Đại hội 12 sắp tới là
tốt nhất?”.
Tôi trả lời: “Trong gần bốn triệu đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam
hiện nay, có nhiều người tài giỏi và có đức, yêu nước thực lòng. Nếu để
ứng cử tự do và bầu phổ thông đầu phiếu trong toàn Đảng thì sẽ chọn được
một Tổng bí thư xứng đáng, dân được nhờ. Nếu chỉ chọn trong Bộ Chính
trị, hay Ban Chấp hành Trung ương thì… Bác Hồ sẽ là… người Thanh Hóa!”.
Nhiều người đã rất ngạc nhiên. Nhiều người còn mắng tôi: “Thấy ông là nhà báo mới hỏi, sao lại…?”.
Tôi bèn kể cho họ nghe câu chuyện “Bác Hồ là người Thanh Hóa”. Chuyện
như sau: Có bốn anh bộ đội đi chơi với nhau. Một anh quê ở Nghệ An, ba
anh kia quê ở Thanh Hóa. Anh quê Nghệ An nói: “Bác Hồ là người quê
choa”. Một anh quê Thanh Hóa nói: “Không phải, Bác Hồ là người quê
tôi!”.
Thế là cãi nhau. Cuối cùng phải bỏ phiếu. Kết quả: Bác Hồ là người Thanh
Hóa, vì ba anh anh Thanh Hóa đều bỏ phiếu Bác là người quê mình. Rõ
ràng dân chủ, công khai, minh bạch, thiểu số phục tùng đa số: Bác Hồ vẫn
là người Thanh Hóa.
Phương Tây văn minh trải qua những vận động đi lên của lịch sử đã gọi
cái đa số trong câu chuyện kể trên là đa số thiểu số (majorité minimal).
Nguyên tắc tập trung dân chủ, thực chất là mất dân chủ ngay trong Đảng
đã tạo ra cái đa số tối thiểu ấy. Nhiều lần đại hội mất dân chủ, đã dẫn
đến nông nỗi này cho Đảng hôm nay… phải họp Trung ương liên tục, họp mãi
vẫn chưa tìm được “lãnh tụ” xứng tầm.
Năm 2015, tính ra có đến 6993 cái đại hội trong cả nước. Này nhé, 63
tỉnh thành là 63 cái đại hội tỉnh đảng bộ. Mỗi tỉnh ước tính có 10 huyện
thị, vị chi là có 630 cái đại hội huyện đảng bộ, mỗi huyện ước tính có
10 xã. Vậy ước tính cả nước có 6993 cái đại hội. Đó là chưa kể các đại
hội của các ngành ở Trung ương. Đại hội nào cũng cờ dong trống mở, chăng
đèn kết hoa xanh đỏ tím vàng như sân khấu cải lương chèo tuồng! Cả ăn
uống liên hoan nữa. Tất cả đều lấy từ ngân sách nhà nước, từ thuế của
dân để chi… Vậy mà vẫn không tìm ra được người tài đức để cứu Đảng cứu
nước!
Cái nguyên tắc tập trung dân chủ thật là đáng sợ, thật là đại bi kịch cho đảng cầm quyền.
L. P. K.
Tác giả gửi BVN.
NGUYỄN VŨ BÌNH * FACEBOOK
Những người chối bỏ facebooks
Thu, 12/24/2015 - 03:01 — nguyenvubinh
Trong vài ba năm trở lại đây, mạng xã hội facebooks đã phát
triểnvới tốc độ chóng mặt tại Việt Nam. Theo thống kê, hiện đã có hơn 30
triệu tài khoản facebooks tại Việt Nam. Với nhiều tính năng ưu việt
được tích hợp, facebooks đã chinh phục được cả những người khó tính
nhất. Ngoài nguyên nhân về ưu thế kỹ thuật, như miễn phí, tốc độ lan
truyền nhanh...thì ở môi trường Việt nam cũng có những lý do đặc thù
khiến facebooks phát triển bùng nổ. Trước hết, xã hội Việt Nam là xã hội
cộng sản với đặc trưng là bưng bít thông tin và dối trá, bịp bợm. Chính
vì vậy, việc xuất hiện và sử dụng facebooks để chia sẻ, công khai những
thông tin trung thực, khách quan là nhu cầu lớn và tất yếu của người
dân. Khi những thông tin chính thống và chính thức không bảo đảm độ tin
cậy, trung thực và khách quan thì người dân tìm đến những nguồn thông
tin khác mà facebooks là điển hình. Mặt khác, xã hội Việt Nam hiện nay
không có môi trường và không đủ diễn đàn để người dân thể hiện khả năng,
mà facebooks lại là nơi người dân tự thể hiện bản thân dễ dàng và đơn
giản nhất. Chính hai lý do quan trọng này, đã khiến cho số lượng tài
khoản facebooks ở Việt Nam tăng vọt.
Tuy nhiên, không phải ai cũng tham gia và thích thú với facebooks. Ở
Việt Nam, có một số lượng người không nhỏ, đã không tham gia vào sân
chơi vô cùng bổ ích và lý thú này. Có nhiều người, đã tham gia, có tài
khoản một thời gian thì bỏ, đóng tài khoản. Có người có tài khoản nhưng
hầu như không tham gia và ngó ngàng gì tới facebooks nữa. Chỉ có một số
ít người thực sự không thích facebooks nên không tham gia. Còn lại, số
lớn người từ chối facebooks vì lý do khác, không phải vì bản thân
facebooks mà vì những thông tin được chia sẻ trên đó. Người ta từ chối
facebooks vì những thông tin, hoặc ảnh hưởng từ những thông tin được
chia sẻ và lan truyền trên facebooks. Vì sao lại vậy? Những thông tin đó
là những thông tin gì? Vì sao họ lại tránh?
Trước hết, phần lớn những người tránh, từ chối facebooks là những
người đang làm việc, đang là cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ
quan, hệ thống và guồng máy của đảng cộng sản và nhà nước Việt nam.
Những người này, từ chối facebooks trước hết là họ không muốn tiếp xúc
với những thông tin tiêu cực có thật trong xã hội hiện nay. Bản thân họ,
trong công việc và cuộc sống hàng ngày đã tiếp xúc với rất nhiều tiêu
cực, mặt trái của xã hội, nên họ không muốn lên facebooks để chứng kiến
thêm những vấn nạn của xã hội nữa. Nhưng lý do này chỉ là một phần nhỏ,
không quan trọng lắm. Điều quan trọng là, khi tiếp xúc với các thông tin
tiêu cực trên facebooks, họ lại được biết cách thức lý giải, giải thích
khác có nguồn gốc từ chính hệ thống, guồng máy mà họ đang làm việc và
phục vụ. Bằng trực giác và nhận thức của bản thân, những người này cũng
đã lờ mờ nhận ra nguyên nhân gốc rễ của những vấn nạn, những đau khổ của
người dân là do hệ thống chính trị mà họ đang phục vụ, là chế độ độc
tài toàn trị cộng sản Việt Nam. Nhưng nếu thừa nhận điều này, họ sẽ bị
mâu thuẫn nội tại giằng xé. Một bên là lương tâm, trách nhiệm, đạo lý,
đạo đức làm người, khi thấy những tiêu cực, sai trái, bất bình phải tìm
hiểu ngọn nguồn, tới gốc rễ. Khi đã tìm hiểu như vậy, khi thấy cái đúng,
chân lý phải lên tiếng....một bên là cuộc sống, là tiền lương, là thu
nhập. Và phần lớn họ lựa chọn sự an toàn cho bản thân và gia đình, bằng
cách quay lưng lại với những nguồn thông tin vô cùng bổ ích, đúng đắn và
lý thú. Họ từ bỏ những nguồn thông tin này cũng chính là từ bỏ việc
tham gia và sử dụng facebooks, một công cụ vô cùng lý thú và tiện ích
đối với mọi người dân.
Nhưng có những khát vọng trong con người, có thể bằng cách này hay
cách khác, lúc này hay lúc khác dập tắt hoặc quên đi mà nó vẫn tồn tại.
Khát vọng hiểu biết, khát vọng tự thể hiện hay khát vọng tự do sẽ lại
lôi kéo thành phần này vào vòng ảnh hưởng của facebooks. Người ta làm
sao có thể chối bỏ mãi được những thông tin, những chia sẻ, những kiến
thức và muôn vàn điều lý thú đang lướt đi trên hệ thống mạng xã hội hàng
ngày hàng giờ. Chúng ta tin rằng, sẽ ngày càng có nhiều người vượt qua
nỗi sợ hãi mơ hồ, hoặc thậm chí những rủi ro khi tham gia vào sân chơi
facebooks, bởi vì đó là lời mời gọi từ sự kết nối, chia sẻ của nhận
thức, của tự do và của cả tình người./.
Hà Nội, ngày 24/12/2015
N.V.BVIETTUSAIGON * ĐÀN ÔNG VIỆT
Đàn ông Việt với quán nhậu, gái gọi và Tân Hiệp Phát
Thu, 12/24/2015 - 11:41 — VietTuSaiGon
Đàn ông Việt Nam (ngoại trừ một số rất ít biết quan tâm đến xã hội, dân
tộc, quốc gia) đã làm được gì sau khi đàn bà đã hy sinh quĩ thời gian
quí báu, tuổi xuân để mà cán đán việc gia đình, cho người chồng, người
con, thậm chí người em, người anh đi ra xã hội? Thật đáng buồn và xấu hổ
khi phải nói rằng đại đa số đàn ông Việt Nam chỉ quan tâm đến tiền,
quán nhậu và gái gọi! Câu chuyện con ruồi Tân Hiệp Phát là một ví dụ
điển hình.
Dựa vào cơ sở nào để nói rằng đại đa số đàn ông Việt Nam chỉ quan tâm
đến tiền, quán nhậu và gái gọi? Và câu chuyện con ruồi Tân Hiệp Phát
(THP) cũng như vấn đề chính trị, xã hội Việt Nam có liên quan gì đến
nhận thức, lựa chọn của đại đa số đàn ông Việt Nam?
Từ quyền chọn lựa, ý thức cá nhân
Để trả lời câu hỏi thứ nhất, phải nói đến một vấn đề khác đáng xấu hổ
hơn cho đại đa số đàn ông Việt Nam ăn hàng nhiều hơn đàn bà. Và có vẻ
như đàn bà Việt Nam đã thay đổi thói quen, chuyện đi chợ, ghé siêu thị
mua thực phẩm về nấu cho cả gia đình cùng thưởng thức đang là chuyện phổ
biến của phụ nữ Việt Nam. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho phụ nữ Việt
nhưng lại đáng xấu hổ cho đàn ông Việt Nam.
Bởi vì Việt Nam tuy là một nước có nền kinh tế èo ọp nhưng lượng bia
rượu tiêu thụ mỗi năm nếu chia tổng số lượng tiêu thụ với bình quân đầu
người thì có thể nói rằng Việt Nam nhậu thuộc vào hàng sư tổ của thế
giới. Vui – nhậu, buồn – nhậu, có bạn mới – nhậu, đầy tháng con – nhậu,
tao nôi con – nhậu, chó bị xe cán – nhậu, heo bị dịch – nhậu, con gà bị
tai nạn vì chui vào lưới – nhậu, thằng bạn mới sinh được con trai nối
dõi – nhậu, vợ thằng bạn mới lành bệnh – nhậu, thằng bạn li dị vợ –
nhậu, mừng thằng bạn có vợ mới – nhậu, mừng có bài thơ đăng trên báo văn
nghệ thành phố - nhậu, thậm chí giết cả con bò mời cả làng cùng nhậu vì
có bài thơ đăng trên báo văn nghệ trung ương… Kính thưa các lý do để
nhậu. Nói ra vài câu là thấy “bữa nào rảnh anh em mình cùng nhậu!”.
Hình như chữ nhậu đã gắn sẵn trên vùng ngôn ngữ của đại đa số đàn ông
Việt Nam! Và hình như phụ nữ Việt Nam cũng đã quen chịu đựng với việc
chồng đi nhậu tùy hứng, thậm chí bỏ bê công việc, nói không chừng, có
nhiều trường hợp dù biết chồng nhậu xong rủ nhau đàn đúm gái gú, tìm
ca-ve nhưng vẫn làm thinh cho xong chuyện. Bởi nói có khi bị đánh đập
hoặc bị cắt “viện trợ” hằng tháng, con cái không có tiền mà ăn học. Và
có lẽ cũng chính vì sự bất công này mà đa số các chị em phụ nữ ở chợ lại
am hiểu về chính trị hơn cánh đàn ông ở các quán nhậu.
Đi bất cứ khu chợ nào cũng có thể nghe các bà bàn tán về chuyện Trung
Quốc xâm lược, các phố Tàu ở Đà Nẵng, Bình Dương, Hà Tĩnh, Nghệ An,
Quảng Trị, Quảng Nam, Tây Nam Bộ… Hầu hết các câu chuyện này đều là của
chị em phụ nữ ngồi “tám” với nhau ở các chợ. Ngược lại, cánh đàn ông,
đại đa số nhậu với nhau xong, nếu có yêu nước thì cũng yêu nước trên bàn
nhậu, nói dóc năm điều bảy chuyện, bình luận đủ điều về chính trị…
Nhưng sau bữa nhậu, vấn đề họ quan tâm là tiền đâu để chiều nay, chiều
mai nhậu tiếp, chỗ karaoke Cẩm Tú, Cẩm Li, Cẩm Kì, Cẩm Cọ… có mấy em
chân dài bốc lửa, giá cũng được… vân vân và vân vân…!
Và nói về chuyện ăn hàng, có lẽ ít ai ăn hàng như các ông nhậu, chỉ cần
nhìn thấy bà bán chả đi ngang qua thì cách gì cũng làm vài cây lót bụng
trong lúc chờ mồi, thấy lạc rang đi qua cũng làm một bao ngồi nhâm nhi
đưa cay, me xoài cóc ổi bán chạy nhất, được lãi nhiều nhất cũng nằm ở
các quán nhậu chứ không phải ở chợ. Nói đến chuyện này thật là ốt dột
cho cánh đàn ông, đặc biệt là cánh đàn ông trẻ chưa có sự nghiệp và thừa
thời gian, thừa hèn nhát nhưng lại thiếu tri thức, thiếu hiểu biết
chính trị và thiếu cả lòng tự trọng cũng như ý thức cá nhân.
Sở dĩ đàn ông Việt, đại đa số ra nông nổi như đang thấy phải nói rằng do
họ chưa kịp hoàn hồn sau quá trình kinh tế tập thể, tập trung bao cấp
thì lại ngoi ngóp trong cái thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì
sao lại nói rằng nguyên nhân của hèn nhát, thiếu hiểu biết chính trị,
thiếu tự trọng và thiếu ý thức cá nhân là do nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa?
Bởi lẽ, chính cái nền kinh tế tập trung bao cấp, không có sở hữu tư nhân
một thời rồi sau đó mạnh thằng nào thằng nấy vơ cào, tư túi dưới ánh
sáng định hướng xã hội chù nghĩa của một thị trường kinh tế hỗn loạn, cá
lớn nuốt cá bé đã lấy mất dũng khí cũng như ý thức tư hữu, quyền cá
nhân của đại bộ phận đàn ông, những người chủ chốt trong vấn đề nuôi gia
đình. Thậm chí có những thằng đàn ông đổ liều, chấp nhận dùng năng lực
dưới lưng quần vợ để nâng cao địa vị, sự nghiệp tổ tiên và xem đó là
điều hiển hách. Chuyện này không hiếm trong nền chính trị Việt Nam hiện
tại. Và cũng không hiếm những thằng đàn ông moi trộm tiền vợ để đi chơi
với gái…!
Đến tính vong thân, vong tộc…
Tất cả những thứ đó đều là biểu hiện của một dân tộc đang đi đến chỗ
đánh mất nhân phẩm, đánh mất lòng tự trọng, đánh mất ý thức về bản thân.
Và một khi ý thức về bản thân không có thì quyền lựa chọn cá nhân,
quyền phát biểu những gì mình đã lựa chọn hoặc quyền khước từ hầu như
không còn. Cũng chỉ có Việt Nam mới có câu chuyện THP đã nhiều lần phạm
lỗi với khách hàng, có quá nhiều sản phẩm lỗi mà họ vẫn ngang nhiên ‘làm
từ thiện’ đánh bóng tên tuổi, ngang nhiên tung sản phẩm và ngang nhiên
gài thế đẩy những nạn nhân của họ vào chốn lao lý.
Bởi nếu ở các nước tiến bộ, người tiêu dùng coi trọng bản thân, coi
trọng sức khỏe và nhân phẩm của họ thì họ đã khai trừ bất kì hãng sản
xuất nào có sản phẩm không đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng. Và họ sẽ
kiện đòi bồi thường cho dù chưa dùng sản phẩm mà chỉ mới mua về nhưng
phát hiện nguy hiểm. Bởi lẽ, nền pháp lý của những nước đó không những
chặt chẽ mà còn đề cao nhân phẩm, giá trị của cá nhân. Chính vì có được
hệ thống luật pháp coi trọng và bảo vệ cá nhân nên công dân sẵn sàng đi
kiện, sẵn sàng đối mặt với sự thật.
Ngược lại, ở Việt Nam, trong trường hợp này nếu đi kiện thì mất tiền án
phí mà có thể mất cả mạng sống bởi xã hội đen hỏi thăm, cuối cùng cũng
không được gì. Nếu gọi điện cho công ty bán sản phẩm lỗi thì họ có thể
gài bẫy và tống vào tù… Trường hợp con ruồi THP là một điển hình. Và sở
dĩ THP có thể cậy quyền cậy thế để làm mưa làm gió bấy lâu nay là vì đa
số người Việt, đặc biệt là đàn ông Việt không quan tâm đến pháp luật,
chính trị, tình hình thế giới bằng quan tâm đến tình hình các quán nhậu,
bia ôm, hớt tóc thanh nữ, các tụ điểm ăn chơi…
Và khi người ta không quan tâm đến bản thân, không quan tâm đến danh dự,
không quan tâm đến giá trị cá nhân, giá trị cộng đồng, điều này cũng
đồng nghĩa với việc người ta thây kệ ai chết mặc ai, miễn mình chưa
chết, còn có cái để ăn chơi, sung sướng là đủ. Cũng chính thứ tâm lý kỳ
quái này đã kết tạo thành một sinh quyển xã hội đầy tính vong thân, sợ
quyền thế, sợ nói ra điều mình nghĩ. THP tồn tại được với hàng loạt sản
phẩm hư hỏng mà vẫn không bị phá sản là nhờ vào thứ tâm lý này. Không
riêng gì THP mà bất kì tập đoàn hay công ty ma mãnh nào cũng có thể dùng
cái dù quyền thế của họ để đè người tiêu dùng, để nhân danh thứ này thứ
nọ.
Ngay cả trong giới trí thức, giới luật sư vẫn không thiếu những luật sư
khốn nạn hoặc không thiếu những nhà báo đầu chứa toàn nịnh bợ và sợ sệt.
Một bài báo nói rằng “nếu khai trừ THP thì đó là một lựa chọn ngu ngốc”
đã xuất hiện.
Điều này cho thấy tâm lý coi thường người tiêu dùng và lấy miếng ăn đe
dọa người khác trong giới bồi bút vẫn còn nặng. Họ vẫn nuôi tâm lý khi
lấy miếng ăn đe dọa, tỉ như nếu tẩy chay THP thì có hơn 50 ngàn con
người sẽ đói khổ, thiếu việc làm… để phân tích. Trong khi đó họ chưa
hoặc không bao giờ nghĩ tới chuyện đã bao nhiêu năm nay, có 50 ngàn con
người đã sống trong một tập đoàn mà ở đó, sự giả dối, không đảm bảo chất
lượng và tính thủ đoạn, đẩy người nghèo vào chỗ lao lý. Điều đó cũng
đồng nghĩa với hơn 50 ngàn con người đã được nuôi trong bầu khí quyển
tội ác, hưởng lợi trên tội ác. Và khi xóa sổ tội ác, đương nhiên cái
thiện được mở cửa tự do trong mỗi người. Không có THP thì họ sẽ làm nơi
khác…! Bởi nếu nghĩ được vậy và quyền cá nhân, quyền lựa chọn của người
tiêu dùng được đề cao thì sẽ không bao giờ có những bài báo đại loại như
thế.
Phong trào tẩy chay THP, nếu nói đúng bản chất, nó phát biểu lên tính
coi trọng quyền của người tiêu dùng một cách mạnh mẽ nhất và nó cũng cho
thấy nghĩa khí bảo vệ kẻ yếu đã trở lại. Đây là một tín hiệu mừng sau
40 năm ngủ quên của dân tộc.
SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN
Ngã Tư Quốc Tế
Wed, 12/16/2015 - 08:38 — tuongnangtien
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Tôi thiếu điều muốn tự vận (luôn) vì xấu hổ về đồng bào, đồng loại, và thời đại của mình.
Thỉnh thoảng, tôi vẫn gặp phải một câu hỏi khó:
Trẻ con Bắc Hàn. Nguồn ảnh: VOA
Từ đây, tôi cũng nhìn thấy hàng trăm người đã mang thân mình làm đuốc, với hy vọng gây được sự chú ý của nhân loại về thảm kịch bị mất quyền tự chủ và nguy cơ bị đồng hoá của dân tộc họ.
Bức thư được viết với những dòng chữ tiếng Anh nguệch ngoạc trên một tờ giấy mỏng và người viết nói rằng ông bị giam giữ tại một trại cải tạo lao động ở thị trấn phía Đông Bắc Trung Hoa. Ông cho biết ở đó các tù nhân phải làm việc vất vả bảy ngày một tuần, 15 giờ trong ngày họ bị ám ảnh về sự giám sát ác nghiệt của bọn cai tù tàn bạo.
“Quý vị: Nếu quý vị thỉnh thoảng mua sản phẩm này, xin vui lòng chuyển thư này đến Tổ chức Nhân quyền Thế giới.
Đó là một đọan trong bức thư được nằm giữa hai ngôi mộ đá giả, nó rơi ra khi bà Julie Keith mở chiếc hộp trong phòng khách nhà bà vào tháng 10 năm ngoái. "Hàng ngàn người tù ở đây, những người đang bị nhà cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Cộng hành hạ, sẽ tri ân và nhớ đến quý vị mãi mãi.” (Đằng Sau Tiếng Khóc Kêu Cứu Từ Trại Cải Tạo Lao Động Trung Quốc" - "Behind Cry for Help From China Labor Camp". Như Ngọc chuyển ngữ).
Thư kế tiếp theo xuất hiện trên tờ Belfast Telegraph vào ngày 26 tháng 6 năm 2014. Qua ngày hôm sau trang web của Time đã có bản tin (“Another SOS Note From China Has Been Found In a Piece of Store-Bought Merchandise”) với đầy đủ những chi tiết cần thiết:
Photo: Arthur Edwards
Tôi thiếu điều muốn tự vận (luôn) vì xấu hổ về đồng bào, đồng loại, và thời đại của mình. Cái tốt sao mà nhỏ nhoi, lẻ loi, yếu đuối, cô đơn vậy. Công lý sao mà chậm chạp, nhợt nhạt vậy – hả Trời?
Nguồn: UK Times
Tôi thiếu điều muốn tự vận (luôn) vì xấu hổ về đồng bào, đồng loại, và thời đại của mình.
- Thế những tác giả ngoại quốc ông thường đọc là những ai?
- Gần như chả có ai ngoài Kim Dung và Remarque. Lâu lâu tôi cũng có đọc Ernest Hemingway, Mario Puzo, Boris Pasternak, hay Solzhenitsyn thôi...
- Úy Trời! Sao cũ mèm hết trơn vậy, cha nội?
- Bị hồi đó, ở miền Nam, hầu hết sách của những tác giả này đều được dịch ra tiếng Việt.
- Bộ không đọc được tiếng Anh, tiếng Pháp gì sao?
- Dạ, ráng thì cũng được nhưng ... ngại lắm!
Nói nào ngay thì khi còn trẻ tôi cũng có ráng, với đôi chút làm dáng, khi vào cà phê Tùng với La 25ème Heure hay Of Mice and Men trên tay. Cái thời sung sức, và hơi nặng phần trang sức, này đã qua lâu lắm rồi.
Cũng từ lâu lắm rồi, tôi đã thôi mặc áo quần từ tiệm giặt ủi, thôi soi gương, thôi chải đầu, và gần như chỉ đọc những tác giả đang sống ở Việt Nam: Nguyễn Quang Lập, Đinh Tấn Lực, Huy Đức, Tuấn Khanh, Huỳnh Ngọc Chênh, Cánh Cò, Nguyễn Ngọc Già, Trương Duy Nhất, Võ Thị Hảo, Đoan Trang, Huỳnh Thục Vy ...
Đọc họ rất “khoẻ,” trừ Nguyễn Ngọc Tư. Nhà văn này làm tôi hay bị ... mệt. Đang đọc phải bỏ ngang.
Bà hay đặt những vấn đề gây quá nhiều xúc cảm quá khiến tôi, đôi khi, cảm thấy bị chới với. Riêng bài này (“Có Còn Người Không?”) tôi đọc cho tới dòng chữ cuối vì nó quá ngắn, chưa kịp bỏ xuống thì đã tới câu kết mất rồi:
Câu hỏi đó thằng nhỏ hỏi mỗi ngày mỗi ngày mỗi ngày, khi đói khát, khi bị đánh đập cấu nhéo, khi phơi trần ra dưới nắng mưa. Khi nó nằm trên mặt đường và kêu khóc khản giọng. Nó hỏi vào đám đông lướt qua nó, hỏi ai đó dừng chân cho nó (chính xác là cho những kẻ chăn dắt nó) chút tiền lẻ. Nó hỏi những kẻ bắt nó nằm lăn lóc kêu khóc trên đường để kiếm tiền, để nhởn nhơ ăn mòn tấm thân bé nhỏ non nớt của nó.
Nhưng tôi tưởng tượng thôi, trong lúc ngồi uống một ly cà phê mặn chát. Dường như cả quán hôm đó cũng có cùng cảm giác, sau khi giở tờ báo sáng, và nhìn thấy hình ảnh của thằng bé ăn xin. Nó nhỏ đến mức chỉ biết khóc. Ở truồng và khóc. Ướt và khóc. Bị đánh đau và khóc. Chấp chới giữa dòng người ngược xuôi đông đúc như con vịt con ngơ ngác mà người ta dùng để câu nhắp cá lóc. Em bé – con mồi sống không nói gì hết, mà tôi tưởng như nó hỏi, người ơi, người ở đâu?
Tôi đã nhận được câu hỏi đó bao nhiêu lần trong đời? Không đếm được. Có đứa thậm chí còn không khóc. Nó ngủ mềm oặt, xanh rớt trên tay người đàn ông ngồi ở một góc đường. Một kiểu ngủ mụ mị vì tác dụng của thuốc. Buổi tối tôi đi qua chỗ đó và em lại hỏi bằng vẻ câm lặng im lìm. Như cái chết. Có còn người không?
Đám đông không lên tiếng. Không Lục Vân Tiên nào, đại diện công quyền nào đưa cả hai con người rách rưới về, gạn hỏi coi có thật là cha con như gã đàn ông phân trần, hay chỉ là kẻ chăn dắt với con mồi. Em bé ngủ vì thuốc ngủ hay vì sốt cao? Em cần một mái ấm hay một bệnh viện cho qua cơn đau? Bàn tay mỏng đó không quá khó để người đời nắm lấy. Nhưng dòng người lũ lượt không ai dừng lại.
Chính xác là cũng có người bước tới cho vào cái ca nhựa bạc màu chút tiền lẻ, nghĩ sau đó mình sẽ nhẹ lòng. Tôi cũng vậy, tự lừa mình. Và cái góc đường trước Trung tâm văn hóa thông tin ám ảnh tôi dai dẳng dù em bé chỉ ở lại hai đêm rồi biến mất. Cuộc ra đi gây bất an hơn cả khi xuất hiện, bởi linh cảm em lại vạ vật ở một góc đường khác, bị nhấn chìm trong giấc ngủ khác. Ngủ là một cách hỏi, người đâu mất rồi?
Cũng như những em bé ăn xin mà bất cứ ai cũng có thể gặp một đôi lần trên đất nước này, chúng gọi con người bằng nhiều cách, bằng ánh mắt thất thần, bằng vẻ ngoài trần trụi và lem luốc, bằng tiếng khóc, tiếng hát, bằng bàn tay bẩn thỉu xòe ngửa, bằng những vết thương bầm tím trên da thịt… Ai đó nghe thấy tiếng gọi đó nhưng họ bận rộn, sợ hãi, bất lực, cũng có kẻ không nghe, không cảm nhận gì hết…
Và những đứa trẻ đường phố vẫn tồn tại, như một phép thử.
Thử coi người ta bất lực, rụt rè, ngại khó bao nhiêu? Bao nhiêu người đã từng đi qua, chứng kiến những thân phận nhỏ bé khốn khổ. Dù ngoái lại, dù áy náy, dù thấy thương và bất an… nhưng chậc, mình lại phải đi rồi… Họ không làm gì mà kêu mấy ông nhà nước làm gì đi chớ…
Ảnh: Dân Trí
Tôi không thể đoán được “cái góc đường trước Trung Tâm Văn Hóa Thông
Tin” của Nguyễn Ngọc Tư nằm trong cái thành phố nào, ở đất
nước mình. Tôi đã đành đoạn quay lưng, bỏ cái quê hương khốn
khổ của mình đi biền biệt từ lâu lắm rồi. Người xưa, cảnh cũ
đều đã trở thành nhạt nhoà và phai mờ hết ráo.
Tôi hiện đang ở một đất nước khác. Chỗ tôi tạm cư có tên là Silicon Valley (hay còn gọi là Thung Lũng Hoa Vàng)
nơi có vài chục sắc dân cùng ở bên nhau, cùng chia sẻ một
cuộc sống an bình và phú túc. Những đứa bé ăn xin “trần trụi,
lem luốc “với “những vết thương bầm tím trên da thịt” – tất nhiên – không thể hiện hữu ở một chốn văn minh như thế.
Tuy thế, từ cái Ngã Tư Quốc Tế này (hàng ngày) tôi vẫn nhìn thấy “ánh mắt thất thần ...chấp chới giữa dòng người ngược xuôi đông đúc như con vịt con ngơ ngác mà người ta dùng để câu nhắp cá lóc” của vô số trẻ thơ – qua những phương tiện truyền thông.
Trẻ con Bắc Hàn. Nguồn ảnh: VOA
Từ đây, tôi cũng nhìn thấy hàng trăm người đã mang thân mình làm đuốc, với hy vọng gây được sự chú ý của nhân loại về thảm kịch bị mất quyền tự chủ và nguy cơ bị đồng hoá của dân tộc họ.
Và cũng từ cái Ngã Tư Quốc Tế này – thỉnh thoảng – tôi vẫn
được xem một cái thư kêu cứu, gửi từ những trại tù của nước
Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa. Nơi còn có tên gọi khác là Trung
Quốc Đại Lục, hay Trung Cộng.
Thư sau được đăng tải trên New York Times, vào ngày 11 tháng 6 năm 2013, rồi được phổ biến rộng rãi khắp nơi, kể cả những trang tiếng Việt:
Bức thư được viết với những dòng chữ tiếng Anh nguệch ngoạc trên một tờ giấy mỏng và người viết nói rằng ông bị giam giữ tại một trại cải tạo lao động ở thị trấn phía Đông Bắc Trung Hoa. Ông cho biết ở đó các tù nhân phải làm việc vất vả bảy ngày một tuần, 15 giờ trong ngày họ bị ám ảnh về sự giám sát ác nghiệt của bọn cai tù tàn bạo.
“Quý vị: Nếu quý vị thỉnh thoảng mua sản phẩm này, xin vui lòng chuyển thư này đến Tổ chức Nhân quyền Thế giới.
Đó là một đọan trong bức thư được nằm giữa hai ngôi mộ đá giả, nó rơi ra khi bà Julie Keith mở chiếc hộp trong phòng khách nhà bà vào tháng 10 năm ngoái. "Hàng ngàn người tù ở đây, những người đang bị nhà cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Cộng hành hạ, sẽ tri ân và nhớ đến quý vị mãi mãi.” (Đằng Sau Tiếng Khóc Kêu Cứu Từ Trại Cải Tạo Lao Động Trung Quốc" - "Behind Cry for Help From China Labor Camp". Như Ngọc chuyển ngữ).
Thư kế tiếp theo xuất hiện trên tờ Belfast Telegraph vào ngày 26 tháng 6 năm 2014. Qua ngày hôm sau trang web của Time đã có bản tin (“Another SOS Note From China Has Been Found In a Piece of Store-Bought Merchandise”) với đầy đủ những chi tiết cần thiết:
“SOS! SOS! SOS!... We are prisoners in the Xiang Nan Prison of the
Hubei Province in China. Our job inside the prison is to produce fashion
clothes for export. We work 15 hours per day and the food we eat
wouldn’t even be given to dogs or pigs. We work as hard as oxen in the
field.”
(SOS! SOS! SOS!... Chúng tôi là tù nhân tại nhà tù
Xiang Nan ở tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Công việc trong tù của chúng tôi là
sản xuất quần áo thời trang đem xuất khẩu. Chúng tôi làm việc 15 tiếng
một ngày, thực phẩm chúng tôi ăn thì đến chó và lợn cũng không thèm ăn.
Chúng tôi phải làm việc nặng nhọc như trâu bò ở ngoài đồng. Dương Long chuyển ngữ).
Những tiếng kêu cứu thảm thiết như trên, tuy được nhanh chóng
phổ biến khắp mọi nơi nhưng rồi đều rơi ngay vào quên lãng, tựa
như những viên sỏi nhỏ ... rơi tõm xuống một cái ao bèo! Thái
độ của cư dân nơi những cái Ngã Tư Quốc Tế, buồn thay, cũng
(hờ hững) y như cái đám đông ở góc đường trước Trung Tâm Văn Hóa Thông Tin – gần nhà Nguyễn Ngọc Tư – thôi.
Không Lục Vân Tiên nào, đại diện công quyền nào bận tâm cả. Nhân loại (chắc) cũng có ai đó nghe thấy tiếng gọi đó nhưng họ bận rộn, sợ hãi, bất lực, cũng có kẻ không nghe, không cảm nhận gì hết… ráo!
Đã thế, ở nhiều nơi, những kẻ nhởn nhơ ăn mòn tấm thân của hàng triệu nạn nhân (khốn khổ) còn được long trọng đón tiếp nữa cơ:
-RFA: Chủ tịch Trung Quốc phát biểu trước Quốc hội Việt Nam.
-RFI: Luân Đôn Trải Thảm Đỏ Đón Chủ Tịch Trung Quốc.
--BBC:
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tới Anh trong chuyến thăm bốn
ngày mà Thủ tướng Anh David Cameron gọi là 'kỷ nguyên vàng' trong quan
hệ hai nước.
Tôi thiếu điều muốn tự vận (luôn) vì xấu hổ về đồng bào, đồng loại, và thời đại của mình. Cái tốt sao mà nhỏ nhoi, lẻ loi, yếu đuối, cô đơn vậy. Công lý sao mà chậm chạp, nhợt nhạt vậy – hả Trời?
NGUYỄN THIÊN - THỤ * ĐẶC TÍNH VĂN CHƯƠNG TRUYỀN KHẨU HIỆN ĐẠI
Hồ chủ tịch, một cuộc đời cách mạng, giờ hết cả chí minh!
.
-Ngày xưa chống Mỹ chống Tây
Ngày nay chống cửa rước ngay Mỹ vào!
Chuyện Thăm lăng Bác được kể như sau :
Một thương gia ngoại quốc tới Hà Nội để lo việc kinh doanh.Thương gia đó mãi lo các thủ tục giấy tờ, cho đến lúc gần phải lên đường về nước, mà lúc ấy đã năm, sáu giờ chiều, các cơ quan đã đóng cửa, mới nhớ ra mình đã quên một điều khá quan trọng là phải đi thăm lăng Hồ chủ tịch. Ông bèn than thở cùng các nhân viên khách sạn, thì được họ mách nuớc : Đừng lo! Ông cứ dúi cho họ vài đô la là xong '. Ông khách ngoại quốc nghe lời bèn chỉnh tề y phục ra thăm lăng Bác. Đến nơi thì hết giờ du khách thăm viếng, cửa lăng đã đóng. Ông khách bèn gặp người gác cổng và nói :' Tôi rất kính yêu bác Hồ vĩ đại, nay vì quá bận việc nên tới trễ, xin đồng chí vui lòng cho tôi vào thăm bác.' Đồng chí gác cổng mặt sắt đen sì, xua đuổi khách :" Hết giờ làm việc, mai đến! " Ông khách sực nhớ lời khuyên của nhân viên khách sạn, bèn rút ra 5 đô la trao cho đồng chí bảo vệ. Đồng chí bảo vệ liền đổi thái độ hỏi :
"Ông muốn vào trong hay muốn tôi lôi bác ra đây cho ông xem ?"
-Một năm ba thước vải thô,
Lấy gì che kín cụ Hồ hỡi em!
-Nhà thơ thì làm kinh tế,
Quan thống chế thì đi nạo thai!
-Ngày xưa đại tướng công đồn,
Bây giờ đại tướng bịt l... chị em!
-Ngày xưa đại tướng cầm quân
Bây giờ đại tướng cầm quần chị em!
-Ngày xưa đại tướng cầm quân,
Bây giờ đại tướng cầm chân đàn bà!
-Lenin ông ở nước Nga,
Cớ sao ông đến vườn hoa xứ này? Ông trợn mắt, ông chỉ tay.
Sự nghiệp quá độ chúng mày còn lâu
-Ông Lê Nin ở nước Nga
Cớ sao lại đứng vườn hoa nước này
Ông vênh mặt, ông chỉ tay:
Tự do hạnh phúc chúng mày còn xa
Kìa xem gương của nước Nga
Bảy mươi năm lẻ có ra đếch gì!
Văn chương truyền khẩu nói lên thực trạng bi đát của nhân dân Việt Nam bi tù đày, chém giết và đầy vào chiến tranh phục vụ đế quốc Trung Cộng.
Trên đường Trường Sơn
Một anh chàng Nam Bộ nhỏ con, ốm yếu nhưng lại muốn chứng tỏ mình mạnh khoẻ, hăng hái, và tiên tiến, xứng đáng là đoàn viên Thanh Niên Cộng Sản. Anh xung phong đi B ( vào Nam), và tình nguyện vác một cây trung liên rất nặng, quá sức của anh. Đi được một tuần, anh đuối sức, cứ té lên, té xuống hoài! Vạn bất đắc dĩ, anh trình bày cùng cấp chỉ huy, xin giao cây trung liên cho người khác. Anh trung đội trưởng hỏi khắp trung đội ai có thể vác cây trung liên, nhưng mọi người đều im lặng vì ai phải mang nặng trong khi bị bệnh sốt rét và đau chân. Anh trung đội trưởng đành bảo anh chàng vác trung liên:
-Tại sao đồng chí không liệu sức, vác nặng làm chi cho đến nỗi kiệt sức? Bây giờ lại gây khó khăn cho người khác! Anh em ai cũng mệt và bị bệnh. Thôi, đồng chí cố gắng hoàn thành nhiệm vụ đã hứa với đảng.
Hôm đó mưa như trút, trời tối đen, người đi sau không thấy người đi trước. Đột nhiên, cả đoàn nghe một tiếng bịch rất lớn và một tiếng kêu la thảm thiết. Cả đoàn dừng lại, soi đèn pin thì thấy anh chàng vác trung liên đã quỵ xuống, khẩu trung liên đè lên người, mặt nhăn nhó ra vẻ đau đớn lắm. Hai mắt nhắm nghiền, nước mắt ứa ra. Miệng anh ta thều thào:
Má ơi! Con đã về!
Nói xong, anh buông tay, đầu vẹo một bên và tắt thở! ( Theo Xuân Vũ)
Trăm tội chỉ vì
chiếc đồng hồ
Một đám dân chúng và cán bộ, công nhân viên bị giam trong cùng một phòng. Họ hỏi nhau:
- Anh bị tội gì mà vào đây? -Chỉ vì cái đồng hồ.
- Tại sao?
- Tôi lười vặn đồng hồ lên một giờ, cứ xài giờ cũ, nên bị kết tội là chưa dứt khoát với chế độ cũ.
- Còn anh?
Anh thứ hai đáp:
- Cũng tại cái đồng hồ. Nhà tôi hết gạo, tôi phải đi giật đồng hồ, bị bắt quả tang.
Anh thứ ba kể:
- Tôi bị giam cũng vì chíếc đồng hồ. Tôi dùng đồng hồ Liên Xô nên đi trễ mười phút, bị thủ trường cơ quan kết tội ăn cắp giờ nhà nước, phá hoại sản xuất.
Anh thứ tư than:
- Tôi dùng đồng hồ Trung Quốc, chạy nhanh mười phút, nên đến cơ quan sớm mười phút, bị kết tội làm gián điệp và toan tính ăn cắp tài liệu mật và tài sản xã hội chủ nghĩa,
Anh thứ năm thở dài:
-Tôi thì tại dùng đồng hồ Thụy Sĩ tốt quá, nên bị kết tội theo tư bản chủ nghĩa.
Anh thứ sáu thong thả trình bày:
-Tôi làm thợ sửa đồng hồ. Trước cửa tôi vẽ chiếc đồng hồ và ghi hàng chữ:
''Tại đây chuyên sửa đồng hồ hư hỏng''.
Vì bảng nhỏ, tôi viết ''ĐỒNG HỒ HƯ HỎNG'' xuống hàng dưới và viết chữ hoa in. Công an kết tội tôi phỉ báng chủ tịch Hồ Chí Minh, thủ tướng Phạm văn Đồng và chống đảng nên nhốt tôi đã tám năm rồi!