Saturday, August 23, 2014
TRẦN HỒNG TÂM * TAY CHƠI HỒ CHÍ MINH
Tay chơi Hồ Chí Minh Đem chuyện cô Xuân trở lại bàn
© Trần Hồng Tâm
Nghi án Nông Thị Xuân xảy ra cách đây đã 57 năm, nhưng nó vẫn là một bóng ma, im lìm trong bóng tối. Mọi ngả tìm kiếm đều bị chặn, mọi cách nhận thực bị bóp chết. Linh hồn oan khuất của cô Xuân dường như đã tàn phai trong ký ức người đời, trong khi “đạo đức của Bác” vẫn được rao giảng mỗi ngày.
Gần đây tôi được đọc tài liệu phân tích đặc điểm và tính cách của cố
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một trong những tài liệu này là cuốn “Trần Đức
Thảo-Những Lời Trăng Trối” của Tri Vũ – Phan Ngọc Khuê. Tôi giận mình vì
những nhận thức trước đây của mình phiến diện quá. Vậy, thử vận dụng
những gợi ý của triết gia Trần Đức Thảo để phẫu tích, hy vọng có một góc
nhìn khác về nghi án này.
Đây là vụ đại hình sự mà Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật có
liên quan trực tiếp. Bạn đọc đã biết rõ nội dung nghi án, nhưng để có
cái nhìn khái quát về nó, xin nhắc lại những sự kiện chính theo trật tự
thời gian.
Trước 1954, khi còn trên chiến khu Việt Bắc, Hồ Chí Minh nhận cô Nông
Thị Xuân làm con nuôi. Đến đầu năm 1955, cô Xuân, 22 tuổi, được đưa về
Hà Nội để gần Bác. Cô Xuân cùng nguời em Nông Thị Vàng tạm trú tại căn
nhà 66 phố Hàng Bông, dưới sự quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Công An
Trần Quốc Hoàn.
Mỗi tuần đôi ba lần ông Hoàn đưa cô Xuân vào Phủ Chủ tịch ngủ qua đêm
với Bác. Ông Hoàn cũng nhiều lần cưỡng dâm cô Xuân. Cuối năm 1956, cô
Xuân sinh con trai. Bác đặt tên con là Nguyễn Tất Trung. Khoảng thời
gian này cô Xuân ngỏ lời với Bác là muốn công khai mối quan hệ, và dọn
vào Phủ Chủ tịch ở hẳn với Bác như vợ chồng. Bác bảo để Bác hỏi ý kiến
Bộ Chính trị.
Vài tháng sau, rạng sáng ngày 12 tháng 2 năm 1957, người ta thấy cô
Xuân chết trên đường Cổ Ngư, gần dốc Chèm, ngoại thành Hà Nội, hiện
trường là một tai nạn giao thông.
Giám định tử thi được làm tại bệnh viện Việt – Đức, Hà Nội gợi ý: Nạn
nhân chết do búa đập vào sọ não, dịch não tủy và nhu mô não đã mất hết.
Âm đạo không có tinh trùng, tinh dịch, nạn nhân không có dấu hiệu bị
cưỡng dâm. Dạ dày không có thức ăn, không có độc tố. Lục phủ ngũ tạng
bình thường. Toàn thân không có dấu hiệu của một tai nạn giao thông.
Câu hỏi đầu tiên được đặt ra. Đây có thực sự là một tai nạn giao thông không? Không quá khó để trả lời câu hỏi này.
Một phụ nữ trẻ mới sinh con, đang thời kiêng cữ, không phương tiện đi lại, giữa đêm khuya, một mình đi bộ ra vùng ngoại thành xa vắng là rất khó để thuyết phục dư luận về địa điểm và hoàn cảnh xảy ra tai nạn.
Hơn nữa, nếu là tai nạn giao thông, thủ phạm cán chết người rồi lái xe trốn thoát, vết bánh xe còn in lại ở hiện trường. Đây là trọng án. Tại sao không công khai điều tra đến nơi đến chốn? Tại sao phải dấu đút, lén lút, khuất tất, dìm thông tin vào trong bóng tối?
Hơn 20 năm sau, thân nhân của cô Xuân dấn thân đi tìm công lý, vẫn tiếp tục bị ém. Cùng với những gợi ý của pháp y, chúng ta tin rằng đây là một một tai nạn giao thông dàn dựng.
Vậy thủ phạm là ai?
Cho đến nay, dư luận hướng tới ba giả thuyết.
1. Trần Quốc Hoàn bí mật thủ tiêu cô Xuân để bịt đầu mối hiếp dâm. Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị không biết.
2. Trần Quốc Hoàn thủ tiêu cô Xuân có sự đồng ý của Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị.
3. Trần Quốc Hoàn thủ tiêu cô Xuân dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh. Bộ Chính trị không biết.
Giả thuyết thứ nhất được nhiều người ủng hộ hơn cả. Song những bằng chứng để bảo vệ giả thuyết này thì rất yếu.
Vào thời điểm 1957, Hồ Chí Minh đang ở đỉnh cao của quyền bính. Các Ủy viên Bộ Chính trị đều rất sợ ông. Trần Quốc Hoàn lúc đó ở cuối trong bậc thang quyền lực, càng sợ Hồ Chí Minh hơn ai hết. Hoàn không dám lộng hành đến mức cưỡng dâm vợ chưa cưới của Hồ Chí Minh và càng không thể một mình tự ý thủ tiêu cô. Vì những hành vi trên là đồng nghĩa với vuốt mặt không nể mũi, sỉ nhục Hồ Chí Minh, nếu không nói đó mầm mống của phản loạn, phản bội, hay khiêu binh. Sớm muộn gì Bộ Chính trị và Hồ Chí Minh cũng biết.
Những năm sau đó, Hồ Chí Minh không những không quan tâm mà còn trục xuất đứa con trai sơ sinh Nguyễn Tất Trung ra khỏi Hà Nội.
Như vậy Hồ Chí Minh có ý định xóa bỏ mọi dấu vết của mối quan hệ lạm dụng tình dục núp duới danh nghĩa con nuôi. Không có chuyện Hoàn hành động độc lập.
Giả thuyết thứ hai: Hồ Chí Minh có mang chuyện cô Xuân để hỏi Bộ Chính trị không?
Ở vào thời điểm 1957, một đảng viên bình thường mà có quan hệ tình dục trước hôn nhân có thể bị kỷ luật nặng đến mức khai trừ ra khỏi đảng. Hồ Chí Minh hiểu rõ điều luật, không dại gì ông mang chuyện này ra trước tập thể.
Hồ Chí Minh không bao giờ muốn lấy cô Xuân làm vợ. Nếu ông muốn thì
ông đã có kế hoạch từ khi cô Xuân có thai ở những tháng đầu. Cách ông
trả lời cô Xuân để “xin ý kiến Bộ Chính trị” chỉ là kế hoãn binh, hay
nói trắng ra là một sự sự quanh co, một lời từ chối.
Bộ Chính trị cũng không muốn Hồ Chí Minh lấy vợ. Bởi vì, nếu Hồ Chí
Minh lấy vợ là tất cả những gì mà Đảng và Bác cùng đầu tư để dựng lên
những “huyền thoại” có nguy cơ mất cả vốn lẫn lời.
Trần Đức Thảo gợi ý. Vì không được học hành bài bản như Trần Phú, Lê
Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, hay Trường Chinh, nên Hồ Chí Minh đã dựng lên
ngọn cờ “Giản dị”, “Đạo đức”, dùng ngọn cờ này như một thứ vũ khí hạ
gục mọi đấu thủ, chỉ có Trường Chinh sống sót, Nếu mang vụ cô Xuân ra Bộ
Chính trị, thì huyền thoại “Giản dị ” và “Đạo đức”của ông bỗng chốc tan
thành mây khói. Đó là điều không bao giờ ông muốn.
Thêm nữa, Hồ Chí Minh nhiều tuổi hơn cô Xuân, hơn đến trên 40 tuổi.
Điều này rất khó chấp nhận trong một xã hội bảo thủ miền Bắc ở thời điểm
đó. Ông đủ thông minh để tránh, không trở thành tấn trò cười cho thiên
hạ.
Tóm lại, giả thuyết Hồ Chí Minh mang chuyện lấy cô Xuân làm vợ ra bàn thảo ở Bộ Chính trị là không thuyết phục.
Vậy câu hỏi tiếp theo sẽ là: Hồ Chí Minh có xin ý kiến Bộ Chính trị để thủ tiêu cô Xuân không?
Hồ Chí Minh thừa thông minh để ý thức rằng nếu ông đồng ý thủ tiêu cô
Xuân nghĩa là ông đang tham gia vào một tội phạm mà ông là chủ mưu.
Càng ít người biết bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nếu mang ra bàn bạc
trong Bộ Chính trị, lỡ có một hay vài ủy viên không đồng ý, thì có khác
gì vạch áo cho người xem lưng. Bởi vì, nếu Bộ Chính trị biết thì Ban
Chấp hành Trung ương sẽ biết. Từ đó có nguy cơ lan rộng ra toàn Đảng và
toàn dân.
Như vậy, chỉ còn lại giải thuyết thứ ba: Hồ Chí Minh đồng ý cho Trần
Quốc Hoàn thủ tiêu cô Xuân, vừa giữ được thanh danh, lại vừa trút bỏ
được của nợ, một gánh nặng mà ông chẳng tha thiết gì với nó nữa, vừa
tiện lợi vừa kín đáo.Trần Đức Thảo nhận xét rằng: Cụ Hồ là một nhân vật vô cùng phức tạp, muôn mặt với trăm phương, ngàn kế, mưu trí, sắt đá đến mức vô cảm, vô tình, không cần tình bạn, tình yêu, gia đình hay con cái, khi nào cũng hun đúc một cuồng vọng là phải leo lên đến tột đỉnh của quyền lực.
Hồ Chí Minh không chấp nhận bất cứ một thứ gì cản trở ông nắm giữ quyền lực tối cao, mà thứ đó lại là đàn bà thì càng không thể.
Chỉ cần ở ông một cái gật đầu, thâm chí im lặng bộc lộ sự đồng ý, thì
mọi việc sẽ êm thắm. Ông không phải vung tay nện búa vào đầu người đàn
bà mà ông từng ăn nằm. Ông không phải nghe những lời van xin, lạy lục
của cô con nuôi trong phút lâm chung. Ông không phải tận mắt nhìn thấy
cảnh tượng hãi hùng, máu lênh láng, dịch não tủy và óc vọt ra sau mỗi
nhát búa. Ông không phải đối diện với cảnh cô Xuân vùng vẫy, giãy giụa
bản năng trong cơn hấp hối. Ông cũng không phải vất vả, vác thi thể nạn
nhân lên xe, lần mò trong đêm tối, tìm một hiện trường để ngụy trang.
Danh dự và danh vọng của ông vẫn nguyên vẹn, tiện lợi vô cùng, kết quả thì vô tận. Đó là cách mà Hô Chí Minh thường lựa chọn.
Triết gia Trần Đức Thảo sau nhiều năm quan sát, nghiền ngẫm đã nhận
xét: Cụ Hồ quyết tâm nắm bắt mọi cơ hội để đạt tới đỉnh cao, để củng cố
quyền lực, bằng mọi giá, dùng mọi phương tiện, không trừ, không tránh
một thứ gì, bất chấp mọi chuẩn mực về lương tri, lương thiện, về đạo lý,
hay pháp lý, miễn là đạt được ý đồ.
Trong đầu Hồ Chí Minh đầy ắp những tham vọng, cuồng vọng về quyền lực
tối cao, là bề trên, là đấng thiêng liêng, là huyền thoại, là thần
thoại. Ông là mẫu mực, là hiện thân của mọi giá trị tuyệt đối, tuyệt đối
trong sáng, tuyệt đối giản dị, tuyệt đối cao thượng, tuyệt đối thanh
bạch, tuyệt đối sáng suốt, tuyệt đối đúng đắn, tuyệt đối chí thánh… Chí
Minh…Để những người xung quanh tuyệt đối kính nể, sợ hãi, tụng ca, tuân
lệnh, sùng bái, tung hô.
Để củng cố những giá trị tuyệt đối này thì việc thủ tiêu cô Xuân là
chuyện dễ hiểu. Ông không thể là người bình thường, không thể tầm
thường, và càng không thể có những cám dỗ dục vọng thấp hèn. Ông phải ở
tầm tuyệt đối cao thượng, nhân ái hơn cả Đấng Bồ tát, nhân bản hơn cả
Chúa Giê-su, tâm hồn ông cao muôn trượng, quyền năng của ông ở muôn nơi,
nhân loại chỉ là “loài dơi hốt hoảng, đêm tàn bay chập choạng dưới chân
Người”. Như vậy ông mới thỏa lòng, thỏa chí.
Ngoài cô Xuân còn hai nạn nhân nữa là Nông Thị Vàng, em gái, và Nguyễn Tất Trung, con trai sơ sinh của cô Xuân.
Cô Vàng ở cùng căn nhà 66 Hàng Bông, chứng kiến những gì đã xảy ra.
Vàng còn quá trẻ, người dân tộc thiểu số, lớn lên ở vùng núi Cao Bằng,
lại phải đối diện với một thảm kịch bất ngờ, bị bủa vây bởi những trùm
mật thám lành nghề, máu lạnh. Vài tháng sau ngày cô Xuân chết, người ta
cũng tìm thấy xác Vàng nổi lên ở cầu Hoàng Bồ, sông Bằng Giang, và cũng
bị đập vỡ sọ như người chị xấu số của mình.
Còn Nguyễn Tất Trung mới vài tháng tuổi đã bắt đầu lưu lạc cho đến
khi Hồ Chí Minh qua đời vào tháng 9 năm 1969, Vũ Kỳ là thư ký riêng của
Bác, đón Trung về Hà Nội. Trung lập gia đình với cô Lưu Thị Duyên vào
năm 1988. Hai người có một con trai sinh năm 1992, đặt tên là Vũ Thanh,
lấy họ của ông Vũ Kỳ, nhưng sau thì đổi là Nguyễn Thanh Trung.
Nếu giả thuyết trên đây là đúng và nếu Việt Nam là một quốc gia pháp
quyền, thì Hồ Chí Minh phải đối mặt với ít nhất bốn tội danh: Dùng quyền
lực để sách nhiễu tình dục; giết chết hai người có chủ ý; vô trách
nhiệm với con.
Còn muôn vàn những câu hỏi xung quanh nghi án này.
Cô Xuân sinh Nguyễn Tất Trung ở đâu? Nhà hộ sinh hay ở bệnh viện? Ai
là người đỡ đẻ cho cô Xuân? Thi thể cô Xuân mai táng ở đâu? Ai là người
chôn cất cô? v.v
Tại sao ông Vũ Kỳ lại đưa Nguyễn Tất Trung về Hà Nội sau khi Hồ Chí
Minh qua đời? Vũ Kỳ có liêm sỉ, ông hiểu rằng lịch sử sẽ phán xét rất
nghiêm khắc. Lẽ nào, ông lại im lặng? Bởi, im lặng trước tội phạm sẽ trở
thành tòng phạm.
Thực ra, sự kham khổ, chịu đựng, chay tịnh, thanh bạch, giản dị như
một đấng chân tu của Hồ Chí Minh chỉ là những huyền thoại được thêu dệt,
đánh bóng, sơn son thếp vàng khá công phu. Những tài liệu gần đây hé
lộ, Bác có một đời sống tình dục rất phóng túng ngay khi còn ở chiến
khu, nói gì đến việc đã dọn vào Phủ Toàn quyền ở Hà Nội. Vậy, sau cô
Xuân, Hồ Chí Minh còn quan hệ tình dục với bao nhiêu phụ nữ nữa, họ là
ai và số phận của họ ra sao vẫn là những ẩn số của lịch sử.
Tại sao Nguyễn Tất Trung lại không âm thầm đi tìm mộ mẹ để hương khói
hay giỗ chạp, để an ủi cầu siêu cho linh hồn người mẹ và người dì bạc
phận, hay thăm lại gia đình ông bà ngoại trên Cao Bằng? Đó là chưa nói
đến việc dấn thân đi tìm công lý cho mẹ cho dì, và đòi lại căn cước cho
chính mình.
Cả hai dòng họ Nguyễn Sinh và dòng họ Hồ ở Nghệ An đang túa ra bốn
phương tìm kiếm, kêu gọi những người con đã làm rạng danh cho tổ tiên.
Vậy, Nguyễn Tất Trung, và Nguyễn Thanh Trung (Vũ Thanh) có được nhìn
nhận là những người con trai của dòng họ này không?
Muôn vàn những nghi vấn, và muôn vàn giả thuyết, chập chờn như những
hồn ma của cô Xuân cô Vàng khi ẩn khi hiện, khi ở miền rừng núi Cao
Bằng, khi giữa phố phường Hà Nội.
Đêm đã khuya. Tôi không thể viết tiếp, mà cũng không thể ngủ, thao
thức miên man nghĩ suy về nhân tình thế thái, về bể khổ trầm luân, về
thời cuộc, về thân phận, về kiếp người, về lòng trắc ẩn, về tình bạn,
tình yêu, về nỗi xót xa của một đời người.
Xót xa cho cô Xuân cô Vàng, cho cả chúng tôi đã dành trọn tuổi thơ để
học, và ngợi ca lòng yêu thương tha nhân của Bác. Chúng tôi đã đọc, đã
viết, đã nghe và đã kể cho nhau nghe bao nhiêu những câu chuyện hấp dẫn
và đẹp như huyền thoại về đời hoạt động của Bác. Song có một chuyện
chúng tôi chẳng bao giờ được biết: Nỗi đắng cay và tủi nhục của cô Xuân
cô Vàng.
Tháng 8 năm 2014
© Trần Hồng Tâm
© Đàn Chim Việt
© Đàn Chim Việt
PHAN CHÂU THÀNH * TRẦN ĐĂNG NINH
Trần Dân Tiên và cái chết bí hiểm của Trần Đăng Ninh
Trần Đăng Ninh là ai?
Trần Dân Tiên thì ai cũng biết là ai rồi, mặc dù Tiên chỉ như ma, chả là
ai cả, chỉ là cái tên mà tình báo Hoa Nam gán cho là tác “giả” của tác
“phẩm” nhào trộn cám heo tiểu sử Cuông + Hồ thành lãnh tụ cách mạng
“chính danh” của CSVN. Nhưng Trần Đăng Ninh là ai thì ít ai biết rõ, và
tại sao ông ta lại liên quan đến Tiên “ma” thì càng ít ai nghĩ đến hơn,
cần phải nói ra cho rõ hơn. Và đó là chủ đích của tôi trong bài viết
này.
Trần Đăng Ninh sinh 1910 tại huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông, tham gia đảng
CSĐD từ những năm 1930 trong phong trào công nhân ngành in. Tháng
11/1940 ông dự Hội nghị TW7 cùng cùng Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng
Quốc Việt, Phan Đăng Lưu... Đến tháng 5/1941 là ông ủy viên dự khuyết
BCH TƯ, và tháng 7/1941 là bí thư Xứ ủy Bắc kỳ (sau HN TW8 ở hang Pắc bó
do Hồ chủ trì vào tháng 5/1941)...
Năm 1945 Trần Đăng Ninh tham gia Tổng bộ Việt Minh, năm 1947 là Trưởng
ban Kiểm tra BCH TƯ kiêm phó Tổng thanh tra Chính phủ. Cuối năm 1950,
sau chuyến đi Trung Quốc đầu năm 1950 theo Hồ cầu viện, là Chủ nhiệm
Tổng cục Cung cấp (tiền thân Tổng cục Hậu cần), là phó bí thư Quân ủy TW
(chỉ sau Giáp là bí thư Quân Ủy TƯ, và trên Nguyễn Chí Thanh là ủy viên
Quân ủy TƯ) từ 1950 đến khi chết bất ngờ bí hiểm ở tuổi 45 vào năm
1955.
Trần Đăng Ninh khi chết năm 1955 là nhân vật quyền lực và uy tín thứ hai
trong quân đội VN lúc đó, chỉ sau Giáp. Về đảng ông Ninh là ủy viên
Trung ương từ Đại hội II năm 1951, bí thư Xứ ủy Bắc kỳ - ngang chức với
Lê Duẩn lúc đó là bí thư Xứ ủy Nam kỳ, chỉ sau Hồ và Trường Chinh.
Ông Ninh có nhiều công trạng lớn với CSVN mà công trạng lớn nhất là tổ
chức Hậu cần thành công cho các chiến dịch từ Biên giới cuối 1950 đến
Điện biên phủ 1954 – tức là tổ chức nhận và đưa vũ khí, lương thực, quân
trang quân dụng từ Tàu sang Bắc Việt nam để CSVN đánh Pháp. Ngày nay
chúng ta biết, chính vũ khí, quân trang, lương thực của Tàu (cộng cố vấn
quân sự Tàu) - chứ không phải “tài ba” của Giáp, là yếu tố quyết định
thắng lợi cuộc chiến Đông dương chống Pháp của VN... Đấy cũng là những
khoản vay nợ Trung cộng đầu tiên và rất khủng của CSVN, góp phần trong
khoản nợ 870 tỷ đô la (cả gốc và lãi?) mà Trung cộng đang đòi CSVN trả
hôm nay?
Trần Đăng Ninh trong Chiến dịch Biên Giới (từ trái sang: Ủy viên Quân ủy Trung Ương Bùi Quang Tạo, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Kỹ thuật Trần Đăng Ninh, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Lê Liêm, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái - Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (hàng sau).
Nói cách khác, vai trò của Ninh quan trọng hơn vai trò của Giáp, công
của Ninh to hơn công của Giáp trong chiến tranh Đông Dương giai đoạn
1950-1954, dù cả hai đều “ăn theo” Tầu cộng (cố vấn và vũ khí...), uy
tín trong đảng của Ninh cao hơn và thâm niên hơn Giáp nhiều... nhưng
Giáp được Hồ ưu ái hơn vì năm 1940 đã sang Tàu cõng Hồ về...?
Tại sao Trần Đăng Ninh phải bắt ngờ chết trẻ trên đỉnh vinh quang?
Theo thông báo chính thức của CSVN thì Trần Đăng Ninh chết do bệnh hiểm
nghèo tại nhà riêng. Có nhiều điều mờ ám trong cái chết bất ngờ của ông
Ninh, nhưng dường như chưa ai nêu ra. Dù không giống những cái chết bất
ngờ của “những đồng chí từng cùng công tác” với Hồ như Hồ Tùng Mậu, Lâm
Đức Thụ... vì mãi sau 1941 ông Ninh mới gặp/biết Hồ, nhưng... đích thân
Hồ đã đến viếng đám tang Ninh (kiểm tra xem Ninh chết thật chưa?).
Nghiên cứu lại tiểu sử sự nghiệp của Trần Đăng Ninh và những sự kiện
trước và sau cái chết của ông ta, thì ta thấy đúng là Ninh phải chết khi
đó (1955) thì các sự kiện sau của cách mạng cộng sản VN sau đó mới có
thể diễn ra được như nó đã diễn ra. Ví dụ, nếu ông Ninh không chết năm
1955, khi mà Hồ vẫn chỉ tự nhận là Hồ, chưa dám tự nhận là Nguyễn Ái
Quốc/Nguyễn Tất Thành (ở đây ta tạm coi tên Nguyễn Ái Quốc là “của”
Thành, đã ăn cắp từ tên chung của nhóm Ngũ Long - Phan Châu Trinh,
Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, và Nguyễn Tất
Thành), thì làm sao Trần Dân Tiên có thể chính thức xuất hiện và được
Hồ/T.Lan chép lại để nghiễm nhiên nhận mình là Quốc?
Tại sao tôi nói vậy? Bời vì, qua nghiên cứu tiểu sử của Trần Đăng Ninh,
chúng ta sẽ thấy rõ ràng ông Ninh đã biết rõ hơn bất cứ cán bộ CSVN nào
khác - trừ bộ ba Đồng-Chinh-Giáp và có lẽ cả Nguyễn Lương Bằng - rằng Hồ
không phải là Quốc. Nhưng khác với Hồ Tùng Mậu hay Lâm Đức Thụ - những
người biết rõ Quốc là ai nên không phải/không thể là Hồ, thì Trần Đăng
Ninh có lẽ là người Việt Nam duy nhất biết rõ Hồ là ai nên không
phải/không thể là Quốc.
Đó chính là một lý do quyết định Ninh phải chết để Hồ nhận mình là Quốc.
Ba lý do để Trần Đăng Ninh phải chết sớm
Lý do đầu tiên quyết định là do Ninh không phải người
thuộc nhóm Đồng-Chinh-Giáp, tức nhóm biết Hồ là Tàu mà vẫn chấp nhận đó
là lãnh tụ cách mạng VN rồi đi rước về Pắc bó đầu năm 1941, theo sự sắp
xếp của Tình báo Trung cộng (Hoa Nam cục). Ninh chỉ biết và thỉnh thoảng
làm việc với Hồ sau khi được cử là bí thư Xứ ủy Bắc kỷ từ tháng 7/1941,
nhưng Ninh có tài làm công tác an ninh (điều tra, ám sát…) nên thường
được Hồ cử làm đặc phái viên cho các vụ việc khó và ở xa… Ninh nắm cả
Thanh tra chính phủ và thanh tra đảng, chỉ huy bộ Công an và bộ Nội vụ,
các cơ quan Hành chính…
Lý do thứ hai là ông Ninh đặc biệt có tài điều tra và làm
công tác an ninh, tình báo, phản gián. Đối với Trung cộng thì thắng lợi
cách mạng của chúng ở Việt Nam không phải là giúp CSVN làm cách mạng mà
là dùng đội ngũ an ninh, tình báo để thao túng CSVN. Cho nên những người
CSVN mà giỏi về tình báo, an ninh, phản gián như Trần Đăng Ninh chính
là đối thủ của chúng, là cản trở đáng gờm cho công việc ngầm của chúng.
Thế mà, từ 1948 Ninh đã nổi lên như Bao Công của VN sau vụ án H122 đã
giải oan cho hàng trăm người bị công an CSVN bắt giam và tra tấn để tìm
ra gián điệp của Pháp mang bí danh H122 trong khu căn cứ địa Việt Bắc
(ông Ninh đã kết luận là không có H122, chỉ là tin đồn nhảm (của Hoa
Nam?)).
Vì lý do thứ nhất và thứ hai dẫn đến lý do thứ ba.
Đầu năm 1950 Hồ đã chọn Ninh là người đi theo Hồ về Tàu với lý do chính
thức là sang Tàu đề nghị Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa của Mao công nhận
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đặt quan hệ ngoại giao. Thực chất là Hồ về
Tàu xin Mao cứu viện đánh Pháp, vì từ 1945 đến 1950 Hồ và CSVN (với sự
hỗ trợ của Hoa Nam cục) chỉ tập trung tàn sát hàng vạn người Việt không
theo cộng sản và cạnh tranh với cộng sản trong việc giải phóng đất nước.
Trong chuyến đi này, Hồ và Ninh đã được trung tướng tình báo Hoa Nam
trưởng cụm tình báo gián điệp Hoa Nam ở Chợ lớn đưa đón về Bắc Kinh. (Về
chuyến đi này của Hồ và Ninh, xin đọc bài của tác giả Huỳnh Tâm trên
Dân Làm Báo:
“Hồ Chí Minh – một gián điệp hoàn hảo” - Kỳ 7).
“Hồ Chí Minh – một gián điệp hoàn hảo” - Kỳ 7).
Tại sao Hồ lại chọn Ninh cho chuyến đi này mà không phải là ai khác
trong bộ ba Đồng-Chinh-Giáp hay Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Văn Hoan? Có lẽ
Hồ muốn qua chuyến đi sẽ lựa dịp/tạo dịp kết nạp Ninh vào nhóm tay chân
thân cận trên chăng? Và có lẽ ông Ninh đã không cho Hồ và tình báo Hoa
Nam Cục cơ hội đó? Kết quả là, vì ông Ninh là người tài trong chính
chuyên môn sở trường của Hoa Nam, nên ông Ninh đã có thể nhận ra Hồ là
người Tàu nên mới có quan hệ đặc biệt cá nhân với nhiều lãnh tụ Tàu như
thế. Nhưng điều đó rất có lợi trước mắt cho cách mạng Việt Nam, nên ông
Ninh cũng đã chấp nhận lãnh tụ CSVN là người Tàu, như đại đa số CSVN khi
đó và đến cả hiện nay - “tất cả vì sự nghiệp giải phóng đất nước, vì
độc lập dân tộc”.
Tất nhiên, ông Ninh cũng như tất cả CSVN đã không nghĩ đến phần sau, sau
khi gây hỗn loạn để cướp chiếm danh vị rồi, Hồ và Trung cộng còn muốn
có “chính danh lãnh tụ” để thao túng cả dân tộc Việt để chiếm dần cả đất
nước Việt Nam cho Tàu, nên chúng có nhu cầu tạo chính danh cho Hồ, bằng
cách biến Hồ thành Quốc, và chúng đã bắt đầu từ 1948 qua tác phẩm “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” của Trân Dân Tiên…
Vậy là, sau 1954, những kẻ như Ninh đã xong nhiệm vụ trong tay Hồ và Trung cộng, phải chết để chúng còn diễn tiếp các màn sau.
Màn sau, như chúng ta biết, mà ông Ninh không biết, là Hồ/T.Lan nhận
mình chính là Quốc, là thằng Công, y như Trần Dân Tiên đã “kể chuyện”,
năm 1961... (Về màn kịch này của Hồ - chỉ có thể diễn được sau khi Ninh
chết, xin đọc bài “Sứ mệnh đích thực của “đồng chí” Trần Dân Tiên” của tôi, cũng trên Dân Làm Báo).
“Khóc” ông Trần Đăng Ninh...
Ông Ninh ơi, ông có ba tội lớn.
Tội thứ nhất vì ông quá GIỎI nghiệp vụ mà lẽ ra chỉ dành
cho Hồ và Hoa Nam tung hoành ở VN thôi. Chính vì thế ông phải đi sứ “về
tàu” với Hồ để ông được Hoa Nam kiểm tra kỹ lại. Chính vì thế nên ông đã
nhận ra Hồ là người Tàu sau mấy tháng về Tàu với Hồ đầu năm 1950 ấy.
Tội này, cả đảng CSVN chắc chỉ có một mình ông có điều kiện và khả năng
mắc được.
Tội thứ hai là ông đã tin Cộng sản TQ và/qua Hồ có thể
giúp CSVN vì nghĩa vụ cộng sản quốc tế, mà quên lịch sử mấy ngàn năm của
dân tộc Việt chỉ luôn bị Tàu cố thôn tính bằng mọi cách – tức là ông
mắc tội NGU. Tội này, cả đảng CSVN của ông mấy triệu kẻ đến nay vẫn cùng
mắc như ông...
Và tội thứ ba là, sao ông không bắt chước những kẻ ngu si
như Đồng, như Giáp, như Chinh... không ngu cũng giả ngu ngậm miệng
làm... vua, như chúng nó! Đấy là ông mắc tội NHẦM. Ông đã nhầm to vì cứ
tưởng là cộng sản thì cũng là người, thậm chí là người chính trực, được!
Không, ông ơi. Là cộng sản ở VN thì phải bán nước Việt cho Tàu - mà đã
là kẻ bán nước thì có ở đâu dân tộc nào coi là người nữa đâu?!
May mà ông nhầm, nên ông phải chết sớm, nên ông không mắc tội bán nước
như các đồng chí cộng sản của ông. Vì một điều nhầm đó, tôi tha oán giận
ông, như oán giận cả bè lũ CSVN các ông đã đưa dân tộc Việt vào con
đương hèn khốn theo gót Tàu khựa như hiện nay.
Cuối cùng, ông Ninh ơi, ông có biết tại sao ông phải chết ngay, và ông
có biết ông đã chết dưới tay ai không? Ông chết vì Hoa Nam và Hồ còn
phải “sinh ra” Trần Dân Tiên và T.Lan, mà nếu để ông sống thì lũ đó khó
“rặn ra” được... tiểu sử Hồ/Quốc. Còn ai giết ông chắc ông đã biết ngay
khi ông chết năm 1955 ấy rồi, chỉ là không ai muốn nghe điều ông nói từ
sau bát hương thôi? Tên nó là... Trần Dân Tiên!
TS. PHẠM CHÍ DŨNG * VIÊT NAM ĐẢ HỔ DIỆT RUỒI ?
Sẽ có “đả hổ diệt ruồi” ở Việt Nam?
Tiến sĩ Phạm Chí Dũng
Gửi cho BBC từ Sài Gòn
Cập nhật: 07:29 GMT - thứ năm, 21 tháng 8, 2014
“Phe lợi ích” - một khái niệm
mới chu toàn từ năm 2013 lồng trong hiện tình chính trị và các phe phái
bằng mặt không bằng lòng ở Việt Nam, vừa bất chợt xuất hiện những dấu
hiệu bị suy giảm quyền lực từ giữa tháng 7/2014.
Tín hiệu từ Petrolimex
Không phải vô cớ mà Petrolimex (Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam) chấp nhận đến ba lần giảm giá xăng chỉ trong vòng hai chục ngày, tạo nên một kỷ lục hiếm thấy hoặc chưa từng thấy trong lịch sử kinh doanh độc quyền của tập đoàn đầy tính “thân hữu” này.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Dù với tổng mức giảm khiêm tốn 1.430
đồng/lít cho đến ngày 18/8/2014, giá xăng đã trở về gần mức đầu năm
2014. Một tín hiệu “hồi tâm” của Petrolimex? Hay có thể hiểu khác hơn -
một dấu hiệu suy giảm quyền lực của “Phe lợi ích” mà Petrolimex luôn là
một đại diện tiêu biểu và xứng đáng?
Nhưng đã chưa từng diễn ra một trải nghiệm xứng
đáng nào từ Petrolimex suốt từ năm 2007 - lúc kinh tế được coi là “hoàng
kim” cho đến thời suy thoái kinh tế bắt đầu từ năm 2008 và tiếp dẫn đến
cuối quý 2/2014. Đặc biệt trong bối cảnh hàng trăm ngàn doanh nghiệp
“chết” vào năm 2012 và tiếp tục ít nhất 60.00 doanh nghiệp khác “tử
vong” vào năm 2013, trong đó có không ít doanh nghiệp vận tải, giá xăng
dầu vẫn tăng tiến đều đặn.
"Điểm ngoặt có vẻ khá kỳ lạ khởi nguồn từ khoảng trung tuần tháng 7/2014 khi một số vụ việc vốn chìm sâu trong lẩn khuất của giới ngân hàng - nhóm lợi ích được xem là thao túng mặc tình và ghê gớm nhất Việt Nam - “bỗng dưng” phát lộ. "
Có chăng, giá chỉ tạm “giải lao” vào lúc Quốc
hội Việt Nam không giải lao. Mặt bằng giá xăng dầu cũng bởi thế luôn
tiến chiếm hết kỷ lục này đến kỷ lục khác, khiến bầu không khí tiêu dùng
tại đất nước “Thơ tôi khóc, lệ rơi hình chữ S” luôn quằn quại trong vô
vàn bức bối và phẫn nộ.
Đó cũng là bối cảnh mà các chuyên gia phản biện,
báo giới và người dân than vãn và kêu gào không ngớt trên tất cả các
diễn đàn công luận và trong dư luận. Nhiều bài viết đã phân tích tường
tận, cặn kẽ về các cơ sở có thể để kéo giảm giá xăng dầu. Rất nhiều
trường hợp giá dầu quốc tế giảm nhưng Petrolimex vẫn kiên định tư tưởng
giá xăng Việt Nam chỉ có tiến chứ không lùi. Thảng hoặc phải nhận lãnh
phản ứng trực tiếp từ đại biểu quốc hội, Petrolimex lại thực thi chiến
thuật “lùi một tiến hai”.
Trong suốt thời gian những năm nền kinh tế chìm
vào tồi tệ, các kiến nghị của hội đoàn tới tấp bay về tổng hành dinh bộ
ngành liên quan. Thái độ phẫn nộ của những người tiêu dùng nghèo khó
nhất như xe ôm cũng cũng đã phải bật lên… Tuy nhiên, mọi tiếng kêu la
đều như vấp phải một bức tường đặc sệt não bộ và cực kỳ vô cảm.
Thậm chí một số quan chức của Bộ Công thương và
Bộ Tài chính - hai cơ quan liên đới trực tiếp và gián tiếp đến việc tăng
giá xăng dầu - còn biểu lộ phát ngôn rằng xăng dầu tăng giá hoàn toàn
không làm ảnh hưởng lớn đến chỉ số tiêu dùng và đời sống người dân (!?).Trong bối cảnh u ám đầy bất nhẫn như thế, điểm ngoặt có vẻ khá kỳ lạ lại khởi nguồn từ khoảng trung tuần tháng 7/2014. Một số vụ việc vốn chìm sâu trong lẩn khuất của giới ngân hàng - nhóm lợi ích được xem là thao túng mặc tình và ghê gớm nhất Việt Nam - “bỗng dưng” phát lộ.
Vụ bắt một hơi ba quan chức cao cấp của Ngân hàng Xây dựng - tổ chức tín dụng được một số dư luận xem là “ruột rà” với Ngân hàng nhà nước - đã khơi dậy một tín hiệu về đòn tấn công của một lực lượng chính trị nào đó nhắm vào “Phe lợi ích”.
Quy luật song hành và bổ trợ giữa kinh tế và chính trị không bao giờ là lạc hậu, đặc biệt trong những điều kiện hết sức “đặc thù” ở Việt Nam.
Không phải ngẫu nhiên mà sau quá nhiều năm tháng nhóm ngân hàng hầu như không bị suy xuyển, mà chỉ đến bây giờ mới lộ diện những Agribank ngập ngụa nợ xấu và nợ rất có thể không cánh mà bay, về ít nhất 8 ngân hàng khác thuộc loại “top ten” cũng bất chợt bị tung hê nợ xấu, về những quan chức ngân hàng dắt dây với nhau và có thể cả với một số chính khách nào đó, về khối tài sản đồ sộ của nguyên Tổng thanh tra chính phủ Trần Văn Truyền như được ai đó “bật đèn xanh” để báo chí làm công tác “thống kê”…
Thành thật mà nói, chưa bao giờ Petrolimex tỏ ra “thâm tình” như lúc này trong việc kéo giá xăng dầu xuống “cùng với đà giảm giá dầu quốc tế”.
Chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” ở Việt Nam?
Cùng với chuyển động “hồi tâm” của Petrolimex và hàng loạt vụ việc đang được khơi gợi trong ngành ngân hàng, một liên tưởng êm dịu cũng dẫn tới việc so sánh về tính thời điểm và sự kiện, khi có vẻ như chiến dịch “diệt ruồi” trong các ngân hàng Việt Nam tiếp liền sau chuyến đi của Dương Khiết Trì - ủy viên quốc vụ viện Trung Hoa - đến Việt Nam, một hành động được coi là mang hàm ý “lên dây cót” cho những quan chức có quan điểm gần gũi với Bắc Kinh.Cùng thời gian này, đất nước Trung Hoa như lên cơn sốt với chiến dịch “Diệt cả hổ lẫn ruồi” của Tập Cận Bình.
Dường như sau lần chịu việt vị bởi giàn khoan
HD981 ở Biển Đông, Tập Cận Bình đã chấp nhận chừa ra một khoảng dung sai
nào đó cho những “đồng chí tốt” ở Hà Nội, thay vì gia tăng siết bức mà
có thể khiến Trung Quốc bị ảnh hưởng lợi ích giao thương Trung - Việt và
còn phải đối phó với một hình ảnh liên minh quân sự “phản Trung” đang
hình thành gấp rút tại vòng cung châu Á - Thái Bình Dương.
"dường như những người trong “Phe bảo thủ” đã vượt lên một nhịp so với “Phe lợi ích”, khi trước đó thế giằng co là tương quan nổi trội tưởng như còn kéo dài đến tận Đại hội Đảng 12."
Thời gian cuối tháng 7/2014 lại chứng kiến một
sự kiện, tuy âm thầm nhưng dường như không sút kém tính quan trọng so
với chuyến đi của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đến Washington vào tháng
Bảy năm ngoái: đại biểu Quốc hội Phạm Quang Nghị hiện diện cũng tại Hoa
Thịnh Đốn.
Những gì diễn ra tiếp sau chuyến đi của ông Phạm
Quang Nghị thì hầu hết mọi người đều biết. Đó là chuyến công du đột
ngột không kém đến Việt Nam của Thượng nghị sĩ John McCain và sau đó là
chuyến “giao lưu hải quân” của Đại tướng Martin Dempsey, Chủ tịch Hội
đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ.
Thậm chí còn diễn ra cuộc gặp giữa John McCain
với Nguyễn Phú Trọng, để sau đó khi người đứng đầu đảng tuyên bố “Mỹ là
đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam”, thì Martin Dempsey cũng không
kém cạnh: “Việt Nam có thể trở thành người bạn tốt nhất của Hoa Kỳ”.
Chỉ trong khoảng ba tuần lễ, dường như những
người trong “Phe bảo thủ” đã vượt lên một nhịp so với “Phe lợi ích”, khi
trước đó thế giằng co là tương quan nổi trội tưởng như còn kéo dài đến
tận Đại hội Đảng 12. Ưu thế về chính trị đối ngoại lại dẫn đến ưu điểm
về công tác đối nội và tạo ra hiệu ứng toàn diện tới từng từng tế bào
của các nhóm lợi ích, trong đó đương nhiên có cả các tế bào doanh nghiệp
và những nhân vật “trung kiên” với lợi ích nhóm.
Bất chấp dân tình khổ sở vì thu nhập eo hẹp
nhưng vẫn phải oằn vai gánh số lỗ hơn 10.000 tỷ đồng cho mình,
Petrolimex chẳng có lý do nào để “hồi tâm” bằng ba lần giảm giá xăng
liên tiếp.
Chỉ có thể một mệnh lệnh thầm kín và khẩn cấp
nào đó được truyền xuống từ “Thủ trưởng” mới có thể làm cho con tim tê
liệt của tập đoàn xăng dầu độc tôn và độc quyền này phải rung động,
khiến họ bắt đầu phải tính đến “hậu sự”, nhằm tránh thoát những đòn roi
hiểm hóc có thể phát ra bởi một chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” - ngộ nhỡ
sẽ xảy ra đến mức xáo trộn đời sống chính trị ở Việt Nam ngay trong thời
gian tới.
Lại nhớ về thời điểm sau trung tuần tháng 7/2014
một chút, Carl Thayer - một trong số ít chuyên gia quốc tế được coi là
thạo tin về nội tình triều chính Việt Nam - đã bật ra một Bấm
nhận định mà có lẽ khiến nhiều người sửng sốt: “Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có thể bị gạt sang một bên”…
Bài phản ánh văn phong và quan điểm riêng của tác giả, nhà báo độc lập ở TP HCM.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2014/08/140821_interest_groups.shtml
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2014/08/140821_interest_groups.shtml
TS. NGUYỄN ĐÌNH THẮNG * VIỆT NAM TTP
24-08-2014
Việt Nam: CPC, không TPP
Ts. Nguyễn Đình Thắng/ Mạch Sống
Áp dụng các điều khoản chế tài có sẵn trong
luật Hoa Kỳ lên Việt Nam là một trong 4 mục tiêu của kế hoạch 2013-2014
mà BPSOS đề ra từ đầu năm ngoái và sẽ là trọng tâm của Liên Minh Cho Một
Việt Nam Tự Do Và Dân Chủ trong thời gian sắp đến. Cụ thể, Liên Minh sẽ
vận động đưa Việt Nam vào danh sách các “quốc gia cần quan tâm đặc
biệt”, tức CPC (Country of Particular Concern), vì đàn áp tôn giáo một
cách trầm trọng. Cuộc vận động này sẽ theo công thức “trong ngoài phối
hợp”.
Tiêu chuẩn CPC
Theo Đạo Luật Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế, chính phủ Hoa Kỳ phải đưa vào
danh sách CPC các chính quyền nào nhúng tay vào hoặc dung túng cho các
vi phạm tự do tôn giáo. Theo định nghĩa trong luật Hoa Kỳ, vi phạm tự
do tôn giáo là các hành vi cấm đoán, hạn chế hay trừng phạt việc tụ tập
ôn hoà để sinh hoạt tôn giáo, kể cả việc tuỳ tiện bắt “đăng ký” sinh
hoạt tôn giáo; việc tự do phát biểu về tôn giáo của mình; quyền đổi tôn
giáo hay tín ngưỡng; quyền dưỡng dục con theo niềm tin tôn giáo riêng.
Hiện nay đang có dự thảo tu chính để cộng thêm hành động phá hay xúc
phạm các nghĩa trang tôn giáo.
Theo định nghĩa của luật, vi phạm “đặc biệt trầm trọng” có nghĩa là “mang tính hệ thống, đang tiếp diễn, và nghiêm trọng” và bao gồm các hành động như bỏ tù, giam giữ dài hạn mà không quy tội, bắt đi mất tích, đánh đập, tra tấn, hãm hiếp, cưỡng bức tái định cư số đông, hoặc “khước từ trắng trợn quyền được sống, được tự do, hoặc được an toàn bản thân.”
Theo định nghĩa của luật, vi phạm “đặc biệt trầm trọng” có nghĩa là “mang tính hệ thống, đang tiếp diễn, và nghiêm trọng” và bao gồm các hành động như bỏ tù, giam giữ dài hạn mà không quy tội, bắt đi mất tích, đánh đập, tra tấn, hãm hiếp, cưỡng bức tái định cư số đông, hoặc “khước từ trắng trợn quyền được sống, được tự do, hoặc được an toàn bản thân.”
Các biện pháp chế tài
Theo luật Hoa Kỳ, quốc gia trong danh sách CPC phải đối mặt với các
biện pháp trừng phạt leo thang: phản đối; cảnh cáo; hoãn hay đình chỉ
các trao đổi văn hoá hay khoa học; hoãn, đình chỉ hay huỷ bỏ các chuyến
công du; chấm dứt, hạn chế hay đình chỉ các khoản viện trợ; yêu cầu các
định chế tài chánh tư và quốc tế hạn chế tiền cho vay và không tài trợ;
cấm bán hay chuyển vũ khí và kỹ thuật cho quốc gia đó; cấm các cơ quan
chính quyền Hoa Kỳ không ký các hiệp ước xuất nhập cảng với quốc gia đó.
Đồng thời luật cũng trừng phạt các giới chức chính quyền chịu trách
nhiệm về sự đàn áp tôn giáo bằng cách không cấp visa vào Hoa Kỳ cho
đương sự và các người trong gia đình.
Nói cách khác, các biện pháp chế tài trong dự thảo Luật Nhân Quyền
Cho Việt Nam và Luật Chế Tài Vi Phạm Nhân Quyền Ở Việt Nam thực ra đều
có sẵn, ở mức độ nhiều hay ít, trong Đạo Luật Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế.
Ảnh hưởng của CPC
Nếu bị chỉ định CPC, Việt Nam sẽ hoàn toàn mất triển vọng mua hoặc
nhận vũ khí sát thương của Hoa Kỳ. Triển vọng tham gia Hiệp Ước Đối Tác
Xuyên Thái Bình Dương về mậu dịch cũng sẽ khép lại. Đó là chưa kể những
khoản viện trợ đang nhận sẽ bị cắt giảm hay chấm dứt, và triển vọng vay
vốn từ các định chế tài chánh quốc tế sẽ trở nên khó khăn.
Đó là lý do Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ tránh không đưa Việt Nam vào danh
sách CPC mặc dù Uỷ Hội Hoa Kỳ Về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế do Quốc Hội
thiết lập liên tục đề nghị CPC cho Việt Nam trong suốt 7 năm qua. Hành
Pháp Hoa Kỳ không muốn làm “trật đường rầy” chính sách đối ngoại của họ
không những đối với Việt Nam mà còn là đối với toàn vùng Châu Á – Thái
Bình Dương.
Và đó cũng là lý do Bộ Ngoại Giao đã giảm nhẹ khi báo cáo vi phạm trong bản phúc trình gửi Quốc Hội hàng năm về tình trạng tự do tôn giáo ở Việt Nam. Nếu báo cáo đúng mức thì Bộ Ngoại Giao khó tránh né việc chỉ định Việt Nam là CPC.
Tình hình thay đổi
Oái oăm cho Bộ Ngoại Giao là vừa gửi bản phúc trình cho Quốc Hội được
3 hôm thì Ông Heiner Bielefeldt, Báo Cáo Viên Đặc Biệt của LHQ về tự do
tôn giáo hay tín ngưỡng, họp báo ở Hà Nội trong ngày cuối của chuyến
thị sát Việt Nam. Ông Bielefeldt đã vạch trần thực trạng khống chế tôn
giáo và đàn áp những người hoạt động tôn giáo độc lập. Các hành động
theo dõi, nghe lén, thu băng nhắm vào phái đoàn LHQ của Ông Bielefeldt,
và sự cản chặn, sách nhiễu, hăm doạ nhắm vào các nhân chứng lại càng thể
hiện rõ ràng hơn nữa bản chất của chế độ và thực trạng tôn giáo ở Việt
Nam.
Không chỉ chính quyền Việt Nam lúng túng -- các nhân chứng đã liên
lạc trực tiếp với quốc tế và các tổ chức tôn giáo quốc doanh đã rớt mặt
nạ -- mà cả Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cũng đang lúng túng vì biết giải thích
làm sao những khác biệt căn bản giữa bản phúc trình mà họ vừa nộp cho
Quốc Hội và tuyên bố báo chí của người có thẩm quyền nhất của LHQ về tự
do tôn giáo và tín ngưỡng. Không thể phủ nhận các khám phá của Ông
Bielefeldt, Bộ Ngoại Giao chỉ có một trong 2 cách giải thích: Biết nhưng
không báo cáo, hoặc không biết nên đã không báo cáo. Giải thích cách
nào cũng không ổn với Quốc Hội. Chỉ còn mỗi một cách để giúp Việt Nam
tránh CPC và các hệ luỵ của nó là ép chính quyền Việt Nam phải thực sự
tôn trọng quyền tự do tôn giáo, và phải chứng tỏ điều này trước cuối năm
nay.
Có thể nói, chuyến thị sát của Ông Bielefeldt mở ra cơ hội rất lớn để
áp lực Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ phải báo cáo trung thực và đầy đủ các vi
phạm tự do tôn giáo đang diễn ra ở Việt Nam. Khi ấy, đưa Việt Nam vào
danh sách CPC là điều không thể tránh thoát.
Kế sách thực hiện
Chúng ta đang có cơ hội hơn lúc nào hết để đưa Việt Nam vào lại danh
sách CPC, và triệt tiêu hoàn toàn triển vọng tham gia TPP trừ khi chính
quyền Việt Nam thực tâm tôn trọng tự do tôn giáo. Muốn vậy thì phải có
kế hoạch hành động cụ thể. Dưới đây là những giai đoạn và công tác chính
của kế hoạch này.
Tháng 9 – 12, 2014:
* Tạo cơ hội cho các cộng đồng tôn giáo độc lập ở trong nước tiếp xúc toà đại sứ Hoa Kỳ và các toà đại sứ khác để trực tiếp báo cáo vi phạm; đồng thời sắp xếp cho các đại diện ở Hoa Kỳ tiếp xúc với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và Uỷ Hội Hoa Kỳ Về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế.
* Vận động Quốc Hội yêu cầu Bộ Ngoại Giao giải thích các khác biệt bản chất giữa bản phúc trình của họ với tuyên bố báo chí của Ông Bielefeldt.
* Vận động sự yểm trợ của các tổ chức Hoa Kỳ và quốc tế về tự do tôn giáo nhắm vào Quốc Hội và Bộ Ngoại Giao.
Tháng 1 - 6, 2015
* Vận động Quốc Hội triệu tập buổi điều trần về thực trạng tôn giáo ở Việt Nam.
* Thực hiện cuộc tổng vận động Quốc Hội với trọng tâm là đưa Việt Nam vào lại danh sách CPC.
* Hoàn tất hồ sơ về vi phạm tự do tôn giáo ở Việt Nam để dùng cho cuộc tổng vận động.
Phối hợp trong ngoài
Việc soạn hồ sơ vi phạm này sẽ được khởi sự tức thì, với những đóng
góp trực tiếp của người ở trong nước. Chúng tôi sẽ phổ biến sườn bài và
những tiêu chí để hướng dẫn việc đóng góp thông tin. Các bản thảo cập
nhật sẽ được phổ biến rộng rãi từng đợt để người trong nước theo dõi và
góp ý -- dĩ nhiên những thông tin cá nhân sẽ được xoá đi. Công việc này
sẽ kéo dài từ giờ đến tháng 3 sang năm.
Để giúp cho việc thực hiện công việc này, chúng tôi sẽ:
* Huấn luyện và hỗ trợ cho các cộng đồng tôn giáo độc lập ở Việt Nam báo cáo vi phạm theo đúng thủ tục và tiêu chuẩn của LHQ.
* Phát triển Ban Nghiên Cứu và Dịch Thuật của Liên Minh Cho Một Việt Nam Tự Do Và Dân Chủ để biên soạn và dịch sang tiếng Anh các báo cáo dựa trên thông tin nhận được từ trong nước.
Mũi nhọn quyền lao động, mở ra vào đầu năm nay, đã vận động thành
công sự quan tâm và lên tiếng của các công đoàn Hoa Kỳ. Mũi nhọn tự do
tôn giáo hứa hẹn sẽ có tác dụng rộng lớn và mãnh liệt hơn nhiều vì đất
nước Hoa Kỳ được khởi lập bởi những nạn nhân của sự đàn áp tôn giáo. Tự
do tôn giáo là một trong những quy ền thiêng liêng nhất của quốc gia Hoa
Kỳ.
.........................................
Bài liên quan:
Văn bản Luật Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế:
http://web.archive.org/web/20070608190937/http://usinfo.state.gov/usa/infousa/laws/majorlaw/intlrel.htm
http://web.archive.org/web/20070608190937/http://usinfo.state.gov/usa/infousa/laws/majorlaw/intlrel.htm
GS.HUỲNH CHIẾU ĐẲNG * LỐI XƯA XE NGỰA
MỘT SỰ LẦM LẨN CỦA LỊCH SỬ KHI KẺ MAN RỢ, KHÁT MÁU
LẠI LÀ "BÊN THẮNG CUỘC"
Một tài liệu rất đáng xem để hoài niệm & thấy được sự sai
lầm của lịch sử là quá ư oái ăm và tai hại cho dan toc VN.
LỐI XƯA XE NGỰA HỒN THU THẢO
Xin
mời đọc bài viết của nhà văn Dương Thu Hương bà vào Saigon bước đầu
tiên năm 1975 cùng với bộ đội CS để tiếp thu miền Nam. Người ta vui cười
trong chiến thắng thì chính Bà đã khóc òa
lên. Saigon văn minh, gìau sang thanh lịch như thế này mà lại để thua
một đứa ngu dốt lạc hậu chậm tiến bần cố nông.
LỐI XƯA XE NGỰA để hoài niệm & thấy được sự sai lầm của lịch sử là quá ư oái ăm, là tai hại THU THẢO…
*
Huỳnh Chiếu Đẳng
“Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ… nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải…” - Dương Thu Hương.
“Một câu hỏi da diết xuất hiện
trong những khoảnh khắc ấy: những gương mặt mà ta đã gặp, những ngôi
nhà, góc phố, hàng cây, mỗi ngôi làng hay thậm chí một tiếng chuông chùa
trong đêm sẽ như thế nào, sẽ ra sao, nếu như không có Ngày Độc lập 2/9
ấy?…” -Trương Tấn Sang
.
“Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo Nền cũ lâu đài bóng tịch dương Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt Nước còn cau mặt với tang thương Ngàn năm gương cũ soi kim cổ Cảnh ấy người đây luống đoạn trường”
(Bà Huyện Thanh Quan)
.
Bài thơ tác giả “hoài cảm” sau
năm 1802 khi Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn lên ngôi, niên hiệu Gia
Long và định đô ở Huế. Từ đó, Thăng Long (Hà Nội) chỉ còn là “cố đô” - Lời thơ mang âm hưởng hoài niệm tiếc nuối một thời vàng son dĩ vãng.
Bối cảnh cũng gần giống như vậy – Sài Gòn xưa “hòn ngọc Viễn Đông” một
hình ảnh thiêng liêng, thân thương không thể nào phai nhòa trong trái
tim của gần ba mươi triệu người miền Nam, Việt Nam, có một thời, dù khói lửa chiến chinh từ phía Bắc, bên kia vĩ tuyến 17 tràn sang nhưng cũng cố gắng vươn lên trong những khoảnh khắc “tạm yên bình” ngắn ngủi giữa thập niên 60-70 – Ngắn ngủi thôi, nhưng những gì có được cũng đã làm cho những trái tim còn thuần khiết “tính người” như nhà văn nữ miền Bắc Dương Thu Hương phải mềm lòng thổn thức rơi lệ bởi cảm xúc trong ngậm ngùi, “tiếc nuối”, giữa lòng TP/phố Sài Gòn 30/4/1975. Nhà văn này tâm sự….
.
Dương Thu Hương: (thở dài) Điên rồ thì tôi có nhiều thứ điên rồ.
Khóc thì tôi có hai lần khóc.
Lần thứ nhất khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cả mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc.
Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không
choáng ngợp lắm vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất
cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do; tất
cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các
hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy dẫy các phương tiện thông tin như
TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ.
Ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà nước quản lý. Dân
chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán bộ được tin
tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Quốc.
Còn toàn bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa
là chỉ được nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người.
Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp,
Anh, Mỹ… nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải.
(Nguồn: Nhật Báo Người Việt).
Và mới đây trong một bài viết nói về ngày 2/9 có cái tựa “Phải biết hổ thẹn với tiền nhân” ông “Tổng thống” (CT nước) Trương tấn Sang như “tâm sự” rằng (nguyên văn):
“Một câu hỏi da diết
xuất hiện trong những khoảnh khắc ấy: những gương mặt mà ta đã gặp,
những ngôi nhà, góc phố, hàng cây, mỗi ngôi làng hay thậm chí một tiếng
chuông chùa trong đêm sẽ như thế nào, sẽ ra sao, nếu như không có Ngày
Độc lập 2/9 ấy?…” thì những
dòng của viết bài này ngoài mục đích hoài cảm “một thoáng hương xưa” với
đồng bào, nhất là các bạn đọc trẻ trong và ngoài nước sinh sau 1975 thì
cũng nhân tiện gửi đến ngài “Tổng thống nước” một số hình ảnh cũ của
Sài Gòn ngày xưa, nơi mà chắc ngài không lạ (vì ngài từng là “chủ nhân
ông”, hít thở không khí Sài Gòn một thuở) với cùng một câu hỏi: “… cảnh cũ này sẽ thay đổi ra sao, nếu như không có Ngày 2/9 định mệnh ấy?…” thưa ông!?…
Thập niên 1960-70 đường ray xe lửa vẫn còn trên đường Hàm Nghi – Sài Gòn
Nhưng
vóc dáng một góc Sài Gòn, “thủ phủ Đông Dương” như thế này (1960-65)
Bangkok, Singapore, Đài Loan và Seoul sau Đệ II thế chiến chưa thể có
kịp, và những hình ảnh cũ
dưới đây của Sài Gòn một thuở, người dân đang năng động hối hả xây dựng
một cuộc sống phồn vinh cho đất nước, cùng nhịp điệu với các quốc gia tự
do dân chủ vừa lấy lại độc lập trong khu vực Asean (Đông Nam Á) mà
không tốn một giọt máu nào.
This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 769×513.
–Sài Gòn những năm 1960-1970
(trên), cùng thời điểm (ảnh dưới) là Hà Nội. Không cốt ý bôi bác hay phê
phán, bởi Nam Bắc cùng là dân Việt, nỗi buồn đâu của riêng ai! Mà đơn
giản, so sánh để khẳng định cái từ ngữ chiêu bài mà những người CSVN đã
“lừa bịp” đồng bào miền Bắc rằng: “Phải giải phóng đồng bào miền Nam đang bị kềm kẹp trong đói nghèo, đau thương” là
không có thật… mà thời điểm ấy, quốc tế CS (Nga-Tàu) chi viện quân sự
và chỉ thị cho CSVN phải tiến hành đánh chiếm “nhuộm đỏ” miền Nam VN
trước khi “cộng sản hóa” Đông Dương (Việt-Miên-Lào”) và sau đó là Đông
Nam Á, duy nhất trên thế giới tại thời điểm ấy chỉ có CSVN là lấy “máu xương, lương thực” của nhân dân miền Bắc làm “nhiên liệu” thử
nghiệm cổ máy cộng sản làm bàn đạp để tiến xuống phía Nam Châu Á. Nhân
dân miền Bắc không còn gì ngoài một đời sống “hắt hiu, u buồn” bên trong
bức màn sắt CNXH. Lo toan hàng ngày của mọi người, duy nhất, là có một
thứ gì đó cho vào bụng và mơ… một chiếc xe đạp! Tất cả họ, đều như là
những con “ốc vít” trong một cổ máy chiến tranh, không có ngoại lệ,
không ai được phép “sáng tạo” tư hữu cho bản thân và gia đình ngoài “Bác
và đảng cộng sản”…
Sài Gòn miền Nam – những năm
1960-1970 đang khởi đầu công nghiệp hóa nền kinh tế non trẻ bằng hệ
thống Ngân Hàng quốc gia tài trợ cho các dịch vụ nhập khẩu máy móc trang
thiết bị đầu tư kỹ thuật trong các dây chuyền sản xuất nâng cao giá trị
và năng suất các sản phẩm hướng đến xuất khẩu, điển hình là băng rôn
quảng bá cung ứng dịch vụ này treo ngang đường Tự Do (Đồng Khởi ngày
nay) – một chính sách thức thời mà chế độ CS/XHCN miền Bắc còn rất xa lạ
– không có trong kế hoạch, cũng như kinh phí ngoại tệ…
Thập niên 1960-70 Hà Nội “kỹ thuật”
chủ yếu dựa vào thủ công “sức người” bởi hàng “viện trợ” của Nga Tàu
hầu hết chỉ là vũ khí súng đạn cung ứng cho cổ máy chiến tranh của CSVN
rất ít hàng hoá dân dụng tiêu dùng.
24-10-1966 – Các Phu nhân Tổng
Thống – bà Thiệu, bà Johnson, bà Kỳ, bà Marcos tháp tùng cùng Phu quân
là các tổng thống, thủ tướng tại Philippines, trong phiên họp thượng
đỉnh của các nguyên thủ quốc gia trong Hiệp Ước Liên Phòng Đông Nam Á.
19/5/2010 Bà Phó “PCT/Nước:
Nguyễn thị Doan”(áo đen thứ ba bên phải qua) và các “VIP” phụ nữ của
CHXHCN/Việt Nam tham dự hội nghị thượng đỉnh phụ nữ toàn cầu tại Bắc
Kinh.
Cách
nhau gần nửa thế kỷ – hai nhóm phụ nữa trên và dưới có quá nhiều khác
biệt, không biết có phải là do “đặc trưng” của XHCN không? khiến chúng
ta khi so sánh sẽ mỉm cười thú vị mà không cần phải bình luận! Cũng cần nhắc lại bà Nguyễn Thị Doan là tác giả câu nói bất hủ “Việt Nam dân chủ gấp vạn lần tư bản phương Tây…”
.
Nửa
thế kỷ cách ngày hôm nay nhưng vóc dáng phong thái của “phái yếu” người
Sài Gòn ngày xưa đó nét duyên dáng trí thức không lẫn vào đâu được, đa
dạng mái tóc kiểu phương Tây, chiếc áo dài ngày ấy đã canh tân không còn
“cổ cao”, tay áo cắt “raplan” và đặc biệt dễ nhận ra nhất của thập niên
60-70 là áo dài có “chít eo” ngang hông rất rõ, những chiếc “jup” tây
phương sắc màu tươi trẻ nhưng không cao “quá gối” và nữ sinh, sinh viên
tóc thề áo trắng nên thơ, nói chung, phụ nữ xã hội miền Nam Sài Gòn thuở
ấy có đủ mọi thứ, để hoàn toàn tự do trang điểm làm đẹp cho chính mình
mà không bị lệ thuộc bất cứ chủ nghĩa giáo điều khe khắt nào khác…
Phương tiện xe gắn máy cá nhân phổ
biến thông dụng ở thủ đô Sài Gòn ngày đó ngoài các loại xe Vespa,
Lamberetta Ý và Gobel, Mobilete, Velosolet của Pháp thì đa phần là hai
loại xe Nhật, Honda 67 cho nam và Honda Dame cho nữ, nhìn hình ảnh các
“bóng hồng” ngày ấy, đẹp và lịch sự trên đường phố Sài Gòn cách nay nữa
thế kỷ mà cứ ngỡ như mới ngày hôm qua – (cô gái có cái bảng nhắc nhở mọi
người lấy thẻ cử tri bầu cử Tổng Thổng 1967 – Và hai cô gái váy đen bên
chiếc taxi hai màu xanh vàng mang số hiệu 7533 của Sài Gòn thập niên
1960). Hình ảnh đủ để chúng ta chiêm nghiệm cái lạc hậu độc tài bảo thủ
cố chấp của CSVN đã kéo lùi thời gian gây nên sự trì trệ trong phát
triển của dân tộc như thế nào so với những gì chỉ trong một thời gian
ngắn Sài Gòn làm được trước kia và so với các nước láng giềng trong khu
vực.
Tương phản khác biệt quá nhiều của
khung cảnh, con người Sài Gòn và Hà Nội cùng thời điểm, rất khó khăn và
buồn lòng để bình luận khi mà mơ ước lớn lao nhất của mọi người miền Bắc
lúc bấy giờ chỉ là chiếc xe đạp tầm thường Phượng Hoàng Trung Quốc
trong khi xe đạp cực tốt mang nhãn hiệu “bồrô” của Pháp là mặt hàng bình
dân ở miền Nam buôn bán đầy đường ….
Thập niên 1960-70 minh chứng
cho sự năng động phát triển kinh tế của Sài Gòn miền Nam mang tầm khu
vực Châu Á hướng ra thế giới là hãng Hàng Không AIR Việt Nam với đội ngũ
phi cơ phản lực mới nhất và các phi công chuyên nghiệp đường bay quốc
tế mà hãng hàng không cộng sản Trung Cộng lúc bấy giờ chưa sở hữu được.
Còn chế độ CS miền Bắc, Hà Nội thì chẳng biết gì về hàng không dân dụng ở
thời điểm ấy. Người dân và sinh viên Sài Gòn miền Nam hoàn toàn tự do
đi du học và xuất cảnh ra nước ngoài mà không bị ràng buộc bất cứ lý do
gì, đó là một điều không tưởng với nhân dân miền Bắc… bị cô lập trong
bức màn sắt CSVN.
Nói đến hàng hóa tiêu dùng dân dụng
thì tại thời điểm ấy thị trường Sài Gòn miền Nam hàng hóa trù phú chất
lượng cao, còn nhiều hơn Trung Quốc, tấp nập bày bán tự do. Tại miền
Bắc, Hà Nội chẳng có bất cứ một thứ gì để mà so sánh, bởi vì người dân
bình thường Sài Gòn thời điểm ấy đang sử dụng quạt máy, tủ lạnh, máy may
và TV đen trắng. Trong khi hai mặt hàng mà bất cứ người dân miền Bắc
nào cũng mơ ước (như nhà văn Dương Thu Hương nói) là đồng hồ đeo tay và
Radio thì thừa mứa ở các quầy hàng khắp miền Nam đến nỗi các hảng sản
xuất phải treo bảng quảng cáo trên đường (trong ảnh). Nói cho vui, miền
Bắc dưới sự lãnh đạo của đảng chỉ có hai thứ mà miền Nam không có là
(tên lửa Sam 2 và phân người hoại mục).
So
với miền Nam- Ngắm nhìn hình ảnh bà con nhân dân miền Bắc và Hà Nội –
CS/XHCN với chế độ “tem phiếu” tranh nhau từng chiếc “lốp” xe đạp, mảnh
thịt, lạng đường, hộp diêm ngày đó… mà buồn nản đến nao lòng.
Cụ
thể hơn, Sài Gòn miền Nam không cần phải CNXH hay “đấu tranh giai cấp”
nhưng nhìn hai hình ảnh dưới đây có cùng xấp xỉ thời gian thập niên
1960-70 để thấy, cùng một kiếp người “thì ai mới cần giải phóng cho ai”?
(Sài Gòn phương tiện mưu sinh gắn máy giải phóng sức người lao động
mang lại hiệu quả cao, Hà Nội công cụ mưu sinh còm cõi tiêu hao sinh lực
không thấy tương lai).
Thời
điểm ấy 1960-70 đầy đủ chuẩn mực, khuôn mẫu, của một đất nước văn minh
ngày hôm nay. Tổng Thống và Lưỡng viện Quốc Hội (Thượng và Hạ Viện) –
Điển hình là một cuộc họp tại thượng nghị viện Việt Nam Cộng Hòa (ảnh).
Tự Do báo chí với hơn 50 tờ báo tư nhân các loại tại Sài Gòn so với
không có tờ báo tư nhân nào dưới chế độ CSVN ngày nay, sau hơn 2/3 thế
kỷ – CSVN gọi đó là thống nhất tự do dân chủ?
Sài
Gòn miền Nam – người dân luôn được giáo dục nhắc nhở phải tôn trọng tri
ân tưởng nhớ công lao các anh hùng tiền nhân của dân tộc, uống nước nhớ
nguồn, tưởng niệm và tôn vinh, làm tấm gương soi rọi cho hậu thế noi
theo (Kỷ niệm Lễ Hai Bà Trưng giữa lòng TP/Sài Gòn- và toàn dân tưởng
nhớ đức Trần Hưng Đạo – Anh hùng Vua Lê Lợi).
· Ngược
lại dưới chế độ CSVN – Đục bia xóa bỏ chiến công Hoàng Đế Quang Trung
(Đền Vua Quang Trung núi Dũng Quyết), gắn thêm ngôi sao VN lên cờ trung
Quốc, tổ chức “Đại Hội Toàn Dân, Quân VN nhớ ơn trung Quốc” tại thủ đô
Hà Nội!? cho vui lòng “đồng chí” 4 tốt 16 vàng…
* * *
Hai
hình ảnh trên, dưới – cách nay nửa thế kỷ cho thấy 1967 nhân dân SG bất
đồng chính kiến vẫn được chính quyền Sài Gòn tôn trọng chấp nhận cho
biểu tình.
Hơn 40 năm sau, 2011,
dưới chế độ CSVN tại Hà Nội – Sài Gòn, người dân biểu tình, dù là “yêu
nước” chống TQ xâm lược lại bị đàn áp tàn bạo!
1958 – Quần đảo Hoàng Sa thuộc lãnh
thổ Việt Nam Cộng Hòa – Do QL/VNCH quản lý. Ông Phạm Văn Đồng (CS Bắc
Việt) dưới sự chỉ đạo của ông HCM, ký công hàm xác nhận Hoàng Sa nằm
trong lãnh hải Trung Quốc.
1974 – Hải quân Trung Quốc xâm
lược đánh chiếm Hoàng Sa trong tay QL/VNCH – CS Bắc Việt im lặng. Trong
khi nhân dân Sài Gòn miền Nam và kiều bào hải ngoại biểu tình lên án và
phản đối hành vi xâm lược của Trung Quốc khắp nơi.
Những cuộc biểu tình của
đồng bào miền Nam – Việt Nam Cộng Hòa toàn quốc và khắp nơi trên thế
giới của Sinh viên và Việt kiều năm 1974 tố cáo và phản đối Cộng Sản
Trung Quốc xâm lược quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Băng rôn sinh viên học sinh đồng bào SàiGòn biểu tình tố cáo, phản đối Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa năm 1974:“Cương quyết tận diệt Trung Cộng kẻ thù truyền kiếp của dân tộc”.
27-1-1973, CSVN ký hiệp định đình chiến chấm dứt chiến tranh tại Paris.
Trong đó Điều khoản 5 qui định: Sự tái thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng các biện pháp hòa bình.
Bà Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại
hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973).
Tuy nhiên – Khi Mỹ rút hết quân – 1975
cộng sản Bắc Việt xua quân tràn vào đánh chiếm miền Nam Việt Nam, bất
chấp chữ ký của họ trước đó trong Hiệp Định Paris.
1975 – Sinh viên VN tại Pháp “để tang” cho đất nước ngày 30/4.
Những
bánh xích chiến xa của cộng sản miền Bắc VN đã nghiền nát giấc mơ của
gần 30 triệu người miền Nam đang mang khát vọng đưa Sài Gòn và miền Nam
VN cất cánh bay lên như Singapore, Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc ngày
nay.
Họ, CSVN lừa bịp dân tộc, lừa bịp
quốc tế, trơ tráo xé nát Hiệp Định Paris – Phá bỏ điều khoản 5: (Thống
nhất VN bằng những giải pháp hòa bình), họ dấu tiệt lá “cờ đỏ sao vàng”
vượt vĩ tuyến 17 bằng súng đạn, xâm lược đánh chiếm miền Nam bằng lá cờ
“nửa xanh, nửa đỏ” MTGPMN. Để khỏi vướng bận và “tranh công” vài tháng
sau 30/4 họ tự động hạ cờ “xanh đỏ” giải tán “tấm bình phong bù nhìn”
MTGP/MN này.
Chính họ – CSVN đã phạm một sai lầm
“vĩ đại” bắt cả dân tộc phải huynh đệ tương tàn hy sinh gần 5 triệu
người – một thế hệ thanh niên tinh hoa của quốc gia nằm xuống vô nghĩa,
đổi lại lấy về một giang sơn của cha ông làm hao hụt đất đai biên giới
biển trời hải đảo và còn hơn thế nữa họ đẩy người Mỹ đi để Biển Đông
trống trải không ai canh giữ, cho bọn bành trướng Trung Quốc rảnh tay tự
do thôn tính biển đảo quê nhà VN mà họ, CSVN, đang lực bất tòng tâm bắt
cả nước phải “Đại Hội toàn Dân-Quân VN nhớ ơn Trung Quốc”!
“… Và thật chua chát khi nền
văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch
sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm
phải…”
|
TRẦN GIA PHỤNG * PHẠM QUỲNH
Tại sao Cộng Sản giết Phạm
Quỳnh?
GS. Trần Gia Phụng
Việt Minh cộng sản đã giết Phạm Quỳnh (1892-1945) hai lần:
Lần thứ nhất hạ sát, che giấu và phi tang thân xác ông tại Huế năm 1945. Lần thứ
hai, bóp méo lịch sử, viết sai lạc về Phạm Quỳnh, nhằm hủy diệt luôn sự nghiệp
và thanh danh của ông. Một câu hỏi cần được đặt ra là lúc đó Phạm Quỳnh đã rút
lui khỏi chính trường, tại sao cộng sản lại giết Phạm Quỳnh, trong khi
cộng sản không giết Trần Trọng Kim và toàn bộ nhân viên nội các Trần Trọng Kim,
là những người đang còn hoạt động? Câu hỏi nầy cần tách ra làm hai phần để dễ
tìm hiểu:
Thứ nhất
Từ khi đến Trung Hoa hoạt động năm 1924, Hồ Chí Minh, điệp
viên của Đê Tam Quốc tế Cộng sản, lúc đó có tên Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, đã chủ
trương “giết tiềm lực”. Giết tiềm lực là tiêu diệt tất cả những cá nhân có khả
năng tiềm tàng mà không chịu theo chủ nghĩa cộng sản hay đảng Cộng Sản, có thể
sẽ có hại cho đảng Cộng sản trong tương lai. Những người nầy về sau có thể sẽ
hoạt động chính trị và có thể sẽ gây trở ngại, gây nguy hiểm cho sự phát triển
của cộng sản. Nạn nhân danh tiếng đầu tiên của chủ trương giết tiềm lực của Hồ
Chí Minh là Phan Bội Châu (1867-1940). Theo hồi ký của Trần
Huy Liệu, sau khi Nhật đầu hàng, người Pháp nhảy dù xuống Huế, liền hỏi ngay đến
Bảo Đại, Phạm Quỳnh và những người cộng tác với Pháp trước đó.
Nhiều người cho rằng việc người Pháp muốn kiếm cách liên
lạc với cựu hoàng Bảo Đại và Phạm Quỳnh (vì lý do gì không được rõ) vô tình đã
làm cho VM lo ngại, sợ rằng một khi người Pháp trở lui, Pháp sẽ nhờ Phạm Quỳnh
và những người đã từng làm việc với Pháp như Ngô Đình Khôi giúp Pháp lật ngược
thế cờ, đưa cựu hoàng trở lại cầm quyền.
Do đó VM vội vàng “mời” cựu hoàng Bảo Đại rời Huế ngày
4-9-1945, ra Hà Nội làm cố vấn chính phủ, để cách ly cựu hoàng với cố đô, chiếc
nôi của nhà Nguyễn, đồng thời cách ly cựu hoàng với những cận thần cũ. Vì vậy VM
giết ngay các ông Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi ngày 6-9 để trừ hậu
hoạn.
Thứ hai
Khi cướp chính quyền, VM đã chủ ý giết một số người trong
đó có Phạm Quỳnh. Việt Minh chủ ý giết Phạm Quỳnh vì:
1. Phạm Quỳnh muốn xây dựng nền quân chủ lập hiến tại nước
ta, và cho rằng cộng sản là “nạn dịch” gây bất ổn xã hội. (...) Phạm Quỳnh
muốn xây dựng nền quốc học trong khi Việt Minh muốn phổ biến chủ nghĩa cộng
sản.
2. Ở trong nước, Phạm Quỳnh tiêu biểu cho giới trí thức làm
văn hóa, theo chủ nghĩa dân tộc, lập trường quốc gia, bất bạo động, dấn thân
hoạt động chính trị. Việt Minh giết Phạm Quỳnh để đe dọa, uy hiếp và khủng bố
tinh thần giới trí thức hoạt động văn hóa trên toàn quốc. Đây là lối mà người
xưa gọi là “sát nhất nhân, vạn nhân cụ” (giết một người, mười ngàn người
sợ).
3. Đối với nước ngoài, Phạm Quỳnh là người được Pháp ủng hộ
và rất có uy tín trên chính trường Pháp. Với đường lối ôn hòa, ông còn có thể
được cả Nhật, Trung Hoa (lúc bấy giờ do Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng cầm
quyền), Anh, Hoa Kỳ chấp nhận hơn là đường lối cực đoan theo Liên Xô của Hồ Chí
Minh.
4. Hồ Chí Minh muốn chụp lấy ngay thời cơ tạo ra do khoảng
trống chính trị sau tối hậu thư Potsdam vào cuối tháng 7-1945, nên chủ trương
tiêu diệt tất cả những người nào có khả năng tranh quyền với Hồ Chí Minh, để cho
ở trong cũng như ngoài nước thấy rằng chỉ có một mình Hồ Chí Minh mới xứng đáng
lãnh đạo đất nước. Phạm Quỳnh đã từng là thượng thư bộ Lại, đứng đầu triều đình
Huế. Đặc biệt những điều ông viết về tương lai thế giới mà ông đưa ra từ 1930
trong bài “Nước Nam sẽ ra sao năm mươi năm sau?" đều đã diễn ra đúng theo ông
tiên liệu, như mối đe dọa của Nhật Bản, nạn dịch cộng sản, xung đột Thái Bình
Dương, đại hỏa hoạn ở châu Âu [thế chiến 2]. Nhờ thế mà uy tín Phạm Quỳnh lên
rất cao.
Phạm Quỳnh có uy tín và tư thế lớn đối với dư luận trong và
ngoài nước, là một trong những người có thể trở thành đối thủ đáng ngại của Hồ
Chí Minh, nên Hồ Chí Minh quyết tiêu diệt Phạm Quỳnh để tránh trở ngại về
sau.
5. Phạm Quỳnh bị giết ngày 6-9-1945. Hồ
Chí Minh cướp chính quyền ngày 2-9-1945, ra lệnh “mời” Bảo Đại ra Hà Nội, và Bảo
Đại rời Huế ngày 4-9-1945. Như thế có nghĩa là Hồ Chí Minh đã về Việt Nam, đã
cướp được chính quyền, đã nghĩ đến cựu triều đình Huế, đến việc đưa Bảo Đại ra
Hà Nội, vậy chắc chắn Hồ Chí Minh không thể quên hay không biết chuyện Phạm
Quỳnh. (...) Giết xong Phạm Quỳnh, cộng sản tính việc hủy
diệt luôn hình ảnh sáng chói của nhà văn hóa Phạm Quỳnh, tức giết Phạm Quỳnh lần
thứ hai. (...)
Sau năm 1954, rồi 1975, chính đảng Cộng sản Việt Nam đã
nhập cảng và áp dụng một cách máy móc chính sách văn hóa Mác, Mao và kinh tế chỉ
huy rập theo khuôn Liên Xô và Trung Cộng, đã làm cho Bắc Việt rồi cả Việt Nam
suy kiệt về mọi mặt cho đến ngày nay mà chưa tìm ra lối thoát.
Nếu nói rằng: Phạm Quỳnh hợp tác với Pháp để mưu cầu chủ
quyền cho Việt Nam, bảo vệ quyền lợi của quốc gia là làm tay sai cho ngoại bang,
còn Hồ Chí Minh và đảng cộng sản theo Nga Hoa, bán đứng quyền lợi đất nước, thì
không phải là tay sai ngoại bang? Nếu nói rằng Phạm Quỳnh hợp tác công khai với
Pháp, viết bài trình thuật rõ ràng các hoạt động của ông là phản quốc, trong khi
Hồ Chí Minh làm gián điệp cho Đệ tam Quốc tế Cộng sản, cầu viện Trung Quốc và
Liên Xô là không phản quốc?
Nếu nói rằng Phạm Quỳnh viết bài quảng bá học thuật Âu tây,
đề cao tư tưởng dân quyền của Voltaire, Montesquieu, Rousseau là không có tinh
thần dân tộc, còn cộng sản phổ biến tư tưởng Marx, Lenin, và nhất là chủ nghĩa
Stalin thì gọi là gì? Phạm Quỳnh dịch thơ Corneille, Racine là bồi bút, còn Tố
Hữu làm thơ gọi Stalin là ông nội, “thương cha thương mẹ thương chồng / thương
mình thương một thương ông thương mười”, thì không bồi bút?
Nói cho cùng, nếu Phạm Quỳnh chỉ là người học trò
bình thường của Voltaire, Montesquieu hoặc Rousseau thì cũng đáng mừng cho dân
tộc Việt Nam, vì tư tưởng của các nhà học giả Pháp nầy là ánh sáng soi
đường cho nhân dân toàn thế giới xây dựng nền tự do dân chủ phân quyền pháp
trị.
Trong khi đó Hồ Chí Minh là “một người học trò trung thành
của Các Mác và V. I. Lê-nin” (...), và nhất là người học trò xuất sắc của
Stalin, thì thực tế lịch sử đã chứng minh rằng đó là hiểm họa độc tài đen tối
khốc liệt nhất từ trước đến nay trong lịch sử Việt Nam.
Ngày nay, sau những biến động đảo điên của thời cuộc, mọi
người nên công tâm tìm hiểu Phạm Quỳnh và nhìn lại sự nghiệp của ông. Trước ngã
ba đường vào đầu thế kỷ 20, giữa cựu học, Tây học, và tân học, Phạm Quỳnh chọn
con đường tân học, cải tiến và hoàn chỉnh văn học Quốc ngữ để làm phương tiện
xây dựng quốc học, vừa bảo vệ quốc hồn quốc túy, vừa bồi đắp thêm bằng cách du
nhập những tinh hoa văn hóa nước ngoài.
Chủ trương hòa nhập văn hóa (acculturation) của
Phạm Quỳnh xét cho cùng rất quý báu và cần thiết cho đất nước, vì nếu
chỉ mải mê tranh đấu chính trị và quân sự, mà không xây dựng nền văn hóa dân tộc
dựa trên quốc hồn, quốc học và quốc văn, thì người Việt vẫn bị trì trệ trong sự
nô lệ tinh thần. Những đóng góp của ông trong việc phát triển nền văn chương
Quốc ngữ thật lớn lao. Những vấn đề văn chương, triết lý tổng hợp đông tây ông
đã viết, những ý kiến do ông đưa ra trong các bài báo, kể cả những ý kiến ông
tranh luận về truyện Kiều, về Nho giáo, vẫn còn có giá trị. Giấc mơ của Phạm
Quỳnh về quốc học, quốc hồn lại càng cần được cổ xúy làm nền tảng giáo dục tinh
thần cho mọi người Việt Nam ngày nay ở trong cũng như ở ngoài nước. Phạm Quỳnh
là nhà văn hóa lớn của Việt Nam thời hiện đại.
Về chính trị, Phạm Quỳnh viết nhiều tiểu luận bằng tiếng
Việt cũng như bằng tiếng Pháp để tranh đấu thực hiện lý tưởng chính trị của ông.
Nhiều người thường đồng nghĩa nền quân chủ với phong kiến hoặc thực dân, nên cho
rằng quan niệm quân chủ lập hiến của Phạm Quỳnh là thủ cựu. Cần phải chú ý là
Phạm Quỳnh chủ trương bất bạo động. Ông chọn thể chế quân chủ lập hiến với hy
vọng thúc đẩy Việt Nam chuyển biến một cách ôn hòa trong trật tự.
Phải tránh vơ đũa cả nắm, và phải rõ ràng như thế mới hiểu
được tâm trạng cùng sự can đảm của những nhà trí thức, trong hoàn cảnh éo le của
đất nước, dấn thân hoạt động chính trị, phụng sự dân tộc, nhất thời đã bị hiểu
lầm sau những cơn lốc tranh chấp chính trị kéo dài trên quê hương yêu dấu, trong
đó Phạm Quỳnh là trường hợp điển hình nhất.
Trần Gia Phụng
CAO ĐẮC TUẤN * HỒ CHÍ MINH
Tài đóng kịch của Hồ Chí Minh dưới mắt học giả Tây phương
Tóm lược: Hồ Chí Minh, lãnh tụ đảng cộng sản Việt Nam, có tiếng về tài đóng kịch và những xảo thuật lừa đảo. Nhiều học giả Tây phương viết về chuyện đó từ hơn 40 năm nay. Jean Lacouture mô tả Hồ là một người tự đạo diễn và đóng kịch. Mieczyslaw Maneli coi chuyện Hồ khóc lóc là một thủ thuật rẻ tiền. Màn trình diễn điển hình là cách Hồ hành xử trong chương trình cải cách ruộng đất vào những năm 1950. Hồ kết tội bà Năm Cát Hanh Long tội giết người trong một bài báo viết dưới bút hiệu, nhưng sau đó đóng kịch như thể ông ta không biết gì về bà khi được biết là bà bị xử tử chết. Năm 1956, Hồ công khai thừa nhận sai lầm trong cuộc cải cách điền địa. William Duiker tin rằng sự nhìn nhận này được thúc đẩy bởi chỉ thị về thực hành tự phê bình của Khrushchev trong bài diễn văn tố cáo Stalin. Trong lúc đọc diễn văn, Hồ có dịp trổ tài đóng kịch bằng cách tuôn nước mắt cá sấu.
***
Nhiều học giả Tây phương biết rõ khả năng đóng kịch với ý định
lừa dối của Hồ. "Gian dối là nền tảng trong sự nghiệp Hồ Chí Minh và
đảng ông ta" (Blum 1982, 218). Hồ có khả năng hèn nhát (Brocheux 2007,
159); ông ta có tài cải trang và nói láo (sđd., 137). "Hồ
Chí Minh là một tên lừa đảo xuất chúng, suốt đời giả bộ là
một người hoàn toàn ngược lại con người thực sự của ông ta"
(Nixon 1986, 32). Hơn 40 năm trước đây, Jean Lacouture, một học giả
Pháp, phóng viên, sử gia, và tác giả nhiều sách tiểu sử về
các lãnh tụ thế giới, viết một sách về Hồ năm 1968 với những
lời phê bình sắc bén về cá tính Hồ. Mieczyslaw Maneli, đại
biểu cộng sản Ba Lan trong Ủy Ban Giám Sát Quốc Tế (UBGSQT) tại
Việt Nam, cố vấn luật và chính trị trong năm 1954-1955, và
trưởng phái đoàn trong năm 1963-1964, xuất bản một sách vào năm
1971 về kinh nghiệm của ông tại Việt Nam với nhiều đoạn văn về
Hồ.
Jean Lacouture là cảm tình viên cộng sản trong cuộc chiến tranh
tại Việt Nam. Là nhà báo, Lacouture có nhiều dịp gặp gỡ Hồ,
phỏng vấn ông ta, và tương tác với những người khác có kiến
thức riêng tư về Hồ. Là người quan sát tinh tế, Lacouture (1968,
217) mô tả Hồ là một nhà sản xuất phim kịch chuyên nghiệp. "Ông
ta lúc nào cũng dàn dựng sân khấu cho chính ông ta, lúc nào
cũng nhìn mọi tình trạng với mắt người sản xuất phim kịch."
Lacouture kể một chuyện tiêu biểu cho tài đóng kịch của Hồ. Khi
Hồ tới Pháp năm 1946, ông ta được mời tới tòa Đô chính. "Ban
đầu ông ta từ chối mọi thức ăn thức uống, nhưng sau đó ông ta
đổi ý, lựa một trái táo đẹp, bỏ vào túi và, trước tia nhìn
kinh ngạc của Chủ tịch [Hội đồng Thành phố Paris, Henri
Vergnolle], bước ra khỏi tòa nhà; kế tiếp ông ta bước vội xuống
mấy bậc và, trước đám đông reo hò, đưa trái táo cho một bé
gái" (sđd.) Đối với những người ái mộ Hồ, hành động đó phản
ảnh bản chất hòa nhã lịch sự và lòng yêu thương trẻ em của
ông ta. Tuy nhiên, đối với đa số, đó chỉ là một thủ thuật rẻ
tiền để lấy lòng thiên hạ.
Hồ luôn luôn cố tạo dựng mối liên hệ nồng hậu với thường dân.
"Ông ta lúc nào cũng nói chuyện với thường dân với giọng dễ
dãi hoặc như cha ch́ú, lúc nào cũng phân phát mấy trái cam
hoặc mấy miếng thức ăn ngon cho trẻ em" (sđd.). Tuy nhiên,
kiểu của ông ta không theo lối đích thực Việt Nam. "Sự phối hợp
của đóng kịch, lôi cuốn và hòa nhã đưa đến một cá tính có
vẻ Tàu hơn là Việt" (sđd.). Người Việt, như Lacouture tinh tế
quan sát, "theo nguyên tắc thì thẳng thắn hơn, tình cảm hơn, ít
bộc lộ." (sđd.). Cho dù lối đóng kịch của Hồ là Tàu hay Việt,
"trong cả sự xảo quyệt của ông ta, có cái gì nồng ấm, thân
thiện và dối trá về cách Hồ nói chuyện với đồng bào ông ta"
(sđd., 217-218).
Một bậc thầy về nhỏ nước mắt cá sấu, Hồ từng nói với thư ký riêng,
Vũ Đình Huỳnh, "Đôi khi những giọt nước mắt giả tạo cũng hữu ích
trong việc cho người ta hiểu một điểm trong bài diễn văn" (Duiker
2000, 572). Hồ được biết "oà khóc đóng kịch bất cứ lúc nào và
chỗ nào" (Nguyễn 2012, 577 ghi chú 9), nhất là khi có đám đông
như trong một nghi lễ (Xem, thí dụ như, Huỳnh 2014). Tuy nhiên,
tài đóng kịch của Hồ không phải lúc nào cũng hoàn hảo.
Lacouture (1968, 217) nhận xét về tài đóng kịch của Hồ như sau:
"Vai trò ông ta đóng thì quá phát triển đầy đủ không thể nào
mà hoàn toàn tự phát được, và chiếc khăn tay lớn của ông ta
thường quệt trên cặp mắt khô queo."
Mieczyslaw Maneli biết rõ Hồ qua công việc là đại biểu trong
UBGSQT năm 1954-1955 và những lần thương lượng ngoại giao kín cho
một giải pháp hòa bình cho Việt Nam vào năm 1963. Maneli có
nhiều phiên họp với Hồ và Phạm Văn Đồng (Maneli 1975). Có lần
khi Hồ bày tỏ nỗi buồn khi kể lại cái chết của Lenin, "nước mắt tuôn ra
mắt ông ta và ông ta lau má mình" (Maneli 1971, 154). Theo Maneli, một
phóng viên Ba Lan nổi tiếng cũng chứng kiến Hồ làm y hệt
chuyện đó trước mặt bà ta trước đó (sđd.). Hành động đó
biểu hiện đạo đức giả đến độ Maneli phải thốt lên, "Thật là khó
tin rằng một người đóng một vai trò rất quan trọng trong lịch sử đương
thời lại dùng một thủ thuật rẻ tiền để nhấn mạnh lòng trung thành
của mình với chế độ Cộng Sản" (sđđ.).
Tuy nhiên, Bùi Tín, cựu đại tá trong Quân đội nhân dân Việt Nam và
người bất đồng chính kiến với chính phủ Việt Nam, "hoàn toàn
chống đối bất kỳ ý kiến nào nói [Hồ] là một người đóng
kịch tài ba" (Bui 1999, 17). Cũng nên ghi nhận rằng Bùi Tín viết
câu đó trong sách in năm 1999, khi có thể ông chưa biết được
những sự thật bây giờ được biết về Hồ Chí Minh. Gần đây, sau
khi biết về vụ bà Cát Hanh Long (dưới đây), Bùi Tín nói là
mọi chuyện về Hồ là chính trị gia, nhà ngoại giao, thi sĩ, và
nhà báo giỏi nhất đều là thêu dệt (Bùi 2014).
Tài đóng kịch và dàn dựng sân khấu của Hồ có thể được diễn
giải hay nhất qua vai trò ông ta trong chương trình cải cách ruộng đất
vào những năm 1950.
Ngày 21 tháng 7 năm 1953, một bài báo xuất hiện trên tờ báo Nhân Dân
với nhan đề: "Địa chủ ác ghê." Bài báo lên án một phụ nữ tên là Nguyễn
Thị Năm, chủ sở hữu của Cát Hanh Long, và các con bà vì tội giết chết
260 người nông dân vô tội (Nguyễn 2010).
Địa chủ ác ghê
Thánh hiền dạy rằng: "Vi phú bất nhân". Ai cũng biết rằng địa chủ thì
ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khoá - thế
thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí
dụ:
Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:
Giết chết 14 nông dân.
Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.
Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người - năm 1944, chúng đưa 37 gia
đình về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và
cho ăn đói. Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không
còn một người.
Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân - Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân
bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm
nhiều. Ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.
Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở
dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt.
Chỉ mấy tháng, 15 em đã bỏ mạng.
Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng bào!
Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ:
Trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần, rồi dội nước lạnh vào người.
Hoặc bắt đội thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào
vai, đau buốt tận óc tận ruột.
Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống.
Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng hộc máu. Bơm nước vào bụng, rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra.
Chúng đổ nước cà, nước mắm vào mũi nông dân, làm cho nôn sặc lên.
Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt.
Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia mẹ con chúng đã
thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám,
chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng
chiến.
Trong cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã đưa đủ chứng
cớ rõ ràng ra tố cáo. Mẹ con Cát-hanh-Long không thể chối cãi, đã thú
nhận thật cả những tội ác hại nước hại dân. Thật là:
Viết không hết tội, dù chẻ hết tre rừng,
Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước bể!
(21-7-1953)
Những lời buộc tội khắt khe bà Cát Hanh Long và các con bà thật là
tác hại. Họ coi như có tội trước khi xử. Bài viết này được viết bởi
một người bí ẩn, ký tắt C.B. Lúc ấy không ai biết C.B. là ai. Tuy
nhiên, C.B. đã được khám phá là một bút danh của Hồ Chí Minh (Viện
1986, 56). Hồ viết rất nhiều bài báo dưới bút danh C.B. (Xem, thí dụ,
Viện 1986, 55-56, 66-68, 78-84, 90-92; Viện 1995, 414-415, 412-413).
Bút danh C.B. thực sự được dùng trên 147 tài liệu bằng văn bản từ tháng
3 năm 1951 đến tháng 3 năm 1957 trên báo Nhân dân (Tin 2014; Trần
2014; Wikipedia 2014).
Tuy nhiên, bài "Địa chủ ác ghê" ở trên không được chính phủ
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) in trong các ấn
phẩm chính thức về các bài viết của Hồ. Sự cố tình giấu
giếm bài này rõ ràng cho thấy sự nhận tội về phẩm cách Hồ
hèn hạ ném đá giấu tay. Một hậu quả trong việc không in bài
này là nhiều học giả Tây phương, thường dựa vào các ấn phẩm
chính thức của chính quyền, không biết đến cái bằng chứng tác
hại tiêu hủy hình ảnh thánh thiện của Hồ. Bài "Địa chủ ác
ghê," tuy nhiên, được phổ biến rộng rãi trên Internet (Bùi 2014;
Nguyễn 2010; Tin 2014; Trần 2014). Với bằng chứng không thể chối
cãi này, các sách sử, nhất là những sách về tiểu sử Hồ như
sách của Quinn-Judge (Quinn-Judge 2002), Duike (Duike 2000), và
Brocheux (Brocheux 2007), sẽ phải được viết lại.
Ngoài ra, dùng bút danh Đ.X. (Xem, thí dụ, Viện 1995, 368, 415, 417,
419; Wikipedia 2014), Hồ viết một bài nhan đề "Địa chủ phản động ác
ghê" đăng trong tờ báo Cứu Quốc, số 2459 (ngày 2 tháng 11 năm 1953)
(Viện 1995, 413). Qua việc bao gồm bài "Địa chủ phản động ác
ghê" của Đ.X. là một trong những bài viết của Hồ trong một ấn
phẩm chính quyền chính thức, chính phủ CHXHCNVN công khai thừa
nhận bài này là do Hồ viết. Tuy lời lẽ trong bài này không ác
độc và rõ rệt như bài "Địa chủ ác ghê" của C.B., nội dung của
hai bài như nhau, nhất là cách dùng chữ đặc thù "địa chủ...
ác ghê." Điều này cho thấy cả hai bài đều do cùng một người
viết. Những bài viết này mô tả những tội ác của chủ đất và buộc tội họ
hợp tác với Pháp để phản bội đất nước và nhân dân.
Hồ ký sắc lệnh cải cách ruộng đất, bắt đầu chương trình từ tỉnh Thái
Nguyên để bắt giữ và truy tố bà Năm Cát Hanh Long là nạn nhân đầu tiên.
Mặc dù đã đóng góp đáng kể cho Đảng Cộng sản, cung cấp nơi trú ẩn và
dụng cụ vật liệu cho các lãnh tụ Đảng trong những năm đầu của cuộc
cách mạng, bà Năm Cát Hanh Long bị kết án tử hình và xử tử (Nguyễn
2010). Hồ được thông báo về cuộc xử tử, nhưng không làm gì để ngăn
chặn thảm kịch đó (Brocheux 2007, 158; Bui 1999, 29). Thay vì vậy,
ông ta tuyên bố: "Người Pháp nói rằng không bao giờ nên đánh phụ nữ,
ngay cả với một bông hoa, mà mấy người, mấy người để cho bà ta bị
bắn!" (trích trong Brocheux 2007, 158; Logevall 2012, 633). Hồ làm
như không biết gì về bà Năm Cát Hanh Long trong khi chính ông ta
là người đã viết một bài báo kết tội bà với những lời buộc
tội nặng nề nhất. Một kẻ lật lọng, ông ta bây giờ la mắng
thuộc hạ là đã giết bà. Thí dụ này không những cho thấy tài
đóng kịch mà còn sự gian ác kinh khủng, hiểm độc, hèn nhát, và
đạo đức giả của Hồ. Tệ hơn nữa, ông ta núp sau cây bút và lạm dụng sức
mạnh báo chí để thúc đẩy mục tiêu mình. Cuối cùng nhưng không kém, ông
ta dùng sức mạnh báo chí lúc ông ta đang là lãnh tụ miền Bắc Việt
Nam.
Sau đó, vào tháng 8 năm 1956, Hồ và các lãnh tụ Đảng cùng nhau thừa
nhận những sai lầm (Duiker 2000, 485; Logevall 2012, 633). Sự nhìn
nhận sai lầm được coi là một hành động tự phê bình. Lúc ấy,
và ngay cả bây giờ, nhiều người tin rằng Hồ thành thật nhận
lỗi và xin lỗi.
Tuy nhiên, hành động tự phê bình của Hồ không thể thoát được
cặp mắt tinh tế của sử gia. William Duiker, sử gia Hoa Kỳ chuyên
về Việt Nam và Hồ Chí Minh, tin rằng sự nhìn nhận này thực ra
được thúc đẩy vì chính trị. Duiker quan sát rằng trước khi Hồ
công khai nhận lỗi, một biến cố long trời lở đất xảy ra trong
thế giới cộng sản. Vào ngày 25 tháng 2, 1956, Khrushchev đọc
bài diễn văn kinh hoàng tại Hội Nghị Đảng cộng sản Liên Xô thứ
20 (Khrushchev 1956). Ngoài chuyện tấn công Stalin và sự sùng
bái cá nhân, Khrushchev lên án sự đàn áp đại chúng và hủy
diệt vật chất. Một cách rõ rệt, Khrushchev (1956) thúc giục
các đồng chí cộng sản đẩy mạnh "sự thực hành rộng rãi về
phê bình và tự phê bình."
Duiker tin rằng bài diễn văn tháng 2 năm 1956 của Khrushchev lên án
Stalin và khuyến khích "tự phê bình" có thể là lý do cho các lãnh tụ
cộng sản Việt Nam thừa nhận sai lầm của họ trong chiến dịch cải cách
ruộng đất (Duiker 2000, 481-482). Phản ứng của Hồ và các lãnh tụ
đảng sau bài diễn văn của Krushchev hỗ trợ cho sự khẳng định
này. Vào tháng ba 1956, bộ chính trị của Đảng Lao Động Việt
Nam (ĐLĐVN), tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam hiện tại, họp
và cho phát thanh thông cáo, đề cập đến "sự đề cao cá nhân"
và "tinh thần tự phê bình" (sđd., 481). Sau đó vào tháng
tư 1956, Ủy ban Trung ương ĐLĐVN tổ chức một phiên họp mở rộng
và thảo luận về vấn đề tự phê bình. Lúc hội nghị kết thúc,
Ủy ban Trung ương công bố nghị quyết ca ngợi Đảng cộng sản Liên
Xô về "lòng can đảm nhìn nhận lỗi lầm" và ghi chú rằng ĐLĐVN
"chưa tham gia đủ trong việc xem xét những thực hành của chính
mình tại Việt Nam" (sđd., 482). Đặc biệt, Hồ tuyên bố rằng "bằng cách
tham gia trong tự phê bình, Đảng cộng sản Liên Xô đã thể hiện một mức
độ can đảm cần được bắt chước bởi tất cả các Đảng anh em" (sđd.,
482). Câu tuyên bố đó của Hồ cho thấy lời ông ta nhận lỗi về
cuộc cải cách ruộng đất chỉ là giả tạo và chỉ dùng để
chứng tỏ cho Liên Xô biết là ông ta và các đồng chí đang đi theo
chỉ thị mà lãnh tụ Liên Xô đưa ra.
Trong hội nghị trung ương thứ 10 vào tháng 10 năm 1956, Hồ lần
nữa nhấn mạnh tự phê bình và chống lại sùng bái cá nhân,
phản ảnh đúng chỉ thị của Khrushschev. "Từ Trung ương đến chi bộ
xã đều phải làm đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách; đều
phải chống các tệ sùng bái cá nhân và quan liêu, mệnh lệnh; đều phải
thật thà tự phê bình và phê bình thẳng thắn; đều phải thực sự dân chủ"
(Hồ 1956b). Hồ chẳng lạ gì với tự phê bình, một kỹ thuật
cộng sản dùng để vạch ra và hành hạ những phần tử phản động
(Xem, thí dụ như, Beng 2013); ông ta viết một bài về tự phê
bình vào năm 1947. Tuy nhiên, cái thời điểm (sau bài diễn văn
long trời lở đất của Khrushchev), sự kéo dài (ba năm sau khởi
đầu chương trình), nội dung các lời tuyên bố và diễn văn (sùng
bái cá nhân và tự phê bình), và sự trừng phạt chính thức
nặng nề (Trường Chinh bị bãi nhiệm), tất cả đều chỉ vào màn
kịch dàn dựng của Hồ.
Trong lúc đọc bài diễn văn nhìn nhận sai lầm về sự tàn bạo
trong cuộc cải cách ruộng đất, Hồ được dịp trổ tài đóng kịch
như thổ lộ với Vũ Đình Huỳnh. Ông ta móc khăn tay, lau mắt bên
phải rồi mắt bên trái (Hồ 1956a; Hình 1). Theo như Lacouture
(1968, 217), ắt là cặp mắt ông ta bấy giờ ráo hoảnh. Tuy tài
đóng kịch đó không thuộc cỡ đoạt giải Oscar, nó cũng ắt là
thành công trong việc thuyết phục nhiều dân Việt Nam tin là ông
ta thành thật.
Hình 1: Hồ Chí Minh chậm mắt trong diễn văn nhận lỗi về cải cách ruộng đất.
Ronald Reagan là một tài tử điện ảnh trước khi nhiệm chức Tổng
thống thứ 40 của Hoa Kỳ. Hồ Chí Minh là lãnh tụ ĐCSVN trước
khi biến thành một kẻ đóng kịch trước công chúng.
Thật là một sự tương phản!
______________________________________
Tài Liệu Tham Khảo:
Beng, Kor Kian. 2013. Communist Party's self-criticism COULD BACKFIRE. 3-10-2013.
http://www.nationmultimedia.com/opinion/Communist-Partys-self-criticism-COULD-BACKFIRE-30216181.html (truy cập 3-8-2014).
Blum, Robert M. 1982. Drawing the Line: The Origin of the American Containment Policy in East Asia. W.W. Norton and Company, New York, U.S.A.
Brocheux, Pierre. 2007. Ho Chi Minh: A Biography. Translated by Claire Duiker, Cambridge University Press, New York, U.S.A.
Bui Tin. 1999. Following Ho Chi Minh: Memoirs of a North Vietnamese Colonel, Translated and adapted by Judy Stowe and Do Van, University of Hawaii Press, Honolulu, U.S.A.
Bùi, Tín. 2014. Món nợ 62 năm. 11-4-2014.
http://danlambaovn.blogspot.com/2014/04/mon-no-62-nam.html (truy cập 3-8-2014).
Duiker, William J. 2000. Ho Chi Minh - A Life, Hyperion, New York, U.S.A.
Hồ Chí Minh. 1956a. Hồ Chí Minh tự phê bình sau cuộc cải cách ruộng đất (1956). http://www.youtube.com/watch?v=rVQlwTke01A (truy cập 27-7-2014).
_____. 1956b. Kết luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đợt 1 của Hội nghị Trung ương lần thứ 10 mở rộng. 17-2-2006.
http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&subtopic=9&leader_topic=&id=BT2090532594 (truy cập 31-7-2014).
Huỳnh Tâm. 2014. Hồ Chí Minh, một gián điệp hoàn hảo - Kỳ 5. 9-8-2014. http://danlambaovn.blogspot.com/2014/08/ho-chi-minh-mot-gian-iep-hoan-hao-ky-5.html (truy cập 9-8-2014).
Khrushchev, Nikita S. 1956. Modern History Sourcebook: Nikita S. Khrushchev: The Secret Speech - On the Cult of Personality, 1956.
http://www.fordham.edu/halsall/mod/1956khrushchev-secret1.html (truy cập 30-7-2014).
Lacouture, Jean. 1968. Ho Chi Minh: A Political Biography. Translated from the French by Peter Wiles. Translation edited by Jane Clark Seitz. Random House, New York, U.S.A.
Logevall, Fredrik. 2012. Embers of War. Random House, New York, U.S.A.
Maneli, Mieczyslaw. 1971. War of the Vanquished. Translated from the Polish by Maria de Gorgey. Harper and Row, New York, U.S.A.
_____. 1975. Vietnam, ’63 and Now. http://jfk.hood.edu/Collection/White%20Materials/Peace%20Negotiations-POWs/POWs%203873.pdf (truy cập 8-8-2014).
Nguyễn Công Luận. 2012. Nationalist in the Viet Nam Wars: Memoirs of a Victim Turned Soldier. Indiana University Press, Indiana, U.S.A.
Nguyễn Quang Duy. 2010. Bà Cát Hạnh Long Nguyễn Thị Năm và ông Hồ chí Minh (Madame Cát Hạnh Long Nguyễn Thị Năm and Mr. Hồ chí Minh). Đăng 10-7-2010. http://8406vic.blogspot.com/2010/07/ba-cat-hanh-long-nguyen-thi-nam-va-ong.html (truy cập 30-7-2014).
Nixon, Richard. 1986. No More Vietnams. Avon Books, New York, U.S.A.
Quinn-Judge, Sophie. 2002. Ho Chi Minh: the Missing Years, 1919 - 1941. University of California Press, California, U.S.A.
Tin Không Lề. 2014. Bút danh C.B. là của ông Hồ? 3-4-2014. http://danlambaovn.blogspot.com/2014/04/but-danh-cb-la-cua-ong-ho.html (truy cập 30-7-2014).
Trần An Lộc. 2014. Chân dung của một tên bồi bút. 31-3-2014. http://danlambaovn.blogspot.com/2014/03/chan-dung-cua-mot-ten-boi-but.html (truy cập 30-7-2014).
Viện Mác – Lênin. 1986. Hồ Chí Minh Toàn Tập - Tập 6 (1-1951 – 7-1954). Sự Thật, Hà Nội, Vietnam.
Viện Hồ Chí Minh. 1995. Hồ Chí Minh Biên Niên Tiểu Sử - Tập V (1951 – 1954). Đặng Xuân Kỳ (Chief Ed.), Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Vietnam.
Wikipedia. 2014. Bút hiệu của Hồ Chí Minh. Thay đổi cuối cùng: 20-6-2014. http://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%BAt_hi%E1%BB%87u_c%E1%BB%A7a_H%E1%BB%93_Ch%C3%AD_Minh (truy cập 30-7-2014).
© 2014 Cao-Đắc Tuấn
SƠN TRUNG * TRƯƠNG TẤN SANG NÓI LÁO
Bộ ba Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng cuối năm 2014 sẽ có những số phận khác nhau. Đến đại hội Ruồi kỳ tới, Trọng Lú phải lui bước nhường cho Phạm Quang Nghị, còn hai anh Dũng Sang giành giựt nhau. Nhưng hai anh này chưa chắc đã quang vinh vì cả hai anh mặt mày đã bị bôi tro trát trấu vì vụ in tiền Polymer của Úc. Và cả hai anh có thể đã dính vào vụ buôn bán hoả tiễn cho phe Ukraine thân Nga. Vậy sẽ có nhân vật nào trong đảng hay trong nhân dân sẽ xuất hiện hay một trong hai anh Sang, Dũng vẫn tồn tại và chiến đấu vì chủ nhân vẫn thích con ngựa què?
Nguyễn Tấn Dũng kỳ này có vẻ im lặng, trong khi vài người ra sức tô lục chuốt hồng cho Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang và Phạm Quang Nghị. . Que sera sera? Cầu các ông ấy công thành danh toại. Nếu Nguyễn Tấn Dũng làm được cái gì đó đẹp mắt thì cũng đáng mừng. Chỉ sợ chúng nó toàn là con cháu ông cuội mà người nâng đại pháo uổng công! Kỳ này Trương Tấn Sang nhoi lên biểu diễn vài thành công lực gọi là, nhưng võ công của anh yếu xìu, và cũ rich. Bài viết của Trương Tấn Sang nhằm chỉ trích đồng chí X, và nhóm lợi ich, và nói về dân chủ, nhân dân. Ôi cái đề tài này thì xưa lắm, mà nói ra thiên hạ phì cười, vì thiên hạ thấy rõ tim gan anh rồi, ai cũng biết các anh nói xạo, nói bá láp chứ chẳng có ý nghĩa gì. Trong một thông điệp đăng trên tờTạp chí Cộng sản mới đây nhân dịp ngày 19/8 và 2/9, Trương Tấn Sang viết:
Chúng ta không thể chấp nhận những người miệng nói yêu nước nhưng vì lợi ích cá nhân, “lợi ích nhóm” mà tham nhũng, lãng phí, làm tổn hại đến lợi ích của đất nước, làm nghèo, suy yếu đất nước. Đây là “giặc nội xâm”, là những “khối u” trên cơ thể đất nước cần phải cắt bỏ.... "Chúng ta không sợ bất cứ một thế lực nào, dù là hung bạo nhất. Chúng ta chỉ sợ nhân dân mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước, chế độ ta."
Trong câu trên, ông nói nhiều điều vô nghĩa, và nói sai. Thông thường thông điệp của Tổng Thống hay Chủ tịch nước là nói với toàn dân, nhưng chữ " chúng ta " mà Trương Tấn Sang dùng ở đây là không nói với nhân dân mà chỉ nói với đảng viên của y, cho nên từ ngữ " chúng ta " của y là vô nghĩa, vì không bao gồm nhân dân, chứng tỏ rằng bọn chúng chẳng quan tâm gì đến nhân dân.
Đoạn đó cũng là lời nói láo. Chúng nó chỉ trích ai đó miệng nói yêu nước nhưng vì lợi ích cá nhân, “lợi ích nhóm” mà tham nhũng, lãng phí, làm tổn hại đến lợi ích của đất nước, làm nghèo, suy yếu đất nước nhưng bọn chúng có ai trong sạch? Trọng, Sang, Dũng, Hùng và cả ngàn vạn tên cộng sản đều là bọn cướp của giết người, tham ô nhũng lạm chứ chẳng phải riêng nhóm lợi ich của đồng chí X đâu! Tất cả bọn chúng nhất là mấy trăm tên trong trung ương đảng cướp đều là một bọn sâu mọt, phản quốc hại dân chứ có hay ho gì?
Câu tiếp theo lại rõ mặt gian dối, lưu manh vì vừa qua bọn chúng sợ Trung cộng không dám hé môi, cấm nhân dân biểu tình, trừng phạt các blogger yêu nước chống Trung Quốc xâm lược. Đoạn tiếp cũng nói láo vì bọn chúng phản quốc, hại dân, khủng bố nhân dân, cướp nhà đất nhân dân nghĩa là bọn chúng không coi trọng nhân dân, không sợ nhân dân vì bọn chúng cậy có công an, quân đội và mẫu quốc Trung Cộng bảo vệ .
Nói " dĩ bất biến ứng vạn biến "phải chăng bọn chúng muốn đảng và dân cứ ngồi yên, đừng biểu tình, đừng chống đối , đừng liên minh với Mỹ, với Nhật, đừng tố cáo, kiện cáo Trung quốc vĩ đại., vi phạm lời dạy 16 chữ vàng và bốn tốt của Đặng Tiểu Bình cho dù Trung cộng chiếm một phần hay toàn thể Việt nam? Lời của y là dối trá và ngụy biện để che đậy thái độ khiếp nhược, hèn hạ , bán nước, đầu hàng Trung cộng của chúng từ trước cho đến sau vu HD 981. Ngày nay, Lê Hồng Anh được Trọng Lú sai sứ Trung quốc vào ngày 26, 27-8-2014 để báo cáo và nhận chỉ thị. Tinh thần nô lệ, tinh thần bán nước vẫn trụ mãi trong đấu óc bọn đầu gấu Việt cộng. Đừng mong chúng đổi tư duy và thay đổi chế độ.
Ngày xưa Hồ Chí
Minh khéo che đậy nên dễ lừa bịp nhân dân. Ông Hồ kêu gọi toàn dân đoàn
kết, Tố Hữu ra rả ca ngợi tình quân dân cá nước:
Nhân dân là bể
Văn nghệ là thuyền
Thuyền xô sóng dậy
Sóng đẩy thuyền đi
Thuyền ra khơi xa
Gió căng buồm lộng
Thuyền là lao động
Gió là Đảng ta..
Nhưng khi nhờ Trung quốc mà thắng Điện Biên Phủ thì cộng sản trở mặt sát hại, khủng bố nhân dân và bắt nhân dân làm nô lệ.Và bây giờ chính bọn Trọng Sang Dũng Hùng và 16 con cọp trong chuồng Bách thú Hà nội đang gặm nhai xương thịt nhân dân, thế mà chúng vẫn nói đến nhân dân. Nghe tức cười hết sức. Nếu biết sợ dân, yêu dân, họ đã không sai công an đánh dân, giết dân và cướp nhà cửa, ruộng đất của nhân dân, cùng nhau công khai cướp bóc tiền và vàng bạc ngân hàng khiến cho ngân hàng trống rỗng, nợ công, nợ xấu tràn đầy, kinh tế quốc dân suy sụp.
Nếu sợ dân, chúng đã không ngang nhiên đưa vợ con, anh em, họ hàng chiếm giữ các vị trí kinh tế, chính trị quốc gia.Lãnh tụ các quốc gia sợ dân không tín nhiệm nhưng cộng sản đâu cần dân bỏ phiếu bầu cử. Việc lên xuống, vào ra là do tương quan lực lượng giữa bọn chúng gồm mấy trăm tên đầu trộm đuôi cướp trong trung ương cộng đảng với nhau mà cái trò "đảng cử dân bầu " là một trò đại bịp! Cộng sản từ trước cho đến bây giờ chỉ nghĩ đến chúng, không bao giờ nghĩ đến quốc gia, dân tộc, cho nên nghe Trương Tấn Sang nói mà người ta bật cười!
Quyền trong tay các anh tại sao anh không ra lệnh công an đừng hành hung nhân dân, trả tư do cho tù nhân lương tâm, trả tài sản cho nhân dân, thẳng tay trừng trị tham nhũng. Nếu các anh thấy bất lực thì sao các anh không từ bỏ đảng, chôn sống cái đảng phản quốc hại dân ấy đi? Và nếu thấy bất lực nhưng muốn bám víu quyền lợi, tại sao các anh không im miệng lại chẳng hơn nói ra những lời lẽ thối hoắc?
Trong khi từ đảng viên cho đến nhân dân đều đòi hỏi cộng sản từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, trả lại tự do dân chủ cho nhân dân thì Nguyễn Tấn Dũng quát thét công an mạnh tay đàn áp nhân dân, chống lại nhân dân và quan điểm nhân quyền của Liên Hiệp Quốc:
Thủ tướng chính phủ Việt Nam vừa lên tiếng kêu gọi lực lượng công an phải làm tốt nhiệm vụ giữ gìn ổn định chính trị, trật tự xã hội. (Thực tế tình trạng bất ổn tại Việt Nam)
Rõ ràng là bọn cộng sản dối trá bịp bợm, chúng dùng bạo lực để thống trị đất nước, ra sức kìm kẹp, khủng bố nhân dân. .Muốn tự do, dân chủ, nhân dân ta hãy đứng lên.
PHỤ LỤC I
Nỗi sợ của Chủ tịch Sang 'là có căn cứ'
Cập nhật: 14:19 GMT - thứ sáu, 22 tháng 8, 2014
'Nỗi sợ' của Chủ tịch Nước Việt
Nam về việc người dân đang 'mất lòng tin' ở Đảng là có cơ sở, theo bình
luận của một quan chức thành viên Hội đồng Lý luận Trung ương, cơ quan
tham mưu của Ban chấp hành Trung ương Đảng CSVN.
Trong một thông điệp đăng trên tờ Bấm
Tạp chí Cộng sản mới đây nhân dịp ngày 19/8 và 2/9, Chủ tịch
nước Việt Nam ông Trương Tấn Sang viết: "Chúng ta không sợ bất cứ một
thế lực nào, dù là hung bạo nhất. Chúng ta chỉ sợ nhân dân mất niềm tin
vào Đảng, Nhà nước, chế độ ta."
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
"Điều Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang nói là có căn cứ, bởi vì quy luật của muôn đời là có dân thì có tất, mà mất dân thì cũng mất hết...
"Cái mà nhân dân hiện nay người ta đang mất lòng tin chính vì không nhìn thấy những cán bộ, đảng viên công chức, quan chức của mình gương mẫu, hy sinh vì dân, mà lại làm hại cho dân"
Giáo sư Hoàng Chí Bảo
"Thế còn nói không sợ bất kỳ thế lực xâm lăng
nào, chỉ sợ nhất là mất lòng dân, thì muốn vậy phải chống được giặc nội
xâm, chủ nghĩa cá nhân,
"Cái mà nhân dân hiện nay người ta đang mất lòng
tin chính vì không nhìn thấy những cán bộ, đảng viên công chức, quan
chức của mình gương mẫu, hy sinh vì dân, mà lại làm hại cho dân.
"Dù bộ phận này không phải là tất cả, nhưng cũng là một bộ phận đáng kể, đáng phải lưu ý trong việc xử lý.
Trong một đoạn khác, thông điệp của ông Sang
viết: 'Chúng ta không thể chấp nhận những người miệng nói yêu nước nhưng
vì lợi ích cá nhân, "lợi ích nhóm" mà tham nhũng, lãng phí, làm tổn hại
đến đất nước, làm nghèo, suy yếu đất nước.
"Đây là giặc nội xâm, là những khối u trên cơ thể đất nước cần phải cắt bỏ."
'Dũng cảm, nghiêm khắc'
Trước đây, Chủ tịch Sang từng ví tham nhũng
trong Đảng như những "con sâu", "đàn sâu", khi được hỏi lần này ông Sang
có hàm ý gì hay không khi lại ví tệ nạn này với 'nội xâm' và 'các khối
u' cần cắt bỏ, Giáo sư Bảo nói tiếp:
"Những cách diễn đạt ấy của Chủ tịch Trương Tấn
Sang ở những thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một ý nghĩa, bản
chất, tức là nhấn mạnh nỗi lo lắng của chúng tôi (VN) hiện nay trước
tình trạng tham nhũng đã trở thành quốc nạn...
"Và nói rõ điều là trong một số người có chức,
có quyền hiện nay mà thoái hóa, hư hỏng, thì người ta có thể 'miệng nói
vì dân', nhưng mà hành động của họ lại 'không phải vì dân', cái gọi là
'lợi ích nhóm' đấy, thì đó là một cách nói rất dũng cảm, thẳng thắn và
nghiêm khắc."
Hôm thứ Năm, một cựu Quan chức lãnh đạo Văn
phòng Quốc hội nói với BBC cho rằng bài viết của Chủ tịch Việt Nam trong
thời điểm hiện nay là một thông điệp có tính 'nhắc nhở' và 'thức tỉnh'.
Từ Sài Gòn, luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm thường trực Văn phòng Quốc hội nói:
"Bài đó cũng là một bài đánh động để mọi người
phải nhìn thấy ra nên đặt lợi ích của dân tộc này, đất nước này, với độc
lập dân tộc, tự do, thống nhất đất nước, lãnh thổ là trên hết."
'Sai phạm đồng chí X'
"Cho nên lúc nào họ nghĩ ra, họ tỉnh ra, và đặt lợi ích dân tộc lên trên, thì lúc đó đất nước này mới khá"
Luật sư Trần Quốc Thuận
Theo luật sư Thuận, thông điệp của Chủ tịch Sang
trong thời điểm này không nhất thiết liên quan điều được cho là một
"chiến dịch PR" chuẩn bị cho cuộc vận động tái tranh cử của cá nhân ông
cho Đại hội Đảng lần thứ 12 sắp tới.
Ông nói: "Cái đó không có ai có thể đoán được,
nhưng rõ ràng cái nguyên tắc của nó là những người nào đã làm công việc
của mình không hoàn thành một cách xuất sắc, chưa nói rằng hư hại, thì
không thể được đưa lên chức vụ cao hơn.
"Cho nên những người nào ở trên cương vị đó mà
làm thành công, tốt, thì xứng đáng được tín nhiệm trong nước và quốc tế,
được đề cao, thì người đó xứng đáng được đưa lên, thì tôi cho rằng như
vậy thì Đại hội Đảng chọn người như thế mới là sáng suốt, chứ không phải
cứ là tuần tự như tiến.
"Ông này đi, ông kia ở, còn nếu những người đang
làm được việc mà để nghỉ thì đó cũng là một việc hoang phí, mà Đảng và
dân tộc Việt Nam người ta cũng không thể để một người hoang phí như thế
được."
Liên hệ việc một lần Chủ tịch Trương Tấn Sang đề
cập sai phạm của "đồng chí X" với thông điệp nhân dịp 19/8 và 2/9 năm
nay vốn nhấn mạnh chỉnh đốn trong Đảng, Luật sư Trần Quốc Thuận nói:
"Những sai phạm của những người, mà tạm gọi như
sai phạm của đồng chí X, thì sai phạm đó ở trên các cơ quan trung ương,
thủ trưởng cơ quan Trung ương, cũng như những người ở địa phương, là
'sai phạm đồng dạng'...
"Hiện bây giờ những người đó họ cũng phải nghĩ
ra rằng nếu họ cứ tiếp tục như thế này, họ không tỉnh ra, thì thử hỏi
cái đảng này, dân tộc này sẽ đi đâu, cho nên lúc nào họ nghĩ ra, họ tỉnh
ra, và đặt lợi ích dân tộc lên trên, thì lúc đó đất nước này mới khá."
'Toát lên nỗi sợ'
"Có lẽ không tới 1% thanh niên người ta có thể đọc hết được bài này, một cái bài nó cũng giống như một chục năm trước đây, nó là những câu từ rất sáo rỗng"
Kỹ sư Nguyễn Lân Thắng
Cũng hôm thứ Năm, bình luận với BBC về điều mà
Chủ tịch Việt Nam đang quan ngại như một 'nỗi sợ' trong thông điệp tháng
Tám của ông, một nhà hoạt động trên mạng xã hội của Việt Nam từ trong
nước nói.
"Bài viết này toát lên một nỗi sợ, đó là điều mà tôi thấy rõ nét nhất..." kỹ sư Nguyễn Lân Thắng nêu quan điểm từ Hà Nội.
"Ông Trương Tấn Sang viết "chúng ta không sợ bất cứ một thế lực nào, dù là hung bạo nhất".
"Tôi tự hỏi là cái chữ 'chúng ta' này là ai? Chúng ta này là nhân dân ta, hay đảng ta hay chính quyền ta?"
Khi được hỏi về khả năng và phạm vi có thể tác
động đến công chúng, đặc biệt là giới trẻ, của thông điệp này, nhà hoạt
động bình luận thêm:
"Có lẽ không tới 1% thanh niên người ta có thể đọc hết được bài này, một cái bài này nó cũng giống như một chục năm trước đây,
"Nó là những câu từ rất sáo rỗng, cuối cùng thực hiện những điều ấy, thì các ông làm được những cái gì?
"Đất nước này ngày càng tan hoang, cứ theo dõi
truyền thông báo chí thì bao nhiêu tệ nạn, bao nhiêu thứ và bức xúc của
người dân, mà cuối cùng thì ngày càng tệ hại hơn, không giải quyết được
cái gì cả," kỹ sư Lân Thắng nói với BBC
No comments:
Post a Comment