BÁO TRUNG QUỐC XẤC XƯỢC
Báo TQ xấc xược: "Chỉ cần 3 ngày là biến Việt Nam thành tỉnh của TQ"
- Báo
Trung Quốc tiếp tục giở giọng xuyên tạc cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền
và kinh tế hợp pháp trên Biển Đông của Việt Nam, đe dọa dùng vũ lực xâm
lược.
CẦU TREO QUẢNG NGÃI, ĐI GIÂY TỬ THẦN
Vắt vẻo hai bên vách núi, giằng buộc dây thép mỏng manh vào thân cây gỗ mục, cầu treo tạm bợ bắc ngang sông Re ở xã Ba Xa, huyện Ba Tơ (Quảng Ngãi) trở thành "bẫy tử thần" với hàng trăm người dân.
Nhiều năm qua, hàng trăm người dân ở thôn Gọi Re, xã Ba Xa, huyện vùng cao Ba Tơ đi lại làm ăn, hay con trẻ đến trường, đều qua đường độc đạo trên chiếc cầu treo tạm bợ bắc ngang qua dòng sông Re bốn mùa chảy xiết.
Cầu treo dài khoảng 50 m, cao 15 m do người dân địa phương đóng góp tre, nứa, lồ ô, cuộn thép, dây kẽm... tạo dựng. Người qua đây phải nắm thật chặt dây kẽm được gọi là thành cầu, dò dẫm từng bước chân trên những miếng ván gỗ, lồ ô chắp vá thưa thớt.
Bà Võ Thị Bích Lê, Phó chủ tịch UBND xã Ba Xa cho biết, do xã còn nghèo nên từ bao đời nay người dân làm cầu tạm bợ để qua sông Re chứ không còn lựa chọn nào khác. Mưa lũ lớn thì họ chịu cảnh cô lập dài ngày. "Người lớn lo lắng thắt tim khi hàng ngày các con vượt cầu đến lớp không may sảy chân xuống sông sâu. Riêng mấy bé mầm non được cha mẹ thay phiên cõng qua cầu treo hai lượt mỗi ngày", bà Lê nói.
Hiện tại chiếc cầu treo này đã xuống cấp nghiêm trọng nhưng chưa được duy tu, sửa chữa. Nhiều mảnh ván, thanh lồ ô lắp trên mặt cầu đã mục nát, rơi xuống dòng sông trôi theo dòng nước.
Ông Phạm Văn Thành ở thôn Gọi Re, xã Ba Xa cho hay, từng có nhiều người dân và học sinh đi trên cầu treo này bị ngã rơi xuống sông nhưng may mắn chưa có ai thiệt mạng.
Mặt cầu treo chắp vá bằng những miếng ván, lồ ô cũ kỹ, trống hoác có thể nhìn thấu xuống lòng sông sâu.
Dây kẽm và sợi thép giằng buộc cầu treo này đã gỉ sét, nguy cơ bung ra uy hiếp tính mạng người dân bất cứ lúc nào.
Dây kẽm và sợi thép cầu treo này buộc vào thân cây cổ thụ bên bờ sông Re đã mục nát. Ông Lê Hàn Phong, Chủ tịch UBND huyện Ba Tơ cho biết thêm, dẫu biết hàng ngày người dân đi qua cầu treo tạm bợ này nguy hiểm, song muốn xây cầu kiên cố cần ít nhất 15 tỷ đồng. Nhiều lần huyện kiến nghị tỉnh bố trí nguồn kinh phí làm cầu treo kiên cố bắc ngang qua sông Re nhưng ngân sách khó khăn chưa thể phân bổ được.
"Để tránh nguy hiểm, mùa lũ huyện nghiêm cấm người dân qua lại trên cầu treo này. Hàng ngày qua cầu thì phải đi từng người một để tránh quá tải làm cầu bị đứt gây hiểm họa khó lường", ông Phong nói.
'Làng đu dây' qua sông
Cách trở dòng sông Re cuồn cuộn chảy xiết, nhiều năm qua hơn 600 hộ dân ở xã Sơn Ba, huyện miền núi Sơn Hà (Quảng Ngãi) phải đu dây thừng đi bè qua sông.
Không có cầu bắc qua sông Re, nhiều năm qua, 630 hộ dân với hơn 2.500 nhân khẩu ở xã Sơn Ba đi lại làm ăn, học tập phải đu dây thừng kéo bè vượt sông sâu. Chiếc bè dài khoảng 3 mét, rộng 1,5 mét được làm bằng những ruột ôtô bơm căng, bên trên lót gỗ hoặc thân tre nẹp lại.
Học sinh đu dây tinh nghịch trên chiếc bè chòng chành trên dòng nước.
Những bàn tay bé nhỏ nhưng chai sạn của học trò xã Sơn Ba vì thường xuyên đu dây đi bè qua sông.
Mùa lũ tràn về, mực nước trên các sông, suối dâng cao, hàng trăm học sinh bên sông Re nghỉ học 3-4 ngày là chuyện bình thường.
Nhà ở xa trường 4 km, hàng ngày em Đinh Văn Thương (lớp 1A, trường Tiểu học Sơn Ba) phải vượt suối, băng rừng, đu dây đi bè qua sông. Đến được lớp học thì cơ thể lấm lem bùn đất.
22 học sinh thôn Gò Da, xã Sơn Ba cách trường 8 km may mắn được các nhà hảo tâm, thầy cô giáo quyên góp gạo, tiền, quần áo ở nội trú trong trường để theo đuổi con chữ. Số còn lại phải băng rừng, đu dây đi bè qua sông Re 2-6 km đến trường mỗi ngày.
Toàn xã Sơn Ba có 7 điểm người dân thường xuyên đu dây kéo bè qua sông Re dài hơn 350 mét. "Mấy ngày trước nước lũ tràn về cuốn trôi mất hai chiếc bè, may chưa xảy ra chết người. Ước mơ lớn nhất của người dân là có cây cầu kiên cố bắc qua sông để không còn lo sợ nguy hiểm đến tính mạng", ông Đinh Văn Nã, Bí thư xã Sơn Ba bộc bạch.
Trí Tín
Nhà giàu trong Xã Hội Chủ Nghiã Việt Nam và thực trạng xã hội
Danh ngôn và đại ngôn Tạp ghi Huy Phương
Lời tuyên bố vừa chấm dứt, tiếng vỗ tay hoan hô của đồng bào nổi lên như sấm dậy!
Một câu chuyện khác là tổ chức liên quan đến việc phục hoạt chế độ VNCH, có ý định tổ chức bán công khố phiếu và hứa hẹn, nếu thành công, lúc đó sẽ trả lại cho đồng bào số tiền gấp đôi!
Thảm kịch Do Thái - Palestine còn dài dài!
GIỠN MẶT VỚI OBAMA, TRUNG CỘNG SẼ MẤT VNCS VÀ PHI CHÂU!
Hà Nhân Văn
Bấy lâu nay, Nga Sô - Trung cộng ra mặt coi thường huyền ngọc Barack Obama, cả hai chủ quan đã quên rằng, sau huyền ngọc Barack còn Uncle Sam. Sáu năm trước Uncle Sam đã chọn chàng da đen - trắng để lãnh một sứ mạng vĩ đại lừng lững bước lên 2 đấu trường: Á Đông - Thái Bình Dương và Phi châu. Obama âm thầm giả bộ làng nhàng "passive", dồn sức vào Obamacare để làm nên lịch sử. Sau khi hóa kiếp được Bin Laden, Hoa Kỳ chuyển trục từ Âu qua Á.
Liệu Do Thái có thể xóa bỏ bản đồ dải Gaza và tiêu diệt gọn khủng bố Hamas không? Hamas ở trong 1.8 triệu dân Gaza. Tháng 7 vừa qua, nhân chuyến công du của ĐGH Phan Xi Cô, Thủ tướng Do Thái tiếp ngài rất long trọng, tự nhiên ông khoe: "Đức Chúa Giêsu nói tiếng Do Thái". ĐGH Phan Xi Cô trả lời ngay: "Không! Chúa Giêsu nói tiếng Ả Rập!"
TRỞ VỀ SÓNG GIÓ BIỂN ĐÔNG!
Hội nghị Ngoại giao Hiệp hội Đông Nam Á ASEAN khai mạc ngày 8-8 vừa qua tại thủ đô Miến Điện, có các nước liên hệ tham dự: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Bắc Hàn, Nam Hàn, Úc, Tân Tây Lan và Trung Cộng. Trước một ngày, ngoại trưởng 3 nước Phi Luật Tân, Mã Lai và Việt Nam họp riêng. TT Thein Sein rất khôn khéo cùng ngoại trưởng Miến đến chào mừng. Ba nước Việt - Mã - Phi họp riêng đi tới đồng thuận một lập trường về Biển Đông để đối phó với TC. NT John Kerry, dành 2 ngày cho hội nghị. Ngày 9-8, ông họp riêng với NT Việt Nam Phạm Bình Minh.
Đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam: Những chuyện không giống ai
Gs Nguyễn Văn Tuấn ( bản gốc)/ Tuấn's blog
Gs Nguyễn Văn Tuấn. ( Ảnh Dân trí)
Nếu đọc qui chế đào tạo tiến sĩ thì người đọc có thể thấy qui trình đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam cũng tương đối chuẩn mực. Nhưng trong thực tế, đây đó xảy ra những chuyện có thể nói là … không giống ai. Ở đây, tôi chỉ nêu vài vấn đề nổi cộm và hi vọng rằng sẽ được khắc phục trong tương lai gần. (Bài đã đăng trên báo Dân Trí.)
Môi trường và mô hình đào tạo. Thông thường đào tạo tiến sĩ ở nước ngoài (1) là theo mô hình tập trung. Theo mô hình này, nghiên cứu sinh (NCS) phải có mặt ở trường hay viện toàn thời gian. Có đại học yêu cầu NCS phải học một số khoá học trước khi làm nghiên cứu, nhưng ở các nước như Úc và Anh, NCS làm nghiên cứu toàn thời gian. Ở Viện chúng tôi, trong thời gian theo học / nghiên cứu, NCS phải dự các buổi giảng của các chuyên gia hàng tuần, họp lab hàng tuần để kiểm tra tiến độ nghiên cứu và trình bày kết quả trước đồng môn. Ngoài ra, NCS còn được khuyến khích tham gia vào các hoạt động khoa học khác và hoạt động xã hội. Tất cả đều được thiết kế để NCS hoà mình trong thế giới học thuật và khoa học, và mặt khác nâng cao khả năng nghiên cứu và luyện sự độc lập của nghiên cứu sinh. Đó là mô hình chuẩn mà tôi thấy rất nhiều đại học
Thế nhưng mô hình đào tạo ở VN thì không phải toàn thời gian và NCS cũng không được sống trong môi trường khoa học. Ví dụ như hầu như tất cả nghiên cứu sinh ngành y đều không đến trường để nghiên cứu, mà họ vẫn làm việc bình thường ở bệnh viện hay cơ quan gốc. Họ có thể theo học bán thời gian một vài khóa học về phương pháp nghiên cứu hay về chuyên môn, và về bệnh viện … làm tiếp. Lâu lâu mới tiếp xúc người hướng dẫn một lần. Với mô hình đào tạo như thế NCS không có cơ hội tiếp xác và trao đổi với đồng môn, không trầm mình trong môi trường học thuật, và không có dịp trình bày báo cáo hàng tháng cho đồng môn. Có rất NCS than phiền rằng họ phải “tự bơi” vì không có sự tiếp sức và cố vấn của người hướng dẫn. Có thể nói rằng NCS tiến sĩ ở VN chỉ học bán thời gian và không phải là NCS thực thụ theo nghĩa “nghiên cứu”.
Thời gian đào tạo. Theo Qui chế đào tạo tiến sĩ của Bộ GDĐT thì thời gian đào tạo tiến sĩ là 3 năm tập trung đối với người có bằng thạc sĩ, và 4 năm đối với người có bằng cử nhân. Thế nhưng, có đại học qui định rằng thời gian đào tạo tiến sĩ là 2 năm đối với người có bằng thạc sĩ!
Thật ra, thời gian đào tạo không nên tuỳ thuộc vào NCS có bằng thạc sĩ hay cử nhân, mà tuỳ thuộc vào sự hoàn tất nghiên cứu và luận án. Ở các đại học nước ngoài, thời gian đào tạo trung bình là 4 năm, nhưng thường lấn sang năm thứ 5. Có người tốn cả 6 năm mới xong chương trình học. Đối với nhiều trường, thời gian không phải là qui định chính, mà có công trình nghiên cứu được công bố quốc tế mới là qui định chính. Ở các nước Bắc Âu, luận án tiến sĩ là tập hợp 3-4 công trình đã công bố trên các tập san quốc tế. Do đó, NCS có thể tốn cả 7 hay 8 năm để “trả nợ” mới được bảo vệ luận án. Tôi không biết có đại học nào trên thế giới có thể đào tạo tiến sĩ trong vòng 2 năm.
Đề cập đến bài báo khoa học, Qui chế đào tạo tiến sĩ có ghi rõ rằng luận án tiến sĩ có “Nội dung chủ yếu và các kết quả nghiên cứu của luận án phải đã được báo cáo tại các hội nghị khoa học toàn quốc hàng năm của ngành khoa học, được công bố ít nhất trong hai bài báo trên tạp chí khoa học chuyên ngành có phản biện độc lập.” Theo tôi qui định này cũng hợp lí. Tuy nhiên, có nơi lại ra qui định rằng NCS không được công bố nội dung chính của luận án (tức các bài báo khoa học) trước khi bảo vệ luận án! Đây là một qui định có thể nói là “ngược đời”.
Gánh nặng đè lên vai nghiên cứu sinh. Ở nước ngoài, khi nhận hướng dẫn cho NCS, giáo sư hướng dẫn đã có chương trình nghiên cứu và ngân sách cho nghiên cứu. Do đó, NCS chỉ việc tham gia vào chương trình nghiên cứu, hoặc dùng ngân sách của giáo sư để thực hiện nghiên cứu mới, hoặc tốt hơn nữa, cùng giáo sư hướng dẫn xin thêm tài trợ từ các nguồn khác nhau.
Nhưng ở VN, phần lớn các giáo sư, tiến sĩ không có chương trình nghiên cứu. Có người thậm chí ít làm nghiên cứu, và càng ít hơn số người có khả năng công bố quốc tế. Thế nhưng theo Qui chế đào tạo của Bộ GDĐT những người này vẫn có quyền hướng dẫn NCS tiến sĩ! Điều này dẫn đến một hệ quả là khi NCS được nhận vào học, người hướng dẫn không có ngân sách cho NCS làm nghiên cứu, không có chương trình nghiên cứu để họ tham gia. Trong thực tế, có khi trường chỉ định người hướng dẫn không có chuyên môn liên quan, không có kiến thức liên quan làm hướng dẫn NCS (có lẽ vì muốn tạo điều kiện để đương sự xin đề bạt chức danh PGS), một chỉ định rất phi học thuật.
Hệ quả là rất nhiều NCS ở VN phải bỏ tiền túi ra làm nghiên cứu. Trong ngành y, NCS phải tự lo gần như từ A đến Z. Có NCS không bỏ tiền túi, và thay vào đó là để bệnh nhân trả tiền xét nghiệm. Bệnh nhân có khi bị đưa vào nghiên cứu mà không hề biết. Bởi vì gánh nặng tài chính đè lên cá nhân NCS, nên họ phải tìm những đề tài nghiên cứu đơn giản, có thể làm trong bệnh viện, làm nhanh, và … rẻ tiền. Nói chung là nghiên cứu kiểu “mì ăn liền”. Với những đề tài như thế thì phương pháp là một câu hỏi lớn, và rất khó có thể cho ra kết quả có chất lượng lượng tốt. Chẳng những chất lượng là một vấn đề, nhưng việc để bệnh nhân phải trả tiền và không cho bệnh nhân hay biết là một vi phạm y đức nghiêm trọng. Những công trình nghiên cứu như thế sẽ không thể nào được công bố trên các tạp san quốc tế.
Nghiên cứu phải có can thiệp. Trong ngành y, đây đó xuất hiện một qui định rằng nghiên cứu cấp tiến sĩ phải có can thiệp. Can thiệp ở đây có nghĩa là đối tượng nghiên cứu phải trải qua một thuật can thiệp, có thể là can thiệp về lối sống (luyện tập thể lực, thay đổi chế độ ăn uống), hay có thể là các thủ thuật mang tính xâm phạm cơ thể. Một nghiên cứu can thiệp có chất lượng rất công phu, cần nhiều người, tốn nhiều tiền, và tốn rất nhiều thì giờ mà NCS sẽ không thể nào hoàn tất trong thời gian học. Dù có thể hoàn tất trong thời gian học, có khi NCS và ngay cả người hướng dẫn chưa chắc đủ tư cách chuyên môn để can thiệp vào đối tượng nghiên cứu là con người.
Theo tôi đó là một qui định lạ lùng nhất trên thế giới. Tôi có thể khẳng định rằng nghiên cứu cấp tiến sĩ không cần phải là một nghiên cứu can thiệp. Tôi có thể nói câu đó lần thứ hai để nhấn mạnh. Trong thực tế, nghiên cứu cấp tiến sĩ có thể thực hiện những nghiên cứu không can thiệp. Vấn đề không phải là nghiên cứu có hay không có can thiệp, mà là giả thuyết khoa học và câu hỏi nghiên cứu có giá trị, có cái mới, và có khả thi hay không. Không ai đánh giá một nghiên cứu dựa trên có hay không có can thiệp. Người ta đánh giá một công trình dựa trên các tiêu chuẩn tính khả thi, cái mới, tính liên đới hay khả năng đóng góp cho khoa học, và đạt chuẩn mực đạo đức khoa học. Do đó, tôi đề nghị nên bỏ qui định về nghiên cứu can thiệp trong đào tạo tiến sĩ.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng đề án nghiên cứu cấp tiến sĩ không nhất thiết phải mang tính ứng dụng thực tiễn (như nhiều người ngộ nhận), mà phải thể hiện một đóng góp mới vào tri thức cho chuyên ngành. “Tri thức mới” ở đây bao gồm việc phát hiện mới, khám phá mới, hay cách diễn giải mới cho một vấn đề cũ, hay ứng dụng một phương pháp mới để giải quyết một vấn đề cũ, v.v… Những tri thức như thế có thể không có khả năng ứng dụng trong tương lai gần, nhưng có thể góp phần thúc đẩy chuyên ngành phát triển một mức cao hơn. Xin nhớ rằng khám phá insulin phải đợi đến gần 50 năm sau mới ứng dụng trong lâm sàng.
Thủ tục “bao thư” lạ lùng. Ở nước ngoài có vài hình thức “bảo vệ” luận án. Ở các nước như Úc và Anh, luận án được gửi đi cho 2-3 giáo sư bình duyệt, và hội đồng học thuật của trường dựa vào bình duyệt của các giáo sư để quyết định trao bằng. Thông thường, vì luận án dựa trên các công trình đã công bố nên việc duyệt luận án khá dễ dàng. Có nơi, như bên Âu châu, trường đại học tổ chức một buổi lễ để NCS trình bày kết quả nghiên cứu và có dịp trả lời các câu hỏi của các giáo sư bình duyệt. Trong thực tế thì luận án đã được duyệt xong, buổi lễ “bảo vệ” chỉ là buổi trình làng và vui vẻ.
Nhưng ở VN, buổi bảo vệ luận án được tổ chức khá màu mè, rìng rang, và có phần nghiêm trọng. Điều đáng nói là tất cả đều do NCS chi trả! NCS phải chi trả tiền đi lại (kể cả vé máy bay), ăn ở, thậm chí quà cáp cho các chuyên gia phản biện. Khi phản biện xong, NCS còn phải “đi phong bì” cho từng giáo sư phản biện. Đó là một hình thức “bảo vệ” luận án không giống ai trên thế giới (có thể giống China?) Ở nước ngoài, các giáo sư duyệt luận án được trường đại học trả thù lao 100 USD (có nơi hơn chút). Việc NCS trả tiền hay đi phong bì cho các chuyên gia phản biện có thể xem là một hình thức hối lộ.
Kí kết lạ lùng. Có những trường hợp NCS được học bổng của nước ngoài, nhưng khi làm hồ sơ đi học thì NCS bị phía VN làm khó. Chẳng hạn như để làm hồ sơ đi học, trường bắt phải viết một bản cam kết bồi thường. Bồi thường gì trong khi học bổng nước ngoài cho? Người ta cho rằng NCS phải kê khai toàn bộ học bổng ở nước ngoài, rồi người thân ở VN phải kí cam kết nếu không về nước thì sẽ bồi thường toàn bộ số tiền này! Đó là một qui định có thể nói là rất lạ lùng và phi logic.
Trên đây là một vài điều lạ lùng trong chương trình đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam. Có lẽ một số người đọc qua sẽ ngạc nhiên vì sự phi lí của vài qui định, nhưng sự phi lí đó nó lại tồn tại trong thực tế và gây khó khăn cho nhiều người. Tôi nghĩ các giới chức cần phải xem xét các qui định trên và tham khảo cách làm của các đại học nước ngoài. Rất có thể làm đúng qui trình, số NCS sẽ ít đi, số người có tư cách hướng dẫn NCS tiến sĩ sẽ giảm, nhưng thà ít nhưng có chất lượng tốt hơn là đạt số lượng mà chất lượng thì quá kém.
Theo Tuấn'sblog
.....................
Chú thích:
(1) Khi nói “nước ngoài” tôi muốn nói đến các nước phương Tây như Mĩ, Anh, Canada, Úc, hay theo hệ thống giáo dục phương Tây như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kong, Singapore, Thái Lan.
http://bolapquechoa.blogspot.ca/2014/08/ao-tao-tien-si-o-viet-nam-nhung-chuyen.html#more
Tờ
“Tầm nhìn” (qianzhan) Thâm Quyến - Trung Quốc ngày 15 tháng 8 đăng bài
viết sặc mùi “hỏa lực mồm”, kèm theo giọng điệu xấc xược cho rằng,
từ khi Trung Quốc hạ đặt (phi pháp) giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 ở
Hoàng Sa (TQ gọi là Tây Sa) (thực chất là vùng đặc quyền kinh tế,
thềm lục địa của Việt Nam), Việt Nam đã bắt đầu cuộc chiến “tranh đoạt”
(đấu tranh bảo vệ) chủ quyền lãnh thổ với Trung Quốc. Trước đó, Việt Nam
“kín tiếng”, ít “gây phiền phức” cho Trung Quốc.
Bài báo ngang ngược
xuyên tạc, chỉ trích CS Việt Nam rằng, Chính phủ CS Việt Nam ngày càng
“trắng trợn khiêu khích” trên Biển Đông, đổ lỗi cho Việt Nam từ “kín
tiếng” đi tới “lưu manh”.
Cho rằng, CS Việt Nam lần
này “phản ứng lớn” là do có liên quan đến “người Việt chống Trung Quốc
thâm căn cố đế”, ngoài ra còn do lo ngại Trung Quốc chiếm nốt các đảo
đá, sức hút của tài nguyên Biển Đông và được “Mỹ hỗ trợ”.
Nhưng bài báo dẫn “truyền
thông phương Tây” (không danh tính, không căn cứ) cho rằng, một khi
Quân đội Trung Quốc tiến hành “phản kích” (xâm lược) toàn diện đối với
Việt Nam thì không đến 3 ngày là có thể “nắm được” (cướp được) toàn bộ
Việt Nam.
Theo bài báo, gần đây, CS
Việt Nam liên tiếp “gây khó” cho Trung Quốc, ngoài lo ngại “lợi ích đã
có” ở Biển Đông bị Trung Quốc “thu hồi” (cướp), một nguyên nhân rất quan
trọng là “có Mỹ hỗ trợ” đằng sau. “Nhưng Việt Nam sẽ khó đạt được ý đồ
do khoảng cách thực lực Trung-Việt…” – bài báo tuyên truyền.
Bài báo lo ngại, các hãng
dầu khí lớn nhất thế giới của Mỹ và Anh như Exxon Mobil, BP hầu như đã
chuẩn bị coi thường sự phản đối, cảnh báo của Trung Quốc, (báo này
dùng từ) “câu kết” với Việt Nam, tiến hành hoạt động thăm dò và khai
thác dầu khí ở “vùng biển chủ quyền của Trung Quốc” (thực chất là vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Trung Quốc vẽ bậy ra “đường lưỡi bò” để
đòi ăn cướp biển đảo của Việt Nam và các nước).
Tàu chiến Hạm đội Nam Hải, Hải quân Trung Quốc tập trận đổ bộ: Tàu đổ bộ cỡ lớn Tỉnh Cương Sơn thả tàu đệm khí
|
Bài
báo dẫn lời một người phát ngôn của công ty BP ngày 22 tháng 7 năm 2013
nói tại London rằng, đối tác hợp tác của công ty này, công ty dầu khí
quốc doanh Việt Nam đã bắt đầu trở lại hoạt động khoan thăm dò tại khu
vực mà Trung Quốc cũng đòi hỏi chủ quyền (đòi hỏi này là bất hợp pháp).
Khu vực này nằm ở giữa bờ biển Việt Nam và quần đảo Trường Sa, cách bờ
biển khoảng 370 km.
Nhưng, báo Trung Quốc dọa
dẫm rằng, khác với thập niên 80, 90 của thế kỷ trước, hiện nay thực lực
quốc gia của Trung Quốc nhất là thực lực quân sự đã đủ để giúp họ “chiến
thắng” các đối thủ khu vực, từ đó đoạt lấy (cướp lấy) chủ quyền Biển
Đông, “chỉ cần Trung Quốc quyết tâm hành động, một khi Quân đội Trung
Quốc hành động toàn diện thì Việt Nam e rằng không chịu nổi 3 ngày” và
biến thành 1 tỉnh của Trung Quốc – “hỏa lực mồm” của Trung Quốc phun
giọng cực kỳ hiếu chiến.
Mỹ dỡ bỏ cấm vận vũ khí với Việt Nam: Bắt đầu từ vũ khí hải quân
BBC Anh đưa tin, ngày 16 tháng 8 tại Việt Nam, Chủ tịch
Hội đồng tham mưu trưởng Liên quân Mỹ Martin Dempsey cho biết, trong
thời gian tới, Mỹ sẽ thảo luận khả năng dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí đối
với Việt Nam.
Tướng Martin Dempsey cho hay, dỡ bỏ lệnh cấm vấn vũ khí
sẽ có lợi cho xây dựng lực lượng Hải quân Việt Nam. Ông nói: “Biển (hàng
hải) là lĩnh vực quan tâm nhất hiện nay của chúng tôi, đề nghị của tôi
là, nếu dỡ bỏ lệnh cấm vận thì cần bắt tay từ cái này”.
Năm 1995, quan hệ Việt-Mỹ
bình thường hóa, nhưng, xuất phát từ một số vấn đề theo quan điểm
Mỹ, Mỹ cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.
Đoàn đại biểu cấp cao Quân
đội Mỹ do Đại tướng Martin Dempsey dẫn đầu ngày 13 tháng 8 đã bắt đầu
tiến hành chuyến thăm 4 ngày tới Việt Nam. Đây là lần đầu tiên Chủ tịch
Hội đồng tham mưu trưởng Liên quân Mỹ thăm Việt Nam kể từ năm 1971 đến
nay, nhằm tăng cường hợp tác quân sự hai nước.
Nhưng, Đại tướng Martin Dempsey nhấn mạnh, ông hoàn toàn không để Việt Nam phải đưa ra lựa chọn giữa “làm bạn với Mỹ hay Trung Quốc”.
“Chúng tôi đã nói rõ,
không thiên vị bất kỳ bên nào trong tranh chấp lãnh thổ, nhưng chúng tôi
quan tâm đến phương thức giải quyết vấn đề”.
Ông Dempsey còn bày tỏ thất vọng đối với việc Trung Quốc không chấp nhận đề nghị đóng băng hoạt động ở “vùng biển tranh chấp”.
Tại
Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN tổ chức tại Myanmar vào tuần
trước, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry yêu cầu đóng băng hoạt động có thể làm
thay đổi hiện trạng ở Biển Đông, bao gồm hành động chiếm đảo và đất
đai.
Nhưng, Trung Quốc từ chối
phương án do Mỹ đưa ra và chỉ trích phương án này sẽ “phá hoại những nỗ
lực lâu dài đạt được Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) giữa Trung Quốc
và ASEAN”.
Ông Vương Nghị, Bộ trưởng
Ngoại giao Trung Quốc cho rằng, Trung Quốc “sẵn sàng lắng nghe” các sáng
kiến thiện chí của các bên về vấn đề Biển Đông, nhưng những sáng kiến
này cần “khách quan, công bằng và mang tính xây dựng”, chứ không phải là
“tạo ra phức tạp và bất đồng mới, thậm chí có ý đồ khác”.
Tháng 5 năm 2014, Trung
Quốc tuyên bố giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 khoan thăm dò (trái
phép) ở Biển Đông (vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam).
Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố, vị trí khoan thăm dò của giàn khoan
Trung Quốc trên Biển Đông nằm trong vùng đặc quyền 200 hải lý của Việt
Nam, gây ra căng thẳng quan hệ song phương, đối đầu tàu thuyền trên
biển.
Các địa phương ở Việt Nam cũng đã nổ ra các cuộc biểu tình, tuần hành quy mô lớn phản đối hành động của Trung Quốc…
Ngày
15 tháng 7, Trung Quốc tuyên bố, giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 đã
“hoàn thành công tác khoan thăm dò có liên quan, chuyển về Hải Nam”.
__._,_.___
TỰ DO NGÔN LUẬN 201 *
Bắt lộ diện để hiện nguyên hình !!!
Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 201 (15-08-2014)
Một
trong những bài hát đáng khinh tởm nhất dưới chế độ CSVN là bài “Đảng đã cho ta
mùa Xuân” của Phạm Tuyên, con trai ông Phạm Quỳnh, người đã bị Hồ Chí Minh giết
chết cách tàn độc. Xin ghi lại toàn văn để đồng bào thấy tất cả tính mỉa mai
cùng tột của cái ca khúc xứng đáng đi vào lịch sử như một đối ảnh khốn khiếp
của các thiên hùng ca Bình Ngô Đại Cáo, Hịch Tướng Sĩ…:
“Đảng đã cho ta một mùa Xuân đầy ước vọng. Một mùa xuân tươi tràn ánh sáng khắp nơi nơi. Đảng đã mang về tuổi Xuân cho nước non. Vang tiếng hát ca chứa chan niềm yêu đời. Bao năm khổ đau đất nước ta không mùa Xuân. Cuộc đời tăm tối chốn lao tù bao hờn căm. Vầng dương hé sáng khi khắp nơi ta có Đảng. Bóng tối lui dần tiếng chim vui hót vang.
Và rồi từ đây ánh dương soi đời mới. Tiến theo cờ Đảng là thấy tương lai sáng tươi. Đảng đã cho ta cả mùa Xuân cả cuộc đời. Đảng truyền cho ta một niềm tin ở tương lai. Đảng đã đem lại tuổi Xuân cho nước non.
Thế giới quanh ta ngân vang ngàn tiếng cười. Xua đi màn đêm chiến tranh gieo bao khổ đau. Cuộc đời từ nay sẽ sáng tươi như mùa Xuân. Vượt mọi gian khó ta tiến lên đi theo Đảng. Bóng tối lui dần tiếng chim vui hót vang. Bạn ơi mùa Xuân khắp nơi tươi đẹp quá. Khi lý tưởng Đảng rực sáng trong tim chúng ta”.
“Đảng đã cho ta một mùa Xuân đầy ước vọng. Một mùa xuân tươi tràn ánh sáng khắp nơi nơi. Đảng đã mang về tuổi Xuân cho nước non. Vang tiếng hát ca chứa chan niềm yêu đời. Bao năm khổ đau đất nước ta không mùa Xuân. Cuộc đời tăm tối chốn lao tù bao hờn căm. Vầng dương hé sáng khi khắp nơi ta có Đảng. Bóng tối lui dần tiếng chim vui hót vang.
Và rồi từ đây ánh dương soi đời mới. Tiến theo cờ Đảng là thấy tương lai sáng tươi. Đảng đã cho ta cả mùa Xuân cả cuộc đời. Đảng truyền cho ta một niềm tin ở tương lai. Đảng đã đem lại tuổi Xuân cho nước non.
Thế giới quanh ta ngân vang ngàn tiếng cười. Xua đi màn đêm chiến tranh gieo bao khổ đau. Cuộc đời từ nay sẽ sáng tươi như mùa Xuân. Vượt mọi gian khó ta tiến lên đi theo Đảng. Bóng tối lui dần tiếng chim vui hót vang. Bạn ơi mùa Xuân khắp nơi tươi đẹp quá. Khi lý tưởng Đảng rực sáng trong tim chúng ta”.
Không
khó để thấy rằng hơn nửa thế kỷ qua, từ khi Hồ Chí Minh du nhập vào VN cái chủ
thuyết, cái chế độ và cái chính đảng hết sức phi nhân bản và phản dân tộc nhưng
lại trá hình dưới vỏ bọc “đấu tranh cho tự do độc lập”, “thủ tiêu cảnh áp bức
bóc lột” và “xây dựng thế giới đại đồng” hòng mê hoặc quần chúng, thì thực tế
hoàn toàn trái ngược với những gì diễn tả trong bài hát khốn nạn trên đây.
Khắp nơi, người ta chỉ thấy một mùa xuân sau song sắt (của nhà tù lớn mang tên Cộng hòa XHCNVN). Mọi chốn, người ta chỉ thấy tuổi xuân con người bị đày đọa (do tâm trí bị đầu độc, do thể xác suy dinh dưỡng, do tương lai ra mịt mờ…), chỉ thấy tuổi xuân đất nước bị bầm dập (do văn hóa suy đồi, do đạo đức băng hoại, do môi trường nhiễm độc, do kinh tế tụt hậu, do chính trị hà khắc, do ngoại giao yếu hèn…).
Khắp nơi, người ta chỉ thấy bóng tối của những cuộc chiến kinh hoàng do chính đảng CS gây ra chứ không ai khác. Mọi chốn, người ta chỉ thấy bóng tối của một tương lai vô định vì cái “lý tưởng” xã hội chủ nghĩa không tưởng lường gạt, vì cái nguy cơ rơi lại vào tròng nô lệ kẻ thù truyền kiếp bắc phương. Ta hãy nghe chính những người Cộng sản đã tạm mở mắt đang tố cáo thực trạng bi đát này:
Khắp nơi, người ta chỉ thấy một mùa xuân sau song sắt (của nhà tù lớn mang tên Cộng hòa XHCNVN). Mọi chốn, người ta chỉ thấy tuổi xuân con người bị đày đọa (do tâm trí bị đầu độc, do thể xác suy dinh dưỡng, do tương lai ra mịt mờ…), chỉ thấy tuổi xuân đất nước bị bầm dập (do văn hóa suy đồi, do đạo đức băng hoại, do môi trường nhiễm độc, do kinh tế tụt hậu, do chính trị hà khắc, do ngoại giao yếu hèn…).
Khắp nơi, người ta chỉ thấy bóng tối của những cuộc chiến kinh hoàng do chính đảng CS gây ra chứ không ai khác. Mọi chốn, người ta chỉ thấy bóng tối của một tương lai vô định vì cái “lý tưởng” xã hội chủ nghĩa không tưởng lường gạt, vì cái nguy cơ rơi lại vào tròng nô lệ kẻ thù truyền kiếp bắc phương. Ta hãy nghe chính những người Cộng sản đã tạm mở mắt đang tố cáo thực trạng bi đát này:
“Từ
nhiều năm nay, đảng CSVN dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng
chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô-viết, được coi là dựa trên chủ nghĩa
Mác-Lênin. Công cuộc đổi mới gần ba nươi năm qua nhằm sửa chữa sai lầm về đường
lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn
trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc. Đường lối sai cùng với bộ máy
cầm quyền quan liêu, tha hóa tạo điều kiện cho sự lộng hành của các nhóm lợi
ích bất chính gắn với tệ tham nhũng, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn
diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh.
Trong khi đó, giới lãnh đạo Trung Quốc (TQ) từ lâu đã theo đuổi mưu đồ đặt nước ta vào vị thế lệ thuộc, phục vụ lợi ích của TQ. Sau Hội nghị Thành Đô năm 1990 đến nay, VN đã có nhiều nhân nhượng trong quan hệ với TQ, phải trả giá đắt và càng nhân nhượng, TQ càng lấn tới. Gần đây, trong bối cảnh quốc tế phức tạp, TQ có nhiều hành vi leo thang mới trong mưu đồ xâm lược và bá chiếm Biển Đông, coi VN là mắt xích yếu nhất cần khuất phục trước tiên.
Thực tế bóc trần cái gọi là “cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa” chỉ là sự ngộ nhận và “4 tốt, 16 chữ” chỉ là để che đậy dã tâm bành trướng. Cho đến nay, thế lực bành trướng TQ đã đi được những bước quan trọng trong mưu đồ biến VN thành “chư hầu kiểu mới” của họ” (Trích Thư ngỏ ngày 28-07-2014 của 61 đảng viên gởi Ban Chấp hành TW và toàn thể đảng CSVN).
Trong khi đó, giới lãnh đạo Trung Quốc (TQ) từ lâu đã theo đuổi mưu đồ đặt nước ta vào vị thế lệ thuộc, phục vụ lợi ích của TQ. Sau Hội nghị Thành Đô năm 1990 đến nay, VN đã có nhiều nhân nhượng trong quan hệ với TQ, phải trả giá đắt và càng nhân nhượng, TQ càng lấn tới. Gần đây, trong bối cảnh quốc tế phức tạp, TQ có nhiều hành vi leo thang mới trong mưu đồ xâm lược và bá chiếm Biển Đông, coi VN là mắt xích yếu nhất cần khuất phục trước tiên.
Thực tế bóc trần cái gọi là “cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa” chỉ là sự ngộ nhận và “4 tốt, 16 chữ” chỉ là để che đậy dã tâm bành trướng. Cho đến nay, thế lực bành trướng TQ đã đi được những bước quan trọng trong mưu đồ biến VN thành “chư hầu kiểu mới” của họ” (Trích Thư ngỏ ngày 28-07-2014 của 61 đảng viên gởi Ban Chấp hành TW và toàn thể đảng CSVN).
Quả
là CSVN đã hiện nguyên hình như một chế độ bất công, bất nhân, bất lực và như
một chính đảng áp bức, độc tài, hèn nhát, bạc nhược (hiện nguyên hình chứ không
phải thoái hóa bản chất, vì bản chất của nó vốn đã xấu tự thân và ngay từ đầu,
chỉ khéo che đậy và ngụy biện mà thôi).
Tuy
nhiên, gần đây, nhiều dấu hiệu mới cho thấy việc hiện nguyên hình này của CSVN
chưa phải là trọn vẹn và cả toàn dân cần phải buộc cho nó lộ diện hoàn toàn hầu
dễ bề đối phó, không thì chết cả đám, tiêu vong cả dân tộc.
Đó là trong cuộc họp thượng đỉnh tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên bên Tàu vào tháng 9-1990, giữa lãnh đạo hai đảng lẫn hai nhà nước (phía TQ là Giang Trạch Dân, TBT đảng và Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện; phía VN là Nguyễn Văn Linh, TBT đảng, Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Phạm Văn Đồng, Cố vấn), hai bên đã ký kết một văn bản mang tên “Kỷ yếu Hội nghị” để chính thức bình thường hóa quan hệ 2 nước (vốn đã trở thành thù địch sau các cuộc chiến biên giới năm 1979 rồi 1984) và cùng nhau thực hiện những thỏa thuận đạt được giữa lãnh đạo 2 nhà nước và 2 đảng.
Cuộc gặp thượng đỉnh này cũng như nội dung các thỏa thuận lần ấy từ đó đến nay vẫn luôn nằm trong bí mật, chưa được chính thức công bố cho nhân dân VN lẫn TQ và cộng đồng quốc tế được biết! Gần đây, có nhiều đồn đoán trong nhân dân -phát xuất từ những tiết lộ của Tân Hoa xã, Hoàn Cầu Thời báo, Wikileaks- rằng tại Hội nghị Thành Đô ấy, đám chóp bu Ba Đình đã ngang nhiên đem giang sơn đất Việt mà bán cho Tàu qua cam kết:
“VN bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như TQ đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…”
Đây là một tin sét đánh chấn động cả ngàn năm lịch sử Dân tộc và làm cho lòng dân Việt hôm nay hết sức hoang mang, sôi sục cũng như phẫn nộ.
Đó là trong cuộc họp thượng đỉnh tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên bên Tàu vào tháng 9-1990, giữa lãnh đạo hai đảng lẫn hai nhà nước (phía TQ là Giang Trạch Dân, TBT đảng và Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện; phía VN là Nguyễn Văn Linh, TBT đảng, Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Phạm Văn Đồng, Cố vấn), hai bên đã ký kết một văn bản mang tên “Kỷ yếu Hội nghị” để chính thức bình thường hóa quan hệ 2 nước (vốn đã trở thành thù địch sau các cuộc chiến biên giới năm 1979 rồi 1984) và cùng nhau thực hiện những thỏa thuận đạt được giữa lãnh đạo 2 nhà nước và 2 đảng.
Cuộc gặp thượng đỉnh này cũng như nội dung các thỏa thuận lần ấy từ đó đến nay vẫn luôn nằm trong bí mật, chưa được chính thức công bố cho nhân dân VN lẫn TQ và cộng đồng quốc tế được biết! Gần đây, có nhiều đồn đoán trong nhân dân -phát xuất từ những tiết lộ của Tân Hoa xã, Hoàn Cầu Thời báo, Wikileaks- rằng tại Hội nghị Thành Đô ấy, đám chóp bu Ba Đình đã ngang nhiên đem giang sơn đất Việt mà bán cho Tàu qua cam kết:
“VN bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như TQ đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…”
Đây là một tin sét đánh chấn động cả ngàn năm lịch sử Dân tộc và làm cho lòng dân Việt hôm nay hết sức hoang mang, sôi sục cũng như phẫn nộ.
Để
biết thực hư vấn đề đó ra sao, chúng ta hãy nhìn lại bối cảnh của Hội nghị
Thành Đô bấy giờ. Lúc ấy, hàng loạt các đảng CS và hệ thống XHCN -như quân
bài domino- nối tiếp nhau tan rã và sụp đổ ở Đông Âu, vì mang mầm tự hủy trong
bản chất của chúng. Mầm mống tự hủy này chính là chủ trương cai trị bằng bạo
lực và dối trá, hai điều mà bản tính con người dị ứng một cách triệt để.
Đầu tiên là Ba Lan (6-1989), tiếp theo là Hungari (10-1989), Đông Đức (11-1989), đoạn tới Tiệp Khắc (12-1989), Rumani (12-1989), rồi Bulgari (1-1990). Muộn hơn là Albani (3-1991), rồi Nam Tư (6-1991) và cuối cùng là Liên bang Xô viết (19-8-1991). Đặc biệt, những sự kiện dồn dập xảy ra tại sáu nước Đông Âu trong vòng không đầy một năm đã gây bồn chồn lo lắng, âu sầu sợ hãi cho TBT Nguyễn Văn Linh (kẻ từng rất tâm đầu ý hợp với lãnh tụ bị hành quyết của Rumani là Ceaucescu trong chuyện cứu vãn Xã hội chủ nghĩa) cũng như bộ sậu chóp bu Hà Nội.
Đầu tiên là Ba Lan (6-1989), tiếp theo là Hungari (10-1989), Đông Đức (11-1989), đoạn tới Tiệp Khắc (12-1989), Rumani (12-1989), rồi Bulgari (1-1990). Muộn hơn là Albani (3-1991), rồi Nam Tư (6-1991) và cuối cùng là Liên bang Xô viết (19-8-1991). Đặc biệt, những sự kiện dồn dập xảy ra tại sáu nước Đông Âu trong vòng không đầy một năm đã gây bồn chồn lo lắng, âu sầu sợ hãi cho TBT Nguyễn Văn Linh (kẻ từng rất tâm đầu ý hợp với lãnh tụ bị hành quyết của Rumani là Ceaucescu trong chuyện cứu vãn Xã hội chủ nghĩa) cũng như bộ sậu chóp bu Hà Nội.
Nắm
bắt được tâm trạng hoảng hốt đó của lãnh đạo đảng và nhà nước VN, đồng thời
biết chắc đám này sẵn sàng nhân nhượng tất cả để khôi phục quan hệ đảng và nhà
nước với TQ nhằm có đồng minh và chỗ dựa trong việc bảo vệ đảng và chế độ,
Trung Nam Hải quyết định hành động! Bắc Kinh thấy đây là cơ hội ngàn năm một
thuở để đưa lãnh đạo đảng và nhà nước VN nằm trọn trong quỹ đạo phụ thuộc toàn
diện vào mình, để từ đó tiến tới việc thôn tính mảnh đất phía nam mà cả ngàn
năm, tổ tiên Hán tộc đã bao phen thất bại trong việc xâm lược.
Và cơ quan Tàu cộng được giao thực hiện quỷ kế này chính là Hoa Nam Tình Báo, kẻ mà theo dư luận, đã tạo ra một Hồ Chí Minh giả để cai trị đất Việt. Hoa Nam Tình Báo đã chọn được ba con cờ đắc dụng: một Nguyễn Văn Linh ngây thơ khờ khạo, một Đỗ Mười ngu dốt háo danh và một Phạm Văn Đồng tay đã nhúng chàm việc dâng hai quần đảo tiền đồn của đất nước.
Dĩ nhiên với đầu óc cuồng tín vào tình hữu nghị cộng đảng, với tâm địa khốn khiếp vô tổ quốc và vô đồng bào, với tham vọng điên khùng muốn thống trị mãi trên đất Việt (như chúng học từ chủ nghĩa CS do HCM giảng dạy), ba tên bán nước ấy đã sẵn sàng xóa đi ngàn năm kiêu hùng của Dân tộc, chà đạp xương máu của bao anh hùng liệt nữ, nhắm mắt trước cảnh đọa đày của các tộc Mông, Mãn, Hồi, Tạng.
Việc chúng cùng đám đàn em giấu giếm nội dung những thỏa thuận sinh tử đối với đất nước ấy suốt 24 năm trời là bằng chứng chúng sợ nhân dân tuyên án là lũ phản quốc, một lũ phản quốc chưa từng có trong lịch sử dân tộc.
Và cơ quan Tàu cộng được giao thực hiện quỷ kế này chính là Hoa Nam Tình Báo, kẻ mà theo dư luận, đã tạo ra một Hồ Chí Minh giả để cai trị đất Việt. Hoa Nam Tình Báo đã chọn được ba con cờ đắc dụng: một Nguyễn Văn Linh ngây thơ khờ khạo, một Đỗ Mười ngu dốt háo danh và một Phạm Văn Đồng tay đã nhúng chàm việc dâng hai quần đảo tiền đồn của đất nước.
Dĩ nhiên với đầu óc cuồng tín vào tình hữu nghị cộng đảng, với tâm địa khốn khiếp vô tổ quốc và vô đồng bào, với tham vọng điên khùng muốn thống trị mãi trên đất Việt (như chúng học từ chủ nghĩa CS do HCM giảng dạy), ba tên bán nước ấy đã sẵn sàng xóa đi ngàn năm kiêu hùng của Dân tộc, chà đạp xương máu của bao anh hùng liệt nữ, nhắm mắt trước cảnh đọa đày của các tộc Mông, Mãn, Hồi, Tạng.
Việc chúng cùng đám đàn em giấu giếm nội dung những thỏa thuận sinh tử đối với đất nước ấy suốt 24 năm trời là bằng chứng chúng sợ nhân dân tuyên án là lũ phản quốc, một lũ phản quốc chưa từng có trong lịch sử dân tộc.
Nhưng
dù chúng không công bố mật ước Thành Đô, nhân dân cũng thấy được những hậu quả
và hệ luận từ đó. Chẳng hạn cuộc chiến tranh xâm lược của Tàu ở 6 tỉnh biên
giới phía Bắc VN (1979) không còn được nhắc đến, thậm chí những hoạt động tưởng
niệm và vinh danh các liệt sĩ hy sinh trong cuộc chiến này đều bị cấm cản! Biến
cố xâm lược ấy cũng như việc Tàu dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa
(1974) và đảo Gạc Ma ở Trường Sa (1988) không được tổng kết và đưa vào lịch sử
và giáo khoa để giáo dục lòng yêu nước cho giới trẻ.
Chẳng hạn những cuộc biểu tình yêu nước chống Tàu xâm phạm biển đảo, sát hại ngư dân ta đều bị đàn áp tàn bạo. Chẳng hạn việc cho phép Tàu thuê hàng trăm ngàn héc ta rừng đầu nguồn, rừng quốc phòng ở các tỉnh biên giới chiến lược phía Bắc với thời hạn lâu dài 50-70 năm. Chẳng hạn việc để cho Tàu đưa hàng ngàn công nhân đến Tây Nguyên, một yếu huyệt rất quan trọng về an ninh quốc phòng để thực hiện dự án bauxite đầy nghi ngờ và đáng tranh cãi.
Chẳng hạn việc các công ty Tàu trúng đến 80-90% các gói thầu trọn gói EPC (thiết kế-mua sắm-xây dựng) trong các dự án về kinh tế-xã hội, đặc biệt là các dự án nhiệt điện, với hàng chục ngàn lao động phổ thông Tàu (có phép và không phép) thực hiện các dự án đó?
Chẳng hạn việc thương nhân và doanh nghiệp Tàu tung hoành trên khắp lãnh thổ nước ta, lừa đảo nông dân, áp bức công nhân, lũng đoạn và phá hoại nền kinh tế đất nước một cách hết sức dễ dàng. Gần đây nhất là vụ Tàu ngang nhiên hạ đặt giàn khoan trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của VN mà Hà Nội vẫn không dám nhân cơ hội đó kiện TQ ra trước tòa án quốc tế như Philippin đã làm.
Chẳng hạn những cuộc biểu tình yêu nước chống Tàu xâm phạm biển đảo, sát hại ngư dân ta đều bị đàn áp tàn bạo. Chẳng hạn việc cho phép Tàu thuê hàng trăm ngàn héc ta rừng đầu nguồn, rừng quốc phòng ở các tỉnh biên giới chiến lược phía Bắc với thời hạn lâu dài 50-70 năm. Chẳng hạn việc để cho Tàu đưa hàng ngàn công nhân đến Tây Nguyên, một yếu huyệt rất quan trọng về an ninh quốc phòng để thực hiện dự án bauxite đầy nghi ngờ và đáng tranh cãi.
Chẳng hạn việc các công ty Tàu trúng đến 80-90% các gói thầu trọn gói EPC (thiết kế-mua sắm-xây dựng) trong các dự án về kinh tế-xã hội, đặc biệt là các dự án nhiệt điện, với hàng chục ngàn lao động phổ thông Tàu (có phép và không phép) thực hiện các dự án đó?
Chẳng hạn việc thương nhân và doanh nghiệp Tàu tung hoành trên khắp lãnh thổ nước ta, lừa đảo nông dân, áp bức công nhân, lũng đoạn và phá hoại nền kinh tế đất nước một cách hết sức dễ dàng. Gần đây nhất là vụ Tàu ngang nhiên hạ đặt giàn khoan trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của VN mà Hà Nội vẫn không dám nhân cơ hội đó kiện TQ ra trước tòa án quốc tế như Philippin đã làm.
Do
đó, đồn đoán của công luận về “đại họa mất nước năm 2020” do tay Tàu cộng và
Việt cộng là phần nào có cơ sở. Nó buộc mọi con Hồng cháu Lạc phải đứng lên
biểu tình rầm rộ, trước hết là đòi hỏi Ba Đình phải bạch hóa mọi chuyện ở Thành
Đô, bắt chúng lộ diện đầy đủ để hiện trọn vẹn nguyên hình, tiếp đó là khóa tay
bè lũ bán nước trước khi lũ cướp nước ập đến. Bằng không thì tiêu vong cả Dân
tộc. Cứ ngó thảm cảnh dân Tây Tạng và Tân Cương hiện thời thì biết.
BAN
BIÊN TẬP
Sunday, August 17, 2014
VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG TÔI
CẦU TREO QUẢNG NGÃI, ĐI GIÂY TỬ THẦN
Vắt vẻo hai bên vách núi, giằng buộc dây thép mỏng manh vào thân cây gỗ mục, cầu treo tạm bợ bắc ngang sông Re ở xã Ba Xa, huyện Ba Tơ (Quảng Ngãi) trở thành "bẫy tử thần" với hàng trăm người dân.
Nhiều năm qua, hàng trăm người dân ở thôn Gọi Re, xã Ba Xa, huyện vùng cao Ba Tơ đi lại làm ăn, hay con trẻ đến trường, đều qua đường độc đạo trên chiếc cầu treo tạm bợ bắc ngang qua dòng sông Re bốn mùa chảy xiết.
Cầu treo dài khoảng 50 m, cao 15 m do người dân địa phương đóng góp tre, nứa, lồ ô, cuộn thép, dây kẽm... tạo dựng. Người qua đây phải nắm thật chặt dây kẽm được gọi là thành cầu, dò dẫm từng bước chân trên những miếng ván gỗ, lồ ô chắp vá thưa thớt.
Bà Võ Thị Bích Lê, Phó chủ tịch UBND xã Ba Xa cho biết, do xã còn nghèo nên từ bao đời nay người dân làm cầu tạm bợ để qua sông Re chứ không còn lựa chọn nào khác. Mưa lũ lớn thì họ chịu cảnh cô lập dài ngày. "Người lớn lo lắng thắt tim khi hàng ngày các con vượt cầu đến lớp không may sảy chân xuống sông sâu. Riêng mấy bé mầm non được cha mẹ thay phiên cõng qua cầu treo hai lượt mỗi ngày", bà Lê nói.
Hiện tại chiếc cầu treo này đã xuống cấp nghiêm trọng nhưng chưa được duy tu, sửa chữa. Nhiều mảnh ván, thanh lồ ô lắp trên mặt cầu đã mục nát, rơi xuống dòng sông trôi theo dòng nước.
Ông Phạm Văn Thành ở thôn Gọi Re, xã Ba Xa cho hay, từng có nhiều người dân và học sinh đi trên cầu treo này bị ngã rơi xuống sông nhưng may mắn chưa có ai thiệt mạng.
Mặt cầu treo chắp vá bằng những miếng ván, lồ ô cũ kỹ, trống hoác có thể nhìn thấu xuống lòng sông sâu.
Dây kẽm và sợi thép giằng buộc cầu treo này đã gỉ sét, nguy cơ bung ra uy hiếp tính mạng người dân bất cứ lúc nào.
Dây kẽm và sợi thép cầu treo này buộc vào thân cây cổ thụ bên bờ sông Re đã mục nát. Ông Lê Hàn Phong, Chủ tịch UBND huyện Ba Tơ cho biết thêm, dẫu biết hàng ngày người dân đi qua cầu treo tạm bợ này nguy hiểm, song muốn xây cầu kiên cố cần ít nhất 15 tỷ đồng. Nhiều lần huyện kiến nghị tỉnh bố trí nguồn kinh phí làm cầu treo kiên cố bắc ngang qua sông Re nhưng ngân sách khó khăn chưa thể phân bổ được.
"Để tránh nguy hiểm, mùa lũ huyện nghiêm cấm người dân qua lại trên cầu treo này. Hàng ngày qua cầu thì phải đi từng người một để tránh quá tải làm cầu bị đứt gây hiểm họa khó lường", ông Phong nói.
'Làng đu dây' qua sông
Cách trở dòng sông Re cuồn cuộn chảy xiết, nhiều năm qua hơn 600 hộ dân ở xã Sơn Ba, huyện miền núi Sơn Hà (Quảng Ngãi) phải đu dây thừng đi bè qua sông.
Không có cầu bắc qua sông Re, nhiều năm qua, 630 hộ dân với hơn 2.500 nhân khẩu ở xã Sơn Ba đi lại làm ăn, học tập phải đu dây thừng kéo bè vượt sông sâu. Chiếc bè dài khoảng 3 mét, rộng 1,5 mét được làm bằng những ruột ôtô bơm căng, bên trên lót gỗ hoặc thân tre nẹp lại.
Học sinh đu dây tinh nghịch trên chiếc bè chòng chành trên dòng nước.
Những bàn tay bé nhỏ nhưng chai sạn của học trò xã Sơn Ba vì thường xuyên đu dây đi bè qua sông.
Mùa lũ tràn về, mực nước trên các sông, suối dâng cao, hàng trăm học sinh bên sông Re nghỉ học 3-4 ngày là chuyện bình thường.
Nhà ở xa trường 4 km, hàng ngày em Đinh Văn Thương (lớp 1A, trường Tiểu học Sơn Ba) phải vượt suối, băng rừng, đu dây đi bè qua sông. Đến được lớp học thì cơ thể lấm lem bùn đất.
22 học sinh thôn Gò Da, xã Sơn Ba cách trường 8 km may mắn được các nhà hảo tâm, thầy cô giáo quyên góp gạo, tiền, quần áo ở nội trú trong trường để theo đuổi con chữ. Số còn lại phải băng rừng, đu dây đi bè qua sông Re 2-6 km đến trường mỗi ngày.
Toàn xã Sơn Ba có 7 điểm người dân thường xuyên đu dây kéo bè qua sông Re dài hơn 350 mét. "Mấy ngày trước nước lũ tràn về cuốn trôi mất hai chiếc bè, may chưa xảy ra chết người. Ước mơ lớn nhất của người dân là có cây cầu kiên cố bắc qua sông để không còn lo sợ nguy hiểm đến tính mạng", ông Đinh Văn Nã, Bí thư xã Sơn Ba bộc bạch.
Trí Tín
Nhà giàu trong Xã Hội Chủ Nghiã Việt Nam và thực trạng xã hội
"SBTN SPECIAL: Việt Nam Ơi (Trúc Hồ)"
SBTN SPECIAL: Việt Nam Ơi (Trúc Hồ)
http://www.youtube.com/watch?v=w5risSUYZPQ
đổ đống vàng dát nhà làm sang
Những chi tiết dát vàng bằng tay cầu kỳ, tập trung ở mái trần, hoa văn và cửa sổ.
Cung điện vàng có một không hai của đại gia Hải Phòng
Biệt thự dát vàng của Hoa hậu Ngô Mỹ Uyên
Còn đây là con nhà nghèo sống tại nước CHXHCN Việt Nam
đâu phải chỉ có trâu làm kiếp kéo cày...
cấy lúa
gùi củi
áo quần đâu mà che thân
đoảng nhà lướt lo cho em như thế này sao???
lao động nặng
các bé lớn hơn cũng chẳng hơn gì
đoảng nhà lướt ở đâu rồi nhỉ
móc rác
hái củi
ra chợ với Mẹ
đu dây như làm xiếc để tới trường
đáng gọi là nhà không?
chỉ cơm trắng thôi cũng ăn
mạo hiểm để đi học, cảnh mà người thành thị không bao giờ dám
bới rác mưu sinh
tin nổi không??? trẻ em lên 5 xã nghĩa ưu việt!
an toàn giao thông đây sao?
cả nước sạch cũng không có mà uống nữa
trong cái lạnh ghê hồn của núi rừng Tây Bắc
đúng là chỉ cơm rau
Những đứa trẻ ngủ thiếu chân trên tấm ván được chắp vá từ những thanh gỗ nhỏ
chỉ cơm rau và nước muối
trong cái lạnh ghê hồn của núi rừng Tây Bắc
trong cái lạnh ghê hồn của núi rừng Tây Bắc
lao động nặng như người lớn
móc rác
vác đá
chị cũng lạnh làm sao sưởi được em?
con chó còn sung sướng hơn em vì nó có bộ lông trời cho
mới lên 3 đã biết đi bắt ếch
và cô độc, buồn thảm
ăn tại bàn học
và ngủ cũng trong lớp
1 căn phòng nhỏ xíu chứa tới 25 em
đu dây qua sông
nước uống của em đây sao?
chưa tới 10 tuổi đã làm dân chài
và vác gạch như người lớn
cả đào đá núi
gánh lúa khi chưa tới 3 tuổi
Nhiều đại gia Việt sở hữu những ngôi biệt thự bề thế, sang trọng, được
dát vàng lấp lánh giống như những tòa lâu đài trong truyện cổ tích. Tổng
số vàng mà chủ nhân của chúng bỏ ra lên đến nhiều tỷ đồng.
Lâu đài 6 con gà vàng của đại gia phế liệu
Mỗi khi đi qua khu vực đường Hoàng Quốc Việt, thuộc quận Cầu Giấy, Hà
Nội, nhiều người không khỏi sửng sốt với tòa biệt thự khổng lồ sắp hoàn
thiện, trông giống như một tòa lâu đài trong truyện cổ tích. Biệt thự
này trông nổi bật hẳn so với những ngôi nhà khác xung quanh. Tòa nhà có 5
tầng lầu và một chóp nhọn trên đỉnh.
Tòa lâu đài trông nổi bật hẳn so với những ngôi nhà khác xung quanh
Người dân nơi đây cho biết, đại gia sở hữu ngôi biệt thự này là ông
Nguyễn Quốc Thanh, sinh năm 1957, quê gốc ở Thanh Hóa. Ông Thanh được
biết đến là một doanh nhân trong lĩnh vật liệu xây dựng, chủ yếu kinh
doanh sắt thép.
Điểm đặc biệt của tòa nhà này là được gắn 6 con gà và một số đồ trang trí trên nóc. Tất cả đều được dát vàng.
Chỉ riêng 6 con gà dát vàng đã có giá vài tỷ đồng.
Con gà trống lớn nhất được đặt trên cao. 5 con còn lại xếp hình cánh cung
Cùng với 6 con gà dát vàng, hai cửa sổ với họa tiết dát vànglà hình ảnh đáng chú ý nhất của tòa lâu đài.
Điểm đặc biệt của tòa lâu đài là được trang trí bằng 6 con gà được làm
bằng đồng đen và sơn son dát vàng thật một cách cầu kỳ gồm có 1 con gà
trống to gắn trên cao và 5 con gà nhỏ hơn gắn phía dưới, trị giá ước
tính lên đến cả chục tỷ đồng. Bên cạnh 6 con gà, tòa lâu đài còn được
trang trí 16 chiếc lục bình đúc tình xảo với hình đầu trâu được cho là
đem lại sự may mắn cho gia chủ. Cửa sổ một số tầng có nhiều họa tiết dát
vàng mang dáng dấp kiến trúc lâu đài châu Âu cổ điển.
Lâu đài song sinh với nội thất dát vàng ở Ninh Bình
Khi đi trên trục đường quốc lộ 1A đoạn đi qua TP. Ninh Bình, nhiều người
sẽ ngạc nhiên với một tòa lâu đài song sinh với nội thất dát vàng. Tòa
lâu đài nổi tiếng này tọa lạc trên khuôn viên có diện tích 2.000m2, với
thiết kế đối xứng tương đồng, cùng các chi tiết nội thất dát vàng bằng
tay.
Lâu đài song sinh với nội thất dát vàng ở Ninh Bình
Lâu đài sinh đôi có hai cổng, được làm bằng đồng vàng, chạm khắc hình sư tử và ngựa
Lâu đài này thuộc sở hữu của một đại gia ngành xây dựng. Tên của lâu đài
song sinh được đặt theo 2 con trai của vị này, với ý nghĩa hai người
con sẽ nương tựa vào nhau và cùng xây dựng sự nghiệp gia đình.
Nội thất của lâu đài được thiết kế theo phong cách cổ điển châu Âu.
Những chi tiết dát vàng bằng tay cầu kỳ, tập trung ở mái trần, hoa văn và cửa sổ.
Tòa lâu đài có hai cổng, được làm bằng đồng vàng, chạm khắc hình sư tử
và ngựa. Cửa chính được làm bằng gỗ đỏ, chạm khắc công phu. Hai bên có
cột trụ sơn trắng và tay vịn bằng đá hoa cương đồng màu. Nội thất của
lâu đài được thiết kế theo phong cách cổ điển châu Âu, với mái vòm cong
sẫm màu, trần cao và các phòng được phân chia với không gian rất rộng.
Điểm đặc biệt của tòa lâu đài là những chi tiết dát vàng bằng tay cầu
kỳ, tập trung ở mái trần, hoa văn và cửa sổ. Tay vịn cầu thang được
thiết kế riêng cho gia chủ, làm bằng nhôm đúc mạ vàng.
Tay vịn cầu thang được thiết kế riêng cho gia chủ, làm bằng nhôm đúc mạ vàng.
Cung điện vàng có một không hai của đại gia Hải Phòng
Cung điện này được coi là nhà mẫu kiến trúc sứ của một công ty ở TP. Hải
Phòng. Toàn bộ hoa văn của cung điện được thiết kế và tạo hình theo
phong cách hoa văn đương đại và cổ điển của lối kiến trúc Hồi giáo, kết
hợp với vàng tạo nên vẻ đẹp quyền quý.
Cung điện sứ vẽ vàng 24k độc của đại gia Hải Phòng
Đây là công trình đầu tiên và duy nhất hiện nay trên thế giới sử dụng
hoàn toàn vật liệu sứ vẽ vàng 24K cho toàn bộ nội ngoại thất của công
trình. Tuy diện tích của cung điện là 24 m2, tương đương một phòng khách
nhưng diện tích sứ điêu khắc và vẽ vàng có thể lên tới 300 m2.
Cung điện lấy cảm hứng thiết kế từ Cung điện Tajmahal của Ấn Độ
Cung điện có hệ thống chóp rời (5 chóp) cùng 4 cột trụ sứ vàng đi kèm.
Toàn bộ bề mặt nhìn thấy của công trình đều được gắn sứ vẽ vàng. Riêng
gạch lát sàn cũng có tới hơn 100 mẫu hoa văn các loại.
Đây là công trình đầu tiên và duy nhất hiện nay trên thế giới sử dụng
hoàn toàn vật liệu sứ vẽ vàng 24Kcho toàn bộ nội ngoại thất
Cung điện ước tính có giá trị trên 20 tỷ đồng và nặng trên 30 tấn
Điểm đặc biệt của cung điện là có thể tháo ghép rời thành hơn 300 mảnh
khác nhau trong 3 ngày là lắp lại hoàn thiện trong 5 ngày. Công trình
ước tính có giá trị trên 20 tỷ đồng và nặng trên 30 tấn.
Biệt thự nhà vườn dát 60 cây vàng của đại gia Hải Dương
Ông Nguyễn Đức Lượng, Chủ tịch HĐQT, kiêm Tổng giám đốc công ty cổ phần
Đầu tư Phát triển nhà Trường Linh khiến nhiều người phải choáng khi dát
tới 60 cây vàng cho ngôi nhà vườn tại xã Tân Dân, huyện Chí Linh, tỉnh
Hải Dương.
Biệt thự nhà vườn dát vàng của đại gia Hải Dương.
Tổng diện tích của ngôi biệt thự này là 5.000m2. Trong ngôi nhà gỗ khổng
lồ, trừ hai tường hồi, toàn bộ nhà, từ vì kèo, cửa vách, hoành phi, câu
đối, những tiểu tiết nhỏ nhất được làm bằng gỗ lim già. Ngôi nhà có 49
cột gỗ cỡ đại. Đặc biệt còn có tầng hầm kiên cố bằng xi măng bên dưới
cũng đủ 49 cột, mỗi cột ứng với một cột gỗ bên trên. Khắp nơi trong ngôi
nhà gỗ là những liễn đối dát vàng lấp lánh, bằng chữ nho.
Những bức hoành phi, câu đối dát vàng trong ngôi nhà.
Biệt thự dát vàng 300 tỷ đồng của Hoa hậu Ngô Mỹ Uyên
Nhiều người ngỡ ngàng khi biết hoa hậu kiêm ảo thuật gia Ngô Mỹ Uyên sở
hữu căn biệt thự xa hoa như một nguyên thủ quốc gia tại TP.HCM. Căn biệt
thự của người đẹp có giá trị khoảng 300 tỷ đồng.
Biệt thự dát vàng của Hoa hậu Ngô Mỹ Uyên
Ngôi biệt thự tọa lạc trên một trong những đường đắt giá nhất Sài Gòn.
Nó được xây dựng theo kiểu kiến trúc của Pháp, phần trần nhà dát vàng
lấp lánh, rồi cầu thang, tường, phòng tắm, sân thượng, quầy bar... tất
cả đều mạ vàng.
Ghế ngồi bọc da thú, trần dát vàng và chùm đèn pha lê lộng lẫy trong nhà Ngô Mỹ Uyên
Hạnh Nguyên (tổng hợp)
Còn đây là con nhà nghèo sống tại nước CHXHCN Việt Nam
đâu phải chỉ có trâu làm kiếp kéo cày...
cấy lúa
gùi củi
áo quần đâu mà che thân
đoảng nhà lướt lo cho em như thế này sao???
lao động nặng
các bé lớn hơn cũng chẳng hơn gì
đoảng nhà lướt ở đâu rồi nhỉ
móc rác
hái củi
ra chợ với Mẹ
đu dây như làm xiếc để tới trường
đáng gọi là nhà không?
chỉ cơm trắng thôi cũng ăn
mạo hiểm để đi học, cảnh mà người thành thị không bao giờ dám
bới rác mưu sinh
tin nổi không??? trẻ em lên 5 xã nghĩa ưu việt!
an toàn giao thông đây sao?
Chiếc bát em bé cầm trên tay chứa món mèn mén, đây là một đặc sản của
núi rừng Tây Bắc nhưng khi ăn vào nó thì cứ nghèn nghẹn chẳng khác gì
bát "chè khoán" của bà cụ Tứ trong truyện "Vợ Nhặt" của nhà văn Kim Lân
cả nước sạch cũng không có mà uống nữa
trong cái lạnh ghê hồn của núi rừng Tây Bắc
đúng là chỉ cơm rau
Những đứa trẻ ngủ thiếu chân trên tấm ván được chắp vá từ những thanh gỗ nhỏ
chỉ cơm rau và nước muối
trong cái lạnh ghê hồn của núi rừng Tây Bắc
trong cái lạnh ghê hồn của núi rừng Tây Bắc
lao động nặng như người lớn
móc rác
vác đá
chị cũng lạnh làm sao sưởi được em?
con chó còn sung sướng hơn em vì nó có bộ lông trời cho
mới lên 3 đã biết đi bắt ếch
và cô độc, buồn thảm
ăn tại bàn học
và ngủ cũng trong lớp
1 căn phòng nhỏ xíu chứa tới 25 em
đu dây qua sông
nước uống của em đây sao?
chưa tới 10 tuổi đã làm dân chài
và vác gạch như người lớn
cả đào đá núi
gánh lúa khi chưa tới 3 tuổi
HUY PHƯƠNG * DANH NGÔN,ĐẠI NGÔN
Danh ngôn và đại ngôn Tạp ghi Huy Phương
“Ðừng nghe những gì 'họ' nói mà hãy nhìn những gì 'họ' làm!” (Dựa theo câu nói của cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu)
Sau
năm 1975, các chiến hữu của chúng ta di tản đến Hoa Kỳ đã thành lập tổ
chức Tổng Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH, tổ chức này có chi nhánh ở nhiều tiểu
bang và đã có những lần hội họp tại Dallas, có sự tham dự của các cấp
lãnh đạo cũ của QLVNCH. Cứ mỗi lần họp lại để kỷ niệm Ngày Quân Lực, anh
em đã nghe những lời phát biểu đến mối hận mất nước, được nghe những
lời kêu gọi hào hùng, như nhắc nhở đến nhiệm vụ chung: “Chúng ta phải
giải phóng Việt Nam, nhân dân Việt Nam chờ đợi chúng ta ở cả hai miền
Nam Bắc.” Mỗi lần như thế là niềm hy vọng của những người bỏ nước ra đi
lại bừng lên, và ai cũng nghĩ rằng thời cơ đã điểm và
chiến hữu, đồng bào của chúng ta sẽ không chờ đợi lâu hơn nữa. Các
chiến hữu cũng tin tưởng rằng, những phát biểu của cấp chỉ huy cũ này là
những lời nói thành khẩn, chứ không phải là những lời nói đùa giỡn về
một vấn đề sinh tử của quốc gia.
Trong một cuộc họp của Tổng Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH, người anh cả, Ðại Tướng TMT, trong bầu không khí trang nghiêm đã rưng rưng nước mắt, can đảm nhìn nhận phần trách nhiệm của mình, đã long trọng hứa “sẽ dành những ngày còn lại của cuộc đời để làm một cái gì đó cho tập thể.” Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, một tay vịn lá cờ vàng ba sọc đỏ, kêu gọi anh em hãy chuẩn bị để khi có tiếng gọi của tổ quốc, hãy sẵn sàng đi theo lá cờ thân yêu về giải phóng quê hương. Ông còn nói rằng, “Khi các chiến hữu thấy vắng bóng tôi, thì lúc đó chính là tôi đã trở về trên quê hương để góp phần trong sứ mệnh giải phóng dân tộc.” Một vị chỉ huy khác là Thiếu Tướng Lâm Văn Phát, trước đại hội, đã hăng say, quyết liệt hơn, xác nhận rằng ra hải ngoại để liên lạc, và nói rằng, “Chúng tôi xin báo cáo cho toàn thể quý vị biết rằng, thời cơ đã chín muồi, chúng ta không thể chờ đợi được nữa. Nội trong năm nay, chúng tôi sẽ phát động cuộc tổng nổi dậy, và nếu không thành công, chúng tôi xin chịu tử hình trước nhân dân.”
Trong một cuộc họp của Tổng Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH, người anh cả, Ðại Tướng TMT, trong bầu không khí trang nghiêm đã rưng rưng nước mắt, can đảm nhìn nhận phần trách nhiệm của mình, đã long trọng hứa “sẽ dành những ngày còn lại của cuộc đời để làm một cái gì đó cho tập thể.” Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, một tay vịn lá cờ vàng ba sọc đỏ, kêu gọi anh em hãy chuẩn bị để khi có tiếng gọi của tổ quốc, hãy sẵn sàng đi theo lá cờ thân yêu về giải phóng quê hương. Ông còn nói rằng, “Khi các chiến hữu thấy vắng bóng tôi, thì lúc đó chính là tôi đã trở về trên quê hương để góp phần trong sứ mệnh giải phóng dân tộc.” Một vị chỉ huy khác là Thiếu Tướng Lâm Văn Phát, trước đại hội, đã hăng say, quyết liệt hơn, xác nhận rằng ra hải ngoại để liên lạc, và nói rằng, “Chúng tôi xin báo cáo cho toàn thể quý vị biết rằng, thời cơ đã chín muồi, chúng ta không thể chờ đợi được nữa. Nội trong năm nay, chúng tôi sẽ phát động cuộc tổng nổi dậy, và nếu không thành công, chúng tôi xin chịu tử hình trước nhân dân.”
Thời
gian này phần lớn anh em cựu
quân nhân VNCH đều còn đang ở trong nhà tù tập trung, nếu nghe được
những lời tuyên bố này, chưa chừng đã “hồ hởi, phấn khởi” đạp vách nhà
tù, chạy ra để chào đón các anh.
Vị chủ tịch Hội Ái Hữu Cựu Chiến Sĩ VNCH Minnesota, năm 1988, căn cứ vào những lời tuyên bố trên của các huynh trưởng đã phát biểu: “Mong sao đây là một lời tiên tri chính xác và một ngày gần đây hàng vạn bước chân anh sẽ đạp sóng Thái Bình, vượt dãy Trường Sơn trở về trên quê hương, đập tan loài quỷ đỏ.” (1)
Cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tác giả câu danh ngôn để đời “đừng nghe...,” trong bài diễn văn trao quyền tổng thống lại cho ông Trần Văn Hương ngày 24 Tháng Tư, 1975, đã hứa hẹn “sẽ ở lại cùng anh em chiến đấu.” Ba ngày sau, ông và gia quyến lên phi cơ bay sang Ðài Loan, để lại một con thuyền quốc gia sắp đắm, chôn vùi theo bao nhiêu nhân mạng của đồng bào và các chiến hữu của ông.
Càng về sau người ta thấy danh ngôn không mấy mà chỉ thấy đại ngôn. Cách đây 11 năm, một ông chủ tịch ngày khai trương lực lượng, trước mặt văn võ bá quan, trong bài diễn văn khai mạc đã hùng hồn tuyên bố, “Ðây là lúc chúng ta khua chiêng gióng trống để tiến về giải thể chế độ cộng sản!” Mười một năm, sức tàn lực kiệt, trên quê người, nhiều anh em chúng tôi đã từ giã cõi đời này, nhắm mắt mà còn mang theo niềm hy vọng ở lời tuyên bố của ông.
Ngày 30 Tháng Tư năm nào, đồng bào ở mọi nơi trên đất Úc cũng tập họp về thủ đô Canberra để kỷ niệm ngày mất nước và biểu tình trước Tòa Ðại Sứ CSVN. Biết trước chuyện này hàng năm, nên tòa đại sứ đã đóng cửa và cho nhân viên “di tản.” Ngày 30 Tháng Tư, 2011, tôi hân hạnh có mặt tại Canberra và tham gia cuộc biểu tình này cùng với gần 1,000 đồng bào tỵ nạn cộng sản tại Úc. Trong lúc khí thế đang vươn cao, giữa rừng cờ vàng Việt Nam và cờ Úc, cùng với những khẩu hiệu chống cộng sản được hô vang, trên khán đài, một nhân vật đại diện cộng đồng đã dõng dạc tuyên bố, “Thưa đồng bào, sang năm (2012), nơi đây (tòa đại sứ cộng sản) sẽ là tòa đại sứ của VNCH!”
Vị chủ tịch Hội Ái Hữu Cựu Chiến Sĩ VNCH Minnesota, năm 1988, căn cứ vào những lời tuyên bố trên của các huynh trưởng đã phát biểu: “Mong sao đây là một lời tiên tri chính xác và một ngày gần đây hàng vạn bước chân anh sẽ đạp sóng Thái Bình, vượt dãy Trường Sơn trở về trên quê hương, đập tan loài quỷ đỏ.” (1)
Cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tác giả câu danh ngôn để đời “đừng nghe...,” trong bài diễn văn trao quyền tổng thống lại cho ông Trần Văn Hương ngày 24 Tháng Tư, 1975, đã hứa hẹn “sẽ ở lại cùng anh em chiến đấu.” Ba ngày sau, ông và gia quyến lên phi cơ bay sang Ðài Loan, để lại một con thuyền quốc gia sắp đắm, chôn vùi theo bao nhiêu nhân mạng của đồng bào và các chiến hữu của ông.
Càng về sau người ta thấy danh ngôn không mấy mà chỉ thấy đại ngôn. Cách đây 11 năm, một ông chủ tịch ngày khai trương lực lượng, trước mặt văn võ bá quan, trong bài diễn văn khai mạc đã hùng hồn tuyên bố, “Ðây là lúc chúng ta khua chiêng gióng trống để tiến về giải thể chế độ cộng sản!” Mười một năm, sức tàn lực kiệt, trên quê người, nhiều anh em chúng tôi đã từ giã cõi đời này, nhắm mắt mà còn mang theo niềm hy vọng ở lời tuyên bố của ông.
Ngày 30 Tháng Tư năm nào, đồng bào ở mọi nơi trên đất Úc cũng tập họp về thủ đô Canberra để kỷ niệm ngày mất nước và biểu tình trước Tòa Ðại Sứ CSVN. Biết trước chuyện này hàng năm, nên tòa đại sứ đã đóng cửa và cho nhân viên “di tản.” Ngày 30 Tháng Tư, 2011, tôi hân hạnh có mặt tại Canberra và tham gia cuộc biểu tình này cùng với gần 1,000 đồng bào tỵ nạn cộng sản tại Úc. Trong lúc khí thế đang vươn cao, giữa rừng cờ vàng Việt Nam và cờ Úc, cùng với những khẩu hiệu chống cộng sản được hô vang, trên khán đài, một nhân vật đại diện cộng đồng đã dõng dạc tuyên bố, “Thưa đồng bào, sang năm (2012), nơi đây (tòa đại sứ cộng sản) sẽ là tòa đại sứ của VNCH!”
Lời tuyên bố vừa chấm dứt, tiếng vỗ tay hoan hô của đồng bào nổi lên như sấm dậy!
Một câu chuyện khác là tổ chức liên quan đến việc phục hoạt chế độ VNCH, có ý định tổ chức bán công khố phiếu và hứa hẹn, nếu thành công, lúc đó sẽ trả lại cho đồng bào số tiền gấp đôi!
Trong
thành ngữ Hán Việt có câu “cao thanh, đại ngữ” để chỉ giọng nói cất cao
(lớn tiếng) mà chữ thì dùng
“dao to, búa lớn!” Nói trong lúc bốc đồng, cao hứng, nói cho “sướng
miệng” không phải đức hạnh của lãnh tụ. Thành ra không phát biểu được
danh ngôn, thì đừng dùng đại ngôn, nói theo cách bình dân là “nói đại”
hay “nổ đại!”
Kim Jong-un đã từng tuyên bố huênh hoang sẽ đích thân lái một chiếc xe tăng vào thủ đô Seoul của Nam Hàn để thống nhất đất nước, nhưng ít ra y cũng có xe tăng.
Danh nhân thì thường có những câu nói đời sau trở thành danh ngôn, ví dụ như Winston Churchill, Mac Athur, Thành Cát Tư Hãn, Hưng Ðạo Vương... Nhưng lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau, thay vì chỉ thuyết giáo, nói suông, đó là ý nghĩa của câu “ngôn hành hợp nhất.”
Lãnh đạo mà không thành tín với dân, chắc chắn sẽ thất bại. Nguyễn Trãi đã từng nói, “Tín giả quốc chi bảo,” nghĩa là điều tín là của quý của quốc gia.
Ngày nay, vì thói hiếu danh, chuộng hình thức chủ nghĩa, chữ tín đang bị xâm hại, bị đánh tráo bằng những ngôn từ “dao to, búa lớn” xa với sự thật, thành ra một thứ huênh hoang, khoác lác. Ngày nay trên đất nước Việt Nam, chúng ta lại nghe những bài diễn văn rổn rảng chắp nối những chữ nghĩa vô hồn, khoác lác, mị dân. Ngay cả những chữ “độc lập - tự do - hạnh phúc” luôn luôn hiện diện dưới hàng chữ “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” cũng chỉ là những thứ bánh vẽ, dù đảng đã đốt 3 triệu thanh niên trong lò lửa chiến tranh, ngày nay người dân cũng chỉ tìm thấy được những gì trái nghĩa với mục đích đề ra lúc đầu.
Ðã không được là danh nhân thì đừng ráng kiếm danh ngôn. Trong cả triệu triệu câu nói, dù trên cửa miệng hay trong cõi lòng, trên đời này khó kiếm ra một câu danh ngôn cho đáng giá. Cuối cùng đó chỉ là những “doanh ngôn” mà người nói nhằm mục đích mua lòng tin của quần chúng và “bán trời không văn tự!”
Ðồng bào đã nhiều lần đánh mất niềm tin, vì đã bỏ công lao, tài sản và cả mạng sống cho những người đầu cơ chính trị, tin vào những lời đại ngôn nơi những người tự nhận là “lãnh đạo,” mà trong tất cả các thứ mất, mất niềm tin là tệ hại nhất!
Kim Jong-un đã từng tuyên bố huênh hoang sẽ đích thân lái một chiếc xe tăng vào thủ đô Seoul của Nam Hàn để thống nhất đất nước, nhưng ít ra y cũng có xe tăng.
Danh nhân thì thường có những câu nói đời sau trở thành danh ngôn, ví dụ như Winston Churchill, Mac Athur, Thành Cát Tư Hãn, Hưng Ðạo Vương... Nhưng lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau, thay vì chỉ thuyết giáo, nói suông, đó là ý nghĩa của câu “ngôn hành hợp nhất.”
Lãnh đạo mà không thành tín với dân, chắc chắn sẽ thất bại. Nguyễn Trãi đã từng nói, “Tín giả quốc chi bảo,” nghĩa là điều tín là của quý của quốc gia.
Ngày nay, vì thói hiếu danh, chuộng hình thức chủ nghĩa, chữ tín đang bị xâm hại, bị đánh tráo bằng những ngôn từ “dao to, búa lớn” xa với sự thật, thành ra một thứ huênh hoang, khoác lác. Ngày nay trên đất nước Việt Nam, chúng ta lại nghe những bài diễn văn rổn rảng chắp nối những chữ nghĩa vô hồn, khoác lác, mị dân. Ngay cả những chữ “độc lập - tự do - hạnh phúc” luôn luôn hiện diện dưới hàng chữ “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” cũng chỉ là những thứ bánh vẽ, dù đảng đã đốt 3 triệu thanh niên trong lò lửa chiến tranh, ngày nay người dân cũng chỉ tìm thấy được những gì trái nghĩa với mục đích đề ra lúc đầu.
Ðã không được là danh nhân thì đừng ráng kiếm danh ngôn. Trong cả triệu triệu câu nói, dù trên cửa miệng hay trong cõi lòng, trên đời này khó kiếm ra một câu danh ngôn cho đáng giá. Cuối cùng đó chỉ là những “doanh ngôn” mà người nói nhằm mục đích mua lòng tin của quần chúng và “bán trời không văn tự!”
Ðồng bào đã nhiều lần đánh mất niềm tin, vì đã bỏ công lao, tài sản và cả mạng sống cho những người đầu cơ chính trị, tin vào những lời đại ngôn nơi những người tự nhận là “lãnh đạo,” mà trong tất cả các thứ mất, mất niềm tin là tệ hại nhất!
(1) Tài liệu của Hội Ái Hữu Chiến Sĩ VNCH Minnesota (1988).
__._,_.___
HÀ NHÂN VĂN * TRUNG CỘNG & CHÂU PHI
Thảm kịch Do Thái - Palestine còn dài dài!
GIỠN MẶT VỚI OBAMA, TRUNG CỘNG SẼ MẤT VNCS VÀ PHI CHÂU!
Hà Nhân Văn
Bấy lâu nay, Nga Sô - Trung cộng ra mặt coi thường huyền ngọc Barack Obama, cả hai chủ quan đã quên rằng, sau huyền ngọc Barack còn Uncle Sam. Sáu năm trước Uncle Sam đã chọn chàng da đen - trắng để lãnh một sứ mạng vĩ đại lừng lững bước lên 2 đấu trường: Á Đông - Thái Bình Dương và Phi châu. Obama âm thầm giả bộ làng nhàng "passive", dồn sức vào Obamacare để làm nên lịch sử. Sau khi hóa kiếp được Bin Laden, Hoa Kỳ chuyển trục từ Âu qua Á.
Cho đến mùa Hè này, sau khi Bắc Kinh đưa giàn khoan "đá nổi trên biển
cả" HD 981 vào thềm lục địa VN, tưởng rằng đi vào cõi không người, múa
gậy vườn hoang. Bắc Kinh đã cống hiến cho Hoa Kỳ một cơ hội vàng, trở
lại VN và ĐNA kéo theo Nhật Bản rồi Ấn Độ, hô phong hoán vũ, không mất
một viên đạn, một xu teng, Hoa Kỳ trở lại VN thật "ngon lành". Trong 2
tuần lễ đầu tháng 8, cựu TT Bill Clinton rồi 3 nghị sĩ Mỹ, Dân Chủ và
Cộng Hòa, đầy quyền lực đến Hà Nội. Coi như cầm chắc Ông Ba Đỏ TC mất
đồng chí VN mà Ông Ba đã dầy công mua chuộc, củng cố sau Thượng đỉnh
Việt-Trung Thành Đô, Ông Ba đã giúp Uncle Sam "bất chiến tự nhiên
thành". VN đang chuyển hướng, xoay chiều. Nhật Bản đóng vai ủy nhiệm.
Đài Loan nghiễm nhiên sẽ trở lại Hoa Lục qua ngả VN. Vào cuối năm 2014,
Đài Loan sẽ là nước thứ 2 đầu tư nhiều nhất ở VN.
THƯỢNG ĐỈNH MỸ - PHI CHÂU
Đánh lạc hướng coi nhẹ Phi châu hơn cả các ông Clinton và Bush trẻ, thậm chí công du Phi châu, TT Obama không ghé qua quê cha Keyna. Đùng một cái, sau thời gian dài vận động và bố trí, tuần qua, TT Obama triệu tập Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ - Phi châu lần đầu tiên trong lịch sử Mỹ. Hội nghị qui tụ 50 nước Phi châu, 42 nguyên thủ quốc gia lớn nhỏ tưng bừng kéo nhau đến Hoa Thịnh Đốn hội họp trong 3 ngày ở đại sảnh bộ Ngoại giao Mỹ. Thượng đỉnh Hoa Kỳ và Phi châu đã gửi một thông điệp không lời cho Bắc Kinh: Phi châu thuộc về thế giới văn minh hiện nay, Mỹ và Âu châu, nói nôm na quê mùa: Ông Ba Đỏ TC "hãy lui ra cho bà đi chợ!" 6 năm trước Uncle Sam chọn Obama, đến nay mới thấy Uncle chọn đúng người "right man, right time, right place".
THẢM KỊCH DO THÁI - PALESTINE
Cuộc chiến Do Thái - Hamas lại bùng nổ, sau 72 giờ đình chiến. Vẫn như mấy lần trước, do Hamas tiếp tục tái gây chiến, bắn hỏa tiễn và rocket qua Do Thái. Tại sao có chuyện lạ đời vậy? Một bên đã thua trận vẫn tiếp tục gây chiến, đánh tới. Một bên, đại thắng vẫn tiếp tục thắng nữa trên khối dân đen, tay không. Số tử thương do Do Thái oanh tạc, pháo kích, xe tăng ào ạt trên dải Gaza đã lên đến gần 2000, đa số là phụ nữ, trẻ con. Phía Hamas, tử vong không đáng kể, Hamas dùng phụ nữ trẻ con làm lá chắn. Nhà thương, trường học và giáo đường Hồi giáo trở thành căn cứ của Hamas. Quân Do Thái hy sinh 63, dân Do Thái lại chỉ có 3 người chết, khoảng 9, 10 người bị thương do hỏa tiễn và rocket! Tuần báo The Economist, số chủ đề ra ngày 2-8-2014 với tựa đề lớn ngoài bìa "Thắng trận, thua cuộc chiến - Winning the battle, losing the war".
THƯỢNG ĐỈNH MỸ - PHI CHÂU
Đánh lạc hướng coi nhẹ Phi châu hơn cả các ông Clinton và Bush trẻ, thậm chí công du Phi châu, TT Obama không ghé qua quê cha Keyna. Đùng một cái, sau thời gian dài vận động và bố trí, tuần qua, TT Obama triệu tập Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ - Phi châu lần đầu tiên trong lịch sử Mỹ. Hội nghị qui tụ 50 nước Phi châu, 42 nguyên thủ quốc gia lớn nhỏ tưng bừng kéo nhau đến Hoa Thịnh Đốn hội họp trong 3 ngày ở đại sảnh bộ Ngoại giao Mỹ. Thượng đỉnh Hoa Kỳ và Phi châu đã gửi một thông điệp không lời cho Bắc Kinh: Phi châu thuộc về thế giới văn minh hiện nay, Mỹ và Âu châu, nói nôm na quê mùa: Ông Ba Đỏ TC "hãy lui ra cho bà đi chợ!" 6 năm trước Uncle Sam chọn Obama, đến nay mới thấy Uncle chọn đúng người "right man, right time, right place".
THẢM KỊCH DO THÁI - PALESTINE
Cuộc chiến Do Thái - Hamas lại bùng nổ, sau 72 giờ đình chiến. Vẫn như mấy lần trước, do Hamas tiếp tục tái gây chiến, bắn hỏa tiễn và rocket qua Do Thái. Tại sao có chuyện lạ đời vậy? Một bên đã thua trận vẫn tiếp tục gây chiến, đánh tới. Một bên, đại thắng vẫn tiếp tục thắng nữa trên khối dân đen, tay không. Số tử thương do Do Thái oanh tạc, pháo kích, xe tăng ào ạt trên dải Gaza đã lên đến gần 2000, đa số là phụ nữ, trẻ con. Phía Hamas, tử vong không đáng kể, Hamas dùng phụ nữ trẻ con làm lá chắn. Nhà thương, trường học và giáo đường Hồi giáo trở thành căn cứ của Hamas. Quân Do Thái hy sinh 63, dân Do Thái lại chỉ có 3 người chết, khoảng 9, 10 người bị thương do hỏa tiễn và rocket! Tuần báo The Economist, số chủ đề ra ngày 2-8-2014 với tựa đề lớn ngoài bìa "Thắng trận, thua cuộc chiến - Winning the battle, losing the war".
Theo Economist, thắng trận, thắng lớn nhưng Do Thái đã mất đi nhiều cảm
tình với thế giới, chỉ còn 26% (trong số 23 nước thăm dò), chỉ hơn Nga
Sô của Putin, xếp loại ngang với Pakistan, Bắc Hàn, Iran tận cùng thế
giới. Trước đây, Do Thái rất được ngưỡng mộ, một quốc gia dân chủ thực
sự, đoàn kết, thịnh vượng, nhiều sáng tạo và phát minh khoa học, nhất là
từ năm 1976. Biệt động đội Do Thái đã giải cứu được con tin ở phi
trường Uganda.
Nhưng giờ đây, uy tín của Do Thái đã tiêu tan. Trong số các nước đứng
hàng đầu được thế giới có cảm tình nhất là Đức quốc, Canada, Anh, Pháp,
Nhật thì Do Thái tụt hậu, đứng hàng chót là một trong 5 nước đã mất hết
cảm tình đối với thế giới là Nga, Bắc Hàn, Iran. Ngay tại Mỹ, dù được
Quốc hội Mỹ yểm trợ tối đa, cảm tình dành cho Do Thái đã tuột dốc trong
dân chúng Mỹ, chỉ còn 36%. Dù thông cảm Do Thái với lý do tự vệ và sinh
tồn, thế giới đồng loạt lên án Do Thái đã quá tàn bạo và hiếu chiến
trong các cuộc oanh kích tàn phá Gaza. Dư luận Mỹ, Âu e ngại rằng dân
Palestine ở Tây Ngạn - West Bank sẽ nổi dậy, lửa hận thù lại bùng lên
trong khối Hồi giáo Sunni Ả Rập. Do Thái sẽ bị cô lập, tứ bề thọ địch.
Cho đến nay, Do Thái đã trở thành một cường quốc kinh tế và khoa học kỹ thuật vào hàng số một ở Trung Đông, vượt cả Iran, dân số 8,2 triệu, trong một diện tích rất chật hẹp, 20,770 km2 chỉ canh tác được 14%. Ngân sách quốc gia dành 7.7% cho y tế, 6% cho giáo dục. Nhưng còn một "quốc gia" Do Thái vĩ đại khác, đứng sau, có mặt khắp Tây bán cầu và Âu châu, từ Đức quốc, Pháp, Ba Lan, Anh, Ý... đến Ba Tây, Argentina, Mexico, kể cả Cuba... và chủ yếu là Hoa Kỳ. Cộng đồng Do Thái Mỹ trên 6 triệu dân nhưng là một nước Do Thái ở Hoa Kỳ.
Do Thái là một "đế quốc" tư bản, nắm ngân hàng, thị trường tài chính, chứng khoán, kể cả bảo hiểm, y tế, luật sư... Chỉ có 2 nước Canada và Do Thái là được giữ quốc tịch Mỹ, tức song tịch. Thanh niên Do Thái có thể về Do Thái thi hành nghĩa vụ quân sự ... Lực lượng "vận động hành lang quốc hội Mỹ (lobby)" đông đảo nhất ở Hoa Thịnh Đốn, từ quốc hội đến Bạch ốc, Ngũ giác đài, báo chí và truyền thông.
Trước khi đi nghỉ hè 5 tuần, ngày cuối, Hạ viện Mỹ dẹp bỏ mọi chuyện, chỉ tập trung vào Do Thái, khẩn cấp chi 250 triệu cho Do Thái, riêng mấy khoản mua khí giới, đạn, bom... Dù vậy, Do Thái không thể còn "làm mưa làm gió" trên chính trường Mỹ như trước đây, huyền ngọc Obama đã và đang gồng mình cưỡng lại Do Thái. Vẫn tích cực bảo vệ Do Thái, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Obama đã chuyển hướng, ông tiếp tục chính sách của Bill Clinton, không thể bỏ rơi Palestine, Hoa Kỳ vẫn không công nhận Jerusalem là thủ đô của Do Thái trong khi Do Thái quyết gạt Palestine ra khỏi đất thánh. Palestine trở thành quốc gia độc lập, thủ đô phải đặt ở West Bank.
Cho đến nay, Do Thái đã trở thành một cường quốc kinh tế và khoa học kỹ thuật vào hàng số một ở Trung Đông, vượt cả Iran, dân số 8,2 triệu, trong một diện tích rất chật hẹp, 20,770 km2 chỉ canh tác được 14%. Ngân sách quốc gia dành 7.7% cho y tế, 6% cho giáo dục. Nhưng còn một "quốc gia" Do Thái vĩ đại khác, đứng sau, có mặt khắp Tây bán cầu và Âu châu, từ Đức quốc, Pháp, Ba Lan, Anh, Ý... đến Ba Tây, Argentina, Mexico, kể cả Cuba... và chủ yếu là Hoa Kỳ. Cộng đồng Do Thái Mỹ trên 6 triệu dân nhưng là một nước Do Thái ở Hoa Kỳ.
Do Thái là một "đế quốc" tư bản, nắm ngân hàng, thị trường tài chính, chứng khoán, kể cả bảo hiểm, y tế, luật sư... Chỉ có 2 nước Canada và Do Thái là được giữ quốc tịch Mỹ, tức song tịch. Thanh niên Do Thái có thể về Do Thái thi hành nghĩa vụ quân sự ... Lực lượng "vận động hành lang quốc hội Mỹ (lobby)" đông đảo nhất ở Hoa Thịnh Đốn, từ quốc hội đến Bạch ốc, Ngũ giác đài, báo chí và truyền thông.
Trước khi đi nghỉ hè 5 tuần, ngày cuối, Hạ viện Mỹ dẹp bỏ mọi chuyện, chỉ tập trung vào Do Thái, khẩn cấp chi 250 triệu cho Do Thái, riêng mấy khoản mua khí giới, đạn, bom... Dù vậy, Do Thái không thể còn "làm mưa làm gió" trên chính trường Mỹ như trước đây, huyền ngọc Obama đã và đang gồng mình cưỡng lại Do Thái. Vẫn tích cực bảo vệ Do Thái, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Obama đã chuyển hướng, ông tiếp tục chính sách của Bill Clinton, không thể bỏ rơi Palestine, Hoa Kỳ vẫn không công nhận Jerusalem là thủ đô của Do Thái trong khi Do Thái quyết gạt Palestine ra khỏi đất thánh. Palestine trở thành quốc gia độc lập, thủ đô phải đặt ở West Bank.
Obama vẫn cương quyết "một cách co giãn", thủ đô Do Thái phải là Tel
Alviv như từ ngày quốc gia Do Thái ra đời 1948. Do Thái hải ngoại không
từ bỏ một đòn phép nào đánh phá chủ trương cho Palestine là một quốc gia
và được chia Jerusalem với Do Thái. Chỉ một chủ trương Palestine phải
là một quốc gia, Bill Clinton đã khốn khổ, thân bại danh liệt. Vụ ông
Bill mang họa tình ái lăng nhăng với người đẹp Lewinsky, ông đã lọt vào
tay quyền lực đen ghê tởm nào đó, chút nữa đã bị cách chức Tổng thống!
Mẹ cô Lu là một yếu tố quyết định, bà là Mỹ Do Thái, cô Lu cho mẹ biết
tinh khí của ông Bill vọt vào váy cô. Không hiểu cô Lu có máu Do Thái
này thổi kèn Bill Clinton như thế nào mà kèn Bill phọt cả lên váy cô. Mẹ
cô Lu chụp ngay cơ hội, giữ cái váy của cô, tang chứng rành rành. Ông
Bill phải trả cái giá chủ trương Palestine phải thành một quốc gia.
Giáo hội Công giáo Mỹ và cả La Mã cũng điêu đứng về vụ sì-căng-đan ấu dục. Một số giáo phận Công giáo Mỹ phá sản vì bị kiện! Đó là cái giá mà Công giáo La Mã phải trả cho ĐGH Th. Gioan Phaolồ II chủ trương và cổ võ cho một Palestine trở thành quốc gia và chia 3 Jerusalem! Ngoài Do Thái, phải chia cho Palestine và một phần cho Thiên Chúa giáo bao gồm Chính Thống giáo, Tin Lành và Công giáo La Mã! Nhiệm kỳ 2, Obama bị đánh phá "tối tăm mặt mũi", thậm chí tăng lương tối thiểu cho dân lao động cũng bị đánh phá, được mô tả như một "tổng thống tệ nhất"!
Obama là một cái gai trước cộng đồng Do Thái, trước mắt diều hâu Netanyahu, một cựu tướng lãnh QĐ Do Thái, đắc cử Thủ tướng 2 nhiệm kỳ rồi! Ông diều hâu này là biểu tượng ý chí Do Thái. Cựu Ngoại trưởng Hillary Clinton nếu ra ứng cử Tổng thống, chắc hẳn sóng gió từ Do Thái Mỹ sẽ đổ ập tới.
Báo The Economist như một tiên liệu, Do Thái nếu tiếp tục hiếu chiến theo con đường "dân tộc" quá độ như hiện nay, Do Thái sẽ tự cô lập, sẽ có một ngày trong núi lửa hận thù. The Economist từ trước đến nay vẫn ủng hộ Do Thái, nay thì cực lực lên án, cảnh giác Do Thái. Âu châu đang coi Do Thái là dân kỳ thị chủng tộc (a racist). Do Thái đang trở về chủ nghĩa phân chủng như Nam Phi trước đây! Trên vùng đất Do Thái đang tồn tại còn có các dân tộc khác, ngoài Palestine, còn có sắc dân Druze, Ả Rập, Bahais... Jerusalem có bức tường Thương khóc tối thiêng liêng của Thiên Chúa giáo và Hồi giáo. Chẳng lẽ Do Thái lại bắt chước Trung Cộng vẽ vời chiếm đoạt 90% Biển Đông.
Do Thái đừng quên bài học đẫm máu Phát xít Hitler tàn sát 6 triệu dân Do Thái. Thảm kịch lịch sử nào mà không có nguyên nhân. Trước khi bạo chúa Hitler lên cầm quyền, hầu hết các tiệm cầm đồ trên nước Đức trong tay Do Thái, địa ốc và ngân hàng cho vay nợ lãi trong tay tư bản Do Thái. Báo Economist nêu vấn đề cốt lõi: Gaza và tương lai Do Thái.
Giáo hội Công giáo Mỹ và cả La Mã cũng điêu đứng về vụ sì-căng-đan ấu dục. Một số giáo phận Công giáo Mỹ phá sản vì bị kiện! Đó là cái giá mà Công giáo La Mã phải trả cho ĐGH Th. Gioan Phaolồ II chủ trương và cổ võ cho một Palestine trở thành quốc gia và chia 3 Jerusalem! Ngoài Do Thái, phải chia cho Palestine và một phần cho Thiên Chúa giáo bao gồm Chính Thống giáo, Tin Lành và Công giáo La Mã! Nhiệm kỳ 2, Obama bị đánh phá "tối tăm mặt mũi", thậm chí tăng lương tối thiểu cho dân lao động cũng bị đánh phá, được mô tả như một "tổng thống tệ nhất"!
Obama là một cái gai trước cộng đồng Do Thái, trước mắt diều hâu Netanyahu, một cựu tướng lãnh QĐ Do Thái, đắc cử Thủ tướng 2 nhiệm kỳ rồi! Ông diều hâu này là biểu tượng ý chí Do Thái. Cựu Ngoại trưởng Hillary Clinton nếu ra ứng cử Tổng thống, chắc hẳn sóng gió từ Do Thái Mỹ sẽ đổ ập tới.
Báo The Economist như một tiên liệu, Do Thái nếu tiếp tục hiếu chiến theo con đường "dân tộc" quá độ như hiện nay, Do Thái sẽ tự cô lập, sẽ có một ngày trong núi lửa hận thù. The Economist từ trước đến nay vẫn ủng hộ Do Thái, nay thì cực lực lên án, cảnh giác Do Thái. Âu châu đang coi Do Thái là dân kỳ thị chủng tộc (a racist). Do Thái đang trở về chủ nghĩa phân chủng như Nam Phi trước đây! Trên vùng đất Do Thái đang tồn tại còn có các dân tộc khác, ngoài Palestine, còn có sắc dân Druze, Ả Rập, Bahais... Jerusalem có bức tường Thương khóc tối thiêng liêng của Thiên Chúa giáo và Hồi giáo. Chẳng lẽ Do Thái lại bắt chước Trung Cộng vẽ vời chiếm đoạt 90% Biển Đông.
Do Thái đừng quên bài học đẫm máu Phát xít Hitler tàn sát 6 triệu dân Do Thái. Thảm kịch lịch sử nào mà không có nguyên nhân. Trước khi bạo chúa Hitler lên cầm quyền, hầu hết các tiệm cầm đồ trên nước Đức trong tay Do Thái, địa ốc và ngân hàng cho vay nợ lãi trong tay tư bản Do Thái. Báo Economist nêu vấn đề cốt lõi: Gaza và tương lai Do Thái.
Liệu Do Thái có thể xóa bỏ bản đồ dải Gaza và tiêu diệt gọn khủng bố Hamas không? Hamas ở trong 1.8 triệu dân Gaza. Tháng 7 vừa qua, nhân chuyến công du của ĐGH Phan Xi Cô, Thủ tướng Do Thái tiếp ngài rất long trọng, tự nhiên ông khoe: "Đức Chúa Giêsu nói tiếng Do Thái". ĐGH Phan Xi Cô trả lời ngay: "Không! Chúa Giêsu nói tiếng Ả Rập!"
TRỞ VỀ SÓNG GIÓ BIỂN ĐÔNG!
Hội nghị Ngoại giao Hiệp hội Đông Nam Á ASEAN khai mạc ngày 8-8 vừa qua tại thủ đô Miến Điện, có các nước liên hệ tham dự: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Bắc Hàn, Nam Hàn, Úc, Tân Tây Lan và Trung Cộng. Trước một ngày, ngoại trưởng 3 nước Phi Luật Tân, Mã Lai và Việt Nam họp riêng. TT Thein Sein rất khôn khéo cùng ngoại trưởng Miến đến chào mừng. Ba nước Việt - Mã - Phi họp riêng đi tới đồng thuận một lập trường về Biển Đông để đối phó với TC. NT John Kerry, dành 2 ngày cho hội nghị. Ngày 9-8, ông họp riêng với NT Việt Nam Phạm Bình Minh.
Ông Kerry đầy lạc quan, "tươi ơi là tươi" vỗ vai PBM, tuyên bố: Quan hệ
Việt Mỹ càng ngày càng phát triển hơn nữa. Tuy nước chủ nhà Miến Điện đã
nói rõ: Miến Điện giữ vai trò trung lập (trong vấn đề Biển Đông) - theo
AFP, ông Thein Sein rất vồn vã với 2 ngoại trưởng Mỹ, Nhật và đồng
nghiệp ASEAN - nhưng rõ ràng người ta cảm thấy TT Thein Sein giữ một
khoảng cách với NT Vương Nghị của TC (distance from...). Nhận xét chung,
NT Vương Nghị và phái đoàn TC lạc lõng giữa các đồng nghiệp ASEAN, Mỹ
và Úc. Kể cả Bắc Hàn cũng không còn thắm thiết mặn mà với đại đồng chí
đàn anh Bắc Kinh!
Qua hội nghị này, rõ rệt 2 ngoại trưởng Mỹ và Nhật đã gắn bó với ASEAN, một thị trường 620 triệu dân, dường như đang tách dần TC. Cũng là do Bắc Kinh đã quá kiêu căng, ngoài vụ giàn khoan HD 981 rút trước thời hạn một tháng, TC lại tuyên bố "bản đồ dọc" mới, 9 đoạn tăng lên 10, chiếm 90% Biển Đông, tự Bắc Kinh đã đẩy ASEAN bám chặt vào Mỹ - Nhật, tự Bắc Kinh đã vạch áo cho ASEAN nhìn rõ cái mạnh cái yếu của Bắc Kinh, chi bằng bám vào Mỹ lúc này là thượng sách.
Qua hội nghị này, rõ rệt 2 ngoại trưởng Mỹ và Nhật đã gắn bó với ASEAN, một thị trường 620 triệu dân, dường như đang tách dần TC. Cũng là do Bắc Kinh đã quá kiêu căng, ngoài vụ giàn khoan HD 981 rút trước thời hạn một tháng, TC lại tuyên bố "bản đồ dọc" mới, 9 đoạn tăng lên 10, chiếm 90% Biển Đông, tự Bắc Kinh đã đẩy ASEAN bám chặt vào Mỹ - Nhật, tự Bắc Kinh đã vạch áo cho ASEAN nhìn rõ cái mạnh cái yếu của Bắc Kinh, chi bằng bám vào Mỹ lúc này là thượng sách.
Qua vụ máy bay dân sự MH 17 bị hỏa tiễn Nga bắn rớt ở Đông bộ Ukraine,
Mã Lai ngả hẳn về Mỹ. Chính Bắc Kinh đã đẩy Phi Luật Tân, Mã Lai và VN
vào một khối đối đầu với TC để bảo vệ chủ quyền Biển Đông. Tóm lại, TC
trở thành đối tác rất lẻ loi trong hội nghị ngoại giao ASEAN kỳ này. Ta
có câu: "Nắm người có tóc, không ai nắm kẻ trọc đầu", vô hình chung, NT
Vương Nghị trở thành kẻ trọc đầu giữa khối ASEAN, thậm chí Bắc Hàn còn
lộ rõ vẻ lạnh lạt đối với phái đoàn Vương Nghị. Tuy nhiên, TC lại càng
thêm cứng cựa! Dù Hoa Kỳ lên tiếng phản đối, VN, Phi và Mã Lai phản đối,
TC vẫn khởi công xây 5 đài hải đăng ở Biển Đông để cắm mốc chủ quyền ở
Biển Đông. Vô ích, chỉ gây thêm căm phẫn, đẩy nhanh ASEAN vào quỹ đạo
Hoa Kỳ. Năm 2015, Mã Lai sẽ là chủ tịch luân phiên ASEAN, Đại sứ Lê
Lương Minh tiếp tục làm Tổng thư ký ASEAN thêm 3 năm nữa trong nhiệm kỳ 5
năm. ASEAN sẽ đổi thành cơ chế Cộng đồng ĐNA như CĐ Liên Âu.
VN THOÁT KHỎI VÒNG TAY TC?
Bất cứ giá nào, TC cũng bám chặt VN, củng cố Hiệp ước phòng thủ chung Việt - Trung mà Phạm Văn Trà, Đại tướng Bộ trưởng Bộ QPVNCS đã đặt bút ký với sự chứng kiến của Nguyễn Tấn Dũng, khi còn là Phó Thủ tướng, không kể những mật ước VNCS đã ký kết với Bắc Kinh từ hội nghị Thành Đô, Tứ Xuyên năm 1990. Gió đã xoay chiều! Đây là cơ hội vàng để VN thoát khỏi tai họa Bắc xâm. Tin riêng của bản báo từ Hà Nội cho biết, phe Thái thú TBT Nguyễn Phú Trọng vẫn còn mạnh dù là thiểu số do Cục tình báo Hoa Nam đứng sau với 53 cơ sở đầu tư của TC ở 53 tỉnh và thành phố nhưng cũng không cản nổi cao trào chống TC mỗi ngày một mãnh liệt tuy còn âm thầm ngay trong lòng ĐCSVN và toàn dân. Nhân đà này, ngon trớn, Hoa Kỳ không bỏ lỡ cơ hội. HNV hơn một lần đã rộng bàn trên mục này, bộ ba "Viet Veterans" McCain, J. Kerry và Chuck Hagel là cột trụ chính sách mới của Mỹ ở VN.
VN THOÁT KHỎI VÒNG TAY TC?
Bất cứ giá nào, TC cũng bám chặt VN, củng cố Hiệp ước phòng thủ chung Việt - Trung mà Phạm Văn Trà, Đại tướng Bộ trưởng Bộ QPVNCS đã đặt bút ký với sự chứng kiến của Nguyễn Tấn Dũng, khi còn là Phó Thủ tướng, không kể những mật ước VNCS đã ký kết với Bắc Kinh từ hội nghị Thành Đô, Tứ Xuyên năm 1990. Gió đã xoay chiều! Đây là cơ hội vàng để VN thoát khỏi tai họa Bắc xâm. Tin riêng của bản báo từ Hà Nội cho biết, phe Thái thú TBT Nguyễn Phú Trọng vẫn còn mạnh dù là thiểu số do Cục tình báo Hoa Nam đứng sau với 53 cơ sở đầu tư của TC ở 53 tỉnh và thành phố nhưng cũng không cản nổi cao trào chống TC mỗi ngày một mãnh liệt tuy còn âm thầm ngay trong lòng ĐCSVN và toàn dân. Nhân đà này, ngon trớn, Hoa Kỳ không bỏ lỡ cơ hội. HNV hơn một lần đã rộng bàn trên mục này, bộ ba "Viet Veterans" McCain, J. Kerry và Chuck Hagel là cột trụ chính sách mới của Mỹ ở VN.
Đầu tháng 8, TNS Coker, nhân vật cao cấp trong UB Ngoại giao Thượng viện
Mỹ (high ranking) đến Hà Nội, gặp Trương Tấn Sang và Dũng. Sang khẩn
thiết nhờ Ns. Coker vận động quốc hội Mỹ tháo bỏ cấm vận vũ khí sát
thương cho VN. Trước đó, cựu TT Bill Clinton thăm Hà Nội, CT Sang tiếp
đón ông Bill rất long trọng, ân cần nhờ ông Bill vận động quốc hội và
hành pháp Obama cho VN được mua vũ khí của Mỹ. Như quí độc giả đã rõ,
TNS McCain và TNS Shelton, Dân Chủ, công du VN chỉ cách 2 ngày TNS Coker
rời Hà Nội. Đây là chuyến công tác của 3 TNS Dân Chủ và Cộng Hòa với
mục đích rõ rệt: An ninh, Nhân quyền và Mậu dịch Mỹ Việt. TNS McCain rời
Hà Nội đầy lạc quan cho biết có thể tháng 9 này, Hoa Kỳ sẽ tháo bỏ lệnh
cấm vận từng phần, sẽ bán vũ khí sát thương cho VN.
Tại sao lại dồn dập và khẩn cấp như vậy? Xin thưa, chỉ còn mấy tháng nữa, Hoa Kỳ rút khỏi A Phú Hãn, vũ khí tối tân còn đầy ắp trong các kho của Mỹ chưa dỡ bỏ, đưa về Mỹ mất công, tốn kém chuyên chở chi bằng bán bớt đi. Đây không phải là vũ khí phế thải mà là vũ khí tối tân, hiện đại của Hoa Kỳ, Ấn Độ cũng đang khát khao mua lại. Theo tin từ Hà Nội, giới lãnh đạo CSVN đang say mê hướng về món hàng sát thương còn tồn kho ở A Phú Hãn hay đâu đó ở Nam Á và các căn cứ ở Ấn Độ Dương. Vũ khí của Nga, kể cả máy bay phản lực và hỏa tiễn Nga đã xuống cấp so với Mỹ. Với VN, còn một điều hấp dẫn lý thú khác, giá cả có thể du di, nhiều trường hợp có thể trả "credit" lai rai đến một lúc Uncle Sam sẽ "tha nợ"!
Vấn đề còn lại tùy thuộc vào "thiện chí" của Hà Nội: vấn đề Nhân quyền. Với Hoa Kỳ vào lúc này, vấn đề gọi là an ninh, "cái mỹ an ninh" mới là quan hệ hàng đầu. Dân chủ, tự do và nhân quyền tuy là cốt lõi của tinh thần Mỹ nhưng vẫn có thể du di, tựa như "trả góp". Nay CSVN thả một tù nhân lương tâm, mai lại tha một nhân vật đối kháng, cũng là cách trả góp cho món nợ nhân quyền. Gió đã xoay chiều. Ngón nghề của CSVN là nương theo chiều gió. Vấn đề còn lại vẫn ở trong tay Bắc Kinh. Giàn khoan HD 981 là một ẩn số. Sau khi xây xong 5 đài hải đăng và căn cứ tiếp liệu nổi ở đảo Gạc Ma, Bắc Kinh sẽ làm gì tiếp? Giàn khoan HD 981 sẽ chuyển về đâu? Giới lãnh đạo VN xưa nay vẫn là chờ thời đón gió. Nhưng cái mà CSVN không thể chờ được, đó là trục xoay của Uncle Sam với Nhật Bản và Ấn Độ phụ họa. Mỹ - Nhật phải hiện diện ở ĐNA mà VN là điểm chiến lược không thể thoái lui.
HÀ NHÂN VĂN
(10/8/2014)
Tại sao lại dồn dập và khẩn cấp như vậy? Xin thưa, chỉ còn mấy tháng nữa, Hoa Kỳ rút khỏi A Phú Hãn, vũ khí tối tân còn đầy ắp trong các kho của Mỹ chưa dỡ bỏ, đưa về Mỹ mất công, tốn kém chuyên chở chi bằng bán bớt đi. Đây không phải là vũ khí phế thải mà là vũ khí tối tân, hiện đại của Hoa Kỳ, Ấn Độ cũng đang khát khao mua lại. Theo tin từ Hà Nội, giới lãnh đạo CSVN đang say mê hướng về món hàng sát thương còn tồn kho ở A Phú Hãn hay đâu đó ở Nam Á và các căn cứ ở Ấn Độ Dương. Vũ khí của Nga, kể cả máy bay phản lực và hỏa tiễn Nga đã xuống cấp so với Mỹ. Với VN, còn một điều hấp dẫn lý thú khác, giá cả có thể du di, nhiều trường hợp có thể trả "credit" lai rai đến một lúc Uncle Sam sẽ "tha nợ"!
Vấn đề còn lại tùy thuộc vào "thiện chí" của Hà Nội: vấn đề Nhân quyền. Với Hoa Kỳ vào lúc này, vấn đề gọi là an ninh, "cái mỹ an ninh" mới là quan hệ hàng đầu. Dân chủ, tự do và nhân quyền tuy là cốt lõi của tinh thần Mỹ nhưng vẫn có thể du di, tựa như "trả góp". Nay CSVN thả một tù nhân lương tâm, mai lại tha một nhân vật đối kháng, cũng là cách trả góp cho món nợ nhân quyền. Gió đã xoay chiều. Ngón nghề của CSVN là nương theo chiều gió. Vấn đề còn lại vẫn ở trong tay Bắc Kinh. Giàn khoan HD 981 là một ẩn số. Sau khi xây xong 5 đài hải đăng và căn cứ tiếp liệu nổi ở đảo Gạc Ma, Bắc Kinh sẽ làm gì tiếp? Giàn khoan HD 981 sẽ chuyển về đâu? Giới lãnh đạo VN xưa nay vẫn là chờ thời đón gió. Nhưng cái mà CSVN không thể chờ được, đó là trục xoay của Uncle Sam với Nhật Bản và Ấn Độ phụ họa. Mỹ - Nhật phải hiện diện ở ĐNA mà VN là điểm chiến lược không thể thoái lui.
HÀ NHÂN VĂN
(10/8/2014)
TƯỞNG NĂNG TIẾN * NHÀ BÁO
Những Người Viết Láo & Những Người Viết Báo
Fri, 08/01/2014 - 10:44 — tuongnangtien
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Nhà báo là một trong ba loại người chạy đến nơi xảy ra tai
Biếm họa: Babui
Công điện chỉ đạo đối phó với tình huống Hòa thượng Thích Quảng Độ được trao giải
Theo dư luận chung thì sự có mặt của Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam là một đáp ứng can đảm và cần thiết trước thời cuộc hay tình thế. Với riêng tôi, đây còn là một đáp ứng tình cảm đã (bị) mất mát từ lâu. Mối hảo cảm mà một người dân miền Nam như tôi vẫn dành cho giới người cầm viết cho đến ... tháng 4 năm 1975!
Bây giờ các anh phải sống theo cách khác cái lũ già hèn nhát
chúng tôi, phải học chia một véc-bờ khác : Tôi đếch sợ anh, anh đếch sợ
tôi, chúng ta đếch sợ chúng nó...
Nguyễn Tuân
Tôi giao thiệp hơi (quá) rộng. Trong số mấy triệu người
Việt tị nạn đang sống rải rác khắp nơi trên thế giới, tôi quen
biết dám chừng hơn nửa. Còn với qúi đồng hương hay đồng bào
(ở quê nhà) chắc cũng khoảng một phần mười, nghĩa là cỡ đâu
mười triệu – bất kể thành phần xã hội, giới tính, sắc tộc,
tôn giáo, hay chính kiến ... – anh Tiêu Dao Bảo Cự và chị Phạm
Thị Bạch Yến là hai trong (vô số) những người này.
Người trông xa, ma trông gần. Bạn bè, tất nhiên, cũng không
nên thân cận quá. Bởi vậy, khi nghe tin anh Bảo Cự và chị Bạch
Yến sẽ ghé Mỹ (chơi) độ ... nửa năm, tôi “hết hồn hết vía” và
“băn khoăn” cả buổi!
Hoa Kỳ không phải là nơi để chơi. Ghé qua sáu ngày e thiếu
nhưng ở tới sáu tháng thì sợ là dư. Tôi thực sự lúng túng
không biết làm gì khoảng thời gian (dài đến một trăm tám chục
ngày) khách ở California.
May mà cả anh Tiêu Dao Bảo Cự lẫn chị Bạch Yến (chắc) đều tuổi Ngọ nên rất “chịu” đi. Trong tập bút ký Gặp Gỡ Trên Đất Mỹ, ông cho biết hai người đã “phiêu lưu” qua mười hai tiểu bang và Washington D.C.
Xin xem qua một đoạn văn tác giả viết về Viện Bảo Tàng Báo chí (Newseum) nơi mà hầu như mọi du khách đến thủ đô nước Mỹ cũng đều đã dừng chân:
“Có một bức tường tưởng niệm các nhà báo trên thế giới đã hi sinh
trong khi làm nhiệm vụ, được coi như những anh hùng của nền dân chủ, với
tên tuổi và hình ảnh dày đặc từ gần dưới nền lên cho đến tận trần nhà.
Nhiều câu nói về sự cao quý của nhà báo và nghề báo ghi trên các bức
tường được chọn lọc cẩn thận, đáng suy ngẫm.
Tôi thích nhất các câu: ‘The free press is the cornerstone of
democracy,’ ‘Free press, at its best, reveals the truth’ và điều xác tín
của Rod Dreher, nhà bình luận báo chí: ‘There are three kinds of people
who run toward disaster, not away: cops, firemen and reporters.’ Dĩ
nhiên đây phải là báo chí và nhà báo chân chính. Trong thế giới hiện
nay, cũng không hiếm các báo chí và nhà báo đi ngược lại thiên chức cao
quý của mình...”
Nhà báo là một trong ba loại người chạy đến nơi xảy ra tai
họa chứ không chạy đi. Ảnh và chú thích: TDBC.
Chả hiểu sao cứ mỗi khi nghe nói đến danh xưng “nhà báo
chân chính” và “thiên chức cao qúi” của họ là tôi lại nghĩ ngay
đến “cung cách tác nghiệp” của những người làm báo ở xứ sở
của mình, cùng với một tiếng thở dài – cố nén!
Chớ có người làm báo nào ở Việt Nam chạy đến nơi xẩy ra
tai họa không vậy, Trời? Sao không: trong vụ cưỡng chế đất đai ở
Văn Giang, hai nhà báo của chúng ta đã có ngay mặt tại hiện
trường – và bị công an đánh cho bầm dập, đánh cho tơi tả,
“đánh cho chết mẹ mày đi” – dù họ chỉ đến “với tinh thần ủng hộ chủ trương của tỉnh,” và cho công tác “tuyên truyền có định hướng” của nhà nước, chứ không phải để lên tiếng bênh vực cho những nông dân đang bị đẩy vào bước đường cùng.
Biếm họa: Babui
Toa rập với cường quyền để áp bức lương dân không phải là
“sở trường” duy nhất của những người làm báo ở Việt Nam. Họ
còn sẵn sàng đánh bóng hay nói theo bất cứ chủ trương hoặc
chính sách nào của Nhà Nước – kể cả những chủ trương ngu xuẩn
nhất – bằng những lời lẽ hoàn toàn dối trá và trơ trẽn:
Do được hưởng lợi trực tiếp hoặc gián tiếp mà từ hôm đến Đắk
Nông, hỏi bất cứ người dân nào người ta đều ủng hộ các dự án về bô-xít,
chắc chắn nó sẽ làm thay đổi hẳn bộ mặt tỉnh Đắk Nông trong tương lai.
Từ nhà già làng Điểu Sơn, chúng tôi sang nhà ông Điểu Lônh
(Lôi). Nhờ có tiền đền bù đất mấy trăm triệu, ông xây cho con gái, con
rể ngôi nhà khang trang lát gạch men bóng lộn, xa lông, tủ chè, ti-vi,
quạt điện… làm chúng tôi ngỡ mình đang ngồi ở thành phố chứ không phải
là một bon hẻo lánh của người H’Mông. (Nguyễn Hữu Nhàn. Bô-xít Tây Nguyên, Thấy Gì Ghi Nấy).
Làm sao mà “thấy” một buôn làng của người H’Mông ở Đắc
Nông được mà “ghi” đại vậy, cha nội? Ông Nguyễn Hữu Nhàn, tuy thế,
chưa trơ tráo bằng ông bạn đồng nghiệp Lã Thanh Tùng:
Bauxit của chúng ta khai thác dễ đến nỗi, chỉ cần gạt lớp đất
mặt đi (khoảng 0,9 mét) là đến ngay vỉa quặng dày đến 4 mét. Theo các
chuyên gia, trữ lượng bauxit của Việt Nam có thể khai thác hàng trăm
năm, đem lại lợi nhuận hàng chục tỷ USD… (“Bô-xít Và Những Điều Khác”, Văn nghệ số 44, phát hành ngày 31 tháng 10 năm 2009).
Thiệt là quá đã, và… quá đáng nhưng vẫn chưa đáng tởm bằng cái
thói ngậm máu (hay ngậm cứt) phun người của những người làm
báo ở xứ sở của tôi:
- Thích Quảng Độ móc nối các tổ chức cực đoan
lưu vong ở hải ngoại để dùng “oán trả ơn” bằng cách thông tin vu cáo
Việt Nam vi phạm nhân quyền, không cho tự do tôn giáo. (Sài Gòn Giải Phóng, ngày 28 tháng 8 năm 2007).
- Ông Thích Quảng Độ, người đứng đầu tổ chức
không được các tăng ni, phật tử ở Việt Nam công nhận, là "Giáo hội Phật
giáo Việt Nam thống nhất", chẳng hiểu căn cứ vào đâu mà cho rằng việc
khai thác bôxít sẽ dẫn đến "nguy cơ huỷ hoại màu xanh Tây Nguyên và đời
sống của người Việt cũng như hàng chục dân tộc ít người". Tiếp theo, ông
ta "khẩn cấp báo động công luận thế giới về đại nạn sinh thái Tây
Nguyên Quả là không thể hiểu nổi, một vị tu hành đến chức Hoà thượng mà
lại làm những việc phản dân hại nước đến vậy. (Công An Nhân Dân, ngày 18 tháng 4 năm 2009).
Rồi sau khi người “người đứng đầu tổ chức không được các tăng ni,
phật tử ở Việt Nam công nhận” được đề cử nhận giải Nobel Hoà
Bình thì Ban Tuyên Giáo Trung Ương hốt hoảng cho ra ngay một bức
công điện (khẩn và mật) nguyên con như thế này đây:
Công điện chỉ đạo đối phó với tình huống Hòa thượng Thích Quảng Độ được trao giải
Nobel Hòabình do ông Nguyễn Thế Kỷ ký ngày 9 tháng 10 năm 2008. Ảnh và chú thich: RFA
Ông Vụ Trưởng Báo Chí hùng hổ lên án là một vị tu sĩ
(tay không tấc sắt) là “phản dân, hại nước, đi ngược lại ước
nguyện hoà bình, hạnh phúc, tiến bộ của nhân dân Việt Nam...”
nhưng trước chuyện lãnh hải bị xâm phạm, và hành vi khiêu khích
trắng trợn của ngoại nhân thì ngôn ngữ cũng như thái độ của
ông Nguyễn Thế Kỷ
lại hoàn toàn khác hẳn:“Sao đã có chủ trương chỉ nói là tàu Trung
Quốc lỡ làm đứt cáp thôi, mà có một số báo lại đưa là nó cố tình cắt
cáp, để gây ra kích động nhân dân biểu tình.”
Chủ trương của nhà nước không chỉ hèn hạ mà còn bất nhất, cứ sáng đúng, chiều sai, đến trưa lại đúng. Và đây là nét chung của bất cứ chế độ cộng sản nào, theo nhận xét của George Orwell:
“Nhà thờ ở châu Âu thời Trung cổ buộc bạn vào một tín số điều,
nhưng ít nhất nó cũng cho phép bạn giữ những tín điều ấy từ lúc lọt lòng
cho đến lúc chết. Nó không bao giờ bảo bạn thứ Hai phải tin một điều,
thứ Ba lại phải tin vào một điều hoàn toàn khác. Tình hình cũng tương tự
như vậy đối với các tín đồ Công giáo, đạo Hindu, đạo Phật, đạo Hồi ngày
nay. Chế độ toàn trị hoàn toàn ngược lại. Đặc trưng của nhà nước toàn
trị là tuy nó kiểm soát tư tưởng, nhưng nó lại không xác dịnh dứt khoát
tư tưởng ấy là gì. Nó đưa ra một số tín điều không được tranh cãi, nhưng
các tín điều ấy lại thay đổi hàng ngày. Chế độ cần tín điều vì cần các
thần dân phục tùng một cách tuyệt đối, nhưng nó không thể không thay đổi
theo các nhu cầu của tầng lớp nắm quyền.”
Tại sao cái loại nhà nước toàn trị có thể “đưa ra một số
tín điều không được tranh cãi … nhưng lại thay đổi hàng ngày” mà những
người cầm viết vẫn “chịu phục tùng một cách tuyệt đối” như vậy?
Xin thưa, giản dị, chỉ vì họ ... sợ!
Nỗi sợ hãi này đã ám ảnh Nguyễn Tuân cho đến lúc cuối
đời:“ Bây giờ các anh phải sống theo cách khác cái lũ già hèn nhát
chúng tôi, phải học chia một véc-bờ khác : Tôi đếch sợ anh, anh đếch sợ
tôi, chúng ta đếch sợ chúng nó...”
Tuy muộn màng, cuối cùng, ước nguyện của ông đã trở thành
hiện thực. Ngày 3 tháng 3 năm 2014, thay mặt sáu mươi bạn đồng
nghiệp nhà văn Nguyên Ngọc tuyên bố thành lập Văn Đoàn Độc Lập Việt Nam. Bốn tháng sau, BBC đi tin:
“Hội Nhà báo Độc lập, một tổ chức dân sự mới, vừa tuyên
bố thành lập hôm thứ Sáu 4/7... Mục đích của Hội Nhà báo Độc
lập được tuyên bố trước hết là: ‘Phản ánh trung thực và sâu sắc
những vấn đề nóng bỏng của xã hội và đất nước; Phản biện đối với những
chính sách bất hợp lý của nhà nước liên quan đến quản lý xã hội và tự do
báo chí và Tổ chức trao đổi, đối thoại với các cấp chính quyền về tự
do báo chí và quản lý xã hội khi có điều kiện, đồng thuận với những
chính sách, giải pháp hợp lòng dân và có lợi cho đất nước’.
Tổ chức này cũng cam kết ‘Lên tiếng và có hành động cần thiết
để bảo vệ những người làm báo vì tiến bộ xã hội, nhưng bị sách nhiễu,
bắt bớ, tù đày, khủng bố… Đấu tranh yêu cầu Nhà nước Việt Nam hủy bỏ
những điều luật mơ hồ của Bộ Luật Hình sự được dùng để áp chế tự do báo
chí như Điều 258, 88…"
Nguồn ảnh:anhbasam.wordpress
Theo dư luận chung thì sự có mặt của Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam là một đáp ứng can đảm và cần thiết trước thời cuộc hay tình thế. Với riêng tôi, đây còn là một đáp ứng tình cảm đã (bị) mất mát từ lâu. Mối hảo cảm mà một người dân miền Nam như tôi vẫn dành cho giới người cầm viết cho đến ... tháng 4 năm 1975!
Tôi không dám kỳ vọng gì nhiều vào những hoạt động của
hội, trong tương lai gần, vì biết rằng phần lớn hội viên đang
phải sống trong vòng vây của một bầy lang sói. Nhưng chỉ cần
đọc Tuyên Bố Đầu Tiên Của Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam Về Việc 6 Ngư Dân Việt Nam Bi Trung Quốc Giam Cầm
cũng đủ khiến cho một độc giả bình thường như tôi cảm thấy vô
cùng an ủi và ấm lòng khi nhận ra một điều vô cùng giản dị:
các anh các chị “đếch sợ chúng nó” nữa.
GS. NGUYỄN VĂN TUẤN * TIẾN SĨ VIỆT CỘNG
Đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam: Những chuyện không giống ai
Gs Nguyễn Văn Tuấn ( bản gốc)/ Tuấn's blog
Gs Nguyễn Văn Tuấn. ( Ảnh Dân trí)
Nếu đọc qui chế đào tạo tiến sĩ thì người đọc có thể thấy qui trình đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam cũng tương đối chuẩn mực. Nhưng trong thực tế, đây đó xảy ra những chuyện có thể nói là … không giống ai. Ở đây, tôi chỉ nêu vài vấn đề nổi cộm và hi vọng rằng sẽ được khắc phục trong tương lai gần. (Bài đã đăng trên báo Dân Trí.)
Môi trường và mô hình đào tạo. Thông thường đào tạo tiến sĩ ở nước ngoài (1) là theo mô hình tập trung. Theo mô hình này, nghiên cứu sinh (NCS) phải có mặt ở trường hay viện toàn thời gian. Có đại học yêu cầu NCS phải học một số khoá học trước khi làm nghiên cứu, nhưng ở các nước như Úc và Anh, NCS làm nghiên cứu toàn thời gian. Ở Viện chúng tôi, trong thời gian theo học / nghiên cứu, NCS phải dự các buổi giảng của các chuyên gia hàng tuần, họp lab hàng tuần để kiểm tra tiến độ nghiên cứu và trình bày kết quả trước đồng môn. Ngoài ra, NCS còn được khuyến khích tham gia vào các hoạt động khoa học khác và hoạt động xã hội. Tất cả đều được thiết kế để NCS hoà mình trong thế giới học thuật và khoa học, và mặt khác nâng cao khả năng nghiên cứu và luyện sự độc lập của nghiên cứu sinh. Đó là mô hình chuẩn mà tôi thấy rất nhiều đại học
Thế nhưng mô hình đào tạo ở VN thì không phải toàn thời gian và NCS cũng không được sống trong môi trường khoa học. Ví dụ như hầu như tất cả nghiên cứu sinh ngành y đều không đến trường để nghiên cứu, mà họ vẫn làm việc bình thường ở bệnh viện hay cơ quan gốc. Họ có thể theo học bán thời gian một vài khóa học về phương pháp nghiên cứu hay về chuyên môn, và về bệnh viện … làm tiếp. Lâu lâu mới tiếp xúc người hướng dẫn một lần. Với mô hình đào tạo như thế NCS không có cơ hội tiếp xác và trao đổi với đồng môn, không trầm mình trong môi trường học thuật, và không có dịp trình bày báo cáo hàng tháng cho đồng môn. Có rất NCS than phiền rằng họ phải “tự bơi” vì không có sự tiếp sức và cố vấn của người hướng dẫn. Có thể nói rằng NCS tiến sĩ ở VN chỉ học bán thời gian và không phải là NCS thực thụ theo nghĩa “nghiên cứu”.
Thời gian đào tạo. Theo Qui chế đào tạo tiến sĩ của Bộ GDĐT thì thời gian đào tạo tiến sĩ là 3 năm tập trung đối với người có bằng thạc sĩ, và 4 năm đối với người có bằng cử nhân. Thế nhưng, có đại học qui định rằng thời gian đào tạo tiến sĩ là 2 năm đối với người có bằng thạc sĩ!
Thật ra, thời gian đào tạo không nên tuỳ thuộc vào NCS có bằng thạc sĩ hay cử nhân, mà tuỳ thuộc vào sự hoàn tất nghiên cứu và luận án. Ở các đại học nước ngoài, thời gian đào tạo trung bình là 4 năm, nhưng thường lấn sang năm thứ 5. Có người tốn cả 6 năm mới xong chương trình học. Đối với nhiều trường, thời gian không phải là qui định chính, mà có công trình nghiên cứu được công bố quốc tế mới là qui định chính. Ở các nước Bắc Âu, luận án tiến sĩ là tập hợp 3-4 công trình đã công bố trên các tập san quốc tế. Do đó, NCS có thể tốn cả 7 hay 8 năm để “trả nợ” mới được bảo vệ luận án. Tôi không biết có đại học nào trên thế giới có thể đào tạo tiến sĩ trong vòng 2 năm.
Đề cập đến bài báo khoa học, Qui chế đào tạo tiến sĩ có ghi rõ rằng luận án tiến sĩ có “Nội dung chủ yếu và các kết quả nghiên cứu của luận án phải đã được báo cáo tại các hội nghị khoa học toàn quốc hàng năm của ngành khoa học, được công bố ít nhất trong hai bài báo trên tạp chí khoa học chuyên ngành có phản biện độc lập.” Theo tôi qui định này cũng hợp lí. Tuy nhiên, có nơi lại ra qui định rằng NCS không được công bố nội dung chính của luận án (tức các bài báo khoa học) trước khi bảo vệ luận án! Đây là một qui định có thể nói là “ngược đời”.
Gánh nặng đè lên vai nghiên cứu sinh. Ở nước ngoài, khi nhận hướng dẫn cho NCS, giáo sư hướng dẫn đã có chương trình nghiên cứu và ngân sách cho nghiên cứu. Do đó, NCS chỉ việc tham gia vào chương trình nghiên cứu, hoặc dùng ngân sách của giáo sư để thực hiện nghiên cứu mới, hoặc tốt hơn nữa, cùng giáo sư hướng dẫn xin thêm tài trợ từ các nguồn khác nhau.
Nhưng ở VN, phần lớn các giáo sư, tiến sĩ không có chương trình nghiên cứu. Có người thậm chí ít làm nghiên cứu, và càng ít hơn số người có khả năng công bố quốc tế. Thế nhưng theo Qui chế đào tạo của Bộ GDĐT những người này vẫn có quyền hướng dẫn NCS tiến sĩ! Điều này dẫn đến một hệ quả là khi NCS được nhận vào học, người hướng dẫn không có ngân sách cho NCS làm nghiên cứu, không có chương trình nghiên cứu để họ tham gia. Trong thực tế, có khi trường chỉ định người hướng dẫn không có chuyên môn liên quan, không có kiến thức liên quan làm hướng dẫn NCS (có lẽ vì muốn tạo điều kiện để đương sự xin đề bạt chức danh PGS), một chỉ định rất phi học thuật.
Hệ quả là rất nhiều NCS ở VN phải bỏ tiền túi ra làm nghiên cứu. Trong ngành y, NCS phải tự lo gần như từ A đến Z. Có NCS không bỏ tiền túi, và thay vào đó là để bệnh nhân trả tiền xét nghiệm. Bệnh nhân có khi bị đưa vào nghiên cứu mà không hề biết. Bởi vì gánh nặng tài chính đè lên cá nhân NCS, nên họ phải tìm những đề tài nghiên cứu đơn giản, có thể làm trong bệnh viện, làm nhanh, và … rẻ tiền. Nói chung là nghiên cứu kiểu “mì ăn liền”. Với những đề tài như thế thì phương pháp là một câu hỏi lớn, và rất khó có thể cho ra kết quả có chất lượng lượng tốt. Chẳng những chất lượng là một vấn đề, nhưng việc để bệnh nhân phải trả tiền và không cho bệnh nhân hay biết là một vi phạm y đức nghiêm trọng. Những công trình nghiên cứu như thế sẽ không thể nào được công bố trên các tạp san quốc tế.
Nghiên cứu phải có can thiệp. Trong ngành y, đây đó xuất hiện một qui định rằng nghiên cứu cấp tiến sĩ phải có can thiệp. Can thiệp ở đây có nghĩa là đối tượng nghiên cứu phải trải qua một thuật can thiệp, có thể là can thiệp về lối sống (luyện tập thể lực, thay đổi chế độ ăn uống), hay có thể là các thủ thuật mang tính xâm phạm cơ thể. Một nghiên cứu can thiệp có chất lượng rất công phu, cần nhiều người, tốn nhiều tiền, và tốn rất nhiều thì giờ mà NCS sẽ không thể nào hoàn tất trong thời gian học. Dù có thể hoàn tất trong thời gian học, có khi NCS và ngay cả người hướng dẫn chưa chắc đủ tư cách chuyên môn để can thiệp vào đối tượng nghiên cứu là con người.
Theo tôi đó là một qui định lạ lùng nhất trên thế giới. Tôi có thể khẳng định rằng nghiên cứu cấp tiến sĩ không cần phải là một nghiên cứu can thiệp. Tôi có thể nói câu đó lần thứ hai để nhấn mạnh. Trong thực tế, nghiên cứu cấp tiến sĩ có thể thực hiện những nghiên cứu không can thiệp. Vấn đề không phải là nghiên cứu có hay không có can thiệp, mà là giả thuyết khoa học và câu hỏi nghiên cứu có giá trị, có cái mới, và có khả thi hay không. Không ai đánh giá một nghiên cứu dựa trên có hay không có can thiệp. Người ta đánh giá một công trình dựa trên các tiêu chuẩn tính khả thi, cái mới, tính liên đới hay khả năng đóng góp cho khoa học, và đạt chuẩn mực đạo đức khoa học. Do đó, tôi đề nghị nên bỏ qui định về nghiên cứu can thiệp trong đào tạo tiến sĩ.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng đề án nghiên cứu cấp tiến sĩ không nhất thiết phải mang tính ứng dụng thực tiễn (như nhiều người ngộ nhận), mà phải thể hiện một đóng góp mới vào tri thức cho chuyên ngành. “Tri thức mới” ở đây bao gồm việc phát hiện mới, khám phá mới, hay cách diễn giải mới cho một vấn đề cũ, hay ứng dụng một phương pháp mới để giải quyết một vấn đề cũ, v.v… Những tri thức như thế có thể không có khả năng ứng dụng trong tương lai gần, nhưng có thể góp phần thúc đẩy chuyên ngành phát triển một mức cao hơn. Xin nhớ rằng khám phá insulin phải đợi đến gần 50 năm sau mới ứng dụng trong lâm sàng.
Thủ tục “bao thư” lạ lùng. Ở nước ngoài có vài hình thức “bảo vệ” luận án. Ở các nước như Úc và Anh, luận án được gửi đi cho 2-3 giáo sư bình duyệt, và hội đồng học thuật của trường dựa vào bình duyệt của các giáo sư để quyết định trao bằng. Thông thường, vì luận án dựa trên các công trình đã công bố nên việc duyệt luận án khá dễ dàng. Có nơi, như bên Âu châu, trường đại học tổ chức một buổi lễ để NCS trình bày kết quả nghiên cứu và có dịp trả lời các câu hỏi của các giáo sư bình duyệt. Trong thực tế thì luận án đã được duyệt xong, buổi lễ “bảo vệ” chỉ là buổi trình làng và vui vẻ.
Nhưng ở VN, buổi bảo vệ luận án được tổ chức khá màu mè, rìng rang, và có phần nghiêm trọng. Điều đáng nói là tất cả đều do NCS chi trả! NCS phải chi trả tiền đi lại (kể cả vé máy bay), ăn ở, thậm chí quà cáp cho các chuyên gia phản biện. Khi phản biện xong, NCS còn phải “đi phong bì” cho từng giáo sư phản biện. Đó là một hình thức “bảo vệ” luận án không giống ai trên thế giới (có thể giống China?) Ở nước ngoài, các giáo sư duyệt luận án được trường đại học trả thù lao 100 USD (có nơi hơn chút). Việc NCS trả tiền hay đi phong bì cho các chuyên gia phản biện có thể xem là một hình thức hối lộ.
Kí kết lạ lùng. Có những trường hợp NCS được học bổng của nước ngoài, nhưng khi làm hồ sơ đi học thì NCS bị phía VN làm khó. Chẳng hạn như để làm hồ sơ đi học, trường bắt phải viết một bản cam kết bồi thường. Bồi thường gì trong khi học bổng nước ngoài cho? Người ta cho rằng NCS phải kê khai toàn bộ học bổng ở nước ngoài, rồi người thân ở VN phải kí cam kết nếu không về nước thì sẽ bồi thường toàn bộ số tiền này! Đó là một qui định có thể nói là rất lạ lùng và phi logic.
Trên đây là một vài điều lạ lùng trong chương trình đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam. Có lẽ một số người đọc qua sẽ ngạc nhiên vì sự phi lí của vài qui định, nhưng sự phi lí đó nó lại tồn tại trong thực tế và gây khó khăn cho nhiều người. Tôi nghĩ các giới chức cần phải xem xét các qui định trên và tham khảo cách làm của các đại học nước ngoài. Rất có thể làm đúng qui trình, số NCS sẽ ít đi, số người có tư cách hướng dẫn NCS tiến sĩ sẽ giảm, nhưng thà ít nhưng có chất lượng tốt hơn là đạt số lượng mà chất lượng thì quá kém.
Theo Tuấn'sblog
.....................
Chú thích:
(1) Khi nói “nước ngoài” tôi muốn nói đến các nước phương Tây như Mĩ, Anh, Canada, Úc, hay theo hệ thống giáo dục phương Tây như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kong, Singapore, Thái Lan.
ĐẠI NGHĨA* TỪ BỎ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN
Đã đến lúc phải từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin (Phần 1)
Đại Nghĩa (Danlambao) - Chủ thuyết Mác-Lênin do hai ông Karl Marx và Friedrich Angels chủ xướng được ông Vladimir Lenin
vận dụng vào cuộc cách mạng giải phóng giai cấp công nhân, thợ thuyền
bị bốc lột và dân tộc ở các nước nhược tiểu bị áp bức. Chủ thuyết này
thoạt đầu được phát triển ở các nước Đông Âu, Á, Phi, Mỹ La Tinh… Tuy
nhiên chẳng được bao lâu thì nó bị phá sản, nó bị phá sản vì nó chỉ là
một chủ thuyết mơ hồ, ảo tưởng, không đưa được những dân tộc đã tốn
nhiều xương máu để đấu tranh có được đời sống ấm no, không đến được cái
thiên đàng mà họ thường nghe nói. Trái lại chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ đem
đến cho họ một cuộc chiến triền miên, một đời sống cơ cực, nghèo nàn và
lạc hậu, không biết đến bao giờ mới có tự do-hạnh phúc.
Qua quá trình dân tộc Việt Nam đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin trên 80 năm
những nhà trí thức từng tham gia “cách mạng” đã thấy rõ được sự thất bại
của chủ nghĩa này và cùng đưa những nhận định như sau:
Tiến sĩ Hà Sĩ Phu phân tích:
“Tôi muốn xã hội thanh toán được điều ngộ nhận rằng chủ nghĩa
Mác-Lênin là một học thuyết khoa học nhưng bị người ta thực hiện sai.
Thực chất của chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ là một khát vọng đẹp đẽ nhưng ảo
tưởng, phi khoa học, chống lại quy luật tự nhiên… Sức lôi cuốn nhất thời
của nó đã đem lại những sức mạnh tạm thời nhưng sau đó để lại những di
họa nặng nề…” (BBC online ngày 22-8-2007)
Đại tá CAND Lê Hồng Hà, nguyên Chánh Văn phòng Bộ Công an cộng sản Việt
Nam đã nhận định về cái chủ nghĩa mà ông đã bao nhiêu năm phục vụ và
nghiền ngẫm để thấy rằng:
“…đã có đầy đủ sự kinh nghiệm của thực tiễn, có thể thấy các nguyên
lý chủ yếu của chủ nghĩa Mác về mô hình CNXH là sai lầm, là phản phát
triển, nền kinh tế phi hàng hóa.
Đối với dân tộc Việt Nam, học thuyết Mác là học thuyết ngoại nhập…
không lý giải được xã hội Việt Nam với những điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng hoàn toàn khác với Tây Âu, rất dễ dẫn
cách mạng Việt Nam đi chệch đường và do đó gây nên tổn thất, gây đổ vỡ,
gây kềm hãm sự phát triển”. (Nguoi Viet ngày 28-2-2001)
Và Giáo sư Hoàng Minh Chính, nguyên Việt Trưởng Viện Triết học Mác-Lênin, người có tư tưởng “xét lại chống đảng”
từ những năm đầu của thập kỷ 60, người đã phục hoạt đảng Dân chủ sau
khi bị cộng sản giải tán năm 1988 cũng đã thẳng thắn trả lời của phóng
viên đài RFA như sau:
“Cái đảng này nó đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin, mà bản thân chủ nghĩa
Mác-Lênin đã sai từ gốc rễ và cái đảng này hiện nay nó đang xây dựng một
cơ chế độc tài, độc quyền toàn trị thì làm sao cải tổ được, tự đổi mới
được…
Liên Xô đàn áp nhân dân như thế, Liên Xô đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin
xây dựng một chính đảng toàn trị, thì chính nhân dân đã nổi dậy lật đổ
cái chính đảng đó”. (VietTide số 55 ngày 2-8-2002)
Thế rồi ngày tàn của chế độ cộng sản đã đến. Đất nước Nga là cái nôi của
phong trào cộng sản thì cũng chính nước Nga là nơi kết liễu phong trào
này. Thời thế đến vận may, ba vị TBT đảng CSLX tiền nhiệm của người hùng
Gorbachev mệnh yểu nên nhân dân thế giới sớm thoát khỏi bàn tay
sát nhân tàn bạo của cộng sản, Chiến Tranh Lạnh coi như chấm dứt và nhân
loại tránh được cảnh chết chóc tang thương.
“Vào năm 1986, TBT Gorbachev cho thi hành hai chiến lược Glasnost (trong sáng trong thông tin) và Pérestroika
tại Liên bang Xô viết. Chiến lược thứ hai nhằm vào cải tổ (hay tái phối
trí) Liên bang Xô viết: ‘Thay đổi dân chủ, mở cửa xứ sở, cải tổ chính
trị Liên bang Xô viết cũng như kinh tế, trả lại tự do đi lại cho người
dân, tiến dẫn tự do ngôn luận và tôn giáo”. (ĐanChimViet online ngày 15-11-2009)
Những người cộng sản Âu châu đã nhanh chóng đi theo con đường đổi mới
của Nga là sớm thức tỉnh và từ bỏ con đường theo chủ nghĩa Mác-Lênin đã
làm băng hoại đất nước họ trong một thời gian dài.
“…hồi tháng 1 năm 2006, Hội đồng châu Âu công bố nghị quyết lên án
chủ nghĩa cộng sản. Nghị quyết này xác định chủ nghĩa cộng sản đã phạm
nhiều tội ác khủng khiếp chống loài người. Đồng thời cần tổ chức xét xử
những tội ác đó.
Đáng chú ý là ngoài cộng đồng châu Âu, càng ngày càng nhiều quốc gia, tổ chức lên án chủ nghĩa cộng sản”. (RFA online ngày 14-5-2010)
Những người cộng sản Đông Âu sớm thức tỉnh và sớm tham gia phong trào
“đổi mới” nên dân tộc nước họ được sớm hưởng được không khí tự do-dân
chủ và phát triển phồn vinh. Ông Imre Pozsgay, một nhân vật có
đầu óc chủ trương đổi mới hàng đầu trong đảng Cộng sản Hungary trả lời
Brian Hanrahan, phái viên ngoại giao BBC:
“Ông nói rằng hồi năm 1989, ông ít chú tâm đổi mới đảng Cộng sản hơn là giải tán nó đi.
Ông nói: ‘Từ lâu, tôi tin vào chủ thuyết Cộng sản. Nhưng từ đầu thập
niên 1980, tôi nhận thức là không thể nào đổi mới được đảng Cộng sản, và
điều duy nhất phải làm là thay đổi thể chế đó...
Tôi không muốn trở về thời kỳ trước đây vì bất cứ lý do nào cả bởi vì
xã hội trước đây là một xã hội bị ung thối và phải tan rã, thế thôi”. (BBC online ngày 26-10-2009)
Nhờ luồng gió mới của dân tộc Nga đưa nhân loại thoát được sự diệt chủng
của chủ nghĩa cộng sản sản trên thế giới. Tội ác đối với nhân loại còn
là một nỗi kinh hoàng trong quá khứ nhưng hậu quả nó vẫn còn khắc sâu
trong tâm trí của nhân loại ngày hôm nay.
Sau 20 năm chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ bà Svetlana Alexietch viết bài “Những kẻ bị mê hoặc vào cỏi chết” làn sóng người tự tử ở Nga trong năm 1991 là 80.000 tự kết liễu đời mình ngay cả:
“Ivan Ivachovest, một sinh viên 33 tuổi vừa hoàn thành luận án tiến
sĩ về chủ nghĩa ‘Marx và tôn giáo’ tuyệt vọng vì cảm thấy bị đánh lừa…
Phát hiện ra họ đã bị một huyền thoại đánh lừa, huyền thoại mà họ đã
góp công sức dựng lên bằng đức độ hy sinh và mù quáng, nhiều người Nga
không thể chịu đựng nổi cú sốc này.” (RFI online ngày 27-2-2009)
Chủ trương của Marx là chủ trương lấy sự mâu thuẩn của giai cấp để sách
động đấu tranh diệt chủng gây sự chết chóc kinh hoàng trong nhân loại. Karl Marx, theo sử gia Pierre Rigolout làm việc tại Viện Xã hội Lịch sử Paris thì:
“Ông Pierre Rigolout trích một trong những ý kiến của Marx, viết trên
People’s Paper ngày 16 tháng 4 năm 1853 để chứng minh, Marx chủ trương
cần diệt chủng. Marx khẳng định : Các chủng tộc và các giai cấp quá yếu
để thích ứng với điều kiện sống mới, nên họ phải nhường bước. Họ phải
‘bị tiêu diệt trong cuộc thảm sát của cách mạng”. (RFA online ngày 14-5-2010)
Chủ trương của Marx được Lenin vận dụng một cách sắt máu, và ông ta là người như thế nào? Helen Rappaport,
một nhà sử học Nga là một tác giả có tiếng nói rằng sách vở và nhật ký
về Lenin được phát hiện Lenin đã bị bệnh giang mai và ông ta chết vì
bệnh này. Như thế cho chúng ta thấy được đạo đức của một “nhà cách mạng
vĩ đại” của cộng sản ra sao.
“Vladimir Lenin, nhà cách mạng người Nga và là kiến trúc sư của Liên
bang Xô viết, đã chết vì bệnh giang mai do một gái mãi dâm từ Paris chứ
không phải là do đột quị như mọi người hằng tin, một cuộc điều tra mới
đây cho biết...
Bà nói rằng Lenin đã có nhiều triệu chứng của bệnh giang mai và nhiều
người trong tầng lớp lãnh đạo Xô viết cũng tin rằng ông đã mắc bệnh
này. Tuy niên họ đã nghiêm cấm và dọa tử hình nếu công bố tin này vì ảnh
hưởng tai tiếng mà nó sẽ gây ra”. (ĐanChimViet online ngày 24-10-2009)
Lenin được xem như là một nhà chính trị độc tài, khát máu và do đó người
dân Nga và dân của các nước cộng sản cũ không còn muốn để hình tượng
của ông ta tiếp tục hiện diện trên đất nước họ như là chứng tích của một
giai đọan lịch sử đau thương và ô nhục. Tân Bộ trưởng Văn hóa Nga, ông
Vladimir Medinsky đề xuất đưa thi hài Lênin ra khỏi lăng để chôn cất và
biến lăng thành viện bảo tàng.
“Trong số những người được cho là có ý kiến ủng hộ việc an táng Lenin
có cựu Tổng thống Liên bang Xô viết và người trước đó là cự Tổng bí thư
cuối cùng của đảng cộng sản Liên xô, ông Mikhail Gorbachev.
Đức Thượng phụ Giáo hội Chính thống Nga Alexyi II cũng được cho là tán thành việc an táng…
Trong số các ý kiến tán thành việc chôn cất Lenin, một số lý do có
thể xuất phát từ việc cho rằng Lenin là một ‘lãnh tụ chính trị độc tài’
và thậm chí là một ‘bạo chúa đẫm máu…” (BBC online ngày 10-6-2012)
Tuần tự những bức tượng của Lenin trên những nước cộng sản cũ điển hình như ở Ukrain đã bị nhân dân đập bỏ.
“Họ đã lật đổ một bức tượng Lenin và dùng búa đập tan nó. Nhân chứng
nói một nhóm người biểu tình đã dùng dây và thanh sắt kéo đổ bức tượng
Lenin tại Đại lộ Shevchenko…
Những người khác đứng xem và hô to: ‘Vinh quang cho Ukraine’.
Dân biểu Quốc hội Ukraine, ông Andy Shevchenko, thuộc phe đối lập hô to: ‘Vĩnh biệt di sản cộng sản’.
Theo một biên tập viên BBC người Ukraine cho biết, đây không phải là
bức tượng Lenin đầu tiên bị đập tại Ukraine nhưng là bức tượng cuối
cùng, ‘to đẹp nhất’ ở thủ đô Kiev”. (BBC online ngày 8-12-2013)
Tại Hà Nội, Việt Nam, một âm mưu kéo đổ tượng Lenin không thành được ông
Nguyễn Doãn Kiên, nhóm Pháp Luân Công Việt Nam thực hiện kể:
“Khi chúng tôi trèo lên tận nơi để thực hiện thao tác quàng dây cáp
qua cổ bức tượng thì phát hiện ra nó đã được lắp ốc vít bên dưới.
Dây cáp của bọn tôi không đủ lực để kéo đổ bức tượng nên trong lúc
kéo thì xảy ra sự cố khiến dây bị đứt nên bức tượng vẫn chưa đổ”. (BBC online ngày 24-1-2014)
Liên Xô, ngoài Lenin còn tên đồ tể Joshep Stalin khi vừa bắt đầu cuộc thế chiến lần thứ hai là ông ta đã dìm dân Ba Lan vào biển máu, ông ta đã cấu kết với tên phát xít Hitler của Đức quốc xã chia đôi đất nước Ba Lan để thi nhau tàn sát dân tộc này..
“Ngày 17-9-1939, Hồng quân Liên Xô cũng tràn vào nước Ba Lan từ phía
Đông. Mười ngày sau, chính quyền Ba Lan sụp đổ và rút lực lượng còn lại
chạy theo hướng Đông Nam ra nước ngoài…
Sau đó Liên Xô bắt chừng 1 triệu rưỡi người Ba Lan đi đày ở vùng
Siberia và bắn chết 22.000 tù binh Ba Lan ở rừng Katyn, bất chấp công
ước quốc tế về chiến tranh. Khi vụ thảm sát bị phát hiện, Matxcơva đổ
tội cho quân Đức. Mãi đến thời Gorbachev nước Nga mới nhận lỗi về vụ
này”. (BBC online ngày 6-5-2005)
Theo phóng viên Trần Văn của đài RFA thì tội ác của Stalin:
“Giới sử gia ước đoán, suốt 21 năm lãnh đạo Liên Xô, Stalin đã giết từ 20-40 triệu người….
Các sử gia Liên Xô, ở châu Âu xác định Stalin là thủ phạm chính của
nạn đói kéo dài từ 1932-1933 khiến 7 triệu người Ukraina thiệt mạng”. (RFA online ngày 14-5-2010)
Trung Quốc thì có Mao Trạch Đông người đem lại tai họa
khủng khiếp cho dân tộc của ông ta không kém gì Stalin. Ông Lý Nhuệ,
người thư ký riêng của Mao trả lời phỏng vấn của một nhóm phóng viên tại
ngôi nhà ở Bắc kinh nhân kỷ niệm 30 năm ngày Mao Trạch Đông qua đời,
lúc ấy Lý Nhuệ đã 89 tuổi nói:
“Chế độ độc tài của Mao Trạch Đông còn kinh khủng hơn Stalin vì ông muốn kiểm soát nảo trạng của con người.
Mao Trạch Đông vượt hơn mọi hoàng đế vì ông khiến người dân tuân lời
cả trong suy nghĩ – không hoàng đế nào trên thế giới làm được vậy.
Theo Lý Nhuệ, Mao từng nói: ‘Ta là Tần Thủy Hoàng và Mác’…
Trong phong trào Đại Nhảy Vọt năm 1958 ước tính 30 triệu người chết đói”. (BBC online ngày 8-9-2006)
Việt Nam thì sao? Ba năm từ 1956-1958 người cộng sản Hồ Chí Minh
đã nghe lời của quan thầy Nga-Tàu hưởng ứng phong trào Cải Cách Ruộng
Đất đã giết gần nửa triệu nông dân ưu tú. Trong phong trào Xét lại chống
đảng ông ta cũng đã thẳng tay khai trừ, thủ tiêu những đồng chí đã từng
nằm gai nếm mật trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp cũng như trong
chiến dịch đàn áp Nhân Văn Giai Phẫm đã loại một số nhân tài tinh hoa
của đất nước và làm kiệt huệ nền văn hóa Việt Nam thời bấy giờ.
“Thống kê của Nhà nước đăng trong cuốn Lịch sử Kinh tế tập 2 cho biết
đã có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông, là những
người bị xếp thành kẻ thù của nhân dân, bị ‘đào tận gốc, trốc tận rễ’,
nghĩa là không bị bắn tại chỗ cũng bị án tù rồi chết trong nhà giam…
Bản thống kê chính thức cho biết là trong 172.008 người bị quy là địa
chủ và phú nông trong CCRĐ thì 123.266 người bị quy là sai, tức bị oan.
Tính theo tỷ lệ là 76,66%. Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu tỷ lệ giữa số bị
oan và nạn nhân lại cao đến như thế”. (RFA online ngày 15-5-2006)
Campuchia, chủ nghĩa Mác - Lênin đã gieo rắc tai họa cho một dân
tộc bé nhỏ chỉ có 7,1 triệu người mà lại tàn sát 1,7 triệu người dân vô
tội dưới bàn tay hiếu sát của tên đồ tể Polpot, lãnh đạo của bọn cộng sản đỏ Campuchia trong bốn năm chiếm được chính quyền.
“Chế độ Khmer Đỏ nay được biết đến đã giết chết khoảng 1,7 triệu
người (từ một dân số 7,1 triệu) bằng các biện pháp tử hình bằng các dụng
cụ thô sơ như cuốc, mai, xẻng, bỏ đói và lao động cưỡng bức. Nó được
nhiều học giả xem là một trong những chế độ hung bạo nhất trong thế kỷ
20 – thường được so sánh với các chế độ của Adolf Hitler và chế độ của
Stalin”. (Wikipedia online ngày 5-9-2008)
Thế giới, từ khi chủ nghĩa cộng sản có mặt trên quả địa cầu này đến khi nó bị loài người tiến bộ loại bỏ thì nó đã sát hại trên 100 triệu người và cái di họa ấy ngày nay vẫn còn đeo đẳng mãi.
“Tổng thống Bush đã tham gia lễ khánh thành một Đài kỷ niệm
nạn nhân cộng sản khắp thế giới. Trong buổi lễ ngày hôm nay được tổ chức
tại Thủ đô Washingtion, Tổng thống Bush nói rằng, thế giới sẽ không bao
giờ biết hết được tên của tất cả những nạn nhân đã chết trong tay người
cộng sản. Nhưng Tổng thống nói rằng, mọi người có bổn phận tưởng nhớ họ
và vinh danh kỷ niệm của hơn 100 triệu người gồm cả đàn ông, đàn bà và trẻ em đã chết dưới chế độ cộng sản trên khắp thế giới”. (VOA online ngày 12-6-2007)
Kể từ khi ông Hồ Chí Minh mang cái chủ nghĩa Mác - Lênin nầy vào thực
hiện ở Việt Nam cho đến nay đã gây tác hại cho dân tộc khôn lường. Tác
hại về cả mọi mặt làm cho dân tộc phải triền miên trong cuộc bắn giết,
nồi da xáo thịt, chậm tiến, nghèo nàn lạc hậu rồi còn mang vào tư tưởng
cầu cạnh vọng ngoại nô lệ Nga Tàu mà hậu quả cho đến ngày hôm nay mang
nặng. Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, một nhà trí thức cách mạng đã nhận
thấy được hậu quả thê thãm nên trong lần hội luận giữa trong và ngoài
nước do RFA tổ chức, ông nói rõ nhận định của mình:
“Ba mươi năm qua, chủ nghĩa Mác-Lênin tàn phá đất nước này về mặt kinh tế, và tàn phá về mặt văn hóa và tư tưởng…
Phải bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin và phải rút ra được những nhận định một
cách khách quan, thẳng thắn về sự tàn hại của cái ứng dụng sai lầm chủ
nghĩa Mác-Lênin, cái CNXH xơ cứng cũ và xã hội Việt Nam. Và xây dựng một
nền kinh tế thực thụ, không có cái đuôi định hướng XHCN vào đấy nữa”. (Nguoi Viet ngày 11-7-2005)
Dân tộc Việt Nam sau bao nhiêu năm đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin gây nên
biết bao cuộc đấu tranh bắn giết nhau một cách sai lầm, tinh thần dân
tộc bị hủy hoại và sự đoàn kết dân tộc cho đến nay vẫn còn là ảo vọng.
Những người trước đây đã hiến thân theo con “đường cách mạng” đã cảm
thấy mình bị lầm lẫn vì đã đi theo chủ nghĩa đấu tranh sắt máu, tham dự
vào cuộc chiến huynh đệ tương tàn một cách vô nghĩa.
Nhà văn Đại tá QĐND Phạm Đình Trọng, người cộng sản đã trả thẻ đảng chua chát.
“Hóa ra không phải chúng tôi đi giải phóng miền Nam mà chúng tôi đi
vào cuộc nội chiến Nam-Bắc tương tàn, chúng tôi chỉ là công cụ mang học
thuyết Mác-Lênin, học thuyết đấu tranh giai cấp sắt máu áp dụng cho miền
Nam, để cả nước bị nô dịch bởi học thuyết Mác-Lênin, để học thuyết đấu
tranh sắt máu thống trị cả dân tộc Việt Nam, đánh phá tan tác khối đoàn
kết dân tộc Việt Nam, đánh phá tan nát đạo lý và văn hóa Việt Nam”. (DanLamBao online ngày 25-9-2012)
Trong lần trả lời phỏng vấn của phóng viên Mặc Lâm đài RFA, Tiến sĩ Đỗ
Xuân Thọ, một người cộng sản trong một gia đình cộng sản truyền thống
cũng đã quyết liệt đấu tranh với cái sai lầm của chủ nghĩa Mác- Lênin để
quay về với chủ nghĩa dân tộc, ông nói như sau:
“Quan điểm của tôi, nếu mà đảng không lấy chủ nghĩa Dân tộc làm nền
tảng tư tưởng thì cái chủ nghĩa Mác Lênin sẽ băm nát đảng lại, với những
mũi nhọn tấn công từ phía ngoài, nó chỉ cần đánh vào cộng sản và đánh
vào tham nhũng là chết rồi, là tan đảng rồi…
Tôi có thể khẳng định là ngay trong Bộ Chính Trị đã có sự phân rã nếu
như chúng ta còn giữ chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tư tưởng. Chủ nghĩa
Mác-Lênin này nó làm cho chúng ta nhầm lẫn giữa ý thức hệ và dân tộc, ý
thức dân tộc và ý thức hệ tư tưởng”. (RFA online ngày 2-4-2010)
DAVID THIÊN NGỌC * VIỆT CỘNG ĐẠI PHẢN ĐỘNG
Ai là kẻ "phản động? Câu hỏi dành cho ông Nguyễn Tấn Dũng
David Thiên Ngọc (Danlambao) - Chủ
nghĩa CS là một chủ nghĩa không chỉ "phản động" mà là "đại phản động".
Mới đọc những lời đầu của bài viết chắc hẳn có một số không ít bạn đọc
cho rằng tác giả quá cực đoan! Thế nhưng nhìn lại hiện tình đất nước,
nhân dân VN một cách rộng rãi và đa chiều thì chúng ta sẽ thấy vấn đề
được khách quan hơn. Trước hết tôi xin nói về phạm trù "phản động".
Phản: Ngược lại, làm ngược lại.
Động: Sự di chuyển, ở đây chỉ sự tiến lên theo chiều tích
cực. Theo sự tiến hóa với nỗ lực của con người để xã hội tiến lên văn
minh, tiến bộ.
Vậy phản động là đi ngược lại, là trái lại và cản trở bước
tiến bộ để hoàn thiện hơn, tốt đẹp hơn, ngược lại sự tiến hóa của con
người, của xã hội. Như vậy những ai, tổ chức nào làm cản trở bước đi lên
của sự phát triển của mọi vấn đề từ con người đến xã hội là những kẻ
"phản động", những tổ chức phản động. Nếu sự phản động kéo dài và gây
tác hại lớn, để lại hệ luỵ không lường cho con người, cho xã hội thì
những kẻ đó, tổ chức đó là "Đại phản động".
Ta hãy đứng độc lập ra bên ngoài xã hội VN kể từ sau mùa xuân 1975 và
tách khỏi khuynh hướng chính trị để có một cái nhìn khách quan và công
bằng.
Trong những năm của thập niên 60s và đầu thập niên 70s của thế kỷ trước,
nước VNCH có một vị trí khá cao ở Đông Nam Á và kể cả Đông Bắc Á về
lĩnh vực kinh tế, khoa học, văn hóa xã hội và kể cả chính trị. Những
nước như Hàn Quốc, Singapore, Malaysia, Philippines, Indonesia,
ThaiLan... đều đứng sau VNCH trong những lĩnh vực kể trên và VNCH xứng
đáng với danh Hòn Ngọc Viễn Đông. Thế mà chỉ sau mùa xuân 1975 khi cộng
sản nhuộm đỏ miền Nam Việt Nam đem chủ nghĩa cộng sản "thần thánh" gieo
rắc khắp hang cùng ngõ cụt, từ rừng núi đến thôn quê, đến tận trong xó
bếp của mọi gia đình, đến các chuồng trâu, chuồng lợn, chuồng gà... ra
đến ao bèo ngoài đầu ngõ... đâu đâu cũng có sự lăm le của chiếc búa,
lưỡi liềm.
Theo báo cáo phát triển Việt Nam năm 2009 của WB thì VN đã tụt hậu so
với Indonesia 51 năm, với Thailand 95 năm, với Singapore 158 năm và 200
năm so với Hàn Quốc.
Đó là sự đánh giá có tài liệu, hồ sơ, có căn cứ cơ sở khoa học của ngân
hàng thế giới một tổ chức phi chính trị và luôn có cái nhìn, đánh giá
chính xác và khách quan. Tôi xin kiểm chứng như sau.
Những người dân miền Nam VN từ khi có đảng chạy khắp đồng ruộng, phố
phường không ai mà không thấy được 2 bức tranh xã hội mang 2 gam màu
tương phản trước và sau 30/4/1975.
Trước hết là mặt kinh tế xã hội đời sống vật chất của nhân dân. Kể từ
khi nhân dân miền Nam trở thành "con người mới"- từ của đảng CSVN dùng
để chỉ cho nhân dân miền Nam sau 30/4 - cái họa trở thành tội phạm và
chữ tù luôn treo lơ lửng trên đầu và tròng vào cổ bất cứ lúc nào không
biết từ các nguyên nhân sau: Nơi đây tôi chỉ nhắc lại một số điểm căn
bản mà cả nhân dân MNVN ai cũng rõ.
Ở MNVN trước 30/4/75 các phương tiện giao thông cá nhân bằng xe gắn máy,
xe hơi là bình thường, ai cũng có thể có được. Và tất nhiên là xăng dầu
đáp ứng cho phương tiện vận hành là tự do. Thế nhưng sau những năm đầu
sau 30/4/75 xăng dầu là hàng quốc cấm, là vật tư quốc phòng. Nếu tàng
trữ từ 3-5 lít xăng mà không có phiếu và sổ xăng (chỉ có cán bộ cs trung
cấp trở lên mới có) bị xem như tàng trữ hàng quốc cấm, vi phạm an ninh
quốc phòng. Như vậy nếu bị phát giác, tố cáo thì đi tù là cầm chắc mà
chẳng có một bản án nào được xét xử công minh.
Gạo là lương thực chiến lược có tính cách an ninh quốc gia. Lúc đó sổ
hoặc tem phiếu gạo được cấp cho người dân từ 15kg-21kg/tháng tùy theo
đối tượng lao động, trong đó 50% là gạo mục và 50% là mì (sắn) khô để ăn
độn. Do đó ai mà tàng trữ 10 kg gạo trắng trở lên xem như phạm tội xâm
hại đến an ninh quốc gia nếu bị phát giác như xăng dầu thì chữ tù là cầm
chắc. Mà khổ nỗi là lúc đó các cán bộ cs bày vẽ cho các em cháu trong
đội thiếu niên tiền phong đi lục lạo các nhà để phát hiện các thứ trên
và tố cáo.
Lúc đó "luật" rất nghiêm minh, tên “hoạn lợn, thiến heo” Đỗ Mười (sau
này là một trong 3 tên tội đồ ký mật ước Thành Đô tháng 9/1990 bán nước
VN cho Tàu) đi công cán ở miền Tây Nam Bộ về lại Sài Gòn, "nhân dân ái
mộ, ghi ơn" ông trong công cuộc cải tạo công thương nghiệp đẩy hàng
triệu người dân xuống biển lên rừng... nên có quà tặng cho ông 10kg gạo
trắng ngon, nhưng khi xe ông lên đến trạm kiểm soát liên hợp Tân Hương
Long An bị nhân viên quản lý thị trường tịch thu. Lúc đó "cần vụ" của
ông nói là của đ/c Đỗ Mười!- “Đ…mẹ của thằng Đỗ Mười Một tao cũng bắt
tịch thu luôn chứ đừng nói Đ.M”. Đó! các bạn thấy không? "công pháp bất
vị thân" mà, rất nghiêm minh, một nhân viên quèn ở trạm kiểm soát mà còn
dám xử lý không nương tay, sòng phẳng với "Một đ/c ủy viên Bộ Chính
Trị" và xem ngang bằng với một con dân buôn bán nhỏ lẻ qua đường kiếm
cơm độ nhật! khi vi phạm thì dân đen và một đ/c ủy viên Bộ Chính Trị đều
bị xử lý như nhau. Chứ đâu như hậu duệ của cs ngày nay, tội trạng như
đ/c X bán cả giang san, thâu tóm cả tài nguyên vật lực của Quốc Gia Dân
Tộc về cho riêng mình và dòng họ con cháu mà cả bầy đệ tử của "Mao Hồ"
cũng cắn móng tay đứng nhìn mà còn thở ra buông câu "vì hoàn cảnh"... và
đ/c X ngạo nghễ ném về phía đám bất tài một nụ cười thách thức bí hiểm
của Mona Lisa. Những con người luôn ra rả vì nước, vì dân... thế mà giặc
nội thù đạp bằng cả giang sơn dân tộc mà bất lực nhu nhược buông lời vô
cảm, buông xuôi để mặc cho giặc thù tiếp tục xà xẻo Quốc Gia. Nói như
dân dã là "Bù trớt".
Phương tiện đi lại đường xa của nhân dân thời tư bản giãy chết thì bạt
ngàn... từ Sài Gòn ra đến Đà Nẵng, Huế ngoài phương tiện máy bay còn xe
khách các hãng như Phi Long-Tiến Lực, Phi Mã... người dân thoải mái lên
xe nghe nhạc, ngủ... là đến nơi, chỉ trừ khi nào có vịt cộng ra đắp mô,
phá cầu phá đường là bị trở ngại mà cũng chỉ trong thời gian ngắn là tái
lập giao thông ngay. Thế mà sau khi đảng về, xăng dầu là vật tư quốc
phòng, là hàng quốc cấm do đó xe cộ phải chuyển qua xài "than". Đi một
đoạn đường ngắn từ Sài Gòn ra Biên Hòa, Long Khánh là hành khách ngửi
khói than mịt mù và hơi nóng hừng hực như lò bát quái, mồ hôi lẫn khói
đen, mặt mày nhễ nhại, nước mắt chảy ròng vì cay như đang diễn tuồng
"trướng hạ biệt Ngu Cơ". Lơ (phụ) xe thì tay cầm khúc gỗ lớn gõ liên tục
vào thùng than phía sau xe tung bụi, than hồng vung vãi khắp mặt đường
như hỏa diệm sơn, như mưa sa gió cát... Mặt mũi thì đủ vầng đen, xám như
thể "anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than", như công nhân ở mỏ Hòn Gai,
Cẩm Phả.
Cuộc sống thần tiên của những "con người mới" không giấy bút nào kể ra
cho xiết. Nơi đây tôi chỉ đơn cử một số hình ảnh để chứng minh rằng sự
đánh giá về phát triển của VN do Ngân hàng Thế giới báo cáo là không
sai.
Các điểm nêu trên mới chỉ là bức tranh kinh tế xã hội VN trong bối cảnh
những năm tháng đầu đảng cs Bắc Việt cưỡng chiếm MNVN. Bây giờ ta thử
bước vào lĩnh vực văn hóa, chính trị.
Văn hóa là một biển trời mênh mông... từ mọi nét sinh hoạt trong cuộc
sống, trong xã hội, học đường đến gia đình đâu đâu cũng toát lên một gam
màu ảm đạm đen tối...
Đạo đức suy đồi, băng hoại một cách trầm trọng mà bao phen những nhà làm
văn hóa, giáo dục có tâm huyết với dân tộc đã gióng lên những hồi
chuông báo động, thậm chí có những tiếng gào thét kêu cứu trước sự diệt
vong của một nền văn hóa, đạo đức mà ông cha đã vun xới tô bồi qua bao
thế hệ để thay thế bằng một nền đạo đức gọi là đạo đức cách mạng rồi
biến thái thành đạo đức HCM. Một nền văn hóa phi nhân bản gọi là văn hóa
xhcn phá bỏ mọi giềng mối, kỷ cương, đức tin tôn giáo mà hàng ngàn năm
trên khắp hành tinh được loài người tôn vinh, làm con đường sáng để tiến
về phía trước, làm thước đo cho mọi giá trị tinh thần và là những giáo
trình, giáo án để truyền dạy cho con cháu đời sau.
Cái hiểm họa diệt vong cho dân tộc chính là sự băng hoại về đạo đức, suy
đồi về văn hóa. Sự tha hóa của một xã hội mục ruỗng về mọi mặt như xã
hội VN hiện nay, nếu muốn cứu nguy cho dân tộc thì ta chỉ còn có một con
đường duy nhứt là đào thải cái văn hóa nô dịch là phương tiện truyền
tải cho chủ nghĩa cs với mộng xâm lăng, bá quyền Tàu cộng.
"Sai lầm về văn hóa có thể làm chết muôn đời..." Lão Tử đã nói hơn hai ngàn năm qua rồi đó sao?
Nói về chính trị thì rõ ràng đảng csvn đang áp đặt một nền chính trị độc
đảng, độc tài, độc đoán, độc tôn và cuối cùng là độc ác với nhân dân. Ở
đây ta không bàn thêm về học thuyết của chủ nghĩa cs mà chỉ nói lên một
khía cạnh là đảng csvn đã làm cản trở và triệt tiêu bước tiến của Quốc
Gia, của dân tộc. Trong đó đảng csvn đã phạm một trọng tội đối với tổ
tiên, dân tộc VN là triệt tiêu lòng yêu nước của nhân dân. Đảng csvn đã
tự vạch ra cho mình lằng ranh giới tuyến tách biệt với nhân dân và phân
định rạch ròi địch-ta (giữa đảng với dân) một cách công khai.
Không riêng gì nhân dân VN mà nhân dân trên toàn thế giới đều biết rõ và
rất rõ rằng Trung Quốc đang xâm chiếm cõi bờ, biển đảo và từng bước Hán
hóa dân tộc VN bằng mọi hình thức nào có thể.
Nhưng cũng có một điều dứt khoát rằng, cho dù trong mọi hoàn cảnh nào dù
là sức yếu thế cô dân tộc VN cũng không bao giờ chịu cúi đầu, bó tay
khuất phục trước quân thù. Điều này đã chứng minh qua mấy ngàn năm lịch
sử. Giặc Tàu đặt ách đô hộ lên dân tộc Việt cả ngàn năm nhưng nào có xóa
được biên cương? có đồng hóa được dân tộc? có xóa tan được nét văn hóa
dân tộc đặc thù và cuối cùng dân tộc Việt vẫn ngẩng cao đầu trước bốn bể
năm châu.
Ở đây tôi muốn nói lên một điều rằng đảng csvn cho dù đặt lên đầu, lên
cổ nhân dân VN bằng một thể chế chính trị man rợ, một chính sách tàn
độc, dã man và bằng mọi cách triệt tiêu lòng yêu nước của nhân dân cũng
không thể nào dập tắt được những ngọn lửa kiêu hùng, bất khuất của vạn
vạn lớp anh thư, tuấn kiệt mang trong người dòng máu liệt oanh của bà
Trưng, bà Triệu, của Hưng Đạo Vương, Quang Trung Nguyễn Huệ... hùng anh.
Tôi cũng xin nói lên một điều nữa rằng chỉ có quân xâm lăng cướp nước
mới ra tay triệt tiêu lòng yêu nước của công dân VN, mới hung hăng tàn
sát, tù đày đánh đập, khảo tra người yêu nước VN.
- Người yêu nước VN chống Trung Quốc xâm lăng là chống đảng? Vậy đảng csvn là của ai? và đang thực hiện mưu đồ mục đích gì?
- Nhân dân VN thể hiện lòng yêu nước mà đảng csvn cho là thế lực thù
địch? Vậy đảng csvn đã tự thú rằng chính họ là kẻ thù của dân tộc VN!
- Nữ sinh viên Nguyễn phương Uyên nói lên tiếng nói yêu nước VN, yêu dân
tộc VN, ghét kẻ xâm lăng nhiều mưu ma chước quỉ thâm độc hãm hại dân
tộc VN khi vừa tròn 20 tuổi. Cũng vì trái tim rạo rực, trăn trở với tình
yêu nước nồng nàn đó mà đảng cs VN đã cho tay sai bắt cóc rồi tống cô
vào ngục không khác gì phường thảo khấu lục lâm!
Với tâm hồn trong trắng, tinh khôi, với trái tim yêu nước nồng nàn, với
lời lẽ trong sáng và mạnh mẽ, với hành động cao đẹp chính danh, với tuổi
đời trẻ trung đầy sức sống, ngoan cường bất khuất... Phương Uyên nhất
định phải thắng và đã thắng. Thế hệ trẻ yêu nước như Phương Uyên, Minh
Hạnh, Nguyên Kha, Việt Khang, Thanh Nghiên, Hoàng Vi, Thục Vy, thị Nga
và hàng hàng anh thư tuấn kiệt khác sẽ cất cao đầu trên đỉnh vinh quang
của niềm tin và hy vọng. Tôi hoàn toàn tin là như thế.
Một Việt Khang. Người thanh niên dũng cảm không hề nao núng trước bạo
lực của kẻ hung tàn. Anh luôn cất cao giọng hát với cung đàn theo nhịp
hành khúc tương lai của đất nước. Những kẻ chống lại anh, che lấp bóng
hình anh, bịt tắt tiếng hát anh chính là những kẻ đã tự đưa đầu vào cho
bánh xe lịch sử lăn qua và làm cho cung bậc của nốt nhạc quê hương thêm
bay bổng.
Xuyên suốt các sự việc, qua hành động của đảng csvn và tinh thần người
yêu nước VN hẳn chúng ta và toàn thể nhân loại cũng đã rõ ai là kẻ "phản
động", "đại phản động"?. Cho dù dưới hình thức nào, phương tiện nào kẻ
tà quyền dùng làm vũ khí để chụp lên đầu những người yêu nước VN với
phạm trù "phản động" thì lẽ tất nhiên phạm trù đó nó sẽ tự quay về nơi
nào là vị trí đích thực của nó.
Những lời này tôi xin gởi đến cho tất cả những anh hùng liệt nữ của dân
tộc VN đang chịu sự sách nhiễu, đọa đày bởi gông cùm tàn độc của quân
khát máu hung tàn, đồng thời để trả lời cho ông Nguyễn tấn Dũng về bài
phát biểu của ông tại bộ côn an nhân ngày kỷ niệm 69 năm thành lập đội
ngũ "còn đảng còn tiền".
Ngày 17.8.2014
NGUYỄN HÙNG * VIỆT CỘNG BÁN NƯỚC
Biển Đông: Mỹ nòng lòng, đảng (ta) thư thả!
Nguyễn Hùng, Trần Hoài Nam (Danlambao) - Trong
những năm qua đảng và nhà nước cộng sản Tàu đã từng bước thực hiện ý đồ
độc chiếm Biển Đông. Trước tiên họ dùng những người làm công tác khoa
học kỹ thuật cài đặt bản đồ nước Tàu với đường lãnh hải 9 đoạn hình lưỡi
bò bao trùm toàn bộ Biển Đông lấn sát bờ biển của các nước trong vùng
trong những bài nghiên cứu gởi đăng trong những tạp chí khoa học quốc tế
để ngầm tạo chứng cứ “lịch sử” cho hành động chính thức chiếm đoạt toàn
bộ biển Đông trong tương lai. Việc làm bá đạo và gian manh của bọn bá
quyền Tàu cộng đã bị cộng đồng trí thức người Việt trong ngoài nước vạch
mặt tố giác trước công luận thế giới qua chiến dịch viết thư cảnh giác
với hơn 200 trí thức và khoa học gia cùng ký tên, gởi đến cho khoảng 200
tổ chức truyền thông và các tổ chức nghiên cứu khoa học kỹ thuật tại nhiều nước trên thế giới.
Hành động cướp đoạt toàn bộ biển Đông đã và đang được nhà nước cộng sản
Tàu gia tăng tốc độ và phương cách xâm chiếm từ “diễn biến hòa bình”
sang đối đầu quân sự biển người “biển tàu”, đặc biệt với sức mạnh hải
quân của họ. Sau thời gian chuẩn bị tư tưởng tạo tiền đề trong cộng đồng
khoa học kỹ thuật trên thế giới và chuẩn bị cơ sở vật chất nhất là khí
tài, bắt đầu từ năm 2012 cộng sản Tàu đã chính thức chuyển sang dùng bạo
lực để ngang ngược lấn chiếm biển Đông theo chiến thuật chia để diệt,
“bẻ từng cọng đủa”. Hai trong những quốc gia đang trực diện đối đầu với
hành động xâm lược của bọn bành trường Tàu cộng là Phi Luật Tân và Việt
Nam.
Với Phi Luật Tân, bọn Tàu cộng trước tiên vay đánh nước này.
Chúng bắt đầu tiến hành dùng bạo lực nhằm đánh chiếm một số quần đảo,
bãi san hô ngầm do Phi Luật Tân trú đóng, cụ thể là cuộc đối đầu tại bãi
cạn Scarborough/Hoàng Nham từ năm 2012 đến nay.
Với Việt Nam, bọn Tàu cộng đã từng dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ
quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hoà vào năm 1974 trong lúc miền Nam
Việt Nam đang chật vật đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược do cộng
sản miền Bắc Việt Nam thực hiện. Trong khi lực lượng Hải quân Việt Nam
Cộng Hòa đã anh dũng hy sinh mạng sống đánh trả bọn xâm lược Tàu cộng
thì nhà nước cộng sản Việt Nam, vừa là đồng chí và vừa là anh em của bọn
xâm lược Tàu cộng, không một lời lên tiếng phản đối mà trái lại còn
đồng tình với hành động xâm lược của bọn Tàu cộng. Năm 1988 bọn Tàu cộng
lại dùng bạo lực thảm sát rất vô nhân đạo 64 bộ đội công binh hải quân
của nước CHXHCN Việt Nam vừa là đồng chí vừa là anh em của Tàu tại bãi
đá ngầm Gạc Ma. Chỉ mới cách đây vài hôm một cựu quân nhân Mỹ đã viết
lại vụ thảm sát rùng rợn này mà ông tuyên bố: “Đây là một trong
những tội ác trắng trợn nhất thời hiện đại, trong khi đó nạn nhân (Việt
Nam) lại im lặng và bọn gây ra tội ác (Tàu cộng) lại công bố hành động
tàn bạo của chính họ”. Trong vài tháng vừa qua (từ tháng
05/2014) bọn Tàu cộng gia tăng cường độ xâm lược bằng vũ lực với hành
động ngang nhiên mang giàn khoan dầu nổi khổng lồ HD 981 phối hợp với
hàng trăm tàu thuyền võ trang phối phợp với hải lục không quân vào chiếm
đóng sâu hằng trăm cây số trong vùng lãnh hải của Việt Nam mà chúng lại
ngang ngược bảo rằng đó là lãnh hải nằm trong vùng ranh giới đường lưỡi
bò 9 khúc thuộc chủ quyền của chúng.
Trước hành động ngang ngược ỷ nước lớn dân đông hiếp đáp các nước nhỏ
thế cô sức yếu, chính phủ và dân chúng Phi Luật Tân đã can trường chống
trả, anh dũng đối đầu đuổi bọn Tàu cộng ra khỏi vùng lãnh hải của họ với
những gì họ đang có trong tay, cùng lúc liên kết với các nước khác,
trong số đó có sự ủng hộ nhanh chóng và nhiệt tình của Nhật và đặc biệt
là từ Mỹ, nước đồng minh từ sau Thế chiến thứ II. Chính phủ Phi Luật Tân
đã kịp thời ngăn chặn hành động gây hấn và ý đồ xâm lược của bọn bành
trướng Tàu cộng với việc tái xác nhận Hiệp ước năm 1951 giữa Mỹ và Phi
Luật Tân về phòng thủ chung nhằm bảo vệ Phi Luật Tân và tiếp đến là thoả
thuận tăng cường hợp tác quốc phòng trong 10 năm tới vừa được công bố
vào tháng 05/2014.
Trước tiên là vì quyền lợi về tự do di chuyển trên vùng biển Đông- con
đường kinh tế huyết mạch của Mỹ, Nhật và tất cả các nước trên thế giới,
sau cũng là tình đồng minh lâu đời giữa hai nước, Phi Luật Tân và Mỹ đã
cùng vai sát cánh và hơn bao giờ hết, đoàn kết chống lại và tiêu diệt ý
đồ gian manh xâm chiếm vùng biển phía Tây của Phi Luật Tân. Chính phủ
Phi Luật Tân đã sáng suốt nhìn thấy được ý đồ thâm độc của Tàu cộng nên
nhanh chóng hợp tác với Mỹ để nhờ sức mạnh quận sự của họ bảo vệ lãnh
thổ của đất nưóc mình chống lài bọn bá quyền xâm lược Tàu cộng. Chính
quyền Phi Luật Tân, thay mặt dân chúng họ, đã khôn ngoan dùng Mỹ làm lá
chắn bảo vệ lãnh thổ chống lại hành động hiếu chiến của bọn xâm lược Tàu
cộng.
Về phía Việt Nam, do mù quáng và bị bọn cộng sản Tàu mê hoặc theo chủ
nghĩa vô sản quốc tế để phục vụ cho mẫu quốc cộng sản Nga - Tàu nên
nhiều thế hệ của nhóm lãnh đạo đảng cộng sản tại Việt Nam bắt đầu từ Hồ
Chí Minh luôn xem Việt Nam là bộ phận của thế giới cộng sản do cộng sản
Tàu lãnh đạo, ngay cả việc họ luôn hãnh diện xem Tàu là quê hương của họ
và Việt Nam là một phần của cộng sản Tàu. Từ đó đảng cộng sản tại Việt
Nam không còn quan tâm đến toàn vẹn lãnh hải hay lãnh thổ của Việt Nam
trong khi đất nước bị chia đôi, và sau khi miền Nam bị cộng sản miền Bắc
đánh chiếm. Ngay cả đảng viên cơ sở và người dân miền Bắc, luôn cả
thành phần trí thức được đào tạo dưới mái trường XHCN, không hay biết gì
về hành động đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974. Mà dù cho có
biết thì lại tin vào những lời tuyên truyền láo khoét của cộng sản là “các
đồng chí Trung quốc đã giúp đảng ta đánh chiếm Hoàng Sa của miền Nam
Việt Nam và giữ giùm cho đảng, sau này sẽ giao lại sau khi đất nước
thống nhất”. Cuộc thảm sát tàn bạo 64 bộ đội công binh hải quân cộng
sản Việt Nam của bọn hải quân Tàu tại bãi đá ngầm Gạc Ma vào năm 1988
cũng bị đảng cộng sản tại Việt Nam giấu nhẹm trong nhiều thập niên mãi
cho đến vài năm qua mới được hé lộ. Trong những năm gần đây giới trí
thức trong nước qua tiếp xúc với internet bắt đầu tìm hiểu về hành động
xâm lược Hoàng Sa vào năm 1974 và tàn sát 64 bộ đội công binh hải quân
rất vô nhân đạo của bọn lính Tàu cộng tại Gạc Ma năm 1988.
Những người trí thức trong nước bắt đầu thức tỉnh và đã lên tiếng ngày
càng đông, phản đối và chống lại bọn xâm lược Tàu cộng. Nhiều cuộc biểu
tình xuống đường chống bọn bành trướng Tàu cộng đòi lại Hoàng Sa và
Trường Sa đã liên tục xảy ra. Để bảo vệ chế độ cộng sản và tình đồng chí
anh em với bọn Tàu cộng nhà nước cộng sản tại Việt Nam tiến hành đàn áp
không gớm tay và bắt bỏ tù nhiều người Việt yêu nước với những bản án
tù nhiều năm khắc nghiệt. Trong khi đó nhóm lãnh đạo đảng cộng sản Việt
Nam lại đối xử rất nống ấm trong tình anh em ruột thịt với bọn Tàu cộng,
theo khẩu hiệu “16 vàng, 4 tốt”. Không những thế mà lãnh đạo cao cấp
cộng sản Việt Nam còn đi các nước công khai tuyên bố họ và Tàu là anh em
ruột thịt trong cùng một gia đình.
Hành động sỗ sàng mới nhất của bọn bành trường Tàu cộng là việc chúng
ngang nhiên mang giàn khoan dầu nổi khổng lồ HD 981 vào sâu trong vùng
lãnh hải tại miền Trung Việt Nam, sát thành phố Đà Nẵng. Thay vì có hành
động quân sự cụ thể như đưa các tàu chiến ra đối mặt để tống khứ giàn
khoan ra khỏi vùng biển của Việt Nam thì quân đội cộng sản Việt Nam chỉ
làm có tính cách trình diễn cho có lệ với vài ba chiếc tàu sơ sài gọi là
tàu cảnh sát biển ra “nhảy đầm” và chơi trò rượt đuổi cút bắt với những
tàu chiến của bọn xâm lược Tàu cộng. Trong khi đó lãnh đạo đảng cộng
sản tại Việt Nam lại đẩy ngư dân với những chiếc thuyền gỗ mong manh của
họ ra bảo vệ biển đảo - “bám biển”, trong khi đó thì những chiến hạm
tên lửa tối tân thì không thấy tăm dạng - “bám bờ”.
Trước sự thư thả, thơ thới, bình thản của toàn bộ các vị lãnh đạo các
cấp của cộng sản Việt Nam - đảng, nhà nước, quốc hội - xem hành động
đem giàn khoan cùng máy bay và tàu chiến vào sâu trong vùng biển của
Việt Nam là chuyện nội bộ của anh em trong gia đình; Mỹ thì trái lại,
càng lúc càng nóng lòng và nghi ngại rằng toàn bộ biển Đông đã được Việt
Nam trao cho Tàu “giữ hộ” từ lâu nên họ mới không bồn chồn lo lắng như
nước Phi nằm bên kia biển Đông. Chính quyền Mỹ phải hạ mình mời Bộ
trưởng ngoại giao cộng sản Việt Nam Phạm Bình Minh sang Hoa Thịnh Đốn
bàn bạc vụ giàn khoan và lãnh hải Việt Nam nhưng ông ta cứ lờ đi, thay
vì đi Mỹ ngài Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ ngoại giao Minh bay sang
thăm Ba Lan. Thay vào đó lãnh đạo đảng cộng sản tại Việt Nam lại giao
cho bí thư thành ủy thành phố Hà Nội Phạm Quang Nghị sang Mỹ bàn chuyện
lãnh thổ lãnh hải. Việc đưa một người lãnh đạo cấp thành phố sang gặp
viên chức cấp Bộ của một nước để bàn chuyện liên quan đến quốc phòng và
an ninh của quốc gia là một việc làm xấc lối và trịnh thượng. Thêm vào
đó, việc Phạm Quang Nghị trao cho Thượng nghị sĩ John McCain bức hình
chụp lại nơi mà ông Mc Cain bi bắt trong cuộc chiến là một việc làm vô ý
thức, cố tình hạ nhục người chủ nhà đã mời mình vào nhà. Chỉ có bọn
côn đồ vô học và mất dạy mới làm việc đó, không phả là một nhân vật đại
diện cho một quốc gia, dù cho có là chính danh hay không.
Chính quyền Mỹ vì quyền lợi về an toàn của con đường hàng hải trong vùng
biển Đông đã tỏ ra rất nhún nhường và nhẫn nhịn trước hành động xấc láo
của cộng sản Hà Nội. Có thể Mỹ biết rõ là đảng cộng sản tại Việt Nam đã
bí mật thỏa thuận với Tàu về tiến độ sáp nhập Việt Nam vào nước Tàu từ
lâu (1990?), nên việc họ mời gọi hợp tác quân sự giúp Việt Nam bảo vệ
lãnh hải trong biển Đông là để thử “lửa”, và cũng là với ngụ ý gián tiếp
cho dân Việt Nam biết về hành động bán nước và dâng hiến đất nước Việt
Nam của các thế hệ lãnh đạo cộng sản tại Việt Nam cho Tàu đã xảy ra. Về
phần mình, Mỹ đã làm tích cực một số việc quan trong nhằm giúp tạm thời
ngăn chận hành động bá quyền của Tàu cộng tại biển Đông:
- Thượng viện Quốc Hội Mỹ ra Nghị quyết lên án Trung cộng đưa trái phép
giàn khoan vào vùng lãnh hải của Việt Nam và yêu cầu nhanh chóng rút
giàn khoan về nước và đưa biển Đông trở về nguyên trạng trước ngày
01/05/2014. Trong khi đó quốc hội của đảng cộng sản tại Việt Nam, quốc
gia bị ảnh hưởng trực tiếp từ hành động xâm lược của Tàu cộng, lại không
làm gì và xem chuyên Tàu cộng mang giàn khoan vào vùng biển Việt Nam là
chuyện nhỏ, chuyện bình thường giữa anh em trong gia đình.
- Tuyên bố công khai sẵn sàng hợp tác quận sự toàn diện với phía Việt
Nam để giúp Việt Nam chống lại hành động bá quyền tại biển Đông, cụ thể
nhất là chuyến chính thức viếng thăm Việt Nam mới đây của Tham Mưu
Trưởng liên quân Hoa Kỳ Đại Tướng Martin Dempsey vào ngày 14/08/2014.
Trong khi Hoa Kỳ thật sự nóng lòng muốn giúp Việt Nam bảo vệ lãnh hải,
bảo vệ biển Đông dù biết rõ chế độ cộng sản Việt Nam là chế độ chuyên
chế, phản dân chủ, phản tự do, phản nhân quyền; thì trái lại đảng nhà
nước cộng sản Việt Nam lại tỏ ra rất ư là thư thả, hờ hững như “gái tân
làm giá”. So với Phi Luật Tân và các nước trong vùng Đông Nam Á, Việt
Nam là quốc gia quan trọng nhất và có nhiều quyền lợi nhất tại biển Đông
cả về kinh tế lẫn an ninh quốc phòng trong vùng biển truyền thống từ
bao đời này.
Có phải đảng cộng sản tại Việt Nam đã bí mật đồng ý hợp nhất với Tàu
từ hội nghị Thành Đô năm 1990 như nhiều người Việt Nam trong ngoài nước
và ngay cả lớp đảng viên cộng sản kỳ cựu đang nghi ngờ điều đau lòng này
là sư thật, và đang đòi hỏi phải bạch hóa trước toàn dân toàn bộ chi
tiết của bản hiệp định Thành Đô này mà đảng cộng sản Việt Nam đã cố tình
giữ bí mật trong thời gian dài gần 25 năm?
Phản ứng của lãnh đạo đảng cộng sản tại Việt Nam đáp lại hành động chủ
động và tích cực tiến tới hợp tác quân sự toàn diện với Việt Nam của Hoa
Kỳ hầu ngăn chặn ý đồ xâm chiếm toàn bộ Biển Đông càng lúc càng rõ của
Tàu Cộng sẽ chứng minh:
- Hoặc là lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam đã trao đất nước Việt
Nam cho Tàu để thành một tỉnh/vùng tự trị/tiểu bang của “Liên Bang Đại
Quốc Tàu” từ ngày ký Hiệp nghị Thành Đô vào năm 1990,
- Hoặc Việt Nam vẫn còn là một quốc qia độc lập tự chủ.
Tham mưu trưởng Liên Quân Hoa Kỳ Martin Dempsey duyệt hàng quân danh
dự cùng Tướng Đỗ Bá Tỵ trong buổi lễ chào đón tại Bộ Quốc phòng ở Hà
Nội, ngày 14/8/2014. Ba thế hệ lãnh đạo đảng cộng sản tại Việt Nam cùng
lãnh đạo cộng sản Tàu tại Thành Đô năm 1990
Ngày 17 tháng 08 năm 2014
Tham khảo:
Thư cảnh giác gởi cơ quan truyền thông quốc tế
57 khoa học gia và trí thức gởi thư cảnh báo bản đồ lưỡi bò của Trung Cộng
Nguyễn Văn Tuấn: Bản dịch bài viết trên tạp chí Nature về bản đồ lưỡi bò của Trung cộng
Trung Cộng, Philippines chạm mặt trên Biển Đông
Vụ thảm sát ‘thế giới chưa từng biết đến’
The Massacre “Not Heard Around the World”
Thỏa thuận QP với Mỹ giúp Philippines trong tranh chấp Biển Đông trước TC
Phạm Quang Tuấn: Những thành công trong chuyến thăm Mỹ của ông Phạm Quang Nghị
Bạch hóa Hội Nghị Thành Ðô?
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 325
Khi chúng tôi rời California tìm một nơi có đời sống thong thả, yên ổn để nuôi các con, chúng tôi rơi ngay vào một vũng nước mưa. Thành phố Seattle của bang Washington. Lúc nào ông trời Seattle cũng mưa được. Không mưa sáng, thì mưa chiều, không mưa chiều thì mưa tối. Vào mùa Hạ thì thỉnh thoảng mới có một hôm nắng nguyên ngày. Tối hôm trước đi ngủ, bầu trời đêm cao thăm thẳm, trong veo, không một gợn mây, thế mà nửa đêm thức dậy nghe như có tiếng ai gõ nhẹ trên mái gỗ, lắng nghe một lúc biết là trời bắt đầu mưa.
Tôi nằm im lặng nghe mưa.
Ban ngày đôi khi mưa như một ân sủng của trời trút xuống, gột rửa bao bực nhọc, làm mới lại và xóa hộ những điều không muốn giữ. Nhưng mưa lớn cũng là nỗi hãi hùng của những người buôn thúng, bán bưng, nỗi lo âu của người chủ gia đình không mang về đủ một bữa cơm có thịt, có cá chiều nay. Ở cơn mưa trung bình, tiếng rơi lộp bộp trên những tầu lá chuối, một âm thanh đều đều như âm nhịp đệm của nhạc, lắng nghe nó cho ta cái cảm tưởng được nhàn nhã, thư thái. Khi mưa nhỏ hạt, tiếng róc rách trên mái nhà lá vừa thơ mộng vừa buồn bã, nghe mãi, mê lúc nào không biết.
Ngày tôi đến trại Pendleton cũng vào một đêm mưa. Mưa không to lắm, nhưng khí hậu sa mạc của California về đêm làm mọi người lạnh cóng. Trẻ con, người lớn và ngay cả người già cũng đều được phát cho một chiếc áo lính cùng một cỡ để mặc cho ấm. Trong đêm tối, chúng tôi trông như những bụi cây không đều nhau, biết đi. Chúng tôi đứng xếp hàng chờ nhận lều, giơ tay vuốt mặt, ướt sũng nước mưa và nước mắt.
Ngày tôi lấy chồng cũng vào một ngày mưa. Ở California giữa tháng chín mà mưa có lạ không! Theo phong tục Mỹ, cô dâu chú rể vừa bước ra ngưỡng cửa nhà thờ người ta tung gạo như mưa vào người để chúc may mắn. Ở quê tôi người ta chỉ ném gạo theo sau những chiếc áo quan vì sợ người chết bị đói. Mẹ tôi (dù là người Công Giáo) thấy giữa đám cưới mà bị ném gạo thì hoảng quá giơ tay ngăn lại. Tôi nghĩ cả hai phong tục điều hay cả. Nếu lấy nhau mà không được nuôi bằng tình yêu thì cũng bị đói vậy. Cơn mưa nào cũng mang theo ý nghĩa của nó.
Chị em tôi ở Mỹ lâu lắm rồi, lâu đến nỗi thỉnh thoảng nghĩ đến bàng hoàng cả người. Vì tính ra khoảng thời gian mình ở Mỹ đã dài bằng khoảng thời gian ở cả Hà Nội và Sài gòn cộng lại. Thế mà chúng tôi vẫn hay nhắc đến những cơn mưa ở quê nhà. Chúng tôi hay nói: Tối qua mưa nặng hạt và to tiếng như mưa ở Sàigòn, hay mưa rả rích mấy ngày liền như thế này thì có kém gì Huế! Nhưng ở đây lâu thế mà sao không thấy ai hứng nước mưa để uống, để pha trà nhỉ? Người kỹ tính lắm thì cũng chỉ pha trà bằng nước bán trong chai. Tôi nhớ ngày trước, nhà tôi có căng một miếng vải màn trắng trên miệng một chiếc vại để ngoài sân hứng nước mưa uống quanh năm. Người Việt sang đây dản dị hóa đã bỏ hết những chuyện uống cầu kỳ này.
Mưa ở Seattle làm cho những dẫy núi bao bọc chung quanh thành phố trông tinh khiết và cao cả hơn lên, những cây tùng cây bách giữ mãi một mầu xanh thẫm, chạm tay lên lá, lá mịn màng, trong sạch như thiếu nữ mới lớn, mưa làm nước hồ thăm thẳm mềm mại như một giải lụa. Tiếng chim hót trong mưa thánh thót hơn, con sóc, con chồn lúc nào cũng có một bộ lông còn mới dưới mưa. Và hình như sống ở nơi có nhiều mưa con người điềm đạm và bao dung với nhau hơn. Tuổi trẻ thì dản dị, tự nhiên. Tôi đã thấy những học sinh trung học ở đây đứng thản nhiên hôn nhau dưới mưa trước cổng trường.
Ôi những cơn mưa ở hai đầu trái đất! Mưa Sàigòn và mưa Seattle. Cũng chỉ là những đám mây tụ lại, rồi rơi xuống. Nhưng khi rơi trên nóc một chiếc áo quan của người lính, trên chiếc áo dài trắng của cô học trò trung học, trên mái tóc của hai người yêu nhau, trên vai áo của người tỵ nạn Việt Nam, nó khác biệt thế nào so với khi rơi xuống trên những cành thông ở Seattle hay giữa một đám cưới ở California ? Và khi vẽ mưa trong những bức tranh ở những nơi khác nhau, người ta có vẽ cho nó những hình thể khác nhau, chọn những gam mầu khác nhau?
Ước gì có ai vẽ được linh hồn của những giọt mưa!
Tháng 7/03/03
TRẦN MỘNG TÚ
Bạc Hy Lai và Từ Tài Hậu đều là những trợ thủ rất đắc lực của Giang
Trạch-Dân khi họ Giang khởi sự chiến dịch tiêu diệt Pháp Luân Công từ
1999.
3 “môn sinh” nguy hiểm nhất của Giang Trạch Dân đã bị “tiêu diệt”
Ngày 13 tháng 8, báo truyền thông hải ngoại “New York Times” phiên bản tiếng Trung đã công bố một bài viết nổi tiếng, với tựa đề “Tập Cận Bình chống tham nhũng là điều thực sự”, bài báo cho biết, Tập Cận Bình đã “tiêu diệt” 3 “môn sinh” nguy hiểm nhất của Giang Trạch Dân.
Bài báo cũng trích dẫn lời phát biểu của con gái Hồ Kiều Mộc là Hồ Mộc Anh tại buổi lễ liên hoan mừng năm mới tại Bắc Kinh Diên An, đây “là một cuộc đấu tranh giữa cái sống và cái chết”.
Điều trong bài viết gọi là “môn sinh” kỳ thực là cựu Thường ủy Cục Chính trị, tiền Chính Pháp Ủy Bí thư ĐCSTQ Chu Vĩnh Khang, cựu Phó Chủ tịch Quân ủy ĐCSTQ Từ Tài Hậu và cựu Bí thư Tỉnh ủy Trùng Khánh Bạc Hy Lai. Ba người này là tâm phúc của cựu lãnh đạo ĐCSTQ Giang Trạch Dân, đã nghe theo Giang Trạch Dân đàn áp Pháp Luân Công, tham gia vào tội ác mổ cướp nội tạng sống của các học viên Pháp Luân Công.
Cha con Chu Vĩnh Khang đều đã tham gia vào tội ác mổ cắp nội tạng sống từ các học viên Pháp Luân Công
Ngày 20 tháng 7 năm 1999, Giang Trạch Dân khăng khăng cố chấp theo ý mình, phát động một cuộc đàn áp tàn khốc đối với Pháp Luân Công. Chu Vĩnh Khang là người luôn theo sát Giang Trạch Dân, tích cực tham gia cuộc đàn áp Pháp Luân Công.
Từ năm 1999 đến năm 2002, Chu Vĩnh Khang nhận chức Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Tứ Xuyên, đã sử dụng một loạt các chiến dịch đàn áp quy mô lớn đối với Pháp Luân Công, khiến tỉnh Tứ Xuyên trở thành một trong những tỉnh xảy ra những đợt đàn áp Pháp Luân Công nghiêm trọng nhất tại Đại Lục.
Năm 2002, Chu Vĩnh Khang được Giang Trạch Dân đề bạt lên làm Bộ trưởng Bộ Công an kiêm Bí thư Đảng ủy, Phó Bí thư Ủy ban Chính Pháp ĐCSTQ, phối hợp với bí thư Ủy ban Chính Pháp đương thời là La Cán tiến hành những chính sách đàn áp Pháp Luân Công ở Trung Quốc Đại Lục.
Từ năm 2007 trở đi, Chu Vĩnh Khang thay thế La Cán nhậm chức Bí thư Ủy ban Pháp luật và Chính trị Trung ương của ĐCSTQ, lãnh đạo các trưởng nhóm chuyên xử lý các vấn đề về Pháp Luân Công, dưới những danh nghĩa khác nhau khiến cho cuộc bức hại Pháp Luân Công ngày càng trầm trọng, làm cho những vụ bắt giữ bất hợp pháp, giam giữ kéo dài, dùng cực hình tra tấn đến tàn phế và bức hại đến chết các học viên Pháp Luân Công ngày càng gia tăng tại Đại Lục.
Do được Chu Vĩnh Khang thông đồng và xúi giục, toàn bộ bộ máy nhà nước Trung Cộng, bao gồm cả quân đội, cảnh sát vũ trang, đều bị cuốn vào tội ác mổ cướp nội tạng sống từ các học viên Pháp Luân Công, điều này được hệ thống chính quyền bảo vệ, có hệ thống, cả quần thể đều phạm vào tội diệt chủng.
Khi con trai Chu Vĩnh Khang là Chu Bân dưới ảnh hưởng từ quyền lực của cha mình, đã tiến hành bán nội tạng, giả hình, nói dối là lấy từ những tù nhân đã chết để thu về những món lợi nhuận khổng lồ, cha con Chu Vĩnh Khang đã từng tráo đổi các học viên Pháp Luân Công bị giam giữ bằng những tù nhân phạm tội tử hình, các học viên Pháp Luân Công trong lúc bị hành hình đã bị mổ cướp nội tạng sống, các học viên Pháp Luân Công vẫn sống nhưng vô cùng đau đớn, còn những tù nhân phạm tội tử hình sau khi tẩy não lại được thả về cộng đồng.
Vì sợ bị thanh trừng sau khi mất quyền lực, theo sự chỉ đạo của Giang Trạch Dân, Chu Vĩnh Khang và Bạc Hy Lai đã tiến hành một âm mưu bí mật, mong muốn trong Đại Hội Đảng lần thứ 18 diễn ra sẽ lật đổ Tập Cận Bình để đưa Bạc Hy Lai lên thay thế, nhằm kiểm soát quyền lực tối cao của ĐCSTQ. Sau khi Bạc Hy Lai rớt đài, ngày 19 tháng 3 năm 2012, Chu Vĩnh Khang phát động chính biến, bị Hồ Cẩm Đào điều quân chấn áp. Trước và sau cuộc họp Bắc Đới Hà năm 2013, Chu Vĩnh Khang đã hai lần tìm cách bí mật ám sát Tập Cận Bình nhưng không thành.
Ngày 29 tháng 7 năm 2014, ĐCSTQ tuyên bố, thành lập án điều tra đối với Chu Vĩnh Khang.
Từ Tài Hậu trong hàng ngũ quân đội ĐCSTQ đã thúc đẩy việc bức hại Pháp Luân Công
Từ Tài Hậu là người được Giang Trạch Dân đề bạt lên, được coi là “quân đội yêu thích nhất” của Giang Trạch Dân, là một người tham nhũng hủ bại trong bè phái Giang tại quân đội. Từ Tài Hậu cùng Chu Vĩnh Khang, Cốc Tuấn Sơn, Bạc Hy Lai v.v… có những mối quan hệ lợi ích không rõ ràng, và đều bị cuốn vào cuộc chính biến chống lại Tập Cận Bình.
Từ Tài Hậu là người chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc sử dụng quân đội Trung Quốc tiến hành bức hại các học viên Pháp Luân Công, thực hiện mổ cắp nội tạng sống, phụ trách điều phối các lực lượng quân sự, trực tiếp tham gia vào việc xây dựng các kho bí mật lưu trữ nội tạng cấy ghép cho người sống. Quân đội Trung Quốc đã từng tiến hành bí mật lưu chuyển các học viên Pháp Luân Công ở Bắc Kinh và Liêu Ninh và những nơi khác, chuyển tới để đầu tư vào kho cấy ghép nội tạng sống này.
Tháng 6 năm 2006, tại một cửa hàng bán ngói ở tỉnh Liêu Ninh có một sĩ quan quân đội cao tuổi đã tiết lộ những thông tin mờ ám về việc quan chức chính phủ tỉnh Liêu Ninh thông đồng cấu kết với quân đội cho “Đại Kỷ Nguyên”. Từ Tài Hậu liên tiếp được thăng chức, bởi vì Từ Tài Hậu vốn là hắc thủ Đảng do Giang Trạch Dân bồi dưỡng nên, và cũng là một công cụ đàn áp Pháp Luân Công của Giang Trạch Dân.
Ngày 30 tháng 6 năm 2014, Tập Cận Bình mở Hội nghị Cục Chính trị, tuyên bố khai trừ Từ Tài Hậu ra khỏi ĐCSTQ, đồng thời bàn giao quân sự cho các cơ quan kiểm sát.
Bạc Hy Lai là người đầu tiên phạm tội mổ cướp nội tạng sống các học viên Pháp Luân Công
Bạc Hy Lai năm đó vì để thăng chức, đã tích cực chiểu theo chính sách của Giang Trạch Dân tiến hành đàn áp Pháp Luân Công. Bạc Hy Lai ở thành phố Đại Liên, tỉnh Liêu Ninh, khi còn đương quyền, đã là người đầu tiên thực hiện mổ cắp nội tạng sống từ các học viên Pháp Luân Công, thưc hiện các tội ác ghê tởm trong việc buôn bán xác chết trục lợi. Dưới sự hỗ trợ trước sau của hai thư ký Chính Pháp Ủy ĐCSTQ là La Cán và Chu Vĩnh Khang, tội lỗi này đã lan tràn tại khắp nơi trong toàn quốc, một số lượng lớn các học viên Pháp Luân Công bị bắt giữ đã bị mổ cướp nội tạng sống.
Tháng 2 năm 2012, sự kiện Vương Lập Quân bùng phát, khiến cho kế hoạch đảo chính của Bạc Hy Lai và Chu Vĩnh Khang bị bại lộ. Sau đó, Tập Cận Bình và Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo đã kết thành liên minh chính trị, “lật đổ” Bí thư Tỉnh ủy ĐCSTQ Trùng Khánh Bạc Hy Lai.
Ngày 22 tháng 9 năm 2013, Bạc Hy Lai với tội hối lộ, tham nhũng, lạm dụng chức quyền đã bị kết án tù chung thân. Nhưng tâm điểm tội ác của Bạc Hy Lai, chính là phối hợp với Giang Trạch Dân, Chu Vĩnh Khang, cùng một số người khác thực hiện âm mưu đảo chính, bức hại Pháp Luân Công, mổ cướp nội tạng sống từ các học viên Pháp Luân Công và các tội ác khác chống lại loài người, điều này cho tới nay vẫn bị ĐCSTQ che đậy.
Trong bối cảnh đó, một chính khách có tư thế đến từ một quốc gia văn minh thực sự trở thành biểu tượng của niềm tin và hy vọng. Nếu ông ấy vẫn là đương kim nguyên thủ thì cơ hội cho người dân thường tiếp xúc trực tiếp với ông ấy gần như không có. Còn nếu ông ấy đã “về vườn” thì ông ấy có thể thoải mái đi ra đường phố để người dân được nhìn thấy ông bằng xương bằng thịt, và được chạm vào tay ông, vào áo ông. Chưa biết ông mang đến cho đất nước này được những gì, và những thứ đó có đến tay được một người dân cụ thể nào đó trong đám đông kia hay không, nhưng người dân đó vẫn vui vì được ở gần ông, một con người mà người ta cảm thấy đáng tin cậy hơn nhiều so với những nhân vật quyền thế đang trực tiếp chi phối đời sống xã hội ta và những người trước đó đã bao năm hứa hẹn hão với dân chúng về thiên đường trên mặt đất. Họ đã bao năm chờ đợi, đã hy vọng, và thất vọng…
Gió đưa văng vẳng đến lầu cô Mỵ Nương.
Cô Mỵ Nương nghe tiếng hát thì thương…..
Thảm cảnh 30 Tháng Tư 1975.
- Sấm, sấm rồi bố ạ !
Sunday, August 17, 2014
GIÁO GÌÀ * VĂN HÓA VIỆT CỘNG
Văn hóa Việt cộng: Văn hóa đồ đểu và văn hóa lưu manh
Giáo Già (Danlambao) - Ngoại
trưởng Hoa Kỳ John Kerry đã lên tiếng mời Ngoại trưởng Việt Nam Phạm
Bình Minh sang Hoa Kỳ, đặc biệt là sau vụ giàn khoan Hải Dương 981 của
Trung Quốc đặt trong phần lãnh hải của VN nhưng từ tháng 5/2014 tới nay,
hơn hai tháng qua, ông Phạm Bình Minh đã chẳng đi đâu cả. Dư luận cho
rằng Bộ Chánh trị chẳng cho ông đi. Bất ngờ Bộ Chánh trị lại cho Phạm
Quang Nghị, một ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội viếng thăm
nước Mỹ. Điều này khiến người theo dõi tình hình ngạc nhiên vì Phạm
Quang Nghị chẳng có chút kinh nghiệm ngoại giao, lại chẳng bao giờ đảm
trách công việc ngoại giao.
Chuyến đi của Phạm Quang Nghị được thực hiện từ ngày 21/7, nhưng đến hơn
hai ngày sau báo chí của CS Việt Nam mới dè dặt đưa tin. Trong khi đó,
báo chí Mỹ và các hãng thông tấn ngoại quốc gần như không loan tin về
chuyến công du của người ủy viên Bộ Chánh trị không dược Mỹ mời này.
Điều khiến dư luận chú ý là một tháng trước Dương Khiết Trì, ủy viên
Quốc vụ viện Trung Quốc, đã đến Hà Nội để dạy dỗ các lãnh đạo CSVN về
lòng trung thành của đám thái thú đang có mưu toan vượt ra ngoài vòng
tròn đỏ của 16 chữ vàng và 4 tốt, được hai bên kiên quyết giữ vững.
Trong cái lặng lẽ của chuyến đi, bất ngờ người ta được biết Phạm Quang
Nghị có cuộc gặp Thượng Nghị sĩ McCain của Hoa Kỳ, sau khi Thượng nghị
viện Mỹ đã đồng loạt biểu quyết bản Nghị quyết số 412, yêu cầu Trung
Quốc trở về nguyên trạng trước thời điểm tháng 5/2014. Đồng thời, trước
đó, phát biểu tại trường Đại học Quân sự West Point, Tổng thống Hoa Kỳ
Barack Obama cũng đã nói thẳng khả năng Mỹ có thể điều quân tới khu vực
Biển Đông, nếu tại đây xảy ra xung đột. Nó cho thấy Mỹ có thể là một đối
tác chiến lược hoặc một đối tác quân sự hỗ trợ cho CS Việt Nam, làm tác
động đến tâm lý những người bảo thủ ở Hà Nội khiến Bộ Chánh trị quyết
định cho người được coi là ứng cử viên sáng giá cho cương vị Tổng bí thư
CSVN là Phạm Quang Nghị lên đường diện kiến chính giới Mỹ qua McCain.
Có điều bất ngờ không ai đoán nổi là trong cuộc gặp vị Thượng Nghị sĩ
nhiều thế giá trên chánh trường và trong Quốc Hội Mỹ Phạm Quang Nghị đã
long trọng tặng vị Thượng Nghị sĩ này món quà “độc đáo” mà theo bài viết
của phóng viên báo Tuổi Trẻ Phạm Thanh Long, người tự nhận là có đi
theo phái đoàn của ông Nghị và chứng kiến tận mắt lúc trao bức hình [xem
hình], xin được trích nguyên văn đoạn rất đáng lưu ý:
“Đó là hai tấm ảnh, lớn bằng khổ giấy A4, vừa mới chụp trước ngày
đoàn lên đường, ghi lại tấm bia tại đường Thanh Niên bên hồ Trúc Bạch.
Chính nơi đây 47 năm về trước vị thiếu tá phi công hải quân John McCain
đã bị quân và dân Việt Nam bắt làm tù binh…”
“…Chả thế mà đã có lần ngài (McCain) đề nghị với các vị khách Việt
Nam khi sang thăm nước Mỹ, rằng ngài rất mong thành phố Hà Nội luôn quan
tâm, giữ gìn vệ sinh cho khu vực xung quanh tấm bia. Nghe nói những lần
tới thăm Việt Nam, ngài đã từng dừng xe để chụp ảnh bên tấm bia này...”
Có điều cũng nên ghi nhận là trên tất cả báo CSVN, đều có đăng bài: “Cuộc gặp đặc biệt Phạm Quang Nghị – John McCain” trong đó có đoạn Phạm Quang Nghị nói nguyên văn:
“Nhưng, trước khi kết thúc, tôi muốn tặng ngài một tấm ảnh. Thật
tình, tôi không biết ngài có muốn có nó hay không? Nếu ngài không thích
thì ngài có thể không công bố cho bất kỳ ai được biết. Còn ngài thích,
thì tùy ngài”.
Bảo rằng “Nếu ngài không thích thì ngài có thể không công bố cho bất kỳ ai được biết”;
nhưng truyền thông VC lại cho công bố nó trên tất cả các báo cho mọi
người biết; đó là chưa kể theo “thông lệ… ngoại giao” trước khi tặng quà
VC phải thăm dò ý của Thượng Nghị sĩ McCain và Tòa đại sứ Mỹ tại Hà
Nội. Mặt khác, màn trao tặng bức hình chỉ là trình diễn trước dư luận
với sự ưng thuận của Bộ Chánh trị, cho mọi người thấy lại cái “anh hùng”
của “nhân dân… ta anh hùng” theo đúng cung cách “cao ngạo” sở trường
của Đảng và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa VN; nhưng thực tế lại cho
mọi người thấy rõ thêm một lần nữa cái “đểu” của Đảng và Nhà nước “ta”.
Cũng nên biết thêm, có một điều rất đáng tiếc là việc tặng quà này chỉ
có báo chí VC là làm “ầm ỹ”, tưởng như vậy là “ngon lành” lắm; nhưng nó
lại làm lộ rõ bộ mặt bần tiện của Đảng và “Nhà nước... ta giàu đẹp”
đến nỗi không có tiền để mua một tấm khuôn để lộng bức hình cho nó được
“tử tế”, cho nó “xứng đáng” với món quà của một ủy viên Bộ Chánh trị,
Bí thư Thành ủy Hà Nội, tự nhận là “giàu sang bực nhứt VN” [xem hình].
Có điều càng đáng tiếc hơn nữa cho thân phận Phạm Quang Nghị là Nghị đã
không được gặp Ngoại trưởng Mỹ. Thay vào đó, chỉ có Thứ trưởng Ngoại
giao Wendy Sherman tới gặp để chào và chuyển lời thăm hỏi của ông John
Kerry. Thêm nữa, tại Washington, Phạm Quang Nghị chỉ có những cuộc làm
việc với Cố vấn cao cấp của Ngoại trưởng là ông Thomas Shannon, và một
Phó Cố vấn An ninh Quốc gia phụ trách đối ngoại là ông Tony Blinken. Như
vậy, nhân vật cao cấp nhất mà Phạm Quang Nghị được tiếp xúc là Thượng
Nghị sĩ John McCain và Patrick Leahy, Chủ tịch thường trực Thượng viện
Mỹ; không như lần Nghị đi Bắc Kinh cách đây mười tháng.
Giáo Già gọi món quà của Phạm Quang Nghị là quà “đểu” vì nó thể hiện cái
“đểu” của CSVN, như chúng đã nhiều lần “đểu” trong quá khứ… “ngoại
giao”; điển hình như:
- Sang Pháp thì tặng ảnh chụp Tượng đài kỷ niệm Chiến thắng Điện Biên Phủ;
- Sang Thái Lan thì tặng ảnh chụp Tượng đài kỷ niệm Chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút;
- Sang Campuchia thì tặng một công trình nghiên cứu về công cuộc Nam tiến vĩ đại của dân tộc Việt Nam;
- Sang Nhật Bổn thì tặng bản sao bức ảnh nổi tiếng của cụ Võ An Ninh chụp đống sọ người chết đói năm Ất Dậu ở trại Giáp Bát;
- Sang Đức thì tặng tranh cổ động “Rồng Nam phun bạc, đánh đuổi Đức tặc”;
- Sang Vatican thì tặng chỉ dụ cấm đạo Tây dương của vua Minh Mạng;
Sang Trung Quốc thì tặng cọc Bạch Đằng… [Xin xem toàn văn bài viết “Báo cáo vệ sinh của thành phố Hà Nội” của Bà Phạm Thị Hoài, có đề cặp tới món quà “đểu” này, đăng trong phần Phụ đính].
Cứ tưởng McCain rất giận khi nhận món quà “đểu” này, nhưng không ngờ
nhìn vào bức hình chụp in trên các báo VC ai cũng thấy ông cười rất
tươi, như thể thích thú lắm. Nó thể hiện cái “văn hóa… ngoại giao” của
Mỹ. Thích hay không thích cũng cứ… cười.
Mặt khác, nhìn vào quá trình lập quốc và bang giao quốc tế, ai cũng thấy
người Mỹ theo chủ nghĩa thực dụng và rất thực tế. Với họ “không có bạn vĩnh viễn” mà cũng “không có kẻ thù lâu dài”; chỉ có “quyền lợi quốc gia là trên hết”.
Nhận thấy trong hoàn cảnh hiện tại, xét về quyền lợi, giữa Mỹ và Việt
Nam hiện nay có rất nhiều điểm chung: Đó là Biển hình Biển Đông. Đây là
vùng biển của Việt Nam, nó cũng là một trong những nguồn lợi lớn của
Việt Nam về phương diện kinh tế, nó cũng là giá trị lịch sử của dân tộc
của Việt Nam. Phần Mỹ, đó là con đường hàng hải quan trọng trên cả hai
lãnh vực kinh tế và quân sự. Mỹ cần bảo vệ Biển Đông, phần biển của Việt
Nam, nên họ cần sự chấp thuận của VN trên lãnh vực “hợp tác chiến
lược”. Mỹ không bảo vệ Việt Nam, họ chỉ bảo vệ Biển Đông, họ không thể
để VN nhượng bộ hoặc đầu hàng Trung Quốc làm ảnh hưởng tới quyền lợi của
họ.
Do vậy, McCain chỉ “cười cười” rồi chuẩn bị lên đường sang Hà Nội [xem
hình], cho dầu có được Phạm Quang Nghị ngỏ lời “mời” hay không.
Từ đó, bản tin của RFI ngày 7-8-2014 loan đi cho biết: “Theo Sứ quán
Mỹ tại Hà Nội, ba hồ sơ quan trọng là an ninh khu vực, nhân quyền và
thương mại sẽ được phái đoàn Nghị sĩ Mỹ thảo luận với cấp lãnh đạo Việt
Nam”.
Tại Hà Nội ông McCain không bàn về chuyện tấm bia, mà chỉ bàn về chuyện
an ninh, nhân quyền và thương mại. Do vậy, trong cuộc họp báo tại Hà
Nội, Thượng Nghị sỹ John McCain đã trả lời báo giới nguyên văn như sau:
“…Các nhà lãnh đạo của Việt Nam thừa nhận còn nhiều việc phải làm, vì
một lý do trên hết: Nó là điều tốt cho Việt Nam – cho sự ổn định, thịnh
vượng và thành công của Việt Nam. Như Thủ Tướng Chính Phủ cho biết
trong lời phát biểu đầu năm của mình, ‘Dân chủ là xu hướng tất yếu trong
quá trình phát triển của nhân loại. ‘Chế độ ở Việt Nam, ông nói, phải làm tốt hơn về dân chủ, và Đảng CSVN phải giương cao ngọn cờ dân chủ…’” [Giáo Già in đậm].
Đồng thời, thay lời kết, ông nói:
“Chúng tôi hy vọng rằng Việt Nam sẽ chuyển những lời đáng ghi nhận này thành những hành động mạnh dạn, chẳng hạn như trả
tự do cho các tù nhân lương tâm, tạo không gian cho xã hội dân sự, và
cuối cùng làm rõ trong pháp luật và chính sách rằng quyền lực nhà nước
là hạn chế và các nhân quyền phổ quát - các tự do phát biểu, lập hội,
thờ phượng, xuất bản, và truy cập thông tin - được bảo vệ cho tất cả
công dân…” (Bản tin của BBC ngày 11-8-2014) [Giáo Già in đậm].
Trong khi đó, đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) của VC không ngần ngại cho
hay, chiều 8/8/2014, tại Trụ sở Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà
Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tiếp đoàn Thượng viện Hoa Kỳ sang
thăm Việt Nam gồm Thượng Nghị sỹ John McCain (Đảng Cộng hòa, tiểu bang
Arizona) và Thượng nghị Sỹ Sheldon Whitehouse (Đảng Dân chủ, tiểu bang
Rhode Island), nói rằng:
“Các Thượng Nghị sỹ (Hoa Kỳ) đã chia sẻ với Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng một số nhận định về tình hình thế giới và khu vực hiện nay, bày tỏ
quan tâm đặc biệt đến vấn đề tự do hàng hải và tình hình căng thẳng vừa
qua ở biển Đông, cho rằng việc tuân thủ các chuẩn mực và luật pháp quốc
tế là hết sức cần thiết đối với tất cả các nước… (Ngoài ra) các Thượng
Nghị sỹ (cũng) đề xuất một số biện pháp về hợp tác song phương trong
thời gian tới, khẳng định Quốc hội và Chính phủ Hoa Kỳ đều mong muốn
tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau với
Việt Nam trên các lĩnh vực và các kênh, trong đó có quan hệ với Đảng
Cộng sản Việt Nam.”
Nhận xét chung của các nhà quan sát thấy rằng nhà cầm quyền Việt
Nam vẫn cứ luận điệu cũ chỉ lập đi lập lại những gì thực sự cần thiết và
có lợi cho họ mà không hề có một cử chỉ thiện chí tối thiểu đáp lại
những khuyến nghị của Hoa Kỳ. Báo chí trong nước không hề nhắc
đến chủ đề “nhân quyền”, một trong những nội dung trọng tâm bậc nhất của
chuyến thăm này, vì đó là điều Đảng và Nhà nước không muốn cho người
dân biết. Nó thể hiện cái “văn hóa đồ đểu” cố hữu của CSVN.
Nhưng, ngày trước làm như vậy thì được, chớ bây giờ, với thời đại của
Internet, mọi bưng bít trở thành trò hề, nên mức độ “đểu” ngày càng trầm
trọng thêm.
Chưa hết, cái “văn hóa đồ đểu” đó của CSVN còn được đệm thêm bằng cái “văn hóa lưu manh”,
thể hiện qua hành động bắt giam người tù lương tâm làm “con tin” để
thương lượng trao đổi khi bị áp lực của quốc tế lên án những hành động
vi phạm nhân quyền của Đảng và Nhà nước, như vừa trả tự do
cho cô Đỗ Thị Minh Hạnh để làm dịu dư luận khi thương nghị về TPP, mà vẫn cứ giam cầm Đoàn Huy Chương và Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, 2 người tù lương tâm có cùng một vụ án, để mong có thêm những thương lượng tiếp khi bị quốc tế áp lực hơn nữa(?). Chúng còn lưu manh hơn nữa là buộc người sắp được chúng trả tự do phải “nhận tội” rồi mới được thả, trong khi tất cả đều vô tội và cương quyết không nhận tội…
cho cô Đỗ Thị Minh Hạnh để làm dịu dư luận khi thương nghị về TPP, mà vẫn cứ giam cầm Đoàn Huy Chương và Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, 2 người tù lương tâm có cùng một vụ án, để mong có thêm những thương lượng tiếp khi bị quốc tế áp lực hơn nữa(?). Chúng còn lưu manh hơn nữa là buộc người sắp được chúng trả tự do phải “nhận tội” rồi mới được thả, trong khi tất cả đều vô tội và cương quyết không nhận tội…
Cái “lưu manh” đó vừa được thể hiện thêm một hình thức mới nữa, được áp
đặt lên người tù chánh trị kiên cường bất khuất Điếu Cày Nguyễn Văn Hải,
khi chúng buộc gia đình phải “đóng án phí để... đặc xá?!”
như tin được con của ông là Nguyễn Trí Dũng đăng trên Đàn Chim Việt và
một số diễn đàn, cho biết gia đình đã nhận được giấy mời [phóng ảnh đính
kèm] viết rằng “đại diện gia đình ông Nguyễn Văn Hải (Blogger Điếu
Cày) đóng án phí bốn trăm ngàn đồng trong vụ án hình sự Câu Lạc Bộ Nhà
Báo Tự Do (CLBNBTD) với gợi ý là để ‘đủ điều kiện được xem xét giảm
án-đặc xá.’
Tin cũng cho biết thêm là “Việc gửi một "giấy mời... đóng án phí" với
gợi ý về việc trả tự do cho ông Hải rất có thể đến từ một nhu cầu cải
thiện hình ảnh khẩn cấp của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam… Xin nhắc
lại câu nói của cha tôi trong những lần gặp trước đây: ‘Bố có thể ở tù đến chết để cho tất cả mọi người được biết đến thực trạng của người tù chính trị ở Việt Nam’."
Chuyện “văn hóa đồ đểu” và “văn hóa lưu manh”
của CSVN chắc vẫn còn dài; nhưng chiều dài của nó đang bị thời đại
Internet rút ngắn, ngày càng ngắn hơn, với sự tham gia tích cực của tuổi
trẻ, của các blogger chẳng những hết sợ bạo lực, hết sợ mọi thủ đoạn
đàn áp của công an; lại càng lúc càng có thêm những phát kiến ngoạn mục,
trong nỗ lực “chống Tàu diệt Việt cộng” đồng nhịp với những áp lực của
quốc tế lên án CSVN vi phạm nhân quyền và nhu nhược trước sự lấn lướt
của Trung Quốc, không để VN trở thành nô lệ của Bắc Kinh.
_________________________________________
Phụ đính:
Báo cáo vệ sinh của thành phố Hà Nội
Tháng 8 3, 2014
Phạm Thị Hoài
Thời “Ngoại giao Tháp Rùa“,
như trong chuyến thăm châu Âu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đầu năm
ngoái mà tôi đã có dịp miêu tả, tuy nhạt nhẽo rẻ tiền nhưng “không chết
thằng Tây nào”, đã kết thúc và Việt Nam đang bước vào kỉ nguyên mới với
“Ngoại giao bắt sống giặc lái” mà ông Bí thư Hà Nội Phạm Quang Nghị vừa mở đầu trong chuyến thăm Hoa Kì chăng?
Cục Lễ tân Nhà nước đã chuyển định hướng khai thác, từ thủ công mĩ nghệ
sang một vốn liếng vô tận khác: lịch sử dày đặc cả nỗi nhục mất nước lẫn
chiến công giữ nước và thành tích xâm lược của người Việt chăng? Sang
Pháp thì tặng ảnh chụp Tượng đài kỉ niệm Chiến thắng Điện Biên Phủ? Sang
Thái tặng ảnh chụp Tượng đài kỉ niệm Chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút?
Sang Campuchia tặng một công trình nghiên cứu về công cuộc Nam tiến vĩ
đại của dân tộc Việt Nam. Sang Nhật tặng bản sao bức ảnh nổi tiếng của
cụ Võ An Ninh chụp đống sọ người chết đói năm Ất Dậu ở trại Giáp Bát?
Sang Đức tặng tranh cổ động “Rồng Nam phun bạc, đánh đuổi Đức tặc”? Sang
Vatican tặng chỉ dụ cấm đạo Tây dương của vua Minh Mạng? Sang Trung
Quốc tặng cọc Bạch Đằng? Và một lần nữa Hoa Kì, hợp tác quân sự mở ra,
có dịp thăm Học viện West Point, nơi có mộ tướng Westmoreland trong
nghĩa trang quân đội nổi tiếng thì sẽ tặng bản chụp bản thảo viết tay
bài báo của cố Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 13/6/1968 – kí bút danh “Chiến
sĩ” – nhan đề “(Đại) bại tướng Vét Mỡ Lợn đã cút về nước mẹ Hoa Kỳ“?
So với bài báo này, lời lẽ trên tấm bia “Bắt sống giặc lái” còn có thể
coi là rất nhã nhặn. Chiến tranh mà. Chiến tranh không nói lời lịch sự.
Song trước những bàn luận xôn xao, ông Phạm Quang Nghị đã trả lời phỏng vấn của báo Tiền phong, giải thích thêm, rất giản dị, về món quà đặc biệt đó: “Ngoài
ra, trước khi sang Mỹ, tôi được biết, ngài John McCain từng gặp nhiều
quan chức Việt và nhắn nhủ nhờ thành phố Hà Nội giữ gìn vệ sinh cho khu
vực xung quanh tấm bia ở hồ Trúc Bạch. Và đó cũng là lý do tôi muốn tặng
ông ấy tấm ảnh.”
Thưa nước Mỹ, thưa ngài Thượng Nghị sĩ John McCain trước đây là tên giặc
lái Jchn Sney Macan bị chúng tôi bắt sống, Hà Nội xin báo cáo là theo
nguyện vọng của ngài, tình hình vệ sinh ở khu vực xung quanh chỗ ngài
giơ tay đầu hàng được chúng tôi ngày đêm đảm bảo. Ảnh chụp đây làm
chứng.
Hình như nhà văn trào phúng Mỹ Mark Twain từng định kể câu chuyện này,
song cuối cùng bỏ cuộc vì không dám tin rằng nó còn thuộc sở trường của
mình.
Saturday, August 16, 2014
TRẦN MỘNG TÚ * MƯA SAIGON & MƯA SEATTLE
Khi chúng tôi rời California tìm một nơi có đời sống thong thả, yên ổn để nuôi các con, chúng tôi rơi ngay vào một vũng nước mưa. Thành phố Seattle của bang Washington. Lúc nào ông trời Seattle cũng mưa được. Không mưa sáng, thì mưa chiều, không mưa chiều thì mưa tối. Vào mùa Hạ thì thỉnh thoảng mới có một hôm nắng nguyên ngày. Tối hôm trước đi ngủ, bầu trời đêm cao thăm thẳm, trong veo, không một gợn mây, thế mà nửa đêm thức dậy nghe như có tiếng ai gõ nhẹ trên mái gỗ, lắng nghe một lúc biết là trời bắt đầu mưa.
Tôi nằm im lặng nghe mưa.
Tôi sinh ra ở Việt Nam, một nước thuộc miền nhiệt đới, tôi được lớn lên
giữa miền Nam mưa nắng hai mùa, giữa những cơn mưa bất chợt ập xuống mùa
hạ chói chang, và một mùa mưa kéo dài 6 tháng, mưa trở thành một người
bạn thiết, một nỗi thân quen. Có những kỷ niệm ướt sũng nước mưa, chẳng
làm sao lau khô được, nên mưa trở thành một nhắc nhở hiện tại. Tiếng mưa
Sàigòn không giống tiếng mưa Seattle. Mưa đập ầm ầm thảng thốt trên mái
nhà, nhất là những mái nhà tôn. Ban đêm mưa đánh thức giấc ngủ của ta,
lôi ta ra khỏi những cơn mộng, hay thức dậy để tiếp tục những yêu
thương, hờn giận, để hoàn tất những công việc của ngày qua chưa làm hết.
Ban ngày đôi khi mưa như một ân sủng của trời trút xuống, gột rửa bao bực nhọc, làm mới lại và xóa hộ những điều không muốn giữ. Nhưng mưa lớn cũng là nỗi hãi hùng của những người buôn thúng, bán bưng, nỗi lo âu của người chủ gia đình không mang về đủ một bữa cơm có thịt, có cá chiều nay. Ở cơn mưa trung bình, tiếng rơi lộp bộp trên những tầu lá chuối, một âm thanh đều đều như âm nhịp đệm của nhạc, lắng nghe nó cho ta cái cảm tưởng được nhàn nhã, thư thái. Khi mưa nhỏ hạt, tiếng róc rách trên mái nhà lá vừa thơ mộng vừa buồn bã, nghe mãi, mê lúc nào không biết.
Tôi nhớ những lần đi học về, nếu lỡ một trong hai chuyến xe buýt, phải
đi bộ từ trường về nhà. Quần áo trắng ướt sũng, cặp sách ôm che ngang
ngực con gái mới lớn, chạy vôi vàng trong buổi chiều, sợ ai nhìn xấu hổ.
Ở tuổi 16, 17 ít khi bị cảm, bị lạnh. Về đến nhà mẹ bắt thay quần áo,
uống một ly trà nóng, lau khô mái tóc, là ấm người ngay.
Khi lớn hơn chút nữa, những lần đi chơi với người yêu gặp trời mưa, hai
người che chung một cái áo mưa, hay một cái dù. Vừa bối rối, vừa sợ, vừa
hạnh phúc. Chỉ sợ ướt cái áo dài mỏng, nhưng lại mong sao con mưa đừng
tạnh, và con đường đừng hết.
Ôi những cơn mưa chợt đến chợt đi trong khí hậu nóng ẩm làm mặt đường
bốc khói, mực nước trời trút xuống rộng lượng quá, làm ngập lụt những
con đường không thoát nước, ta như được bơi trong một giòng sông ngọt
ngào, ngắn hạn!
Bây giờ vào những buổi sáng ở Seattle, đi ra đường găp cơn mưa lớn hiếm
hoi, nghe tiếng mưa rơi trên hàng cây xanh mướt, những chùm lá sạch sẽ,
sự rung động êm ả thanh bình thì những cơn mưa vùng nhiệt đới xa xăm với
những tiếng đập rộn ràng lại khua vang trong đầu. Mưa lớn ở Seattle chỉ
là những cơn mưa nhanh hạt, tiếng gió, tiếng lá chạm vào nhau, có òa ra
thì cũng chỉ to bằng tiếng khóc. Sáng nay ra phố gội đầu/ Giọt mưa sợi
tóc ôm nhau khóc òa. Tôi đã quen lắm với mưa Seattle, cũng thân thiện
với mưa, vì mưa đi bên tôi hầu như mỗi ngày. Nhờ mưa Seattle tôi thấy
quý báu sự hiếm hoi của mặt trời rực rỡ, và trong mắt tôi, bầu trời trên
mái nhà tôi cao và xanh hơn bầu trời của những nơi khác, vườn nhà tôi
mưa tinh khiết và mưa lãng mạn hơn ở bất cứ nơi nào.
Nhưng vào những ngày mưa kéo dài cả tuần lễ, thì những giọt mưa âm thầm
lặng lẽ dai dẳng chẩy xuống như những dòng lệ mầu xám trong một bức
tranh sơn dầu, nhắc tôi nhớ đến một bức tranh nằm sâu trong tâm khảm:
Một chiếc phà chở áo quan từ từ tách bến Sàigon qua bên kia Thủ Thiêm,
trên nóc áo quan ướt sũng một lá quốc kỳ sô lệch trông như một chiếc
chăn vàng ố cũ rách, bát nhang tắt ngấm vì nước mưa, người lính đi tháp
tùng đứng im lìm như một pho tượng của ngàn năm cũ.
Mưa thản nhiên rơi rên áo quan, rơi trên đầu, trên cổ người lính từng
giọt, từng giọt. Tôi đứng nhìn ông Trời họa sĩ vẽ tranh vào không gian.
Mầu xám của nền trời căng ra như một khung vải, chiếc áo quan phủ quốc
kỳ sộc sệch, người lính đứng bên mặt lạnh, xanh tái như mầu áo trận,
chiếc phà cũ kỹ bạc phếch. Tất cả được họa sĩ Trời mang vào trong tranh,
dưới một gam mầu lạnh. Tôi mang theo bức tranh này trong suốt mấy chục
năm ở quê người, đó là tài sản duy nhất sót lại của đời người di tản.
Ngày tôi đến trại Pendleton cũng vào một đêm mưa. Mưa không to lắm, nhưng khí hậu sa mạc của California về đêm làm mọi người lạnh cóng. Trẻ con, người lớn và ngay cả người già cũng đều được phát cho một chiếc áo lính cùng một cỡ để mặc cho ấm. Trong đêm tối, chúng tôi trông như những bụi cây không đều nhau, biết đi. Chúng tôi đứng xếp hàng chờ nhận lều, giơ tay vuốt mặt, ướt sũng nước mưa và nước mắt.
Ngày tôi lấy chồng cũng vào một ngày mưa. Ở California giữa tháng chín mà mưa có lạ không! Theo phong tục Mỹ, cô dâu chú rể vừa bước ra ngưỡng cửa nhà thờ người ta tung gạo như mưa vào người để chúc may mắn. Ở quê tôi người ta chỉ ném gạo theo sau những chiếc áo quan vì sợ người chết bị đói. Mẹ tôi (dù là người Công Giáo) thấy giữa đám cưới mà bị ném gạo thì hoảng quá giơ tay ngăn lại. Tôi nghĩ cả hai phong tục điều hay cả. Nếu lấy nhau mà không được nuôi bằng tình yêu thì cũng bị đói vậy. Cơn mưa nào cũng mang theo ý nghĩa của nó.
Chị em tôi ở Mỹ lâu lắm rồi, lâu đến nỗi thỉnh thoảng nghĩ đến bàng hoàng cả người. Vì tính ra khoảng thời gian mình ở Mỹ đã dài bằng khoảng thời gian ở cả Hà Nội và Sài gòn cộng lại. Thế mà chúng tôi vẫn hay nhắc đến những cơn mưa ở quê nhà. Chúng tôi hay nói: Tối qua mưa nặng hạt và to tiếng như mưa ở Sàigòn, hay mưa rả rích mấy ngày liền như thế này thì có kém gì Huế! Nhưng ở đây lâu thế mà sao không thấy ai hứng nước mưa để uống, để pha trà nhỉ? Người kỹ tính lắm thì cũng chỉ pha trà bằng nước bán trong chai. Tôi nhớ ngày trước, nhà tôi có căng một miếng vải màn trắng trên miệng một chiếc vại để ngoài sân hứng nước mưa uống quanh năm. Người Việt sang đây dản dị hóa đã bỏ hết những chuyện uống cầu kỳ này.
Mưa ở Seattle làm cho những dẫy núi bao bọc chung quanh thành phố trông tinh khiết và cao cả hơn lên, những cây tùng cây bách giữ mãi một mầu xanh thẫm, chạm tay lên lá, lá mịn màng, trong sạch như thiếu nữ mới lớn, mưa làm nước hồ thăm thẳm mềm mại như một giải lụa. Tiếng chim hót trong mưa thánh thót hơn, con sóc, con chồn lúc nào cũng có một bộ lông còn mới dưới mưa. Và hình như sống ở nơi có nhiều mưa con người điềm đạm và bao dung với nhau hơn. Tuổi trẻ thì dản dị, tự nhiên. Tôi đã thấy những học sinh trung học ở đây đứng thản nhiên hôn nhau dưới mưa trước cổng trường.
Ôi những cơn mưa ở hai đầu trái đất! Mưa Sàigòn và mưa Seattle. Cũng chỉ là những đám mây tụ lại, rồi rơi xuống. Nhưng khi rơi trên nóc một chiếc áo quan của người lính, trên chiếc áo dài trắng của cô học trò trung học, trên mái tóc của hai người yêu nhau, trên vai áo của người tỵ nạn Việt Nam, nó khác biệt thế nào so với khi rơi xuống trên những cành thông ở Seattle hay giữa một đám cưới ở California ? Và khi vẽ mưa trong những bức tranh ở những nơi khác nhau, người ta có vẽ cho nó những hình thể khác nhau, chọn những gam mầu khác nhau?
Ước gì có ai vẽ được linh hồn của những giọt mưa!
Tháng 7/03/03
TRẦN MỘNG TÚ
TẬP CẬN BÌNH & GIANG TRẠCH DÂN
Đả hổ diệt ruồi" hay "phục hổ- hàng long"?
Mục đích chính trị hay tư pháp?
Hôm thứ ba 12 tháng 8, 2014, lại có tin một tướng lãnh
cựu phó chủ tịch quân ủy trung ương Trung Quốc, Thượng tướng Quách Bá
Hùng, bị câu lưu để điều tra như môt nghi can tham nhũng. Họ Quách cũng
bị bắt về cùng một tội danh giống như cấp trên của ông là Thượng Tướng
Từ Tài Hậu: "nhận hối lộ để cho hàng loạt sĩ quan quân đội thăng cấp".
Tin hôm qua mới là tin chính thức, vì báo Hoa ngữ hải
ngoại Bác Tấn đã loan tin từ một tháng trước, nói là họ Quách có thể đã
bị bắt. Tướng Bá-Hùng là người thân cận với thượng tướng Từ Tài Hậu, và
cũng có quan hệ thân thiết với nhân vật được gọi là trùm tham nhũng của
Trung Quốc, cựu Ủy viên thường trực Bộ chính trị Chu Vĩnh Khang. Những
người này còn là những người rất thân thiết về chính trị với
cựu Bí thư
Trùng Khánh đã bị thanh trừng là Bạc Hy Lai, và tất cả đều phục tùng một
người cao hơn nữa.
Cả ba nhân vật trong nhóm đảng viên cao cấp nhất của
đảng Cộng sản Trung Quốc, trong đó có một ủy viên thường vụ bộ chính
trị, điều khiển công an và tình báo Chu Vĩnh Khang, hai cựu phó chủ
tịch quân ủy trung ương Từ Tài Hậu, Quách Bá Hùng, ngoài những điểm
chung về tham nhũng và thân thiết với ông Bạc Hy Lai đã đành, họ còn là
những người thân tín của ông Giang Trạch Dân, do ông Giang đưa vào Quân
Ủy trung ương dưới thời chủ tịch Hồ Cẩm Đào là người lãnh đạo Đảng vào
lúc đó. Ông Giang Trạch Dân làm như vậy để giữ ảnh hưởng quyền lực quân
sự và chính trị.
Vì thế vụ thanh trừng cấp cao của đảng Cộng sản Trung
Quốc không khỏi liên quan đến vấn đề chính trị trong Đảng. Rõ ràng ông
Tập Cận-Bình vẫn tiếp tục thanh toán phe cánh của Bạc Hy Lai, cựu bí thư
Trùng Khánh đã bị hạ bệ cùng với vợ là Cốc Khai Lai. Nhưng đối tượng
sau cùng có thể là chính người bảo kê cho những con hổ này.
Một chiến dịch tư pháp chống tham nhũng phải do hệ thống
tòa án và an ninh quyết định mục tiêu và hành động. Ở đây việc quyết
định bắt ai và chừa lại những ai chỉ do hai người, là Chủ tịch Tập
Cận-Bình và người thân tín nhất của ông, Trưởng ban kỷ luật trung ương
Đảng Vương Kỳ Sơn.
Ngoài những nhân vật cao cấp có ảnh hưởng chính trị và
quyền bính, hay nói rõ hơn là trong cuộc đấu tranh quyền lực trong giới
lãnh đạo tối cao ở Bắc Kinh, chiến dịch còn nhắm đến tất cả viên chức ở
mọi cấp, chính trị cũng như chuyên viên, dính líu vào tham nhũng từ
trước đến nay. Vài khuôn mặt điển hình mới nhất trong giới này là Đào
Ly-Minh, cựu giám đốc Ngân hàng tiết kiệm quốc doanh Bưu điện Trung Hoa,
bị bắt hôm 13 tháng 8, hay Vương Tôn Nam, cựu tổng giám đốc công ty
thực phẩm quốc doanh lớn nhất của Trung Quốc ở Thượng Hải, bắt hôm 12
tháng 8. Ngoài ra trong hai tháng nay còn có hằng chục viên chức, đảng
viên cỡ đó bị câu lưu và điều tra, chưa kể trên 30 viên chức cấp thứ
trưởng trở lên đã là mục tiêu thanh trừng.
Điều này chứng tỏ hành động vá trời lấp biển của ông Tập Cận-Bình nhắm cả hai mục tiêu chính trị lẫn tư pháp, chống tham nhũng,
Sờ gáy cựu chủ tịch ?
Chỉ riêng vụ Chu Vĩnh Khang và Từ Tài Hậu bị thanh trừng
đã được mô tả là trận động đất lớn trong tầng lớp lãnh đạo tối cao của
Trung Quốc, nay nếu tới lượt Giang Trạch Dân bị sờ gáy thì đúng là trận
đại hồng thủy của nền chính trị Trung Quốc do đảng Cộng sản lãnh đạo.
Tuy nhiên trước Giang Trach Dân, nếu có thể kể tới ông
này, người ta đã chú ý đến cựu phó chủ tịch nước Tăng Khánh Hồng, có thể
đang trong tầm ngắm của chủ tịch họ Tập và các đồng chí thân tín.
Được coi là nhân vật từng chống lưng cho Chu Vĩnh Khang.
Tăng Khánh Hồng năm nay 75 tuổi, từng là Ủy viên bộ chính trị cùng với
Ôn gia bảo, Giả Khánh lâm, Ngô Bang Quốc cùng 4 người khác và Hồ Cẩm Đào
lãnh đạo nền chính trị quân sự Trung Quốc, sau thời Giang Trach Dân và
Chu Dung Cơ.
Tăng Khánh Hồng cũng giống như Chu Vĩnh Khang, từng công tác hơn 30
năm trong ngành dầu khí, và đều được cựu Bộ trưởng dầu khí–năng lượng
Trương Đường Khắc đề bạt, sau đó thăng tiến nhanh chóng và trở thành
nhân vật mà dư luận người Hoa ngoài nước gọi là "chưởng môn nhân bang
dầu khí”. Tăng Khánh Hồng còn được xưng tụng là “đầu rồng” của “bang
dầu khí” giàu có này. Nhưng lúc con hổ Chu Vĩnh Khang sa lưới cũng là
lúc bang hội dầu khí giàu có ngất trời này bắt đầu lâm nạn. Tờ Minh Báo
cho biết đã có hơn 120 quan chức từ cấp sở trở lên bị điều tra. Nhiều
người trong số đó từng có quan hệ trên mức thân thiết với Tăng Khánh
Hồng và Chu Vĩnh Khang.
Tướng lãnh bất tuân
Về Giang Trạch-Dân, người ta phải mở lại hồ sơ Chu Vĩnh Khang, Từ Tài Hậu, Ôn Gia Bảo, Hồ Cẩm Đào.
Đầu tiên cần nhằc lại rằng Chu Vĩnh Khang là một trong đôi ba nhân
vật có quyền lực cao nhất ở Bắc Kinh, được giới quan sát gọi là "Sa
Hoàng" ngành an ninh tình báo của Trung Quốc, một cơ chế không lồ lâu
đời quản lý đời sống chính trị và an ninh của tất cả hơn 1 tỷ người
Trung Quốc, có ngân sách tương đương hay lớn hơn ngân sách của quân đội.
Từ Tài Hậu là phó chủ tịch quân ủy trung ương vào thời Hồ Cẩm Đào là
chủ tịch đảng, chủ tịch nước và chủ tịch quân ủy. Tuy nhiên người ta cho
rằng vị chủ tịch quân ủy trung ương này chẳng khác gì bù nhìn, khi họ
Từ và một phó chủ tịch kia chỉ nghe lệnh Giang Trạch-Dân, khi đó đã về
hưu, bàn giao chức vụ cho họ Hồ.
Giới quan sát được biết là sau trận động đất ở Văn Xuyên, Tây tạng
năm 2008, thủ tướng Ôn Gia-bảo đến thị sát tại chỗ, nhưng quân đội bầt
tuân lệnh của ông khiến nhiều người đã mất cơ hội quý giá để được cứu
sống.
Họ Ôn thúc đẩy công cuộc cứu cấp, ra lệnh khẩn cấp khai thông ngay
lập tức con đường đếnVăn Xuyên bằng mọi giá. Các đơn vị quân đội tỏ ra
cố tình trì hoãn thi hành, có đơn vị còn dám từ chối đưa quân tới giúp,
với lý do "thời tiết chưa tốt". Thủ tướng họ Ôn hét lên trong điện thoại
với một tướng lảnh "Tôi không cần biết lý do, nhân dân trả lương cho
anh, việc đó tùy anh" và dập mạnh chiếc điện thoại xuống.
Tướng Từ Tài Hậu điều khiển quân đội trong 10 năm. Không rõ vì sao
thời gian đó Giang Trạch-Dân vẫn nắm giử quyền lãnh đạo quân sự dù ông
đã nghĩ hưu. Người ta chỉ thấy chủ tịch đương nhiệm Hồ Cẩm Đào không có
quyền hành gì với quân đội, vì các tướng chỉ huy đều là người do họ
Giang đề bạt, và chỉ nghe lệnh Giang Trạch-Dân.
Tướng Trần Bình Đức, Tổng tham mưu trưởng quân đội thời đó, phổ biến
một báo cáo cho biết sau khi động đất ở Văn Xuyên 72 giờ đồng hồ hai ông
Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo vẫn không thể điều động được quân đội tới nơi,
vì Giang Trạch-Dân giữ quyền chuẩn thuận mọi hành động quân sự.
Nhà nghiên cứu, cựu Giám đốc xuất bản của Đại học quốc phòng Trung
Quốc Tân Tử Lăng nói với đài VOA rằng Hồ Cẩm Đào chỉ có quyền ban lệnh
cho cấp Thiếu tướng trở xuống, từ trung tướng trở lên chỉ nhận lệnh của
Giang Trạch-Dân. Họ Tân còn nói Hồ Cẩm Đào "không thể nói" được quân
đội.
(Nhà nghiên cứu Tân Tử Lăng là tác giả quyền "Mao Trạch Đông, ngàn
năm công, tội" (Thông tấn xã Việt Nam dịch và in năm 2009, bản điện tử
do "Mõ Hà Nội" đưa lên mạng, http://www.viet-studies.info/kinhte/MaoTrachDong_NganNamCongToi.htm))
Hẳn nhiên ông Tập Cận-Bình không thể không rõ về những sự kiện đó.
Đầu tháng 7 vừa qua, bốn "con hổ lớn" được coi là "đệ tử" của Giang
Trạch-Dân cùng bị trục xuất khỏi Đảng và đi tù cùng một lúc. Đó là: Từ
Tài Hậu, Lý Đông Sanh, Tưởng Khiết Mẫn và Vương Vĩnh Xuân.
Trước đó nữa là vụ Bạc Hy Lai. Họ Bạc nhanh chóng thăng tiến ở Đại
Liên và Liêu Ninh, Trùng Khánh cũng nhờ được Giang Trạch-Dân chiếu cố.
Mối quan hệ khởi đầu từ năm 1999 khi Bạc Hy Lai đi Bắc Kinh mời họ Giang
thăm Đại Liên trong lễ kỷ niệm 100 năm tuổi của thành phố. Ông Giang
Trạch-Dân đã rất hài lòng khi thấy bức chân dung khổng lồ của mình được
treo trên quảng trường trung tâm thành phố. Từ đó sự nghiệp của họ Bạc
lên như diều gặp gió, một phần cũng do tài lãnh đạo và quản lý của ông.
" Phục Hổ, Hàng Long"?
Hiển nhiên Tập Cận-Bình đã nhắm bắn hạ toàn những tay chân trong vòng thế lực của cựu TBT, Chủ tịch nước Giang Trạch-Dân.
Tăng Khánh Hồng cũng nằm trong phe nhóm đó. Vì thế rất đông trong
giới phân tích về Trung Quốc đang nóng lòng chờ đòn phản công của Giang
Trạch-Dân cùng những tay chân còn lại, hay cảnh họ Giang lên xe "bảo hộ"
để đi trả lời trước hệ thống kỷ luật của đảng Cộng sản và tòa án.
Chưa có tin chính thức về việc này, nhưng chỉ với việc cựu phó chủ
tịch nước họ Tăng xuất hiện trong tầm ngắm của nhà thợ săn "đả hổ diệt
ruồi" Tập Cận-Bình, người ta chuẩn bị phong tặng ông họ Tập danh hiệu
"hàng long phục hổ" nhờ thành tích nắm đuôi những con rồng họ Tăng, hay
họ Giang.
Thời Giang Trạch-Dân và Chu Dung Cơ có lần Thủ tướng họ Chu đã lên án
tập đoàn Thiên Thành thuộc Tổng Cục chính trị, bộ Tổng tham mưu hoạt
động buôn lậu, có sĩ quan cao cấp bảo kê và can thiệp, bắt giam cả phái
viên của Thủ tướng đến điều tra. Chuyện tham nhũng và xa hoa trụy lạc
động trời của nhiều sĩ quan cao cấp trong quân đội nhân dân Trung Hoa đã
được lôi ra ánh sáng từ khi đó, nhưng mãi đến nay những con hổ lớn mới
sa lưới vì cả hai lý do phe phái chính trị và hành vi tham nhũng, phạm
pháp hình sự.
Liệu nhà thợ săn "tráng sĩ hàng long phục hổ" có trở thành "liệt sĩ" về sự nghiệp và thanh danh không?
Dư luận có nghĩ đến chuyện đó, và nhớ lại vài ngày trước khi xảy ra
vụ Chu Vĩnh Khang vào ngày 30 tháng 6, ông Tập Cận-Bình tuyên bố trong
một buổi họp tối mật của Bộ chính trị, nguyên văn được chép lại, rằng :"Hai đạo quân tham nhũng và chống tham nhũng đang trong thế đối đầu bế tắc"
Một tờ báo nhà nước ở vùng đông bắc Trung hoa thuật lại tin này, cho biết thêm ông Tập còn nói :"Trong cuộc tranh đấu chống tham nhũng, tội không cần biết sống chết, cũng không lo thanh danh hủy hoại". Một số báo chí Nhà nước trích lại tin này nhưng sau đó đều bị kiểm duyệt gỡ xuống khỏi mạng.
Tuy nhiên đến nay đã hai tháng qua, ông họ Tập đã nhốt được hai con
hổ cựu phó chủ tịch quân ủy trung ương Chu Vĩnh Khang, Quách Bá Hùng,
chứng tỏ ông đã báo động tình hình như vậy để đòi hỏi sự ủng hộ, yểm trợ
của bộ chính trị, và đã thành công.
Người Việt ta có mong Việt Nam sắp có một tráng sĩ Hàng
Long Phục Hổ như Tập Cận-Bình, nếu không thành công thì cũng thành nhân,
hay chăng? Mong quý vị trả lời câu hỏi này trong mục "Ý kiến bạn đọc" ở
cùng trang.
Câu trả lời của Mặc Lâm, RFA, là "Võ Tòng đả hổ có quốc tịch Trung hoa, không phải người Việt Nam!"
Tuy nhiên Mặc Lâm đã quên rằng nước Đại Việt cũng có
dũng sĩ Lê Văn Khôi, con nuôi Tả Quân Lê Văn Duyệt, biểu diễn tay không
đấm chết hổ trong buổi Tả Quân khao tiệc sứ thần Xiêm La.
Sau khi Lê Tả Quân qua đời và bị vua Minh Mạng truy án,
Khôi khởi binh chiếm thành Phiên An (Sài Gòn) và các thành lân cận,
nhưng sau cùng bị vây trong thành và chết vì bệnh phù thủng.
Blog / Bùi Tín
Săn đàn hổ dữ hay cưỡi lưng hổ?
11.08.2014
Ông Tập Cận Bình, Tổng Bí thư đảng CS Trung Quốc kiêm Chủ tịch nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đang nổi lên như nhân vật cương quyết nhất
trong việc chống tham nhũng trong nước ông - được coi là một thảm họa
đe dọa sự tồn vong của chế độ.
Ông nhậm chức khi vụ án vợ chồng Bạc Hy Lai - Cốc Khai Lai đang làm
dư luận sôi động, Bạc đang nổi lên như một ngôi sao sẽ leo lên tột đỉnh
quyền lực do được Giang Trạch Dân bảo trợ. Trước đó Bạc Hy Lai là Ủy
viên Bộ Chính trị được cho là đang nắm chắc vị trí Ủy viên thường vụ Bộ
Chính trị bao gồm 9 người có thế lực lớn nhất, để rồi sẽ lên cao hơn
nữa. Mức án tử hình cho Cốc Thái Lai và chung thân cho Bạc Hy Lai làm
rung động hàng ngũ quan chức cao cấp nhất của đảng CS.
Đầu năm 2014, vụ án Chu Vĩnh Khang được mở tiếp ra, gây chấn động gấp
nhiều lần vụ án Bạc Hy Lai. Vì Chu là Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị,
lại là Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị có thế lực bậc nhất, với chức vụ
Trưởng Ban Chính - Pháp của đảng CS, trực tiếp nắm các bộ máy chuyên
chính là công an, tình báo, phản gián, tư pháp, tòa án, kiểm sát, thanh
tra; có thể nói là trên thực tế có quyền sinh quyền sát không hạn độ.
Số cán bộ liên quan đến Chu Vĩnh Khang bị cất chức, bắt giam không
ngừng tăng rất nhanh, tháng 4/2014 là 150 người, tháng 6 vừa qua đã lên
đến gần 400, theo Thời báo Hoa Nam (25/7). Những người bị bắt đều là các
nhân vật tai to mặt lớn, cán bộ cao cấp trong ngành công an và ngành
dầu khí là hai ngành Chu Vĩnh Khang từng đứng đầu trên cương vị Bộ
trưởng Công an (2002-2007) và Tổng Giám đốc Tập đoàn dầu khí quốc gia
(1996-1998).
Theo tin trên, gần một trăm nhà kinh doanh lớn, những tỷ phú đô la Đỏ
cũng bị sờ gáy, như hai nhà đại tài phiệt Lưu Hán và Ngô Bình lừng danh ở Tứ Xuyên có quan hệ chặt chẽ với con trai của Chu Vĩnh Khang là Chu Bân.
cũng bị sờ gáy, như hai nhà đại tài phiệt Lưu Hán và Ngô Bình lừng danh ở Tứ Xuyên có quan hệ chặt chẽ với con trai của Chu Vĩnh Khang là Chu Bân.
Giới quân sự cũng bị chấn động mạnh khi nhiều sỹ quan cấp cao bị thẩm
vấn, tiêu biểu nhất là Tướng Từ Tài Hậu, từng là Phó Bí thư Quân ủy
Trung ương đầy thế lực, tưởng như không ai dám động đến.
Đến ngày 26 tháng 7/2014 tờ Epoch Times đưa tin chấn động. Một nhân
vật nữa từng được coi là bất khả xâm phạm đã bị bắt giữ ở Thiên Tân. Đó
là Tăng Khánh Hồng, từng là Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch
nước, trước đó là Trưởng ban Tổ chức Trung ương đầy thế lực. Ngay trước
đó báo này cũng đưa tin ông Giả Khánh Lâm, cựu Chủ tịch Hội nghị hiệp
thương chính trị nhân dân, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị đảng CS Trung
Quốc đã bị bắt giam.
Tờ Weibo của Trung Quốc ở Hồng Kông (5/2014) gọi các nhân vật bị bắt
vừa qua là những “siêu hổ”, nghĩa là những con hổ rất hung dữ, nanh vuốt
nhọn hoắt, rất nguy hiểm.
Nếu hoàn tất hồ sơ, phiên tòa để xét xử vụ án khổng lồ này sẽ là sự
kiện chính trị chấn động Trung Quốc và không khỏi vang dội ra toàn thế
giới.
Có một nét đáng chú ý là Pháp Luân Công (PLC), một tổ chức có gần 100
triệu thành viên ở Trung Quốc và hơn 20 triệu ở các nước khác, rất quan
tâm đến vụ án cực lớn này. Họ cho rằng có một sự trùng hợp rõ rệt là
những bầy "siêu hổ" tham nhũng lớn nhất cũng đồng thời là những bầy sói
tàn bạo nhất đối với PLC. Họ lập luận rằng Chu Vĩnh Khang, Tăng Khánh
Hồng, Giả Khánh Lâm, Bạc Hy Lai… đều là những tên đồ tể chủ trương sát
hại PLC một cách điên loạn nhất. Những kẻ này chủ trương dùng lực lượng
công an cùng bọn côn đồ xã hội đen để bắt bớ, tra tấn, thủ tiêu không
xét xử các thành viên hoàn toàn lương thiện và có đạo đức của PLC. Tội
ác tày trời của họ là đã lợi dụng lời vu khống của lãnh đạo CS coi PLC
là "tà đạo" nguy hiểm cho xã hội, đã tổ chức giết rất nhiều thành viên
PLC, lấy các bộ phận của nạn nhân đem bán lấy tiền chia nhau. Các bộ
phận đó thường là gan, thận, tim, mắt…của các nam nữ thành viên PLC được
bán theo giá cao cho các bệnh nhân giàu có để được ghép thay cho các bộ
phận đã bị bệnh nặng.
Cũng theo Weibo, kẻ cầm đầu đích thực của nhóm tham nhũng đang bị tóm
gáy không phải ai khác, chính là nguyên Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, và
người từng khai tử PLC cũng không phải ai khác, chính cũng là Giang
Trạch Dân, khi Giang công khai tuyên bố vào năm 1999 đặt "tà pháp" PLC
ra ngoài vòng pháp luật. Cuộc tàn sát PLC bắt đầu từ đó. Một số thành
viên PLC ở Hà Lan và Bồ Đào Nha còn đòi truy tố Giang ra tòa án quốc tế
về tội diệt chủng.
Công luận Trung Quốc ngày càng nhận ra hầu hết những “siêu hổ” hiện
bị giam trong chuồng đều là tay chân tin cẩn nhất của Giang Trạch Dân,
do chính Giang lựa chọn và giới thiệu. Chu Vĩnh Khang, Giả Khánh Lâm,
Tăng Khánh Hồng, Bạc Hy Lai, Có tin chính Giang đã từng không đồng tình
với việc chọn Tập Cận Bình thay cho Hồ Cẩm Đao. Còn có tin tay chân
Giang định ám sát Tập Cận Bình.
Vụ án siêu nghiêm trọng vê bầy "siêu hổ" tham nhũng của Trung Quốc
đang ở thời kỳ kết thúc. Tập Cận Bình đang suy nghĩ và tính toán. Đụng
đến, bắt giam các nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, rồi bắt giam 2 nguyên Ủy
viên Thường vụ Bộ Chính trị là những hành động mạo hiểm chưa từng có. Xã
hội Trung Quốc rất hoan ngênh việc kiên quyết nói và làm như thế. Nhưng
ông có dám đụng tiếp đến nguyên Tổng Bí thư đảng CS TQ Giang Trạch Dân
hiện vẫn còn nhiều ảnh hưởng, nhiều chân tay trong đảng hay không?
Cũng nên nhớ rằng Giang Trạch Dân, Lý Bằng, Chu Vĩnh Khang, Tăng
KhánhHồng, Bạc Hy Lai…cũng là những kẻ sốt sắng nhất trong vụ tàn sát
hàng mấy ngàn sinh viên trên quảng trường Thiên An Môn tháng 6 năm 1989,
qua xích hàng trăm xe tăng, theo ý kiến của Đặng Tiểu Bình. Lúc ấy chỉ
có Triệu Tử Dương là chống lại.
Tập Cận Bình vẫn còn dè dặt khi thời kỳ khởi đầu vụ án sắp kết thúc.
Bản cáo trạng chung sẽ được công bố, chuẩn bị cho cuộc xử án. Giang
Trạch Dân vẫn còn là con hổ dữ nhiều nanh nhiều vuốt, có tay chân trung
thành cài khắp nơi ở mọi cấp. Có thể Giang sẽ ra tay trước. Có thể lắm.
Tập Cận Bình đang săn bầy hổ dữ hay đang cưỡi lưng hổ, một tư thế
không dễ chịu, không thoải mái chút nào. Tình hình sẽ có thể rất ly kỳ,
sôi động vào cuối năm nay.
Và tác động đến Việt Nam chắc sẽ không nhỏ.
* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog
cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA
nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Bùi Tín
Nhà
báo Bùi Tín hiện sống tự do ở Pháp, là một nhà báo chuyên nghiệp, một
nhà bình luận thời sự quốc tế, và là cộng tác viên thường xuyên của đài
VOA. Ðối tượng chính của nhà báo Bùi Tín là giới trí thức trong và ngoài
nước, đặc biệt là tuổi trẻ Việt Nam quan tâm đến quê hương tổ quốc.
http://www.voatiengviet.com/content/san-dan-ho-du-hay-cuoi-lung-ho/2409738.html
http://www.voatiengviet.com/content/san-dan-ho-du-hay-cuoi-lung-ho/2409738.html
GORDON G. CHANG * TẬP CẬN BÌNH
“Gorbachev” Tàu đang xé nát Đảng Cộng sản
Tháng 8 16, 2014
Gordon G. Chang
Phan Trinh dịch
“Tập Cận Bình, giống Gorbachev, muốn làm
điều vĩ đại để cải cách một hệ thống bệnh hoạn. Nhưng cũng như lãnh tụ
cuối của Liên Xô cũ, Tập vừa kích hoạt những chuyển biến mà ông không
thể kiểm soát được.”
Giới thiệu của người dịch:
Lập luận của Gordon rất đáng chú ý,
nhất là khi ông so Tập Cận Bình với Gorbachev, người vừa cố sửa vừa cố
giữ, sao cho không đổ vỡ, một hệ thống đã không thể sửa. Thực ra, bài
học của Gorbachev nôm na chính là: Sai không sửa không được, nhưng cứ
sửa là sụp.
Hóa ra Tập không vô địch, mà đang
“thọ địch”, Tàu không siêu cường muốn làm gì thì làm, mà là một pho
tượng khổng lồ đứng trên bục đất bở. Và hóa ra Đặng Tiểu Bình nói quá
đúng:“Nếu Trung Quốc rơi vào bất ổn, thì bất ổn sẽ xuất phát từ chính
nội bộ Đảng Cộng sản”.
Nếu xâu chuỗi những ngày tháng nêu
trong bài – Bộ Chính trị Tàu họp kín ngày 26/6, trong đó Tập tuyên bố
không màng sống hay chết trong công cuộc chống tham nhũng, và ngày 29/7,
ngày ra thông báo điều tra Chu Vĩnh Khang – thì có thể đặt thêm một giả
thuyết, không phải không có lý, đó là: Trung Quốc rút giàn khoan 981
khỏi vùng biển Việt Nam ngày 15/7, sớm trước một tháng, thực ra cũng chỉ
vì đấu đá nội bộ đang đến hồi quyết liệt. (Đó là chưa kể Chu Vĩnh Khang
từng là một ông trùm dầu khí với nhiều tay chân trong ngành.) Và với
Tập Cận Bình, có lẽ “thù trong” còn đáng sợ gấp trăm lần “giặc ngoài”.
Bài gốc đăng trên National Interest ngày 14/8/2014 có tên “China’s “Gorbachev” Is Tearing the Communist Party Apart”. Những tiêu đề nhỏ là của người dịch.
__________
Sống-chết, mất-còn
“Tôi không màng mình sẽ sống hay chết, tiếng tăm mình sẽ còn hay mất, trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng này.” Tập Cận Bình đã mạnh miệng như thế, trong một phiên họp kín của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc
ngày 26/6 vừa qua. Lãnh tụ nhiều tham vọng họ Tập cũng nhắc đến hai đội
quân, một bên là đội quân “tham nhũng”, bên kia là đội quân “chống tham
nhũng”, và hai lực lượng, theo ông, đang lâm vào thế “tiến thoái lưỡng
nan.”
Những lời tuyên bố hùng hồn này, được
một Ủy viên Trung ương Đảng tiết lộ, có vẻ chính xác và phù hợp với
những thông tin trước đó rằng ông Tập đã đọc một diễn văn “gay gắt đến chấn động” về chiến dịch chống tham nhũng. Báo South China Morning Post
tại Hongkong cho biết một nguồn tin liên quan đến bài diễn văn của Tập
đã xác minh điều vừa kể. Rõ ràng, hiện đang diễn ra cuộc đấu đá nghiêm
trọng giữa các phe phái cao cấp ở Bắc Kinh.
Mới gần đây thôi, phần lớn dư luận chỉ
chú trọng đến việc ông Tập nhanh chóng củng cố vị thế chính trị sau khi
trở thành Tổng Bí thư Đảng vào tháng 11/2012. Chẳng hạn vào năm
2013,trong đêm trước ngày diễn ra hội nghị thượng đỉnh thân mật giữa Chủ
tịch Tập và Tổng thống Obama, tờ New York Times và Wall Street Journal
cho biết quan chức Nhà Trắng khẳng định Tập Cận Bình đã nắm được quyền
kiểm soát các cơ quan quyền lực của Đảng và quân đội nhanh hơn họ dự báo
rất nhiều.
Cũng vậy, từ đó đến nay, việc truy tố
rộng rãi các quan chức từ cao đến thấp – từ “hổ” đến “ruồi” trong từ
vựng Trung cộng – được xem như bằng chứng ông Tập đã nắm trong tay hệ
thống chính trị. Đầu tháng này, nhà báo Andrew Browne, viết trên tờ Wall Street Journal
rằng: “Ít nhất là cho đến bây giờ, gần như không có dấu hiệu chống
đối.” Tuy nhiên, thời điểm bài báo của Browne xuất hiện quả là không
may. Vì ngay khi bài báo “không có dấu hiệu chống đối” được đưa lên mạng
thì thông tin về bài diễn văn mạnh miệng trước Bộ Chính trị của Tập Cận
Bình bắt đầu được lan truyền tại Hoa lục.
Thời khắc quyết định
Những điều hùng hồn Tập Cận Bình nói ở trên làm người nghe nhớ đến tuyên bố đình đám năm 1998 của ông Chu Dung Cơ,
về việc hãy chuẩn bị sẵn 100 cỗ quan tài cho bọn tham nhũng, nhưng cũng
chuẩn bị luôn cho ông một cỗ vì ông sẵn sàng chết trong cuộc đấu tranh
giành lại “niềm tin của nhân dân vào chính phủ”. Thế nhưng, tuy dùng
ngôn ngữ đầy kịch tính, lời lẽ của ông Tập lại cho thấy tình trạng chống
đối quyết liệt và sự bất mãn cao độ đang diễn ra trong giới lãnh đạo
chóp bu.
Theo lời giáo sư Trương Minh (Zhang
Ming) thuộc Đại học Nhân dân Trung Quốc, vì đang có quá nhiều chống đối
và bất mãn nên có thể xem đây chính là thời khắc quyết định mất-còn,
được ăn cả ngã về không, của đồng chí Tập Cận Bình. Quả là một thời kỳ
tế nhị vì việc chuyển giao lãnh đạo chính là nhược điểm lớn nhất của
những hệ thống độc tài toàn trị, và Trung Quốc đang ở ngay trong một
thời điểm rất dễ vỡ. Việc chuyển giao quyền lực từ Thế hệ Thứ tư Hồ Cẩm
Đào cho Thế hệ Thứ năm Tập Cận Bình là lần chuyển giao quyền lực đầu
tiên trong lịch sử Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc mà không được lãnh tụ
tối cao Đặng Tiểu Bình dàn xếp. Đặng Tiểu Bình, sau khi hất chân nhân
vật chuyển tiếp Hoa Quốc Phong, đã tự đưa mình lên ngôi cao nhất, và sau
đó ông chọn Giang Trạch Dân kế vị mình và sau nữa chọn Hồ Cẩm Đào kế vị
Giang. Dĩ nhiên, Đặng không còn ở thế có thể dàn xếp người vào ghế cao
nhất trong thời hậu-Hồ.
Các chuyên gia về Trung Quốc, dù không
thân thiện với chế độ, đã cho rằng việc chuyển giao gần đây được thực
hiện theo đúng các quy trình, thể lệ của Đảng, và đã diễn ra “êm thắm”.
Mặc dù được chuyên gia nhận định như thế nhưng thực ra đã có những vấn
đề nghiêm trọng,vì trong một nhà nước độc đảng, kể cả một nước quan liêu
nặng như Trung Quốc, mọi nội quy luật lệ đều có thể thay đổi tùy theo
ngẫu hứng bất chợt của lãnh tụ.Và trong cuộc chuyển giao Hồ-Tập vừa rồi,
một số điều bất ngờ đã xảy ra.
9 còn 7, và ghế đập lưng ông
Chẳng hạn, đã có sự cắt giảm ngoài dự
đoán con số thành viên của Ban Thường vụ Bộ Chính trị, tức đỉnh cao
quyền lực chính trị, từ con số chín người xuống còn bảy. Đây là bằng
chứng cho thấy việc chuyển giao quyền lực là kết quả sự dàn xếp giữa các
bên, chứ không phải là kết quả bầu chọn theo luật định. Thêm vào đó, vụ
Tập Cận Bình biến mất trong hai tuần vào tháng 9/2012 – theo một bài trên tờ Washington Post,Tập
bặt tăm hai tuần vì bị chấn thương khi một đồng nghiệp ném ghế trong
một phiên họp cấp cao, và ghế đập trúng lưng Tập – được cho là dấu hiệu
của sự bất đồng nghiêm trọng trong hàng ngũ lãnh đạo. Lại cũng có hàng
loạt tin đồn về các cuộc đảo chính
trước khi chuyển giao quyền lực diễn ra, có cả tin về vụ nổ súng tại
trung tâm Bắc Kinh trong số những tin khác. Đặng Tiểu Bình từng dự báo:
“Nếu Trung Quốc rơi vào bất ổn, thì bất ổn sẽ xuất phát từ chính nội bộ
Đảng Cộng sản.”
Nhưng, có lẽ lý do quan trọng nhất cho
thấy đây là thời khắc định đoạt mất-còn của Tập Cận Bình lại chính là
tham vọng quá lớn của ông. Từ trước đến nay, lãnh tụ nào của Cộng hòa
Nhân dân Trung Quốc cũng yếu hơn tiền nhiệm của mình, trừ Tập Cận Bình.
Ông Tập rõ ràng là đã ấp ủ những hy vọng lớn và ước mơ vĩ đại kiểu Mao,
và chính điều này đã khiến ông, hơn hẳn ba vị tiền nhiệm, tiến hành
thanh trừng những đối thủ chính trị cản đường mình. Dưới vỏ bọc chống
tham nhũng, ông đã thúc đẩy điều mà nhà bình luận John Minnich thuộc Viện Chính sách (think tank) Stratfor gọi là
“nỗ lực rộng nhất và sâu nhất, kể từ khi Mao Trạch Đông chết năm 1976
và Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền hai năm sau đó, nhằm thanh trừng, tái tổ
chức và chấn chỉnh lại vị thế của giới lãnh đạo Đảng Cộng sản.”
20 tháng 36 vị
Tính đến nay, cuộc chiến của Tập đã thực sự càn quét, hạ bệ
ít nhất 36 quan chức ở vị trí thứ trưởng hoặc cao hơn trong 20 tháng
đầu tiên nắm quyền. Ủy ban Kỷ luật Trung ương Đảng cho biết năm ngoái
họ đã kỷ luật
182.000 quan chức. Bộ sưu tập những con hổ sa bẫy có cả Bạc Hy Lai, một
ủy viên Bộ Chính trị đầy sức hút, có cả Từ Tài Hậu, từng là một trong
những vị tướng quyền lực nhất nước, và có cả Chu Vĩnh Khang, ông vua lực
lượng an ninh nội chính, người phải phải rời ngôi vào năm 2012.
Thông báo về việc điều tra ông Chu Vĩnh Khang, đưa ra ngày 29/7/2014 vừa qua, đánh dấu điều một số người cho là “kết thúc giai đoạn quan trọng đầu tiên trong chiến dịch chống tham nhũng của Tập,”
nhưng điều này còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Việc truy tố chưa từng
có rõ ràng đánh dấu những ngày cuối cùng của hai thập niên ổn định chính
trị, một thời kỳ đủ dài để cho phép Trung Quốc phục hồi sức lực sau 27
năm thảm hại dưới sự cai trị của Mao Trạch Đông.
Phạm điều tối kỵ
Việc điều tra Chu Vĩnh Khang thực ra vi
phạm điều tối kỵ từng được mấy thế hệ lãnh đạo tuân thủ, đó là không
được truy tố ủy viên hay cựu ủy viên của Ban Thường vụ Bộ Chính trị. Nếu
các lãnh tụ biết mình sẽ không bị truy bức đến cùng, như họ từng bị
truy bức trong thời Cách mạng Văn hóa do Mao phát động, thì họ sẽ sẵn
lòng rút lui êm thắm nếu thất bại khi tranh giành quyền lực. Nói cách
khác, người kế vị khôn khéo của Mao, ông Đặng Tiểu Bình đã giảm thiểu
tối đa nguy cơ các nhân vật chính trị quan trọng phải chiến đấu đến cùng
và xé nát Đảng Cộng sản. Nhìn như thế thì việc cấm đụng đến các vị Ủy
viên ban Thường vụ là một yếu tố quan trọng trong việc tái lập ổn định
sau thời kỳ thanh trừng điên dại kéo dài hàng thập niên do Mao tiến
hành.
Thế nhưng, Tập Cận Bình đã đảo ngược thế
cờ và quy trình quen thuộc, và điều này thể hiện rất rõ qua vụ cho điều
tra Chu Vĩnh Khang và án chung thân dành cho Bạc Hy Lai. Đây là dấu
hiệu cho thấy Trung Quốc đang trở lại thời kỳ mà nhiều nhà quan sát nghĩ
là đã qua từ lâu, và Tập Cận Bình đang phủ nhận cách làm chính trị của
thời kỳ do Giang-Hồ thống lĩnh. Suốt thời kỳ vuốt mặt phải nể mũi đương
nhiên đó, những kẻ chơi trò quyền lực đã cố duy trì thế cân bằng mong
manh giữa những phe kình chống nhau trong Đảng. Còn đến thời Tập Cận
Bình, cuộc chiến mất-còn sống-chết tranh giành quyền lực đang biến thành
chủ trương“Tao còn, mày mất” hoặc “Mày chết, tao sống” (“You die, I live.”)
Như giáo sư Trương Minh thuộc Đại học
Nhân dân Trung Quốc nhận xét, “trận đánh” giữa Tập và những quan chức
khác “đã ở mức nóng bỏng cực độ.” Câu hỏi đặt ra là liệu trong những
tháng sắp tới, các cuộc đấu đá kia sẽ giảm cường độ hay lại càng nóng
bỏng.
Thỏa thuận?
Theo quan sát viên kỳ cựu về vấn đề Trung Quốc, ông Willy Lam, thì giai đoạn tệ hại nhất đã qua. Ông trích một nhận định của Đặng Vũ Văn – nguyên Phó Tổng Biên tập tờ Học tập Thời báo (Study Times) của Trường Đảng Trung ương – đăng trên Đại Công báo (Ta kung Po), tờ
báo Hongkong thường phản ảnh đường lối Bắc Kinh, số ra ngày 26/7:
“Nhiều người muốn biết liệu những con “hổ lớn” hoặc “hổ già” có tiếp tục
bị sa bẫy hay không. Và khả năng điều này xảy ra trong thời gian còn
lại của nhiệm kỳ năm năm lần thứ nhất gần như bằng không.” Ông tin rằng
Tập Cận Bình đã đạt được một thỏa thuận nào đó với Giang Trạch Dân, Hồ
Cẩm Đào, và những tai to mặt lớn khác trong Đảng để họ cho phép Tập làm
bất cứ những gì Tập muốn với Chu Vĩnh Khang, với điều kiện Tập sẽ không
đụng đến họ hoặc con cháu họ.
Nhưng một thỏa thuận như thế là điều
nhiều người còn hoài nghi. Hiện đang có rất nhiều dự đoán về những gì sẽ
xảy ra, và tất cả dường như đều cho thấy suy đoán của Đặng Vũ Văn không
đúng, ít nhất là với các lý do sau:
Con hổ lớn nhất & tà khí
Thứ nhất, Tập được cho là đang dùng
chiến dịch chống tham nhũng – trên thực tế thì đây là một cuộc thanh
trừng chính trị – để gạt ra ngoài những kẻ chống đối kế hoạch tái cấu
trúc kinh tế sâu rộng. Nếu điều này đúng thì thỏa thuận mà Đặng Vũ Văn
nhắc tới là sai. Xét cho cùng, nếu tìm cách thỏa thuận với phe bảo thủ
thì phe bảo thủ, vốn chịu nhiều thiệt hại nhất nếu có thay đổi, sẽ ở vào
thế có thể cản trở hầu hết các cải cách. Trong khi đó, Tập Cận Bình lại
là tuýp người khát khao để lại một di sản đáng kể – Tập muốn được xem
như người có công cứu sống Đảng Cộng sản và thực hiện được “Giấc mơ Hoa”
– và ông cũng chẳng dại gì bán rẻ tiền đồ của chính mình nếu thỏa hiệp.
Để làm được điều mọi người nói ông sẽ làm – hoặc ít nhất là nắm được
quyền lực tối cao – Tập Cận Bình cần nhổ nanh mọi đối thủ, nhổ nanh mọi
con hổ vẫn đang là chúa tể rừng rú.
Thứ hai, mọi người hầu như đang mất kiên
nhẫn với Tập, hoặc đang gặp bất lợi vì các chính sách của ông. Điều này
có nghĩa trên thực tế Tập đang có động lực rất chính đáng để tung một
chiêu ngoạn mục nhằm lấy lại sự ủng hộ của xã hội, chẳng hạn như bủa
lưới bắt luôn con hổ lớn nhất của bầy hổ là Giang Trạch Dân. Nhà bình
luận thạo tin ở Bắc Kinh, ông Lý Vĩ Đông (Li Weidong) tin rằng Tập sẽ nhắm vào mạng lưới tay chân của Giang và từ đó đảm bảo rằng 19 vị cựu Ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị sẽ vì sợ hãi mà phải tuân thủ mọi ý muốn của Tập.
Thứ ba, ngay cả khi có một thỏa thuận
giữa Tập và các bác hổ già đi nữa, thì những thỏa thuận đó cũng không
thể kéo dài. Tập chắc chắn hiểu rằng ông đã đẩy cao kỳ vọng của người
dân Trung Quốc và giờ đây ông phải làm những gì mình hứa. Quần chúng đòi
hỏi bọn tham nhũng và quan tham bị hạ bệ, quần chúng muốn thấy gió lành
thổi bay “tà khí”, mượn lời người bạn thâm niên của Tập nói với nhà báo John Garnaut.
Vì vậy, Tập sẽ không thỏa hiệp trong cuộc chiến chống tham nhũng, ngay
cả khi đó là điều Tập muốn làm. Trong xã hội Trung Quốc phát triển ngày
càng phức tạp, có những thế lực mới không thể nào xem thường.
Vượt tầm kiểm soát
Tập Cận Bình, giống Gorbachev, là người
muốn làm điều vĩ đại để cải cách một hệ thống bệnh hoạn. Nhưng cũng như
lãnh tụ cuối của Liên Xô cũ, Tập vừa kích hoạt những chuyển biến mà ông
không thể kiểm soát được. Ông quyết định tấn công tham nhũng, nhưng tệ
nạn này đã ăn quá sâu trong hệ thống chính trị cộng sản Trung Quốc, nên
rất khó có thể quản lý những nỗ lực chống tham nhũng quyết liệt. Không
may cho Tập, ông đã tạo ra những kỳ vọng lớn lao trong xã hội, và trong
cả giới tinh hoa. Cũng vì vậy ông không thể nào ngưng chiến dịch chống
tham nhũng, và điều này nghĩa là dù có ngầm thỏa thuận với những bác hổ
già đi nữa, các thỏa thuận đó không sớm thì muộn cũng tan tành, bằng
cách này hay cách khác.
Một hệ thống chính trị dễ vỡ không thể kiềm chế được những kẻ quyết chí chiến đấu đến cùng để tồn tại.
Chính trị Trung Quốc thời hiện đại có lẽ
sẽ không man rợ như trong những năm đầu lập nước Cộng hòa Nhân dân,
nhưng vẫn không thể cho phép một lãnh tụ chấp nhận tình thế bất phân
thắng bại. Một lãnh tụ chỉ có thể hoặc thắng hoặc thua, nhất là với Tập
Cận Bình, kẻ đã kích hoạt điều được xem như một cuộc chiến tranh hủy
diệt mang động cơ chính trị.
Logic khốc liệt
Với những thử thách quá lớn trong những
ngày này, không ai muốn thấy mình yếu kém, nhất là đối với Tổng Bí thư
Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tập Cận Bình đã khởi động cuộc chiến sống-còn,
và ông phải tiến hành đến khi kết thúc. Khác với những hệ thống pháp
trị trong đó các cơ cấu có tính định chế sẽ kiềm chế những xung động và
xung đột, hệ thống toàn trị ở Trung Quốc lại dễ dàng tưởng thưởng những
hành động tồi bại nhất trong những thời kỳ căng thẳng nhất. Kiểu cách
chính trị được ăn cả ngã về không của Tập Cận Bình trói ông vào một
logic rất khốc liệt mà ông không thể thoát khỏi.
Trong tình hình đó, như nhận định của giáo sư Quách Ôn Lương (Guo Wenliang) thuộc Đại học Trung Sơn tỉnh Quảng Châu:
“nguy cơ những con hổ sẽ liên kết để phản công là một nguy cơ rất, rất
lớn” vì các quan chức cao cấp sẽ không thể ngồi chờ Tập đến tóm đi từng
người một. Và Tập cũng không thể ngồi chờ họ tấn công phản kích.
Tập Cận Bình, một lãnh tụ cứng rắn đang
định hình và tung hoành, đã thay đổi cục diện chính trị tại Trung Quốc
Cộng sản – sự thay đổi này có thể tốt hay xấu hơn, nhưng điều chắc chắn
là ông không thể quay ngược lại được nữa.
Nguồn: Gordon G. Chang, “China’s “Gorbachev” Is Tearing the Communist Party Apart“, The National Interest 14/8/2014
Bản tiếng Việt © 2014 Phan Trinh & pro&contra
LƯU NGHỊ * TẬP CẬN BÌNH
Tập Cận Bình Tóm Chặt 3 Tâm Phúc Nguy Hiểm Nhất của Giang Trạch Dân
Lưu Nghị, Dajiyuan/ Epoch times
Nhóm Việt Nguyên dịch/ Đại kỷ Nguyên
Ảnh bên: Ngày 13 tháng 8, một số phương tiện truyền thông nước
ngoài báo cáo, Tổng Bí thư ĐCSTQ Tập Cận Bình đã “tiêu diệt” được 3
“môn sinh” nguy hiểm nhất của cựu lãnh đạo ĐCSTQ Giang Trạch Dân là: Chu
Vĩnh Khang, Từ Tài Hậu và Bạc Hy Lai. Ba người này đều phụ trách bức
hại đẫm máu Pháp Luân Công, và tham gia vào các cuộc đảo chính chống lại
Tập Cận Bình. (Hình ảnh do The Epoch Times tổng hợp)
Ngày 13 tháng 8, có một số phương tiện truyền thông nước ngoài báo cáo,
Tổng Bí thư ĐCSTQ Tập Cận Bình đã “tiêu diệt” được 3 “môn sinh” nguy
hiểm nhất của cựu lãnh đạo ĐCSTQ Giang Trạch Dân là: Chu Vĩnh Khang, Từ
Tài Hậu và Bạc Hy Lai. Ba người này kỳ thực là tâm phúc của Giang Trạch
Dân, đều thực hiện theo chính sách của Giang Trạch Dân mà bức hại Pháp
Luân Công, tham dự vào tội ác mổ cướp nội tạng sống của các học viên
Pháp Luân Công.
3 “môn sinh” nguy hiểm nhất của Giang Trạch Dân đã bị “tiêu diệt”
Ngày 13 tháng 8, báo truyền thông hải ngoại “New York Times” phiên bản tiếng Trung đã công bố một bài viết nổi tiếng, với tựa đề “Tập Cận Bình chống tham nhũng là điều thực sự”, bài báo cho biết, Tập Cận Bình đã “tiêu diệt” 3 “môn sinh” nguy hiểm nhất của Giang Trạch Dân.
Bài báo cũng trích dẫn lời phát biểu của con gái Hồ Kiều Mộc là Hồ Mộc Anh tại buổi lễ liên hoan mừng năm mới tại Bắc Kinh Diên An, đây “là một cuộc đấu tranh giữa cái sống và cái chết”.
Điều trong bài viết gọi là “môn sinh” kỳ thực là cựu Thường ủy Cục Chính trị, tiền Chính Pháp Ủy Bí thư ĐCSTQ Chu Vĩnh Khang, cựu Phó Chủ tịch Quân ủy ĐCSTQ Từ Tài Hậu và cựu Bí thư Tỉnh ủy Trùng Khánh Bạc Hy Lai. Ba người này là tâm phúc của cựu lãnh đạo ĐCSTQ Giang Trạch Dân, đã nghe theo Giang Trạch Dân đàn áp Pháp Luân Công, tham gia vào tội ác mổ cướp nội tạng sống của các học viên Pháp Luân Công.
Cha con Chu Vĩnh Khang đều đã tham gia vào tội ác mổ cắp nội tạng sống từ các học viên Pháp Luân Công
Ngày 20 tháng 7 năm 1999, Giang Trạch Dân khăng khăng cố chấp theo ý mình, phát động một cuộc đàn áp tàn khốc đối với Pháp Luân Công. Chu Vĩnh Khang là người luôn theo sát Giang Trạch Dân, tích cực tham gia cuộc đàn áp Pháp Luân Công.
Từ năm 1999 đến năm 2002, Chu Vĩnh Khang nhận chức Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Tứ Xuyên, đã sử dụng một loạt các chiến dịch đàn áp quy mô lớn đối với Pháp Luân Công, khiến tỉnh Tứ Xuyên trở thành một trong những tỉnh xảy ra những đợt đàn áp Pháp Luân Công nghiêm trọng nhất tại Đại Lục.
Năm 2002, Chu Vĩnh Khang được Giang Trạch Dân đề bạt lên làm Bộ trưởng Bộ Công an kiêm Bí thư Đảng ủy, Phó Bí thư Ủy ban Chính Pháp ĐCSTQ, phối hợp với bí thư Ủy ban Chính Pháp đương thời là La Cán tiến hành những chính sách đàn áp Pháp Luân Công ở Trung Quốc Đại Lục.
Từ năm 2007 trở đi, Chu Vĩnh Khang thay thế La Cán nhậm chức Bí thư Ủy ban Pháp luật và Chính trị Trung ương của ĐCSTQ, lãnh đạo các trưởng nhóm chuyên xử lý các vấn đề về Pháp Luân Công, dưới những danh nghĩa khác nhau khiến cho cuộc bức hại Pháp Luân Công ngày càng trầm trọng, làm cho những vụ bắt giữ bất hợp pháp, giam giữ kéo dài, dùng cực hình tra tấn đến tàn phế và bức hại đến chết các học viên Pháp Luân Công ngày càng gia tăng tại Đại Lục.
Do được Chu Vĩnh Khang thông đồng và xúi giục, toàn bộ bộ máy nhà nước Trung Cộng, bao gồm cả quân đội, cảnh sát vũ trang, đều bị cuốn vào tội ác mổ cướp nội tạng sống từ các học viên Pháp Luân Công, điều này được hệ thống chính quyền bảo vệ, có hệ thống, cả quần thể đều phạm vào tội diệt chủng.
Khi con trai Chu Vĩnh Khang là Chu Bân dưới ảnh hưởng từ quyền lực của cha mình, đã tiến hành bán nội tạng, giả hình, nói dối là lấy từ những tù nhân đã chết để thu về những món lợi nhuận khổng lồ, cha con Chu Vĩnh Khang đã từng tráo đổi các học viên Pháp Luân Công bị giam giữ bằng những tù nhân phạm tội tử hình, các học viên Pháp Luân Công trong lúc bị hành hình đã bị mổ cướp nội tạng sống, các học viên Pháp Luân Công vẫn sống nhưng vô cùng đau đớn, còn những tù nhân phạm tội tử hình sau khi tẩy não lại được thả về cộng đồng.
Vì sợ bị thanh trừng sau khi mất quyền lực, theo sự chỉ đạo của Giang Trạch Dân, Chu Vĩnh Khang và Bạc Hy Lai đã tiến hành một âm mưu bí mật, mong muốn trong Đại Hội Đảng lần thứ 18 diễn ra sẽ lật đổ Tập Cận Bình để đưa Bạc Hy Lai lên thay thế, nhằm kiểm soát quyền lực tối cao của ĐCSTQ. Sau khi Bạc Hy Lai rớt đài, ngày 19 tháng 3 năm 2012, Chu Vĩnh Khang phát động chính biến, bị Hồ Cẩm Đào điều quân chấn áp. Trước và sau cuộc họp Bắc Đới Hà năm 2013, Chu Vĩnh Khang đã hai lần tìm cách bí mật ám sát Tập Cận Bình nhưng không thành.
Ngày 29 tháng 7 năm 2014, ĐCSTQ tuyên bố, thành lập án điều tra đối với Chu Vĩnh Khang.
Từ Tài Hậu trong hàng ngũ quân đội ĐCSTQ đã thúc đẩy việc bức hại Pháp Luân Công
Từ Tài Hậu là người được Giang Trạch Dân đề bạt lên, được coi là “quân đội yêu thích nhất” của Giang Trạch Dân, là một người tham nhũng hủ bại trong bè phái Giang tại quân đội. Từ Tài Hậu cùng Chu Vĩnh Khang, Cốc Tuấn Sơn, Bạc Hy Lai v.v… có những mối quan hệ lợi ích không rõ ràng, và đều bị cuốn vào cuộc chính biến chống lại Tập Cận Bình.
Từ Tài Hậu là người chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc sử dụng quân đội Trung Quốc tiến hành bức hại các học viên Pháp Luân Công, thực hiện mổ cắp nội tạng sống, phụ trách điều phối các lực lượng quân sự, trực tiếp tham gia vào việc xây dựng các kho bí mật lưu trữ nội tạng cấy ghép cho người sống. Quân đội Trung Quốc đã từng tiến hành bí mật lưu chuyển các học viên Pháp Luân Công ở Bắc Kinh và Liêu Ninh và những nơi khác, chuyển tới để đầu tư vào kho cấy ghép nội tạng sống này.
Tháng 6 năm 2006, tại một cửa hàng bán ngói ở tỉnh Liêu Ninh có một sĩ quan quân đội cao tuổi đã tiết lộ những thông tin mờ ám về việc quan chức chính phủ tỉnh Liêu Ninh thông đồng cấu kết với quân đội cho “Đại Kỷ Nguyên”. Từ Tài Hậu liên tiếp được thăng chức, bởi vì Từ Tài Hậu vốn là hắc thủ Đảng do Giang Trạch Dân bồi dưỡng nên, và cũng là một công cụ đàn áp Pháp Luân Công của Giang Trạch Dân.
Ngày 30 tháng 6 năm 2014, Tập Cận Bình mở Hội nghị Cục Chính trị, tuyên bố khai trừ Từ Tài Hậu ra khỏi ĐCSTQ, đồng thời bàn giao quân sự cho các cơ quan kiểm sát.
Bạc Hy Lai là người đầu tiên phạm tội mổ cướp nội tạng sống các học viên Pháp Luân Công
Bạc Hy Lai năm đó vì để thăng chức, đã tích cực chiểu theo chính sách của Giang Trạch Dân tiến hành đàn áp Pháp Luân Công. Bạc Hy Lai ở thành phố Đại Liên, tỉnh Liêu Ninh, khi còn đương quyền, đã là người đầu tiên thực hiện mổ cắp nội tạng sống từ các học viên Pháp Luân Công, thưc hiện các tội ác ghê tởm trong việc buôn bán xác chết trục lợi. Dưới sự hỗ trợ trước sau của hai thư ký Chính Pháp Ủy ĐCSTQ là La Cán và Chu Vĩnh Khang, tội lỗi này đã lan tràn tại khắp nơi trong toàn quốc, một số lượng lớn các học viên Pháp Luân Công bị bắt giữ đã bị mổ cướp nội tạng sống.
Tháng 2 năm 2012, sự kiện Vương Lập Quân bùng phát, khiến cho kế hoạch đảo chính của Bạc Hy Lai và Chu Vĩnh Khang bị bại lộ. Sau đó, Tập Cận Bình và Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo đã kết thành liên minh chính trị, “lật đổ” Bí thư Tỉnh ủy ĐCSTQ Trùng Khánh Bạc Hy Lai.
Ngày 22 tháng 9 năm 2013, Bạc Hy Lai với tội hối lộ, tham nhũng, lạm dụng chức quyền đã bị kết án tù chung thân. Nhưng tâm điểm tội ác của Bạc Hy Lai, chính là phối hợp với Giang Trạch Dân, Chu Vĩnh Khang, cùng một số người khác thực hiện âm mưu đảo chính, bức hại Pháp Luân Công, mổ cướp nội tạng sống từ các học viên Pháp Luân Công và các tội ác khác chống lại loài người, điều này cho tới nay vẫn bị ĐCSTQ che đậy.
TƯỞNG NĂNG TIẾN * NGUYÊN NGỌC
Thiệt Là May Phước Cho Ông Nguyên Ngọc
Wed, 08/13/2014 - 07:36 — tuongnangtien
Cụ Hồ nói: “Các chú các cô không sợ người ta kêu mình kém trí thức,
ít lý luận. Họ kêu thì bảo họ rằng tôi lú nhưng chú tôi khôn. Chú tôi
là Stalin, Mao Trạch Đông…”
Hôm 28 tháng 7 vừa qua, trên trang Mõ Làng có bài viết “Tọa đàm ‘Tư tưởng Phan Chu Trinh và Việt Nam 2014’: Nhà văn Nguyên Ngọc bị nghi ngờ là thành viên "Việt Tân".
Chỉ mới bị “nghi ngờ” thôi nhưng “nạn nhân” đã bị đám dân
phòng (trên mạng) đã thi nhau ném đá tơi bời, hoa lá:
Ông Nguyên Ngọc gần đây có những biểu hiện suy thoái về trí tuệ nên không loại trừ khả năng làm cho Việt Tân.
Nhiều người không chịu được đã nói thẳng vào mặt Nguyên Ngọc những
lời nặng nề vì những việc làm không hay của nhà văn già này thời gian
gần đây.
Nếu như tôi gặp con người này thì tôi cũng sẽ sẵn sàng nói thằng
vào nhà văn Nguyên Ngọc những lời lẽ từ tận đáy lòng, tuổi thơ tôi đã
từng biết đến nhà văn như một người tài, nhưng giờ nhà văn lại quay lưng
lại với đất nước, quay lưng lại với dân tộc thì đáng xấu hổ quá
Tội nghiệp Nguyên Ngọc, chắc già quá thành ra lẩm cẩm, thích thể hiện khác đời.
Ông Nguyên Ngọc thích được tung hô vớ vẩn chứ tinh khôn không ai làm thế.
Già rồi thích tỏ ả nguy hiểm để có người nể sợ. Suy nghĩ rất chi là trẻ con, vớ vỉn.
Gọi là tọa đàm cho có vẻ sang chứ thực ra túm 5 tụm 3 nói chuyện bất mãn. Có ngày chết oan đó em
Việt Tân Việt teo gì không biết, nhưng già rồi mà còn ham hố công thần thì không ra gì cả.
Chả phải Việt Tân, ông này muốn lổi nên thích tham gia vào những trò nhí nhố gây sự chú ý.
Nguyên Ngọc đã bị mua chuộc rồi sao? Chả có nhẽ!
Tình hình như thế này thì chúng ta có thể khẳng định con người
Nguyên Ngọc không ai là không phủ nhận tài năng của ông, nhưng nhân cách
của ông thì chúng ta phải suy nghĩ lại. Một người đang khởi đầu tốt
bỗng dưng vì nhân cách thèm tiền mà giờ đây như thế này
Chậm tiến quá! Lão Nguyên Ngọc thành đồng nát từ lâu rồi
Như vậy là đã rõ, dù ông tay làm cho tổ chức nào đi nữa, Việt Tân
hay không thì giờ ông ta cũng không còn là người mà nhân dân dất nước
Việt Nam yêu mến và kính nể nữa rồi. Một kẻ chạy theo giặc, giờ muốn
quay lại phá hoại nhà nước ư? Đừng có mơ điều đó thực hiện được đi
Đây mới chính là con người thật của Nguyễn Nguyên Ngọc sao? Từ giờ
trở đi con người này sẽ là kẻ thù của nhân dân sao? Đáng thất vọng thật
đấy, từ một con người nổi tiếng trong nền văn học của đất nước, nhưng mà
bản chất tham lam giờ đây già rồi mà vẫn tỏ ra vì tiền.
Bị “nghi ngờ là thành viên Việt Tân” là điều tuy không vinh
dự hoặc hay ho gì cho lắm nhưng cũng (vẫn) hơn bị tình nghi là
... Việt Quốc:
Dân làng bỗng ngã ngửa ra rằng: bác Chắt Kế bị nghi là phản động!
Cái cớ người ta vin vào để bác bị người ta cảnh giác thật là đơn giản.
Những ngày mệt mỏi, nghỉ việc, bác mở lò rèn làm nghiệp dư để
khuây khoả tâm trí. Bác rèn đủ thứ: dao, mác, liềm, lưỡi hái và sửa chữa
súng bắn chim. Bác không rèn để đem ra chợ bán, bà con trong làng trong
xã đến nhờ thì bác làm với một giá rất rẻ. Có mấy người thích đi bắn
chim thường quây quần ở nhà bác, nhỡ không may súng hỏng là bác chữa
ngay, bác còn sản xuất cả đạn ria. Khi bắn được con cò con vạc, họ
thường sum họp ăn uống và trò chuyện vui vẻ. Bác bị tình nghi bằng nhiều
câu hỏi ba lăng nhăng tại một cuộc họp nông hội:
– Rèn dao, mác để làm gì?
– Sản xuất súng đạn để làm gì?
– Cung cấp cho ai?
– Tiền thu được bỏ vào quỹ Quốc dân đảng!
– Tại sao từ xưa đến nay không mở lò rèn, nay lại mở? Ông ta học nghề rèn để làm gì?
– Đích thị là lò sản xuất vũ khí cho bọn phản động...
Chẳng cần đọc lệnh của một cơ quan pháp luật nào, mấy dân quân
làng vào tóm cổ bác, điệu bác đến “nhà giam” – gọi là nhà giam, chứ thật
ra đó là ngôi nhà rách nát của một cán bộ xóm. Họ không dùng cực hình
tra tấn bác như những “tội phạm” khác, nhưng bác cũng bị hành hạ đến cơ
khổ. Đêm ngủ không được nằm giường, mà trải manh chiếu nằm co quắp trên
nền đất, không có màn.
Thỉnh thoảng bác bị anh dân quân đánh cho một tát rơi vỡ kính
cận. Khi mỏi lưng, bác ngồi dựa vào cột, liền bị dân quân quát: “Ngồi
thẳng lên! ”. Lúc đau bụng, bác xin viên thuốc cũng bị dân quân mắng:
“Đau thì phải chịu. Thoát chết là may”. Một lần người nhà mang cơm đến,
đặt lên chiếc chõng tre, bác định cầm đũa ăn, bị cô dân quân cản lại:
“Không được để lên chõng! Đặt cơm xuống đất mà ăn!” (Võ Văn Trực. Chuyện Làng Ngày Ấy. California: Tạp Chí Văn Học, 2006).
Cùng ngày, ngày 28 tháng 7 năm
2014, bài “Tọa đàm ‘Tư tưởng Phan Chu Trinh và Việt Nam 2014’: Nhà văn
Nguyên Ngọc bị nghi ngờ là thành viên "Việt Tân" cũng đã được đăng
lại trên trang Dân Luận – với lời dẫn nhập (nghe) chua cay thấy rõ:
“Những lập luận trong bài viết này cho thấy sự bế tắc về tư duy của
những dư luận viên, những người đang tìm cách bảo vệ Đảng CSVN đang rễu
rã cả về nhân sự và tư tưởng hiện nay. Một hội thảo bàn về tư tưởng
khai dân trí và đấu tranh bất bạo động của Phan Chu Trinh cũng bị coi là
‘kích động cho một cuộc bạo động và đòi thay thế chế độ hiện tại’ thì
không còn gì để nói. Một nhà văn dù tuổi đã cao nhưng vẫn đau đáu về vận
mệnh của dân tộc, của đất nước bị nghi ngờ là thành viên ‘Việt Tân’ thì
đảng Việt Tân quả là có uy tín và thu hút được nhân tài! Viết như vậy
khác nào quảng bá cho Việt Tân không?”
Qua hôm sau, hôm 29 tháng 7 năm 2014, trang Mõ Làng có ngay bài hồi đáp (“TẤT CẢ ĐANG LÀ ‘NGHI NGỜ’ THƯA"DÂN LUẬN") với cái kết luận “khách quan” hết sức:
“Thử hỏi rằng, với một cuộc Tọa đàm mà trong thông báo lại cho
rằng: ‘Điểm cơ bản của Phong trào Duy Tân do ông khởi xướng là bất bạo
động và công khai hoạt động, nhắm tới cải tổ xã hội, giáo dục tinh thần
tự do, xây dựng những cá nhân độc lập và có trách nhiệm, phổ biến các
giá trị văn minh phương Tây như pháp quyền và dân quyền’ (Trích ‘Thông
báo Tọa đàm ‘Tư tưởng Phan Châu Trinh và Việt Nam 2014’) thì có nên hiểu
đó là ‘kích động cho một cuộc bạo động và đòi thay thế chế độ hiện
tại’ và nếu có một ý tưởng nào hơn thì xin được chỉ giáo.
Cuối cùng như đã khẳng định ở trên, tất cả chỉ đang là ‘nghi ngờ’
và người viết cũng rất khách quan khi đưa ra những cứ liệu để nghi ngờ.
Đừng mặc định đó là những điều đã là của hiện thực để đưa ra những lời
thắc mắc đến vô vị như vậy.
Xin cảm ơn!!!!”
Mõ Làng thiệt là “rất khách quan” và cung cách (“xin chỉ
giáo”) cũng rất đáng trân trọng. Quả là khác hẳn với không
khí cuồng nhiệt và thái độ cuồng điên trong Chuyện Làng Ngày Ấy:
Vì tinh thần cảnh giác quá cao nên ông Khang mới trở
thành thủ qũi của bọn phản động nước ngoài giữ những năm tỉ
dô la, chú xã thọ nghèo rớt mùng tơi đến làm thuê cho ông Khang
cũng trở thành đảng viên trung kiên của Quốc Dân Đảng...
Hãy nghe một người đàn bà kể tội chú xã Thọ:
- Một hôm tao thấy mi từ nhà bà Đoan ra, tay cầm
một gói cà. Mi có nhớ là mi gói cà bằng cái gì không? Bằng
ảnh của Mao chủ tịch. Mi có tư tưởng nhạo báng
lãnh tụ cộng sản quốc tế. (Sđd trang 126-127).
So với Chuyện Làng Ngày Ấy thì chuyện bị “nghi ngờ
là thành viên Việt Tân” hôm nay của đám mõ làng, rõ ràng, chỉ
là chuyện nhỏ. Buổi toạ đàm được tổ chức vào hôm 19 tháng 6 năm 2014
mà tới bữa nay nhà văn Nguyên Ngọc vẫn còn được sống yên lành
(và vẫn còn nguyên vẹn) chứ chưa bị “treo lên xà nhà” như
những nạn nhân bị nghi ngờ là Việt Quốc hồi đầu thập niên
1950:
Ba anh dân quân mang đại đao xồng xộc tới, buộc dây thừng vào hai cổ chân ông Khang rồi trèo lên xà nhà kéo ngược dây.Ông Khang vội vàng van xin:
- Tôi xin khai, tôi xin khai hết
Họ lại buông dây xuống để ông Khang đứng nói:
- Tôi có tội với dân với nước. Từ nay tôi không làm phản động nữa!
Dân quân A:
-Mi làm phản động với ai?
Dân quân B:
-Mi đã chỉ điểm cho giặc mấy lần?
Dân quân C:
-Mi đã nhận mấy tỉ đô la của Quốc Dân đảng?
Bị hỏi dồn dập, ông Khang không biết trả lời thế nào. Chủ tọa liền ra lệnh:
-Thằng này ngoan cố, treo ngược lên xà nhà!
Sau khi vài chục ngàn mạng đã bị treo ngược lên xà nhà thì thánh đế bỗng hồi tâm. Năm 1956, Người
đã nhỏ lệ trước quốc dân cùng với lời xin lỗi vì chủ trương
“thà giết lầm còn hơn bỏ sót” của Đảng và Nhà Nước.
Ba mươi năm sau, năm 1986, Đảng và Nhà Nước lại dũng cảm
đổi mới và sửa sai thêm lần nữa. Tuy tiến rất chậm nhưng ta
tiến chắc. Nhờ vậy, đám dân phòng trên mạng – xem ra – ôn hoà
và đỡ sắt máu hơn bọn dân quân ngày trước thấy rõ.
Cụ Hồ khóc sau đấu tố NVGP và CCRĐ 1957.
Ảnh và chú thich: Diễn Đàn Thế Kỷ
Thiệt là may phước cho nhà văn Nguyên Ngọc!
NGUYỄN TRẦN SÂM * BILL CLINTON TẠI VIỆT NAM
Bill Clinton trên đường phố Việt Nam
Nguyễn Trần Sâm
Ảnh của tác giả và BKBDD sưu tầm
Như vậy là cựu tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã 4 lần đến
Việt Nam.
Trong những hình ảnh mà người ta được thấy trong chuyến đi
của ông, ấn tượng nhất là cảnh ông đi – đúng hơn là không đi nổi – trên đường
phố (Hà Nội và Sài Gòn). Đám đông dân chúng đón ông, tất cả đều giơ tay về phía
ông, những ánh mắt nhìn ông thân thiện, hồ hỡi và ngưỡng mộ! Dường như họ
chờ đợi giây phút này đã từ lâu lắm.
Vì sao vậy? Vì sao nguyên thủ (và ở những chuyến sau là cựu
nguyên thủ) của một quốc gia mà mới vài chục năm trước bị chính giới và hàng
chục triệu người dân Việt Nam coi là kẻ thù, bây giờ lại được tất cả những
người gặp ông trên đường phố đón mừng với sự mong đợi và tình cảm chân thành
như vậy?
Phải nói là khoảng thời gian trên dưới 30 năm (lần đầu là
sau 27 năm, và lần gần đây nhất là sau 41 năm kể từ khi Mỹ rút khỏi VN) đã phát
huy tác dụng của nó. Nó đã xóa đi khá nhiều những ký ức và ấn tượng về cuộc
chiến, làm phai nhạt khá nhiều nỗi hận thù khi nhìn thấy người Mỹ rải bom đạn,
phá hủy nhà cửa và các công trình dân sinh, gieo rắc chết chóc cho dân thường.
Hơn thế, khoảng thời gian đó đã làm cho những người có suy nghĩ độc lập đặt ra
câu hỏi:
“Vì sao Mỹ đến VN? Liệu có phải thuần túy vì mục đích cướp bóc tài nguyên hoặc hủy diệt một dân tộc?” Và người ta ít nhiều đã nhận ra rằng nguyên nhân sâu xa nằm ở chỗ khác. Thoạt nhìn, người Mỹ đúng là kẻ xâm lăng, vì nếu họ không đến thì làm sao có cuộc chiến khốc liệt đó trên đất VN! Nhưng nhìn lại lịch sử, bắt đầu từ Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản của Marx và Engels, thì ta sẽ nhìn nhận vấn đề khác đi đáng kể.
“Vì sao Mỹ đến VN? Liệu có phải thuần túy vì mục đích cướp bóc tài nguyên hoặc hủy diệt một dân tộc?” Và người ta ít nhiều đã nhận ra rằng nguyên nhân sâu xa nằm ở chỗ khác. Thoạt nhìn, người Mỹ đúng là kẻ xâm lăng, vì nếu họ không đến thì làm sao có cuộc chiến khốc liệt đó trên đất VN! Nhưng nhìn lại lịch sử, bắt đầu từ Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản của Marx và Engels, thì ta sẽ nhìn nhận vấn đề khác đi đáng kể.
Khoảng thời gian đó cũng đã làm cho dân ta thấy thêm được
nhiều điều khác. Họ đã nhận ra rằng những gì được nghe trước đây qua hệ
thống
tuyên truyền (nhất là ở miền Bắc) về phía bên kia, cơ bản là “nói lấy
được”,
kiểu như “Ngu nhất trên đời là tổng thống Mỹ”, hay chuyện ông Ngô Đình
Diệm
thông dâm với em dâu Trần Lệ Xuân (trong khi ngay cả đối thủ chính trị
của ông trong chính quyền VNCH cũng phải thừa nhận ông không bao giờ gặp
riêng một
phụ nữ nào), vân vân và vân vân…
Qua hệ thống truyền thông, đặc biệt là TV, qua mạng Internet, qua những chuyến đi “Tây”, trong đó có Mỹ, qua câu chuyện mà những người đi “Tây” về kể lại, đa số đã nhận ra rằng xã hội Mỹ và các nước phát triển khác thực sự phấn đấu vì hạnh phúc của con người, và họ đã đạt được những thành tựu mà thậm chí người Việt ta còn không tưởng tượng ra. Không chỉ là sự giàu sang và khoa học với công nghệ hiện đại.
Ở nơi đó người thất nghiệp cũng có thể có trên dưới ngàn đô mỗi tháng; thậm chí người tị nạn cũng được nhà nước sở tại quan tâm. Ở nơi đó những công dân không phải làm gì trừ việc lao động để bảo đảm cuộc sống cho mình và đóng thuế cho nhà nước. Ở nơi đó, mọi người đều được nói lên những điều mình nghĩ, kể cả những điều mang tính chất phê phán (có khi gay gắt) hệ thống nhà nước và cá nhân các quan chức cao cấp. Người ta đã nhận ra rằng tất cả những cái “ưu việt” của xã hội kiểu như của ta, của Tàu,… chỉ là sản phẩm của đường lối tuyên truyền. Người ta nhận ra rằng những sự kỳ vọng ấp ủ bao năm về cuộc sống hạnh phúc chỉ là hão huyền. Hãy nhìn kia, những đoàn dân oan, mất đất, mất nhà! Nhìn kia, những người muốn có tự do bị tước đi cả những thứ tự do sơ đẳng nhất!
Qua hệ thống truyền thông, đặc biệt là TV, qua mạng Internet, qua những chuyến đi “Tây”, trong đó có Mỹ, qua câu chuyện mà những người đi “Tây” về kể lại, đa số đã nhận ra rằng xã hội Mỹ và các nước phát triển khác thực sự phấn đấu vì hạnh phúc của con người, và họ đã đạt được những thành tựu mà thậm chí người Việt ta còn không tưởng tượng ra. Không chỉ là sự giàu sang và khoa học với công nghệ hiện đại.
Ở nơi đó người thất nghiệp cũng có thể có trên dưới ngàn đô mỗi tháng; thậm chí người tị nạn cũng được nhà nước sở tại quan tâm. Ở nơi đó những công dân không phải làm gì trừ việc lao động để bảo đảm cuộc sống cho mình và đóng thuế cho nhà nước. Ở nơi đó, mọi người đều được nói lên những điều mình nghĩ, kể cả những điều mang tính chất phê phán (có khi gay gắt) hệ thống nhà nước và cá nhân các quan chức cao cấp. Người ta đã nhận ra rằng tất cả những cái “ưu việt” của xã hội kiểu như của ta, của Tàu,… chỉ là sản phẩm của đường lối tuyên truyền. Người ta nhận ra rằng những sự kỳ vọng ấp ủ bao năm về cuộc sống hạnh phúc chỉ là hão huyền. Hãy nhìn kia, những đoàn dân oan, mất đất, mất nhà! Nhìn kia, những người muốn có tự do bị tước đi cả những thứ tự do sơ đẳng nhất!
Trong bối cảnh đó, một chính khách có tư thế đến từ một quốc gia văn minh thực sự trở thành biểu tượng của niềm tin và hy vọng. Nếu ông ấy vẫn là đương kim nguyên thủ thì cơ hội cho người dân thường tiếp xúc trực tiếp với ông ấy gần như không có. Còn nếu ông ấy đã “về vườn” thì ông ấy có thể thoải mái đi ra đường phố để người dân được nhìn thấy ông bằng xương bằng thịt, và được chạm vào tay ông, vào áo ông. Chưa biết ông mang đến cho đất nước này được những gì, và những thứ đó có đến tay được một người dân cụ thể nào đó trong đám đông kia hay không, nhưng người dân đó vẫn vui vì được ở gần ông, một con người mà người ta cảm thấy đáng tin cậy hơn nhiều so với những nhân vật quyền thế đang trực tiếp chi phối đời sống xã hội ta và những người trước đó đã bao năm hứa hẹn hão với dân chúng về thiên đường trên mặt đất. Họ đã bao năm chờ đợi, đã hy vọng, và thất vọng…
Một lý do nữa để Bill Clinton được người dân Việt Nam hồ hởi đón
mừng như vậy là chính con người ông. Một người đẹp gần như hoàn hảo cả về dáng
mạo, tư thế và nhân cách. Một thân hình cao lớn và cân đối. Một gương mặt khả
ái và tươi tắn. Một tác phong đĩnh đạc nhưng vẫn khiêm nhường khi lắng nghe từ
đối tác cho đến đứa trẻ.
Những bài nói cụ thể và sinh động, không sa vào hô khẩu hiệu chính trị. Về hành động, ông còn là vị tổng thống Mỹ đã làm mọi việc để tạo cơ hội và quyết định bỏ cấm vận, cũng như bình thường hóa quan hệ với VN. Việc đó đã góp phần quan trọng để nước ta thoát ra khỏi tình trạng bế tắc kéo dài 20 năm trước đó. Và những hoạt động của ông ngay cả khi đã rời chính trường vẫn đang đem lại hạnh phúc cho hàng trăm ngàn người bất hạnh ở nhiều nơi trên thế giới.
Những bài nói cụ thể và sinh động, không sa vào hô khẩu hiệu chính trị. Về hành động, ông còn là vị tổng thống Mỹ đã làm mọi việc để tạo cơ hội và quyết định bỏ cấm vận, cũng như bình thường hóa quan hệ với VN. Việc đó đã góp phần quan trọng để nước ta thoát ra khỏi tình trạng bế tắc kéo dài 20 năm trước đó. Và những hoạt động của ông ngay cả khi đã rời chính trường vẫn đang đem lại hạnh phúc cho hàng trăm ngàn người bất hạnh ở nhiều nơi trên thế giới.
Chắc chắn những lời nói tốt đẹp về một người như Bill
Clinton làm một số nhân vật có vai vế thấy khó chịu. (Như cái người đã nói
những lời vỗ mặt ông trong buổi tiếp ông nhân chuyến thăm chính thức đầu tiên
của ông tới VN.) Nhưng đáng buồn là trong số họ chẳng ai giống ông được
một phần.
Nguyễn Trần Sâm
Nguyễn Trần Sâm
HOÀNG HẢI THỦY * NẾU ANH TRƯƠNG CHI ĐẸP TRAI
NẾU ANH TRƯƠNG CHI ĐẸP
TRAI
HOÀNG HẢI THỦY
Đêm thanh vắng anh mới hát mấy
câu
Cô Mỵ Nương nghe tiếng hát thì thương…..
Năm 1981 tôi – Công Tử Hà Đông (CTHĐ)
Hoàng Hải Thủy – được biết
Dương Hùng Cường viết, gửi sang Paris cho Trần Tam Tiệp bài
“Nếu anh
Trương Chi đẹp trai.” Tôi không được
Cường cho đọc bài đó trước khi anh gửi đi, anh viết tay nên không có bản thảo
giữ lại.
Một trong những “tội phản động” làm cho DH
Cường bị bắt tù và chết thảm trong tù là bài “Nếu anh Trương Chi
đẹp trai.” Hai mươi năm sau khi đến Paris tôi có ý tìm đọc bài viết của DH
Cường; nhưng người tôi có thể hỏi về bài đó là anh Trần Tam Tiệp, thì khi ấy anh
đã bị tai biến bệnh não trở thành gần như phế nhân. Anh sống trong một căn phòng
nhỏ, nói khó và ngọng, anh ngồi xe lăn, bao nhiêu sách, văn liệu của anh mất
hết. Anh quên gần hết chuyện cũ. Tôi thất vọng vì không được đọc bài “Nếu anh
Trương Chi đẹp trai.” Trong nhiều năm tôi nghĩ tôi sẽ không bao
giờ được đọc bài viết cuối cùng của “Lão Dương” “Dê Húc Càn” Dương Hùng
Cường.
Lại 20 năm sống ở Kỳ Hoa vèo qua. Đêm khuya
đầu Tháng Tư 2014, lang bang trên Internet tôi tình cờ tìm được bài “Nếu anh
Trương Chi đẹp trai” của Dương Hùng Cường. “Tình cờ”
vì tôi không cố ý tìm, bài viết hiện lên trên màn hình computer của tôi trong
đêm khuya xứ người, phòng ấm, đèn vàng, ngoài trời đêm tuyết rơi. Tôi ngậm ngùi
đọc “Nếu anh Trương Chi đẹp
trai.”
Đoạn văn giới thiệu “Nếu anh Trương
Chi đẹp trai” đăng trên báo Nhất Việt:
“Nếu anh Trương Chi đẹp trai”
của Dương Hùng Cường, viết ở Sài Gòn năm 1981, gửi lén ra ngoại
quốc, đăng trong báo Nhất Việt ở Paris số Tháng 4-1982. Chủ đề của bài là
“Mối tình
Truơng Chi- cộng sản miền Bắc - và Mị Nương- tư sản Miền Nam.”
Mị Nương nghe tiếng hát của Trương Chi,
chưa gặp mặt đã thầm yêu trộm nhớ, đến khi gặp mặt Ngày 30 Tháng Tư 1975, thì
cuộc gặp là một sự thật phũ phàng, thất vọng đau đớn ê chề cho Mị
Nương.
Nhà văn Dương Hùng Cường sau
khi học tập cải tạo sĩ quan về, lại bị Cộng sản bắt giam cùng với các văn nghệ
sĩ Khuất Duy Trác, Doãn Quốc Sỹ, Hoàng Hải Thủy, Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Trần
ngọc Tư, Lý Thụy Ý … Công An Hà Nội gán cho những văn nghệ sĩ này là “Những tên Biệt Kích Cầm Bút.”.
Dương Hùng Cường chết trong
sà-lim Trung Tâm Thẩm Vấn Số 4 Phan Đăng Lưu, Gia
Định, ngày 22 tháng 1-1988. Ông là một nhà văn quân đội, binh chủng Không quân,
viết với những bút hiệu Dê Húc Càn, Lão Húc, Lão
Dương.
Bài “Nếu Anh Trương Chi đẹp
trai” được viết như một bức thư gửi cho người bạn ở
Paris.
o O o
Sáng ngày 1 Tháng 5, 1975 một số dân Sài Gòn lộn mặt,
lộn cờ đi chào đón bọn cướp nước.
Anh thân,
Trong những cái lo hàng ngày như chuyện cơm
áo, chuyện thường trú, tạm trú, chuyện hộ khẩu, chuyện hồi hương lập nghiệp, đi
xây dựng vùng kinh tế mới, tôi lại thêm một cái lo nữa. Nhưng không sao, tôi sẽ
viết, vì từ lâu tôi cũng muốn viết. Có nhiều thứ chất chứa trong đầu quá rồi
!
Tôi bắt đầu bằng một truyện
ký.
Khi anh biết tôi viết “Nếu chàng Trương Chi đẹp trai”
anh đã gửi trong thư vài hàng góp ý. Cảm ơn anh nhiều lắm. Tôi
cũng định hạn chế cho mình là cái truyện ký này, chỉ nên viết từ hai trăm tới ba
trăm trang. Kéo dài, dài mãi thì cũng được đấy, vì tới bây giờ chàng vô sản
Trương Chi vẫn còn quản lý cái tài sản của nàng “tư sản phong
kiến” Mị Nương, và cứ mỗi ngày lại lòi ra một cái xấu mới. Thành ra khó lòng mà
làm một phát chấm hết truyện ký “Nếu chàng Trương Chi đẹp trai“
Khi bắt đầu vào truyện tôi nghĩ ngay tới ngày đầu mà ông Thưà tướng cho gọi
Trương Chi vào phủ để gặp Mị Nương. Tôi dám chắc rằng ông Thừa
tướng không để cho chàng kịp sửa sang lại nhan sắc. Có thể lúc đó chàng đang mặc
một bộ quần áo bẩn nhất, rách nhất. Có thể lúc đó, chàng vừa chèo xong một
chuyến đò dọc đưa “khứa” vất vả, chưa kịp tắm rửa nên đen đủi hôi hám. Ông Thưà
tướng cáo già phải lựa lúc nào chàng bẩn nhất, xấu nhất, hôi nhất, tuy rằng lúc
bình thường chàng đã bẩn, đã xấu, đã hôi. Đúng cái lúc đó cho chàng gặp Mị
Nương. Người viết truyện là tôi thì cho cái ngày mà chàng vô sản Trương
Chi gặp nàng tiểu thư tư sản phong kiến Mị Nương là ngày 30 tháng Tư năm
1975. Bắt đầu câu chuyện là thế đấy, anh ạ.
Vậy tại sao ta lại gọi Ngày 30 Tháng Tư
1975 là Ngày Bại Trận ? Ngày Thưà tướng cho Mị Nương gặp Trương
Chi để cho cô thấy hết cái xấu của chàng vô sản để rồi chê anh chàng hơi
kỹ, là ngày thua của ông Thừa tướng cáo già hay sao ? Không, ngày đó ông ta
thắng chứ, mà lại thắng lớn. Tiếng hát của chàng vô sản Trương
Chi, từ đây không còn “ép phê” với cô tiểu thư Mị Nương nữa
rồi.
Tôi đã được nghe một bà già ở Bến Tre nói
những câu làm mình mát long, mát dạ. Bến Tre, quê hương Đồng Khởi đấy nhé. Bà ta
nói oang oang không một chút sợ sệt tránh né :
“Các ông có biết không, ngày xưa tôi nuôi
nhiều đứa lắm. Tôi rút nõ trái mít, khoét hết ruột rồi đổ gạo vô cho đầy, đậy
cái nõ lại mang gạo đi nuôi chúng nó. Tôi dấu chúng nó dưới hầm kín. Nếu mà biết
như thế này thì hồi trước gạo có dư tôi nuôi thêm vài ba con chó. Bây giờ có
chuyện gì chúng nó trốn vào trong quần tôi, tôi cũng vén cái quần lên cho nó lòi
cái mặt chó nó ra !”
Ấy đấy, cái ngày 30-4-1975 đã làm thay đổi
cả một hệ thống tư tưởng, suy nghĩ, hành động của một giai cấp được đặt lên đỉnh
cao trung kiên, thì dù ai muốn nói thế nào cũng mặc, tôi vẫn cho Ngày 30-4-1975
là ngày chúng ta đại thắng.
Chàng vô sản Trương Chi mọi
người đều biết là giỏi về nghề hót. Chàng đã hót rất kỹ về ba cái chiến thắng.
Chiến thắng Điện Biên. Chiến thắng Tết Mậu Thân. Chiến tháng 30-4-1975. Một cái
thực và hai cái hư, tạo nên cái hư hư thực thực để người ta dễ lầm, thật giả khó
phân. Chiến thắng Điện biên là thực, vì dù sao, chín năm kháng chiến đánh Tây
chưa lòi cái bộ mặt quốc tế vô sản ra, chúng nó còn có được chính nghĩa. Như vậy
thì chiến thắng Điện Biên của 1954 không phải là của riêng giai cấp vô sản mà
của toàn dân.
Ai là người Việt Nam cũng có quyền chia phần hãnh diện. Nhưng hai
cái chiến thắng giả tạo là chiến thắng Tết Mậu Thân và chiến thăn 30-4-1975. Ôi
cái Tết Mậu thân bỉ ổi đê hèn mà chúng mình đã chứng kiến, cái chiến thắng ấy
mới thê thảm làm sao. Chúng nó đã lùa vào thành phố một đám con nít ngớ ngẩn,
đường lối trong thành phố còn mù tịt, dù có cho phép đi thong thả dạo chơi thì
cũng lạc đường như một lũ mán về thành, còn đánh đấm cái gì ? Ông Tướng Trưởng
đã gọi là nhử cọp vào nhà, đóng cửa lại mà thọi. Ấy thế mà cũng huyênh hoang là
chiến thắng ! Tôi nhớ là phải ngoảnh mặt đi, ói mửa khi thấy xe xúc đất, xúc
từng tảng xác chết đó đổ xuống một cái hố chôn tập thể ở đầu đường bay Tân Sơn
Nhất. Vài ba tháng sau còn có những xác chết thối rữa trên trần nhà. Cứ nghĩ tới
là nguyền ruả. Thế mà là chiến thắng đấy. Anh Trương Chi đã hát
sai điệu.
Rồi tới chiến thắng 30-4-1975. Đến bài hát
này anh Trương Chi đã trình bày giọng ca vô sản lên tới cái mức
trơ trẽn và trưng tráo nhất. Trong một bài hồi ký kềnh càng của tên Đại úy Bùi
Đức Nhung, tả chiến công tiến chiếm Dinh Độc Lập, đã kể rằng trên đường đi hắn
đã mấy lần nhảy từ xe thiết giáp xuống hỏi thăm dân Sài Gòn đường đi tới dinh
Độc Lập. Mẹ kiếp, đường đi còn chưa rõ thế mà vẫn khoác lác là sửa soạn kỹ, nào
là tập lâu ngày bằng bản đồ với sa bàn. Chưa thấy đứa nào dối trá, láo xược bằng
cái thằng vô sản Trương Chi.
Có chiến thắng là phải có xác chết. Bài ca
mà chàng vô sản Trương Chi coi là sở trường của chàng “nghề của
chàng” là bài ca Buôn Xác Chết. Cái gì chứ xác chết mang đi buôn lời là cái
chắc. Người ta đi buôn chỉ mong một vốn bốn lời, nhưng đi buôn xác chết thì
chẳng mất vốn, mà lời lại quá kỹ, vậy thì muôn năm Bài Ca Xác
Chết.
Thảm cảnh 30 Tháng Tư 1975.
Chiến thắng Điện Biên… Ôi nhiều xác chết
quá, tha hồ mà buôn. Kéo pháo qua núi qua đèo, một xu cơ giới không có thì ta ca
lên “Dốc núi cao nhưng lòng người quyết tâm của ta còn cao hơn núỉ”. Một đám kéo
pháo, một đám đun đít pháo một kéo một đẩy. Cứ thế mà nhúc nhích. Nhưng đến lưng
chừng dốc thì phựt một phát, dây kéo pháo đứt. Chết mẹ mấy thằng đun đít pháo.
Pháo thụt lùi. Mấy thằng ở hai bên, trong lúc phản ứng cấp thời, nhảy vội sang
bên cạnh để cứu lấy mạng. Những thằng đứng giữa, nhảy về bên nào cũng kẹt, lại
vướng mấy thằng đứng ngoài. Lúc nhảy được thì lại đụng vào bánh xe pháo nên bị
cán lòi phèo, chì còn ngáp vài cái là thành ngay cái xác chết. A, có xác chết
rồi ! Phải ca lên bản “Bài ca buôn xác chết”. Đồng chí nào đấy ? A, đồng chí Tô
Vĩnh Điện. Mấy anh nhà báo, nhà văn đâu ? Làm ngay bài ca tụng người anh hùng
“lấy thân chèn pháo”. Phổ biến ngay tới các đơn vị, hành động anh hùng lấy thân
chèn pháo, các đơn vị đang làm nhiệm vụ kéo pháo phải học tập ngay buổi tối hôm
nay. Đồng chí Tô Vĩnh Điện, nhờ thành xác chết mà được bốc thơm hơi kỹ. Xong một
Bài Ca Buôn Xác Chết.
Ô hô, bài ca buôn xác chết ấy, một phát tên
mà bắn trúng tới vài ba con chim. Đồng chí Tô Vĩnh Điện có thành xác chết thì
cũng khoái đến phải gật gù cái đầu. Các đồng chí lãnh tụ cũng khoái, vì đã che
lấp được cái bất cẩn của mình. Chỉ cần một khúc gỗ chèn, nhích được tới đâu chèn
ngay tới đó, thì dù cho dây có đứt cũng chẳng đến nỗi. Hơn nữa , dây dợ ra sao
phải kiểm soát chứ, để cho nửa chừng đứt gánh, trách nhiệm đó về ai
?
Xác chết mà buôn được thì một phần thân thể
mà chết đi cũng có thể mà buôn được. Đồng chí La Văn Cầu trong lúc
xung phong, bị đạn, gãy một cánh tay, thấy cánh tay gãy lủng lẳng vướng víu,
đồng chí vừa rút mã tấu, chặt phăng cái tay gẫy rồi tiếp tục xung phong. Bài ca
Buôn Cánh Tay Chết ca lên nghe cũng hay hay. Đồng chí La Văn Cầu
được yết kiến Hồ Chủ Tịch và được Bác tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng
nhì. Bài ca này khi được mang ra học tập tại lớp Học Tập Ba Ngày, mở ra sau này,
đã được một anh đội Ngụy bổ túc thêm cho một
đoạn.
Khi đưọc yết kiến Bác, đồng chí La
Văn Cầu cứ thắc mắc về cái huân chương Kháng chiến hạng nhì. Đồng chí nói
với Bác là nếu đồng chí chặt cả hai cánh tay thì đồng chí có bắt được cái hạng
nhất không ? Bác gật đầu. Ấy thế là đồng chí đã dũng cảm xuống ngay dưới bếp của
Bác, vớ con dao phay chặt phăng cánh tay còn lại. Cả lớp học tập ấy đã vỗ tay
hoan hô đồng chí La Văn Cầu quá xá cỡ. Nhưng khi ra khỏi lớp học
anh Cai Dù Ngụy hỏi anh Đội Ngụy rằng làm sao mà đồng chí La Văn
Cầu lại tự chặt được cánh tay còn lại, thì được trả lời bằng những tiếng
cười hì hì xỏ lá….
Chiến thắng Tết Mậu Thân…. Cái chiến thắng
này thì nhiều xác chết thật đấy nhưng vì nó gấp quá, quen thuộc quá với dân
thành phố Miền Nam, nên chàng vô sản Trương Chi không đủ can đảm
trâng tráo trơ trẽn để mà ngồi xổm bài tiết ra những bài ca Buôn Xác Chết. Đành
phải nhai lại cái xác chết Nguyễn văn Trỗi. Nhưng cái xác chết này đã từng ngâm
mình ở con sông dưới cầu Công Lý, tục gọi là Bến Tắm Ngựa, nên có vẻ hơi nặng
mùi. Chiến thắng Tết Mậu Thân thành ra vắng Bài Ca Buôn Xác
Chết.
Rồi tới chiến thắng 30-4-1975 . Cái chiến
thắng này thì lại khác hẳn, vì không có xác chết. Thì nào có đánh đấm cái mẹ gì
đâu mà có xác chết ? Ở cái chỗ nào cũng vậy, thường là sau khi kết thúc một trận
chiến, lại bày ra một cảnh đổ vỡ tan hoang, nhiều khi không còn viên gạch nào
nguyên vẹn. Nhưng mà ở đây không sứt mẻ, không sây sứt môt tí tẹo nào. Như vậy
thì sao gọi là cuộc chiến đã kết thúc ? Đường số 1 không gãy một cây cầu ! Mấy
con đường xe cộ vẫn chạy phom phom, không môt khúc nào bị cắt đứt. Cả một thành
phố Sài Gòn chỉ đổ có cái cổng Dinh Độc lập vì cái thằng lái xe thiết giáp loạng
quạng, ra cái điều hách dịch phách lối, húc đánh rầm một phát. Nếu nó ngừng tại
chỗ cho người ta mở cổng, rồi đi vào thơ thới hân hoan, thì Sài Gòn sẽ được
tiếng là còn nguyên si, chưa rụng một cái sợi lông sợi
tóc.
Ấy cũng chỉ vì không có xác chết mà đại
thắng mùa Xuân đâm ra táo bón bài ca Buôn Xác Chết. Nhưng chàng vô sản
Trương Chi nổi danh về tài hót , đâu có chịu ? Thì vẫn có cái xác
chết nằm chình ình ra đấy thôi ? Không còn xác chết nào để buôn, thì chúng buôn
xác ông già. Nào, một, hai, ba, ta đồng ca
:
Như có Bác Hồ
trong ngày vui đại thắng,
Lời Bác nay thành chiến thắng huy hoàng (…)
Lời Bác nay thành chiến thắng huy hoàng (…)
Ngày chiến thắng ấy có huy hoàng hay không,
thỉ tôi sẽ viết trong truyện ký ” Nếu chàng Trương Chi đẹp trai “.
Tôi viết đã được một trăm trang. Có một điều lạ là càng viết thì đầu óc lại càng
sáng tỏ ra nhiều vấn đề. Những ngày đầu tháng 5 của năm 1975, tôi cực kỳ oán hận
những kẻ đã để tôi ở lại đây. Phương tiện của Cờ Hoa năm 1975, có thể nói gấp
ngàn lần phương tiện của Tây năm 1954. Năm 1954, Tây còn mang đi được môt triệu
người. Ấy vậy mà năm 1975 … đạp lên nhau mà đi, bước lên xác nhau mà đi, con số
chắc cũng chỉ tới trăm ngàn. Trong một lúc quá chán nản, tôi làm một bài thơ tự
vịnh thân phận :
Ba chìm bảy
nổi chín lênh đênh
Một ván cờ thua ngã chổng kềnh
Bạn đỏ thiết tha mà dứt bạn
Tình vàng phụ bạc vẫn theo tình.
Tương lai trước mặt sao mù mịt
Dĩ vãng sau lưng lại bấp bênh
Trở giấc sao mình thao thức mãi
Quanh mình bóng tối cứ mông mênh.
Một ván cờ thua ngã chổng kềnh
Bạn đỏ thiết tha mà dứt bạn
Tình vàng phụ bạc vẫn theo tình.
Tương lai trước mặt sao mù mịt
Dĩ vãng sau lưng lại bấp bênh
Trở giấc sao mình thao thức mãi
Quanh mình bóng tối cứ mông mênh.
Rồi tiếp theo là mấy năm đi học cải tạo.
Trong nhiều lúc chán đời tôi chỉ muốn chết. Nhìn gần thì nhìn thấy mình và người
chung quanh cứ mòn mỏi, cùn rỉ để rồi dần dần gục xuống. Nhìn xa thì thấy tương
lai Miền Nam đi tới chỗ diệt chủng. Những thằng đàn ông có khả năng đẻ đái thì
bị nhốt hết trong trại học tập cải tạo, còn sót lại thằng nào ở bên ngoài, thì
lại được khuyến khích bằng sự hạn chế sinh đẻ. Hơn nữa cái chính sách lương bổng
thật tồi tệ. Cha mẹ không nuôi nổi con cái, con cái không nuôi nổi cha mẹ, anh
em không nâng đỡ nổi nhau thì đẻ thêm làm cái gì ?…
(…)
Khi ra khỏi trại học tập cải tạo, gặp thằng
Công Tử Con Bà Cả Đọi. Hắn tả cảnh sống của hắn và đọc cho tôi nghe bài thơ Cực
Tả :
Cửa đóng màn
che đã mấy thu
Đời tàn ngõ hẹp sống như tù
Quẩn quanh học lại Thiền Đông Độ
Vào ra luyện mãi Pháp Tây Du
Rầu rĩ Giáng Tiên ngồi gãi háng
Nẫu nà Từ Thức đúng xoa khu
Ăn chỉ tương cà, chê thịt cá
Sống chẳng tu hành cũng quá tu
Đời tàn ngõ hẹp sống như tù
Quẩn quanh học lại Thiền Đông Độ
Vào ra luyện mãi Pháp Tây Du
Rầu rĩ Giáng Tiên ngồi gãi háng
Nẫu nà Từ Thức đúng xoa khu
Ăn chỉ tương cà, chê thịt cá
Sống chẳng tu hành cũng quá tu
. Tôi lại càng buồn, mẹ kiếp ! Đông độ với
Tây du. Nước Mỹ với nước Tây thì cũng chán mớ đời. Tôi hoạ lại bài thơ ấy bằng
bài Quân Tán, nghĩa là Tan Hàng :
Quân tán còn
chi xuất với thu
Sống thừa thì cũng xác thân tù
Hữu tật cam đành câu bất dụng
Vô tài nên chịu tiếng nan du.
Những tuởng khoan hồng anh hạ bộ
Nào ngờ mắc bẫy chú Xuân Khu
Chung cuộc vài năm cầm cán cuốc.
Tu đọi, tu huyền ấy cũng tu.
Sống thừa thì cũng xác thân tù
Hữu tật cam đành câu bất dụng
Vô tài nên chịu tiếng nan du.
Những tuởng khoan hồng anh hạ bộ
Nào ngờ mắc bẫy chú Xuân Khu
Chung cuộc vài năm cầm cán cuốc.
Tu đọi, tu huyền ấy cũng tu.
***
Anh cứ nhớ rằng lúc nào anh em chúng mình
làm thơ Đường, ấy là lúc chúng ta buồn và rất chán
đời.
Nhưng từ lúc viết “Nếu chàng Trương
Chi đẹp traỉ” thì tôi phấn khởi hẳn lên. Nghĩ tới ngày đầu tiên Mị Nương
gặp Trương Chi là tôi nhớ tới cả một cuốn phim dĩ vãng của những
ngày đầu Tháng Năm lịch sử. Nàng Mị Nương và chàng Truơng Chi hẳn cũng đã xảy ra
chuyện “ngôn ngữ bất đồng” . Tôi cười một mình, nhớ tới mẩu đối thoại giữa cô
bán thuốc lá ở trước cửa nhà và một anh bộ đội
- Bán cho tôi bao thuốc ná…
- Dạ anh mua thuốc nào ?
- Không bán cho tôi bao thuốc ná?
- Dạ anh mua thuốc nào ?
- Dạ anh mua thuốc nào ?
- Không bán cho tôi bao thuốc ná?
- Dạ anh mua thuốc nào ?
Tiếng gắt gỏng :
- Cái cô này nạ chửa. Người ta mua thuốc ná mà nại cứ hỏi người ta mua thuốc nào.
- Cái cô này nạ chửa. Người ta mua thuốc ná mà nại cứ hỏi người ta mua thuốc nào.
Giọng trả lời vẫn dịu dàng :
- Dạ thì tôi hỏi anh mua thuốc nào ? Thuốc Ru by, thuốc Cáp tăng hay thuốc Bát tô ?
- Dạ thì tôi hỏi anh mua thuốc nào ? Thuốc Ru by, thuốc Cáp tăng hay thuốc Bát tô ?
Ngôn ngữ bất đồng là thế đấy. Khu nhà tôi ở
bên kia cầu chữ Y, nên sau ngày 30-4-1975, quanh nhà thật đông bộ đội. Con nhỏ
người làm nhà tôi đã biểu diễn một bộ mặt ngớ ngẩn khi một anh bộ đội tới hỏi
mượn “một cái bàn nà” hay mượn một cái phễu. Tôi phải nhắc nó đua anh ta mượn
cái bàn ủi hay cái quặng, lúc đó nó mới à lên một tiếng tự
nhiên.
Buổi sáng buổi chiều là những lúc nhàn rỗi
của mấy anh bộ đội. Những anh chàng này ít đi chơi vì Sài Gờn đối với mấy chàng
chẳng có gì hấp dẫn. Đường phố thì dài dằng dặc. Đi bộ thì mỏi chân. Vượt Trường
Sơn thi được nhưng đi bộ trên đường phố Sài Gòn thì các chàng lại chê. Vài chàng
may mắn gặp được gặp người quen hay bà con họ hàng di cư vào đây năm 1954 nhưng
họ cũng chỉ cho ăn vài bữa cơm rồi cũng lơ là. Bởi vậy các chàng không còn thú
vui gì chỉ ngổi xúm lại với nhau tán gẫu.
Cái lối ngồi của mấy chàng cũng lạ.
Chúng mình thì ngồi bệt xuống, đặt cái mông xuống hè cho nó thoải máì, thằng nào
muốn sạch thì lót cái khăn mùi xoa hay tờ giấy báo. Nhưng mấy chàng thì ngồi ở
cái thế mà chúng ta hay biểu diễn ở những lúc ta ở trong cầu tiêu. Cứ ngồi xổm
như thế mà nói chuyện râm ran, cả mấy giờ đồng hồ. Sáng, trưa chiếu lúc nào cũng
có vài ba chàng hay đông hơn nữa ngồi ở đầu hè nói chuyện với nhau. Cứ ở tư thế
“ngồi nước lụt”. Đứa cháu gái lớn một hôm ngồi ngắm các anh chàng rồi bảo tôi
:
- Sấm, sấm rồi bố ạ !
Tôi ngạc nhiên hỏi lại :
- Thế nào mà lại là sấm ?
- Thì bố vẫn giảng cho con nghe những bài thơ, những câu phong dao tục ngữ không có tác giả đọc lên tối nghĩa một chút, không chừng là sấm. Như câu “hết quan tàn dân, thu quân bán ruộng”. Như câu …
- Rồi, rồi, nhưng cô định cho câu nào là sấm đây ?
- Thế nào mà lại là sấm ?
- Thì bố vẫn giảng cho con nghe những bài thơ, những câu phong dao tục ngữ không có tác giả đọc lên tối nghĩa một chút, không chừng là sấm. Như câu “hết quan tàn dân, thu quân bán ruộng”. Như câu …
- Rồi, rồi, nhưng cô định cho câu nào là sấm đây ?
Con bé ra mặt nghiêm trang :
- Con nghĩ tới bài thơ con cóc ” Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra. Con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó. Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi “Mới đầu con cứ thắc mắc mãi về con cóc, không hiểu rằng con cóc ám chỉ cái gì. Bây giờ nhìn mấy đứa kia nó ngồi chồm hổm, mới thấy y như hệt con cóc. Bố thấy chúng nó có giống con cóc hay không ?
- Con nghĩ tới bài thơ con cóc ” Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra. Con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó. Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi “Mới đầu con cứ thắc mắc mãi về con cóc, không hiểu rằng con cóc ám chỉ cái gì. Bây giờ nhìn mấy đứa kia nó ngồi chồm hổm, mới thấy y như hệt con cóc. Bố thấy chúng nó có giống con cóc hay không ?
Tôi không trả lời đứa con gái nhưng trong
lòng như ngầm đồng ý. Cũng như tôi đã mắng chúng nó khi chúng nó trả lời nhửng
câu trêu chọc mấy chàng bộ đội bằng câu ca dao
:
Khoai lang chấm muối ăn
bùi
Lấy chồng bộ đội lấy cùi sướng hơn.
Lấy chồng bộ đội lấy cùi sướng hơn.
Tôi mắng nhưng trong lòng hả hê. Ừ, có thể
là sấm thật đấy. Và bây giờ khi viết truyện ký ” Nếu chàng Trương chi đẹp trai ”
tôi đã gọi Ngày 30-4-1975 là ngày VNCH đại
thắng.
Đã là ngày đại thắng thì chỉ nên luận công
mà không luận tội. Người Mỹ đã tạo nên ngày 30-4-1975, cũng như ông Thừa tướng
đã tạo nên ngày Mị Nương gặp Trương Chi. Ôi, cả công lao tuyên
truyền, cả một hệ thống tư tưởng từ Nam chí Bắc, xụp đổ thảm thương. Đi xe đò từ
Bắc vào Nam, cứ tới Quảng Trị người dân miền Bắc yên trí là cái mông đít không
còn bị hành hạ. Vào tới trong Sài Gòn nhiều kẻ đã ở lại, không muốn về, đấy là
bây giờ Sài Gòn kém trước quá xa.
Công của ông Thiệu sửa soạn cho Ngày
30-4-1975 cũng quá lớn. Nhất là cái chương trình “Người cày có ruộng”. Mua lại
ruộng đất của diền chủ, rồi phát không cho nông dân mỗi người ba mẫu với bằng
khoán cẩn thận, ông Thiệu đã bẻ gãy cái liềm trên lá cờ có cái liềm cây buá. Lại
còn Ngân hàng quốc gia Nông tín Cuộc cho nông dân vay tiền mua máy cày, máy bơm
nước tới muà thì trả. Không trả được thì khất lại. Cả một chính sách cải cách
ruộng đất mà những anh chàng vô sản rất lấy làm hãnh diện, ấy thế là…đi
đoong.Thâm độc hơn nũa là cái vụ cấy luá Thần Nông. Cái thứ lúa ngắn ngày này
phải cần bón phân cho nhiều. Mà lại phải là phân hoá học nhập cảng. Thì có chi
lạ. Muốn chóng lớn thì phải ăn nhiều. Thấy lúa ngắn ngày, mấy chàng “cứ tưởng bở
” mang ngay về Bắc làm giống, huyênh hoang khoác lác quá xá, để rồi mấy năm mất
mùa và cho tới nay phải trở lại cày cấy hai vụ chiêm mùa…. Thật là thâm quá thâm
mà độc quá là độc.
Lại sắp tới Ngày 30 Tháng
Tư.
Từ 1975 đến 1982, đối với mọi người kể cả
tôi, cũng đã gọi là quá dài.
Mấy thằng Tây thất bại vì đã trở lại sớm
quá. Chín năm kháng chiến chống Tây, chúng nó đã có thật đông chính nghĩa. Nhưng
rồi sau chín năm ? Và tới bây giờ Trương Chi đã lộ mặt thật xấu
bẩn. Mặt nạ chính nghĩa rơi rớt tơi tả.
Anh nói với bằng hữu: làm gì đi chứ ? Chia
rẽ làm chi, tội nghiệp quá đi thôi! Đoàn kết không phải là tôi đi theo anh hay
là anh đi theo tôi. Đoàn kết là dẹp bỏ hết mọi tị hiềm, xung
khắc
để cùng chung lo việc cấp bách trước mặt là
… Phục Quốc. Rất thân chào Anh
Lão Húc
o O o
CTHĐ Sao Y Bản
chính.
Một buổi sáng Tháng Tư năm 1984
Dương Hùng Cường và tôi cùng vào Nhà Tù Số 4 Phan Đăng
Lưu.
Một buổi trưa Tháng Tư năm 1985
Dương Hùng Cường và tôi cùng vào Nhà Tù Chí
Hòa.
Một buổi sáng Tháng Giêng năm 1989 từ Nhà
Tù Chí Hòa một mình tôi lên Trại Tù Khổ Sai Z 30 A. Một buổi sáng
năm 1988 từ Nhà Xác Nhà Tù Chí Hòa Dương Hùng Cường lên Nghĩa
Trang Lái Thiêu.
Đầu năm 1987 bọn Cộng Hà Nội định đưa nhóm
văn nghệ sĩ bị gọi là bọn Biệt Kích Cầm Bút ra tòa. Nhóm văn nghệ sĩ này 8
người: Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Doãn Quốc Sĩ, Khuất Duy Trác, Dương Hùng
Cường, Trần Ngọc Tự, Lý Thụy Ý, Nguyễn Thị Nhạn, Hoàng Hải Thủy. Họ bị
khép tội gián điệp. Án phạt tội gián điệp cao nhất là Tử hình, thấp nhất là tù
khổ sai 12 năm. Bọn ký giả bị rọ mõm trong hai tờ báo Công An, Tuổi Trẻ rep hò:
“Bọn gián điệp sẽ phải cúi đầu nhận tội trước nhân dân..” Để chuẩn bị cho phiên
xử bọn công an đưa Doãn Quốc Sĩ, Dương Hùng Cường, Lý Thụy Ý,
Nguyễn Thị Nhạn từ Nhà Tù Chí Hòa về giam ở Nhà Tù Số 4 Phan Đăng
Lưu. Dương Hùng Cường chết trong đêm trong một sà-lim. Xác
anh được đưa về Nhà Xác Nhà Tù Chí Hòa. Vợ con DH Cường được gọi tới nhìn mặt
người tù lần cuối. Bọn Cai Tù Chí Hòa cho xác người tù chết vào áo quan, cho xe
nhà tù đưa lên chôn ở Nghĩa Trang Lái
Thiêu.
Anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt chết trong Nhà Tù
Chí Hòa.
Phiên xử bọn Biệt Kích Cầm Bút bị hoãn cho
đến đầu năm 1988 mới được đưa ra tòa. Lần này tội gián điệp trong cáo trạng bị
bỏ, thay vào đó là tội tuyên truyền phản cách mạng: án tù tối đa 12 năm tù khổ
sai, án tù tối thấp tù khổ sai 2 năm. Nhóm văn nghệ sĩ vào tù 8 người, còn 6
người ra tòa.
Dương Hùng Cường viết bài “Nếu
anh Trương Chi đẹp trai” ở Sài Gòn năm 1981. Ba mươi năm sau –
2014 – Kỳ Hoa Đất Trích, đêm khuya tôi đọc “Nếu anh Trương
Chi đẹp trai.”
Trong một bài hồi ký kềnh càng của tên Đại
úy Bùi Đức Nhung, tả chiến công tiến chiếm Dinh Độc Lập, đã kể rằng trên đường
đi hắn đã mấy lần nhảy từ xe thiết giáp xuống hỏi thăm dân Sài Gòn đường đi tới
dinh Độc Lập. Mẹ kiếp, đường đi còn chưa rõ thế mà vẫn khoác lác là sửa soạn kỹ,
nào là tập lâu ngày bằng bản đồ với sa bàn. Chưa thấy đứa nào dối trá, láo xược
bằng cái thằng vô sản Trương
Chi.
1. Trích:
Bài ca mà chàng vô sản Trương
Chi coi là sở trường của chàng “nghề của chàng” là bài ca Buôn Xác
Chết
Vậy mà cái đám bị mang ra buôn bán không hề
nhận ra điều này!
Điển hình nhất là Nỗi Buồn Chiến Tranh của một anh bộ đội
khá thông minh! Anh chàng này biết căm phẩn cái đám mọi rợ Ba Đình đã đối xử với
những thương phế binh Giải Phóng Miền Nam như súc vật! Nhưng đối với anh bộ đội
thông minh đáng thương này — anh ta và đồng đội của anh ta đã chống Mỹ cứu
nước!
Anh bộ đội thông minh và đáng thương này
hình như tên là Bảo Ninh?
Trích:
Và bây giờ khi viết truyện ký ” Nếu chàng
Trương chi đẹp trai ” tôi đã gọi Ngày 30-4-1975 là ngày VNCH đại
thắng.
Tướng độc nhãn Do Thái Moshe Dayan, khi
sang Miền Nam trước 1975, hình như ông ta đã bảo: muốn thắng được cộng sản phải
để cho cộng sản chiếm Miền Nam ( hay đại khái như vậy…
)
Bây giờ thì cái đám Đồng Khởi, Xô Viết Nghệ
Tĩnh, Mẹ Tơm, Bà Má Hậu Giang, Hòn Đất v.v… nghe nhắc đến Việt cộng chắc đã tởn
hồn rồi?
SƠN TRUNG * NGUỒN GỐC ĐIÊU LINH
Sunday, August 17, 2014
NGUỒN GỐC ĐIÊU LINH
SƠN TRUNG
Mọi sự xảy ra, dù trong thiên nhiên, hay trong cuộc sống đều có nguyên nhân. Phật giáo gọi là lý nhân quả. Khoa học cũng nói đến nhân quả, một thứ nhân quả đã trở thành định lý tất yếu, vượt không gian, thời gian. Như
H2+ O = NƯỚC.
ACID+ BAZE= MUỐI+ NƯỚC
Trong vật lý, hóa học, sự chuyển hóa theo quy tắc nhất định, thời gian nhất định, không thể đổi khác, nhưng trong cuộc đời, mọi sự có khác, nhưng cũng theo luật nhân quả. Thấy nhân là biết quả, thấy quả là biết nhân.
Triết học, tôn giáo, luân lý Á Đông luôn chú trong nhân quả. Thuyết này được tóm gọn trong câu:
"Ở hiền thì được gặp lành,
Ở ác gặp ác tan tành ra tro."
Kinh dịch cũng nói đến nhân quả. Kinh Dịch, quẻ Thuần khôn, HÀO TỪ, sơ lục, Chu Công viết: Lý sương, kiên băng chí. 履霜,堅冰至 (Đạp lên sương thì biết băng dày sắp đến).
Cũng ở quẻ Thuần Khôn này, phần Văn Ngôn chú giải: Tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương. Thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triêu nhất tịch chi cố. Kỳ sở do lai giả tiệm hĩ, do biện chi bất tảo biện dã. 積 善 之 家 必 有 餘 慶, 積 不 善 之 家 必 有 餘 殃. 臣弒 其 君, 子 弒 其 父, 非 一 朝 一 夕 之 故. 其 所 由 來 者 漸 矣, 由 辯 之 不 早 辯 也 . (Nhà nào tích thiện sẽ được nhiều phúc lộc, nhà nào tích ác sẽ bị nhiều tai ương. Tôi giết vua, con giết cha, không phải một sớm một chiều, nguyên do dẫn đến cơ sự ấy tuần tự nhi tiến, chỉ tại kẻ phân biệt không phân biệt được sớm thôi ).
Ngày nay xã hội Việt Nam, đất nước Việt nam suy đồi hay phát triển? Phát triển cái gì? Phải chăng là phát triển cái tham nhũng? Tàn ác, gian dối và ngu dốt? Tại sao vậy? là do đâu?
Có ai tự hào Viêt Nam anh hùng đã đánh thắng bốn tên đầu sõ xâm lược? Việt nam có đánh Nhật đâu mà khoe thắng? Chính Trung cộng đánh Pháp chứ không phải Việt cộng đánh Pháp thì sao tự hào thắng Pháp? Mỹ lui quân ở Thái bình dương trong đó có Việt nam là theo "không thành kế ", "đà đao kế " chứ đừng vội mừng! Có thật sự Việt nam đánh cho Đặng Tiểu Bình phải lui quân? Phải chăng Việt Cộng " tiến lên" xây dựng XHCN hơn mười lần xưa? Nếu tiến lên chứ không phải rớt xuống thì sao Trung Cộng và Việt cộng phải bỏ kinh tế chỉ huy và cầu tư bản đầu tư?
Nếu Việt Cộng có "đạo đức Hồ Chí Minh" ( Nếu Hổ Chí Minh có đạo đức) thì tại sao tham nhũng tràn lan, mà nay tại Trung Quốc, Tập Cận Bình đang ra sức diệt tham nhũng? Nếu cộng sản có " đạo đức cách mạng " thì tại sao tham nhũng tràn lan khắp nơi một cách khủng khiếp và trắng trợn như thế?
Chính bọn Cộng sản vừa tham nhũng vửa làm ra bộ trong sạch than thở . Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã phát biểu: "Tham nhũng ở nước ta là do cả cơ chế lẫn con người".
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói: "Hiện tượng hư hỏng, tham nhũng, tiêu cực đúng là lắm lúc nghĩ hết sức sốt ruột, nhìn vào đâu cũng thấy, sờ vào đâu cũng có..."[1]
Khi nhắc đến tham nhũng trong khi tiếp xúc cử tri Saigon tháng 5-2011, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã nói:"Trước đây chỉ một con sâu làm rầu nồi canh, nay thì nhiều con sâu lắm. Nghe mà thấy xấu hổ, không nhẽ cứ để hoài như vậy. Mai kia người ta nói một bầy sâu, tất cả là sâu hết thì đâu có được. Một con sâu đã nguy hiểm rồi, một bầy sâu là 'chết' cái đất nước này." [2][3]
Trong cuộc điều tra năm 2005, Ban Nội chính Trung ương công bố danh sách liệt kê 10 cơ quan tham nhũng phổ biến nhất Việt Nam. Trong đó ba cơ quan dẫn đầu là:
-Địa chính nhà đất,[4]
-Hải quan/quản lý xuất nhập khẩu , và
-Cảnh sát giao thông.[5]
Báo chí trong và ngoài nước đã đề cập các vụ tham nhũng tiêu biểu:
-Vụ EPCO - Minh Phụng
- Vụ PMU18
- Vụ tham nhũng PCI
-Vụ tham nhũng Đề án 112
-Vụ Nexus Technologies công ty Mỹ hối lộ quan chức Việt Nam
-Vụ Công ty của Úc Securency hối lộ in tiền Polome ở Việt Nam
-Vụ chia chác đất công ở An Hải, Hải Phòng
-Vụ Vinashin
-Vụ Vinalines, nhân vật chính là cục trưởng cục hàng hải Dương Chí Dũng.
Theo cách xếp hạng Nhận thức về Tham nhũng của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (tức Transparency International), công bố năm 2010 thì Việt Nam được 2.7 trên 10 điểm (những nước có điểm số dưới 5 bị coi là có tình trạng tham nhũng cao).(Wikipedia).
Tại sao cộng sản ngang nhiên cướp nhà, cướp đất của dân?Tại sao cộng sản ra tay đánh dân, giết dân? Tại sao phụ nữ Việt nam phải đem thân làm nô lệ quốc tế? Tại sao Việt cộng xuất cảng gian manh, trộm cắp? Tại sao người Việt nam nay tham tiền tài?Tại sao Việt nam nay ăn nói thô bỉ, dối trá? Tại sao Viêt nam nay tàn ác, hở ra một tí là đâm chém mất tình người? Tại sao nền giáo dục Việt nam suy đồi, trong đó nạn thi cử gian lận , và bằng cấp giả lên ngôi?Tại sao và tại sao?
Chính là do các nguyên nhân từ trước, mà nguyên nhân sâu xa hơn hết là chính trị, văn hóa sai lầm của cộng sản. Một triêt gia mà người ta cho là Lão tử nói: "Làm thầy thuốc mà sai lầm thì chỉ giết một người; làm chính trị mà sai lầm thì tàn hại cả đất nước; làm văn hóa mà sai lầm thì gây tai họa cho muôn đời".
Chính cái triết học Marx, chủ nghĩa Marx -Lenin, Stalin, Mao đã tàn phá nửa nhân loại trong gần một thế kỷ mà đến nay nọc độc vẫn tác hại đến Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Cu Ba v.v..
Chúng ta thử phân tích để tìm hiểu nhân và quả của chủ nghĩa Marx và xã hội Việt nam.
1. ĐẤU TRANH GIAI CẤP
Các triết thuyết đều nhắm đến việc đoàn kết quốc gia. Tổ tiên ta đã khuyên bảo toàn dân đoàn kết, tương thân tương ái để xây dựng nước và theo tinh thần từ bi, bác ái và nhân nghĩa, đạo đức của Phật giáo, Nho giáo:
-"Bầu ơi, thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng một giàn"
-Lá lành đùm lá rách
-Chị ngã em nâng
-Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ...
Thuyết đấu tranh giai cấp của Marx chỉ gây hận thù, phá hoại sự đoàn kết dân tộc, và nền tảng nhân nghĩa, đạo đức con người để cho cộng sản dễ đánh phá và lèo lái theo con đường tội ác, có lợi cho cộng sản. Hơn nữa, tại Nga, Trung Quốc, Việt nam, khoảng 1930 lực lượng vô sản và tư sản rất yếu. Trong CCRDD tại Viêt Nam, địa chủ, kẻ thù của nông dân chỉ là nông dân bậc trung nông bị đôn lên cho đủ túc số 5% địa chủ. Đấu tranh giai cấp, CCRD tại Việt Nam, Trung Quốc chỉ có hai mục đich là khủng bố nhân dân chuẩn bị cho công cuộc thâu tóm tài sản nhân dân biến thành các công trường , nông trường và vơ vét vàng bạc của nhân dân.
Nên chú ý rằng cộng sản rất mê vàng bạc, tài sản, hãng xưởng, đất đai . Marx chủ trương diệt tư sản, bãi bỏ tư hữu là có mục đich cướp tài sản của nhân dân, và bắt nhân dân làm nô lệ cho cộng sản. Lenin tiêu diệt Chính thống giáo, đày ải dân Kulak cũng chỉ vì tham số vàng bạc và ruộng đất của nhà thờ và nhân dân, đặc biệt là những ai ăn nên làm ra dù không phải là tư sản hay địa chủ. CCRD ở Việt Nam có mục đích tra tấn các nạn nhân về số nhẫn, vòng, kiềng nhỏ nhoi của trung nông, phú nông để họ làm giàu. Đánh tư sản trong nam, vàng bạc, đô la đều vào tay Lê Duẩn, Mai Chí Thọ, Lê Đức Thọ, Trần Văn Trà và bọn thuộc cấp chứ không đem vào công quỹ.
Cộng sản tuyên bố diệt tư sản, diệt giai cấp bóc lột, san bằng bất công xã hội, đem lại no ấm cho giai cấp vô sản thì ngược lại cộng sản tạo ra nhiều giai cấp, thiểu số cộng sản thành tư sản đỏ, bóc lột, tham nhũng gấp trăm, gấp ngàn quân chủ và tư bản, trong khi vô sản và nhân dân phải sống cực khổ, lại bị cướp nhà đất, bị tù đày, bị khủng bố, phải làm nô lệ . Và đất nước trở nên nghèo đói, lạc hậu. Càng nghèo khổ con người sinh ra tranh giành, kèn cựa từng miếng ăn, rồi sinh ra lưu manh, trộm cắp, muôn tội là do cộng sản.Tệ trạng này xuyên suốt các quốc gia cộng sản chứ không riêng gì Việt Nam nhưng Việt Nam anh hùng nhất, nghèo đói nhất, dã man nhất nên đứng đầu sổ gian manh, trộm cắp trong quốc tế cộng sản và thế giới
2. BÃI BỎ TƯ HỮU
Bãi bỏ tư hữu thì toàn dân trở thành vô sản phải phục tòng cộng sản, phải làm nô lệ cộng sản và kết quả là đói khổ, chết chóc. Tại Liên Xô, Trung Cộng và Việt Nam cộng sản, các nông trại, các công trường, các hợp tác xã..là trại khổ sai, trại nô lệ, trại giam, con người trở thành nộ lệ, thành tù nhân và cuối cùng là chết tập thể. Liên Xô thời Lenin, Stalin với kế hoạch phát triển kỹ nghệ và nông nghiệp đã đưa đến các nạn đói giết hàng chục triệu nhân dân, trong đó tội nghiệp là dân Kulak, những trung nông và bần nông được gán cho tội phản động, boc lột, cuối cùng đã chết trong đói rét, bệnh tật tại Siberia lạnh giá. Tại Trung Cộng, với kế hoạch Đại Nhảy Vọt, Mao đã giết hàng chục triệu nhân dân Trung Quốc.
Sự thất bại này do nhiều nguyên nhân nhưng các nguyên nhân chính là cộng sản kiêu hãnh, mù quáng, tham lam và ngu dốt. Xây nhà ta phải thuê thợ mộc, thợ nề rành nghề, may quần áo, ta phải chọn thợ may giỏi. Thế mà cộng sản giao cho người không có kinh nghiệm xây nhà làm nhà, không biết may áo phải may y phục. Lenin, Stalin, Mao dù đỗ đạt cái gì đi nữa cũng không phải các chuyên gia kinh tế. Không phải kinh tế gia mà làm kinh tế là một sai lầm lớn lao.
Đã thế, cộng sản đuổi trí thức, đàn áp, khủng bố trí thức mà đem công nhân, nông dân vào các chức vụ chỉ huy các cơ quan, bộ viện và làng xã cũng là một sai lầm khủng khiếp đưa đến sự phá hoại đất nước.Tại Việt Nam, sau 1975, Việt Cộng đem nông dân đi bán bia, bán rượu làm tiếp viên tại các quán ăn, cửa hàng giải khát quốc doanh, trong khi đuổi các cô chiêu đãi viên cũ đi kinh tế mới. Họ đuổi kỹ sư, giáo sư đưa các ông trung tá, đại tá mà một đời chỉ biết giật mìn, phá cầu, bắn sẻ làm giám đốc ngân hàng, giám đốc công ty xuất nhập khẩu, bộ trưỏng ngoại thương, thứ trưởng ngoại giao .. Họ cho đó là phục vụ vô sản nhưng chính vì quan điểm chính trị chật hẹp này đã phá hoại quốc gia, dân tộc. Muốn thành công phải chú trọng chuyên môn, đừng vị kỷ, phe cánh, địa phương, giai cấp.
Lenin, Stalin, Mao, Hồ cho rằng bãi bỏ tư hữu, lập công trường, nông trường theo lý thuyết Marx thì tự nhiên đất nước thịnh vượng, kinh tế, văn hóa phát triển. Bọn cộng sản và bọn lưu manh quốc tế ca tụng thuyết của Marx là căn cứ vào kinh tế Anh nhưng không phải thế. Thuyết của Marx đi ngược với các thuyết về kinh tế trên thế giới, chẳng chút liên quan đến kinh tế Anh. Marx là một người viết kinh tế theo đầu óc cuồng điên của ông, là một thuyết phản khoa học, chưa được thực chứng, và còn ở trong vòng tranh luận. Chưa thí nghiệm, người ta đã thực hành, gây ra bao dau đớn, khổ ải và thất bại.. Sự thực chứng minh chủ nghĩa Marx không phải là chiếc đũa thần mà là chai thuốc độc cực mạnh. Lenin, Stalin, Mao, Hồ tham lam, ngu dốt, vạch ra những kế hoạch năm năm, mười năm đầy tham vọng, cố ý vượt qua Mỹ, nhưng đó là việc con ếch muốn to bằng con bò, chỉ khổ cho nhân dân lao động bị bắt dân làm quá sức trong khi bụng đói, bệnh hoạn, kết cuộc hàng chục triệu người phải chết thảm thương. Vậy tư bản bóc lột hay cộng sản bóc lột?
Bãi bỏ tư hữu thì nhân dân tay trắng trong khi tài sản quốc gia nằm trong tay đảng cộng sản, mà thực tế là nằm trong tay một vài cá nhân quyền lực và gia đình, chân tay họ. Cộng sản nắm quyền kinh tế, đất đai thuộc đảng và nhà nước nên bọn họ coi như là tài sản riêng, chúng ngang nhiên tiêu xài, cướp đoạt, chia chác như ngày nay ta đã thấy.
Marx hoang tưởng và sai lầm. Không bao giờ bãi bỏ tư hữu được. Bãi bỏ tư hữu thì cộng sản sẽ chiếm đoạt tài sản nhân dân. Bãi bỏ tư hữu làm cho con người mất nguồn sống, mất động cơ lao động và chỉ tạo cho con người phát triển lòng tham, tạo cơ hội cho cường quyền cướp bóc, gian dối và phát triển xã hội địa ngục.
3. VÔ SẢN CHUYÊN CHÍNH
Các chính trị gia, triết gia Á Đông luôn chủ trương nhân nghĩa trong đời sống chính trị và xã hội. Nguyễn Trãi nói:
Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo.
以 大 義 而 勝 兇殘,
以 至 仁 而 易 彊 暴。
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.( Bình ngô đại cáo)
Khổng tử trong sách Đại Học đã đề cập đường lối thân dân, Mạnh Tử công khai nói rõ dân vi quý, quân vi khinh. Các vua chúa dù gian ác đến đâu cũng không dám công khai giết dân, đề cao bạo quyền. Riêng Marx công khai đưa ra chủ trương tàn bạo, giết hại và đàn áp nhân dân dưới chủ trương " Vô sản chuyên chính."
-Như đã nói cộng sản chỉ dùng danh nghĩa vô sản để chống tư sản nhưng thực tâm cộng sản chẳng quan tâm gì đến vô sản. Vô sản chỉ là cái bung xung, cái cái vỏ ngoài tuyên truyền dối trá của cộng sản. Sau khi nắm vững quyền hành, cộng sản trở mặt với nhân dân, chúng tàn sát, khủng bố nhân dân. Nay thì cộng sản trở thành tư sản đỏ, chúng bóc lột nhân dân, bắt nhân dân trả học phí và viện phí là những điều mà quân chủ và tư bản vẫn lưu thủ để gíúp đỡ dân nghèo.
-Vô sản chuyên chính thực tế là cộng sản độc tài, cộng sản nắm mọi quyền hành trong quốc gia, tàn sát, trấn áp những ai chống lại họ hoặc có tư tưởng khác họ. Cuộc tranh đấu chỉ có mục đich giành độc quyền thống trị quốc gia cho phe cộng sản, nếu có thỏa hợp chỉ là tạm thời, bất cứ phe nào dù là cùng danh nghĩa cộng sản cũng bị tiêu diệt. Phe cộng sản của Lenin ( Bolchevish ) tàn sát phe cộng sản của Martov ( Menchevish ), Hồ Chí Minh sai Võ Nguyên Giáp tàn sát Đại Việt và Quốc Dân đảng cùng phe Đệ tứ quốc tế theo lệnh Stalin., theo mệnh lệnh và điều lệ của đệ tam quốc tế cộng sản.
-Lịch sử đã cho thấy cộng sản cướp đoạt quyền tự do dân chủ, hủy bỏ nhân quyền và dân quyền. Cộng sản nói dân chủ, tự do là nói láo. Tại Việt Nam, đường lối đảng cử dân bầu là một trò lưu manh bỉ ổi. Tại các quốc gia dân chủ, dân có quyền ứng cử, bầu cử nhưng theo lề thói cộng sản, dân không có quyền chọn người ứng cử mà quyền này thuộc cộng sản, tất nhiên chúng chỉ chọn chân tay của chúng. Lenin tuyên bố cộng sản có tự do, dân chủ gấp ngàn lần, triệu lần tư bản là một đại ngôn mà ngày nay những con vẹt nhỏ vẫn tấp tểnh nhái theo.
Tại các quốc gia dân chủ, tam quyền phân lập nhưng với cộng sản, chúng nắm cả ba quyền. Bọn cộng sản nằm trong chánh quyền , trong đảng và cũng nằm trong Quốc hội, cho nên ở đâu cộng sản cũng nắm quyền, nhân dân không có tiếng nói. Dân chủ tự do, quốc hội chỉ là trò dân chủ giả mạo. Con chó còn có quyền sủa nhưng chính phủ và Quốc hội cộng sản chỉ được há mõm khi có lệnh. Vì vậy mà ta thấy Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, đảng Việt Cộng và Quốc hội Việt cộng cúi đầu im lặng khi Trung Cộng xâm phạm hải phận Việt Nam. Điều này chứng tỏ bọn họ cấm dân phản kháng Trung Cộng xâm lược, và bọn họ đã cam tâm bán nước, phản bội quốc gia, dân tộc.
-Chuyên chính nghĩa là phi nhân nghĩa, phi đạo lý, tàn bạo, khủng bố, áp bức. Chủ trương đó là khinh dân, giết dân cho nên cộng sản từ Lenin, Stalin, Mao, Hồ, Pol Pot đều giết dân. Cộng sản trong nửa thế kỷ cai trị đã giết gần 200 triệu dân, vượt cả tội ác Đức quốc xã.
Vì vậy mà Hồ Chí Minh tàn sát nhân dân trong Cải cách ruộng đất, Cải tạo Công Thương Nghiệp, Tổng tấn công mậu thân (1968), và bỏ tù giết hại sĩ quan và viên chức các cấp chính quyền Việt nam cộng hòa sau 1975. . Nay chúng thẳng tay sai công sản đánh dân, giết dân, bỏ tù những nhân dân yêu nước. Và nay hết chiến tranh, công an trở thành lực lượng đàn áp nhân dân với hàng trăm tướng lãnh côn đồ. Chúng ngang nhiên coi thường nhân dân và quốc tế khi chúng bịt miệng linh mục Nguyễn Văn Lý trước tòa.
Trong khi thực thi đàn áp, tàn sát dân chúng, cộng sản đã thực hiện mọi sách lược và thủ đoạn bỉ ổi, theo chủ trương giết lầm hơn bỏ sót, giết người và bỏ tù không cần xét xử và giam cầm vô thời hạn, vu khống nhân dân, tra tấn và dùng cực hình tàn bạo.
-Chuyên chính vô sản tức là chủ trương trọng công nông, lập trường giai cấp, đưa đến chủ truương chính sách lý lịch nghiệt ngã, tạo cho cơ hội người vô tài đức nắm quyền mà bỏ rơi bao nhiêu tinh hoa dân tộc, cần thiết cho việc xây dựng đất nước. Quốc gia điêu linh cũng do từ đây.
Vì theo chủ trương độc đảng, cộng sản trở thành giai cấp mới, mặc sức thao túng quyền kinh tế, chính trị văn hóa. Vì không có đa đảng, không dân chủ, không báo chí, không pháp luật, cộng sản một mình một chợ, không còn sợ ai chỉ trích và phanh phui tội ác của chúng. Chúng trở thành những nhóm quyền lợi mặc sức chia chác, trộm cắp tài sản quốc gia. Chúng cùng nhau vạch ra các kế hoạch ma để rút tiền ngân hàng, chúng lợi dụng quyền cai trị ngang nhiên ăn hối lộ các công ty trong và ngoài nước.Vì vậy mà bọn chúng trở thành triệu phú, tỷ phú, còn ngân hàng trống rỗng, các công ty quốc doanh thua lỗ, trở thành những cái thùng không đáy, kinh tế quốc dân suy sụp, nạn cướp bóc. lừa đảo phát triển chưa từng thấy.
Ngày nay, hàng ngàn tên Việt cộng trở thành triệu phú, tỷ phú. Ngoại tệ cất giấu ở nước ngoài của Nguyễn Tấn Dũng, 1 tỷ 780 triệu $US. Đỗ Mười, 1 tỷ 900 triệu $US. Lê Khả Phiêu, 1 tỷ 430 triệu $US)... Con trai Lê Duẩn, con rể Võ Nguyên Giáp là những tỷ phú, trong khi ngân hàng trống rỗng, chúng tha hồ vay nợ quốc tế mà bỏ túi để cho thế hệ tương lai mắc nợ.
Như đã nói, diệt trừ tư hữu thì nhân dân trở nên bần cùng, lao động tập thể trở thành lao động khổ sai. Khẩu hiệu của Marx làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu cũng là một điều nói láo ngoại trừ giai cấp thống trị được hưởng mọi ưu đãi.
Trong khi nắm quyền hành, cộng sản mặc sức vơ vét, trộm cướp tài sản quốc gia. Một tên, trăm tên, ngàn vạn tên cộng sản đã hăm hở trở thành những tên trộm cướp, tạo thành một lối sống lường đảo, trộm cướp, lây lan đến dân chúng. Vì vậy, ta không nên ngạc nhiên tại sao cộng sản trở thành những tập thể trộm cắp, gian dối, và lề thói này trở thành bản tính cộng sản Việt nam. Bản tính gian lận, dối trá, trộm cắp mánh mung của Việt cộng đã phát triển tại Liên Xô, nay trở thành siêu việt tại Nhật Bản, Đài Loan, Đại Hàn, Thái Lan, Singapore.
Cộng sản tồn tại là do tuyên truyền và khủng bố cho nên nhân dân phải im lặng cúi đầu, phải giả dối tung hô. Cộng sản bóc lột, một nông dân hạng nhất mỗi ngày được một ký lô thóc, nghĩa là được hơn hai lon gạo, mà phải chờ đến mùa sau mới được lãnh.
Hai lon gạo một ngày thì ăn không đủ no, ngoài ra còn thiếu tiền mắm muối, rau dưa, tiền quần áo, thuốc men. Dù phải đi làm thuê cho phú nông,trung nông đời trước, người nông dân còn được ăn no ba bữa.
Nông dân hạng nhất mà lương bổng như thế thì nông dân hạng hai, hạng ba lấy gì mà sống? Họ phải ăn cắp thóc ngoài đồng, gạo trong kho, hoặc làm chiếu lệ. Công nhân cũng vậy, với đồng lương chết đói, người công nhân phải trộm cắp, dối trá để sinh sống. Trộm cắp, dối trá thành tật phổ biến khắp quốc gia.Nhân dân đói khổ mà phải trộm cắp, mánh mung, lường gạt, còn cộng sản thì sẵng kho tàng trước mắt, mặc sức chiếm đoạt. Trộm cắp, lường gạt đã trở thành mẫu số chung cho cộng sản và đa số nhân dân.
4. ĐẢNG CỘNG SẢN
Đảng Cộng sản thật sự là một thế lực thực dân, đế quốc mới mặc dầu cộng sản luôn kết tội tư bản, thực dân, đế quốc. Các nước thực dân, đế quốc chỉ là những lực lượng riêng lẻ, dù có tụ họp thành khối như khối trục, cũng chỉ là những lực lượng riêng lẻ, còn cộng sản với đệ tam quốc tế do Stalin lãnh đạo đã trở thành một khối vững chắc, có hệ thống dọc xuyên quốc tế mà đứng đầu là Stalin, đảng cộng sản các nước chỉ là thuộc hạ của điện Kremlin.
Dù theo chủ thuyết nào, tính xâm lược, thực dân luôn tồn tại ở các quốc gia có truyền thống xâm lược, thực dân, đế quốc. Cụ thể là đế quốc Nga và đế quốc Trung hoa. Stalin, Mao chính là những tên đại thực dân, đại đế quốc. Vì vậy Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt nam trở thành nô lệ của Trung Cộng, là đạo quân lê dương của Trung Cộng xâm chiếm thế giới, và Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười ... đã bán nước cầu vinh, đem giang sơn Đại Việt cống hiến cho Trung Cộng.Ngày hôm nay, bí mật đã lộ rõ, nhân dân ta đã hiểu rõ Hồ Chí Minh, đảng Cộng sản là một tập thể phản quốc hại dân.
5. HỒ CHÍ MINH
Tổ tiên ta nói: "nhà dột từ nóc dột xuống". Xã hội điêu tàn, quốc gia hỗn loạn là do những vị vua quan, chủ tịch tham ô, nhũng lạm và tàn ác. Ngay từ đầu, đảng cộng sản quốc tế đã do những tên gian ác, lưu manh cầm đầu như Lenin, Stalin, Trotsky, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh. Cái ác cá nhân đã ghê gớm lại cộng thêm cái ác tập thể như lửa cháy gặp gió to khi thế càng hung mãnh.
Muốn cướp chính quyền thành công, muốn diệt phe Nga hoàng và phe Menchevish cùng nông dân và tôn giáo, Lenin đã không ngần ngại dùng bọn côn đồ tàn sát nhân dân. Trước đây, Võ Nguyên Giáp cũng dùng bọn đầu trộm đuôi cướp như Trần Quốc Hoàn để giết Việt Quốc ,Việt Cách, mà nay bọn Việt cộng cũng vậy.
Nguyễn Tất Thành là một kẻ gian manh.Y không học hết tiểu học mà y và đồng bọn kê khai y học trường Quốc học, Huế, làm thấy giáo trường Dục Thanh (Phan Thiết). Y đoạt danh hiệu Nguyễn Ái Quốc của nhóm Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, và các công trình tranh đấu của nhóm này. Y còn mạo danh Hồ Chí Minh và Việt nam độc lập đồng minh hội của Hồ Học Lãm ( 1883?-1942), vì Hồ Học Lãm có tên là Hồ Chí Minh, Hồ Quang là một nhà cách mạng Việt Nam, đã theo Phan Bội Châu Đông Du.
Sau này, y sang Nga nhưng không được học trường Đông Phương của Nga, nhưng đi đâu y cũng rêu rao y học ở trường này! Cộng sản ghét trí thức. Lenin, Stalin đánh đuổi trí thức đưa nông dân, công nhân lên nắm quyền các cấp. Mao tuyên bố trí thức là cục phân. Lê Đức Thọ, Đinh Đức Thiện cực kỳ khinh miệt trí thức nhưng trong tim đen bọn chúng rất khoái cái danh tiến sĩ, cử nhân cho nên ngày nay Việt cộng rộ lên phong trào đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ là do đấy! Việc này cũng giống như cộng sản ngoài miệng ghét tư hữu, ghét phong kiến nhưng thực sự từ ngày đầu tiên cộng sản đã tham vàng bạc, mê đắm tư hũu và quyền lực. Nay từ Bắc Triều tiên, Trung quốc, Việt nam cộng sản đã theo lệ " cha truyền con nối"
- Hồ Chí Minh là một tên phản quốc đã bán Phan Bội Châu cho Pháp. Hồ Chí Minh là một kẻ gian dối một cách trơ trẽn vì y có vợ có con mà cứ luôn mồm ta sống độc thân, hy sinh hạnh phúc cá nhân cho Việt nam.
NGUỒN GỐC ĐIÊU LINH
SƠN TRUNG
Mọi sự xảy ra, dù trong thiên nhiên, hay trong cuộc sống đều có nguyên nhân. Phật giáo gọi là lý nhân quả. Khoa học cũng nói đến nhân quả, một thứ nhân quả đã trở thành định lý tất yếu, vượt không gian, thời gian. Như
H2+ O = NƯỚC.
ACID+ BAZE= MUỐI+ NƯỚC
Trong vật lý, hóa học, sự chuyển hóa theo quy tắc nhất định, thời gian nhất định, không thể đổi khác, nhưng trong cuộc đời, mọi sự có khác, nhưng cũng theo luật nhân quả. Thấy nhân là biết quả, thấy quả là biết nhân.
Triết học, tôn giáo, luân lý Á Đông luôn chú trong nhân quả. Thuyết này được tóm gọn trong câu:
"Ở hiền thì được gặp lành,
Ở ác gặp ác tan tành ra tro."
Kinh dịch cũng nói đến nhân quả. Kinh Dịch, quẻ Thuần khôn, HÀO TỪ, sơ lục, Chu Công viết: Lý sương, kiên băng chí. 履霜,堅冰至 (Đạp lên sương thì biết băng dày sắp đến).
Cũng ở quẻ Thuần Khôn này, phần Văn Ngôn chú giải: Tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương. Thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triêu nhất tịch chi cố. Kỳ sở do lai giả tiệm hĩ, do biện chi bất tảo biện dã. 積 善 之 家 必 有 餘 慶, 積 不 善 之 家 必 有 餘 殃. 臣弒 其 君, 子 弒 其 父, 非 一 朝 一 夕 之 故. 其 所 由 來 者 漸 矣, 由 辯 之 不 早 辯 也 . (Nhà nào tích thiện sẽ được nhiều phúc lộc, nhà nào tích ác sẽ bị nhiều tai ương. Tôi giết vua, con giết cha, không phải một sớm một chiều, nguyên do dẫn đến cơ sự ấy tuần tự nhi tiến, chỉ tại kẻ phân biệt không phân biệt được sớm thôi ).
Ngày nay xã hội Việt Nam, đất nước Việt nam suy đồi hay phát triển? Phát triển cái gì? Phải chăng là phát triển cái tham nhũng? Tàn ác, gian dối và ngu dốt? Tại sao vậy? là do đâu?
Có ai tự hào Viêt Nam anh hùng đã đánh thắng bốn tên đầu sõ xâm lược? Việt nam có đánh Nhật đâu mà khoe thắng? Chính Trung cộng đánh Pháp chứ không phải Việt cộng đánh Pháp thì sao tự hào thắng Pháp? Mỹ lui quân ở Thái bình dương trong đó có Việt nam là theo "không thành kế ", "đà đao kế " chứ đừng vội mừng! Có thật sự Việt nam đánh cho Đặng Tiểu Bình phải lui quân? Phải chăng Việt Cộng " tiến lên" xây dựng XHCN hơn mười lần xưa? Nếu tiến lên chứ không phải rớt xuống thì sao Trung Cộng và Việt cộng phải bỏ kinh tế chỉ huy và cầu tư bản đầu tư?
Nếu Việt Cộng có "đạo đức Hồ Chí Minh" ( Nếu Hổ Chí Minh có đạo đức) thì tại sao tham nhũng tràn lan, mà nay tại Trung Quốc, Tập Cận Bình đang ra sức diệt tham nhũng? Nếu cộng sản có " đạo đức cách mạng " thì tại sao tham nhũng tràn lan khắp nơi một cách khủng khiếp và trắng trợn như thế?
Chính bọn Cộng sản vừa tham nhũng vửa làm ra bộ trong sạch than thở . Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã phát biểu: "Tham nhũng ở nước ta là do cả cơ chế lẫn con người".
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói: "Hiện tượng hư hỏng, tham nhũng, tiêu cực đúng là lắm lúc nghĩ hết sức sốt ruột, nhìn vào đâu cũng thấy, sờ vào đâu cũng có..."[1]
Khi nhắc đến tham nhũng trong khi tiếp xúc cử tri Saigon tháng 5-2011, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã nói:"Trước đây chỉ một con sâu làm rầu nồi canh, nay thì nhiều con sâu lắm. Nghe mà thấy xấu hổ, không nhẽ cứ để hoài như vậy. Mai kia người ta nói một bầy sâu, tất cả là sâu hết thì đâu có được. Một con sâu đã nguy hiểm rồi, một bầy sâu là 'chết' cái đất nước này." [2][3]
Trong cuộc điều tra năm 2005, Ban Nội chính Trung ương công bố danh sách liệt kê 10 cơ quan tham nhũng phổ biến nhất Việt Nam. Trong đó ba cơ quan dẫn đầu là:
-Địa chính nhà đất,[4]
-Hải quan/quản lý xuất nhập khẩu , và
-Cảnh sát giao thông.[5]
Báo chí trong và ngoài nước đã đề cập các vụ tham nhũng tiêu biểu:
-Vụ EPCO - Minh Phụng
- Vụ PMU18
- Vụ tham nhũng PCI
-Vụ tham nhũng Đề án 112
-Vụ Nexus Technologies công ty Mỹ hối lộ quan chức Việt Nam
-Vụ Công ty của Úc Securency hối lộ in tiền Polome ở Việt Nam
-Vụ chia chác đất công ở An Hải, Hải Phòng
-Vụ Vinashin
-Vụ Vinalines, nhân vật chính là cục trưởng cục hàng hải Dương Chí Dũng.
Theo cách xếp hạng Nhận thức về Tham nhũng của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (tức Transparency International), công bố năm 2010 thì Việt Nam được 2.7 trên 10 điểm (những nước có điểm số dưới 5 bị coi là có tình trạng tham nhũng cao).(Wikipedia).
Tại sao cộng sản ngang nhiên cướp nhà, cướp đất của dân?Tại sao cộng sản ra tay đánh dân, giết dân? Tại sao phụ nữ Việt nam phải đem thân làm nô lệ quốc tế? Tại sao Việt cộng xuất cảng gian manh, trộm cắp? Tại sao người Việt nam nay tham tiền tài?Tại sao Việt nam nay ăn nói thô bỉ, dối trá? Tại sao Viêt nam nay tàn ác, hở ra một tí là đâm chém mất tình người? Tại sao nền giáo dục Việt nam suy đồi, trong đó nạn thi cử gian lận , và bằng cấp giả lên ngôi?Tại sao và tại sao?
Chính là do các nguyên nhân từ trước, mà nguyên nhân sâu xa hơn hết là chính trị, văn hóa sai lầm của cộng sản. Một triêt gia mà người ta cho là Lão tử nói: "Làm thầy thuốc mà sai lầm thì chỉ giết một người; làm chính trị mà sai lầm thì tàn hại cả đất nước; làm văn hóa mà sai lầm thì gây tai họa cho muôn đời".
Chính cái triết học Marx, chủ nghĩa Marx -Lenin, Stalin, Mao đã tàn phá nửa nhân loại trong gần một thế kỷ mà đến nay nọc độc vẫn tác hại đến Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Cu Ba v.v..
Chúng ta thử phân tích để tìm hiểu nhân và quả của chủ nghĩa Marx và xã hội Việt nam.
1. ĐẤU TRANH GIAI CẤP
Các triết thuyết đều nhắm đến việc đoàn kết quốc gia. Tổ tiên ta đã khuyên bảo toàn dân đoàn kết, tương thân tương ái để xây dựng nước và theo tinh thần từ bi, bác ái và nhân nghĩa, đạo đức của Phật giáo, Nho giáo:
-"Bầu ơi, thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng một giàn"
-Lá lành đùm lá rách
-Chị ngã em nâng
-Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ...
Thuyết đấu tranh giai cấp của Marx chỉ gây hận thù, phá hoại sự đoàn kết dân tộc, và nền tảng nhân nghĩa, đạo đức con người để cho cộng sản dễ đánh phá và lèo lái theo con đường tội ác, có lợi cho cộng sản. Hơn nữa, tại Nga, Trung Quốc, Việt nam, khoảng 1930 lực lượng vô sản và tư sản rất yếu. Trong CCRDD tại Viêt Nam, địa chủ, kẻ thù của nông dân chỉ là nông dân bậc trung nông bị đôn lên cho đủ túc số 5% địa chủ. Đấu tranh giai cấp, CCRD tại Việt Nam, Trung Quốc chỉ có hai mục đich là khủng bố nhân dân chuẩn bị cho công cuộc thâu tóm tài sản nhân dân biến thành các công trường , nông trường và vơ vét vàng bạc của nhân dân.
Nên chú ý rằng cộng sản rất mê vàng bạc, tài sản, hãng xưởng, đất đai . Marx chủ trương diệt tư sản, bãi bỏ tư hữu là có mục đich cướp tài sản của nhân dân, và bắt nhân dân làm nô lệ cho cộng sản. Lenin tiêu diệt Chính thống giáo, đày ải dân Kulak cũng chỉ vì tham số vàng bạc và ruộng đất của nhà thờ và nhân dân, đặc biệt là những ai ăn nên làm ra dù không phải là tư sản hay địa chủ. CCRD ở Việt Nam có mục đích tra tấn các nạn nhân về số nhẫn, vòng, kiềng nhỏ nhoi của trung nông, phú nông để họ làm giàu. Đánh tư sản trong nam, vàng bạc, đô la đều vào tay Lê Duẩn, Mai Chí Thọ, Lê Đức Thọ, Trần Văn Trà và bọn thuộc cấp chứ không đem vào công quỹ.
Cộng sản tuyên bố diệt tư sản, diệt giai cấp bóc lột, san bằng bất công xã hội, đem lại no ấm cho giai cấp vô sản thì ngược lại cộng sản tạo ra nhiều giai cấp, thiểu số cộng sản thành tư sản đỏ, bóc lột, tham nhũng gấp trăm, gấp ngàn quân chủ và tư bản, trong khi vô sản và nhân dân phải sống cực khổ, lại bị cướp nhà đất, bị tù đày, bị khủng bố, phải làm nô lệ . Và đất nước trở nên nghèo đói, lạc hậu. Càng nghèo khổ con người sinh ra tranh giành, kèn cựa từng miếng ăn, rồi sinh ra lưu manh, trộm cắp, muôn tội là do cộng sản.Tệ trạng này xuyên suốt các quốc gia cộng sản chứ không riêng gì Việt Nam nhưng Việt Nam anh hùng nhất, nghèo đói nhất, dã man nhất nên đứng đầu sổ gian manh, trộm cắp trong quốc tế cộng sản và thế giới
2. BÃI BỎ TƯ HỮU
Bãi bỏ tư hữu thì toàn dân trở thành vô sản phải phục tòng cộng sản, phải làm nô lệ cộng sản và kết quả là đói khổ, chết chóc. Tại Liên Xô, Trung Cộng và Việt Nam cộng sản, các nông trại, các công trường, các hợp tác xã..là trại khổ sai, trại nô lệ, trại giam, con người trở thành nộ lệ, thành tù nhân và cuối cùng là chết tập thể. Liên Xô thời Lenin, Stalin với kế hoạch phát triển kỹ nghệ và nông nghiệp đã đưa đến các nạn đói giết hàng chục triệu nhân dân, trong đó tội nghiệp là dân Kulak, những trung nông và bần nông được gán cho tội phản động, boc lột, cuối cùng đã chết trong đói rét, bệnh tật tại Siberia lạnh giá. Tại Trung Cộng, với kế hoạch Đại Nhảy Vọt, Mao đã giết hàng chục triệu nhân dân Trung Quốc.
Sự thất bại này do nhiều nguyên nhân nhưng các nguyên nhân chính là cộng sản kiêu hãnh, mù quáng, tham lam và ngu dốt. Xây nhà ta phải thuê thợ mộc, thợ nề rành nghề, may quần áo, ta phải chọn thợ may giỏi. Thế mà cộng sản giao cho người không có kinh nghiệm xây nhà làm nhà, không biết may áo phải may y phục. Lenin, Stalin, Mao dù đỗ đạt cái gì đi nữa cũng không phải các chuyên gia kinh tế. Không phải kinh tế gia mà làm kinh tế là một sai lầm lớn lao.
Đã thế, cộng sản đuổi trí thức, đàn áp, khủng bố trí thức mà đem công nhân, nông dân vào các chức vụ chỉ huy các cơ quan, bộ viện và làng xã cũng là một sai lầm khủng khiếp đưa đến sự phá hoại đất nước.Tại Việt Nam, sau 1975, Việt Cộng đem nông dân đi bán bia, bán rượu làm tiếp viên tại các quán ăn, cửa hàng giải khát quốc doanh, trong khi đuổi các cô chiêu đãi viên cũ đi kinh tế mới. Họ đuổi kỹ sư, giáo sư đưa các ông trung tá, đại tá mà một đời chỉ biết giật mìn, phá cầu, bắn sẻ làm giám đốc ngân hàng, giám đốc công ty xuất nhập khẩu, bộ trưỏng ngoại thương, thứ trưởng ngoại giao .. Họ cho đó là phục vụ vô sản nhưng chính vì quan điểm chính trị chật hẹp này đã phá hoại quốc gia, dân tộc. Muốn thành công phải chú trọng chuyên môn, đừng vị kỷ, phe cánh, địa phương, giai cấp.
Lenin, Stalin, Mao, Hồ cho rằng bãi bỏ tư hữu, lập công trường, nông trường theo lý thuyết Marx thì tự nhiên đất nước thịnh vượng, kinh tế, văn hóa phát triển. Bọn cộng sản và bọn lưu manh quốc tế ca tụng thuyết của Marx là căn cứ vào kinh tế Anh nhưng không phải thế. Thuyết của Marx đi ngược với các thuyết về kinh tế trên thế giới, chẳng chút liên quan đến kinh tế Anh. Marx là một người viết kinh tế theo đầu óc cuồng điên của ông, là một thuyết phản khoa học, chưa được thực chứng, và còn ở trong vòng tranh luận. Chưa thí nghiệm, người ta đã thực hành, gây ra bao dau đớn, khổ ải và thất bại.. Sự thực chứng minh chủ nghĩa Marx không phải là chiếc đũa thần mà là chai thuốc độc cực mạnh. Lenin, Stalin, Mao, Hồ tham lam, ngu dốt, vạch ra những kế hoạch năm năm, mười năm đầy tham vọng, cố ý vượt qua Mỹ, nhưng đó là việc con ếch muốn to bằng con bò, chỉ khổ cho nhân dân lao động bị bắt dân làm quá sức trong khi bụng đói, bệnh hoạn, kết cuộc hàng chục triệu người phải chết thảm thương. Vậy tư bản bóc lột hay cộng sản bóc lột?
Bãi bỏ tư hữu thì nhân dân tay trắng trong khi tài sản quốc gia nằm trong tay đảng cộng sản, mà thực tế là nằm trong tay một vài cá nhân quyền lực và gia đình, chân tay họ. Cộng sản nắm quyền kinh tế, đất đai thuộc đảng và nhà nước nên bọn họ coi như là tài sản riêng, chúng ngang nhiên tiêu xài, cướp đoạt, chia chác như ngày nay ta đã thấy.
Marx hoang tưởng và sai lầm. Không bao giờ bãi bỏ tư hữu được. Bãi bỏ tư hữu thì cộng sản sẽ chiếm đoạt tài sản nhân dân. Bãi bỏ tư hữu làm cho con người mất nguồn sống, mất động cơ lao động và chỉ tạo cho con người phát triển lòng tham, tạo cơ hội cho cường quyền cướp bóc, gian dối và phát triển xã hội địa ngục.
3. VÔ SẢN CHUYÊN CHÍNH
Các chính trị gia, triết gia Á Đông luôn chủ trương nhân nghĩa trong đời sống chính trị và xã hội. Nguyễn Trãi nói:
Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo.
以 大 義 而 勝 兇殘,
以 至 仁 而 易 彊 暴。
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.( Bình ngô đại cáo)
Khổng tử trong sách Đại Học đã đề cập đường lối thân dân, Mạnh Tử công khai nói rõ dân vi quý, quân vi khinh. Các vua chúa dù gian ác đến đâu cũng không dám công khai giết dân, đề cao bạo quyền. Riêng Marx công khai đưa ra chủ trương tàn bạo, giết hại và đàn áp nhân dân dưới chủ trương " Vô sản chuyên chính."
-Như đã nói cộng sản chỉ dùng danh nghĩa vô sản để chống tư sản nhưng thực tâm cộng sản chẳng quan tâm gì đến vô sản. Vô sản chỉ là cái bung xung, cái cái vỏ ngoài tuyên truyền dối trá của cộng sản. Sau khi nắm vững quyền hành, cộng sản trở mặt với nhân dân, chúng tàn sát, khủng bố nhân dân. Nay thì cộng sản trở thành tư sản đỏ, chúng bóc lột nhân dân, bắt nhân dân trả học phí và viện phí là những điều mà quân chủ và tư bản vẫn lưu thủ để gíúp đỡ dân nghèo.
-Vô sản chuyên chính thực tế là cộng sản độc tài, cộng sản nắm mọi quyền hành trong quốc gia, tàn sát, trấn áp những ai chống lại họ hoặc có tư tưởng khác họ. Cuộc tranh đấu chỉ có mục đich giành độc quyền thống trị quốc gia cho phe cộng sản, nếu có thỏa hợp chỉ là tạm thời, bất cứ phe nào dù là cùng danh nghĩa cộng sản cũng bị tiêu diệt. Phe cộng sản của Lenin ( Bolchevish ) tàn sát phe cộng sản của Martov ( Menchevish ), Hồ Chí Minh sai Võ Nguyên Giáp tàn sát Đại Việt và Quốc Dân đảng cùng phe Đệ tứ quốc tế theo lệnh Stalin., theo mệnh lệnh và điều lệ của đệ tam quốc tế cộng sản.
-Lịch sử đã cho thấy cộng sản cướp đoạt quyền tự do dân chủ, hủy bỏ nhân quyền và dân quyền. Cộng sản nói dân chủ, tự do là nói láo. Tại Việt Nam, đường lối đảng cử dân bầu là một trò lưu manh bỉ ổi. Tại các quốc gia dân chủ, dân có quyền ứng cử, bầu cử nhưng theo lề thói cộng sản, dân không có quyền chọn người ứng cử mà quyền này thuộc cộng sản, tất nhiên chúng chỉ chọn chân tay của chúng. Lenin tuyên bố cộng sản có tự do, dân chủ gấp ngàn lần, triệu lần tư bản là một đại ngôn mà ngày nay những con vẹt nhỏ vẫn tấp tểnh nhái theo.
Tại các quốc gia dân chủ, tam quyền phân lập nhưng với cộng sản, chúng nắm cả ba quyền. Bọn cộng sản nằm trong chánh quyền , trong đảng và cũng nằm trong Quốc hội, cho nên ở đâu cộng sản cũng nắm quyền, nhân dân không có tiếng nói. Dân chủ tự do, quốc hội chỉ là trò dân chủ giả mạo. Con chó còn có quyền sủa nhưng chính phủ và Quốc hội cộng sản chỉ được há mõm khi có lệnh. Vì vậy mà ta thấy Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, đảng Việt Cộng và Quốc hội Việt cộng cúi đầu im lặng khi Trung Cộng xâm phạm hải phận Việt Nam. Điều này chứng tỏ bọn họ cấm dân phản kháng Trung Cộng xâm lược, và bọn họ đã cam tâm bán nước, phản bội quốc gia, dân tộc.
-Chuyên chính nghĩa là phi nhân nghĩa, phi đạo lý, tàn bạo, khủng bố, áp bức. Chủ trương đó là khinh dân, giết dân cho nên cộng sản từ Lenin, Stalin, Mao, Hồ, Pol Pot đều giết dân. Cộng sản trong nửa thế kỷ cai trị đã giết gần 200 triệu dân, vượt cả tội ác Đức quốc xã.
Vì vậy mà Hồ Chí Minh tàn sát nhân dân trong Cải cách ruộng đất, Cải tạo Công Thương Nghiệp, Tổng tấn công mậu thân (1968), và bỏ tù giết hại sĩ quan và viên chức các cấp chính quyền Việt nam cộng hòa sau 1975. . Nay chúng thẳng tay sai công sản đánh dân, giết dân, bỏ tù những nhân dân yêu nước. Và nay hết chiến tranh, công an trở thành lực lượng đàn áp nhân dân với hàng trăm tướng lãnh côn đồ. Chúng ngang nhiên coi thường nhân dân và quốc tế khi chúng bịt miệng linh mục Nguyễn Văn Lý trước tòa.
Trong khi thực thi đàn áp, tàn sát dân chúng, cộng sản đã thực hiện mọi sách lược và thủ đoạn bỉ ổi, theo chủ trương giết lầm hơn bỏ sót, giết người và bỏ tù không cần xét xử và giam cầm vô thời hạn, vu khống nhân dân, tra tấn và dùng cực hình tàn bạo.
-Chuyên chính vô sản tức là chủ trương trọng công nông, lập trường giai cấp, đưa đến chủ truương chính sách lý lịch nghiệt ngã, tạo cho cơ hội người vô tài đức nắm quyền mà bỏ rơi bao nhiêu tinh hoa dân tộc, cần thiết cho việc xây dựng đất nước. Quốc gia điêu linh cũng do từ đây.
Vì theo chủ trương độc đảng, cộng sản trở thành giai cấp mới, mặc sức thao túng quyền kinh tế, chính trị văn hóa. Vì không có đa đảng, không dân chủ, không báo chí, không pháp luật, cộng sản một mình một chợ, không còn sợ ai chỉ trích và phanh phui tội ác của chúng. Chúng trở thành những nhóm quyền lợi mặc sức chia chác, trộm cắp tài sản quốc gia. Chúng cùng nhau vạch ra các kế hoạch ma để rút tiền ngân hàng, chúng lợi dụng quyền cai trị ngang nhiên ăn hối lộ các công ty trong và ngoài nước.Vì vậy mà bọn chúng trở thành triệu phú, tỷ phú, còn ngân hàng trống rỗng, các công ty quốc doanh thua lỗ, trở thành những cái thùng không đáy, kinh tế quốc dân suy sụp, nạn cướp bóc. lừa đảo phát triển chưa từng thấy.
Ngày nay, hàng ngàn tên Việt cộng trở thành triệu phú, tỷ phú. Ngoại tệ cất giấu ở nước ngoài của Nguyễn Tấn Dũng, 1 tỷ 780 triệu $US. Đỗ Mười, 1 tỷ 900 triệu $US. Lê Khả Phiêu, 1 tỷ 430 triệu $US)... Con trai Lê Duẩn, con rể Võ Nguyên Giáp là những tỷ phú, trong khi ngân hàng trống rỗng, chúng tha hồ vay nợ quốc tế mà bỏ túi để cho thế hệ tương lai mắc nợ.
Như đã nói, diệt trừ tư hữu thì nhân dân trở nên bần cùng, lao động tập thể trở thành lao động khổ sai. Khẩu hiệu của Marx làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu cũng là một điều nói láo ngoại trừ giai cấp thống trị được hưởng mọi ưu đãi.
Trong khi nắm quyền hành, cộng sản mặc sức vơ vét, trộm cướp tài sản quốc gia. Một tên, trăm tên, ngàn vạn tên cộng sản đã hăm hở trở thành những tên trộm cướp, tạo thành một lối sống lường đảo, trộm cướp, lây lan đến dân chúng. Vì vậy, ta không nên ngạc nhiên tại sao cộng sản trở thành những tập thể trộm cắp, gian dối, và lề thói này trở thành bản tính cộng sản Việt nam. Bản tính gian lận, dối trá, trộm cắp mánh mung của Việt cộng đã phát triển tại Liên Xô, nay trở thành siêu việt tại Nhật Bản, Đài Loan, Đại Hàn, Thái Lan, Singapore.
Cộng sản tồn tại là do tuyên truyền và khủng bố cho nên nhân dân phải im lặng cúi đầu, phải giả dối tung hô. Cộng sản bóc lột, một nông dân hạng nhất mỗi ngày được một ký lô thóc, nghĩa là được hơn hai lon gạo, mà phải chờ đến mùa sau mới được lãnh.
Hai lon gạo một ngày thì ăn không đủ no, ngoài ra còn thiếu tiền mắm muối, rau dưa, tiền quần áo, thuốc men. Dù phải đi làm thuê cho phú nông,trung nông đời trước, người nông dân còn được ăn no ba bữa.
Nông dân hạng nhất mà lương bổng như thế thì nông dân hạng hai, hạng ba lấy gì mà sống? Họ phải ăn cắp thóc ngoài đồng, gạo trong kho, hoặc làm chiếu lệ. Công nhân cũng vậy, với đồng lương chết đói, người công nhân phải trộm cắp, dối trá để sinh sống. Trộm cắp, dối trá thành tật phổ biến khắp quốc gia.Nhân dân đói khổ mà phải trộm cắp, mánh mung, lường gạt, còn cộng sản thì sẵng kho tàng trước mắt, mặc sức chiếm đoạt. Trộm cắp, lường gạt đã trở thành mẫu số chung cho cộng sản và đa số nhân dân.
4. ĐẢNG CỘNG SẢN
Đảng Cộng sản thật sự là một thế lực thực dân, đế quốc mới mặc dầu cộng sản luôn kết tội tư bản, thực dân, đế quốc. Các nước thực dân, đế quốc chỉ là những lực lượng riêng lẻ, dù có tụ họp thành khối như khối trục, cũng chỉ là những lực lượng riêng lẻ, còn cộng sản với đệ tam quốc tế do Stalin lãnh đạo đã trở thành một khối vững chắc, có hệ thống dọc xuyên quốc tế mà đứng đầu là Stalin, đảng cộng sản các nước chỉ là thuộc hạ của điện Kremlin.
Dù theo chủ thuyết nào, tính xâm lược, thực dân luôn tồn tại ở các quốc gia có truyền thống xâm lược, thực dân, đế quốc. Cụ thể là đế quốc Nga và đế quốc Trung hoa. Stalin, Mao chính là những tên đại thực dân, đại đế quốc. Vì vậy Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt nam trở thành nô lệ của Trung Cộng, là đạo quân lê dương của Trung Cộng xâm chiếm thế giới, và Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười ... đã bán nước cầu vinh, đem giang sơn Đại Việt cống hiến cho Trung Cộng.Ngày hôm nay, bí mật đã lộ rõ, nhân dân ta đã hiểu rõ Hồ Chí Minh, đảng Cộng sản là một tập thể phản quốc hại dân.
5. HỒ CHÍ MINH
Tổ tiên ta nói: "nhà dột từ nóc dột xuống". Xã hội điêu tàn, quốc gia hỗn loạn là do những vị vua quan, chủ tịch tham ô, nhũng lạm và tàn ác. Ngay từ đầu, đảng cộng sản quốc tế đã do những tên gian ác, lưu manh cầm đầu như Lenin, Stalin, Trotsky, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh. Cái ác cá nhân đã ghê gớm lại cộng thêm cái ác tập thể như lửa cháy gặp gió to khi thế càng hung mãnh.
Muốn cướp chính quyền thành công, muốn diệt phe Nga hoàng và phe Menchevish cùng nông dân và tôn giáo, Lenin đã không ngần ngại dùng bọn côn đồ tàn sát nhân dân. Trước đây, Võ Nguyên Giáp cũng dùng bọn đầu trộm đuôi cướp như Trần Quốc Hoàn để giết Việt Quốc ,Việt Cách, mà nay bọn Việt cộng cũng vậy.
Nguyễn Tất Thành là một kẻ gian manh.Y không học hết tiểu học mà y và đồng bọn kê khai y học trường Quốc học, Huế, làm thấy giáo trường Dục Thanh (Phan Thiết). Y đoạt danh hiệu Nguyễn Ái Quốc của nhóm Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, và các công trình tranh đấu của nhóm này. Y còn mạo danh Hồ Chí Minh và Việt nam độc lập đồng minh hội của Hồ Học Lãm ( 1883?-1942), vì Hồ Học Lãm có tên là Hồ Chí Minh, Hồ Quang là một nhà cách mạng Việt Nam, đã theo Phan Bội Châu Đông Du.
Sau này, y sang Nga nhưng không được học trường Đông Phương của Nga, nhưng đi đâu y cũng rêu rao y học ở trường này! Cộng sản ghét trí thức. Lenin, Stalin đánh đuổi trí thức đưa nông dân, công nhân lên nắm quyền các cấp. Mao tuyên bố trí thức là cục phân. Lê Đức Thọ, Đinh Đức Thiện cực kỳ khinh miệt trí thức nhưng trong tim đen bọn chúng rất khoái cái danh tiến sĩ, cử nhân cho nên ngày nay Việt cộng rộ lên phong trào đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ là do đấy! Việc này cũng giống như cộng sản ngoài miệng ghét tư hữu, ghét phong kiến nhưng thực sự từ ngày đầu tiên cộng sản đã tham vàng bạc, mê đắm tư hũu và quyền lực. Nay từ Bắc Triều tiên, Trung quốc, Việt nam cộng sản đã theo lệ " cha truyền con nối"
- Hồ Chí Minh là một tên phản quốc đã bán Phan Bội Châu cho Pháp. Hồ Chí Minh là một kẻ gian dối một cách trơ trẽn vì y có vợ có con mà cứ luôn mồm ta sống độc thân, hy sinh hạnh phúc cá nhân cho Việt nam.
-Y là một kẻ tham dâm, y nuôi hàng tá thiếu nữ dưới 15 tuổi và thực hiện
ấu dâm với bọn này. Y đã lộ bộ măt con yêu râu xanh khi giết Nông thị
Xuân và các chị em của nạn nhân này..
-Y nay lộ bộ mặt gian dối giả danh cách mạng khi hai lá đơn xin học trường thuộc địa bị đưa ra ánh sáng.
-Y nay lộ bộ mặt gian dối giả danh cách mạng khi hai lá đơn xin học trường thuộc địa bị đưa ra ánh sáng.
-Y lộ chân tướng là gián điệp Trung quốc len lỏi vào đảng Việt cộng khi
hồ sơ Hồ Tập Chương đuợc người Trung Quóc khám phá mà Việt Cộng im
miệng không dám hé răng.
Một con người tồi bại như thế tất bọn thủ hạ cũng toàn là bọn gian ác,
nịnh hót, tham lam theo quy tắc"' ngưu tầm ngưu ", " mã tầm mã " . Cả
đám tàn bạo, gian ác này tạo nên nghiệp ác truyền xuống khắp dảng và
toàn dân , khiến cho tổ quốc Việt Nam điêu linh, kinh tế suy sụp, đạo
đức tan hoang.
-Vì Lenin, Stalin đánh đuổi trí thức, đưa công nông lên nắm quyền cho
nên Hồ Chí Minh đã sát hại , bỏ tù các đảng viên cộng sản và trí thức
trong Cải Cách Ruộng Đất. Cũng theo Stalin, giết các binh sĩ và sĩ quan
không thuộc giai cấp vô sản trong cuộc chiến tranh Nga Đưc., Võ Nguyên Giáp đã nướng Trung Đoàn thủ đô
gồm đa số tiểu tư sản, và sau 1954, đã giết hại, sa thải hàng loạt binh lính và sĩ
quan không thuộc bần cố nông,trong đó có Quang Dũng.
Vì cộng sản dùng vô sản, đàn áp trí thức cho nên các trí thức không dám chưng bằng cấp, phải sinh hoạt, nói năng theo vô sản, và nhiều trí thức thức thời đã lấy vợ bần nông để che chắn cho cái thân phận tiểu tư sản của mình (trong khi ấy Lê Duẩn, Trần Văn Trà tại Miền nam lấy con gái điền chủ xinh như mộng chứ không lấy bần nông).
Vì vô sản lên ngôi cho nên ngôn ngữ không thanh lịch, hành vi thô bỉ đôi khi tỏ ra xấc láo vì tự hào giai cấp lãnh đạo, cho nên tại các cửa hàng quốc doanh, các cơ quan đảng, nhà nuớc, thậm chí tại các cửa hàng tư doanh bán phở, bán bánh cuốn, bán bún mọc, riêu cua, người bán hàng đã thường xuyên chửi rũa, mắng mỏ khách hàng theo tác phong vô sản giai cấp tiên phong.
Vũ Ngọc Phan, tên nô lệ trung thành của đảng cũng đã phát ngôn một câu làm nhức nhối vô sản. Trong quyển Hồi Ký của ông viết về Hà Nội, ông than thở Hà Nội ngàn năm văn vật không còn nữa vì cái bọn Miền Trung thô bỉ đã kéo nhau ra phá hoại nếp sống thanh lịch của Hà Nội ngày xưa!
Nói tóm lại, Việt nam ngày nay băng hoại hoàn toàn là do chủ nghĩa Marx và đảng cộng sản độc tài, tàn ác, gian tham, quỷ quyệt . Muốn xây dựng lại Việt Nam phồn vinh, tự do, dân chủ phải tiêu diệt cộng sản.
___
CHÚ THICH:
[1].http://vneconomy.vn/20120629030348661P0C9920/tong-bi-thu-het-suc-sot-ruot-truoc-tham-nhung-hu-hong.htm
[2]. Nghe mà thấy xấu hổ, không nhẽ cứ để hoài như vậy
[3]. 'Một con sâu đã nguy hiểm huống gì một bầy'
[4].http://108x.org/thi-truong-bat-dong-san/xu-huong-nhan-dinh/374-ly-giai-tham-nhung-trong-dat-dai-tai-vn
[5].http://dantri.com.vn/c20/s20-90860/10-co-quan-tham-nhung-pho-bien-nhat.ht
Vì cộng sản dùng vô sản, đàn áp trí thức cho nên các trí thức không dám chưng bằng cấp, phải sinh hoạt, nói năng theo vô sản, và nhiều trí thức thức thời đã lấy vợ bần nông để che chắn cho cái thân phận tiểu tư sản của mình (trong khi ấy Lê Duẩn, Trần Văn Trà tại Miền nam lấy con gái điền chủ xinh như mộng chứ không lấy bần nông).
Vì vô sản lên ngôi cho nên ngôn ngữ không thanh lịch, hành vi thô bỉ đôi khi tỏ ra xấc láo vì tự hào giai cấp lãnh đạo, cho nên tại các cửa hàng quốc doanh, các cơ quan đảng, nhà nuớc, thậm chí tại các cửa hàng tư doanh bán phở, bán bánh cuốn, bán bún mọc, riêu cua, người bán hàng đã thường xuyên chửi rũa, mắng mỏ khách hàng theo tác phong vô sản giai cấp tiên phong.
Vũ Ngọc Phan, tên nô lệ trung thành của đảng cũng đã phát ngôn một câu làm nhức nhối vô sản. Trong quyển Hồi Ký của ông viết về Hà Nội, ông than thở Hà Nội ngàn năm văn vật không còn nữa vì cái bọn Miền Trung thô bỉ đã kéo nhau ra phá hoại nếp sống thanh lịch của Hà Nội ngày xưa!
Nói tóm lại, Việt nam ngày nay băng hoại hoàn toàn là do chủ nghĩa Marx và đảng cộng sản độc tài, tàn ác, gian tham, quỷ quyệt . Muốn xây dựng lại Việt Nam phồn vinh, tự do, dân chủ phải tiêu diệt cộng sản.
___
CHÚ THICH:
[1].http://vneconomy.vn/20120629030348661P0C9920/tong-bi-thu-het-suc-sot-ruot-truoc-tham-nhung-hu-hong.htm
[2]. Nghe mà thấy xấu hổ, không nhẽ cứ để hoài như vậy
[3]. 'Một con sâu đã nguy hiểm huống gì một bầy'
[4].http://108x.org/thi-truong-bat-dong-san/xu-huong-nhan-dinh/374-ly-giai-tham-nhung-trong-dat-dai-tai-vn
[5].http://dantri.com.vn/c20/s20-90860/10-co-quan-tham-nhung-pho-bien-nhat.ht
No comments:
Post a Comment