Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday, 17 November 2016

TRUNG CỘNG * TRẺ VIỆT NAM * HOÀNG HẢI THỦY *

 

BÁO TRUNG QUỐC XẤC XƯỢC

Báo TQ xấc xược: "Chỉ cần 3 ngày là biến Việt Nam thành tỉnh của TQ"

- Báo Trung Quốc tiếp tục giở giọng xuyên tạc cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền và kinh tế hợp pháp trên Biển Đông của Việt Nam, đe dọa dùng vũ lực xâm lược.
Tờ “Tầm nhìn” (qianzhan) Thâm Quyến - Trung Quốc ngày 15 tháng 8 đăng bài viết sặc mùi “hỏa lực mồm”, kèm theo giọng điệu xấc xược cho rằng, từ khi Trung Quốc hạ đặt (phi pháp) giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 ở Hoàng Sa (TQ gọi là Tây Sa) (thực chất là vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam), Việt Nam đã bắt đầu cuộc chiến “tranh đoạt” (đấu tranh bảo vệ) chủ quyền lãnh thổ với Trung Quốc. Trước đó, Việt Nam “kín tiếng”, ít “gây phiền phức” cho Trung Quốc.
Hạm đội Nam Hải, Hải quân Trung Quốc trong một cuộc tập trận trên Biển Đông vào tháng 3 năm 2013
Bài báo ngang ngược xuyên tạc, chỉ trích CS Việt Nam rằng, Chính phủ CS Việt Nam ngày càng “trắng trợn khiêu khích” trên Biển Đông, đổ lỗi cho Việt Nam từ “kín tiếng” đi tới “lưu manh”.
Cho rằng, CS Việt Nam lần này “phản ứng lớn” là do có liên quan đến “người Việt chống Trung Quốc thâm căn cố đế”, ngoài ra còn do lo ngại Trung Quốc chiếm nốt các đảo đá, sức hút của tài nguyên Biển Đông và được “Mỹ hỗ trợ”.
Nhưng bài báo dẫn “truyền thông phương Tây” (không danh tính, không căn cứ) cho rằng, một khi Quân đội Trung Quốc tiến hành “phản kích” (xâm lược) toàn diện đối với Việt Nam thì không đến 3 ngày là có thể “nắm được” (cướp được) toàn bộ Việt Nam.
Theo bài báo, gần đây, CS Việt Nam liên tiếp “gây khó” cho Trung Quốc, ngoài lo ngại “lợi ích đã có” ở Biển Đông bị Trung Quốc “thu hồi” (cướp), một nguyên nhân rất quan trọng là “có Mỹ hỗ trợ” đằng sau. “Nhưng Việt Nam sẽ khó đạt được ý đồ do khoảng cách thực lực Trung-Việt…” – bài báo tuyên truyền.
Bài báo lo ngại, các hãng dầu khí lớn nhất thế giới của Mỹ và Anh như Exxon Mobil, BP hầu như đã chuẩn bị coi thường sự phản đối, cảnh báo của Trung Quốc, (báo này dùng từ) “câu kết” với Việt Nam, tiến hành hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí ở “vùng biển chủ quyền của Trung Quốc” (thực chất là vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Trung Quốc vẽ bậy ra “đường lưỡi bò” để đòi ăn cướp biển đảo của Việt Nam và các nước). 
Tàu chiến Hạm đội Nam Hải, Hải quân Trung Quốc tập trận đổ bộ: Tàu đổ bộ cỡ lớn Tỉnh Cương Sơn thả tàu đệm khí
Bài báo dẫn lời một người phát ngôn của công ty BP ngày 22 tháng 7 năm 2013 nói tại London rằng, đối tác hợp tác của công ty này, công ty dầu khí quốc doanh Việt Nam đã bắt đầu trở lại hoạt động khoan thăm dò tại khu vực mà Trung Quốc cũng đòi hỏi chủ quyền (đòi hỏi này là bất hợp pháp). Khu vực này nằm ở giữa bờ biển Việt Nam và quần đảo Trường Sa, cách bờ biển khoảng 370 km. 
Nhưng, báo Trung Quốc dọa dẫm rằng, khác với thập niên 80, 90 của thế kỷ trước, hiện nay thực lực quốc gia của Trung Quốc nhất là thực lực quân sự đã đủ để giúp họ “chiến thắng” các đối thủ khu vực, từ đó đoạt lấy (cướp lấy) chủ quyền Biển Đông, “chỉ cần Trung Quốc quyết tâm hành động, một khi Quân đội Trung Quốc hành động toàn diện thì Việt Nam e rằng không chịu nổi 3 ngày” và biến thành 1 tỉnh của Trung Quốc – “hỏa lực mồm” của Trung Quốc phun giọng cực kỳ hiếu chiến.
Mỹ dỡ bỏ cấm vận vũ khí với Việt Nam: Bắt đầu từ vũ khí hải quân
BBC Anh đưa tin, ngày 16 tháng 8 tại Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng Liên quân Mỹ Martin Dempsey cho biết, trong thời gian tới, Mỹ sẽ thảo luận khả năng dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí đối với Việt Nam.
Việt-Mỹ tăng cường quan hệ quân sự
Tướng Martin Dempsey cho hay, dỡ bỏ lệnh cấm vấn vũ khí sẽ có lợi cho xây dựng lực lượng Hải quân Việt Nam. Ông nói: “Biển (hàng hải) là lĩnh vực quan tâm nhất hiện nay của chúng tôi, đề nghị của tôi là, nếu dỡ bỏ lệnh cấm vận thì cần bắt tay từ cái này”.
Năm 1995, quan hệ Việt-Mỹ bình thường hóa, nhưng, xuất phát từ một số vấn đề theo quan điểm Mỹ, Mỹ cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. 
Đoàn đại biểu cấp cao Quân đội Mỹ do Đại tướng Martin Dempsey dẫn đầu ngày 13 tháng 8 đã bắt đầu tiến hành chuyến thăm 4 ngày tới Việt Nam. Đây là lần đầu tiên Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng Liên quân Mỹ thăm Việt Nam kể từ năm 1971 đến nay, nhằm tăng cường hợp tác quân sự hai nước. 
Nhưng, Đại tướng Martin Dempsey nhấn mạnh, ông hoàn toàn không để Việt Nam phải đưa ra lựa chọn giữa “làm bạn với Mỹ hay Trung Quốc”.
Chúng tôi đã nói rõ, không thiên vị bất kỳ bên nào trong tranh chấp lãnh thổ, nhưng chúng tôi quan tâm đến phương thức giải quyết vấn đề”. 
Việt-Mỹ tăng cường quan hệ quân sự
Ông Dempsey còn bày tỏ thất vọng đối với việc Trung Quốc không chấp nhận đề nghị đóng băng hoạt động ở “vùng biển tranh chấp”.
Tại Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN tổ chức tại Myanmar vào tuần trước, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry yêu cầu đóng băng hoạt động có thể làm thay đổi hiện trạng ở Biển Đông, bao gồm hành động chiếm đảo và đất đai.
Nhưng, Trung Quốc từ chối phương án do Mỹ đưa ra và chỉ trích phương án này sẽ “phá hoại những nỗ lực lâu dài đạt được Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) giữa Trung Quốc và ASEAN”.
Ông Vương Nghị, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc cho rằng, Trung Quốc “sẵn sàng lắng nghe” các sáng kiến thiện chí của các bên về vấn đề Biển Đông, nhưng những sáng kiến này cần “khách quan, công bằng và mang tính xây dựng”, chứ không phải là “tạo ra phức tạp và bất đồng mới, thậm chí có ý đồ khác”.
Tháng 5 năm 2014, Trung Quốc tuyên bố giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 khoan thăm dò (trái phép) ở Biển Đông (vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam). Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố, vị trí khoan thăm dò của giàn khoan Trung Quốc trên Biển Đông nằm trong vùng đặc quyền 200 hải lý của Việt Nam, gây ra căng thẳng quan hệ song phương, đối đầu tàu thuyền trên biển. 
Việt-Mỹ tăng cường quan hệ quân sự
Các địa phương ở Việt Nam cũng đã nổ ra các cuộc biểu tình, tuần hành quy mô lớn phản đối hành động của Trung Quốc…
Ngày 15 tháng 7, Trung Quốc tuyên bố, giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 đã “hoàn thành công tác khoan thăm dò có liên quan, chuyển về Hải Nam”.

__._,_.___

TỰ DO NGÔN LUẬN 201 *

Bắt lộ diện để hiện nguyên hình !!!
Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 201 (15-08-2014)
          Một trong những bài hát đáng khinh tởm nhất dưới chế độ CSVN là bài “Đảng đã cho ta mùa Xuân” của Phạm Tuyên, con trai ông Phạm Quỳnh, người đã bị Hồ Chí Minh giết chết cách tàn độc. Xin ghi lại toàn văn để đồng bào thấy tất cả tính mỉa mai cùng tột của cái ca khúc xứng đáng đi vào lịch sử như một đối ảnh khốn khiếp của các thiên hùng ca Bình Ngô Đại Cáo, Hịch Tướng Sĩ…: 

Đảng đã cho ta một mùa Xuân đầy ước vọng. Một mùa xuân tươi tràn ánh sáng khắp nơi nơi. Đảng đã mang về tuổi Xuân cho nước non. Vang tiếng hát ca chứa chan niềm yêu đời. Bao năm khổ đau đất nước ta không mùa Xuân. Cuộc đời tăm tối chốn lao tù bao hờn căm. Vầng dương hé sáng khi khắp nơi ta có Đảng. Bóng tối lui dần tiếng chim vui hót vang. 

Và rồi từ đây ánh dương soi đời mới. Tiến theo cờ Đảng là thấy tương lai sáng tươi. Đảng đã cho ta cả mùa Xuân cả cuộc đời. Đảng truyền cho ta một niềm tin ở tương lai. Đảng đã đem lại tuổi Xuân cho nước non. 

Thế giới quanh ta ngân vang ngàn tiếng cười. Xua đi màn đêm chiến tranh gieo bao khổ đau. Cuộc đời từ nay sẽ sáng tươi như mùa Xuân. Vượt mọi gian khó ta tiến lên đi theo Đảng. Bóng tối lui dần tiếng chim vui hót vang. Bạn ơi mùa Xuân khắp nơi tươi đẹp quá. Khi lý tưởng Đảng rực sáng trong tim chúng ta”.
          Không khó để thấy rằng hơn nửa thế kỷ qua, từ khi Hồ Chí Minh du nhập vào VN cái chủ thuyết, cái chế độ và cái chính đảng hết sức phi nhân bản và phản dân tộc nhưng lại trá hình dưới vỏ bọc “đấu tranh cho tự do độc lập”, “thủ tiêu cảnh áp bức bóc lột” và “xây dựng thế giới đại đồng” hòng mê hoặc quần chúng, thì thực tế hoàn toàn trái ngược với những gì diễn tả trong bài hát khốn nạn trên đây.

 Khắp nơi, người ta chỉ thấy một mùa xuân sau song sắt (của nhà tù lớn mang tên Cộng hòa XHCNVN). Mọi chốn, người ta chỉ thấy tuổi xuân con người bị đày đọa (do tâm trí bị đầu độc, do thể xác suy dinh dưỡng, do tương lai ra mịt mờ…), chỉ thấy tuổi xuân đất nước bị bầm dập (do văn hóa suy đồi, do đạo đức băng hoại, do môi trường nhiễm độc, do kinh tế tụt hậu, do chính trị hà khắc, do ngoại giao yếu hèn…).

 Khắp nơi, người ta chỉ thấy bóng tối của những cuộc chiến kinh hoàng do chính đảng CS gây ra chứ không ai khác. Mọi chốn, người ta chỉ thấy bóng tối của một tương lai vô định vì cái “lý tưởng” xã hội chủ nghĩa không tưởng lường gạt, vì cái nguy cơ rơi lại vào tròng nô lệ kẻ thù truyền kiếp bắc phương. Ta hãy nghe chính những người Cộng sản đã tạm mở mắt đang tố cáo thực trạng bi đát này:  
          “Từ nhiều năm nay, đảng CSVN dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô-viết, được coi là dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin. Công cuộc đổi mới gần ba nươi năm qua nhằm sửa chữa sai lầm về đường lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc. Đường lối sai cùng với bộ máy cầm quyền quan liêu, tha hóa tạo điều kiện cho sự lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính gắn với tệ tham nhũng, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh. 

Trong khi đó, giới lãnh đạo Trung Quốc (TQ) từ lâu đã theo đuổi mưu đồ đặt nước ta vào vị thế lệ thuộc, phục vụ lợi ích của TQ. Sau Hội nghị Thành Đô năm 1990 đến nay, VN đã có nhiều nhân nhượng trong quan hệ với TQ, phải trả giá đắt và càng nhân nhượng, TQ càng lấn tới. Gần đây, trong bối cảnh quốc tế phức tạp, TQ có nhiều hành vi leo thang mới trong mưu đồ xâm lược và bá chiếm Biển Đông, coi VN là mắt xích yếu nhất cần khuất phục trước tiên. 

Thực tế bóc trần cái gọi là “cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa” chỉ là sự ngộ nhận và “4 tốt, 16 chữ” chỉ là để che đậy dã tâm bành trướng. Cho đến nay, thế lực bành trướng TQ đã đi được những bước quan trọng trong mưu đồ biến VN thành “chư hầu kiểu mới” của họ” (Trích Thư ngỏ ngày 28-07-2014 của 61 đảng viên gởi Ban Chấp hành TW và toàn thể đảng CSVN).
          Quả là CSVN đã hiện nguyên hình như một chế độ bất công, bất nhân, bất lực và như một chính đảng áp bức, độc tài, hèn nhát, bạc nhược (hiện nguyên hình chứ không phải thoái hóa bản chất, vì bản chất của nó vốn đã xấu tự thân và ngay từ đầu, chỉ khéo che đậy và ngụy biện mà thôi).
          Tuy nhiên, gần đây, nhiều dấu hiệu mới cho thấy việc hiện nguyên hình này của CSVN chưa phải là trọn vẹn và cả toàn dân cần phải buộc cho nó lộ diện hoàn toàn hầu dễ bề đối phó, không thì chết cả đám, tiêu vong cả dân tộc. 

Đó là trong cuộc họp thượng đỉnh tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên bên Tàu vào tháng 9-1990, giữa lãnh đạo hai đảng lẫn hai nhà nước (phía TQ là Giang Trạch Dân, TBT đảng và Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện; phía VN là Nguyễn Văn Linh, TBT đảng, Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Phạm Văn Đồng, Cố vấn), hai bên đã ký kết một văn bản mang tên “Kỷ yếu Hội nghị” để chính thức bình thường hóa quan hệ 2 nước (vốn đã trở thành thù địch sau các cuộc chiến biên giới năm 1979 rồi 1984) và cùng nhau thực hiện những thỏa thuận đạt được giữa lãnh đạo 2 nhà nước và 2 đảng. 

Cuộc gặp thượng đỉnh này cũng như nội dung các thỏa thuận lần ấy từ đó đến nay vẫn luôn nằm trong bí mật, chưa được chính thức công bố cho nhân dân VN lẫn TQ và cộng đồng quốc tế được biết! Gần đây, có nhiều đồn đoán trong nhân dân -phát xuất từ những tiết lộ của Tân Hoa xã, Hoàn Cầu Thời báo, Wikileaks- rằng tại Hội nghị Thành Đô ấy, đám chóp bu Ba Đình đã ngang nhiên đem giang sơn đất Việt mà bán cho Tàu qua cam kết: 

VN bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như TQ đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…” 

Đây là một tin sét đánh chấn động cả ngàn năm lịch sử Dân tộc và làm cho lòng dân Việt hôm nay hết sức hoang mang, sôi sục cũng như phẫn nộ.
          Để biết thực hư vấn đề đó ra sao, chúng ta hãy nhìn lại bối cảnh của Hội nghị Thành Đô bấy giờ. Lúc ấy, hàng loạt các đảng CS và hệ thống XHCN -như quân bài domino- nối tiếp nhau tan rã và sụp đổ ở Đông Âu, vì mang mầm tự hủy trong bản chất của chúng. Mầm mống tự hủy này chính là chủ trương cai trị bằng bạo lực và dối trá, hai điều mà bản tính con người dị ứng một cách triệt để. 

Đầu tiên là Ba Lan (6-1989), tiếp theo là Hungari (10-1989), Đông Đức (11-1989), đoạn tới Tiệp Khắc (12-1989), Rumani (12-1989), rồi Bulgari (1-1990). Muộn hơn là Albani (3-1991), rồi Nam Tư (6-1991) và cuối cùng là Liên bang Xô viết (19-8-1991). Đặc biệt, những sự kiện dồn dập xảy ra tại sáu nước Đông Âu trong vòng không đầy một năm đã gây bồn chồn lo lắng, âu sầu sợ hãi cho TBT Nguyễn Văn Linh (kẻ từng rất tâm đầu ý hợp với lãnh tụ bị hành quyết của Rumani là Ceaucescu trong chuyện cứu vãn Xã hội chủ nghĩa) cũng như bộ sậu chóp bu Hà Nội.
          Nắm bắt được tâm trạng hoảng hốt đó của lãnh đạo đảng và nhà nước VN, đồng thời biết chắc đám này sẵn sàng nhân nhượng tất cả để khôi phục quan hệ đảng và nhà nước với TQ nhằm có đồng minh và chỗ dựa trong việc bảo vệ đảng và chế độ, Trung Nam Hải quyết định hành động! Bắc Kinh thấy đây là cơ hội ngàn năm một thuở để đưa lãnh đạo đảng và nhà nước VN nằm trọn trong quỹ đạo phụ thuộc toàn diện vào mình, để từ đó tiến tới việc thôn tính mảnh đất phía nam mà cả ngàn năm, tổ tiên Hán tộc đã bao phen thất bại trong việc xâm lược. 

Và cơ quan Tàu cộng được giao thực hiện quỷ kế này chính là Hoa Nam Tình Báo, kẻ mà theo dư luận, đã tạo ra một Hồ Chí Minh giả để cai trị đất Việt. Hoa Nam Tình Báo đã chọn được ba con cờ đắc dụng: một Nguyễn Văn Linh ngây thơ khờ khạo, một Đỗ Mười ngu dốt háo danh và một Phạm Văn Đồng tay đã nhúng chàm việc dâng hai quần đảo tiền đồn của đất nước. 

Dĩ nhiên với đầu óc cuồng tín vào tình hữu nghị cộng đảng, với tâm địa khốn khiếp vô tổ quốc và vô đồng bào, với tham vọng điên khùng muốn thống trị mãi trên đất Việt (như chúng học từ chủ nghĩa CS do HCM giảng dạy), ba tên bán nước ấy đã sẵn sàng xóa đi ngàn năm kiêu hùng của Dân tộc, chà đạp xương máu của bao anh hùng liệt nữ, nhắm mắt trước cảnh đọa đày của các tộc Mông, Mãn, Hồi, Tạng.

 Việc chúng cùng đám đàn em giấu giếm nội dung những thỏa thuận sinh tử đối với đất nước ấy suốt 24 năm trời là bằng chứng chúng sợ nhân dân tuyên án là lũ phản quốc, một lũ phản quốc chưa từng có trong lịch sử dân tộc.
          Nhưng dù chúng không công bố mật ước Thành Đô, nhân dân cũng thấy được những hậu quả và hệ luận từ đó. Chẳng hạn cuộc chiến tranh xâm lược của Tàu ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc VN (1979) không còn được nhắc đến, thậm chí những hoạt động tưởng niệm và vinh danh các liệt sĩ hy sinh trong cuộc chiến này đều bị cấm cản! Biến cố xâm lược ấy cũng như việc Tàu dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa (1974) và đảo Gạc Ma ở Trường Sa (1988) không được tổng kết và đưa vào lịch sử và giáo khoa để giáo dục lòng yêu nước cho giới trẻ. 

Chẳng hạn những cuộc biểu tình yêu nước chống Tàu xâm phạm biển đảo, sát hại ngư dân ta đều bị đàn áp tàn bạo. Chẳng hạn việc cho phép Tàu thuê hàng trăm ngàn héc ta rừng đầu nguồn, rừng quốc phòng ở các tỉnh biên giới chiến lược phía Bắc với thời hạn lâu dài 50-70 năm. Chẳng hạn việc để cho Tàu đưa hàng ngàn công nhân đến Tây Nguyên, một yếu huyệt rất quan trọng về an ninh quốc phòng để thực hiện dự án bauxite đầy nghi ngờ và đáng tranh cãi. 

Chẳng hạn việc các công ty Tàu trúng đến 80-90% các gói thầu trọn gói EPC (thiết kế-mua sắm-xây dựng) trong các dự án về kinh tế-xã hội, đặc biệt là các dự án nhiệt điện, với hàng chục ngàn lao động phổ thông Tàu (có phép và không phép) thực hiện các dự án đó? 

Chẳng hạn việc thương nhân và doanh nghiệp Tàu tung hoành trên khắp lãnh thổ nước ta, lừa đảo nông dân, áp bức công nhân, lũng đoạn và phá hoại nền kinh tế đất nước một cách hết sức dễ dàng. Gần đây nhất là vụ Tàu ngang nhiên hạ đặt giàn khoan trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của VN mà Hà Nội vẫn không dám nhân cơ hội đó kiện TQ ra trước tòa án quốc tế như Philippin đã làm.
          Do đó, đồn đoán của công luận về “đại họa mất nước năm 2020” do tay Tàu cộng và Việt cộng là phần nào có cơ sở. Nó buộc mọi con Hồng cháu Lạc phải đứng lên biểu tình rầm rộ, trước hết là đòi hỏi Ba Đình phải bạch hóa mọi chuyện ở Thành Đô, bắt chúng lộ diện đầy đủ để hiện trọn vẹn nguyên hình, tiếp đó là khóa tay bè lũ bán nước trước khi lũ cướp nước ập đến. Bằng không thì tiêu vong cả Dân tộc. Cứ ngó thảm cảnh dân Tây Tạng và Tân Cương hiện thời thì biết.

          BAN BIÊN TẬP

Sunday, August 17, 2014


VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG TÔI



 CẦU TREO QUẢNG NGÃI, ĐI GIÂY TỬ THẦN


Vắt vẻo hai bên vách núi, giằng buộc dây thép mỏng manh vào thân cây gỗ mục, cầu treo tạm bợ bắc ngang sông Re ở xã Ba Xa, huyện Ba Tơ (Quảng Ngãi) trở thành "bẫy tử thần" với hàng trăm người dân.



Nhiều năm qua, hàng trăm người dân ở thôn Gọi Re, xã Ba Xa, huyện vùng cao Ba Tơ đi lại làm ăn, hay con trẻ đến trường, đều qua đường độc đạo trên chiếc cầu treo tạm bợ bắc ngang qua dòng sông Re bốn mùa chảy xiết.




Cầu treo dài khoảng 50 m, cao 15 m do người dân địa phương đóng góp tre, nứa, lồ ô, cuộn thép, dây kẽm... tạo dựng. Người qua đây phải nắm thật chặt dây kẽm được gọi là thành cầu, dò dẫm từng bước chân trên những miếng ván gỗ, lồ ô chắp vá thưa thớt.




Bà Võ Thị Bích Lê, Phó chủ tịch UBND xã Ba Xa cho biết, do xã còn nghèo nên từ bao đời nay người dân làm cầu tạm bợ để qua sông Re chứ không còn lựa chọn nào khác. Mưa lũ lớn thì họ chịu cảnh cô lập dài ngày. "Người lớn lo lắng thắt tim khi hàng ngày các con vượt cầu đến lớp không may sảy chân xuống sông sâu. Riêng mấy bé mầm non được cha mẹ thay phiên cõng qua cầu treo hai lượt mỗi ngày", bà Lê nói.




Hiện tại chiếc cầu treo này đã xuống cấp nghiêm trọng nhưng chưa được duy tu, sửa chữa. Nhiều mảnh ván, thanh lồ ô lắp trên mặt cầu đã mục nát, rơi xuống dòng sông trôi theo dòng nước.




Ông Phạm Văn Thành ở thôn Gọi Re, xã Ba Xa cho hay, từng có nhiều người dân và học sinh đi trên cầu treo này bị ngã rơi xuống sông nhưng may mắn chưa có ai thiệt mạng.




Mặt cầu treo chắp vá bằng những miếng ván, lồ ô cũ kỹ, trống hoác có thể nhìn thấu xuống lòng sông sâu.




Dây kẽm và sợi thép giằng buộc cầu treo này đã gỉ sét, nguy cơ bung ra uy hiếp tính mạng người dân bất cứ lúc nào.




Dây kẽm và sợi thép cầu treo này buộc vào thân cây cổ thụ bên bờ sông Re đã mục nát. Ông Lê Hàn Phong, Chủ tịch UBND huyện Ba Tơ cho biết thêm, dẫu biết hàng ngày người dân đi qua cầu treo tạm bợ này nguy hiểm, song muốn xây cầu kiên cố cần ít nhất 15 tỷ đồng. Nhiều lần huyện kiến nghị tỉnh bố trí nguồn kinh phí làm cầu treo kiên cố bắc ngang qua sông Re nhưng ngân sách khó khăn chưa thể phân bổ được.




"Để tránh nguy hiểm, mùa lũ huyện nghiêm cấm người dân qua lại trên cầu treo này. Hàng ngày qua cầu thì phải đi từng người một để tránh quá tải làm cầu bị đứt gây hiểm họa khó lường", ông Phong nói.

'Làng đu dây' qua sông

Cách trở dòng sông Re cuồn cuộn chảy xiết, nhiều năm qua hơn 600 hộ dân ở xã Sơn Ba, huyện miền núi Sơn Hà (Quảng Ngãi) phải đu dây thừng đi bè qua sông.




Không có cầu bắc qua sông Re, nhiều năm qua, 630 hộ dân với hơn 2.500 nhân khẩu ở xã Sơn Ba đi lại làm ăn, học tập phải đu dây thừng kéo bè vượt sông sâu. Chiếc bè dài khoảng 3 mét, rộng 1,5 mét được làm bằng những ruột ôtô bơm căng, bên trên lót gỗ hoặc thân tre nẹp lại.



Học sinh đu dây tinh nghịch trên chiếc bè chòng chành trên dòng nước.






Những bàn tay bé nhỏ nhưng chai sạn của học trò xã Sơn Ba vì thường xuyên đu dây đi bè qua sông.



Mùa lũ tràn về, mực nước trên các sông, suối dâng cao, hàng trăm học sinh bên sông Re nghỉ học 3-4 ngày là chuyện bình thường.



Nhà ở xa trường 4 km, hàng ngày em Đinh Văn Thương (lớp 1A, trường Tiểu học Sơn Ba) phải vượt suối, băng rừng, đu dây đi bè qua sông. Đến được lớp học thì cơ thể lấm lem bùn đất.




22 học sinh thôn Gò Da, xã Sơn Ba cách trường 8 km may mắn được các nhà hảo tâm, thầy cô giáo quyên góp gạo, tiền, quần áo ở nội trú trong trường để theo đuổi con chữ. Số còn lại phải băng rừng, đu dây đi bè qua sông Re 2-6 km đến trường mỗi ngày.




Toàn xã Sơn Ba có 7 điểm người dân thường xuyên đu dây kéo bè qua sông Re dài hơn 350 mét. "Mấy ngày trước nước lũ tràn về cuốn trôi mất hai chiếc bè, may chưa xảy ra chết người. Ước mơ lớn nhất của người dân là có cây cầu kiên cố bắc qua sông để không còn lo sợ nguy hiểm đến tính mạng", ông Đinh Văn Nã, Bí thư xã Sơn Ba bộc bạch.

Trí Tín 


Nhà giàu trong Xã Hội Chủ Nghiã Việt Nam và thực trạng xã hội

"SBTN SPECIAL: Việt Nam Ơi (Trúc Hồ)"

SBTN SPECIAL: Việt Nam Ơi (Trúc Hồ)


http://www.youtube.com/watch?v=w5risSUYZPQ


đổ đống vàng dát nhà làm sang



Nhiều đại gia Việt sở hữu những ngôi biệt thự bề thế, sang trọng, được dát vàng lấp lánh giống như những tòa lâu đài trong truyện cổ tích. Tổng số vàng mà chủ nhân của chúng bỏ ra lên đến nhiều tỷ đồng.
Lâu đài 6 con gà vàng của đại gia phế liệu
Mỗi khi đi qua khu vực đường Hoàng Quốc Việt, thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội, nhiều người không khỏi sửng sốt với tòa biệt thự khổng lồ sắp hoàn thiện, trông giống như một tòa lâu đài trong truyện cổ tích. Biệt thự này trông nổi bật hẳn so với những ngôi nhà khác xung quanh. Tòa nhà có 5 tầng lầu và một chóp nhọn trên đỉnh.





Tòa lâu đài trông nổi bật hẳn so với những ngôi nhà khác xung quanh


Người dân nơi đây cho biết, đại gia sở hữu ngôi biệt thự này là ông Nguyễn Quốc Thanh, sinh năm 1957, quê gốc ở Thanh Hóa. Ông Thanh được biết đến là một doanh nhân trong lĩnh vật liệu xây dựng, chủ yếu kinh doanh sắt thép.





Điểm đặc biệt của tòa nhà này là được gắn 6 con gà và một số đồ trang trí trên nóc. Tất cả đều được dát vàng.





Chỉ riêng 6 con gà dát vàng đã có giá vài tỷ đồng.





Con gà trống lớn nhất được đặt trên cao. 5 con còn lại xếp hình cánh cung





Cùng với 6 con gà dát vàng, hai cửa sổ với họa tiết dát vànglà hình ảnh đáng chú ý nhất của tòa lâu đài.


Điểm đặc biệt của tòa lâu đài là được trang trí bằng 6 con gà được làm bằng đồng đen và sơn son dát vàng thật một cách cầu kỳ gồm có 1 con gà trống to gắn trên cao và 5 con gà nhỏ hơn gắn phía dưới, trị giá ước tính lên đến cả chục tỷ đồng. Bên cạnh 6 con gà, tòa lâu đài còn được trang trí 16 chiếc lục bình đúc tình xảo với hình đầu trâu được cho là đem lại sự may mắn cho gia chủ. Cửa sổ một số tầng có nhiều họa tiết dát vàng mang dáng dấp kiến trúc lâu đài châu Âu cổ điển.
Lâu đài song sinh với nội thất dát vàng ở Ninh Bình
Khi đi trên trục đường quốc lộ 1A đoạn đi qua TP. Ninh Bình, nhiều người sẽ ngạc nhiên với một tòa lâu đài song sinh với nội thất dát vàng. Tòa lâu đài nổi tiếng này tọa lạc trên khuôn viên có diện tích 2.000m2, với thiết kế đối xứng tương đồng, cùng các chi tiết nội thất dát vàng bằng tay.






Lâu đài song sinh với nội thất dát vàng ở Ninh Bình




Lâu đài sinh đôi có hai cổng, được làm bằng đồng vàng, chạm khắc hình sư tử và ngựa


Lâu đài này thuộc sở hữu của một đại gia ngành xây dựng. Tên của lâu đài song sinh được đặt theo 2 con trai của vị này, với ý nghĩa hai người con sẽ nương tựa vào nhau và cùng xây dựng sự nghiệp gia đình.





Nội thất của lâu đài được thiết kế theo phong cách cổ điển châu Âu.





Những chi tiết dát vàng bằng tay cầu kỳ, tập trung ở mái trần, hoa văn và cửa sổ.


Tòa lâu đài có hai cổng, được làm bằng đồng vàng, chạm khắc hình sư tử và ngựa. Cửa chính được làm bằng gỗ đỏ, chạm khắc công phu. Hai bên có cột trụ sơn trắng và tay vịn bằng đá hoa cương đồng màu. Nội thất của lâu đài được thiết kế theo phong cách cổ điển châu Âu, với mái vòm cong sẫm màu, trần cao và các phòng được phân chia với không gian rất rộng. Điểm đặc biệt của tòa lâu đài là những chi tiết dát vàng bằng tay cầu kỳ, tập trung ở mái trần, hoa văn và cửa sổ. Tay vịn cầu thang được thiết kế riêng cho gia chủ, làm bằng nhôm đúc mạ vàng.





Tay vịn cầu thang được thiết kế riêng cho gia chủ, làm bằng nhôm đúc mạ vàng.

Cung điện vàng có một không hai của đại gia Hải Phòng

Cung điện này được coi là nhà mẫu kiến trúc sứ của một công ty ở TP. Hải Phòng. Toàn bộ hoa văn của cung điện được thiết kế và tạo hình theo phong cách hoa văn đương đại và cổ điển của lối kiến trúc Hồi giáo, kết hợp với vàng tạo nên vẻ đẹp quyền quý.





Cung điện sứ vẽ vàng 24k độc của đại gia Hải Phòng


Đây là công trình đầu tiên và duy nhất hiện nay trên thế giới sử dụng hoàn toàn vật liệu sứ vẽ vàng 24K cho toàn bộ nội ngoại thất của công trình. Tuy diện tích của cung điện là 24 m2, tương đương một phòng khách nhưng diện tích sứ điêu khắc và vẽ vàng có thể lên tới 300 m2.





Cung điện lấy cảm hứng thiết kế từ Cung điện Tajmahal của Ấn Độ


Cung điện có hệ thống chóp rời (5 chóp) cùng 4 cột trụ sứ vàng đi kèm. Toàn bộ bề mặt nhìn thấy của công trình đều được gắn sứ vẽ vàng. Riêng gạch lát sàn cũng có tới hơn 100 mẫu hoa văn các loại.





Đây là công trình đầu tiên và duy nhất hiện nay trên thế giới sử dụng hoàn toàn vật liệu sứ vẽ vàng 24Kcho toàn bộ nội ngoại thất



 
Cung điện ước tính có giá trị trên 20 tỷ đồng và nặng trên 30 tấn


Điểm đặc biệt của cung điện là có thể tháo ghép rời thành hơn 300 mảnh khác nhau trong 3 ngày là lắp lại hoàn thiện trong 5 ngày. Công trình ước tính có giá trị trên 20 tỷ đồng và nặng trên 30 tấn.
Biệt thự nhà vườn dát 60 cây vàng của đại gia Hải Dương
Ông Nguyễn Đức Lượng, Chủ tịch HĐQT, kiêm Tổng giám đốc công ty cổ phần Đầu tư Phát triển nhà Trường Linh khiến nhiều người phải choáng khi dát tới 60 cây vàng cho ngôi nhà vườn tại xã Tân Dân, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.





Biệt thự nhà vườn dát vàng của đại gia Hải Dương.


Tổng diện tích của ngôi biệt thự này là 5.000m2. Trong ngôi nhà gỗ khổng lồ, trừ hai tường hồi, toàn bộ nhà, từ vì kèo, cửa vách, hoành phi, câu đối, những tiểu tiết nhỏ nhất được làm bằng gỗ lim già. Ngôi nhà có 49 cột gỗ cỡ đại. Đặc biệt còn có tầng hầm kiên cố bằng xi măng bên dưới cũng đủ 49 cột, mỗi cột ứng với một cột gỗ bên trên. Khắp nơi trong ngôi nhà gỗ là những liễn đối dát vàng lấp lánh, bằng chữ nho.





Những bức hoành phi, câu đối dát vàng trong ngôi nhà.


Biệt thự dát vàng 300 tỷ đồng của Hoa hậu Ngô Mỹ Uyên
Nhiều người ngỡ ngàng khi biết hoa hậu kiêm ảo thuật gia Ngô Mỹ Uyên sở hữu căn biệt thự xa hoa như một nguyên thủ quốc gia tại TP.HCM. Căn biệt thự của người đẹp có giá trị khoảng 300 tỷ đồng.





Biệt thự dát vàng của Hoa hậu Ngô Mỹ Uyên


Ngôi biệt thự tọa lạc trên một trong những đường đắt giá nhất Sài Gòn. Nó được xây dựng theo kiểu kiến trúc của Pháp, phần trần nhà dát vàng lấp lánh, rồi cầu thang, tường, phòng tắm, sân thượng, quầy bar... tất cả đều mạ vàng.




Ghế ngồi bọc da thú, trần dát vàng và chùm đèn pha lê lộng lẫy trong nhà Ngô Mỹ Uyên

Hạnh Nguyên (tổng hợp)


Còn đây là con nhà nghèo sống tại nước CHXHCN Việt Nam






đâu phải chỉ có trâu làm kiếp kéo cày...





cấy lúa





gùi củi




áo quần đâu mà che thân





đoảng nhà lướt lo cho em như thế này sao???




lao động nặng





các bé lớn hơn cũng chẳng hơn gì




đoảng nhà lướt ở đâu rồi nhỉ




móc rác





hái củi




ra chợ với Mẹ





đu dây như làm xiếc để tới trường




đáng gọi là nhà không?




chỉ cơm trắng thôi cũng ăn




mạo hiểm để đi học, cảnh mà người thành thị không bao giờ dám




bới rác mưu sinh




tin nổi không??? trẻ em lên 5 xã nghĩa ưu việt!




an toàn giao thông đây sao?




Chiếc bát em bé cầm trên tay chứa món mèn mén, đây là một đặc sản của núi rừng Tây Bắc nhưng khi ăn vào nó thì cứ nghèn nghẹn chẳng khác gì bát "chè khoán" của bà cụ Tứ trong truyện "Vợ Nhặt" của nhà văn Kim Lân





cả nước sạch cũng không có mà uống nữa




trong cái lạnh ghê hồn của núi rừng Tây Bắc



đúng là chỉ cơm rau




Những đứa trẻ ngủ thiếu chân trên tấm ván được chắp vá từ những thanh gỗ nhỏ









chỉ cơm rau và nước muối





trong cái lạnh ghê hồn của núi rừng Tây Bắc



trong cái lạnh ghê hồn của núi rừng Tây Bắc





lao động nặng như người lớn




móc rác




vác đá



chị cũng lạnh làm sao sưởi được em?




con chó còn sung sướng hơn em vì nó có bộ lông trời cho





mới lên 3 đã biết đi bắt ếch




và cô độc, buồn thảm





ăn tại bàn học





và ngủ cũng trong lớp




1 căn phòng nhỏ xíu chứa tới 25 em





đu dây qua sông




nước uống của em đây sao?




chưa tới 10 tuổi đã làm dân chài




và vác gạch như người lớn





cả đào đá núi





gánh lúa khi chưa tới 3 tuổi








HUY PHƯƠNG * DANH NGÔN,ĐẠI NGÔN



Danh ngôn và đại ngôn Tạp ghi Huy Phương
Ảnh minh hoạ.
“Ðừng nghe những gì 'họ' nói mà hãy nhìn những gì 'họ' làm!” (Dựa theo câu nói của cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu)
Sau năm 1975, các chiến hữu của chúng ta di tản đến Hoa Kỳ đã thành lập tổ chức Tổng Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH, tổ chức này có chi nhánh ở nhiều tiểu bang và đã có những lần hội họp tại Dallas, có sự tham dự của các cấp lãnh đạo cũ của QLVNCH. Cứ mỗi lần họp lại để kỷ niệm Ngày Quân Lực, anh em đã nghe những lời phát biểu đến mối hận mất nước, được nghe những lời kêu gọi hào hùng, như nhắc nhở đến nhiệm vụ chung: “Chúng ta phải giải phóng Việt Nam, nhân dân Việt Nam chờ đợi chúng ta ở cả hai miền Nam Bắc.” Mỗi lần như thế là niềm hy vọng của những người bỏ nước ra đi lại bừng lên, và ai cũng nghĩ rằng thời cơ đã điểm và chiến hữu, đồng bào của chúng ta sẽ không chờ đợi lâu hơn nữa. Các chiến hữu cũng tin tưởng rằng, những phát biểu của cấp chỉ huy cũ này là những lời nói thành khẩn, chứ không phải là những lời nói đùa giỡn về một vấn đề sinh tử của quốc gia.

Trong một cuộc họp của Tổng Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH, người anh cả, Ðại Tướng TMT, trong bầu không khí trang nghiêm đã rưng rưng nước mắt, can đảm nhìn nhận phần trách nhiệm của mình, đã long trọng hứa “sẽ dành những ngày còn lại của cuộc đời để làm một cái gì đó cho tập thể.” Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, một tay vịn lá cờ vàng ba sọc đỏ, kêu gọi anh em hãy chuẩn bị để khi có tiếng gọi của tổ quốc, hãy sẵn sàng đi theo lá cờ thân yêu về giải phóng quê hương. Ông còn nói rằng, “Khi các chiến hữu thấy vắng bóng tôi, thì lúc đó chính là tôi đã trở về trên quê hương để góp phần trong sứ mệnh giải phóng dân tộc.” Một vị chỉ huy khác là Thiếu Tướng Lâm Văn Phát, trước đại hội, đã hăng say, quyết liệt hơn, xác nhận rằng ra hải ngoại để liên lạc, và nói rằng, “Chúng tôi xin báo cáo cho toàn thể quý vị biết rằng, thời cơ đã chín muồi, chúng ta không thể chờ đợi được nữa. Nội trong năm nay, chúng tôi sẽ phát động cuộc tổng nổi dậy, và nếu không thành công, chúng tôi xin chịu tử hình trước nhân dân.”


Thời gian này phần lớn anh em cựu quân nhân VNCH đều còn đang ở trong nhà tù tập trung, nếu nghe được những lời tuyên bố này, chưa chừng đã “hồ hởi, phấn khởi” đạp vách nhà tù, chạy ra để chào đón các anh. 

Vị chủ tịch Hội Ái Hữu Cựu Chiến Sĩ VNCH Minnesota, năm 1988, căn cứ vào những lời tuyên bố trên của các huynh trưởng đã phát biểu: “Mong sao đây là một lời tiên tri chính xác và một ngày gần đây hàng vạn bước chân anh sẽ đạp sóng Thái Bình, vượt dãy Trường Sơn trở về trên quê hương, đập tan loài quỷ đỏ.” (1)
Cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tác giả câu danh ngôn để đời “đừng nghe...,” trong bài diễn văn trao quyền tổng thống lại cho ông Trần Văn Hương ngày 24 Tháng Tư, 1975, đã hứa hẹn “sẽ ở lại cùng anh em chiến đấu.” Ba ngày sau, ông và gia quyến lên phi cơ bay sang Ðài Loan, để lại một con thuyền quốc gia sắp đắm, chôn vùi theo bao nhiêu nhân mạng của đồng bào và các chiến hữu của ông.

Càng về sau người ta thấy danh ngôn không mấy mà chỉ thấy đại ngôn. Cách đây 11 năm, một ông chủ tịch ngày khai trương lực lượng, trước mặt văn võ bá quan, trong bài diễn văn khai mạc đã hùng hồn tuyên bố, “Ðây là lúc chúng ta khua chiêng gióng trống để tiến về giải thể chế độ cộng sản!” Mười một năm, sức tàn lực kiệt, trên quê người, nhiều anh em chúng tôi đã từ giã cõi đời này, nhắm mắt mà còn mang theo niềm hy vọng ở lời tuyên bố của ông.

Ngày 30 Tháng Tư năm nào, đồng bào ở mọi nơi trên đất Úc cũng tập họp về thủ đô Canberra để kỷ niệm ngày mất nước và biểu tình trước Tòa Ðại Sứ CSVN. Biết trước chuyện này hàng năm, nên tòa đại sứ đã đóng cửa và cho nhân viên “di tản.” Ngày 30 Tháng Tư, 2011, tôi hân hạnh có mặt tại Canberra và tham gia cuộc biểu tình này cùng với gần 1,000 đồng bào tỵ nạn cộng sản tại Úc. Trong lúc khí thế đang vươn cao, giữa rừng cờ vàng Việt Nam và cờ Úc, cùng với những khẩu hiệu chống cộng sản được hô vang, trên khán đài, một nhân vật đại diện cộng đồng đã dõng dạc tuyên bố, “Thưa đồng bào, sang năm (2012), nơi đây (tòa đại sứ cộng sản) sẽ là tòa đại sứ của VNCH!”

Lời tuyên bố vừa chấm dứt, tiếng vỗ tay hoan hô của đồng bào nổi lên như sấm dậy!

Một câu chuyện khác là tổ chức liên quan đến việc phục hoạt chế độ VNCH, có ý định tổ chức bán công khố phiếu và hứa hẹn, nếu thành công, lúc đó sẽ trả lại cho đồng bào số tiền gấp đôi!

Trong thành ngữ Hán Việt có câu “cao thanh, đại ngữ” để chỉ giọng nói cất cao (lớn tiếng) mà chữ thì dùng “dao to, búa lớn!” Nói trong lúc bốc đồng, cao hứng, nói cho “sướng miệng” không phải đức hạnh của lãnh tụ. Thành ra không phát biểu được danh ngôn, thì đừng dùng đại ngôn, nói theo cách bình dân là “nói đại” hay “nổ đại!”

Kim Jong-un đã từng tuyên bố huênh hoang sẽ đích thân lái một chiếc xe tăng vào thủ đô Seoul của Nam Hàn để thống nhất đất nước, nhưng ít ra y cũng có xe tăng.
Danh nhân thì thường có những câu nói đời sau trở thành danh ngôn, ví dụ như Winston Churchill, Mac Athur, Thành Cát Tư Hãn, Hưng Ðạo Vương... Nhưng lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau, thay vì chỉ thuyết giáo, nói suông, đó là ý nghĩa của câu “ngôn hành hợp nhất.” 

Lãnh đạo mà không thành tín với dân, chắc chắn sẽ thất bại. Nguyễn Trãi đã từng nói, “Tín giả quốc chi bảo,” nghĩa là điều tín là của quý của quốc gia.

Ngày nay, vì thói hiếu danh, chuộng hình thức chủ nghĩa, chữ tín đang bị xâm hại, bị đánh tráo bằng những ngôn từ “dao to, búa lớn” xa với sự thật, thành ra một thứ huênh hoang, khoác lác. Ngày nay trên đất nước Việt Nam, chúng ta lại nghe những bài diễn văn rổn rảng chắp nối những chữ nghĩa vô hồn, khoác lác, mị dân. Ngay cả những chữ “độc lập - tự do - hạnh phúc” luôn luôn hiện diện dưới hàng chữ “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” cũng chỉ là những thứ bánh vẽ, dù đảng đã đốt 3 triệu thanh niên trong lò lửa chiến tranh, ngày nay người dân cũng chỉ tìm thấy được những gì trái nghĩa với mục đích đề ra lúc đầu.

Ðã không được là danh nhân thì đừng ráng kiếm danh ngôn. Trong cả triệu triệu câu nói, dù trên cửa miệng hay trong cõi lòng, trên đời này khó kiếm ra một câu danh ngôn cho đáng giá. Cuối cùng đó chỉ là những “doanh ngôn” mà người nói nhằm mục đích mua lòng tin của quần chúng và “bán trời không văn tự!”

Ðồng bào đã nhiều lần đánh mất niềm tin, vì đã bỏ công lao, tài sản và cả mạng sống cho những người đầu cơ chính trị, tin vào những lời đại ngôn nơi những người tự nhận là “lãnh đạo,” mà trong tất cả các thứ mất, mất niềm tin là tệ hại nhất!
(1) Tài liệu của Hội Ái Hữu Chiến Sĩ VNCH Minnesota (1988).
__._,_.___

HÀ NHÂN VĂN * TRUNG CỘNG & CHÂU PHI


Thảm kịch Do Thái - Palestine còn dài dài!
GIỠN MẶT VỚI OBAMA, TRUNG CỘNG SẼ MẤT VNCS VÀ PHI CHÂU!
Hà Nhân Văn

Bấy lâu nay, Nga Sô - Trung cộng ra mặt coi thường huyền ngọc Barack Obama, cả hai chủ quan đã quên rằng, sau huyền ngọc Barack còn Uncle Sam. Sáu năm trước Uncle Sam đã chọn chàng da đen - trắng để lãnh một sứ mạng vĩ đại lừng lững bước lên 2 đấu trường: Á Đông - Thái Bình Dương và Phi châu. Obama âm thầm giả bộ làng nhàng "passive", dồn sức vào Obamacare để làm nên lịch sử. Sau khi hóa kiếp được Bin Laden, Hoa Kỳ chuyển trục từ Âu qua Á.
Cho đến mùa Hè này, sau khi Bắc Kinh đưa giàn khoan "đá nổi trên biển cả" HD 981 vào thềm lục địa VN, tưởng rằng đi vào cõi không người, múa gậy vườn hoang. Bắc Kinh đã cống hiến cho Hoa Kỳ một cơ hội vàng, trở lại VN và ĐNA kéo theo Nhật Bản rồi Ấn Độ, hô phong hoán vũ, không mất một viên đạn, một xu teng, Hoa Kỳ trở lại VN thật "ngon lành". Trong 2 tuần lễ đầu tháng 8, cựu TT Bill Clinton rồi 3 nghị sĩ Mỹ, Dân Chủ và Cộng Hòa, đầy quyền lực đến Hà Nội. Coi như cầm chắc Ông Ba Đỏ TC mất đồng chí VN mà Ông Ba đã dầy công mua chuộc, củng cố sau Thượng đỉnh Việt-Trung Thành Đô, Ông Ba đã giúp Uncle Sam "bất chiến tự nhiên thành". VN đang chuyển hướng, xoay chiều. Nhật Bản đóng vai ủy nhiệm. Đài Loan nghiễm nhiên sẽ trở lại Hoa Lục qua ngả VN. Vào cuối năm 2014, Đài Loan sẽ là nước thứ 2 đầu tư nhiều nhất ở VN.

THƯỢNG ĐỈNH MỸ - PHI CHÂU

Đánh lạc hướng coi nhẹ Phi châu hơn cả các ông Clinton và Bush trẻ, thậm chí công du Phi châu, TT Obama không ghé qua quê cha Keyna. Đùng một cái, sau thời gian dài vận động và bố trí, tuần qua, TT Obama triệu tập Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ - Phi châu lần đầu tiên trong lịch sử Mỹ. Hội nghị qui tụ 50 nước Phi châu, 42 nguyên thủ quốc gia lớn nhỏ tưng bừng kéo nhau đến Hoa Thịnh Đốn hội họp trong 3 ngày ở đại sảnh bộ Ngoại giao Mỹ. Thượng đỉnh Hoa Kỳ và Phi châu đã gửi một thông điệp không lời cho Bắc Kinh: Phi châu thuộc về thế giới văn minh hiện nay, Mỹ và Âu châu, nói nôm na quê mùa: Ông Ba Đỏ TC "hãy lui ra cho bà đi chợ!" 6 năm trước Uncle Sam chọn Obama, đến nay mới thấy Uncle chọn đúng người "right man, right time, right place".


THẢM KỊCH DO THÁI - PALESTINE

Cuộc chiến Do Thái - Hamas lại bùng nổ, sau 72 giờ đình chiến. Vẫn như mấy lần trước, do Hamas tiếp tục tái gây chiến, bắn hỏa tiễn và rocket qua Do Thái. Tại sao có chuyện lạ đời vậy? Một bên đã thua trận vẫn tiếp tục gây chiến, đánh tới. Một bên, đại thắng vẫn tiếp tục thắng nữa trên khối dân đen, tay không. Số tử thương do Do Thái oanh tạc, pháo kích, xe tăng ào ạt trên dải Gaza đã lên đến gần 2000, đa số là phụ nữ, trẻ con. Phía Hamas, tử vong không đáng kể, Hamas dùng phụ nữ trẻ con làm lá chắn. Nhà thương, trường học và giáo đường Hồi giáo trở thành căn cứ của Hamas. Quân Do Thái hy sinh 63, dân Do Thái lại chỉ có 3 người chết, khoảng 9, 10 người bị thương do hỏa tiễn và rocket! Tuần báo The Economist, số chủ đề ra ngày 2-8-2014 với tựa đề lớn ngoài bìa "Thắng trận, thua cuộc chiến - Winning the battle, losing the war".
Theo Economist, thắng trận, thắng lớn nhưng Do Thái đã mất đi nhiều cảm tình với thế giới, chỉ còn 26% (trong số 23 nước thăm dò), chỉ hơn Nga Sô của Putin, xếp loại ngang với Pakistan, Bắc Hàn, Iran tận cùng thế giới. Trước đây, Do Thái rất được ngưỡng mộ, một quốc gia dân chủ thực sự, đoàn kết, thịnh vượng, nhiều sáng tạo và phát minh khoa học, nhất là từ năm 1976. Biệt động đội Do Thái đã giải cứu được con tin ở phi trường Uganda.
Nhưng giờ đây, uy tín của Do Thái đã tiêu tan. Trong số các nước đứng hàng đầu được thế giới có cảm tình nhất là Đức quốc, Canada, Anh, Pháp, Nhật thì Do Thái tụt hậu, đứng hàng chót là một trong 5 nước đã mất hết cảm tình đối với thế giới là Nga, Bắc Hàn, Iran. Ngay tại Mỹ, dù được Quốc hội Mỹ yểm trợ tối đa, cảm tình dành cho Do Thái đã tuột dốc trong dân chúng Mỹ, chỉ còn 36%. Dù thông cảm Do Thái với lý do tự vệ và sinh tồn, thế giới đồng loạt lên án Do Thái đã quá tàn bạo và hiếu chiến trong các cuộc oanh kích tàn phá Gaza. Dư luận Mỹ, Âu e ngại rằng dân Palestine ở Tây Ngạn - West Bank sẽ nổi dậy, lửa hận thù lại bùng lên trong khối Hồi giáo Sunni Ả Rập. Do Thái sẽ bị cô lập, tứ bề thọ địch.

Cho đến nay, Do Thái đã trở thành một cường quốc kinh tế và khoa học kỹ thuật vào hàng số một ở Trung Đông, vượt cả Iran, dân số 8,2 triệu, trong một diện tích rất chật hẹp, 20,770 km2 chỉ canh tác được 14%. Ngân sách quốc gia dành 7.7% cho y tế, 6% cho giáo dục. Nhưng còn một "quốc gia" Do Thái vĩ đại khác, đứng sau, có mặt khắp Tây bán cầu và Âu châu, từ Đức quốc, Pháp, Ba Lan, Anh, Ý... đến Ba Tây, Argentina, Mexico, kể cả Cuba... và chủ yếu là Hoa Kỳ. Cộng đồng Do Thái Mỹ trên 6 triệu dân nhưng là một nước Do Thái ở Hoa Kỳ.

 Do Thái là một "đế quốc" tư bản, nắm ngân hàng, thị trường tài chính, chứng khoán, kể cả bảo hiểm, y tế, luật sư... Chỉ có 2 nước Canada và Do Thái là được giữ quốc tịch Mỹ, tức song tịch. Thanh niên Do Thái có thể về Do Thái thi hành nghĩa vụ quân sự ... Lực lượng "vận động hành lang quốc hội Mỹ (lobby)" đông đảo nhất ở Hoa Thịnh Đốn, từ quốc hội đến Bạch ốc, Ngũ giác đài, báo chí và truyền thông.

Trước khi đi nghỉ hè 5 tuần, ngày cuối, Hạ viện Mỹ dẹp bỏ mọi chuyện, chỉ tập trung vào Do Thái, khẩn cấp chi 250 triệu cho Do Thái, riêng mấy khoản mua khí giới, đạn, bom... Dù vậy, Do Thái không thể còn "làm mưa làm gió" trên chính trường Mỹ như trước đây, huyền ngọc Obama đã và đang gồng mình cưỡng lại Do Thái. Vẫn tích cực bảo vệ Do Thái, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Obama đã chuyển hướng, ông tiếp tục chính sách của Bill Clinton, không thể bỏ rơi Palestine, Hoa Kỳ vẫn không công nhận Jerusalem là thủ đô của Do Thái trong khi Do Thái quyết gạt Palestine ra khỏi đất thánh. Palestine trở thành quốc gia độc lập, thủ đô phải đặt ở West Bank.
Obama vẫn cương quyết "một cách co giãn", thủ đô Do Thái phải là Tel Alviv như từ ngày quốc gia Do Thái ra đời 1948. Do Thái hải ngoại không từ bỏ một đòn phép nào đánh phá chủ trương cho Palestine là một quốc gia và được chia Jerusalem với Do Thái. Chỉ một chủ trương Palestine phải là một quốc gia, Bill Clinton đã khốn khổ, thân bại danh liệt. Vụ ông Bill mang họa tình ái lăng nhăng với người đẹp Lewinsky, ông đã lọt vào tay quyền lực đen ghê tởm nào đó, chút nữa đã bị cách chức Tổng thống! Mẹ cô Lu là một yếu tố quyết định, bà là Mỹ Do Thái, cô Lu cho mẹ biết tinh khí của ông Bill vọt vào váy cô. Không hiểu cô Lu có máu Do Thái này thổi kèn Bill Clinton như thế nào mà kèn Bill phọt cả lên váy cô. Mẹ cô Lu chụp ngay cơ hội, giữ cái váy của cô, tang chứng rành rành. Ông Bill phải trả cái giá chủ trương Palestine phải thành một quốc gia.

Giáo hội Công giáo Mỹ và cả La Mã cũng điêu đứng về vụ sì-căng-đan ấu dục. Một số giáo phận Công giáo Mỹ phá sản vì bị kiện! Đó là cái giá mà Công giáo La Mã phải trả cho ĐGH Th. Gioan Phaolồ II chủ trương và cổ võ cho một Palestine trở thành quốc gia và chia 3 Jerusalem! Ngoài Do Thái, phải chia cho Palestine và một phần cho Thiên Chúa giáo bao gồm Chính Thống giáo, Tin Lành và Công giáo La Mã! Nhiệm kỳ 2, Obama bị đánh phá "tối tăm mặt mũi", thậm chí tăng lương tối thiểu cho dân lao động cũng bị đánh phá, được mô tả như một "tổng thống tệ nhất"!

 Obama là một cái gai trước cộng đồng Do Thái, trước mắt diều hâu Netanyahu, một cựu tướng lãnh QĐ Do Thái, đắc cử Thủ tướng 2 nhiệm kỳ rồi! Ông diều hâu này là biểu tượng ý chí Do Thái. Cựu Ngoại trưởng Hillary Clinton nếu ra ứng cử Tổng thống, chắc hẳn sóng gió từ Do Thái Mỹ sẽ đổ ập tới.

Báo The Economist như một tiên liệu, Do Thái nếu tiếp tục hiếu chiến theo con đường "dân tộc" quá độ như hiện nay, Do Thái sẽ tự cô lập, sẽ có một ngày trong núi lửa hận thù. The Economist từ trước đến nay vẫn ủng hộ Do Thái, nay thì cực lực lên án, cảnh giác Do Thái. Âu châu đang coi Do Thái là dân kỳ thị chủng tộc (a racist). Do Thái đang trở về chủ nghĩa phân chủng như Nam Phi trước đây! Trên vùng đất Do Thái đang tồn tại còn có các dân tộc khác, ngoài Palestine, còn có sắc dân Druze, Ả Rập, Bahais... Jerusalem có bức tường Thương khóc tối thiêng liêng của Thiên Chúa giáo và Hồi giáo. Chẳng lẽ Do Thái lại bắt chước Trung Cộng vẽ vời chiếm đoạt 90% Biển Đông.


Do Thái đừng quên bài học đẫm máu Phát xít Hitler tàn sát 6 triệu dân Do Thái. Thảm kịch lịch sử nào mà không có nguyên nhân. Trước khi bạo chúa Hitler lên cầm quyền, hầu hết các tiệm cầm đồ trên nước Đức trong tay Do Thái, địa ốc và ngân hàng cho vay nợ lãi trong tay tư bản Do Thái. Báo Economist nêu vấn đề cốt lõi: Gaza và tương lai Do Thái.

Liệu Do Thái có thể xóa bỏ bản đồ dải Gaza và tiêu diệt gọn khủng bố Hamas không? Hamas ở trong 1.8 triệu dân Gaza. Tháng 7 vừa qua, nhân chuyến công du của ĐGH Phan Xi Cô, Thủ tướng Do Thái tiếp ngài rất long trọng, tự nhiên ông khoe: "Đức Chúa Giêsu nói tiếng Do Thái". ĐGH Phan Xi Cô trả lời ngay: "Không! Chúa Giêsu nói tiếng Ả Rập!"

TRỞ VỀ SÓNG GIÓ BIỂN ĐÔNG!

Hội nghị Ngoại giao Hiệp hội Đông Nam Á ASEAN khai mạc ngày 8-8 vừa qua tại thủ đô Miến Điện, có các nước liên hệ tham dự: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Bắc Hàn, Nam Hàn, Úc, Tân Tây Lan và Trung Cộng. Trước một ngày, ngoại trưởng 3 nước Phi Luật Tân, Mã Lai và Việt Nam họp riêng. TT Thein Sein rất khôn khéo cùng ngoại trưởng Miến đến chào mừng. Ba nước Việt - Mã - Phi họp riêng đi tới đồng thuận một lập trường về Biển Đông để đối phó với TC. NT John Kerry, dành 2 ngày cho hội nghị. Ngày 9-8, ông họp riêng với NT Việt Nam Phạm Bình Minh.
Ông Kerry đầy lạc quan, "tươi ơi là tươi" vỗ vai PBM, tuyên bố: Quan hệ Việt Mỹ càng ngày càng phát triển hơn nữa. Tuy nước chủ nhà Miến Điện đã nói rõ: Miến Điện giữ vai trò trung lập (trong vấn đề Biển Đông) - theo AFP, ông Thein Sein rất vồn vã với 2 ngoại trưởng Mỹ, Nhật và đồng nghiệp ASEAN - nhưng rõ ràng người ta cảm thấy TT Thein Sein giữ một khoảng cách với NT Vương Nghị của TC (distance from...). Nhận xét chung, NT Vương Nghị và phái đoàn TC lạc lõng giữa các đồng nghiệp ASEAN, Mỹ và Úc. Kể cả Bắc Hàn cũng không còn thắm thiết mặn mà với đại đồng chí đàn anh Bắc Kinh!

Qua hội nghị này, rõ rệt 2 ngoại trưởng Mỹ và Nhật đã gắn bó với ASEAN, một thị trường 620 triệu dân, dường như đang tách dần TC. Cũng là do Bắc Kinh đã quá kiêu căng, ngoài vụ giàn khoan HD 981 rút trước thời hạn một tháng, TC lại tuyên bố "bản đồ dọc" mới, 9 đoạn tăng lên 10, chiếm 90% Biển Đông, tự Bắc Kinh đã đẩy ASEAN bám chặt vào Mỹ - Nhật, tự Bắc Kinh đã vạch áo cho ASEAN nhìn rõ cái mạnh cái yếu của Bắc Kinh, chi bằng bám vào Mỹ lúc này là thượng sách.
Qua vụ máy bay dân sự MH 17 bị hỏa tiễn Nga bắn rớt ở Đông bộ Ukraine, Mã Lai ngả hẳn về Mỹ. Chính Bắc Kinh đã đẩy Phi Luật Tân, Mã Lai và VN vào một khối đối đầu với TC để bảo vệ chủ quyền Biển Đông. Tóm lại, TC trở thành đối tác rất lẻ loi trong hội nghị ngoại giao ASEAN kỳ này. Ta có câu: "Nắm người có tóc, không ai nắm kẻ trọc đầu", vô hình chung, NT Vương Nghị trở thành kẻ trọc đầu giữa khối ASEAN, thậm chí Bắc Hàn còn lộ rõ vẻ lạnh lạt đối với phái đoàn Vương Nghị. Tuy nhiên, TC lại càng thêm cứng cựa! Dù Hoa Kỳ lên tiếng phản đối, VN, Phi và Mã Lai phản đối, TC vẫn khởi công xây 5 đài hải đăng ở Biển Đông để cắm mốc chủ quyền ở Biển Đông. Vô ích, chỉ gây thêm căm phẫn, đẩy nhanh ASEAN vào quỹ đạo Hoa Kỳ. Năm 2015, Mã Lai sẽ là chủ tịch luân phiên ASEAN, Đại sứ Lê Lương Minh tiếp tục làm Tổng thư ký ASEAN thêm 3 năm nữa trong nhiệm kỳ 5 năm. ASEAN sẽ đổi thành cơ chế Cộng đồng ĐNA như CĐ Liên Âu.

VN THOÁT KHỎI VÒNG TAY TC?


Bất cứ giá nào, TC cũng bám chặt VN, củng cố Hiệp ước phòng thủ chung Việt - Trung mà Phạm Văn Trà, Đại tướng Bộ trưởng Bộ QPVNCS đã đặt bút ký với sự chứng kiến của Nguyễn Tấn Dũng, khi còn là Phó Thủ tướng, không kể những mật ước VNCS đã ký kết với Bắc Kinh từ hội nghị Thành Đô, Tứ Xuyên năm 1990. Gió đã xoay chiều! Đây là cơ hội vàng để VN thoát khỏi tai họa Bắc xâm. Tin riêng của bản báo từ Hà Nội cho biết, phe Thái thú TBT Nguyễn Phú Trọng vẫn còn mạnh dù là thiểu số do Cục tình báo Hoa Nam đứng sau với 53 cơ sở đầu tư của TC ở 53 tỉnh và thành phố nhưng cũng không cản nổi cao trào chống TC mỗi ngày một mãnh liệt tuy còn âm thầm ngay trong lòng ĐCSVN và toàn dân. Nhân đà này, ngon trớn, Hoa Kỳ không bỏ lỡ cơ hội. HNV hơn một lần đã rộng bàn trên mục này, bộ ba "Viet Veterans" McCain, J. Kerry và Chuck Hagel là cột trụ chính sách mới của Mỹ ở VN.
Đầu tháng 8, TNS Coker, nhân vật cao cấp trong UB Ngoại giao Thượng viện Mỹ (high ranking) đến Hà Nội, gặp Trương Tấn Sang và Dũng. Sang khẩn thiết nhờ Ns. Coker vận động quốc hội Mỹ tháo bỏ cấm vận vũ khí sát thương cho VN. Trước đó, cựu TT Bill Clinton thăm Hà Nội, CT Sang tiếp đón ông Bill rất long trọng, ân cần nhờ ông Bill vận động quốc hội và hành pháp Obama cho VN được mua vũ khí của Mỹ. Như quí độc giả đã rõ, TNS McCain và TNS Shelton, Dân Chủ, công du VN chỉ cách 2 ngày TNS Coker rời Hà Nội. Đây là chuyến công tác của 3 TNS Dân Chủ và Cộng Hòa với mục đích rõ rệt: An ninh, Nhân quyền và Mậu dịch Mỹ Việt. TNS McCain rời Hà Nội đầy lạc quan cho biết có thể tháng 9 này, Hoa Kỳ sẽ tháo bỏ lệnh cấm vận từng phần, sẽ bán vũ khí sát thương cho VN.


Tại sao lại dồn dập và khẩn cấp như vậy? Xin thưa, chỉ còn mấy tháng nữa, Hoa Kỳ rút khỏi A Phú Hãn, vũ khí tối tân còn đầy ắp trong các kho của Mỹ chưa dỡ bỏ, đưa về Mỹ mất công, tốn kém chuyên chở chi bằng bán bớt đi. Đây không phải là vũ khí phế thải mà là vũ khí tối tân, hiện đại của Hoa Kỳ, Ấn Độ cũng đang khát khao mua lại. Theo tin từ Hà Nội, giới lãnh đạo CSVN đang say mê hướng về món hàng sát thương còn tồn kho ở A Phú Hãn hay đâu đó ở Nam Á và các căn cứ ở Ấn Độ Dương. Vũ khí của Nga, kể cả máy bay phản lực và hỏa tiễn Nga đã xuống cấp so với Mỹ. Với VN, còn một điều hấp dẫn lý thú khác, giá cả có thể du di, nhiều trường hợp có thể trả "credit" lai rai đến một lúc Uncle Sam sẽ "tha nợ"!

Vấn đề còn lại tùy thuộc vào "thiện chí" của Hà Nội: vấn đề Nhân quyền. Với Hoa Kỳ vào lúc này, vấn đề gọi là an ninh, "cái mỹ an ninh" mới là quan hệ hàng đầu. Dân chủ, tự do và nhân quyền tuy là cốt lõi của tinh thần Mỹ nhưng vẫn có thể du di, tựa như "trả góp". Nay CSVN thả một tù nhân lương tâm, mai lại tha một nhân vật đối kháng, cũng là cách trả góp cho món nợ nhân quyền. Gió đã xoay chiều. Ngón nghề của CSVN là nương theo chiều gió. Vấn đề còn lại vẫn ở trong tay Bắc Kinh. Giàn khoan HD 981 là một ẩn số. Sau khi xây xong 5 đài hải đăng và căn cứ tiếp liệu nổi ở đảo Gạc Ma, Bắc Kinh sẽ làm gì tiếp? Giàn khoan HD 981 sẽ chuyển về đâu? Giới lãnh đạo VN xưa nay vẫn là chờ thời đón gió. Nhưng cái mà CSVN không thể chờ được, đó là trục xoay của Uncle Sam với Nhật Bản và Ấn Độ phụ họa. Mỹ - Nhật phải hiện diện ở ĐNA mà VN là điểm chiến lược không thể thoái lui.

HÀ NHÂN VĂN

(10/8/2014)

TƯỞNG NĂNG TIẾN * NHÀ BÁO

Những Người Viết Láo & Những Người Viết Báo


 S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Bây giờ các anh phải sống theo cách khác cái lũ già hèn nhát chúng tôi, phải học chia một véc-bờ khác : Tôi đếch sợ anh, anh đếch sợ tôi, chúng ta đếch sợ chúng nó...
Nguyễn Tuân


Tôi giao thiệp hơi (quá) rộng. Trong số mấy triệu người Việt tị nạn đang sống rải rác khắp nơi trên thế giới, tôi quen biết dám chừng hơn nửa. Còn với qúi đồng hương hay đồng bào (ở quê nhà) chắc cũng khoảng một phần mười, nghĩa là cỡ đâu mười triệu – bất kể thành phần xã hội, giới tính, sắc tộc, tôn giáo, hay chính kiến ... – anh Tiêu Dao Bảo Cự và chị Phạm Thị Bạch Yến là hai trong (vô số) những người này.
                             
Người trông xa, ma trông gần. Bạn bè, tất nhiên, cũng không nên thân cận quá. Bởi vậy, khi nghe tin anh Bảo Cự và chị Bạch Yến sẽ ghé Mỹ (chơi) độ ... nửa năm, tôi “hết hồn hết vía” và “băn khoăn” cả buổi!
Hoa Kỳ không phải là nơi để chơi. Ghé qua sáu ngày e thiếu nhưng ở tới sáu tháng thì sợ là dư. Tôi thực sự lúng túng không biết làm gì khoảng thời gian (dài đến một trăm tám chục ngày) khách ở California.
May mà cả anh Tiêu Dao Bảo Cự lẫn chị Bạch Yến (chắc) đều tuổi Ngọ nên rất “chịu” đi. Trong tập bút ký Gặp Gỡ Trên Đất Mỹ, ông cho biết hai người đã “phiêu lưu” qua mười hai tiểu bang và Washington D.C.
Xin xem qua một đoạn văn tác giả viết về Viện Bảo Tàng Báo chí (Newseum) nơi mà hầu như mọi du khách đến thủ đô nước Mỹ cũng đều đã dừng chân:
“Có một bức tường tưởng niệm các nhà báo trên thế giới đã hi sinh trong khi làm nhiệm vụ, được coi như những anh hùng của nền dân chủ, với tên tuổi và hình ảnh dày đặc từ gần dưới nền lên cho đến tận trần nhà. Nhiều câu nói về sự cao quý của nhà báo và nghề báo ghi trên các bức tường được chọn lọc cẩn thận, đáng suy ngẫm.
Tôi thích nhất các câu: ‘The free press is the cornerstone of democracy,’ ‘Free press, at its best, reveals the truth’ và điều xác tín của Rod Dreher, nhà bình luận báo chí: ‘There are three kinds of people who run toward disaster, not away: cops, firemen and reporters.’ Dĩ nhiên đây phải là báo chí và nhà báo chân chính. Trong thế giới hiện nay, cũng không hiếm các báo chí và nhà báo đi ngược lại thiên chức cao quý của mình...”


Nhà báo là một trong ba loại người chạy đến nơi xảy ra tai
họa chứ không chạy đi. Ảnh và chú thích: TDBC.
Chả hiểu sao cứ mỗi khi nghe nói đến danh xưng “nhà báo chân chính” và “thiên chức cao qúi” của họ là tôi lại nghĩ ngay đến “cung cách tác nghiệp” của những người làm báo ở xứ sở của mình, cùng với một tiếng thở dài – cố nén!
Chớ có người làm báo nào ở Việt Nam chạy đến nơi xẩy ra tai họa không vậy, Trời? Sao không: trong vụ cưỡng chế đất đai ở Văn Giang, hai nhà báo của chúng ta đã có ngay mặt tại hiện trường – và bị công an đánh cho bầm dập, đánh cho tơi tả,  “đánh cho chết mẹ mày đi” – dù họ chỉ đến “với tinh thần ủng hộ chủ trương của tỉnh,” và cho công tác “tuyên truyền có định hướng” của nhà nước, chứ không phải để lên tiếng bênh vực cho  những nông dân đang bị đẩy vào bước đường cùng.


Biếm họa: Babui 
Toa rập với cường quyền để áp bức lương dân không phải là “sở trường” duy nhất của những người làm báo ở Việt Nam. Họ còn sẵn sàng đánh bóng hay nói theo bất cứ chủ trương hoặc chính sách nào của Nhà Nước – kể cả những chủ trương ngu xuẩn nhất – bằng những lời lẽ hoàn toàn dối trá và trơ trẽn:
Do được hưởng lợi trực tiếp hoặc gián tiếp mà từ hôm đến Đắk Nông, hỏi bất cứ người dân nào người ta đều ủng hộ các dự án về bô-xít, chắc chắn nó sẽ làm thay đổi hẳn bộ mặt tỉnh Đắk Nông trong tương lai.
Từ nhà già làng Điểu Sơn, chúng tôi sang nhà ông Điểu Lônh (Lôi). Nhờ có tiền đền bù đất mấy trăm triệu, ông xây cho con gái, con rể ngôi nhà khang trang lát gạch men bóng lộn, xa lông, tủ chè, ti-vi, quạt điện… làm chúng tôi ngỡ mình đang ngồi ở thành phố chứ không phải là một bon hẻo lánh của người H’Mông.  (Nguyễn Hữu Nhàn.  Bô-xít Tây Nguyên, Thấy Gì Ghi Nấy).
Làm sao mà “thấy” một buôn làng của người H’Mông ở Đắc Nông được mà “ghi” đại vậy, cha nội? Ông Nguyễn Hữu Nhàn, tuy thế, chưa trơ tráo bằng ông bạn đồng nghiệp Lã Thanh Tùng:
Bauxit của chúng ta khai thác dễ đến nỗi, chỉ cần gạt lớp đất mặt đi (khoảng 0,9 mét) là đến ngay vỉa quặng dày đến 4 mét. Theo các chuyên gia, trữ lượng bauxit của Việt Nam có thể khai thác hàng trăm năm, đem lại lợi nhuận hàng chục tỷ USD… (“Bô-xít Và Những Điều Khác”, Văn nghệ số 44, phát hành ngày 31 tháng 10 năm 2009).
Thiệt là quá đã, và… quá đáng nhưng vẫn chưa đáng tởm bằng cái thói ngậm máu (hay ngậm cứt) phun người của những người làm báo ở xứ sở của tôi:
          - Thích Quảng Độ móc nối các tổ chức cực đoan lưu vong ở hải ngoại để dùng “oán trả ơn” bằng cách thông tin vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, không cho tự do tôn giáo. (Sài Gòn Giải Phóng, ngày 28 tháng 8 năm 2007).
          - Ông Thích Quảng Độ, người đứng đầu tổ chức không được các tăng ni, phật tử ở Việt Nam công nhận, là "Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất", chẳng hiểu căn cứ vào đâu mà cho rằng việc khai thác bôxít sẽ dẫn đến "nguy cơ huỷ hoại màu xanh Tây Nguyên và đời sống của người Việt cũng như hàng chục dân tộc ít người". Tiếp theo, ông ta "khẩn cấp báo động công luận thế giới về đại nạn sinh thái Tây Nguyên Quả là không thể hiểu nổi, một vị tu hành đến chức Hoà thượng mà lại làm những việc phản dân hại nước đến vậy. (Công An Nhân Dân, ngày 18 tháng 4 năm 2009).
Rồi sau khi người “người đứng đầu tổ chức không được các tăng ni, phật tử ở Việt Nam công nhận” được đề cử nhận giải Nobel Hoà Bình thì Ban Tuyên Giáo Trung Ương hốt hoảng cho ra ngay một bức công điện (khẩn và mật) nguyên con như thế này đây:


Công điện chỉ đạo đối phó với tình huống Hòa thượng Thích Quảng Độ được trao giải
Nobel Hòabình do ông Nguyễn Thế Kỷ ký ngày 9 tháng 10 năm 2008. Ảnh và chú thich: RFA
Ông Vụ Trưởng Báo Chí hùng hổ lên án là một vị tu sĩ (tay không tấc sắt) là “phản dân, hại nước, đi ngược lại ước nguyện hoà bình, hạnh phúc, tiến bộ của nhân dân Việt Nam...” nhưng trước chuyện lãnh hải bị xâm phạm, và hành vi khiêu khích trắng trợn của ngoại nhân thì ngôn ngữ cũng như thái độ của ông Nguyễn Thế Kỷ lại hoàn toàn khác hẳn:“Sao đã có chủ trương chỉ nói là tàu Trung Quốc lỡ làm đứt cáp thôi, mà có một số báo lại đưa là nó cố tình cắt cáp, để gây ra kích động nhân dân biểu tình.”
Chủ trương của nhà nước không chỉ hèn hạ mà còn bất nhất, cứ sáng đúng, chiều sai, đến trưa lại đúng. Và đây là nét chung của bất cứ chế độ cộng sản nào, theo nhận xét của George Orwell:
“Nhà thờ ở châu Âu thời Trung cổ buộc bạn vào một tín số điều, nhưng ít nhất nó cũng cho phép bạn giữ những tín điều ấy từ lúc lọt lòng cho đến lúc chết. Nó không bao giờ bảo bạn thứ Hai phải tin một điều, thứ Ba lại phải tin vào một điều hoàn toàn khác. Tình hình cũng tương tự như vậy đối với các tín đồ Công giáo, đạo Hindu, đạo Phật, đạo Hồi ngày nay. Chế độ toàn trị hoàn toàn ngược lại. Đặc trưng của nhà nước toàn trị là tuy nó kiểm soát tư tưởng, nhưng nó lại không xác dịnh dứt khoát tư tưởng ấy là gì. Nó đưa ra một số tín điều không được tranh cãi, nhưng các tín điều ấy lại thay đổi hàng ngày. Chế độ cần tín điều vì cần các thần dân phục tùng một cách tuyệt đối, nhưng nó không thể không thay đổi theo các nhu cầu của tầng lớp nắm quyền.”
Tại sao cái loại nhà nước toàn trị có thể “đưa ra một số tín điều không được tranh cãi … nhưng lại thay đổi hàng ngày” mà những người cầm viết vẫn “chịu phục tùng một cách tuyệt đối” như vậy?
Xin thưa, giản dị, chỉ vì họ ... sợ!
Nỗi sợ hãi này đã ám ảnh Nguyễn Tuân cho đến lúc cuối đời:“ Bây giờ các anh phải sống theo cách khác cái lũ già hèn nhát chúng tôi, phải học chia một véc-bờ khác : Tôi đếch sợ anh, anh đếch sợ tôi, chúng ta đếch sợ chúng nó...”
Tuy muộn màng, cuối cùng, ước nguyện của ông đã trở thành hiện thực. Ngày 3 tháng 3 năm 2014, thay mặt sáu mươi bạn đồng nghiệp nhà văn Nguyên Ngọc tuyên bố thành lập Văn Đoàn Độc Lập Việt Nam. Bốn tháng sau, BBC đi tin:
“Hội Nhà báo Độc lập, một tổ chức dân sự mới, vừa tuyên bố thành lập hôm thứ Sáu 4/7... Mục đích của Hội Nhà báo Độc lập được tuyên bố trước hết là: ‘Phản ánh trung thực và sâu sắc những vấn đề nóng bỏng của xã hội và đất nước; Phản biện đối với những chính sách bất hợp lý của nhà nước liên quan đến quản lý xã hội và tự do báo chí và Tổ chức trao đổi, đối thoại với các cấp chính quyền về tự do báo chí và quản lý xã hội khi có điều kiện, đồng thuận với những chính sách, giải pháp hợp lòng dân và có lợi cho đất nước’.
Tổ chức này cũng cam kết ‘Lên tiếng và có hành động cần thiết để bảo vệ những người làm báo vì tiến bộ xã hội, nhưng bị sách nhiễu, bắt bớ, tù đày, khủng bố… Đấu tranh yêu cầu Nhà nước Việt Nam hủy bỏ những điều luật mơ hồ của Bộ Luật Hình sự được dùng để áp chế tự do báo chí như Điều 258, 88…"
Nguồn ảnh:anhbasam.wordpress


Theo dư luận chung thì sự có mặt của Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam là một đáp ứng can đảm và cần thiết trước thời cuộc hay tình thế. Với riêng tôi, đây còn là một đáp ứng tình cảm đã (bị) mất mát từ lâu. Mối hảo cảm mà một người dân miền Nam như tôi vẫn dành cho giới người cầm viết cho đến ... tháng 4 năm 1975!
Tôi không dám kỳ vọng gì nhiều vào những hoạt động của hội, trong tương lai gần, vì biết rằng phần lớn hội viên đang phải sống trong vòng vây của một bầy lang sói. Nhưng chỉ cần đọc Tuyên Bố Đầu Tiên Của Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam Về Việc 6 Ngư Dân Việt Nam Bi Trung Quốc Giam Cầm cũng đủ khiến cho một độc giả bình thường như tôi cảm thấy vô cùng an ủi và ấm lòng khi nhận ra một điều vô cùng giản dị: các anh các chị “đếch sợ chúng nó” nữa.   

GS. NGUYỄN VĂN TUẤN * TIẾN SĨ VIỆT CỘNG



Đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam: Những chuyện không giống ai
Gs Nguyễn Văn Tuấn ( bản gốc)/ Tuấn's blog

Gs Nguyễn Văn Tuấn. ( Ảnh Dân trí)

Nếu đọc qui chế đào tạo tiến sĩ thì người đọc có thể thấy qui trình đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam cũng tương đối chuẩn mực. Nhưng trong thực tế, đây đó xảy ra những chuyện có thể nói là … không giống ai. Ở đây, tôi chỉ nêu vài vấn đề nổi cộm và hi vọng rằng sẽ được khắc phục trong tương lai gần. (Bài đã đăng trên báo Dân Trí.)


Môi trường và mô hình đào tạo. Thông thường đào tạo tiến sĩ ở nước ngoài (1) là theo mô hình tập trung. Theo mô hình này, nghiên cứu sinh (NCS) phải có mặt ở trường hay viện toàn thời gian. Có đại học yêu cầu NCS phải học một số khoá học trước khi làm nghiên cứu, nhưng ở các nước như Úc và Anh, NCS làm nghiên cứu toàn thời gian. Ở Viện chúng tôi, trong thời gian theo học / nghiên cứu, NCS phải dự các buổi giảng của các chuyên gia hàng tuần, họp lab hàng tuần để kiểm tra tiến độ nghiên cứu và trình bày kết quả trước đồng môn. Ngoài ra, NCS còn được khuyến khích tham gia vào các hoạt động khoa học khác và hoạt động xã hội. Tất cả đều được thiết kế để NCS hoà mình trong thế giới học thuật và khoa học, và mặt khác nâng cao khả năng nghiên cứu và luyện sự độc lập của nghiên cứu sinh. Đó là mô hình chuẩn mà tôi thấy rất nhiều đại học

Thế nhưng mô hình đào tạo ở VN thì không phải toàn thời gian và NCS cũng không được sống trong môi trường khoa học. Ví dụ như hầu như tất cả nghiên cứu sinh ngành y đều không đến trường để nghiên cứu, mà họ vẫn làm việc bình thường ở bệnh viện hay cơ quan gốc. Họ có thể theo học bán thời gian một vài khóa học về phương pháp nghiên cứu hay về chuyên môn, và về bệnh viện … làm tiếp. Lâu lâu mới tiếp xúc người hướng dẫn một lần. Với mô hình đào tạo như thế NCS không có cơ hội tiếp xác và trao đổi với đồng môn, không trầm mình trong môi trường học thuật, và không có dịp trình bày báo cáo hàng tháng cho đồng môn. Có rất NCS than phiền rằng họ phải “tự bơi” vì không có sự tiếp sức và cố vấn của người hướng dẫn. Có thể nói rằng NCS tiến sĩ ở VN chỉ học bán thời gian và không phải là NCS thực thụ theo nghĩa “nghiên cứu”.


Thời gian đào tạo. Theo Qui chế đào tạo tiến sĩ của Bộ GDĐT thì thời gian đào tạo tiến sĩ là 3 năm tập trung đối với người có bằng thạc sĩ, và 4 năm đối với người có bằng cử nhân. Thế nhưng, có đại học qui định rằng thời gian đào tạo tiến sĩ là 2 năm đối với người có bằng thạc sĩ!

Thật ra, thời gian đào tạo không nên tuỳ thuộc vào NCS có bằng thạc sĩ hay cử nhân, mà tuỳ thuộc vào sự hoàn tất nghiên cứu và luận án. Ở các đại học nước ngoài, thời gian đào tạo trung bình là 4 năm, nhưng thường lấn sang năm thứ 5. Có người tốn cả 6 năm mới xong chương trình học. Đối với nhiều trường, thời gian không phải là qui định chính, mà có công trình nghiên cứu được công bố quốc tế mới là qui định chính. Ở các nước Bắc Âu, luận án tiến sĩ là tập hợp 3-4 công trình đã công bố trên các tập san quốc tế. Do đó, NCS có thể tốn cả 7 hay 8 năm để “trả nợ” mới được bảo vệ luận án. Tôi không biết có đại học nào trên thế giới có thể đào tạo tiến sĩ trong vòng 2 năm.


Đề cập đến bài báo khoa học, Qui chế đào tạo tiến sĩ có ghi rõ rằng luận án tiến sĩ có “Nội dung chủ yếu và các kết quả nghiên cứu của luận án phải đã được báo cáo tại các hội nghị khoa học toàn quốc hàng năm của ngành khoa học, được công bố ít nhất trong hai bài báo trên tạp chí khoa học chuyên ngành có phản biện độc lập.” Theo tôi qui định này cũng hợp lí. Tuy nhiên, có nơi lại ra qui định rằng NCS không được công bố nội dung chính của luận án (tức các bài báo khoa học) trước khi bảo vệ luận án! Đây là một qui định có thể nói là “ngược đời”.


Gánh nặng đè lên vai nghiên cứu sinh. Ở nước ngoài, khi nhận hướng dẫn cho NCS, giáo sư hướng dẫn đã có chương trình nghiên cứu và ngân sách cho nghiên cứu. Do đó, NCS chỉ việc tham gia vào chương trình nghiên cứu, hoặc dùng ngân sách của giáo sư để thực hiện nghiên cứu mới, hoặc tốt hơn nữa, cùng giáo sư hướng dẫn xin thêm tài trợ từ các nguồn khác nhau.

Nhưng ở VN, phần lớn các giáo sư, tiến sĩ không có chương trình nghiên cứu. Có người thậm chí ít làm nghiên cứu, và càng ít hơn số người có khả năng công bố quốc tế. Thế nhưng theo Qui chế đào tạo của Bộ GDĐT những người này vẫn có quyền hướng dẫn NCS tiến sĩ! Điều này dẫn đến một hệ quả là khi NCS được nhận vào học, người hướng dẫn không có ngân sách cho NCS làm nghiên cứu, không có chương trình nghiên cứu để họ tham gia. Trong thực tế, có khi trường chỉ định người hướng dẫn không có chuyên môn liên quan, không có kiến thức liên quan làm hướng dẫn NCS (có lẽ vì muốn tạo điều kiện để đương sự xin đề bạt chức danh PGS), một chỉ định rất phi học thuật.


Hệ quả là rất nhiều NCS ở VN phải bỏ tiền túi ra làm nghiên cứu. Trong ngành y, NCS phải tự lo gần như từ A đến Z. Có NCS không bỏ tiền túi, và thay vào đó là để bệnh nhân trả tiền xét nghiệm. Bệnh nhân có khi bị đưa vào nghiên cứu mà không hề biết. Bởi vì gánh nặng tài chính đè lên cá nhân NCS, nên họ phải tìm những đề tài nghiên cứu đơn giản, có thể làm trong bệnh viện, làm nhanh, và … rẻ tiền. Nói chung là nghiên cứu kiểu “mì ăn liền”. Với những đề tài như thế thì phương pháp là một câu hỏi lớn, và rất khó có thể cho ra kết quả có chất lượng lượng tốt. Chẳng những chất lượng là một vấn đề, nhưng việc để bệnh nhân phải trả tiền và không cho bệnh nhân hay biết là một vi phạm y đức nghiêm trọng. Những công trình nghiên cứu như thế sẽ không thể nào được công bố trên các tạp san quốc tế.


Nghiên cứu phải có can thiệp. Trong ngành y, đây đó xuất hiện một qui định rằng nghiên cứu cấp tiến sĩ phải có can thiệp. Can thiệp ở đây có nghĩa là đối tượng nghiên cứu phải trải qua một thuật can thiệp, có thể là can thiệp về lối sống (luyện tập thể lực, thay đổi chế độ ăn uống), hay có thể là các thủ thuật mang tính xâm phạm cơ thể. Một nghiên cứu can thiệp có chất lượng rất công phu, cần nhiều người, tốn nhiều tiền, và tốn rất nhiều thì giờ mà NCS sẽ không thể nào hoàn tất trong thời gian học. Dù có thể hoàn tất trong thời gian học, có khi NCS và ngay cả người hướng dẫn chưa chắc đủ tư cách chuyên môn để can thiệp vào đối tượng nghiên cứu là con người.


Theo tôi đó là một qui định lạ lùng nhất trên thế giới. Tôi có thể khẳng định rằng nghiên cứu cấp tiến sĩ không cần phải là một nghiên cứu can thiệp. Tôi có thể nói câu đó lần thứ hai để nhấn mạnh. Trong thực tế, nghiên cứu cấp tiến sĩ có thể thực hiện những nghiên cứu không can thiệp. Vấn đề không phải là nghiên cứu có hay không có can thiệp, mà là giả thuyết khoa học và câu hỏi nghiên cứu có giá trị, có cái mới, và có khả thi hay không. Không ai đánh giá một nghiên cứu dựa trên có hay không có can thiệp. Người ta đánh giá một công trình dựa trên các tiêu chuẩn tính khả thi, cái mới, tính liên đới hay khả năng đóng góp cho khoa học, và đạt chuẩn mực đạo đức khoa học. Do đó, tôi đề nghị nên bỏ qui định về nghiên cứu can thiệp trong đào tạo tiến sĩ.


Cũng cần phải nhấn mạnh rằng đề án nghiên cứu cấp tiến sĩ không nhất thiết phải mang tính ứng dụng thực tiễn (như nhiều người ngộ nhận), mà phải thể hiện một đóng góp mới vào tri thức cho chuyên ngành. “Tri thức mới” ở đây bao gồm việc phát hiện mới, khám phá mới, hay cách diễn giải mới cho một vấn đề cũ, hay ứng dụng một phương pháp mới để giải quyết một vấn đề cũ, v.v… Những tri thức như thế có thể không có khả năng ứng dụng trong tương lai gần, nhưng có thể góp phần thúc đẩy chuyên ngành phát triển một mức cao hơn. Xin nhớ rằng khám phá insulin phải đợi đến gần 50 năm sau mới ứng dụng trong lâm sàng.


Thủ tục “bao thư” lạ lùng. Ở nước ngoài có vài hình thức “bảo vệ” luận án. Ở các nước như Úc và Anh, luận án được gửi đi cho 2-3 giáo sư bình duyệt, và hội đồng học thuật của trường dựa vào bình duyệt của các giáo sư để quyết định trao bằng. Thông thường, vì luận án dựa trên các công trình đã công bố nên việc duyệt luận án khá dễ dàng. Có nơi, như bên Âu châu, trường đại học tổ chức một buổi lễ để NCS trình bày kết quả nghiên cứu và có dịp trả lời các câu hỏi của các giáo sư bình duyệt. Trong thực tế thì luận án đã được duyệt xong, buổi lễ “bảo vệ” chỉ là buổi trình làng và vui vẻ.


Nhưng ở VN, buổi bảo vệ luận án được tổ chức khá màu mè, rìng rang, và có phần nghiêm trọng. Điều đáng nói là tất cả đều do NCS chi trả! NCS phải chi trả tiền đi lại (kể cả vé máy bay), ăn ở, thậm chí quà cáp cho các chuyên gia phản biện. Khi phản biện xong, NCS còn phải “đi phong bì” cho từng giáo sư phản biện. Đó là một hình thức “bảo vệ” luận án không giống ai trên thế giới (có thể giống China?) Ở nước ngoài, các giáo sư duyệt luận án được trường đại học trả thù lao 100 USD (có nơi hơn chút). Việc NCS trả tiền hay đi phong bì cho các chuyên gia phản biện có thể xem là một hình thức hối lộ.

Kí kết lạ lùng. Có những trường hợp NCS được học bổng của nước ngoài, nhưng khi làm hồ sơ đi học thì NCS bị phía VN làm khó. Chẳng hạn như để làm hồ sơ đi học, trường bắt phải viết một bản cam kết bồi thường. Bồi thường gì trong khi học bổng nước ngoài cho? Người ta cho rằng NCS phải kê khai toàn bộ học bổng ở nước ngoài, rồi người thân ở VN phải kí cam kết nếu không về nước thì sẽ bồi thường toàn bộ số tiền này! Đó là một qui định có thể nói là rất lạ lùng và phi logic.


Trên đây là một vài điều lạ lùng trong chương trình đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam. Có lẽ một số người đọc qua sẽ ngạc nhiên vì sự phi lí của vài qui định, nhưng sự phi lí đó nó lại tồn tại trong thực tế và gây khó khăn cho nhiều người. Tôi nghĩ các giới chức cần phải xem xét các qui định trên và tham khảo cách làm của các đại học nước ngoài. Rất có thể làm đúng qui trình, số NCS sẽ ít đi, số người có tư cách hướng dẫn NCS tiến sĩ sẽ giảm, nhưng thà ít nhưng có chất lượng tốt hơn là đạt số lượng mà chất lượng thì quá kém.

Theo Tuấn'sblog
.....................
Chú thích:
(1) Khi nói “nước ngoài” tôi muốn nói đến các nước phương Tây như Mĩ, Anh, Canada, Úc, hay theo hệ thống giáo dục phương Tây như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kong, Singapore, Thái Lan.
http://bolapquechoa.blogspot.ca/2014/08/ao-tao-tien-si-o-viet-nam-nhung-chuyen.html#more

ĐẠI NGHĨA* TỪ BỎ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN

Đã đến lúc phải từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin (Phần 1)



Đại Nghĩa (Danlambao) - Chủ thuyết Mác-Lênin do hai ông Karl MarxFriedrich Angels chủ xướng được ông Vladimir Lenin vận dụng vào cuộc cách mạng giải phóng giai cấp công nhân, thợ thuyền bị bốc lột và dân tộc ở các nước nhược tiểu bị áp bức. Chủ thuyết này thoạt đầu được phát triển ở các nước Đông Âu, Á, Phi, Mỹ La Tinh… Tuy nhiên chẳng được bao lâu thì nó bị phá sản, nó bị phá sản vì nó chỉ là một chủ thuyết mơ hồ, ảo tưởng, không đưa được những dân tộc đã tốn nhiều xương máu để đấu tranh có được đời sống ấm no, không đến được cái thiên đàng mà họ thường nghe nói. Trái lại chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ đem đến cho họ một cuộc chiến triền miên, một đời sống cơ cực, nghèo nàn và lạc hậu, không biết đến bao giờ mới có tự do-hạnh phúc.

Qua quá trình dân tộc Việt Nam đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin trên 80 năm những nhà trí thức từng tham gia “cách mạng” đã thấy rõ được sự thất bại của chủ nghĩa này và cùng đưa những nhận định như sau:
Tiến sĩ Hà Sĩ Phu phân tích:
Tôi muốn xã hội thanh toán được điều ngộ nhận rằng chủ nghĩa Mác-Lênin là một học thuyết khoa học nhưng bị người ta thực hiện sai. Thực chất của chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ là một khát vọng đẹp đẽ nhưng ảo tưởng, phi khoa học, chống lại quy luật tự nhiên… Sức lôi cuốn nhất thời của nó đã đem lại những sức mạnh tạm thời nhưng sau đó để lại những di họa nặng nề…” (BBC online ngày 22-8-2007) 
Đại tá CAND Lê Hồng Hà, nguyên Chánh Văn phòng Bộ Công an cộng sản Việt Nam đã nhận định về cái chủ nghĩa mà ông đã bao nhiêu năm phục vụ và nghiền ngẫm để thấy rằng:
“…đã có đầy đủ sự kinh nghiệm của thực tiễn, có thể thấy các nguyên lý chủ yếu của chủ nghĩa Mác về mô hình CNXH là sai lầm, là phản phát triển, nền kinh tế phi hàng hóa.

Đối với dân tộc Việt Nam, học thuyết Mác là học thuyết ngoại nhập… không lý giải được xã hội Việt Nam với những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng hoàn toàn khác với Tây Âu, rất dễ dẫn cách mạng Việt Nam đi chệch đường và do đó gây nên tổn thất, gây đổ vỡ, gây kềm hãm sự phát triển”. (Nguoi Viet ngày 28-2-2001)
Và Giáo sư Hoàng Minh Chính, nguyên Việt Trưởng Viện Triết học Mác-Lênin, người có tư tưởng “xét lại chống đảng” từ những năm đầu của thập kỷ 60, người đã phục hoạt đảng Dân chủ sau khi bị cộng sản giải tán năm 1988 cũng đã thẳng thắn trả lời của phóng viên đài RFA như sau:
“Cái đảng này nó đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin, mà bản thân chủ nghĩa Mác-Lênin đã sai từ gốc rễ và cái đảng này hiện nay nó đang xây dựng một cơ chế độc tài, độc quyền toàn trị thì làm sao cải tổ được, tự đổi mới được…

Liên Xô đàn áp nhân dân như thế, Liên Xô đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin xây dựng một chính đảng toàn trị, thì chính nhân dân đã nổi dậy lật đổ cái chính đảng đó”. (VietTide số 55 ngày 2-8-2002)
Thế rồi ngày tàn của chế độ cộng sản đã đến. Đất nước Nga là cái nôi của phong trào cộng sản thì cũng chính nước Nga là nơi kết liễu phong trào này. Thời thế đến vận may, ba vị TBT đảng CSLX tiền nhiệm của người hùng Gorbachev mệnh yểu nên nhân dân thế giới sớm thoát khỏi bàn tay sát nhân tàn bạo của cộng sản, Chiến Tranh Lạnh coi như chấm dứt và nhân loại tránh được cảnh chết chóc tang thương.
“Vào năm 1986, TBT Gorbachev cho thi hành hai chiến lược Glasnost (trong sáng trong thông tin) và Pérestroika tại Liên bang Xô viết. Chiến lược thứ hai nhằm vào cải tổ (hay tái phối trí) Liên bang Xô viết: ‘Thay đổi dân chủ, mở cửa xứ sở, cải tổ chính trị Liên bang Xô viết cũng như kinh tế, trả lại tự do đi lại cho người dân, tiến dẫn tự do ngôn luận và tôn giáo”. (ĐanChimViet online ngày 15-11-2009)
Những người cộng sản Âu châu đã nhanh chóng đi theo con đường đổi mới của Nga là sớm thức tỉnh và từ bỏ con đường theo chủ nghĩa Mác-Lênin đã làm băng hoại đất nước họ trong một thời gian dài.
“…hồi tháng 1 năm 2006, Hội đồng châu Âu công bố nghị quyết lên án chủ nghĩa cộng sản. Nghị quyết này xác định chủ nghĩa cộng sản đã phạm nhiều tội ác khủng khiếp chống loài người. Đồng thời cần tổ chức xét xử những tội ác đó.

Đáng chú ý là ngoài cộng đồng châu Âu, càng ngày càng nhiều quốc gia, tổ chức lên án chủ nghĩa cộng sản”. (RFA online ngày 14-5-2010)
Những người cộng sản Đông Âu sớm thức tỉnh và sớm tham gia phong trào “đổi mới” nên dân tộc nước họ được sớm hưởng được không khí tự do-dân chủ và phát triển phồn vinh. Ông Imre Pozsgay, một nhân vật có đầu óc chủ trương đổi mới hàng đầu trong đảng Cộng sản Hungary trả lời Brian Hanrahan, phái viên ngoại giao BBC:
“Ông nói rằng hồi năm 1989, ông ít chú tâm đổi mới đảng Cộng sản hơn là giải tán nó đi.

Ông nói: ‘Từ lâu, tôi tin vào chủ thuyết Cộng sản. Nhưng từ đầu thập niên 1980, tôi nhận thức là không thể nào đổi mới được đảng Cộng sản, và điều duy nhất phải làm là thay đổi thể chế đó... 

Tôi không muốn trở về thời kỳ trước đây vì bất cứ lý do nào cả bởi vì xã hội trước đây là một xã hội bị ung thối và phải tan rã, thế thôi”. (BBC online ngày 26-10-2009)
Nhờ luồng gió mới của dân tộc Nga đưa nhân loại thoát được sự diệt chủng của chủ nghĩa cộng sản sản trên thế giới. Tội ác đối với nhân loại còn là một nỗi kinh hoàng trong quá khứ nhưng hậu quả nó vẫn còn khắc sâu trong tâm trí của nhân loại ngày hôm nay.
Sau 20 năm chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ bà Svetlana Alexietch viết bài “Những kẻ bị mê hoặc vào cỏi chết” làn sóng người tự tử ở Nga trong năm 1991 là 80.000 tự kết liễu đời mình ngay cả:
“Ivan Ivachovest, một sinh viên 33 tuổi vừa hoàn thành luận án tiến sĩ về chủ nghĩa ‘Marx và tôn giáo’ tuyệt vọng vì cảm thấy bị đánh lừa…

Phát hiện ra họ đã bị một huyền thoại đánh lừa, huyền thoại mà họ đã góp công sức dựng lên bằng đức độ hy sinh và mù quáng, nhiều người Nga không thể chịu đựng nổi cú sốc này.” (RFI online ngày 27-2-2009)
Chủ trương của Marx là chủ trương lấy sự mâu thuẩn của giai cấp để sách động đấu tranh diệt chủng gây sự chết chóc kinh hoàng trong nhân loại. Karl Marx, theo sử gia Pierre Rigolout làm việc tại Viện Xã hội Lịch sử Paris thì:
“Ông Pierre Rigolout trích một trong những ý kiến của Marx, viết trên People’s Paper ngày 16 tháng 4 năm 1853 để chứng minh, Marx chủ trương cần diệt chủng. Marx khẳng định : Các chủng tộc và các giai cấp quá yếu để thích ứng với điều kiện sống mới, nên họ phải nhường bước. Họ phải ‘bị tiêu diệt trong cuộc thảm sát của cách mạng”. (RFA online ngày 14-5-2010)
Chủ trương của Marx được Lenin vận dụng một cách sắt máu, và ông ta là người như thế nào? Helen Rappaport, một nhà sử học Nga là một tác giả có tiếng nói rằng sách vở và nhật ký về Lenin được phát hiện Lenin đã bị bệnh giang mai và ông ta chết vì bệnh này. Như thế cho chúng ta thấy được đạo đức của một “nhà cách mạng vĩ đại” của cộng sản ra sao.
“Vladimir Lenin, nhà cách mạng người Nga và là kiến trúc sư của Liên bang Xô viết, đã chết vì bệnh giang mai do một gái mãi dâm từ Paris chứ không phải là do đột quị như mọi người hằng tin, một cuộc điều tra mới đây cho biết...

Bà nói rằng Lenin đã có nhiều triệu chứng của bệnh giang mai và nhiều người trong tầng lớp lãnh đạo Xô viết cũng tin rằng ông đã mắc bệnh này. Tuy niên họ đã nghiêm cấm và dọa tử hình nếu công bố tin này vì ảnh hưởng tai tiếng mà nó sẽ gây ra”. (ĐanChimViet online ngày 24-10-2009)
Lenin được xem như là một nhà chính trị độc tài, khát máu và do đó người dân Nga và dân của các nước cộng sản cũ không còn muốn để hình tượng của ông ta tiếp tục hiện diện trên đất nước họ như là chứng tích của một giai đọan lịch sử đau thương và ô nhục. Tân Bộ trưởng Văn hóa Nga, ông Vladimir Medinsky đề xuất đưa thi hài Lênin ra khỏi lăng để chôn cất và biến lăng thành viện bảo tàng. 
“Trong số những người được cho là có ý kiến ủng hộ việc an táng Lenin có cựu Tổng thống Liên bang Xô viết và người trước đó là cự Tổng bí thư cuối cùng của đảng cộng sản Liên xô, ông Mikhail Gorbachev.

Đức Thượng phụ Giáo hội Chính thống Nga Alexyi II cũng được cho là tán thành việc an táng…

Trong số các ý kiến tán thành việc chôn cất Lenin, một số lý do có thể xuất phát từ việc cho rằng Lenin là một ‘lãnh tụ chính trị độc tài’ và thậm chí là một ‘bạo chúa đẫm máu…” (BBC online ngày 10-6-2012)
Tuần tự những bức tượng của Lenin trên những nước cộng sản cũ điển hình như ở Ukrain đã bị nhân dân đập bỏ.
“Họ đã lật đổ một bức tượng Lenin và dùng búa đập tan nó. Nhân chứng nói một nhóm người biểu tình đã dùng dây và thanh sắt kéo đổ bức tượng Lenin tại Đại lộ Shevchenko…

Những người khác đứng xem và hô to: ‘Vinh quang cho Ukraine’.

Dân biểu Quốc hội Ukraine, ông Andy Shevchenko, thuộc phe đối lập hô to: ‘Vĩnh biệt di sản cộng sản’.

Theo một biên tập viên BBC người Ukraine cho biết, đây không phải là bức tượng Lenin đầu tiên bị đập tại Ukraine nhưng là bức tượng cuối cùng, ‘to đẹp nhất’ ở thủ đô Kiev”. (BBC online ngày 8-12-2013)
Tại Hà Nội, Việt Nam, một âm mưu kéo đổ tượng Lenin không thành được ông Nguyễn Doãn Kiên, nhóm Pháp Luân Công Việt Nam thực hiện kể:
“Khi chúng tôi trèo lên tận nơi để thực hiện thao tác quàng dây cáp qua cổ bức tượng thì phát hiện ra nó đã được lắp ốc vít bên dưới.

Dây cáp của bọn tôi không đủ lực để kéo đổ bức tượng nên trong lúc kéo thì xảy ra sự cố khiến dây bị đứt nên bức tượng vẫn chưa đổ”. (BBC online ngày 24-1-2014)
Liên Xô, ngoài Lenin còn tên đồ tể Joshep Stalin khi vừa bắt đầu cuộc thế chiến lần thứ hai là ông ta đã dìm dân Ba Lan vào biển máu, ông ta đã cấu kết với tên phát xít Hitler của Đức quốc xã chia đôi đất nước Ba Lan để thi nhau tàn sát dân tộc này.. 
“Ngày 17-9-1939, Hồng quân Liên Xô cũng tràn vào nước Ba Lan từ phía Đông. Mười ngày sau, chính quyền Ba Lan sụp đổ và rút lực lượng còn lại chạy theo hướng Đông Nam ra nước ngoài…

Sau đó Liên Xô bắt chừng 1 triệu rưỡi người Ba Lan đi đày ở vùng Siberia và bắn chết 22.000 tù binh Ba Lan ở rừng Katyn, bất chấp công ước quốc tế về chiến tranh. Khi vụ thảm sát bị phát hiện, Matxcơva đổ tội cho quân Đức. Mãi đến thời Gorbachev nước Nga mới nhận lỗi về vụ này”. (BBC online ngày 6-5-2005)
Theo phóng viên Trần Văn của đài RFA thì tội ác của Stalin:
“Giới sử gia ước đoán, suốt 21 năm lãnh đạo Liên Xô, Stalin đã giết từ 20-40 triệu người….

Các sử gia Liên Xô, ở châu Âu xác định Stalin là thủ phạm chính của nạn đói kéo dài từ 1932-1933 khiến 7 triệu người Ukraina thiệt mạng”. (RFA online ngày 14-5-2010)
Trung Quốc thì có Mao Trạch Đông người đem lại tai họa khủng khiếp cho dân tộc của ông ta không kém gì Stalin. Ông Lý Nhuệ, người thư ký riêng của Mao trả lời phỏng vấn của một nhóm phóng viên tại ngôi nhà ở Bắc kinh nhân kỷ niệm 30 năm ngày Mao Trạch Đông qua đời, lúc ấy Lý Nhuệ đã 89 tuổi nói:
“Chế độ độc tài của Mao Trạch Đông còn kinh khủng hơn Stalin vì ông muốn kiểm soát nảo trạng của con người.

Mao Trạch Đông vượt hơn mọi hoàng đế vì ông khiến người dân tuân lời cả trong suy nghĩ – không hoàng đế nào trên thế giới làm được vậy.

Theo Lý Nhuệ, Mao từng nói: ‘Ta là Tần Thủy Hoàng và Mác’…

Trong phong trào Đại Nhảy Vọt năm 1958 ước tính 30 triệu người chết đói”. (BBC online ngày 8-9-2006)
Việt Nam thì sao? Ba năm từ 1956-1958 người cộng sản Hồ Chí Minh đã nghe lời của quan thầy Nga-Tàu hưởng ứng phong trào Cải Cách Ruộng Đất đã giết gần nửa triệu nông dân ưu tú. Trong phong trào Xét lại chống đảng ông ta cũng đã thẳng tay khai trừ, thủ tiêu những đồng chí đã từng nằm gai nếm mật trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp cũng như trong chiến dịch đàn áp Nhân Văn Giai Phẫm đã loại một số nhân tài tinh hoa của đất nước và làm kiệt huệ nền văn hóa Việt Nam thời bấy giờ.
“Thống kê của Nhà nước đăng trong cuốn Lịch sử Kinh tế tập 2 cho biết đã có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông, là những người bị xếp thành kẻ thù của nhân dân, bị ‘đào tận gốc, trốc tận rễ’, nghĩa là không bị bắn tại chỗ cũng bị án tù rồi chết trong nhà giam…

Bản thống kê chính thức cho biết là trong 172.008 người bị quy là địa chủ và phú nông trong CCRĐ thì 123.266 người bị quy là sai, tức bị oan. Tính theo tỷ lệ là 76,66%. Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu tỷ lệ giữa số bị oan và nạn nhân lại cao đến như thế”. (RFA online ngày 15-5-2006)
Campuchia, chủ nghĩa Mác - Lênin đã gieo rắc tai họa cho một dân tộc bé nhỏ chỉ có 7,1 triệu người mà lại tàn sát 1,7 triệu người dân vô tội dưới bàn tay hiếu sát của tên đồ tể Polpot, lãnh đạo của bọn cộng sản đỏ Campuchia trong bốn năm chiếm được chính quyền.
“Chế độ Khmer Đỏ nay được biết đến đã giết chết khoảng 1,7 triệu người (từ một dân số 7,1 triệu) bằng các biện pháp tử hình bằng các dụng cụ thô sơ như cuốc, mai, xẻng, bỏ đói và lao động cưỡng bức. Nó được nhiều học giả xem là một trong những chế độ hung bạo nhất trong thế kỷ 20 – thường được so sánh với các chế độ của Adolf Hitler và chế độ của Stalin”. (Wikipedia online ngày 5-9-2008)
Thế giới, từ khi chủ nghĩa cộng sản có mặt trên quả địa cầu này đến khi nó bị loài người tiến bộ loại bỏ thì nó đã sát hại trên 100 triệu người và cái di họa ấy ngày nay vẫn còn đeo đẳng mãi.
Tổng thống Bush đã tham gia lễ khánh thành một Đài kỷ niệm nạn nhân cộng sản khắp thế giới. Trong buổi lễ ngày hôm nay được tổ chức tại Thủ đô Washingtion, Tổng thống Bush nói rằng, thế giới sẽ không bao giờ biết hết được tên của tất cả những nạn nhân đã chết trong tay người cộng sản. Nhưng Tổng thống nói rằng, mọi người có bổn phận tưởng nhớ họ và vinh danh kỷ niệm của hơn 100 triệu người gồm cả đàn ông, đàn bà và trẻ em đã chết dưới chế độ cộng sản trên khắp thế giới”. (VOA online ngày 12-6-2007)
Kể từ khi ông Hồ Chí Minh mang cái chủ nghĩa Mác - Lênin nầy vào thực hiện ở Việt Nam cho đến nay đã gây tác hại cho dân tộc khôn lường. Tác hại về cả mọi mặt làm cho dân tộc phải triền miên trong cuộc bắn giết, nồi da xáo thịt, chậm tiến, nghèo nàn lạc hậu rồi còn mang vào tư tưởng cầu cạnh vọng ngoại nô lệ Nga Tàu mà hậu quả cho đến ngày hôm nay mang nặng. Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, một nhà trí thức cách mạng đã nhận thấy được hậu quả thê thãm nên trong lần hội luận giữa trong và ngoài nước do RFA tổ chức, ông nói rõ nhận định của mình:
“Ba mươi năm qua, chủ nghĩa Mác-Lênin tàn phá đất nước này về mặt kinh tế, và tàn phá về mặt văn hóa và tư tưởng…

Phải bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin và phải rút ra được những nhận định một cách khách quan, thẳng thắn về sự tàn hại của cái ứng dụng sai lầm chủ nghĩa Mác-Lênin, cái CNXH xơ cứng cũ và xã hội Việt Nam. Và xây dựng một nền kinh tế thực thụ, không có cái đuôi định hướng XHCN vào đấy nữa”. (Nguoi Viet ngày 11-7-2005)
Dân tộc Việt Nam sau bao nhiêu năm đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin gây nên biết bao cuộc đấu tranh bắn giết nhau một cách sai lầm, tinh thần dân tộc bị hủy hoại và sự đoàn kết dân tộc cho đến nay vẫn còn là ảo vọng. Những người trước đây đã hiến thân theo con “đường cách mạng” đã cảm thấy mình bị lầm lẫn vì đã đi theo chủ nghĩa đấu tranh sắt máu, tham dự vào cuộc chiến huynh đệ tương tàn một cách vô nghĩa.
Nhà văn Đại tá QĐND Phạm Đình Trọng, người cộng sản đã trả thẻ đảng chua chát.
“Hóa ra không phải chúng tôi đi giải phóng miền Nam mà chúng tôi đi vào cuộc nội chiến Nam-Bắc tương tàn, chúng tôi chỉ là công cụ mang học thuyết Mác-Lênin, học thuyết đấu tranh giai cấp sắt máu áp dụng cho miền Nam, để cả nước bị nô dịch bởi học thuyết Mác-Lênin, để học thuyết đấu tranh sắt máu thống trị cả dân tộc Việt Nam, đánh phá tan tác khối đoàn kết dân tộc Việt Nam, đánh phá tan nát đạo lý và văn hóa Việt Nam”. (DanLamBao online ngày 25-9-2012)
Trong lần trả lời phỏng vấn của phóng viên Mặc Lâm đài RFA, Tiến sĩ Đỗ Xuân Thọ, một người cộng sản trong một gia đình cộng sản truyền thống cũng đã quyết liệt đấu tranh với cái sai lầm của chủ nghĩa Mác- Lênin để quay về với chủ nghĩa dân tộc, ông nói như sau: 
“Quan điểm của tôi, nếu mà đảng không lấy chủ nghĩa Dân tộc làm nền tảng tư tưởng thì cái chủ nghĩa Mác Lênin sẽ băm nát đảng lại, với những mũi nhọn tấn công từ phía ngoài, nó chỉ cần đánh vào cộng sản và đánh vào tham nhũng là chết rồi, là tan đảng rồi…

Tôi có thể khẳng định là ngay trong Bộ Chính Trị đã có sự phân rã nếu như chúng ta còn giữ chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tư tưởng. Chủ nghĩa Mác-Lênin này nó làm cho chúng ta nhầm lẫn giữa ý thức hệ và dân tộc, ý thức dân tộc và ý thức hệ tư tưởng”. (RFA online ngày 2-4-2010)

DAVID THIÊN NGỌC * VIỆT CỘNG ĐẠI PHẢN ĐỘNG

Ai là kẻ "phản động? Câu hỏi dành cho ông Nguyễn Tấn Dũng

David Thiên Ngọc (Danlambao) - Chủ nghĩa CS là một chủ nghĩa không chỉ "phản động" mà là "đại phản động". Mới đọc những lời đầu của bài viết chắc hẳn có một số không ít bạn đọc cho rằng tác giả quá cực đoan! Thế nhưng nhìn lại hiện tình đất nước, nhân dân VN một cách rộng rãi và đa chiều thì chúng ta sẽ thấy vấn đề được khách quan hơn. Trước hết tôi xin nói về phạm trù "phản động".

Phản: Ngược lại, làm ngược lại. 
Động: Sự di chuyển, ở đây chỉ sự tiến lên theo chiều tích cực. Theo sự tiến hóa với nỗ lực của con người để xã hội tiến lên văn minh, tiến bộ.
Vậy phản động là đi ngược lại, là trái lại và cản trở bước tiến bộ để hoàn thiện hơn, tốt đẹp hơn, ngược lại sự tiến hóa của con người, của xã hội. Như vậy những ai, tổ chức nào làm cản trở bước đi lên của sự phát triển của mọi vấn đề từ con người đến xã hội là những kẻ "phản động", những tổ chức phản động. Nếu sự phản động kéo dài và gây tác hại lớn, để lại hệ luỵ không lường cho con người, cho xã hội thì những kẻ đó, tổ chức đó là "Đại phản động".
Ta hãy đứng độc lập ra bên ngoài xã hội VN kể từ sau mùa xuân 1975 và tách khỏi khuynh hướng chính trị để có một cái nhìn khách quan và công bằng.
Trong những năm của thập niên 60s và đầu thập niên 70s của thế kỷ trước, nước VNCH có một vị trí khá cao ở Đông Nam Á và kể cả Đông Bắc Á về lĩnh vực kinh tế, khoa học, văn hóa xã hội và kể cả chính trị. Những nước như Hàn Quốc, Singapore, Malaysia, Philippines, Indonesia, ThaiLan... đều đứng sau VNCH trong những lĩnh vực kể trên và VNCH xứng đáng với danh Hòn Ngọc Viễn Đông. Thế mà chỉ sau mùa xuân 1975 khi cộng sản nhuộm đỏ miền Nam Việt Nam đem chủ nghĩa cộng sản "thần thánh" gieo rắc khắp hang cùng ngõ cụt, từ rừng núi đến thôn quê, đến tận trong xó bếp của mọi gia đình, đến các chuồng trâu, chuồng lợn, chuồng gà... ra đến ao bèo ngoài đầu ngõ... đâu đâu cũng có sự lăm le của chiếc búa, lưỡi liềm.
Theo báo cáo phát triển Việt Nam năm 2009 của WB thì VN đã tụt hậu so với Indonesia 51 năm, với Thailand 95 năm, với Singapore 158 năm và 200 năm so với Hàn Quốc.
Đó là sự đánh giá có tài liệu, hồ sơ, có căn cứ cơ sở khoa học của ngân hàng thế giới một tổ chức phi chính trị và luôn có cái nhìn, đánh giá chính xác và khách quan. Tôi xin kiểm chứng như sau.
Những người dân miền Nam VN từ khi có đảng chạy khắp đồng ruộng, phố phường không ai mà không thấy được 2 bức tranh xã hội mang 2 gam màu tương phản trước và sau 30/4/1975.
Trước hết là mặt kinh tế xã hội đời sống vật chất của nhân dân. Kể từ khi nhân dân miền Nam trở thành "con người mới"- từ của đảng CSVN dùng để chỉ cho nhân dân miền Nam sau 30/4 - cái họa trở thành tội phạm và chữ tù luôn treo lơ lửng trên đầu và tròng vào cổ bất cứ lúc nào không biết từ các nguyên nhân sau: Nơi đây tôi chỉ nhắc lại một số điểm căn bản mà cả nhân dân MNVN ai cũng rõ.
Ở MNVN trước 30/4/75 các phương tiện giao thông cá nhân bằng xe gắn máy, xe hơi là bình thường, ai cũng có thể có được. Và tất nhiên là xăng dầu đáp ứng cho phương tiện vận hành là tự do. Thế nhưng sau những năm đầu sau 30/4/75 xăng dầu là hàng quốc cấm, là vật tư quốc phòng. Nếu tàng trữ từ 3-5 lít xăng mà không có phiếu và sổ xăng (chỉ có cán bộ cs trung cấp trở lên mới có) bị xem như tàng trữ hàng quốc cấm, vi phạm an ninh quốc phòng. Như vậy nếu bị phát giác, tố cáo thì đi tù là cầm chắc mà chẳng có một bản án nào được xét xử công minh.
Gạo là lương thực chiến lược có tính cách an ninh quốc gia. Lúc đó sổ hoặc tem phiếu gạo được cấp cho người dân từ 15kg-21kg/tháng tùy theo đối tượng lao động, trong đó 50% là gạo mục và 50% là mì (sắn) khô để ăn độn. Do đó ai mà tàng trữ 10 kg gạo trắng trở lên xem như phạm tội xâm hại đến an ninh quốc gia nếu bị phát giác như xăng dầu thì chữ tù là cầm chắc. Mà khổ nỗi là lúc đó các cán bộ cs bày vẽ cho các em cháu trong đội thiếu niên tiền phong đi lục lạo các nhà để phát hiện các thứ trên và tố cáo.
Lúc đó "luật" rất nghiêm minh, tên “hoạn lợn, thiến heo” Đỗ Mười (sau này là một trong 3 tên tội đồ ký mật ước Thành Đô tháng 9/1990 bán nước VN cho Tàu) đi công cán ở miền Tây Nam Bộ về lại Sài Gòn, "nhân dân ái mộ, ghi ơn" ông trong công cuộc cải tạo công thương nghiệp đẩy hàng triệu người dân xuống biển lên rừng... nên có quà tặng cho ông 10kg gạo trắng ngon, nhưng khi xe ông lên đến trạm kiểm soát liên hợp Tân Hương Long An bị nhân viên quản lý thị trường tịch thu. Lúc đó "cần vụ" của ông nói là của đ/c Đỗ Mười!- “Đ…mẹ của thằng Đỗ Mười Một tao cũng bắt tịch thu luôn chứ đừng nói Đ.M”. Đó! các bạn thấy không? "công pháp bất vị thân" mà, rất nghiêm minh, một nhân viên quèn ở trạm kiểm soát mà còn dám xử lý không nương tay, sòng phẳng với "Một đ/c ủy viên Bộ Chính Trị" và xem ngang bằng với một con dân buôn bán nhỏ lẻ qua đường kiếm cơm độ nhật! khi vi phạm thì dân đen và một đ/c ủy viên Bộ Chính Trị đều bị xử lý như nhau. Chứ đâu như hậu duệ của cs ngày nay, tội trạng như đ/c X bán cả giang san, thâu tóm cả tài nguyên vật lực của Quốc Gia Dân Tộc về cho riêng mình và dòng họ con cháu mà cả bầy đệ tử của "Mao Hồ" cũng cắn móng tay đứng nhìn mà còn thở ra buông câu "vì hoàn cảnh"... và đ/c X ngạo nghễ ném về phía đám bất tài một nụ cười thách thức bí hiểm của Mona Lisa. Những con người luôn ra rả vì nước, vì dân... thế mà giặc nội thù đạp bằng cả giang sơn dân tộc mà bất lực nhu nhược buông lời vô cảm, buông xuôi để mặc cho giặc thù tiếp tục xà xẻo Quốc Gia. Nói như dân dã là "Bù trớt".
Phương tiện đi lại đường xa của nhân dân thời tư bản giãy chết thì bạt ngàn... từ Sài Gòn ra đến Đà Nẵng, Huế ngoài phương tiện máy bay còn xe khách các hãng như Phi Long-Tiến Lực, Phi Mã... người dân thoải mái lên xe nghe nhạc, ngủ... là đến nơi, chỉ trừ khi nào có vịt cộng ra đắp mô, phá cầu phá đường là bị trở ngại mà cũng chỉ trong thời gian ngắn là tái lập giao thông ngay. Thế mà sau khi đảng về, xăng dầu là vật tư quốc phòng, là hàng quốc cấm do đó xe cộ phải chuyển qua xài "than". Đi một đoạn đường ngắn từ Sài Gòn ra Biên Hòa, Long Khánh là hành khách ngửi khói than mịt mù và hơi nóng hừng hực như lò bát quái, mồ hôi lẫn khói đen, mặt mày nhễ nhại, nước mắt chảy ròng vì cay như đang diễn tuồng "trướng hạ biệt Ngu Cơ". Lơ (phụ) xe thì tay cầm khúc gỗ lớn gõ liên tục vào thùng than phía sau xe tung bụi, than hồng vung vãi khắp mặt đường như hỏa diệm sơn, như mưa sa gió cát... Mặt mũi thì đủ vầng đen, xám như thể "anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than", như công nhân ở mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả.
Cuộc sống thần tiên của những "con người mới" không giấy bút nào kể ra cho xiết. Nơi đây tôi chỉ đơn cử một số hình ảnh để chứng minh rằng sự đánh giá về phát triển của VN do Ngân hàng Thế giới báo cáo là không sai.
Các điểm nêu trên mới chỉ là bức tranh kinh tế xã hội VN trong bối cảnh những năm tháng đầu đảng cs Bắc Việt cưỡng chiếm MNVN. Bây giờ ta thử bước vào lĩnh vực văn hóa, chính trị.
Văn hóa là một biển trời mênh mông... từ mọi nét sinh hoạt trong cuộc sống, trong xã hội, học đường đến gia đình đâu đâu cũng toát lên một gam màu ảm đạm đen tối...
Đạo đức suy đồi, băng hoại một cách trầm trọng mà bao phen những nhà làm văn hóa, giáo dục có tâm huyết với dân tộc đã gióng lên những hồi chuông báo động, thậm chí có những tiếng gào thét kêu cứu trước sự diệt vong của một nền văn hóa, đạo đức mà ông cha đã vun xới tô bồi qua bao thế hệ để thay thế bằng một nền đạo đức gọi là đạo đức cách mạng rồi biến thái thành đạo đức HCM. Một nền văn hóa phi nhân bản gọi là văn hóa xhcn phá bỏ mọi giềng mối, kỷ cương, đức tin tôn giáo mà hàng ngàn năm trên khắp hành tinh được loài người tôn vinh, làm con đường sáng để tiến về phía trước, làm thước đo cho mọi giá trị tinh thần và là những giáo trình, giáo án để truyền dạy cho con cháu đời sau.
Cái hiểm họa diệt vong cho dân tộc chính là sự băng hoại về đạo đức, suy đồi về văn hóa. Sự tha hóa của một xã hội mục ruỗng về mọi mặt như xã hội VN hiện nay, nếu muốn cứu nguy cho dân tộc thì ta chỉ còn có một con đường duy nhứt là đào thải cái văn hóa nô dịch là phương tiện truyền tải cho chủ nghĩa cs với mộng xâm lăng, bá quyền Tàu cộng.
"Sai lầm về văn hóa có thể làm chết muôn đời..." Lão Tử đã nói hơn hai ngàn năm qua rồi đó sao?
Nói về chính trị thì rõ ràng đảng csvn đang áp đặt một nền chính trị độc đảng, độc tài, độc đoán, độc tôn và cuối cùng là độc ác với nhân dân. Ở đây ta không bàn thêm về học thuyết của chủ nghĩa cs mà chỉ nói lên một khía cạnh là đảng csvn đã làm cản trở và triệt tiêu bước tiến của Quốc Gia, của dân tộc. Trong đó đảng csvn đã phạm một trọng tội đối với tổ tiên, dân tộc VN là triệt tiêu lòng yêu nước của nhân dân. Đảng csvn đã tự vạch ra cho mình lằng ranh giới tuyến tách biệt với nhân dân và phân định rạch ròi địch-ta (giữa đảng với dân) một cách công khai.
Không riêng gì nhân dân VN mà nhân dân trên toàn thế giới đều biết rõ và rất rõ rằng Trung Quốc đang xâm chiếm cõi bờ, biển đảo và từng bước Hán hóa dân tộc VN bằng mọi hình thức nào có thể.
Nhưng cũng có một điều dứt khoát rằng, cho dù trong mọi hoàn cảnh nào dù là sức yếu thế cô dân tộc VN cũng không bao giờ chịu cúi đầu, bó tay khuất phục trước quân thù. Điều này đã chứng minh qua mấy ngàn năm lịch sử. Giặc Tàu đặt ách đô hộ lên dân tộc Việt cả ngàn năm nhưng nào có xóa được biên cương? có đồng hóa được dân tộc? có xóa tan được nét văn hóa dân tộc đặc thù và cuối cùng dân tộc Việt vẫn ngẩng cao đầu trước bốn bể năm châu.
Ở đây tôi muốn nói lên một điều rằng đảng csvn cho dù đặt lên đầu, lên cổ nhân dân VN bằng một thể chế chính trị man rợ, một chính sách tàn độc, dã man và bằng mọi cách triệt tiêu lòng yêu nước của nhân dân cũng không thể nào dập tắt được những ngọn lửa kiêu hùng, bất khuất của vạn vạn lớp anh thư, tuấn kiệt mang trong người dòng máu liệt oanh của bà Trưng, bà Triệu, của Hưng Đạo Vương, Quang Trung Nguyễn Huệ... hùng anh.
Tôi cũng xin nói lên một điều nữa rằng chỉ có quân xâm lăng cướp nước mới ra tay triệt tiêu lòng yêu nước của công dân VN, mới hung hăng tàn sát, tù đày đánh đập, khảo tra người yêu nước VN.
- Người yêu nước VN chống Trung Quốc xâm lăng là chống đảng? Vậy đảng csvn là của ai? và đang thực hiện mưu đồ mục đích gì?
- Nhân dân VN thể hiện lòng yêu nước mà đảng csvn cho là thế lực thù địch? Vậy đảng csvn đã tự thú rằng chính họ là kẻ thù của dân tộc VN!
- Nữ sinh viên Nguyễn phương Uyên nói lên tiếng nói yêu nước VN, yêu dân tộc VN, ghét kẻ xâm lăng nhiều mưu ma chước quỉ thâm độc hãm hại dân tộc VN khi vừa tròn 20 tuổi. Cũng vì trái tim rạo rực, trăn trở với tình yêu nước nồng nàn đó mà đảng cs VN đã cho tay sai bắt cóc rồi tống cô vào ngục không khác gì phường thảo khấu lục lâm!
Với tâm hồn trong trắng, tinh khôi, với trái tim yêu nước nồng nàn, với lời lẽ trong sáng và mạnh mẽ, với hành động cao đẹp chính danh, với tuổi đời trẻ trung đầy sức sống, ngoan cường bất khuất... Phương Uyên nhất định phải thắng và đã thắng. Thế hệ trẻ yêu nước như Phương Uyên, Minh Hạnh, Nguyên Kha, Việt Khang, Thanh Nghiên, Hoàng Vi, Thục Vy, thị Nga và hàng hàng anh thư tuấn kiệt khác sẽ cất cao đầu trên đỉnh vinh quang của niềm tin và hy vọng. Tôi hoàn toàn tin là như thế.
Một Việt Khang. Người thanh niên dũng cảm không hề nao núng trước bạo lực của kẻ hung tàn. Anh luôn cất cao giọng hát với cung đàn theo nhịp hành khúc tương lai của đất nước. Những kẻ chống lại anh, che lấp bóng hình anh, bịt tắt tiếng hát anh chính là những kẻ đã tự đưa đầu vào cho bánh xe lịch sử lăn qua và làm cho cung bậc của nốt nhạc quê hương thêm bay bổng.
Xuyên suốt các sự việc, qua hành động của đảng csvn và tinh thần người yêu nước VN hẳn chúng ta và toàn thể nhân loại cũng đã rõ ai là kẻ "phản động", "đại phản động"?. Cho dù dưới hình thức nào, phương tiện nào kẻ tà quyền dùng làm vũ khí để chụp lên đầu những người yêu nước VN với phạm trù "phản động" thì lẽ tất nhiên phạm trù đó nó sẽ tự quay về nơi nào là vị trí đích thực của nó.
Những lời này tôi xin gởi đến cho tất cả những anh hùng liệt nữ của dân tộc VN đang chịu sự sách nhiễu, đọa đày bởi gông cùm tàn độc của quân khát máu hung tàn, đồng thời để trả lời cho ông Nguyễn tấn Dũng về bài phát biểu của ông tại bộ côn an nhân ngày kỷ niệm 69 năm thành lập đội ngũ "còn đảng còn tiền".
Ngày 17.8.2014


NGUYỄN HÙNG * VIỆT CỘNG BÁN NƯỚC

Biển Đông: Mỹ nòng lòng, đảng (ta) thư thả!

Nguyễn Hùng, Trần Hoài Nam (Danlambao) - Trong những năm qua đảng và nhà nước cộng sản Tàu đã từng bước thực hiện ý đồ độc chiếm Biển Đông. Trước tiên họ dùng những người làm công tác khoa học kỹ thuật cài đặt bản đồ nước Tàu với đường lãnh hải 9 đoạn hình lưỡi bò bao trùm toàn bộ Biển Đông lấn sát bờ biển của các nước trong vùng trong những bài nghiên cứu gởi đăng trong những tạp chí khoa học quốc tế để ngầm tạo chứng cứ “lịch sử” cho hành động chính thức chiếm đoạt toàn bộ biển Đông trong tương lai. Việc làm bá đạo và gian manh của bọn bá quyền Tàu cộng đã bị cộng đồng trí thức người Việt trong ngoài nước vạch mặt tố giác trước công luận thế giới qua chiến dịch viết thư cảnh giác với hơn 200 trí thức và khoa học gia cùng ký tên, gởi đến cho khoảng 200 tổ chức truyền thông và các tổ chức nghiên cứu khoa học kỹ thuật tại nhiều nước trên thế giới.

Hành động cướp đoạt toàn bộ biển Đông đã và đang được nhà nước cộng sản Tàu gia tăng tốc độ và phương cách xâm chiếm từ “diễn biến hòa bình” sang đối đầu quân sự biển người “biển tàu”, đặc biệt với sức mạnh hải quân của họ. Sau thời gian chuẩn bị tư tưởng tạo tiền đề trong cộng đồng khoa học kỹ thuật trên thế giới và chuẩn bị cơ sở vật chất nhất là khí tài, bắt đầu từ năm 2012 cộng sản Tàu đã chính thức chuyển sang dùng bạo lực để ngang ngược lấn chiếm biển Đông theo chiến thuật chia để diệt, “bẻ từng cọng đủa”. Hai trong những quốc gia đang trực diện đối đầu với hành động xâm lược của bọn bành trường Tàu cộng là Phi Luật Tân và Việt Nam.
Với Phi Luật Tân, bọn Tàu cộng trước tiên vay đánh nước này. Chúng bắt đầu tiến hành dùng bạo lực nhằm đánh chiếm một số quần đảo, bãi san hô ngầm do Phi Luật Tân trú đóng, cụ thể là cuộc đối đầu tại bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham từ năm 2012 đến nay.
Với Việt Nam, bọn Tàu cộng đã từng dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hoà vào năm 1974 trong lúc miền Nam Việt Nam đang chật vật đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược do cộng sản miền Bắc Việt Nam thực hiện. Trong khi lực lượng Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng hy sinh mạng sống đánh trả bọn xâm lược Tàu cộng thì nhà nước cộng sản Việt Nam, vừa là đồng chí và vừa là anh em của bọn xâm lược Tàu cộng, không một lời lên tiếng phản đối mà trái lại còn đồng tình với hành động xâm lược của bọn Tàu cộng. Năm 1988 bọn Tàu cộng lại dùng bạo lực thảm sát rất vô nhân đạo 64 bộ đội công binh hải quân của nước CHXHCN Việt Nam vừa là đồng chí vừa là anh em của Tàu tại bãi đá ngầm Gạc Ma. Chỉ mới cách đây vài hôm một cựu quân nhân Mỹ đã viết lại vụ thảm sát rùng rợn này mà ông tuyên bố: “Đây là một trong những tội ác trắng trợn nhất thời hiện đại, trong khi đó nạn nhân (Việt Nam) lại im lặng và bọn gây ra tội ác (Tàu cộng) lại công bố hành động tàn bạo của chính họ”. Trong vài tháng vừa qua (từ tháng 05/2014) bọn Tàu cộng gia tăng cường độ xâm lược bằng vũ lực với hành động ngang nhiên mang giàn khoan dầu nổi khổng lồ HD 981 phối hợp với hàng trăm tàu thuyền võ trang phối phợp với hải lục không quân vào chiếm đóng sâu hằng trăm cây số trong vùng lãnh hải của Việt Nam mà chúng lại ngang ngược bảo rằng đó là lãnh hải nằm trong vùng ranh giới đường lưỡi bò 9 khúc thuộc chủ quyền của chúng.
Trước hành động ngang ngược ỷ nước lớn dân đông hiếp đáp các nước nhỏ thế cô sức yếu, chính phủ và dân chúng Phi Luật Tân đã can trường chống trả, anh dũng đối đầu đuổi bọn Tàu cộng ra khỏi vùng lãnh hải của họ với những gì họ đang có trong tay, cùng lúc liên kết với các nước khác, trong số đó có sự ủng hộ nhanh chóng và nhiệt tình của Nhật và đặc biệt là từ Mỹ, nước đồng minh từ sau Thế chiến thứ II. Chính phủ Phi Luật Tân đã kịp thời ngăn chặn hành động gây hấn và ý đồ xâm lược của bọn bành trướng Tàu cộng với việc tái xác nhận Hiệp ước năm 1951 giữa Mỹ và Phi Luật Tân về phòng thủ chung nhằm bảo vệ Phi Luật Tân và tiếp đến là thoả thuận tăng cường hợp tác quốc phòng trong 10 năm tới vừa được công bố vào tháng 05/2014.
Trước tiên là vì quyền lợi về tự do di chuyển trên vùng biển Đông- con đường kinh tế huyết mạch của Mỹ, Nhật và tất cả các nước trên thế giới, sau cũng là tình đồng minh lâu đời giữa hai nước, Phi Luật Tân và Mỹ đã cùng vai sát cánh và hơn bao giờ hết, đoàn kết chống lại và tiêu diệt ý đồ gian manh xâm chiếm vùng biển phía Tây của Phi Luật Tân. Chính phủ Phi Luật Tân đã sáng suốt nhìn thấy được ý đồ thâm độc của Tàu cộng nên nhanh chóng hợp tác với Mỹ để nhờ sức mạnh quận sự của họ bảo vệ lãnh thổ của đất nưóc mình chống lài bọn bá quyền xâm lược Tàu cộng. Chính quyền Phi Luật Tân, thay mặt dân chúng họ, đã khôn ngoan dùng Mỹ làm lá chắn bảo vệ lãnh thổ chống lại hành động hiếu chiến của bọn xâm lược Tàu cộng.
Về phía Việt Nam, do mù quáng và bị bọn cộng sản Tàu mê hoặc theo chủ nghĩa vô sản quốc tế để phục vụ cho mẫu quốc cộng sản Nga - Tàu nên nhiều thế hệ của nhóm lãnh đạo đảng cộng sản tại Việt Nam bắt đầu từ Hồ Chí Minh luôn xem Việt Nam là bộ phận của thế giới cộng sản do cộng sản Tàu lãnh đạo, ngay cả việc họ luôn hãnh diện xem Tàu là quê hương của họ và Việt Nam là một phần của cộng sản Tàu. Từ đó đảng cộng sản tại Việt Nam không còn quan tâm đến toàn vẹn lãnh hải hay lãnh thổ của Việt Nam trong khi đất nước bị chia đôi, và sau khi miền Nam bị cộng sản miền Bắc đánh chiếm. Ngay cả đảng viên cơ sở và người dân miền Bắc, luôn cả thành phần trí thức được đào tạo dưới mái trường XHCN, không hay biết gì về hành động đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974. Mà dù cho có biết thì lại tin vào những lời tuyên truyền láo khoét của cộng sản là “các đồng chí Trung quốc đã giúp đảng ta đánh chiếm Hoàng Sa của miền Nam Việt Nam và giữ giùm cho đảng, sau này sẽ giao lại sau khi đất nước thống nhất”. Cuộc thảm sát tàn bạo 64 bộ đội công binh hải quân cộng sản Việt Nam của bọn hải quân Tàu tại bãi đá ngầm Gạc Ma vào năm 1988 cũng bị đảng cộng sản tại Việt Nam giấu nhẹm trong nhiều thập niên mãi cho đến vài năm qua mới được hé lộ. Trong những năm gần đây giới trí thức trong nước qua tiếp xúc với internet bắt đầu tìm hiểu về hành động xâm lược Hoàng Sa vào năm 1974 và tàn sát 64 bộ đội công binh hải quân rất vô nhân đạo của bọn lính Tàu cộng tại Gạc Ma năm 1988. Những người trí thức trong nước bắt đầu thức tỉnh và đã lên tiếng ngày càng đông, phản đối và chống lại bọn xâm lược Tàu cộng. Nhiều cuộc biểu tình xuống đường chống bọn bành trướng Tàu cộng đòi lại Hoàng Sa và Trường Sa đã liên tục xảy ra. Để bảo vệ chế độ cộng sản và tình đồng chí anh em với bọn Tàu cộng nhà nước cộng sản tại Việt Nam tiến hành đàn áp không gớm tay và bắt bỏ tù nhiều người Việt yêu nước với những bản án tù nhiều năm khắc nghiệt. Trong khi đó nhóm lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam lại đối xử rất nống ấm trong tình anh em ruột thịt với bọn Tàu cộng, theo khẩu hiệu “16 vàng, 4 tốt”. Không những thế mà lãnh đạo cao cấp cộng sản Việt Nam còn đi các nước công khai tuyên bố họ và Tàu là anh em ruột thịt trong cùng một gia đình.
Hành động sỗ sàng mới nhất của bọn bành trường Tàu cộng là việc chúng ngang nhiên mang giàn khoan dầu nổi khổng lồ HD 981 vào sâu trong vùng lãnh hải tại miền Trung Việt Nam, sát thành phố Đà Nẵng. Thay vì có hành động quân sự cụ thể như đưa các tàu chiến ra đối mặt để tống khứ giàn khoan ra khỏi vùng biển của Việt Nam thì quân đội cộng sản Việt Nam chỉ làm có tính cách trình diễn cho có lệ với vài ba chiếc tàu sơ sài gọi là tàu cảnh sát biển ra “nhảy đầm” và chơi trò rượt đuổi cút bắt với những tàu chiến của bọn xâm lược Tàu cộng. Trong khi đó lãnh đạo đảng cộng sản tại Việt Nam lại đẩy ngư dân với những chiếc thuyền gỗ mong manh của họ ra bảo vệ biển đảo - “bám biển”, trong khi đó thì những chiến hạm tên lửa tối tân thì không thấy tăm dạng - “bám bờ”.
Trước sự thư thả, thơ thới, bình thản của toàn bộ các vị lãnh đạo các cấp của cộng sản Việt Nam -  đảng, nhà nước, quốc hội - xem hành động đem giàn khoan cùng máy bay và tàu chiến vào sâu trong vùng biển của Việt Nam là chuyện nội bộ của anh em trong gia đình; Mỹ thì trái lại, càng lúc càng nóng lòng và nghi ngại rằng toàn bộ biển Đông đã được Việt Nam trao cho Tàu “giữ hộ” từ lâu nên họ mới không bồn chồn lo lắng như nước Phi nằm bên kia biển Đông. Chính quyền Mỹ phải hạ mình mời Bộ trưởng ngoại giao cộng sản Việt Nam Phạm Bình Minh sang Hoa Thịnh Đốn bàn bạc vụ giàn khoan và lãnh hải Việt Nam nhưng ông ta cứ lờ đi, thay vì đi Mỹ ngài Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ ngoại giao Minh bay sang thăm Ba Lan. Thay vào đó lãnh đạo đảng cộng sản tại Việt Nam lại giao cho bí thư thành ủy thành phố Hà Nội Phạm Quang Nghị sang Mỹ bàn chuyện lãnh thổ lãnh hải. Việc đưa một người lãnh đạo cấp thành phố sang gặp viên chức cấp Bộ của một nước để bàn chuyện liên quan đến quốc phòng và an ninh của quốc gia là một việc làm xấc lối và trịnh thượng. Thêm vào đó, việc Phạm Quang Nghị trao cho Thượng nghị sĩ John McCain bức hình chụp lại nơi mà ông Mc Cain bi bắt trong cuộc chiến là một việc làm vô ý thức, cố tình hạ nhục người chủ nhà đã mời mình vào nhà. Chỉ có bọn côn đồ vô học và mất dạy mới làm việc đó, không phả là một nhân vật đại diện cho một quốc gia, dù cho có là chính danh hay không.
Chính quyền Mỹ vì quyền lợi về an toàn của con đường hàng hải trong vùng biển Đông đã tỏ ra rất nhún nhường và nhẫn nhịn trước hành động xấc láo của cộng sản Hà Nội. Có thể Mỹ biết rõ là đảng cộng sản tại Việt Nam đã bí mật thỏa thuận với Tàu về tiến độ sáp nhập Việt Nam vào nước Tàu từ lâu (1990?), nên việc họ mời gọi hợp tác quân sự giúp Việt Nam bảo vệ lãnh hải trong biển Đông là để thử “lửa”, và cũng là với ngụ ý gián tiếp cho dân Việt Nam biết về hành động bán nước và dâng hiến đất nước Việt Nam của các thế hệ lãnh đạo cộng sản tại Việt Nam cho Tàu đã xảy ra. Về phần mình, Mỹ đã làm tích cực một số việc quan trong nhằm giúp tạm thời ngăn chận hành động bá quyền của Tàu cộng tại biển Đông:
- Thượng viện Quốc Hội Mỹ ra Nghị quyết lên án Trung cộng đưa trái phép giàn khoan vào vùng lãnh hải của Việt Nam và yêu cầu nhanh chóng rút giàn khoan về nước và đưa biển Đông trở về nguyên trạng trước ngày 01/05/2014. Trong khi đó quốc hội của đảng cộng sản tại Việt Nam, quốc gia bị ảnh hưởng trực tiếp từ hành động xâm lược của Tàu cộng, lại không làm gì và xem chuyên Tàu cộng mang giàn khoan vào vùng biển Việt Nam là chuyện nhỏ, chuyện bình thường giữa anh em trong gia đình.
- Tuyên bố công khai sẵn sàng hợp tác quận sự toàn diện với phía Việt Nam để giúp Việt Nam chống lại hành động bá quyền tại biển Đông, cụ thể nhất là chuyến chính thức viếng thăm Việt Nam mới đây của Tham Mưu Trưởng liên quân Hoa Kỳ Đại Tướng Martin Dempsey vào ngày 14/08/2014.
Trong khi Hoa Kỳ thật sự nóng lòng muốn giúp Việt Nam bảo vệ lãnh hải, bảo vệ biển Đông dù biết rõ chế độ cộng sản Việt Nam là chế độ chuyên chế, phản dân chủ, phản tự do, phản nhân quyền; thì trái lại đảng nhà nước cộng sản Việt Nam lại tỏ ra rất ư là thư thả, hờ hững như “gái tân làm giá”. So với Phi Luật Tân và các nước trong vùng Đông Nam Á, Việt Nam là quốc gia quan trọng nhất và có nhiều quyền lợi nhất tại biển Đông cả về kinh tế lẫn an ninh quốc phòng trong vùng biển truyền thống từ bao đời này. 
Có phải đảng cộng sản tại Việt Nam đã bí mật đồng ý hợp nhất với Tàu từ hội nghị Thành Đô năm 1990 như nhiều người Việt Nam trong ngoài nước và ngay cả lớp đảng viên cộng sản kỳ cựu đang nghi ngờ điều đau lòng này là sư thật, và đang đòi hỏi phải bạch hóa trước toàn dân toàn bộ chi tiết của bản hiệp định Thành Đô này mà đảng cộng sản Việt Nam đã cố tình giữ bí mật trong thời gian dài gần 25 năm? 
Phản ứng của lãnh đạo đảng cộng sản tại Việt Nam đáp lại hành động chủ động và tích cực tiến tới hợp tác quân sự toàn diện với Việt Nam của Hoa Kỳ hầu ngăn chặn ý đồ xâm chiếm toàn bộ Biển Đông càng lúc càng rõ của Tàu Cộng sẽ chứng minh:
- Hoặc là lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam đã trao đất nước Việt Nam cho Tàu để thành một tỉnh/vùng tự trị/tiểu bang của “Liên Bang Đại Quốc Tàu” từ ngày ký Hiệp nghị Thành Đô vào năm 1990,

- Hoặc Việt Nam vẫn còn là một quốc qia độc lập tự chủ. 
Tham mưu trưởng Liên Quân Hoa Kỳ Martin Dempsey duyệt hàng quân danh dự cùng Tướng Đỗ Bá Tỵ trong buổi lễ chào đón tại Bộ Quốc phòng ở Hà Nội, ngày 14/8/2014. Ba thế hệ lãnh đạo đảng cộng sản tại Việt Nam cùng lãnh đạo cộng sản Tàu tại Thành Đô năm 1990
Ngày 17 tháng 08 năm 2014
Tham khảo:
Thư cảnh giác gởi cơ quan truyền thông quốc tế
57 khoa học gia và trí thức gởi thư cảnh báo bản đồ lưỡi bò của Trung Cộng
Nguyễn Văn Tuấn: Bản dịch bài viết trên tạp chí Nature về bản đồ lưỡi bò của Trung cộng
Trung Cộng, Philippines chạm mặt trên Biển Đông
Vụ thảm sát ‘thế giới chưa từng biết đến’
The Massacre “Not Heard Around the World”
Thỏa thuận QP với Mỹ giúp Philippines trong tranh chấp Biển Đông trước TC
Bạch hóa Hội Nghị Thành Ðô?



 

 

 

 

 


No comments:

Post a Comment