Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Tuesday, 1 November 2016

TTP = GIÁO HỘI LA MÃ=NGÔ ĐÌNH DIỆM=

HIỆP ĐỊNH TTP

 

Công bố toàn văn Hiệp định TPP

  • 5 tháng 11 2015




 
Image copyright Reuters

Việt Nam đồng ý để người lao động có thêm nhiều quyền, như tự do lập công đoàn và đình công để đổi lại lợi ích giao thương với Mỹ, theo phân tích của tờ New York Times về TPP.
Văn bản bằng tiếng Anh của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương - TPP đã được 12 nước thành viên công bố chiều 5/11.
Theo bài của New York Times, thỏa thuận đòi hỏi Việt Nam thay đổi luật hoặc ra luật mới cho phép công nhân thành lập công đoàn độc lập.
Công nhân sẽ được phép đình công không chỉ vì lương và giờ làm, mà còn vì điều kiện làm việc và các quyền khác.
Các nhóm công đoàn không phải gia nhập công đoàn của chính phủ Việt Nam, mà có thể hợp tác với nhau, tìm giúp đỡ của bất kỳ “tổ chức lao động quốc tế” như Liên đoàn lao động và hiệp hội của các tổ chức công nghiệp Hoa Kỳ (AFL-CIO).
Ông Tom Malinowski, Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Đặc trách Dân chủ,Nhân quyền, và Lao động nói với New York Times:




 
 Image copyright dinh cong

“Đây là cơ hội tốt nhất từ nhiều năm để khuyến khích cải tổ thể chế sâu sắc ở Việt Nam mà sẽ thúc đẩy nhân quyền, và nó sẽ chỉ xảy ra nếu TPP được thông qua.”
Quốc hội Mỹ sẽ có nhiều tháng xem xét văn bản và tranh luận.
Dự kiến việc bỏ phiếu ở hạ viện và thượng viện Mỹ sẽ diễn ra trong năm sau, trong bối cảnh Mỹ có bầu cử tổng thống.
Hoa Kỳ sẽ theo dõi việc tuân thủ của Việt Nam theo một thỏa thuận riêng.
Ngoài ra, một ủy ban gồm ba chuyên gia của Mỹ, Việt Nam và ILO, cũng sẽ có báo cáo.
Năm năm sau khi TPP có hiệu lực, Mỹ có thể ngừng lợi ích giao thương nếu cho rằng Việt Nam không tuân thủ yêu cầu.
Nhưng John Sifton, từ tổ chức nhân quyền Human Rights Watch, cho rằng hiệp định sẽ không thể thực thi “trên thực tế”.
Ông này nói lịch sử của Văn phòng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) không chứng tỏ họ sẽ bắt buộc thực thi các điều khoản.
 http://www.bbc.com/vietnamese/business/2015/11/151105_tpp_cong_bo_noi_dung

 

Indonesia 'dự định gia nhập TPP'

  • 28 tháng 10 2015

Image copyright Getty
Image caption Chuyến thăm của ông Widodo là chuyến công du đầu tiên của một tổng thống Indonesia tới Hoa Kỳ trong vòng một thập niên qua

Tổng thống Hoa Kỳ Obama hôm thứ Hai vừa giành được sự ủng hộ từ Indonesia đối với Hiệp định Đối tác Thương mại Tự do xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Tổng thống của nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á tuyên bố nước ông muốn gia nhập TPP, hãng tin AFP nói.
Trong cuộc họp với ông Obama tại Tòa Bạch ốc, ông Joko Widoro cam kết sẽ trở thành thành viên hiệp định, bất chấp nguy cơ vấp phải sự tức giận từ những thành phần theo đường lối dân tộc cực đoan ở trong nước.
"Indonesia là một nền kinh tế mở với dân số 250 triệu người. Chúng tôi là nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á," ông Widodo nói tại Phòng Bầu dục.
"Indonesia dự định sẽ gia nhập TPP."
Hiện đã có 12 quốc gia trở thành thành viên trong mối "quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương" - trong đó có Úc, Canada, Nhật, Mexico, Việt Nam và Hoa Kỳ - tạo thành khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới.
Hiệp định được một số người coi là nhằm tạo đối trọng trước sức mạnh kinh tế của Trung Quốc trong khu vực.
Sự hậu thuẫn của Widodo là một chiến thắng chính trị đối với ông Obama, người đang muốn đưa hiệp ước đã hoàn tất này được thông qua tại Quốc hội hiện đang do phe Cộng hòa kiểm soát mà không cần sự hậu thuẫn đầy đủ từ phía đảng Dân chủ của mình.
Bà Hillary Clinton, ứng viên đang chạy đua cho cuộc tranh cử tổng thống 2016, nói thỏa thuận đã không đạt mức "tiêu chuẩn cao" mà bà hy vọng là nếu đưa ra thì sẽ có lợi có Hoa Kỳ.
Obama nói TPP đã đặt ra những tiêu chuẩn lao động và môi trường cao nhất so với bất kỳ thỏa thuận thương mại nào Hoa Kỳ từng ký trước đây.
Những nhận xét của ông Widodo cũng sẽ khiến người ta hy vọng là ông sẽ giúp tạo chất xúc tác tại quốc gia Hồi giáo đông dân nhất này.
Chuyến đi của ông Widodo tới Tòa Bạch ốc là chuyến đi đầu tiên của một tổng thống Indonesia trong vòng một thập niên qua, diễn ra đúng một năm sau khi ông Widodo trở thành tổng thống.


THẾ GIỚI & BIỂN ĐÔNG



 

 Hà Nội trải thảm đỏ đón Tập Cận Bình vào lúc tranh chấp Biển Đông vẫn căng thẳng

media 

Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng (trái) đón Chủ tịch kiêm tổng bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình tại Hà Nội ngày 5/11/2015.REUTERS/Hoang Dinh Nam/Pool
Chủ tịch Tập Cận Bình và phu nhân hôm nay  05/11/2015 đã tới Hà Nội bắt đầu chuyến công du Việt Nam hai ngày. Đây là lần đầu tiên từ 10 năm qua lãnh đạo cao nhất Trung Quốc đến Hà Nội. Chuyến viếng thăm lần này diễn ra trong bối cảnh Việt Nam đang chuẩn bị nhân sự cho Đại hội đảng vào đầu năm 2016, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa hai nước đang là hồ sơ nóng. Tại Hà Nội và Sài Gòn nhiều cuộc biểu tình phản đối chuyến thăm của chủ tịch Trung Quốc đã diễn ra.

Chủ tịch Trung Quốc được tiếp đón với nghi thức cao nhất dành cho nguyên thủ quốc gia trong chuyến thăm cấp Nhà nước với đại bác bắn chào mừng, thảm đỏ, duyệt đội danh dự cùng ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay sau lễ đón, ông Tập Cận Bình đã có các cuộc hội kiến với Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và  với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngay chiều nay. Sáng mai, ông Tập Cận Bình sẽ phát biểu trước Quốc hội Việt Nam.
Đặt chân đến phi trường Nội bài sáng nay, lãnh đạo Trung Quốc tuyên bố : Bắc Kinh « hết sức coi trọng tình hữu nghị truyền thống giữa Trung Quốc với Việt Nam, kiên trì coi quan hệ Trung-Việt từ tầm cao chiến lược và góc độ lâu dài, nguyện cùng với phía Việt Nam nhìn về đại cục, hướng về lâu dài, tôn trọng lẫn nhau, (…), cùng nhau thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện phát triển ổn định, lành mạnh và vững bền .»
Nhắc lại căng thẳng trong quan hệ Việt -Trung thời gian gần đây, hãng thông tấn Anh Reuters nhận định : Có nhiều khả năng tại Hà Nội lần này, Chủ tịch Trung Quốc và các lãnh đạo Việt Nam sẽ không để lộ những rạn nứt trong trục Hà Nội-Bắc Kinh. Trong bài diễn văn ngày mai đọc trước Quốc hội Việt Nam, hai tháng trước Đại hội đảng Cộng Sản Việt Nam, lãnh đạo Trung Quốc sẽ nhấn mạnh đến quan hệ thương mại giữa hai nước. Việt Nam là một trong số 12 nền kinh tế tham gia Hiệp định thương mại Xuyên Thái Bình Dương TPP. Trung Quốc không tham gia hiệp định này.
Chiều nay,  các lễ ký thỏa thuận hợp tác, từ phát triển hạ tầng đến thương mại, đầu tư đã diễn ra dưới sự chứng kiến của lãnh đạo hai nước. Reuters cũng nhắc lại, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là lãnh đạo Việt Nam đầu tiên lên tiếng phản đối Bắc Kinh đưa dàn khoan HD981 vào thềm lục địa của Việt Nam hồi tháng 5/2014. Cũng chính từ thời điểm này quan hệ Việt Trung đã xấu đi.
 http://vi.rfi.fr/viet-nam/20151105-chu-tich-trung-quoc-den-ha-noi-trong-boi-canh-cong-luan-viet-nam-bat-binh-vi-tranh

Công an đàn áp dữ dội các cuộc biểu tình chống Chủ tịch TQ Tập Cận Bình

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-11-05

Email
Ý kiến của Bạn
Biểu tình chống Tập Cận Bình tại Sài Gòn.
Biểu tình chống Tập Cận Bình tại Sài Gòn.
Courtesy Danlambao

Những cuộc biểu tình chống chuyến viếng thăm Việt Nam của chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình vào ngày hôm nay 5 tháng 11 bị đàn áp, ngăn chặn.
Đàn áp ở Sài Gòn
Thông tin kêu cứu được những người ở Sài Gòn tham gia biểu tình chống chuyến thăm của Tập Cận Bình được đưa lên facebook ngay sau khi có tình trạng đánh đập, bắt người.
Vào lúc 10:20 phút sáng ngày 5 tháng 11, một chị thoát được sự vây ráp, đánh đập của lực lượng chức năng cho biết tình hình quanh Hồ Con Rùa ở Sài Gòn vào lúc đó như sau:
“ Họ đề nghị mọi người phải giải tán không gây ùn tắc giao thông nhưng những người đứng dưới lòng đường là công an, dân phòng; còn tất cả mọi người biểu tình ôn hòa đều đứng trên lề. Trước đó công an vây người biểu tình rất nhiều. Chưa bao giờ Sài Gòn đàn áp dã man như hôm nay: đánh phụ nữ gục tại chỗ. Hôm nay có nhiều anh em mới, những bạn trẻ mới xuống đường hôm nay. Mỗi xe chở khoảng 3-4 người, họ quăng lên xe như quăn gheo vậy đó rồi chở đi đâu chưa biết. Tôi cũng bị vây bắt nhưng chạy thoát được.”
Chừng nửa tiếng đồng hồ sau, chúng tôi liên lạc được với anh Phạm Ngọc An đang bị giữ tại Công an Phường 6, Quận 3 và được anh này thông tin:
“ Cuộc biểu tình bị họ quây ở Hồ Con Rùa. Sau khi họ quây chúng tôi lại, một thời gian sau họ cho cảnh sát giao thông đến bắt loa yêu cầu chúng tôi giải tán. Sau đó họ đàn áp, bắt chúng tôi về đồn. Hiện nay có 9 người chúng tôi trong phường 6, quận 3. Và trước tiên khi mới vào họ bắt anh Hoàng Dũng đi làm việc riêng từ lúc đó đến giờ. Trong số chúng tôi họ bắt lầm một an ninh của thành phố, người này bị đánh chảy máu tay.
Cuộc biểu tình ngày hôm qua họ không chủ trương bắt người, họ để chúng tôi biểu tình từ đầu đến cuối. Chỉ có việc họ bắt Uyển Nghi là vợ của anh Hoàng Dũng vì chuyện gì đó chúng tôi không rõ nhưng chắc không phải vì biểu tình vì cô này không đi biểu tình. Còn hôm nay họ để chúng tôi làm từ đầu nhưng ‘giới hạn’ không  để cho chúng tôi làm trọn vẹn. Cuối cùng họ chủ trương bắt. An ninh có đánh như bản thân tôi họ đạp vô mặt chảy máu mồm, đứt áo của tôi.”
Bắt lên xe buýt ở Hà Nội
Tại Hà Nội, những người biểu tình cũng tập trung và tiến hành biểu tình tại khu vực trước Đại sứ quán Trung Quốc; thế nhưng sau khi cuộc biểu tình nổ ra thì xe buýt của cơ quan chức năng đến và dồn nhiều người biểu tình lên xe.


Cuộc biểu tình chống Tập Cận Bình tại Hà Nội nhanh chóng bị CA đàn áp. Ảnh: Facebook Lan Lê
 
Cuộc biểu tình chống Tập Cận Bình tại Hà Nội nhanh chóng bị CA đàn áp. Ảnh: Facebook Lan Lê
Một phụ nữ chạy theo xe buýt khi đến trụ sở Công an thành phố Hà Nội cho biết lại:
“ Sáng nay mọi người đến lúc khoảng 9 giờ, tập trung tại quán cà phê đối diện với Đại sứ quán Trung Quốc. Công an  chìm nổi khắp mọi nơi rất đông; đông phải gấp 20 lần số người định tham gia biểu tình. Anh em ngồi uống cà phê đến khoảng 10 giờ thì có vài ba chục người bắt đầu giơ băng rôn, biểu ngữ và đi dọc vườn hoa đối diện Đại sứ quán dọc đường Điện Biên Phủ. Đi được khoảng 50 mét thì bị dồn lại thì người ta quay lại; tức đi từ đầu này đến đầu kia. Được 2 vòng như vậy thì có 1 xe buýt do bên an ninh trờ tới, mở cửa sẵn; sau đó lùa hết anh em cầm băng rôn, biểu ngữ lên xe. Cuộc biểu tình ngắn thôi nhưng rất khí thế, rất hiên ngang!”
Blogger Nguyễn Hữu Vinh khi đang bị bắt đưa đi trên xe buýt thuật lại vụ việc:
“ Sáng nay có một  số người tập trung trước vườn hoa đối diện Đại sứ quán Trung Quốc để phản đối chuyến thăm của Tập Cận Bình. Khi chúng tôi ở đó thì bị lùa lên xe và đang đi trên đường. Chúng tôi biết họ chở về số 6 Quang Trung, Hà Đông là trụ sở Công an Hà Nội. Chúng tôi không biết vì lý do gì mà chúng tôi phải đi về trên chiếc xe buýt này.”
Ý kiến người tham gia
Những người tham gia các cuộc biểu tình chống chuyến thăm của ông Tập Cận Bình cho rằng việc họ xuống đường để thể hiện chính kiến là điều được Hiến pháp Việt Nam cho phép. Còn biện pháp đàn áp, trấn áp, ngăn chặn từ phía cơ 1uan chức năng cho thấy rõ thái độ của chính quyền Việt Nam hiện nay đối với Trung Quốc dù rằng Bắc Kinh đang có những hành động lấn lướt, xâm phạm lãnh hải của Việt Nam một cách công khai, bắn giết, đâm chìm tàu của ngư dân Việt Nam tại vùng biển chủ quyền của Việt Nam một cách trắng trợn.


Ông Trần Bang bị CA đánh đổ máu vì tham gia biểu tình chống Tập Cận Bình. Screenshot
 
Ông Trần Bang bị CA đánh đổ máu vì tham gia biểu tình chống Tập Cận Bình. Screenshot
Chị phụ nữ tại Hà Nội bày tỏ ý kiến:
“ Tôi thấy rất buồn và tôi phát biểu ngay hiện tượng gần như theo tôi nghĩ Hán Nô đã cài răng lược khắp mọi nơi, mọi ngỏ ngách trên đất nước Việt Nam này rồi. Nếu tình trạng như thế này thì việc Việt Nam trở thành một khu tự trị của Trung Quốc sẽ trong một ngày rất gần thôi. Đó là quan điểm, nhìn nhận của cá nhân tôi. Thực tế tôi cảm thấy rất bế tắc.”
Anh Phạm Ngọc An cũng nêu lên quan điểm khi đang còn bị giữ tại công an phường 6, quận 3:
“ Khi giặc Tàu xâm lược nước Việt Nam, bản thân tôi là một người dân và là một người con của nước Việt, chúng tôi được quyền thể hiện chính kiến của mình mà điều 69, Hiến Pháp Việt Nam 1992 đã công nhận quyền biểu tình hợp pháp của chúng tôi. Chúng tôi sẽ tiếp tục thể hiện chính kiến của mình bằng cách biểu tình, xuống đường, viết những bài trên các báo lề dân. Đó là quyền hợp pháp và cũng là truyền thống ngàn đời chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.”
Blogger Nguyễn Hữu Vinh nêu rõ đánh giá của ông đối với lực lượng trấn áp người biểu tình yêu nước:
“ Dù là hiện tượng nào, dù là biện pháp nào, dù cách gây khó khăn nào đối với những người thể hiện ý chí yêu nước của mình thì đó là hành động tiếp tay cho hành động xâm lược của nhà cầm quyền cộng sản Trung Quốc đối với lãnh thổ và đất nước chúng ta. Dù bất cứ hình thức thế nào gây khó khăn và cản trở những việc như vậy, chưa nói đến chuyện bị đàn áp, bắt bớ, sách nhiễu…”
Ngoài việc biểu tình, trong thời gian qua nhiều nhóm công dân có lời kêu gọi cũng như kiến nghị gửi đến quốc hội, các vị lãnh đạo Việt Nam yêu cầu phải khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa khi gặp người đứng đầu chính phủ và đảng cộng sản Trung Quốc là ông Tập Cận Bình khi đến Hà Nội cũng như khi phát biểu trước quốc hội Việt Nam vào ngày 6 tháng 11 này.
Tuy nhiên theo người phụ nữ tại Hà Nội thì chị không trông mong gì ở quốc hội và lãnh đạo chính quyền Hà Nội hiện nay bởi lẽ lâu nay họ chưa hề thực thi nguyện vọng chính đáng của người dân.

Chủ tịch Trung Quốc đến Việt Nam để kéo Hà Nội trở về với Bắc Kinh ?


media 


Vụ hạ đặt giàn khoan HD-981 sâu trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam tại Biển Đông đã làm sứt mẻ quan hệ Việt-Trung. HD-981 được tàu tuần duyên Trung Quốc bảo vệ. Ảnh chụp ngày 14/05/2014.REUTERS/Nguyen Ha Minh
Khi đến Hà Nội hôm 05/11/2015 nhân một chuyến thăm đầu tiên trong cương vị nhân vật số một tại Bắc Kinh, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình chắc chắn sẽ được đón tiếp một cách long trọng, với một buổi đại yến và nhất là một cơ hội hiếm thấy là phát biểu trước Quốc hội Việt Nam. Theo nhiều nhà phân tích được hãng tin Anh Reuters trích dẫn vào hôm nay, mục tiêu chính của lãnh đạo Trung Quốc là tìm cách hàn gắn trở lại quan hệ đã bị sứt mẻ nghiêm trọng sau vụ giàn khoan HD-981 vào năm ngoái 2014, nhưng đây sẽ là một vấn đề rất khó khăn.
Theo hãng Reuters, vấn đề địa lý chiến lược đang đặt ra gay gắt cho Trung Quốc với việc quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ đang được sưởi ấm nhanh chóng, đặc biệt từ sau hành động khiêu khích vào tháng 5 2014 của Bắc Kinh khi cho kéo giàn khoan HD-981 vào cắm sâu trong vùng thềm lục địa của Việt Nam.
Từ sau khi Trung Quốc cho rút giàn khoan về vào giữa tháng 7 năm 2014, tiến trình hàn gắn quan hệ đã được khởi động, với nhiều chuyên thăm cấp cao giữa hai bên. Thế nhưng thái độ nghi kỵ của Việt Nam đối với Trung Quốc vẫn tồn tại dai dẳng.
Trong tình hình đó, theo hãng Reuters, chuyến công du Việt Nam của ông Tập Cận Bình đã được Bắc Kinh quyết định đúng lúc, hai tháng trước lúc mở ra Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, tạo cơ hội cho lãnh đạo Trung Quốc xoa dịu vết thương gây ra vào năm ngoái, và nhắc nhở giới lãnh đạo Việt Nam rằng Bắc Kinh có rất nhiều thứ để giúp Việt Nam có lợi.
Chuyên gia vê Đông Nam Á Murray Hiebert, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế CSIS tại Washington ghi nhận : « Ông Tập Cận Bình đến Việt Nam ngay vào lúc đang diễn ra cuộc tranh luận chọn lãnh đạo… Ông ấy rất có thể là sẽ tìm cách đẩy xa những người (trong giới lãnh đạo Việt Nam) đang phản đối mạnh mẽ việc tiếp tục quan hệ chặt chẽ với Bắc Kinh và cởi mở nhất trong việc theo đuổi mối quan hệ gần gũi hơn với Washington. »
Đối với Reuters, tình hình Việt Nam đã có nhiều thay đổi đáng kể kể từ khi bùng lên vụ HD-981 cách nay 18 tháng. Quan hệ của Việt Nam với quốc tế đang đa dạng hóa một cách nhanh chóng, nhờ vào một loạt các thỏa thuận thương mại mới, kể cả với Liên Hiệp Châu Âu với với khối Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP mà Việt Nam là thành viên.
Hàn Quốc đang tăng cường đầu tư vào Việt Nam thông qua các công ty như Samsung, trong lúc Nhật Bản và Hoa Kỳ đã cung cấp tàu tuần tra biển cho Việt Nam và giúp Việt Nam đào tạo thủy thủ. Nga thì đã chuyển giao nhiều chiếc tàu ngầm và đã cho phép Việt Nam sử dụng thiết kế của mình để xây dựng chiến hạm mang tên lửa lớp Tarantul.
Nhũng giúp đỡ đó, theo giới phân tích, đã tăng sức cho Việt Nam trong việc thúc đẩy nền kinh tế của mình và phát triển khả năng răn đe quân sự vào lúc Bắc Kinh ngày càng trở nên quyết đoán hơn trong chiến lược bành trướng trên biển.
Một số dấu hiệu nhỏ cho thấy là việc chiêu dụ Việt Nam không còn dễ dàng như xưa. Vào hôm qua đã có một cuộc biểu tình nhỏ chống Trung Quốc tại Hà Nội, trong lúc có kiến nghị lưu hành trên mạng phản đối ông Tập Cận Bình. Trong bối cảnh mà Chính quyền Việt Nam thường dập tắt các biểu hiện chống Trung Quốc ngay từ trong trứng nước, các « sự cố » hiếm hoi như vừa kể đã được một số chuyên gia cho là dấu hiệu cho thấy là trong nội bộ giới lãnh đạo Việt Nam, quan hệ hữu hảo với Trung Quốc không còn là một sự nhất trí tuyệt đối.
Tuy vậy, sức hút của Trung Quốc về kinh tế là điều mà giới lãnh đạo Việt Nam không thể bỏ qua, và Bắc Kinh rất biết điều đó. Theo Giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia tại Học viện Quốc phòng Úc, chuyến thăm Việt Nam của ông Tập Cận Bình là một phần trong chủ trương « giành lại » Việt Nam bằng hợp tác kinh tế.
 http://vi.rfi.fr/viet-nam/20151104-chu-tich-trung-quoc-den-viet-nam-de-keo-ha-noi-tro-ve-voi-bac-kinh



Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ dùng tàu sân bay thị sát Biển Đông


media 

Tàu sân bay USS Theodore Roosevelt tới vùng Biển Đông. Ảnh chụp ngày 29/10/2015.REUTERS/U.S. Navy
Đúng như dự kiến, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter vào hôm nay, 05/11/2015, đã lên thăm hàng không mẫu hạm Theodore Roosevelt đang ở Biển Đông. Phát biểu với thủy thủ đoàn chiếc tàu, Bộ trưởng Mỹ khẳng định là Trung Quốc phải chịu trách nhiệm về tình hình căng thẳng trong khu vực do các đòi hỏi chủ quyền của nước này.
Theo phóng viên hãng tin Pháp AFP được phép tháp tùng theo bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, thì nhân chuyến hải hành trên tàu sân bay USS Theodore Roosevelt kéo dài ba tiếng đồng hồ, ông Carter đã nhận định rằng : « Hiện có rất nhiều nỗi quan ngại đến từ các hành vi của Trung Quốc tại Biển Đông ».
Đối với với ông, sự hiện diện của hàng không mẫu hạm Theodore Roosevelt là dấu hiệu chứng tỏ vai trò trọng yếu của quân đội Mỹ trong một khu vực rất quan trọng cho tương lai của Mỹ.
Hãng tin Anh Reuters trích lại lời ông Carter : " Sự hiện diện của tôi trên chiếc Theodore Roosevelt ở biển Nam Hải, mang tính chất biểu tượng và cho thấy tính chất ổn định của sự hiện diện của Mỹ và đã được duy trì từ hàng thập kỷ nay trong khu vực".
Ông Carter còn nói tiếp : "Nếu sự hiện diện này được chú ý hiện nay, đó là do những căng thẳng mà nguyên nhân chủ yếu đến từ các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, và hoạt động của Trung Quốc những năm vừa qua".
Vào lúc Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ ở trên tàu, chiếc hàng không mẫu hạm  nguyên tử Theodore Roosevelt, đang di chuyển ở trong khu vực cách quần đảo Trường Sa từ 150 đến 200 hải lý về phía nam, và cách  Malaysia khoảng 70 hải lý về phía bắc.
Đi theo hộ tống tàu sân bay Theodore Roosevelt, có khu trục hạm USS Lassen vừa thực hiện chiến dịch tuần tra vì quyền tự do hàng hải trong vùng 12 hải lý quanh đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Trường Sa.
Tuy nhiên các quan chức Mỹ đã xác định rằng chiếc Theodore Roosevelt chỉ quá cảnh Biển Đông, chứ không phải là có mặt để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền tự do hàng hải trong khu vực.
 http://vi.rfi.fr/chau-a/20151105-bo-truong-quoc-phong-my-dung-tau-san-bay-thi-sat-bien-dong



Cuộc chiến bí mật ở trung ương Giáo hội La Mã


mediaHai cuốn sách xuất hiện đồng thời tại Ý phơi bày tình trạng đấu đá nội bộ VaticanREUTERS/Tony Gentile
Vatican hôm nay trở thành tâm điểm chú ý của nhiều tờ báo Pháp vói hai sự kiện đang gây chấn động Tòa Thánh: Hai cuốn sách mang tiêu đề «đường vác Thập giá » của nhà báo Gianluigi Nuzzi, tiết lộ nhiều việc làm ám muội trong Giáo triều Vatican và vụ cuối tuần qua, một linh mục Tây Ban Nha và một phụ nữ Ý bị bắt vì đã tuồn tài liệu mật của Tòa Thánh ra ngoài.
Nhật báo Le Monde chạy tựa lớn trang nhất : « Những bí mật của Vatican » cùng với bài viết dài « Cuộc chiến bí mật trong lòng Vatican ». Le Mone nhận thấy một lần nữa những vụ lùm xùm trong Tòa Thánh lại bị phơi lên mặt báo, đó là « dấu hiệu của một cuộc đấu đá quyền lực dữ dội bên trong Giáo triều La Mã mà Giáo Hoàng Phanxicô đang cố gắng cải cách ».
Tờ báo nhắc lại sự kiện hôm 31/10 và Chủ nhật 01/11, lực lượng hiến binh của Vatican trong khuôn khổ một cuộc điều tra được tiến hành từ nhiều tháng qua đã bắt giữ một linh mục người Tây Ban Nha và một phụ nữ ngoại đạo người Ý vì tội phát tán thông tin, tài liệu mật của Tòa Thánh.
Theo le Monde, « hai vụ bắt giữ diễn ra trong bầu không khí hỗn loạn tại Vatican từ nhiều ngày qua », đã khiến cho dư luận nhớ lại vụ mang tên là « Vatileaks » hồi năm 2012, khi vị quản lý của Giáo Hoàng Benedicto 16, cũng bị cáo buộc đánh cắp các tài liệu mật của Đức Thánh cha tuồn ra cho báo chí.
Sự việc lần này còn nghiêm trọng hơn, các tài liệu « bí mật » bị đánh cắp còn sắp sửa xuất hiện rộng rãi trong hai tập sách mang tựa đề « Đường vác Thập giá » của nhà báo Gianluigi Nuzzi. Sách ra mắt ngày 5/11 tại Ý và 15/11 tại Pháp.
Hai cuốn sách đề cập đến rất nhiều chuyện thâm cung bí sử bên trong Giáo triều của Giáo Hoàng Phanxico, từ những cuộc đấu đá nội bộ ác liệt cho đến việc quản lý tài chính ám muội, có thể gây sốc mạnh Vatican trong những ngày tới.
Le Monde dành một trang báo trích đăng một phần nội dung của cuốn sách, trong đó tác giả đưa ra những chi tiết có thể khiến các tín đồ Công giáo sẽ phải sửng sốt. Đó là : « Tiền của các giáo dân từ khắp nơi trên thế giới quyên góp cho Vatican làm từ thiện không mấy đến được người nghèo mà chủ yếu dùng để bù đắp cho những thâm hụt chi tiêu của một số vị Hồng y và những người trong bộ máy quản lý hành chính của Tòa Thánh La Mã ».
Vatican hôm 2/11 đã ra thông cáo, trong đó đã thừa nhận mối liên hệ giữa các vụ bắt giữ và việc xuất bản hai cuốn sách của nhà báo Nuzzi.
Thông cáo viết : « Về những cuốn sách được thông báo sắp phát hành trong những ngày tới, cần phải nói rõ là lần này, cũng như những lần trước, đó là là sự phản bội nghiêm trọng lòng tin của Đức Thánh cha ».
Sức kháng cự chống lại cải cách Giáo hội rất lớn
Với La Croix, tờ báo Công giáo này đặt câu hỏi lớn trên trang nhất: Điều gì đang diễn ra ở Vatican ? Xã luận của La Croix ghi nhận Giáo hội Công giáo một lần nữa lại đang « ở giữa những xáo động» lớn.
La Croix ghi nhận tất cả các Giáo Hoàng từ khi có Hội đồng Giám mục Vatican II đều đã phải đối mặt với những xáo động mỗi khi có ý đồ thay đổi triều chính La Mã. Vì thế mà lần này cũng không có gì phải ngạc nhiên. Tờ báo nhấn mạnh, « sức kháng cự những thay đổi ở Vatican là rất lớn. Mọi cải cải cách đều đòi hỏi phải có quyết tâm cũng như nỗ lực lớn ».
Tờ báo nhắc lại : Mùa xuân 2013, sự xuất hiện của một vị Giáo Hoàng đến từ bên kia địa cầu đã kéo theo một luồng gió mới thổi vào một hệ thống đã quá cũ kỹ. Ngay từ những ngày đầu tiên, Giáo Hoàng Phanxico đã tỏ cho thấy Ngài muốn giữ cho mình một sự tự do nhất định, bỏ đi một số nghi thức rườm rà. Hơn thế, Ngài đã quyết định đi xa hơn những người tiền nhiệm trong việc cải tổ một số cách làm, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính.
Cuộc cải tổ ở trung ương Giáo hội đang là ưu tiên của Đức Thánh cha, nhưng tiến trình dài hơi này đang làm dấy lên những kháng cự và cả những băn khoăn liệu Giáo Hoàng Phanxico có đi được đến cùng cuộc cải cách của mình ?
Tờ báo Công giáo đánh giá : « trong lúc công cuộc cải tổ của Giáo Hoàng đang ở giữa đường thì có một số người dường như đang tìm cách để ngăn cản, thậm chí là để làm đảo lộn lại tiến trình này ».
Theo La Croix, bầu không khí mà người ta cảm nhận được hiện có đáng buồn và đáng lo ngại, nhưng Giáo hội Công giáo không thể tiếp tục với những cách làm đáng ngờ như hiện nay. Xã luận tờ báo kết luận « Nỗ lực làm trong sạch (Giáo hội) phải được tiếp tục ».
Vụ máy bay A321 rơi tại Ai Cập : «Tiếng động không bình thường trong buồng lái »
Một thời sự khác được quan tâm đặc biệt là vụ chiếc máy bay A321 của hãng hàng không Nga Metrojet bị rơi tại Ai Cập hôm 31/10. Le Figaro cho biết các hộp đen của máy bay cung cấp những bí mật đầu tiên.
Bốn ngày sau vụ chiếc máy bay A321 rơi xuống bán đảo Sinai của Ai Cập, việc giải mã các hộp đen đã bắt đầu hé lộ những thông tin đầu tiên về chuyến bay xấu số này. Các thông tin lọt ra rất nhỏ giọt, người ta mới chỉ biết : « Có những tiếng động không bình thường trong buồng lái, hội thoại liên lạc giữa cơ trưởng và kiểm soát không lưu 4 phút trước khi máy bay biến mất khỏi màn hình radar, vẫn diễn ra bình thường.. ». Thêm vào đó là thông tin của kênh truyền hình Mỹ CNN cho biết một vệ tinh quân sự của Mỹ đã phát hiện một « ánh chớp nóng » phát ra từ chiếc máy bay gặp nạn.
Những chi tiết như vậy chỉ khẳng định thêm giả thuyết máy bay bị nổ trên không trung, như
ng nguyên nhân nổ do đâu thì vẫn còn là một bí ẩn.
Việc giải mã các tham số chuyến bay vẫn đang được tiếp tục tại trụ sở Bộ Hàng không dân dụng Ai Cập tại Cairo. Bên cạnh các chuyên gia của Nga và Ai Cập còn có mặt các nhà điều tra Pháp, Đức. Các giới chức Nga và Ai Cập đến giờ vẫn phủ nhận giả thuyết máy bay bị khủng bố.
Trung Quốc trình làng máy bay tự chế tạo đầu tiên
Trang kinh tế của báo La Croix cho hay « Trung Quốc hé lộ một đối thủ cạnh tranh với Airbus trong tương lai ». Theo tờ báo, Trung Quốc có tham vọng tự chế tạo máy bay dân dụng có thể là đối thủ cạnh tranh với các hãng lớn như Airbus và Boeing. Nhà chế tạo máy bay Trung Quốc Comac vừa mới tiết lộ mẫu máy bay vận tải tầm trung đầu tiên của mình. Hãng giới thiệu loại máy bay này có thể sánh với các mẫu Airbus A320 và Boeing B737, hai loại máy bay đang bán chạy nhất thế giới.
Thứ Hai đầu tuần này, tại một cơ sở ở Thượng Hải, Trung Quốc đã đưa ra giới thiệu chiếc máy bay tầm trung tự chế có nhãn hiệu C919. Máy bay có chiều dài 39 mét, có thể chuyên chở từ 150 đến 180 khách và chặng bay có thể kéo dài tới 4000 km. Dự kiến chiếc máy bay này sẽ thực hiện chuyến bay đầu tiên vào đầu năm 2016. Nhưng đó mới chỉ là giai đoạn bay thử. Máy bay phải chứng minh có thể bay an toàn trong mọi thời tiết. Khi được cấp chứng chỉ bay, chiếc C919 có thể được đưa vào khai thác thương mại và việc này chắc chắn không diễn ra trước năm 2018.
La Croix nhận định : Với chiếc máy bay này, Trung Quốc đã có bước đi quan trọng để trở thành một trong những nước, rất ít trên thế giới, chế tạo được máy bay.
Dự án đóng máy bay tầm trung của Trung Quốc được khởi sự từ năm 2008. Tổ hợp Comac (Comercial Aircraf Corporation of Chiana) được thành lập cùng thời điểm để thực thi dự án trên. Comac khẳng định đã có 450 đơn đặt hàng cho loại máy bay mới, chủ yếu là của các hãng hàng không trong nước. Và nhà chế tạo máy bay dân dụng đầu tiên của Trung Quốc còn đặt mục tiêu bán được 2000 máy bay từ nay đến năm 2030. Ngoài ra, sau khi chiếc C919 được chính thức đưa vào khai thác thương mại, hãng sẽ khởi động dự án đóng máy bay đường dài có tên hiệu C929, được dự tính đưa vào bay thử năm 2020.
http://vi.rfi.fr/quoc-te/20151104-cuoc-chien-bi-mat-o-trung-uong-giao-hoi-la-ma



Giáo hoàng xin lỗi vì các vụ tai tiếng ở Roma và Vatican


mediaĐức Giáo hoàng Phanxicô phát biểu trước giáo dân trong buổi tiếp kiến chung ngày 14/10/ 2015.REUTERS/Stefano Rellandini
Một cử chỉ rất hiếm hoi của một lãnh đạo Giáo hội Công giáo : Giáo hoàng Phanxicô hôm nay, 14/10/2015 đã nhân danh Giáo hội xin lỗi về những vụ tai tiếng gần đây tại Roma và Vatican, tuy Ngài không xác định rõ đó là những vụ nào.
Đức Giáo hoàng Phanxicô đã đưa ra lời xin lỗi nói trên trước hàng ngàn giáo dân tập hợp ở Quảng trường Thánh Phêrô trong buổi tiếp kiến chung.
Tòa Thánh trong thời gian gần đây đã bị rung chuyển do nhiều vụ tai tiếng, gần đây nhất là vụ một linh mục người gốc Ba Lan, quan chức của Bộ Giáo lý Đức tin của Tòa Thánh, đã thú nhận với báo chí ông là người đồng tính và đang sống như vợ chồng với người bạn trai. Tiết lộ chấn động này được đưa ra vào trước ngày khai mạc Thượng hội đồng giám mục về gia đình, 04/10/2015.
Cũng gần đây có những thông tin rò rĩ về việc nhiều hồng y có xu hướng bảo thủ lên án cách tổ chức Thượng hội đồng giám mục về gia đình. Những thông tin này đã góp phần làm suy yếu vị thế của Giáo hoàng.
Ngoài phạm vi Vatican, lời xin lỗi của vị Giáo hoàng gốc Achentina có lẽ cũng nhằm nói đến những căng thẳng với thị trưởng Roma, Ignazio Marino, người vừa mới từ chức. Thủ đô Ý từ một năm qua cũng bị chấn động sau tiết lộ về một mạng lưới thông đồng với mafia, tuy Gíáo hội dường như không có liên can gì.

BÀI GIẢNG CỦA LM ĐẶNG HỮU NAM

Tuesday, November 3, 2015



Đừng bao giờ tin cộng sản



Trước 10 ngàn giáo dân, linh mục Đặng Hữu Nam dõng dạc lên tiếng: "Đừng bao giờ tin cộng sản!"

Một vị linh mục tại Nghệ An đã công khai lên tiếng tố cáo chế độ cộng sản trong buổi thánh lễ có sự tham dự của hơn một vạn giáo dân địa phương.

Hành động phản kháng đầy mạnh mẽ của linh mục Đặng Hữu Nam vừa diễn ra hôm 10/10/2015, tại nhà thờ giáo họ Yên Lạc, giáo xứ Xuân Kiều, thuộc huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

Dựng chuyện vu khống, bỏ vạ, cáo gian Nguyên nhân vụ việc bắt nguồn từ sự kiện ngày 5/10/2015, khi hàng trăm giáo dân thuộc giáo họ Yên Lạc đã cùng nhau góp sức để khai thông và chỉnh trang lại con đường dẫn vào nhà thờ.

Tuy nhiên, việc làm này của người dân đã bị nhà cầm quyền CS địa phương cáo buộc là ‘huỷ hoại tài sản’ và đe doạ khởi tố hình sự. Đồng thời, các cơ quan tuyên truyền Nghệ An cũng được huy động nhằm vu khống linh mục và bà con giáo dân.




Người dân góp sức sửa sang, tái tạo lại con đường dẫn vào nhà thờ
Nhà thờ giáo họ Yên Lạc vốn được thành lập từ năm 1929, tức có trước cả khi đảng CSVN ra đời. Năm 1982, một cơn bão lớn tràn qua khiến ngôi thánh đường bị tốc mái gây hư hỏng nặng. Lợi dụng điều này, nhà cầm quyền CSVN bèn xây tường, chiếm luôn con đường chính dẫn vào nhà thờ vào năm 1987.

Hành vi này đã gây ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt tôn giáo của người dân trong vùng. Đến khi bà con cùng nhau góp sức tái tại lại con đường cũ - chỉ với chiều ngang khoảng 7 mét, thì bị chế độ CSVN vu khống là ‘đập phá, chiếm đất trường mần non’.


Ngày 10/10/2015, một buổi cầu nguyện cho công lý - hoà bình - sự thật đã được diễn ra ngay tại nhà thờ giáo họ để phản đối hành vi vu khống của nhà cầm quyền. Theo bản tin của tác giả Ân Thiên viết trên SBTN, thánh lễ có sự tham dự của hơn 10 ngàn giáo dân trong giáo hạt Nhân Hoà.

Cộng sản nói dối không biết ngượng



Theo video bài giảng kéo dài 18 phút do facebook Hung Tran phổ biến, linh mục Anton Đặng Hữu Nam đã có một bài phát biểu đanh thép nhằm tố cáo chế độ cộng sản.

Dẫn lại những nhận xét nổi tiếng về chủ nghĩa cộng sản của tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô Gorbachev, tổng thống Nga Putin, và tổng thống Việt Nam Cộng Hoà Nguyễn Văn Thiệu, cha Nam nói:
“Nếu chúng ta cứ tin vào lời của cộng sản chắc chắn chúng ta không có cái đầu, nếu chúng ta làm theo lời cộng sản chắc chắn chúng ta không có trái tim.


Chính ông Putin - một người lãnh đạo của nước Nga mà còn nói như vậy thì đừng biến mình trở thành quái thai ở xã hội này bởi vì là con người thì phải có cả cái đầu lẫn trái tim.
Nếu chúng ta không có cái đầu không có trái tim thì liệu chúng ta có còn xứng đáng với 2 chữ con người nữa hay không?”


Trước đó, đài truyền hình Nghệ An đã chiếu đoạn phỏng vấn 3 người - tự nhận là những giáo dân - phát ngôn những điều gian dối nhằm vu cáo linh mục và bà con giáo xứ.

Theo cha Nam, đây đều là những người đã từng bỏ Chúa từ lâu năm, họ không phải là giáo dân mà là ‘giáo gian’.
Nhắc lại sự dối trá của chế độ cộng sản qua các sự kiện như Tam Toà, Thái Hà, Toà Khâm Sứ... vị linh mục này khẳng định:

“Chúng ta hãy nhớ rằng cộng sản không thể là thay đổi nhưng phải bị loại bỏ như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng khẳng định”. (*)
Từ đảng cướp đến ‘đang theo… đĩ”




Ngoài những lời tố cáo sự dối trá, bịp bợm của chế độ, linh mục Đặng Hữu Nam cũng cho rằng những ai đi theo đảng cộng sản vô thần thì hẳn nhiên là những kẻ xấu. Ngài kể lại một câu chuyện trong giáo xứ:

“Có một lần Giáo dân của Giáo xứ chúng tôi hỏi Cha Xứ rằng: "Thưa Cha, tại sao Cha lại nói rằng theo quan điểm của Giáo hội, nếu đi theo đảng cộng sản vô thần thì hiển nhiên trở thành kẻ xấu?"

Tôi giải thích theo một cách đơn giản thôi, không cần rườm rà về niềm tin, không cần rườm rà về bản chất của cộng sản. Cộng sản vô thần là vô thần, nhưng tôi chỉ nói một điều, ‘đi theo đảng’, quý ông bà anh chị em thử nói xem rằng thế là tốt hay là xấu?
“Chỉ cần chúng ta lật ngược lại vấn đề: ‘đi theo đảng’ tức là ‘ đang theo đĩ’. ‘Đang theo đĩ’ thì liệu điều đó tốt hay là xấu, tự quý ông bà anh chị em chúng ta sẽ biết!”

Dẫn lại những sự kiện trong quá khứ, linh mục Nam khẳng định đảng CSVN lộ rõ bản chất là một đảng cướp.
Ngài nêu dẫn chứng từ sự kiện Hồ Chí Minh cướp chính quyền năm 1945, cho đến khi cướp được miền Nam năm 1975, Đỗ Mười tuyên bố cướp nhà, cướp tài sản, cướp vợ con của những người phục vụ cho chính thể Việt Nam Cộng Hoà.


“Vâng, tinh thần bất diệt của cách mạng tháng 8 là tinh thần đó, vâng, tinh thần cách mạng tháng 8 là từ cướp mà ra. Cướp chính quyền, cướp ruộng đất, cướp tài sản, cướp cả vợ con của người ta... và hôm nay chúng ta thấy họ cướp cả nhân quyền!”


“…Đất nước của chúng ta, tất cả đã trở thành Dân Oan từ những người thấp cổ bé miệng cho đến quan chức, thậm chí cả những người đã từng ‘có công với cách mạng’ hôm nay đã trở thành dân oan, trở thành những người bị cướp bóc. Cướp bóc cả nhân quyền, cướp bóc cả công lý, cướp bóc cả sự thật, cướp bóc cả cả ruộng vườn”, linh mục Nam kết luận.
Có thể nói, đây là một trong những bài giảng mạnh mẽ và đanh thép nhất từ trước đến nay về chế độ CSVN. Ngay lập tức, đội quân ‘dư luận viên’ của đảng đã tỏ ra điên tiết, bèn dùng những lời hết sức thô bỉ để tấn công cá nhân linh mục Đặng Hữu Nam.


Văn bản đánh máy lại bài giảng đầy đủ của cha Nam hiện đang được lưu trữ tại Thư viện Phạm Văn Thành.

Trích đoạn:

“…..Nói Láo và Đang Theo Đĩ




Ngày đầu lễ chúng ta cũng nghe Cha Xứ điểm lại một số nội dung mà chính nhà cầm quyền tỉnh Nghệ An dùng các phương tiện từ cảnh sát giao thông, công an cho đến dân phòng thậm chí là công an xóm và những người xung quanh mà được gọi là tay sai của cộng sản để rồi cùng với hệ thống truyền thanh truyền hình, báo chí của nhà nước để dựng chuyện vu khống bỏ vạ cáo gian cho Cha Xứ cũng như cho Giáo xứ và cách riêng, cho Giáo Hội của chúng ta.
Có lẽ trong chúng ta ai cũng biết chỉ năm 1987 thôi, mới đây thôi, ông Mai đang vẫn còn sống (Trần văn Mai, xin xem chi tiết 2 bài kế tiếp bên dưới), và biết bao người của chúng ta vẫn đang còn sống đây. Liệu con đường từ nhà thờ ra phía trước đường khi đó chúng ta như thế nào? cái trường mầm non ở đây có từ bao giờ? con đường đó có từ bao giờ? nhưng chúng ta hãy nhìn lại một cách để chúng ta thấy cộng sản nó như thế nào?

Bí Thư đảng cộng sản của Liên sô Gorbachev nói rằng, tôi, nửa đời người tôi đi theo cộng sản nhưng bây giờ mới phát hiện ra cộng sản chỉ tuyên truyền và nói dối. Với hành trình chúng ta cũng thấy ông nói rằng cộng sản chỉ nói dối, nói dối lem lẻm, nói dối không biết ngượng. Chính Tổng thống của nước Nga đương kim bây giờ là ông Putin cũng nói rằng, nếu ai tin vào cộng sản, người đó không có cái đầu, nếu ai làm theo lời cộng sản, người đó không có trái tim. Cố Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa nói rằng "Đừng nghe những gì Cộng sản nói, mà hãy nhìn những gì Cộng sản làm!". Liệu hôm nay chúng ta nhìn thấy tất cả những điều mà chỉ ngay quê hương của chúng ta thôi cũng thấy được đâu là Sự Thật đâu là Gian Dối. Nếu chúng ta cứ tin vào lời của cộng sản chắc chắn chúng ta không có cái đầu, nếu chúng ta làm theo lời cộng sản chắc chắn chúng ta không có trái tim. Chính ông Putin là một người lãnh đạo của nước Nga đương kim mà còn nói như vậy thì đừng biến mình trở thành quái thai ở xã hội này bởi vì là con người thì phải có cả cái đầu lẫn trái tim. Nếu chúng ta không có cái đầu không có trái tim thì liệu chúng ta có còn xứng đáng với 2 chữ con người nữa hay không?

Chúng ta cũng chỉ có thể một lần nữa chỉ cần đơn giản một chút thôi, 3 người mà đài Truyền hình Nghệ An đưa lên để làm chứng về việc Giáo Hội Yên Lạc của chúng ta ... 2 người ở dưới Xứ Tân Lộc Cửa Lò, 2 người đó là đã được rửa tội nhưng bỏ Chúa mà theo đãng mà chúng ta cũng biết những người theo đảng thì như thế nào? Có một lần Giáo dân của Giáo xứ chúng tôi hỏi Cha Xứ rằng: "Thưa Cha, tại sao Cha lại nói rằng theo quan điểm của Giáo hội rằng, nếu đi theo đảng cộng sản vô thần thì hiển nhiên trở thành kẻ xấu?" - Tôi giải thích theo một cách đơn giản thôi, không cần rườm rà về niềm tin, không cần rườm rà về bản chất của cộng sản, cộng sản vô thần là vô thần nhưng tôi chỉ nói một điều, đi theo đảng, quý ông bà anh chị em thử nói xem rằng thế là tốt hay là xấu? chỉ cần chúng ta lật ngược lại vấn đề: đi theo đảng tức là ĐANG THEO ĐĨ. Đang theo đĩ thì liệu điều đó tốt hay là xấu? thì tự quý ông bà anh chị em chúng ta sẽ biết!

...cộng sản không thể là thay đổi nhưng phải bị loại bỏ như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng khẳng định

Rồi nhìn lại 3 người làm chứng trên đài truyền hình chúng ta sẽ thấy 2 người ở Tân Lộc là người đã từng bỏ Chúa từ lâu năm, rồi người ở Yên Đại cũng là người chả biết nhà thờ ở đâu? Họ như thế thì có được gọi là Giáo dân hay không? hay chúng ta phải gọi cái tên cho đúng, đó là: giáo gian! Không phải là Giáo dân mà là giáo gian, vậy chúng ta cũng đừng lạ lùng khi mà tỉnh Nghệ An, nhà cầm quyền Nghệ An dùng những phương tiện dùng những người dựng lên đó để mà làm chứng gian, chúng ta còn nhớ chuyện của Tam Tòa, chuyện của Con Cuông, chuyện của Thái Hà, chuyện của Tòa Khâm Sứ, người ta dựng lên một phó ban Tuyên giáo Hanoi là "Linh mục", người ta sẵn sàng dùng những đảng viên để làm giáo dân cho mình để làm chứng gian trên Tivi, để nói sai sự thật, đó là lẽ đương nhiên chúng ta đừng cần phải bận tâm nhiều. Chúng ta hãy nhớ rằng cộng sản không thể là thay đổi nhưng phải bị loại bỏ như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng khẳng định.

Nhìn lại cuộc đời chúng ta cũng vậy, nếu ta cứ nhìn rằng năm 1987 ở đây thôi có lẽ trong những người đang ngồi đây rất nhiều người đã đủ trí khôn vào năm 1987 ông Mai vẫn còn đó, liệu ông có chấp nhận đối diện với tiếng nói lương tâm của mình, liệu ông có dám làm chứng gian hay không, và chúng ta cũng dễ dàng nhận ra được rằng, nếu ngày đó, nhà thờ đã có từ năm 1929 tức là ngày mà cộng sản Việt Nam chưa sinh ra thì liệu rằng con đường đó có hay chưa? Và nếu tại sao vào năm 1987, lại có chuyện đắp đường để xây lại? và đó cũng là một điểm của thời thế một điểm của nuốt chửng có lẽ cả thế giới này biết, có lẽ trong chúng ta ngồi đây nhiều người đã từng biết rằng Nghệ An của chúng ta thời trước đã có một văn bản gởi bộ chính trị rằng: "đền thờ miếu mạo ... chúng tôi đã hoàn thành xuất sắc là đã triệt hạ!" Có lẽ đây là một tỉnh duy nhất trong đất nước này có văn bản báo công với chính phủ rằng đã tàn sát hết nhà thờ đền chùa miếu mạo rồi!Hành trình CƯỚP



Trên con đường đến đây dự lễ, trên đường từ nhà xứ sang đây, tôi thấy có 1 Bande de role treo ngang đường ghi: "tinh thần cách mạng tháng 8 bất diệt". Chúng ta có biết tinh thần của cách mạng tháng 8 là gì không? Có lẽ chúng ta còn nhớ ngày 19/8/1945 nếu ký ức của chúng ta được gợi là gì ngay cho tới cả thời bây giờ, chính đảng cộng sản VN cũng nói rằng đó là ngày cướp chính quyền. Vâng, cướp chính quyền bởi vì chính quyền cộng sản cướp từ tay của chính quyền Trần Trọng Kim để dựng lên một đất nước xã hội chủ nghĩa như hôm nay. Và cái tinh thần bất diệt đó là gì, vâng, một chính quyền được cướp và con người được cướp. Chúng ta hẳn còn nhớ, ai xử dụng mạng (network) những ngày hôm nay, chúng ta còn có thể lật lại hình ảnh của chủ tịch hội đồng bộ trưởng là Đỗ Mười khi đó đang đương nhiệm nói rằng: "khi chúng ta chiến thắng miền nam, chúng ta có quyền cướp tài sản của họ, lấy vợ con họ và đẩy họ vào rừng thiêng nước độc, đẩy đi kinh tế mới, ở đó, họ phải chết dần chết mòn" Vâng, tinh thần bất diệt của cách mạng tháng 8 là tinh thần đó, vâng, tinh thần cách mạng tháng 8 là từ cướp mà ra. Cướp chính quyền, cướp ruộng đất, cướp tài sản, cướp cả vợ con của người ta... và hôm nay chúng ta thấy họ cướp cả nhân quyền!



Chúng ta thấy hơn bao giờ hết, giữa thế kỷ này, đất nước Việt Nam của chúng ta với lời kêu gọi "học tập đạo đức hồ chí minh" hay "làm việc theo hiến pháp và pháp luật" và "xây dựng một xã hội công bằng dân chủ và văn minh"... nhưng hơn bao giờ hết, đất nước của chúng ta, tất cả đã trở thành Dân Oan từ những người thấp cổ bé miệng cho đến quan chức, thậm chí cả những người đã từng "có công với cách mạng"...hôm nay đã trở thành Dân Oan, trở thành những người bị cướp bóc, cướp bóc cả nhân quyền, cướp bóc cả công lý, cướp bóc cả sự thật, cướp bóc cả cả ruộng vườn. Nhờ đó chúng ta có thể thấy được chứ không phải chuyện chỉ có ở Giáo họ Yên Lạc chúng ta hôm nay! Đừng ngỡ ngàng, đừng ngạc nhiên vì bản chất của nó là duy nhất.”...
 
 


NGUYỄN GIA KIỂNG * NGÔ ĐÌNH DIỆM



Nhìn Lại Giai Đoạn Ngô Đình Diệm

Nguyễn Gia Kiểng

http://sachhiem.net/THOISU_CT/ChuN/NguyenGiaKieng.php


04-Nov-2015


LTS: Bài viết của ông Nguyễn Gia Kiểng mới tung ra trên báo Thông Luận của ông ngày 01 tháng 11 năm nay 2015, bài giới thiệu và tóm lược của một thân hữu cũng đã nhanh chóng gửi đến chúng tôi trong lúc nhiều tin thời sự gay cấn khác dồn dập, nên chúng tôi đã đăng chậm vài ngày. Bài của ông Nguyễn Gia Kiểng lần này đích thực là một tiến bộ trong nhận thức. Nó cũng là nhiều cú đá ngược ngoạn mục của một con chiên, mặc dù hơi ... chậm trễ, và mặc dù vẫn còn thói quen cố hữu là "khẳng định" rất vội vàng (như trong câu số 1 dưới đây), và một vài nhận định chủ quan (như việc đánh giá về "phong cách lãnh đạo của ông Diệm" trong đoạn 8 của bài ông Kiểng) mà chúng tôi không quan tâm lắm, vì những điều đó không quan trọng bằng những nhận định khá thức tỉnh trong bài này. Thế cũng đủ để chúng tôi cho một tràng pháo tay hoan hô. Xin đăng riêng lời giới thiệu sau đây của Nam Giao vì nó tóm tắt gọn gàng, dễ tham khảo những điểm chính yếu của bài "Nhìn Lại Giai Đoạn Ngô Đình Diệm" của Nguyễn Gia Kiểng. (SH)
chân dung của tác giả Nguyễn Gia Kiểng
LGT – Từ hơn 10 năm nay, hàng năm, cứ đến đầu tháng 11 thì một số tín đồ Công giáo Việt Nam tóc đã điểm sương lại rũ rê vài nhóm cựu quân nhân Việt Nam Cọng Hòa lố lăng trong bộ quân phục mới toanh, để viết bài và tổ chức vinh danh ông Ngô Đình Diệm. Các buổi lễ đó không quên nhập nhằng mượn kèm thêm câu “… và để tưởng niệm Quân Dân Cán Chính VNCH đã bỏ mình vì lý tưỏng Tự Do” dù trong số những quân nhân “đã bỏ mình vì lý tưởng Tự Do” đó, không thiếu người đã từng là nạn nhân khốn khổ của chế độ Ngô Đình Diệm.
Năm nay, 2015, trong số các bài viết tẻ nhạt và một chiều để tâng bốc “Ngô Tổng thống, Ngô Tổng thống muôn năm” đó, có một bài hơi “lạ”. Đó là bài “Nhìn Lại Giai Đoạn Ngô Đình Diệm” của ông Nguyễn Gia Kiểng. Tác giả là cha đẻ và là linh hồn của nhóm Thông Luận và Tập hợp Dân chủ Đa nguyên (Paris, Pháp). Riêng cho “trường hợp” Ngô Đình Diệm, tác giả là một người Công giáo, gốc Thái Bình, nhưng thân phụ lại bị chính quyền Diệm khủng bố vì tội theo Việt Nam Quốc Dân Đảng đối lập quyết liệt với chế độ.
Bài viết, về cơ bản, đối với những người nghiên cứu một cách khác quan toàn bộ chế độ Diệm thì không có gì … mới, nhưng chắc sẽ gây sốc cho đám sử gia hoài-Ngô:
(1) Căn cứ chủ yếu trên chỉ 2 lá thư của một viên chức Pháp trao đổi với ông bà Ngô Đình Nhu, tác giả cho rằng chính “người Pháp đưa ông Diệm lên cầm quyền” chứ “không phải do Mỹ đưa lên”. Lẽ dĩ nhiên khẳng định “không thể chối cải” nầy còn cần phải thảo luận nhưng dù đúng hay sai thì về mặt lịch sử, nó cũng không thay đổi được sự thực căn bản là ông Diệm đã được (một hay nhiều) ngoại bang “bồng” về chứ không phải vì một quá trình đấu tranh cho độc lập dân tộc.
(2) Tác giả đánh giá chế độ và một số chính sách:
- Việc tìm kiếm thỏa hiệp với Hà Nội “chắc chắn là nó rất trái ngược lập trường "diệt cộng" chính thức của chính quyền Ngô Đình Diệm”.
- Việc “chính quyền Ngô Đình Diệm thiên vị Công giáo là có thật nhưng việc đàn áp Phật Giáo chỉ là lý cớ dàn dựng của người Mỹ để lật đổ ông Diệm”.
- Người “có quyền lực lớn nhất trong chế độ là ông Ngô Đình Nhu” chứ không phải ông Tổng thống hiến định và dân cử Ngô Đình Diệm. Đó là “dân chủ” kiểu Đệ Nhất Cọng hòa!
- Chính quyền Ngô Đình Diệm là “một sự tiếp nối quá lộ liễu của chính quyền bảo hộ Pháp”.
- Các “đảng phái chống Pháp bị đàn áp, dù được nhân dân tôn kính, như Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt”.
- Các ông Diêm và Nhu là “những người thuộc môi trường quan lại sống tách biệt với xã hội Việt Nam”.
- Chính sách “tiêu diệt các lực lượng giáo phái như hai ông Diệm – Nhu đã làm là không đúng”. - Chủ nghĩa Nhân Vị mà ông Nhu đề cao “trên thực tế chỉ là một chủ nghĩa cá nhân lúng túng không dám tự xác nhận”.
- “Sai lầm và trách nhiệm lớn nhất của chế độ Ngô Đình Diệm là đã đàn áp các đảng quốc phái quốc gia... Họ có sự chính đáng hơn hẳn ông Ngô Đình Diệm”.
(3) Tác giả đánh giá hai ông Nhu và Diệm:
- Ông Nhu đã “ra lệnh giết Đại tá Hoàng Thụy Nam” (Trưởng đoàn Việt Nam trong Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến - ICSC) vào tháng 10/1961.
- Ông Diệm “không thể là một biểu tượng cho Việt Nam trong thời đại độc lập”.
- Ông Diệm “đã hợp tác tận tình với chế độ Pháp thuộc và đã tiếp tay đàn áp những người đấu tranh giành chủ quyền dân tộc”.
- Hai ông Diệm và Nhu không xây dựng lực lượng đấu tranh mà “chỉ vận động hành lang để được một thế lực ngoại bang đưa lên cầm quyền”.
- Các ông Diêm và Nhu là “những người thuộc môi trường quan lại sống tách biệt với xã hội Việt Nam”.
- Ông Nhu “không có bản lĩnh chính trị cao… chưa có khả năng chính trị phải có ở tầm mức quốc gia”.
- Một tuần trước khi bị đảo chính “hai ông Diệm và Nhu cũng đã có ý định đào thoát ra nước ngoài nhưng ý định này không được thực hiện vì sự chống đối dữ dội của bà Ngô Đình Nhu”.
- Ông Diệm và ông Nhu “không tuẫn quốc như nhiều người nghĩ. Họ đã lãnh đạo đất nước, đã không thành công và bị giết, sau khi chính họ cũng đã thủ tiêu nhiều người khác”.
- Tác giả khẳng định dứt khoát một lần nữa là “ông Ngô Đinh Nhu không liên quan gì tới cuốn Chính Đề Việt Nam. Tác giả cuốn sách này là ông Lê Văn Đồng một cựu công sự viên của hai ông Diệm và Nhu nhưng đã chia tay ngay từ năm 1957 vì bất đồng quan điểm”.
Dưới đây là bài viết “Nhìn lại Giai Đoạn Ngô Đình Diệm” của tác giả Nguyễn Gia Kiểng, được đăng trên trang nhà ethongluan ngày 2 tháng 11 năm 2015. NamGiao nhấn mạnh và thêm hình minh họa. - (Nam Giao)

Nhìn lại giai đoạn Ngô Đình Diệm

Posted by adminbasam on 02/11/2015
Nguyễn Gia Kiểng
2-11-2015
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 52 ngày chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ và hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị thảm sát – sau đó ít lâu ông Ngô Đình Cẩn cũng bị xử tử – tôi đã đề nghị ban biên tập Thông Luận cho đăng lại hai bài tôi viết trước đây. Đó là bài “Kinh nghiêm Ngô Đình Diệm” viết năm 2004 và bài “Ông Ngô Đình Diệm đã lên cần quyền như thế nào?” viết năm 2005. Tôi giữ nguyên những ý kiến trong cả hai bài này dù trong khoảng thời gian giữa hai bài đã xảy ra một sự kiện quan trọng: đó là tôi có được hai tài liệu cho thấy rõ một cách không thể chối cãi tiến trình đã đưa ông Diệm lên cầm quyền và cũng giải thích tại sao chính quyền Ngô Đình Điệm đã hành động như họ đã làm.
Lần này tôi công bố toàn bộ hai tài liệu này mà mười năm trước khi viết bài “Ông Ngô Đình Diệm đã lên cầm quyền như thế nào?” tôi đã không có thì giờ để đánh máy và dịch sang tiếng Việt. Đó là một thư của ông Ngô Đình Nhu viết cho ông Jacques Bénet ngày 20 tháng 4 năm 1954 và một thư của ông Jacques Bénet viết cho bà Ngô Đình Nhu ngày 18 tháng 10 năm 2004. Tôi xin nhắc lại một điều đã viết trong bài này là ngay từ trước, khi được ông Ngô Đình Luyện (có sinh hoạt một thời gian trong nhóm Thông Luận, tiền thân của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, trước khi qua đời) giải thích rằng ông Diệm lên cầm quyền là do ý muốn của Bảo Đại tôi đã thấy giải thích này không hợp lý.
Thư của ông Jacques Bénet gửi bà Nhu trình bày một cách chi tiết tiến trình trong đó người Pháp đưa ông Diệm lên cầm quyền và làm áp lực để buộc Bảo Đại phải chấp nhận giải pháp này.
Thư của ông Nhu gửi ông Jacques Bénet cho thấy rõ là chính quyền Pháp đã có cả một kế hoạch ngầm để giúp ông Ngô Đình Diệm loại tướng Nguyễn Văn Hinh, dẹp quân Bình Xuyên và các giáo phái để thu tóm quyền lực về một mối. Thư này cũng nói đến “trận chung kết” là tổ chức bầu cử. Đó là cuộc trưng cầu dân ý ngày 23 tháng 10 năm 1955 lật đổ Bảo Đại. Sau đó chế độ Việt Nam Cộng Hòa được chính thức công bố ngày 26/10/1955. Ông Nhu cũng nhấn mạnh về sự cần thiết của một chính sách của Pháp tại Đông Dương.
Hai lá thư này cho phép kết luận rằng ông Ngô Đình Diệm không phải do Mỹ đưa lên cũng không phải do ông Bảo Đại chọn lựa mà là một giải pháp của chính quyền Pháp để triệt thoái một cách êm thấm khỏi Việt Nam đồng thời giữ được tối đa ảnh hưởng chính trị và văn hóa cũng như các quyền lợi kinh tế. Như vậy phải hiểu rằng chính sách hợp tác với Mỹ và chống Pháp trong những năm đâu của chính quyền Ngô Đình Diệm chỉ là bề ngoài. Bên trong thực sự là đi đêm với Pháp và lợi dụng Mỹ.
Cũng theo chủ trương của Pháp mà chính quyền Ngô Đình Diệm đã ngấm ngầm tiếp xúc với phe cộng sản để tìm cách thỏa hiệp. Theo hồi ký của ông Nguyễn Phú Đức, cựu bộ truởng VNCH, việc này bị Mỹ phát giác vì đại tá Hoàng Thụy Năm đã thông báo cho tình báo Mỹ cuộc tiếp xúc giữa ông Ngô Đình Nhu và ông Phạm Hùng trên sông Sài Gòn. Ông Nhu đã ra lệnh giết ông Hoàng Thụy Năm và đổ tội cho cộng sản ám sát. Ông Nguyễn Phú Đức đã liên tục giữ những chức vụ rất quan trọng trong chế độ VNCH nên những điều ông tiết lộ có mọi khả năng là đúng. Hơn nữa tiết lộ của ông Nguyễn Phú Đức cũng rất phù hợp với một chuỗi sự kiện:
– Đầu tháng 3/1961 ông Ngô Đình Nhu thay mặt chính quyền VNCH đi Maroc dự lệ tấn phong vua Hassan II. Tại sao ông Nhu, một người không có chức vụ chính thức nào lại thay mặt cho chính quyền VNCH trong một nghi lễ chính thức và long trọng như vậy mà không phải là tổng thống Ngô Đình Diệm, hay phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ hay ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu?
– Sau đó, như một sự tình cờ, ông Ngô Đình Nhu được tiếp đón rất long trọng tại Pháp và ở lại Pháp vài ngày dù lúc đó bề ngoài Việt Nam đang rất lạnh nhạt với Pháp. Việc đi Maroc dự lễ đăng quang vua Hassan II có thể chỉ là một lý cớ để ông Nhu hội ý với chính quyền Pháp.
– Sau đó vài tháng là cuộc tiếp xúc Ngô Đình Nhu – Phạm Hùng. Người ta có thể hiểu rằng cuộc tiếp xúc này đã do Pháp dàn xếp sau khi thuyết phục ông Nhu. Nhiều tài liệu còn cho hay là ông Nhu còn gặp lại Phạm Hùng đầu năm 1963.
– Ngày 01 tháng 10 năm 1961 đại tá Hoàng Thụy Năm bị bắt cóc và bị giết. Sau này người ta được biết ông Hoàng Thụy Năm không bị cộng sản ám sát mà do ông Nhu ra lệnh giết.
Việc tìm kiếm một thỏa hiệp với Hà Nội có đúng hay không là một vấn đề có thể bàn cãi. Điều chắc chắn là nó rất trái ngược lập trường “diệt cộng” chính thức của chính quyền Ngô Đình Diệm; nó đã khiến Hoa Kỳ cảm thấy bị phản bội và quyết tâm lật đổ chế độ, nhất là sau khi hai ông Diệm và Nhu giết ông Hoàng Thụy Năm. Việc chính quyền Ngô Đình Diệm thiên vị Công giáo là có thật nhưng việc đàn áp Phật Giáo chỉ là lý cớ dàn dựng của người Mỹ để lật đổ ông Diệm. Việc Dương Văn Minh giết hai ông Diệm và Nhu sau khi họ đã đầu hàng rất có thể là theo chỉ thị của Mỹ. Khó có thể tưởng tượng Mỹ chấp nhận để hai ông sang Pháp và chống đối lại chính sách của họ tại Việt Nam.
Đây cũng là dịp để nhìn lại những nét chính của chế độ Ngô Đình Diệm.
  1. Nhận xét đầu tiên là người có quyền lực lớn nhất trong chế độ là ông Ngô Đình Nhu chứ không phải ông Ngô Đình Diệm. Chính ông Nhu đã vận động chính quyền Pháp để đưa ông Diệm lên cầm quyền và sử dụng ông Diệm như một biểu tượng.
  2. Ông Nhu, và ông Jacques Bénet, đã rất chủ quan và sai lầm khi nghĩ rằng ông Ngô Đình Diệm là một biểu tượng tốt. Quan điểm của tôi, như đã trình bày trong bài “Kinh nghiệm Ngô Đình Diệm”, là ông Ngô Đình Diệm không thể là một biểu tượng cho Việt Nam trong thời đại độc lập. Ông đã hợp tác tận tình với chế độ Pháp thuộc và đã tiếp tay đàn áp những người đấu tranh giành chủ quyền dân tộc. Ông, và cả ông Nhu, cũng không phải là người hùng biện và có viễn kiến để thu hút trí thức và quần chúng.
  3. Cách làm chính trị của ông Diệm và ông Nhu là cách làm chính trị nhân sĩ. Họ không xây dựng lực lượng đấu tranh mà chỉ vận động hành lang để được một thế lực ngoại bang đưa lên cầm quyền. Cách hoạt động chính trị này phải bị vất bỏ dứt khoát và vĩnh viễn. Kinh nghiệm Ngô Đình Diệm cho thấy rằng cách làm chính trị này dù có “thành công” trong nhất thời cũng chỉ là một tai họa cho đất nước và sau cùng cho chính mình. Chính vì không có tổ chức mà khi cầm quyền hai ông Diệm và Nhu đã phải dựa vào gia đình và một số người thân thuộc.
  4. Ông Nhu đã quá chủ quan khi nghĩ rằng có thể đánh lửa được dư luận Việt Nam và chính phủ Mỹ khi bề ngoài tỏ ra chống Pháp trong khi vẫn liên hệ mật thiết ngấm ngầm với Pháp. Sự chủ quan còn đi đôi với sự vụng về vì chính quyền Ngô Đình Diệm là một sự tiếp nối quá lộ liễu của chính quyền  bảo hộ Pháp. Tất cả các quyền lợi của Pháp đều được duy trì, con cái các cấp lãnh đạo cao cấp đều chỉ học trường Pháp, mọi viên chức thời Pháp thuộc đều được trọng dụng và thăng tiến, các đảng phái chống Pháp bị đàn áp, dù được nhân dân tôn kính, như Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt.
  5. Thống nhất quyền lực vào giai đoạn 1954 – 1955 là một chủ trương đúng nhưng tiêu diệt các lực lượng giáo phái như hai ông Diệm – Nhu đã làm là không đúng. Họ là những lực lượng có cơ sở quần chúng và cũng có bản chất dân tộc hơn những công chức, sĩ quan và hạ sĩ quan của bộ máy thuộc địa mà chính quyền Ngô Đình Điệm trân trọng và lưu dụng. Vấn đề là phải thuyết phục và giáo dục được họ, nhưng điều này vượt khả năng của các ông Diêm và Nhu, những người thuộc môi trường quan lại sống tách biệt với xã hội Việt Nam.
  6. Trái với quan điểm của một số người, ông Ngô Đình Nhu không có bản lĩnh chính trị cao. Chắc chắn ông có kiến thức chính trị cao hơn phần lớn những người lãnh đạo phe quốc gia cùng thời đại với ông, nhưng ông chưa có khả năng chính trị phải có ở tầm mức quốc gia. Chủ nghĩa nhân vị mà ông đề cao – và cũng không có dấu hiệu gì là đã hiểu – trên thực tế chỉ là một chủ nghĩa cá nhân lúng túng không dám tự xác nhận. Tôi đã có may mắn quen biết hai cộng sự viên gần gũi nhất của hai ông Diệm và Nhu tại Dinh Độc Lập trong suốt thời gia họ cầm quyền là đại tá Lê Văn Đức và giáo sư Tôn Thất Thiện. Cả hai đều xác nhận các tác phẩm của ông Nhu chỉ là những bài diễn văn của ông Diệm. Nhưng bài diễn văn này không có gì đặc sắc.
  7. Sai lầm và trách nhiệm lớn nhất của chế độ Ngô Đình Diệm là đã đàn áp các đảng quốc phái quốc gia. Các đảng này đã đóng góp xương máu giành độc lập dân tộc và chống lại cộng sản. Họ có sự chính đáng hơn hẳn ông Ngô Đình Diệm. Chỉ có hợp tác với họ mới có thể tranh thủ được sự ủng hộ của quần chúng.
  8. Nhiều người ca tụng hai ông Diệm và Nhu là có tác phong xứng đáng, có danh dự cao và đã dũng cảm bảo vệ bằng tính mạng lập trường của mình. Đúng là ông Diệm và ông Nhu đã có phong cách hơn hẳn nhưng người đã từng giữ vai trò lãnh đạo trong gần một thế kỷ qua trong cả hai phe quốc gia cũng như cộng sản. Tuy vậy cũng không thể quên là cuối cùng, khi thấy mình tuyệt vọng, họ đã đầu hàng nhóm tướng lãnh đảo chính để rồi bị giết. Mặt khác theo lời của ông Kenneth Todd Young, một viên chức cao cấp tại bộ ngoại giao Mỹ phụ trách về Châu Á, thì ông Trần Văn Chương, thân phụ bà Ngô Đình Nhu, đã cho hay là một tuần trước khi bị đảo chính hai ông Diệm và Nhu cũng đã có ý định đào thoát ra nước ngoài nhưng ý định này không được thực hiện vì sự chống đối dữ dội của bà Ngô Đình Nhu. Ông Diệm và ông Nhu không tuẫn quốc như nhiều người nghĩ. Họ đã lãnh đạo đất nước, đã không thành công và bị giết, sau khi chính họ cũng đã thủ tiêu nhiều người khác.
  9. Sau cùng nhân dịp này tôi thấy cần khẳng định dứt khoát một lần nữa là ông Ngô Đinh Nhu không liên quan gì tới cuốn Chính Đề Việt Nam. Tác giả cuốn sách này là ông Lê Văn Đồng một cựu công sự viên của hai ông Diệm và Nhu nhưng đã chia tay ngay từ năm 1957 vì bất đồng quan điểm. Khi tham gia Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên năm 1988  (lúc đó chưa có danh xưng chính thức THDCĐN) ông Lê Văn Đồng đã đem đến và trình bày cuốn Chính Đề Việt Nam. Chính chúng tôi đã làm photocopy và phổ biến tới một số thân hữu. Lúc đó ông Ngô Đình Luyện cũng sinh hoạt với chúng tôi và cũng có tham gia cuộc thảo luận về cuốn Chính Đề Việt Nam với ông Lê Văn Đồng, và không ai đặt nghi vấn về việc Tùng Phong là bút hiệu của Lê Văn Đồng cả. Giả thuyết ông Ngô Đình Nhu là tác giả cuốn sách này chỉ dựa trên dựa trên một sự kiện rất mỏng manh là ông Cao Xuân Vỹ nhớ lại rằng có lần ông Ngô Đình Nhu đã nhờ ông trao cho ông Lê Văn Đồng một tập tài liệu bằng tiếng Pháp mà ông không nhớ là gì. Từ đó mà suy luận rằng đó là bản tiếng Pháp của Chính Đề Việt Nam thì quả là quá phiêu lưu.
Một sự thực đáng buồn là cho tới này phần lớn những bài viết về chế độ Ngô Đình Diệm và anh em họ Ngô đều chỉ dựa vào một số sự kiện để phát biểu lập trường có sẵn của mình. Người bênh anh em họ Ngô thì viện dẫn mọi lý do – kể cả những lý do rất vu vơ như trong câu chuyện cuốn Chính Đề Việt Nam – để ca tụng, người ghét thì cũng tìm mọi lý cớ để đả kích, trong khi thái độ phải có là cố gắng hiểu rõ một giai đoạn lịch sử để có thể rút ra những kết luận đúng cho tương lai.
Giai đoạn Ngô Đình Diệm mới chỉ gần đây thôi. Còn khá nhiều tài liệu và nhân chứng. Nếu chúng ta không có nổi một sự hiểu biết chính xác thì những sử liệu về các giai đoạn trước có giá trị gì?
Nguyễn Gia Kiểng
(01/11/2015)
______
Phụ đính 1:
Thư của ông Ngô Đình Nhu gửi ông Jacques Bénet
H1
Le 20 Avril
Mon cher Bénet,
Merci infiniment de ta longue lettre du 8. C’est positivement étonnant cette unité de vue entre toi et moi sur tous les aspects du problème qui nous intéresse que cela touche les réalités politiques ou les hommes qui y participent, y compris mes frères, M. Khiêm ou tes compatriotes. C’est à croire que nous ne nous sommes pas quittés depuis 1949 et que nous travaillons côte à côte dans le même bureau sous la vigilance de ta Simone. C’est te dire combien je suis heureux de voir pareilles communion d’idées et de sentiments entre toi et moi, séparés par des milliers de kilomètres. C’est vrai qu’après avoir surmonté la crise Hinh nous nous apprêtions à démarrer avec l’affaires des sectes qui se présentait on ne peut plus favorablement. Malheureusement nous nous sommes coincés entre l’incompréhension française et l’inexpérience américaine: une différence d’appréciation sur l’opportunité de briser de façon ferme et décisive l’obstacle féodal pour libérer le pauvre peuple vietnamien et le rallier à nous. Depuis l’avènement du Président la grande pensée du gouvernement est de briser les deux obstacles, cercles de fer, qui séparaient le peuple du gouvernement progressite.  C’est l’armée “nationale” et “les sectes”. Nous avons gagné la première manche, nous espérons gagner la seconde, la belle sera alors les élections que nous sommes certains de gagner. Ajouté à cela ce “Temps harcelant” qui ne nous permet pas de musarder en chemin et de pratiquer la bonne vieille politique de compromis. L’heure est donc unique et décisive. Si nous ne réussissons pas à convaincre les responsables du Monde Libre pour qu’ils nous aident à neutraliser les colonialistes qui soutiennent les féodaux contre le gouvernement national nous irons à la catastrophe. Car le peuple vietnamien déçu définitivement nous abandonnera. Et le Monde Asiatique que nous avons travaillé ces derniers mois et qui commençait à s’impatienter avec nous, se détournera de nous, isolés alors en Asie et à la merci du Viet Minh. Car il ne faut plus recommencer l’expérience de 1945 – 1954. Soutenus seulement par le camp occidental nous sommes surs d’être battus par le communisme en Asie. Il faut avoir le soutien du peuple vietnamien et la sympathie du Monde Asiatique, pour que l’aide occidentale, dédouanée par la personalité du Président Ngô, puisse être utile, ayant reçu l’étiquette asiatique. Cette conception est bien comprise par des hommes intelligents et au courant des affaires d’ici, tels que M. M Roux (affaires étrangères), A Risterucci (Etats Associés). Il faut travailler de manière à ce que des instructions en ce sens qui sont, j’en suis persuadés, déjà prêtes soient envoyés d’urgence à Saigon. Le général Ely est un honnête homme, malheureusement il est de nature inquiet et pessimiste (voir affaire Hinh = armée coupée en deux, guerre civile et … si le Président touche à Hinh). Ce général est une espèce de “Docteur Tant Pis” qui voit tout en noir ou plutôt tout en rouge. Rappelle toi les velléités des communistes qui cherchaient à créer un état autonome en France à l’époque de la libération et que le gouvernement français n’a pas hésité à étouffé dans le sang. Il faut sacrifier quelques uns pour le bien de tous.
La France n’a pas eu jusqu’ici de politique en Indochine. C’est le moment ou jamais d’en avoir une.
A Dieu, cher ami, et merci pour tes conseils et encouragements. Je reste toujours le même sans quoi (les quelques mots de la fin sont illisibles, à moitié coupés lors de la photocopie)
Chuyển ngữ:
Ngày 20 tháng 4
Bénet thân,
Vô cùng cảm ơn mày về lá thư dài ngày 8. Thật ngạc nhiên một cách thú vị khi mày và tao đồng nhất quan điểm trên tất cả mọi mặt của vấn đề mà chúng ta cùng quan tâm, dù là về những thực tại chính trị hay về những người trong cuộc, kể cả các anh em tao, ông Khiêm (1) hay các đồng bào của mày. Cứ như là chúng mình chưa từng chia tay từ 1949 khi còn làm việc với nhau trong cùng một văn phòng dưới sự chăm sóc của bà xã Simone của mày. Để nói với mày rằng tao hân hoan tới mức độ nào về sự đồng cảm và đồng ý giữa mày và tao dù cách nhau hàng ngàn cây số. Đúng là sau khi đã vượt qua được cơn khủng hoảng Hinh (2) chúng ta bắt đầu giải quyết vấn đề các giáo phái trong những điều kiện không thể nào thuận lợi hơn. Rất tiếc là chúng ta bị kẹt giữa sự thiếu hiểu biết của Pháp và sự thiếu kinh nghiệm của Hoa Kỳ: đó là sự đánh giá khác nhau về cơ hội để đánh tan một cách quả quyết và dứt khoát trở ngại phong kiến để giải thoát dân tộc Việt Nam xấu số và để gắn bó họ với chúng ta. Từ ngày ông Chủ Tịch (3) lên cầm quyền,  chủ trương lớn của chính phủ là đập tan hai trở ngại, hai vòng sắt, tách biệt dân tộc Việt Nam với chính phủ Việt Nam cấp tiến, đó là quân đội “quốc gia” và các “giáo phái”. Chúng ta đã thắng trận đầu, chúng ta hy vọng sẽ thắng trận thứ hai, trận chung kết sẽ là cuộc bầu cử mà chúng ta tin chắc sẽ thắng lợi. Thêm vào đó là thời gian “thiêu đốt” không cho phép chúng ta nhởn nhơ trên đường đi hay làm những thỏa hiệp như thói quen. Thời điểm này vừa duy nhất vừa quyết định. Nếu chúng ta không thuyết phục được Thế Giới Tự Do giúp chúng ta vô hiệu hóa đám thực dân ủng hộ bọn phong kiến (4) chống lại chính quyền quốc gia chúng ta sẽ rơi vào thảm họa. Nhân dân Việt Nam sẽ thất vọng và vĩnh viễn bỏ rơi chúng ta. Và Thế Gìới Châu Á mà chúng ta đã vận động từ mấy tháng nay và đã bắt đầu có cảm tình với chúng ta sẽ quay lưng lại với chúng ta. Lúc đó chúng ta sẽ cô lập và khốn đốn với Việt Minh. Chớ nên lặp lại kinh nghiệm 1945-1954. Nếu chỉ được Phương Tây yểm trợ chúng ta chắc chắc sẽ thua cộng sản Châu Á. Phải tranh thủ được sự hưởng ứng của dân tộc Việt Nam và cảm tình của các nước Châu Á để viện trợ của Phương Tây, bạch hóa bởi nhân cách của Chủ Tịch Ngô, có thể hữu hiệu sau khi đã mang nhãn Châu Á. Quan điểm này đã được thấu hiểu nơi những  người thông minh và hiểu rõ hiện tình tại đây, như Ông M. Roux (bộ ngoại giao) ông Risterucci ( bộ Liên Hiệp Pháp). Phải vận động để những chỉ thị theo chiều hướng này, mà tao chắc chắn là đã chuẩn bị sẵn, được khẩn cấp gửi sang Sài Gòn (5). Tướng Ely là một người chân thật nhưng  bản tính lo âu và bi quan (nhìn vụ Hinh = quân đội chia đôi, nội chiến v.v. nếu ông Chủ Tịch đụng vào Hinh…). Ông tướng này là một loại “Bác sĩ Đành Vậy” nhìn cái gì cũng đen tối hay đúng ra đỏ rực. Mày hãy nhớ lại những toan tính của những người cộng sản Pháp muốn thành lập một nhà nước tự trị tại Pháp trong giai đoạn giải phóng (6), toan tính mà chính phủ Pháp đã không ngần ngại đập tan trong máu. Phải hy sinh một vài người vì lợi ích của mọi người.
Nước Pháp cho tới nay chưa có một chính sách Đông Dương, đây là cơ hội cuối cùng để có một.
Chào mày, thằng bạn thân. Cảm ơn mày về những lời khuyên và khích lệ. Tao vẫn là tao nếu không thì… (một vài chữ cuối cùng không đọc được vì bị cắt khi làm photocopy)
Chú thích:
Phạm Duy Khiêm, anh ruột nhạc sĩ  Phạm Duy, đaị sứ Việt Nam tại Pháp vào lúc đó, do ông Diệm bổ nhiệm.
1)  Tướng Nguyễn Văn Hinh (1913-2005), tổng tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam từ 1949, mâu thuẫn với thủ tướng Ngô Đình Diệm và bị cất chức. Ông trở lại phục vụ trong quân đội Pháp và lên đến cấp trung tướng, tham mưu trưởng lực lượng không quan chiến lược (nguyên tử) Pháp.
2)  Ông Ngô Đình Diệm lúc đó là thủ tướng và chủ tịch hội đồng bộ trưởng Quốc Gia Việt Nam.
3)  Ở đây ông Nhu muốn nói tới các nhóm giáo phái Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo được Bảo Đại bảo trợ. Sau khi các giáo phái đã bị dẹp thì từ “phong kiến” được chính quyền Ngô Đình Diệm dùng để chỉ chế độ quân chủ.
4)  Trong cuộc gặp gỡ với tôi cuối tháng 11-2004, với sự hiện diện của hai anh Trần Minh Châm và Nghiêm Văn Thạch, ông Bénet cho biết những chỉ thị đó nằm trong kế hoạch giúp ông Diệm gồm thu quyền lực về một mối, trước hết là giải tán quân đội của các giáo phái.
5)  Giai đoạn sau 1945 khi Paris được giải phóng, lực lượng võ trang của Đảng Cộng Sản Pháp rút về khu Rambouillet định thành lập một khu tự trị nhưng bị dẹp tan.
Phụ đính 2:
Thư của ông Jacques Bénet gửi bà Ngô Đình Nhu
H1
Jacques Bénet
5 rue Vavin, 75006 Paris                             Paris le 18 octobre 2004
Chère Madame,
Depuis que je suis passé vous voir chez vous, voici une dizaine de jours, j’ai remis la main dans “mes” papiers sur une lettre que vous m’avez adressée le 22 août 1976, vraisemblablement de Rome.
Je joins à ce courrier l’original de cette lettre. Vous y faites état de ce que je vous ai annoncé que j’avais retrouvé le dossier confié par vous en 1963.
En 1976 j’étais fonctionnaire en poste au Ministère de la Coopération et  j’ai pris mon congé annuel en juillet ou en août. J’avais repris mon service au plutard au 1er Septembre.
Il n’est pas pensable que votre fils Quỳnh ne soit pas parvenu à me joindre pour que je lui remette ce dossier chez moi ou à Suffren.
Et, pourtant, il ne semble pas vous être parvenu ce dossier puisque vous le demandez maintenant. Mystère total, dans le quel je ne suis pas le seul impliqué!
Je comprends maintenant que ce dossier que je vous ai remis la semaine dernière n’ait  pu vous satisfaire.
Il a vraisemblablement été constitué par des copies de lettre anciennes, datées de la période 1963 – 1964, mais que vous m’avez remises par la suite en même temps que les copies de lettres à Andréotti et au Pape qui ont été écrites par vous plus tardivement.
Dans la période de 1976 à 1980, où je venais de me remarier, j’ai envoyé en Normandie quelques meubles, objets, livres ou documents, parce que je remettais à neuf mon appartement et que les documents, que je vous ai remis l’autre jour, après les avoir récupérés en Normandie ont dû m’apparaître dans ces années 1976 -1980 comme des documents “pour mémoire” sans utilisation immédiate possible et ne contenant pas d’nformations “brûlantes”.
Vous m’avez dit lors de cette dernière recontre que vous aviez trouvé “désinvolte” la réponse que je vous aurais faite lorsque, pour la première fois, vous m’avez redemandé le dossier confié fin 1963.
Je ne me rappelle pas avoir eu envers vous, cette fois là ou une autre, une attitude de désinvolture. Mais si vous en gardez le souvenir c’est que je vous ai paru alors effectivement “désinvolte”. Et je vous pris de bien vouloir m’en excuser.
Mais j’ai remarqué depuis de nombreuses années que, de votre côté, vous avez fait montre d’une désinvolture certaine, vis-à-vis du président Ngô Đình Diệm, de votre mari, de moi-même et de quelques autres en ne vous souciant jamais de savoir comment le futur président Ngô Đình Diệm avait accédé au pouvoir en 1954!
La Providence, certes oui, car Dieu gouverne toutes choses, mais il se sert bien souvent de modestes relais humains pour concrétiser ses desseins.
Or votre mari, Ngo Dinh Nhu, a eu l’intuition géniale – dictée bien sûr par la Providence – que le moment était arrivé, en mars 1954 pendant la bataille de Đien Bien Phu, d’essayer de convaincre le gouvernement français d’alors (gouvernement Laniel – Bidault – Reynaud), qui disposait encore de quelques atouts déterminants quant au destin de l’ancienne Indochine pour permettre d’urgence la venue au pouvoir de son frère, Monsieur Ngo Đinh Diem, personnalité nationaliste vietnamienne d’une réputation sans tâche et d’une notoriété évidente, afin de prendre la tête du gouvernement vietnamien non communisé.
Du même coup, Nhu décide l’envoi à Paris pour facilité la prise de contact avec le gouvernement français son camarade du combat nationaliste Tran Chanh Thanh – revenu totalement de ses illusions communistes. La mission première que Nhu donne à Tran Chanh Thanh est de me joindre afin que je l’aide à faciliter cette prise de contact. Nhu, que j’ai reçu à la maison à Paris en 1949 avant le décès de ma première femme, savait que je disposais de relations avec divers hommes politique français.
Une lettre personnelle de Nhu m’annonce d’ailleur la mission de Thành.
Bien que vous n’aimiez guerre Trân Chánh Thành, ce dernier s’est révélé être, lui aussi, un homme “providentiel”, dans la chaine de ceux qui ont permis, en fin de compte, à Monsieur Ngo Dinh Diem d’être reçu successivement par le président Laniel et par le Ministre des Affaires étrangères Georges Bidault.
Il s’est trouvé, entre temps, que j’ai été moi aussi, “providentiellement”, un maillon indispensable dans la chaine qui a conduit à ce fait.
Ma confiance totale en mon cher ami Nhu et la certitude acquise par moi qu’il était plus que temps, en ce moment de 1954, de voir conférer au Vietnam non communiste son indépendance totale, jointes à l’évidence que Monsieur Ngo Đinh Diem était bien l’homme “providentiel” pour assumer la charge de diriger cette indépendance, m’avaient déterminé à agir.
Et j’ai pu passer toute ma conviction à un de mes meilleurs amis français, Antoine Ahon, qui avait ses entrées personnelles au cabinet au Président René Laniel par le directeur de cabinet, le préfet Germain Vidal, et auprès du Secrétaire d’Etat à la Présidence Bougenot passé directement sous les ordres du Président Laniel. Mon ami Ahon, d’autrepart, connaissait bien personnellement le Ministre des Affaires Etrangères Georges Bidault.
Homme “providentiel”  à son tour, Antoine Ahon a été l’introducteur parfait de Trân Chánh Thành auprès des deux personalités précitées du cabinet du Président Laniel et auprès de Geoges Bidault.
L’intelligence, la fidélité et le sens de l’efficacité de Trần Chánh Thành des ont fait l’essentiel du reste. En plusieurs entretiens espacés de la fin mars à la mi mai 1954 il a eu loisir d’exposer la situation d’alors au Vietnam, d’un authentique point de vue nationaliste vietnamien, et les qualités exceptionnelles de Monsieur Ngô Đình Diêm pour assurer le pouvoir au Vietnam du Sud en ces temps particulièrement critiques.
C’est ainsi que le Président Laniel et le Ministre Bidault accueillirent, dans les meilleures dispositions d’esprit Monsieur Ngô Đinh Diêm.
Et, “providentiellement” encore, ces deux personalités responsables, après hésitation et réflexion, comprirent que, à l’approche de la chute de leur gouvernement, il s’imposait pour sauver le Vietnam en grand danger d’engloutissement dans le Monde Communiste, et tenter de la sorte de préserver les futures relations franco-vietnamiennes d’obtenir d’urgence de l’empereur Bao Đai, encore officiellement Chef d’Etat du Vietnam la nomination de Ngo Đinh Diem à la tête du gouvernement vietnamien.
Cela fut fait par décret de Bao Đai pris au début de juin 1954, quelques jour seulement avant que le gouvernement Laniel – Bidault – Reynaud fasse place au gouvernement Mendès France.
Cela fut possible parce que le gouvernement français d’alors disposait vis-à-vis de Bao Đai, particulièrement de divers moyens de pression déterminants.
Et cette décision, qui fut majeure et “providentielle” pour le Vietnam n’aurait jamais été prise par le gouvernement Mendès France totalement sous l’influence de courants politiques français décidés à s’en tenir à la lettre des accords de Genève de juin 1954 qui envisageaient la tenue d’élections législatives étendues à tout le Vietnam, Nord et Sud.
De telles élections auraient abouti, selon toute vraisemblance, à installer le pouvoir communiste, dès ce moment là sur tout le Vietnam, fermant  toute perspective à Ngo Đinh Diem d’accéder un jour au pouvoir.
Ce dernier étant tellement convaincu de cela qu’il est venu chez moi me remercier de mes efforts et de ceux de mon ami Ahon, au cours des quelques jours qui ont séparé la sortie du décret de Bao Đai de son départ en avion pour rejoindre son poste à Saigon
J’en suis toujours à m’étonner, chère Madame, que vous n’ayez jamais cherché à connaître le processus de l’ascension au pouvoir du Président Ngo Đinh Diem.
Il est vrai que mon ami Nhu était particulièrement discret. Mais une épouse décidée ne parvient-elle pas généralement à percer les secrets entretenus par son mari?
Je vous prie d’agréer, chère Madame, l’expression de ma très respectueuse considération.
(Signature de Jacques Bénet)
Ci-joint votre lettre du 22 août 1976
Chuyển ngữ:
Jacques Bénet
5 rue Vavin, 75006 Paris                             Paris le 18 octobre 2004
Thưa Bà,
Từ khi tới gặp Bà tại tư gia cách đây khoảng mười hôm tôi đã tìm lại được trong những giấy tờ “của tôi” một thư Bà đã gửi cho tôi ngày 22 tháng 8-1976, có lẽ từ Rome.
Tôi gửi kèm theo thư này bản chính của thư đó. Bà viết trong thư rằng tôi đã thông báo với Bà là đã tìm lại được tập hồ sơ Bà đã giao cho tôi năm 1963.
Năm 1976 tôi còn là công chức ở bộ Hợp Tác và tôi nghỉ hè tháng 7 hoặc tháng 8. Tôi đi làm trở lại trễ lắm là ngày 01 tháng 9.
Khó có thể nghĩ là anh Quỳnh con trai Bà lại không thể liên lạc được với tôi để tôi trao lại tập hồ sơ này, tại nhà tôi hay tại Suffren.
Và dầu vậy tập hồ sơ này đã không tới tay Bà, bằng chứng là bây giờ mà còn hỏi tôi. Bí ẩn hoàn toàn, trong đó tôi không phải là người liên can duy nhất!
Bây giờ tôi hiểu là tập hồ sơ mà tôi đã trao cho Bà tuần trước đã không làm Bà hài lòng.
Nó có lẽ gồm những bản sao của các thư cũ, viết trong giai đoạn 1963 – 1964, mà Bà đã trao cho tôi sau đó cùng lúc với các bản sao các thư gửi Andreotti và Đức Giáo Hoàng do Bà viết sau đó.
Trong những năm từ 1976 đến 1980, lúc tôi vừa tái hôn, tôi đã gửi đi Nordmandie một số giường tủ, vật dụng, sách và tài liệu vì tôi tân trang căn hộ của tôi, và những tài liệu mà tôi trao lại Bà hôm trước sau khi tìm thấy tại Nordmandie có vẻ là những tài liệu mà trong giai đoạn 1976 -1980 tôi cho là chỉ “giữ để nhớ” chứ không có công dụng tức khắc nào. Và không chứa đựng một dữ kiện “nóng hổi” nào.
Bà đã nói với tôi trong lần gặp cuối rằng Bà thấy tôi đã trả lời Bà một cách “vô tư” khi lần đầu tiên Bà yêu cầu tôi hoàn lại tập hồ sơ mà Bà đã nhờ tôi giữ hộ năm 1963.
Tôi không nhớ đã có thái độ vô tư đối với Bà lúc đó hay một lúc nào khác. Nhưng nếu Bà vẫn còn nhớ như vậy thì chắc là tôi phải đã tỏ ra vô tư. Và tôi xin Bà thứ lỗi cho.
Tuy nhiên tôi đã nhận thấy từ nhiều năm rồi chính Bà tỏ ra rất vô tư đối với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đối với chồng Bà, đối với chính tôi và đối với vài người khác khi không bao giờ chịu tìm hiểu vào năm 1954 vị tổng thống tương lai Ngô Đình Diệm đã lên cầm quyền như thế nào.
Dĩ nhiên là do Chúa muốn (1), bởi vì Chúa điều khiển tất cả, nhưng Người cũng dùng những con người làm những trung gian khiêm tốn để cụ thể hóa ý muốn của Người.
Vì thế mà chồng Bà, Ngô Đình Nhu, đã có trực giác thiên tài, chắc chắn do Chúa khiến, là đã đến lúc, vào tháng 3-1954, khi trận Điện Biên Phủ đang diễn ra, để thử thuyết phục chính phủ Pháp  (chính phủ Laniel –Bidault – Reynaud) lúc đó vẫn còn một vài con bài quyết định đối với số phận của Đông Dương cũ để khẩn cấp đưa anh mình là ông Ngô Đình Diệm, một nhân vật quốc gia không vẩn gợn và có uy danh rõ rệt, lên cầm dầu chính phủ Việt Nam không cộng sản.
Cùng lúc Nhu quyết định gửi sang Paris người chiến hữu quốc gia của mình là Trần Chánh Thành – vừa hoàn toàn hồi phục khỏi những ảo tưởng cộng sản- để tiếp xúc với chính phủ Pháp. Sứ mạng đầu tiên mà Nhu giao phó cho Trần Chánh Thành là tìm gặp tôi để nhờ tôi giúp bắt liên lạc. Nhu đã từng tới nhà tôi năm 1949 trước khi người vợ đầu của tôi qua đời và biết rằng tôi có quan hệ với nhiều chính khách Pháp.
Nhu có viết thư riêng cho tôi báo trước chuyến công tác của Thành.
Dù Bà không ưa Trần Chánh Thành, ông này đã tỏ ra là một người “Chúa ban” trong chuỗi sự kiện đã khiến ông Ngô Đình Diệm tuần tự được thủ tướng Laniel và bộ trưởng ngoại giao Bidault tiếp.
Tình cờ là trong thời gian đó chính tôi cũng “do ý Chúa” đã là một mắt xich không có không được trong diễn tiến dẫn tới kết quả này.
Lòng tin hoàn toàn vào bạn Nhu và nhận định chắc chắn là tình thế đã quá chín muồi vào thời điểm đó, 1954, để trả lại độc lập hoàn toàn cho Việt Nam, cùng với điều hiển nhiên là ông Ngô Đình Diệm đúng là nhân vật “Chúa khiến” để lèo lái nền độc lập này, đã thúc đẩy tôi quả quyết hành động.
Và tôi đã chia sẻ được lòng tin của mình với một trong những người bạn Pháp thân nhất của tôi, ông Antoine Ahon,  một người có liên hệ mật thiết với văn phòng Chủ Tịch  René Laniel (1), qua trung gian của ông chủ nhiệm văn phòng, tổng đốc Germain Vidal, và có liên hệ với bộ trưởng tại phủ chủ tịch Bougenot, trực tiếp dưới quyền Chủ Tịch Laniel. Anh bạn Ahon, mặt khác cũng quen thân với bộ trưởng ngoại giao Georges Bidault.
Cũng là một người “Chúa khiến”, Antoine Ahon đã là người trung gian tuyệt vời cho Trần Chánh Thành với hai nhân vât kể trên (Vidal và Bougenot) trong văn phòng Chủ Tịch Laniel và Geoges Bidault.
Trí thông minh, sự trung thành và giác quan hiệu quả của Trần Chánh Thành đã là hoàn thành cốt lõi phần còn lại. Qua nhiều trao đổi trong thời gian từ cuối tháng 3 đến giữa tháng 5-1954 ông ta đã trình bày tình trạng Việt Nam lúc đó với nhãn quan quốc gia chân chính cũng như những đức tính xuất chúng của ông Ngô Đình Diệm để cầm quyền tại miền Nam Việt Nam trong giai đoạn khẩn trương này.
Chính vì thế mà chủ tịch Laniel và bộ trưởng Bidault đã tiếp ông Ngô Đình Diệm một cách thuận lợi.
Và cũng nhờ “ơn Chúa”, hai vị lãnh đạo này, sau khi đắn đo suy nghĩ đã hiểu rằng, vào lúc chính quyền chính phủ của họ sắp đổ, bắt buộc phải cứu Việt Nam đang đứng trước hiểm họa lớn là bị nuốt trửng vào Thế Giới Cộng Sản, và phải cố cứu vãn quan hệ Pháp Việt bằng cách khẩn cấp khiến Hoàng Đế Bảo Đại, lúc đó vẫn còn là quốc trưởng Việt Nam chính thức, bổ nhiệm Ngô Đình Diệm đứng đầu chính phủ.
Điều này đã được thực hiện bằng dụ (sắc luật) của Bảo Đại đầu tháng 6-1954, chỉ vài ngày trước khi chính phủ Laniel –Bidault – Reynaud bàn giao quyền hành cho chính phủ Mendès France.
Điều này đã có thể thực hiên được vì chính quyền Pháp lúc đó có nhiều phương tiện để gây áp lực quyết định trên Bảo Đại (2).
Và quyết định tối quan trọng và “theo ý Chúa” này đối với Việt Nam chắc chắn đã không thể có với một chính phủ Mendès France hoàn toàn chịu ảnh hưởng của khuynh hướng chính trị Pháp đòi thực hiện y chang Hiệp Định Genève tháng 6-1954, theo đó sẽ có tổng tuyển cử trên toàn cõi Việt Nam, Bắc cũng như Nam.
Cuộc tổng tuyển cử này hầu như chắc chắn sẽ dẫn tới kết quả là thiết lập chế độ cộng sản trên cả nước Việt Nam và triệt tiêu mọi hy vọng cầm quyền của Ngô Đình Diệm.
Ông này đã hiểu rất rõ như vậy nên ông đã đến nhà tôi để cảm ơn tôi và bạn Ahon của tôi trong khoảng thời gian vài ngày từ khi ông được Bảo Đại bổ nhiệm đến khi ông lên máy bay về Sài Gòn nhận chức.
Tôi luôn luôn ngạc nhiên tại sao Bà chưa bao giờ bận tâm tìm hiểu tiến trình đã đưa Tổng Thống Ngô Đình Diệm lên cầm quyền.
Đúng là anh bạn Nhu của tôi rất kín đáo. Nhưng một người vợ quyết tâm không lẽ lại không khám phá ra được những bí mật của chồng mình?
Xin gửi Bà lời chào rất trân trọng.
(ký tên Jacques Bénet)
Đính kèm thư của Bà ngày 22 tháng 8-1976
Chú thích:
1)  Bà Ngô Đình Nhu tin rằng việc ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền là hoàn toàn do ý Chúa.
2)  Nước Pháp lúc đó theo chế độ đại nghị, thử tướng là chủ tịch hội đồng bộ trường.
3)  Khi tôi hỏi ông trong bữa ăn trưa cùng với hai anh Trần Minh Châm và Nghiêm Văn Thạch áp lực nào thì Jacques Bénet mỉm cười nói rằng Bảo Đại ăn chơi cờ bạc nên luôn luôn có nhiều vấn đề, kể cả tài chính.
___
Mời xem lại: Tại sao phải giết Tổng thống Ngô Đình Diệm? (RFA). – Tư tưởng độc lập của hai vị tiên sinh họ Ngô (BS).

(SH - bấm vào để đọc bài "Nhìn Lại Giai Đoạn Ngô Đình Diệm")
Nguồn http://hoangnamgiao.blogspot.com/2015/11/nhin-lai-giai-oan-ngo-inh-diem-nguyen.html

 
 

No comments:

Post a Comment