NGUYỄN MẠNH THƯỜNG * CỘNG SẢN TÀN ÁC
Ôi! Âm Nhạc, Ôi! Phận Người…
Các bài viết góp nhặt về vụ án TOÁN XỒM (chỉ có tại VIỆT NAM)
Thập
niên 60 - 70, khi những ban nhạc trẻ Sàigòn đang làm mưa làm gió ở
những Ðại Hội Nhạc Trẻ Lasan Tarberd , Thảo Cầm Viên… thì ở Hà Nội một
vụ án liên quan đến âm nhạc được xem là “nghiêm trọng ” thời ấy khiến 2
người đàn ông chịu mức án một người 10 năm, người kia 15 năm tù. Một
người còn sống , một người đã chết ngoài đường phố sau khi mãn hạn tù
đày.
Vụ án “Toán Xồm - Lộc vàng”
những người dám hát nhạc vàng “văn nghệ đồi truỵ.” do Toán Xồm (Phan
Thắng Toán) và một số nghệ sĩ nghiệp dư khác. Vụ án được đem ra xử vào
tháng Giêng năm 1971. Ðây là một vụ án “đặc biệt nghiêm trọng” về văn
nghệ, lần đầu tiên được đưa ra xét xử công khai tại Hà Nội.
Các bị cáo của vụ án bị cáo buộc đã tụ tập “thành một ban nhạc
nghiệp dư tụ tập chơi Nhạc Vàng. Khi đi biểu diễn nhạc kiếm tiền ở những
đám cưới, các cuộc liên hoan, chúng tìm cách đánh xen kẽ những bản Nhạc
Vàng để truyền bá và thăm dò thị hiếu của lứa tuổi thanh niên. Chúng
phân chia nhau đi tìm mua đĩa hát loại Nhạc Vàng lọt vào được, đi sưu
tầm các bài hát và Nhạc Vàng cổ, ghi chép các bản nhạc giật, nhạc tâm lý
chiến của đài Mỹ và đài Sàigòn. Chúng dùng các bản nhạc này để luyện
cho nhau những giọng hát, tiếng đàn thật là bi quan, sầu thảm, lả lướt,
lãng mạn để đi truyền bá lôi kéo thanh niên…” (trích bài báo “Phan Thắng
Toán và đồng bọn đã bị xét xử”, báo Hà Nội Mới, ngày 12/1/1971)
Tôi gặp người còn lại là ông Lộc Vàng nay đã ngoài 70 tuổi, chủ một quán cà phê nho nhỏ bên vòng cung Hồ Tây một tối đầu đông của Hà Nội 2014. Âm nhạc thành án tù, tán gia bại sản, chết ngoài lề đường có lẽ chỉ xảy ra ở các nước Cộng Sản.
Toán Xồm là một người có gương mặt đàn ông đẹp trai như lai Tây: đẹp và buồn, nhưng lạ thay! những bức ảnh chụp ông vất vưởng trên đường phố vẫn không thiếu nụ cười.khinh mạn? phản kháng? ngạo nghễ? tất cả đều có thể.
Những bức hình cuối cùng chụp ngày 23/4/1994 trước khi ông mất đúng ngày 30 tháng Tư năm 1994 – chỉ 7 ngày sau đó.
Toán Xồm trước khi mất 7 ngày sau đó
Nguyễn Văn Lộc (Lộc Vàng) và Nguyễn Ðình Toán (Toán Xồm) trên vỉa hè Hà Nội 1994
Nhiều năm
qua, những người yêu Nhạc Vàng ở Hà Nội không lạ gì quán Càphê Lộc
Vàng, số 17A đường Ven Hồ Tây, phía Thụy Khuê. Nhiều người yêu nhạc xưa
và hoài cổ thường lui tới đây để thưởng thức giọng ca đầm ấm của ông chủ
quán Nguyễn Văn Lộc với những ca khúc tiền chiến du dương lãng mạn của
Ðoàn Chuẩn - Từ Linh, Văn Cao, Ðặng Thế Phong, Ngô Thụy Miên, Từ Công
Phụng… nhưng ít ai biết ông chủ quán đã từng liên quan đến một vụ án
“văn nghệ đồi truỵ.” do Toán Xồm (Phan Thắng Toán) và một số nghệ sĩ
nghiệp dư khác. Vụ án được đem ra xử vào tháng 1 năm 1971. Ðây là một vụ
án “đặc biệt nghiêm trọng” về văn nghệ, lần đầu tiên được đưa ra xét xử
công khai tại Hà Nội.
Các bị cáo của vụ án bị cáo buộc đã tụ tập “thành
một ban nhạc nghiệp dư tụ tập chơi Nhạc Vàng. Khi đi biểu diễn nhạc
kiếm tiền ở những đám cưới, các cuộc liên hoan, chúng tìm cách đánh xen
kẽ những bản Nhạc Vàng để truyền bá và thăm dò thị hiếu của lứa tuổi
thanh niên. Chúng phân chia nhau đi tìm mua đĩa hát loại Nhạc Vàng lọt
vào được, đi sưu tầm các bài hát và nhạc vàng cổ, ghi chép các bản nhạc
giật, nhạc tâm lý chiến của đài Mỹ và đài Sàigòn. Chúng dùng các bản
nhạc này để luyện cho nhau những giọng hát, tiếng đàn thật là bi quan,
sầu thảm, lả lướt, lãng mạn để đi truyền bá lôi, kéo thanh niên…” (trích
bài báo “Phan Thắng Toán và đồng bọn đã bị xét xử”, báo Hà Nội Mới,
ngày 12/1/1971)
Phiên
tòa đã diễn ra 3 ngày để xét xử bọn “gây ảnh hưởng xấu cho phong trào
trật tự trị an, phá hoại việc thực hiện một số chính sách của Nhà Nước,
nhất là chính sách văn hóa, chính sách lao động sản xuất, chính sách
nghĩa vụ quân sự… xâm phạm nghiêm trọng đến hạnh phúc, phẩm giá của phụ
nữ, đến đạo đức và đời sống của nhiều người và tuyên truyền xuyên tạc
lại chế độ XHCN trong lúc cả nước đang chiến đấu chống Mỹ xâm lược…” (Báo Hà Nội Mới, bài đã dẫn)
Xét tính chất nghiêm trọng của vụ án, ông Phan Thắng Toán (Toán
Xồm) bị tuyên án 15 năm tù giam và sau đó 5 năm bị tước quyền công dân,
ông Nguyễn Văn Ðắc bị 12 năm tù giam, và sau đó 5 năm bị tước quyền công
dân, ông Nguyễn Văn Lộc (Lộc Vàng) bị 10 năm tù giam, và sau đó 4 năm
bị tước quyền công dân…
Ông Lộc Vàng kể: “Sau
khi ra tù thì anh Phan Thắng Toán (Toán Xồm) cũng chẳng còn nhà cửa gì
nữa, anh chán đời và tìm vui bên men rượu trên hè phố. Ðêm 30 tháng 4
năm 1994, anh chết bên đường…”.
Ông Nguyễn Văn Ðắc mất năm 2005. Về phần ông Nguyễn Văn Lộc (Lộc
Vàng), sau khi ra tù ông cũng đã sống một cuộc đời bôn ba. Sau khi người
vợ qua đời, ông Lộc Vàng dựng quán Càphê để ông thỏa chí hát lên cảm
xúc đời mình.
Dưới đây xin trích
vài câu hỏi và đáp của toà với các “bị cáo” do nhạc sĩ Tô Hải, người đã
tham dự phiên tòa năm đó, thuật lại:
Chánh án: -Anh có nhận là đã đánh nhạc của tư sản, là đồi truỵ không?
Toán Xồm: -Dạ! Thưa quý toà, con chỉ đánh những gì in trên đĩa của Liên Xô, của Tiệp Khắc, của Cộng Hoà Dân Chủ Ðức thôi ạ!
Chánh án: -Anh nói láo! Thế Paloma, Santa Lucia là của ai?
Toán Xồm: -Dạ! Paloma là của nước bạn Cu Ba ạ! Còn Santa Lucia là dân
ca Ý ạ! Nhà xuất bản của nhà nước đã in và sân khấu nhà nước đã có
nhiều ca sỹ biểu diễn ạ!
Chánh án: -Vậy anh có biết Cha Cha Cha là cái gì không?
Toán Xồm: -Dạ! Có ạ!! Ðây là một nhịp điệu xuất xứ cũng tại nước bạn Cu Ba ạ!
Chánh án: -Thế còn Tango Bleu chắc anh cũng đổ cho Cu Ba hết hả?
Toán
Xồm: -Dạ không! Tango là một điệu nhảy Ác-giăng-tin nhưng đã được quốc
tế hoá. Vừa giờ Ðoàn xiếc Tiệp Khắc sang ta và các nước XHCN đều xử dụng
cả ạ!
Chánh án: -Nhưng người ta đánh khác, còn anh đánh khác. Ðừng có ngụy biện!
Toán Xồm: -Dạ! Ðánh y hệt ạ! Chỉ có thua họ về nhạc cụ họ tốt hơn…
chứ nếu chúng con có đầy đủ nhạc cụ như họ thì chúng con chẳng thua gì
họ cả ạ!
Chánh án: -Anh hãy im miệng! Ðồ ngoan cố!
Và
cứ như vậy, suốt phiên tòa Chánh án chỉ sử dụng câu “Im miệng! Ðồ ngoan
cố” để cắt lời người bị buộc tội. Không hề có ai bào chữa.
TÀI TỬ LỘC VÀNG VÀO TÙ VÌ YÊU NHẠC
Ông Lộc Vàng tên thật
là Nguyễn Văn Lộc, sinh năm 1945 là một trong những người mê Nhạc Vàng
nổi tiếng tại Hà Nội. Trước năm 1954, đâu đâu cũng nghe người ta hát
Nhạc Vàng (đó là dòng tân nhạc nay gọi là tiền chiến. Hồi đó vì vẻ đẹp
sang trọng và đáng quý nên người ta so sánh nó quý như vàng, chứ không
phải nhạc vàng hiểu theo nghĩa sến, héo úa sau này) nó ngấm vào ông từ
khi nào không biết. Cũng vì trót yêu, trót thèm được phiêu du cùng cái
cảm xúc thật của mình mà bất chấp lệnh cấm, ông Lộc cùng một nhóm bạn,
trong đó có ông Phan Thắng Toán (Toán Xồm) và Nguyễn Văn Ðắc thường
xuyên tụ họp tại nhà, cùng hát với nhau những bài hát của Văn Cao, Ðoàn
Chuẩn - Từ Linh, Ðặng Thế Phong, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng...
“Chúng
tôi gặp gỡ, đóng cửa hát cho nhau nghe thôi chứ cũng chẳng phản đối
chính sách nhà nước gì cả. Chúng tôi chỉ thấy dòng nhạc này hay quá, trữ
tình và đầy tình người nên muốn lưu giữ lại và đóng cửa hát cho nhau
nghe.”
“Người này đồn
người kia. Công an bắt bạn tôi và nói rằng vì chúng tôi thích những bài
nhạc ấy nên chúng tôi phá hoại nền văn hóa CNXH và tuyên tuyền văn hóa
trụy lạc của chủ nghĩa đế quốc. Và họ đã xét xử bọn tôi”.
Ngày 27 tháng 3 năm 1968 nhóm nhạc của ông Lộc Vàng bị bắt. Vụ án
“Phan Thắng Toán và đồng bọn về tội tuyên truyền văn hóa đồi trụy của
chủ nghĩa đế quốc” đưa ra xét xử, ông Toán “Xồm” bị tuyên 15 năm tù
giam, ông Ðắc bị 12 năm tù giam và ông Lộc Vàng bị 10 năm tù giam, để
rồi khi ra trở về cuộc sống tự do họ vẫn không khỏi thắc mắc vì sao.
“Nghĩ
đến cuộc đời của mình sao mà cay đắng chua chát quá. Mình có làm cái gì
đâu, chỉ yêu thích âm nhạc thôi mà bị tù đày. Sau khi dòng nhạc này
được khôi phục lại, những bản nhạc này được hát lên ti vi. Khi nghe
người ta hát mà mình ngồi ứa nước mắt ra”.
Ra tù, nhà cửa ông Toán Xồm cũng tan nát. Ông lang thang trên
đường phố sống vào tình thương của người qua lại. Vào quán ông Lộc Vàng,
người ta bắt gặp một bức ảnh một người mặc áo sơ mi trắng ngồi châm
thuốc cho một người hành khất. Người mặc áo sơ mi trắng là ông Lộc và
người hành khất không ai khác chính là ông Toán Xồm (ảnh dưới). Một đêm
năm 1994, người ta nhìn thấy ông Toán nằm gục chết, đói lả, cô đơn, trên
hè phố.
Năm
1990 ông Lộc mở quán Cà Phê Nhạc, chỉ để có chỗ cho ông thỏa niềm đam
mê, vì thế tài sản của ông cứ dần “đội nón ra đi” để bù đắp vào sự thua
lỗ của quán: “Lỗ nhiều tôi bán nhà to mua nhà nhỏ, từ nội thành bay ra
ngoại thành. Khi chưa mở quán tôi có ngôi nhà 50 m2 ở phố Kim Mã, sau
bốn năm tôi chỉ còn 50 m2 đất, ở tít Cầu Diễn”. Bây giờ, ông sống luôn ở
quán.
Vợ Lộc Vàng đã mất hơn 10
năm nay nhưng mỗi khi hát trên sân khấu ông lại khóc. “Tôi chỉ ước vợ
tôi sống lại, ở bên cạnh tôi, nghe tôi hát. Ngày xưa, tôi đi hát vợ tôi
bế thằng lớn theo sau. Mấy ông bạn bảo: Trời rét, để con ở nhà mang con
theo làm gì? Vợ tôi trả lời: Em không đi nghe hát đâu mà để nếu chồng em có bị bắt lần nữa, em còn biết đường đi tiếp tế”.
Bà ra đi để lại cho ông hai người con và một tình yêu chưa bao giờ nguôi ngoai: “Tôi
biết cô ấy từ năm 17 tuổi, chơi thân với nhau, rồi yêu nhau sau đó.
Ngoài 20 tuổi tôi phải vào tù, 31 tuổi ra tù, thiên hạ dị nghị, kinh sợ
tôi hơn một gã tù lưu manh, chỉ có cô ấy không ngại, vẫn yêu, vẫn thương
tôi”.
Vì người mình yêu,
bà bỏ nghề diễn viên làm nghề bán đậu phụ ngoài vỉa hè. Suốt quãng đời
bên nhau chưa một lần vợ Lộc Vàng trách cứ ông về tình yêu với dòng nhạc
mang đến nhiều hệ lụy.
Ngày nay,
góc quán nhỏ của nghệ sĩ Lộc Vàng số 17A đường Ven Hồ Tây vẫn vang lên
tiếng hát. Tiếng hát mà ông đã đánh đổi cả cuộc đời mình để giữ gìn,
nâng niu.
Photo: Nguyễn Ðình Toán
YÊU “NHẠC VÀNG”, TRẢ GIÁ CẢ CUỘC ÐỜI
Chúng ta thường nghe
“mọi thứ đều có cái giá của nó”. Nhưng đôi lúc cái giá ấy quá đắt khiến
ai nghe tới cũng đau lòng. Một người vì yêu những nhạc khúc của Việt Nam
mà đã phải trả giá gần 10 năm tù, rồi cả cuộc đời, cho tình yêu ấy.
Ðã nghe nói về ông Lộc Vàng, đã biết không ai hát “Gửi Người Em
Gái Miền Nam” hay bằng ông, đã thấy tình yêu vô tận của ông dành cho
dòng nhạc tiền chiến và đã đọc về sự biết ơn của ông dành cho người vợ,
nhưng người ta vẫn bất ngờ khi tiếp xúc ông. Một trong những bất ngờ đến
từ những giọt nước mắt của ông khi vừa nhắc vợ và những người bạn: “Trong
quán của tôi lúc nào cũng có ảnh của người bạn thân và ảnh gia đình
tôi. Mỗi lần nhìn ảnh những người đã khuất là tôi không thể cầm lòng
được.”
ảnh của blog nguoibuongio “KIẾP ÐAM MÊ” NHẠC VÀNG
Có thể nói ông Lộc Vàng
sống bằng ba thứ tình: tình yêu xen lẫn sự mang ơn dành cho người vợ;
tình yêu xót xa dành cho những người bạn tri kỷ và tình yêu không thể
dứt ra được đối với thứ âm nhạc mà với ông “là những giai điệu quý hơn
vàng”.
Người ta biết đến cái tên
Lộc Vàng hơn là biết đến ông với cái tên Nguyễn Văn Lộc. Cũng chính vì
quá yêu Nhạc Vàng, ông Lộc được gọi là Lộc Vàng, như một sự gắn kết của
dòng nhạc này vào cuộc đời ông Lộc.
“Những bài nhạc trữ tình trước năm 1954 được gọi là Nhạc Vàng. Tôi hay hát Nhạc Vàng nên bạn bè gọi tôi là Lộc Vàng”.
Quán Lộc Vàng với những mái lá và bàn tre nằm khiêm tốn trên con
đường mới ven Hồ Tây, chen chúc trong đám đông để khẳng định sự tồn tại
của mình, như thể một thời những bài Nhạc Vàng đã nép mình để tồn tại.
Mỗi tối thứ 2, 5, 7 quán Lộc Vàng là nơi quy tụ các ca sĩ nghiệp dư, từ
ông già bà cả đến thanh niên trai tráng. Tất cả đến đây để tìm những
phút thăng hoa của chính mình trong những giai điệu trau chuốt, lãng mạn
mà một thời được gọi là nhạc tình thời thượng và ủy mị. Chính vì thế,
gọi quán Lộc Vàng là nơi lưu giữ những kỷ niệm cũng không sai mà gọi là
nơi trao gửi cảm xúc cũng đúng. Ông Lộc Vàng hay hát “Kiếp Ðam Mê”
Thương yêu này người hãy nhận lấy
Ôm tôi đi môi hôn tràn đầy
Trong tay người hồn sẽ cuồng say
Bao khốn khó vụt bay….
Tác giả Kiếp đam mê: Duy Quang
– music websites’ photo
– music websites’ photo
Nhìn ông Lộc Vàng hát, đôi mắt hiện lên từng nét thăng trầm cuộc đời
như từng nốt nhạc trầm bổng. Giọng hát của ông trĩu nặng ưu tư như
chuyên chở một quá khứ đau thương của người nghệ sĩ nghiệp dư. Ðể sống
được một kiếp đam mê ấy, ông Lộc Vàng đã từng trả một cái giá quá đắt mà
mỗi khi nhắc lại, ông cũng thẫn thờ “chẳng hiểu vì sao”.
BẠN TRI ÂM, CUỘC ÐỜI BI THẢM
Từ năm 1954 đến năm
1987, trước khi có chủ trương “cởi trói văn nghệ” của Tổng Bí Thư Nguyễn
Văn Linh, những bài nhạc vàng, ý chính quyền Hà Nội nói màu vàng bệnh
hoạn, triều đại Mao Trạch Ðông gọi là “hoàng sắc âm nhạc”, và nhạc tiền
chiến (vốn thịnh hành trước năm 1954), hai loại nhạc bị Hà Nội cho là
thứ âm nhạc lãng mạn bi quan, hoặc khêu gợi tình dục và những khát vọng
thấp hèn. Cùng với phong trào bài trừ “hoàng sắc âm nhạc” của Mao Trạch
Ðông tại Trung Quốc, thời gian đó tại Việt Nam xuất hiện nhiều bài báo
chống lại những giai điệu được cho là ủy mị và thiếu tinh thần đấu tranh
cách mạng.
Ông Lộc Vàng là một trong những người mê Nhạc Tiền Chiến nổi tiếng tại Hà Nội. Ông Lộc thuộc và hát được hầu như đến 80% các bài Nhạc Tiền Chiến. Cũng vì trót yêu, trót thèm được phiêu du cùng cái cảm xúc thật của mình mà bất chấp lệnh cấm, ông Nguyễn Văn Lộc cùng một nhóm bạn, trong đó có ông Phan Thắng Toán (Toán “Xồm”) và Nguyễn Văn Ðắc thường xuyên tụ họp tại nhà, cùng hát với nhau những bài hát của Văn Cao, Ðoàn Chuẩn - Từ Linh, Ðặng Thế Phong, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng…
ảnh của blog nguoibuongio
VẪN “TÙ CHÍNH TRỊ” SUỐT ÐỜI
Về phần ông Lộc Vàng,
sau khi ra tù ông cũng đã sống một cuộc đời bôn ba, cố dứt bỏ hết mọi
phẫn uất để đi hết quãng cuối cuộc đời. Duy chỉ có cái tình cho Nhạc
Tiền Chiến là không dứt ra được. Sau khi người vợ qua đời cách đây 10
năm, ông Lộc Vàng dành trọn con tim cho những điệu nhạc ấy. Quán Lộc
Vàng được dựng lên để ông thỏa chí hát lên cảm xúc đời mình.
Có lẽ ít ai hát “Gửi Người Em Gái Miền Nam” của Ðoàn Chuẩn - Từ
Linh như ông Lộc Vàng. Nhiều đoạn ông hát khác nhiều so với lời với bài
hát hiện tại. Nghe ông Lộc Vàng hát “cúi mặt mà đi” mà như nghe ông độc
tả chính ông và những người bạn đã có lúc phải bước đi nhưng không dám
ngước nhìn.
“Mỗi khi hát,
tôi đều hồi tưởng đến những kỷ niệm đã từng có với những người bạn thân
và vợ. Khi đứng lên sân khấu đôi khi không hát hết được cả bài vì nước
mắt cứ tuôn ra.”
Ngày nay,
mỗi đêm được thỏa thuê hát những khúc Nhạc Tiền Chiến, đối với ông Lộc
Vàng là một sự an ủi lớn lao của cuộc đời. Ông hát say mê và nồng nàn,
như để ném mạnh vào quá khứ những ngày ông và bạn bè bị coi là “phản
động”, những ngày ông và bạn bè sống lê lết, “cúi mặt mà đi”. Và những
ngày vợ ông từ một ca sĩ phải đi bán bún đậu trên hè phố chỉ vì liên
quan đến “phản động”. Có lẽ được hát chỉ là mảng sáng duy nhất của số
phận của những người trót gửi tình yêu cho những khúc hát tưởng như vô
tội ấy.
Ðêm nay, ông Lộc Vàng lại hát Ðêm Ðông, như một đêm nữa gửi những hương gió tình yêu đến những người bạn thời xa vắng.
Ðôi nhạc sĩ tri âm tri kỷ trong nhạc tiền chiến:
Ðoàn Chuẩn và Từ Linh - ảnh trên nhiều Website âm nhạc
Tiếng hát cất lên “có
ai thấu tình cô lữ đêm đông không nhà”, nghe như cái giá buốt thấu tận
chân răng, mới thấy xót xa cho người cô lữ Toán “Xồm”, cho những người
một thời quá đỗi cô đơn. Ca sĩ Lộc Vàng hát mà mắt trĩu đầy màn nước
mắt. Ông hát không chỉ cho ông, mà cho cả những người bạn đi chung con
thuyền số phận.
“Tôi thường nói
với mọi người rằng phải chi anh Toán Xồm còn sống để anh đệm đàn cho
tôi, để anh tận hưởng những giây phút này và để nghĩ lại những lời người
ta kết tội… Có cái quán này tôi cũng đỡ buồn, chỉ khi nào mọi người bỏ
về, còn một mình, tôi mới thấy buồn, lúc ấy lại nhớ vợ, nhớ về quá khứ
của mình…
“Tôi đã mất mát quá nhiều,
mất mát lớn quá…không có gì có thể lấy lại được. Lắm lúc nghĩ lại, tôi
buồn quá. Sau năm 1987, các nhạc sĩ được vinh danh. Trong khi mình cũng
chỉ là một thằng tù thôi. Ðến bây giờ công an thỉnh thoảng vẫn “hỏi
thăm.”
Phía bắc vỹ tuyến 17, có một
thời gian dài Nhạc Vàng bị coi là nhạc màu vàng vọt, và số phận của nó
cùng những tác phẩm tiền chiến trở thành những đứa con vô thừa nhận bị
xã hội ghẻ lạnh. Ngày nay, những giai điệu ấy ngang nhiên và kiêu hãnh
vang lên giữa lòng đất nước, trên những sân khấu tràn ngập ánh đèn như
nó đã từng. Nhạc Vàng đã được chấp nhận và còn được tôn vinh, cũng như
Nhạc Tiền Chiến, như một sự hóa kiếp cho những nốt nhạc một thời tưởng
đã mai một.
Thế
nhưng sau lưng một câu chuyện đôi khi lại là những câu chuyện. Nghe câu
chuyện của ông Nguyễn Văn Lộc (Lộc Vàng,) nhìn ba chữ “TÙ CHÍNH TRỊ”
trong hồ sơ của ông như một minh chứng cho nhát dao số phận, có ai dám
nói rằng vết thẹo dẫu có lành lại không gây đau đớn?
Nguyễn Mạnh Thường - sưu tầm
CÁNH CÒ * CỘNG SẢN PHẢN DÂN HẠI NƯỚC
Chơi dao đến ngày đứt tay.
Mon, 01/04/2016 - 15:33 — canhco
Nguyên tắc của một thể chế chính trị bất cứ nơi đâu muốn được lòng dân
thì trước nhất phải bảo vệ sự an toàn của họ. Mọi căn cớ đe dọa sự sống
của dân phải được xem xét và có giải pháp chống lại một cách toàn diện.
Công cụ để làm việc này là lực lượng bảo vệ an ninh, quân đội cùng các
đơn vị đặc biệt khác. Và phương tiện duy nhất không thể thiếu nhằm kiểm
soát các hoạt động ấy là pháp luật, mà đại diện hợp pháp là tòa án.
Hầu hết các quốc gia dân chủ đều vận hành theo phương thức này, kể cả
những quốc gia mà nền dân chủ còn phôi thai hay non yếu nhất.
Đi ngược lại với cách thức vận hành này là các nhà nước độc tài, xem nhẹ
sự an nguy của người dân vì lo củng cố chiếc ghế của lãnh đạo. Mọi hình
thức được họ gọi là bảo vệ dân thường có dạng ngược lại và không hiếm
khi di hại tới đời sống của một nhóm người, một cộng đồng đặc biệt, hay
ngay cả một cá nhân bị gán cho cái tội phá hoại an ninh công cộng nếu họ
làm một việc gì gây bất an cho chế độ.
Mỗi quốc gia đều có một dạng côn đồ trong xã hội. Nhẹ thì trộm cắp, cướp
bóc với hình thức cò con. Nặng hơn là băng đảng, xã hội đen tụ tập lại
để làm ăn ngoài vòng pháp luật. Cho vay, buôn lậu các loại hàng cấm, bảo
kê hoạt động kinh doanh bất hợp pháp, đòi nợ mướn, cùng hàng chục loại
khác. Dạng côn đồ này xuất hiện nhiều hay ít tùy vào mức hối lộ nặng hay
nhẹ. Các quốc gia tiên tiến khó có sân chơi cho dạng này, chúng sinh
sôi nảy nở tại các quốc gia dân chủ sơ khai, nửa vời và đặc biệt bùng
phát không kiểm soát tại các nơi mà chính quyền muốn nuôi dưỡng chúng
làm một đối trọng để đe dọa những ai có ý định chống lại nhà cầm quyền.
Câu hỏi được đưa ra tại sao lại phải nhờ bọn vô lại trong các vụ đàn áp người dân?
Không khó lắm để thấy rằng mọi đòi hỏi của người dân đều phát sinh từ
những nguyên nhân rõ ràng và cùng khắp trong xã hội. Có thể đất đai của
họ bị trưng thu không được đền bù, nhà cửa của họ bị dỡ bỏ, tôn giáo mà
họ theo bị cấm cản, người thân của họ bị giết hại mà không được xét xử,
oan khiên của những bản án bất công….
Nếu đứng ra giải thích, tranh luận hay lắng nghe tất cả những vấn nạn
này thì chính quyền gặp phải hai chuyện: trước nhất là gây cho dân cơ
hội tranh đấu nhiều hơn ở tất cả các lĩnh vực và chắc chắn sẽ kéo theo
bất ổn chính trị. Thứ hai, chính những cán bộ chức quyền cao trong bộ
máy mới có đủ quyền lực để gây tổn hại cho người dân. Nếu mang hết ra
xét xử thì một lỗ hổng nhân lực sẽ xuất hiện và dĩ nhiên cả hệ thống
phải rúng động.
Tại sao không dùng bọn đầu trộm đuôi cướp để trấn áp những con người
đang tranh đấu này? Vừa tránh được các buổi nói chuyện với dân vừa không
mang tiếng đàn áp họ. Số tiền chi cho một cuộc dàn xếp như thế chắc
chắn rẻ hơn một cuộc tập trung các đơn vị chống biểu tình hay chống
khủng bố. Im lặng ngồi phía sau chỉ đạo đánh người này, bao vây nhà kẻ
kia, tạt chất dơ bẩn vào nhà bọn này, chặn xe xét giấy tờ của bọn
kia….tất cả mọi biện pháp ấy đang diễn ra ngày càng rộng khắp trên cả
nước.
Ban đầu nó khoanh vùng trong các đối tượng dân oan đòi đất đai, sau đó
tiến thêm vào những ai tranh đấu cho dân chủ nhân quyền, tự do tôn giáo
…. ngày càng thành công vượt mức, côn đồ được “điều động” vào các công
tác khác trong hầu hết các tranh chấp giữa người dân và đối tác kinh
doanh.
Kinh doanh lớn thì ăn chia lớn. Quy luật này hình thành từ thời sơ khai
của cái gọi là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Doanh nghiệp lớn chừng nào thì chân rết của nó với chính quyền càng sâu
và bám rễ nhiều chừng ấy. Từ lá đơn xin phép hoạt động đầu tiên mối quan
hệ gian thương và cán bộ tha hóa đã được hình thành để từ đó song song
móc túi người tiêu dùng bằng các cách tinh vi nhất mà bọn chúng nghĩ ra
được. Tân Hiệp Phát là điển hình cho mối liên hệ chính quyền – con buôn
rõ đến từng chi tiết.
Côn đồ trong câu chuyện này là báo chí bất lương cũng như các ông bà mặc áo cổ cồn nhưng phát biểu như những tay đòi nợ mướn.
Tân Hiệp Phát không phải là trường hợp duy nhất hay hiếm hoi, hằng trăm
vụ tranh chấp giữa người tiêu dùng và chủ đầu tư đã và đang xảy ra khắp
nước và “lực lượng” côn đồ đang thay thế chính quyền đứng ra xử lý.
Vụ mới nhất đang diễn ra tại chung cư The Era Town thuộc phường Phú Mỹ,
quận 7, TP.HCM. Côn dồ bao vây người dân ngay nơi họ cư trú. Hành hung
tấn công họ như tấn công kẻ phạm pháp.
Theo báo lề phải thuật lại vào khoảng 9 giờ sáng 3-1, hơn 100 người dân
tại lô A và lô B của chung cư The Era Town, mặc những chiếc áo với nội
dung “yêu cầu Công ty Đức Khải tổ chức hội nghị nhà chung cư”.
Đây là kết quả sau hơn một năm người dân chung cư The Era Town có tranh
chấp với chủ đầu tư là Công ty Đức Khải. Họ đã gửi đơn đến các cơ quan
chức năng tại thành phố và trung ương, khiếu nại, tố cáo sai phạm của
chủ đầu tư nhưng tất cả rơi vào im lặng cho đến lần này thì chính quyền
phối hợp với Đức Khải mượn tay côn đồ bằng cách điều động hàng chục
người lạ mặt hành hung, áp đảo và gây thương tích nặng nề cho người dân
tại đây.
Thậm chí côn đồ còn dùng vũ lực kẹp cổ, khống chế đưa một số người dân
bị thương về trụ sở Công an phường Phú Mỹ. Trong đó có hai cư dân ngụ lô
B chung cư, bị thương nặng nhất được đưa đến BV 115 điều trị. Nhiều
người dân đã quay video lại được hình ảnh các đối tượng tấn công cư dân
dẫn đến đổ máu, thương tích như trên.
Bản tin không có bất cứ chi tiết nào về sự can thiệp của chính quyền,
cũng không ai đứng ra giải thích tại sao vụ việc lại nghiêm trọng như
vậy. Người dân nhìn nhau và nhận ra điều này: Chính quyền không còn
thuộc về nhân dân nữa và như vậy là Việt Nam đang sống trong tình trạng
vô chính phủ.
Một chính phủ chỉ tập trung vào việc tranh dành quyền lực bỏ mặc người
dân bị thuộc hạ của mình đàn áp, hành hung vì đồng tiền bẩn thỉu, giống
như con dao mà họ mượn tay kẻ khác thanh toán khó khăn cho guồng máy nay
đang lộ ra chiếc mũi nhọn liễu đang chĩa vào chiếc sườn của chế độ.
Họ chơi dao và họ đang đứt tay.
VIETTUSAIGON * KỊCH BẢN ĐẠI HỘI XII
Kịch bản giả thuyết của đại hội 12 đảng CSVN
Thu, 01/07/2016 - 15:33 — VietTuSaiGon
Chuẩn bị đại hội đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12, đây cũng là thời
điểm vở kịch quyền lực lên cao trào. Có rất nhiều ý kiến nhận định khác
nhau từ giới quan sát và có vẻ như lần này hoàn toàn khác, từ lâu, bộ
sậu tứ trụ triều đình Cộng sản đã soạn sẵn một vở kịch hoàn toàn ngược
với dự đoán của nhiều người.
Bởi theo dự đoán và phân tích của nhiều người, hiện tại, có ba phái
trong nội bộ trung ương đảng Cộng sản gồm phái của Nguyễn Tấn Dũng (gọi
là phái thân Mỹ), phái của Nguyễn Phú Trọng (gọi là phái thân Tàu) phái
của Trương Tấn Sang (gọi là phái nước đôi, cả thân Mỹ và thân Tàu). Và
mới đây lộ thêm phái của Nguyễn Sinh Hùng (cũng là phái thân Tàu nhưng
không chung thuyền với Nguyễn Phú Trọng).\
Xét về độ tuổi của bộ tứ Hùng, Dũng, Sang, Trọng và bối cảnh chính trị
Việt Nam, người quan sát rất dễ bị đánh lừa rằng các nhân vật đều nhắm
tới chiếc ghế Tổng Bí Thư, đặc biệt là Nguyễn Tấn Dũng. Và càng về phút
cuối, các ban bệ, phe phái càng tung ra nhiều đòn hiểm, đòn bẩn với nhau
để triệt tiêu chân tay của nhau nhằm tiến thẳng đến chiếc ghế quyền
lực.
Nhưng nếu nhìn từ một hướng khác, có vẻ như giả thuyết về các phái tranh
giành quyền lực trong nội bộ trung ương Cộng sản đang tung đòn bẩn hoặc
đang đi đến cao trào triệt hạ nhau là không đúng. Thậm chí, nói một
cách nghiêm túc là cả nhóm quyền lực này đang chơi trò tung hứng trong
một vở diễn khá nhịp nhàng dưới một bàn tay có tên Giữ Độc Tài.
Hiện tại, đảng Cộng sản Việt Nam không còn dừng ở chuyện cúi đầu vâng
phục để Trung Quốc chỉ tay năm ngón bảo ai làm gì, ngồi ghế nào… Không,
đó là chuyện của thời mà tất cả các đảng viên Cộng sản Việt Nam còn ngửa
tay nhận từng đồng viên trợ của đàn anh để tồn tại. Bây giờ, vấn đề họ
quan tâm không phải là viên trợ của Trung Quốc nữa mà làm làm gì để đảm
bảo khối tài sản của họ không bị mất và làm gì để chiếc ghế quyền lực họ
tồn tại một cách vững vàng nhất trong lúc Mỹ và Trung Quốc đang đấu với
nhau từ không gian đến đáy đại dương, từ chính trị đến kinh tế, văn
hóa. Trong lúc nhân dân Việt Nam đang nghiêng hẳn về phía tiến bộ, cụ
thể là Mỹ.
Mục đích lớn nhất mà vở kịch của đảng Cộng sản Việt Nam đang diễn là làm
thế nào để tứ trụ vẫn được tại vị thêm ít nhất là một nhiệm kỳ nữa. Bởi
chỉ có cách này mới đảm bảo độc tài không bị suy suyễn. Vì sao dám nói
vở kịch tranh giành quyền lực của tứ trụ Cộng sản chỉ là trò diễn để đi
đến mục đích tứ trụ đều tại vị?
Có các dấu hiệu sau cho thấy điều đó: Nguyễn Phú Trọng đề xuất vấn đề
Tổng bí thư phải là người miền Bắc, “có tâm, có tầm”, có thể là người
quá tuổi hưu, phải giỏi lý luận… Chung qui, ông ta đã công khai tự ứng
cử, hay nói chính xác hơn là ông ta tự đề xuất làm thêm một nhiệm kỳ
nữa.
Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố nửa vời sẽ rút khỏi cuộc tranh giành quyền lực
nhưng lại tung chưởng sẽ kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về vụ Trường
Sa, Hoàng Sa.
Nguyễn Sinh Hùng sang Trung Quốc thăm quê hương họ Mao và bắt tay với
Tập Cận Bình. Sau đó Trung Quốc loan tin sẽ thông qua luật đưa quân tình
nguyện đi chống khủng bố ở các nước “anh em” nếu như quốc hội của nước
đó đồng ý. Xem như Nguyễn Sinh Hùng đã nhúng tay vụ này. Biểu hiện rõ
nhất là các binh đoàn xe bọc thép chống bạo động, chống khủng bố của
quân đội Cộng sản Việt Nam rầm rập xuất hiện để “bảo vệ đại hội 12”.
Trương Tấn Sang, dù rất mờ nhạt nhưng lại tuyên bố sẽ bằng mọi giá chống
tham nhũng và với gương mặt ám ngộn vẻ yêu nước, yêu dân tộc, canh cánh
với nạn tham nhũng, tệ nạn xã hội. Ông ta nói như nghiến răng thề
nguyền rằng bằng mọi giá phải giảm tham nhũng đến mức thấp nhất…
Trong lúc này, dư luận vẫn bị đánh lạc hướng về cuộc tranh giành quyền
lực, tranh giành chiếc ghế Tổng Bí Thư và cho rằng những thông tin đánh
Nguyễn Xuân Phúc, Trần Đại Quang, Phùng Quang Thanh, Trương Hòa Bình… là
cách mà các phái chơi bẩn, triệt hạ tay chân của nhau.
Ở đây có hai vấn đề, rõ ràng đây là mưu hèn kế bẩn của kẻ giấu mặt đánh
thẳng vào những gương mặt có thể trở thành ứng viên các chức Tổng Bí
Thư, Thủ Tướng, Chủ Tịch Nước, Chủ Tịch Quốc Hội. Đương nhiên sau những
đòn đánh chí tử này, cơ hội bước lên ngai quyền lực của Phùng Quang
Thanh, Nguyễn Xuân Phúc, Trần Đại Quang, Phạm Quang Nghị… Xem như trở về
Zero.
Khi các ứng viên kế vị bị dẹp, đương nhiên có hai hướng, hoặc là tìm
những ứng viên mới tuy không “sáng” nhưng phải “sạch”. Hoặc là tiếp tục
duy trì quyền lực cho người cũ, để họ tiếp tục lãnh đạo, cải thiện và
“phát sáng”.
Hướng thứ nhất, tìm ra những ứng viên “sạch nhưng chưa sáng” nghe hơi
khó. Hướng thứ hai thì đã lộ rõ chân tướng: Nếu tiếp tục chọn một Tổng
Bí Thư giỏi lý luận bảo vệ đảng, là người miền Bắc, “có tâm, có tầm” và
có thể là tuổi cao nhưng có đủ tư cách… Thì còn ai nữa ngoài Nguyễn Phú
Trọng bởi Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố không chơi cuộc này?!
Và hiện tại, khi mà đất nước lâm nguy, việc đưa sự vụ Hoàng Sa, Trường
Sa ra kiện ở tòa án quốc tế là một việc cấp bách, Nguyễn Tấn Dũng đánh
ngay vào điểm này, ông ta bắn tiếng sẽ kiện Trung Quốc ra tòa án quốc
tế. Như vậy, muốn kiện Trung Quốc, chỉ có chính phủ mới đủ điều kiện và
tư cách đứng kiện. Vậy thì ai đã hứa kiện, phải để người đó đứng vị trí
chủ chốt mà tiếp tục thực hiện. Trong đảng, có ai ngoài Nguyễn Tấn
Dũng?!
Giữa hai phe (kịch) Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng, mới nhìn vào sẽ
nghĩ rằng đây là hai đối thủ thề không chung sàn đài nhưng thực tế là
hai võ sĩ đánh cuội để ăn tiền, ra dấu trước đánh sau. Từ trước đến giờ
đều vậy, từ hội nghị 10, 11, tưởng chừng như họ đã tố nhau ngửa bụng
nhưng cuối cùng, chẳng có ai trầy xước cả. Nhân dân, người theo dõi trận
đấu chỉ biết thở dài vì hai kẻ xông vào đánh nhau chí tử nhưng chẳng có
ai knock-out!
Đến Nguyễn Sinh Hùng và Trương Tấn Sang. Nếu nhìn bề ngoài, rất dễ nhầm
rằng Nguyễn Sinh Hùng đã tự tách mình thành ban phái mới để sang Trung
Quốc cầu bề trên. Thực tế, đó là một sự ủy nhiệm và thống nhất cao trong
bộ sậu tứ trụ Hùng, Dũng, Sang Trọng.
Mục đích của Hùng đi Trung Quốc là hợp thức hóa việc Trung Quốc đưa
“tình nguyện quân chống khủng bố” sang Việt Nam trong kỳ đại hội đảng 12
này nếu có biến. Biến ở đây cần phải hiểu là những cuộc biểu tình của
nhân dân phản đối đảng Cộng sản độc tài có thể diễn ra bất kỳ giờ nào
trên đường phố Hà Nội, khi mà các ống kính của giới truyền thông quốc tế
có mặt nhiều nhất và nếu an ninh, quân đội Việt Nam ra tay đàn áp thì
chẳng khác nào hắt gáo nước vào mặt bộ sậu lãnh đạo “mới”, vào đảng Cộng
sản nhưng mượn tay “tình nguyện quân” triệt tiêu thì lại là chuyện
khác!… Chứ không phải là cuộc đảo chính nào cả!
Đảo chính chỉ là kịch bản của bộ tứ này. Bởi từ động thái cho đến phát
ngôn cũng như cách dùng kế bẩn triệt tiêu các ứng cử viên kế vị của đại
hội đều cho thấy có một sự thống nhất rất cao trong mục tiêu duy trì bộ
tứ Hùng, Dũng, Sang, Trọng thêm ít nhất là một nhiệm kỳ nữa.
Vì hiện tại, đứng trên góc độ đảng Cộng sản Việt Nam mà nói thì nếu bỏ
qua tuổi tác, sẽ khó có đối thủ tranh ghế Tổng Bí Thư với Trọng một khi
Dũng đã bật đèn xanh, tuyên bố rút. Trong khi đó, Trọng giữ thêm ghế
Tổng Bí Thư một nhiệm kỳ nữa thì Trọng có quyền “đề cử” Dũng làm Thủ
tướng. Mà hiện tại, cũng khó có ai là đối thủ của Dũng trong chiếc ghế
Thủ tướng.
Có một điều dễ thấy nhất là Dũng chẳng bao giờ thèm cái ghế Tổng Bí Thư
bởi với cái ghế Thủ Tướng, Dũng tha hồ hô mây gọi gió. Trừ khi Dũng lên
Tổng Bí Thư để giải trừ đảng Cộng sản, đổi thể chế, chuyển sang ghế Tổng
thống. Nhưng chuyện này không tưởng vì khi làm vậy, với một người Cộng
sản giàu kết sù, có con cái đang trên đà quyền lực đỏ thì chẳng khác nào
tự tử.
Về phần Hùng, cái ghế Chủ tịch quốc Hội được định vị từ trước nhưng nó
khẳng định sau chuyến đi Trung Quốc. Bởi chỉ có Hùng mới có thể kêu gọi
“tình nguyện quân” Trung Quốc sang Việt Nam bảo vệ đảng khi cần thiết.
Và chỉ có Hùng mới đủ mạnh để hù dọa đám nghị gật. Cú đánh móc hông đám
nghị gật bằng cách mời Tập Cận Bình đến Quốc Hội nói chuyện là đòn hiểm
của Hùng. Đó cũng là cú đề ba để đi đến chung cục là cái bắt tay của
Hùng với Tập Cận Bình về vấn đề đưa quân sang chống khủng bố, bảo vệ
đảng.
Như vậy, chỉ còn chiếc ghế Chủ Tịch Nước. Cái ghế này tuy mờ nhạt, Sang
không muốn ngồi, nhưng Sang không ngồi thì về vườn. Có lẽ biết vậy mà
cũng còn tiếc nuối nhiều thứ nên Sang mới ra đòn chống tham nhũng với hy
vọng được ăn cả ngã về không.
Nhìn chung, đã có sự sắp xếp, bắt tay duy trì và chia chác quyền lực
trong kỳ đại hội này. Chuyện đảo chính nghe ra quá xa vời. Nhưng chuyện
đảng Cộng sản lo có biến, sợ nhân dân nổi dậy sau khi nghe kết quả đại
hội là chuyện có thể, và mượn tay quân Tàu để đàn áp nhân dân nếu có
biến cũng là chuyện có thể!
Đến đây, có thêm câu hỏi: Tại sao vở kịch chia phái để đánh nhau của
Hùng, Dũng, Sang, Trọng diễn ra quá lâu trước đại hội 12? Đơn giản, nó
diễn ra rất sớm để có màn “thân Tây – thân Tàu” mà gạt phương Tây, mang
về không ít viên trợ, kiều hối, để nuôi chế độ thêm mập mạp, to vâm.
Nhưng đó là chuyện con người tính toán. Còn chuyện trời tính thì chẳng ai đoán được. Quốc gia nào cũng có thiên mệnh riêng!
Viết Từ Sài Gòn, 07/01/2016NGUYỄN VŨ BÌNH * TẾT
Tản mạn về Tết và tương lai
Thu, 01/07/2016 - 03:49 — nguyenvubinh
Trong nhiều năm qua, những cái Tết đến rồi đi đều đặn qua từng năm.
Được cảm nhận không khí Tết, khi đã biết cảm nhận, đến nay cũng trên
dưới 40 lần. Nhưng có lẽ, chỉ có những cái Tết khi còn nhỏ, tức là cuối
thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước là cảm giác còn háo hức, hồi
hộp. Đã rất lâu rồi, rất nhiều người Việt Nam không còn cảm giác chờ
đón và vui vẻ trong những ngày Tết của dân tộc nữa. Điều mà mọi người
không còn được cảm nhận và không được trải nghiệm nữa trong rất nhiều
những cái Tết gần đây chính là không khí Tết đặc trưng. Chỉ còn lại
những công việc, quan hệ mà tính chất đặc trưng của nó là trách nhiệm và
thủ tục. Người ta mua sắm, trang trí và chuẩn bị Tết như là một việc
phải làm, một thủ tục. Người ta gặp gỡ, chúc tết nhau như một trách
nhiệm với những nụ cười gượng gạo, vô cảm. Tết dường như là điều không
còn phù hợp với tâm trạng của người dân Việt Nam, một sự lạc lõng trong
dòng chảy của đất nước mấy chục năm qua.
Vậy không khí Tết đặc trưng là gì? Tại sao nó lại biến mất và không còn được cảm nhận trong mỗi dịp Xuân về trên quê hương thân yêu?
Trước hết và trên hết, đó là tình người, một sự ấm áp và thân thiện của con người với con người không còn nữa. Cái gốc trong các mối quan hệ, trong niềm vui từ các mối quan hệ, nhất là trong những dịp đặc biệt như là Tết đã không còn nữa. Tất cả chỉ còn lại sự thờ ơ, vô cảm và những mối quan hệ gượng gạo. Đây chính là thành công tuyệt đối của chủ nghĩa Cộng sản, của chế độ toàn trị đang thống trị trên quê hương Việt Nam thân yêu bao năm qua. Họ đã thành công trong việc hủy diệt tình người một cách bài bản và hệ thống, làm cho người dân không còn thương yêu nhau nữa, tình người đã biến mất! Từ khi cộng sản ngự trị trên đất nước đau thương này, tình người là thứ người dân khát nhất, thiếu thốn nhất. Chính vì vậy, chỉ có khôi phục lại được, tìm lại được tình người, thì chúng ta mới tìm lại được niềm vui trong các mối quan hệ, trong giao tiếp và trên cơ sở đó, chúng ta mới tìm lại được không khí Tết đặc trưng và niềm vui trong những ngày Tết.
Nhưng mặt khác, Tết hay mùa Xuân về chính là mong muốn một sự đổi thay, cái mới. Không khí Tết chính là sự háo hức chờ đón những sự đổi thay, và mới mẻ của vạn vật, của con người và của mỗi người. Và một sự mặc nhiên, đó là những sự đổi thay theo hướng tốt lên, phù hợp với mong muốn của mọi người, mọi nhà. Nhưng người ta đã không còn nhìn thấy sự đổi thay, sự mới mẻ nào nữa đã từ rất lâu rồi. Thậm chí, rất nhiều mùa xuân đến, người ta còn cảm nhận được sự thay đổi đi ngược lại với mong muốn của bản thân họ. Và như vậy thì còn niềm vui nào trong những dịp Tết đến, Xuân về? Chỉ có cảm nhận theo hướng tốt lên, những điều mới mẻ mà mọi người mong đợi thì mùa Xuân mới đem lại ý nghĩa thực sự cho mọi nhà.
Vậy không khí Tết đặc trưng là gì? Tại sao nó lại biến mất và không còn được cảm nhận trong mỗi dịp Xuân về trên quê hương thân yêu?
Trước hết và trên hết, đó là tình người, một sự ấm áp và thân thiện của con người với con người không còn nữa. Cái gốc trong các mối quan hệ, trong niềm vui từ các mối quan hệ, nhất là trong những dịp đặc biệt như là Tết đã không còn nữa. Tất cả chỉ còn lại sự thờ ơ, vô cảm và những mối quan hệ gượng gạo. Đây chính là thành công tuyệt đối của chủ nghĩa Cộng sản, của chế độ toàn trị đang thống trị trên quê hương Việt Nam thân yêu bao năm qua. Họ đã thành công trong việc hủy diệt tình người một cách bài bản và hệ thống, làm cho người dân không còn thương yêu nhau nữa, tình người đã biến mất! Từ khi cộng sản ngự trị trên đất nước đau thương này, tình người là thứ người dân khát nhất, thiếu thốn nhất. Chính vì vậy, chỉ có khôi phục lại được, tìm lại được tình người, thì chúng ta mới tìm lại được niềm vui trong các mối quan hệ, trong giao tiếp và trên cơ sở đó, chúng ta mới tìm lại được không khí Tết đặc trưng và niềm vui trong những ngày Tết.
Nhưng mặt khác, Tết hay mùa Xuân về chính là mong muốn một sự đổi thay, cái mới. Không khí Tết chính là sự háo hức chờ đón những sự đổi thay, và mới mẻ của vạn vật, của con người và của mỗi người. Và một sự mặc nhiên, đó là những sự đổi thay theo hướng tốt lên, phù hợp với mong muốn của mọi người, mọi nhà. Nhưng người ta đã không còn nhìn thấy sự đổi thay, sự mới mẻ nào nữa đã từ rất lâu rồi. Thậm chí, rất nhiều mùa xuân đến, người ta còn cảm nhận được sự thay đổi đi ngược lại với mong muốn của bản thân họ. Và như vậy thì còn niềm vui nào trong những dịp Tết đến, Xuân về? Chỉ có cảm nhận theo hướng tốt lên, những điều mới mẻ mà mọi người mong đợi thì mùa Xuân mới đem lại ý nghĩa thực sự cho mọi nhà.
Nhưng vạn vật rồi cũng phải đổi thay. Chúng ta sắp bước vào năm mới
Bính Thân với những điều thay đổi đã và đang diễn ra, những xu hướng mà
mọi người dân mong đợi đang ngày càng hiện hữu trên quê hương thân yêu.
Những người quan tâm đến vận mệnh dân tộc, những người đấu tranh cho
một Việt Nam tự do, dân chủ rất có lý do và mong đợi mùa xuân Bính Thân
sắp tới. Chế độ Cộng sản hiện diện và tác oai tác quái đang đi đến cuối
chu kỳ tồn tại của nó. Một sự sụp đổ toàn diện, khởi nguồn từ sự sụp đổ
kinh tế, những dồn nén cùng cực về xã hội và sự trở mặt của đồng minh
lớn Trung Quốc chính là những yếu tố dẫn tới sự kết thúc của chế độ toàn
trị cộng sản Việt nam.
Trong thời gian một năm qua, chúng ta đã chứng kiến sự lớn mạnh và
những hoạt động vô cùng sôi động của truyền thông Lề Dân Việt Nam. Với
những thông tin nóng hổi, vô cùng phong phú, đa dạng, cùng với những sự
phân tích, phản biện kịp thời, hiệu quả, đã tạo ra một sự chuyển biến
vô cùng sâu rộng trong nhận thức của người dân, đem lại sức sống mới cho
phong trào dân chủ, và cho cả đất nước. Hoạt động của các tổ chức dân
sự trong năm qua, cùng với những giao lưu, liên hệ, kết nối của những cá
nhân tham gia đấu tranh dân chủ, với người dân cũng chính là sự quan
tâm và giúp đỡ lẫn nhau giữa những con người cùng quan tâm và đấu tranh
cho dân tộc, đất nước. Nhìn nhận một cách sâu sắc, tình người đang được
nhen nhóm, khôi phục trở lại thông qua các hoạt động của các tổ chức xã
hội dân sự tại Việt Nam cũng như sự giúp đỡ lẫn nhau của người dân thông
qua hệ thống Internet , đặc biệt là mạng xã hội facebooks. Những sự
liên hệ, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên của các tổ chức
xã hội dân sự, sự liên hệ giữa những người dân oan, các tổ chức tôn giáo
bị đàn áp…vv..chính là cơ sở để chúng ta hy vọng vào tương lai.
Như vậy, hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự cùng với những
giao lưu, kết nối chia sẻ trên mạng xã hội là sự mạnh nha và khôi phục
tình người. Những yếu tố bất ổn của chế độ cộng sản đã và đang đưa tới
những thay đổi vô cùng đáng mong đợi đối với mỗi người dân Việt Nam. Đây
chính là các điều kiện cho một sự chờ đón của người dân đối với mùa
xuân mới, mùa xuân Bính Thân chính là mùa Xuân mong đợi của mọi người
dân Việt Nam thân yêu./.
Hà Nội, ngày 07/01/2016
N.V.BTUẤN KHANH * NHÂN VẬT CUẢ NĂM
Nhân vật của năm
Tue, 01/05/2016 - 22:51 — tuankhanh
Cuối tháng 12/2015, tờ báo điện tử Infonet có một cuộc bình chọn tổng
kết Nhân vật của năm hết sức thú vị. Trong danh sách năm người được tờ
báo này đề cử, cuối cùng thì một thầy giáo vô danh ở Bình Thuận lại là
người được bạn đọc bình chọn, với số phiếu bầu chọn thắng áp đảo.
Thật ngạc nhiên, trong thời gian chỉ có một tuần, thầy giáo Nguyễn Thận
nhận được hơn 9000 bình chọn, bỏ xa người đứng thứ hai đến hàng ngàn
phiếu. Kết quả này đem lại nhiều thắc mắc: ông thầy giáo già ấy là ai mà
nhận được mến mộ nhiều như vậy, vượt xa các nhân vật là vận động viên
thành đạt, tướng công an, cảnh sát chữa cháy và bí thư thành phố Đà
Nẳng?
Cuộc bình chọn gợi nhớ lại câu chuyện của người tù oan Huỳnh Văn Nén,
với 17 năm đau đớn, vừa được trả lại quyền công dân vào đầu tháng
12/2015. Người kiên trì theo đuổi vụ án và nhất mực kêu oan cho ông Nén,
chính là người thầy cũ của ông Nén, thầy giáo Nguyễn Thận.
Khi án được giải oan, cả hai người ôm nhau khóc. Cả hai bạc đầu như
nhau, một người thì bạc đầu vì uất hận trong ngục tối, một người thì bạc
đầu vì công lý trên đất nước mình.
Điều đáng nói là một ông thầy giáo già lẻ loi ở Bình Thuận khi đọc mọi
thứ về vụ án của ông Huỳnh Văn Nén, đã tìm ra những dấu hiệu của khuất
tất, ngược lại cả một hệ thống công an, toà án hùng hậu lại thản nhiên
chấp nhận, đồng loã cùng những chứng cứ bị tráo đổi, những tình tiết bị
bẻ cong để đổi trắng thay đen, tàn hại một đời người.
Ông Nguyễn Thận, con người đó bỏ ra 15 năm, tấm lòng như bồ tát, ngược
xuôi kêu oan cho người học trò cũ, bất kể gặp vô vàn khó khăn từ việc
người dân bị tác động bởi thông tin báo chí nhà nước “khép tội” cho đến
nan ải ở cửa quan. Hơn nữa, trên giấy tờ thì ông Huỳnh Văn Nén do bị
nhục hình nặng nề và dài ngày đến mức phải nhận tội giết người, bất chấp
điều tra viên Cao Văn Hùng từng tiếp đơn tố cáo tội phạm thật sự, nhưng
lại muốn hoàn hảo công việc của mình nên đã hăm doạ người tố cáo, là
anh Nguyễn Phúc Thành (cùng địa phương với ông Nén) khiến anh này sợ hãi
quay về.
Vậy mà ông thầy giáo đó, vẫn giữ trong mình một ước mơ vĩ đại rằng phải
cứu cho được một con người. Ôi, câu chuyện hiện thực được viết lại, mà
sao nghe như cổ tích răn đời của tổ tiên Việt Nam. Trong chuyện có đủ kẻ
ác, có thối nát quan lại, có nhân quả, có người khổ nạn và có trái tim
Việt Nam bừng sáng với sự tử tế với nhân gian. Câu chuyện như nhắc lời
dạy của người xưa “miệng nhà quan có gang có thép” – mọi thứ ghê gớm của
kẻ có quyền đều có thể, ngoại trừ sự thật và tình người.
Trong phim tài liệu Chuyện tử tế của Đạo diễn Trần Văn Thuỷ, chỉ vì đi
tìm lời giải cho một xã hội Việt Nam đang cạn kiệt sự tử tế, mà phim làm
từ năm 1985, bị kiểm duyệt đắn đo đến hai năm, đến 1987 mới được công
chiếu. Trong đó, một vị cao niên đã giải thích về tử tế rằng “Tử” có
nghĩa là những chuyện nhỏ bé. “Tế” có nghĩa là những chuyện bình thường.
Hai chữ “tử tế” gộp lại có nghĩa là cẩn thận từ những việc nhỏ bé, rồi
do lâu đời ta đọc khác đi và nghĩa cũng khác đi. Sự tử tế, tử tế thật sự
không phải là chuyện có tiền bạc hoặc muốn là có ngay. Nó cũng phải
được học hành, được dạy dỗ, được tập luyện, kế thừa và gìn giữ”.
Nếu tử tế được kế thừa và gìn giữ, có lẽ án oan ở Việt Nam không bùng nổ
nhiều như bây giờ. Án oan gấp rút đưa tội nhân ra pháp trường đến mức
cả xã hội sôi sục, lời kêu than xuất hiện khắp nơi, đại biểu quốc hội
cũng phải lên tiếng. Người bị tạm giam chết thảm khắp nơi. Sự tử tế vắng
mặt ở những nơi đây dẫy con người giới thiệu mình qua bằng cấp, chức
vị, qua bảng hiệu quốc gia đệ nhất hạnh phúc. Sự tử tế bị đánh tráo khái
niệm với những kẻ như điều tra viên Cao Văn Hùng: tử tế với danh và lợi
riêng của bản thân mình.
Làm sao có thể nghe thấy đủ được nỗi đau của con người Việt Nam, để hy
vọng thức tỉnh sự tử tế mà tổ tiên đã gửi lại cho con cháu? Năm 1940,
các bác sĩ James D. Hardy, Harold G. Wolff và Helen Goodell của trường
đại học Cornell (Mỹ) chỉ mới sáng chế ra dụng cụ thử đo độ đau đớn trên
cơ thể của con người, tên gọi là Dolorimeter, với các chỉ số gọi là
Dol. Nếu mai sau, số đo nỗi đau tinh thần có thật và là một nguồn năng
lượng, ắt hẳn đất nước này có thể sẽ rực sáng bất tận cho những gì mà
chúng ta đã biết, hoặc còn chưa biết.
Số phiếu thắng tuyệt đối của người dân về ông thầy giáo già đầy tình
người ấy, vượt lên mọi thứ đồ sộ khác trong danh sách bình chọn, cho
thấy người dân Việt có qua ngàn đời vẫn vậy: họ biết khóc, biết đau cùng
đồng bào của mình, biết cảm mến những người còn dùng lòng tử tế của
mình gột rửa thế gian, dù cô độc. Những lá phiếu im lặng không khác gì
hình ảnh những người dân Việt Nam lặng lẽ đứng về phía kẻ yếu, đã và
đang bị chà đạp.
Câu chuyện này nhắc tôi nhớ về sự kiện bình chọn nhân vật của năm do báo
Time tổ chức, tháng 12/2006. Nhân vật được chọn chính là nhân dân. Tờ
báo gọi tên người được chọn là “You”, và giải thích rằng không ai khác
hơn chính bạn – người đang đọc những dòng này, sẽ làm thay đổi thế giới.
Ông thầy giáo già đáng kính trọng Nguyễn Thận ấy – là nhân vật của năm
để chúng ta ngưỡng trọng. Thầy giáo Nguyễn Thận là ông nhưng cũng chính
là ta. Ông là mầm, là chồi thức tỉnh từng người dân Việt phải học lại
cách đứng lên, cất tiếng nói đòi công lý, không chỉ vì oan khiên của
mình, mà còn của đồng bào mình. Ông là ngày, là giờ của chúng ta mở mắt
nhìn nhau. Ngày đó, ngày Việt Nam.
VƯỜN THƠ
THƠ NGUYÊN THẠCH :
Thanh niên - Dậy mà đi
Thức dậy đi em
Sao ngủ vùi lâu vậy?
Biển Đông kia, giặc đã cướp lấy Hoàng Trường Sa
Thức dậy đi em
Bọn tham quan đã thâu đất, lấy nhà
Thức dậy đi em
Dân chúng mình đã bị hóa thân nô bộc
Điểm mặt lũ phản bội Quê Hương, tâng bốc ngoại xâm
Hãy mau thức dậy đi em, đời chúng ta nay đã bị giam cầm
Kể từ dạo ấy, 30 tháng Tư 75 nô cộng.
Thức dậy đi em để đứng lên giành cuộc sống
Đất mẹ 40 năm?
Nay như đống tro tàn
Thức dậy đi em, gia đình mình giờ khốn khổ lầm than
Mau thức dậy, kẻo muộn màng nô lệ.
Thức dậy đi và nghe anh kể
Chúng ta giờ đây phận giun dế thấp hèn
Đảng đã biến chúng ta thành khối dân đen
Để cho chúng dễ chèn dễ trị.
Hãy thức dậy cùng anh rèn Tinh Thần Vô Úy
Ta cùng nhau nung chí chống ngoại xâm
Dân tộc giờ đây?
Hàng hàng lớp lớp đã bị giam cầm
Để làm nô bộc cho giặc ngoại xâm tặc Hán.
Mau thức dậy em ơi cùng anh em bè bạn
Mau vươn vai súng đạn lên đường
Đừng ngủ vùi trên thống khổ của dân tộc của Quê Hương
Hãy thức dậy và can trường chiến đấu.
Thức dậy đi anh
Thức dậy đi anh mai lên đường chinh chiến
Phận làm trai phải dâng hiến cho non sông
Dân Tộc
Quê Hương?
Nhìn tan nát cõi lòng
Mẹ rướm lệ chờ mong con cứu nước.
Hỡi những mảnh đời lầm than xuôi ngược
40 năm dài, hỏi dân được gì chăng?
Khố rách, áo ôm, cơ cực, nhọc nhằn...
Mà cuộc sống vẫn khó khăn tiếp nối.
Thức dậy đi anh, cùng anh em đồng đội
Cùng toàn dân mở lối thoát đọa đày
Trùng điệp đau thương khắp chốn bủa vây
Vận mệnh đất nước?
Trong tay anh, tay chị.
Ngọc bất trát thì ngọc kia nào quí
Là thanh niên, ý chí nhẽ lãng quên?
Nợ nước, con dân, há chẳng phải đáp đền?
Vai u thịt bắp... ngại lằn tên mũi đạn?.
Thức dây đi anh, chớ ngủ vùi năm tháng
2020 giặc Hán chiếm non sông
"Mật Nghị Thành Đô", đảng đã đồng lòng
Đẩy dân tộc vào cùm gông nô lệ.
Nhẽ cúi mặt chịu qui hàng đồ tể?
Há sinh ra làm giun dế phận hèn?
Lẽ nào mò mẫm mãi trong tăm tối đêm đen?
Kiếp trâu ngựa... dần quen cuộc sống!
Hãy thức dậy dẹp Hán nô phản động
Noi gương cha ông diệt Hán Tống Mông Nguyên
Vùng lên đấu tranh hỡi trai gái khắp ba miền
Xóa bỏ cộng sản, đem bình yên cho đất mẹ.
Mau thức dậy và đứng lên anh nhé
Là thanh niên chớ là kẻ cúi đầu
Việt tộc kiêu hùng, chẳng là ngựa, chẳng là trâu
Há chấp nhận kiếp nô hầu nhục nhã?
Hãy thức dậy để giữ gìn non sông biển cả
Thức dậy đi và vội vã tiến lên đường
Góp bàn tay để gìn giữ Quê Hương
Dựng nước Việt trên con đường Dân Chủ.
Mai thanh bình hương hoa đơm nụ
Đã sạch tan bóng cờ rũ mưa sa
Cứu lấy Việt Nam, gìn giữ sơn hà
Khắp đất nước vang lời ca chiến thắng.
danlambaovn.blogspot.com
Phát súng lệnh
Buồn quá đổi cả nước còn đang ngủ
Chỉ vài người tỉnh thức...còn đang bị quản thúc
Bị cấm nghe, nhìn và kể luôn cấm nói
Chỉ còn biết dùng mạng lưới toàn cầu máy vi tính, data
Bọn nước ngoài còn hơn cả tinh vi
Chúng chống Cộng bằng mồm hay ra phết
Hết chửi Hồ rồi chửi đổng bọn cầm quyền
Nhưng thỉnh thoảng lại giơ cao ngọn cờ "hòa giải"
Trong nước nhiều người còn đang ngủ
Trong lúc giặc thù lấn chiếm đất đai
Chúng xâm lăng theo kiểu tằm ăn lá
Chúng chẳng cần đem quân đội tấn công
..và như thế mọi người càng yên ngủ tốt
Mặc ai tỉnh mặc ai lo việc nước
Túi đầy tiền, ăn nhậu thả dàn
Mặc nước mất mặc người dân đau khổ
Phát súng lệnh nổ toang trong đêm tối
Khủng bố nhắm vào bọn "nợ máu nhân dân"
Phát súng này mọi người ai cũng muốn
Thức tỉnh muôn người chống bọn giặc ngoại xâm!
Đặng Quang Chính
NGƯỜI VIỆT BỐN MƯƠI NĂM LY XỨ
Bốn mươi năm uất hận
Bốn thập niên ly hương
Trong tâm bao nỗi đoạn trường
Máu xương chồng chất trên đường vượt biên !
Quê Mẹ từ ngày nổi chìến chinh
Lầm than thống khổ đến vô lường
Quân dân tù ngục đòn tra tấn
Đành bỏ quê, xa lánh bạo cường !
Tàu cập bến tự do xứ lạ
Bước chân người muôn ngã về đây
Gian nan cũng một kiếp này
Ly hương mong được đổi thay cuộc đời
Dân Việt Nam một thời lam lũ
Dẫu tha phương vẫn đủ niềm tin
Cần cù vất vả hy sinh
Xứ người đã thấy bình minh rạng ngời
Trên đất Mỹ, Paris, Đức quốc
Canada, Thụy Sĩ, Hòa Lan
Ba Lan, Bỉ, Úc, Luân Đôn
Na Uy, Nhật Bản, Liên Sô, Italy
Miền đất ấm hay nơi bão tuyết
Núi đồi cao hoặc chốn thâm sơn
Dân mình chẳng ngại dừng chân
Dựng xây sự nghiệp lập thân xứ người
Dù gian khó tấm lòng vẫn vững
Chí can cường vượt những gian lao
Bước đầu gặp phải lao đao
Bền tâm bền chí ngày sau rạng ngời
Biết bao kẻ lập nên nghiệp lớn
Biết bao người thân phận lưu vong
Cũng trời cao cũng núi sông
Mà như xa lạ cho lòng quặn đau
Người chiến sĩ dãi dầu sương gió
Nay chùn chân gian khó xứ người
Bốn mươi năm vẫn gượng cười
Nhận nơi tỵ nạn là nơi quê mình
Dẫu vất vả hy sinh nào quản
Cho đàn con đám cháu trưởng thành
Ngày nay vang tiếng Việt Nam
Thành công vinh hiển rạng danh xứ người…
nguyễn phan ngọc an – California – 2016\
-thơ Quang Dũng
-------
Hà Nội chạp này không có mùa đông
Tiết Tiểu Hàn mặc áo phông ra phố
Chưa đến Tết mà Đào, Mai đã nở
Khô hạn dài nắng trắng đáy sông.
*
Hà Nội chạp này ùn tắc thêm tăng
Nông dân bỏ đồng ra bám phố
Đứa cửu vạn, đứa ca ve - bưng phở
Mong kiếm tí "Đô" (dollar) kinh tế thị trường.
*
Hà Nội chạp thèm cái rét căm căm
Diện len dạ, đầu trần bát phố
Sớm mai dậy lên Nam Ngư ăn phở
Ly cafe' ngồi ngắm Hồ Gươm.
Phát súng lệnh
Buồn quá đổi cả nước còn đang ngủ
Chỉ vài người tỉnh thức...còn đang bị quản thúc
Bị cấm nghe, nhìn và kể luôn cấm nói
Chỉ còn biết dùng mạng lưới toàn cầu máy vi tính, data
Bọn nước ngoài còn hơn cả tinh vi
Chúng chống Cộng bằng mồm hay ra phết
Hết chửi Hồ rồi chửi đổng bọn cầm quyền
Nhưng thỉnh thoảng lại giơ cao ngọn cờ "hòa giải"
Trong nước nhiều người còn đang ngủ
Trong lúc giặc thù lấn chiếm đất đai
Chúng xâm lăng theo kiểu tằm ăn lá
Chúng chẳng cần đem quân đội tấn công
..và như thế mọi người càng yên ngủ tốt
Mặc ai tỉnh mặc ai lo việc nước
Túi đầy tiền, ăn nhậu thả dàn
Mặc nước mất mặc người dân đau khổ
Phát súng lệnh nổ toang trong đêm tối
Khủng bố nhắm vào bọn "nợ máu nhân dân"
Phát súng này mọi người ai cũng muốn
Thức tỉnh muôn người chống bọn giặc ngoại xâm!
Đặng Quang Chính
NGƯỜI VIỆT BỐN MƯƠI NĂM LY XỨ
Bốn mươi năm uất hận
Bốn thập niên ly hương
Trong tâm bao nỗi đoạn trường
Máu xương chồng chất trên đường vượt biên !
Quê Mẹ từ ngày nổi chìến chinh
Lầm than thống khổ đến vô lường
Quân dân tù ngục đòn tra tấn
Đành bỏ quê, xa lánh bạo cường !
Tàu cập bến tự do xứ lạ
Bước chân người muôn ngã về đây
Gian nan cũng một kiếp này
Ly hương mong được đổi thay cuộc đời
Dân Việt Nam một thời lam lũ
Dẫu tha phương vẫn đủ niềm tin
Cần cù vất vả hy sinh
Xứ người đã thấy bình minh rạng ngời
Trên đất Mỹ, Paris, Đức quốc
Canada, Thụy Sĩ, Hòa Lan
Ba Lan, Bỉ, Úc, Luân Đôn
Na Uy, Nhật Bản, Liên Sô, Italy
Miền đất ấm hay nơi bão tuyết
Núi đồi cao hoặc chốn thâm sơn
Dân mình chẳng ngại dừng chân
Dựng xây sự nghiệp lập thân xứ người
Dù gian khó tấm lòng vẫn vững
Chí can cường vượt những gian lao
Bước đầu gặp phải lao đao
Bền tâm bền chí ngày sau rạng ngời
Biết bao kẻ lập nên nghiệp lớn
Biết bao người thân phận lưu vong
Cũng trời cao cũng núi sông
Mà như xa lạ cho lòng quặn đau
Người chiến sĩ dãi dầu sương gió
Nay chùn chân gian khó xứ người
Bốn mươi năm vẫn gượng cười
Nhận nơi tỵ nạn là nơi quê mình
Dẫu vất vả hy sinh nào quản
Cho đàn con đám cháu trưởng thành
Ngày nay vang tiếng Việt Nam
Thành công vinh hiển rạng danh xứ người…
nguyễn phan ngọc an – California – 2016\
HÀ NỘI CHẠP NÀY KHÔNG CÓ MÙA ĐÔNG
"Tháng chạp màn sương trùm Đất Nước"-------
*
*
*
Hà Nội chạp này đón Tết bâng khuâng
Có lẽ về quê là hay hơn cả
Đêm ba mươi khói mờ mái rạ
Củi lửa đỏ bừng má vợ hồi xuân.
Hà Nội, 2 tháng chạp-Ất mùi
11-1-2016
11-1-2016
NGUYỄN KHÔI
Vũ Như Cẩn
Vũ Như Cẩn
Chiến Tranh chấm dứt Đã Lâu Rồi.
Cuộc sống dân nhèo vẫn thế thôi.
Cách mạng ba hoa đầu chót lưởi,
Tự do lí nhí , mép bờ môi.
Cam thân Thái Thú cúi lòn giặc,
An phận chư hầu hiếp chúng côi.
Di xú ngàn năm vang vọng mãi,
Việt Nam Cọng Sãn, một đãng tồi .
Quãng Thuận ĐXD
__._,_.___
DENNIS PRAGER * C65NG SẢN GIAN ÁC
Tác giả DENNIS PRAGER.
Unfortunately, communists still rule the country. Yet, Vietnam today has
embraced the only way that exists to escape poverty, let alone to
produce prosperity: capitalism and the free market. So what exactly did
the 2 million Vietnamese who died in the Vietnam War die for? I would
like to ask one of the communist bosses who run Vietnam that question.
“Comrade, you have disowned everything your Communist party stood for:
communal property, collectivized agriculture, central planning and
militarism, among other things. Looking back, then, for what precisely
did your beloved Ho Chi Minh and your party sacrifice millions of your
fellow Vietnamese?”
America fights to liberate countries, not to rule over them. It was the
Vietnamese Communist Party, not America, that was interested in
controlling the Vietnamese people. But the lie was spread so widely and
so effectively that most of the world — except American supporters of
the war and the Vietnamese boat people and other Vietnamese who yearned
for liberty — believed that America was fighting for tin, tungsten and
the wholly fictitious “American empire” while the Vietnamese communists
were fighting for Vietnamese freedom.
-"Tất cả những kẻ độc tài Cộng Sản trên thế giới đều là những kẻ côn đồ ngông cuồng, thần thánh hóa cá nhân, tham quyền, khát máu. Hồ Chí Minh cũng thế."
VIỆN TRƯỞNG ĐẠI HỌC DENNIS PRAGER NÓI VỀ VN
Dennis Prager hiện có một chương trình truyền thanh thính giả đàm thoại
(Talk Show) hàng ngày trên đài KRLA tần số 870AM bao gồm vùng Los
Angeles và Orange County. KRLA liên hợp với 140 đài khác trên toàn quốc
Hoa Kỳ. Ông viết xã luận hàng tuần, là tác giả của bốn cuốn sách và là
sáng lập viên của Đại Học Prager.
o O o
Thật khó mà kềm nổi các cảm xúc của tôi — nhất là không tránh được phải
nổi giận — trong chuyến viếng thăm Viêt Nam của tôi hồi tuần trước. Tôi
càng ngưỡng mộ người dân Việt bao nhiêu — thông minh, yêu đời, tự trọng,
và chăm chỉ — thì tôi lại càng tức giận chính phủ cộng sản đã gây đau
khổ quá nhiều cho người dân nước này (và dĩ nhiên cả người Mỹ chúng ta)
trong nửa thế kỷ sau của thế kỷ 20.
Điều không may là chính phủ cộng sản vẫn cai trị nước này. Mà Việt Nam
ngày nay đã đón nhận cách duy nhất, chủ nghĩa tư bản và thị trường tự
do, để thoát khỏi cảnh nghèo đói, chứ khoan nói đến chuyện thịnh vượng.
Vậy thì 2 triệu người Việt phải bỏ mạng trong Chiến Tranh Việt Nam để
làm gì? Tôi muốn hỏi một trong những người lãnh đạo Cộng Sản đang cai
trị Việt Nam câu hỏi đó. Tôi muốn hỏi: “Này đồng chí, đồng chí đã bỏ hết
tất cả những gì mà đảng Cộng Sản của đồng chí đã tranh đấu cho kỳ được:
nào là cộng sản, nông nghiệp tập thể, hoạch định trung ương, và quân
phiệt, ngoài những lý tưởng khác nữa. Vậy thì hãy nhìn lại xem Hồ Chí
Minh yêu kính của đồng chí và đảng của đồng chí đã hy sinh hàng triệu
đồng bào người Việt của đồng chí thì đúng ra là để được cái gì?”
Không có câu trả lời nào là câu trả lời hay. Chỉ có một lời nói dối và một lời nói thật, và lời nói thật thì thật thê lương.
Lời nói dối chính là câu trả lời của Cộng Sản Việt Nam, cũng như hầu hết
mọi lời nói dối của Cộng Sản, và đã được khối cánh Tả phi Cộng Sản trên
thế giới lặp lại. Lời nói dối này đã (và vẫn tiếp tục đang) được dạy
tại hầu hết các viện đại học ở phương Tây, và đã (và vẫn tiếp tục đang)
được hầu hết mọi phương tiện truyền thông trên địa cầu truyền tải: Lời
nói dối đó là Cộng Sản Việt Nam (tức Bắc Việt), và Việt Cộng chỉ tranh
đấu giành độc lập cho nước họ khỏi tay ngoại bang. Trước hết là tranh
đấu chống Pháp, sau đó là Nhật, rồi đến Mỹ. Những người Mỹ sinh vào thời
hậu chiến (sau thế chiến 2) sẽ nhớ là họ cứ được nhắc nhở mãi Hồ Chí
Minh là George Washington của Việt Nam, và ông ta yêu mến Hiến Pháp Hoa
Kỳ và đã dùng bản hiến pháp này làm nền tảng mô phỏng hiến pháp của ông
ta, và chỉ muốn giành độc lập cho Việt Nam.
Sau đây mới là sự thật
Tất cả những kẻ độc tài Cộng Sản trên thế giới đều là những kẻ côn đồ
ngông cuồng, thần thánh hóa cá nhân, tham quyền, khát máu. Hồ Chí Minh
cũng thế. Hắn thủ tiêu các đối thủ, tra tấn biết bao nhiêu người Việt vô
tội mà chỉ có trời mới biết chính xác được bao nhiêu người, và đe dọa
hàng triệu người để họ phải cầm súng ra trận cho hắn — phải, cho hắn và
cho đảng Cộng Sản Việt Nam đẫm máu, và được một tên sát nhân “vĩ đại”
nhất mọi thời đại khác yểm trợ: Mao Trạch Đông. Nhưng những kẻ ngu ngốc
về đạo lý tại Hoa Kỳ lại cứ hô to “Ho, Ho, Ho Chi Minh” trong các cuộc
biểu tình chống chiến tranh và gọi Hoa Kỳ là những kẻ giết người — “Hey,
Hey, LBJ, hôm nay ngươi giết được bao nhiêu trẻ con?”
Đảng Cộng Sản Việt Nam không đánh Mỹ để giành độc lập cho Việt Nam. Mỹ
không bao giờ muốn kiểm soát người dân Việt, và có một trường hợp tương
tự để chứng minh điều đó: Chiến Tranh Triều Tiên. Mỹ có đánh Cộng Sản
Triều Tiên để kiểm soát Triều Tiên hay không? Hay là 37,000 người Mỹ bỏ
mạng tại Triều Tiên để người dân Triều Tiên được hưởng tự do? Ai đã (và
vẫn là) người có tự do hơn — một người Triều Tiên sống dưới chế độ Cộng
Sản Triều Tiên ở Bắc Triều Tiên hay một người Triều Tiên sống tại nơi mà
Hoa Kỳ đã đánh bại Cộng Sản Triều Tiên?
Và ai đã là người có tự do hơn ở Việt Nam — những người sống ở miền Nam
Việt Nam không Cộng Sản (dù là với tất cả các khuyết điểm của chế độ đó)
hay những người sống dưới chế độ Cộng Sản của Ho, Ho, Hồ Chí Minh ở Bắc
Việt Nam?
Hoa Kỳ tranh đấu để giải phóng các nước, không phải để cai trị họ. Sự
thật là, chính đảng Cộng Sản Việt Nam chứ không phải Hoa Kỳ, mới là
những kẻ muốn kiểm soát người dân Việt. Nhưng lời dối trá lại được tuyên
truyền lan rộng khắp nơi và hiệu nghiệm đến mức đa số mọi người trên
thế giới — trừ những người Mỹ hậu thuẫn cho cuộc chiến đó và thuyền nhân
người Việt và những người Việt khác khao khát tự do — cứ tin rằng Hoa
Kỳ nhập trận là để lấy kẽm, tungsten, và để thành lập cả một “đế quốc
Mỹ” giả tưởng trong khi Cộng Sản Việt Nam thì tranh đấu cho tự do của
người Việt.
Tôi ghé đến “Bảo Tàng Viện Chứng Tích Chiến Tranh Việt Nam” — tòa nhà
triển lãm các hình ảnh chống Mỹ cao ba tầng của đảng Cộng Sản. Chẳng có
gì để tôi phải ngạc nhiên — tôi chẳng ngạc nhiên vì không có đến một chữ
chỉ trích Cộng Sản Bắc Việt hoặc Việt Cộng, không có đến một chữ về
việc đe dọa mạng sống của mọi người khắp nơi nếu họ không chiến đấu cho
Cộng Sản, không có đến một chữ về những người liều mạng để vượt thoát
bằng thuyền, thà chịu nguy hiểm bỏ mạng ngoài biển cả, vào bụng cá mập,
hoặc bị hải tặc tra tấn hoặc hãm hiếp tập thể, còn hơn sống dưới chế độ
Cộng Sản đã “giải phóng” Nam Việt Nam.
Điều cũng không có gì đáng ngạc nhiên là không thấy có khác biệt gì mấy
giữa lịch sử Chiến Tranh Việt Nam do Đảng Cộng Sản Việt Nam kể lại với
lịch sử cuộc chiến đó mà hầu như sinh viên nào cũng sẽ được nghe kể lại
từ hầu như bất cứ giáo sư nào tại bất cứ trường đại học nào ở Mỹ Châu,
Âu Châu, Á Châu, hoặc Châu Mỹ La Tinh.
Tôi sẽ kết thúc bằng đề tài tôi đã bắt đầu — người Việt. Đã đến thăm
Việt Nam thì không thể không mang ấn tượng tốt đẹp về người dân nước
này. Tôi hy vọng tôi còn sống để thấy ngày người dân Việt Nam, được giải
phóng khỏi những lời dối trá của Cộng Sản hiện vẫn lan tràn trong đời
sống hàng ngày của họ, hiểu rằng mỗi mạng người Việt hy sinh trong cuộc
chiến chống Mỹ đều bị phí phạm vô nghĩa, là thêm một mạng người nữa
trong số 140 triệu sinh mạng bị đem ra hy sinh trước bệ thờ tên giả thần
khát máu nhất trong lịch sử: Chủ Nghĩa Cộng Sản.
--------------------------------------------------------
Trip to Vietnam Revives Hatred of Communism
It was difficult to control my emotions — specifically, my anger —
during my visit to Vietnam last week. The more I came to admire the
Vietnamese people — their intelligence, love of life, dignity and hard
work — the more rage I felt for the communists who brought them (and, of
course, us Americans) so much suffering in the second half of the 20th
century.
There is no good answer. There are only a lie and a truth, and the truth is not good.
The lie is the response offered by the Vietnamese communists and which
was repeated, like virtually all communist lies, by the world’s
non-communist left. It was (and continues to be) taught in virtually
every Western university and was and continues to be spread by virtually
every news medium on the planet: The Vietnam communists, i.e., the
North Vietnamese and the Viet Cong, were merely fighting for national
independence against foreign control of their country.
First, they fought the French, then the Japanese and then the Americans.
American baby boomers will remember being told over and over that Ho
Chi Minh was Vietnam’s George Washington, that he loved the American
Constitution, after which he modeled his own, and wanted nothing more
than Vietnamese independence.
Here is the truth: Every communist dictator in the world has been a
megalomaniacal, cult of personality, power hungry, bloodthirsty thug. Ho
Chi Minh was no different. He murdered his opponents, tortured only God
knows how many innocent Vietnamese, threatened millions into fighting
for him — yes, for him and his blood soaked Vietnamese Communist Party,
backed by the greatest murderer of all time, Mao Zedong. But the moral
idiots in America chanted “Ho, ho, Ho Chi Minh” at antiwar rallies, and
they depicted America as the real murderers of Vietnamese — “Hey, hey,
LBJ, how many kids did you kill today?”
The Vietnamese communists were not fighting America for Vietnamese
independence. America was never interested in controlling the Vietnamese
people, and there is a perfect parallel to prove this: the Korean War.
Did America fight the Korean communists in order to control Korea? Or
did 37,000 Americans die in Korea so that Koreans could be free? Who was
(and remains) a freer human being — a Korean living under Korean
communist rule in North Korea or a Korean living in that part of Korea
where America defeated the Korean communists?
And who was a freer human being in Vietnam — those who lived in
non-communist South Vietnam (with all its flaws) or those who lived
under Ho, ho, Ho Chi Minh’s communists in North Vietnam?
I went to the “Vietnam War Remnants Museum” — the Communist Party’s
three-floor exhibit of anti-American photos. Nothing surprised me — not
the absence of a single word critical of the communist North Vietnamese
or of the Viet Cong; not a word about the widespread threats on the
lives of anyone who did not fight for the communists; not a word about
those who risked their lives to escape by boat, preferring to risk dying
by drowning, being eaten by sharks or being tortured or gang-raped by
pirates, rather than to live under the communists who “liberated” South
Vietnam.
Equally unsurprising is that there is little difference between the
history of the Vietnam War as told by the Communist Party of Vietnam and
what just about any college student will be told in just about any
college by just about any professor in America, Europe, Asia or Latin
America.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment