Wednesday, August 20, 2014
TÀI LIỆU MẬT THÀNH ĐÔ
Một số tài liệu về sự bán nước VN ác hại của Đảng CSVN...
* Thỏa Thuận Thành Đô ghê gớm thế nào cho sự tồn tại của đất nước VN?
* Một thiếu tướng VC yêu cầu Đảng CSVN tổng kết cuộc chiến 1979-1984 và công khai thỏa thuận Thành Đô.
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc
Hà Nội ngày 20 tháng 07 năm 2014
Kính gửi:
Đ/C Tổng Bí Thư BCHTƯ Đảng
Các đ/c Uỷ viên Bộ Chính Trị
Các đ/c Uỷ viên Ban Bí thư TƯ Đảng
Các đ/c ủy viên Trung ương Đảng khóa XI.
Tôi là: Lê Duy Mật – Thiếu tướng – Nguyên Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng Quân khu 2 và Tư lệnh Mặt trận 1979-1984 (Hà Giang) thay mặt một số đảng viên, xin được nêu thắc mắc và kiến nghị như sau:
Cuộc chiến tranh biên giới 1979 – 1984 cũng là một trong những cuộc chiến đẫm máu vô cùng đau thương trong lịch sử nước ta. Đây là cuộc chiến tương tự các cuộc chiến Bạch Đằng,Chi Lăng, Đống Đa, nhưng tại sao đã qua 30 năm mà cuộc chiến này vẫn không được tổng kết, đúc rút kinh nghiệm phục vụ cho mục tiêu bảo vệ Tổ quốc cấp thiết trước mắt, Việc tổng kết này vô cùng cần thiết và sẽ rất hữu ích khi mà đối tượng chiến đấu vẫn là một, khi mà quân xâm lựợc đang cận kề chứ không xa xôi như trong các cuộc chiến chống Pháp, chống Mỹ. Bên cạnh đó các chính sách đối với gia đình liệt sĩ và những người chống xâm lược năm 1979 – 1984 ,chúng tôi đã nhiều lần đề nghị nhưng vẫn không được giải quyết ,mà chỉ có những lời hứa hẹn xuông.
Phải chăng có một nguyên nhân mà chúng tôi săp nêu lên sau đây.
Chúng ta đều biết mọi tiêu cực trong xã hội hiện nay từ Trung Quốc gây ra, khiến cho nước ta sản xuất lẹt đẹt, lạc hậu, đã thế, họ lại còn có những lời sỉ nhục đôi với cả dân tộc ta :“Việt Nam là con hoang, loại vô liêm sỉ, phải cho thêm vài bài học”. Vậy mà, lãnh đạo ta không hề có một phản ứng nào!
Rồi khi bọn xấu trà trộn trong đám biểu tình được xúi giục phá phách gần 1000 nhà máy của Hàn Quốc, Đài Loan,Singapore,Trung Quốc, thì công an lúc đó làm ngơ , sau đó mới xuất hiện, chỉ xử lý qua loa và xin lỗi xin đền bù thiệt hại cho họ. Trong khi đó Tung Quốc đâm phá gần 30 tàu ,thuyền của chúng ta thì không quyết liệt đòi bồi thường, mà chỉ “nhẹ nhàng” lên án.
Khi có hiện tượng bất thường nho nhỏ về dân sự thì lập tức nửa đêm đại sứ của Việt Nam ở Bắc Kinh bị gọi đến để nhận thư phản kháng, còn khi Trung Quốc gây hại cho ta thì chỉ có cán bộ Bộ Ngoại giao Việt Nam đến gặp cơ quan Lãnh sự Trung Quốc tại Hà Nội để giao công hàm phản kháng.
Lạ lùng nhất là tỉnh ủy Quảng Đông mà lại ngang nhiên gửi công văn cho Bộ Ngoại giao Việt Nam yêu cầu phải thực hiện 16 việc phải làm. Một thái đọ trịch thượng ,coi thường nước ta rất vô lễ mà ta vẫn chịu đựng.
Trung Quốc tự tiện cho giàn khoan vào xâm nhập lãnh hải Việt Nam bất chấp mọi ý kiến phản đối của nhân dân ta và dư luận các nước lên án. Khi rút đi, họ tuyên bố là do họ đã xong việc. Trung Quốc làm như vậy mà ta vẫn khen Trung Quốc là bạn tốt, 16 chữ vàng và 4 tốt. Đến nỗi dư luận thế giới cũng phải ngạc nhiên về thái độ quá ư nhu nhược của chúng ta.
Ngạc nhiên hơn là Nhà nước đàn áp những người biểu tình chống xâm lược ở trong nước mà chỉ khuyến khích biểu tình ở nước ngoài.
Chẳng lẽ một dân tộc Việt Nam anh hùng đã ba lần chiến thắng Nguyên Mông, đã có Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu, mà nay lại hèn kém như vậy sao! Chúng tôi cho rằng nguyên nhân sâu xa là ở Thỏa hiệp Thành Đô ngày 4/9/1990 của một số vị lãnh đạo. Chúng tôi chưa rõ thực hư thế nào mà chỉ biết sau này những hiện tượng tiêu cực xảy ra đã thể hiện nội dung của bản Thỏa hiệp đó .
Xin trích một đoạn Thỏa hiệp Thành Đô: “Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh , như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông,Tây Tạng,Quảng Tây….
Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.” .(Hết trích) (1) .
Vì vậy, chúng tôi yêu cầu trong hội nghị TW này Bộ chính trị , Ban Bí thư cần công bố các văn bản của Thỏa hiệp Thành Đô ,để chứng minh thực hư thế nào.Nếu Thỏa hiệp Thành Đô là đúng như vậy thì rõ ràng là một bản thỏa hiệp rất nguy hiểm cho đất nước như là phản bội Tổ Quốc. Vì vậy, chúng tôi đề nghị Hội nghị TƯ xem xét và ra tuyên bố phản bác bản thỏa hiệp đó ,chấn chỉnh lại tổ chức, kỷ luật những người đã ký và những người thực hiện sau này. Có như vậy Đảng ta mới thực sự là một Đảng chân chính, dám nhận khuyết điểm, dám công khai khuyết điểm như Bác Hồ đã nói: “Một Đảng mà không dám nhận khuyết điểm, công khai khuyết điểm là một Đảng hỏng”.
Theo điều lệ Đảng (điều 3 khoản 3), Đảng là của nhân dân lao động ,Đảng của toàn thể đảng viên vì vậy chúng tôi có quyền yêu cầu phải công khai các hoạt động của những người lãnh đạo để dân biết ,dân bàn,dân làm,dân kiểm tra như trong các Nghị quyết TƯ đã đề ra .
Trên đây là những kiến nghị tâm huyết và bức xúc của đảng viên.Tôi mong rằng :Bộ chính trị ,Ban bí thư nên tôn trọng ý kiến của các đảng viên cơ sở và thực hiện các việc nói trên .Tóm lại là:
1- Tổng kết cuộc chiến tranh chống quân xâm lược năm 1979 ,thực hiện chính sách qui tập mồ mả ghi công các anh hùng liệt sĩ trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược cũng như bao cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc trước đây của dân tộc ta, tổ chức kỷ niệm trọng thể hàng năm.
2- Công khai bản Thỏa hiệp Thành Đô tháng 9/1990 để toàn dân ,toàn Đảng biết được thực hư và ra tuyên bố để giải thích các hiện tượng tiêu cực . Thỏa hiệp Thành Đô là thứ ung nhọt đang di căn khắp cơ thể đất nước ta.
Nguy cơ mất nước đang là sự thật, mong các đồng chí có lương tâm ,vì sự nghiệp của tổ quốc mà thực hiện cho được. Nếu ở Hội nghị Trung ương X này không ra được bản tuyên bố thì yêu cầu đưa vào chương trình Đại hội Đảng bất thường hoặc Đại hội 12.
Chúng tôi chờ mong hồi đáp của các đồng chí.
Kính
Thiếu tướng Lê Duy Mật
Thỏa thuận Thành Đô – bước lùi lịch sử thảm họa.
* Vương Trí Dũng.
Phát triển quan hệ không thù địch, hơn thế nữa còn phải thân thiện với các nước láng giềng, là một chính sách đúng đắn của mọi nhà nước yêu chuộng hòa bình công lý. Chính sách láng giềng thân thiện lại cần được ưu tiên hơn, khi láng giềng là một cường quốc. Bởi vậy, năm 1990, các nhà lãnh đạo Việt Nam tiến hành chính sách bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc sau hơn một thập kỷ chiến tranh và xung đột biên giới là việc cần làm.
Thế nhưng cái cách mà Việt Nam tiến hành chính sách bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc thì thật không bình thường. Không chỉ như vậy, nội dung bình thường hóa quan hệ mà Việt nam cố gắng để đạt được, cụ thể hóa bằng Thỏa thuận Thành Đô (4/9/1990), là một nội dung bất lợi cho Việt Nam. Không chỉ bất lợi, mà ngày càng thêm thảm họa. Mức độ thảm họa tăng theo cấp số nhân cùng với thời gian mà chính những người tham gia đàm phán Thỏa thuận Thành Đô đã không lường trước được.
Hai mươi tư năm trôi qua kể từ ngày ký Thỏa thuận Thành Đô, hậu quả khôn lường của nó đối với Việt Nam nguy hiểm đến nỗi mà ai trong số họ còn sống, bề ngoài không dám thể hiện, hoặc cố viện dẫn hoàn cảnh để thanh minh bào chữa, nhưng trong sâu xa tâm khảm, đều cảm thấy hối tiếc.
BA SAI LẦM
1. Sự hoảng hốt lịch sử
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã làm cho một số lãnh đạo Việt Nam hoảng hốt. Lo sợ sự sụp đổ thể chế, lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ đã đột ngột biến kẻ thù truyền kiếp – từng xâm lược Việt Nam năm 1979, liên tục đánh chiếm biên giới Việt Nam suốt trong thập kỷ 1980, và đã bị ghi vào Hiến pháp 1980 là kẻ thù – thành người “anh em” cùng phe xã hội chủ nghĩa. Đó là kết quả của Thỏa thuận Thành Đô ký ngày 4/9/1990 giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đại diện Việt Nam là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, có sự chứng kiến của Cố vấn Phạm Văn Đồng. Còn đại diện phía Trung Quốc là Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng.
Việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc là việc cần làm. Nhưng quá hốt hoảng trước sự sụp đổ của phe xã hội chủ nghĩa, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã vội vã ký một thỏa thuận bất lợi cho Việt Nam nhằm bảo vệ chế độ, bất lợi đến nỗi mà chính cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhiều lần biểu lộ sự băn khoăn.
2. Ảo tưởng về chế độ
Sai lầm thứ hai là ảo tưởng về chế độ xã hội chủ nghĩa. Đáng lý ra sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và ở các nước Đông Âu phải là vấn đề lý luận nghiêm túc để các nhà lãnh đạo Việt Nam phân tích suy ngẫm. Rõ ràng chủ nghĩa xã hội đồng loạt sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu không phải do kẻ thù bên ngoài, mà do chính các nguyên nhân phát triển nội tại của mô hình chủ nghĩa xã hội. Qua thực tiễn tồn tại, không khó khăn để nhận ra rằng, mô hình chủ nghĩa xã hội chứa đựng những lỗi hệ thống mang tính nguyên tắc, quyết định sự sống còn của mô hình. Muốn sửa đổi các lỗi hệ thống đó thì phải thay đổi mô hình. Điều đó chứng tỏ các nhà lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ, tuy dày dạn kinh nghiệm kháng chiến chống ngoại xâm – mà thắng lợi giành được là do lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân quyết định – lại chưa để tâm cần thiết đến mặt nghiên cứu lý luận.
3. Nhầm lẫn về Trung Quốc
Nhưng sai lầm đáng buồn hơn cả là nhận thức không nhất quán về Trung Quốc. Trung Quốc công khai tham vọng xâm chiếm Việt Nam. Trung Quốc gây ra cho Việt Nam những tổn thất to lớn trong Hiệp định Genève. Trung Quốc phá hoại cản trở Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Bất chấp bao nhiêu năm “cùng phe xã hội chủ nghĩa”, từng “anh em bè bạn”, nhưng năm 1979 Trung Quốc đã ngang ngược mang 60 vạn quân tấn công Việt Nam. Trong suốt 10 năm tiếp theo Trung Quốc liên tục tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Việt Nam. Vô vàn cay đắng thâm thù từ Trung Quốc, làm sao mà các nhà lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ, trong thời khắc sụp đổ phe xã hội chủ nghĩa, lại có thể cả tin rằng ý thức hệ xã hội chủ nghĩa là phép màu hoàn lương được dòng máu bá quyền Tần Thủy Hoàng – Mao Trạch Đông, để Việt Nam và Trung Quốc lại là “anh em”, cùng chống kẻ thù ý thức hệ?
BỐN HẬU QUẢ THẢM HỌA
I. Lệ thuộc về chính trị
Thỏa thuận Thành Đô gây ra những hậu quả thảm họa to lớn mà chính những người ký Thỏa thuận đã không ngờ tới. Từ Thỏa thuận Thành Đô, Việt Nam mỗi ngày càng lệ thuộc chính trị hơn vào Trung Quốc. Trung Quốc tiến hành một chính sách bắt Việt Nam dần phụ thuộc chính trị rất thâm hiểm, tập trung trên mấy phương diện sau.
1. Gây ảnh hưởng về nhân sự lãnh đạo
Gây ảnh hưởng lên nhân sự lãnh đạo là nhân tố nguy hiểm số một trong chiến lược bắt Việt Nam lệ thuộc của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ tìm mọi cách loại bỏ, vô hiệu hóa hay giảm ảnh hưởng của tất cả những ai không theo hoặc không ủng hộ Trung Quốc. Sự can thiệp vào công việc nhân sự lãnh đạo Việt Nam của Trung Quốc rất trực diện, thô bạo. Việc yêu cầu loại bỏ Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch ra khỏi Bộ Chính trị trong Hội nghị Thành Đô là một ví dụ kinh điển. Đến thời Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã không dám đưa ông Phạm Bình Minh (con trai của cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch) vào chức vụ Ngoại trưởng vì Trung Quốc không chấp nhận. Gần đây Lễ tang của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng bị cuộc viếng thăm của Thủ tướng Lý Khắc Cường phủ bóng tối.
2. Gây ảnh hưởng về chính sách song phương và đối ngoại
Có được ảnh hưởng nhân sự, tổng hợp với các thế mạnh về kinh tế quốc phòng địa lý, và các mánh khóe thâm độc gian xảo, Trung Quốc gây áp lực lên các cuộc đàm phán song phương và chi phối lên quan hệ bang giao quốc tế của Việt Nam.
Việt Nam đã phải nhượng bộ cho Trung Quốc trong Hiệp định biên giới đất liền năm 1999, cũng như trong thỏa thuận phân chia đường biên giới trên biển năm 2000. Việt Nam không dám công khai ủng hộ Philippines kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế mặc dù Việt Nam được lợi từ vụ kiện này. Việt Nam không thân mật đến mức liên minh với các nước lớn bởi e dè Trung Quốc. Việt Nam tuyên bố không liên minh với ai để chống nước thứ ba thực chất là để thanh minh với Trung Quốc.
3. Gây ảnh hưởng về kinh tế
Dùng ảnh hưởng về chính trị, dùng sức mạnh kinh tế, Trung Quốc quyết tâm giành thắng lợi trong đấu thầu các dự án kinh tế chủ chốt của Việt Nam và biến Việt Nam thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa của Trung Quốc.
Khi đã có được ảnh hưởng kinh tế, tiến đến lũng đoạn nền kinh tế Việt Nam và gây áp lực lại về chính trị, bắt lệ thuộc về chính trị. Vòng xoay đó luân hồi kiềm tỏa Việt Nam, bắt Việt Nam không thể rời quỹ đạo xoay quanh Trung Quốc.
II. Lệ thuộc về kinh tế
Bị lệ thuộc chính trị, nền kinh tế Việt Nam bị phụ thuộc vào Trung Quốc toàn diện. Sự phụ thuộc toàn diện của nền kinh tế Việt Nam vào Trung Quốc thể hiện qua mấy điểm chủ chốt sau đây.
1. Việt Nam trở thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa của Trung Quốc
Từ các thiết bị máy móc cho đến hàng tiêu dùng, khắp nơi đâu đâu cũng tràn ngập hàng Trung Quốc. Cay đắng hơn đến các mặt hàng nông sản đời sống thường ngày nhỏ nhặt như quả trứng, trái cam, củ tỏi… mà Việt Nam tự sản xuất được thì nay cũng bị hàng Trung Quốc lấn át.
Để biến Việt Nam thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa mạnh hơn nữa, Trung Quốc thúc đẩy mở cửa biên giới để hàng Trung Quốc tràn vào Việt Nam, đồng thời khuyến khích cho phép buôn lậu qua biên giới những mặt hàng có lợi cho Trung Quốc. Đi xa hơn, Trung Quốc thiết lập mạng lưới đại lý phân phối hàng hóa và đưa cả người Trung Quốc sang sinh sống bán hàng tại Việt Nam.
Việt Nam thực sự đã trở thành một thị trường thuộc địa hàng hóa của Trung Quốc. Trong quan hệ buôn bán hai chiều, Việt Nam còn kém vị thế một tỉnh của Trung Quốc. Bởi lẽ một tỉnh của Trung Quốc còn bán được thiết bị máy móc cho tỉnh khác của Trung Quốc, còn Việt Nam thì chỉ thuàn túy mua, mà không bán lại được cho Trung Quốc máy móc thiết bị công nghệ.
2. Trung Quốc thắng thầu hầu hết các dự án xương sống trụ cột của Việt Nam
Trong đấu thầu xây dựng các công trình kinh tế chủ chốt của Việt Nam, Trung Quốc là nước thắng thầu nhiều nhất. Trung Quốc tiến hành một chiến lược giản đơn với chủ trương chào thầu thấp để thắng thầu. Sau đó bằng mọi cách đội giá thầu lên, khiến cho chi phí xây dựng công trình đắt lên rất nhiều, đắt hơn cả giá chào thầu ban đầu của các đối tác khác.
Điều nguy hại hơn là, tuy giá thành rất đắt, nhưng Việt Nam lại bị phải sử dụng các thiết bị công nghệ lạc hậu, năng thuất thấp, chất lượng kém, độc hại cho con người và môi trường. Sản phẩm làm ra kém chất lượng, nhanh hư hỏng.
Tất cả các công trình mà nhà thầu Trung Quốc tham gia xây dựng, không có công trình nào có chất lượng đảm bảo như của các nước hàng đầu G7, và tai họa hơn là hiệu quả kinh tế rất thấp.
3. Trung Quốc khai thác thu mua nhiều tài nguyên khoáng sản của Việt Nam
Với chính sách “Dùng của người, để dành của nhà” Trung Quốc đã tiến hành chính sách thu mua khai thác nguồn tài nguyên khoáng sản của các nước khi giá còn thấp, để dành tài nguyên khoáng sản của Trung Quốc cho tương lai. Trung Quốc đã tập trung vào các nước chậm phát triển ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ La tinh.
Việt Nam là nước láng giềng của Trung Quốc nên càng bị Trung Quốc tận thu hết công suất. Việt Nam không phải là nước có nhiều khoáng sản, nhưng tất cả những khoáng sản tiềm năng chủ chốt của Việt Nam đều bị Trung Quốc thâu tóm. Trung Quốc là khách hàng lớn của Việt Nam về than. Hai dự án lớn về bôxít ở Tây Nguyên cũng nhường thầu xây dựng trọn gói cho Trung Quốc, và sẽ bán nguyên liệu thô cho Trung Quốc. Dự án thép ở Vũng Áng cũng bị Trung Quốc mua lại. Riêng dầu khí ở Biển Đông, không hợp tác khai thác được,Trung Quốc trắng trợn mang giàn khoan dầu vào vùng biển Việt Nam để tự khai thác. Thâm hiểm ngang ngược đến thế là cùng.
4. Trung Quốc đầu tư kinh doanh hầu khắp các huyện tỉnh thành Việt Nam
Công nghệ lạc hậu, ô nhiễm độc hại, chất lượng tồi, giá thành rẻ, Trung Quốc ồ ạt đầu tư khắp các huyện tỉnh thành của Việt Nam. Đi xa hơn Trung Quốc lập các công ty, cửa hàng đại lý thương mại khắp nơi nơi, tạo nên các làng phố người Hoa khắp cả nước Việt Nam. Bằng cách này Trung Quốc đã hình thành một mạng lưới kinh tế riêng của Trung Quốc trên lãnh thổ của Việt Nam, cả hàng hóa lẫn con người.
III. An ninh quốc gia bị đe dọa nghiêm trọng
Chưa bao giờ an ninh của Việt Nam bị Trung Quốc đe dọa như bậy giờ. Có thể lược nêu một số hiểm họa an ninh quốc gia sau đây.
1. Đội quân người Hoa trên lãnh thổ Việt Nam
Trung Quốc đã rất thành công trong
việc đưa người lao động đến khắp sơn cùng thủy tận của Việt
Nam, lấy vợ đẻ con, lập nên nhan nhản các làng phố người Hoa.
Đây là mối hiểm họa bậc nhất cho an ninh quốc gia.
2. Mạng lưới gián điệp dày đặc
Với làng phố người Hoa khắp mọi nơi, với sự thâu tóm các công trình yết hầu kinh tế, mạng lưới gián điệp là ưu thế đặc biệt của Trung Quốc không chỉ trong chiến tranh mà trong mọi đối phó ứng xử với Việt Nam.
3. Nguy cơ bị đánh sập nền kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam bị phụ thuộc vào Trung Quốc. Các công trình do Trung Quốc đầu tư cũng như do Trung Quốc thắng thầu xây dựng đều tiềm ẩn những nguy cơ khôn lường. Nền kinh tế Việt Nam có nguy cơ bị tê liệt toàn bộ khi xung đột với Trung Quốc xẩy ra.
4. Các cơ sở quốc phòng của Trung Quốc trên đất Việt Nam
Dưới danh nghĩa đầu tư, kinh doanh và nhà thầu, Trung Quốc có thể bí mật xây dựng những công trình quân sự, cài đặt những thiết bị phá hủy khắp mọi nơi trên đất Việt Nam. Các vật tư thiết bị Trung Quốc bán cho các công ty Mỹ đã từng bị Mỹ phát hiện về những chip gián điệp, thì tất cả những điều đã nêu là hoàn toàn thực tế.
Chẳng hạn, tử huyệt xung yếu như Đèo Ngang với chiều dài Đông Tây khoảng 50Km đã bị Trung Quốc án ngự bằng dự án cảng Vũng Áng trong 70 năm. Trước đây cố Tổng bí thư Lê Duẩn từng nhận định vùngThanh Nghệ Tĩnh là căn cứ địa khi Trung Quốc huy động 2 triệu quân tấn công Việt Nam từ phía Bắc. Nhưng bây giờ với cảng Vũng Áng và rừng phía Lào đã được Trung Quốc thuê lâu dài, thì việc chia cắt Việt Nam tại Đèo Ngang, nếu không đề phòng trước, đối với Trung Quốc có thể là dễ như “trở bàn tay”. Điều tương tự cũng có thể xẩy ra ở Tây Nguyên khi Trung Quốc tham gia khai thác bôxít và rừng Campuchia giáp biên giới Việt Nam đã được Trung Quốc thuê đến 99 năm.
Phải một lần nữa nhấn mạnh rằng, chưa bao giờ an ninh của Việt Nam lại mong manh đến vậy từ mối đe dọa Trung Quốc.
VI. Độc lập và toàn vẹn lãnh thổ bị xâm phạm
Bị lệ thuộc về chính trị và kinh tế thì độc lập Dân tộc bị đe dọa là điều đương nhiên. Không chỉ thế, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đã bị xâm phạm. Thực tế cho thấy Việt Nam đã phải nhân nhượng cho Trung Quốc một phần lãnh thổ trên đất liền trong Hiệp ước biên giới Việt –Trung năm 1999. Trong Hiệp ước phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ năm 2000, Việt Nam cũng phải nhường lại cho Trung Quốc một phần lãnh hải so với Công ước Pháp –Thanh năm 1887.
Việc Trung Quốc đưa dàn khoan HD981 và tàu chiến vào sâu lãnh hải Việt Nam và đang xây sân bay ở đảo Gạc Ma cũng là hệ quả của Thỏa thuận Thành Đô. Dã tâm xâm lược Biển Đông của Trung Quốc là công khai ngang ngược trắng trợn. Phải khởi kiện Trung Quốc ngay ra Tòa án quốc tế, dựa vào sự ủng hộ quốc tế để vạch mặt và làm chùn bước chân xâm lược của Trung Quốc. Nếu không hành động cương quyết, lãnh hải sẽ bị Trung Quốc lấn chiếm thêm nữa.
Thỏa thuận Thành Đô, đúng như cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã nhận xét: Một thời kỳ Bắc Thuộc mới rất nguy hiểm.
NĂM BIỆN PHÁP GIẢI THOÁT
I. Từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô
Lịch sử nhắc đến Nỏ thần và sơ đồ Loa thành mà Trọng Thủy có được. Lịch sử nhắc đến Hiệp ước cắt ba tỉnh miền Đông Nam kỳ cho Pháp. Lịch sử sẽ nhắc đến Thỏa thuận Thành Đô. Đó là điều chắc chắn.
Bởi vậy, muốn giảm bớt hậu quả tai hại của Thỏa thuận Thành Đô trước lịch sử, thì điều cần làm là từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô. Thực ra vấn đề cứu vớt sai lầm cho những người đã ký Thỏa thuận Thành Đô chỉ là vấn đề thứ yếu. Điều quan trọng nhất chính là từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô để cởi trói cho Dân tộc khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc. Thoát Trung là cơ hội lịch sử và là vấn đề hệ trọng nhất hiện nay, bởi nó liên quan đến độc lập của Dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.
II. Xóa bỏ tư duy tương đồng thể chế
Hiện nay một số người Việt Nam, và ngay cả một số tướng lĩnh, vẫn cho rằng Việt Nam và Trung Quốc là cùng thể chế xã hội chủ nghĩa, cùng tương đồng ý thức hệ. Và bởi vậy Trung Quốc sẽ thân tình ưu ái với Việt Nam, Việt Nam với Trung Quốc là cùng một phe. Đây là một điều lầm tưởng vô cùng nguy hiểm.
Bản thân Trung Quốc đã tự xưng là chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc. Cái gọi là chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc hoàn toàn khác biệt với các nước khác. Chủ nghĩa Marx hay bất cứ học thuyết bất kỳ nào khác được lãnh đạo Trung Quốc vận dụng đều bị “Hán hóa” hoàn toàn. Chủ nghĩa Đại Hán là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của lãnh đạo Trung Quốc, dù có được trá hình dưới bất cứ vỏ bọc nào.
Việc Việt Nam và Trung Quốc đều do độc đảng lãnh đạo không có nghĩa là Việt Nam và Trung Quốc là anh em, là cùng chung mục đích lý tưởng. Mục đích của Trung Quốc là bá chủ thế giới, bành trướng quyền lực và lãnh thổ, là chiếm được càng nhiều lãnh thổ của Việt Nam càng tốt, và bắt Việt Nam phải hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc. Mục đích này đã được Mao Trạch Đông trắng trợn công khai tuyên bố với cố Tổng bí thư Lê Duẩn, và được giới lãnh đạo Trung Quốc tiến hành không khoan nhượng ngày càng hung tợn hơn trong suốt mấy chục năm qua.
Không có tương đồng thể chế, không có tương đồng ý thức hệ, không phải cùng một phe. Việt Nam là miếng mồi của giới lãnh đạo Trung Quốc.
Lời phát biểu tại Philippines ngày 21/5/2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “Không chấp nhận đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông lệ thuộc nào đó” phải biến thành hành động. Một trong những hành động thực tế là xóa bỏ tư duy đồng thể chế cùng phe với Trung Quốc để thoát khỏi sự kiềm tỏa của Trung Quốc.
III. Đặt quyền lợi Dân tộc trên quyền lợi của thể chế
Ngay cả cố Tổng bí thư Lê Duẩn, người hiểu âm mưu xâm lược thâm độc của lãnh đạo Trung Quốc, buộc phải cương quyết chống lãnh đạo Trung Quốc, vẫn đã có lúc nghĩ rằng, khi chủ nghĩa xã hội thành công trên toàn thế giới, thì mối đe dọa từ Trung Quốc sẽ mất đi.
Chủ nghĩa xã hội sẽ không bao giờ thành công trên toàn thế giới. Chủ nghĩa xã hội, mặc dù trên lý thuyết chứa đựng những ý tưởng cao đẹp, nhưng trên thực tiễn tồn tại, là một mô hình què quặt không khoa học. Bởi vậy, vừa mới ra đời chưa lâu, chủ nghĩa xã hội đã bị tiến trình phát triển của xã hội loài người đào thải. Chủ nghĩa xã hội bị đào thải ngay ở nước Nga, nơi đã sinh ra mô hình chủ nghĩa xã hội, sau 74 năm. Chủ nghĩa xã hội bị đào thải ở Đông Âu sau 40 năm.
Đối với một nước, mô hình chủ nghĩa xã hội có tồn tại trong một thời gian nào đó, thì đấy chỉ là vấn đề tồn tại của một thể chế, một mô hình nhà nước. Một thể chế chỉ là một khoảng thời gian ngắn so với lịch sử phát triển của một Dân tộc. Thay đổi thể chế chỉ liên quan đến thay đổi chính sách, đường lối và quyền lợi của một bộ phận thuộc Dân tộc. Không nhóm người này lên cầm quyền thì sẽ có nhóm người khác lên nắm quyền. Nhưng tất cả họ đều thuộc một đất nước. Khi đề cập đến thể chế là nói đến vấn đề nội bộ. Còn khi nói đến độc lập Dân tộc, chủ quyền lãnh thổ là đề cập đến mối quan hệ với các nước khác. Bởi vậy không thể đặt quyền lợi của thể chế trên quyền lợi Dân tộc.
Từ đó suy ra: Bất cứ điều gì có lợi cho thể chế mà không có lợi cho Dân tộc thì dứt khoát không làm. Điều gì có lợi cho Dân tộc nhưng không có lợi cho thể chế thì cũng cứ làm.
Dân tộc trường tồn hơn thể chế. Nhắc đến Dân tộc trên bình diện quốc tế là đề cập đến vấn đề quan hệ Quốc gia. Bởi vậy, bất luận có chủ nghĩa xã hội hay không, mối đe dọa từ Trung Quốc không bao giờ triệt tiêu, chí ít là cho đến khi triệt tiêu phạm trù Dân tộc.
VI. Cách mạng thể chế
Chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói đến phải Đổi mới thể chế trong thông điệp 2014. Đổi mới hoàn toàn thể chế tức là đã Cách mạng thể chế. Một thể chế mới văn minh dân chủ tiến bộ sẽ có nội dung hoàn toàn khác biệt với thể chế Trung Quốc hiện hành, và tự nó là một phép thoát Trung màu nhiệm hiệu quả nhất.
Việt Nam cần Đổi mới thể chế nhanh, vì bản thân nhân dân Trung Quốc cũng muốn Thay đổi thể chế, và dứt khoát nhân dân Trung Quốc sẽ làm được điều đó. Vấn đề chỉ ở thời gian. Việt Nam cần thoát Trung trước khi Trung “thoát Việt”.
V. Hòa nhập thế giới dân chủ văn minh
Xây dựng một nhà nước dân chủ văn minh, hòa nhập với thế giới dân chủ văn minh hiện đại là biện pháp tốt nhất để bảo đảm nền độc lập của Dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.
Một mình một đường không giống ai, không phải là sáng tạo độc đáo, mà là tự tụt hậu yếu nghèo, tự cô lập chính mình. Mà đã nghèo khó thì sẽ bị ức hiếp phụ thuộc, sẽ mất đi độc lập Dân tộc và không có khả năng bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.
Khăng khăng duy trì một thể chế lạc lõng để bảo toàn quyền lực, làm đất nước bị tụt hậu yếu nghèo, sẽ có tội trước Dân tộc, có lỗi với cháu con, và sẽ không tránh được sự phán xét khắc nghiệt của hậu thế.
Một nhà nước Việt Nam dân chủ văn minh sẽ cho phép xây dựng được một nước Việt Nam thực sự giàu có hùng cường – nhân tố quyết định sự thắng lợi trong nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc. Một nhà nước Việt Nam dân chủ văn minh sẽ huy động tổng hợp được sự đồng lòng nhất trí của toàn dân, tạo nên sức mạnh vô địch trước mọi kẻ thù.
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, nhưng hào kiệt đời nào cũng có, lời của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo còn sang sảng núi sông. Chắc chắn những Hào kiệt mới sẽ xuất hiện để từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô, Cách mạnh thể chế, và đưa Đất nước hòa nhập với thế giới văn minh dân chủ hiện đại
2. Mạng lưới gián điệp dày đặc
Với làng phố người Hoa khắp mọi nơi, với sự thâu tóm các công trình yết hầu kinh tế, mạng lưới gián điệp là ưu thế đặc biệt của Trung Quốc không chỉ trong chiến tranh mà trong mọi đối phó ứng xử với Việt Nam.
3. Nguy cơ bị đánh sập nền kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam bị phụ thuộc vào Trung Quốc. Các công trình do Trung Quốc đầu tư cũng như do Trung Quốc thắng thầu xây dựng đều tiềm ẩn những nguy cơ khôn lường. Nền kinh tế Việt Nam có nguy cơ bị tê liệt toàn bộ khi xung đột với Trung Quốc xẩy ra.
4. Các cơ sở quốc phòng của Trung Quốc trên đất Việt Nam
Dưới danh nghĩa đầu tư, kinh doanh và nhà thầu, Trung Quốc có thể bí mật xây dựng những công trình quân sự, cài đặt những thiết bị phá hủy khắp mọi nơi trên đất Việt Nam. Các vật tư thiết bị Trung Quốc bán cho các công ty Mỹ đã từng bị Mỹ phát hiện về những chip gián điệp, thì tất cả những điều đã nêu là hoàn toàn thực tế.
Chẳng hạn, tử huyệt xung yếu như Đèo Ngang với chiều dài Đông Tây khoảng 50Km đã bị Trung Quốc án ngự bằng dự án cảng Vũng Áng trong 70 năm. Trước đây cố Tổng bí thư Lê Duẩn từng nhận định vùngThanh Nghệ Tĩnh là căn cứ địa khi Trung Quốc huy động 2 triệu quân tấn công Việt Nam từ phía Bắc. Nhưng bây giờ với cảng Vũng Áng và rừng phía Lào đã được Trung Quốc thuê lâu dài, thì việc chia cắt Việt Nam tại Đèo Ngang, nếu không đề phòng trước, đối với Trung Quốc có thể là dễ như “trở bàn tay”. Điều tương tự cũng có thể xẩy ra ở Tây Nguyên khi Trung Quốc tham gia khai thác bôxít và rừng Campuchia giáp biên giới Việt Nam đã được Trung Quốc thuê đến 99 năm.
Phải một lần nữa nhấn mạnh rằng, chưa bao giờ an ninh của Việt Nam lại mong manh đến vậy từ mối đe dọa Trung Quốc.
VI. Độc lập và toàn vẹn lãnh thổ bị xâm phạm
Bị lệ thuộc về chính trị và kinh tế thì độc lập Dân tộc bị đe dọa là điều đương nhiên. Không chỉ thế, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đã bị xâm phạm. Thực tế cho thấy Việt Nam đã phải nhân nhượng cho Trung Quốc một phần lãnh thổ trên đất liền trong Hiệp ước biên giới Việt –Trung năm 1999. Trong Hiệp ước phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ năm 2000, Việt Nam cũng phải nhường lại cho Trung Quốc một phần lãnh hải so với Công ước Pháp –Thanh năm 1887.
Việc Trung Quốc đưa dàn khoan HD981 và tàu chiến vào sâu lãnh hải Việt Nam và đang xây sân bay ở đảo Gạc Ma cũng là hệ quả của Thỏa thuận Thành Đô. Dã tâm xâm lược Biển Đông của Trung Quốc là công khai ngang ngược trắng trợn. Phải khởi kiện Trung Quốc ngay ra Tòa án quốc tế, dựa vào sự ủng hộ quốc tế để vạch mặt và làm chùn bước chân xâm lược của Trung Quốc. Nếu không hành động cương quyết, lãnh hải sẽ bị Trung Quốc lấn chiếm thêm nữa.
Thỏa thuận Thành Đô, đúng như cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã nhận xét: Một thời kỳ Bắc Thuộc mới rất nguy hiểm.
NĂM BIỆN PHÁP GIẢI THOÁT
I. Từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô
Lịch sử nhắc đến Nỏ thần và sơ đồ Loa thành mà Trọng Thủy có được. Lịch sử nhắc đến Hiệp ước cắt ba tỉnh miền Đông Nam kỳ cho Pháp. Lịch sử sẽ nhắc đến Thỏa thuận Thành Đô. Đó là điều chắc chắn.
Bởi vậy, muốn giảm bớt hậu quả tai hại của Thỏa thuận Thành Đô trước lịch sử, thì điều cần làm là từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô. Thực ra vấn đề cứu vớt sai lầm cho những người đã ký Thỏa thuận Thành Đô chỉ là vấn đề thứ yếu. Điều quan trọng nhất chính là từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô để cởi trói cho Dân tộc khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc. Thoát Trung là cơ hội lịch sử và là vấn đề hệ trọng nhất hiện nay, bởi nó liên quan đến độc lập của Dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.
II. Xóa bỏ tư duy tương đồng thể chế
Hiện nay một số người Việt Nam, và ngay cả một số tướng lĩnh, vẫn cho rằng Việt Nam và Trung Quốc là cùng thể chế xã hội chủ nghĩa, cùng tương đồng ý thức hệ. Và bởi vậy Trung Quốc sẽ thân tình ưu ái với Việt Nam, Việt Nam với Trung Quốc là cùng một phe. Đây là một điều lầm tưởng vô cùng nguy hiểm.
Bản thân Trung Quốc đã tự xưng là chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc. Cái gọi là chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc hoàn toàn khác biệt với các nước khác. Chủ nghĩa Marx hay bất cứ học thuyết bất kỳ nào khác được lãnh đạo Trung Quốc vận dụng đều bị “Hán hóa” hoàn toàn. Chủ nghĩa Đại Hán là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của lãnh đạo Trung Quốc, dù có được trá hình dưới bất cứ vỏ bọc nào.
Việc Việt Nam và Trung Quốc đều do độc đảng lãnh đạo không có nghĩa là Việt Nam và Trung Quốc là anh em, là cùng chung mục đích lý tưởng. Mục đích của Trung Quốc là bá chủ thế giới, bành trướng quyền lực và lãnh thổ, là chiếm được càng nhiều lãnh thổ của Việt Nam càng tốt, và bắt Việt Nam phải hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc. Mục đích này đã được Mao Trạch Đông trắng trợn công khai tuyên bố với cố Tổng bí thư Lê Duẩn, và được giới lãnh đạo Trung Quốc tiến hành không khoan nhượng ngày càng hung tợn hơn trong suốt mấy chục năm qua.
Không có tương đồng thể chế, không có tương đồng ý thức hệ, không phải cùng một phe. Việt Nam là miếng mồi của giới lãnh đạo Trung Quốc.
Lời phát biểu tại Philippines ngày 21/5/2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “Không chấp nhận đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông lệ thuộc nào đó” phải biến thành hành động. Một trong những hành động thực tế là xóa bỏ tư duy đồng thể chế cùng phe với Trung Quốc để thoát khỏi sự kiềm tỏa của Trung Quốc.
III. Đặt quyền lợi Dân tộc trên quyền lợi của thể chế
Ngay cả cố Tổng bí thư Lê Duẩn, người hiểu âm mưu xâm lược thâm độc của lãnh đạo Trung Quốc, buộc phải cương quyết chống lãnh đạo Trung Quốc, vẫn đã có lúc nghĩ rằng, khi chủ nghĩa xã hội thành công trên toàn thế giới, thì mối đe dọa từ Trung Quốc sẽ mất đi.
Chủ nghĩa xã hội sẽ không bao giờ thành công trên toàn thế giới. Chủ nghĩa xã hội, mặc dù trên lý thuyết chứa đựng những ý tưởng cao đẹp, nhưng trên thực tiễn tồn tại, là một mô hình què quặt không khoa học. Bởi vậy, vừa mới ra đời chưa lâu, chủ nghĩa xã hội đã bị tiến trình phát triển của xã hội loài người đào thải. Chủ nghĩa xã hội bị đào thải ngay ở nước Nga, nơi đã sinh ra mô hình chủ nghĩa xã hội, sau 74 năm. Chủ nghĩa xã hội bị đào thải ở Đông Âu sau 40 năm.
Đối với một nước, mô hình chủ nghĩa xã hội có tồn tại trong một thời gian nào đó, thì đấy chỉ là vấn đề tồn tại của một thể chế, một mô hình nhà nước. Một thể chế chỉ là một khoảng thời gian ngắn so với lịch sử phát triển của một Dân tộc. Thay đổi thể chế chỉ liên quan đến thay đổi chính sách, đường lối và quyền lợi của một bộ phận thuộc Dân tộc. Không nhóm người này lên cầm quyền thì sẽ có nhóm người khác lên nắm quyền. Nhưng tất cả họ đều thuộc một đất nước. Khi đề cập đến thể chế là nói đến vấn đề nội bộ. Còn khi nói đến độc lập Dân tộc, chủ quyền lãnh thổ là đề cập đến mối quan hệ với các nước khác. Bởi vậy không thể đặt quyền lợi của thể chế trên quyền lợi Dân tộc.
Từ đó suy ra: Bất cứ điều gì có lợi cho thể chế mà không có lợi cho Dân tộc thì dứt khoát không làm. Điều gì có lợi cho Dân tộc nhưng không có lợi cho thể chế thì cũng cứ làm.
Dân tộc trường tồn hơn thể chế. Nhắc đến Dân tộc trên bình diện quốc tế là đề cập đến vấn đề quan hệ Quốc gia. Bởi vậy, bất luận có chủ nghĩa xã hội hay không, mối đe dọa từ Trung Quốc không bao giờ triệt tiêu, chí ít là cho đến khi triệt tiêu phạm trù Dân tộc.
VI. Cách mạng thể chế
Chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói đến phải Đổi mới thể chế trong thông điệp 2014. Đổi mới hoàn toàn thể chế tức là đã Cách mạng thể chế. Một thể chế mới văn minh dân chủ tiến bộ sẽ có nội dung hoàn toàn khác biệt với thể chế Trung Quốc hiện hành, và tự nó là một phép thoát Trung màu nhiệm hiệu quả nhất.
Việt Nam cần Đổi mới thể chế nhanh, vì bản thân nhân dân Trung Quốc cũng muốn Thay đổi thể chế, và dứt khoát nhân dân Trung Quốc sẽ làm được điều đó. Vấn đề chỉ ở thời gian. Việt Nam cần thoát Trung trước khi Trung “thoát Việt”.
V. Hòa nhập thế giới dân chủ văn minh
Xây dựng một nhà nước dân chủ văn minh, hòa nhập với thế giới dân chủ văn minh hiện đại là biện pháp tốt nhất để bảo đảm nền độc lập của Dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.
Một mình một đường không giống ai, không phải là sáng tạo độc đáo, mà là tự tụt hậu yếu nghèo, tự cô lập chính mình. Mà đã nghèo khó thì sẽ bị ức hiếp phụ thuộc, sẽ mất đi độc lập Dân tộc và không có khả năng bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.
Khăng khăng duy trì một thể chế lạc lõng để bảo toàn quyền lực, làm đất nước bị tụt hậu yếu nghèo, sẽ có tội trước Dân tộc, có lỗi với cháu con, và sẽ không tránh được sự phán xét khắc nghiệt của hậu thế.
Một nhà nước Việt Nam dân chủ văn minh sẽ cho phép xây dựng được một nước Việt Nam thực sự giàu có hùng cường – nhân tố quyết định sự thắng lợi trong nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc. Một nhà nước Việt Nam dân chủ văn minh sẽ huy động tổng hợp được sự đồng lòng nhất trí của toàn dân, tạo nên sức mạnh vô địch trước mọi kẻ thù.
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, nhưng hào kiệt đời nào cũng có, lời của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo còn sang sảng núi sông. Chắc chắn những Hào kiệt mới sẽ xuất hiện để từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô, Cách mạnh thể chế, và đưa Đất nước hòa nhập với thế giới văn minh dân chủ hiện đại
Tuesday, August 19, 2014
TỐ HỮU VÀ STALIN
Một ngày trong trại lao cải thời Xô Viết
Cập nhật: 16:34 GMT - thứ ba, 20 tháng 11, 2012
Một ngày trong Đời Ivan Denisovich, tiểu thuyết kinh điển của Solzhenitsyn, được xuất bản vào tháng này 50 năm trước. Câu chuyện ngắn gọn đơn giản kể về người tù cố gắng sống sót trong Gulag – hệ thống trại cải tạo của Liên Xô – nay được coi là một trong những cuốn sách nổi bật nhất thế kỷ 20.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Tháng 11/1962, cuốn truyện đã làm rung chuyển cả đất nước Xô Viết.
Alexander Solzhenitsyn miêu tả một ngày trong đời của tù nhân Ivan Denisovich Shukhov.
Nhân vật là hư cấu. Nhưng có cả triệu người như ông ta – những người dân vô tội, cũng như chính tác giả, từng bị đẩy tới Gulag trong làn sóng kinh hoàng thời Joseph Stalin.
Gulag
- Tên Gulag xuất phát từ chữ viết tắt của Tổng cục Lao Cải Liên Xô
- Khoảng 14 triệu người từng bị giam trong các trại này giai đoạn 1929 - 1953. Trong đó có 1.6 triệu người chết trong trại
- Các trại Gulag bắt đầu đóng cửa sau cái chết của Stalin năm 1953, chính thức chấm dứt năm 1960
Kiểm duyệt và nỗi sợ hãi đã cản trở sự thật về
những khu trại này tới được công chúng, riêng quyển này vẫn được in.
Liên Xô không bao giờ trở lại được như xưa.
“Chúng tôi hoàn toàn bị tách biệt khỏi thông
tin, và ông ta bắt đầu làm chúng tôi mở mắt,” nhà văn, nhà báo Vitaly
Korotich nhớ lại.
Cuộc sống trong trại từng là những điều “chẳng
dám nghĩ tới”, ông nói. “Tôi đọc đi đọc lại cuốn sách và tôi chỉ nghĩ
tới một điều đơn giản là ông ấy dũng cảm làm sao. Chúng tôi có rất nhiều
nhà văn nhưng chưa từng có người nào dũng cảm thế.”
Chính là lãnh đạo Xô Viết Nikita Khrushchev đã
phê chuẩn cho xuất bản tiểu thuyết của Solzhenitsyn, khoảng một thập
niên sau cái chết của Stalin.
Ông ta nghĩ rằng, cho phép cuốn sách về Gulag ra đời sẽ giúp hạ bệ sự tôn sùng Stalin. Nhưng chuyện không chỉ dừng ở đó.
“Sau khi xuất bản, không gì có thể kìm hãm được
nó,” Korotich kể lại. “Chúng tôi ngay lập tức nhận được bao nhiêu tài
liệu bị cấm xuất bản. Nhiều người từng trong tù bắt đầu nhớ lại thời kỳ
đó.
“Lúc đó không phải là thời của máy tính và máy
in. Sách được in trên giấy cuốn thuốc lá, là cách duy nhất để in được số
lượng lớn. Xô Viết bị phá hủy bởi thông tin, và chỉ một thông tin. Và
làn sóng này bắt đầu từ cuốn Một ngày của Solzhenitsyn.”
Theo tài liệu của ông ta thì Shukhov phải
vào đây vì âm mưu phản quốc. Ông ta đã thú nhận trong một cuộc điều tra –
phải, ông ta đã đầu hàng để phản bội lại đất nước và quay về từ trại tù
chiến tranh để thực hiện nhiệm vụ tình báo cho Đức. Nhiệm vụ này là gì,
cả Shukhov lẫn người thẩm tra ông ta cũng chẳng tưởng tượng được. Họ để
ngỏ nó ở đấy – chỉ là “một nhiệm vụ”. Các cậu trai của công tác phản
gián đánh ông rã người. Lựa chọn cũng đơn giản: đừng ký và mặc áo khoác
gỗ, hay là ký và sống lâu hơn được chút đỉnh...
Các nhà theo học thuyết cộng sản chủ nghĩa cố ẻm
đi vụ này. Nikita Khrushchev bị phế truất, các hoạt động phô bày tội ác
của Stalin bị ngừng, và đến năm 1974 Solzhenitsyn bị bắt và trục xuất.
Nhưng điều đó cũng không cứu được Liên Xô. Một khi Liên Xô tan rã, toàn bộ tội ác của Stalin trở nên rõ ràng.
Bên rìa Moscow, Anatoly Mordashev chỉ cho tôi thấy 13 nấm mộ tập thể trải dài khoảng một cây số trên cánh đồng.
Từng phục vụ xuất sắc ở Hồng binh trong Thế
chiến II
Bị kết án tám năm lao động năm 1945 do viết chỉ trích về Stalin
Một số tác phẩm khác gồm có Cancer Ward and The Gulag Archipelago, ba tập truyện không hư cấu
Giải Nobel văn chương năm 1970
Tước quyền công dân Xô Viết và bị trục xuất năm 1974
Sống ở Hoa Kỳ tới năm 1994 rồi trở lại Nga từ đó
chiến II
Bị kết án tám năm lao động năm 1945 do viết chỉ trích về Stalin
Một số tác phẩm khác gồm có Cancer Ward and The Gulag Archipelago, ba tập truyện không hư cấu
Giải Nobel văn chương năm 1970
Tước quyền công dân Xô Viết và bị trục xuất năm 1974
Sống ở Hoa Kỳ tới năm 1994 rồi trở lại Nga từ đó
Alexander Solzhenitsyn 1918 - 2008
Điều xảy ra ở đây, trường bắn Butovo, được giữ bí mật trong suốt hơn nửa thế kỷ.
Giữa tháng 8/1937 và tháng 10/1938, 20.760 phạm
nhân bị chuyển tới đây và bị cảnh sát mật của Stalin tử hình. Người
dân sống xung quanh được trả lời về tiếng súng nổ là do người ta tập
bắn.
Những người bỏ mạng ở đây là công nhân và nông
dân Xô Viết, là nhà khoa học và dân chơi thể thao, là kỹ sư và nhân viên
văn phòng. Họ bị tuyên là kẻ thù của nhân dân.
Mà đây chỉ là một trong số rất nhiều cánh đồng chết của kỷ nguyên Stalin trải trên khắp Liên Xô.
Mordashev nói với tôi, bây giờ thì nước Nga đã biết sự thật, họ sẽ không
bao giờ làm ngơ với những gì đã xảy ra.Nhưng nước Nga bắt đầu quên rồi.
"Ở cấp quốc gia, không ai từng tuyên bố cộng sản chủ nghĩa là tội ác, hay Stalin là kẻ bạo ngược khơi dậy chiến tranh trong chính nhân dân của mình."
Natalya Dmitrievna, vợ tác giả Solzhenitsyn
Tôi tới thăm trường học ở Moscow và nói chuyện với vài học sinh tầm 16 tuổi. Chúng vẫn chưa được học về Stalin trên lớp.
Cuốn Một ngày trong Đời Ivan Denisovich nằm
trong chương trình giảng dạy của trường, nhưng chỉ có ba trong số 21 học
sinh từng đọc. Vậy chúng biết gì về Stalin?
“Tôi cũng không thể nói là mình có thích ông ta hay không vì tôi không biết nhiều,” một học sinh thừa nhận.
“Ở thời Stalin, mọi người chắc chắn là khi học
xong đại học thì sẽ tìm được việc làm và họ có thể sống được,” đứa khác
nói. “Nhưng thời này thì mọi người còn chẳng chắc được việc đó, họ còn
không biết là mình có được đi làm hay không.”
Học sinh thứ ba nói với tôi: “Tôi khá chắc là
Stalin thực sự muốn đưa Liên Xô thành quốc gia lớn, có ảnh hưởng mạnh
tới tất cả mọi người. Ông là hình tượng vĩ đại. Nhưng màu sắc cá tính
của ông thì khá đen tối.”
Trong cuộc trò chuyện của tôi với mấy học sinh,
cảm giác như chúng tôi đang bàn luận về một nhân vật lịch sử xa xôi nào
đó, tách biệt hẳn hiện tại cả nhiều thế kỷ - một lãnh đạo như Oliver
Cromwell hay Ivan Bạo chúa chẳng hạn. Nhưng Stalin chỉ qua đời chưa đầy
60 năm trước.
Theo cuộc khảo sát gần đây, 48% người Nga ngày
nay tin rằng Stalin có ảnh hưởng tích cực tới đất nước. Chỉ có 22% cho
là tiêu cực.
Người vợ góa của Solzhenitsyn, Natalya
Dmitrievna, trách các lãnh đạo thời hiện đại của Nga, trong đó có
Mikhail Gorbachev và Boris Yeltsin, thất bại trong việc đưa đất nước đối
diện với quá khứ.
“Họ chẳng có hoạt động phô bày tội ác thời
Stalin,” bà nói với tôi. “Ở cấp quốc gia, không ai từng tuyên bố cộng
sản chủ nghĩa là tội ác, hay Stalin là kẻ bạo ngược khơi dậy chiến tranh
trong chính nhân dân của mình. Giờ đã quá muộn cho tất cả các ngôn từ,”
bà nói.
“Toàn bộ Đông Âu thời hậu Liên Xô cố gắng kết thúc bằng cách sống cộng sản, ở Ba Lan, ở Đức, ở khắp nơi,” Korotich nhớ lại.
“Ở đây thì không. Chúng tôi cần có Nuremberg như
từng xảy ra ở Đức. Nhưng chúng tôi chưa từng có nó. Và cho tới khi
chúng tôi bàn về các vấn đề chủ nghĩa cộng sản ở cấp độ mà Solzhenitsyn
khởi đầu từ 50 năm trước, chúng tôi sẽ vẫn sống ở đất nước bán-Xô Viết
này, cố gắng hòa nhập với nhân loại, nhưng lại sợ lộ thông tin về lịch
sử của chính mình.
Chia rẽ trên quê hương Stalin và Hitler
Bethany Bell
BBC News
Cập nhật: 13:18 GMT - thứ hai, 11 tháng 3, 2013
Hai thành phố quê hương của
Joseph Stalin và Adolf Hitler đang bị chia rẽ do bàn cãi về cách xử lý
di sản của hai nhà độc tài đã khiến hàng triệu người phải chết.
Khó có thể tưởng tượng có nơi nào khác nhau như thị trấn Gori ở Georgia và Braunau am Inn ở Áo.Gori với các khối nhà theo kiểu kiến trúc đặc thời Xô Viết, nằm dưới chân dãy núi Caucasus.
Vẫn có thể thấy những vết sẹo của cuộc chiến từ năm 2008 giữa Gieorgia và Nga, khi quân đội Nga tiến vào thị trấn.
Nơi đây còn nghèo. Thậm chí vào mùa đông, những người đã về hưu vẫn phải cố kiếm chút tiền bằng cách giúp mọi người đậu xe.
Braunau thì khác hẳn, là một thị trấn Áo bé nhỏ sung túc, với khu vực trung tâm vẫn giữ được kiến trúc thời trung cổ.
Qua cầu bắc ngang sông Inn, gần với quảng trường
chính, là bạn sẽ thấy mình đang ở vùng Bavaria, Đức – một trong những
vùng giàu có nhất châu Âu.
Nhưng cả hai thị trấn trên có một điểm chung – cùng được biết đến do những cậu trai tai tiếng của mình.
Adolf Hitler sinh ra ở Braunau năm 1889. Joseph Stalin được sinh ở Gori thập niên trước đó.
"Nhiều người dân ở đây sẽ rất giận nếu anh so sánh Stalin với Hitler,” một người Georgia nói với tôi.
“Với họ, ông ta là anh hùng địa phương, một cậu
bé người Georgia chiến thắng Thế chiến II và làm thay đổi thế giới.
Nhưng với người khác – đặc biệt là người phương Tây – họ ghét ông ấy như
một tên độc tài khát máu, kiềm giữ độc lập của người Georgia.”
“Tôi không định đánh đồng hai người này,” tôi
trả lời. “Tôi chỉ tò mò muốn biết mỗi thị trấn xử lý thế nào với di sản
của hai ông này.”
Ở Gori, cơn giận với Stalin đã làm thay đổi bộ mặt của thị trấn.
Từ nhiều năm, đại lộ chính tên Stalin, vẫn bị chiếm cứ bởi bức tượng Stalin khổng lồ.
Nhưng từ năm 2010, chính phủ thân phương Tây của
Mikhail Saakashvili cho gỡ bỏ bức tượng, làm nhiều người ở Gori không
đồng tình.
“Tôi vẫn thường đạp xe quanh bức tượng đó hồi còn nhỏ,” Lella, 39 tuổi, vừa rót trà vừa nói với tôi.
Cô chỉ cho tôi tấm ảnh chụp bức tượng từ những
năm 50, mà bây giờ cô giữ trong điện thoại. “Chúng tôi cần có lại nó,”
cô nói. Và mong ước của cô có lẽ sắp thành hiện thực – một phần do chính
trị thay đổi ở Georgia.
Năm ngoái, đảng của Saakashvili thất bại trong
cuộc bầu cử nghị viện trước đảng liên minh Georgian Dream, mong muốn cải
thiện mối quan hệ với Nga.
Vài tuần trước, ở hội đồng thị trấn Gori, giờ do
đảng Georgian Dream lãnh đạo, đã dành ra hẳn một quỹ riêng để dựng lại
tượng Stalin.
Tượng sẽ không được về trên đường Stalin, nhưng
sẽ được dựng ở địa điểm thu hút khách du lịch của thị trấn, bảo tàng
Stalin, nơi tôn thờ nhà độc tài và vẫn được giữ nguyên kể từ khi được
xây năm 1957.
Ở Braunau, có một phố mang tên Hitler là không thể tưởng tượng nổi.
Tòa nhà cũ xây từ thế kỷ 17 nơi ông sinh ra, không hề được ghi dấu.
Tất cả những gì liên quan tới Hitler là một hòn
đá trên vỉa hè, khắc chữ “Chủ nghĩa Phát xít, không bao giờ nữa. Tưởng
nhớ hàng triệu người đã chết.”
Tên Hitler thậm chí còn không xuất hiện.
“Chúng tôi tính sẽ treo cái biển nhỏ ở tòa nhà –
chỉ để đánh dấu một sự kiện lịch sử,” một quan chức thị trấn nói với
tôi. “Nhưng chủ nhà không cho phép.”
Ông hạ giọng, “bà ấy khó tính lắm”, “và cũng vì chủ đề là Hitler nữa.”
Thị trấn Braunau bị chia rẽ bởi nhóm người cho
rằng Hitler cần được bàn đến một cách cởi mở, và nhóm người muốn vấn đề
này chìm vào quên lãng.
“Chúng tôi không có tội chỉ vì Hitler sinh ra ở
đây,” một người đàn ông nói với tôi. “Chúng tôi không cần phải cảm thấy
đáng tiếc cho thị trấn.”
Nhưng Florian, nhà sử học địa phương, không đồng
ý. “Kể cả Hitler chỉ sống đúng ba năm ở đây, Braunau cũng đã bị nhiễm
độc,” ông nói. “Chúng ta phải lên tiếng để chống lại chủ nghĩa Phát
xít.”
Trong thời Đức Quốc xã, quân phát xít mua lại ngôi nhà từ gia đình họ Pommer.
"Ở Braunau, di sản của Hitler bị giấu kín, trong khi đó ở Gori, Stalin lại được phô trương. Phản ứng thật khác nhau đối với loại di sản khó định này."
Sau chiến tranh, gia đình Pommer mua lại nó.
Từ thập niên 70, Bộ Nội vụ Áo thuê nhà từ người
chủ hiện nay, bà Gerlinde Pommer, để tránh cho các nhóm tân Phát xít
dùng làm nơi thờ tụng.
Đến năm 2011, ngôi nhà được dùng làm trung tâm chăm sóc ban ngày cho người khuyết tật.
Nhưng sau đó họ phải dọn ra ngoài vì bà Pommer không đồng ý cho sửa mới.
Cuộc tranh luận sôi nổi về việc làm sao xử lý di sản của Hitler nổ thành tranh cãi giận dữ.
Một số người muốn biến ngôi nhà thành trung tâm thông tin để đối diện với quá khứ phát xít.
Những người khác nói nên dùng thành khu căn hộ, hoặc trung tâm giáo dục cho người trưởng thành.
Một chính trị gia cánh cực hữu nói nơi này nên trở thành phòng khám, thành phòng sản khoa.
Một dân biểu người Nga thậm chí còn gợi ý cho nổ phá tòa nhà.
Khi tôi gọi điện cho luật sư của bà Pommer để xin ý kiến, thư ký dập máy ngay trước mũi tôi.
Ở Braunau, di sản của Hitler bị giấu kín, trong
khi đó ở Gori, Stalin lại được phô trương. Phản ứng thật khác nhau đối
với loại di sản khó định này.
Khi tôi hỏi một người đàn ông ở Braunau, cách
nào tốt hơn, ông nhún vai. “Dù cách nào đi nữa thì vẫn sẽ nhận phải chỉ
trích,” ông nói, “nhưng thường vẫn tốt hơn khi nói về nó.”
Để hiểu thêm Tố Hữu
Vương Trí Nhàn
Nhà phê bình văn học từ Hà Nội
Cập nhật: 11:28 GMT - thứ ba, 19 tháng 8, 2014
Trước mắt tôi là sưu tập
Văn Nghệ số 40 ra 3-1953. Lúc này cơ quan Hội văn nghệ đang đóng ở rừng
Việt Bắc. Nhân cái chết của Stalin, tạp chí của Hội ra một số đặc biệt,
không chỉ Tố Hữu mà nhiều tác giả khác có bài liên quan tới sự kiện
này.
Về thơ: Chế Lan Viên có Stalin không chết, mở đầu bằng mấy câuĐồng chí Stalin đã mất!
Thế giới không cha nặng tiếng thở dài
Ở đoạn dưới:
Mẹ hiền ta ơi
Em bé ta ơi
Đồng chí Stalin không bao giờ chết
…Triệu triệu mẹ già em dại
Đều là súng Stalin để lại
Giữ lấy hòa bình thế giới
Tiếng nổ ca vang dội thấu mặt trời
Trước bài Đời đời nhớ Ông của Tố Hữu là bài Nhớ đồng chí Stalin của Huy Cận. Tiếp đó các bài của Bàn Tài Đoàn, Nông Quốc Chấn.
Xuân Diệu có bài Thương tiếc Đại nguyên soái Stalin:
Nghe tin mất mới thấy lòng quyến luyến
Từ bao lâu yêu Người tận tủy xương
Tiếng khóc đây là tất cả can trường
Thấy Người thật là bát cơm miếng bánh
Người gắn với chúng con trong vận mệnh
Về phần văn xuôi: Phan Khôi có bài Một vị học
giả mác-xít thiên tài. Trước khi viết kỹ về cuốn Chủ nghĩa Mác và vấn đề
ngôn ngữ, Phan Khôi có đoạn dạo đầu ngắn:
Đối với cái chết của Đại nguyên soái Stalin,
vấn đề đề ra trước mắt những người đang sống là: Chúng ta phải học tập
Stalin, học tập đạo đức cách mạng và trí tuệ của ông, được cả càng hay,
không thì được phần nào cũng hay phần ấy, đó là một đảm bảo vững chắc
cho cuộc thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, của Chủ nghĩa tân dân chủ.
Lê Đạt thì xuất hiện như một phóng viên, ghi lại
không khí một nhà máy trong rừng khi nghe tin Stalin mất. Bài viết
khoảng 3.000 chữ này kể chuyện cái chết của Stalin đã gợi lên niềm xúc
động to lớn, từ đó đánh thức tinh thần lao động sáng tạo của cả một tập
thể công nhân gang thép.
Xin phép mở một dấu ngoặc. Ngoài các bài Liễu,
Bài thơ tình ở Hàng Châu, Tế Hanh còn có bài thơ ngắn sau đây, viết
trong đợt thăm Trung Quốc 1962. Tôi vẫn thường nhẩm lại mỗi khi nhớ tới
đời sống tinh thần của chúng tôi những năm 1965 về trước.
Hồ Nam xe chạy không dừng bước
Dãy núi cao liền dãy núi cao
Quê hương lãnh tụ mây thêu nắng
Thấy mặt trời lên nhớ bác Mao
Tôi muốn thầm nói với Tế Hanh: Anh không việc gì phải xấu hổ cả. Hồi ấy, bao nhiêu người nghĩ thế, chứ đâu phải riêng anh!
Nhà thơ bơ vơ
Trở lại chuyện Tố Hữu. Nếu có ai hỏi tôi thích
bài nào của Tố Hữu nhất, tôi sẽ nói rằng đó là cụm mấy bài ông làm hồi
đi tù, in trong phần Xiềng xích của tập Từ ấy.
Bài Nhớ đồng
Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò
Bài Tiếng hát đi đầy
Hỡi những anh đầu đi trước đó
Biết chăng còn lắm bạn đi đầy
Những bài thơ này có cái giọng mà sau này không
bao giờ Tố Hữu có nữa. Nhà thơ bơ vơ trong cảnh đơn độc ở núi rừng. Phải
làm thơ, phải lấy thơ để tự khẳng định, thơ cất lên không để cho ai mà
trước tiên để cho mình.
Sinh thời, Tố Hữu hay nói, đại ý hãy coi ông là
nhà cách mạng, sau đó mới là nhà thơ. Như thế tức là ông cũng đã biết
chỗ đứng của mình trong lịch sử.
Có điều không phải luôn luôn người ta làm được
đúng như những điều người ta tự xác định. Là một người hết sức nhạy cảm
và sẵn có cả chất mệ của quê hương, ông thừa biết nhiều khi dân văn nghệ
ca ngợi thơ ông vì ông là quan chức phụ trách người ta, nắm sinh mệnh
của người ta. Song nếu đủ sáng suốt để từ chối những lời nịnh bợ thường
trực thì ông đã không còn là ông nữa. Lẽ đời là vậy, lúc được được quá
cái đáng được, thì lúc mất cũng mất quá cái đáng mất. Nhưng về phần
chúng ta, mỗi lần đả động đến ông, tôi nghĩ nên phân biệt đang nói về
ông như một quan chức cao cấp hay nói về ông như một nhà thơ.
Ngược điều mình nghĩ
Khoảng năm 1973, Hà Nội có một triển lãm điêu
khắc với ngôn ngữ khá hiện đại của Nguyễn Hải và Lê Công Thành. Chính Tố
Hữu cũng rất thích - sang Hội nhà văn nghe ngóng về. Nguyễn Khải báo
cho tôi biết tin vui đó. Nhưng rồi hóa ra chúng tôi mừng hụt. Mấy vị to
hơn tới xem cho là không được. Và người ta lại thấy Tố Hữu cho truyền đi
nhận định không thể tìm tòi kiểu ấy, mà hãy trở lại với thứ điêu khắc
mô phỏng đời thường, kiểu Trần Văn Lắm! Tức là cũng như chúng ta, Tố Hữu
cũng có lúc phải làm ngược điều mình nghĩ.
Trước đó năm 1965, Nguyễn Thành Long bị nạn với
bút ký Cái gốc. Bài ký cũng chẳng có chuyện gì đen tối lắm, chỉ tả phụ
nữ trong chiến tranh quá nhếch nhác, nên bị Đảng đoàn Hội phụ nữ
kêu.Theo chỗ tôi nhớ, lúc đầu Nguyễn Thành Long rất tự tin, vì Tố Hữu đã
nhắn xuống tỏ ý bênh, “họ có Đảng đoàn thì mình cũng có Đảng đoàn chứ
“( ý nói Đảng đoàn phụ nữ và Đảng đoàn văn nghệ-- hai cấp tương đương
nhau ). Thế nhưng bên phụ nữ kiện lên trên và cuối cùng văn nghệ thua.
"Có một câu ông nói khiến tôi nhớ nhất và phải nói thực sợ nhất, đó là cái ý ông bảo sang nước ngoài thấy đời sống họ lạnh lùng lắm, về nước thấy đồng bào mình sống với nhau, ấm cúng hơn hẳn."
Những năm chiến tranh, thỉnh thoảng một số anh
em viết trẻ chúng tôi cũng được gọi đi nghe Tố Hữu nói chuyện. Có một
câu ông nói khiến tôi nhớ nhất và phải nói thực sợ nhất, đó là cái ý ông
bảo sang nước ngoài thấy đời sống họ lạnh lùng lắm, về nước thấy đồng
bào mình sống với nhau, ấm cúng hơn hẳn.
Ông cũng thường nói là nổi tiếng ở nước ngoài
thì dễ, nổi tiếng ở trong nước mới khó. Lại có lần khuyến khích lớp trẻ,
ông bảo phải biết đấu tranh cho chân lý, khi cần phải cắn xé(!). May mà
bọn tôi đã nghe nhiều về tính đồng bóng của ông, nên chẳng mấy cảm
động, nhớ đâu hình như chính Xuân Quỳnh bảo rằng có mà ông cho ghè gẫy
răng.
Tố Hữu quản cán bộ cấp dưới thế nào? Nguyễn Khải
nhận xét có vẻ như càng những người bất tài và có khuyết điểm ông lại
càng thích dùng. Những ông A ông B từng bị Tố Hữu mắng như tát nước vào
mặt lại rất vững vàng trong vị trí của mình. Vì ông thừa biết loại đó
bảo thế nào họ cũng phải nghe.
Một lần, khoảng những năm trước 1980, tôi ngồi
với Nguyễn Khải, Xuân Sách, cùng giở một số báo Tết. Khi ấy Tố Hữu đã đi
phụ trách kinh tế, nhưng các số báo tết vẫn có bài của ông.
Nguyễn Khải sát hạch tôi:
-Thằng Nhàn hãy thử bình một câu xem nào.
-Thằng Nhàn hãy thử bình một câu xem nào.
Tôi lúc đầu cũng chỉ biết nói như mọi người:
-Thế là được một nhà kinh tế mà mất một nhà thơ.
-Thế là được một nhà kinh tế mà mất một nhà thơ.
Nguyễn Khải gạt phắt đi:
-Không được.
Trong cơn bí, tôi phụt ra một ý mà trước đó tôi không hề nghĩ:
-Người làm ra những bài thơ như thế này thì chắc làm kinh tế cũng không ra gì!
-Không được.
Trong cơn bí, tôi phụt ra một ý mà trước đó tôi không hề nghĩ:
-Người làm ra những bài thơ như thế này thì chắc làm kinh tế cũng không ra gì!
Bấy giờ Nguyễn Khải mới cười, bảo ra tôi cũng bắt đầu biết rồi đấy.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả. Bản dài hơn đã đăng trên Bấm
blog của ông.
THẾ GIỚI VÀ BIỂN ĐÔNG
Biển Đông : "Mỹ không nói suông nữa"
Tướng Mỹ Martin E.Dempsey bên cạnh Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ trong chuyến thăm Việt Nam từ 14 đến 17/08/2014.
http://www.defense.gov
Lần đầu tiên kể từ năm 1971 đến nay, ngày 14/08/2014 vừa qua,
nhân vật đứng đầu quân đội Mỹ công du Việt Nam. Trong khuôn khổ một
chuyến thăm Việt Nam trong 4 ngày, Tướng Martin E. Dempsey, Tổng Tham
mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ, đã thảo luận với các lãnh đạo Việt Nam về
việc tăng cường quan hệ quân sự giữa hai nước vốn trước đây là cựu thù.
Phát biểu trong một cuộc họp báo tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày
16/08/2014, Tướng Martin Dempsey xác nhận khả năng Mỹ giảm nhẹ cấm vận
vũ khí sát thương đối với Việt Nam, và trong trường hợp đó, ông chủ
trương cung cấp các loại thiết bị và vũ khí để Việt Nam tăng cường năng
lực binh chủng Hải quân.
Theo tướng Dempsey, Washington có thể bán cho Hà Nội từ tàu tuần tra,
các thiết bị tình báo, giám sát và trinh sát, cho đến các phương tiện
tìm kiếm và cứu hộ, và thậm chí các loại vũ khí mà hạm đội Việt Nam chưa
từng có.
Về vấn đề Biển Đông, Tướng Dempsey dĩ nhiên đã xác định trở lại lập trường từ trước đến nay của Hoa Kỳ là "không đứng về phía nào trong cuộc tranh chấp lãnh thổ". Tuy
nhiên, ông nhấn mạnh rằng Mỹ hết sức quan tâm đến cách thức giải quyết
các bất đồng mà theo ông không được phép sử dụng vũ lực.
Giải pháp cho Biển Đông phải là đa phương
Cốt lõi của một giải pháp cho vấn đề Biển Đông, theo Tướng Dempsey,
là một phương thức giải quyết đa phương, thông qua Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á ASEAN, chứ không phải là vấn đề "Mỹ có ý định làm gì".
Đối với tướng Dempsey, Mỹ và Việt Nam có lợi ích chung, và Hoa Kỳ
đang khuyến khích các đối tác ASEAN và đồng minh trong khu vực phát huy
một cách tiếp cận đa phương đối với vấn đề an ninh trên biển.
Về quan hệ quân sự Mỹ-Việt, sau khi nhắc lại rằng Washington có các
thỏa thuận quốc phòng lâu dài với các nước trong khu vực, trong đó
Philippines và Thái Lan là hai đồng minh có ký hiệp ước với Mỹ, Tổng
Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ xác định : "Chúng tôi rất quan tâm đến việc trở thành đối tác với một nước Việt Nam hùng mạnh, độc lập và thịnh vượng".
Để hiểu rõ hơn về ý nghĩa chuyến thăm Việt Nam của Tướng Martin
Dempsey, RFI đã có bài phỏng vấn nhanh với Giáo sư Ngô Vĩnh Long thuộc
trường Đại Học Maine (Hoa Kỳ). Trước hết Giáo sư Long đã xác định tầm
mức quan trọng của chuyến thăm Việt Nam của Tổng Tham mưu trưởng Liên
quân Mỹ Martin Dempsey, trong bối cảnh Việt Nam bị Trung Quốc chèn ép dữ
dội trên Biển Đông.
Ngô Vĩnh Long : Tôi nghĩ cuộc viếng
thăm này rất là quan trọng… Việt Nam có lãnh thổ và lãnh hải dài nhất ở
Biển Đông. Việt Nam bị tổn hại nhất vì sự bành trướng của Trung Quốc,
nhưng lại yếu về vấn đề quân sự cũng như vấn đề chính trị và liên hệ với
các nước khác. Thành ra vai trò của Mỹ củng cố quan hệ với Việt Nam rất
quan trọng, không những cho Việt Nam mà cho cả khu vực.
Và chính Đại tướng Dempsey, khi ở Việt Nam, cũng đã nói rằng ông hoàn
toàn chia sẻ đánh giá là hòa bình và ổn định, an ninh, an toàn, tự do
hàng hải và hàng không ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, nhất là ở Biển
Đông, đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi những đòi hỏi phi lý, có nghĩa là
(đòi hỏi) của Trung Quốc.
Và ông nói rằng việc này không những đe dọa Việt Nam và các nước ASEAN mà còn đe dọa đến lợi ích của Mỹ và của các nước khác.
Mối quan tâm của Hoa Kỳ đối với Việt Nam và các nước khác trong khu
vực là quan tâm chung, và những quan ngại đã được nêu ra đều có cơ sở,
thành ra Mỹ và và giới quân sự Mỹ cần chú ý thêm đến khu vực này (Biển
Đông). Tôi thấy đây là một hướng tích cực đối với an ninh chung của khu
vực.
RFI: Riêng về phía Mỹ, chuyến thăm Việt Nam của ông Dempsey thể hiện điều gì ?
Ngô Vĩnh Long: Về phía Mỹ, chuyến
thăm của ông Dempsey thể hiện việc chính phủ Mỹ - và quân đội Mỹ - thấy
rằng việc Trung Quốc bành trướng và sử dụng sức mạnh để đe dọa làm tổn
hại đến an ninh khu vực và cũng như là quyền lợi của Mỹ.
(Chuyến thăm) thể hiện vấn đề Mỹ không nói suông nữa. Từ trước đến
giờ Mỹ muốn trấn an Trung Quốc, nói ‘suông suông’, rồi nói với Trung
Quốc là không nên gây hấn… Nhưng giờ đây là việc Mỹ tăng cường sự hiện
diện để cho Trung Quốc biết là không nên làm quá, vì nếu Trung Quốc tiếp
tục làm quá, thì Mỹ sẽ có những biện pháp đối với Trung Quốc...
Mỹ sẽ giám sát hiện trạng Biển Đông
Về lâu về dài, Mỹ có thể sẽ cấm vận Trung Quốc, nhưng hiện nay, Mỹ
chẳng hạn đã tuyên bố là đang đưa máy bay đi giám sát các hòn đảo ở
Trường Sa xem thử coi Trung Quốc có tăng cường hoạt động trong vùng đó
hay không.
Rõ ràng là Mỹ nghĩ rằng vì các hành động của Trung Quốc, cho nên Mỹ
phải ra tay mạnh hơn, để cho Trung Quốc thấy được dấu hiệu rõ ràng là
quyền lợi của Mỹ cũng như quyền lợi của thế giới đang bị xâm phạm.
Đây là việc Hoa Kỳ chưa dám làm trước đây, nhưng bây giờ, sau khi các
nước ASEAN nói rằng các hành động khiêu khích gần đây có hại cho hòa
bình, ổn định và an ninh, cũng như tự do hàng hải và hàng không ở Biển
Đông, thì việc này giúp cho Mỹ nói rằng : « À ! Vậy thì chúng tôi sẽ giúp các anh giám sát các hành động này, để cho chúng ta có thể bảo vệ an ninh chung ! »
Do đó tôi thấy rằng bản thông cáo chung ASEAN vừa qua rất tốt cho việc giúp Mỹ tăng cường quan hệ và hoạt động trong khu vực.
RFI: Thông cáo chung ASEAN là « cơ sở pháp lý » để Hoa Kỳ phát triển hoạt động ?
Ngô Vĩnh Long: Vâng. Hoa Kỳ và các
nước đồng minh. Hoa kỳ hiện nay cũng lập một quan hệ với Úc, với Nhật,
và với Ấn Độ trong việc giám sát an ninh khu vực. Tôi nghĩ đây là cơ sở
để tăng cường hoạt động chung.
Monday, August 18, 2014
NGUYỄN AN DÂN * QUÂN ĐỘI VIỆT CỘNG
Bước chuyển mới của quân đội Việt Nam ?
Filed Under Nguyễn An Dân
Nguyễn An Dân
Tiếp theo sau chuyến thăm của Thượng Nghị Sĩ John McCain , người dân
Việt Nam một lần nữa lại vui mừng khi lần đầu tiên kể từ sau năm 1975
đến nay, Chủ Tịch Hội Đồng Tham Mưu Trưởng Liên Quân Mỹ, Đại Tướng
Martin Dempsey sang thăm Việt Nam theo lời mời của Tổng Tham Mưu Trưởng
Quân Đội VN, Thượng Tướng Đỗ Bá Tỵ, theo công bố chính thức của Bộ Ngoại Giao VN.
Nếu hai chuyến thăm viếng Việt Nam của Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ trước
đây mang tính biểu trưng cho sự xích lại gần nhau về tổng thể giữa hai
bên Việt-Mỹ thì chuyến thăm này của ông Dempsey sẽ cụ thể hóa sự xích
gần nhau lại của quân đội hai nước. Về Mỹ thì không bàn, đối với quân
đội Việt Nam, việc này có thể được coi như khởi đầu cho giai đoạn phá
sản của lý luận “xem Mỹ là thù địch”. Và do đó, từ nay hệ thống tuyên
huấn của Tổng Cục Chính Trị-Bộ Quốc Phòng VN nên bỏ bài giảng “chống
diễn biến hòa bình của đế quốc Mỹ” trong công tác tuyên huấn cho quân
nhân binh sĩ.
Sự chuyển dịch này của quân đội hai nước xích lại gần nhau dĩ nhiên
cũng không thể “khởi nguồn từ chuyến đi Mỹ của ông Phạm Quang Nghị” mà
là kết quả lâu dài và là chỉ dấu cho thấy xu hướng cải cách trong Đảng
CSVN đã chiếm ưu thế. Xin trình bày qua một số nét chính để độc giả nhận
diện cụ thể hơn
Chuyện về các ông tướng
Sau 1975, quan hệ Việt-Trung xấu đi, và căng thẳng biên giới kéo dài.
Một trong những người lính lăn lộn hơn 15 năm ở vùng biên giới khi đó
là nhân vật chính trong cuộc đón tiếp ông Dempsey ngày hôm nay, Thượng
Tướng Đỗ Bá Tỵ, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng- Tổng Tham Mưu Trưởng QĐ Việt
Nam. Có thể nói rằng sự thăng tiến đến vị trí hôm nay của Tướng Tỵ là
nằm trong kế hoạch “tách bớt ảnh hưởng từ Trung Quốc vào quân đội” của
người đứng đầu nhóm cải cách, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Dường như sau “vụ nổ sập tường nhà riêng ở Hà Nội” năm 2007 mà dư
luận cho rằng “do tình báo Trung Quốc thực hiện”, ông Nguyễn Tấn Dũng lo
ngại rằng một vụ đảo chính có thể xảy ra nên đã chủ động bãi chức hết 5
ông tướng ở quân khu Thủ Đô, và thay vào đó bằng các tướng lĩnh thân
tín nhằm siết chặt an ninh cho chính phủ VN???
Song song đó, một loạt sự cải cách trong quân đội để giảm vị thế của
“nhóm tướng lĩnh thân Trung Quốc” cũng được thực hiện, từ năm 2007 trở
đi, các “công thần” trong cuộc chiến năm 1979 bắt đầu được trọng dụng.
Như tướng Đỗ Bá Tỵ thăng lên Tư Lệnh Quân Khu 2 rồi Tổng Tham Mưu
Trưởng, hay tướng Lê Hữu Đức sang nắm tư lệnh không quân, là những ví dụ
dễ thấy
Sự cải cách này cũng đi thẳng vào một đơn vị mà từ lâu dư luận xì xào
“hình như Trung Quốc nắm quyền chi phối”, đó là Tổng Cục 2- Tổng Cục
Tình Báo Quân Đội. Chuyện nội bộ nhà binh thì khó ai rõ trừ người trong
cuộc, nhưng bức thư góp ý của Tướng Võ Nguyên Giáp cùng liên danh gần 40
tướng tá cao cấp cho thấy thông tin là tướng Nguyễn Chí Vịnh, nắm chức
Tổng Cục Trưởng Tổng Cục 2 năm đó đã có nhiều “sai lầm về an ninh quốc
gia, mất cảnh giác để Trung Quốc chi phối” là có cơ sở ???.
Đến năm 2009, nhóm cải cách gây dựng vây cánh trong quân đội đã tạm
ổn, bắt đầu xử lý vấn đề tổng cục 2 bằng cách “thăng chức cho tướng
Nguyễn Chí Vịnh lên thứ trưởng phụ trách đối ngoại”. Quyết định này đã
gây nhiều chỉ trích , nhưng tinh ý sẽ thấy ra sự thăng chức này thực ra
là làm tước bớt quyền lực của tướng Vịnh mà không gây ra “cơn địa chấn
trong quân đội”. Từ tư lệnh tình báo đầy quyền sinh sát, tướng Vịnh trở
thành thứ trưởng “không quân” và sau đó chỉ còn tham gia vào việc đi lại
với quân đội các nước Mỹ, Ấn Độ, Thái Lan…Thậm chí chương trình “đối
thoại cấp thứ trưởng quốc phòng hàng năm” do tướng Vịnh và đồng nhiệm TQ
đưa ra từ năm 2009 (sau khi tướng Vịnh hết nắm tổng cục 2) cũng đã bị
ông Trương Tấn Sang chấm dứt năm 2013.
Năm 2012 nhóm cải cách đi tiếp một quân cờ nữa , đưa tướng Đỗ Bá Tỵ
từ Quân Khu 2 về nắm bộ tổng tham mưu, để bắt đầu chiến dịch “thoát
Trung cho quân đội”. Đến lúc này thì chỉ còn các chức danh Bộ Trưởng
Quốc Phòng và Chủ Nhiệm Tổng Cục Chính Trị là không do nhóm cải cách sắp
xếp, còn lại thì đa số các chức vụ chỉ huy trung cấp trong quân đội đều
do Tướng Tỵ sắp xếp. Một ví dụ dễ thấy là gần đây, Trung Tướng Phan Văn
Dỹ, chính ủy quân khu 7, đã đi nhiều nơi phát biểu về “chống Trung
Quốc”. Tướng Dỹ còn nói “mua thêm tàu chiến là để bảo vệ Hoàng Sa-Trường
Sa”
“Nín thở qua sông”
Sự “rục rịch” của nhóm cải cách trong quân đội Việt Nam làm Trung
Quốc “không hài lòng”. Từ năm 2007 trở đi ta thấy Trung Quốc gây áp lực
để Việt Nam quy phục lại bằng cách gia tăng bắt giữ tàu cá, cắt cáp thăm
dò dầu khí….cũng là có một phần mục đích nhằm để giảm bớt đà cải cách
quân đội Việt Nam của nhóm thủ tướng.
Cao trào nhất là vào năm 2012, Tập Cận Bình trong tư thế “người kế
vị” cùng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội TQ- Tướng Triệu Bỉnh Đức, đã
“mời” thượng tướng Đỗ Bá Tỵ qua thăm với mục đích “phủ dụ và huấn thị”. Ý
thức được cần “lùi một để tiến hai”, tướng Tỵ khi ở Trung Quốc đã không
tiếc lời ca ngợi quan hệ giữa hai đảng, hai quân đội và hứa sẽ “ tiếp
tục thúc đẩy và nâng tầm quan hệ quân đội hai bên”. Bài “nín thở qua
sông” của tướng Tỵ đã thành công, ru ngủ được cả Trung Quốc và phe thân
Tàu trong Đảng CSVN, nhưng sau đó tướng Tỵ âm thầm chuẩn bị cho chương
trình đi Mỹ hội kiến tướng Martin Dempsey năm 2013. Bên cạnh đó nhóm của
tướng Tỵ còn thúc đẩy giao lưu, tập huấn, đào tạo của quân đội Mỹ dành
cho quân đội VN, cũng như quan hệ với quân đội các nước Asean khác cũng
tiến mạnh.
Các nhà quan sát ít chú ý những chuyện nhỏ nhưng là những chỉ dấu của
các “quan hệ ủng hộ nhau của nhóm cải cách”. Một ví dụ tiêu biểu là khi
dư luận ồn ào về việc con gái thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ( Nguyễn Thanh
Phượng) đứng sau vụ Văn Giang – Ecopark để “cướp đất của dân”, thì chính
nhóm tướng Tỵ đã trưng ra một số tài liệu cho thấy con gái của Ba Dũng
không liên quan đến vụ này.
Năm 2013, có những luồng dư luận ồn ào về việc sửa hiến pháp theo
hướng “phi chính trị hóa quân đội” làm nhóm bảo thủ lo ngại. Cao trào
nhất là việc Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng phải lên tiếng “phi chính trị
hóa quân đội là suy thoái lý tưởng XHCN”. Liệu tướng Tỵ có liên quan gì
vào không, khi mà trên website “tự công bố là chính thức”- www.dobaty.net
đều không hề có dấu hiệu nào về cờ đỏ búa liềm hay các tuyên huấn của
đảng như website của các ủy viên TW đảng khác. Thay vào đó là các tin về
hoạt động của chính phủ và các bài viết mang tư tưởng tiến bộ xã hội.
Tướng Tỵ còn một cú “ghi bàn” trong sự kiện giàn khoan HY-981. Khi đó
Campuchia, sau chuyến thăm của Tổng Tham Mưu Trưởng QĐ Trung Quốc Phòng
Phong Huy tháng 5/2014, đã “im lặng” về vấn đề giàn khoan. Tháng
06/2014, sau chuyến đi Campuchia của tướng Tỵ, Campuchia ngay sau đó
cũng lên tiếng ủng hộ VN. Cũng trong thời kỳ giàn khoan, các hoạt động
nhộn nhịp về ngoại giao quốc phòng của VN với các nước Asean khác như
Philippin, Indonesia cũng do tướng Tỵ xúc tiến và chủ trì.
Tương lai Quân Đội Việt Nam
Như vậy có thể thấy rõ, chiến lược “thoát Trung” trong quân đội và
quan hệ quân đội Việt-Mỹ có những bước khởi đầu “sang trang” như hôm nay
là thành quả của một kế hoạch lâu dài của hai bên. Việc ngày hôm nay
đón Đại Tướng Martin Dempsey sang Việt Nam là thành quả của một xu thế
“thoát Trung” ở quân đội của nhiều tướng lĩnh Việt Nam trong nhóm cải
cách. Họ đã tận dụng sự “phân công” của Bộ Chính Trị để âm thầm phát
triển thế lực nội bộ, định hướng thế cuộc theo hướng có lợi cho nhóm
mình, chứ không phải “do ông Nghị sang Mỹ” như nhóm bảo thủ đang cố gắng
tuyên truyền để “tranh công” và lấy uy tín với nhân dân.
Hi vọng rằng với đà đi lên của tư duy dân chủ pháp trị theo xu thế
chung của quốc tế , hình ảnh tương lai của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam sẽ
mang dáng dấp theo kiểu “website tự công bố là chính thức của Tướng Đỗ
Bá Tỵ”.Không “mang theo” các tuyên huấn của đảng hay chút dấu ấn nào của
cờ đỏ búa liềm. Quân Đội là phải thế, chỉ chiến đấu và hi sinh vì quốc
gia, vì bảo vệ dân tộc, không nên và không thể là công cụ của bất kỳ
đảng phái chính trị nào.
Nguyễn An Dân
(ngày 15/08/2014)
____________________________(ngày 15/08/2014)
Tư liệu dùng trong bài viết:
http://www.navytimes.com/article/20140814/NEWS05/308140057/Dempsey-first-Joint-Chiefs-chairman-visit-Vietnam-since-1971
https://nr-029.appspot.com/www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/07/080730_military_reshuffle.shtml
http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Chí_Vịnh
http://vi.wikipedia.org/wiki/Đỗ_Bá_Tỵ
http://nguyentandung.org/tong-tham-muu-truong-do-ba-ty-hoi-kien-pho-chu-tich-trung-quoc-tap-can-binh.html
http://www.diendan.org/viet-nam/38-tuong-linh-va-lao-thanh-len-an-nguyen-chi-vinh
http://dobatyvn.blogspot.com/
http://baodatviet.vn/quoc-phong/quoc-phong-viet-nam/tuong-do-ba-ty-sang-tham-campuchia-3042415/
*************************
Nguồn:
https://www.facebook.com/tin.le.duong
No comments:
Post a Comment