BS. ĐỖ HỒNG NGỌC * MỘT CHÚT LAN MAN
MỘT CHÚT LAN MAN
BS. Đỗ Hồng Ngọc
Ngẫm lại sự đời, tôi thấy hình như hầu hết chúng ta chẳng bao giờ thực sống. Lúc còn trẻ, ta mơ ước tương lai, sống cho tương lai. Nghĩ rằng phải đạt cái này cái nọ, có được cái kia cái khác mới là sống. Khi có tuổi, khi đã có được cái này cái nọ, cái kia cái khác thì ta lại sống cho quá khứ! Hừm! Nhỏ mong cho mau lớn, lớn mong cho nhỏ lại. Quả là lý thú! Tóm lại, ta chẳng biết quý những giây phút hiện tại.
Một người 60, tiếc mãi tuổi 45 của mình, thì khi 75, họ sẽ tiếc mãi tuổi
60, rồi khi 80, họ sẽ càng tiếc 75! Vậy tại sao ta không nghĩ ta đang ở
cái tuổi tuyệt vời nhất của mình lại không yêu thích nó đi, sao cứ
phải.... nguyền rủa, bất mãn với nó. Có phải tội nghiệp nó không? Ta
đang ở cái tuổi nào thì nhất định tuổi đó phải là tuổi đẹp nhất rồi,
không thể có tuổi nào đẹp hơn nữa!
Còn đối với các vị phụ nữ cũng có khi gạt gẫm mình chút đỉnh như đi giải
phẫu thẩm mỹ chẳng hạn. Xóa chỗ này, bơm chỗ nọ, lóc chỗ kia. Nhưng
nhức mỏi vẫn cứ nhức mỏi, loãng xương vẫn cứ loãng xương, tim mạch vẫn
cứ tim mạch... Thân thể ta cứ tiến triển theo một "lộ trình" đã được
vạch sẵn của nó, không cần hỏi han ta, không cần biết ta có “chịu”
không! Mà hình như, càng nguyền rủa, càng bất mãn với nó, nó càng làm
dữ.
Trái lại, nếu biết thương yêu nó, chiều chuộng nó một chút, biết cách
cho nó ăn, cho nó nghỉ, biết cách làm cho xương nó cứng cáp, làm cho
mạch máu nó thông thoáng, làm cho các khớp nó trơn tru thì nó cũng sẽ tử
tế với ta hơn. Từ ngày "thế giới phẳng" thông qua internet, ta còn sống
với đời sống ảo. Ta ngồi đây với người nhà nhưng chuyện trò với một
người nào khác, cười đùa, nhăn nhó, giận dữ, âu yếm với một người nào
khác ở nơi xa. Khi bắt lại câu chuyện với mọi người bên cạnh thì nhiều
khi đã lỡ nhịp!
Hiểu ra những điều tầm thường đó, tôi biết quý thời gian hơn, quý phút
giây hiện tại, ở đây và bây giờ hơn. Nhờ vậy mà không có thì giờ cho già
nữa! Hiện tại với tôi thì không có già, không có trẻ, không có quá khứ
vị lai. Dĩ nhiên, không phải trốn chạy già mà hiểu nó, chấp nhận nó,
thưởng thức nó. Khi biết "enjoy" nó thì quả có nhiều điều thú vị để phát
hiện, để khám phá.
Từ ngày biết thương "thân thể" của mình hơn, tử tế với nó hơn, thì có vẻ
tôi... cũng khác tôi xưa. Tôi biết cho thân thể của mình ăn khi đói,
không ép nó ăn lúc đang no, không cần phải cười cười nói nói trong lúc
ăn. Món gì khoái khẩu thì ăn, chay mặn gì cũng tốt. Cá khô, mắm ruốc gì
cũng được, miễn là đừng nhiều muối quá!
Một người bạn tôi mắc bệnh "ăn không được", "ăn không biết ngon" vậy mà
vẫn béo phì, đi không nổi, là bởi vì các con thương ông quá, mua toàn
sữa Mỹ mắc tiền cho uống! Sữa giàu năng lượng, nhiều chất béo bổ quá,
làm sao còn có thể ăn ngon, làm sao không béo phì cho được?
Giá ông nghèo một chút còn hay hơn! Cá kho quẹt, rau muống mà tốt, miễn
ông ăn thấy ngon, thấy sướng! Tôi cũng biết cho thân thể của mình ngủ
hơn. Ngủ đầy giấc, đủ giấc. Ngủ đủ giấc là cơ hội tốt nhất cho các tế
bào não phục hồi, như sạc pin vậy. Sạc không đủ mà đòi pin ngon lành sao
được!
Bảy trăm năm trước, Trần Nhân Tông viết: Cơ tắc xan hề khốn tắc miên!
(Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền!) trong bài Cư trần lạc đạo, (ở đời mà vui
đạo)! Ông là vị vua nhà Trần sớm nhường ngôi cho con, lên tu ở núi Yên
Tử, Tổ sư thiền phái Trúc Lâm. Tu hành như vậy mà khi quân Nguyên xâm
lấn nước ta, ông liền xuống núi, ra tay dẹp giặc, xong, phủi tay lên núi
tu tiếp!
Mỗi người có đồng hồ sinh học của riêng mình, không ai giống ai, như vân
tay vậy, cho nên không cần bắt chước, chỉ cần lắng nghe mình. Phương
pháp này, phương pháp nọ của người này người kia bày vẽ chẳng qua cũng
chỉ để tham khảo, nắm lấy nguyên tắc chung thôi, rồi áp dụng vào hoàn
cảnh riêng cụ thể của mình, tính cách mình, sinh lý mình. Phương pháp
nào có sự ép buộc cứng ngắc quá thì phải cảnh giác!
Nên nhớ rằng tới tuổi nào đó, tai ta sẽ bắt đầu kém nhạy, mắt bắt đầu
kém tinh, đấu óc bắt đầu kém sắc sảo. Tai kém nhạy để bớt nghe những
điều chướng tai. Mắt kém tinh để bớt thấy những điều gai mắt. Đầu óc cứ
sắc sảo hoài ai chịu cho nổi! Tuy vậy, tai kém mà muốn nghe gì thì nghe
được, không thì đóng lại; mắt kém mà muốn thấy gì thì thấy được, không
thì khép lại. Thế là "căn" hết tiếp xúc được với "trần". Tự dưng không
tu hành gì cả mà cũng như tu, cũng thực tập ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ
tâm!
Rồi một hôm đẹp trời nào đó ta còn có thể phát hiện mắt mình chẳng những
nhìn kém mà còn thấy những ngôi sao lấm chấm, những lốm đốm hoa trên
bầu trời trong xanh vời vợi kia. Nếu không phải do một thứ bệnh mắt nào
đó thì đây hẳn là hiện tượng thoái hóa của tuổi già, nói nôm na là mắt
xài lâu quá, hết thời hạn bảo hành.
Cái mà người xưa gọi là "hoa đốm hư không" chính là nó. Tưởng hoa đốm
của trời, ai dè trong mắt mình! Chính cái "tưởng" của ta nhiều khi làm
hại ta. Biết vậy ta bớt mất thì giờ cho những cuộc tranh tụng, bớt tiêu
hao năng lượng vào những chuyện hơn thua. Dĩ nhiên có những chuyện phải
ra ngô ra khoai, nhưng cái cách cũng đã khác, cái nhìn đã khác, biết tôn
trọng ý kiến người khác, biết chấp nhận và nhìn lại mình.
Khi 20 tuổi người ta băn khoăn lo lắng không biết người khác nghĩ gì về
mình. Đến 40 thì ai nghĩ gì mặc họ. Đến 60 mới biết chả có ai nghĩ gì về
mình cả! Tóm lại, chấp nhận mình là mình và từ bi với mình một chút. Có
lẽ như vậy hay hơn cho mình.
BS. Đỗ Hồng Ngọc
NHÀ THƠ CAO TẦN
Nhà văn Lê Tất Điều và tập thơ Cao Tần
Từ khoảng 15, 16 tuổi tôi đã bắt đầu viết một số chuyện cho các báo hàng ngày như là viết" Mỗi ngày một chuyện" cho báo Ngôn Luận của ông Hồ Anh. Viết một số truyện cho bà Bút Trà trong phụ trương đặc biệt của báo Sài Gòn Mới.
Nhà văn Lê Tất Điều.
Viết một cách nghiêm chỉnh là sau khi có một truyện gắn đăng trên tạp chí Bách Khoa, sau đó có dịp các nhà văn như là ông Võ Phiến, ông chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Bách Khoa là ông Lê Châu. Được sự khuyến khích của họ và bắt đầu quen thuộc với không khí văn chương, và lúc này là lúc bắt đầu vào khoảng 17, 18 tuổi gì đó...
Quý vị vừa nghe một vài tự thuật của nhà văn Lê Tất Điều trong buổi đầu gia nhập làng báo. Ông nổi tiếng sau đó với nhiều tác phẩm văn chương qua nhiều thể loại, từ truyện ngắn đến tiểu thuyết. Truyện ngắn đầu tiên mang tên Cỏ Hoang được độc giả của báo Bách Khoa nồng nhiệt đón nhận đã tạo cơ hội cho ông chính thức bước vào giới văn chương Việt Nam mà lúc đó rất nhiều người mong ước. Tạp chí Bách Khoa có công phát hiện ra nhà văn Lê Tất Điều khi cho in tập truyện ngắn đấu tiên của ông:
Tạp chí Bách Khoa có in cho tôi một tập truyện ngắn nhan đề là Khởi Hành. Lúc đó vào khoảng năm 1962-1963....
Kiều Phong xuất hiện vào năm 1969 tại Sài Gòn là bút hiệu chung của nhiều người viết trong mục "Vui buồn với bạn đọc" nơi một tờ báo do nhà thơ Trần Dạ Từ chủ trương. Kiều Phong, thật ra là tên của một nhân vật tiểu thuyết kiếm hiệp rất nổi tiếng trong tác phẩm Thiên Long Bát Bộ của nhà văn Kim Dung. Tính chất anh hùng, quân tử, ngang tàng của Kiều Phong đã ăn sâu vào hàng triệu tín đồ của tiểu thuyết Kim Dung và khi chọn bút hiệu này thì người viết đã chọn những đề tài nảy lửa, chống lại những bất công xã hội mà thời nào cũng có.
Bút hiệu Kiều Phong thật ra nó xuất hiện trước ông Cao Tần rất nhiều. Tôi nhớ năm đó vào khoảng 1969....
Nhưng có lẽ được nhiều người biết hơn cả là tập thơ mang tên "Cao Tần" xuất hiện vào năm 1978. Tên của tập thơ cũng chính là một bút hiệu khác của Kiều Phong và Lê Tất Điều sau khi ông sang Hoa Kỳ vào thời gian đầu tiên của loạt người tỵ nạn tại Mỹ. Làm thơ có lẽ là một chọn lựa không mấy khó khăn đối với nhà văn Lê Tất Điều, ông kể lại:
Tự nhiên tôi không có cảm hứng viết truyện ngắn nữa. Thế rồi thơ nó lôi cuốn, bởi vì trong bài thơ công việc sáng tác nó ngắn hơn nó không đòi hỏi thời gian nhiều...
Tập thơ Cao Tần nhanh chóng được độc giả hải ngoại nồng nhiệt đón nhận vào những ngày đầu tiên của người Việt tha hương, đặc biệt là những người từng phục vụ trong quân đội. Trong Cao Tần, người đọc thấm thía nỗi buồn của những kẻ chiến bại. Tâm lý thua cuộc là một tâm lý bi thảm nhất sau chiến tranh. Nỗi buồn đeo đuổi như bị ma ám cộng với đời sống mới lạ lẫm đã kéo người ta lại với nhau như một yếu tố khởi đầu của tính bầy đàn. Ngồi lại để chia sẻ mọi thứ, từ kỷ niệm cho đến buồn phiền. Từ đời sống thường nhật bấp bênh cho đến những ước ao hoang tưởng.
Thơ Cao Tần được nhiều người đón nhận bởi ngôn ngữ của nó thể hiện hơn là những gì chứa đựng bên trong. Ngôn ngữ trong thơ Cao Tần mang đậm tính tự trào lại phảng phất nét quyến rũ của chất anh hùng ca từ nhân vật Kiều Phong mà tác giả đã có cơ hội nhiều năm tiếp xúc. Có lẽ sự hòa trộn giữa ngôn ngữ chắt lọc thi ca và tính phán xét lạnh lùng, mạnh mẽ của loại văn chính luận đã khiến thơ Cao Tần có được sự hấp dẫn kín đáo nhưng ngấm ngầm dữ dội đã khiến người đọc khó thể bỏ qua khi đã đọc những dòng chữ đầu tiên:
Dăm thằng khùng họp nhau bàn chuyện lớn
Gánh sơn hà toan chất thử lên vai
Chuyện binh lửa anh em chừng cũng ớn
Dọn tinh thần: cưa nhẹ đỡ ba chai
Rừng đất khách bạt ngàn màu áo trận
Xong hiệp đầu mây núi đã bâng khuâng
Hào khí bốc đủ mười thành chất ngất
Chuyện vá trời coi đã nhẹ như không
Một tráng sĩ vung ly cười ngạo mạn
Nửa đời xưa ta trấn thủ lưu đồn
Nay đất khách kéo lê đời rất nản
Ta tính sẽ về vượt suối trèo non...
Sẽ có lúc rừng sâu bừng chuyển động
Những hùm thiêng cựa móng thét rung trời
Và sông núi sẽ vươn mình trỗi dậy
Và cờ bay trên đất nước xinh tươi
Một tráng sĩ vô êm chừng sáu cối
Thần tự do giờ đứng ở nơi nào?
Ta muốn đến leo lên làm đuốc mới
Tự đốt mình cho lửa sáng xem sao...
Thần tự do giơ hoài cây đuốc lạnh
Ta tiếc gì năm chục ký xương da
Sẽ làm đuốc soi tìm trong đáy biển
Những oan hồn ai bỏ giữa bao la...
Bình minh tới một chàng bừng tỉnh giấc
Thấy chiến trường la liệt xác anh em
Năm tráng sĩ bị mười chai quất gục
Đời tha hương coi bộ vẫn êm đềm
Sàn gác trọ những tâm hồn bão nổi
Những hào hùng uất hận gối lên nhau
Kẻ thức tỉnh ngu ngơ nhìn nắng mới:
Ta làm gì cho hết nửa đời sau?
Thanh Quang vừa đọc cho chúng ta nghe bài thơ mang tên "Ta Làm Gì Cho Hết Nửa Đời Sau" được Cao Tần làm vào tháng 3 năm 1977. Nếu nói bài thơ này là đại diện cho thi pháp của toàn tập thơ Cao Tần thì cũng không là quá lời. Ở cái tựa, người đọc cảm thấy hình như chất cay đắng từ tâm hồn của chính mình tan vào bài thơ, và rồi bài thơ trở thành tấm kính vạn hoa luân chuyển, nhảy múa theo âm điệu; khi nhanh khi chậm của một tiệc rượu cuối tuần.
Mà không, dùng chữ "tiệc rượu" trong hoàn cảnh của bài thơ nghe ra sang trọng quá. Phải gọi là "nhậu" thì mới diễn tả chính xác cái sân khấu đời mà Cao Tần đang tả. Tấm kính vạn hoa đã phản chiếu số phận của những người ngồi quanh bàn nhậu phơi ra từng tâm trạng, từng ngữ điệu hay cử động trong mỗi vai diễn. Những nhân vật vừa là tráng sĩ vừa là dân thất nghiệp và cũng có khi vừa lãnh trợ cấp trong những ngày đầu nơi xứ lạ quê người. Nâng chai cũng như nâng tất cả xót xa và gắng gượng dùng những hình ảnh vĩ đại của nước Mỹ như tượng Nữ Thần Tự Do để dè bỉu cho chính thân phận mình.
Từ bàn nhậu bước ra, nhân vật của Cao Tần tìm sự thanh thản ở thiên nhiên. Kết quả là thiên nhiên kéo nạn nhân trở về những hình ảnh mà họ muốn chôn vùi hay ít ra là muốn quên trong giây lát:
Ta đã vượt muôn dặm dài biển cả
Ðường tử sinh lui tới cũng đôi lần
Bỗng bình minh này ngồi thuyền, câu cá
Trôi dật dờ như lá trên hồ xanh
Hỡi chú cá rong chơi miền nước biếc
Ta vượt đường muôn dặm chẳng tìm nhau
Bày đặt buông cần mà quên thương tiếc
Cho đời êm, qua được mấy giờ đau
Cao Tần có thảnh thơi hay không khi tìm thú vui mà người sống ở Mỹ thường có là thú đi câu? Nhà thơ đi câu với tâm trạng không mấy tin rằng mình sẽ hòa vào với thiên nhiên khi nghi ngờ rằng trò đi câu chỉ là bày đặt,
Bày đặt buông cần mà quên thương tiếc
Cho đời êm, qua được mấy giờ đau
ngay cả cây cối cũng bị nhà thơ vực dậy để mà tra vấn:
Nói nghe coi này cổ thụ ven hồ
Kể từ những trăm năm dài đứng đó
Có gặp khi nào một kẻ xác xơ
Lòng sầu hận hơn kiếp người da đỏ
Ðời đang bão khi không chìm lặng ngắt
Như cành khô nằm chết đáy sông sâu
Ðời đang dậy sóng thần lên bát ngát
Bỗng vùi yên đáy biển một thân tàu
Và móc đời lên cần câu vớ vẩn
Ðem dìm chơi trong đáy nước rong rêu
Tuổi chưa nặng hồn đã chừng ngơ ngẩn
Lòng vàng khô hơn chiếc lá đưa vèo?
Thiện Giao vừa đọc bài thơ Câu Cá của Cao Tần được sáng tác vào tháng 11 năm 1977.
Cao Tần còn nhiều bài thơ tự vấn nữa nhưng tiếc rằng khuôn khổ thời gian của tạp chí không cho phép chúng tôi giới thiệu thêm. Có điều là đọc thơ Cao Tần người ta không cảm thấy nhức đầu với những chữ những nghĩa rối rắm. Thơ Cao Tần vừa vui vừa buồn. Vừa tĩnh lặng như thiền sư vui tính lại cũng đậm đặc chất hào sảng của những tâm hồn sương gió. Không nhức đầu nhưng thơ Cao Tần gợi mở rất nhiều kỷ niệm. Mà kỷ niệm của những người xa xứ thì có được mấy niềm vui?
TAP CHÍ DÂN VẬN
DỖ NGỌC THẠCH * TẢN ĐÀ
Tản Đà - Thi Sĩ Của Hai Thế Kỷ
Đỗ Ngọc Thạch
Cung chiêu anh hồn Tản Đà in ở đầu cuốn Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh
- Hoài Chân, có đoạn: “…Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một
cuộc hòa nhạc tân kỳ đương sắp sửa... với chúng tôi, tiên sinh vẫn là
một bậc đàn anh... Tiên sinh còn giữ được của thời trước cái phong thái
vững vàng, cái cốt cách ung dung... Tiên sinh đã đi qua giữa cái hỗn độn
của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20 với tấm lòng bình thản một người thời
trước... những cảnh éo le thường phô bày ra trước mặt không làm bợn
được linh hồn cao khiết của tiên sinh. Cái dáng điệu ngang tàng chúng
tôi thường thấy ở các nhà thơ xưa, ở tiên sinh không có vẻ vay mượn. Cái
buồn chán của tiên sinh cũng là cái buồn chán của một người trượng
phu…”. Cho dù cái không khí khai hội Tao Đàn có náo nhiệt đến đâu thì
cũng không vì thế mà Hoài Thanh quá cao hứng để giành cho Tản Đà những
lời khen tặng danh giá nhất, gọi ông là con người của hai thế kỷ và
trích đăng tới hai bài thơ của Tản Đà để mở màn cho Hội Tao Đàn Thơ Mới,
đó là bài Thề non nước và bài Tống biệt! Quả là Hoài Thanh có “Con mắt
xanh” khi đánh giá Thơ Mới và thơ Tản Đà.
*
Ngô Tất Tố (1894 - 1954), một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học và nhà nghiên cứu văn hóa lớn,- hơn Tản Đà những 5 tuổi nhưng đã khởi nghiệp bằng việc “phò tá” Tản Đà ở tờ An Nam Tạp chí từ ngày đầu (1926). Sau khi An Nam Tạp chí đình bản (lần thứ nhất, vì thiếu tiền), Ông Đầu Xứ Tố lại “tháp tùng” Tản Đà vào Sài Gòn, cùng “lăn lộn” với Tản Đà gần ba năm trời mà không làm nên “cơm cháo” gì nên ông lại trở ra Hà Nội, tiếp tục sinh sống bằng cách viết bài cho các báo: An Nam tạp chí, Thần chung, Phổ thông, Đông Dương, Hải Phòng tuần báo, Thực nghiệp, Con ong, Việt nữ, Tiểu thuyết thứ ba, Tương lai, Công dân, Đông Pháp thời báo, Thời vụ, Hà Nội tân văn... với 29 bút danh khác nhau như : Thục Điểu, Lộc Hà, Lộc Đình, Thôn Dân, Phó Chi, Tuệ Nhơn, Thuyết Hải, Xuân Trào, Hy Cừ... Ông Tố chuyên tâm vào văn xuôi và đã thành công lớn với tiểu thuyết Tắt đèn - khai mở dòng văn học hiện thực phê phán thời kỳ 1930-1945. Tôi phải vời cụ Đầu xứ Tố ra khi đang nói về Tản Đà bởi cụ là nhân chứng đáng tin cậy nhất về Tản Đà không chỉ vì cụ là người bạn viết thân thiết của Tản Đà mà còn vì kiến văn sâu rộng. Hãy đọc lại nhận định của cụ Tố về Tản Đà, sau khi Tản Đà “về trời”: “Tôi đã nghĩ đi nghĩ lại. Trong cái trang Thi sĩ của cuốn Việt Nam văn học sử này, dẫu sao mặc lòng, ông Tản Đà vẫn là một người đứng đầu của thời đại này”(Ngô Tất Tố: Tản Đà ở Nam Kỳ - Tao Đàn, 1939).
*
Qua nhận định của Hoài Thanh và Ngô Tất Tố về Tản Đà, ta có thể nói Thơ là cái làm nên tên tuổi Tản Đà. Vì thế trong bài viết này, chúng tôi xin tập trung sự chú ý vào Thơ Tản Đà.
Tản Đà (1889 - 1939) tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, là một nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch, nhà báo “có một không hai”.Trong văn đàn Việt Nam đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng, vừa độc đáo, vừa dồi dào năng lực sáng tác:
“Vùng đất Sơn Tây nảy một ông / Tuổi chửa bao nhiêu, văn rất hung
Sông Đà núi Tản ai hun đúc? / Bút thánh câu thần sớm vãi vung!...
(Tự trào)
Và với bài thơ Thề non nước, ta có được một hình ảnh đẹp về một nhà thơ của Non Tản sông Đà: tình quê hương xứ sở chính là nguồn mạch vô tận của cảm hứng sáng tạo:
-Nước non nặng một lời thề,
Nước đi đi mãi không về cùng non.
Nhớ lời “nguyện nước thề non”,
Nước đi chưa lại, non còn đứng không.
-Non cao những ngóng cùng trông,
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày.
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã dầy tuyết sương.
Trời tây ngả bóng tà dương,
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.
Non cao tuổi vẫn chưa già
Non thời nhớ nước, nước mà quên non.
Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non, còn nước, hãy còn thề xưa.
-Non xanh đã biết hay chưa?
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi.
Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui.
-Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non nước nước không nguôi lời thề!
(1920)
*
Tản Đà sinh ra trong gia đình có truyền thống khoa bảng. Cha Tản Đà là Nguyễn Danh Kế, thi đỗ cử nhân, làm quan cho triều Nguyễn đến chức Ngự sử trong Kinh. Ông Kế là người phong lưu tài tử, thường lui tới chốn bình khang và quen với bà Lưu Thị Hiền ở phố. Bà Lưu Thị Hiền có nghệ danh Nhữ Thị Nghiêm, là một đào hát tài sắc ở Hàng Thao, Nam Định, bà lấy lẽ ông Kế khi ông làm tri phủ Xuân Trường. Bà là người hát hay, có tài làm thơ Nôm. Tản Đà là con trai út của mối lương duyên tài tử và giai nhân này.
Năm Tản Đà lên 3 tuổi, bố mất, cuộc sống gia đình trở nên nghèo túng. Năm sau, vì bất hòa với nhà chồng, bà Nghiêm bỏ đi, trở lại nghề ca xướng. Tám năm sau, xảy ra chuyện chị ruột ông cũng theo mẹ làm nghề đó (năm Tản Đà 13 tuổi). Những sự kiện đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trong tâm hồn. Tản Đà hấp thụ nền Nho giáo từ nhỏ. Năm 14 tuổi, Tản Đà đã thạo các lối từ, chương, thi, phú. Năm 15 tuổi, ông đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn Tây. Nhưng ba lần đi thi đều trượt: năm 1908, thi vào trường Hậu Bổ (trường dành cho con em quan lại để ra làm quan), năm 1909 và 1912 thi Hương. Tản Đà đã giải thích cái sự trượt hoài của mình :
Bởi ông hay quá, ông không đỗ / Không đỗ ông càng tốt bộ ngông”.
(Tự trào)
Chính vì thế, người ta còn gọi Tản Đà là Nhà Thơ Ngông!
Năm 1913, người anh cả đã nuôi Tản Đà từ ba tuổi là Nguyễn Tài Tích mất, Tản Đà về Vĩnh Phú làm nghề báo, tờ báo ông cộng tác đầu tiên là Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh (1), phụ trách mục "Một lối văn nôm". Đến năm 1915, ông lấy vợ là bà Nguyễn Thị Tùng, con gái một tri huyện ở Hà Đông. Cũng năm này ông có tác phẩm hay, đăng trên Đông dương tạp chí, nhanh chóng có được tiếng vang trên văn đàn. Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà là tên ghép núi Tản, sông Đà,và chính thức chọn con đường của một người viết văn, làm báo chuyên nghiệp suốt đời bay nhảy:
Nước rợn sông Đà con cá nhảy / Mây trùm non Tản cánh diều bay!
*
Từ 1916 đến 1926 là những năm tháng đắc ý nhất của Tản Đà. Năm 1916, cuốn sách đầu tiên của Tản Đà được xuất bản, gây tiếng vang lớn, đó là tập thơ Khối tình con I. Sau thành công đó, ông viết liền cuốn Giấc mộng con (in năm 1917) và một số vở tuồng: Người cá, Tây Thi, Dương Quý Phi, Thiên Thai (diễn lần đầu năm 1917 tại Hải Phòng).
Năm 1917, Phạm Quỳnh (2) sáng lập ra Nam Phong tạp chí, và bài của Tản Đà có trên tạp chí này từ số đầu tiên. Năm 1918, Phạm Quỳnh ca ngợi cuốn Khối tình con I và phê phán cuốn Giấc mộng con I, cả khen lẫn chê đều dùng những lời lẽ sâu cay, biến Tản Đà trở thành một hiện tượng trên văn đàn. Từ 1919 tới 1921, Tản Đà viết một loạt sách, truyện thì có Thần tiền, Đàn bà Tàu (1919); sách giáo khoa, luân lý thì có Đài gương, Lên sáu (1919), Lên tám (1920), thơ thì có tập Còn chơi (1921). Thời kỳ này ông quen với một nhà tư sản nữa là ông Bùi Huy Tín (3), cùng nhau du lịch khắp Bắc, Trung kỳ và làm chủ bút Hữu thanh tạp chí một thời gian.Năm 1922, Tản Đà thành lập Tản Đà thư điếm (sau đổi thành Tản Đà thư cục), đây là nhà xuất bản riêng đầu tiên của ông.Tại đây đã in hết những sách quan trọng trong sự nghiệp của Tản Đà: Tản Đà tùng văn (tuyển cả thơ và văn xuôi, trong đó có truyện Thề Non Nước, 1922); Truyện thế gian tập I và II (1922), Trần ai tri kỷ (1924), Quốc sử huấn nông (1924), và tập Thơ Tản Đà (1925). Ngoài ra thư cục này còn cho xuất bản sách của Ngô Tất Tố, Đoàn Tư Thuật.
Năm 1926, Hữu Thanh tạp chí đình bản, Tản Đà cho ra đời An Nam tạp chí số đầu tiên với tòa soạn ở phố Hàng Lọng. Sự ra đời của An Nam tạp chí, tờ báo mà Tản Đà dành hết tâm huyết, đã bắt đầu quãng đời lận đận của ông.
*
Thời kỳ đầu làm chủ An Nam tạp chí, Tản Đà chưa thiếu thốn nhiều, ông thường đi thăm thú khắp ba Kỳ.Ông vừa làm báo vừa đi chơi do đó tạp chí An Nam cũng ra thất thường. Dần dần, ông túng quẫn, những cuộc đi là để trốn nợ hoặc giải sầu, hoặc là tìm người tài trợ cho báo. Thời kỳ này ông viết cũng nhiều, các tập Nhàn tưởng (bút ký triết học, 1929), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1929), Khối tình con III (in lại thơ cũ), Thề non nước (truyện),Giấc mộng con II (truyện), lần lượt ra đời.
Năm 1933, khi phong trào Thơ Mới đang nổi lên, thì An Nam tạp chí của Tản Đà chính thức đình bản sau 3 lần đình bản và 3 lần tái bản. Cuộc sống của Tản Đà vốn nghèo túng lại càng trở nên thiếu thốn hơn, phải chạy ngược chạy xuôi kiếm sống. Lúc ông ở khu Bạch Mai dạy chữ Nho. Có lúc ở Hà Đông, lại thấy mấy tờ báo đăng quảng cáo: "Nhận làm thuê các thứ văn vui, buồn, thường dùng trong xã hội - Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu". Năm 1938, ông còn mở cả một phòng đoán số Hà Lạc để xem bói.
Những năm cuối đời bi thảm như thế, nhưng Tản Đà còn được an ủi là ông bỗng được mọi người quan tâm trở lại. Phe "Thơ Mới" sau chiến thắng, đã không còn đả kích Tản Đà. Họ bắt đầu lật lại những gì Tản Đà đã viết xưa nay, họ ca ngợi Tản Đà, xem ông như một ông Thánh của làng thơ... Tờ Ngày nay của Tự Lực văn đoàn, trước kia chê ông thậm tệ, thì nay lại mời ông cộng tác, hết lời ca ngợi những bài thơ Đường do ông dịch. Những bài thơ lục bát dịch từ thơ Đường của Tản Đà thường được cho là hay hơn các bản dịch khác, vì sự tự nhiên, vượt thoát khỏi câu chữ mà chuyển tải được cảm xúc người dịch vào đó. Đáng chú ý là Tản Đà còn dịch những bài thơ dài như Trường Hận ca (4) của Bạch Cư Dị (5) dịch ra thể Song thất lục bát, được đánh giá rất cao. Bùi Giáng (6) trong cuốn Đi vào cõi thơ đã gọi bản dịch này là "vô tiền khoáng hậu": Nếu tiên sinh còn sống, ắt tại hạ xin được phép cùng tiên sinh nhậu nhẹt một trận lu bù. Thơ của tiên sinh làm, chẳng có chi xuất sắc. Nhưng bản dịch Trường hận ca của tiên sinh quả thật là vô tiền khoáng hậu.. .Tản Đà đã góp phần sáng tạo, đúng hơn là ông đã tái tạo thi phẩm của Bạch Cư Dị cho hồn nhạc Việt lên tiếng dậy dàng. Tôi tin rằng « Trường Hận Ca » của Tản Đà là đỉnh cao nhất của nền thi ca Việt Nam tiền bán thế kỷ XX.
Tản Đà là người đầu tiên dịch bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu (7) và bản dịch của Tản Đà được nhiều người yêu thích nhất trong những bài thơ Lục bát dịch từ thơ Đường:
Người xưa cưỡi hạc đi đâu
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng bay mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng lững lờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!...
Những năm cuối đời, sức khỏe của Tản Đà suy yếu nhiều, ông giành hết tâm sức cho việc dịch thuật và biên soạn: Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh (Tân Dân xuất bản, 1937), Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện (in năm 1940, sau khi ông mất), Thời hiền thi tập, Khổng Tử lược truyện (đã thất lạc)...Ngày 7 tháng 6 năm 1939, Tản Đà đã “về trời” sau một thời gian chống chọi với bệnh gan, trên cái giường nát tại nhà riêng số 71 Ngã Tư Sở, Hà Nội, để lại vợ và tám đứa con. Di thể của ông được an táng tại nghĩa trang Quảng Thiện, Hà Nội.
Làng văn nghệ trong nước vừa tạm lắng dịu sau những tranh luận sôi sục giữa “Thơ cũ” và “Thơ Mới” lại xôn xao khi Tản Đà ra đi. Một loạt các bài báo tưởng niệm Tản Đà được ra mắt ngay sau đó: Cái duyên của Tản Đà của Khái Hưng, Công của thi sĩ Tản Đà của Xuân Diệu, Tôi với Tản Đà thi sỹ của Phan Khôi, Tản Đà, một kiếm khách của Nguyễn Tuân, v.v… Những bài viết này thể hiện sự kính trọng, quý mến đối với cả văn thơ và con người Tản Đà, người mà cách đây vài năm còn bị họ đả kích không tiếc lời!...Quả là “Nghĩa tử là nghĩa tận”.
*
Trong cuộc đời của Tản Đà, người ta thấy có nhiều mối tình đã mang lại cho ông “Thi hứng” dạt dào. Đó là mối tình tuyệt vọng với cô gái họ Đỗ ở phố hàng Bồ Hà Nội. Đây là mối tình trong trắng, đắm say, nhưng kết thúc “không có hậu”. Mối tình này đã làm ông đau khổ và tạo nên nhiều thi hứng, để làm nên những câu thơ đặc sắc:
Vì ai cho tớ phải lênh đênh / Nặng lắm ai ơi, một gánh tình!
Theo các nhà nghiên cứu văn học thì đây là chuyện tình đã ảnh hưởng nhiều nhất tới Tản Đà. Đau khổ, buồn chán, ông đi ngao du sơn thủy ở Việt Trì, Hòa Bình... Những câu thơ làm trong giai đoạn “thất tình” này của Tản Đà như là đã khơi mào cho một trào lưu về văn học lãng mạn ở Việt Nam: thơ viết về Tình yêu - “Thơ Tình”, chủ yếu là “Thơ Thất tình”. Trước đó ít ai phô ra những nỗi buồn sâu kín, những nỗi chán đời vì “thất tình” chất chứa trong lòng, nay thì những từ “anh anh, em em” tràn ngập Thi đàn và Thi đàn lúc nào cũng sụt sùi lệ rơi!
Cô gái hàng Bồ, và ít nhất ba mối tình thực nữa đã đi vào và ở lại trong Giấc mộng con. Đó là mối tình với cô con gái út ông tri phủ Vĩnh Tường, cô nữ sinh 13 tuổi ở Nam Định, và cả cô đào Liên, người sắm vai Tây Thi trong vở kịch Cô Tô tàn phá do ông là soạn giả kiêm đạo diễn. Ngoài những mối tình có thực đó, thi sĩ đa tình Tản Đà có rất nhiều “tình mộng”: với Tây Thi, với Chiêu Quân, với Ngọc Nữ... mà người ta thường thấy trong Khối tình con…:
1. Ôi hồng nhan, hỡi hồng nhan!
2. Khôn thiêng cũng chẳng ai van ai mời.
3. Trời Nam thằng kiết là tôi,
4. Chùa Tiên, đất khách, khóc người bên Ngô.
5. Cô với tôi, tôi với cô
6. Trước sân lễ bạc có mồ nào đây.
7. Hồn cô ví có ở đây
8. Đưa nhau đi với, lên mây cũng đành.
(Tế Chiêu Quân - Tản Đà văn tập).
*
Tác phẩm đầu tiên của Tản Đà được công bố trước công chúng là những bài tản văn đăng ở Đông Dương tạp chí, năm 1915. Văn của Tản Đà ngay từ khi ra mắt bạn đọc đã nổi tiếng, đến mức Đông Dương tạp chí phải mở riêng một mục là Tản Đà văn tập chuyên đăng tải văn của ông.Tuy nhiên, Thơ mới là lĩnh vực chính yếu trong sự nghiệp đa dạng, phong phú của Tản Đà. Tản Đà trước hết là một thi sĩ, rồi mới là nhà văn, nhà báo. Thơ Tản Đà tuôn chảy như suối nguồn. Thơ Tản Đà đa dạng về đề tài, phong phú về cảm xúc song thường diễn tả cảm giác say sưa, chán ngán đời thực, đắm chìm trong cõi mộng, những mối tình với người tri kỷ xa xôi, song cũng có những bài mang tính ẩn dụ, ẩn chứa sự phê phán hiện thực.Thơ Tản Đà thường làm theo thể cổ phong, Đường luật, Đường luật phá thể, lục bát, song thất lục bát. Ông còn có tài sáng tác thơ dựa trên từ khúc, một hình thức âm nhạc của Trung Hoa, những bài Tống biệt, Cảm thu tiễn thu nhờ sự phá cách, phối hợp nhiều thể loại thơ, có thể coi là cách tân về hình thức khá táo bạo. Một kiểu văn vần đặc biệt là hát nói mà ở đó, Tản Đà có thể sánh ngang với Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Cao Bá Quát…Khi Tản Đà đến với Hát nói, dường như Tản Đà trở về cái nôi của cảm hứng sáng tạo của mình, bởi ông đã sống trong thế giới Hát nói “từ trong bụng mẹ” – người mẹ là Ca Nương của Tản Đà chính là sự hiện thân sinh động của mối tình “Giai nhân-Tài tử”. Bởi vậy, những bài Hát nói của Tản Đà thể hiện một triết lý sống phóng khoáng, một tâm hồn hay mơ mộng, hoài cổ nhưng man mác nỗi sầu nhân thế…
Trong lĩnh vực thi ca, thơ Tản Đà là thứ thơ có bản lĩnh, bản sắc riêng, không lẫn vào đâu được. Song giá trị lớn lao và đặc sắc hơn cả cũng vẫn là ở vị trí khai sơn phá thạch của ông trên thi đàn đầu thế kỷ. Đương nhiên, Tản Đà chưa phải là một nhà thơ mới như các nhà thơ mới lớp sau ông. Thơ Tản Đà vừa có phong vị cổ thi vừa có cảm xúc hiện đại. Ông là nhà thơ đã có tư tưởng cách tân, có nhiều tìm tòi, sáng tạo và mạnh dạn vượt ra ngoài khuôn sáo cũ mà bài Tống biệt là một ví dụ rất rõ:
Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai,
Suối tiễn, oanh đưa, luống ngậm ngùi.
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai.
Ước cũ, duyên thừa, có thế thôi!
Đá mòn, rêu nhạt,
Nước chảy, huê trôi.
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ nay xa cách mãi.
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng soi.
Bài Tống biệt nằm trong vở tuồng Thiên Thai, từng được diễn ở rạp Nguyễn Đình Cao (Hải Phòng) và rạp Thắng Ý (Hà Nội) năm 1917, sau được in lại trong tập Khối tình con II năm 1918. Thiên Thai là động Tiên, chỗ Tiên ở, là nguồn cảm hứng mạnh của nhiều thi sĩ, nhạc sĩ như Văn Cao với nhạc phẩm Thiên Thai, nhà văn như Nguyễn Dữ với Từ Thức lấy vợ Tiên trong Truyền kỳ mạn lục, v.v…
Trong thời buổi mà lối thơ niêm luật gò bó đang còn phổ biến, thì lối thơ như bài Tống biệt này của Tản Đà quả thật là rất mới! Chính cái sự mạnh dạn vượt ra ngoài khuôn sáo cũ ấy đã tạo nên một giọng điệu phóng túng riêng trong phong cách thơ Tản Đà:
Trời sinh ra bác Tản Đà,
Quê hương thời có cửa nhà thì không
Nửa đời nam, bắc, tây, đông
Bạn bè sum họp vợ chồng biệt ly
Túi thơ đeo khắp ba kỳ,
Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng...
(Thú ăn chơi)
Nói về tính cách tân, đổi mới của thơ Tản Đà, hay nói về một giọng điệu phóng túng riêng tạo nên phong cách thơ Tản Đà thì Tống biệt chỉ là một ví dụ nhỏ, mà phải kể đến Cảm Thu, tiễn Thu (đăng trên báo Hữu thanh, 1921, rồi đưa vào tập Thơ Tản Đà, 1925):
1. Từ vào thu đến nay:
2. Gió thu hiu hắt,
3. Sương thu lạnh
4. Trăng thu bạch,
5. Khói thu xây thành
6. …
7. Nào những ai:
8. Bảy thước thân nam tử,
9. Bốn bể chí tang bồng
10. Đường mây (*) chưa bổng cánh hồng,
11. Tiêu ma tuế nguyệt, ngại ngùng tu mi.
12. …
13. Nào những ai:
14. Kê vàng tỉnh mộng (**)
15. Tóc bạc thương thân
16. Vèo trông lá rụng đầy sân,
17. Công danh phù thế có ngần ấy thôi.
Chú thích: (*) Dường mây: đường tiến thân, dường làm quan.(**) Giấc mộng kê vàng:Chuyện kể có một thư sinh thi hỏng, thư sinh này kể nỗi bất hạnh của mình cho một đạo sĩ gặp trên đường đi, vị đạo sĩ liền đưa cho anh ta một chiếc gối. Anh ta gối đầu lên chiếc gối, liền nằm mộng thấy mình lấy vợ, sinh con, rồi làm đến chức tể tướng, sống tới tám mươi tuổi. Tỉnh dậy mới hay chỉ là giấc mộng và nồi kê vàng nấu trước khi ngủ vẫn còn chưa chín.
Bài Đời đáng chán (in ở Tản Đà Tùng văn, 1922) cũng chung tâm trạng “ngẫm sự đời” đó:
1. Đời đáng chán hay không đáng chán?
2. Cất chén quỳnh riêng hỏi bạn tri âm
3. Giá khuynh thành nhất tiếu thiên kim
4. Mắt xanh trắng (1) đổi nhầm bao khách tục
5.
6. Giang hà nhật hạ nhân giai trọc
7. Thiên địa lô trung thực hữu tình (2)
8.
9. Đón đưa ai gió lá chim cành (3)
10. Ấy nhân thế (4) phù sinh là thế thế.
11. Khách phù thế chửa dứt câu phù thế (5)
12. Người phong lưu càng đượm vẻ phong lưu
13. Bức khăn hồng nâng đỡ hạt châu
14. Chuyện kim cổ một vài câu phải trái.
15. Châu Nam Hải (6) thuyền chìm sông Thúy Ái (7)
16. Sóng Tiền Đường cỏ áy bến Ô Giang (8)
17. Ngẫm nghìn xưa: ai tài hoa, ai tiết liệt, ai đài trang.
18. Cùng một giấc mơ màng trong vũ trụ
19. Đời đáng chán biết thôi là đủ,
20. Sự chán đời xin nhủ lại tri âm.
Chú thích: 1.Nguyễn Tịch có đôi mắt đổi màu: khi ưng ý thì tròng mắt có màu xanh, còn khi không ưng ý thì màu trăng. 2. Sông nước mỗi ngày một xuống kém cho nên người đời đều đục. Trong lò đúc của Trời đất ai là kẻ thực có tình? 3. Dựa theo câu thơ cổ TQ: Chi nghinh nam bắc điểu, diệp tống vãng lai phong (Cành thì đón chim từ bắc từ nam đến đậu. Lá thì đưa tiễn những cơn gió qua lại. 4. Nhân thế: đời người. 5. Phù thế: Cuộc đời trôi nổi. 6. Nàng Mỵ Châu bị vua cha chém chết ở bể Nam Hải, máu của Nàng chảy ra bể, con trai ăn vào hóa thành châu ngọc. 7.Chuyện có người đàn bà chồng chết trận ở sông Thúy Ái, bèn tự tử ở sông đó để theo chồng. 8. Tiền Đường và Ô Giang là những nơi có nhiều bi kịch của các Mỹ nhân.
Khi các Thi nhân “ngẫm sự đời” thì thường là đi đến cái kết cục bất lực, thúc thủ trước thời cuộc. Tản Đà dù có “ngông” cỡ nào thì cũng không thoát khỏi cảnh ngộ chung đó:
Khi làm chủ báo, lúc viết mướn,
Hai chục năm dư cảnh khốn cùng...
Trần gian thước đất vẫn không có,
Bút sắt chẳng hơn gì bút lông
Ngày xuân như ngựa, đầu xanh bạc,
Chán cả giang hồ, hết cả ngông !
(Tiễn ông Công lên trời).
Đi liền với cái ngông là cái say, nhưng đó không phải là cái say ẩm thực tầm thường, mà là cái say của
tao nhân mặc khách, cái say vì nhân thế, vì cảnh đời:
Cảnh đời gió gió, mưa mưa,
Buồn trông ta phải say sưa đỡ buồn
Rượu say ta lại khơi nguồn
Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình
Rượu thơ mình lại với mình,
Khi say quên cả cái đỉnh phù du
Trăm năm thi sĩ tửu đồ là ai?
(Thơ rượu).
Và đã say không phải vì rượu mà vì đời, vì thế sự thì thật khó dứt cơn say bởi cái sự say đã “thăng hoa”
thành “nghệ thuật say” - Thơ say:
Say sưa nghĩ cũng hư đời,
Hư thời hư vậy, say thời cứ say
Đất say đất cũng lăn quay,
Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười.
(Lại say).
Nói đến “nghệ thuật say” không thể không nói đến nhân vật Lưu Linh: Tự Bá Luân, người đời Tấn (Trung Quốc), trong nhóm “Trúc lâm thất hiền” (7 người hiền trong rừng Trúc).Tính phóng khoáng, thích uống rượu và uống không biết say, có làm bài thơ Tửu đức tụng ca ngợi việc uống rượu, được truyền tụng đời sau. Một hôm, ông bảo vợ đi lấy rượu. Vợ ông đổ rượu đi và đập bể vò rượu, khóc mà can rằng: “Ông uống rượu nhiều quá, không phải là cái đạo nhiếp sinh, ông phải bỏ bớt rượu đi”.Lưu Linh nói: “Phải, ta không thể tự cấm được, phải cầu quỷ thần lên để thề nguyện mới được.Vậy phải đủ rượu thịt làm lễ chứ!”.Vợ liền nghe lời, lo sắm sửa đủ các thứ. Xong, Lưu Linh bèn quỳ mà khấn rằng:
"Thiên sanh Lưu Linh, / Dĩ tửu vi danh,
Nhất ẩm nhất hộc, / Ngũ đẩu giải tỉnh,
Phụ nhân chi ngôn, / Thận bất khả thính.”
Dịch nghĩa:
Trời sanh Lưu Linh, / Lấy rượu làm danh,
Mới uống một vò, / Năm đấu giải tỉnh,
Lời nói đàn bà, / Cẩn thận đừng nghe.
Khấn xong thì ngồi uống hết năm đấu rượu rồi nói “Quỷ thần không cho ta bỏ rượu!”.
Tản Đà cũng có câu “Trời sinh ra bác Tản Đà”, hẳn là ngưỡng mộ Lưu Linh! Nhưng Tản Đà không thể “say tuyệt đối” như Lưu Linh mà là “nửa tỉnh nửa say”! Vì thế, bao trùm và sâu lắng trong hồn thơ Tản Đà vẫn là cái điệu buồn vô cớ, cái nỗi sầu đằng đẵng và cái tình vô hình, vô ảnh, những yếu tố muôn đời của chủ nghĩa lãng mạn… đó là sự cô đơn vĩnh hằng:
Suối tuôn róc rách ngang đèo,
Gió thu bay lá bóng chiều về tây
Chung quanh những lá cùng cây,
Biết người tri kỷ đâu đây mà tìm...
(Vô đề)
Làn cây khuất bóng trăng tà,
Đêm thu một khắc quan hà mấy mươi
Nhớ ai đất khách quê người,
Nhớ ai góc bể bên trời bơ vơ.
(Nhớ ai)
*
Trong cuốn 40 năm nói láo, nhà văn, nhà báo Vũ Bằng có “ký họa” chân dung Tản Đà thật sinh động, thật sắc nét. Vì thế, tôi xin mượn bức “ký họa” chân dung Tản Đà đó của Vũ Bằng để tạm ngưng bài viết này: “…Tản Đà, thấy tôi vào, cứ ngồi ỳ ra không thèm đứng dậy; một lúc lâu mới nhìn tôi một hồi như thể nhìn thằng ăn cắp, rồi “à” một tiếng và bảo tôi ngồi xuống ghế. Thì ra ông ta đang say. Bên cạnh ông là một cái hỏa lò than cháy râm râm, trước mặt là một cái mâm nhỏ trên bày thức ăn bừa bãi. Ông ta uống một tợp, gắp một miếng, khà một cái, hơ tay vào lò than rồi… ngồi rung rung đùi ngâm, với một giọng khê nằng nặc:
Vèo trông lá rụng đầy sân / Tóc tơ ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Rồi ông day cái mặt tròn, đỏ như trái bồ quân, trên cắm một cái mũi tròn xoe có hàng ngàn vạn đường gân máu chạy ngang chạy dọc như các con kênh đào vẽ trên bức bản đồ quân sự, ông nhe răng ra (tôi không biết ông cười hay mếu) nói một cách dõng dạc: “À, ông Bằng, ông có thấy không? Chữ “vèo” ấy có cho mấy khuyên son cũng chưa đủ! “Vèo trông lá rụng”, hay lắm”. Theo lời ông Vũ Hùng Toán nói với tôi sau này, ông Hiếu suốt ngày cứ tự khen mình như thế, một tý phản đối cũng làm cho ông không bằng lòng…Vừa ngã vào làng báo, tôi gặp hai nhân vật điển hình: một ông công tử bột đánh phấn bôi môi làm cách mạng văn chương với một giọng văn cụt lủn, có khi không “suy dê”, không “vec bờ” và nổi tiếng làm tiền của gái, và một ông hủ “mớ đời”, làm báo mà chỉ lo chau chuốt một chữ trong thơ, cả ngày say rượu, không thèm biết một tý gì về tình hình quốc nội và quốc tế! Nghĩ vậy, nhưng trong thâm tâm, tôi phục sát đất cả hai ông, bởi vì thơ của một ông rung động, còn văn của một ông có tính cách mạng, trẻ trung, chứ không già khụ như Hoàng Tăng Bí (*) hay Dương bá Trạc. Tôi phục Tản Đà đã đem một cái đẹp cao siêu vào mục thi ca cho làng báo, còn Hoàng Tích Chu thì đã làm “cách mạng thực sự” trong nghề báo, dám đưa ra những cải cách mà lúc đó ai cũng cho là quá ngố. Cả hai đặc điểm đó, tôi tự xét không thể nào theo nổi, nhưng sau khi gặp…, tôi rút ra được đặc điểm thứ ba, mà đặc điểm này chung cho cả hai người: đó là tính tự phụ, coi thiên hạ như cỏ rác!...” (**).
Sài Gòn, tháng 8-2010
Chú thích:
(*) Hoàng Tăng Bí (1883-1939): tự Nguyên Phu; bút hiệu: Tiểu Mai; là một sĩ phu yêu nước và nhà soạn tuồng nổi tiếng. Sinh tại làng Đông Ngạc, quận Tây Hồ, Hà Nội. Đỗ cử nhân năm 1906 và tham gia Đông Kinh nghĩa thục do Dương Bá Trạc khởi xướng năm 1907. Ông dạy học, diễn thuyết, soạn sách giáo khoa, lập thương nghiệp lấy tiền trợ cấp Phong trào Đông du. Ông bị Pháp bắt sau vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội, giam lỏng tại Huế. Năm 1910, ông đỗ phó bảng, nhưng không ra làm quan, mở trường tư dạy học, viết báo Trung Bắc tân văn và soạn một số vở tuồng kêu gọi lòng yêu nước.
(**)Vũ Bằng: Bốn mươi năm nói láo, NXB Văn học 1993, tr.42-43.
(1) Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936), hiệu Tân Nam Tử; là nhà tân học, nhà báo, nhà văn Việt Nam đầu thế kỷ 20; quê ở xã Phượng Dực, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông, nay thuộc Hà Nội. Là người tích cực vận động truyền bá quốc ngữ, mở nhà in, làm chủ bút nhiều tờ báo: Đại Nam đăng cổ tùng báo, Lục tỉnh tân văn, Đông Dương tạp chí, Trung Bắc tân văn và một số tờ báo tiếng Pháp Notre Journal (Tờ báo của chúng ta), Notre Revue (Tạp chí của chúng ta), l’Annam nouveau (An Nam mới). Ông đã đóng góp rất nhiều trong việc phổ quát tiếng Việt qua tờ Đăng Cổ Tùng Báo (1907), tờ báo đầu tiên viết bằng chữ Quốc Ngữ tại miền Bắc. Đáng kể nhất là việc khuyến khích dùng chữ Quốc Ngữ qua tờ Đông dương Tạp chí (1913). Là người đầu tiên dịch thơ ngụ ngôn La Fontaine, truyện cổ tích Perrault, kịch Molière từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. Bản dịch truyện Kiều sang Pháp văn của ông rất đặc sắc.
(2) Phạm Quỳnh (1892 - 1945), tên hiệu là Thượng Chi: là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn . Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt - thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp - để viết lý luận, nghiên cứu. Ông được xem là người chiến đấu bất bạo động nhưng không khoan nhượng cho chủ quyền độc lập, tự trị của Việt Nam, cho việc khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc, Trung, Nam).
(3) Bùi Huy Tín: (1875 - ?), người Hà Nội, là một điền chủ, nhà kinh doanh và hoạt động xã hội thời Pháp thuộc. Chủ thầu một số đoạn đường sắt ở Việt Nam. Có nhiều đồn điền ở Phú Thọ, Hà Tĩnh, Thanh Hoá, Quảng Ninh, đồng thời là chủ một số khu mỏ, nhà in, các báo Thực Nghiệp Dân báo, Tràng An báo, v.v…
(4) Trường hận ca: Hoàng đế Đường Huyền Tông, họ tên thật là Lý Long Cơ, còn gọi là Đường Minh Hoàng, vua thứ chín đời nhà Đường (618-907)…Trường hận ca là bài thơ dài nói về mối tình của Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi. Dương Quý Phi (719 - 756), tên là Dương Ngọc Hoàn, là một cung phi của Đường Minh Hoàng, là một trong “Tứ đại mĩ nhân” của lịch sử Trung Quốc. Ngọc Hoàn có sắc đẹp được ví là Tu hoa, nghĩa là khiến hoa phải xấu hổ.
Lý Bạch có ba bài Thanh bình điệu ca tụng sắc đẹp của Dương Ngọc Hoàn. Bạch Cư Dị có bài Trường hận ca nổi tiếng kể về chuyện tình giữa Dương Quý Phi và Đường Huyền Tông. Toàn văn bài Trường hận ca, bản dịch của Tản Đà, như sau:
Đức vua Hán (a) mến người khuynh quốc,
Trải bao năm tìm chuốc công tai (1).
Nhà Dương có gái mới choai,
Buồng xuân khóa kín chưa ai bạn cùng (2)
Lạ gì của tuyết đông ngọc đúc,
Chốn ngai vàng phút chốc ngồi bên.
Một cười trăm vẻ thiên nhiên,
Sáu cung nhan sắc thua hờn phấn son.
Trời xuân lạnh suối tuôn mạch ấm,
Da mỡ đông kỳ tắm ao Hoa.
Vua yêu bận ấy mới là,
Con hầu nâng dậy coi đà mệt thay!
Vàng nhẹ bước lung lay tóc mái,
Màn phù dung ân ái (3) đêm xuân.
Đêm xuân vắn vủn có ngần,
Ngai rồng từ đấy chậm phần vua ra.
Suốt ngày tháng tiệc hoa vui mãi,
Đêm xuân tàn, xuân lại còn đêm.
Ba nghìn xinh đẹp chị em,
Ba nghìn yêu quý chất nêm một mình.
Nhà vàng đúc đêm thanh ôm ấp,
Lầu ngọc cao, say ắp bầu xuân (4)
Anh em sướng đủ mọi phần,
Mà cho thiên hạ có lần rẻ trai.
Vẳng tiên nhạc khắp nơi nghe biết,
Làn gió đưa cao tít Ly cung (b).
Suốt ngày múa hát thung dung,
Tiếng tơ, tiếng trúc say lòng quân vương.
Ầm tiếng trống Ngư Dương (c) kéo đến,
Khúc Nghê Thường (d) tan biến như không.
Chín lần thành khuyết bụi tung,
Nghìn xe muôn ngựa qua vùng tây nam.
Đi lại đứng hơn trăm dặm đất,
Cờ thúy hoa bóng phất lung lay.
Sáu quân dùng phất lung lay.
Sáu quân dùng dắng làm rầy,
Mày ngài trước ngựa lúc này thương ôi!
Ai người nhặt thoa rơi bỏ đất,
Ôi! thúy kiều ngọc nát vàng phai.
Quân vương bưng mặt cho rồi,
Quay đầu trông lại, máu rơi lệ dàn.
Gió tung bụi mê man tản mác,
Đường thang mây Kiếm Các (e) lần đi,
Vắng tanh dưới núi Nga My (g),
Mặt trời nhạt thếch, tinh kỳ buồn tênh.
Đất Ba Thục non xanh nước biếc,
Lòng vua cha thương tiếc hôm mai.
Thấy trăng luống những (5) đau người.
Đêm mưa đứt ruột, canh dài tiếng chuông (h).
Phút trời đất quay cuồng vận số,
Bánh xe rồng đến chỗ ngày xưa.
Đất bùn chỗ chết còn trơ,
Thấy đâu mặt ngọc? bây giờ Mã Ngôi (i)!
Đầm vạt áo, vua tôi giọt lệ,
Gióng dây cương ngựa tế về đông.
Cảnh xưa dương liễu, phù dung,
Vị Ương (k), Thái Dịch (l) hồ cung vẹn mười.
Phù dung đó! Mặt ai đâu tá?
Mày liễu đâu? Cho lá còn như!
Càng trông hoa liễu năm xưa,
Càng xui nước mắt như mưa ướt đầm.
Xuân đào lý gió êm (6) huê nở,
Thu khi (7) mưa rụng lá ngô đồng,
Kìa Nam Uyển, nọ Tây Cung,
Đầy thềm ai quét lá hồng thu rơi?
Vườn lê (m) cũ những ai con hát,
Mái tóc coi trắng phớt lạ lùng.
Những ai coi giữ tiêu phòng?
Mày xanh thuở ấy nay cùng già nhăn.
Trước cung điện nhìn sân đêm tối,
Đom đóm bay gợi mối u sầu.
Ngọn đèn khêu đã cạn dầu,
Khó thay, giấc ngủ dễ hầu ngủ xong!
Tiếng canh tối tùng tùng điểm trống,
Năm canh dài chẳng giống đêm xưa.
Sông Ngân lấp lánh sao thưa,
Trời như muốn sáng, sao chưa sáng trời?
Trên mái ngói, sương rơi ướt lạnh,
Trong chăn nằm, bên cạnh nào ai?
Cách năm sống thác đôi nơi,
Thấy đâu hồn phách vãng lai giấc nồng?
Khách đạo sĩ Lâm Cùng (n) có gã,
Chơi Hồng Đô (o) phép lạ (8) thần thông.
Xót vì vua chúa nhớ nhung,
Mới sai phương sĩ (p) hết lòng ra tay.
Cưỡi luồng gió như bay như biến,
Trên trời xanh dưới đến đất đen.
Hai nơi bích lạc, hoàng tuyền, (q)
Dưới trên tìm khắt, mơ huyền thấy chi!
Sực nghe nói, tìm đi mé bể,
Có non tiêu ngoài phía hư không.
Rỡ ràng (9) cung điện linh lung,
Xa trông năm sắc mây lồng đẹp sao!
Trong tha thướt biết bao tiên tử,
Một nàng tiên tên chữ Thái Chân (r).
Mặt hoa da tuyết trắng ngần,
Dáng (10) như người ấy có phần phải chăng?
Mái tây gõ cửa vàng then (11) ngọc,
Cậy đưa tin Tiểu Ngọc (s), Song Thành (t).
Nghe tin sứ giả Hán đình,
Cửu hoa trong trướng (u) giật mình giấc mơ.
Cầm áo dậy, thẩn thơ buồn bực.
Mở rèm châu bình bạc lần ra.
Bâng khuâng nửa mái mây tà,
Thềm cao xuống chiếc mũ hoa lệch đầu.
Phới tay áo bay màu trước (12) gió,
Giống Nghê Thường khúc múa năm xưa.
Lệ dàn mặt ngọc lưa thưa,
Cành lê hoa chíu (13) hạt mưa xuân đầm.
Ngừng nước mắt âm thầm buồn bã.
Đội ơn lòng, xin tạ quân vương.
Từ ngày cách trở đôi phương,
Vắng tanh tăm tiếng, mơ màng hình dong.
Nơi đế điện dứt vòng ân ái,
Chốn tiên cung thư thái tháng ngày.
Cõi trần ngoảnh lại mà hay,
Tràng An chẳng thấy, thấy đầy bụi nhơ!
Lấy chi tỏ tình xưa thâm thú (14)?
Gửi cành thoa vật cũ cầm (15) xuôi.
Thoa vàng hộp khảm phân đôi.
Nửa xin để lại, nửa thời đem đi.
Chỉ xin nguyện lòng ghi dạ tạc.
Tựa thoa vàng bền chặt (16) không phai.
Thời cho cách trở đôi nơi,
Nhân gian rồi với trên trời gặp nhau.
Ân cần dặn mấy câu lâm biệt,
Lời thề xưa lòng biết với lòng.
Nửa đêm (17) Trùng thất trăng trong (18)
Trường Sinh (v) sân điện vắng không bóng người.
Xin kết nguyện chim trời liền cánh (x),
Xin làm cây cành nhánh liền nhau (y).
Thấm chi trời đất dài lâu.
Giận này (19) dằng dặc dễ hầu có nguôi...
Chú thích của bản dịch Trường hận ca:
1. Toi 2. Biết 3. Êm ái 4. Mùa xuân 5. đã 6. Đêm 7. Kia 8. Hoá 9. Rõ ràng 10. Dễ 11. Khoá 12. Ngọn 13. Chĩu 14. Thăm thú 15. Đem 16. Chắc 17. Là đêm 18. Ngồi chung 19. Hờn đâu
(a) Hán Hoàng: Chỉ Đường Minh Hoàng. Bạch Cư Dị là bầy tôi nhà Đường, không tiện kể lại truyện Minh Hoàng, nên phải tránh đi như thế. (b) Ly Cung: Tức là cung Hoa Thanh. (c) Ngư Dương: Nay là đất huyện Kế và Bình Cốc, tỉnh Hà Nam. An Lộc Sơn nổi loạn ở đây. (d) Khúc Nghê thường: Tên khúc múa thần tiên. (e) Kiếm Các: Tên đất ở tỉnh Tứ Xuyên. (g) Nga My: Tên núi, nay ở phía tây nam huyện Nga My, tỉnh Tứ Xuyên. (h) tiếng chuông: Khi đến Tà Cốc, Đường Huyền Tông nghe tiếng chiêng trong lúc mưa dầm, buồn bã vì nhớ tới Quý Phi, liền làm ra khúc ca gọi là Vũ Lâm Linh khúc (khúc chiêng trong lúc mưa dầm). (i) Mã Ngôi: Tên đất, ở phía tây huyện Hưng Bình, Thiểm Tây, nơi Dương Quý Phi chết. (k) Thái Dịch: ao Thái Dịch.
(l) Vị Ương: cung Vị Ương. (m) Vườn Lê (Lê Viên): Nơi diễn kịch trong cung vua Đường. Đường Minh Hoàng có một đội con hát riêng kén những con nhà tử tế, ở trong vườn riêng gọi là "Lê viên". Bọn con gái đó được gọi là "Lê viên tử đệ", hoặc dài dòng hơn "Hoàng đế Lê viên tử đệ". (n) Lâm Cùng: Tên huyện, thuộc tỉnh Tứ Xuyên. (o) Hồng Đô: Chỉ kinh đô thần tiên. (p) Phương sĩ: Đạo sĩ. (q) Bích lạc, Hoàng tuyền: Bích lạc là khoảng không xanh biếc ở trên trời. Hoàng tuyền là suối vàng, dưới âm phủ. (r) Thái Chân: Tên Dương Quý Phi. (s) Tiểu Ngọc: Tên người. Đây chỉ thị nữ của các nàng tiên. (t) Song Thành: Tức Đổng Song Thành, thị nữ của Tây Vương Mẫu. (u) Cửu hoa trướng: Trướng có dệt các loại hoa rực rỡ. (v) Trường Sinh: Tên điện trong cung vua Đường. (x) Chim liền cánh (Tị dực điểu): Sách Nhĩ Nhã (x*) nói rằng: Phương nam có loài chim Kiêm Kiêm. Chim Kiêm Kiêm mỗi con chỉ có một mắt và một cánh, khi muốn bay, hai con phải chập thành đôi mới bay được, đương nhiên là một trống một mái.(y) Cây liền cành (Liên lý chi): Hai cành khác gốc mà cành giao nhau,nối liền nhau.
(x*) Nhĩ Nhã là bộ từ điển của Trung Quốc thời kỳ cổ đại, một trong những tác phẩm kinh điển của Nho giáo được xếp vào danh sách thập tam kinh. Nhĩ nghĩa là cận (gần), nhã nghĩa là chính (tức nhã ngôn - lời nói nhã nhặn), nên Nhĩ Nhã nghĩa là cận chính, tức là tiếp cận với quy cách ăn nói sao cho nhã nhặn, đúng mực. Nội dung chủ yếu của Nhĩ Nhã là giải thích và khảo chứng vốn từ ngữ Trung Quốc thời cổ đại. Tác giả Nhĩ Nhã không xác định được là ai. Ban Cố trong sách Hán thư, mục Văn nghệ chí có ghi chép Nhĩ Nhã gồm 3 quyển, 20 thiên. Về sau đến thời Đường Nhĩ Nhã được xếp vào bộ kinh, trở thành một trong những tác phẩm kinh điển của Nho giáo. Hiện nay Nhĩ Nhã chỉ còn lại 19 thiên.
(5) Bạch Cư Dị (772-846) tự là Lạc Thiên, hiệu là Hương Sơn cư sĩ, là nhà thơ nổi tiếng thời nhà Đường. Tác phẩm nổi tiếng của Bạch Cư Dị ở Việt Nam là hai bài Tỳ bà hành, Trường Hận Ca.
Bạch Cư Dị chủ trương đổi mới thơ ca, thơ phải gắn bó với đời sống, phản ánh được hiện thực xã hội, chống lại thứ văn chương hình thức. Thơ ông mang đậm tính hiện thực, lại hàm ý châm biếm nhẹ nhàng kín đáo. Trường hận ca để nói mối tình đẹp của Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi, nhưng đọc kỹ thì những ý châm biếm, mỉa mai kín đáo đều có. Ông cùng Nguyên Chẩn đề xướng phong trào Tân Nhạc Phủ (5*). Thơ ông thấm nhuần tư tưởng nhân đạo, nhân văn. Ông hòa đồng cùng dân chúng, không coi việc làm quan của mình là gì, mà thấy mình cũng bị cuộc đời làm cho bảy nổi ba chìm chẳng khác gì người đời (Tỳ bà hành). Riêng hai bài Tỳ Bà Hành và Trường Hận Ca đã đủ tỏ tài thơ của Bạch Cư Dị. Bằng lối kể chuyện miêu tả, với chủ đề khác nhau, hai bài thơ dài của ông, bài thì bay bướm, hình ảnh đẹp, lời bình trầm lắng, ý ngoài lời, ca tụng, mỉa mai đều kín đáo; bài thì hòa đồng vào cảnh ngộ cùng nhân vật, viết lên những tâm trạng gửi gắm của cả hai, người gẩy - người nghe,vào tiếng đàn trên bến Tầm Dương, bài thơ da diết, buồn thấm thía mà nỗi đời thì vời vợi mênh mang.
(5*) Nhạc phủ nguyên là tên gọi cơ quan âm nhạc do Hán Vũ Đế (156 tr. CN - 87) lập nên, có nhiệm vụ thu thập ca dao và thơ để phổ nhạc. Bài nào được lựa chọn thì gọi là nhạc phủ khúc, sau gọi vắn tắt là nhạc phủ. Danh từ nhạc phủ dùng để chỉ nhiều thể văn có vần, phổ vào nhạc được. Trong số này, bộ phận được chọn nhiều nhất, có giá trị nhất là dân ca, bởi vậy từ nhạc phủ còn dùng để chỉ dân ca đời Hán (206 tr.CN - 220) và Lục triều (220 - 581) ở Trung Quốc. Hán Vũ Đế phong Lý Diên Niên (5*1) làm Hiệp luật đô úy, thu thập các bài ca dao, ca khúc trong dân gian, lãnh đạo việc ca xướng, phổ nhạc mới để hòa hợp với tiếng đàn sáo; lại sai Tư Mã Tương Như (5*2) và các bầy tôi giỏi văn học tuyển chế tân ca...
(5*1) Lý Diên Niên: chuyên lo về biên soạn những điệu múa, bản nhạc cho các cung tần mỹ nữ. Lần ấy, Lý Diên Niên sáng tác ra bài thơ Giai Nhân Ca và dạy cho các cung nữ biểu diễn. Sau khi Hán Vũ Đế nghe được bài ca này thì nói : “Trên đời này làm sao có người nào đẹp đến thế!”. Có vị hoạn quan tâu rằng : “Bẩm hoàng thượng! Có người con gái đẹp như thế đấy. Đó chính là em gái của Lý Diên Niên”. Hán Vũ Đế sau khi nghe nói thế liền cho truyền em gái của Lý Diên Niên vào cung. Khi tận mắt chiêm ngưỡng dung nhan của em gái Lý Diên Niên, Hán Vũ Đế đã lập tức phong nàng làm Cung phi, năm đó Lý thị vừa tròn đôi tám.Vì Lý thị rất được Hán Vũ Đế sủng ái cho nên được phong tước vị Phu nhân và người đời sau khi nhắc về em gái Lý Diên Niên thường gọi bằng “Lý Phu nhân”, người có sắc đẹp “khuynh nước khuynh thành”.
Nội dung bài thơ Giai nhân ca như sau :
Phiên âm Hán -Việt :
Bắc phương hữu giai nhân,
Tuyệt thế nhi độc lập.
Nhất cố khuynh nhân thành,
Tái cố khuynh nhân quốc.
Ninh bất tri, khuynh thành dữ khuynh quốc,
Giai nhân nan tái đắc!
Dịch nghĩa :
Phương Bắc có người đẹp
Dung nhan tuyệt thế một mình nàng
Liếc một lần làm thành người ta xiêu
Liếc hai lần làm nước người ta đổ
Quan tâm gì thành đổ nước xiêu
Người đẹp khó gặp lại.
(5*2)Tư Mã Tương Như tự Tràng Khanh (179 TCN-117 TCN), người ở Thành Đô, đời nhà Hán. Là người đa tài, văn hay, đàn giỏi. Khi lìa quê lên Tràng An để lập công danh, đến con sông đầu làng, Tương Như viết trên cầu một câu: "Bất thừa cao xa tứ mã, bất phục quá thử kiều" (Không ngồi xe cao bốn ngựa, không qua lại cầu này nữa).
Khi đến đất Lâm Cùng, Tương Như vốn sẵn quen với Vương Cát là quan lệnh ở huyện, nên đến chơi. Cát lại mời Tương Như cùng đi dự tiệc ở nhà Trác Vương Tôn, vốn viên ngoại trong huyện. Nghe tiếng Tương Như đàn hay nên quan huyện cùng Trác Vương Tôn yêu cầu chơi cho một bài. Họ Trác vốn có một người con gái rất đẹp tên Văn Quân, còn nhỏ tuổi mà sớm góa chồng, lại thích nghe đàn. Tương Như được biết, muốn ghẹo nàng, nên vừa gảy đàn vừa hát khúc Phượng cầu hoàng (Chim phượng trống tìm chim phượng mái):
Chim phượng, chim phượng về cố hương,
Ngao du bốn bể tìm chim hoàng
Thời chưa gặp chừ, luống lỡ làng.
Hôm nay bước đến chốn thênh thang.
Có cô gái đẹp ở đài trang,
Nhà gần người xa não tâm tràng.
Ước gì giao kết đôi uyên ương,
Bay liệng cùng nhau thỏa mọi đường.
Nguyên văn:
Phượng hề, phượng hề quy cố hương,
Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng,
Thời vị ngộ hề vô sở tương,
Hà ngộ kim tịch đăng tư đường.
Hữu diệm thục nữ tại khuê phường,
Thất nhĩ nhân hà sầu ngã trường.
Hà duyên giao cảnh vi uyên ương
Tương hiệt cương hề cộng cao tường.
Sau khi Trác Văn Quân nghe khúc Phượng cầu hoàng của Tư Mã Tương Như, hai người yêu nhau thắm thiết, nhưng lại bị ông Trác Vương Tôn phản đối kịch liệt, không còn cách nào khác, hai người liền cùng nhau bỏ trốn đến Thành đô quê hương Tư Mã Tương Như. Sau Hán Vũ Đế đọc bài Tử hư phú của Tương Như, khen tài mới vời vào triều, ban chức tước. Lại sai chàng cầm cờ tiết, thay nhà vua về Ba Thục chiêu an bọn phụ lão tùng phục nhà Hán. Lần này thỏa chí bình sinh, Tương Như áo gấm vinh quy được người đón rước long trọng.Nhưng làm quan ít lâu, lại chán, cáo bệnh lui về quê.
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: Khúc đâu Tư Mã phượng cầu, / Nghe ra như oán, như sầu phải chăng!
(6) Bùi Giáng (1926- 1998) là một nhà thơ, dịch giả và nghiên cứu văn học.Ông nổi tiếng từ thập niên 1960 với tập Mưa nguồn. Ông còn có các bút danh khác: Bán Dùi, Bùi Giàng Dúi. Quê làng Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
Từ năm 1957, ông lần lượt cho ra đời một loạt sách giới thiệu về văn học Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Chinh phụ ngâm...Ông nổi tiếng bởi tốc độ sáng tác nhanh: tập thơ Mười hai con mắt được ông sáng tác chỉ trong một đêm Noel năm 1992. Từ năm 1962, Bùi Giáng liên tục cho ra đời nhiều đầu sách. Mỗi năm đều đều vài ba cuốn. Ông là một tác giả có tác phẩm in ra đứng vào hàng kỷ lục ở miền Nam Việt Nam trước 1975. Năm 1969, tất cả sách vở cùng với nhà cửa bị một cháy hết trong một cơn hỏa hoạn. Ông bị sốc nặng, từ đó trở đi ông là bệnh nhân quen thuộc của viện dưỡng trí Biên Hòa...
Thơ: Mưa nguồn (1962); Lá hoa cồn (1963); Màu hoa trên ngàn (1963); Mười hai con mắt (1964); Ngàn thu rớt hột(1967); Rong rêu (1972); Thơ vô tận vui (1987); Mùa màng tháng tư (1987); Mùi Hương Xuân Sắc (1987); Đêm ngắm trăng (1997); Dịch thuật: Trăng châu thổ; Hoàng Tử Bé; Khung cửa hẹp; Hòa âm điền dã; Ngộ nhận; Cõi người ta; Nhà sư vướng luỵ.; Khảo cứu: Tư tưởng hiện đại (1962); Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại (1963); Đi vào cõi thơ; Thi ca tư tưởng; Một vài nhận xét về bà huyện Thanh Quan; Một vài nhận xét về Lục Vân Tiên, Chinh Phụ Ngâm, quan Âm Thị Kính; Vài nhận xét về truyện Kiều và truyện Phan Trần; Sa mạc phát tiết (1965); Sa mạc trường ca (1965); Bài ca quần đảo (1969); Mùa thu trong thi ca; Ngày tháng ngao du.
(7) Hoàng Hạc Lâu là bài thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu . Tương truyền, Lý Bạch khi đến Hoàng Hạc Lâu định đề thơ, đã thấy thơ Thôi Hiệu trên vách, đọc xong, vứt bút, ngửa mặt than rằng:
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu..
Dịch nghĩa:
Trước mắt thấy cảnh không tả được
Vì Thôi Hiệu đã đề thơ trên đầu…
Hán-Việt
Hoàng Hạc Lâu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Dịch nghĩa
Lầu Hoàng Hạc
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc (7*)
Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không
Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ (7**) mơn mởn xanh tươi
Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!
Bản dịch của Tản Đà (dị bản):
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!
Thôi Hiệu (khoảng 704-754) là thi nhân thời nhà Đường, Trung Quốc. Đương thời, Thôi Hiệu rất nổi tiếng, nay thơ của ông chỉ còn lại hơn 40 bài, trong đó, Hoàng Hạc Lâu được coi là một trong những bài thơ hay nhất thời Đường. Cùng với Vương Duy (8), ông được coi là một trong những người tinh thông cận thể thi.
(7*) Tục truyền Phí Văn Vi thành tiên, thường cưỡi hạc về nghỉ ở Hoàng Hạc lâu.
(7**) Khu bãi bến khúc sông thuộc Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc.
(8)Vương Duy (701-761), tự Ma Cật. Ông là một nhà thơ, một họa sĩ, một nhà viết thư pháp và một chính khách nổi tiếng đời Đường. Ông còn được người đời gọi là Thi Phật. Cùng với Lý Bạch (Thi Tiên) và Đỗ Phủ (Thi Thánh) là ba người nổi tiếng về tài thơ ca thời Đường. Tô Đông Pha (9) đời Tống khi viết về Vương Duy có câu: Vị Ma Cật chi thi, thi trung hữu họa; quan Ma Cật chi họa, họa trung hữu thi, dịch nghĩa: Thưởng thức thơ của Ma Cật, trong thơ có hoạ đồ; ngắm họa đồ của Ma Cật, trong họa đồ có thơ.
(9) Tô Thức (1037-1101), tự Tử Chiêm, một tự khác là Hòa Trọng, hiệu Đông Pha cư sĩ nên còn gọi là Tô Đông Pha, là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc thời Tống. Ông được mệnh danh là một trong Bát đại gia Đường Tống.
(Hết)
Đỗ Ngọc Thạch
Saturday, January 23, 2016
NGUYỄN VŨ BÌNH * DÂN CHỦ CUỘI
Dân chủ cuội
Tue, 01/19/2016 - 02:58 — nguyenvubinh
Những người đấu tranh dân chủ và những người quan tâm tới
phong trào dân chủ Việt nam chắc đã ít nhiều nghe thuật ngữ dân chủ
cuội. Hiểu về thuật ngữ này không khó, một cách giản dị, đó là những
người đấu tranh dân chủ nhưng có làm việc cho an ninh. Đây là vấn đề rất
nhạy cảm, nếu sử dụng để quy chụp và đánh phá nhau. Chúng ta cần làm rõ
và có những hiểu biết đầy đủ về vấn đề phức tạp và tế nhị này.
Điều đầu tiên, xác định được ai là dân chủ cuội là vấn đề vô
cùng khó khăn, bởi vì những người dân chủ cuội không có gì khác với
người đấu tranh dân chủ thực sự. Họ cũng tham gia viết bài, cũng đi biểu
tình, cũng giao lưu gặp gỡ nhau, giúp đỡ dân oan… Nói chung, về mặt
công khai, họ không khác gì những người đấu tranh dân chủ thực sự. Những
việc họ làm với an ninh, làm cho an ninh là những việc được thực hiện
bí mật, liên lạc bí mật, chỉ có họ và an ninh mới biết được. Chính vì
vậy, việc gọi ra hoặc quy chụp người này hay người kia là dân chủ cuội
mà không đưa ra được chứng cứ là hết sức nguy hiểm. Nhiều khi chính
những kẻ quy chụp đó lại là dân chủ cuội, thậm chí có thể có cả hai bên
quy chụp nhau, đánh phá nhau đều là dân chủ cuội…
Mục đích của an ninh trong việc gây dựng và sử dụng dân chủ cuội
dễ xác định hơn rất nhiều so với việc xác định ai là dân chủ cuội. Đầu
tiên là để nắm được thông tin, tình hình, các hoạt động của các cá nhân,
hội nhóm và tổ chức của phong trào dân chủ, của xã hội dân sự, của các
tổ chức tôn giáo không thuộc nhà nước quản lý. Từ những thông tin của
những kẻ dân chủ cuội này, an ninh có thể biết rõ được nội tình của các
hội nhóm, tổ chức từ đó xây dựng kế hoạch đối phó hữu hiệu. Mục tiêu
tiếp theo mà an ninh nhắm tới khi sử dụng dân chủ cuội là gây mâu thuẫn,
chia rẽ trong phong trào dân chủ. Đây là âm mưu rất thâm độc mà an ninh
đã ít nhiều thành công. Chúng ta đã được chứng kiến, sự mâu thuẫn, chia
rẽ, đánh phá nhau trầm trọng, âm ỉ và dai dẳng của các tổ chức ở hải
ngoại. Ở trong nước, thời kỳ trước cũng có các cuộc xung đột, chia rẽ và
mâu thuẫn ghê gớm của một số người trong phong trào dân chủ... Đành
rằng, bản thân những người đấu tranh dân chủ thực sự cũng có những mâu
thuẫn nội tại, do những người này đều có cá tính mạnh và những va chạm
bình thường trong cuộc sống, nhưng an ninh của cộng sản Việt Nam đã lợi
dụng những chuyện này để kích động, khai thác để làm bùng phát mâu thuẫn
với quy mô và tính chất nghiêm trọng hơn rất nhiều. Nhận thức được âm
mưu thâm độc này, những người đấu tranh dân chủ thực sự cần có sự kìm
nén bản thân để tránh rơi vào bẫy an ninh đã cài sẵn thông qua những kẻ
dân chủ cuội.
Mục tiêu chiến lược và lâu dài của an ninh Việt Nam trong việc
sử dụng dân chủ cuội có lẽ là dự phòng trường hợp chế độ chủ động chuyển
đổi sang hình thức dân chủ nửa vời, độc tài trá hình, hay dân chủ hình
thức như Liên bang Nga hoặc Cam-pu-chia. Tuy nhiên, mục tiêu này khó
thực hiện bởi mô hình của Nga là sự hình thành độc tài cá nhân một cách
tự nhiên, chứ không phải có kế hoạch từ ban đầu. Còn ở cam-pu-chia,
Hun-Sen có vị thế của người hùng giải phóng đất nước. Ở Việt Nam, nếu có
một người phất cờ thực sự trong nội bộ đảng cộng sản, có thể hình thành
chế độ đa nguyên thực sự, chứ không phải dân chủ hình thức. Trong
trường hợp chế độ sụp đổ, an ninh Việt nam cũng hy vọng một sự giảm
thiểu việc truy cứu trách nhiệm các tội ác trong quá khứ, nếu những kẻ
dân chủ cuội nắm quyền. Nhưng đây là những hy vọng rất mong manh, vì khi
chế độ sụp đổ, những ràng buộc và áp lực đối với những kẻ dân chủ cuội
(bị ép) không còn nữa, rất khó để họ có sự trung thành và cứu giúp.
Một vấn đề quan trọng nữa xung quanh vấn đề dân chủ cuội, là quy mô của lực lượng này lớn đến đâu? bao gồm những thành phần nào?
Theo suy nghĩ của người viết bài này, số lượng dân chủ cuội,
những người đấu tranh dân chủ làm việc cho an ninh là rất lớn. Có hai lý
do để chúng ta tin rằng, số lượng dân chủ cuội trong phong trào dân chủ
rất lớn. Khi chế độ cộng sản sụp đổ ở Đông Đức, người ta đã tính được,
số lượng đặc tình chiếm 10% dân số của Đông Đức. Đồng thời, trong một
chia sẻ của đối lập dân chủ của Đông Đức, 2/3 số người trong các tổ chức
đối lập Đông Đức làm việc cho an ninh. Chúng ta còn biết được rằng,
khi cuộc chiến tranh Quốc - Cộng diễn ra, cộng sản miền Bắc việt nam
không hiện diện ở miền Nam, vậy mà họ đã cài cắm một số lượng người
khủng khiếp, đủ các thành phần, ở tất cả các lĩnh vực. Việc cài cắm
người vào nội bộ đối phương là điểm nhấn của cuộc chiến và là hoạt động
được đánh giá cao của an ninh Bắc Việt Nam. Trong điều kiện rất hạn chế
như vậy, mà họ vẫn thành công trong việc cài cắm một số lượng lớn người
vào hàng ngũ đối phương thì trong môi trường hiện nay, tất cả đều trong
tay họ, thì chắc chắn số lượng cài cắm đó phải rất nhiều.
Trong tổng số những kẻ dân chủ cuội ở trong nước, số lượng nhân
viên an ninh (có nghiệp vụ, được đào tạo) thâm nhập hoạt động trong
phong trào dân chủ không nhiều, có lẽ từ 5-10%. Số lượng đặc tình (là
những người dân làm việc cho an ninh trước khi tham gia dân chủ) cũng
không lớn quá, dự đoán vào khoảng 15-20%. Nhưng số lượng những người đấu
tranh dân chủ thực sự, bị khống chế, bắt buộc phải làm việc cho an ninh
mới là số lượng rất lớn, khoảng 70-80%. Việc này diễn ra như sau. Nhiều
người khi mới tham gia đấu tranh dân chủ, phần lớn do bức xúc với môi
trường xã hội, hoặc do đấu tranh cho quyền lợi của bản thân và gia đình.
Họ chưa thể hình dung hết được những khó khăn phức tạp trong cuộc đấu
tranh này. Họ lại càng không thể biết được khả năng và những âm mưu hiểm
độc của an ninh. Khi họ tham gia phong trào dân chủ, an ninh sẽ nghiên
cứu, tìm hiểu về họ và gia đình họ rất kỹ để tìm ra những tỳ vết trong
công việc, quan hệ và cuộc sống. Sau đó an ninh sẽ dùng những tỳ vết này
để khống chế những người mới đấu tranh. Với quyền lực của an ninh, nếu
người đấu tranh không đồng ý hợp tác, an ninh sẽ dùng quyền lực để tấn
công vào các tỳ vết của họ. Như vậy, cộng với nghiệp vụ vừa đấm vừa xoa,
rất nhiều người đã bắt buộc phải làm việc cho an ninh. Trường hợp không
thể tấn công vào tỳ vết cá nhân và gia đình, an ninh sẽ sử dụng việc tù
đầy để đánh gục những người tham gia dân chủ nhưng chưa chuẩn bị đầy đủ
bản lĩnh. Kết cục là có rất nhiều người ban đầu là đấu tranh dân chủ
thực sự, nhưng cuối cùng lại phải làm việc cho an ninh.
Tuy nhiên, chúng ta cũng không cần lo lắng và ái ngại nhiều. Khi
chế độ cộng sản sụp đổ, giống như hầu hết các nước cộng sản sụp đổ
trước đây, lực lượng dân chủ cuội này sẽ tan biến như bọt xà phòng trước
cơn mưa rào mùa hạ./.
Hà Nội, ngày 19/01/2016
N.V.B
NS. TUẤN KHANH * ĐỊA NGỤC
Trãi thảm cho cửa địa ngục, vì sao?
Tue, 01/19/2016 - 23:04 — tuankhanh
Có phải con người Việt Nam đang sống ở dưới mức cam chịu, luật pháp Việt
Nam thì quá yếu ớt hoặc ngành giáo dục hiện nay không còn đủ ý thức
mình đang là gì trên đất nước này? Sự kiện trẻ em trong trường học bị
công an tự tiện xông vào bắt đi, dẫn đi và tra tấn, dẫn đến thương tật
hoặc tử vong đang diễn ra nhức nhối, nhưng mọi thứ cứ như bị dằn xuống,
im lặng và trôi qua.
Điều thất nhân tâm mới nhất, là chuyện công an thôn ở huyện Tịnh Sơn,
Quảng Ngãi đã tự ý đi vào trường THCS Tịnh Bắc, xã Tịnh Bắc để bắt em
Nguyễn Tấn Tâm giữa giờ học, đem về đồn tra tấn để buộc em phải nhận tội
ăn trộm. Sau đó, công an thôn – như một cách che chở lộ liễu qua việc
cung cấp thông tin hạn chế từ địa phương, chỉ được cho biết tên là Danh –
đã buộc mẹ em Tâm đến ký giấy xác nhận tội của em. Như mọi gia đình
thôn quê ở miền trung, sợ hãi đồn công an và chốn công quyền, bà Trương
Thị Thái, mẹ của em vội vã ký vào giấy vì nghe lệnh của công an là “ký
vào, mới được cho về”, hơn nữa bà quá lo lắng khi thấy con mình bị bắt
từ sáng, mà đến 7 giờ tối mới được công an thôn cho gọi.
Đầu năm 2016, lá thư tuyệt mệnh của học sinh Tâm gửi lại cho gia đình
sau khi uống thuốc trừ sâu, chọn cái chết để đòi lại danh dự của mình,
trở thành tuyên ngôn máu của hiện thực học đường mà ngành giáo dục Việt
Nam phải cúi mặt, nếu còn chút lương tri.
Từ lúc nào, nhà trường ở Việt Nam trở thành cánh cổng phụ dẫn đến đồn công an một cách công khai như vậy?
Trường hợp công an đột nhập trường THCS Tịnh Bắc bắt em Tâm đi, có thể
được coi là điều bất ngờ của thầy cô, ban giám hiệu nhà trường, nhưng lẽ
ra em Tâm phải được nhà trường bảo lãnh đi về cho hết giờ học, thông
báo hiện tượng bất thường này cho phụ huynh em Tâm để tránh điều đáng
tiếc nói trên. Hoặc ít nhất nhà trường đã phải cử người đến đồn công an
để làm người giám hộ cho em Tâm.
Rất nhiều người khi đọc bản tin về cái chết của học sinh Nguyễn Tấn Tâm,
đã thở dài nói rằng với tình trạng cường quyền và vô pháp của công an ở
các vùng nông thôn, nhà trường có biết thì cũng đành cam chịu. Bạn có
tự hỏi, nếu sự sợ hãi không có bóng dáng của pháp luật đó cứ được duy
trì mãi, liệu sẽ có bao nhiêu sinh mạnh trẻ nhỏ còn treo lơ lửng trong
môi trường học đường?
Hãy nhìn lại biểu đồ của ngành giáo dục, liên quan đến đến vấn nạn công
an ngang nhiên dẫn độ trẻ em giữa giờ học (trong đó cũng không ít vụ
chính nhà trường làm “mai mối” cho những tội ác đó). Biểu đồ đó tăng dần
trong hình ảnh lạm quyền của công an địa phương, cũng như coi thường
luật pháp. Từ năm 2007, khi dư luận xã hội bùng lên chuyện em Huỳnh Thị
Ngọc Trâm, học lớp 5 ở trường tiểu học An Hiệp, tỉnh Đồng Tháp bị chính
nhà trường giao cho công an tra tấn để xét xem em có lấy trộm tiền quỹ
47.000 đồng của lớp không, khiến em trở nên hoảng loạn và bị câm trong
một thời gian dài mà không hề có sự bồi thường thoả đáng nào. Ghê sợ
hơn, học sinh tiểu học mới 7 tuổi như em Lại Thị Thắm ở trường tiểu học
Trung Lập Thượng, Củ Chi, Tp.HCM cũng từng bị dắt giao cho công an thẩm
tra, ngay trong lúc em đang ở lớp, vì nghi em trộm tiền. Chuyện vừa diễn
ra vào năm 2012, là một trong những cột mốc chạy dài đến hiện tại, với
vô số sự kiện bạo lực học đường bắt đầu từ người lớn, và hôm nay là cái
chết của em Nguyễn Tấn Tâm.
Chẳng lẽ, đối với học đường, ngành công an không thể tiêu hoá nổi khoản 9
điều 7 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, nghiêm cấm các hành
động có tính chất xúc phạm, hạ thấp danh dự, nhân phẩm hoặc dùng nhục
hình đối với trẻ em tình nghi vi phạm pháp luật? Và điều luật được in
rành rành công khai đó, đối với các thầy cô, vẫn không đủ là chỗ dựa để
bảo vệ học trò mình thay vì cam chịu, như biến nhà trường thành cánh
cổng phụ của đồn công an, trong trường hợp em Tâm?
Cách đây không lâu, Bộ Giáo dục có ra thông báo, kêu gọi phụ huynh cẩn
trọng trước nạn bắt cóc trẻ em ở trước cửa trường. Chua chát thay, số
liệu về bắt cóc của kẻ lạ thì rất thấp, nhưng số liệu về việc công an
bắt đi công khai, nhục hình và gây thương tật cho học sinh thì rất rõ,
thậm chí được ghi ở trang bách khoa điện tử. Thật ngạc nhiên, khi cần
thì Bộ giáo dục có thể vận dụng mọi ngành công an địa phương trong việc
để bảo đảm cho những kỳ thi “sạch” theo ý muốn của mình, nhưng gần 10
năm, kể từ sự kiện em Ngọc Trâm, Bộ Giáo dục sao không thể gửi nổi một
công văn khuyến cáo các công an địa phương nên hợp tác văn minh để giữ
gìn môi trường cao quý của ngành giáo dục?
Nói về chuyện giá trị riêng tư của ngành giáo dục, lại chợt nhớ câu
chuyện của anh bạn định cư ở nước ngoài. Những ngày đầu ở xứ người, do
không quen đường xá, anh bạn khi đưa con lên xe bus của nhà trường, liền
lái xe đi theo để học thuộc đường, phòng trường hợp phải đi đón về sớm.
Được 2 ngày, cảnh sát đến tận nhà kiểm tra xem có đúng là phụ huynh
không, còn nếu không thì sẽ bị cấm đi theo xe bus học sinh, do bị nghi
ngờ là kẻ bắt cóc. Sau khi nghe chuyện, cảnh sát còn dặn anh bạn rằng
phải nhớ ghé vào trường làm một I.D tag (thẻ nhận dạng phụ huynh) thì
mới có thể được phép đón con về. Viên cảnh sát cho biết thêm, ngay cả
trường hợp ông được nhờ đưa học sinh về, ông phải ký vào sổ và ghi rõ họ
tên, chức vụ của nhà trường.
Chuyện nhà trường ở xứ người thì vậy, còn trong trường hợp em Tâm, sau
khi công an thôn thấy chuyện trở nên rắc rối từ cái chết của em, nơi này
đã vội vàng tuyên bố rằng học sinh Tâm từng có tiền án trộm cắp hơn 10
vụ. Ngay cả cô phó hiệu trưởng trường THCS Tịnh Bắc, cô Nguyễn Thị Thu
Hoanh nghe mà phải sửng sốt trước trò tiểu xảo này. Cô khẳng định rằng
mình vẫn biết em Tâm là một học sinh ngoan. Đúng là người chết hai lần,
thịt da nát tan.
Một môi trường giáo dục được tôn trọng là ước muốn không của riêng ai.
Một không gian văn minh và riêng tư của nhà trường phải thuộc về pháp
luật, chứ không thể thuộc vào quyền lực riêng của một bí thư hay một
công an xã. Nỗi đau của các phụ huynh có con cái đối diện với vấn nạn
lạm quyền vô pháp phải trở thành những bài học cho đất nước. Cái chết
của học sinh Nguyễn Tấn Tâm không thể bị lãng quên vô ích, nó là tiếng
kêu về một tương lai khác của học đường Việt Nam: nơi đó phải là nơi
trải thảm cho đường đến tương lai, chứ không thể là đường trải thảm dành
cho cửa địa ngục.
SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN
Những Mái Chèo Lơi
Wed, 01/20/2016 - 22:39 — tuongnangtien
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Đàn cá sẽ chết khi dòng sông nghẽn mạch giữa hàng lớp thủy điện dàn trận từ Lan Thương về Lào, Campuchia rồi kiệt sức ở Cửu Long xa xôi.
Lan Phương – BBC
Khác với Sài Gòn và Phnom Penh, và tựa như Bangkok, Vientiane gần như vắng bóng hành khất. Trong suốt thời gian long nhong ở thủ đô Vạn Tượng, chỉ duy nhất mỗi lần tôi thấy một người khiếm thị vịn vai cô con gái nhỏ đang lần dò băng ngang qua đường Lane Xang – trước khu Chợ Sáng.
Hình ảnh này khiến tôi nhớ đến những những người mù trong quãng đời thơ ấu của mình. Họ thường ngồi ở cầu thang chợ (Đà Lạt) gẩy những tiếng đàn buồn bã, và cất tiếng những lời ca u uất, giữa đám đông hờ hững.
Hơn năm mươi năm đã trôi qua rồi. Tôi cứ tưởng là không còn ai lê la hát xẩm trên thế gian này nữa chứ. Chúng ta đã bước vào thế kỷ XXI lâu lắm rồi mà!
Ảnh:NgyThanh
Lại có hôm, ở Phnom Penh, nằm chờ hoài mà trời vẫn không chịu sáng. Chán, tôi mở cửa khách sạn tản bộ dọc theo bờ sông. Đi mãi trời mới hừng đông. Trong ánh nắng mai yếu ớt đầu ngày, tôi ngạc nhiên khi thấy những chiếc thuyền con mong manh (cùng những mái chèo mỏng mảnh) đang lững lờ trên dòng Mê Kông bao la và trầm lặng.
Ảnh chụp năm 2015
Bất giác, tôi bật hát khẽ những lời ca (thiết tha) của Văn Phụng năm nào:
Ai qua bến Đà giang cho tôi nhắn vài câu, thương về mái tranh nghèo bên hàng cau. Chia ly đã từ lâu. Ôi mong nhớ làm sao, bao nhiêu bóng người thân mến năm nào. Tôi thương mái chèo lơi, bên manh áo tả tơi, những người lái con đò trên dòng nước.
Tôi không biết bến Đà Giang ở nơi nao, và cứ ngỡ rằng những “mái tranh nghèo bên hàng cau” chỉ là hình bóng xa xôi (thuộc Thời Trung Cổ) vẫn còn rơi rớt đâu đó – trên đất nước mình – vào hồi đầu thế kỷ trước mà thôi. Có ngờ đâu “những mái chèo lơi” vẫn lặng lẽ khua nước ngay giữa Biển Hồ, và trên vô số sông rạch của Cambodia, cho mãi đến bây giờ.
Ảnh chụp năm 2015
Điều bất ngờ hơn nữa là chủ nhân của “những manh áo tả tơi” này, phần lớn, lại không phải là dân bản xứ. Họ chính là những đồng hương khốn khổ của tôi, chứ nào có phải là ai xa lạ. Theo tường trình (“The Situation of Stateless Ethnic Vietnamese in Cambodia”) của MIRO – Minority Rights Organization – vào năm 2014 có khoảng năm phần trăm, hay 750.000 người gốc Việt đang sinh sống ở đất Miên. Đây là sắc dân thiểu số đông nhất ở đất nước này.
Hầu hết họ đều là dân ngụ cư, không khai sinh, không căn cước, không được quyền tiếp cận với bất cứ dịch vụ xã hội nào, và (tất nhiên) không có quyền sở hữu tài sản hay đất đai gì ráo trọi. Bởi vậy, phần lớn kiều bào ở Miên (theo như cách gọi rất lịch sự của Đại Sứ Quán Việt Nam ở Phnom Penh) đều sống lêu bêu – rầy đây mai đó – trên những túp lều nổi xung quanh Biển Hồ, hoặc dọc theo những nhánh sông phụ thuộc.
Họ sống làm sao?
Cũng giản dị thôi. Chỉ cần một chiếc thuyền con, cùng một mái chèo, và hai ba người miệt mài quăng chài hay thả lưới suốt ngày – bất kể nắng mưa – là có cá ăn, phần dư dôi cũng đủ để đổi lại một hai ký gạo, ít mắm muối, và vài ba xị đế.
Y tế, giáo dục, thể thao, giải trí ... đều là những khái niệm mơ hồ – nếu chưa muốn nói là xa xỉ – và chả ai có bao giờ nghĩ đến. Đời sống giản dị, và giản lược, từ tay đến miệng thế thôi. Có lẽ không nơi nào trên trái đất này mà đám Việt kiều trông lam lũ và thảm thương đến vậy!
Ảnh chụp năm 2015
Cũng đã đôi lần (vào thập niên 1970) cái đám người trôi sông lạc chợ này cũng đã đàn đúm dắt díu nhau tìm về tổ quốc nhưng rồi họ nhận thức ra ngay rằng quê hương cũng không phải là nơi nương náu được nên rồi lại đành phải tiếp tục tha phương cầu thực. Ở xứ người họ bị gọi một cách khinh miệt là Duồn: “Tụi Duồn về quê tụi bay hết đi.” Qua bên kia biên giới thì họ bị chửi ... là Miên: “Đám Miên chạy qua đây làm gì?”
Tuy bị chính quyền và dân chúng của cả hai nước Việt/Miên bạc đãi nhưng bù lại họ nhận được thiên nhiên dung chấp. Sự bao dung này, tiếc thay, nay không còn nữa. Từ Bankok, vào hôm 25 tháng 12 năm 2015, thông tín viên Lan Phương (BBC) vừa buồn bã cho hay:
“Những người đàn ông giăng lưới ở Đồng Tháp không hiểu vì sao năm nay không có nước lên xứ đồng bằng.
Cá linh đi xa dần, đắt đỏ như món đặc sản không biết tìm đâu ra. Lưới cá treo ở góc nhà, quên mất đã có thời Cửu Long cá nhiều đến mức ứ đầy thủng lưới.
Người nông dân không biết diễn tả điều gì đã hủy hoại sự sung túc một thời trên đồng bằng châu thổ của mình. Dân ở Biển Hồ (Campuchia) cũng chỉ biết im lặng nhìn vào mắt lưới trống rỗng lập lờ dưới nước mùa thiếu cá về.”
Qua lại hồ Tonlé Sap, và lui tới những sông rạch dọc ngang của xứ Chùa Tháp – cả năm qua – nơi đâu tôi cũng thấy những ánh mắt lo âu cùng với những lời hỏi han (nghe) như những tiếng than dài: "Không biết tại sao mà cá mỗi năm một ít, ông à!"
Tôi im lặng, tất nhiên, dù thiệt tình thì lờ mờ có biết nguyên do - sau khi đọc được Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng do nhà Văn Nghệ xuất bản năm 2000. Tác phẩm này của Ngô Thế Vinh vừa được nxb Giấy Vụn tái bản, lần thứ ba, vào năm 2014. Xin xem qua đôi lời giới thiệu nội dung của nhà báo Ngô Nhân Dụng :
Ðầu mối tai họa này là chính sách khai thác điện lực và dẫn thủy nhập điền của chính quyền Cộng sản Trung Quốc. Sông Mekong, tại Trung Quốc mang tên là Lan Thương (Lancang, 澜沧) chảy qua Tây Tạng và các tỉnh Thanh Hải, Vân Nam, trước khi đổ xuống phía Nam. Theo tạp chí World Rivers Review của cơ quan Sông quốc tế (International Rivers, IR), thì vào năm 2014, Trung Cộng đã xây dựng bảy đập thủy điện lớn ở đầu nguồn sông Mekong thuộc nước Tàu, con sông phát nguyên từ Tây Tạng chảy xuống Biển Ðông nước ta. Họ sẽ xây thêm 21 đập ngăn nước lớn khác trong 10 năm tới. Các nước hạ nguồn cũng bắt chước xây các đập nước khác; với dự án xây 11 con đập nữa.
Nhưng tai họa lớn nhất là nước biển lấn dần vào đất liền thì chỉ dân Việt ở đồng bằng sông Cửu Long gánh chịu. Ðập Don Sahong đang xây ở Hạ Lào, nhằm cung cấp điện cho Lào và Thái Lan sẽ ảnh hưởng lớn trên đời sống dân Campuchia và miền Nam Việt Nam.
Trong cuốn sách biên khảo viết dưới hình thức vừa tiểu thuyết vừa ký sự, Cửu Long Cạn Dòng, Biển Ðông Dậy Sóng, Bác Sĩ Ngô Thế Vinh đã mô tả hành động của chính quyền Trung Quốc: “Vào Tháng Tư năm 2001, Trung Quốc đã ký một thỏa hiệp về thủy vận trên sông Cửu Long nhưng chỉ với 3 quốc gia Miến Ðiện, Thái và Lào với kế hoạch vét lòng sông, cả dùng cốt mìn chất nổ phá tung những khối đá trên các đoạn ghềnh thác, các đảo nhỏ trên sông để khai thông mở rộng đường sông cho tàu lớn trọng tải từ 500-700 tấn có thể di chuyển từ cảng Tư Mao xuống Chiang Khong Chiang Sean Bắc Thái xuống thẳng tới Vạn Tượng. Trong khi Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia cuối nguồn, trực tiếp chịu ảnh hưởng của kế hoạch ấy thì bị gạt ra ngoài.”
Thảo nào mà ở Phnom Penh đã có kẻ bỏ lại “những mái chèo lơi” cho sông nước, chỉ còn khoác mỗi “manh áo tả tơi” thất thểu bước lên bờ, rồi nằm dài giữa công viên phố thị.
Ảnh chụp năm 2015
Khi mà ở thượng nguồn sông Tiền, và sông Hậu ngư dân phải đi ăn xin thay vì đi chài lưới thì ai cũng có thể tiên đoán được hậu vận của hàng chục triệu người dân Việt – ở Đồng Bằng Sông Cử Long – mà không cần phải là thầy bói.
Đàn cá sẽ chết khi dòng sông nghẽn mạch giữa hàng lớp thủy điện dàn trận từ Lan Thương về Lào, Campuchia rồi kiệt sức ở Cửu Long xa xôi.
Lan Phương – BBC
Khác với Sài Gòn và Phnom Penh, và tựa như Bangkok, Vientiane gần như vắng bóng hành khất. Trong suốt thời gian long nhong ở thủ đô Vạn Tượng, chỉ duy nhất mỗi lần tôi thấy một người khiếm thị vịn vai cô con gái nhỏ đang lần dò băng ngang qua đường Lane Xang – trước khu Chợ Sáng.
Hình ảnh này khiến tôi nhớ đến những những người mù trong quãng đời thơ ấu của mình. Họ thường ngồi ở cầu thang chợ (Đà Lạt) gẩy những tiếng đàn buồn bã, và cất tiếng những lời ca u uất, giữa đám đông hờ hững.
Hơn năm mươi năm đã trôi qua rồi. Tôi cứ tưởng là không còn ai lê la hát xẩm trên thế gian này nữa chứ. Chúng ta đã bước vào thế kỷ XXI lâu lắm rồi mà!
Ảnh:NgyThanh
Lại có hôm, ở Phnom Penh, nằm chờ hoài mà trời vẫn không chịu sáng. Chán, tôi mở cửa khách sạn tản bộ dọc theo bờ sông. Đi mãi trời mới hừng đông. Trong ánh nắng mai yếu ớt đầu ngày, tôi ngạc nhiên khi thấy những chiếc thuyền con mong manh (cùng những mái chèo mỏng mảnh) đang lững lờ trên dòng Mê Kông bao la và trầm lặng.
Ảnh chụp năm 2015
Bất giác, tôi bật hát khẽ những lời ca (thiết tha) của Văn Phụng năm nào:
Ai qua bến Đà giang cho tôi nhắn vài câu, thương về mái tranh nghèo bên hàng cau. Chia ly đã từ lâu. Ôi mong nhớ làm sao, bao nhiêu bóng người thân mến năm nào. Tôi thương mái chèo lơi, bên manh áo tả tơi, những người lái con đò trên dòng nước.
Tôi không biết bến Đà Giang ở nơi nao, và cứ ngỡ rằng những “mái tranh nghèo bên hàng cau” chỉ là hình bóng xa xôi (thuộc Thời Trung Cổ) vẫn còn rơi rớt đâu đó – trên đất nước mình – vào hồi đầu thế kỷ trước mà thôi. Có ngờ đâu “những mái chèo lơi” vẫn lặng lẽ khua nước ngay giữa Biển Hồ, và trên vô số sông rạch của Cambodia, cho mãi đến bây giờ.
Ảnh chụp năm 2015
Điều bất ngờ hơn nữa là chủ nhân của “những manh áo tả tơi” này, phần lớn, lại không phải là dân bản xứ. Họ chính là những đồng hương khốn khổ của tôi, chứ nào có phải là ai xa lạ. Theo tường trình (“The Situation of Stateless Ethnic Vietnamese in Cambodia”) của MIRO – Minority Rights Organization – vào năm 2014 có khoảng năm phần trăm, hay 750.000 người gốc Việt đang sinh sống ở đất Miên. Đây là sắc dân thiểu số đông nhất ở đất nước này.
Hầu hết họ đều là dân ngụ cư, không khai sinh, không căn cước, không được quyền tiếp cận với bất cứ dịch vụ xã hội nào, và (tất nhiên) không có quyền sở hữu tài sản hay đất đai gì ráo trọi. Bởi vậy, phần lớn kiều bào ở Miên (theo như cách gọi rất lịch sự của Đại Sứ Quán Việt Nam ở Phnom Penh) đều sống lêu bêu – rầy đây mai đó – trên những túp lều nổi xung quanh Biển Hồ, hoặc dọc theo những nhánh sông phụ thuộc.
Họ sống làm sao?
Cũng giản dị thôi. Chỉ cần một chiếc thuyền con, cùng một mái chèo, và hai ba người miệt mài quăng chài hay thả lưới suốt ngày – bất kể nắng mưa – là có cá ăn, phần dư dôi cũng đủ để đổi lại một hai ký gạo, ít mắm muối, và vài ba xị đế.
Y tế, giáo dục, thể thao, giải trí ... đều là những khái niệm mơ hồ – nếu chưa muốn nói là xa xỉ – và chả ai có bao giờ nghĩ đến. Đời sống giản dị, và giản lược, từ tay đến miệng thế thôi. Có lẽ không nơi nào trên trái đất này mà đám Việt kiều trông lam lũ và thảm thương đến vậy!
Ảnh chụp năm 2015
Cũng đã đôi lần (vào thập niên 1970) cái đám người trôi sông lạc chợ này cũng đã đàn đúm dắt díu nhau tìm về tổ quốc nhưng rồi họ nhận thức ra ngay rằng quê hương cũng không phải là nơi nương náu được nên rồi lại đành phải tiếp tục tha phương cầu thực. Ở xứ người họ bị gọi một cách khinh miệt là Duồn: “Tụi Duồn về quê tụi bay hết đi.” Qua bên kia biên giới thì họ bị chửi ... là Miên: “Đám Miên chạy qua đây làm gì?”
Tuy bị chính quyền và dân chúng của cả hai nước Việt/Miên bạc đãi nhưng bù lại họ nhận được thiên nhiên dung chấp. Sự bao dung này, tiếc thay, nay không còn nữa. Từ Bankok, vào hôm 25 tháng 12 năm 2015, thông tín viên Lan Phương (BBC) vừa buồn bã cho hay:
“Những người đàn ông giăng lưới ở Đồng Tháp không hiểu vì sao năm nay không có nước lên xứ đồng bằng.
Cá linh đi xa dần, đắt đỏ như món đặc sản không biết tìm đâu ra. Lưới cá treo ở góc nhà, quên mất đã có thời Cửu Long cá nhiều đến mức ứ đầy thủng lưới.
Người nông dân không biết diễn tả điều gì đã hủy hoại sự sung túc một thời trên đồng bằng châu thổ của mình. Dân ở Biển Hồ (Campuchia) cũng chỉ biết im lặng nhìn vào mắt lưới trống rỗng lập lờ dưới nước mùa thiếu cá về.”
Qua lại hồ Tonlé Sap, và lui tới những sông rạch dọc ngang của xứ Chùa Tháp – cả năm qua – nơi đâu tôi cũng thấy những ánh mắt lo âu cùng với những lời hỏi han (nghe) như những tiếng than dài: "Không biết tại sao mà cá mỗi năm một ít, ông à!"
Tôi im lặng, tất nhiên, dù thiệt tình thì lờ mờ có biết nguyên do - sau khi đọc được Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng do nhà Văn Nghệ xuất bản năm 2000. Tác phẩm này của Ngô Thế Vinh vừa được nxb Giấy Vụn tái bản, lần thứ ba, vào năm 2014. Xin xem qua đôi lời giới thiệu nội dung của nhà báo Ngô Nhân Dụng :
Ðầu mối tai họa này là chính sách khai thác điện lực và dẫn thủy nhập điền của chính quyền Cộng sản Trung Quốc. Sông Mekong, tại Trung Quốc mang tên là Lan Thương (Lancang, 澜沧) chảy qua Tây Tạng và các tỉnh Thanh Hải, Vân Nam, trước khi đổ xuống phía Nam. Theo tạp chí World Rivers Review của cơ quan Sông quốc tế (International Rivers, IR), thì vào năm 2014, Trung Cộng đã xây dựng bảy đập thủy điện lớn ở đầu nguồn sông Mekong thuộc nước Tàu, con sông phát nguyên từ Tây Tạng chảy xuống Biển Ðông nước ta. Họ sẽ xây thêm 21 đập ngăn nước lớn khác trong 10 năm tới. Các nước hạ nguồn cũng bắt chước xây các đập nước khác; với dự án xây 11 con đập nữa.
Nhưng tai họa lớn nhất là nước biển lấn dần vào đất liền thì chỉ dân Việt ở đồng bằng sông Cửu Long gánh chịu. Ðập Don Sahong đang xây ở Hạ Lào, nhằm cung cấp điện cho Lào và Thái Lan sẽ ảnh hưởng lớn trên đời sống dân Campuchia và miền Nam Việt Nam.
Trong cuốn sách biên khảo viết dưới hình thức vừa tiểu thuyết vừa ký sự, Cửu Long Cạn Dòng, Biển Ðông Dậy Sóng, Bác Sĩ Ngô Thế Vinh đã mô tả hành động của chính quyền Trung Quốc: “Vào Tháng Tư năm 2001, Trung Quốc đã ký một thỏa hiệp về thủy vận trên sông Cửu Long nhưng chỉ với 3 quốc gia Miến Ðiện, Thái và Lào với kế hoạch vét lòng sông, cả dùng cốt mìn chất nổ phá tung những khối đá trên các đoạn ghềnh thác, các đảo nhỏ trên sông để khai thông mở rộng đường sông cho tàu lớn trọng tải từ 500-700 tấn có thể di chuyển từ cảng Tư Mao xuống Chiang Khong Chiang Sean Bắc Thái xuống thẳng tới Vạn Tượng. Trong khi Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia cuối nguồn, trực tiếp chịu ảnh hưởng của kế hoạch ấy thì bị gạt ra ngoài.”
Thảo nào mà ở Phnom Penh đã có kẻ bỏ lại “những mái chèo lơi” cho sông nước, chỉ còn khoác mỗi “manh áo tả tơi” thất thểu bước lên bờ, rồi nằm dài giữa công viên phố thị.
Ảnh chụp năm 2015
Khi mà ở thượng nguồn sông Tiền, và sông Hậu ngư dân phải đi ăn xin thay vì đi chài lưới thì ai cũng có thể tiên đoán được hậu vận của hàng chục triệu người dân Việt – ở Đồng Bằng Sông Cử Long – mà không cần phải là thầy bói.
TS. PHẠM CAO DƯƠNG * HAI BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
Sáu mươi năm nhìn lại: Từ Bảo Đại đến Hồ Chí Minh:HAI BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
65 Năm Nhìn Lại, Từ Bảo Đại đến Hồ Chí Minh: Hai Bản Tuyên Ngôn Độc Lập
TS. PHẠM CAO DƯƠNG
Bản tuyên ngôn này đã được Hồ Chí Minh một mình soạn thảo, một mình đứng
tên và đọc tại Quảng Trường Ba Đình ở Hà Nội vào buổi chiều ngày 2
tháng Chín năm 1945, ngót năm tháng sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, hơn
hai tuần lễ sau khi Nhật Bản đầu hàng, mười ba ngày sau khi Việt Minh
cướp được chính quyền ở Hà Nội và hai ngày sau khi Bảo Đại chính thức
thoái vị. Vì được công bố sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, sau khi người
Nhật đã đầu hàng cũng như chế độ bảo hộ của người Pháp đã bị người Nhật
lật đổ trước đó, bản tuyên ngôn này đã bị nhiều người cho là thừa, không
cần thiết, chưa kể tới sự kiện là chính phủ mới do Hồ Chí Minh thành
lập là kế vị chính phủ Nam Triều do Bảo Đại thoái vị nhường cho dựa theo
chiếu thoái vị của Bảo Đại. Chiếu này đã được Hồ Chí Minh và chính phủ
mới của ông chấp nhận.
Trong lich sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, hai lần nước ta đã được các nhà cầm quyền đương thời chính thức tuyên bố độc lập. Lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng Đế Bảo Đại và lần thứ hai vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 bởi Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh. Hai lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần. Họ chỉ biết hay chỉ được học bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết hay không được học bản tuyên ngôn của Bảo Đại ngày 11 tháng 3. Lịch sử do đó chỉ được biết có một nửa thay vì toàn vẹn. Bài này nhằm bổ khuyết cho tình trạng thiếu sót đó, đồng thời phân tích nội dung và ý nghĩa của từng bản.
Bản tuyên ngôn độc Lập của Hoàng Đế Bảo Đại được công bố ngày 11 tháng 3 năm 1945, hai ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và sau một thời gian dài hơn bốn năm, từ tháng 9 năm 1940, sau khi quân Nhật vào phần đất này của Đông Nam Á, gần năm tháng trước khi Nhật Bản đầu hàng và Thế Chiến Thứ Hai kết thúc. Trong thời gian này Việt Nam bị sống dưới sự cai trị của cả người Pháp, từ sau khi Hòa Ước 1884 được ký kết, lẫn người Nhật, từ ngày 22 tháng 9 năm 1940, với một hậu quả khủng khiếp là Trận Đói Tháng Ba Năm Ất Dậu. Hoàn cảnh này đã làm cho không chỉ riêng những người Cộng Sản, vốn chủ trương đánh đổ chế độ quân chủ để cướp chính quyền (chữ của chính người Cộng Sản) để từ đó thực thi cách mạng vô sản mà luôn cả những người không những không có cảm tình với chế độ quân chủ đương thời mà còn chủ trương lật đổ chế độ này để thay thế bằng một chế độ dân chủ, không nhìn nhận giá trị đích thực của bản tuyên ngôn này. Lý do là vì Bảo Đại luôn luôn bị coi như một ông vua bù nhìn, trước kia trong tay người Pháp và lúc đó trong tay người Nhật. Theo họ trước kia người Pháp bảo sao, ông làm vậy và sau đảo chính 9 tháng 3 năm 1945, người Nhật bảo ông tuyên bố độc lập thì ông tuyên bố độc lập, thế thôi. Người ta hiểu hay được học đơn giản như vậy. Nền độc lập mà Bảo Đại tuyên bố theo họ chỉ là do người Nhật ban cho và bản tuyên ngôn của ông chẳng có một giá trị gì trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của người Việt. Thực chất của nó chỉ là “sự tuyên bố công khai việc thay thầy đổi chủ của triều đình Bảo Đại”(1) không hơn không kém. Sự thực không đơn giản như vậy. Người Nhật có lý do làm đảo chính lật đổ người Pháp và Bảo Đại có lý do phải chấp nhận yêu cầu của người Nhật tuyên bố Việt Nam độc lập. Lý do của Bảo Đại đã được ông giải thích khi tiếp kiến Trần Trọng Kim và cố gắng thuyết phục ông này chấp nhận làm thủ tướng đầu tiên của chính phủ Nam Triều độc lập. Nguyên văn câu nói của Bảo Đại được Trần Trọng Kim kể lại như sau:
“-Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên Bộ thượng thư đã tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải dứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó mọi việc.” (2)
Người ta cần phải nhớ là hơn mười năm trước đó, sau khi du học từ Pháp về tới Huế được hai ngày, ngày tháng 10 tháng 9 năm 1932, Bảo Đại đã ra Dụ số 1 tuyên bố chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ của Nam Triều hủy bỏ Quy Ước 6 tháng 11 năm 1925 do Hội Đồng Phụ Chính, đứng đầu là Tôn Thất Hân, ký với Toàn Quyền Đông Dương thời ông còn nhỏ tuổi và đang du học bên Pháp, tước bỏ hầu hết các quyền hành còn lại của nhà vua trừ các quyền có tính cách nghi lễ, ân xá, sắc phong, tế lễ…kèm theo nhiều dụ khác nhằm thực hiện những cải cách qui mô trong nền hành chánh của chính phủ Nam Triều, nhưng đã bị người Pháp ngăn cản và bị thất bại. Đảo chính 9 tháng 3 năm 1945 và lời yêu cầu tuyên bố độc lập của người Nhật dù gì đi chăng nữa cũng là điều vị hoàng đế còn trẻ tuổi từ lâu mong đợi. Ngoài ra theo nhận định và giải thích nhằm thúc đẩy Trần Trong Kim chịu khó lập chính phủ mới. Ông nói:
-“Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.”(3)
Hai tiếng “cơ hội” Bảo Đại dùng ở đây cho ta thấy ông từ lâu mong có dịp này. Đồng thời ông cũng hiểu rằng nền độc lập mà ông tuyên cáo chưa phải độc lập hẳn.” Chưa hết, tuyên bố rồi ông còn có nhu cầu phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập và nhất là để tránh không cho người Nhật “lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta.””(3) Một sự e ngại chỉ có những người có kiến thức về lịch sử và chính trị học mói biết được. Ngoài ra những tiếng “rất có hại cho nước ta” cũng cho người ta thấy đối tương của hành động tuyên cáo độc lập của ông không phải là ngôi vua mà là đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, đất nước của ông và thần dân của ông. Cái nhìn và quan điểm này cũng như sự hiểu biết của ông về tình hình thế giới và thế tất bại của người Nhật về sau đã được ông nói rõ trong hồi ký của ông. Riêng đối với người Nhật, ông đã không tin tưởng ở họ cũng như chiêu bài Đại Đông Á của họ. Nói cách khác Bảo Đại ở vị thế phải chấp nhận nhập cuộc dù ông hiểu rõ sự phức tạp của vấn đề. Phần khác như ông cũng nói tới trong hồi ký của ông: Độc lập là ước mơ của tất cả mọi người Việt Nam thời đó.
Nội dung bản Tuyên ngôn
Đây là một bản văn tương đối ngắn so với những bản văn cùng loại, nhằm ba mục tiêu chính yếu là hủy bỏ một hòa ước Triều Đình Huế đã ký với nước Pháp, tuyên bố Việt Nam độc lập,đứng vào khối Đại Đông Á trong chương trình phát triển chung, đồng thời bày tỏ sự tin tưởng vào lòng thành của nước Nhật với nguyên văn như sau:
“ Cứ tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi Đông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Nam khôi phục quyền độc lập.
“ Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vương chung.
“Vậy Chính Phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.(4)
Bản Tuyên Bố được đề ngày 11 tháng Ba năm 1945 tức ngày 27 tháng Giêng năm Bảo Đại thứ 20 được Bảo Đại ký tên với sáu thượng thư phó thự. Sáu vị thương thư gồm có: Phạm Quỳnh, bộ Lại, Hồ Đắc Khải, bộ Hộ, Ưng Úy, bộ Lễ, Bùi Bằng Đoàn, bộ Hình, Trần Thanh Đạt, bộ Học, và Trương Như Định, bộ Công. Theo Bảo Đại đây là lần đầu tiên trong lịch sử một văn kiện được ký bởi nhà vua và tất cả các nhân vật quan trọng nhất trong triều đình.
Đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập này của Bảo Đại, người ta cần chú ý tới những chi tiết sau đây:
Thứ nhất:
Gọi là tuyên ngôn nhưng thực sự đây chỉ là một văn kiện hủy bỏ một điều ước đã được ký kết trước đó vì do tình hình biến chuyển một trong hai phía đã không tôn trọng những gì mình đã ký kết hay không thực thi được những gì mình đã ký kết trong một sinh hoạt quốc tế. Điều ước bị hủy bỏ ở đây là Hòa Ước Giáp Thân được ký kết giữa Triều Đình Huế và người Pháp ngày 6 tháng 6 năm 1884, đặc biệt hai điều khoản của hòa ước này là điều khoản thứ nhất, theo đó Việt Nam công nhận và chấp nhận Quyền Bảo Hộ của nước Pháp và điều khoản thứ mười lăm, theo đó nước Pháp cam kết bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ của các xứ do vua Việt Nam cai trị và bảo vệ nhà vua chống lại những sự xâm nhập từ bên ngoài và những cuộc nổi loạn từ bên trong..(5). Sự hủy bỏ này phải được hiểu là do người Pháp bất lực không bảo vệ được Việt Nam trước sự bành trướng của quân đội Nhật và cuối cùng là chính người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trong cuộc Đảo Chính ngày 9 tháng 3 năm 1945. Sự hủy bỏ này cũng có tính cách đơn phương từ phía Bảo Đại với tư cách là người kế vị chính thống của Triều Đình Nhà Nguyễn căn cứ vào những gì đã xảy ra vào thời điểm này. Điểm cần được lưu ý ở đây là từ ngữ hòa ước trong văn kiện này được dùng theo số ít, trong tiếng Việt, không có chữ “các” hay “những” đi kèm và trong tiếng Pháp không có chữ “s” theo sau. Điều này có nghĩa là bản tuyên cáo chỉ hủy bỏ hòa ước bảo hộ tức Hòa Ước Giáp Thân 1884 mà thôi thay vì hủy bỏ tất cả các hòa ước đã được ký kết trước đó. Đó là các Hòa Ước Nhâm Tuất 1862 và Hòa Ước Giáp Tuất 1874 liên hệ tới xứ Nam Kỳ theo đó xứ này đã bị nhường dứt cho người Pháp là và trở thành thuộc địa của họ, không còn thuộc quyền cai trị của Vua và Triều Đình Huế nữa. Vấn đề thâu hồi xứ Nam Kỳ do đó chưa được giải quyết ngay nhưng đã trở thành mối bận tâm và một phần hành quan trọng của chính Bảo Đại ngay từ buổi nhà vua tiếp kiến Đại Sứ Nhật Yokoyama và của Chính Phủ Trần Trọng Kim trong gần suốt thời gian chính phủ này tồn tại. Xứ Nam Kỳ chỉ được người Nhật trao trả trong những ngày cuối của chính phủ này và chỉ chính thức trở về với lãnh thổ quốc gia Việt Nam ngót năm năm sau, vào giữa tháng 6 năm 1949, và do Bảo Đại với tư cách Quốc Trưởng tiếp nhận từ tay người Pháp. Đây cũng là một sự kiện ít người biết đến.
Thứ hai: ”Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập….giúp cho cuộc thịnh vượng chung.” Câu này xác định phương thức hoạt động nhằm thực hiện tư cách độc lập (tự phát triển như một quốc gia độc lập không phụ thuộc vào nước ngoài cho xứng đáng một quốc gia độc lập) và thế đứng của Việt Nam trên trường quốc tế (tự coi mình là một phần tử Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung). Nên để ý tới khẩu hiệu Châu Á của Người Á do người Nhật đưa ra trong thời gian này, một khẩu hiệu hàm chứa sự độc lập của các nước Á Châu lúc đó còn là thuộc địa của các đế quốc Âu Châu. Đây cũng là một cách nói trước một cách khéo léo để ngăn chặn trước sự can thiệp vào nội tình Việt Nam của người Nhật.
Thứ ba:
“Chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc…”. Câu này nhằm buộc chặt lời hứa của người Nhật bằng cách nhấn mạnh vào sự trung thành với những gì họ đã nói, với quan niệm trung thành như một truyền thống chung của các dân tộc Á Đông.
Thứ tư:
“”quyết chí hợp tác với nước Nhật đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.” Mục đích như trên là mục đích gì? Phải hiểu mục đích này bao gồm hai phần là “tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập” và “giúp cho cuộc thịnh vương chung” như là một phần tử của khối Đại Đông Á.”
Nói cách khác, đây là một bản văn tuy ngắn ngủi, cô đọng nhưng rất quan trọng vì nó vừa mang tính cách pháp lý, có liên hệ tới nhiều văn kiện ngoại giao khác đã được hình thành trước đó, vừa biểu lộ chủ trương của một quốc gia được trao trả độc lập trong một hoàn cảnh không nhận không được, vô cùng tế nhị và phức tạp vào lúc tình hình thế giới biến chuyển quá nhanh và hoàn toàn bất lợi cho quân đội và quốc gia đảm nhận sự trao trả nền độc lập này. Mỗi điều nói ra, mỗi chữ được viết đều đòi hỏi người soạn thảo phải vô cùng thận trong và ước tính kỹ càng.
Ai là tác giả của bản tuyên ngôn này?
Người được nói đến nhiều nhất là Phạm Quỳnh, lúc đó đang giữ chức thượng thư bộ lại. Điều này có nhiều phần đúng nếu người ta để ý tới khả năng nghị luận và viết văn, viết báo kèm theo sự hiểu biết và kinh nghiệm của một học giả, một người làm báo, và sau đó là một ngự tiền văn phòng tổng lý của nhà vua cũng như thượng thư bộ lại trước đó. Nó cũng được Phạm Khắc Hòe, đương thời là ngự tiền văn phòng tổng lý của Bảo Đại, trong hồi ký của ông này xác nhận. (6)
Thứ hai là cho tới ngày 2 tháng 9 năm 1945, cái tên Hồ Chí Minh hoàn toàn xa lạ ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Võ Nguyên Giáp, một trong những cộng sự viên thân cận nhất của Hồ Chí Minh trong thời gian này, đã viết trong hồi ký của mình rằng: “Ba tiếng HỒ CHÍ MINH không bao lâu đã vang đi khắp thế giới với những truyền thuyết mà người ta thường dành cho các bậc vĩ nhân. Nhưng vào ngày hôm ấy, cái tên mới của Bác vẫn còn mới lạ với nhiều đồng bào. Số người biết Bác chính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc khi đó không nhiều.”(8) Ngay vua Bảo Đại ngày 23 tháng 8 năm 1945, khi nhận được điện tín của của các ông Nguyễn Xiển, Nguyên Văn Huyên, Ngụy Như Kon-Tum và Hồ Hữu Tường nhân danh Ủy Ban Nhân Dân Cách mạng, yêu cầu nhà vua thoái vị nhường quyền lãnh đạo quốc gia cho Chính Phủ Nhân Dân Cách mạng với chủ tịch là “Cụ Hồ Chí Minh” đã không biết Hồ Chí Minh là ai. Còn Phạm Khắc Hòe, người được Việt Minh gài vào cạnh nhà vua cũng không biết nốt, phải chạy đi hỏi Tôn Quang Phiệt, một đảng viên Cộng Sản, rồi Đào Duy Anh nhưng Tôn Quang Phiệt đi vắng và Đào Duy Anh lục lọi, truy tìm các tài liệu, sách vở ông có nhưng cũng không ra tên này.
Cuối cùng Vũ Văn Hiền, ở Bắc về mới xác nhận Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc.(9) Tuyên bố Việt Nam độc lập đối với Hồ Chi Minh vào thời điểm này do đó là cách tự giới thiệu mình tốt nhất và hữu hiệu nhất vói toàn thể đồng bào và để được nhìn và được chấp nhận như là lãnh tụ đầu tiên đã mang lại được độc lập cho tổ quốc và cho toàn dân Việt Nam, một nhu cầu tối cần thiết, dầu rằng nền độc lập này hoàn toàn không phải do ông hay do Mặt Trận Việt Minh tạo ra mà là do những biến cố khác của lịch sử, trong đó quan trọng nhất là Đảo Chính 9 tháng Ba năm 1945, trong đó người Nhật đã loại bỏ người Pháp, kèm theo là bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoàng Đế Bảo Đại nói trên, và cuối cùng là sự bại trận sau này của người Nhật. Chúng ta cũng cần để ý là đối với đa số người Việt Nam thời đó, ngày 2 tháng 9 là Ngày Độc Lập, đúng như Nguyễn Hữu Đang, người được Hồ Chí Minh chỉ định tổ chức ngày này, gọi qua các văn thư chính thức ông đã gửi cho các cơ quan liên hệ, trong đó có thư gửi cho Thị Trưởng Hà Nội (10) và theo bìa in bản tuyên ngôn của bản đầu tiên năm 1945, do Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Hồ Chí Minh đọc trong Ngày Độc Lập”. (11) Nhưng đối với Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 còn có một ý nghĩa quan trọng hơn nữa. Đó là “ngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa”, theo lời ông nói với Nguyễn Hữu Đang, “Chú phải nhớ…(12) Tại sao vậy? Tại vì Hồ Chí Minh phải làm chuyện này trước khi quân Đồng Minh kéo vô Việt Nam, đặc biệt là thủ đô Hà Nội, nhằm đặt họ trước một sự đã rồi, không thể đảo ngược đươc.. Sự kiện vua Bảo Đại thoái vị được nhắc tới và câu “Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp” là nhằm vào mục tiêu này.
BẢN TUYÊN NGÔN CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA HỒ CHÍ MINH
Hoàn cảnh được công bố
Thứ nhất là vì từ lâu toàn dân ai nấy đếu khao khát được thấy nước nhà độc lập, đúng như Bảo Đại đã viết trong hồi ký của ông, độc lập là ước mơ của mọi người dân Việt (7), cũng như nó được phản ảnh ở khắp nước ngay trước và sau ngày 2 tháng 9 năm 1945. Nói tới độc lập vào lúc đó là gõ đúng tần số của bất cứ một người dân Việt Nam nào từ đó đem lại công lao và thanh thế cho người chính thức công bố ra điều đó.
Nội dung bản Tuyên Ngôn
Bản Tuyên Ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, vì được phổ biến rộng rãi và hầu như được coi là duy nhất gắn liền với ngày 2 tháng 9, ngày Quốc Khánh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa rồi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nên đã được nhiều người đọc, phân tích và tìm hiểu. Trong phần này người viết chỉ nêu lên những gì ít được mọi người nhắc hay để ý đến.
Trong khi Tuyên Cáo của Bảo Đại đơn giản chỉ là một bản văn thuần túy pháp lý nhằm hủy bỏ hòa ước bảo hộ mà triều đình Huế đã ký trước đó căn cứ vào sự bất lực của người Pháp, vì người Pháp đã không giữ được cam kết ghi trong điều khoản thứ nhất và điều khoản thứ mười lăm của hòa ước này, mà không nhằm vào một đối tượng- quần chúng hay quốc tế, thì bản Tuyên Ngôn của Hồ Chí Minh
nhằm vào toàn thể người Việt qua lời mở đầu “Hỡi đồng bào cả nước…”. Tuy nhiên ở những đoạn cuối tác giả lại nhắm vào các nước Đồng Minh. Điều này phải tinh ý người ta mới nhận ra được. Về tư cách, Bảo Đại nhân danh Hoàng Đế Việt Nam, người đứng đầu của một quốc gia độc lập đã tồn tại từ trước khi người Pháp xâm lăng và là người kế thừa chính thống của các vua Nhà Nguyễn, thì Hồ Chí Minh đã nhân danh “Lâm Thời Chính Phủ của nước Việt Nam mới.”” Mới là vì đến ngày đó chính phủ này mới chính thức được ra mắt trước quốc dân. Lời văn do đó phản ảnh hai tư cách của hai bản chất con người khác nhau. Một người là hoàng đế kế thừa chính thống của một triều đại đã trị vì một quốc gia từ hơn một trăm năm trước dù cho là chỉ còn hư vị; người kia là lãnh tụ của một phong trào cách mạng vừa chủ trương chống Pháp, vừa chủ trương chống Nhật và lật đổ chế độ quân chủ để giành chính quyền. Văn phong trong bản tuyên ngôn của Bảo Đại là văn phong bình thường của người cầm quyền; còn văn phong của Hồ Chí Minh mang tính cách kêu gọi và ở một mức độ nào đó có tính cách bình dân, kể lể dài dòng và nhất là xách động.
Mở đầu cho bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã trích dẫn một số câu trong phần đầu của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của người Mỹ và một câu trong Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp. Sự trích dẫn này, vào lúc mà sự hiểu biết của quần chúng Việt Nam còn thấp kém, đặc biệt là về lịch sử Hoa Kỳ và thế giới, chắc chắn không nhằm vào quần chúng người Việt mà nhằm vào người Mỹ và người Pháp. Lý do là Hồ Chí Minh như là một đảng viên Cộng Sản Quốc Tế chắc chắn đă hiểu hơn ai hết là người Mỹ vào thời điểm này đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong chính tình ở Á Châu, trong đó có Việt Nam. Được nguời Mỹ công nhận là coi như làm chủ được chính quyền. Hiểu được như vậy, ngay từ khi còn ở chiến khu Hồ Chí Minh khi tiếp xúc với người Mỹ đã yêu cầu họ cung cấp cho ông một bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Mỹ, đồng thời nói về lịch sử nước Mỹ như là một cách để chinh phục cảm tình của họ. Cũng vậy, với những gì chứa đựng trong bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của người Pháp. Có điều sự trích dẫn nàychỉ nhằm mục tiêu lôi cuốn sự chú ý và cảm tình của người Mỹ mà thôi. Hồ Chí Minh không cần đi xa hơn nữa và rất có thể ông cũng không hiểu rõ hơn hay cố tình không hiểu sự khác biệt trong quá trình giành độc lập của mười ba thuộc địa của người Mỹ vào cuối thế kỷ XVIII và của nước Việt Nam thời ông. Vì vậy ông đã áp dụng quan điểm của người Mỹ về quyền bình đẳng, quyền được sống tự do và mưu cầu hạnh phúc của mọi – người – như-là-những-cá-nhân vào trường hợp Việt Nam như một – quốc – gia đòi quyền độc lập một cách gượng ép hay ít ra là suy luận theo quan điểm chủ quan của mình với dụng ý riêng của mình. Cũng vậy với những gì ông trích dẫn từ bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp.
Phần kế tiếp, Hồ Chí Minh lên án người Pháp và người Nhật, đồng thời ông kể công cho Việt Minh: “Trước ngày mồng 9 tháng 3, đã bao lần Việt minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật…”, sau đó “đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ” và kết luận rằng “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt-nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”. Điều như người viết đã nói ở trên là không đúng sự thật. Sự thật là Chính Phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim đã lấy lại được toàn thể nước Việt Nam từ trước khi người Nhật đầu hàng kể cả lấy lại xứ Nam Kỳ và Việt Minh đã cướp chính quyền từ trong tay của chính phủ Bảo Đại -Trần Trọng Kim trong những ngày 17 và 19 tháng 8 năm 1945 sau đó. Lý do là vì Việt Minh “đã có đường riêng của họ rồi”, nói theo Phan Anh, Bộ Trưởng Thanh Niên trong Chính Phủ Trần Trọng Kim và sau này là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng trong Chính Phủ Liên Hiệp của Hồ Chí Minh.Trong những đoạn này Hồ Chí Minh đã dùng các từ ngữ ta hay “dân ta” hay “đất nước ta”, nhưng mục đích không nhằm vào người Việt Nam mà vào người Pháp.
Phần cuối cùng của bản văn, từ “Bởi thế cho nên…” cho đến hết, lời văn cho người ta thấy Hồ Chí Minh không hướng về người Việt mà về cả thế giới. Trong phần này ông xưng là “chúng tôi, Lâm thời Chính phủ, đại biểu cho toàn dân Việt -nam “ để tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, kêu gọi các nước Đồng Minh công nhận quyền độc lập của dân Việt-nam…Phần này Hồ Chí Minh thay vì đã nói quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi – người – như – những – cá – nhân do Tạo Hóa ban cho, những quyền phải hiểu là tự nhiên ai cũng có, đã nói về quyền hưởng tự do và độc lập của – cả – nước – Việt – Nam. Điều này hoàn toàn không đúng với tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Người Mỹ và nhất là của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp mà danh xưng của nó đã nói lên một cách rõ ràng: Nhân Quyền và Dân Quyền, không thể hiểu sai được. Độc lập không phải luôn luôn đồng nghĩa với tự do, dân quyền và nhân quyền. Không những thế, thay vì coi những quyền này là do Tạo Hóa ban cho, Hồ Chí Minh lại lý luận là vì dân tộc Việt Nam là “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc ấy phải được độc lập!”. Lý luận như vậy người ta phải hiểu, theo Hồ Chí Minh, rằng những dân tộc không gan góc chống lại những thế lực đè nén, áp bức mình và không gan góc đứng về phe Đồng Minh, chống phát-xít là không đáng được tự do, độc lập. Cũng vậy, với các quyền độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người như là những cá nhân trong xã hội. Chính vì vậy Luật Sư Trần thanh Hiệp,khi được Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn ngày 2 tháng 9 năm 2007, đã có lý khi ông gọi bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh này là một bản tuyên ngôn phi nhân quyền,(13) dù cho là nó đã được chính tác giả của nó trích dẫn và soạn thảo theo của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp. Nhưng dù nói thế này hay thế khác sự kiện này đã phản ảnh chủ trương cách mạng bạo lực của những người Cộng Sản mà Hồ Chí Minh ở đây là một trường hợp điển hình.
Người ta có thể giải thích sự thiếu rõ ràng trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh kể trên là do nó đã được soạn thảo trong một thời gian quá ngắn và trong tình trạng tác giả của nó còn phải bận rộn với nhiều vấn đề cấp bách khác. Điều này không đúng vì trước đó từ lâu, khi tiếp xúc với một sĩ quan người Mỹ, Hồ Chí Minh đã xin một bản tuyên ngôn nhân quyền của người Mỹ rồi. Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã nghĩ tới và đã thai nghén bản tuyên ngôn của ông từ lâu chứ không phải chỉ ít ngày trước ngày 2 tháng 9 năm 1945. Do đó những gì ông nói tới, những từ ngữ ông dùng đều được cân nhắc kỹ càng và đều có dụng ý riêng với những mục tiêu riêng mà chỉ sau này phải phân tích kỹ, đối chiếu kỹ và có thể sau này khi mọi việc liên hệ đã xảy ra rồi, người ta mới có thể hiểu được.
Gs Phạm Cao Dương
Chú thích:
(1) Dương Trung Quốc. Việt Nam : Những Sự Kiện Lịch Sử (1919-1945). HàNội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 202.tr. 388.
(2) Lệ Thần Trần Trọng Kim. Một Cơn Gió Bụi (Kiến Văn Lục).Saigon, Nhà Xuất Bản Vĩnh Sơn, 1969. tr. 49.
(3) – nt – , tr. 51.
(4) Dương Trung Quốc, Việt Nam…, tr. 388; Nguyễn Vỹ. Tuấn, Chàng Trai Nước Việt (Chứng Tích Thời Đại Từ 1900 đến 1970, Quyển II. Saigon, ? , 1970. Fort Smith, AR tái bản ở Hoa Kỳ, ?. tr. 512.; S.M. Bao Dai. Le Dragon d’Annam. Paris, Plon. 1990. Cameron, Allan W. Viet-Nam Crisis, A Documentary History, Volume I: 1940-1956. Ithaca, N.Y. Cornell University Press, 1971.. tr. 31-32. Hai bản tiếng Việt in trong tác phẩm của Dương Trung Quốc và tác phẩm của Nguyễn Vỹ hơi khác nhau về ngôn từ nhưng hoàn giống nhau về nội dung. David G. Marr trong Vietnam 1945, The quest for Power (Berkeley, University of California Press, 1995, tr. 71) có nói tới các bản tiéng Việt và tiếng Pháp ở văn khố Pháp và bản đăng trên tờ Dân Báo, ngày 12 tháng Ba. Vũ Ngự Chiêu cũng nói tới tờ Tin Mới, nhưng nhất thời người viết bài này chưa đến được các nơi cần đến để tìm kiếm.
(5) Taboulet, Georges. La Geste Francaise en Indochine,Histoire par les textes de la France en Indochine des origines à 1914, tome II, Paris, Adfrien – Maisonneuve, 1956. tr. 809 – 812; Phan Khoang, Việt Nam Pháp Thuộc Sử, 1884 – 1945. Saigon,, ? ,1961. Tái bản ở Hoa Kỳ. tr. 322 – 328.
(6) Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Đình Huế Đến Chiến Khu Việt Bắc. Huế, Thuận Hóa, 1987, tr. 16 -.
(7) Bảo Đại, Le Dragon d’Annam, đã dẫn, tr. 103.
(8) Võ Nguyên Giáp, ”Những Năm Tháng Không Thể Nào Quên”, trong Tổng Tập Hồi Ký. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 206, tr.. 255.
(9) Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Dình Huế…, tr. 76.
(10) Phùng Quán, Ba Phút Sự Thật. Thành Phố Hồ Chí Minh, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, 2006, tr. 114 – 115.
(11) Hồ Chí Minh, Tuyên Ngôn Độc Lập Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1976, tr.13. Nguyễn Khánh Toàn và Lữ Huy Nguyên, Tổng Tập Văn Học Việt Nam, Tập 36. Hà Nội, 1980. tr. 812 – 823.
(13) Trần Thanh Hiệp và Trương Giang, “Một Bản Tuyên Ngôn Phi Nhân Quyền”, trên Nhật Báo Người Việt, số 7940, ngày Thứ Hai, 3 tháng 9 năm 2007.
2) Toàn bộ Hội thảo 28 tháng 3, 2015
https://www.youtube.com/watch?v=IhtWNGiprQg&feature=youtu.be
B. http://www.vietthuc.org/bien-dong-2015-nhan-su-kien-hoa-ky-nhat-ban-uc-an-do-phi-luat-tan-nhap-cuoc-va-bien-dong-dang-duoc-quoc-te-hoa-nhac-lai-goi-y-ve-mot-so-cong-tac-can-phai-lam/
-VIDEO Thuyết Trình của GS PHẠM CAO DƯƠNG : Về Hoàng Đế Bảo Đại và Chính Phủ Trần Trọng Kim .
65 Năm Nhìn Lại, Từ Bảo Đại đến Hồ Chí Minh: Hai Bản Tuyên Ngôn Độc Lập
TS. PHẠM CAO DƯƠNG
TS. Phạm Cao Dương
Chính Phủ Lâm Thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong những điều
kiện này đương nhiên kế tục những gì Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim
đã làm trước đó, trong đó có Bản Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 11 tháng 3 năm
1945. Lập luận như vậy là hoàn toàn hợp lý đứng trên phương diện công
pháp quốc tế. Một lập luận đơn giản và hoàn toàn dễ hiểu. Câu hỏi được
đặt ra là Hồ Chí Minh, và những cộng sự viên của ông, khi đưa ra bản
tuyên ngôn của mình có biết là trước đó Bảo Đại đã làm công việc này rồi
hay không ? Và biết như vậy tại sao ông lại còn làm lại việc đó một lần
nữa? Cho câu hỏi thứ nhất, câu trả lời là chắc chắn có; Hồ Chí Minh
chắc phải biết là Bảo Đại trước đó đã tuyên cáo hủy bỏ hòa ước bảo hộ
1884 rồi. Nhưng ông vẫn làm lại công việc này vì ông có nhu cầu phải
làm. Những nhu cầu đó là những nhu cầu gì?
Bs3o Đại
TUYÊN NGÔN CỦA HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI
Trong lich sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, hai lần nước ta đã được các nhà cầm quyền đương thời chính thức tuyên bố độc lập. Lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng Đế Bảo Đại và lần thứ hai vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 bởi Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh. Hai lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần. Họ chỉ biết hay chỉ được học bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết hay không được học bản tuyên ngôn của Bảo Đại ngày 11 tháng 3. Lịch sử do đó chỉ được biết có một nửa thay vì toàn vẹn. Bài này nhằm bổ khuyết cho tình trạng thiếu sót đó, đồng thời phân tích nội dung và ý nghĩa của từng bản.
Hoàn cảnh được công bố
Bản tuyên ngôn độc Lập của Hoàng Đế Bảo Đại được công bố ngày 11 tháng 3 năm 1945, hai ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và sau một thời gian dài hơn bốn năm, từ tháng 9 năm 1940, sau khi quân Nhật vào phần đất này của Đông Nam Á, gần năm tháng trước khi Nhật Bản đầu hàng và Thế Chiến Thứ Hai kết thúc. Trong thời gian này Việt Nam bị sống dưới sự cai trị của cả người Pháp, từ sau khi Hòa Ước 1884 được ký kết, lẫn người Nhật, từ ngày 22 tháng 9 năm 1940, với một hậu quả khủng khiếp là Trận Đói Tháng Ba Năm Ất Dậu. Hoàn cảnh này đã làm cho không chỉ riêng những người Cộng Sản, vốn chủ trương đánh đổ chế độ quân chủ để cướp chính quyền (chữ của chính người Cộng Sản) để từ đó thực thi cách mạng vô sản mà luôn cả những người không những không có cảm tình với chế độ quân chủ đương thời mà còn chủ trương lật đổ chế độ này để thay thế bằng một chế độ dân chủ, không nhìn nhận giá trị đích thực của bản tuyên ngôn này. Lý do là vì Bảo Đại luôn luôn bị coi như một ông vua bù nhìn, trước kia trong tay người Pháp và lúc đó trong tay người Nhật. Theo họ trước kia người Pháp bảo sao, ông làm vậy và sau đảo chính 9 tháng 3 năm 1945, người Nhật bảo ông tuyên bố độc lập thì ông tuyên bố độc lập, thế thôi. Người ta hiểu hay được học đơn giản như vậy. Nền độc lập mà Bảo Đại tuyên bố theo họ chỉ là do người Nhật ban cho và bản tuyên ngôn của ông chẳng có một giá trị gì trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của người Việt. Thực chất của nó chỉ là “sự tuyên bố công khai việc thay thầy đổi chủ của triều đình Bảo Đại”(1) không hơn không kém. Sự thực không đơn giản như vậy. Người Nhật có lý do làm đảo chính lật đổ người Pháp và Bảo Đại có lý do phải chấp nhận yêu cầu của người Nhật tuyên bố Việt Nam độc lập. Lý do của Bảo Đại đã được ông giải thích khi tiếp kiến Trần Trọng Kim và cố gắng thuyết phục ông này chấp nhận làm thủ tướng đầu tiên của chính phủ Nam Triều độc lập. Nguyên văn câu nói của Bảo Đại được Trần Trọng Kim kể lại như sau:
“-Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên Bộ thượng thư đã tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải dứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó mọi việc.” (2)
Người ta cần phải nhớ là hơn mười năm trước đó, sau khi du học từ Pháp về tới Huế được hai ngày, ngày tháng 10 tháng 9 năm 1932, Bảo Đại đã ra Dụ số 1 tuyên bố chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ của Nam Triều hủy bỏ Quy Ước 6 tháng 11 năm 1925 do Hội Đồng Phụ Chính, đứng đầu là Tôn Thất Hân, ký với Toàn Quyền Đông Dương thời ông còn nhỏ tuổi và đang du học bên Pháp, tước bỏ hầu hết các quyền hành còn lại của nhà vua trừ các quyền có tính cách nghi lễ, ân xá, sắc phong, tế lễ…kèm theo nhiều dụ khác nhằm thực hiện những cải cách qui mô trong nền hành chánh của chính phủ Nam Triều, nhưng đã bị người Pháp ngăn cản và bị thất bại. Đảo chính 9 tháng 3 năm 1945 và lời yêu cầu tuyên bố độc lập của người Nhật dù gì đi chăng nữa cũng là điều vị hoàng đế còn trẻ tuổi từ lâu mong đợi. Ngoài ra theo nhận định và giải thích nhằm thúc đẩy Trần Trong Kim chịu khó lập chính phủ mới. Ông nói:
-“Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.”(3)
Hai tiếng “cơ hội” Bảo Đại dùng ở đây cho ta thấy ông từ lâu mong có dịp này. Đồng thời ông cũng hiểu rằng nền độc lập mà ông tuyên cáo chưa phải độc lập hẳn.” Chưa hết, tuyên bố rồi ông còn có nhu cầu phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập và nhất là để tránh không cho người Nhật “lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta.””(3) Một sự e ngại chỉ có những người có kiến thức về lịch sử và chính trị học mói biết được. Ngoài ra những tiếng “rất có hại cho nước ta” cũng cho người ta thấy đối tương của hành động tuyên cáo độc lập của ông không phải là ngôi vua mà là đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, đất nước của ông và thần dân của ông. Cái nhìn và quan điểm này cũng như sự hiểu biết của ông về tình hình thế giới và thế tất bại của người Nhật về sau đã được ông nói rõ trong hồi ký của ông. Riêng đối với người Nhật, ông đã không tin tưởng ở họ cũng như chiêu bài Đại Đông Á của họ. Nói cách khác Bảo Đại ở vị thế phải chấp nhận nhập cuộc dù ông hiểu rõ sự phức tạp của vấn đề. Phần khác như ông cũng nói tới trong hồi ký của ông: Độc lập là ước mơ của tất cả mọi người Việt Nam thời đó.
Nội dung bản Tuyên ngôn
Đây là một bản văn tương đối ngắn so với những bản văn cùng loại, nhằm ba mục tiêu chính yếu là hủy bỏ một hòa ước Triều Đình Huế đã ký với nước Pháp, tuyên bố Việt Nam độc lập,đứng vào khối Đại Đông Á trong chương trình phát triển chung, đồng thời bày tỏ sự tin tưởng vào lòng thành của nước Nhật với nguyên văn như sau:
“ Cứ tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi Đông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Nam khôi phục quyền độc lập.
“ Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vương chung.
“Vậy Chính Phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.(4)
Bản Tuyên Bố được đề ngày 11 tháng Ba năm 1945 tức ngày 27 tháng Giêng năm Bảo Đại thứ 20 được Bảo Đại ký tên với sáu thượng thư phó thự. Sáu vị thương thư gồm có: Phạm Quỳnh, bộ Lại, Hồ Đắc Khải, bộ Hộ, Ưng Úy, bộ Lễ, Bùi Bằng Đoàn, bộ Hình, Trần Thanh Đạt, bộ Học, và Trương Như Định, bộ Công. Theo Bảo Đại đây là lần đầu tiên trong lịch sử một văn kiện được ký bởi nhà vua và tất cả các nhân vật quan trọng nhất trong triều đình.
Đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập này của Bảo Đại, người ta cần chú ý tới những chi tiết sau đây:
Thứ nhất:
Gọi là tuyên ngôn nhưng thực sự đây chỉ là một văn kiện hủy bỏ một điều ước đã được ký kết trước đó vì do tình hình biến chuyển một trong hai phía đã không tôn trọng những gì mình đã ký kết hay không thực thi được những gì mình đã ký kết trong một sinh hoạt quốc tế. Điều ước bị hủy bỏ ở đây là Hòa Ước Giáp Thân được ký kết giữa Triều Đình Huế và người Pháp ngày 6 tháng 6 năm 1884, đặc biệt hai điều khoản của hòa ước này là điều khoản thứ nhất, theo đó Việt Nam công nhận và chấp nhận Quyền Bảo Hộ của nước Pháp và điều khoản thứ mười lăm, theo đó nước Pháp cam kết bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ của các xứ do vua Việt Nam cai trị và bảo vệ nhà vua chống lại những sự xâm nhập từ bên ngoài và những cuộc nổi loạn từ bên trong..(5). Sự hủy bỏ này phải được hiểu là do người Pháp bất lực không bảo vệ được Việt Nam trước sự bành trướng của quân đội Nhật và cuối cùng là chính người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trong cuộc Đảo Chính ngày 9 tháng 3 năm 1945. Sự hủy bỏ này cũng có tính cách đơn phương từ phía Bảo Đại với tư cách là người kế vị chính thống của Triều Đình Nhà Nguyễn căn cứ vào những gì đã xảy ra vào thời điểm này. Điểm cần được lưu ý ở đây là từ ngữ hòa ước trong văn kiện này được dùng theo số ít, trong tiếng Việt, không có chữ “các” hay “những” đi kèm và trong tiếng Pháp không có chữ “s” theo sau. Điều này có nghĩa là bản tuyên cáo chỉ hủy bỏ hòa ước bảo hộ tức Hòa Ước Giáp Thân 1884 mà thôi thay vì hủy bỏ tất cả các hòa ước đã được ký kết trước đó. Đó là các Hòa Ước Nhâm Tuất 1862 và Hòa Ước Giáp Tuất 1874 liên hệ tới xứ Nam Kỳ theo đó xứ này đã bị nhường dứt cho người Pháp là và trở thành thuộc địa của họ, không còn thuộc quyền cai trị của Vua và Triều Đình Huế nữa. Vấn đề thâu hồi xứ Nam Kỳ do đó chưa được giải quyết ngay nhưng đã trở thành mối bận tâm và một phần hành quan trọng của chính Bảo Đại ngay từ buổi nhà vua tiếp kiến Đại Sứ Nhật Yokoyama và của Chính Phủ Trần Trọng Kim trong gần suốt thời gian chính phủ này tồn tại. Xứ Nam Kỳ chỉ được người Nhật trao trả trong những ngày cuối của chính phủ này và chỉ chính thức trở về với lãnh thổ quốc gia Việt Nam ngót năm năm sau, vào giữa tháng 6 năm 1949, và do Bảo Đại với tư cách Quốc Trưởng tiếp nhận từ tay người Pháp. Đây cũng là một sự kiện ít người biết đến.
Thứ hai: ”Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập….giúp cho cuộc thịnh vượng chung.” Câu này xác định phương thức hoạt động nhằm thực hiện tư cách độc lập (tự phát triển như một quốc gia độc lập không phụ thuộc vào nước ngoài cho xứng đáng một quốc gia độc lập) và thế đứng của Việt Nam trên trường quốc tế (tự coi mình là một phần tử Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung). Nên để ý tới khẩu hiệu Châu Á của Người Á do người Nhật đưa ra trong thời gian này, một khẩu hiệu hàm chứa sự độc lập của các nước Á Châu lúc đó còn là thuộc địa của các đế quốc Âu Châu. Đây cũng là một cách nói trước một cách khéo léo để ngăn chặn trước sự can thiệp vào nội tình Việt Nam của người Nhật.
Thứ ba:
“Chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc…”. Câu này nhằm buộc chặt lời hứa của người Nhật bằng cách nhấn mạnh vào sự trung thành với những gì họ đã nói, với quan niệm trung thành như một truyền thống chung của các dân tộc Á Đông.
Thứ tư:
“”quyết chí hợp tác với nước Nhật đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.” Mục đích như trên là mục đích gì? Phải hiểu mục đích này bao gồm hai phần là “tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập” và “giúp cho cuộc thịnh vương chung” như là một phần tử của khối Đại Đông Á.”
Nói cách khác, đây là một bản văn tuy ngắn ngủi, cô đọng nhưng rất quan trọng vì nó vừa mang tính cách pháp lý, có liên hệ tới nhiều văn kiện ngoại giao khác đã được hình thành trước đó, vừa biểu lộ chủ trương của một quốc gia được trao trả độc lập trong một hoàn cảnh không nhận không được, vô cùng tế nhị và phức tạp vào lúc tình hình thế giới biến chuyển quá nhanh và hoàn toàn bất lợi cho quân đội và quốc gia đảm nhận sự trao trả nền độc lập này. Mỗi điều nói ra, mỗi chữ được viết đều đòi hỏi người soạn thảo phải vô cùng thận trong và ước tính kỹ càng.
Ai là tác giả của bản tuyên ngôn này?
Người được nói đến nhiều nhất là Phạm Quỳnh, lúc đó đang giữ chức thượng thư bộ lại. Điều này có nhiều phần đúng nếu người ta để ý tới khả năng nghị luận và viết văn, viết báo kèm theo sự hiểu biết và kinh nghiệm của một học giả, một người làm báo, và sau đó là một ngự tiền văn phòng tổng lý của nhà vua cũng như thượng thư bộ lại trước đó. Nó cũng được Phạm Khắc Hòe, đương thời là ngự tiền văn phòng tổng lý của Bảo Đại, trong hồi ký của ông này xác nhận. (6)
Thứ hai là cho tới ngày 2 tháng 9 năm 1945, cái tên Hồ Chí Minh hoàn toàn xa lạ ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Võ Nguyên Giáp, một trong những cộng sự viên thân cận nhất của Hồ Chí Minh trong thời gian này, đã viết trong hồi ký của mình rằng: “Ba tiếng HỒ CHÍ MINH không bao lâu đã vang đi khắp thế giới với những truyền thuyết mà người ta thường dành cho các bậc vĩ nhân. Nhưng vào ngày hôm ấy, cái tên mới của Bác vẫn còn mới lạ với nhiều đồng bào. Số người biết Bác chính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc khi đó không nhiều.”(8) Ngay vua Bảo Đại ngày 23 tháng 8 năm 1945, khi nhận được điện tín của của các ông Nguyễn Xiển, Nguyên Văn Huyên, Ngụy Như Kon-Tum và Hồ Hữu Tường nhân danh Ủy Ban Nhân Dân Cách mạng, yêu cầu nhà vua thoái vị nhường quyền lãnh đạo quốc gia cho Chính Phủ Nhân Dân Cách mạng với chủ tịch là “Cụ Hồ Chí Minh” đã không biết Hồ Chí Minh là ai. Còn Phạm Khắc Hòe, người được Việt Minh gài vào cạnh nhà vua cũng không biết nốt, phải chạy đi hỏi Tôn Quang Phiệt, một đảng viên Cộng Sản, rồi Đào Duy Anh nhưng Tôn Quang Phiệt đi vắng và Đào Duy Anh lục lọi, truy tìm các tài liệu, sách vở ông có nhưng cũng không ra tên này.
Cuối cùng Vũ Văn Hiền, ở Bắc về mới xác nhận Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc.(9) Tuyên bố Việt Nam độc lập đối với Hồ Chi Minh vào thời điểm này do đó là cách tự giới thiệu mình tốt nhất và hữu hiệu nhất vói toàn thể đồng bào và để được nhìn và được chấp nhận như là lãnh tụ đầu tiên đã mang lại được độc lập cho tổ quốc và cho toàn dân Việt Nam, một nhu cầu tối cần thiết, dầu rằng nền độc lập này hoàn toàn không phải do ông hay do Mặt Trận Việt Minh tạo ra mà là do những biến cố khác của lịch sử, trong đó quan trọng nhất là Đảo Chính 9 tháng Ba năm 1945, trong đó người Nhật đã loại bỏ người Pháp, kèm theo là bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoàng Đế Bảo Đại nói trên, và cuối cùng là sự bại trận sau này của người Nhật. Chúng ta cũng cần để ý là đối với đa số người Việt Nam thời đó, ngày 2 tháng 9 là Ngày Độc Lập, đúng như Nguyễn Hữu Đang, người được Hồ Chí Minh chỉ định tổ chức ngày này, gọi qua các văn thư chính thức ông đã gửi cho các cơ quan liên hệ, trong đó có thư gửi cho Thị Trưởng Hà Nội (10) và theo bìa in bản tuyên ngôn của bản đầu tiên năm 1945, do Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Hồ Chí Minh đọc trong Ngày Độc Lập”. (11) Nhưng đối với Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 còn có một ý nghĩa quan trọng hơn nữa. Đó là “ngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa”, theo lời ông nói với Nguyễn Hữu Đang, “Chú phải nhớ…(12) Tại sao vậy? Tại vì Hồ Chí Minh phải làm chuyện này trước khi quân Đồng Minh kéo vô Việt Nam, đặc biệt là thủ đô Hà Nội, nhằm đặt họ trước một sự đã rồi, không thể đảo ngược đươc.. Sự kiện vua Bảo Đại thoái vị được nhắc tới và câu “Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp” là nhằm vào mục tiêu này.
BẢN TUYÊN NGÔN CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA HỒ CHÍ MINH
Hoàn cảnh được công bố
Thứ nhất là vì từ lâu toàn dân ai nấy đếu khao khát được thấy nước nhà độc lập, đúng như Bảo Đại đã viết trong hồi ký của ông, độc lập là ước mơ của mọi người dân Việt (7), cũng như nó được phản ảnh ở khắp nước ngay trước và sau ngày 2 tháng 9 năm 1945. Nói tới độc lập vào lúc đó là gõ đúng tần số của bất cứ một người dân Việt Nam nào từ đó đem lại công lao và thanh thế cho người chính thức công bố ra điều đó.
Nội dung bản Tuyên Ngôn
Bản Tuyên Ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, vì được phổ biến rộng rãi và hầu như được coi là duy nhất gắn liền với ngày 2 tháng 9, ngày Quốc Khánh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa rồi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nên đã được nhiều người đọc, phân tích và tìm hiểu. Trong phần này người viết chỉ nêu lên những gì ít được mọi người nhắc hay để ý đến.
Trong khi Tuyên Cáo của Bảo Đại đơn giản chỉ là một bản văn thuần túy pháp lý nhằm hủy bỏ hòa ước bảo hộ mà triều đình Huế đã ký trước đó căn cứ vào sự bất lực của người Pháp, vì người Pháp đã không giữ được cam kết ghi trong điều khoản thứ nhất và điều khoản thứ mười lăm của hòa ước này, mà không nhằm vào một đối tượng- quần chúng hay quốc tế, thì bản Tuyên Ngôn của Hồ Chí Minh
nhằm vào toàn thể người Việt qua lời mở đầu “Hỡi đồng bào cả nước…”. Tuy nhiên ở những đoạn cuối tác giả lại nhắm vào các nước Đồng Minh. Điều này phải tinh ý người ta mới nhận ra được. Về tư cách, Bảo Đại nhân danh Hoàng Đế Việt Nam, người đứng đầu của một quốc gia độc lập đã tồn tại từ trước khi người Pháp xâm lăng và là người kế thừa chính thống của các vua Nhà Nguyễn, thì Hồ Chí Minh đã nhân danh “Lâm Thời Chính Phủ của nước Việt Nam mới.”” Mới là vì đến ngày đó chính phủ này mới chính thức được ra mắt trước quốc dân. Lời văn do đó phản ảnh hai tư cách của hai bản chất con người khác nhau. Một người là hoàng đế kế thừa chính thống của một triều đại đã trị vì một quốc gia từ hơn một trăm năm trước dù cho là chỉ còn hư vị; người kia là lãnh tụ của một phong trào cách mạng vừa chủ trương chống Pháp, vừa chủ trương chống Nhật và lật đổ chế độ quân chủ để giành chính quyền. Văn phong trong bản tuyên ngôn của Bảo Đại là văn phong bình thường của người cầm quyền; còn văn phong của Hồ Chí Minh mang tính cách kêu gọi và ở một mức độ nào đó có tính cách bình dân, kể lể dài dòng và nhất là xách động.
Hồ Chií Minh
Mở đầu cho bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã trích dẫn một số câu trong phần đầu của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của người Mỹ và một câu trong Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp. Sự trích dẫn này, vào lúc mà sự hiểu biết của quần chúng Việt Nam còn thấp kém, đặc biệt là về lịch sử Hoa Kỳ và thế giới, chắc chắn không nhằm vào quần chúng người Việt mà nhằm vào người Mỹ và người Pháp. Lý do là Hồ Chí Minh như là một đảng viên Cộng Sản Quốc Tế chắc chắn đă hiểu hơn ai hết là người Mỹ vào thời điểm này đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong chính tình ở Á Châu, trong đó có Việt Nam. Được nguời Mỹ công nhận là coi như làm chủ được chính quyền. Hiểu được như vậy, ngay từ khi còn ở chiến khu Hồ Chí Minh khi tiếp xúc với người Mỹ đã yêu cầu họ cung cấp cho ông một bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Mỹ, đồng thời nói về lịch sử nước Mỹ như là một cách để chinh phục cảm tình của họ. Cũng vậy, với những gì chứa đựng trong bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của người Pháp. Có điều sự trích dẫn nàychỉ nhằm mục tiêu lôi cuốn sự chú ý và cảm tình của người Mỹ mà thôi. Hồ Chí Minh không cần đi xa hơn nữa và rất có thể ông cũng không hiểu rõ hơn hay cố tình không hiểu sự khác biệt trong quá trình giành độc lập của mười ba thuộc địa của người Mỹ vào cuối thế kỷ XVIII và của nước Việt Nam thời ông. Vì vậy ông đã áp dụng quan điểm của người Mỹ về quyền bình đẳng, quyền được sống tự do và mưu cầu hạnh phúc của mọi – người – như-là-những-cá-nhân vào trường hợp Việt Nam như một – quốc – gia đòi quyền độc lập một cách gượng ép hay ít ra là suy luận theo quan điểm chủ quan của mình với dụng ý riêng của mình. Cũng vậy với những gì ông trích dẫn từ bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp.
Phần kế tiếp, Hồ Chí Minh lên án người Pháp và người Nhật, đồng thời ông kể công cho Việt Minh: “Trước ngày mồng 9 tháng 3, đã bao lần Việt minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật…”, sau đó “đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ” và kết luận rằng “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt-nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”. Điều như người viết đã nói ở trên là không đúng sự thật. Sự thật là Chính Phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim đã lấy lại được toàn thể nước Việt Nam từ trước khi người Nhật đầu hàng kể cả lấy lại xứ Nam Kỳ và Việt Minh đã cướp chính quyền từ trong tay của chính phủ Bảo Đại -Trần Trọng Kim trong những ngày 17 và 19 tháng 8 năm 1945 sau đó. Lý do là vì Việt Minh “đã có đường riêng của họ rồi”, nói theo Phan Anh, Bộ Trưởng Thanh Niên trong Chính Phủ Trần Trọng Kim và sau này là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng trong Chính Phủ Liên Hiệp của Hồ Chí Minh.Trong những đoạn này Hồ Chí Minh đã dùng các từ ngữ ta hay “dân ta” hay “đất nước ta”, nhưng mục đích không nhằm vào người Việt Nam mà vào người Pháp.
Phần cuối cùng của bản văn, từ “Bởi thế cho nên…” cho đến hết, lời văn cho người ta thấy Hồ Chí Minh không hướng về người Việt mà về cả thế giới. Trong phần này ông xưng là “chúng tôi, Lâm thời Chính phủ, đại biểu cho toàn dân Việt -nam “ để tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, kêu gọi các nước Đồng Minh công nhận quyền độc lập của dân Việt-nam…Phần này Hồ Chí Minh thay vì đã nói quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi – người – như – những – cá – nhân do Tạo Hóa ban cho, những quyền phải hiểu là tự nhiên ai cũng có, đã nói về quyền hưởng tự do và độc lập của – cả – nước – Việt – Nam. Điều này hoàn toàn không đúng với tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Người Mỹ và nhất là của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp mà danh xưng của nó đã nói lên một cách rõ ràng: Nhân Quyền và Dân Quyền, không thể hiểu sai được. Độc lập không phải luôn luôn đồng nghĩa với tự do, dân quyền và nhân quyền. Không những thế, thay vì coi những quyền này là do Tạo Hóa ban cho, Hồ Chí Minh lại lý luận là vì dân tộc Việt Nam là “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc ấy phải được độc lập!”. Lý luận như vậy người ta phải hiểu, theo Hồ Chí Minh, rằng những dân tộc không gan góc chống lại những thế lực đè nén, áp bức mình và không gan góc đứng về phe Đồng Minh, chống phát-xít là không đáng được tự do, độc lập. Cũng vậy, với các quyền độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người như là những cá nhân trong xã hội. Chính vì vậy Luật Sư Trần thanh Hiệp,khi được Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn ngày 2 tháng 9 năm 2007, đã có lý khi ông gọi bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh này là một bản tuyên ngôn phi nhân quyền,(13) dù cho là nó đã được chính tác giả của nó trích dẫn và soạn thảo theo của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp. Nhưng dù nói thế này hay thế khác sự kiện này đã phản ảnh chủ trương cách mạng bạo lực của những người Cộng Sản mà Hồ Chí Minh ở đây là một trường hợp điển hình.
Người ta có thể giải thích sự thiếu rõ ràng trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh kể trên là do nó đã được soạn thảo trong một thời gian quá ngắn và trong tình trạng tác giả của nó còn phải bận rộn với nhiều vấn đề cấp bách khác. Điều này không đúng vì trước đó từ lâu, khi tiếp xúc với một sĩ quan người Mỹ, Hồ Chí Minh đã xin một bản tuyên ngôn nhân quyền của người Mỹ rồi. Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã nghĩ tới và đã thai nghén bản tuyên ngôn của ông từ lâu chứ không phải chỉ ít ngày trước ngày 2 tháng 9 năm 1945. Do đó những gì ông nói tới, những từ ngữ ông dùng đều được cân nhắc kỹ càng và đều có dụng ý riêng với những mục tiêu riêng mà chỉ sau này phải phân tích kỹ, đối chiếu kỹ và có thể sau này khi mọi việc liên hệ đã xảy ra rồi, người ta mới có thể hiểu được.
Gs Phạm Cao Dương
Chú thích:
(1) Dương Trung Quốc. Việt Nam : Những Sự Kiện Lịch Sử (1919-1945). HàNội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 202.tr. 388.
(2) Lệ Thần Trần Trọng Kim. Một Cơn Gió Bụi (Kiến Văn Lục).Saigon, Nhà Xuất Bản Vĩnh Sơn, 1969. tr. 49.
(3) – nt – , tr. 51.
(4) Dương Trung Quốc, Việt Nam…, tr. 388; Nguyễn Vỹ. Tuấn, Chàng Trai Nước Việt (Chứng Tích Thời Đại Từ 1900 đến 1970, Quyển II. Saigon, ? , 1970. Fort Smith, AR tái bản ở Hoa Kỳ, ?. tr. 512.; S.M. Bao Dai. Le Dragon d’Annam. Paris, Plon. 1990. Cameron, Allan W. Viet-Nam Crisis, A Documentary History, Volume I: 1940-1956. Ithaca, N.Y. Cornell University Press, 1971.. tr. 31-32. Hai bản tiếng Việt in trong tác phẩm của Dương Trung Quốc và tác phẩm của Nguyễn Vỹ hơi khác nhau về ngôn từ nhưng hoàn giống nhau về nội dung. David G. Marr trong Vietnam 1945, The quest for Power (Berkeley, University of California Press, 1995, tr. 71) có nói tới các bản tiéng Việt và tiếng Pháp ở văn khố Pháp và bản đăng trên tờ Dân Báo, ngày 12 tháng Ba. Vũ Ngự Chiêu cũng nói tới tờ Tin Mới, nhưng nhất thời người viết bài này chưa đến được các nơi cần đến để tìm kiếm.
(5) Taboulet, Georges. La Geste Francaise en Indochine,Histoire par les textes de la France en Indochine des origines à 1914, tome II, Paris, Adfrien – Maisonneuve, 1956. tr. 809 – 812; Phan Khoang, Việt Nam Pháp Thuộc Sử, 1884 – 1945. Saigon,, ? ,1961. Tái bản ở Hoa Kỳ. tr. 322 – 328.
(6) Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Đình Huế Đến Chiến Khu Việt Bắc. Huế, Thuận Hóa, 1987, tr. 16 -.
(7) Bảo Đại, Le Dragon d’Annam, đã dẫn, tr. 103.
(8) Võ Nguyên Giáp, ”Những Năm Tháng Không Thể Nào Quên”, trong Tổng Tập Hồi Ký. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 206, tr.. 255.
(9) Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Dình Huế…, tr. 76.
(10) Phùng Quán, Ba Phút Sự Thật. Thành Phố Hồ Chí Minh, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, 2006, tr. 114 – 115.
(11) Hồ Chí Minh, Tuyên Ngôn Độc Lập Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1976, tr.13. Nguyễn Khánh Toàn và Lữ Huy Nguyên, Tổng Tập Văn Học Việt Nam, Tập 36. Hà Nội, 1980. tr. 812 – 823.
(13) Trần Thanh Hiệp và Trương Giang, “Một Bản Tuyên Ngôn Phi Nhân Quyền”, trên Nhật Báo Người Việt, số 7940, ngày Thứ Hai, 3 tháng 9 năm 2007.
2) Toàn bộ Hội thảo 28 tháng 3, 2015
https://www.youtube.com/watch?v=IhtWNGiprQg&feature=youtu.be
B. http://www.vietthuc.org/bien-dong-2015-nhan-su-kien-hoa-ky-nhat-ban-uc-an-do-phi-luat-tan-nhap-cuoc-va-bien-dong-dang-duoc-quoc-te-hoa-nhac-lai-goi-y-ve-mot-so-cong-tac-can-phai-lam/
-VIDEO Thuyết Trình của GS PHẠM CAO DƯƠNG : Về Hoàng Đế Bảo Đại và Chính Phủ Trần Trọng Kim .
1) Phần phát biểu của GS. Phạm Cao Dương:
No comments:
Post a Comment