BÍ MẬT HẠT NHÂN TRUNG CỘNG
BÍ MẬT HẠT NHÂN TRUNG CỘNG VÀO TAY MỸ
Anh em Lệnh Kế Hoạch “khai” hết bí mật hạt nhân Trung Quốc với Mỹ? Các cán bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc được thông báo rằng nước này hiện đối mặt với trường hợp phản quốc gây tổn thất lớn nhất kể từ khi lập quốc năm 1949.
Theo tờ The Sunday Times ngày 27.12 dẫn lại thông tin từ hai tạp chí ở Hồng Kông, trong một bài phát biểu với các cán bộ đảng mới đây, Bí thư Ủy ban Chính pháp của Đảng Cộng sản Trung Quốc Mạnh Kiến Trụ tiết lộ rằng các bí mật được bảo vệ gắt gao nhất của nước này, bao gồm cả mã phóng hạt nhân, đã lọt vào tay nước Mỹ.
Kẻ đào tẩu nguy hiểm
Những thông tin trên được Lệnh Hoàn Thành, em trai cựu Chánh văn phòng T.Ư Đảng Cộng sản Trung Quốc Lệnh Kế Hoạch, cung cấp cho giới chức Mỹ sau khi đào thoát đến nước này.
Ông Lệnh Kế Hoạch, từng là một phụ tá thân tín của cựu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, đã bị khai trừ đảng và điều tra về hàng loạt tội trạng vào tháng 7. Trong đó đáng chú ý là các hành vi vi phạm kỷ luật và quy củ chính trị, kỷ luật tổ chức và kỷ luật bảo mật, lợi dụng chức vụ để mưu lợi cho nhiều người và nhận hối lộ trực tiếp hoặc thông qua người thân. Theo Tân Hoa xã, ông Lệnh còn thu thập số lượng lớn các bí mật cốt lõi của đảng và nhà nước Trung Quốc.
Sau khi Lệnh Kế Hoạch bị giới chức an ninh Trung Quốc bắt giữ, người em trai Lệnh Hoàn Thành đã ôm theo 2.700 tài liệu mật bỏ trốn với mục đích mặc cả cho số phận của anh trai
Trong nỗ lực hạn chế tổn thất phát sinh từ vụ đào tẩu, giới lãnh đạo Trung Quốc đã cử một phái đoàn an ninh do ông Mạnh Kiến Trụ dẫn đầu đến Mỹ để thương thuyết về việc dẫn độ ông này nhưng phải ra về tay trắng. “Khi đứng đầu các tổ chức T.Ư đảng, giữ chức chánh văn phòng T.Ư đảng, Lệnh Kế Hoạch đã cả gan đánh cắp các bí mật hàng đầu từ kho lưu trữ mà ông ta được giao phó trông coi và các tài liệu này sau đó được chuyển giao cho Mỹ”, tờ The Sunday Times dẫn phát biểu của ông Mạnh với các cán bộ. Người đứng đầu ngành an ninh Trung Quốc cũng mô tả đây là vụ rò rỉ bí mật nghiêm trọng nhất của Trung Quốc trong hơn 60 năm qua.
Thông tin sống còn
Theo hai tạp chí Tiền Tiêu và Tranh Minh ở Hồng Kông, có ba loại thông tin tuyệt mật được chuyển giao cho phía Mỹ. Đầu tiên là các bản đồ địa hình khu vực Trung Nam Hải, quần thể các tòa nhà được bảo vệ cẩn mật ở phía tây Tử Cấm Thành, nơi đặt trụ sở T.Ư đảng và Quốc vụ viện. Các thông tin này bao gồm cả mật mã an ninh và mật mã liên lạc.
Loại thứ hai là các thông tin về hệ thống chỉ huy và kiểm soát phục vụ kết nối liên lạc giữa T.Ư đảng với Quốc vụ viện và Quân ủy T.Ư trong trường hợp phát sinh biến cố.
Loại thứ ba là trình tự và thao tác kiểm soát vũ khí phi quy ước, bao gồm cả vũ khí hạt nhân, của T.Ư đảng và Quân ủy T.Ư
Theo chuyên gia về chính trị Trung Quốc thuộc Viện Brookings (Mỹ) Lý Thành, với cương vị chánh văn phòng T.Ư đảng trước đây, ông Lệnh Kế Hoạch chịu trách nhiệm bảo vệ an toàn, sức khỏe và bí mật của các Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, nên có điều kiện thu thập các tài liệu tuyệt mật. “Ông ta cũng chịu trách nhiệm soạn thảo các văn kiện then chốt, thu thập các thông tin quan trọng dành cho việc đưa ra quyết sách và theo dõi việc thi hành chỉ thị và hướng dẫn của các lãnh đạo hàng đầu”, ông Lý viết.
Theo nhận định của giới quan sát Trung Quốc, bài phát biểu của ông Mạnh Kiến Trụ có thể bị rò rỉ một cách cố ý nhằm chuẩn bị dư luận cho việc xét xử và kết tội ông Lệnh Kế Hoạch. Phía Trung Quốc hiện chưa bình luận về các thông tin của tờThe Sunday Times.
Số phận của nguyên Chánh Văn phòng Trung ương ĐCS Trung Quốc Lệnh Kế hoạch hiện vẫn “lơ lửng”, do người em trai Lệnh Hoàn Thành tiếp tục lá bài mặc cả cực lớn.
Em trai Lệnh Kế Hoạch trốn sang Mỹ mang theo bí mật động ...
dantri.com.vn
Dân trí Bắc Kinh mới đây đã yêu cầu chính quyền Mỹ dẫn độ doanh nhân Lệnh Hoàn Thành, em trai cựu Chánh văn phòng trung ương ...
Ông Thành hiện đang sống ở Mỹ, tại một địa điểm bí mật ở California và nhiều khả năng đang tìm kiếm quy chế tị nạn chính trị tại Mỹ - tờ Tin tức Duwei chuyên về các vấn đề chính trị Trung Quốc đặt trụ sở ở Mỹ, bình luận.
Tháng 12/2014, ông Lệnh Kế Hoạch, 58 tuổi và là cựu Chánh Văn phòng Trung ương ĐCS Trung Quốc dưới thời chủ tịch Hồ Cẩm Đào bị điều tra do nghi ngờ “vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc kỉ luật” và chính thức bị khai trừ đảng hôm 20/7 vừa qua với các cáo buộc vi phạm kỉ luật đảng, lạm dụng quyền lực, nhận hối lộ, tiếp cận các thông tin “tối mật quan trọng” của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, ông còn bị buộc tội có quan hệ tình ái phức tạp.
Nhà của Lệnh Hoàn Thành ở California
Chưa mở phiên tòa xét xử, nhưng cơ quan chống tham nhũng Trung Quốc đã ra thông báo chính thức, nói rằng vụ việc của ông Hoạch coi như đã được “đóng gói”. Tuy nhiên, tờ Tin tức Duwei thì nhận định, số phận cựu Chánh văn phòng Trung ương đảng này hiện vẫn ở tình cảnh lơ lửng, lý do là bởi người em trai út Lệnh Hoàn Thành được cho là đang nắm giữ nhiều thông tin tối mật nhờ thời gian quá dài làm “người liên lạc” cho anh trai.
Theo tờ Tin tức Duwei, Lệnh Hoàn Thành đang sống ở Mỹ tại một địa điểm chưa xác định cụ thể và ông này có thể sử dụng thông tin, tài liệu mật để gây sức ép, buộc chính phủ Trung Quốc phải phóng thích người anh trai. Nhiều nguồn tin cho thấy, ông Thành nắm trong tay nhiều tin tức nhạy cảm và quan trọng hơn nhiều so với trường hợp cựu Giám đốc Công an Trùng Khánh Vương Lập Quân, người từng chạy trốn vào Lãnh sự quán Mỹ ở Thành Đô hồi năm 2012. Thậm chí, các tài liệu của Lệnh Hoàn Thành được cho là còn có sức “công phá” mạnh hơn nhiều so với tin tức mà kẻ đào tẩu Edward Snowden từng công bố về hoạt động do thám của chính quyền Mỹ. Nếu như thông tin tìm kiếm tị nạn chính trị ở Mỹ là đúng, thì Lệnh Hoàn Thành chính là bản sao Snowden của Trung Quốc – tờ báo viết.
Thông tin đăng tải trên Tin tức Duwei cũng được củng cố bởi báo cáo do tờ Thời báo New York (The New York Times) công bố hôm 2/8. Theo đó, Lệnh Hoàn Thành có thể đang sở hữu nhiều thông tin nhạy cảm về những vấn đề chính trị tại Trung Quốc trong quá khứ và hiện tại và ông này có thể sẽ trở thành một trong những “kẻ đào tẩu nguy hại nhất” trong lịch sử Trung Quốc hiện đại một khi nhận được quy chế tị nạn chính trị từ Washington. Tờ báo Mỹ dẫn lời cựu chuyên gia phân tích CIA Christopher Johnson cho biết, Bắc Kinh rất muốn bắt giữ Lệnh Hoàn Thành để phục vụ việc xét xử người anh trai và quan trọng hơn cả là không để những thông tin nhạy cảm rơi vào tay người Mỹ.
Tác động quan hệ Mỹ - Trung
Theo tờ Thời báo New York, Trung Quốc trong vài tháng gần đây đã gây sức ép đòi Mỹ trao trả Lệnh Hoàn Thành, dù phát ngôn viên Nhà Trắng Josh Ernest ngày 3/8 phủ nhận điều này. Bộ Ngoại giao Mỹ từ chối bình luận trực tiếp về số phận của ông Thành, chỉ nói một cách chung chung rằng, Bắc Kinh và Washington sẽ phối hợp trong lĩnh vực buộc các quan chức Trung Quốc tham nhũng chạy sang Mỹ phải về nước. Bộ này cũng nhấn mạnh, Bắc Kinh phải có trách nhiệm cung cấp những thông tin, bằng chứng rõ ràng, đầy đủ, tin cậy để giới chức pháp luật Mỹ khởi động việc điều tra, chuyển trả hoặc kết tội nghi phạm.
Trung Quốc dường như đang là bên “yếu thế” hơn. Nước này chưa ký với Mỹ hiệp định dẫn độ, nhưng vẫn có một số biện pháp khác. Bắc Kinh có thể gửi yêu cầu dẫn độ tới Bộ Ngoại giao Mỹ để bộ này phối hợp với Bộ Tư pháp xem xét yêu cầu này có đáp ứng các tiêu chuẩn quy định về dẫn độ hay không. Nếu có, đề nghị sẽ được chuyển tới một tòa án để xem xét quyết định dẫn độ Lệnh Hoàn Thành có hợp pháp hay không. Nếu câu trả lời là có, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry sẽ là người thông báo cuối cùng.
Một cách khác là thông qua hệ thống nhập cư tại Mỹ. Trường hợp này liên quan đến trách nhiệm của Bộ An ninh Nội địa. Hồi tháng Tư vừa qua, chính bộ này đã ký với đối tác Trung Quốc thỏa thuận về hồi trả những quan chức chạy trốn truy nã sang Mỹ, nhưng kèm theo đó là điều khoản họ vi phạm hoặc tình nghi vi phạm luật pháp Mỹ. Chưa có dấu hiệu nào cho thấy Lệnh Hoàn Thành là đối tượng rơi vào trường hợp này. Cho đến lúc này, Nhà Trắng phản ứng theo hướng không muốn làm rùm beng vụ việc, mà muốn xử lý thông qua thảo luận kín giữa hai bên mà ở đó Mỹ là người chiếm ưu thế. Dẫn việc ông Bí thư Ủy ban Kiểm tra kỉ luật Trung ương Vương Kỳ Sơn hoãn chuyến đi Mỹ hồi đầu năm, tờ Tin tức Duwei nói rằng quá trình đàm phán thời gian qua không hề dễ dàng. Vụ Lệnh Hoàn Thành cũng sẽ có tác động đến chuyến thăm chính thức tới Mỹ của Chủ tịch Tập Cận Bình dự kiến vào tháng 9 tới.
Theo Hoài Thanh/Nytimes, WCT
Trung Quốc sẵn sàng từ bỏ 600 triệu USD tiền thu hồi tài sản bất hợp pháp và nhận lại 25.000 người nhập cư trái phép vào Mỹ, để đổi lấy việc dẫn độ Lệnh Hoàn Thành - em trai cựu trợ lý Lệnh Kế Hoạch của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào
Trang tin Duowei News cho biết thông tin trên, và nói thêm một trong những mục tiêu của cuộc gặp giữa Chủ tịch Tập Cận Bình và Tổng thống Obama tại Washington là tìm cách hồi hương Lệnh Hoàn Thành về Trung Quốc.Lệnh Hoàn Thành được tin là trốn sang Mỹ từ năm 2013-2014. Anh trai Lệnh Hoàn Thành, Lệnh Kế Hoạch - cựu trợ lý Chủ tịch Hồ Cẩm Đào - bị điều tra tham nhũng từ tháng 12.2014 và bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 20.7.2014.
Bí mật hạt nhân trung cộng
Duowei cho biết, Bắc Kinh gây sức ép với Washington trao trả Lệnh Hoàn Thành trong hàng tháng đàm phán bí mật. Lý do Bắc Kinh khẩn thiết muốn bắt Lệnh Hoàn Thành là do ông này được cho là nắm giữ hàng loạt bí mật tối quan trọng mà ông anh trai đã tích lũy được trong 15 năm làm chánh văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Ngoài ra, còn có báo cáo cho biết thông tin mà Lệnh Hoàn Thành nắm giữ bao gồm cả danh sách gián điệp Trung Quốc ở nước ngoài. Nếu danh sách này được trao cho Mỹ, ngoài việc Trung Quốc mất số điệp viên này, thì điều đó còn cho phép thực thi các chính sách nhằm mục tiêu chống Trung Quốc, và tạo điều kiện cho Mỹ có lợi thế chiến lược áp đảo.
Theo Duowei, đó có lẽ là lý do Bắc Kinh tăng cường nỗ lực hồi hương Lệnh Hoàn Thành trước chuyến thăm của Chủ tịch Tập Cận Bình. Hồi đầu tháng, Trung Quốc cử Meng Jianzhu, Thư ký Ủy ban Chính pháp tới Mỹ để bàn thảo về vấn đề an ninh mạng. Tuy nhiên, theo nguồn tin của Duowei, câu chuyện thảo luận chính là Trung Quốc trực tiếp yêu cầu Mỹ hồi hương Lệnh Hoàn Thành và Miles Kwok, một doanh nhân Trung Quốc đang sống lưu vong vì có liên quan đến một cuộc điều tra tham nhũng.
Theo nguồn tin của Duowei, Bắc Kinh nhượng bộ 2 lần trong các cuộc đàm phán. Đầu tiên, Trung Quốc cho biết sẽ từ bỏ nỗ lực thu hồi toàn bộ tài sản bất hợp pháp mà Lệnh Hoàn Thành cất giấu ở Mỹ, vào khoảng 600 triệu USD. Sau đó, Trung Quốc đồng ý nhận lại 25.000 người nhập cư bất hợp pháp đang sống ở Mỹ.
< Ông Meng đã đưa ra đề nghị trong cuộc họp với Bộ trưởng An ninh nội địa Jeh Johnson, Giám đốc FBI James Comey và Cố vấn An ninh quốc gia Susan Rice. Tuy nhiên, phía Mỹ cho biết sẽ không trao trả hai nghi phạm trừ khi Trung Quốc cung cấp đủ bằng chứng phạm tội.
Theo V.A/WCT
Anh em Lệnh Kế Hoạch “khai” hết bí mật hạt nhân Trung Quốc với Mỹ? Các cán bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc được thông báo rằng nước này hiện đối mặt với trường hợp phản quốc gây tổn thất lớn nhất kể từ khi lập quốc năm 1949.
Theo tờ The Sunday Times ngày 27.12 dẫn lại thông tin từ hai tạp chí ở Hồng Kông, trong một bài phát biểu với các cán bộ đảng mới đây, Bí thư Ủy ban Chính pháp của Đảng Cộng sản Trung Quốc Mạnh Kiến Trụ tiết lộ rằng các bí mật được bảo vệ gắt gao nhất của nước này, bao gồm cả mã phóng hạt nhân, đã lọt vào tay nước Mỹ.
Kẻ đào tẩu nguy hiểm
Những thông tin trên được Lệnh Hoàn Thành, em trai cựu Chánh văn phòng T.Ư Đảng Cộng sản Trung Quốc Lệnh Kế Hoạch, cung cấp cho giới chức Mỹ sau khi đào thoát đến nước này.
Ông Lệnh Kế Hoạch, từng là một phụ tá thân tín của cựu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, đã bị khai trừ đảng và điều tra về hàng loạt tội trạng vào tháng 7. Trong đó đáng chú ý là các hành vi vi phạm kỷ luật và quy củ chính trị, kỷ luật tổ chức và kỷ luật bảo mật, lợi dụng chức vụ để mưu lợi cho nhiều người và nhận hối lộ trực tiếp hoặc thông qua người thân. Theo Tân Hoa xã, ông Lệnh còn thu thập số lượng lớn các bí mật cốt lõi của đảng và nhà nước Trung Quốc.
Sau khi Lệnh Kế Hoạch bị giới chức an ninh Trung Quốc bắt giữ, người em trai Lệnh Hoàn Thành đã ôm theo 2.700 tài liệu mật bỏ trốn với mục đích mặc cả cho số phận của anh trai
Trong nỗ lực hạn chế tổn thất phát sinh từ vụ đào tẩu, giới lãnh đạo Trung Quốc đã cử một phái đoàn an ninh do ông Mạnh Kiến Trụ dẫn đầu đến Mỹ để thương thuyết về việc dẫn độ ông này nhưng phải ra về tay trắng. “Khi đứng đầu các tổ chức T.Ư đảng, giữ chức chánh văn phòng T.Ư đảng, Lệnh Kế Hoạch đã cả gan đánh cắp các bí mật hàng đầu từ kho lưu trữ mà ông ta được giao phó trông coi và các tài liệu này sau đó được chuyển giao cho Mỹ”, tờ The Sunday Times dẫn phát biểu của ông Mạnh với các cán bộ. Người đứng đầu ngành an ninh Trung Quốc cũng mô tả đây là vụ rò rỉ bí mật nghiêm trọng nhất của Trung Quốc trong hơn 60 năm qua.
Thông tin sống còn
Theo hai tạp chí Tiền Tiêu và Tranh Minh ở Hồng Kông, có ba loại thông tin tuyệt mật được chuyển giao cho phía Mỹ. Đầu tiên là các bản đồ địa hình khu vực Trung Nam Hải, quần thể các tòa nhà được bảo vệ cẩn mật ở phía tây Tử Cấm Thành, nơi đặt trụ sở T.Ư đảng và Quốc vụ viện. Các thông tin này bao gồm cả mật mã an ninh và mật mã liên lạc.
Loại thứ hai là các thông tin về hệ thống chỉ huy và kiểm soát phục vụ kết nối liên lạc giữa T.Ư đảng với Quốc vụ viện và Quân ủy T.Ư trong trường hợp phát sinh biến cố.
Loại thứ ba là trình tự và thao tác kiểm soát vũ khí phi quy ước, bao gồm cả vũ khí hạt nhân, của T.Ư đảng và Quân ủy T.Ư
Theo chuyên gia về chính trị Trung Quốc thuộc Viện Brookings (Mỹ) Lý Thành, với cương vị chánh văn phòng T.Ư đảng trước đây, ông Lệnh Kế Hoạch chịu trách nhiệm bảo vệ an toàn, sức khỏe và bí mật của các Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, nên có điều kiện thu thập các tài liệu tuyệt mật. “Ông ta cũng chịu trách nhiệm soạn thảo các văn kiện then chốt, thu thập các thông tin quan trọng dành cho việc đưa ra quyết sách và theo dõi việc thi hành chỉ thị và hướng dẫn của các lãnh đạo hàng đầu”, ông Lý viết.
Theo nhận định của giới quan sát Trung Quốc, bài phát biểu của ông Mạnh Kiến Trụ có thể bị rò rỉ một cách cố ý nhằm chuẩn bị dư luận cho việc xét xử và kết tội ông Lệnh Kế Hoạch. Phía Trung Quốc hiện chưa bình luận về các thông tin của tờThe Sunday Times.
Số phận của nguyên Chánh Văn phòng Trung ương ĐCS Trung Quốc Lệnh Kế hoạch hiện vẫn “lơ lửng”, do người em trai Lệnh Hoàn Thành tiếp tục lá bài mặc cả cực lớn.
Em trai Lệnh Kế Hoạch trốn sang Mỹ mang theo bí mật động ...
dantri.com.vn
Dân trí Bắc Kinh mới đây đã yêu cầu chính quyền Mỹ dẫn độ doanh nhân Lệnh Hoàn Thành, em trai cựu Chánh văn phòng trung ương ...
Ông Thành hiện đang sống ở Mỹ, tại một địa điểm bí mật ở California và nhiều khả năng đang tìm kiếm quy chế tị nạn chính trị tại Mỹ - tờ Tin tức Duwei chuyên về các vấn đề chính trị Trung Quốc đặt trụ sở ở Mỹ, bình luận.
Tháng 12/2014, ông Lệnh Kế Hoạch, 58 tuổi và là cựu Chánh Văn phòng Trung ương ĐCS Trung Quốc dưới thời chủ tịch Hồ Cẩm Đào bị điều tra do nghi ngờ “vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc kỉ luật” và chính thức bị khai trừ đảng hôm 20/7 vừa qua với các cáo buộc vi phạm kỉ luật đảng, lạm dụng quyền lực, nhận hối lộ, tiếp cận các thông tin “tối mật quan trọng” của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, ông còn bị buộc tội có quan hệ tình ái phức tạp.
Chưa mở phiên tòa xét xử, nhưng cơ quan chống tham nhũng Trung Quốc đã ra thông báo chính thức, nói rằng vụ việc của ông Hoạch coi như đã được “đóng gói”. Tuy nhiên, tờ Tin tức Duwei thì nhận định, số phận cựu Chánh văn phòng Trung ương đảng này hiện vẫn ở tình cảnh lơ lửng, lý do là bởi người em trai út Lệnh Hoàn Thành được cho là đang nắm giữ nhiều thông tin tối mật nhờ thời gian quá dài làm “người liên lạc” cho anh trai.
Theo tờ Tin tức Duwei, Lệnh Hoàn Thành đang sống ở Mỹ tại một địa điểm chưa xác định cụ thể và ông này có thể sử dụng thông tin, tài liệu mật để gây sức ép, buộc chính phủ Trung Quốc phải phóng thích người anh trai. Nhiều nguồn tin cho thấy, ông Thành nắm trong tay nhiều tin tức nhạy cảm và quan trọng hơn nhiều so với trường hợp cựu Giám đốc Công an Trùng Khánh Vương Lập Quân, người từng chạy trốn vào Lãnh sự quán Mỹ ở Thành Đô hồi năm 2012. Thậm chí, các tài liệu của Lệnh Hoàn Thành được cho là còn có sức “công phá” mạnh hơn nhiều so với tin tức mà kẻ đào tẩu Edward Snowden từng công bố về hoạt động do thám của chính quyền Mỹ. Nếu như thông tin tìm kiếm tị nạn chính trị ở Mỹ là đúng, thì Lệnh Hoàn Thành chính là bản sao Snowden của Trung Quốc – tờ báo viết.
Thông tin đăng tải trên Tin tức Duwei cũng được củng cố bởi báo cáo do tờ Thời báo New York (The New York Times) công bố hôm 2/8. Theo đó, Lệnh Hoàn Thành có thể đang sở hữu nhiều thông tin nhạy cảm về những vấn đề chính trị tại Trung Quốc trong quá khứ và hiện tại và ông này có thể sẽ trở thành một trong những “kẻ đào tẩu nguy hại nhất” trong lịch sử Trung Quốc hiện đại một khi nhận được quy chế tị nạn chính trị từ Washington. Tờ báo Mỹ dẫn lời cựu chuyên gia phân tích CIA Christopher Johnson cho biết, Bắc Kinh rất muốn bắt giữ Lệnh Hoàn Thành để phục vụ việc xét xử người anh trai và quan trọng hơn cả là không để những thông tin nhạy cảm rơi vào tay người Mỹ.
Tác động quan hệ Mỹ - Trung
Theo tờ Thời báo New York, Trung Quốc trong vài tháng gần đây đã gây sức ép đòi Mỹ trao trả Lệnh Hoàn Thành, dù phát ngôn viên Nhà Trắng Josh Ernest ngày 3/8 phủ nhận điều này. Bộ Ngoại giao Mỹ từ chối bình luận trực tiếp về số phận của ông Thành, chỉ nói một cách chung chung rằng, Bắc Kinh và Washington sẽ phối hợp trong lĩnh vực buộc các quan chức Trung Quốc tham nhũng chạy sang Mỹ phải về nước. Bộ này cũng nhấn mạnh, Bắc Kinh phải có trách nhiệm cung cấp những thông tin, bằng chứng rõ ràng, đầy đủ, tin cậy để giới chức pháp luật Mỹ khởi động việc điều tra, chuyển trả hoặc kết tội nghi phạm.
Trung Quốc dường như đang là bên “yếu thế” hơn. Nước này chưa ký với Mỹ hiệp định dẫn độ, nhưng vẫn có một số biện pháp khác. Bắc Kinh có thể gửi yêu cầu dẫn độ tới Bộ Ngoại giao Mỹ để bộ này phối hợp với Bộ Tư pháp xem xét yêu cầu này có đáp ứng các tiêu chuẩn quy định về dẫn độ hay không. Nếu có, đề nghị sẽ được chuyển tới một tòa án để xem xét quyết định dẫn độ Lệnh Hoàn Thành có hợp pháp hay không. Nếu câu trả lời là có, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry sẽ là người thông báo cuối cùng.
Một cách khác là thông qua hệ thống nhập cư tại Mỹ. Trường hợp này liên quan đến trách nhiệm của Bộ An ninh Nội địa. Hồi tháng Tư vừa qua, chính bộ này đã ký với đối tác Trung Quốc thỏa thuận về hồi trả những quan chức chạy trốn truy nã sang Mỹ, nhưng kèm theo đó là điều khoản họ vi phạm hoặc tình nghi vi phạm luật pháp Mỹ. Chưa có dấu hiệu nào cho thấy Lệnh Hoàn Thành là đối tượng rơi vào trường hợp này. Cho đến lúc này, Nhà Trắng phản ứng theo hướng không muốn làm rùm beng vụ việc, mà muốn xử lý thông qua thảo luận kín giữa hai bên mà ở đó Mỹ là người chiếm ưu thế. Dẫn việc ông Bí thư Ủy ban Kiểm tra kỉ luật Trung ương Vương Kỳ Sơn hoãn chuyến đi Mỹ hồi đầu năm, tờ Tin tức Duwei nói rằng quá trình đàm phán thời gian qua không hề dễ dàng. Vụ Lệnh Hoàn Thành cũng sẽ có tác động đến chuyến thăm chính thức tới Mỹ của Chủ tịch Tập Cận Bình dự kiến vào tháng 9 tới.
Theo Hoài Thanh/Nytimes, WCT
Trung Quốc sẵn sàng từ bỏ 600 triệu USD tiền thu hồi tài sản bất hợp pháp và nhận lại 25.000 người nhập cư trái phép vào Mỹ, để đổi lấy việc dẫn độ Lệnh Hoàn Thành - em trai cựu trợ lý Lệnh Kế Hoạch của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào
Trang tin Duowei News cho biết thông tin trên, và nói thêm một trong những mục tiêu của cuộc gặp giữa Chủ tịch Tập Cận Bình và Tổng thống Obama tại Washington là tìm cách hồi hương Lệnh Hoàn Thành về Trung Quốc.Lệnh Hoàn Thành được tin là trốn sang Mỹ từ năm 2013-2014. Anh trai Lệnh Hoàn Thành, Lệnh Kế Hoạch - cựu trợ lý Chủ tịch Hồ Cẩm Đào - bị điều tra tham nhũng từ tháng 12.2014 và bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 20.7.2014.
Bí mật hạt nhân trung cộng
Duowei cho biết, Bắc Kinh gây sức ép với Washington trao trả Lệnh Hoàn Thành trong hàng tháng đàm phán bí mật. Lý do Bắc Kinh khẩn thiết muốn bắt Lệnh Hoàn Thành là do ông này được cho là nắm giữ hàng loạt bí mật tối quan trọng mà ông anh trai đã tích lũy được trong 15 năm làm chánh văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Ngoài ra, còn có báo cáo cho biết thông tin mà Lệnh Hoàn Thành nắm giữ bao gồm cả danh sách gián điệp Trung Quốc ở nước ngoài. Nếu danh sách này được trao cho Mỹ, ngoài việc Trung Quốc mất số điệp viên này, thì điều đó còn cho phép thực thi các chính sách nhằm mục tiêu chống Trung Quốc, và tạo điều kiện cho Mỹ có lợi thế chiến lược áp đảo.
Theo Duowei, đó có lẽ là lý do Bắc Kinh tăng cường nỗ lực hồi hương Lệnh Hoàn Thành trước chuyến thăm của Chủ tịch Tập Cận Bình. Hồi đầu tháng, Trung Quốc cử Meng Jianzhu, Thư ký Ủy ban Chính pháp tới Mỹ để bàn thảo về vấn đề an ninh mạng. Tuy nhiên, theo nguồn tin của Duowei, câu chuyện thảo luận chính là Trung Quốc trực tiếp yêu cầu Mỹ hồi hương Lệnh Hoàn Thành và Miles Kwok, một doanh nhân Trung Quốc đang sống lưu vong vì có liên quan đến một cuộc điều tra tham nhũng.
Theo nguồn tin của Duowei, Bắc Kinh nhượng bộ 2 lần trong các cuộc đàm phán. Đầu tiên, Trung Quốc cho biết sẽ từ bỏ nỗ lực thu hồi toàn bộ tài sản bất hợp pháp mà Lệnh Hoàn Thành cất giấu ở Mỹ, vào khoảng 600 triệu USD. Sau đó, Trung Quốc đồng ý nhận lại 25.000 người nhập cư bất hợp pháp đang sống ở Mỹ.
< Ông Meng đã đưa ra đề nghị trong cuộc họp với Bộ trưởng An ninh nội địa Jeh Johnson, Giám đốc FBI James Comey và Cố vấn An ninh quốc gia Susan Rice. Tuy nhiên, phía Mỹ cho biết sẽ không trao trả hai nghi phạm trừ khi Trung Quốc cung cấp đủ bằng chứng phạm tội.
Theo V.A/WCT
VIÊN LINH * XUÂN ĐẦU Ở MỸ
Nhà văn Việt Nam nói về Xuân đầu ở Mỹ, 40 năm trước
>1- Xuân đầu ở hải ngoại nhất là ở Hoa Kỳ của người Việt lưu vong là
Xuân Bính Thìn, ngày Tết Nguyên Đán Bính Thìn nhằm ngày Thứ Bảy, 31
tháng 1, 1976. Xuân đang tới năm nay, Bính Thân, ngày Tết Nguyên Ðán
nhằm ngày Thứ Hai, 8 tháng 2, 2016, vừa chẵn không thiếu một ngày là
đúng 40 năm tròn Việt Nam lưu vong, khứ quốc, xa cách xuân Tổ Quốc. Là
người làm báo từ thuở thiếu niên, tôi đã ghi chép những cái người vô can
chẳng công đâu mà ghi chép, tốn giấy mực và thì giờ. Như đã từng viết,
một câu thơ của Thế Lữ đã nằm lòng trong tâm trí một học sinh trung học,
chỉ cậu ta nằm lòng câu thơ ấy: “Ta là ai giữa mùa thay đổi ấy?”
Ảnh bìa báo Xuân Lửa Việt Bính Thìn 1976 của nhiếp anh gia Lê Văn Khoa. (Hình: Viên Linh cung cấp)
Ta là ai: Anh phải tự hỏi mình, đặt câu hỏi cho chính mình, nghĩa là
cũng chính mình phải trả lời câu hỏi của mình, không cần ai khác hết.
Cái quan trọng không phải là ta, cái quan trọng cũng không phải là ai,
cái quan trọng nhất trong bảy tiếng của câu thơ “Ta là ai giữa mùa thay
đổi ấy” là mấy chữ “giữa mùa thay đổi ấy.” Giữa thay đổi, giữa những đảo
lộn xoay vần, giữa cái cũ và cái mới, ta là ai? Ta tên là gì, ta bao
nhiêu tuổi, ta đang làm gì, ta vừa mất cái gì hoặc được cái gì, giữa lúc
ấy, Lúc là khoảng thời gian ngắn, nhưng mùa cũng rất nhanh và rộng lớn
hơn: Mùa là Xuân Hạ Thu Đông trong một năm, mỗi mùa ba tháng, ba tháng
còn gọi là quí, quí 1 quí 2 quí 3 quí 4, quí lại chia ra làm ba phần,
gọi là mạnh trọng quí; mùa Đông chẳng hạn gọi là mạnh đông, trọng đông,
quí đông, tức là tháng thứ nhất của mùa Đông gọi là mạnh đông, tháng thứ
hai gọi là trọng đông, tháng thứ ba gọi là quí đông. Lối gọi này được
dùng nhiều khi ngày xưa người ta đặt tên cho con cái, bố tôi con cả
trong gia đình họ Nguyễn, có tên đệm là Nguyễn Mạnh A, chú kế bố tôi là
Nguyễn Trọng B, chú tiếp theo là Nguyễn Mậu C... Cứ phân tích như thế sẽ
hiểu câu thơ của Thế Lữ đã tác động lên một trong những người đọc nó
những gì: Và ngay những ngày đón xuân đón Tết đầu tiên ở hải ngoại,
tháng 1, 1976, không những tự hỏi mình, tôi nhân trường hợp mình đem câu
hỏi đó hỏi hơn 10 nhà văn bằng hữu hay đồng nghiệp quanh tôi, và nhờ họ
viết xuống giấy cho tôi. 40 mùa xuân trước, họ đã viết, tôi gom lại
thành bài “11 nhà văn nhà thơ nghệ sĩ ghi nhận sau gần 1 năm sống trên
xứ người.” Đó là bài phỏng vấn các nhà văn Việt Nam lưu vong đầu tiên
trong 40 mươi năm qua.
2- Các tác giả đã trả lời tôi là Nghiêm Xuân Hồng, Mặc Đỗ, Phạm Duy, Hà
Mai Phương, Võ Phiến, Lê Văn Khoa và một số nhà báo khác như Ngô Vương
Toại, Trần Phong Vũ, ... Hai câu hỏi chính là “Đối với anh (chị) khác
biệt nào đáng kể nhất giữa đời sống ở Việt Nam trước kia và đời sống của
anh (chi) tại Hoa Kỳ hiện nay.” “Cái Tết đáng nhớ nhất ở quê hương là
một cái tết như thế nào, anh (chị) vui lòng cho biết.”
Trước khi đăng phần trả lời của một tác giả, tôi đều viết vài dòng giới
thiệu tác giả đó, nay đăng lại như lúc đầu, để giữ lại tâm tình thuở đó
dù có thể thiếu sót, còn chỗ nào sai sẽ sửa cho đúng.
Nhà văn Nghiêm Xuân Hồng: Xã hội Mỹ thiếu một cái gì
Luật Sư Nghiêm Xuân Hồng là tác giả hơn mười bộ sách biên soạn công phu ở
Việt Nam, được xuất bản trong những năm 50 và 60, như: “Đi tìm một căn
bản tư tưởng,” “Luyến Ái Quan,” “Con đường giải thoát trong đạo Phật.”
Ông còn là tác giả những kịch bản nổi tiếng: “Người lữ hành cô độc,”
“Người viễn khách thứ mười.” Hiện tạm cư ở Seattle tiểu bang Washington.
1- Tôi nghĩ điểm khác biệt nhất ở đây, đời sống tuy ít sợ đói kém chiến
tranh, nhưng lại sợ nhất là buồn. Xã hội Mỹ này quá tổ chức, tổ chức đến
độ không để lại một bất ngờ nào cho cuộc đời. Tôi thấy hình như Mỹ
thiếu một cái gì. Thiếu một chút thơ mộng, một chút phi lý, một chút hỗn
độn, một chút tình người, một chút nhân sinh quan tiêu dao. Trước kia
sống ở Sài Gòn bấp bênh loạn lạc, nhưng vui hơn. Nhưng bây giờ Sài Gòn
chắc cũng chẳng vui gì.
2- Tôi không có cái Tết nào đáng nhớ nhất ở quê hương. Vì ở quê hương
thì cái Tết nào cũng đáng nhớ cả. Nhưng đậm đà nhất là những cái Tết ở
Hà Nội. Có tình người, có chút rét, có rừng hoa đào đỏ ối. Tôi không
biết những cái Tết ở vùng quê miền Nam, nhưng Tết Sài gòn thì kém Hà
Nội: Tình người loãng hơn và hoa ít thắm hơn. Nguyên nhân là do một phần
sự thay đổi hoàn cảnh, phần lớn ở sự thay đổi tâm tư mình.”
Nhạc sĩ Phạm Duy: Tết năm nay không phải là Tết
Phạm Duy ở Hoa Kỳ, hiện anh cùng Thái Hiền thường đi hát cho những nơi có nhiều người Việt Nam ở, như New Jersey, New York City (sau khi đã hát ở hai trại Fort Chaffee và Indiantown Gap) hiện đang chuẩn bị hát Tết ở Chicago Grand Rapids Michigan.
1- Đời sống của tôi ở đâu cũng chỉ có một mục đích: Ca hát! Khi hát bài
buồn khi hát bài vui, tùy theo cảm xúc! Có khác biệt thì chỉ ở chỗ khi ở
Việt Nam thì ít lo về đời sống, còn ở đây thì phải lo nhiều.
2- Cái khác biệt nhất là ở Việt Nam ngày nào cũng là ngày Tết đối với
tôi. Còn ở Hoa Kỳ (hoặc ở bất cứ đâu chưa phải là quê hương mình) thì
chắc Tết năm nay không phải là cái Tết!
Bài sẽ rất dài nên dưới đây mỗi tác giả sẽ chỉ được trích dẫn một hai câu tiêu biểu.
Nhà văn Võ Phiến
1- Ở Sài Gòn tôi là một người hữu ích, ở đây tôi là một cục nợ. Mặt khác
ở Sài Gòn tôi sống; ở Minneapolis tôi giương mắt xem người ta sống.
2- Đó là cái Tết... Mậu thân. Anh thấy sao?
Trang
báo Lửa Việt Xuân Bính Thìn, tháng 1, 1976, đúng 40 Xuân trước, trong
có bài phỏng vấn 11 văn nghệ sĩ về sự khác biệt giữa Tết Việt Nam xưa và
Tết hải ngoại. (Hình: Viên Linh cung cấp)
Nhà báo Ngô Vương Toại
Nhà báo... đã được Việt Cộng tặng 3 phát đạn vào ngực và bụng nhưng
không chết, và nhờ đó đã bảo vệ được diễn đàn đại học Văn Khoa Sài Gòn
do anh tổ chức. Viết nhiều báo ở Sài Gòn trong có Diễn Đàn, Tìm Hiểu,
hiện sống ở Arlington, Virginia.
1- Cố gắng lột xác. Tôi như con ve sầu cố lột cái lớp vỏ Sài Gòn để hòa
trộn với nếp sống mới ở đây. Cố gắng thích nghi càng nhiều thì lại càng
thèm cái nếp sống cũ.
2- Những cái Tết thời niên thiếu. Tôi khoái đốt pháo và đi trên xác pháo
đỏ. Từ khi pháo bị cấm đốt, tôi không còn thích Tết như ngày cũ. Tôi bị
hố to vì tưởng pháo nổ Tết Mậu Thân khi mấy anh “đồng chí” tấn công vào
thành phố biết cái Tết thành những ngày tàn sát. Nhớ vụ này tôi càng
căm mấy anh phá bĩnh.
Kịch sĩ Lê Tuấn
Kịch sĩ, diễn viên điện ảnh, vai chính trong phim Yêu đối diện Thanh
Lan, được Giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc về Dịch Thuật (dịch một kịch
bản Don Quichote ra Việt ngữ) năm 1972. Cùng làm việc với tác giả bài
này trong Đài Mẹ Việt Nam ở Nhà Số 7 Hồng Thập Tự Sài Gòn.
1- Sự khác biệt đáng kể nhất giữa đời sống ở Việt Nam và đời sống hiện
nay ở Hoa Kỳ với tôi là sự chối bỏ tất cả quá khứ, một làm lại từ đầu,
cả vật chất lẫn tinh thần. Tôi có cảm tưởng nhiều người xem đó là một
điều hay, hoặc may mắn, nhưng riêng tôi xem đó là một bất hạnh.
2- Cái Tết đáng nhớ nhất ở quê hương đối với tôi là năm Đinh Mùi 1967,
anh ruột tôi đền nợ nước. Còn cái Tết nào đáng nhớ bằng cái Tết đó?
Nhà giáo nhà thơ Vi Khuê
Dạy học và chủ trường trung học tư ở Đà Lạt, nhà thơ, hiện sống ở Arlington, Virginia.
1- Tất cả đều là những khác biệt lớn bắt đầu từ khác biệt căn bản: Nghề
nghiệp và môi sinh. Về vật chất khác biệt lớn là về thực phẩm. Về tinh
thần đó là sự cô đơn.
2- Nếu là một cái Tết vừa ý thì đã lâu rồi không có, dù là ở quê hương.
Nhạc trưởng Lê Văn Khoa
Từng là ca trưởng ca đoàn Cơ Đốc, Trùng Dương, ban hợp ca hòa tấu Tiếng
Nhạc Trầm tư đài truyền hình Sài Gòn, tác giả nhiều sách đủ loại, nhiều
giải thưởng về nhiếp ảnh.
1- Ở Việt Nam tôi làm việc cả ngày lẫn đêm, mệt nhoài nhưng thích thú... Hiện tại ở đất Mỹ này tôi chưa có gì làm.
2- Tết Mậu thân là cái Tết đáng nhớ nhất vì nhiều lẽ. Chiều 29 Tết lãnh
lương, trừ nợ hết chỉ còn 55 đồng. Mượn tiền thêm không được chán quá
định tuyệt thực 3 ngày Tết cho bõ ghét cuộc đời. Lúc đó nhận được thư
của một khán giả tí hon của màn ảnh nhỏ, than không tiền lo cho Ba trong
ngày Tết. Tôi nhờ một người bạn đem 50 đồng đi tặng giùm tôi, còn lại 5
đồng để hôm sau mua bánh mì lạt ăn rồi nhịn luôn 3 ngày Tết.
Đêm đó anh Trần Đại tìm đến chỗ tôi trọ ở Phú Nhuận, nhét vào tủ một xấp
tiền, 6,000 đồng bảo là tiền nhuận bút và hình bìa tôi chụp in trên báo
Phụ Nữ Mới của anh Ngọc Sơn. Đêm sau tôi được rước xuống tòa báo ở
đường Phan Văn Hùm để đốt pháo lấy hên đón giao thừa. Phong pháo dài 2
thước mà chỉ nổ chừng 10 cây là tắt... Việt Cộng tấn công vào thủ đô,
lịnh giới nghiêm 24/24 được ban hành. Nhưng tôi với chiếc máy ảnh leo
lên chiếc Lambretta cũ kỹ đi “thị sát” các mặt trận Thị Nghe, Bình Lơi,
Ngã ba Cây thị, Bảy Hiền, Chợ Lớn, v.v... và lo tiếp trợ đồng bào tị
nạn.
-
HOÀNG HẢI THỦY *TÌNH YÊU VÀ HÌNH ẢNH ĐÀN BÀ TRONG THƠ XƯA
TÌNH YÊU VÀ HÌNH ẢNH
ĐÀN BÀ TRONG THƠ XƯA
Trong Thơ của người xưa chúng ta gập một số hình ảnh đàn bà Việt Nam mà ngày nay, và mãi mãi về sau, xã hội Việt Nam không còn họ nữa: những người đàn bà làm nghề cô đầu, một nghề phục vụ đàn ông đã có trong xã hội ta kể từ những năm giữa Thế kỷ 19 – khi nền đô hộ của người Pháp được đặt vững vàng trên đất nước ta, và suy tàn đi vào những năm 1940 – khi Việt Nam đi vào chu kỳ loạn và thay đổi.
Dù có tinh thần bài Trung Hoa nặng đến đâu chăng nữa, tôi nghĩ ta cũng phải nhận rằng người Việt Nam, từ mấy ngàn năm, đã học tập rất nhiều thứ của người Trung Quốc, trong số có “nghề chơi” là một. Hát ả đào, hay hát cô đầu ở nước ta, là một biến thể của nghề ca kỹ ở Trung Quốc. Hình ảnh đậm nét nhất, gây ấn tượng nhất
của những nàng ca kỹ Trung Hoa là hình ảnh và tâm sự người thiếu phụ bến Tầm Dương, do Bạch Cư Dị vẽ lên và để lại, sống mãi trong thơ văn từ hơn ngàn năm trước đến nay.
Hai ông Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề, trong quyển Việt Nam Ca Trù Biên Khảo, viết:
“ Lối hát ả đào có từ thời nhà Lý. Năm Thuận Thiên thứ 16 – 1025 – Vua Lý Thái Tổ đặt chức quản giáp cho giới con hát. Trong đời nhà Lý, có Tống Đạo sĩ là người nước Tầu sang ngụ nước ta, dậy con gái nước ta múa hát.
“Cuối đời nhà Hồ – 1400-1407 – có người con hát họ Đào, quê ở làng Đào Xá, tỉnh Hưng Yên, lập mưu giết được giặc Minh. Khi nàng chết, dân làng nhớ ơn lập đền thờ, gọi thôn nàng là thôn Ả Đào. Từ đấy, những cô gái đi hát được gọi là Ả đào, hoặc Đào nương.”
Nghệ thuật múa hát ông cha ta học được của người Tầu đó truyền đến Thế kỷ 19 chia thành hai ngành chuyên biệt và chuyên nghiệp, nhiều người làm hai ngành này có thể sống được với nghề: trình diễn ca múa trên sân khấu: chèo, tuồng, và hát trong phòng: hát ả đào.
Hát ả đào, hay hát cô đầu, có nhiều cách, thể, điệu: Hát nói, Hát ru, Gửi thư, Kể chuyện, Bồng mạc, Sa mạc vv... Không có ý chuyên khảo về đề tài Hát Ả Đào nên tôi chỉ viết thoáng qua phần này. Lời của các điệu hát giống nhau, thường là thơ lục bát, lời Hát Nói là một thể riêng. Hát Nói là điệu ca phổ biến nhất trong những điệu ca ả đào. Các thi sĩ xưa của ta sáng tác khá nhiều bài Hát Nói. Như thểâ thơ Lục bát, Hát Nói là thể thơ hoàn toàn Việt Nam; trong Hát Nói có rất ít ảnh hưởng của thơ Đường luật.
Tản Đà, Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đều sáng tác Hát Nói, nhiều bài được làm ra với dụng ý rõ ràng là để cho các cô đào hát. Một số vị quan lại thời ấy, tuy không phải là thi sĩ theo nghĩa thi sĩ chúng ta hiểu hiện nay, đã sáng tác Hát Nói, đặc biệt là sáng tác của những ông quan lại họ Dương: Dương Khuê, Dương Lâm, Dương Tự Nhu.
Nghề cô đầu ở nước ta thịnh vươnïg nhất cùng với thời hiển đạt của những ông Án sát, Tuần phủ, Tổng đốc nhà Nguyễn. Thời xưa ấy các ông chơi trò hát cô đầu mà không có mặc cảm tội lỗi. Thi sĩ Tú Xương công khai tuyên dương thú hát cô đầu của ông trong bốn câu:
Có phải rằng ta chẳng học đâu,
Mỗi năm ta học một vài câu.
Ví dù Vua mở khoa thi Trống,
Lạc nhạn, xuyên tâm, đủ ngón chầu.
Lời thơ vừa ngông, vừa hài hước, nhưng cũng có nhiều thực tế. Nếu như Vua mở khoa thi đánh trống cô đầu thật, biết đâu Ông Tú Xương đã chẳng đỗ ông Nghè – Nghè Trống cũng là Nghè – đường công danh của ông đã không lận đận như với khoa thi chữ. Chúng ta hãy nghe ông Tú diễn tả nhân sinh quan của ông qua bài:
Hát Cô Đầu
Nhân sinh quí thích chí
Chẳng gì hơn hú hí với cô đầu.
Khi vui chơi năm ba ả ngồi hầu,
Chén rượu cúc, đánh chầu năm ba tiếng.
Tửu hậu khán hoa nhàn bất yếm,
Hoa tiền chước tửu hứng vô nhai.
Hỡi ai ơi..Chơi lấy kẻo hoài,
Chơi cũng thế mà không chơi cũng thế.
Của trời đất xiết chi mà kể,
Nợ công danh thôi thế cũng xong.
Chơi cho thủng trống tầm bông.
Nhân sinh quí thích chí: người ta ở đời cốt thỏa thích ý mình. Uống rượu, xem hoa mãi chẳng chán, trước hoa, uống rượu thú không biết ngần nào. Trống tầm bông: trống hai mặt, thắt lại ở giữa, đánh lên tiếng kêu nhẹ là tầm, tiếng kêu nặng là bông.
Thi sĩ nói: Chơi là lãi. Chơi cũng thế mà không chơi cũng thế! Người trẻ tuổi chưa có kinh nghiệm sống, nếu nghe theo lời khuyên này, có thể mang hại. Có làm mới có thể có chơi. Chúng ta phải làm rồi mới chơi được. Dù cho ta có điều kiên đi nữa nếu ta chỉ sống để chơi, để hưởng thụ không mà thôi, cuộc sống của ta cũng bị lệch. Theo tôi, điều kiện để chơi là phải làm việc. Nhưng chỉ hùng hục làm mà không chơi, không biết chơi, không biết hưởng lạc thú ở đời, cũng là hỏng.
Về một mặt, nói một chiều, tính ra quả “chơi là lãi” thật. Trong thời gian nằm trong tù tôi có dịp suy nghĩ – lơ mơ thôi – về đề tài ấy. Nằm cùng với tôi trong nhà tù cộng sản có những anh nhà buôn, nhà bán, cả đời ăn mắm, mút ròi, chuyên tính lợi cho mình, hại cho người, buôn gian, bán lận, một vốn, bốn lãi, chất chứa, ký cóp, bòn mót của cải để làm giầu. Cộng sản vào Sài Gòn, các anh này mất hết, không những chỉ bị mất hết của cải, nhà cửa, các anh còn bị bọn cộng sản cho vào tù vì cái tội giầu tiền. Sống trong cái gọi là chế độ xã hội chủ nghĩa – quái thai của quái quỉ Cộng sản – anh ăn chơi cũng tù mà anh không ăn chơi cũng tù. Chỉ có điều khác là những anh giầu tiền đã bị tù rồi còn phải khai báo, phải nộp của, đã mất trắng những của nổi nhà cửa, kho hàng, tiền vàng, các anh còn bị bóp cho lè những của chìm ra, những anh đã ăn chơi đã đời rồi thì nằm phây phây, các anh này không còn gì để bọn cộng sản có thể lột. Trong trường hợp ấy – đúng như lời ông Tú Xương nói – quả thật sống ở đời “chơi là lãi” đấy.
Nói đến hát cô đầu, nhiều người Việt – những người chưa từng bao giờ biết cái thú hát cô đầu – cũng ít nhiều biết bài Hát nói, như bài này :
Hồng Hồng, Tuyết TuyếtNgày xưa Tuyết muốn lấy ông
Ông chê Tuyết bé, Tuyết không biết gì.
Bây giờ Tuyết đã đến thì
Ông muốn lấy Tuyết, Tuyết chê ông già.
Hồng Hồng, Tuyết TuyếtMới ngày nào chửa biết cái chi chi,
Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì
Ngoảnh mặt lại đã đến kỳ tơ liễu.
Ngã lãng du thời quân thượng thiếu,
Quân kim hứa giá ngã thành ông.
Cười cười, nói nói thẹn thùng
Mà bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại.
Riêng một thú thanh sơn đi lại
Khéo ngây ngây, dại dại vì tình.
Đàn ai một tiếng Dương tranh!
Hồng Hồng, Tuyết Tuyết – nghe nói, nghe nói thôi, người viết gần như mù tịt về chuyện này – là bài hát được hát nhiều nhất trong những chầu hát cô đầu. Vì lời hay, đủ khổ, dễ hát, bài HHTT còn được dùng làm bài mẫu cho các em cô đầu tập hát – Cô đầu có hai loại: cô đầu hát và cô đầu rượu, cô đầu rượu không biết hát, chỉ để hầu khách – Tác giả HHTT là Dương Khuê, người được Nhà thơ Yên Đổ khóc trong thơ:
Bác Dương.. .Thôi đã thôi rồi...
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta…
Vân Trì Dương Khuê, sinh năm 1836, mất năm 1898, quê làng Vân Đình, Hà Đông, đỗ tiến sĩ năm Tự Đức 21 – 1868 – từng làm Tổng Đốc Nam Định và Ninh Bình.
Hồng Hồng, Tuyết Tuyết diễn tả tâm trạng những tay chơi hào hoa khi đã có tuổi. Vào những năm 1960 tâm trạng này được diễn tả bằng câu :”Đừng gọi anh bằng chú...” Cô bé mười tuổi chưa biết chuyện đời năm ta bốn mươi tuổi, số tuổi sung mãn nhất của người đàn ông, trở thành cô gái hai mươi tươi mởn khi ta năm mươi tuổi, thể xác ta đã suy nhược nhưng lòng ta vẫn còn đầy những tham lam chưa thỏa. Ta thấy hạnh phúc đã ở ngoài tầm tay của ta. Khi ta đang ăn chơi, em còn nhỏ. Nay em đến tuổi lấy chồng, ta già rồi. Xưng chú, xưng anh với em đều ngượng miệng, xưng ta thì nhạt nhẽo và phách lối. Gọi nàng là em thì kỳ kỳ mà gọi nàng là cháu thì vô luân. Tình trạng ngang phè, vô duyên, ngôn không chính mà danh chẳng thuận một ly ông cụ nào.
Sau Tháng Tư 1975 vợ chồng tôi trôi dạt về căn nhà nhỏ trong cư xá nghèo này, cư xá có tên Là Cư Xá Tự Do. Lúc chúng tôi mới về đây cô bé nhà trước cửa mới mười tuổi, còn chơi trò nhẩy dây, đánh cầu ngoài đường. Những mùa mưa, mùa nắng Sài Gòn qua đi, tôi võ vàng, gầy ốm, méo mó, răn reo, ngồi bó gối sau khung cửa sổ, buồn phiền nhìn ra con đường nhỏ. Rồi một sáng bọn đầu trâu, mặt ngựa đến nhà tôi, tôi xách cái túi du hành cũ lên xe bông đi tu.ø.. Những mùa mưa, mùa nắng Sài Gòn qua đi, tôi xách cái túi rách trở về mái nhà xưa. Tôi lại ngồi bó gối sau khung cửa sổ nhìn ra con đường sám ngắt. Tôi già hơn, mệt mỏi hơn, võ vàng, gầy ốm hơn, méo mó hơn. Cư xá nghèo hơn, đổ nát hơn, rêu phong hơn, u ám hơn. Một sáng tôi sững sờ nhìn cô gái mười bẩy, mười tám tuổi nhà trước cửa. Chưa bao giờ tôi thấy thời gian qua rõ ràng đến như thế... Bẩy, tám năm trời qua mau ơi là mau...
Dương Vân Trì có mấy bài Hát Nói diễn tả tâm tình tiếc ngày xưa, thương người cũ, ngậm ngùi vì thời gian qua mau: “Đêm khuya chợt nhớ chuyện thời trẻ. Trong mắt người ta đã già rồi…” thật cảm động:
Tặng Cô Đầu Phẩm
Dạ thâm hốt ức thiếu niên sự
Giận hồng quân ghen ghét kẻ hồng quần.
Trải nắng mưa gầy biết mấy phần xuân,
Mà son phấn cũng phong trần thế nhỉ?
Nhãn trung chi nhân ngô lão hĩ!
Lệ Giang Châu chan chứa bởi vì ai!
Tân tri, cựu hận bời bời,
Tình duyên ấy lôi thôi bao kể xiết.
Ướm hỏi khách biết chăng, chẳng biết ?
Thương cho tình mà lại tiếc cho tài.
Hay là nhớ chốn Chương Đài,
Xạ lan mùi cũ, hán hài lối xưa?
Hay là nhớ chốn mây mưa.
Trong một tỉnh nhỏ nào đó ở miền Bắc Việt Nam một đêm cách đêm nay một trăm ba mươi, một trăm bốn mươi năm, người lãng du Dương Vân Trì đi hát cô đầu. Cô đào hát có chồng là kép đàn, theo đúng quy luật đã thành văn:
Cô đầu, cô đách
Lấy quan, quan cách,
Lấy khách, khách về Tầu,
Lấy nhà giầu, nhà giầu phải tội tiêu xưng,
Trở về lấy chú tửng tưng
Tốt bền cố hỉ.
Những người đàn bà chơi bời thường không lấy được chồng tử tế, dù có nhiều thiện chí muốn trở về cuộc sống lương thiện, có nhiều cố gắng đến mấy đi nữa, thường họ cũng không gập được hạnh phúc trong cuộc sống vợ chồng. Có lẽ vì họ đã quen với nếp sống ăn chơi sa đọa, chỉ quen hưởng thụ, phần vì thành kiến của xã hội không tin tưởng họ, vì chẳng có mấy người đàn ông dại dột làm cuộc thử nghiệm vợ chồng với họ. Nhưng trong đời ta cũng thấy có nhiều em chơi bời thực sự trở thành vợ hiền khi có người yêu thương họ. Và một khi đã hiền, các em hiền hơn nhiều những em con nhà lành đổ đốn khi có chồng.
Người đào hát trong bài Hát Nói dưới đây có chồng là kép đàn, ông kép đàn mới chết. Nhà hát có khách, nàng hát vài bài rồi xin phép ngừng, vì đang có tang chồng, không tiện ngồi lâu. Ta có thể cười chê việc nàng làm là trò giả dối: đã là cô đầu tiếp khách thì dù hát vài bài hay hát suốt đêm cũng là tiếp khách, còn bầy đặt làm gì. Nhưng đôi khi chúng ta cũng quá dễ dãi trong việc khen chê. Cuộc sống còn có đạo đức là do những giữ dìn nho nhỏ ấy. Và giữ dìn lễ nghĩa nho nhỏ như vậy cũng là tốt rồi, ta không nên đòi hỏi gì hơn. Chỉ khi nào chúng ta không còn giữ dìn gì cả, không còn biết ngượng ngùng chi hết, dù là giả vờ, lúc đó chúng ta và cuộc sống mới thật là khốn nạn.
Cô đào xin phép ngừng hát vì chồng nàng mới chết, ông khách lãng du có biết chồng nàng, từng nhiều lần được nghe vợ chồng nàng đàn hát, tức cảnh làm bài hát nói:
Tặng Cô Đầu Hai
Lấy ai là kẻ đồng tâm
Lấy ai là kẻ tri âm với nàng.
Đêm khuya luống những bàng hoàng
Người đi đâu vắng mà đàn còn đây?
Nhớ chàng Hai mà gặp lại cô Hai
Tiện đây hỏi một đôi lời
Đàn bản ấy cùng ai so phím cũ?
Hồng phần kỷ nhân vi quả phụ?
Bạch đầu nan lão Trác Văn Quân!
Thế thì khi gió gác, lúc trăng sân
Chừng Bạch Tuyết, Dương Xuân còn tưởng nhớ.
Hãy ngồi lại hát chơi khúc nữa
Có trách chi tang trở xóm Bình Khang.
Xưa nay nghề nghiệp thế thường.
Ngắn thôi nhưng đủ ý, bài hát nói vừa trữ tình, vừa hiện thực, vừa cảm thương, đường hoàng, vừa hóm hỉnh và khéo nói. Hiện thực ở câu:” Sớm khuya xe tẩu phụng thờ..” Một câu thôi mà nói lên được một số sự kiện: hát cô đầu là có đàn bà, rượu và thuốc phiện. Tửu, sắc, yên, đổ, bốn món ta quen gọi là Tứ Đổ Tường, ba món tập hợp trong nhà cô đầu, chỉ thiếu có cờ bạc. Đổ: cờ bạc, thường đi một mình. Đổ cờ bạc, đổ bác, không phải là chữ “đổ” trong Tứ Đổ Tường. Thường cờ bạc là không có đàn bà, không có rượu, thuốc phiện. Những ông kép đàn cho cô đầu hát thường nghiện thuốc phiện, có thể nói trăm ông kép đàn thì có đến 101 ông nghiện á phiện. Nhiều cô đầu biết tiêm thuốc phiện. Qua bài hát nói ta thấy anh kép đàn nghiện hút đã qua đời, vợ anh bầy bộ bàn đèn của chồng lên bàn thờ để thờ. Chi tiết này rất hiện thực. Nó ghi lại hình ảnh một thời kỳ đã qua trong xã hội ta, khi việc dùng á phiện được nhà cầm quyền coi là hợp pháp, khi Nhà Nước Bảo Hộ tổ chức việc nhập cảng á phiện và bán á phiện cho dân. Người kép đàn là người miền Trung. Dương Vân Trì đã khéo léo dùng tiếng Trung Kỳ để gợi lại việc Bá Nha Chung Tử Kỳ cảm nhau qua tiếng đàn. “Mi” trong câu “Vợ mi ở đó mi đi mô chừ..?” không mang ý khinh thường mà là tiếng gọi nhau thân mật của người miền Trung. “Nhân vong, cầm tại: người mất, đàn còn” lấy ở điển Bá Nha-Tử Ky, diễn tả thật đúùng cảnh người kép đàn không còn nhưng cây đàn của anh vẫn còn đó. Phải tài hoa và tài tình lắm mới tức cảnh làm ngay được bài thơ nhiều ý hay như Dương Vân Trì làm bài này. Đó chưa kể kinh nghiệm sống: đàn bà đẹp khó có thể ở góa lâu được; các nàng có muốn ở góa bọn đàn ông cũng không chịu, những anh yêu nàng, muốn các nàng, thường làm đủ mọi cách để ép buộc các nàng phải bước đi bước nữa. Đa tình như nàng Trác Văn Quân làm sao có thể ở góa cho đến lúc bạc đầu cho được? Đó chỉ là qua kinh nghiệm thôi, và kinh nghiệm đó đúng.
Ta có câu:” Chẳng ai giầu ba họ, chẳng ai khó ba đời..” Tôi thấy kinh nghiệm trên chỉ đúng trong thời loạn, khi xã hội có những biến động lớn, có sự thay đổi lớp người cầm quyền, nhưng trong những thời xã hội yên bình, một số gia đình nào đó nắm quyền thống trị xã hội trong vài trăm năm, ta thấy có những nhà quyền quí cha truyền, con nối không phải chỉ ba đời mà là cả chục đời. Vì vậy ta có câu ca dao:
Con vua thì lại làm vua
Con lão sãi chùa lại quét lá đa.
Nhưng một dòng họ không thể nắm quyền thống trị xã hội được mãi mãi. Tranh dành và chiếm giữ quyền làm chủ xã hội là việc mà loài người đã làm dài dài từ ngày họ sống thành xã hội. Sau năm 1954 ở miền Bắc, ta thấy tình trạng:
Con anh mõ làng lên làm chủ tịch,
Con nhà chánh tổng ra ở chuồng vịt ngoài đồng.
Những năm 1930 trong số những người sống ở bên sông Nhĩ, Hà Nội, có câu:
Con ơi đừng khóc, mẹ sầu,
Cha con đốt lửa dưới tầu Long Môn.
Bao giờ con lớn, con khôn
Thì con lại xuống Long Môn con làm…
Từ năm 1975 câu hát trên có thay đổi chút ít để hợp với hiện cảnh:
…Bây giò con lớn, con khôn
Con làm chủ tịch để con thằng tư sản
nó xuống Long Môn nó làm…Ta vừa đi lạc chút síu ra ngoài đề tài:” Tình Yêu và Hình Ảnh Đàn Bà trong Thơ Xưa”, nay ta trở lại:
Gập Cô Đầu Khanh
Cầm tay nhớ những bao giờ
Mười lăm năm lại tình cờ gặp nhau.
Cuộc vui chớ gợi tiếng sầu
Tri âm ta lại bắt đầu tri âm.
Thế thượng tri âm tối nan đắc
Độc khanh tri ngã, ngã tri khanh.
Đem má hồng ánh với mắt xanh,
Ấy ai ấy với mình duyên ngộ nhỉ!
Ngã thính khanh ca tần quán nhĩ,
Khanh tri ngã túy thả vong tình.
Thôi thời thôi, ta hãy mần thinh,
Chẳng túc trái cũng tiền sinh chi đấy tá.
Liên khanh đáo để hoàn liên ngã,
Hữu tình ta dám há vô tình.
Ái khanh thị dĩ khanh khanh!Dương Tự Nhu*
Bổ di còn chuyện trích tiên
Có người họ Chử ở miền Khoái Châu
Ra vào nương náu hà châu
Phong trần đã trải mấy thâu cùng người.
Tiên Dung gặp buổi đi chơi
Gió đưa Đằng Các, buồm xuôi Nhị Hà
Chử Đồng ẩn chốn bình sa
Biết đâu gặp gỡ lại là túc duyên
Thừa lương nàng mới dừng thuyền
Vây màn tắm mát kề liền bên sông
Người thục nữ, kẻ tiên đồng
Tình cờ ai biết vợ chồng duyên ưa…
Bạn vừa đọc truyện tình Chử Đồng Tử-Tiên Dung, một truyện tình cổ trong những chuyện tình cổ nhất của dân tộc ta. Truyện được ghi lại bằng thơ trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca – ĐNQSDC -- thi phẩm được in năm 1870, đồng soạn giả là hai ông Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái. Bản ĐNQSDC được dùng trong bài này là bản do ông Hoàng Xuân Hãn hiệu đính, sọan lại, viết tựa, xuất bản năm 1949 ở Sài Gòn.
Chuyện tình Chử Đồng Tử-Tiên Dung là dã sử. Nàng là công chúa đời vua Hùng ngày xửa, ngày xưa, công chúa không thích sống trong cung cấm, công chúa lãng du giang hồ; nàng là thủy tổ của giới thiếu nữ thích đi du lịch, một thứ bụi đời vương giả, một Công Chúa Giang Hồ. Chàng là con nhà nghèo. Chuyện kể họ Chử bị nạn cháy nhà, của cải, đồ đạc mất hết, hai bố con chỉ còn một cái khố thay phiên nhau đóng. Họ kiếm ăn bằng nghề bắt cá. Khi ông bố, hay anh con đem cá ra chợ bán, phải gặp người ta, thì đóng khố, người kia trần truồng không khố trốn nép trong bụi rậm. Ông bố trước khi chết dặn anh con chôn mình trần truồng, giữ lấy cái khố mà mặc. Chử Đồng Tử không nỡ chôn bố trần truồng, chàng mặc khố cho bố còn mình ở truồng. Chuyện kể rõ là vì không có khố Chử không dám lên bờ, khi bắt được cá thì ngâm nửa mình dưới sông, đến bán cá cho những người trên thuyền đậu bến. Cuộc sống của Chử kéo dài như thế cho đến một chiều ngày hè, thuyền của Công Chúa Tiên Dung tới nơi, Chử không kịp chạy, phải vùi mình trong cát để trốn. Thị nữ của Tiên Dung quây màn ngay chỗ Chử nằm trốn để Tiên Dung tắm; họ không biết có chàng trai nằm vùi mình dưới cát ở trong chỗ họ quây màn. Như vậy là Tiên Dung tắm sông nhưng không tắm dưới sông mà sai múc nước sông lên tắm trên bãi cát. Nàng dội nước tắm, nước trôi cát làm lộ ra chàng. Nàng và chàng cùng trần truồng ở trong màn. Chẳng cần phải có óc tưởng tượng ta cũng biết trong màn lúc ấy phải có, ít nhất, hai em thị nữ hầu công chúa tắm, dội nước, sát sà bông, kỳ lưng vv... nhưng chàng họ Chử không dính em thị nữ nào mà lại dính ngay công chúa.
Chuyện tình dục thứ hai trong lịch sử ta là cuộc tình Lê Đại Hành Lê Hoàn – ông này có tên đường ở khu trường đua Phú Thọ, Sài Gòn – với Thái Hậu Dương Vân Nga nhà Đinh. Năm 968, Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 Sứ Quân, thống nhất đất nước, lên ngôi vua, xưng là Đinh Tiên Hoàng Đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. ĐNQSDC ghi Đinh Tiên Hoàng không phải là ông vua tốt, vua áp dụng hình phạt quá tàn ác, nuôi hổ cho vồ người, đặt vạc dầu nấu người phạm tội. Vua có năm bà hoàng hậu. Năm 979, Vua uống rượu say, bị cận thần là Đỗ Thích giết chết cùng với con trai tên Liễn. Các quan giết Đỗ Thích, lập con thứ của Vua là Đinh Tuyền lên làm vua. Khi lên ngôi vua, Đinh Tuyền mới 6 tuổi. Dưới đây là chuyện ghi trong ĐNQSDC:
Chơi bời gần lũ tiểu nhân
Rượu hoa ngọt giọng, đền xuân mơ màng
Trùng môn thưa hở đề phòng
Để cho Đỗ Thích gian hùng nỡ tay
Nối sau Thiếu Đế thơ ngây
Lê Hoàn tiếp chính từ rày dọc ngang
Tiếm xưng là Phó quốc vương
Ra vào cùng ả họ Dương chung tình…
Và đây là chuyện tình Lê Hoàn-Dương Vân Nga trong Việt Sử Tiêu Án, tác giả Ngọ Phong Ngô Thời Sĩ. Bản dịch của Hội Nghiên Cứu Văn Hóa Á Châu, xuất bản ở Sàigòn năm 1960. Trích:
..Vệ Vương mới 6 tuổi, Lê Hoàn giữ binh quyền, ra vào cung cấm, Thái hậu là Dương thị tư tình với Lê Hoàn, cho Lê Hoàn làm nhiếp chính, Hoàn cậy được Thái hậu yêu, tự xưng là Phó vương. Ngưng trích.
Năm 1979, Việt Cộng và Tầu Cộng tình hữu nghị thắm thiết, ngoài là đồng chí, trong là anh em, sông liền sông, núi liền núi, khắng khít như môi răng, trở mặt đánh nhau chí chạt, hai tên cùng hộc máu. Bắc Cộng lăng-xê tuồng Thái Hậu Dương Vân Nga, đào Thanh Nga, cải lương chi bảo của Sài Gòn 1970 đóng vai Dương Thái Hậu. Ý đồ của việc trình diễn vở tuồng ấy là khêu gợi tinh thần đánh Tầu của nhân dân Việt, và rủ rê nhân dân Việt Nam Cộng Hòa làm như Thái Hậu Dương Vân Nga: Thái hậu bỏ nhà Đinh, quên chồng, quên quyền lợi của con, yêu và trao quyền bính cho Tướng Quân Lê Hoàn trẻ tuổi, uy dũng, khỏe mạnh, nhân dân VNCH nên quên quốc gia VNCH bại trận, nên bỏ rơi bọn tù nạn nhân cộng sản để đi với những người Việt Cộng chiến thắng. Đào Thanh Nga Thái Hậu Dương Vân Nga một đêm bị bắn chết khi từ trong xe hơi về tới trong sân nhà. Bắc Cộng đổ cho bọn Bắc Kinh giết Thanh Nga vì nàng đóng tuồng Thái Hậu Dương Vân Nga bài Tẫu. Vụ án mạng Thanh Nga bị cho chìm suồng.
Và như thế là Vua Ta – Đinh Bộ Lĩnh Cờ Lau anh hùng, có công thống nhất đất nước, xây nền độc lập – bị giết cùng với con trai, vợ trẻ về vòng tay người khác, nghiệp vua chỉ có 11 năm! Vua được nhân dân biết ơn, Sài Gòn thủ đô Quốc Gia VNCH có đường Đinh Tiên Hoàng dài và lớn.
Chuyện tình thứ ba: Lý Chiêu Hoàng-Trần Cảnh. ĐNQSDC ghi:
Chiêu Hoàng là bậc nữ nhi
Phấn son gánh việc gian nguy được nào!
Xây vần cơ tạo khéo sao
Bỗng xui Trần Cảnh hiện vào hầu trong
Người yểu điệu, kẻ thư phong
Bén hơi rơm lửa, động lòng mưa mây
Vẩy nước chậu, vắt khăn tay
Khi đêm đạp bóng, khi ngày ngồi chung
Hoa đào đã giạn gió đông
Vua tôi phận đẹp, vợ chồng duyên may…
Ở đây có câu tục ngữ: “Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”. Con trai, con gái cứ ở gần nhau là thể nào chuyện tình dục cũng xẩy ra. Đừng nói lửa gần rơm, lửa mà gần gỗ lim thì chẳng cần lâu ngày gỗ lim cũng cháy. Đây là mưu của Trần Thủ Độ – ông này không có tên đường ở Sài Gòn – Vua Cô mới bẩy, tám tuổi, cho Trần Cảnh trai mười, mười một tuổi vào cung ăn ở chung phòng với Vua là chít Vua dzồi!. Hai trẻ tắm chung nên mới có chuyện té nước nghịch đùa nhau. Trẻ đùa té nước nhau mà cho là: “Vua đem nước cho Trần Cảnh...”, phải là Trần Thủ Độ, người nói câu “Nhổ cỏ phải nhổ cả rễ”, mới có thể suy diễn như thế.
Quả núi Tiêu Sơn có nhớ công,
Mà em bán nước để mua chồng?
Kết tội Chiêu Hoàng” bán nước” là không đúng, là quá đáng. Tản Đà chỉ dùng tiếng “bán nước” để hạ tiếng “mua chồng.” Vua chỉ nhường ngôi, vua không bán nước, Vua cũng không mua chồng. Đây là cuộc cướp ngôi – dân chủ là đảo chính -- không đổ máu. Ông Tổ nhà Lý là Lý Công Uẩn, nguyên là chú tiểu Chùa Tiêu Sơn, Bắc Ninh. Nhà Lý làm vua được 219 năm, truyền 9 đời vua.
Và đây là hai chuyện dâm tình đời Trần. Trích ĐNQSDC:
Bởi ai đầu mở hôn phong
Khiến nên một đạo khuê phòng thẹn riêng
Thuần bôn dong thói ngửa nghiêng
Họ đương lấy lẫn nào kiêng sợ gì
Thiên Thành công chúa vu qui
Sao Trần Quốc Tuấn cướp đi cho đành
Sính nghi đem tiến thiên đình
Thụy Bà lăng líu, Thiên Thành ngẩn ngơ…
Đời Trần, Vua Trần Thái Tông, vua Trần đầu tiên, tức Trần Cảnh, người khi còn là chú nhỏ, được Trần Thủ Độ cho vào cung nhà Lý, chơi với Vua Cô Lý Chiêu Hoàng rồi làm chồng Chiêu Hoàng, được Chiêu Hoàng truyền ngôi, làm mất nhà Lý. Trần Thái Tông ở ngôi 33 năm, một ông vua tương đối tốt. Trong đời vua Thái Tông, Trần Quốc Tuấn, người sau là Hưng Đạo Vương, mới mười sáu, mười bẩy tuổi. Vì nhà Trần người trong họ lấy nhau công khai nên mới sinh ra chuyện tình độc đáo như sau:
Việt Sử Tiêu Án. Ngọ Phong Ngô Thời Sĩ. Trích:
…..Con An Sinh Vương là Quốc Tuấn đoạt hôn (bắt cô dâu sắp kết hôn với người khác làm vợ mình).
Thiên Thành Công chúa là em vua Thái Tông, được vua hứa gả cho Trung Thành Vương. Ngày cưới, Vua cho mở hội, đưa dâu. Lúc bấy giờ Công chúa đã đến ở nhà Nhân Đạo Vương – thân phụ của chú rể Trung Thành Vương – Quốc Tuấn yêu Công chúa, muốn đoạt lấy làm vợ, đương đêm lẻn vào phòng Công chúa mà thông gian. Thụy Bà Công chúa, chị của Thái Tông và chị của Thiên Thành Công chúa, từng nuôi Quốc Tuấn làm con nuôi, thấy chuyện xẩy ra như thế sợ có tai họa cho Quốc Tuấn, vội đến tâu trình với Vua, xin Vua thương mà cứu mạng Quốc Tuấn; bà tâu Quốc Tuấn đã bị Nhân Thành Vương bắt. Vua sai quan quân đến dinh Nhân Thành Vương, tìm thấy Quốc Tuấn đang ở trong buồng nằm của Thiên Thành Công chúa. Đến lúc ấy Nhân Thành Vương mới biết có Quốc Tuấn ở trong dinh mình.
Thụy Bà Công chúa đem 10 mâm vàng làm lễ cưới, xin Vua gả Thiên Thành Công chúa cho Quốc Tuấn. Vua bất đắc dĩ phải bằng lòng… Ngưng trích.
Đấy là chuyện tình thời trẻ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, anh hùng lịch sử số một của dân tộc ta. Ta có nhiều vua, nhiều tướng đánh thắng quân xâm lược đến từ phương Băùc, nôm na, dễ hiểu là Ba Tầu, oanh liệt nhất là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, rồi Bình Định Vương Lê Lợi và Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ. Ngay cả thời bây giờ khi văn minh Âu Á trời đã thu sạch, luân thường đảo ngược từ lâu, việc làm của chàng thanh niên Quốc Tuấn cũng không thể chấp nhận được: Cướp vợ của anh họ mình, dâm Công chúa ngay trong ngày cưới Công chúa. Lấy công chúa là bà cô, em gái của bà mẹ nuôi mình. Điều đáng nói là Công chúa chịu, Công chúa không phản đối cũng không kêu cứu, không tố giác. Chuyện lấy Công chúa là cô – cô họ cũng là cô – làm vợ không phải lỗi của Quốc Tuấn, họ Trần của chàng người trong họ chuyên lấy nhau. Nhân Thành Vương, ông bố chồng, ù lì đến cái độ không biết có trai lạ nằm trong phòng ngủ của con dâu mình ngay trong nhà mình! Kể cũng lạ!
Chuyện đáng nói là tuy lãng mạn và liều mạng vì tình như thế, Trần Quốc Tuấn vẫn là đấng anh hùng kiệt xuất nhất lịch sử dân tộc ta. Như vậy có nghĩa là dâm không làm cho con người tồi tệ, chỉ có những con người tồi tệ bị tồi tệ thêm vì dâm.
Đời Trần Anh Tôn, Vua Chiêm là Chế Bồ Đài, tên nữa là Chế Mân, dâng hai châu Ô, Lý làm lễ cưới Công chúa Huyền Trân. Vua gả Công chúa cho Bồ Đài. Được một năm Bồ Đài chết. Theo tục lệ Chiêm Thành, hoàng hậu phải lên dàn hỏa chịu chết thiêu cùng với xác Vua. Vua sai Khắc Chung vào kinh đô Chiêm Thành điếu tang, Khắc Chung nói với triều đình Chiêm là Hoàng hậu phải ra bờ biển làm lễ chiêu hồn, rước linh về, thì khi lên hỏa đàn mới linh thiêng được. Người Chiêm tin thật, để cho Khắc Chung đưa Huyền Trân ra bờ biển làm lễ, Khắc Chung đưa Huyền Trân xuống thuyền chạy luôn ra biển. Một cuộc cướp người đầy kịch tính, gay cấn, giật gân, hấp dẫn, nhiều tình tiết. Người đây là đàn bà, không phải đàn bà thường mà là công chúa, hoàng hậu. Một thứ Mission Impossible. Huyền Trân và Khắc Chung yêu nhau. Lợi dụng cơ hội ngàn năm một thưở này hai người yêu nhau làm cuộc du thuyền tình, đi du dương trên biển tình mãi đến một năm sau mới về đến kinh đô Thăng Long. Hưng Nhượng, một vị vương nhà Trần, rất ghét chuyện Huyền Trân làm tình với Khắc Chung, nói về Khắc Chung:
- Cho nó sống là không tốt. Tên nó lại là Trần Khắc Chung. Rất có thể nó sẽ làm cho nhà Trần ta bị mất..!
Trần Khắc Chung nguyên họ Đỗ – Đỗ Khắc Chung – vì có công nên vua Trần cho phép nhập họ Trần. Nhà Trần có hai ông Trần Khắc: Trần Khắc Chân có công bắn chết Chế Bồng Nga trên cửa biển – Chế Bồng Nga là ông tổ mười ba đời của Chế Bồng Thẹo -- Sài Gòn thủ đô ta có Đường Trần Khắc Chân ở Tân Định, bên Đường Trần Quang Khải, cùng khu với hai Đường Đặng Dung, Đặng Tất, hai vị tướng cuối đời Trần – Đặng Dung: Thế sự du du... Vô cùng thiên địa... Thời lai đồ điếu... Vận khứ anh hùng – Công Chúa Huyền Trân là tên con đường sau Dinh Đôïc Lập, trước Vườn Tao Đàn. Đường này trước 1956 là Đường Miss Cawell, một nữ y tá người Anh phục vụ ở chiến trường Âu châu trong Thếù Chiến Thứ Nhất.
Anh Cu Công An Việt Cộng Huỳnh Bá Thành, trong thời “đồ điếu thành công” của anh, những năm 1977-1978, viết truyện Vụ Án Hồ Con Rùa, tả Đường Huyền Trân Công Chúa là “con đường duy nhất ở Sài Gòn không có số nhà”ø. Nhiều người cho lời Huỳnh bá Thành là đúng. Huỳnh bá Thành tỏ vẻ khoái chí vì phát kiến của anh. Nhưng phát kiến ấy sai. Đường Huyền Trân Công Chúa có số nhà. Đường ngắn. Một bên là dẫy tường sau của Dinh Độc Lập, dẫy này không co ùnhà nên không có số nhà, chỉ có một cổng sau của Dinh. Bên kia đường là một phần Hội Quán Thể Dục Sài Gòn, thời Tây là Cercle Sportif Saigonnais, hội quán trước 1956 là của các ông Tâøy, bà Đầm thuộc địa, sau 1956 là hội quán của những anh chức vụ cao trong chính quyền: bộ trưởng, giám đốc, và bác sĩ, kỹ sư, nhà giầu, rồi cổng vào sân Tao Đàn, trước 1956 là sân Vườn Ông Thượng. Sân Đá Banh Tao Đàn không có số nhà.
Nhưng ngã ba Đường Huyền Trân- Nguyễn Du có một nhà của Sở Điêïn Lực Sài Gòn, nhà này mang số 2. Nói đường Công Chúa Huyền Trân không có số nhà là nói bậy, là không biết gì về Sài Gòn, là không phải người Sài Gòn chân chính. Nhà Số 2 Đường Huyền Trân Công Chúa lù lù ra đấy, có đui mới không thấy, có ngu tận mạng mới mở mồm nói đường Huyền Trân Công Chúa không có số nhà!
Chiêu Quân là thủy tổ của những phụ nữ Tầu lấy chồng ngoại quốc, Huyền Trân là thủy tổ của những phụ nữ Việt lấy chồng ngoại nhân. Công Chúa Huyền Trân của ta xứng đáng được ta tôn vinh, tri ân; gần như tất cả những người phụ nữ Việt lấy chồng ngoại nhân đều không mang một chút lợi lộc gì về cho dất nước, cho dân tộc, Công Chúa Huyền Trân đem về cho đất nước hai châu Ô Lý, tức hai tỉnh Phan Rang, Phan Rí, mở đường cho ông cha ta đi xuống miền Nam.
Trần Khắc Chung và Trần Huyền Trân không cùng họ. Tuy có công cứu Huyền Trân khỏi chết trên dàn hỏa kinh đô Đồ Bàn, nhưng Khắc Chung can tội "hưởng" Công Chúa suốt một năm dài trên thuyền tình lênh đênh ở Vịnh Hạ Long. Một cuộc tình thật đẹp, một chuyến du tình tuyệt vời, một cốt truyện để làm phim xi-nê thật hấp dẫn.
Năm 1986 Đảng Cộng Sản Việt Nam họp Đại Hội 6, theo chân xuống hố của Đảng Cộng Sản Liên Xô, Tổng Bí Thư Nguyễn văn Linh công bố chính sách đổi mới, yêu cầu đảng viên nói thật, nói thẳng và làm một số “những việc cần làm ngay”, trong số có việc “cởi trói cho văn nghệ”. Sau hơn mười năm bị cấm, truyện tiểu thuyết đủ loại lại được in, bán loạn cào cào ở Sài Gòn. Những năm nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa bị rọ mõm mới được cởi trói, chưa được tháo rọ mõm – 1988-1990 – việc xuất bản tiểu thuyết ở Sài Gòn là việc hốt bạc. Sau hơn mười năm không được đọc tiểu thuyết, dân Sài Gòn xếp hàng ở những tiệm sách để mua truyện mới. Tôi ở tù về năm 1990, còn hưởng được hai năm viết truyện linh tinh, kể cả truyện võ hiệp, loại truyện dễ viết nhất, dễ xuất bản, dễ bán nhất. Truyện tôi viết được mua, được xuất bản nhưng tôi không được để tên thật. Đến năm 1992 Việt Cộng lại xiết ngành xuất bản, truyện võ hiệp bị cấm, truyện dã sử Việt Nam thì được. Giới thợ viết xoay sang viết truyện dã sử. Nhiều quái phẩm ra đời, như truyện Nguyễn Trãi đấu chưởng với cao thủ võ lâm Tầu, Nguyễn Huệ đấu kiếm với bọn thích khách đến ám sát Vua ở Thăng Long, bọn võ sĩ Bắc Hà bắt cóc Công Chúa Ngọc Hân, Nguyễn Du sang Tầu, đến Thiếu Lâm Tự học võ vv... Khi ấy tôi đã định viết truyện tình Khắc Chung-Huyền Trân. Với cốt truyện có thật truyện sẽ tha hồ có những màn đấu chưởng, đấu kiếm, kể cả đấu phép kịch liệt giữa Khắc Chung cùng các võ sĩ Việt với những cao thủ Chiêm Thành, Tầu, Miên, Xiêm La, Lào tùm lum tòa loa..
Khắc Chung tài hoa, can đảm, từng được Vua Trần cho làm sứ giả sang dinh quân Nguyên nói chuyện với Ô Mã Nhi. Khắc Chung ứng đối giỏi, Ô Mã Nhi phải phục. Rất có thể Khắc Chung và Huyền Trân đã có tình ý với nhau từ trước khi Huyền Trân đi sang Chiêm Quốc, hoặc Khắc Chung đã yêu Huyền Trân từ lâu nay được dịp đi cứu nàng, tất nhiên chàng phải hưởng nàng. Và nàng sẵn sàng cho chàng hưởng. Tội gì mà không thuyền tình một lá lênh đênh trên sóng nước Hạ Long đẹp tuyệt vời. Thuyền đi từ biển Quảng Nam – Quảng Ngãi mà một năm mới về đến Hà Nội. Thật đã.
Sử không viết gì về đoạn cuối của cuộc tình đẹp ấy: khi về Đông Kinh, tức Thăng Long, lại tức Hà Nội, cuộc sống của đôi tình nhân lịch sử, vương giả ấy ra sao? Hoàng gia có cho Huyền Trân làm vợ Khắc Chung hay không? Nếu không được chung sống vợ chồng với Khắc Chung, Công Chúa Huyền Trân đi đâu, về đâu?
Nếu tôi viết truyện cuộc tình Khắc Chung-Huyền Trân, tôi sẽ cho khi về Thăng Long, Khắc Chung bị tống xuống hầm đá tử tù, Huyền Trân tổ chức cứu chàng. Hai người yêu nhau lại xuống thuyền ra đi. Họ bỏ kinh đô, bỏ những người chuyên cản trở, phá hoại tình yêu, họ đưa nhau đi đến những nơi chân trời, góc biển, cuối bãi, đầu ghềnh, sơn cùng, thủy tận; họ đi và sống với nhau, sống với Tình Yêu – Tình Yêu viết hoa hai chữ T, Y. Nếu làm phim, tôi sẽ đạo diễn cảnh cuối cùng: Hoàng hôn, mặt trời vàng ối xuống trên biển, chiếc thuyền buồm trôi về phía mặt trời lặn, tiếng hát theo cánh buồm bay lên:” Biển tình ái xá gì phương hướng nữa. Thuyền tình ơi theo gió hãy cho ngoan…” Hết phim. Khán giả ra về, ngơ ngẩn vì mối tình quá đẹp! Những khán giả nam, nữ đi xem phim một mình chưa bao giờ cảm thấy họ cô đơn, họ thiếu thốn, họ thiệt thòi, họ bất hạnh đến như thế!
Chuyện tình dục trở thành thảm kịch bi thảm nhất trong lịch sử ta là thảm kịch Nguyễn Trãi-Thị Lộ - Lê Thái Tông.
Việt Nam Sử Lược. Trần Trọng Kim. Trích:
Khi Vua Thái Tông lên làm vua thì Ngài mới có 11 tuổi…
..Vì ít tuổi lại không có người phụ tá, cho nên sau thành ra say đắm tửu sắc, làm nhiều điều không được chính đính.
Tháng Bẩy năm Nhâm Tuất (1442), Thái Tông đi duyệt binh ở huyện Chí Linh. Bấy giờ ông Nguyễn Trãi đã về trí sĩ ở trại Côn Sơn, thuộc huyện Chí Linh. Khi vua đi qua đó có vào thăm, và thấy người hầu của ông ấy là Nguyễn thị Lộ có tài sắc, bèn bắt theo hầu. Đi đến huyện Gia Định, nay là huyện Gia Bình ở Bắc Ninh thì vua mất. Triều đình đổ tội cho Nguyễn thị Lộ giết vua, bắt ông Nguyễn Trãi làm tội và tru di cả ba họ.
Vua Thái Tông làm vua được 9 năm, thọ được 20 tuổi. Ngưng trích.
Chính sử chỉ ghi ngắn gọn và mơ hồ như thế. Ngoại sử, dã sử làm dài dòng và thần bí hóa sự việc: kể Thị Lộ là con rắn hiện thành người vào báo oán ông Nguyễn Trãi. Nhưng viết như tác giả Trần Trọng Kim về cuộc tình Thái Tông-Thị Lộ như thế là không đúng. Thái Tông là một anh trẻ tuổi có tật thích dâm đàn bà hơn tuổi. Làm vua năm 11 tuổi, 20 tuổi chết thượng mã phong, như vậy là ngay từ những năm mới 15, 16 tuổi Vua ta đã hành dâm loạn cào cào châu chấu. Trước khi "làm" Thị Lộ – hơn vua 10 tuổi – Thái Tông đã "làm" bà Ngô Ngọc Dao, bà này có thai, được tuyển vào cung làm Tiệp Dư, bà Ngọc Dao sinh ra Vua Lê Thánh Tông, ông vua thứ ba rất anh minh đời nhà Lê.
Đọc sử nước nhà tôi vẫn lấy làm lạ về chuyện ông Vua Cha anh hùng, thông minh, nhân đức, sinh ra ông Vua Con hết sức dâm dục, hoặc tàn ác, ngu độn. Đó là trường hợp Vua Lê Thái Tổ Lê Lợi sinh ra Vua Lê Thái Tông Thị Lộ. Ông vua Thái Tông chuyên dâm đàn bà hơn tuổi và chết vì thượng mã phong lại sinh ra Vua Lê Thánh Tông Tự Thành rất hiền đức, thông minh, tài hoa. Lại như đời Tiền Lê, Vua Lê Đại Hành anh dũng sinh ra Vua Lê Long Đĩnh Ngọa Triều tàn ác, bạo ngược khủng khiếp.
Đây là truyện ngoại sử viết về thảm kịch Nguyễn Trãi-Thị Lộ-Thái Tông.
Khoa Cử Việt Nam. Tác giả Đỗ Bằng Đoàn-Đỗ Trọng Huề. Xuất bản năm 1999 ở Calgary, Canada. Trích:
Ông (Nguyễn Trãi) có người thiếp yêu Nguyễn Thị Lộ, nhan sắc hoa cười, ngọc nói, lại giỏi văn chương. Thị Lộ cha mẹ mất sớm, nhà nghèo, phải lên Thăng Long ở gần Hồ Tây, bán chiếu, nuôi em ăn học. Vì duyên văn tự, được ông để ý, cho vào hàng tì thiếp. Nàng thường cùng ông làm thơ xướng họa, những chiếu, thư, từ, trát do ông thảo ra, phần nhiều đưa cho nàng xem trước.
Thái Tông nghe tiếng Thị Lộ là bậc tài nữ, bèn triệu vào cung, phong làm Lễ Nghi Nữ Học Sĩ, giao cho trông coi việc lễ nghi ở trong cung và chầu hầu bên cạnh. Kể tuổi Vua kém nàng đến gần 10 tuổi.
Tháng Bẩy năm Đại Bảo thứ ba (1442) ông về trại Côn Sơn. Ngày 4 Tháng Tám Vua ghé vào trại Côn Sơn. Mồng 5 Vua hồi loan, Thị Lộ theo hộ giá. Đi đến trạm Lệ Chi, làng Đại Lai, phủ Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, Vua truyền nghỉ lại, gọi Thị Lộ vào hầu rượu. Nửa đêm Vua băng hà. Triều đình buộc cho Thị Lộ tội giết vua, bắt hạ ngục tra xét. Ông Nguyễn Trãi bị buộc tội thông đồng giết Vua, bị bắt hạ ngục. Trong ngục ông làm bài thơ tù:
Oan ThánPhù tục thăng trầm ngũ thập niên,
Cố sơn tuyền thạch phụ tình duyên.
Hư danh, thực họa, thù kham tiếu,
Chúng báng cô trung, tuyệt khả liên.
Số hữu nan đào, tri thị mệnh,
Văn như vị táng dã quan thiên.
Ngục trung độc bối không tao nhục,
Kim khuyết hà do đạt thốn tiên!
Khả năng tưởng tượng của nhân dân ta thật đáng nể. Không biết ai là tác giả chuyện rắn báo oán để giải thích nguyên nhân cái chết bi thảm của đại công thần Nguyễn Trãi. Nhân dân không muốn nói ông và gia tộc bi xử tử vì Vua Thái Tông chết trong khi đang hành dâm với vợ bé của ông là Thị Lộ, rõ hơn là Vua Thái Tông chết trên bụng Thị Lộ, nên nhân dân đặt ra chuyện rắn báo oán nhà họ Nguyễn.
Thảm kịch Nguyễn Trãi làm tôi thắc mắc. Chuyện kể Nhà Đại Nho-Đại Quan Nguyễn Trãi – Vua Lê Thái Tổ phong ông là đại công thần, ông từng làm Tể Tướng -- bị tru diệt một cách thê thảm vì một nguyên nhân lảng nhách. Tôi nghĩ chuyện ông gặp Thị Lộ đi bán chiếu ở giữa đường, làm bài thơ Hỏi cô bán chiếu là chuyện do nhân dân đặt ra:
* Ả ở đâu mà bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân xanh chừng độ bao nhiêu tuổi?
Đã có chồng chưa. Được mấy con?
Sự kiện làm tôi thắc mắc là Ức Trai Tiên sinh là một nhà trí thức, các ông nho học ngày xưa ngoài kinh sử, còn thông thạo ba mục y, lý, số. Mà chẳng cần phải có học, phó thường dân thôi cũng biết phòng thân, cũng biết khi chị vợ bé của mình làm trò dâm dục với anh đàn ông khác mình phải lập tức cho ả đi chỗ khác chơi không thì có ngày mình thân bại, danh liệt vì sự dâm dục của ả. Phó thường dân chữ nhất không biết còn biết như thế, huống chi Ức Trai Tiên sinh là bậc đại nho?
Vua Lê Thái Tông, 20 tuổi, là ông Vua duy nhất của ta chết vì thượng mã phong – Vua cũng có thể là ông vua duy nhất trên thế giới chết trên bụng đàn bà. Ông Nguyễn Trãi là đại công thần duy nhất không những chỉ trong lịch sử ta mà là trong lịch sử quân chủ thế giới bị chết thảm vì sự dâm dục của ông vua của mình.
Tôi sẽ viết về một số nhân vật Đàn Bà Việt khác trong Thơ ta và lịch sử.
HOÀNG HẢI THỦY(Virginia, USA)
ĐÀN BÀ TRONG THƠ XƯA
HOÀNG HẢI THỦY
Tôi không gọi đây là một khảo luận văn học, tôi gọi bài viết này là
tập tài liệu văn học. Bài này sẽ đi ngược dòng thời gian, từ Thi sĩ Tản
Đà Nguyễn Khắc Hiếu, nửa đầu Thế Kỷ 20, đi ngược về những nhà thơ đời
Lý, Thế Kỷ 11. Đây chỉ là công trình ghi chép rất nhỏ về một chủ đề,
giúp các bạn yêu văn học đỡ mất công tìm kiếm. Trong Thơ của người xưa chúng ta gập một số hình ảnh đàn bà Việt Nam mà ngày nay, và mãi mãi về sau, xã hội Việt Nam không còn họ nữa: những người đàn bà làm nghề cô đầu, một nghề phục vụ đàn ông đã có trong xã hội ta kể từ những năm giữa Thế kỷ 19 – khi nền đô hộ của người Pháp được đặt vững vàng trên đất nước ta, và suy tàn đi vào những năm 1940 – khi Việt Nam đi vào chu kỳ loạn và thay đổi.
Dù có tinh thần bài Trung Hoa nặng đến đâu chăng nữa, tôi nghĩ ta cũng phải nhận rằng người Việt Nam, từ mấy ngàn năm, đã học tập rất nhiều thứ của người Trung Quốc, trong số có “nghề chơi” là một. Hát ả đào, hay hát cô đầu ở nước ta, là một biến thể của nghề ca kỹ ở Trung Quốc. Hình ảnh đậm nét nhất, gây ấn tượng nhất
của những nàng ca kỹ Trung Hoa là hình ảnh và tâm sự người thiếu phụ bến Tầm Dương, do Bạch Cư Dị vẽ lên và để lại, sống mãi trong thơ văn từ hơn ngàn năm trước đến nay.
Hai ông Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề, trong quyển Việt Nam Ca Trù Biên Khảo, viết:
“ Lối hát ả đào có từ thời nhà Lý. Năm Thuận Thiên thứ 16 – 1025 – Vua Lý Thái Tổ đặt chức quản giáp cho giới con hát. Trong đời nhà Lý, có Tống Đạo sĩ là người nước Tầu sang ngụ nước ta, dậy con gái nước ta múa hát.
“Cuối đời nhà Hồ – 1400-1407 – có người con hát họ Đào, quê ở làng Đào Xá, tỉnh Hưng Yên, lập mưu giết được giặc Minh. Khi nàng chết, dân làng nhớ ơn lập đền thờ, gọi thôn nàng là thôn Ả Đào. Từ đấy, những cô gái đi hát được gọi là Ả đào, hoặc Đào nương.”
Nghệ thuật múa hát ông cha ta học được của người Tầu đó truyền đến Thế kỷ 19 chia thành hai ngành chuyên biệt và chuyên nghiệp, nhiều người làm hai ngành này có thể sống được với nghề: trình diễn ca múa trên sân khấu: chèo, tuồng, và hát trong phòng: hát ả đào.
Hát ả đào, hay hát cô đầu, có nhiều cách, thể, điệu: Hát nói, Hát ru, Gửi thư, Kể chuyện, Bồng mạc, Sa mạc vv... Không có ý chuyên khảo về đề tài Hát Ả Đào nên tôi chỉ viết thoáng qua phần này. Lời của các điệu hát giống nhau, thường là thơ lục bát, lời Hát Nói là một thể riêng. Hát Nói là điệu ca phổ biến nhất trong những điệu ca ả đào. Các thi sĩ xưa của ta sáng tác khá nhiều bài Hát Nói. Như thểâ thơ Lục bát, Hát Nói là thể thơ hoàn toàn Việt Nam; trong Hát Nói có rất ít ảnh hưởng của thơ Đường luật.
Tản Đà, Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đều sáng tác Hát Nói, nhiều bài được làm ra với dụng ý rõ ràng là để cho các cô đào hát. Một số vị quan lại thời ấy, tuy không phải là thi sĩ theo nghĩa thi sĩ chúng ta hiểu hiện nay, đã sáng tác Hát Nói, đặc biệt là sáng tác của những ông quan lại họ Dương: Dương Khuê, Dương Lâm, Dương Tự Nhu.
Nghề cô đầu ở nước ta thịnh vươnïg nhất cùng với thời hiển đạt của những ông Án sát, Tuần phủ, Tổng đốc nhà Nguyễn. Thời xưa ấy các ông chơi trò hát cô đầu mà không có mặc cảm tội lỗi. Thi sĩ Tú Xương công khai tuyên dương thú hát cô đầu của ông trong bốn câu:
Có phải rằng ta chẳng học đâu,
Mỗi năm ta học một vài câu.
Ví dù Vua mở khoa thi Trống,
Lạc nhạn, xuyên tâm, đủ ngón chầu.
Lời thơ vừa ngông, vừa hài hước, nhưng cũng có nhiều thực tế. Nếu như Vua mở khoa thi đánh trống cô đầu thật, biết đâu Ông Tú Xương đã chẳng đỗ ông Nghè – Nghè Trống cũng là Nghè – đường công danh của ông đã không lận đận như với khoa thi chữ. Chúng ta hãy nghe ông Tú diễn tả nhân sinh quan của ông qua bài:
Hát Cô Đầu
Nhân sinh quí thích chí
Chẳng gì hơn hú hí với cô đầu.
Khi vui chơi năm ba ả ngồi hầu,
Chén rượu cúc, đánh chầu năm ba tiếng.
Tửu hậu khán hoa nhàn bất yếm,
Hoa tiền chước tửu hứng vô nhai.
Hỡi ai ơi..Chơi lấy kẻo hoài,
Chơi cũng thế mà không chơi cũng thế.
Của trời đất xiết chi mà kể,
Nợ công danh thôi thế cũng xong.
Chơi cho thủng trống tầm bông.
Nhân sinh quí thích chí: người ta ở đời cốt thỏa thích ý mình. Uống rượu, xem hoa mãi chẳng chán, trước hoa, uống rượu thú không biết ngần nào. Trống tầm bông: trống hai mặt, thắt lại ở giữa, đánh lên tiếng kêu nhẹ là tầm, tiếng kêu nặng là bông.
Thi sĩ nói: Chơi là lãi. Chơi cũng thế mà không chơi cũng thế! Người trẻ tuổi chưa có kinh nghiệm sống, nếu nghe theo lời khuyên này, có thể mang hại. Có làm mới có thể có chơi. Chúng ta phải làm rồi mới chơi được. Dù cho ta có điều kiên đi nữa nếu ta chỉ sống để chơi, để hưởng thụ không mà thôi, cuộc sống của ta cũng bị lệch. Theo tôi, điều kiện để chơi là phải làm việc. Nhưng chỉ hùng hục làm mà không chơi, không biết chơi, không biết hưởng lạc thú ở đời, cũng là hỏng.
Về một mặt, nói một chiều, tính ra quả “chơi là lãi” thật. Trong thời gian nằm trong tù tôi có dịp suy nghĩ – lơ mơ thôi – về đề tài ấy. Nằm cùng với tôi trong nhà tù cộng sản có những anh nhà buôn, nhà bán, cả đời ăn mắm, mút ròi, chuyên tính lợi cho mình, hại cho người, buôn gian, bán lận, một vốn, bốn lãi, chất chứa, ký cóp, bòn mót của cải để làm giầu. Cộng sản vào Sài Gòn, các anh này mất hết, không những chỉ bị mất hết của cải, nhà cửa, các anh còn bị bọn cộng sản cho vào tù vì cái tội giầu tiền. Sống trong cái gọi là chế độ xã hội chủ nghĩa – quái thai của quái quỉ Cộng sản – anh ăn chơi cũng tù mà anh không ăn chơi cũng tù. Chỉ có điều khác là những anh giầu tiền đã bị tù rồi còn phải khai báo, phải nộp của, đã mất trắng những của nổi nhà cửa, kho hàng, tiền vàng, các anh còn bị bóp cho lè những của chìm ra, những anh đã ăn chơi đã đời rồi thì nằm phây phây, các anh này không còn gì để bọn cộng sản có thể lột. Trong trường hợp ấy – đúng như lời ông Tú Xương nói – quả thật sống ở đời “chơi là lãi” đấy.
Nói đến hát cô đầu, nhiều người Việt – những người chưa từng bao giờ biết cái thú hát cô đầu – cũng ít nhiều biết bài Hát nói, như bài này :
Hồng Hồng, Tuyết TuyếtNgày xưa Tuyết muốn lấy ông
Ông chê Tuyết bé, Tuyết không biết gì.
Bây giờ Tuyết đã đến thì
Ông muốn lấy Tuyết, Tuyết chê ông già.
Hồng Hồng, Tuyết TuyếtMới ngày nào chửa biết cái chi chi,
Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì
Ngoảnh mặt lại đã đến kỳ tơ liễu.
Ngã lãng du thời quân thượng thiếu,
Quân kim hứa giá ngã thành ông.
Cười cười, nói nói thẹn thùng
Mà bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại.
Riêng một thú thanh sơn đi lại
Khéo ngây ngây, dại dại vì tình.
Đàn ai một tiếng Dương tranh!
Hồng Hồng, Tuyết Tuyết – nghe nói, nghe nói thôi, người viết gần như mù tịt về chuyện này – là bài hát được hát nhiều nhất trong những chầu hát cô đầu. Vì lời hay, đủ khổ, dễ hát, bài HHTT còn được dùng làm bài mẫu cho các em cô đầu tập hát – Cô đầu có hai loại: cô đầu hát và cô đầu rượu, cô đầu rượu không biết hát, chỉ để hầu khách – Tác giả HHTT là Dương Khuê, người được Nhà thơ Yên Đổ khóc trong thơ:
Bác Dương.. .Thôi đã thôi rồi...
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta…
Vân Trì Dương Khuê, sinh năm 1836, mất năm 1898, quê làng Vân Đình, Hà Đông, đỗ tiến sĩ năm Tự Đức 21 – 1868 – từng làm Tổng Đốc Nam Định và Ninh Bình.
Hồng Hồng, Tuyết Tuyết diễn tả tâm trạng những tay chơi hào hoa khi đã có tuổi. Vào những năm 1960 tâm trạng này được diễn tả bằng câu :”Đừng gọi anh bằng chú...” Cô bé mười tuổi chưa biết chuyện đời năm ta bốn mươi tuổi, số tuổi sung mãn nhất của người đàn ông, trở thành cô gái hai mươi tươi mởn khi ta năm mươi tuổi, thể xác ta đã suy nhược nhưng lòng ta vẫn còn đầy những tham lam chưa thỏa. Ta thấy hạnh phúc đã ở ngoài tầm tay của ta. Khi ta đang ăn chơi, em còn nhỏ. Nay em đến tuổi lấy chồng, ta già rồi. Xưng chú, xưng anh với em đều ngượng miệng, xưng ta thì nhạt nhẽo và phách lối. Gọi nàng là em thì kỳ kỳ mà gọi nàng là cháu thì vô luân. Tình trạng ngang phè, vô duyên, ngôn không chính mà danh chẳng thuận một ly ông cụ nào.
Sau Tháng Tư 1975 vợ chồng tôi trôi dạt về căn nhà nhỏ trong cư xá nghèo này, cư xá có tên Là Cư Xá Tự Do. Lúc chúng tôi mới về đây cô bé nhà trước cửa mới mười tuổi, còn chơi trò nhẩy dây, đánh cầu ngoài đường. Những mùa mưa, mùa nắng Sài Gòn qua đi, tôi võ vàng, gầy ốm, méo mó, răn reo, ngồi bó gối sau khung cửa sổ, buồn phiền nhìn ra con đường nhỏ. Rồi một sáng bọn đầu trâu, mặt ngựa đến nhà tôi, tôi xách cái túi du hành cũ lên xe bông đi tu.ø.. Những mùa mưa, mùa nắng Sài Gòn qua đi, tôi xách cái túi rách trở về mái nhà xưa. Tôi lại ngồi bó gối sau khung cửa sổ nhìn ra con đường sám ngắt. Tôi già hơn, mệt mỏi hơn, võ vàng, gầy ốm hơn, méo mó hơn. Cư xá nghèo hơn, đổ nát hơn, rêu phong hơn, u ám hơn. Một sáng tôi sững sờ nhìn cô gái mười bẩy, mười tám tuổi nhà trước cửa. Chưa bao giờ tôi thấy thời gian qua rõ ràng đến như thế... Bẩy, tám năm trời qua mau ơi là mau...
Dương Vân Trì có mấy bài Hát Nói diễn tả tâm tình tiếc ngày xưa, thương người cũ, ngậm ngùi vì thời gian qua mau: “Đêm khuya chợt nhớ chuyện thời trẻ. Trong mắt người ta đã già rồi…” thật cảm động:
Tặng Cô Đầu Phẩm
Dạ thâm hốt ức thiếu niên sự
Giận hồng quân ghen ghét kẻ hồng quần.
Trải nắng mưa gầy biết mấy phần xuân,
Mà son phấn cũng phong trần thế nhỉ?
Nhãn trung chi nhân ngô lão hĩ!
Lệ Giang Châu chan chứa bởi vì ai!
Tân tri, cựu hận bời bời,
Tình duyên ấy lôi thôi bao kể xiết.
Ướm hỏi khách biết chăng, chẳng biết ?
Thương cho tình mà lại tiếc cho tài.
Hay là nhớ chốn Chương Đài,
Xạ lan mùi cũ, hán hài lối xưa?
Hay là nhớ chốn mây mưa.
Gập Cô Đầu CũHốt ức lục, thất niên tiền sự
Nợ phong lưu chưa trả hương nguyền.
Đến bây giờ lại gập người quen,
Nỗi lưu lạc, ghét ghen là thế thế.
Thiếp tự thân khinh, lang vị khí.
Thần tuy tội trọng, đế do liên.
Can chi mà tủi phận, hờn duyên,
Để son phấn đàn em sau khúc khích.
Ý trung nhân chỉ khả tình tương bạch.
Thôi bút nghiên, sênh phách cũng đều ai.
Trông nhau nói nói, cười cười.
Giải nghĩa mấy câu chữ Hán: Chợt nhớ chuyện sáu, bẩy năm về trước.
Thiếp tự thân khinh: Em biết cái thân em không ra gì nhưng chàng chưa nỡ
bỏ em. Thần tuy có tội nhưng vua vẫn còn thương. Ý trung nhân: người có
tình với nhau chỉ nên nói thật nỗi lòng với người tình…Nợ phong lưu chưa trả hương nguyền.
Đến bây giờ lại gập người quen,
Nỗi lưu lạc, ghét ghen là thế thế.
Thiếp tự thân khinh, lang vị khí.
Thần tuy tội trọng, đế do liên.
Can chi mà tủi phận, hờn duyên,
Để son phấn đàn em sau khúc khích.
Ý trung nhân chỉ khả tình tương bạch.
Thôi bút nghiên, sênh phách cũng đều ai.
Trông nhau nói nói, cười cười.
Trong một tỉnh nhỏ nào đó ở miền Bắc Việt Nam một đêm cách đêm nay một trăm ba mươi, một trăm bốn mươi năm, người lãng du Dương Vân Trì đi hát cô đầu. Cô đào hát có chồng là kép đàn, theo đúng quy luật đã thành văn:
Cô đầu, cô đách
Lấy quan, quan cách,
Lấy khách, khách về Tầu,
Lấy nhà giầu, nhà giầu phải tội tiêu xưng,
Trở về lấy chú tửng tưng
Tốt bền cố hỉ.
Những người đàn bà chơi bời thường không lấy được chồng tử tế, dù có nhiều thiện chí muốn trở về cuộc sống lương thiện, có nhiều cố gắng đến mấy đi nữa, thường họ cũng không gập được hạnh phúc trong cuộc sống vợ chồng. Có lẽ vì họ đã quen với nếp sống ăn chơi sa đọa, chỉ quen hưởng thụ, phần vì thành kiến của xã hội không tin tưởng họ, vì chẳng có mấy người đàn ông dại dột làm cuộc thử nghiệm vợ chồng với họ. Nhưng trong đời ta cũng thấy có nhiều em chơi bời thực sự trở thành vợ hiền khi có người yêu thương họ. Và một khi đã hiền, các em hiền hơn nhiều những em con nhà lành đổ đốn khi có chồng.
Người đào hát trong bài Hát Nói dưới đây có chồng là kép đàn, ông kép đàn mới chết. Nhà hát có khách, nàng hát vài bài rồi xin phép ngừng, vì đang có tang chồng, không tiện ngồi lâu. Ta có thể cười chê việc nàng làm là trò giả dối: đã là cô đầu tiếp khách thì dù hát vài bài hay hát suốt đêm cũng là tiếp khách, còn bầy đặt làm gì. Nhưng đôi khi chúng ta cũng quá dễ dãi trong việc khen chê. Cuộc sống còn có đạo đức là do những giữ dìn nho nhỏ ấy. Và giữ dìn lễ nghĩa nho nhỏ như vậy cũng là tốt rồi, ta không nên đòi hỏi gì hơn. Chỉ khi nào chúng ta không còn giữ dìn gì cả, không còn biết ngượng ngùng chi hết, dù là giả vờ, lúc đó chúng ta và cuộc sống mới thật là khốn nạn.
Cô đào xin phép ngừng hát vì chồng nàng mới chết, ông khách lãng du có biết chồng nàng, từng nhiều lần được nghe vợ chồng nàng đàn hát, tức cảnh làm bài hát nói:
Tặng Cô Đầu Hai
Lấy ai là kẻ đồng tâm
Lấy ai là kẻ tri âm với nàng.
Đêm khuya luống những bàng hoàng
Người đi đâu vắng mà đàn còn đây?
Nghe đàn nhớ lão Trung kỳ
Vợ mi ở đó, mi đi mô chừ?
Sớm khuya xe tẩu phụng thờ
Hóa chồng cũng thể như chưa có chồng.
Nhân vong cầm tạiVợ mi ở đó, mi đi mô chừ?
Sớm khuya xe tẩu phụng thờ
Hóa chồng cũng thể như chưa có chồng.
Nhớ chàng Hai mà gặp lại cô Hai
Tiện đây hỏi một đôi lời
Đàn bản ấy cùng ai so phím cũ?
Hồng phần kỷ nhân vi quả phụ?
Bạch đầu nan lão Trác Văn Quân!
Thế thì khi gió gác, lúc trăng sân
Chừng Bạch Tuyết, Dương Xuân còn tưởng nhớ.
Hãy ngồi lại hát chơi khúc nữa
Có trách chi tang trở xóm Bình Khang.
Xưa nay nghề nghiệp thế thường.
Ngắn thôi nhưng đủ ý, bài hát nói vừa trữ tình, vừa hiện thực, vừa cảm thương, đường hoàng, vừa hóm hỉnh và khéo nói. Hiện thực ở câu:” Sớm khuya xe tẩu phụng thờ..” Một câu thôi mà nói lên được một số sự kiện: hát cô đầu là có đàn bà, rượu và thuốc phiện. Tửu, sắc, yên, đổ, bốn món ta quen gọi là Tứ Đổ Tường, ba món tập hợp trong nhà cô đầu, chỉ thiếu có cờ bạc. Đổ: cờ bạc, thường đi một mình. Đổ cờ bạc, đổ bác, không phải là chữ “đổ” trong Tứ Đổ Tường. Thường cờ bạc là không có đàn bà, không có rượu, thuốc phiện. Những ông kép đàn cho cô đầu hát thường nghiện thuốc phiện, có thể nói trăm ông kép đàn thì có đến 101 ông nghiện á phiện. Nhiều cô đầu biết tiêm thuốc phiện. Qua bài hát nói ta thấy anh kép đàn nghiện hút đã qua đời, vợ anh bầy bộ bàn đèn của chồng lên bàn thờ để thờ. Chi tiết này rất hiện thực. Nó ghi lại hình ảnh một thời kỳ đã qua trong xã hội ta, khi việc dùng á phiện được nhà cầm quyền coi là hợp pháp, khi Nhà Nước Bảo Hộ tổ chức việc nhập cảng á phiện và bán á phiện cho dân. Người kép đàn là người miền Trung. Dương Vân Trì đã khéo léo dùng tiếng Trung Kỳ để gợi lại việc Bá Nha Chung Tử Kỳ cảm nhau qua tiếng đàn. “Mi” trong câu “Vợ mi ở đó mi đi mô chừ..?” không mang ý khinh thường mà là tiếng gọi nhau thân mật của người miền Trung. “Nhân vong, cầm tại: người mất, đàn còn” lấy ở điển Bá Nha-Tử Ky, diễn tả thật đúùng cảnh người kép đàn không còn nhưng cây đàn của anh vẫn còn đó. Phải tài hoa và tài tình lắm mới tức cảnh làm ngay được bài thơ nhiều ý hay như Dương Vân Trì làm bài này. Đó chưa kể kinh nghiệm sống: đàn bà đẹp khó có thể ở góa lâu được; các nàng có muốn ở góa bọn đàn ông cũng không chịu, những anh yêu nàng, muốn các nàng, thường làm đủ mọi cách để ép buộc các nàng phải bước đi bước nữa. Đa tình như nàng Trác Văn Quân làm sao có thể ở góa cho đến lúc bạc đầu cho được? Đó chỉ là qua kinh nghiệm thôi, và kinh nghiệm đó đúng.
Ta có câu:” Chẳng ai giầu ba họ, chẳng ai khó ba đời..” Tôi thấy kinh nghiệm trên chỉ đúng trong thời loạn, khi xã hội có những biến động lớn, có sự thay đổi lớp người cầm quyền, nhưng trong những thời xã hội yên bình, một số gia đình nào đó nắm quyền thống trị xã hội trong vài trăm năm, ta thấy có những nhà quyền quí cha truyền, con nối không phải chỉ ba đời mà là cả chục đời. Vì vậy ta có câu ca dao:
Con vua thì lại làm vua
Con lão sãi chùa lại quét lá đa.
Nhưng một dòng họ không thể nắm quyền thống trị xã hội được mãi mãi. Tranh dành và chiếm giữ quyền làm chủ xã hội là việc mà loài người đã làm dài dài từ ngày họ sống thành xã hội. Sau năm 1954 ở miền Bắc, ta thấy tình trạng:
Con anh mõ làng lên làm chủ tịch,
Con nhà chánh tổng ra ở chuồng vịt ngoài đồng.
Những năm 1930 trong số những người sống ở bên sông Nhĩ, Hà Nội, có câu:
Con ơi đừng khóc, mẹ sầu,
Cha con đốt lửa dưới tầu Long Môn.
Bao giờ con lớn, con khôn
Thì con lại xuống Long Môn con làm…
Từ năm 1975 câu hát trên có thay đổi chút ít để hợp với hiện cảnh:
…Bây giò con lớn, con khôn
Con làm chủ tịch để con thằng tư sản
nó xuống Long Môn nó làm…Ta vừa đi lạc chút síu ra ngoài đề tài:” Tình Yêu và Hình Ảnh Đàn Bà trong Thơ Xưa”, nay ta trở lại:
Gập Cô Đầu Khanh
Cầm tay nhớ những bao giờ
Mười lăm năm lại tình cờ gặp nhau.
Cuộc vui chớ gợi tiếng sầu
Tri âm ta lại bắt đầu tri âm.
Thế thượng tri âm tối nan đắc
Độc khanh tri ngã, ngã tri khanh.
Đem má hồng ánh với mắt xanh,
Ấy ai ấy với mình duyên ngộ nhỉ!
Ngã thính khanh ca tần quán nhĩ,
Khanh tri ngã túy thả vong tình.
Thôi thời thôi, ta hãy mần thinh,
Chẳng túc trái cũng tiền sinh chi đấy tá.
Liên khanh đáo để hoàn liên ngã,
Hữu tình ta dám há vô tình.
Ái khanh thị dĩ khanh khanh!Dương Tự Nhu*
Bổ di còn chuyện trích tiên
Có người họ Chử ở miền Khoái Châu
Ra vào nương náu hà châu
Phong trần đã trải mấy thâu cùng người.
Tiên Dung gặp buổi đi chơi
Gió đưa Đằng Các, buồm xuôi Nhị Hà
Chử Đồng ẩn chốn bình sa
Biết đâu gặp gỡ lại là túc duyên
Thừa lương nàng mới dừng thuyền
Vây màn tắm mát kề liền bên sông
Người thục nữ, kẻ tiên đồng
Tình cờ ai biết vợ chồng duyên ưa…
Bạn vừa đọc truyện tình Chử Đồng Tử-Tiên Dung, một truyện tình cổ trong những chuyện tình cổ nhất của dân tộc ta. Truyện được ghi lại bằng thơ trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca – ĐNQSDC -- thi phẩm được in năm 1870, đồng soạn giả là hai ông Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái. Bản ĐNQSDC được dùng trong bài này là bản do ông Hoàng Xuân Hãn hiệu đính, sọan lại, viết tựa, xuất bản năm 1949 ở Sài Gòn.
Chuyện tình Chử Đồng Tử-Tiên Dung là dã sử. Nàng là công chúa đời vua Hùng ngày xửa, ngày xưa, công chúa không thích sống trong cung cấm, công chúa lãng du giang hồ; nàng là thủy tổ của giới thiếu nữ thích đi du lịch, một thứ bụi đời vương giả, một Công Chúa Giang Hồ. Chàng là con nhà nghèo. Chuyện kể họ Chử bị nạn cháy nhà, của cải, đồ đạc mất hết, hai bố con chỉ còn một cái khố thay phiên nhau đóng. Họ kiếm ăn bằng nghề bắt cá. Khi ông bố, hay anh con đem cá ra chợ bán, phải gặp người ta, thì đóng khố, người kia trần truồng không khố trốn nép trong bụi rậm. Ông bố trước khi chết dặn anh con chôn mình trần truồng, giữ lấy cái khố mà mặc. Chử Đồng Tử không nỡ chôn bố trần truồng, chàng mặc khố cho bố còn mình ở truồng. Chuyện kể rõ là vì không có khố Chử không dám lên bờ, khi bắt được cá thì ngâm nửa mình dưới sông, đến bán cá cho những người trên thuyền đậu bến. Cuộc sống của Chử kéo dài như thế cho đến một chiều ngày hè, thuyền của Công Chúa Tiên Dung tới nơi, Chử không kịp chạy, phải vùi mình trong cát để trốn. Thị nữ của Tiên Dung quây màn ngay chỗ Chử nằm trốn để Tiên Dung tắm; họ không biết có chàng trai nằm vùi mình dưới cát ở trong chỗ họ quây màn. Như vậy là Tiên Dung tắm sông nhưng không tắm dưới sông mà sai múc nước sông lên tắm trên bãi cát. Nàng dội nước tắm, nước trôi cát làm lộ ra chàng. Nàng và chàng cùng trần truồng ở trong màn. Chẳng cần phải có óc tưởng tượng ta cũng biết trong màn lúc ấy phải có, ít nhất, hai em thị nữ hầu công chúa tắm, dội nước, sát sà bông, kỳ lưng vv... nhưng chàng họ Chử không dính em thị nữ nào mà lại dính ngay công chúa.
Chuyện tình dục thứ hai trong lịch sử ta là cuộc tình Lê Đại Hành Lê Hoàn – ông này có tên đường ở khu trường đua Phú Thọ, Sài Gòn – với Thái Hậu Dương Vân Nga nhà Đinh. Năm 968, Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 Sứ Quân, thống nhất đất nước, lên ngôi vua, xưng là Đinh Tiên Hoàng Đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. ĐNQSDC ghi Đinh Tiên Hoàng không phải là ông vua tốt, vua áp dụng hình phạt quá tàn ác, nuôi hổ cho vồ người, đặt vạc dầu nấu người phạm tội. Vua có năm bà hoàng hậu. Năm 979, Vua uống rượu say, bị cận thần là Đỗ Thích giết chết cùng với con trai tên Liễn. Các quan giết Đỗ Thích, lập con thứ của Vua là Đinh Tuyền lên làm vua. Khi lên ngôi vua, Đinh Tuyền mới 6 tuổi. Dưới đây là chuyện ghi trong ĐNQSDC:
Chơi bời gần lũ tiểu nhân
Rượu hoa ngọt giọng, đền xuân mơ màng
Trùng môn thưa hở đề phòng
Để cho Đỗ Thích gian hùng nỡ tay
Nối sau Thiếu Đế thơ ngây
Lê Hoàn tiếp chính từ rày dọc ngang
Tiếm xưng là Phó quốc vương
Ra vào cùng ả họ Dương chung tình…
Và đây là chuyện tình Lê Hoàn-Dương Vân Nga trong Việt Sử Tiêu Án, tác giả Ngọ Phong Ngô Thời Sĩ. Bản dịch của Hội Nghiên Cứu Văn Hóa Á Châu, xuất bản ở Sàigòn năm 1960. Trích:
..Vệ Vương mới 6 tuổi, Lê Hoàn giữ binh quyền, ra vào cung cấm, Thái hậu là Dương thị tư tình với Lê Hoàn, cho Lê Hoàn làm nhiếp chính, Hoàn cậy được Thái hậu yêu, tự xưng là Phó vương. Ngưng trích.
Năm 1979, Việt Cộng và Tầu Cộng tình hữu nghị thắm thiết, ngoài là đồng chí, trong là anh em, sông liền sông, núi liền núi, khắng khít như môi răng, trở mặt đánh nhau chí chạt, hai tên cùng hộc máu. Bắc Cộng lăng-xê tuồng Thái Hậu Dương Vân Nga, đào Thanh Nga, cải lương chi bảo của Sài Gòn 1970 đóng vai Dương Thái Hậu. Ý đồ của việc trình diễn vở tuồng ấy là khêu gợi tinh thần đánh Tầu của nhân dân Việt, và rủ rê nhân dân Việt Nam Cộng Hòa làm như Thái Hậu Dương Vân Nga: Thái hậu bỏ nhà Đinh, quên chồng, quên quyền lợi của con, yêu và trao quyền bính cho Tướng Quân Lê Hoàn trẻ tuổi, uy dũng, khỏe mạnh, nhân dân VNCH nên quên quốc gia VNCH bại trận, nên bỏ rơi bọn tù nạn nhân cộng sản để đi với những người Việt Cộng chiến thắng. Đào Thanh Nga Thái Hậu Dương Vân Nga một đêm bị bắn chết khi từ trong xe hơi về tới trong sân nhà. Bắc Cộng đổ cho bọn Bắc Kinh giết Thanh Nga vì nàng đóng tuồng Thái Hậu Dương Vân Nga bài Tẫu. Vụ án mạng Thanh Nga bị cho chìm suồng.
Và như thế là Vua Ta – Đinh Bộ Lĩnh Cờ Lau anh hùng, có công thống nhất đất nước, xây nền độc lập – bị giết cùng với con trai, vợ trẻ về vòng tay người khác, nghiệp vua chỉ có 11 năm! Vua được nhân dân biết ơn, Sài Gòn thủ đô Quốc Gia VNCH có đường Đinh Tiên Hoàng dài và lớn.
Chuyện tình thứ ba: Lý Chiêu Hoàng-Trần Cảnh. ĐNQSDC ghi:
Chiêu Hoàng là bậc nữ nhi
Phấn son gánh việc gian nguy được nào!
Xây vần cơ tạo khéo sao
Bỗng xui Trần Cảnh hiện vào hầu trong
Người yểu điệu, kẻ thư phong
Bén hơi rơm lửa, động lòng mưa mây
Vẩy nước chậu, vắt khăn tay
Khi đêm đạp bóng, khi ngày ngồi chung
Hoa đào đã giạn gió đông
Vua tôi phận đẹp, vợ chồng duyên may…
Ở đây có câu tục ngữ: “Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”. Con trai, con gái cứ ở gần nhau là thể nào chuyện tình dục cũng xẩy ra. Đừng nói lửa gần rơm, lửa mà gần gỗ lim thì chẳng cần lâu ngày gỗ lim cũng cháy. Đây là mưu của Trần Thủ Độ – ông này không có tên đường ở Sài Gòn – Vua Cô mới bẩy, tám tuổi, cho Trần Cảnh trai mười, mười một tuổi vào cung ăn ở chung phòng với Vua là chít Vua dzồi!. Hai trẻ tắm chung nên mới có chuyện té nước nghịch đùa nhau. Trẻ đùa té nước nhau mà cho là: “Vua đem nước cho Trần Cảnh...”, phải là Trần Thủ Độ, người nói câu “Nhổ cỏ phải nhổ cả rễ”, mới có thể suy diễn như thế.
Quả núi Tiêu Sơn có nhớ công,
Mà em bán nước để mua chồng?
Kết tội Chiêu Hoàng” bán nước” là không đúng, là quá đáng. Tản Đà chỉ dùng tiếng “bán nước” để hạ tiếng “mua chồng.” Vua chỉ nhường ngôi, vua không bán nước, Vua cũng không mua chồng. Đây là cuộc cướp ngôi – dân chủ là đảo chính -- không đổ máu. Ông Tổ nhà Lý là Lý Công Uẩn, nguyên là chú tiểu Chùa Tiêu Sơn, Bắc Ninh. Nhà Lý làm vua được 219 năm, truyền 9 đời vua.
Và đây là hai chuyện dâm tình đời Trần. Trích ĐNQSDC:
Bởi ai đầu mở hôn phong
Khiến nên một đạo khuê phòng thẹn riêng
Thuần bôn dong thói ngửa nghiêng
Họ đương lấy lẫn nào kiêng sợ gì
Thiên Thành công chúa vu qui
Sao Trần Quốc Tuấn cướp đi cho đành
Sính nghi đem tiến thiên đình
Thụy Bà lăng líu, Thiên Thành ngẩn ngơ…
Đời Trần, Vua Trần Thái Tông, vua Trần đầu tiên, tức Trần Cảnh, người khi còn là chú nhỏ, được Trần Thủ Độ cho vào cung nhà Lý, chơi với Vua Cô Lý Chiêu Hoàng rồi làm chồng Chiêu Hoàng, được Chiêu Hoàng truyền ngôi, làm mất nhà Lý. Trần Thái Tông ở ngôi 33 năm, một ông vua tương đối tốt. Trong đời vua Thái Tông, Trần Quốc Tuấn, người sau là Hưng Đạo Vương, mới mười sáu, mười bẩy tuổi. Vì nhà Trần người trong họ lấy nhau công khai nên mới sinh ra chuyện tình độc đáo như sau:
Việt Sử Tiêu Án. Ngọ Phong Ngô Thời Sĩ. Trích:
…..Con An Sinh Vương là Quốc Tuấn đoạt hôn (bắt cô dâu sắp kết hôn với người khác làm vợ mình).
Thiên Thành Công chúa là em vua Thái Tông, được vua hứa gả cho Trung Thành Vương. Ngày cưới, Vua cho mở hội, đưa dâu. Lúc bấy giờ Công chúa đã đến ở nhà Nhân Đạo Vương – thân phụ của chú rể Trung Thành Vương – Quốc Tuấn yêu Công chúa, muốn đoạt lấy làm vợ, đương đêm lẻn vào phòng Công chúa mà thông gian. Thụy Bà Công chúa, chị của Thái Tông và chị của Thiên Thành Công chúa, từng nuôi Quốc Tuấn làm con nuôi, thấy chuyện xẩy ra như thế sợ có tai họa cho Quốc Tuấn, vội đến tâu trình với Vua, xin Vua thương mà cứu mạng Quốc Tuấn; bà tâu Quốc Tuấn đã bị Nhân Thành Vương bắt. Vua sai quan quân đến dinh Nhân Thành Vương, tìm thấy Quốc Tuấn đang ở trong buồng nằm của Thiên Thành Công chúa. Đến lúc ấy Nhân Thành Vương mới biết có Quốc Tuấn ở trong dinh mình.
Thụy Bà Công chúa đem 10 mâm vàng làm lễ cưới, xin Vua gả Thiên Thành Công chúa cho Quốc Tuấn. Vua bất đắc dĩ phải bằng lòng… Ngưng trích.
Đấy là chuyện tình thời trẻ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, anh hùng lịch sử số một của dân tộc ta. Ta có nhiều vua, nhiều tướng đánh thắng quân xâm lược đến từ phương Băùc, nôm na, dễ hiểu là Ba Tầu, oanh liệt nhất là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, rồi Bình Định Vương Lê Lợi và Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ. Ngay cả thời bây giờ khi văn minh Âu Á trời đã thu sạch, luân thường đảo ngược từ lâu, việc làm của chàng thanh niên Quốc Tuấn cũng không thể chấp nhận được: Cướp vợ của anh họ mình, dâm Công chúa ngay trong ngày cưới Công chúa. Lấy công chúa là bà cô, em gái của bà mẹ nuôi mình. Điều đáng nói là Công chúa chịu, Công chúa không phản đối cũng không kêu cứu, không tố giác. Chuyện lấy Công chúa là cô – cô họ cũng là cô – làm vợ không phải lỗi của Quốc Tuấn, họ Trần của chàng người trong họ chuyên lấy nhau. Nhân Thành Vương, ông bố chồng, ù lì đến cái độ không biết có trai lạ nằm trong phòng ngủ của con dâu mình ngay trong nhà mình! Kể cũng lạ!
Chuyện đáng nói là tuy lãng mạn và liều mạng vì tình như thế, Trần Quốc Tuấn vẫn là đấng anh hùng kiệt xuất nhất lịch sử dân tộc ta. Như vậy có nghĩa là dâm không làm cho con người tồi tệ, chỉ có những con người tồi tệ bị tồi tệ thêm vì dâm.
Đời Trần Anh Tôn, Vua Chiêm là Chế Bồ Đài, tên nữa là Chế Mân, dâng hai châu Ô, Lý làm lễ cưới Công chúa Huyền Trân. Vua gả Công chúa cho Bồ Đài. Được một năm Bồ Đài chết. Theo tục lệ Chiêm Thành, hoàng hậu phải lên dàn hỏa chịu chết thiêu cùng với xác Vua. Vua sai Khắc Chung vào kinh đô Chiêm Thành điếu tang, Khắc Chung nói với triều đình Chiêm là Hoàng hậu phải ra bờ biển làm lễ chiêu hồn, rước linh về, thì khi lên hỏa đàn mới linh thiêng được. Người Chiêm tin thật, để cho Khắc Chung đưa Huyền Trân ra bờ biển làm lễ, Khắc Chung đưa Huyền Trân xuống thuyền chạy luôn ra biển. Một cuộc cướp người đầy kịch tính, gay cấn, giật gân, hấp dẫn, nhiều tình tiết. Người đây là đàn bà, không phải đàn bà thường mà là công chúa, hoàng hậu. Một thứ Mission Impossible. Huyền Trân và Khắc Chung yêu nhau. Lợi dụng cơ hội ngàn năm một thưở này hai người yêu nhau làm cuộc du thuyền tình, đi du dương trên biển tình mãi đến một năm sau mới về đến kinh đô Thăng Long. Hưng Nhượng, một vị vương nhà Trần, rất ghét chuyện Huyền Trân làm tình với Khắc Chung, nói về Khắc Chung:
- Cho nó sống là không tốt. Tên nó lại là Trần Khắc Chung. Rất có thể nó sẽ làm cho nhà Trần ta bị mất..!
Trần Khắc Chung nguyên họ Đỗ – Đỗ Khắc Chung – vì có công nên vua Trần cho phép nhập họ Trần. Nhà Trần có hai ông Trần Khắc: Trần Khắc Chân có công bắn chết Chế Bồng Nga trên cửa biển – Chế Bồng Nga là ông tổ mười ba đời của Chế Bồng Thẹo -- Sài Gòn thủ đô ta có Đường Trần Khắc Chân ở Tân Định, bên Đường Trần Quang Khải, cùng khu với hai Đường Đặng Dung, Đặng Tất, hai vị tướng cuối đời Trần – Đặng Dung: Thế sự du du... Vô cùng thiên địa... Thời lai đồ điếu... Vận khứ anh hùng – Công Chúa Huyền Trân là tên con đường sau Dinh Đôïc Lập, trước Vườn Tao Đàn. Đường này trước 1956 là Đường Miss Cawell, một nữ y tá người Anh phục vụ ở chiến trường Âu châu trong Thếù Chiến Thứ Nhất.
Anh Cu Công An Việt Cộng Huỳnh Bá Thành, trong thời “đồ điếu thành công” của anh, những năm 1977-1978, viết truyện Vụ Án Hồ Con Rùa, tả Đường Huyền Trân Công Chúa là “con đường duy nhất ở Sài Gòn không có số nhà”ø. Nhiều người cho lời Huỳnh bá Thành là đúng. Huỳnh bá Thành tỏ vẻ khoái chí vì phát kiến của anh. Nhưng phát kiến ấy sai. Đường Huyền Trân Công Chúa có số nhà. Đường ngắn. Một bên là dẫy tường sau của Dinh Độc Lập, dẫy này không co ùnhà nên không có số nhà, chỉ có một cổng sau của Dinh. Bên kia đường là một phần Hội Quán Thể Dục Sài Gòn, thời Tây là Cercle Sportif Saigonnais, hội quán trước 1956 là của các ông Tâøy, bà Đầm thuộc địa, sau 1956 là hội quán của những anh chức vụ cao trong chính quyền: bộ trưởng, giám đốc, và bác sĩ, kỹ sư, nhà giầu, rồi cổng vào sân Tao Đàn, trước 1956 là sân Vườn Ông Thượng. Sân Đá Banh Tao Đàn không có số nhà.
Nhưng ngã ba Đường Huyền Trân- Nguyễn Du có một nhà của Sở Điêïn Lực Sài Gòn, nhà này mang số 2. Nói đường Công Chúa Huyền Trân không có số nhà là nói bậy, là không biết gì về Sài Gòn, là không phải người Sài Gòn chân chính. Nhà Số 2 Đường Huyền Trân Công Chúa lù lù ra đấy, có đui mới không thấy, có ngu tận mạng mới mở mồm nói đường Huyền Trân Công Chúa không có số nhà!
Chiêu Quân là thủy tổ của những phụ nữ Tầu lấy chồng ngoại quốc, Huyền Trân là thủy tổ của những phụ nữ Việt lấy chồng ngoại nhân. Công Chúa Huyền Trân của ta xứng đáng được ta tôn vinh, tri ân; gần như tất cả những người phụ nữ Việt lấy chồng ngoại nhân đều không mang một chút lợi lộc gì về cho dất nước, cho dân tộc, Công Chúa Huyền Trân đem về cho đất nước hai châu Ô Lý, tức hai tỉnh Phan Rang, Phan Rí, mở đường cho ông cha ta đi xuống miền Nam.
Trần Khắc Chung và Trần Huyền Trân không cùng họ. Tuy có công cứu Huyền Trân khỏi chết trên dàn hỏa kinh đô Đồ Bàn, nhưng Khắc Chung can tội "hưởng" Công Chúa suốt một năm dài trên thuyền tình lênh đênh ở Vịnh Hạ Long. Một cuộc tình thật đẹp, một chuyến du tình tuyệt vời, một cốt truyện để làm phim xi-nê thật hấp dẫn.
Năm 1986 Đảng Cộng Sản Việt Nam họp Đại Hội 6, theo chân xuống hố của Đảng Cộng Sản Liên Xô, Tổng Bí Thư Nguyễn văn Linh công bố chính sách đổi mới, yêu cầu đảng viên nói thật, nói thẳng và làm một số “những việc cần làm ngay”, trong số có việc “cởi trói cho văn nghệ”. Sau hơn mười năm bị cấm, truyện tiểu thuyết đủ loại lại được in, bán loạn cào cào ở Sài Gòn. Những năm nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa bị rọ mõm mới được cởi trói, chưa được tháo rọ mõm – 1988-1990 – việc xuất bản tiểu thuyết ở Sài Gòn là việc hốt bạc. Sau hơn mười năm không được đọc tiểu thuyết, dân Sài Gòn xếp hàng ở những tiệm sách để mua truyện mới. Tôi ở tù về năm 1990, còn hưởng được hai năm viết truyện linh tinh, kể cả truyện võ hiệp, loại truyện dễ viết nhất, dễ xuất bản, dễ bán nhất. Truyện tôi viết được mua, được xuất bản nhưng tôi không được để tên thật. Đến năm 1992 Việt Cộng lại xiết ngành xuất bản, truyện võ hiệp bị cấm, truyện dã sử Việt Nam thì được. Giới thợ viết xoay sang viết truyện dã sử. Nhiều quái phẩm ra đời, như truyện Nguyễn Trãi đấu chưởng với cao thủ võ lâm Tầu, Nguyễn Huệ đấu kiếm với bọn thích khách đến ám sát Vua ở Thăng Long, bọn võ sĩ Bắc Hà bắt cóc Công Chúa Ngọc Hân, Nguyễn Du sang Tầu, đến Thiếu Lâm Tự học võ vv... Khi ấy tôi đã định viết truyện tình Khắc Chung-Huyền Trân. Với cốt truyện có thật truyện sẽ tha hồ có những màn đấu chưởng, đấu kiếm, kể cả đấu phép kịch liệt giữa Khắc Chung cùng các võ sĩ Việt với những cao thủ Chiêm Thành, Tầu, Miên, Xiêm La, Lào tùm lum tòa loa..
Khắc Chung tài hoa, can đảm, từng được Vua Trần cho làm sứ giả sang dinh quân Nguyên nói chuyện với Ô Mã Nhi. Khắc Chung ứng đối giỏi, Ô Mã Nhi phải phục. Rất có thể Khắc Chung và Huyền Trân đã có tình ý với nhau từ trước khi Huyền Trân đi sang Chiêm Quốc, hoặc Khắc Chung đã yêu Huyền Trân từ lâu nay được dịp đi cứu nàng, tất nhiên chàng phải hưởng nàng. Và nàng sẵn sàng cho chàng hưởng. Tội gì mà không thuyền tình một lá lênh đênh trên sóng nước Hạ Long đẹp tuyệt vời. Thuyền đi từ biển Quảng Nam – Quảng Ngãi mà một năm mới về đến Hà Nội. Thật đã.
Sử không viết gì về đoạn cuối của cuộc tình đẹp ấy: khi về Đông Kinh, tức Thăng Long, lại tức Hà Nội, cuộc sống của đôi tình nhân lịch sử, vương giả ấy ra sao? Hoàng gia có cho Huyền Trân làm vợ Khắc Chung hay không? Nếu không được chung sống vợ chồng với Khắc Chung, Công Chúa Huyền Trân đi đâu, về đâu?
Nếu tôi viết truyện cuộc tình Khắc Chung-Huyền Trân, tôi sẽ cho khi về Thăng Long, Khắc Chung bị tống xuống hầm đá tử tù, Huyền Trân tổ chức cứu chàng. Hai người yêu nhau lại xuống thuyền ra đi. Họ bỏ kinh đô, bỏ những người chuyên cản trở, phá hoại tình yêu, họ đưa nhau đi đến những nơi chân trời, góc biển, cuối bãi, đầu ghềnh, sơn cùng, thủy tận; họ đi và sống với nhau, sống với Tình Yêu – Tình Yêu viết hoa hai chữ T, Y. Nếu làm phim, tôi sẽ đạo diễn cảnh cuối cùng: Hoàng hôn, mặt trời vàng ối xuống trên biển, chiếc thuyền buồm trôi về phía mặt trời lặn, tiếng hát theo cánh buồm bay lên:” Biển tình ái xá gì phương hướng nữa. Thuyền tình ơi theo gió hãy cho ngoan…” Hết phim. Khán giả ra về, ngơ ngẩn vì mối tình quá đẹp! Những khán giả nam, nữ đi xem phim một mình chưa bao giờ cảm thấy họ cô đơn, họ thiếu thốn, họ thiệt thòi, họ bất hạnh đến như thế!
Chuyện tình dục trở thành thảm kịch bi thảm nhất trong lịch sử ta là thảm kịch Nguyễn Trãi-Thị Lộ - Lê Thái Tông.
Việt Nam Sử Lược. Trần Trọng Kim. Trích:
Khi Vua Thái Tông lên làm vua thì Ngài mới có 11 tuổi…
..Vì ít tuổi lại không có người phụ tá, cho nên sau thành ra say đắm tửu sắc, làm nhiều điều không được chính đính.
Tháng Bẩy năm Nhâm Tuất (1442), Thái Tông đi duyệt binh ở huyện Chí Linh. Bấy giờ ông Nguyễn Trãi đã về trí sĩ ở trại Côn Sơn, thuộc huyện Chí Linh. Khi vua đi qua đó có vào thăm, và thấy người hầu của ông ấy là Nguyễn thị Lộ có tài sắc, bèn bắt theo hầu. Đi đến huyện Gia Định, nay là huyện Gia Bình ở Bắc Ninh thì vua mất. Triều đình đổ tội cho Nguyễn thị Lộ giết vua, bắt ông Nguyễn Trãi làm tội và tru di cả ba họ.
Vua Thái Tông làm vua được 9 năm, thọ được 20 tuổi. Ngưng trích.
Chính sử chỉ ghi ngắn gọn và mơ hồ như thế. Ngoại sử, dã sử làm dài dòng và thần bí hóa sự việc: kể Thị Lộ là con rắn hiện thành người vào báo oán ông Nguyễn Trãi. Nhưng viết như tác giả Trần Trọng Kim về cuộc tình Thái Tông-Thị Lộ như thế là không đúng. Thái Tông là một anh trẻ tuổi có tật thích dâm đàn bà hơn tuổi. Làm vua năm 11 tuổi, 20 tuổi chết thượng mã phong, như vậy là ngay từ những năm mới 15, 16 tuổi Vua ta đã hành dâm loạn cào cào châu chấu. Trước khi "làm" Thị Lộ – hơn vua 10 tuổi – Thái Tông đã "làm" bà Ngô Ngọc Dao, bà này có thai, được tuyển vào cung làm Tiệp Dư, bà Ngọc Dao sinh ra Vua Lê Thánh Tông, ông vua thứ ba rất anh minh đời nhà Lê.
Đọc sử nước nhà tôi vẫn lấy làm lạ về chuyện ông Vua Cha anh hùng, thông minh, nhân đức, sinh ra ông Vua Con hết sức dâm dục, hoặc tàn ác, ngu độn. Đó là trường hợp Vua Lê Thái Tổ Lê Lợi sinh ra Vua Lê Thái Tông Thị Lộ. Ông vua Thái Tông chuyên dâm đàn bà hơn tuổi và chết vì thượng mã phong lại sinh ra Vua Lê Thánh Tông Tự Thành rất hiền đức, thông minh, tài hoa. Lại như đời Tiền Lê, Vua Lê Đại Hành anh dũng sinh ra Vua Lê Long Đĩnh Ngọa Triều tàn ác, bạo ngược khủng khiếp.
Đây là truyện ngoại sử viết về thảm kịch Nguyễn Trãi-Thị Lộ-Thái Tông.
Khoa Cử Việt Nam. Tác giả Đỗ Bằng Đoàn-Đỗ Trọng Huề. Xuất bản năm 1999 ở Calgary, Canada. Trích:
Ông (Nguyễn Trãi) có người thiếp yêu Nguyễn Thị Lộ, nhan sắc hoa cười, ngọc nói, lại giỏi văn chương. Thị Lộ cha mẹ mất sớm, nhà nghèo, phải lên Thăng Long ở gần Hồ Tây, bán chiếu, nuôi em ăn học. Vì duyên văn tự, được ông để ý, cho vào hàng tì thiếp. Nàng thường cùng ông làm thơ xướng họa, những chiếu, thư, từ, trát do ông thảo ra, phần nhiều đưa cho nàng xem trước.
Thái Tông nghe tiếng Thị Lộ là bậc tài nữ, bèn triệu vào cung, phong làm Lễ Nghi Nữ Học Sĩ, giao cho trông coi việc lễ nghi ở trong cung và chầu hầu bên cạnh. Kể tuổi Vua kém nàng đến gần 10 tuổi.
Tháng Bẩy năm Đại Bảo thứ ba (1442) ông về trại Côn Sơn. Ngày 4 Tháng Tám Vua ghé vào trại Côn Sơn. Mồng 5 Vua hồi loan, Thị Lộ theo hộ giá. Đi đến trạm Lệ Chi, làng Đại Lai, phủ Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, Vua truyền nghỉ lại, gọi Thị Lộ vào hầu rượu. Nửa đêm Vua băng hà. Triều đình buộc cho Thị Lộ tội giết vua, bắt hạ ngục tra xét. Ông Nguyễn Trãi bị buộc tội thông đồng giết Vua, bị bắt hạ ngục. Trong ngục ông làm bài thơ tù:
Oan ThánPhù tục thăng trầm ngũ thập niên,
Cố sơn tuyền thạch phụ tình duyên.
Hư danh, thực họa, thù kham tiếu,
Chúng báng cô trung, tuyệt khả liên.
Số hữu nan đào, tri thị mệnh,
Văn như vị táng dã quan thiên.
Ngục trung độc bối không tao nhục,
Kim khuyết hà do đạt thốn tiên!
Than thở nỗi oan
Nổi chìm trong cõi tục trải năm mươi năm,
Đã phụ tình duyên với suối và đá nơi núi cũ.
Danh hư mà vạ thực, nghĩ cũng buồn cười,
Chúng đều dèm pha người trung cô thế rất đáng thương tâm.
Số khó tránh mới biết là do mệnh,
Văn chương như chưa mất ấy là tự Trời.
Trong ngục đọc mặt sau tờ giấy thật tủi nhục,
Biết làm sao đưa được thư lên cửa Vua?
...
Chìm nổi trong vòng năm chục năm,
Non xưa, suối cũ phụ tình thâm.
Danh hư, họa thực, cười ta dại,
Đời ghét người ngay, biết đã lầm.
Tình thế khó qua do số mệnh,
Văn chương chưa dứt hoặc thiên tâm.
Thân tù luống những nhìn sau giấy,
Cửa khuyết dâng thư cách vạn tầm.
Khi bị tra khảo Thị Lộ hết sức kêu oan, sau bị cùm kẹp quá đau, phải
nhận liều là Nguyễn Trãi xui nàng giết Vua. Thế là ông bị ghép vào tội
thí nghịch, phải tru di tam tộc. Quyến thuộc nhà ông bị bắt hết, con
trai đem xử trảm, con gái sung vào làm tì bộc trong các nhà quan. Ngày
16 tháng 9 năm Nhâm Tuất (1442) ông cùng họ hàng bị giải ra pháp trường
xử trảm. Năm ấy ông 63 tuổi. Nguyễn thị Lộ bị kết án trầm hà, bỏ vào
cũi, thả xuống giữa sông Nhĩ Hà. Ngưng trích.Nổi chìm trong cõi tục trải năm mươi năm,
Đã phụ tình duyên với suối và đá nơi núi cũ.
Danh hư mà vạ thực, nghĩ cũng buồn cười,
Chúng đều dèm pha người trung cô thế rất đáng thương tâm.
Số khó tránh mới biết là do mệnh,
Văn chương như chưa mất ấy là tự Trời.
Trong ngục đọc mặt sau tờ giấy thật tủi nhục,
Biết làm sao đưa được thư lên cửa Vua?
...
Chìm nổi trong vòng năm chục năm,
Non xưa, suối cũ phụ tình thâm.
Danh hư, họa thực, cười ta dại,
Đời ghét người ngay, biết đã lầm.
Tình thế khó qua do số mệnh,
Văn chương chưa dứt hoặc thiên tâm.
Thân tù luống những nhìn sau giấy,
Cửa khuyết dâng thư cách vạn tầm.
Khả năng tưởng tượng của nhân dân ta thật đáng nể. Không biết ai là tác giả chuyện rắn báo oán để giải thích nguyên nhân cái chết bi thảm của đại công thần Nguyễn Trãi. Nhân dân không muốn nói ông và gia tộc bi xử tử vì Vua Thái Tông chết trong khi đang hành dâm với vợ bé của ông là Thị Lộ, rõ hơn là Vua Thái Tông chết trên bụng Thị Lộ, nên nhân dân đặt ra chuyện rắn báo oán nhà họ Nguyễn.
Thảm kịch Nguyễn Trãi làm tôi thắc mắc. Chuyện kể Nhà Đại Nho-Đại Quan Nguyễn Trãi – Vua Lê Thái Tổ phong ông là đại công thần, ông từng làm Tể Tướng -- bị tru diệt một cách thê thảm vì một nguyên nhân lảng nhách. Tôi nghĩ chuyện ông gặp Thị Lộ đi bán chiếu ở giữa đường, làm bài thơ Hỏi cô bán chiếu là chuyện do nhân dân đặt ra:
* Ả ở đâu mà bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân xanh chừng độ bao nhiêu tuổi?
Đã có chồng chưa. Được mấy con?
* Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon,
Can chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân xanh mới độ trăng tròn lẻ,
Chồng còn chưa có, hỏi chi con?
Lời thơ, kiểu thơ có vẻ là thơ của một tay chơi Cầu Ba Cẳng thả lời
ong bướm với em bán chiếu rong gặp ở quán cóc bên chợ Kim Biên hơn là
lời thơ và kiểu hỏi chuyện gái lạ giữa đường của một đại nho-đại quan.
Người như quan Tể Tướng không thể làm thơ cóc nhái ve vãn gái ngoài
đường sàm sỡ như thế. Lời thơ cũng chẳng hay ho gì. Người phụ nữ Việt
bán chiếu rong năm 1430 gánh chiếu đi bán chứ không để chiếu trên xe ba
bánh đẩy đi bán rong như những phụ nữ bán chiếu rong ở Sài Gòn những năm
1970, 1980. Vì họ gánh chiếu đi bán nên họ còn chiếu hay hết ta biết
ngay, khỏi cần hỏi chẳng hay chiếu ấy còn hay hết. Và người ta hỏi còn
chiếu hay hết để người ta mua, ả bán chiếu không thể ngang ngược hỗn,
chanh chua láo, hỏi lại khách can gì đến ông mà ông hỏi hết hay còn?Can chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân xanh mới độ trăng tròn lẻ,
Chồng còn chưa có, hỏi chi con?
Sự kiện làm tôi thắc mắc là Ức Trai Tiên sinh là một nhà trí thức, các ông nho học ngày xưa ngoài kinh sử, còn thông thạo ba mục y, lý, số. Mà chẳng cần phải có học, phó thường dân thôi cũng biết phòng thân, cũng biết khi chị vợ bé của mình làm trò dâm dục với anh đàn ông khác mình phải lập tức cho ả đi chỗ khác chơi không thì có ngày mình thân bại, danh liệt vì sự dâm dục của ả. Phó thường dân chữ nhất không biết còn biết như thế, huống chi Ức Trai Tiên sinh là bậc đại nho?
Vua Lê Thái Tông, 20 tuổi, là ông Vua duy nhất của ta chết vì thượng mã phong – Vua cũng có thể là ông vua duy nhất trên thế giới chết trên bụng đàn bà. Ông Nguyễn Trãi là đại công thần duy nhất không những chỉ trong lịch sử ta mà là trong lịch sử quân chủ thế giới bị chết thảm vì sự dâm dục của ông vua của mình.
Tôi sẽ viết về một số nhân vật Đàn Bà Việt khác trong Thơ ta và lịch sử.
HOÀNG HẢI THỦY(Virginia, USA)
THÁI VĂN KIỂM *QUỐC NGỮ LÀ CHỮ NƯỚC TA
QUỐC NGỮ LÀ CHỮ NƯỚC TA
HƯƠNG GIANG
THÁI VĂN KIỂM
Thoạt tiên tôi nhớ lại thời kỳ thơ ấu theo chị đi học trường làng, rồi
trường huyện (Đức Phổ và Quảng Điền) gặp mùa đông mưa gió tầm tã, mang
tơi đội nón, quần sắn lên tới đầu gối, gió phía nào thì xoay tơi nón về
phía ấy, vì cả tơi lẫn nón chỉ che được nửa người mà thôi! Còn hai chân
không, với mười ngón phải xòe ra, bám chặt vào đường lầy đê ruộng, để
khỏi trượt té. Lúc đến cái hói có cái cầu tre bắc ngang, nước lụt ngập
cả cầu, thì phải mò mẫm với hai bàn chân mà tìm những thân tre lồ o mà
bám víu, còn hai tay thì một tay vịn vào sào tre ngang thấp nhất, một
tay thì ôm chặt sách vở vào lòng, để trong lồng ngực, nơi ấm nhất và
chắc chắn nhất, để may ra lúc đến trường hoặc lúc về đến nhà, còn có
sách vở mà học tập!Tôi còn nhớ quyển sách đầu tiên của tôi lúc bấy giờ là quyển Quốc Văn (lớp Đồng Ấu) của Đỗ Thận, Trần Trọng Kim và Đặng Đình Phúc. Đó là ba ông thầy đầu tiên của tôi và của chúng ta trong lứa tuổi "lục thập nhi nhĩ thuận" và "thất thập nhi tòng tâm". Sáu mươi tuổi thì nghe thuận lỗ tai, còn bảy mươi tuổi thì theo lòng mình. Ngoài ra, tôi còn nhớ thi sĩ Tản Đà đã mở đầu tập sách Vỡ Lòng của ông bằng mấy câu thơ:
Quốc ngữ là chữ nước ta
Con cái trong nhà phải lo mà học
Và từ thuở xa xăm ấy, tôi vẫn ghi nhớ mãi câu này, cho tới khi khôn lớn, bắt đầu viết lách, tôi vẫn cố gắng trau dồi Quốc Ngữ, là vì Quốc Ngữ là chữ nước ta.
Mãi về sau này, tôi đọc thêm sử sách mới hiểu vì đâu mà người Trung Hoa gọi dân mình là Giao Chỉ (hai ngón chân cái giao nhau, xòe ra để thêm vững chắc cho sự đi đứng). Cả một dân tộc chuyên về nông nghiệp, cày cấy quanh năm nơi ruộng nước bùn lầy, khai mương, đắp đập, chân lấm tay bùn, trải qua mấy mươi thế kỷ, thì tất nhiên thân thế con người cũng phải biến hóa phần nào để đáp ứng với nhu cầu và ngoại vật.
Tôi không quên thêm rằng: cũng có người giải thích chữ Giao Chỉ là "bờ nước có con giao long sinh sống". Mỗi cách giải thích đều tùy theo tính cách viết chữ Hán của hai chữ đó. Và cả hai cách đều có liên hệ đến nhân chủng học và nguồn gốc, cùng cách sinh hoạt của dân tộc Lạc Việt.
Nếu dân Bách Việt phát xuất từ miền Duyên Hải và miền Nam Trung Hoa, thì giống dân Lạc Việt mới thực sự phát minh từ ngan xưa ngay tại lãnh thổ miền Bắc Việt Nam hiện tại.
Xét về ngôn ngữ vốn là cái di sản xưa nhất do tổ tiên truyền lại - thì ngôn ngữ người Mường hiện tại rất gần với ngôn ngữ của người Lạc Việt thời xưa. Người Mường là sắc dân Lạc đã chạy vào ẩn núp trong núi rừng và cao nguyên để tránh né xâm lăng và đô hộ của người Tàu. Nhờ thế mà họ giữ nguyên được ngôn ngữ, phong tục, tập quán và kỹ thuật, nhất là kỹ thuật đúc Trống Đồng mà trước thời kỳ Bắc Thuộc, đã được đúc tại miền Duyên Hải Bắc Việt và lưu vực sông Mã. Các nhà nhân chủng học cho rằng: "người Mường là Tiền - Việt" (proto-Vietnamiens)
Chúng ta hãy so sánh hai mẫu văn Mường - Việt sau đây nói về sự tích sông Pờ, sông Rờ tức sông Hồng Hà ngày nay:
khây klước măng pâu pô. Khi trước nghe người ta nói rằng cỏ mốc ông, thên hốp là rằng có một ông tên gọi là ông Tùng, mà cả hai bơ chồng; ông Đồng, mà có hai bợ chồng nã rú ra tế nã lấp cải nó rủ nhau để nó lập cái ksông Pơ. Nã tan lẽ ksông sông Bờ. Nó toan lấy sông Pờ pao tất Thạch Pi. Bơ nã Bờ vao đất Thạch Bi. Vợ nó mê, ti lê ksu tệ nã lấp mới đi lấy đá, để nó lấp ksông. Lòng klởi ksinh tha sông. Lòng trời sinh ra mốch ông hốp là ông Sách; một ông gọi là ông Sắt; mê thuỗng mê thếch pất bởi mói xuống mới thách vật với ông Tùng. Nã mê pao lò, nã ông Đồng. Nó mới vào lò; nó tỏ ming nã pât ông Tùng đỏ mình nói mới vật ông Đồng. Ông Tùng mê chẩn hết mình, ông Đồng mới cháy hết mình, mê chết. Cho đênh cải ksông mới chết. Cho đến cái sông dỉ chăng lấp ản, mê dênh cải ấy chẳng lấp được, mới nên cái Thác pở dỉ. Thác bở ấy.
Trong bản văn trên kia (mà tôi đã tìm thấy trong quyển "Course de Langue Annamite" của A. Cheon, do nhà in F-H Scheider xuất bản tại Hà Nội năm 1899-1901) có rất nhiều từ ngữ Mường Việt giống nhau, na ná giống như nhau. Lại có nhiều âm lấp láy, gọi là tạp âm hay là nhị trùng âm (diphtongue) như chữ ks, kl, tr. Mường ngữ có chữ p thay cho chữ b của ta và chữ b lẫn lộn với chữ v, như bơ chồng và vợ chồng, vào lò và phao lò. Sở dĩ những nguyên âm b p v m phát âm lẫn lộn nhau trong cả hai ngôn ngữ Mường - Việt là vì cùng một cơ thể phát âm là môi (lèvre, lip) cho nên các nguyên âm đó đều được xếp vào loại "Labiale", và đương nhiên có thể tương hoán (permutable), ví dụ: vua quan cũng đọc và viết là bua quan, vui lắm cũng có nơi nói bui lắm, chữ vụng (vụng về) ngày xưa cũng là bống, mống, như còn thấy di tích trong câu ca dao:
Lênh đênh qua cửa Thần phù,
Khéo tu thì sống, bống tu thì chìm.
Tiếng Việt thời xưa có nhiều đa âm (polysyllabe) bên cạnh đa số đơn âm (monosyllabe) nhưng vì tiếp xuc lâu đời với văn hoá và ngôn ngữ trung Hoa mà phải phiên âm những tiếng đa âm thành nhiều đơn âm của Hoa Ngữ. Ví dụ như danh từ "Pô tờ rinh", có nghĩa là gia trưởng, tộc trưởng, tù trưởng, còn sử dụng nơi xứ Mường và vài nơi Cao Nguyên miền Trung, đã biến hoá thành Bồ Đinh tại các vùng quê Bắc Việt và được phiên âm Hán Tự là Phụ Đồ trong đó chúng ta tìm thấy chữ bố, bô, phụ đều có nghĩa là cha, là bố, là bu.
Chúng ta nhớ lại thời kỳ cổ cơ: hàng trăm đứa con dại của bà Âu Cơ, bị bỏ rơi nơi hoang dã, đã đồng thanh kêu gọi Lạc Long Quân: "Bố ơi, bố đi đâu rồi, mau mau về với chúng con!" Chứ bố là bố đã xuất hiện từ thời huyền sử của dân tộc ta, và sau đã đẻ ra chữ bố lão, tỉ như "Lá Thư Bố Lão" của Tuệ Minh Trịnh Minh Cầu ở Gia Nã Đại.
Chúng ta cũng tìm thấy những con sông lớn như sông Mã (Mạ) ngày xưa, cũng có nghĩa là sông Mẹ, đồng nghĩa với sông Cả, sông Cái, lớn lao hùng dũng như bố mẹ đã từng nuôi dưỡng cả một dân tộc lớn mạnh cho tới ngày nay.
Trả qua mấy nghìn năm lịch sử, giống dân Việt đã nối liền ba con sông lớn nhất Á Châu: sông Dương Tử, sông Bờ (tức Hồng Hà) và sông Mê - Klông, Mê-Krong, có nghĩa là sông Mẹ, chính là danh từ Klong đã phát sinh và được phiên âm ra Cửu Long.
Trở về thời kỳ huyền sử, lúc nàng Tiên Cơ và người dân ruộng Lạc Long chia tay, mỗi người đi một ngã, mỗi người mang theo 50 con, kẻ thì lên miền núi, người thì về miền duyên hải, bỗng có một người con trai đi được nửa đường thì đành bỏ cha theo mẹ trở về mạn ngược. Đến ngã ba sông, nơi vùng Việt Trì, Phú Thọ, người ấy ngập ngừng mà than rằng:
Ai đem ta đến chốn này
Bên kia là núi, bên này là sông
Người ấy không sang sông mà tách về phía trái, đi về Sơn Tây, leo núi, trèo đèo, lên tới ngọn Tản Viên hùng vĩ. Từ trên đỉnh núi nhìn xuống, người con của giống dòng Âu Lạc nhìn thấy con sông Đà uốn khúc, phơi mình thoải mái cho tới sông Bờ. Lịch sử dân tộc Mường đã xác nhận điều này. Từ đó, người Mường đã tôn thờ Thần Tản Viên như vị Tiên Tổ của họ vậy.
Như thế trong tổng số 100 người con, có 51 người theo mẹ lên mạn ngược và 49 người theo cha về miền xuôi, đúng với tỷ số 51/49 tức là đa số tuyệt đối mà dân Lạc Việt đã phát minh từ thời huyền sử. Núi Tản sông Đà là quê hương của thi bá Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939)
Trời sinh ra bác Tản Đà
Quê hương thì có, cửa nhà thì không
(Thú Ăn Chơi)
Con đường vô hạn khách đông tây
Ta nhớ ai mà mãi đứng đây
Nước rợn sông Đà con các nhảy
Mây trùm non Tản cái diều bay
(Quê Nhà Chơi Mát Cảm Hứng)
Qua những lời thơ đượm tình non nước, thi sĩ Tản Đà được gia tộc thờ phụng và xem như là hiện thân, hậu duệ của thần núi Tản Viên.
Tản Đà là một trong những vị có công lớn trau dồi Quốc Văn, Quốc Ngữ, cùng với Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Đông Hồ Lâm Tấn Phác, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam...
Người đâu tiên ta phải ghi nhớ công ơn là Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936). N8am 1906, tiên sinh được cử đi dự cuộc đấu xảo ở Marseille (Pháp). Lúc về, ông xin từ chức công chức Toà Sứ, để doanh nghiệp. Thoạt tiên, tiên sinh hợp tác với một người Pháp tên là Schneider, mở một nhà in và xuất bản quyển "Kim Văn Kiều" và bộ "Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa" dịch ra quốc ngữ. Trong bài tựa quyển sách này, tiên sinh viết câu này: "Nước Nam ta mai sau này, hay dở cũng ở như chữ quốc ngữ".
Ông Schneider có người con trai tên Paul Schneider rất thông thạo thi văn Việt Nam. Năm 1981 ông đã xuất bản bản dịch Pháp Ngữ "Kim Vân Kiều Tân Thảo", nouvelle edition critique de Paul Schneider, Edition Diệu Pháp, 2 rue de Bois, 92230 Sevres, France. Dịch rất hay, vừa sát nghãi, vừa văn hoa, lại thêm chú thích rành mạch khiến cho độc giả thích thú mà đọc và học Việt Văn qua truyện Kim Vân Kiều.
Kế đến là Tản Đà sáng tác hai quyển Giáo Khoa: Lên Sáu và Lên Tám, trong năm 1919. Năm 1920, Tản Đà 32 tuổi, đã cùng với cụ Bùi Huy Tín vào Huế, rồi Đà Nẵng, chiêm ngưỡng cảnh đẹp núi sông, cung điện lâu đài, bèn hứng khởi lúc trở về Hà Nội viết truyện ngắn: "Thề Non Nước", trong đó có bài thơ "Thề Non Nước" tiếng tăm vang dội khắp ba kỳ:
Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi, không về cùng non
Nhớ lời "nguyện nước thề non"
Nước đi chưa lại, non còn đứng không
Non cao những ngóng cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Năm 1921, Tản Đà nhận làm chủ bút báo "Hữu Thanh", cơ quan của hội "Trung Bắc Kỳ Nông Công Thương Hội" bèn viết bài "Kính Cáo Quốc Dân" trong đó có bài thơ dài, mà chúng tôi trích mấy câu sau đây:
Tôi làm văn quốc ngữ
In bán trong mấy năm
Sang hèn cũng thể sinh nhai
Một sự văn chương vui với
Bút nghiên cùng giấy mực
Hay dở mặc cho công luận
Trăm năm tâm sự, gửi cùng cây cỏ với núi sông
Bước văn chương chẳng nợ thì duyên
Cõi nhân thế không duyên thì nợ
"Kể xa từ Hồng Lạc dựng cơ đồ, vua chúa có đổi, sĩ phu trường tồn, ấy trải bao bể đúc non sông, bồi nguyên khí cho dân nước."
Nay được thời tế thế đương khai hoá, vận mở quốc văn, cơ bay báo giới, ai có nhẽ châu chìm ngọc náu, phụ công đức với giang sơn.
Bước văn minh hoạ may có
cơ vận tự giới
Công tiến bộ thực cũng bởi
nhân tài trong nước.
Đọc bài thơ trên, chúng ta không khỏi bùi ngùi hoài cảm tâm sư của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Người phải sống chật vật bằng cách "làm văn quốc ngữ, in bán trong mấy năm, một công việc thật cao quý, mà thế gian lại cho là hèn, không sang trọng bằng nghề thầy thông, ông phán "tối sâm banh, sáng sữa bò"...
Trước cảnh nhân tình thế thái đó, Tản Đà đành phải "ngậm bồ hòn làm ngọt" mặc dầu bồ hò rất chua chát, khiến cho Tản Đà lắm lúc cũng phải than lên rằng:
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
và tưởng chừng như:
Văn minh Âu, Á trời thu sạch
Đạo lý luân thường đảo ngược ru.
Cũng trong lãnh vực Quốc Văn, Quốc Ngữ, chúng ta không quên Phạm Quỳnh (1892-1945) bút hiệu Thượng Chi, đã sáng lập ra tạp chí Nam Phong (1917-1933) gốm có 210 số, đã quy tụ nhiều học giả, văn giả, thi sĩ tài hoa, và đã có công lớn trong sự nghiệp bồi bổ văn chương. Học thuật Việt Nam, đồng thời quảng bá tư tưởng đông tây kim cổ. Trong bài diễn thuyết bằng Quốc Văn kỷ niệm Tiên Điền Nguyễn Du, tổ chức ngày 8-9-1924 (tức 10-8 âm lịch Giáp Tý) tại Hội Khai Trí Tiến Đức Hà Nội, Phạm Thượng Chi đã nói lên những lời thống thiết sau đầy về truyện Kiều:
"Truyện Kiều là cái văn từ của giống Việt Nam ta đã "trước bạ" với non sông đất nước này. Trong mấy nghìn năm ta chôn nhau cắt rốn, gửi thịt, gửi xương ở cõi đất này mà ta vẫn hình như ăn trọ ở nhờ, đối với đất nước non sông vẫn chưa từng có một cái văn tự văn khế phân minh chứng nhận cho ta cái quyền sở hữu chính đáng. Mãi cho đến thế kỷ mới rồi mới có một đấng quốc sĩ(...) rõ máu làm mực, "tá tả" một thiên văn khế tuyệt bút(...)
Đấng Quốc sĩ đó là ai? Là Cụ Tiên Điền ta vậy. Thiên văn khế ấy là gì? Là quyển truyện Kiều ta vậy(...)
Cuộc kỷ niệm hôm nay là chủ ý tỏ lòng quốc dân sùng bái cảnh mộ cụ Tiên Điền ta (...) Nhưng còn có một ý nghĩa nữa, là nhân ngày giỗ này, đốt lò huong, so phím đàn, chiêu hồn quốc sĩ "Thác là thể phách, còn là tinh anh" ánh tinh trung thấp thoáng dưới bóng đèn, chập chùng trên ngọn khói, xin chứng nhận lời thề của đồng nhân đây. Thề rằng: "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, còn non nước còn dài chúng tôi là kẻ hậu sinh xin rầu lòng giốc chí cố gia công trau chuốt lấy tiếng quốc âm nhà, cho quốc hoa ngày một rực rỡ, quốc hồn ngày một tinh cao, quốc bộ ngày một tấn tới, quốc vận ngà một vẻ vang, ngõ hầu khỏi phụ cái chí hoài bão của tiên sinh, "ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây"!"
Trong số những nhân sĩ đã hợp tác với Nam Phong Tạp chí, chúng ta cũng phải kể Đông Hồ Lâm Tấn Phác (1906-197?) quê quán Hà Tiên, Nam Việt. Bút hiệu Đông Hồ lấy trong "Hà Tiên Thập Vinh Tập" của Mạc Thiên Tích (con Mạc Cửu) trong đó cảnh đẹp số một là Đông Hồ ấn nguyệt (hồ Đông in bóng trăng) tức là Phá Hà Tiên. Trong bài "Gia Đình Giáo Dục Ký" đăng trong Nam Phong số 115 ấn hành tháng Ba 1927, trang 211-217, tóm lược bài giảng dậy học trò trường Khai Trí Tiến Đức Học Xá Hà Tiên ngày 19-11-1926, Đông Hồ có dậy như sau:
Ba Điều Đáng Tiếc
Ở đời có ba điều đáng tiếc
Một là hôm nay bỏ qua
Hai là đời này chẳng học
Ba là thân này lỡ hư
Quốc ngữ, Quốc gia
Tiếng là nước, tiếng còn thì nước còn
Tiếng mất thì nước mất
Truyện Kiều còn, tiếng ta còn
Tiếng ta còn, nước ta còn.
Paris (Chiêu Anh Các)
Mạnh Xuân, Bính Tí (1996)
GS. THANH LÃNG * PHÊ BÌNH VĂN HỌC
* NHỮNG VỤ ÁN VĂN HỌC THẾ HỆ 1932 Thanh Lãng A - Đặc tính chung thế hệ 1932 B - Sinh hoạt Phê bình văn học thế hệ 1932 C - Những Vụ Án Văn Học Thế Hệ 1932 : 1 - Vụ Án Báo Chí / 2 - Vụ Án Cũ và Mới / 3 - Vụ Án Phan Khôi - Trần Trọng Kim / 4 - Vụ Án Tản Ðà - Phan Khôi / 5 - Vụ Án Quốc Học / 6 - Vụ Án Thơ Cũ - Thơ Mới D - Mặt trận bênh thơ mới (1) / Mặt trận bênh thơ mới (2) / Mặt trận bênh thơ mới (3) E - Phản ứng làng thơ cũ / F - Sự trưởng thành của thi ca Việt Nam |
Phong Hoá bênh Thơ MớiTôi nghĩ gọi phe bênh thơ mới đả kích thơ cũ là một mặt trận cũng không là quá đáng : chính bọn họ khai chiến, ngay cả lúc bên mà họ cho là địch không có ai ra ứng chiến. Thực vậy, lai rai từ lâu trước với Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trịnh Đình Rư và ngay cả chính Phan Khôi, nhưng đến năm 1932 lại cũng chính cái ông Phan Khôi lai rai lúc đầu đã ra tay làm cách mạng. Bỏ ngoài phần lớn các tài liệu mà Hoài Thanh và Hoài Chân đã trưng ra ở đầu cuốn Thi Nhân Việt Nam của các ông vì chưa tìm ra, tôi xin phép trình bày với các bạn theo tài liệu những sách vở báo chí mà tôi có trong tay. Tôi mong các bạn hợp tác với tôi để bổ túc vào sau. Vậy cũng theo chỗ tôi biết hiện nay thì, tuy báo Phụ Nữ Tân Văn đã là nơi xuất phát trận tuyến do Phan Khôi chỉ huy, nhưng tham gia thật sự vào trận mạc lúc ban đầu này lại không phải Phụ Nữ Tân Văn mà là tuần báo Phong Hoá của Tự Lực Văn Đoàn. Ngay từ số 14, ra ngày 22-9-1932, Phong Hoá, như các bạn đã thấy ở trên, đã có lời chửi thơ cũ và hô hào theo thơ mới :" Bỏ luật, niêm, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ, nghĩa là tóm tắt, đừng bắt chước cổ nhân một cách nô lệ. Thơ ta phải mới, mới văn thể, mới ý tưởng ". Thực ra, đòi cho thơ phải mới về tinh thần tức mới ý tưởng thì đã có nhiều người nói từ lâu rồi, nhưng mới về văn thể thì chỉ có từ Phan Khôi (Phụ Nữ Tân Văn số 122, 10-3-1932). Tiếp sang Phong Hoá số 15 ngày 29-9-1932 nối bài " Sầu thảm nhiều rồi ", Việt Sinh chẳng những chửi thơ cũ mà chửi tất cả văn chương theo lối cũ là chỉ biết khóc, khóc một giọng rên ư ử từ ngàn xưa :" Xã hội ta xưa nay vốn là một xã hội tiêu điều nhạt nhẽo. Hơn một nghìn năm chịu đè nén dưới đạo Khổng đứng đắn nghiêm trang, hiểu lầm chăng, nên chỉ khuôn con người ta vào vòng lễ phép chật hẹp vô cùng. " Nói không dám nói mạnh, cười không dám cười to, cái gì cũng như bó buộc, cằn cỗi già sói... " Văn thơ của ta gần đây thực như khóc như đầm đìa huyết lệ. Một chữ là một giọt nước mắt để ngậm ngùi cho " Đạm Thuỷ với Tố Tâm ", xót thương cho " Lê Ảnh với Mộng Hà "...Ta hãy nghe ông Trần Tuấn Khải an ủi lòng người " Anh ơi ! anh ngồi xuống đây, anh xơi chén rượu này, anh nằm ngủ, anh ngủ cho say...kiếp trần thong thả ngày là tiên ! ". Ấy thế mà chưa ai ngủ, chỉ riêng Trần Tuấn Khải đó " phận kém duyên hèn " này mới tự mình du ngủ lấy mình đến nay ông thật ngủ yên rồi mà ngọn bút quan hoài hẳn từ nay ráo mực. Ông Đặng Trần Phất cũng đã yên giấc ngàn năm không bao giờ dậy nữa... " Mà nào đã hết cái " thái sầu muôn kiếp không tan được " của bà Tương Phố, cái " tân sầu " khóc ve kêu hoa soan rụng của ông Nguyễn Tiến Lãng đã làm rơi biết bao nước mắt " (Phong Hoá số 15, 29-9-32). Rồi cũng trên Phong Hoá số 15 ấy, nơi bài " Quốc văn nó đi như sao ? " với một giọng châm biếm tác giả khi thì nhái văn Tản Đà, khi thì nhái văn Hoàng Tích Chu, đã viết một lối văn bông đùa để chửi khéo tất cả các nhà thơ cũ :" Cho đến ngày nay thì biết bao nhiêu văn nhân thi sĩ toàn loạt trứ danh nào Hiếu Nguyễn Khắc, nào Bi Hoàng Tăng, nào Quỳnh Phạm, nào Dư Lê, nào Việt An họ Nguyễn, nào Tuấn Khải họ Trần kể có vài muôn, nhớ tên sao viết vậy (Phỏng theo lối văn Đức Trần Hưng Đạo)...số văn sĩ nhiêu phong như thế thì đáng lý ra quốc văn được bành trướng một cách cấp tốc lắm mới phải ! hà cố các áng văn tuyệt tác về vận văn, về tản văn vẫn hạn hữu ? Vì cứ tầm quan sát của bỉ nhân thì chỉ về vận văn mấy tập Kim Vân Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán ngâm khúc,còn dáng đăng lục luận đề, chứ về tản văn thì thực tịnh vô nhất quyển " (Phỏng theo văn Phạm Quỳnh)... " Thiếu ý sáng kiến, lối văn mới ta không có một. Thành thử không ai có " Xịch tin " riêng. Ta viết bá láp : lăng nhăng. Hoặc ta theo người xưa : lòng thòng. Còn ý tưởng ? Càng tệ càng cũ không mấy khi dám bước ra ngoài lũy tre trí thức nước Lỗ (Khổng Mạnh) và nước Sở (Lão Tử). " Quốc văn muốn giàu. Phải có nhiều lối, nhiều lối mới. Lối cũ nào không hợp thời : ta phích ! " Lại phải có tư tưởng mới ! " Mới lên ! " Nào chúng ta nhúng tay vào làm việc " (Phỏng theo lối văn Hoàng Tích Chu) Từ đó, hầu như chẳng có số báo nào mà Phong Hoá không dành giăm ba bài để chửi bới, trêu chọc tất cả các nhà văn, nhà thơ cũ. Nhưng mũi dùi hình như chĩa thẳng vào lãnh tụ của thơ cũ là Tản Đà. Phong Hoá, số 28, 30-12-1932, nơi bài " Hoạ nguyên vận ", đã mô tả Tản Đà là anh say rượu : Chẳng phải vô tình mà Phong Hoá đánh các nhà thơ cũ : nó nằm trong chính sách văn học của Tự Lực Văn Đoàn mà chính sách của hội nhà văn này là theo mới. Dĩ nhiên, Thơ Mới phải được Tự Lực Văn Đoàn tích cực bênh vực. Như tôi đã nói gián tiếp ở phần trên, nơi bài " Lối Thơ Mớỉ (P.H. số 31, tức số Xuân 1933), trong khi cho đăng bức thư Lưu Trọng Lư ca ngợi thơ mới, Phong Hoá đã nhắc lại lập trường của họ đối với thơ mới, lập trường mà họ đã bày tỏ từ số 14 ra ngày 22-9-1932 :" Trong số 14, Phong Hoá đã bàn về những chỗ không hay, không hay vì bị bó buộc vào trong khuôn sáo của lối thơ Đường luật...Nay bản báo nhận được bức thư của cô Liên Hương để gửi cho ông Phan Khôi, nói về lối thơ điệu mới của ông, " ý tưởng có nhiều chỗ giống với ý tưởng của bản báo. Vậy bản báo vui lòng đăng lên mục văn học và sẽ lục đăng các bài thơ mới của các bạn thi nhân " (Phong Hoá số 31, 25-1-1933). Thế là từ đây, ngoài việc viết bài chửi thơ cũ, bênh thơ mới, Phong Hoá còn chú trọng nhất đến việc đăng tải " thơ mới của các bạn thi nhân " như họ vừa hứa." Anh lên giọng rượu khuyên Phong Hoá |
Việt Sinh chê thơ cũThực vậy, cùng ở nơi số 31, tức số Xuân này, Việt Sinh và Nhất Linh đã chế diễu các ông làm thơ cũ : Việt Sinh chế Nguyễn Tiến Lãng làm thơ sáo, đánh cắp văn mà không biết :" Trong bài nhớ Tết năm ngoái " ở sách " Xem tết ", ông Lãng hồn thơ lai láng, cảm vì xuân nên " vụt nghĩ " ra hai câu thơ : " Vì ông Lãng " Vụt nghĩ " nhanh quá, nên ông quên không nhớ đến hai câu thơ Vịnh nhà hát San nhiên năm xưa :Bức tranh vân cẩu treo rồi xoá " Nếu chúng ta không nhầm thì hai câu dưới cũng hơi hơi giống hai câu trên. Mà nếu chúng ta không nhầm thì cái " Vụt nghĩ ra " của ông Lãng nó " cũng lâu lâu thì phải ". Sau Nguyễn Tiến Lãng thì đến Trần Tuấn Khải là một nhà thơ lừng danh ở thế hệ trước, cũng bị Việt Sinh chửi là nhai lại cái cũ rích thành ra đạo văn :" Bức tranh vân cẩu treo rồi cuốn " Trong " Sách chơi xuân " của Nam Ký, ông Á Nam vì Xuân làm bài thơ rất hay, rất mới : " Hay tuyệt ! Câu đầu, cả ý lẫn chữ là câu sáo cũ." Một đời được mấy gang tay, " Câu thứ hai cũng hay như câu thứ nhất. " Câu thứ ba cũng hay như câu thứ hai. " Còn câu thứ tư không hay thì là của ông Á Nam ". Còn Nhất Linh thì chế diễu thơ của Phương Lang : " Vậy tôi chỉ nói đến bài thơ của ông Phương Lang và xin chép lại bài thơ ấy ra đây lần nữa : " Thơ như thế sao gọi là thơ được. Đó chỉ là mấy câu sai con mà có vần. Bài sai đầy tớ của Ôn Như Hầu cũng chỉ là mấy câu sai đầy tớ mà có vần và đúng khuôn phép niêm luật. Nó cũng như thơ con cóc mà thôi... " Nhất Linh lại xin bắt chước ông Phương Lang làm bài thơ như thế nữa :Mặt bẩn sao chưa lau ? " Chắc ông Công Luận phục hai bài thơ này lắm, vì theo ý ông tôi đã tránh được những tiếng cao nhã (mots nobles) mà toàn dùng cái giọng thông thường (langage vulgaire) đi thẳng một hơi trôi chảy vô cùng " (P.H. số 31).LẠC QUANTrông vào nồi, cơm hết. Tứ Ly chế diễu Tản ĐàSang số 34, 17-2-1933, Tứ Ly lại diễu Tản Đà trở lại : " Ông Hiếu với thầy Nhan Hồi. Trước kia Tứ Ly ví ông Hiếu với anh Tề Ngã. Nhưng nghĩ cho kỹ, có lẽ ông Hiếu giống thầy Nhan Hồi. Thầy Nhan Hồi đeo bầu, ông Hiếu cũng đeo bầu. Bầu Thầy Nhan Hồi đựng nước. Bầu ông Hiếu cũng đựng nước. Nước trong bầu Thầy Nhan Hồi không có men. Nước ông Hiếu lại có men. Cũng vì thế, ông Hiếu giống thầy Nhan ". Nếu Tứ Ly viết văn xuôi nhạo Tản Đà thì Vân Dương làm thơ, mà là thơ mới chửi xỏ Tản Đà, tuy không có gọi tên tuổi Tản Đà : Chẳng những viết văn xuôi chửi Tản Đà, làm thơ diễu Tản Đà, Phong Hoá còn soạn kịch bêu xấu thi sĩ Núi Tản Sông Đà. Tứ Ly soạn vở tuồng lấy tên là " Tuồng cổ tân thời " đăng liên tiếp trên năm số Phong Hoá, tức các số 38 (17-3-1933), số 39 (26-3-1933), số 40 (31-3-19363), số 41 (7-4-1933), số 42 (14-4-1933). Trong vở " Tuồng cổ tân thời " này, các nhà văn nhà thơ cũ được trình bày như là tập họp nhau uống máu ăn thề lập sào huyệt để đánh cướp và thanh toán bọn Phong Hoá Tự Lực Văn Đoàn. Chủ trại là Hoàng Tăng Bí, tham mưu là Nguyễn Khắc Hiếu và Nguyễn Văn Vĩnh, lâu la là các ông Nguyễn Tiến Lãng, Dương Bá Trạc, Nguyễn Công Tiễu, Trịng Đình Rư, Lê Công Đắc vv... Còn bên địch là cả tụi Phong Hoá, nhất là Tứ Ly, Việt Sinh, Nhất Linh, Nhát dao cạo... Cuộc tranh hùng được trình bầy cực gay cấn, sôi nổi, tàn nhẫn nhưng cũng cực là trò hề, buồn cười, tố cáo cái ngây ngô, nhiều khi ngu xuẩn của phe cũ." Ngày xuân ngồi ngắm hoa thuỷ tiênTứ Ly chế thơ cũ trong vở kịch " Tuồng cổ Tân thời " Cuộc giao phong của phe cũ tuy nói thì hăng lắm mà vào việc chưa gì đã mỗi anh chạy tháo thân, kết cục bị Phong Hoá đánh tan tành. Sự tan tành của đảng bí mật trong Tuồng cổ tân thời là sự tan tành của lớp văn sĩ, thi sĩ cũ trước sức đi lên của bọn văn sĩ thi sĩ mới vậy. Thực thế, Tứ Ly đã đặt vào miệng của các nhân vật cũ những lời lẽ ngây ngô, và để vào người họ những cử động điên khùng, khiếp nhược. Tôi chỉ trích cho các bạn nghe một vài đoạn Tứ Ly đặt vào miệng Tản Đà, vị tướng soái của làng thơ cũ. Đây Tản Đà hét nhạc : " Tản Đà thi sĩ, Khắc Hiếu nãi danh, làm tham mưu lạm dự chút quyền, chỉ một việc rượu chàn quí tị, thơ sẵn có khối tình bé tí, văn thời nào mộng lớn, mộng con, rượu càng say ngâm giọng càng ròn, tiếng ngông đã vang trời dậy đất. " Ngâm : " TÁN : Rứa mà chừ, có tin chủ trại triệu đến trướng tiền việc dữ lành chưa rõ căn nguyên, mau tới đó cho tường hắc bạch. " Cười nói : Kha kha ! hay chủ trại nhớ tên lính cũ, phố hàng Bông bán đủ hạng văn, mà bây giờ cho uống cho ăn, để cho được say lăn lóc (Tham mưu Hiếu cầm hũ ra).Say sưa nghĩ cũng hư đời . . . . . . . . . . . . " Hữu tham mưu Hiếu rót rượu uống. " TÁN : Say chuyếnh choáng non xanh còn chẳng thấy, thời mưu cao kế diệt biết đâu tìm, hay bây giờ bọn ta hoá ra chim, theo giấc mộng bay về nơi tiên cảnh, hay bây giờ ta đem rượu cúc rủ quân thù đặng chén say sưa, bao giờ cho say đứ say đừ, khi ấy sẽ ra tay trừ khứ ! " (Nói đến đây, hữu tham mưu tuý luý, gục xuống bàn không còn biết gì nữa) (Hồi thứ thứ nhất số 38 17-3-1933). Sang đến hồi thứ hai (Phong Hoá số 40, 31-3-1933), Tứ Ly cho Tản Đà ra nghênh chiến với bọn Phong Hoá :" Trong thành Phong Hoá vẫn có tiếng cười đáp lại : Ha ha ! (Tả tham mưu Hiếu a bạch :- Thét -) : Bớ a ! " Phong Hoá ! Phong Hoá ! Bọn ngươi thực là láo quá, ta đây còn chẳng xá kể chi, ta say sưa nào có hại cái gì, mà chẳng để tuỳ ta sở thích. Ta đây giống Lưu Linh thủa trước, đích thực là Lý Bạch đời nay, trừ bọn mi, ta quyết ra tay, đem thành quách thu vào trong hũ. " (Hát khách) : Tự cổ thánh hiền giai tịch mịch Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh (Tham mưu Hiếu mở hũ ra say lảo đảo) " TÁN : Cái thành, cái quách nó ngả, nó...với giềng, hỡi đồ mách qué. " NGÂM : Văn minh Đông Á trời thu sạch Này lúc luân thường đảo ngược ru ? " (Hồi thứ hai). Cũng lại Tứ Ly trong mục " Từ nhỏ đến lớn " (P.H. số 56, 21-7-1933), đã lấy số tử vi cho nhà thơ Tản Đà một cách rất ư là " xỏ lá " nói theo tiếng Phan Khôi : " Số ông Nguyễn Khắc Hiếu " Lấy văn chương mà suy xét thì ông ấm Hiếu đáng lẽ cũng được văn khúc, văn xương như ông cử Trạc, nhưng xét đến đường công danh thì không có thể được : hoặc giả văn xương phùng hình cho nên lao lực linh đinh, chịu làm ông ấm suốt đời chăng ? Nếu thế thì di hận biết thủa nào nguôi. " Nhưng ông được sao tham lang thủ mệnh, nên lòng hận của ông không lâu. Vì có câu rằng : " Gái đẹp thì không có, hay có cũng không được biết, chứ rượu nồng thì hẳn ông không còn chối vào đâu được ! " Nhưng thế cũng chưa đủ : ông còn là người cả lo, ông lại còn là một nhà thi sĩ. Nếu vậy thì mệnh ông còn phải có các sao bạch hổ, tang môn quan phù điếu khách, hoặc chính vị hoặc phụ chiếu. Vì rằng :" Tham lam tính bẩm thung dung, " Hổ tang chẳng việc mà lo. " Quan phù điếu khách hay phô rộng nhời. Rồi cũng nơi Phong Hoá số 56, 21-7-1933, Tú Mỡ đã làm bài văn tế viếng báo An Nam tạp chí của Tản Đà vừa chết một cách, theo tiếng nói của Phan Khôi, vừa xỏ lá vừa ba que. Đây các bạn thử đọc bài văn tế đó. Thật là tàn tệ. " Ngày 12 tháng năm dư năm Quý dậu : " Ngu hữu là Phong Hoá tuần báo đứng trước linh vị An Nam tạp chí, hậm hực mà than rằng : - Đỉnh non Tản mây đen mù mịt, quấn băng tang lặng lẽ âu sầu (1)," Nhồi độc giả năm pho kinh cổ, nhai lại chi, hồ, giả, dã, rõ cơ quan tiến thủ giật lùi, " Ru quốc dân hay hũ thơ sầu, mơ màng tiên, cuội, trời, răng, khiến niên thiếu liên miên bả lả. " Ố kim Nệ cổ, đã từng phen nắm đuôi ngựa Phan Khôi. Ghét cợt, chê cười, còn nhớ trận vuốt râu hùm Phong Hoá. " Dằng dai như đỉa đói, chết đi sống lại bao lần, " Siêu bạt tựa vịt trời, nay đó mai đây mấy thủa. " Hơn bẩy, tám năm lăn lóc, khi Hà-thành, khi Nam-định ngoẻm trăm ấy, veo nghìn khác, than ôi, thua vẫn hoàn thua ; " Non ba mươi tháng vật vờ, hết Hàng lọng đến Hàng khoai, thay dạng nọ, đổi hình kia, ngán nỗi khá không thấy khá. " Vẻ vang thay nghìn rưởi số in, " Hân hạnh lắm được một trăm độc giả. " Cứ tưởng tạm ngơi ít bữa, lấy đà dưỡng sức, cho qua thời kinh tế lung lay. " Nào hay đánh giấc nghìn thu, bặt tiếng im hơi, chẳng thoát nạn lý tài trắc trở. " Hay là ngán trần tục, viết văn không kẻ hiểu, luống uổng công phu. " Cho nên thăng thiên đường, tái bản để Trời xem cho cao phẩm giá. Trong một hài kịch, một hồi một cảnh, tiêu đề là " Hội Nghị văn học ", diễn viên gồm có các ông Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc, Phạm Lê Bổng, Phan Khôi, Nguyễn Công Tiểu, Lê Dư, Tùng Vân, tay hài hước Tứ Ly lại một lần nữa đưa các nhà học giả ra làm trò cười. Mà nhân vật được chọn làm hề số một vẫn là vị nguyên soái của làng thơ cũ, thi sĩ Tản Đà : " Ông Nguyễn Khắc Hiếu (ngồi một xó, mặt đỏ gay, từ nẫy, chốc lát lại thò tay vào bọc lấy bầu hồ lô ra nốc, loạng choạng đứng dậy) :Thưa các ngài, Viện ta là Hàn lâm viện về...(giọng rượu) văn chương, không phải về khoa học, ông tú Khôi lý luận xằng xì ! (lau trán). Văn chương là...là... (lưỡi líu dần) mâm gỏi...là...rượu. Cổ nhân có câu " hoả nhập thi xuất ", tưởng anh em ta nên uống rượu cho nhiều, rồi làm việc mới có ích cho nước." Than ôi !Tứ Ly chế thơ cũ trong hài kịch " Hội nghị Văn học " " Nhát dao cạo : Cho rượu... " Ông Hiếu :-..Tôi nói gì rồi nhỉ...(cố nghĩ) À phải...nên nhắm rượu...(rút hũ rượu ra) mời các ngài, văn chương là... thịt chim (say quá ông ngã gục xuống hũ rượu ngủ...) " Như vậy, các bạn thấy, buổi đầu này, Phong Hoá xem ra chưa bày tỏ lập trường minh bạch về thơ mới, thơ cũ mà thường chỉ làm hai công việc : một là đem ra chế diễu các nhà thơ cũ, nhất là vị lãnh tụ thơ cũ là Tản Đà được mô tả như là anh chàng hề điên điên khùng khùng ; hai là trịnh trọng cho đăng vào chỗ đích đáng trên hầu hết các số báo những bài thơ mới của Tú Mỡ, của Thế Lữ, của Nhất Linh, của Tứ Ly, của Huy Thông vv... Nhưng vào khoảng cuối năm 1933 sang đầu năm 1934, thì Phong Hoá đi hẳn vào con đường bênh vực, biện hộ cho thơ mới, phê bình ca ngợi thơ mới. Nhị Linh trên Phong Hoá số 67 (6-10-1933) đã lên tiếng chống báo Văn Học tạp chí để bênh thơ mới trong bài điểm báo : " Một cuốn tạp chí văn học ngoài Bắc nơi nổi tiếng là đất văn vật - mà luôn mấy kỳ nay toàn rút bài của báo khác làm xã thuyết, thì cái giá trị của báo ấy cũng đáng ngờ lắm. Dẫu sao Văn Học tạp chí đã lấy những ý tưởng của báo khác làm ý tưởng của mình, chịu những ý tưởng ấy là đúng, là hay mà nêu lên trang đầu thì ta cũng cứ bình phẩm bài xã thuyết kia như là của Văn Học tạp chí. " Tác giả TR, GI bắt đầu : " Thường thường các tay thợ thơ ta bây giờ hay có cái khẩu khí : thơ cốt sao tứ cho cao, lời cho mạnh là được rồi, chứ hơi nào mà ngồi đẽo từng chữ. " " Biết bao ý tưởng mâu thuẫn trong một câu nhập đề. " 1. Dù ở Tây phương hay ở Đông phương, trong làng thơ bao giờ cũng có hai hạng : một hạng là thi sĩ (poète), hai là thợ thơ (versificateur). Các thi sĩ thì trước hết cốt tứ cho cao, lời mạnh rồi mới nghĩ tới văn thể. Còn hạng thợ thơ thời chỉ hì hục ngồi gọt đẽo đục, chạm từng câu, từng chữ như người thợ mộc hay người thợ khắc đục chạm gỗ... " 2. Người đẽo từng chữ là công việc một thi gia tầm thường. Đây có lẽ tác giả muốn nói cân nhắc cẩn thận từng chữ. Song muốn có lời mạnh mà không chịu lựa từng chữ đích đáng thì mạnh sao được . Muốn tả một sự hùng vĩ mà không chọn những chữ có ý nghĩa, có âm điệu hùng vĩ thì tả sao nổi. " Ta coi đó đủ biết tác giả viết chỉ để viết chứ không có nghĩ ngợi gì. " Nhất Linh công kích thơ cũCũng Nhất Linh, tức Nhị Linh, nơi Phong Hoá số 69, 20-10-1933, đã đi xa hơn bài công kích trên đây mà làm công việc so sánh thơ mới với thơ cũ : thơ cũ chỉ cần chọn tiếng, chọn chữ cho thật đối, đọc cho kêu, còn thơ mới cần chọn chữ cho hợp ý. Nhất Linh cho rằng xét chung, về điểm này, thơ mới hơn hẳn thơ cũ. Ông viết bài " Sự cân nhắc chữ trong thơ cũ và thơ mới ". " Trong mục " Cuộc điểm báo " số Trung Thu, Nhị Linh có nói đến bài xã thuyết của Văn Học tạp chí, mục đích chỉ để công kích bọn thi sĩ mới, cho bọn này có tứ cao lời mạnh, nhưng không biết cân nhắc chữ dùng. " Văn Học tạp chí, một tờ báo văn học mà như không muốn khuyến khích các trào lưu mới về văn học, vì chân thành thủ cựu hay vì không có tài theo kịp bọn mới, nên mới tìm cách dìm bọn này đi. Có biết đâu là làm như thế mà tự mình dìm mình. " Đây tôi không muốn bàn xem thơ cũ hay thơ mới hơn, nên làm thơ cũ hay nên làm thơ mới. " Tôi chỉ xin nói ngược lại ông TR, GI ở Văn Học : các nhà làm thơ mới cũng chọn chữ như các nhà làm thơ cũ. Nhà làm thơ cũ cân nhắc từng chữ, cốt ý để câu văn được chỉnh, đọc lên nghe cho kêu, có những chữ đối chọi một cách thần tình, khéo léo. " Nhà làm thơ mới cân nhắc từng chữ để đo đắn xem chữ nào diễn được cái cảm của mình, tả được cái ý của mình đúng hơn hết,xem phải cần đến chữ nào, câu thơ mới có cái điệu khả dĩ diễn được sự rung động của linh hồn mình một cách rõ rệt hơn. " Đó, hai bên cùng chọn chữ cả : khác nhau chỉ ở mục đích của sự kén chọn ấy. " Xin lấy mấy câu thơ cũ nổi tiếng là những câu tuyệt tác làm thí dụ : " Cái hay của mấy câu thơ cũ này không phải ở ý nghĩa mà ở những chữ : hai một, trắng son, thế đời, nhớ thương, nước nhà, lòng miệng, cái con, quốc gia đối với nhau chan chát, hay ở chữ quốc (là con cuốc) vận lên chữ nước ; chữ gia (con gia gia) vận lên với chữ nhà mà chữ nhà lại đối rất chỉnh với chữ nước. Kể về cách xếp chữ thì thật là một công trình tuyệt sảo. Nhưng tiếc thay vì quá thiên về cách xếp cho tài tình nên quên mất cái hồn của câu thơ. " Trái lại nếu lấy câu thơ mới như :Hai bàn tay trắng làm nên thế, " Ta sẽ thấy nhà làm thơ mới chọn chữ một cách khác hẳn. " Chữ vàng không cần phải đối với chữ bạc, mà cốt tả cho thật đúng cái mầu của một đêm trăng trong rừng. Những chữ ái ân, ôm, để tả sự dịu dàng sự âu yếm của cỏ cây, những chữ hắt hiu, hơi gió heo may phần nhiều bắt đầu bằng chữ h để tả đúng được tiếng sáo." Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối, " Vẫn biết rằng trong thơ cũ cũng có chữ dùng đúng chỗ, diễn đúng ý, và trong thơ mới cũng nhiều câu chỉ kêu mà không có hồn, song nói về toàn thể, thì khác nhau như trên. Một bên chỉ cốt cân nhắc để tìm những chữ nào đối chọi nhau, cho ý là phụ, một bên cố cân nhắc để tìm những chữ nào hợp điệu thơ, diễn đúng ý. " Nguyễn Tường Bách công kích thơ cũCũng như Nhất Linh, Nguyễn Tường Bách, trong bài " Thơ mới " (P.H. số 97, 11-5-1934) tuy có công kích một ít thơ mới lố lăng, thơ thẩn, nhưng đã cực tán thơ mới, cho thơ mới chẳng những không lo bị tiêu ma, trái lại đã xây dựng được cơ sở rất vững chắc mà còn cho thơ mới về hầu hết các phương diện đã hơn hẳn thơ cũ : thành thực hơn, mạnh mẽ hơn, hợp tình hợp cảnh hơn : " Thơ mới đã bị nhiều người công kích, cho là chỉ mới ở ngoài vỏ, còn bề trong vẫn cũ rích, và khó đọc khó nhớ vì không có âm điệu âm luật gì cả. " Lẽ tự nhiên là trong bao nhiêu bài thơ mới thế nào cũng có bài chỉ nhặt nhạnh những ý tưởng sáo nhét vào một hình thể mới. Nhưng đấy chỉ là một số ít. Ta có thể mang nhiều bài ra làm chứng rằng thơ mới bây giờ đã xứng đáng với tên gọi. " Thơ cũ chưa bao giờ tả được như thơ mới,những cảnh vui buồn, âm thầm hay lộng lẫy, những nỗi yêu thương, nhớ tiếc hay lo sợ, những tính tình trong lòng người, cao hơn nữa, những sự huyền bí nhiệm mầu của đời người và của vũ trụ. Những bài thơ của ông Thế Lữ, đã tỏ ra rằng thơ mới đã vượt qua những khuôn sáo chật hẹp của thi văn cũ mà đi vào một con đường khác rộng rãi, tốt đẹp hơn nhiều. " Nhưng thơ mới bị công kích nhất là về phần hình thức. Vì nhiều người làm thơ không biết đặt câu cho có điệu, thành ra bài thơ chỉ là những câu nói thường có vần thơ. Như thế, không thể gọi là thơ được. Ta thử nghe mấy câu sau này : (Trích trong Nhật Tân) Như những hạt lệ của người bạn lẻ loi, (Trong Phụ Nữ Thời Đàm) " Đọc lên nó lủng củng, chúc chắc, lại có vẻ ngớ ngẩn, tuy rằng ý tưởng cũng mới. " Thơ mới hay thơ cũ cũng cần phải có điệu, chỉ khác là làm thơ mới phải tìm lấy điệu chứ không theo khuôn mẫu sẵn. Như thế tìm được điệu cũng khó, nhất là khi dùng câu không có hạn chữ....Vừa rao vừa lạy mãi mới có người mua " Dùng những câu tám hay chín chữ để đặt điệu hơn cả, tuỳ ý mình muốn dùng vần liền (rimes plates) hay vần cách (rimes croisées). Trong một câu lại phải biết đặt những chỗ nghỉ (coupes, césures) cho điệu lên xuống. Mấy câu thơ của Thế Lữ để làm mẫu : " Đọc những câu thơ trên đủ biết rằng thơ mới đã có điệu cũng ngâm được, du dương, êm ái không khác gì thơ cũ. Mà âm điệu lại có thể thay đổi theo những cảnh, những tính tình êm đềm hay dữ dội trong bài thơ. Trong bài " Con Hổ " của Thế Lữ có những câu rất mạnh mẽ :VẦN LIỀN : Trời xanh dịu, sợi mây hồng vơ vẩn " Những ý tưởng ấy, nếu diễn ra bằng thể thất ngôn hay là lục bát sẽ thấy yếu ớt ngay. " Hai bài thơ cũ chỉ khác nhau về ý tưởng, nhưng bài thơ mới vừa khác nhau ở tinh thần lại vừa ở hình thức nữa.... Ta sống mãi trong tình thương, nỗi nhớ, " Người ta đã có thể làm một bài " thơ mới " nhưng ý tưởng cũ hay một bài " thơ cũ ", nhưng ý tưởng mới (xem bài : Lời than thở của nàng Mỹ thuật, Tiếng sáo Thiên thai của Thế Lữ ) : " Tuy theo luật thơ cũ, nhưng chỗ nghỉ và chỗ xuống câu khác hẳn trong thơ cũ : " Nhưng hay hơn cả là đạt diễn những tư tưởng mới vào một hình thể mới. " Thơ mới chắc sẽ đưa văn nghệ nước ta trên con đường tương lai rực rỡ, vì hiện nay đã sản xuất được nhiều tác phẩm có giá trị ! "Em thấy chàng yêu mới nhớ ra Tứ Ly tính sổ văn học để ca ngợi thơ mớiTôn chỉ của Tự Lực Văn Đoàn đã là theo mới, mới trăm phần trăm, thì dĩ nhiên Phong Hoá phải ủng hộ thơ mới triệt để và phải coi đó là một bổn phận nữa là khác. Thực vậy, Phong Hoá đã tranh đấu cho Thơ Mới và sau hơn hai năm tranh đấu cho thơ mới, Phong Hoá đã tự kể công lao mình. Đây lời Tứ Ly tính sổ văn học năm 1934 đã có mấy lời về thơ mới như sau, đăng Phong Hoá số 134, 30-1-1935, nơi bài " Thơ mới và quần áo mới ". " Về phương diện văn chương và mỹ thuật, thì trong năm vừa qua, Phong Hoá gây nên hai phong trào mới : phong trào kiểu áo mới và phong trào thơ mới. " Thơ mới bắt đầu có từ bài " Tình già " của ông Phan Khôi. Nhưng vì thiếu người bênh vực có can đảm, thiếu thi sĩ mới có kiên chí, nên độ ấy không ai ngó tới nó nữa. Đến nay, thơ mới nghiễm nhiên chiếm một địa vị quan trọng trong làng văn : thi sĩ làm thơ mới rất nhiều, tương lai của thơ mới rất là rực rỡ. Tuy vậy, các nhà thi sĩ lối xưa vẫn nhất định rằng chỉ có thơ làm theo lối xưa là thơ, còn mới không phải là thơ, tuy nó vẫn là thơ. " Phong trào mặt áo tân thời cũng bồng bột lên như phong trào thơ mới. Kẻ công kích, người khuyến khích. Những áo tân thời kể cũng đã làm tốn mực, giấy cho các nhà văn. Dẫu sao, có thay đổi mới có tiến bộ. Mỹ thuật bắt họ phải ăn vận mỗi người mỗi khác, nhưng nền luân lý chặt chẽ của Tống nho lại bắt họ phải ăn vận giống nhau : để lệch một bên ngôi cũng đã là phạm một tội nặng, huống hồ lại đổi cả kiểu một cái quần ! Tội thật đáng đầy chung thân...Đến bây giờ chính những bà những cô lên giọng đạo đức ấy vội vàng đi cạo răng, đi may áo mới...Ý chừng họ lấy làm sung sướng được chung thân...chung thân với áo quần kiểu mới. " Mong rằng sau hai thứ mới này còn có nhiều thứ khác cần phải mới mà năm trước chưa phải lúc có thể thực hiện được. " |
Ngộ Không phê bình Nguyễn Văn HanhĐàng khác hình như từ trước tới nay Tự Lực Văn Đoàn có chửi thơ cũ, cũng chửi bâng quơ, chửi trống không vậy, chứ chưa có ra mặt bắt bẻ đích danh ai bằng những bài tranh luận. Nhưng từ đầu năm 1935, thì Tự Lực Văn Đoàn đã tiến thêm một bước. Ngộ Không đã ra mặt bắt bẻ Nguyễn Văn Hanh từng điểm một bài diễn thuyết mà ông này đọc ngày 9 tháng 1 năm 1935 tại hội quán S.A.M.I.P.I.C., Saigon. Ông Nguyễn Văn Hanh đưa ra năm lý do để bảo thơ cũ hay hơn thơ mới. Trước khi vào việc bác bỏ năm cái lý của ông Hanh và đưa ra năm cái lý là thơ mới hay hơn thơ cũ , Tứ Ly đã dùng cái ngón châm biếm để vẽ ra một Nguyễn Văn hanh dốt đặc mà lại kênh kiệu muốn học làm sang. Các bạn nhận thấy tất cả sự cay cú của Tứ Ly nơi bài " Một cuộc diễn thuyết ở Saigon : Vấn đề Thơ Mới...và Thơ Cũ (P.H. số 135, 8-2-1935). " Tối thứ tư, 9 janvier vừa rồi, tại hội quán S.A.M.I.P.I.C. đường Galliéni, ông Nguyễn Văn Hanh diễn thuyết về thơ cũ và thơ mới bằng tiếng Nam, người ta tới đông lắm, vì hai năm nay mới lại có diễn thuyết bằng tiếng Nam. Thấy báo " Tân Văn " giới thiệu ông Hanh là một nhà giáo " có học vấn " và đã từng có " thịnh danh trong văn giới " nên Ngộ Không tất tả chạy tới S.A.M.I.P.I.C. thì thấy quả nhiên là ông Hanh " có học vấn " : ông tỏ cho bà con cái học vấn của ông bằng những tiếng Pháp chen luôn luôn vào bài diễn thuyết tiếng Nam, tuy rằng những tiếng Nam ông dùng, bà con đều hiểu cả. " Nhưng ông không cần, cứ mỗi tiếng Nam ông lại dịch ra bằng một tiếng Pháp, ngộ nhỡ người Nam không ai hiểu tiếng Nam chăng. Chu đáo lắm vậy ! " Ông nói : "Một bài thơ là một cõi thế giới, " univers "... " thơ không nên coi là một món chơi phiếm " bagatelle "... " thuyết nghệ thuật vì nghệ thuật " l'art pour l'art "...trụy lạc ; " dégénéré "...những tay thợ " les artistes " (tuy artiste không phải là tay thợ, nhưng có hề gì cái đó)... " những cái hay ở ngoài và những cái hay ở trong, beauté extérieure et beauté intérieure "... " tiếng ta là tiếng độc âm, " monosyllabique " còn tiếng Pháp là tiếng liên âm, " polysyllabique ", chữ tây không có dấu, " accents "... " thơ ta không nên làm " enjambement " ... vân vân. " Mỗi lúc ông đọc nhầm, ông vội chữa ngay bằng một tiếng " à, bạc đồng ! " rất cứng cỏi. Có lúc ông đọc một câu rất dài bằng tiếng Nam, rồi tiếp ngay một câu rất dài bằng tiếng Pháp :" c'est le langage... " làm cho ai nấy giật mình tưởng ông sẽ tiện mồm diễn phăng ngay bằng tiếng Pháp thời nguy to. " Nhưng may sao ông hãm phanh kịp, nên ai nấy mới hoàn hồn. Ông bảo đó là câu văn của một thi sĩ người Anh. Nhưng ông đọc bằng tiếng Pháp ? giá ông đọc luôn bằng tiếng Ăng lê có phải càng tỏ cái học vấn của ông một cách hùng hồn không. Ông còn có chỗ hở, tuy rằng ông đã có " thịnh văn trong văn giới " theo lời báo Tân Văn... " Chưa xét đến nội dung bài diễn văn, cứ nghe ông nói đã thấy vui tai, vì tiếng Pháp, tiếng Nam chen lẫn, thật là :" nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau ". Đến nỗi người ta có thể nói là ông Hanh diễn thuyết bằng tiếng Pháp, chen lẫn tiếng Nam cũng được. " Người ta chỉ tiếc rằng có một vài chữ (rất hiếm) ông không dịch ra tiếng Pháp như chữ " tôi " chẳng hạn. Giá ông cứ dịch là " moa " có phải lý thú bao nhiêu :" Hôm nay moa nói chuyện về thơ với các toa, moa lấy làm bố cu hân hạnh honoré, vân vân et coetera ". " ...Nhưng ông vẫn chê thơ mới. Lạ nhất là ông đọc mấy bài thơ cũ, thất ngôn, ông nhất định bảo đó là thơ mới, rồi ông nói :" Tôi không thấy mới ở chỗ nào ". Thế thì còn ai cãi được nữa. Ông lại có cái nhã nhặn đọc mấy câu thơ của cô Nguyễn Thị Kiêm, vừa đọc, vừa nhìn vào tận mặt cô Kiêm ngồi trước mặt ông, rồi ông cười một cách ranh mãnh mà hỏi cô Kiêm :" Thơ của cô như thế thì mới ở chỗ nào, mà hay ở chỗ nào ? ". Ông nghiễm nhiên đóng vai ông giáo " chuy " học trò của mình, ông lấy thế làm khoái trí lắm. Tuy vậy, ông còn chưa cho là nhã nhặn lắm, ông còn muốn nhã nhặn hơn nữa kia, ông nói một cách tinh quái :" Của cô dài lắm, đây là tôi bỏ đầu , bỏ đuôi, chỉ lấy quãng giữa thôi "...và " cô còn cứng đấy, tuy thơ của cô có chữ " xìu dégonflée ". Chắc hẳn tối hôm ấy, ông về ngủ ngon giấc lắm vì đã rất nhã nhặn với thính giả, và tự cho mình là hóm hỉnh hơn người, tuy cô Kiêm có cự cho ông mấy câu làm ông lúng túng một lúc lâu và chối bay chối biến :" Không, không, tôi có công kích cô đâu, tôi, tôi...tôi có mạt sát cô đâu ! " " Thính giả ngơ ngác nhìn nhau có ý hỏi : hai bức tranh đó có liên hệ gì với thơ ? hay có bao hàm ý nghĩa gì sâu xa ? Nhưng chẳng ai hiểu hết. " Sau mới vỡ lẽ là ông định cắt nghĩa cái hay của luật Bằng Trắc của thơ Đường. " Nếu bằng bằng bằng bằng bằng ...thì không hay, nếu trắc trắc trắc trắc trắc...cũng không hay phải BBTTTBB thì mới hay. À ra thế ! Chỉ có thế thôi mà ông phải cầm lăm lăm cái gậy tre ở tay gõ mãi lên bảng đen như nhà giáo dạy học, làm cho thính giả cứ tưởng mình là học trò, mà nơm nớp sợ cái roi vô tình của ông. Nhất là cô Kiêm. Biết đâu lúc cáu tiết, ông lại không nện cho vài roi, theo thói quen của nhà nghề. " Cái roi của ông từ đấy không rời tay ông ra. Khi ông lên ghế ngồi, vẫn để cái roi trên bàn, và luôn tay mân mê đến nó một cách khoái lắm. " Đồng hồ đánh mười tiếng mà ông không cho học trò ra chơi, à quên, ông không cho thính giả về ngủ ! Ông Hanh bênh thơ cũ một cách rõ rệt, tuy ông nói là " Không nghịch với thơ mới ". Cứ kể ông đã có công trình vất vả chép đầy hai cái bảng đen hai bên, nào những bài thơ cũ của Yên Đổ, nào những TTBBBTTB, BBTTTBB,BBTTBBT, TTBBTTB... " Trước hết ông đậy kín bằng mấy tờ giấy nhật trình, sau mới long trọng bóc ra để giảng nghĩa cho thính giả, ông thích chí lắm, hình như đã cho chúng ta biết một cái kỳ quan. " Tóm tắt đại ý của ông, ông cho thơ cũ là hay, vì có những đặt điểm sau này : " 1.- Câu trước câu sau đối chọi nhau, đọc câu trên cố ý đợi chữ đối ở câu dưới, khi đọc đến chữ mình đương đợi thì sướng lắm. Cũng như trông thấy một cái tai, rồi lại trông thấy một cái tai nữa thì sướng lắm. Vả khi trông thấy một cái mũi, có lẽ nếu thấy một cái mũi thứ hai ở sau gáy thì chắc cũng sướng lắm. Chắc ông Hanh này thích cửa sổ giả (fausses fenêtres) như ông Pascal đã nói. " 2.- Thơ cũ có những lối yết hậu, chiết hạ...mà thơ mới không thể có được. Những câu thơ tuyệt cú mà ông thích là : " Ông thích nhất là những chỗ có chấm lửng (...) hóm lắm ! " 3.- Thơ cũ có lề lối, có khuôn khổ. Còn thơ mới chẳng có lề lối, khuôn khổ gì cả thì hay làm sao được. Vậy con chim phải ở trong lồng mới đẹp, nếu bay lượn không trung thì còn có lề lối gì nữa, đẹp sao được." Ước gì ta được mà ta để... " 4.- Thơ cũ theo luật bằng trắc, nên mới có âm hưởng nhịp nhàng, chứ thơ mới có theo luật nào đâu, ai muốn viết sao thì viết. Nói đến âm hưởng, ông đọc câu thơ của cụ Nguyễn Du : " Tiếng mau rập rập như trời đổ mưa ". Cụ Nguyễn Du có nghe thấy cái âm hưởng của hai chữ " rập rập " cũng phải đến bực tức mà gắt : " - Đọc láo đến thế thì thôi ! " 5.- Lẽ thứ năm ông yêu thơ cũ...vì...vì lẽ gì không biết. Ông liền hỏi thính giả :" Những bài thơ cũ còn sống đến giờ là vì lẽ gì ? Nếu không hay sao còn sống mãi đến tận bây giờ ? Rồi ông đứng dậy, không kịp để thính giả hỏi lại ông :" thế cái búi tóc của đàn ông nếu không hay ho, sao còn lủng lẳng mãi tới bây giờ trên đầu Lý Toét ? Vậy nó hay vì cái gì ? |
" Rồi ông chế nhạo lối rớt chữ của thơ mới. Kỳ thực, ông không hiểu " enjambement " là gì cả. Và hai câu thơ của ông, ngớ ngẩn đã đành là ngớ ngẩn, mà chẳng chế riễu được ai hết. Nhất là ông thích rung đùi lúc ngâm thơ, nên ông lại càng là thi sĩ nữa. Ông có hứa sẽ nói tại sao khi ngâm thơ lại rung đùi, nhưng trước khi kết luận, ông tự hỏi :" Tại sao rung đùi ? " Rồi chính ông cũng không biết tại sao cả, nên ông lại thôi không cắt nghĩa cho ai biết nữa." Tôi đi đầu trần. Vì tôi không " Một điều nhầm to của ông là ông tưởng lầm rằng người ta thích làm thơ, là vì không có lề lối bắt buộc, nên dễ làm. Ông khoái chí lắm, kêu lớn lên, làm ai nấy đương lim dim ngủ đều giật mình tỉnh dậy :" À, tôi biết rồi, làm thơ cũ có khuôn khổ, lề lối, nên khó, còn thơ mới không có lề lối dễ làm, nên họ thích làm thơ mới... " Ông yêu Tú Mỡ, vì Tú Mỡ làm thơ...lối cũ, như bài " Văn sách bà nghị khuyên ông nghị ". Ông đọc trọn bài cho thính giả. Ông yêu Lê Ta vì...Lê Ta công kích thơ mới của Nguyễn Vỹ, ông đọc từng đoạn văn rất dài của Lê Ta, lấy làm yêu mến lắm. Nhưng ông yêu ông nhất, vì ông đã công kích thơ mới, lối thơ yêu của Phong Hoá. " Thành thử đối với ông, P.H. không biết nên cám ơn hay nên trách. Cứ kể trong cuộc diễn thuyết này, ông nói đến P.H. rất nhiều và giới thiệu Tú Mỡ với thính giả, cũng là tri kỷ lắm vậy. " Chắc hẳn tối hôm đó, ta sẽ được xem cô Kiêm mắng lại ông Hanh như ông Hanh đã mắng cô ngày hôm nay, chắc là kịch liệt lắm. " Rồi ông Hanh lại diễn thuyết cốt để mắng lại cô Kiêm, rồi cứ như thế mãi cho đến ngày nào cả hai người hoá đá có lẽ cũng vẫn còn mắng nhau. " Ngộ Không tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mớiSau khi thuật lại cuộc diễn thuyết của Nguyễn Văn Hanh công kích thơ mới và công kích đích danh cô Nguyễn Thị Kiêm, Phong Hoá có loan báo là cô Nguyễn Thị Kiêm sẽ có bài trả lời vào tuần sau. Cô Kiêm đã giữ lời hứa. Ta sẽ nói đến bài diễn thuyết của cô Kiêm khi nói đến Phụ Nữ tân văn với vấn đề thơ mới. Đây ta chỉ thuật lại bầu không khí rất hài hước của buổi nói truyện của cô Kiêm do Ngộ Không, đặc phái viên của Phong Hoá tường thuật. Theo lời Ngộ Không thuật như các bạn sẽ đọc sau dây, thì hôm cô Kiêm nói truyện, Nguyễn Văn Hanh đã huy động lâu la đến để yểm trợ ông ta hầu phá rối cuộc nói chuyện của cô Kiêm. Đây là một tài liệu rất đặc thù, nó tố cáo sự hăng say của hai phe cũ mới, coi như là một cuộc ganh đua canh bạc chứ không phải chỉ là một cuộc thảo luận về thơ là cái gì mông lung mơ mộng. Bài của Ngộ Không thật linh động và hài hước hết chỗ nói, nó cho ta thấy thương cô Kiêm, thương thơ mới và khinh ông Hanh làm trò " mất dậy " và mất cảm tình với thơ cũ. " Đúng như tối hậu ngôn của cô Kiêm quả nhiên tối thứ tư 16-1, hội quán Samipic biến thành một chiến trường rất náo nhiệt, hay nói cho đúng hơn, diễn đàn ở Samipic hôm đó đã thành ra một lôi đài thí võ. Người đi nghe thì ít, người đi coi rất đông, mà người trợ chiến lại đông hơn hết. Chưa đến 9 giờ, trong gian phòng ẩm thấp dưới nhà hầm của hội Samipic đã đông chặt những người, không còn chỗ nào lách chân, mà những cái mũi của thính giả ngơ ngác không biết đặt đâu để thở được một chút không khí. Không khí trong hầm lúc đó nồng những hơi người và đầy những sát khí. " Cuộc tranh đấu bắt đầu. Cô Kiêm, sau mấy lời giới thiệu của bác sĩ Trần Văn Đôn, lên diễn đàn. Cô đứng trước bàn trong 10 phút đồng hồ, mà chưa nói gì được. " Ngay hàng ghế thứ nhất, ông Nguyễn Văn Hanh ngồi lăm le chỉ chực vọt lên diễn đàn tuy không phải là phiên ông diễn thuyết. Tay xách một cái cặp da, đựng những giấy má gì không biết, làm cho mấy người chưa trả xong tiền nhà, tiền điện, cứ giật mình thon thót. Mấy ông bạn ngồi cạnh ông và xun xoe khắp mấy góc phòng đều mắm môi mắm lợi, xắn tay áo, để cố ý trấn tĩnh và cũng để nạt cô Kiêm nữa. " Cô Kiêm biết mình dại, không sớm đề phòng thuê một ít người...trợ lực... Nhưng đã chót lên đến thì thôi cũng phải nói qua loa cho xong truyện. Thành ra cô bênh vực thơ mới không được hùng hồn lắm, và công kích ông Hanh cũng rất là nhè nhẹ. " Ngay bên cạnh chỗ tôi ngồi, có một ông to béo, ý chừng là phe đảng ông Hanh. Mỗi lần cô Kiêm đọc một câu thơ mới của Thế Lữ, hay của Tường Bách hay của một thi sĩ nào ở báo Phong Hoá, thì ông rún vai bỉu ra một cái môi rất dài và " ứ ừ " một tiếng dài gần bằng cái môi ấy. Tiếng ứ ừ của ông ta được những cái mồm đồng đảng họa theo làm cho cô Kiêm xịu hẳn nét mặt lại và ông Hanh thì nở phồng hai lỗ mũi vốn nó cũng không nhỏ gì cho lắm. Cái ông to béo, có lúc nóng nảy dạng hai cái đùi u những thịt ra, như người đứng tấn một bài võ tầu làm cho mình suýt nữa bắn xuống đất, vì...thiếu chỗ ngồi, tôi chỉ được ghé một mẩu ghế của ông và một mẩu ghế nữa của ông bạn nhỏ người. Cũng may ông ta chỉ đứng vậy thôi chứ không đi bài võ tầu nào, nên không đến nỗi thành án mạng. " Cái không khí lúc bấy giờ không phải là không khí một phòng diễn thuyết mà rõ là không khí một đài thí võ. Trong khi cô Kiêm khua môi trên võ đàn, như nàng Sử Cẩm Bình (trong truyện Anh hùng náo) múa võ trên lôi đài, thì ở dưới bọn đi xem, phe đảng ông Hanh cũng xắn áo, xắn quần, mắm môi mắm lợi như chư anh hùng, phe đảng của Lý Quảng. " Cái không khí ấy đè nén một cách nặng nề, mãi cho đến khi cô Kiêm nói xong. Cô vừa đứng dậy thì ông Hanh lấy hơi vọt lên ...lôi đài. " Xưa nay ông giáo Hanh trước mặt học trò vẫn phải giữ dè lời nói, thì tội gì hôm đó được dịp nói nhảm lại không nói. Người ta phải tuỳ từng lúc mà lịch sự, chứ lúc nào cũng lịch sự, cũng nhã nhặn thì còn có nghĩa lý gì. Vì thế, nên ông Hanh hôm đó quyết trút hết những cái lịch sự, nhã nhặn để lộ hẳn chân tướng trên diễn đàn một lần nữa, để tỏ cho bà con biết rằng nếu con em ít giáo dục thì về sau ăn nói như vậy. " Ông Hanh leo lên diễn đàn, hỏi thính giả : -Anh em chị em có muốn cho tôi nói không ? " Những tay trợ chiến của ông đều trả lời : " Có, có " Tức thì ông Hanh toét một cái miệng rất tình và rất rộng, cười mà trả lời cô Kiêm một cách đắc chí lắm. Ông gọi cô Kiêm là " Nữ thi sĩ " rồi ông quay lại thính giả cười một cách ranh mãnh...Những người trợ chiến lại vỗ tay và cười rất hùng hổ. " Ông Hanh nói :" Tôi, Nguyễn Văn Hanh, cô, Nguyễn Thị Kiêm, hay là cô, Nguyễn Thị Kiêm, và tôi Nguyễn Văn Hanh lật lại theo lối tây... "Rồi ông ra hiệu cả hai tay, cười một cách khoái lắm. Trong đám thính giả, có bao nhiêu con nít láu lỉnh, đều cười rộ lên. Những người đang ngáp hay đang cãi nhau cũng giật mình quay lại rồi cười theo và vỗ tay theo. " Ông Hanh nói tiếp :" Tôi với cô cùng đi trên một con đường tối tăm, mà cô không biết. Ông định nói : Ông không phản đối thơ mới và đồng ý với cô Kiêm. Nhưng ông có một lối nói bóng bẩy mà xuyên tạc làm vui lòng một số đông thính giả. " Ông lại nói : Cô đẩy một cái cửa đã mở rồi " vous enfoncez une porte ouverte. Một số đông lại cười rộ vì họ tưởng rằng cô Kiêm đến đẩy cửa nhà ông Hanh. Nhưng ông Hanh chỉ định nói là cô Kiêm phản đối ông vô ích, vì ông có công kích thơ mới đâu. Phải, ông không công kích thơ mới ông chỉ chê thơ mới thôi. Nhưng ông không dám nói là :" Tôi, Nguyễn Văn Hanh chê thơ mới " ông chỉ chê thôi, mà ông không nói là chê. Nhưng ông Hanh lại được mãn nguyện quá sức mong, là vì không một mình cô Kiêm " mắc cỡ " mà tất cả bao nhiêu nữ thính giả đều mắc cỡ, vì những lời lẽ, những dáng điệu của ông. Thực là kết quả mỹ mãn không ngờ. " Ông nói với cô Kiêm :" Cô bảo cô không xìu (dégonflée) thế là cô còn cứng, vậy tôi xin xìu trước ". Rồi ông lại toét miệng ra cười và lom khom bước xuống ghế ngồi. " Thế là ông lại được hoan hô một lần nữa. " Có mấy bà ngồi hàng ghế đầu nhấp nhỏm đứng dậy mắng cho ông mấy câu, nhưng thấy vây cánh ông lớn quá, và nhất là cái quả đấm của ông nắm chặt quá, nên lại ngậm ngùi mà ngồi im. Có một bà, trái hẳn lại, vỗ tay dữ hơn mọi người để khen ông Hanh ; mọi người trông lại thì bà...bà Nguyễn Văn Hanh. " Bỗng một ông nữa vọt lên diễn đàn. Thôi nguy to rồi, cô Kiêm lại phải một phen run sợ. Nhưng may sao, ông này tuy đem một cái mũi rất lớn lên diễn đàn cũng không đáng sợ bằng ông Hanh. Ông ôn tồn nói một hồi, không ai hiểu ông nói gì, chỉ thấy ông quanh quẩn mắng hết ông Hanh, lại cự đến cô Kiêm cho là hai bên đều vô lý hết, rồi ông lại cự cả ông, vì ông cũng vô lý nốt. " Ông Hanh ngứa tiết lại nhẩy lên lôi đài. Hai ông giở tài ngọn lưỡi trước mặt cô Kiêm, làm cho cô Kiêm hậm hực muốn khóc ; cô muốn chui xuống đất, nhưng hiềm đất rắn quá, cô lại muốn bay lên trời, thì cái hầm lại thấp quá. Cô Kiêm cầu cứu ông huyện Tri, nhưng ông huyện Tri không động đậy ; cô cầu cứu ông Phan Văn Hùm, nhưng vẫn thấy ông Phan Văn Hùm nét mặt thản nhiên, lạnh lùng làm cho cô cuống quít ở giữa cái mồm rộng của ông Hanh và cái mũi lớn của ông nọ. " Ông đốc tờ Đôn lúc bấy giờ vẻ mặt hớn hở lắm. Ông chắc lẩm : thế nào chẳng có anh vỡ đầu, sát trán, dập sọ, gẫy xương. Nếu không cũng có một vài ba thính giả hoảng sợ mà ngất đi chăng. " Nhưng bà con thấy quang cảnh nguy ngập, xô nhau mà chạy trốn làm cho người ngao ngán nhất là ông đốc tờ Đôn. " Thạch Lam tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mớiCùng một buổi diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Kiêm mà Phong Hoá có tới bốn bài tường thuật. Sau bài tường thuật của Ngộ Không tôi còn kể thêm ba bài tường thuật của Thạch Lam, của Lê Ta và của Ngym. Tất cả chúng đều cho ta thấy thính giả say mê tới vấn đề, đến chen chúc nhau thừa sống thiếu chết. Đây mấy lời mở đầu bài tường thuật của Thạch Lam : " Đến cuộc diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Kiêm ở quán hội K.T.T.Đ. " Người đến nghe và đến xem chắc hẳn là đông lắm. Vì một cái lẽ rất giản dị, diễn giả là một người con gái. Một cô con gái diễn thuyết tất có nhiều cô con gái đến nghe, những cô tân thiếu nữ ở Hà thành, áo tha thướt và nhiều màu tóc mượt và đen nhánh. " Người ta đến đây cũng như một cuộc vui chơi. Trong một sự hỗn độn, bao giờ cũng lắm cái bất ngờ, lắm cái may rủi. " Buổi tối hôm ấy không một ai nghe rõ được câu gì. Người ta chỉ thấy cô Kiêm chốc chốc lại đưa khăn tay lên lau mồ hôi trên trán, thấy đôi môi mấp máy. Thành thử không phải như bà Lê Dư diễn thuyết cho bà ấy nghe ở hội Trí Tri. Cô Kiêm dẫu có muốn nghe lời mình nói cũng không nghe thấy gì ". Lê Ta tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mớiVà đây đến lượt Lê Ta tuờng thuật : " Công chúng mỗi lúc một đông thêm. Tiếng ồn ào mỗi lúc một lớn. Trên kia cô Kiêm vẫn nói . Dưới này họ lục đục chen nhau, cãi nhau về chỗ ngồi. Một ông to béo luôn tay run người này ấn người kia để bênh vực cái đồng hồ đeo tay của ông. " Giữa lúc mồ hôi dang đua nhau làm ướt áo mọi người, thì bỗng cái quạt điện bừng chạy. " Một ông dẫm lên chân một cô ngồi cạnh để tỏ ý bất mãn, rồi đứng lên diễn thuyết với hai người đằng sau xô lên. " Dần dần, cả những người ngồi đầu đều đứng lên, rồi muốn cho cao hơn, họ đứng cả lên ghế. " Một vài ông cố sức mở một đường " huyết đạo " xông vào gần chỗ tôi, phàn nàn rằng mình vẫn mộ tiếng diễn thuyết mà không được nghe lấy một tiếng nào. Các ông đứng lau mồ hôi một lúc trèo mám lên một cái ghế nghiển cổ trông. Lúc thấy được mặt diễn giả các ông sung sướng chen ra tỏ ý mãn nguyện lắm. " Cái nóng bức trong hội quán cùng với sự náo động cứ tăng mãi lên, đến lúc những cánh quạt vì lòng nguyện vọng nhiệt liệt của công chúng lại bắt đầu quay, mà trật tự vẫn không giữ được...Những người ở dưới muốn nghe rõ lần lượt rủ nhau lên gác muốn mát lại rủ nhau xuống. Cứ thế mãi không thôi ". Nguym tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mớiSau cùng là lời thường thuật của một người ký tên là Ngym, chẳng biết là ai : " Thính giả, cả hai giống, có đến bảy tám trăm đầu. " Các bà các cô đến đông. Phần nhiều không được trắng như mọi khi, ý chừng nóng quá mồ hôi ra trôi cả phấn. " Nhưng vì đến sau, phải đứng cả. Có độ hơn 400 ghế thì các ông râu mày ngồi mất đến ngoài ba trăm rưỡi ghế. Ông huyện Trị thân sinh ra cô Kiêm, đứng lên xin các ông râu mày nhường chỗ cho các bà quần thoa " íu đúi ". Cái gì chứ cái ấy thì cố nhiên là thính giả phái khỏe không chịu nghe viện lẽ rằng họ không lẳng (nếu tôi có thể dịch chữ " galant " là lẳng được). " Muốn cho thính giả lẳng lặng mà nghe, các tổ chức viên dùng " suỵt ". Sau có người " chừng cũng thạo về khoa học ", nghĩ ra được một kế rất điệu là đi mượn cái chuông. Anh hàng kẹo hay anh hàng dầu nào cho mượn cái chuông ấy, chắc cũng được biệt đãi. Lê Ta phê bình tập thơ " Những bông hoa trái mùa "Sau đấy Lê Ta, nhân đọc một tập cũ " Những Bông Hoa trái mùa " của hai ông Tường Vân và Phi Vân làm ra để thách đố, đua vai với thơ mới. Lê Ta đã phân tích tập thơ của hai ông và trích những câu văn vừa sáo, vừa rỗng, vừa đạo văn, vừa ngây ngô để minh chứng thơ cũ mà các ông ca ngợi đã hết sinh khí rồi. Thực bài trả lời của Lê Ta là cay độc, khiến cho làng thơ cũ phải một phen bể mặt. Đây bài phê bình " Những Bông Hoa trái mùa " của Lê Ta (P.H. số 148, 10-5-1935). " Sau khi góp sức chế tạo ra được ngót ba mươi trang thơ (Những bông hoa trái mùa) hai nhà văn Tường Vân và Phi Vân " một ngày tốt đẹp kia ", đem in thành sách. In sách để tỏ cho thiên hạ biết hai ông cũng có triết lý về cuộc đời, mà hai ông coi như một buổi hát : Còn lạ lùng chi cái thói đời. " Để trách trăng, trách gió, trách người bạn gái, khóc ý trung nhân và để than cái nỗi đời xoay chuyển mãi, " dặm liễu " đã mòn chân " ngựa ký " mà " đường mây " chưa thẳng cánh " chim đồng " cho nên " anh hùng " còn thẹn mặt trần ai, luống lo tưởng đến " nợ kiếm cung " ( !) chưa biết đến bao giờ trả được. " Tác giả thực là người có tâm huyết, có khí khái, có tình cảm và có những giọng cụ đồ cổ bất đắc chí ngồi cạy ghét móng tay mà giận đời không biết đến mình.(Cuộc Đời) " Bởi thế, cái mới là cái đáng thù, cả sự chân thực cũng vậy. Đứng trên núi cao trông cảnh giang sơn dưới ánh trăng vằng vặc, các ông ngẫm, các ông cảm động bằng đôi mắt và trái tim của bà Huyện Thanh Quan : Tuế nguyệt thành xưa trơ lớp đá, " Các ông tả cái sắc đẹp của giai nhân trên thuyền bằng văn Cung oán :(Trên núi Thiên nhẫn) Cá dưới nước ra chiều lảng bảng, " Các ông phục cái khí phách của bà Triệu Ẩu bằng lời của một nhà làm thơ cũ, tôi quên mất tên, nhưng vẫn nhớ kỹ cái nghệ thuật giở hơi và kiểu cách :(Trên mặt hồ tây) Dãi nắng dầm mưa đôi má phấn, " Các ông khen âm điệu thơ cũ thánh thót âm thầm như tiếng đàn năm cung. Không ai cãi hai ông, nhưng tiếc rằng khi nghĩ đến đàn, các ông lại nghĩ đến tính tình của người khác, các ông lại xúc động bằng tâm hồn của người khác vì trong lòng các ông không có một thi cảm riêng nào. " Thi sĩ Nguyễn Du tả tiếng đàn như thế này :(Triệu Ẩu) " Các ông liền lấy những ý trên lập lại. Các ông cũng viết :Trong như tiếng hạc bay qua, " Cái tài của các ông là cái tài xào nấu lại những món ăn cũ. Các ông lấy lời văn, ý tưởng, tình cảm của người khác làm của mình. Trong văn thơ các ông đầy rẫy những cành tuyết, mai, thông, liễu, ở những chỗ sông Tân, vườn Thuý, chơi sông đêm trăng các ông bắt chước người ta nhớ câu thơ Xích bích, ngắm nước hồ Tây các ông cũng chỉ nghĩ đến cảnh Bắc quân xô xát với truyện con trâu vàng. Các ông đi sau cổ nhân để lượm nhặt những rơm rác ấy là " Những bông hoa trái mùa ". " Các ông đem bó hoa không đáng gọi hoa kia dùng làm thứ khí giới để công kích lối thơ chân thực dồi dào, phóng khoáng mà người ta thường gọi là thơ mới.Trong như tiếng hạc mới bay qua, " Là vì các ông không làm được thơ mới. " Các ông không phải là người biết tìm cái đẹp mới mẻ, biết tả đúng tâm sự mình trước cảnh vật, cái cảm hứng của các ông không thể ra ngoài khuôn sáo, chỉ quanh quẩn ở những điển tích mà đã mấy nghìn lần người ta nhắc đến, nghe quen tai quá, chẳng khác gì những lời chúc tụng của bọn người hát " súc sắc súc sẻ " đầu năm. " Các ông trách lối thơ bây giờ không theo niêm luật cũ, vì các ông không biết rằng thơ bao giờ cũng phải có luật. Không phải cái luật hẹp hòi hạn câu chọn chữ là một lối rất tiện cho những người khúm núm thi thố cái tiểu sảo của mình. Nhưng thơ phải có thứ luật cao siêu hơn, thiêng liêng hơn : mình biểu lộ cảm tưởng, tâm trạng mình một cách êm ái, tha thiết hay hùng tráng du dương theo cái bản lĩnh riêng mình, không bao giờ chịu theo tư tưởng, tình cảm của người khác. Như thế thì trái với thứ biệt tài của hai ông lắm, nên hai ông không bằng lòng. " Các ông chỉ ưa và chỉ tìm được những lời văn hoa sẵn có để tra vào cái khuôn khổ sẵn có. Khi tiễn đưa, tất nhiên phải dùng đến những chữ : chuốc chén qua nhà với duổi dong dặm kỳ ; khi vinh hoa tất nhiên phải chắp nhặt những tiếng : sắc nước hương trời. Mà cuộc đời bao giờ cũng là một tấn tuồng cũng như lúc mặt trời về chiều, bao giờ cũng là ác, là chênh chếch, giọt sương dùng để chỉ nước mắt, là ngô vàng rụng để tả mùa thu. Các ông cũng không quên những chữ cảnh biếc, biển quế, bụi hồng, mắt xanh, không quên những câu : " Để tả những cảnh...trong vườn bách thú ( !). Nghĩa là những câu thơ có thể tả được bất cứ cảnh vườn nào, mà tả cảnh vườn nào cũng rỗng, cũng sáo, cũng không có nghĩa lý chi hết. " Ấy thế mà các ông đi công kích bọn làm thơ lối mới ; các ông lấy những giọng oanh liệt để mắng họ :Lơ thơ dăm cụm lục chen hồng, " Và gọi họ là bọn mù :Lạy bác xin đừng nói đến thi, " Vâng, họ dốt vô cùng, dốt vì không biết theo kinh điển, vì không biết nhai lại những lời cổ nhân mà các ông quý trọng, vì không biết để cho cái khuôn khổ buồn cười của thơ (bát cú) kìm kéo, thắt buộc tính tình, cảm hứng của họ. " Vâng, họ dốt và mù lắm, họ không thể sáng như hai ông Tường Vân và Phi Vân được, mà như thế, theo ý tôi, thì thực là may cho quốc văn.Chẳng khác anh mù lại nói mơ, " Vì quốc văn cần phải tiến. Quốc văn không phải thứ trò chơi dí dỏm ở trong ấy có những luật lệ bày ra để một ít người thợ khéo chắp nhặt cái tiểu sảo nọ để ghép vào cái tiểu sảo kia. Thơ văn của ta bây giờ mới biết theo khuynh hướng mới cũng đã quá chậm rồi, không cần phải có những bọn văn sĩ như hai ông Tường Vân và Phi Vân với cô Bích Ngọc ngăn cản lại. " Nói đến cô Bích Ngọc, người đề tựa cho quyển " Những bông hoa trái mùa " tôi lại tưởng tượng đến một bậc nữ lưu đoan trang, trầm mạc. Tôi còn tưởng tượng lên thêm một bực nữa, tuy không được vừa ý cô nhưng tôi cũng cứ mạn phép cô tôi nói : tôi tưởng tượng ra một bực nữ lang... bà già. " Bởi vì những ý tưởng của cô cũng đã già như cái cây cổ thụ. " Cô cũng đồng lòng với hai nhà thi sĩ của cô ham mến cái cổ, coi lối thơ luật cũ rích như những bông hoa thơm, cô lại viết một bài thơ tám câu, có ý cho chúng tôi thấy thí dụ. Cái cụm hoa thơm là bài thơ quý hoá ấy cũng có đủ những biền ngẫu : nhị vàng đi dôi với cành thắm, lòng bướm với kiếp hoa, dậu cúc với cành hồng, nghĩa là những chữ sáo đi đôi với những chữ sáo. " Cô thực là người biết yêu trọng quốc hồn, quốc tuý. Nhất thiết cái gì là mới, là lạ, cô đều ghét cay, ghét đắng lấy lẽ rằng cái mới lạ ấy không phải là của nhà. Câu phong dao : " Có lẽ là câu châm ngôn của cô. Cô thiết tha khuyên người ta chê bỏ và tự mình chê bỏ " ao ngoài ", để về tắm " ao nhà " dù ao nhà ấy đầy những bùn, những vẩn. " Tôi buồn rằng người " thục nữ " có duyên đến thế lại kém vệ sinh.Ta về ta tắm ao ta, |
No comments:
Post a Comment