Wednesday, January 28, 2015
LÂM CHƯƠNG * KHAI HOANG
Khai Hoang
~~~
Nghe nói, người ta dự trù thiết lập nhà máy làm giấy, tại một tỉnh thuộc miền xuôi. Nhà máy do nước Thụy Điển bên trời Âu viện trợ cho nước ta. Không biết công trình đã khởi công hay chưa. Chỉ nghe tin đồn, mà tin đồn thì thực hư chẳng lấy gì làm chính xác. Nhưng có điều chắc chắn, những người thất trận từ miền Nam xa xôi, bị đẩy tuốt lên vùng mạn ngược, đã được lệnh khai hoang, phá rừng để trồng cây bạch đàn. Lúc đầu, không ai biết trồng bạch đàn làm gì. Mãi sau, mới vỡ lẽ ra rằng, thân gỗ xốp của bạch đàn có thể dùng làm giấy. Nhà máy chưa xây, đã bắt tay vào việc tạo nguồn nguyên liệu cung cấp. Quả là biết lo xa!
Những tháng mùa Đông. Trời Việt Bắc mang một màu trắng đục. Chưa nói tới cái rét trên da thịt, chỉ nhìn màu trời ảm đạm, đã thấy buốt cả tâm hồn. Kẻ đi đày, áo rách, xác ve. Lòng sầu quê cũ. Nếu so với kẻ đi xây Vạn Lý Trường Thành vào thời Tần Thủy Hoàng, chắc cũng có điểm tương đồng. Sử sách ngàn năm xưa chép lại, tiếng kêu ai oán còn nghe văng vẳng theo ngọn Đông phong dọc suốt dãy Trường Thành. Khí uất xông lên, mây mù che ám một góc trời phía Bắc Hàm Dương. Chế độ nhà Tần bị diệt, cung A Phòng cũng cháy thiêu. Đền đài cung điện nguy nga, bỗng chốc hoá tro tàn. Trải qua bao nhật nguyệt nắng mưa. Hươu nai chạy trên nền cũ. Lau sậy lút đầu. Chứng tích một thời ác nghiệt kinh thiên, còn lại một Vạn Lý Trường Thành. Dù nhân loại không muốn tái diễn chế độ bạo tàn, nhưng các sử gia khẳng định rằng, lịch sử luôn luôn lặp lại. Và lịch sử Việt Nam đang lặp lại cái thời Tần Thủy Hoàng, hơn hai ngàn năm trước. Không gian, thời gian sai biệt, tình huống chẳng khác gì nhau. Đốt sách và đày ải con người, dường như sao nguyên bản của chính sách nhà Tần.
Lên miền Thượng Du, đứng đâu cũng thấy núi non bốn bề vây hãm. Trông về Tây Bắc, lô nhô một dãy chắn ngang tầm mắt. Núi nhoà sương, không rõ nét. Muốn sang bên kia, khu vực được chọn trồng cây bạch đàn, phải qua đèo. Đèo không cao mà dốc ngược. Thế đất yên ngựa nằm vắt ngang dãy núi. Thoạt nhìn, đã ngao ngán đôi chân. Đường đèo trơn ướt, gập ghềnh đá tảng, luồn lách qua những cây nhỏ cây to, quanh năm che khuất mặt trời. Đá núi ngậm sương lâu ngày, phủ áo rêu phong. Người đi trước, nhỡ làm lăn một tảng đá, khó lường được tai nạn khốc liệt cho người đi sau. Có nhiều đoạn đèo cheo leo bên bờ vực. Tay bám vào cây, chân lần từng bước. Sơ ý ngã xuống vực, mất mạng như chơi.
Đoàn tù lên dốc lom khom, thân chúi về phía trước, trông như những con ốc sên to lớn dị thường, từ từ bò trên miệng vực. Để chống cái rét thiên nhiên, có bao nhiêu áo quần vá víu, tù nhân đều chùm đụp cả lên người. Trên lưng lại chở thêm chiếc ba lô tự tạo. Trong ấy đựng nhiều thứ vặt vãnh, nhưng vô cùng cần thiết cho một một đời sống vốn đã đơn giản hoá đến mức tối đa. Những hình nhân biến tướng, thành những hình thù kỳ dị biết di động. Dù đã trùm nhiều lớp áo quần, nhưng vẫn thấy rét. Rét từ đâu trong xương rét ra. Rợn từng hồi, dọc theo xương sống. Rét thắt ruột gan vì đói. Rét luồn vào đường gân thớ thịt, tạo thành cơn run.
Lên tới đỉnh đèo, ngồi lại nghỉ mệt. Ủ hai bàn tay trong cặp đùi, sưởi ấm cho những ngón lạnh tê. Hai bên sườn núi mịt mù sương trắng. Nhìn xuống lũng, mây nặng màu chì, la đà trên thôn bản. Vời trông xa xa. Không gian mù đục, chẳng thấy chân trời. Làm người quen sống tụ họp nơi những vùng đất thấp. Lên cao, cảm giác chênh vênh hiu quạnh lạ lùng. Khí ẩm. Cây lá ướt mù sương. Trời đứng gió. Mọi vật chung quanh im lìm, dường như nín thở. Chỉ có lũ vắt rừng đang âm thầm hoạt động. Nghe hơi người, vắt từ lá mục bò lên, bám vào kẻ ngón chân. Vắt trên lá cây buông mình rớt xuống, chui vào cổ áo. Khi nghe da thịt ngứa ngáy, con vắt đã no máu rồi. Trên mặt địa cầu, nơi nào cũng có loài hút máu. Nhưng so ra, trong tất cả các loài hút máu, không có loài nào kinh khủng bằng loài người. Loài người, khi đã hút máu người, thì hút đến cạn kiệt sự sống. Những kẻ đi đày hôm nay, đang bị xuất huyết bởi chính đồng loại của mình.
Trong nỗi cùng khốn, chợt nghĩ đến một nhà văn ngoại quốc. Ông ta cảm thấy bị lưu đày ngay trên quê hương mình. Ở những quốc gia bình yên sung túc, cuộc đời nhàn tản mãi, làm người ta nhàm chán. Họ muốn tìm cảm giác mới cho tâm hồn, tưởng tượng ra mọi nỗi thống khổ để quằn quại rên la cho thân phận kiếp người. Trên quê hương tôi, những thứ đó chẳng cần tưởng tượng. Tất cả những bất hạnh khổ đau nào cũng đều hiện thực. Chiến tranh. Nghèo đói. Chết chóc. Tù đày. Không vào địa ngục, cũng thấy cảnh A Tỳ. Quỷ Vô Thường hiển lộng. Những đấng Từ Bi Cứu Thế đều bỏ đi xa. Chúng sinh lặn ngụp trong bể trầm luân. Kêu gào. Than khóc. Chẳng thấy ai ra tay cứu độ. Thế mới biết, tại sao Lão Tử một mình cưỡi trâu xanh biệt tăm vào núi. Nhưng, thời của Lão Tử còn có thể tìm nơi cao sơn cùng cốc lánh đời. Thời của tôi, ẩn trong hang cùng xó núi cũng chẳng yên thân. Người ta sẽ lôi ra, gán cho đủ thứ tội lên đầu. Thành phần xã hội ở đây, được phân chia rất rõ. Quỷ và Người. Con người ở dương thế, nhưng sống trong trạng thái địa ngục. Phía sau những khẩu hiệu tưởng chừng dẫn tới thiên đàng, thật ra là đường về âm cảnh. Làm người trong thời của tôi, thường xuyên đi trên chông gai lửa đỏ. Tinh thần khủng hoảng, nhìn đâu cũng hồ nghi có họng súng lưỡi lê rình rập. Đêm chập chờn ác mộng. Nghe tiếng chó sủa, giật mình thảng thốt. Nghe gà gáy báo hiệu bình minh, sợ có kẻ tới nhà gọi đi thẩm vấn. Bị thẩm vấn là điềm báo tai ương, dữ nhiều lành ít.
Lên đèo đã vất vả. Xuống đèo, càng vất vả hơn. Không vận dụng sức lực nhiều, nhưng lắm rủi ro. Bất cứ lúc nào cũng có thể sẩy chân lăn xuống vực. Có nhiều đoạn dốc ngược, không thể di chuyển bằng đôi chân. Ngồi mà tuột dốc. Thương cho cái đít quần. Lết xuống tới chân núi, đít quần mòn rách te tua. Hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn, cái ăn cái mặc là quý. Mảnh vải che thân bị rách, cũng đau như chính da thịt mình xây xước.
Qua tới khu vực chọn trồng bạch đàn, việc đầu tiên là lo chỗ ở. Tù nhân tạm trú trong nhà kho hợp tác xã. Nhà kho tứ bề trống lốc, không vách phên che. Dựng nhà kho để làm mô hình cho hợp tác xã. Người dân sơn cước chưa đủ miếng ăn, có đâu dư thừa lương thực cho vô nhà kho? Để chống cái lạnh thiên nhiên, tù nhân được ra đồng ôm rơm về lót ổ. Ngày còn nhỏ, nghe nói đến ổ rơm của người nghèo Miền Bắc. Thời xa xưa ấy, tưởng đã qua rồi. Không ngờ, mấy chục năm sau người tù đến đây, thực hiện cái ổ rơm cho chính mình. Ổ rơm của tù có hình thức như chiếc máng dài. Lòng máng lót nửa tấm chăn. Nửa tấm còn thừa, dùng đắp lên người. Cuộn mình lâu trong ở rơm, hơi ấm tụ lại, thấy đời cũng dễ chịu. Khi con người bị tước mất tất cả, thì một chút tiện nghi nhỏ nhoi, cũng nhân lên thành sự thoải mái lớn. Thoải mái thường sinh ra những ước mơ tình cảm. Nếu được nằm ôm vợ trong cái ổ rơm ấm áp này, thì hạnh phúc biết chừng nào. Nghĩ thế, lại bàng hoàng. Từ lâu, gia đình vợ con đã không còn là nỗi nhớ nhung quay quắt. Những hình bóng mờ nhạt ấy lùi sâu vào quá khứ, xa xôi như thời tiền sử. Trong cảnh cố cùng đói rách, dạ dày vật vã đòi ăn, kéo cái đầu xuống thấp, chạm mặt vào thực tại. Ước mơ được gần gũi gia đình hạnh phúc, là chuyện quá tầm tay. Đòi hỏi bức bách bây giờ là miếng ăn. Một đòi hỏi tầm thường của con vật. Thế nhưng không dễ gì được thoả mãn. Đêm nằm trăn trở, chỉ mơ tưởng miếng ăn hèn mọn. Củ sắn, hạt ngô bỗng to lên, chiếm hết những khoảng tình cảm dành cho vợ con, đẩy lùi hết những mơ mộng viễn vông. Khẩu hiệu tự do ấm no hạnh phúc, xem chừng đơn giản. Nhưng muốn vươn tới, không dễ. Bởi những khống chế giam cầm, những nghèo đói kinh niên, những trù dập răn đe, đi ngược chiều khẩu hiệu.
giữa thời kinh mang
người nằm trong đất không yên
phá mả tìm vàng
cạy nắp áo quan
huyệt sâu chấn động hồn thiên cổ
gỗ đá còn đau nhức thấu xương.
Người chết đã thế. Người đang sống vật vờ mà mong bình yên hạnh phúc, là điều hư tưởng.
Gần cuối thập niên bảy mươi, cả nước lâm vào tình trạng kiệt quệ. Hội Lương Nông quốc tế ồ ạt tuôn bột mì vào nước ta cứu đói. Bột mì được phân phối lên tận miền cao. Người dân sơn cước không quen ăn thứ bột xa lạ này, nên điều đình với trại tù đổi lấy sắn ngô. Chuyện trao đổi, người khác quyết định, nhưng tù nhân lại ăn bột mì. Phẩm càng cao, lượng càng ít. Tù đói rã ruột. Đói lờ đờ trắng mắt. Đói chóng mặt xiêu xiêu. Thời gian này, có nhiều người phải chống gậy mà đi. Cán bộ cho thế là cố tình bôi bác chế độ, bắt phải vất gậy. Sự thật tự nó đã hiển bày, cần chi bôi bác?
những bạn tôi ngồi như cổ thụ
già trăm năm trước tuổi không ngờ
manh áo vá che mùa gió bấc
mặt hao gầy râu tóc xác xơ.
Buổi sáng, trước khi lên rừng, được một cục bột luộc bằng nắm tay. Buổi chiều về, được ổ bánh mì dài cỡ gang tay. Ăn một lượng bột như thế với nước muối, mà phải ra sức “chém tre đẵn gỗ trên ngàn”, thì linh hồn nào cũng muốn ruồng bỏ xác thân.
Sương sớm còn âm u, đoàn tù đã có mặt trên vùng khai hoang. Đồi núi chập chùng. Rừng già heo hút. Tưởng như từ thời khai thiên lập địa chưa có chân người đi tới. Muỗi đói, vắt rừng làm tổ. Quơ ngọn dao lay động lá cành. Muỗi bay ra như bầy ong vỡ tổ. Muỗi cánh bông, hung dữ lạ thường, ào ạt tấn công. Nhưng muỗi cũng chưa đáng sợ bằng vắt. Vắt áp dụng chiến thuật du kích. Âm thầm len lõi, và đánh bất ngờ. Khi phát hiên được vắt, ta đã bị tổn thất rồi. Chỗ vắt bám, máu cứ ri rỉ cả ngày. Còn một loài ác ôn nữa, vô cùng độc địa. Loài này không nhiều, nên ít ai nói tới. Đó là ve chó. Vùng hoạt động lý tưởng của ve chó, là nách và háng. Người bị ve chó, cảm thấy sốt nhẹ và hơi đau nơi vết thương. Cổi áo ra xem. Một vùng da ửng đỏ. Trung tâm vùng đỏ, con ve vẫn còn bám như một hạt đậu đen, rúc sâu vào da thịt. Không biết nó bám đã mấy ngày rồi. Hấp tấp lôi nó ra, thì đầu và chân nó dính lại trong thịt. Nơi ấy sẽ làm độc thành ghẻ. Phương pháp hiệu nghiệm nhất để trục toàn thân tên cố lỳ, dùng đầu điếu thuốc nóng hơ vào đít nó. Chiến thuật hoả công buộc con ve rời nơi tử thủ như cái hố tròn bằng đầu đủa, tươm máu. Hậu quả ve chó để lại một vết thương ngứa ngáy cả tháng trời chưa khỏi.
Một thời gian dài khai hoang, vùng rừng già tre nứa mênh mông nằm rạp xuống. Châm một mồi lửa, tất cả cháy thiêu. Lửa cháy lan suốt đêm, không người canh giữ. Đất nước là của chung, nếu nạn cháy rừng xảy ra, ai nhận lấy trách nhiệm? Nửa khuya, đứng từ nhà kho hợp tác xã nhìn lên, bầu trời tối đen, không thấy dáng núi. Chỉ thấy lửa cháy trên cao, như lửa trời cháy giữa thinh không. Sau một đêm, vùng rừng thiêng tồn tại cả ngàn năm bị hủy ra tro. Người tù nhìn đất, ngẩn ngơ. Người với đất chung niềm đau nhức. Đất lặng thinh phơi bãi tro tàn.
Tù nhân khai hoang phá rừng dọn đất, nhưng không có lệnh chỉ định trồng bạch đàn. Nghe nói gần khu hợp tác xã, có trại lâm nghiệp. Trại này đang ương giống bạch đàn. Nhân viên lâm nghiệp toàn là phụ nữ độc thân. Bởi những đàn ông trai tráng đã hiến mình cho Đảng, vào Nam làm cuộc cách mạng thần kỳ bằng xương máu. Cách mạng giành được toàn quyền kiểm soát Miền Nam, nhưng họ không bao giờ về nữa. Tình trạng trai thiếu gái thừa, phụ nữ phải đảm trách những việc nặng nhọc trên các công nông trường. Cán cân nam nữ chênh lệch, gây nên lắm chuyện cười ra nước mắt. Phụ nữ lâm nghiệp đã từng đệ đơn kêu gào lên chính phủ, xin cung cấp đàn ông. Mục đích để có đứa con chăm sóc cho mình lúc tuổi già bóng xế. Và đàn ông phục vụ tập thể các cô trong trường hợp này, không theo cái nghĩa người chồng ân ái với vợ, mà phải hiểu như con nọc làm bổn phận nhảy đực truyền giống cho con nái sinh đẻ.
Bao giờ cây con bạch đàn sẽ trồng xuống vùng đất khai hoang? Hiện nay, các công trình thường hay bỏ dỡ nửa chừng. Chỉ cần một ý kiến thay đổi nào đó, toàn bộ kế hoạch trồng bạch đàn sẽ hủy bỏ. Trên xứ sở này, chuyện vô lý nào mà không thể xảy ra? Nghe nói (lại nghe nói), vật liệu từ Thụy Điển đem sang nước ta để xây nhà máy giấy, bị mất quá nhiều do nạn ăn cắp. Thụy Điển đã đơn phương hủy bỏ hợp đồng rồi. Không có nhà máy giấy, trồng bạch đàn làm gì? Lệnh khai hoang, trở thành lệnh phá rừng vô tội vạ.
Ngày đoàn tù vượt đèo về trại cũ, nhằm ngày Chúa gáng sinh. Trời đổ mưa phùn. Mưa lất phất lai phai, trắng cả núi rừng. Lao đao trên đèo trơn dốc ngược, lại nghĩ đến cây thập giá trên vai Chúa. Ngài xuống đời gánh vác tội lỗi cho loài người. Chúng tôi gánh vác tội lỗi cho ai, mà cũng muôn vàn khổ nạn?
Lâm Chương
MINH KHA * HỒI KÝ TỊ NẠN
Hồi Ký Tị Nạn của chị Minh Kha
Posted: Friday, December 19, 2014 by Hung Nguyen inChị Minh Kha tại NW82-1982 |
Chị Minh Kha là người tị nạn đường bộ
trại NW82. Chị tới trại Nong Chan năm 1981, chuyển tới trại NW82 sau đó
và được JVA và INS nhận làm thông dịch viên cho những trại tị nạn biên
giới vào những năm 1982-1983. Chị định cư tại Mỹ, tốt nghiệp thạc sĩ về
xã hội học và làm việc cho văn phòng xã hội tại Nevada và California,
giúp đở cho người tị nạn đến từ Việt Nam và những quốc gia khác.
Trong những ngày về hưu chị đã viết lại những câu chuyện vượt biên của chị như tâm sự người chị, với ý nguyện lưu lại cho mọi người cùng biết những biến cố đã xảy ra cho chị lúc vượt biên. nhưng chị không muốn đăng cho tới khi chị không còn hiện diện trên thế gian này nửa
Trong những ngày về hưu chị đã viết lại những câu chuyện vượt biên của chị như tâm sự người chị, với ý nguyện lưu lại cho mọi người cùng biết những biến cố đã xảy ra cho chị lúc vượt biên. nhưng chị không muốn đăng cho tới khi chị không còn hiện diện trên thế gian này nửa
**
Hôm nay chị Minh Kha đã ra đi vĩnh viễn, câu chuyện của chị xin được lưu trử ở đây cho mọi người cùng đọc, để cùng không bao giờ quên những chặng đường đau thương, đầy máu và nước mắt của người Việt Nam trên con đường tị nạn cộng sản. Và cũng là một cách để nhớ đến chị, đến Đức, người bạn đường không may mắn mà chị vẫn thầm lặng thương tiếc đến những ngày cuối đời, cũng như tất cả bà con bạn bè đã bỏ mình tại vùng rừng núi biên giới xa xăm...
***
Chị viết xuống đây câu chuyện về Đức cho em đọc nhưng thực ra là chị viết nó cho chính bản thân chị. Chị không biết làm sao viết cho ngắn hơn, chỉ mong em đọc không chán lắm.
Tháng ba hay tư 1981 ở Saigon chị kiếm được một ông Miên dắt đường đòi chị trả hai chỉ vàng, hai chỉ chứ không phải hai cây, là một giá rất rẻ so với lúc đó thường người ta phải trả ba cây. Vì chị nói tiếng miên giỏi (nhờ học từ các gia đình miên Nam Vang chạy giặc Pol Pot sang Vietnam tới sống trong khu nhà chị), và da chị ngăm đen, quấn sà rông vào trông y miên, và vì ông ấy tử tế, chị nghĩ vậy. Ông đưa chị lên tới biên giới thì tình hình đánh nhau gay quá ông dắt chị về lại Nam Vang rồi từ đó chị kiếm đường về Saigon một mình. Vậy chị đi không thành công lần đầu nhưng đã tự tìm ra cho mình một đường dây tốt mà rẻ, lại biết qua đường đi nước bước.
Đây là lúc Đức bước vào câu chuyện. Một người anh của chị thấy chị muốn đi nữa, mà không có tiền, nên anh giới thiệu Đức cho chị, là bạn một người bạn. Chị nói với Đức chị là một người muốn đi vượt biên chứ không phải là một người làm nghề dắt đường để kiếm lợi, chị chỉ cần Đức trả chi phí cho chị, nay theo đường dây của chị giá người ta đòi là hai chỉ vàng một người vậy Đức vui lòng trả phần chị luôn, là tổng cộng bốn chỉ vàng. Chị nói tiền của Đức thì Đức cầm không cần đưa chị đồng nào, và người ta đòi Đức sẽ trả từng khoản nhỏ dọc đường cho người ta chi phí, còn thiếu lại bao nhiêu trong số bốn chỉ vàng thì khi tới được nhà thương phải trả nốt cho người ta. Chị nói Đức khi tới nhà thương rồi chị muốn Đức cho chị xin một chỉ vàng để chị có tiền xài. Đức đồng ý mọi điều kiện, còn mừng lắm vì giá đi quá rẻ mà lại không sợ bị chị lừa gạt vì không phải đưa tiền gì cho chị cả.
Đức lúc ấy là một thanh niên 22 tuổi, dáng công tử, cao hơn một mét bảy, mặt đẹp như D'artagnan trong phim Les Trois Mousquetaires. Da Đức trắng bóc, Đức nói ra phơi nắng da chỉ đỏ như tôm hùm rồi hôm sau trắng lại, chứ không bắt nắng. Chị thấy coi bộ không được vì da trắng dễ bị lộ trên đường đi sẽ nguy hiểm cho mọi người nên suy nghĩ rồi từ chối không cho Đức đi với chị.
Nhưng Đức theo năn nỉ mãi. Cuối cùng chị xuôi lòng và đồng ý cho Đức đi theo. Trước ngày đi Đức dắt chị tới gặp ông thày và ông cho mỗi người một sợi dây cà tha với một lá bùa hộ mạng bảo đeo vào cổ. Chị theo Tin Lành nên không thích lắm nhưng cũng không ngần ngại nghe lời vì mình đi chung với Đức phải làm theo, vả lại chị cũng hi vọng viễn vông biết đâu nhờ đó sẽ đi thành công. Tụi chị lên đường khoảng cuối tháng 8 hay tháng 9 không nhớ rõ, 1981.
Không nói em cũng biết Đức đã sợ hãi thế nào suốt cuộc hành trình nhưng các ông dắt đường kia làm việc chung với ông chị quen để dắt tụi chị từ Nam Vang trở đi, đều rất tử tế và lo cho an toàn của Đức. Tưởng tượng da thì trắng bóc, không nói được một chữ tiếng miên, mới đi mấy ngày đường mà mặt mày hốc hác xanh lè. Chặng cuối phải băng qua rừng khi trời nhá nhem tối thì cả Đức và chị bị tốp người dắt đường sau cùng bỏ rơi vì đau chân đi chậm quá.
Thế là bị bọn Para bắt bỏ vào tù Nong Chan. Tù này Hưng đã biết rộng dài khoảng 4m x 10m, được xây kiểu dã chiến, bốn bức tường chung quanh làm bằng thân cây lớn với dây kẽm gai giăng chằng chịt. Các vách ngăn chia trong tù cũng đều như vậy luôn nên bất cứ lúc nào mọi người trong tù cũng có thề nhìn thấy nhau.
Ngay nơi vách ngăn chia phòng lớn của đàn ông và phòng nhỏ của đàn bà, về phía phòng đàn ông, có một lối đi nhỏ. Phía trên lối đi này người ta treo một cái ống máng bằng kim loại đầu chúc xuống và hướng ra phía ngoài để ban ngày hay ban đêm mấy ông có thể đứng tiểu tiện và nước tiểu sẽ chảy ra ngoài, rơi thẳng xuống mặt đất. Khi Đức vào vì là ma mới nên "được" mấy ông cũ "nhường" cho chỗ này là chỗ ngủ tệ nhất trong tù bởi ngày đêm có người bước tới bước lui để dùng ống máng, và mỗi khi nước tiểu rơi xuống chạm mặt đất ngoài kia thì thường bắn tung tóe văng ngược vào nhà tù, dính vào đầu, tóc, cổ, và mặt Đức. À, chị quên chưa kể lính miên sắp xếp tất cả tị nạn nằm ngủ đầu phải quay về vách tường, nên nằm ngủ ở vị trí đó Đức không có cách nào tránh khỏi.
Đức nói với chị là rất lo sợ về chuyện này vì nhớ ông bạn thày tướng Ấn
Độ đã dặn thờ Thần hổ phải ở nơi sạch sẽ nếu không sẽ bị thần vật. Đức
không dám xin đổi chỗ với ai vì phần mình là ma mới, phần vì không muốn
ai biết mình đạo Công giáo mà lại đi thờ Thần hổ. Trong tù Nong Chan
mỗi sáng lính miên mở cổng và nói thơ ca thơ ca, rồi cho biết lấy mấy
người, rồi ai tình nguyện thì đứng lên đi ra. Đức luôn tình nguyện đi
thơ ca. Độ hai tuần sau khi vào tù Đức bắt đầu bị bệnh tiêu chảy hai ba
ngày liên tiếp, người gầy tọp hẳn đi, mặt mày tái mét, nhưng mỗi ngày
vẫn xin đi thơ ca chứ không chịu ở lại trong tù. Lính miên gác tù biết
Đức bệnh nhưng dĩ nhiên chúng đâu có quan tâm, nên Đức không được cho
thuốc men gì cả.
Trong tù có anh Hải xưa là sĩ quan không quân lái trực thăng, có nghề tay trái là thợ may. Một hôm có một tên lính miên được phát bộ đồ rằn ri to quá vào tù hỏi có ai là thợ may ở đây không, anh Hải nói có tôi. Từ đó bọn para không bắt anh Hải đi thơ ca nặng nhọc nữa mà kêu anh sửa đồng phục để chúng mặc cho vừa cho đẹp. Mấy ngày đầu chúng bắt anh làm việc trong tù nhưng anh đòi hỏi được ra ngoài và còn kéo theo chị làm thợ phụ vì "đơn đặt hàng" quá nhiều. Mỗi lần ra anh Hải và chị ngồi làm việc ngoài hiên nhà một tên lính kia và chị làm quen với vợ của nó để xin thêm cơm hay cá khô nhưng bị cấm không được đem đồ ăn về tù.
Trở lại chuyện của Đức, tối hôm đó Đức bị tiêu chảy nặng lắm rồi, trong tù Đức kín đáo đưa chị một chỉ vàng dưới dạng một mẩu cây tăm ngắn, nhờ chị tìm ai ngoài kia đi chợ mua một con gà và cúng Thần hổ giùm để xin thần tha thứ cho Đức, vì Đức tin bị tiêu chảy là do mình bị thần "vật" vì tối đi ngủ nằm phải nơi ô uế. Chị nói Đức chị quen mỗi mình vợ tên lính nơi nhà anh Hải với chị ngồi làm công việc may vá, Đức nói vậy nhờ đi. Cô vợ tên lính nhận lời giúp, nhưng nói là mua một con gà với nhang đèn để cúng sẽ tốn nửa chỉ vàng. Chị nói lại thì Đức đồng ý mặc dù giá đó mắc quá, nhưng lúc đó Đức không tiếc tiền mà chỉ sợ Thần hổ thôi.
Sau đó cô ấy có mua giùm gà và cúng giùm, chị nhìn thấy lúc ra ngoài làm việc chung với anh Hải, nhưng chị không nhớ Đức và anh Hải và chị có được ăn một miếng thịt gà nào hay không. Rồi còn lại nửa chỉ vàng của Đức cô ấy "nuốt" luôn không trả, nói là làm mất. Lúc Đức đưa vàng cho chị để đưa cho cô ấy, chị không hỏi gì nhưng biết chắc Đức đã giấu nó trong hậu môn của mình vì có một lần Đức đã nói với chị Đức giữ vàng bằng cách này. Ở Nong Chan trước khi tống tụi chị vô tù bọn para chỉ tra tấn bằng roi cá đuối và lột quần áo kiếm vàng bạc chứ không xét tới hậu môn hay đường ruột.
Cúng xong bệnh Đức cũng không thuyên giảm gì. Hai ba ngày sau đó mấy anh đi thơ ca bỗng xế trưa một anh hớt ha hớt hải chạy về nhà tù, chắc trốn không cho lính miên nhìn thấy, hôm ấy chị không được ra ngoài làm việc. Anh ta hét lên là "chị ơi em chị nó sắp chết rồi", vì lúc vào tù Đức nhận là em bà con của chị. Báo tin xong anh ta co giò chạy trở lại chỗ thơ ca. Nghe tin chị và mọi người khác trong tù sững sờ, nhưng chị không biết phải làm gì.
Xế chiều giờ đi làm về các anh thơ ca khiêng cái xác cứng đơ của Đức âm thầm đặt xuống trên mặt đất ngay phía ngoài cổng tù, mặt ai trông cũng căng thẳng và trắng bệch có lẽ vì xúc động, rồi mấy anh đi vào nhà tù mà không ai nhìn về phía chị. Tên lính miên dắt mấy anh thơ ca về tù lúc ấy hỏi chị có phải là chị của người chết không, chị lặng lẽ gật đầu, rồi hắn kêu chị bước ra ngoài. Chị ngồi xổm xuống bên xác của Đức, cái thân hình dài và cái khuôn mặt mới ngày nào tràn đầy sức sống tươi đẹp nay tóp lại một cách thảm hại, bất động vô tri. Lòng chị quặn lại vì tái tê thương xót Đức như em ruột của mình, nhưng không hiểu sao chị không khóc được. Vả lại bình thường chị rất sợ xác chết không bao giờ dám lại gần mà lúc ấy không hiểu sao chị chả cảm thấy sợ gì cả. Chị không nhớ lúc ấy chị có giơ tay vuốt mắt cho Đức không nữa, hay là đã có anh nào làm việc ấy rồi.
Tên lính miên đứng im lặng gần chị và mọi người trong tù cũng im lặng hoàn toàn nhưng chị biết ai cũng đang chăm chú nhìn ra cảnh tượng chị ngồi xổm bên xác chết của Đức, trong cảnh chập choạng tối của một ngày sắp hết. Chị nhìn vào cái mặt không hồn của Đức thầm xin lỗi đã làm Đức thất vọng không đưa được Đức tới nơi tới chốn nhưng biết Đức không giận vì Đức đã nói sẽ chấp nhận mọi rủi ro, rồi chị lâm râm cầu nguyện Chúa xin Chúa đón lấy linh hồn Đức. Rồi chị tự nhủ thế là xong một đời người, xong một ước mơ, và xong cả những đau đớn khổ sở lo lắng ...
... Không biết thời gian là bao lâu vừa qua đi khi tên lính miên lạnh lùng nhưng nhẹ nhàng nói với chị đứng dậy đi vào nhà tù lại đi, tên này là hiền nhất trong bọn lính gác tù. Rồi hắn nói hắn cần sáu hay tám người đi thơ ca ngay bây giờ, ai cũng biết là để khiêng xác Đức đem đi chôn ở một nơi vô danh đâu đó trong vùng rừng biên giới hoang vu. Khi mấy anh tị nạn tình nguyện thơ ca khiêng cuốc xẻng và xác Đức đi rồi, bóng đêm phủ xuống. Suốt đêm đó chị ngủ không được vì lương tâm cắn rứt tại chị đồng ý cho Đức đi theo nên hôm nay Đức mới chết khổ sở như thế này, trí óc chị băn khoăn vì xác chôn nơi rừng rậm xa lạ chị không thể biết đích xác ở đâu để mà sau này còn cho gia đình Đức biết. Không khí trong nhà tù đêm ấy cũng ảm đạm thê lương vì cái chết của Đức chắc đã làm chấn động tâm trí mọi người, dù là Đức chết rõ ràng vì bệnh tật chứ không phải vì bị lính miên giết.
Mấy ngày sau mọi người có vẻ bình tĩnh trở lại và bắt đầu bàn tán lý do tại sao Đức bị tiêu chảy rồi chết. Một người nói nhóm mình ở đây đã mấy tháng ăn uống không vệ sinh thật nhưng đâu có ai bị bệnh tiêu chảy, tại sao một mình Đức lại bị?
Trong tù có anh Hải xưa là sĩ quan không quân lái trực thăng, có nghề tay trái là thợ may. Một hôm có một tên lính miên được phát bộ đồ rằn ri to quá vào tù hỏi có ai là thợ may ở đây không, anh Hải nói có tôi. Từ đó bọn para không bắt anh Hải đi thơ ca nặng nhọc nữa mà kêu anh sửa đồng phục để chúng mặc cho vừa cho đẹp. Mấy ngày đầu chúng bắt anh làm việc trong tù nhưng anh đòi hỏi được ra ngoài và còn kéo theo chị làm thợ phụ vì "đơn đặt hàng" quá nhiều. Mỗi lần ra anh Hải và chị ngồi làm việc ngoài hiên nhà một tên lính kia và chị làm quen với vợ của nó để xin thêm cơm hay cá khô nhưng bị cấm không được đem đồ ăn về tù.
Trở lại chuyện của Đức, tối hôm đó Đức bị tiêu chảy nặng lắm rồi, trong tù Đức kín đáo đưa chị một chỉ vàng dưới dạng một mẩu cây tăm ngắn, nhờ chị tìm ai ngoài kia đi chợ mua một con gà và cúng Thần hổ giùm để xin thần tha thứ cho Đức, vì Đức tin bị tiêu chảy là do mình bị thần "vật" vì tối đi ngủ nằm phải nơi ô uế. Chị nói Đức chị quen mỗi mình vợ tên lính nơi nhà anh Hải với chị ngồi làm công việc may vá, Đức nói vậy nhờ đi. Cô vợ tên lính nhận lời giúp, nhưng nói là mua một con gà với nhang đèn để cúng sẽ tốn nửa chỉ vàng. Chị nói lại thì Đức đồng ý mặc dù giá đó mắc quá, nhưng lúc đó Đức không tiếc tiền mà chỉ sợ Thần hổ thôi.
Sau đó cô ấy có mua giùm gà và cúng giùm, chị nhìn thấy lúc ra ngoài làm việc chung với anh Hải, nhưng chị không nhớ Đức và anh Hải và chị có được ăn một miếng thịt gà nào hay không. Rồi còn lại nửa chỉ vàng của Đức cô ấy "nuốt" luôn không trả, nói là làm mất. Lúc Đức đưa vàng cho chị để đưa cho cô ấy, chị không hỏi gì nhưng biết chắc Đức đã giấu nó trong hậu môn của mình vì có một lần Đức đã nói với chị Đức giữ vàng bằng cách này. Ở Nong Chan trước khi tống tụi chị vô tù bọn para chỉ tra tấn bằng roi cá đuối và lột quần áo kiếm vàng bạc chứ không xét tới hậu môn hay đường ruột.
Cúng xong bệnh Đức cũng không thuyên giảm gì. Hai ba ngày sau đó mấy anh đi thơ ca bỗng xế trưa một anh hớt ha hớt hải chạy về nhà tù, chắc trốn không cho lính miên nhìn thấy, hôm ấy chị không được ra ngoài làm việc. Anh ta hét lên là "chị ơi em chị nó sắp chết rồi", vì lúc vào tù Đức nhận là em bà con của chị. Báo tin xong anh ta co giò chạy trở lại chỗ thơ ca. Nghe tin chị và mọi người khác trong tù sững sờ, nhưng chị không biết phải làm gì.
Xế chiều giờ đi làm về các anh thơ ca khiêng cái xác cứng đơ của Đức âm thầm đặt xuống trên mặt đất ngay phía ngoài cổng tù, mặt ai trông cũng căng thẳng và trắng bệch có lẽ vì xúc động, rồi mấy anh đi vào nhà tù mà không ai nhìn về phía chị. Tên lính miên dắt mấy anh thơ ca về tù lúc ấy hỏi chị có phải là chị của người chết không, chị lặng lẽ gật đầu, rồi hắn kêu chị bước ra ngoài. Chị ngồi xổm xuống bên xác của Đức, cái thân hình dài và cái khuôn mặt mới ngày nào tràn đầy sức sống tươi đẹp nay tóp lại một cách thảm hại, bất động vô tri. Lòng chị quặn lại vì tái tê thương xót Đức như em ruột của mình, nhưng không hiểu sao chị không khóc được. Vả lại bình thường chị rất sợ xác chết không bao giờ dám lại gần mà lúc ấy không hiểu sao chị chả cảm thấy sợ gì cả. Chị không nhớ lúc ấy chị có giơ tay vuốt mắt cho Đức không nữa, hay là đã có anh nào làm việc ấy rồi.
Tên lính miên đứng im lặng gần chị và mọi người trong tù cũng im lặng hoàn toàn nhưng chị biết ai cũng đang chăm chú nhìn ra cảnh tượng chị ngồi xổm bên xác chết của Đức, trong cảnh chập choạng tối của một ngày sắp hết. Chị nhìn vào cái mặt không hồn của Đức thầm xin lỗi đã làm Đức thất vọng không đưa được Đức tới nơi tới chốn nhưng biết Đức không giận vì Đức đã nói sẽ chấp nhận mọi rủi ro, rồi chị lâm râm cầu nguyện Chúa xin Chúa đón lấy linh hồn Đức. Rồi chị tự nhủ thế là xong một đời người, xong một ước mơ, và xong cả những đau đớn khổ sở lo lắng ...
... Không biết thời gian là bao lâu vừa qua đi khi tên lính miên lạnh lùng nhưng nhẹ nhàng nói với chị đứng dậy đi vào nhà tù lại đi, tên này là hiền nhất trong bọn lính gác tù. Rồi hắn nói hắn cần sáu hay tám người đi thơ ca ngay bây giờ, ai cũng biết là để khiêng xác Đức đem đi chôn ở một nơi vô danh đâu đó trong vùng rừng biên giới hoang vu. Khi mấy anh tị nạn tình nguyện thơ ca khiêng cuốc xẻng và xác Đức đi rồi, bóng đêm phủ xuống. Suốt đêm đó chị ngủ không được vì lương tâm cắn rứt tại chị đồng ý cho Đức đi theo nên hôm nay Đức mới chết khổ sở như thế này, trí óc chị băn khoăn vì xác chôn nơi rừng rậm xa lạ chị không thể biết đích xác ở đâu để mà sau này còn cho gia đình Đức biết. Không khí trong nhà tù đêm ấy cũng ảm đạm thê lương vì cái chết của Đức chắc đã làm chấn động tâm trí mọi người, dù là Đức chết rõ ràng vì bệnh tật chứ không phải vì bị lính miên giết.
Mấy ngày sau mọi người có vẻ bình tĩnh trở lại và bắt đầu bàn tán lý do tại sao Đức bị tiêu chảy rồi chết. Một người nói nhóm mình ở đây đã mấy tháng ăn uống không vệ sinh thật nhưng đâu có ai bị bệnh tiêu chảy, tại sao một mình Đức lại bị?
Lúc ấy chị mới nói ra Đức theo Công giáo nhưng thờ Thần hổ với hi vọng Thần hổ sẽ phù hộ mình vượt biên thành công. (Chuyện Đức giấu vàng trong hậu môn và nhờ vợ tên lính kia mua gà cúng chị chỉ kể cho một mình anh Hải nghe thôi, vì lúc ấy chị và anh Hải đã trỏ thành bạn thân.) Lúc ấy người thì bảo Đức bị tiêu chảy rồi chết vì đang theo Công giáo mà còn đi thờ Thần hổ, người thì bảo tại thờ Thần hổ mà nằm ngủ nơi dơ dáy nên bị thần vật. Có người nói có gì đâu, chỉ là số phần trời kêu ai nấy dạ. Anh Hải thì nói riêng với chị anh nghĩ rằng mỗi lần đi cầu vàng rơi ra ngoài rồi Đức phải dùng tay nhét vào đít lại, chắc chắn làm như vậy vi trùng đi theo vào trong cơ thể nên mới bị tiêu chảy.
Như vậy Đức ở trong tù Nong Chan khoảng tất cả trên dưới ba tuần, và bị bệnh tiêu chảy có một tuần thôi là chết. Cuộc hành trình vuợt biên của Đức tới đây là chấm dứt.
Đức chết xong thì khoảng hai tuần sau tụi chị được para đồng ý cho chuyển sang nhà thương Nong Chan. Khi có tin ông cha Công giáo nào đó vào nhà thương và nói sẽ giúp tị nạn gửi thơ về VN, chị viết một lá cho gia đình chị ở Saigon báo tin chị đã tới nhà thương biên giới nhưng không biết được từ đây sẽ đi về đâu. Cái chết của Đức trong tù làm chị bị choáng váng nên anh Hải tình nguyện viết giùm chị một lá thơ gửi kèm theo thơ của chị. Thơ anh ấy viết nói là anh là bạn chị và chị nhờ anh báo tin cho gia đình Đức biết về cái chết của Đức trong tù Nong Chan; với lời yêu cầu anh của chị ở Saigon là người đã giới thiệu Đức đi chung với chị, sẽ mang thơ tới tận nhà giao cho gia đình Đức.
Ở nhà thương Nong Chan khoảng một tháng sau tụi chị được chuyển sang nw82. Vài tháng sau đó đang trong nw82 chị nhận được thơ bố chị gửi từ Saigon, không nhớ rõ nhưng chắc qua địa chỉ nhận thơ của ông cha Công giáo, chứng tỏ cha đã giữ lời hứa, không những cha gửi thơ giùm về Saigon mà nay còn chuyển hồi âm của bố chị đến nw82 nữa, vì lúc đó nhà chị làm sao biết được chị đang ở trại tị nạn nào. Trong thơ bố chị nói thơ anh Hải viết gửi cho gia đình Đức đã được anh của chị chuyển tận tay, họ buồn lắm nhưng không ai trách móc gì chị.
Sau này về Saigon chơi bao nhiêu lần chị không bao giờ nghĩ tới chuyện tìm thăm gia đình của Đức. Để làm gì khi quá khứ đã yên ngủ? Mình đi chung một chuyến với thân nhân người ta, mình còn sờ sờ ra đây đang sống ở Mỹ mà thân nhân của người ta đã chết từ kiếp nào, ích lợi gì khơi lại trong họ vết thương lòng xa xưa?
Để kết thúc câu chuyện này chị muốn Hưng nhìn thấy một điều. Cái cô vợ
của tên lính miên kia nhận vàng đi chợ mua gà rồi giựt nửa chỉ vàng của
Đức, tuy tham nhưng con người cô ta không đến nỗi nào. Bởi lẽ cô ta đã
có thể nói với chồng, nè tụi tị nạn trong tù nó còn vàng đó nghe, và
biết đâu tất cả tụi chị lúc đó sẽ bị lính miên lục đồ hoặc cho uống dầu
ăn giống tị nạn bên Phnomchat cho có bao nhiêu vàng bạc giấu trong người
bị đẩy tuột ra hết, và lúc đó các tị nạn khác sẽ oán ghét Đức và chị
tới chừng nào. Đó là chưa nói tới chúng có thể giận dữ đánh đập mọi
người vì tội đã qua mặt chúng. Nhưng đã không có một chuyện gì như thế
xảy ra, bởi vì cô kia chắc đã không nói ra.
Nghĩ lại đó là một hành động ngu xuẩn quá chừng, đang bị tù mà lại đi đưa vàng cho vợ một tên lính gác tù, dấu đầu lòi đuôi, nhưng lúc ấy Đức bệnh nặng quá đang sợ chết nên cả Đức và chị đều mất trí khôn. Sau này không thấy mấy anh trong nhóm người đã đem chôn Đức nói gì, vậy chị đoán là chuyện chôn cất xảy ra bình thường, đã không có tên lính miên nào đòi cắt xé thi thể của Đức ra để tìm cái gì cả. Nếu vậy, Đức đã chết đi mang theo bí mật về một số vàng giấu kín trong hậu môn, không rõ là bao nhiêu ...
Sự kiện ngày hôm nay chị sống bên Mỹ hiển nhiên liên quan đến cuộc ra đi năm xưa, mà Đức là một phần của cuộc ra đi đó. Bởi lẽ này, đến bây giờ thỉnh thoảng câu chuyện về Đức cứ trở về ám ảnh chị hoài. Một ký ức buồn.
Minhkha
Nghĩ lại đó là một hành động ngu xuẩn quá chừng, đang bị tù mà lại đi đưa vàng cho vợ một tên lính gác tù, dấu đầu lòi đuôi, nhưng lúc ấy Đức bệnh nặng quá đang sợ chết nên cả Đức và chị đều mất trí khôn. Sau này không thấy mấy anh trong nhóm người đã đem chôn Đức nói gì, vậy chị đoán là chuyện chôn cất xảy ra bình thường, đã không có tên lính miên nào đòi cắt xé thi thể của Đức ra để tìm cái gì cả. Nếu vậy, Đức đã chết đi mang theo bí mật về một số vàng giấu kín trong hậu môn, không rõ là bao nhiêu ...
Sự kiện ngày hôm nay chị sống bên Mỹ hiển nhiên liên quan đến cuộc ra đi năm xưa, mà Đức là một phần của cuộc ra đi đó. Bởi lẽ này, đến bây giờ thỉnh thoảng câu chuyện về Đức cứ trở về ám ảnh chị hoài. Một ký ức buồn.
Minhkha
VẠN MỘC CƯ SĨ * NGÀY HÀNH TRÌNH TÌM TỰ DO
NGÀY HÀNH TRÌNH TÌM TỰ DO
VẠN MỘC CƯ SĨ
Trong
những năm gần đây, đồng bào hải ngoại đã tranh đấu liên tục cho độc
lập,tự do Việt Nam. Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn đã tích cực hoàn thành hồ sơ
biển đông đề đưa ra Liên Hiệp Quốc, đồng thời ông và các nhà tranh đấu
đã tái lập cơ cấu Việt Nam Cộng hòa để giải quyết Biển Đông và công hàm
Phạm Văn Đồng.
Công việc đang tiến triển thì ông từ trần, thọ 80 tuổi. Trước khi giã từ cuộc đời, cựu Thủ tướng cũng đã đóng góp công lao cho Độc lập Việt Nam trong khi bọn Việt Cộng quỳ lạy Trung Quốc, cam phận tôi đòi!
Năm 2014, cũng nổi bật sự kiện khá quan trọng là cụ Võ Toàn, 104 tuổi đã tổ chức Hội Nghị Diên Hồng Thời đại tại California để chống Trung Cộng xâm lược. Cũng như cựu Thủ tướng Nguyễn Bà Cẩn, hoàn thành nhiệm vụ thì về trời, giao công việc lại cho thế hệ sau.
Công việc đang tiến triển thì ông từ trần, thọ 80 tuổi. Trước khi giã từ cuộc đời, cựu Thủ tướng cũng đã đóng góp công lao cho Độc lập Việt Nam trong khi bọn Việt Cộng quỳ lạy Trung Quốc, cam phận tôi đòi!
Năm 2014, cũng nổi bật sự kiện khá quan trọng là cụ Võ Toàn, 104 tuổi đã tổ chức Hội Nghị Diên Hồng Thời đại tại California để chống Trung Cộng xâm lược. Cũng như cựu Thủ tướng Nguyễn Bà Cẩn, hoàn thành nhiệm vụ thì về trời, giao công việc lại cho thế hệ sau.
Trong
năm 2014, Thượng nghị sĩ Ngô Thanh Hải cũng nhắc lại pháp lý Việt Nam
Cộng Hòa và Biển Đông. Cuộc vận động đã tiến vào quốc hội Canada và được
các nhân sĩ khắp nơi tham dự. Tiến lên bước nữa, Thượng nghị sĩ Ngô
Thanh Hải đã đưa dự luật công nhận ngày hành trình tự do của nhân dân
Việt Nam.
Đây là Hành trình Tự do, không phải là Hành Trình bán nước của Hồ Chí Minh, của Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh. Rõ rệt là như thế. Ngày quốc hận vẫn còn trong tim ta, không bạo lực nào, danh lợi nào bắt ta phải nói trắng thành đen, phải bội sự thật của Lịch sử.
Hành Trình Tìm Tự Do tức là Hành Trình Biển Đông, hành trình qua các đưòng bộ. Không những dân VNCH mà dân XHCN cũng bỏ thiên đường cộng sản mà đi.
Nay thì cộng sản gộc và con em Việt nam và Trung quốc cũng bỏ nước ra đi. Đó là Hành Trình tìm tự do. Thực tế và văn từ là một.
Đây là Hành trình Tự do, không phải là Hành Trình bán nước của Hồ Chí Minh, của Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh. Rõ rệt là như thế. Ngày quốc hận vẫn còn trong tim ta, không bạo lực nào, danh lợi nào bắt ta phải nói trắng thành đen, phải bội sự thật của Lịch sử.
Hành Trình Tìm Tự Do tức là Hành Trình Biển Đông, hành trình qua các đưòng bộ. Không những dân VNCH mà dân XHCN cũng bỏ thiên đường cộng sản mà đi.
Nay thì cộng sản gộc và con em Việt nam và Trung quốc cũng bỏ nước ra đi. Đó là Hành Trình tìm tự do. Thực tế và văn từ là một.
Công
nhận hành trình tự do tức là tố cáo cộng sản, tàn bạo dã man cho nên
nhân dân phải liều chết bỏ nước ra đi. 30 tháng tư là mùa Quốc Hận, và
với thế giới là Ngày Việt Nam đi tìm tự do. Đó là ngày đen tối của lịch sử cộng sản, một tội ác không che giấu được.
Việc
này làm cho Việt cộng gai mắt, chúng huy động bọn văn nô (Dư luận
viên) viết bài chống đối. Tôi nghĩ rằng đồng bào Việt Nam, những người
quốc gia chân chính không thể mắc mưu cộng sản.
Trong
bao năm nay, Việt Cộng phá hoại cộng đồng, lấy danh nghĩa chống cộng để
vu khống các chiến sĩ tự do. Nhưng Việt Cộng không thể che đây sư thật.
Cuộc chiến đấu của nhân dân ta vẫn tiến tới. Qua rồi thời đại lừa bịp
của Hồ Chí Minh.
NGÀY QUỐC HẬN hay
NGÀY HÀNH TRÌNH TÌM TỰ DO chỉ là hai mặt (tiêu cực và tích cực) của một
vấn đề, một sự kiện: Ngày 30/4/1975, người dân uất hận vì mất nước, mất quê hương, mất tự do thì cũng ngay lập tức lên đường tìm tự do, đi tìm quê hương mới.
Không
có gì mà cãi nhau, khích bác nhau. Chỉ tổ làm lợi cho Cộng sản, gây
cười cho Cộng sản. Chớ nên có tâm địa hẹp hòi, tấn công những ai gọi nó
là "Ngày hành trình tìm tự do", vì tự cho rằng chỉ có mình là hiểu cộng
sản nhất, là thấm cộng sảnlà thấm cộng sản nhất, là chống cộng số dách, là chống cộng đích thực, là yêu nước đầy mình!?!
Nghị sĩ Ngô Thanh Hải vận động được Quốc hội Canada vinh danh ngày đó dưới khía cạnh tích cực. Điều đó thật đáng hoan nghênh.
TRUNG QUỐC LO NGẠI
Báo Trung Quốc: Thủ tướng Việt Nam ‘nhắm’ ghế Tổng bí thư
Tờ Hoàn cầu Thời báo nhận định rằng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đang nhắm tới chiếc ghế Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.
27.01.2015
Một tờ báo thuộc cơ quan Ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc mới
đăng bài bình luận cho rằng 2015 sẽ là năm căng thẳng chính trị ở Việt
Nam trong khi chuẩn bị cho Đại hội thứ 12 với việc bầu ban lãnh đạo chóp
bu mới, đồng thời nhận định rằng Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng
đang nhắm tới chiếc ghế Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong bài viết hôm 25/1, tờ Hoàn cầu Thời báo nhận định:
“Thủ tướng đương quyền của Việt Nam có lẽ đang nhắm tới vị trí hàng đầu
của đảng cầm quyền. Trong nền chính trị chia rẽ ở Việt Nam, ông Dũng,
một đại diện của phe thân Mỹ, có lẽ sẽ mạnh mẽ thay đổi chiến lược quốc
gia và chính sách ngoại giao của Việt Nam để hợp tác nhiều hơn với Mỹ”.
Tờ báo cũng cho rằng Hoa Kỳ đang âm mưu sử dụng chiến thuật cách mạng
màu cổ lỗ tại Việt Nam nhằm biến Hà Nội “thành một con tốt giống như
Philippines để khống chế sự lớn mạnh của Trung Quốc”.
Hoàn cầu Thời báo cho rằng 2015 sẽ là “một năm sống còn cho “cuộc
chơi ba bên giữa Trung Quốc, Mỹ và Việt Nam”, và rằng trong năm nay,
Trung Quốc “sẽ phải đối mặt với một tình thế còn căng thẳng hơn so với
năm 2014” từ Việt Nam.
Chẳng hạn trên tờ Nhân dân Nhật Báo thì
nó không bao giờ phê phán, chửi bới Việt Nam cả, nhưng mà tờ Hoàn cầu
Thời báo thì nó đăng. Nó chửi mình, công kích mình, chả nể gì mình cả.
Coi như phát biểu chính thức của Trung Quốc rồi đấy...
Ông Dương Danh Dy, cựu tổng lãnh sự Việt Nam ở Quảng Châu.
Ông Dương Danh Dy, cựu tổng lãnh sự Việt Nam ở Quảng Châu, nói với
VOA Việt Ngữ về tờ báo mà ông cho là phản ánh quan điểm của chính phủ
Trung Quốc.
“Tờ Hoàn cầu Thời báo, theo như họ tự giới thiệu, thì nó là tờ báo con của báo Nhân dân. Những tin gì mà nó không đăng được trên Nhân dân nhật báo thì nó đăng ở trên Hoàn cầu Thời báo. Ví dụ chẳng hạn trên tờ Nhân dân Nhật Báo thì nó không bao giờ phê phán, chửi bới Việt Nam cả, nhưng mà tờ Hoàn cầu Thời báo thì nó đăng. Nó chửi mình, công kích mình, chả nể gì mình cả. Coi như phát biểu chính thức của Trung Quốc rồi đấy”.
Trong khi đó, luật sư bất đồng chính kiến Lê Công Định nhận định trên Facebook: “Nếu đúng báo Hoàn Cầu
viết như trích dẫn, thì rõ ràng Bắc Kinh đang lo ngại sự chuyển hướng
chính sách ngoại giao của Việt Nam sang phía Mỹ dưới quyền lãnh đạo đảng
và nhà nước của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Vậy Thủ tướng đang trở thành
mối đe doạ của Bắc Kinh chăng? Giọng điệu của báo Hoàn Cầu thể hiện điều đó”.
Trong khi đó, chuyên gia về quan hệ Việt – Trung Dương Danh Dy cho rằng báo chí Việt Nam cũng nên đáp trả những tuyên bố của tờ Hoàn cầu Thời báo.
“Mình cũng đối đảng với họ mà. Báo họ phê phán mình thì báo mình đập
lại, phê phán họ, thế thôi. Theo tôi, báo thôi, chứ chính quyền thì
không cần thiết. Báo đáp lại là đủ rồi.”
Trong một bài viết hôm 26/1, tờ Giáo dục Việt Nam nói rằng “cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc lại tung tin thất thiệt, kích động chia rẽ cố gắng tìm cách gây nhiễu loạn nội bộ Việt Nam”.
Trong một bài viết hôm 26/1, tờ Giáo dục Việt Nam nói rằng “cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc lại tung tin thất thiệt, kích động chia rẽ cố gắng tìm cách gây nhiễu loạn nội bộ Việt Nam”.
Điều cơ bản nhất của Việt Nam là làm
sao để vừa chơi được với Mỹ mà lại không làm mất lòng Trung Quốc. Đó là
một bài toán khó của Việt Nam.
Tiến sĩ Cù Chí Lợi, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Châu Mỹ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
Tờ báo viết: “Chưa thấy Mỹ can thiệp vào nội bộ Việt Nam chỗ nào như Thời báo Hoàn Cầu tuyên truyền, nhưng tờ báo này ‘thả bom gây rối dư luận’ nội bộ Việt Nam để phục vụ mưu đồ đen tối đã rõ như ban ngày”.
Trong một bài phân tích công bố mới đây, chuyên gia về tình hình Việt Nam Carl Thayer cũng đã nhắc tới những đồn đoán ở trong nước về việc ông Nguyễn Tấn Dũng “có tham vọng trở thành Tổng bí thư kế tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Trong một bài phân tích công bố mới đây, chuyên gia về tình hình Việt Nam Carl Thayer cũng đã nhắc tới những đồn đoán ở trong nước về việc ông Nguyễn Tấn Dũng “có tham vọng trở thành Tổng bí thư kế tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Bài bình luận của Hoàn cầu Thời báo được đăng tải đúng vào ngày diễn ra hội thảo quy mô nhân dịp kỷ niệm 20 năm quan hệ song phương Hoa Kỳ - Việt Nam.
Một người tham gia buổi hội thảo này, Tiến sĩ Cù Chí Lợi, Viện trưởng
Viện Nghiên cứu Châu Mỹ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, nói với VOA
Việt Ngữ rằng xu hướng phát triển chung của quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ
“tương đối rõ ràng và sáng sủa”.
Có hai lĩnh vực mà ông Lợi cho rằng phát triển nhanh thời gian qua giữa hai nước là thương mại và quốc phòng.
Rõ ràng Bắc Kinh đang lo ngại sự chuyển
hướng chính sách ngoại giao của Việt Nam sang phía Mỹ dưới quyền lãnh
đạo đảng và nhà nước của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Vậy Thủ tướng đang
trở thành mối đe doạ của Bắc Kinh chăng? Giọng điệu của báo Hoàn Cầu thể
hiện điều đó.
Luật sư bất đồng chính kiến Lê Công Định nhận định trên Facebook.
Khi được hỏi rằng liệu có phải những tuyên bố chủ quyền mạnh mẽ thời
gian qua của Trung Quốc đã đẩy Việt Nam xích lại gần Mỹ, ông Lợi nói:
“Qua nhiều phương tiện thông tin đại chúng rồi qua nhiều bình luận
khác nhau thì chuyện đó cũng tương đối rõ. Nhưng mà điều cơ bản nhất của
Việt Nam là làm sao để vừa chơi được với Mỹ mà lại không làm mất lòng
Trung Quốc. Đó là một bài toán khó của Việt Nam. Chắc chắn đó là một
phương châm chung để giữ một môi trường ổn định. Đó là mục tiêu quan
trọng bậc nhất. Chơi với Mỹ mà lại làm cho tình hình căng thẳng hơn thì
có lẽ phải xem xét một cách cẩn thận. Nếu mà không chơi với Mỹ mà vấn đề
ở biển Đông lại căng thẳng hơn thì cũng là một vấn đề khó. Phương châm
là thế nhưng phải linh hoạt trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể”.
Trong tháng qua, tờ Hoàn cầu Thời báo đã cáo buộc Bộ trưởng
Giao thông Việt Nam Đinh La Thăng “tìm cách nhen nhóm tinh thần bài
Trung Quốc” sau khi ông “xạc” một nhà thầu Trung Quốc vì để xảy ra hai
sự cố làm một người chết và ít nhất 3 người bị thương tại một dự án
đường sắt trọng điểm ở thủ đô của Việt Nam.
Sau đó, Báo Giao thông Vận tải của Việt Nam đã lên án tờ báo của Trung Quốc "chính trị hóa" và “thổi phồng” vụ việc.
Truyền thông Trung Cộng: Nguyễn Tấn Dũng sẽ là tổng bí thư?
Ảnh minh họa do truyền thông Trung Cộng sử dụng trong bài bình luận 'Đòn bẩy thương mại có thể ngăn CSVN theo Mỹ'
Hoàng Trần (Danlambao)
- Trong một bài bình luận được phổ biến hôm 25/1/2015, cơ quan ngôn
luận chính thức của đảng cộng sản Trung Cộng nói rằng thủ tướng CSVN
đương nhiệm, ông Nguyễn Tấn Dũng đang nhắm đến chức vụ tổng bí thư đảng
cộng sản Việt Nam tại đại hội đảng lần thứ 12, dự kiến sẽ diễn ra vào
đầu năm 2016.
Theo Hoàn Cầu Thời Báo, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được mô tả là 'một đại diện của phe thân Mỹ' trong hàng ngũ chóp bu cộng sản VN.
Khi nắm giữ vị trí cao nhất trong đảng cầm quyền, vai trò của ông Dũng
được nói sẽ thay đổi đáng kể chiến lược quốc gia và chính sách đối
ngoại. Theo phía Trung Cộng, trước tình trạng chia rẽ chính trị trong
hàng ngũ chóp bu CSVN, những thay đổi này để 'chào đón sự tham gia sâu
rộng của hơn Mỹ vào Việt Nam'.
“Washington đã nhận ra tiềm năng của ông Dũng như một đại diện hiệu
quả. Đại hội đảng lần thứ 12 có thể là cơ hội duy nhất cho ông Dũng lên
nắm quyền lực tối cao, Mỹ có ý định ca ngợi thành công tại bàn đàm phán
TPP là một trong những thành tựu lớn của ông Dũng”, Hoàn Cầu Thời Báo nói.
Cũng theo cơ quan tuyên truyền chính thức của Trung Cộng, các đòn bẩy
thương mại cùng với 'lập trường mềm mại' hơn của Trung Cộng tại Biển
Đông có thể giúp ngăn chặn CSVN chuyển hướng quay sang Mỹ.
'Chia rẽ lãnh đạo Việt Nam'
Đáp lại, truyền thông nhà nước VN đã nhanh chóng phản bác các nhận định do phía Trung Cộng tung ra.
Tờ báo Giáo Dục Việt Nam hôm 26/1/2015 đã bình luận đây là hành động “tung tin thất thiệt, kích động chia rẽ cố gắng tìm cách gây nhiễu loạn nội bộ Việt Nam'' của truyền thông Trung Cộng.
“Phải chăng động đến tham vọng bành trướng lãnh thổ khó nuốt trôi,
Thời báo Hoàn Cầu mới tìm cách công kích, chia rẽ nội bộ người Việt
trước thời điểm quan trọng ảnh hưởng đến tương lai của đất nước?”, tờ báo trực thuộc hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam nói.
Trước nhận định nói rằng thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là 'đại diện phe thân
Mỹ', báo Giáo Dục Việt Nam cáo buộc Hoàn Cầu Thời Báo đã 'công kích bôi
nhọ thủ tướng' và 'âm mưu đen tối chia rẽ nội bộ Việt Nam'.
Dù từng xuất hiện nhiều lời đồn đoán khác nhau, nhưng đây là lần đầu
tiên một cơ quan truyền thông chính thức Trung Cộng tiết lộ tin ông Dũng
sẽ nắm giữ vị trí tổng bí thư tương lai.
Vì sao Hoàn Cầu Thời Báo biết được điều này? Có thể dễ dàng lý giải là do nội bộ chóp bu cộng sản rò rỉ cho phía Trung Cộng.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đang nhắm đến chiếc ghế
tổng bí thư năm 2016, theo Hoàn Cầu Thời Báo
Nguyễn Tấn Dũng: 'Đại diện thân Mỹ'?
Chiếc ghế tổng bí thư tương lai hiện đang là cuộc chạy đua khốc liệt
giữa 3 ứng cử viên trong bộ chính trị cộng sản là các ông Phạm Quang
Nghị, Phùng Quang Thanh và Nguyễn Tấn Dũng.
Bí thư Hà Nội Phạm Quang Nghị do đích thân TBT đương nhiệm Nguyễn Phú
Trọng đỡ đầu quyền lực. Trong khi đó, bộ trưởng bộ quốc phòng, đại tướng
Phùng Quang Thanh được sự ủng hộ của Trung Cộng nhờ chủ trương thần
phục Bắc Kinh vô điều kiện.
Thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Tấn Dũng cũng là một ứng cử viên sáng giá
cho chức vụ tổng bí thư đảng cầm quyền. Quyền lực của ông Dũng có được
phần lớn nhờ vào sự đỡ đầu của đại tướng Lê Đức Anh – thủ phạm chính
tiếp tay cho Trung Cộng đánh chiếm Trường Sa và cũng là người chịu trách
nhiệm về thỏa ước Thành Đô năm 1990.
Trong suốt hai nhiệm kỳ thủ tướng, Nguyễn Tấn Dũng là thủ phạm tàn phá
đất nước đến bờ vực lụn bại, trong khi phe nhóm ông ta vẫn ngày một giàu
lên khủng khiếp nhờ tham nhũng và cướp đất dân nghèo.
Do đó, rất khó tin Nguyễn Tấn Dũng là một 'đại diện thân Mỹ', bởi những
kẻ tham nhũng chỉ biết đến tiền và quyền. Bất cứ ai cho tiền, dù là Mỹ
hay Tàu đều không quan trọng.
Tóm lại, nếu không lật đổ được chế độ độc tài cộng sản, tương lai đất nước sẽ tiếp tục còn tăm tối trong nhiều năm tới.
Bá quyền Tàu cộng lo sợ Nguyễn Tấn Dũng sẽ bám chân đế quốc Mỹ!?
"Năm 2015 cũng sẽ là một năm căng thẳng đối với nền chính trị Việt
Nam, đó là một năm để xác định người sẽ trở thành Tổng bí thư Đảng Cộng
Sản Việt Nam", "Đại hội 12 Đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ diễn ra vào tháng
Giêng năm 2016 và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có thể trở thành Tổng bí
thư". "Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đại diện cho phe thân Mỹ" - Thời báo Hoàn Cầu?!
Hồng Thủy (GDVN)
- Cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc lại tung tin thất
thiệt, kích động chia rẽ cố gắng tìm cách gây nhiễu loạn nội bộ Việt
Nam.
Thời báo Hoàn Cầu ngày 25/1 đăng bài bình luận với tiêu đề "Đòn bẩy thương mại có thể ngăn Việt Nam quay sang Mỹ",
trong đó đưa ra nhiều bình luận xuyên tạc, chia rẽ lãnh đạo cấp cao
Việt Nam và cổ súy cho tham vọng bá quyền, bành trướng lãnh thổ mà Bắc
Kinh đang theo đuổi trên Biển Đông, reo rắc những suy diễn, hoài nghi
gây bất lợi, chia rẽ nội bộ Việt Nam.
Đầu tiên Thời báo Hoàn Cầu nhắc tới việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp
tân Đại sứ Hoa Kỳ Ted Osius hôm 7/1, trong đó tờ báo Trung Quốc tuyên
truyền rằng: "Ông Osius đã trao đổi (với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng)
về việc Nhà Trắng sẽ linh hoạt hơn trong các cuộc đàm phán hiệp định
Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)". Thời báo Hoàn Cầu bình
luận, đàm phán TPP Việt - Mỹ bắt đầu từ hơn 5 năm trước đây dường như
đang bước vào giai đoạn cuối khi Mỹ chấp nhận một số thỏa hiệp với Việt
Nam.
Tân Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius bị
Thời báo Hoàn Cầu
lợi dụng làm cái cớ để công kích
chia rẽ dư luận nội bộ Việt Nam, ảnh: Vietnamnet.
Hoàn Cầu tuyên truyền: "Việt Nam hy vọng hiệp ước kinh tế này sẽ thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế của mình, và quan trọng nhất là giảm đi sự phụ
thuộc lâu dài vào nhập khẩu từ Trung Quốc. Hơn nữa căng thẳng gia tăng ở
Biển Đông đã đẩy Việt Nam đến chỗ phải tìm kiếm 'một người bảo trợ' để
làm đối trọng với ảnh hưởng của Trung Quốc. Mỹ là lựa chọn tốt nhất của
Việt Nam".
Cũng theo bình luận trên Thời báo Hoàn Cầu: "Năm nay sẽ đánh dấu kỷ
niệm 20 năm ngày bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ. Bất chấp 2
nước đã có thời kỳ đối đầu, dịp này cung cấp cho cả hai bên động lực
quan trọng để tiến lại gần nhau hơn. Thỏa hiệp của Washington trong các
cuộc đàm phán TPP là một món quà cho Việt Nam, nhưng những món quà luôn
được đưa ra với cái giá (phải trả)".
đàm phán, đặc biệt khi họ đã chiếm
được thế thượng phong. Trong trường hợp này sự nhượng bộ của Washington
không phải một chiến thuật hỗ trợ lợi ích nhỏ, mà là một chiến lược có
thể tác động đến toàn bộ bối cảnh chính trị trong khu vực".
"Năm 2015 cũng sẽ là một năm căng thẳng đối với nền chính trị Việt
Nam, đó là một năm để xác định người sẽ trở thành Tổng bí thư Đảng Cộng
Sản Việt Nam", Thời báo Hoàn Cầu bắt đầu reo rắc những bình luận gây bất lợi cho Việt Nam, gây chia rẽ nội bộ Việt Nam: "Đại
hội 12 Đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ diễn ra vào tháng Giêng năm 2016 và
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có thể trở thành Tổng bí thư". Nguy hiểm hơn, Thời báo Hoàn Cầu kích động chia rẽ khi xuyên tạc rằng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng "đại diện cho phe thân Mỹ"?!
Việc Thời báo Hoàn Cầu công kích bôi nhọ
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là nhằm âm mưu đen tối
chia rẽ nội bộ Việt Nam để dễ bề thực hiện tham vọng
bành trướng lãnh thổ. Tờ báo này có lẽ đã "giật thót"
khi nghe khẳng định của Thủ tướng: Quyết không đánh đổi
chủ quyền lãnh thổ lấy một thứ hữu nghị viển vông nào đó,
và Hoàn Cầu tìm cách bôi nhọ. Ảnh: Bloomberg.
Trong khi lãnh đạo cấp cao Trung Quốc ra sức tuyên truyền rằng họ không
can thiệp vào công việc nội bộ nước khác thì Thời báo Hoàn Cầu, một
phiên bản của Nhân Dân nhật báo - cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản
Trung Quốc lại tung tin thất thiệt, kích động chia rẽ cố gắng tìm cách
gây nhiễu loạn nội bộ Việt Nam là một động thái hiếm thấy trong những
năm qua. Chưa thấy Mỹ can thiệp vào nội bộ Việt Nam chỗ nào như Thời báo
Hoàn Cầu tuyên truyền, nhưng tờ báo này "thả bom gây rối dư luận" nội
bộ Việt Nam để phục vụ mưu đồ đen tối đã rõ như ban ngày - PV.
Hoàn Cầu xuyên tạc tiếp: "Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nếu trở thành
Tổng bí thư khóa tới có thể sẽ làm thay đổi đáng kể chiến lược quốc gia
và chính sách đối ngoại của Việt Nam, chào đón sự tham gia sâu hơn của
Mỹ vào Việt Nam. Washington đã nhận ra 'tiềm năng' của Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng và Đại hội 12 có thể là cơ hội duy nhất cho ông lên nắm quyền
lực tối cao, Mỹ có ý định ca ngợi kết quả của các cuộc đàm phán TPP là
một trong những thành tựu lớn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng".
"Trong trường hợp này Washington đang nỗ lực dùng thủ đoạn 'cách mạng
màu' cũ mèm của mình để thu hút Việt Nam như 'con tốt Philippines' để
kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc. Vì vậy 2015 sẽ là một năm quan
trọng trong cuộc chơi 3 bên Trung Quốc - Mỹ - Việt Nam. Mặc dù Trung
Quốc và Việt Nam đã nhanh chóng khôi phục lại quan hệ vào cuối năm 2014
sau một năm dài căng thẳng (do những hành động khiêu khích, xâm phạm
vùng biển Việt Nam mà Trung Quốc hung hăng thực hiện, bất chấp luật pháp
quốc tế - PV)."
Các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam bao gồm Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lâu
nay khẳng định trước sau như một, Việt Nam không liên kết nước này chống
nước kia, thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa
đa dạng hóa và Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước yêu chuộng hòa
bình. Tuy nhiên, Thủ tướng cũng nhấn mạnh, Việt Nam quyết không đánh đổi
chủ quyền lấy một thứ hữu nghị viển vông, kiểu như "nhà anh là nhà
tôi".
Phát biểu của Thủ tướng đã nhận được sự đồng tình ủng hộ và hướng ứng
nhiệt liệt của dư luận trong và ngoài nước. Phải chăng động đến tham
vọng bành trướng lãnh thổ khó nuốt trôi, Thời báo Hoàn Cầu mới tìm cách
công kích, chia rẽ nội bộ người Việt trước thời điểm quan trọng ảnh
hưởng đến tương lai của đất nước?
Hơn nữa một cơ quan truyền thông chính thống, tuyên truyền của đảng Cộng
sản Trung Quốc lại mỉa mai nước láng giềng là "con tốt" của Mỹ liệu có
phải cái tát tờ báo này nhằm vào chính những tuyên bố thiện chí lãnh đạo
cấp cao của họ vẫn nói rằng Bắc Kinh tôn trọng láng giềng, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nước khác? Thời báo Hoàn Cầu tuyên truyền
xuyên tạc, nói trắng dã tâm bành trướng Biển Đông bằng mọi giá: "Nỗ
lực của Washington đối với Việt Nam sẽ phá vỡ các khuôn khổ an ninh khu
vực dễ bị tổn thương, gây nguy hiểm đến tính toàn vẹn với chủ quyền lãnh
thổ của Trung Quốc".
Trước Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Bộ trưởng Đinh La Thăng
cũng trở thành mục tiêu công kích của Thời báo hoàn Cầu.
Nói cho đúng hơn, Thời báo Hoàn Cầu lo sợ tham vọng độc chiếm Biển Đông
sẽ khó thành khi nó không chỉ xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán của các nước láng giềng trong đó có Việt Nam, mà còn muốn
hất cẳng Mỹ ra khỏi khu vực. Tham vọng khó đạt, Thời báo Hoàn Cầu quay
sang la làng rằng Mỹ đang lôi kéo các nước khác "kiềm chế" Trung Quốc?
Hợp tác bình thường giữa Việt Nam và Mỹ không nhằm vào một bên thứ 3, và
đương nhiên chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quyền và lợi ích hợp pháp
của Việt Nam thì người Việt phải bảo vệ đến cùng, dù đối thủ có hung hãn
tới đâu đi nữa - PV.
Thời báo Hoàn Cầu lên giọng dọa dẫm: "Những gì Trung Quốc sẽ phải đối
mặt với nước láng giềng phương Nam (Việt Nam) có lẽ sẽ là một tình
huống còn căng thẳng, mãnh liệt hơn những gì đã trải qua trong năm 2014"?! Nhưng rồi tờ báo xúi giục Trung Nam Hải: "Không
giống như Mỹ trắng trợn can thiệp vào công việc nội bộ nước khác, Trung
Quốc có thể sử dụng kinh tế, chấp nhận giúp ích Việt Nam nhiều hơn
trong mối quan hệ song phương tích cực". Nếu "dụ dỗ" không xong, Thời báo Hoàn Cầu xúi Trung Nam Hải "có biện pháp trừng phạt nếu Việt Nam liên kết với Mỹ chống Trung Quốc"?!
Tờ báo này tuyên truyền: "Để ngăn chặn Việt Nam tiếp tục ngả về phía
Hoa Kỳ, Bắc Kinh cần phải có lập trường 'mềm hơn một chút' về một số vấn
đề để giảm bớt tình hình căng thẳng ở Biển Đông. Nếu không tình trạng
căng thẳng sẽ ngày một gia tăng, tỉ lệ cược Việt Nam trở thành đồng minh
của Mỹ sẽ tăng lên rất nhiều. Trung Quốc nên phát huy đầy đủ lợi thế
truyền thống như một đối tác lớn của Việt Nam, sử dụng các biện pháp
kinh tế khác nhau, đặc biệt là đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng ở Việt
Nam. Trung Quốc cần phải nỗ lực hơn nữa để thúc đẩy kết nối giữa hai
quốc gia".
* Tựa đề do DLB đặt.
Tuesday, January 27, 2015
QUÂN ĐỘI VIỆT CỘNG
Quân đội Việt Nam 'thua Trung Quốc 20 bậc'
Điều này còn nhằm tăng chất
lượng binh lính của Quân đội Nhân dân trong bối cảnh căng thẳng trên
Biển Đông tăng cao trong thời gian gần đây.
Việt Nam cũng bỏ ra
nhiều tỷ đô la đầu tư vào mua sắm tàu ngầm cùng các dịch vụ phụ trợ từ
Nga và người ta có thể thấy bóng dáng các tàu này trong
video giới thiệu về quân đội Việt Nam nhân 70 năm thành lập hồi tháng 12 năm 2014.
Câu hỏi đặt ra là quân đội Việt Nam được quốc tế đánh giá thế nào.
Cũng
hồi cuối năm ngoái trang Business Insider đã dựa vào một loạt các thống
kê quân sự để đưa ra đánh giá về thực lực quân đội các nước.
Các
thống kê được trích dẫn không tính tới kho vũ khí hạt nhân và cũng không
hạ điểm những nước không có biển và vì thế không có hải quân.
Theo
Business Insider, quân đội Trung Quốc có số binh lính lớn nhất thế giới với hơn 2,2 triệu người đang tại ngũ.
Trung Quốc đứng thứ nhì về chi tiêu quân sự ở mức 126 tỷ và đứng thứ ba về sức mạnh quân sự sau Mỹ và Nga ở đầu bảng.
Việt
Nam với hơn 400.000 quân và 3,3 tỷ đô la ngân sách quân sự xếp thứ 23
trong số 35 quân đội hùng mạnh nhất trên thế giới, trên các nước như Hà
Lan, Tây Ban Nha và Bắc Triều Tiên.
Trong số các nước ASEAN có mặt
trong danh sách, Indonesia trên Việt Nam bốn bậc ở vị trí 19 và Thái
Lan kém Việt Nam một bậc đứng thứ 24.
Các nước khác có tranh chấp
biển đảo ở châu Á Thái Bình Dương xuất hiện trong danh sách là Hàn Quốc
(đứng thứ 9), Nhật Bản (thứ 10) và Đài Loan (thứ 17).
Hoa Kỳ mạnh nhất
Quân đội Hoa Kỳ với ngân sách lớn nhất thế giới, hơn 612 tỷ đô la, đứng đầu danh sách quân đội mạnh, theo sau là Nga.
Sau Trung Quốc ở vị trí thứ ba là Ấn Độ đứng thứ tư và Anh ở vị trí thứ năm.
Xếp ở các vị trí sáu, bảy và tám là Pháp, Đức và Thổ Nhĩ Kỳ.
Business Insider nói hàng không mẫu hạm có vai trò quan trọng và chỉ có rất ít nước sở hữu vũ khí này.
Họ nhận xét: "Hàng không mẫu hạm đóng góp đáng kể cho sức mạnh toàn diện của quân đội mỗi nước.
"Những con tàu khổng lồ này cho phép các quốc gia mang sức mạnh vượt biên giới và ra phạm vi toàn cầu.
"Chúng
là những căn cứ hải quân và không quân di động. Hàng không mẫu hạm còn
mang theo khí cụ bay vốn thay đổi căn bản việc do thám trên toàn cầu."
Business
Insider cũng nói Bắc Triều Tiên không mạnh như người ta tưởng vì hầu
hết trong số 78 tàu ngầm của họ đã lạc hậu và không còn sử dụng được.
Trang này cũng nói số liệu mà họ dùng được cập nhật tới tháng Tư năm 2014 và theo đó Việt Nam chỉ có một tàu ngầm.
Thực tế, Việt Nam đã nhận ba trong tổng số sáu tàu ngầm hạng kilo đặt từ Nga tính tới cuối năm 2014.
Gần đây cũng có tranh luận về số tướng lĩnh tại ngũ trong Quân đội Việt Nam.
Việt
Nam hiện có 489 tướng, theo theo thống kê của Quốc hội mà trang
infonet.vn đăng tải, đông hơn hẳn so với con sô khoảng 190 tướng của
Trung Quốc, 200 tướng của Anh và 300 tướng của Hoa Kỳ.
Quân đội VN "thua Tàu khựa 20 bậc"?: TẦM BẬY!!!
Tay Súng Khẩu Cầm (Danlambao) - BBC chạy tít Quân đội Việt Nam "thua Trung Quốc 20 bậc" sau khi lấy phân tích của đám Thương Mại Bên Trong - bú sì nét in sai đờ
để làm cơ sở dữ liệu. Đã biểu là đừng tin tụi đế quốc, nhất là đám chỉ
biết buôn bán thì làm gì thấy được sức mạnh của quân đội anh Phành Quang
Thung!? Xem nè:
Thương Mại Bên Trong hay Bên Trong Thương Mại gì gì đó nó lấy quân số
làm chuẩn: Tàu cộng có 2,2 triệu tên cầm súng. Việt cộng thì có 400.000
quân cầm quần. Vậy là thua!
Quân của Phành tượng đái tuy ít nhưng... tướng nhiều. Tụi Tàu ô nó có
hơn 2 triệu quân mà chỉ có 190 thằng tướng cướp, trong khi dưới trướng
của Phành tướng quân có tới 489 mạng mang sao. Đó là chưa nói đến cái
đám cuốc hộ dật dờ, tiết kiệm ba cái thứ sao vàng năm cánh mộng hồn
quanh, làm anh em của đại tướng tâm tư quá cỡ thợ mộc, chứ không thì
tướng của Phành ta lên đến... bạc ngàn.
Nhưng so con số tướng tá cũng chưa nói lên được cái phẩm chất vượt trội
của quân đội nhăn răng ta. Phải nhìn đại tướng họ Phành, người đứng đầu
đoàn quân đã từng đánh cho sặc máu đồng bào miền Nam, mới thấy được phẩm
chất rất phành có một không hai - từ dung nhan cho đến dáng ngồi - mới thấy cái lượng 2,2 triệu tên giặc cờ đen là đồ bỏ:
Rồi cái đám Thương Mại Bên Trong lại còn lấy cái chuẩn... tiền để mà so
đo. Thiệt hết biết à nghe. Nó chỉ biết nhìn vào con số 3,3 tỷ đô la ngân
sách của quân đội nhăn răng ta để rồi cho quân ta đứng tít dưới đít
quân Tàu tới 20 bậc! Nó không biết rằng thời đại ngày hôm nay, dưới sự
lãnh đạo thiên tài của Phành Đại Tướng, sức mạnh của quân đội không nằm ở
sở trường nhắm thẳng quân thù mà bắn ở sa trường mà ở cái nghề rút ruột công trình, đội vốn dự án ở thương trường. Rõ!?
Chưa rõ thì coi nè: nội năm 2014 thôi đoàn quân của đại tướng kiếm được
292 nghìn tỷ đồng, tăng 18% so với năm trước. Nội thằng Viettel thôi nó
cũng mần được đâu 197 tỷ đồng. Rồi nào là Tổng cty Xây dựng Lũng Lô,
Tổng cty 319, Tổng cty Đông Bắc, Tổng cty Đầu tư phát triển Nhà và Đô
thị, Tổng cty Trực thăng Việt Nam, Tổng cty Xây dựng Trường Sơn, Tổng
cty 789, Tổng cty Xây dựng công trình Hàng không ACC... toàn là tổng
không hà! đứa nào cũng làm ăn phát đạt, rổn rảng tiền Hồ. Giặc nào vào
ta đem tiền ra quăng cho nó lượm chứ cần gì phải bắn cho nó bất nhân. Ưu
việt là chỗ đó. Cứ nhìn phong cách đại gia của đại tá thích cầm tiền
hơn cầm súng Phùng Quang Hải, xếp sòng sư đoàn làm ăn 319 là thấy ngay
sức mạnh ưu việt của quân đội nhăn răng ta:
Sau cùng, quân ít quân nhiều, tướng nhiều tướng ít, tiền bạc rủng rỉnh
hay nghèo rớt mồng tơi cũng là thứ yếu. Đây mới là vũ khí chiến lược làm
nên sức mạnh của quân đội nhăn răng ta mà chỉ nhờ vào thiên tài tượng
đái Phành Quanh Thung quân đội ta nhăn răng ra mới có:
Cứ thấy kẻ thù là ôm chầm nó làm bạn; cứ thấy đám dân đen có xu thế
ghét kẻ thù thì cứ lôi đầu chúng ta mà mắng, bắt, tù. Bất chiến tự nhiên
thành.
Có ông bộ trưởng quốc phòng nào mà được quân xâm lược nó tiếp đại trọng
thị!? Quân đội như vậy không mạnh nhất hành tinh thì còn ai khác?!
BBC đăng bài bậy bạ như vậy tượng đái tâm tư lắm đó!!!
BBC đăng bài bậy bạ như vậy tượng đái tâm tư lắm đó!!!
QUÝ THỂ * MÙI CỌP
Mùi Cọp
Anh ơi!
Tôi giả vờ ngủ.
Chúng tôi còn giận nhau. Thực ra tôi biết nàng trở về nhà
vào lúc 12 giờ khuya. Nàng cởi bộ áo lấp lánh kim tuyến treo lên móc.
Nàng vào phòng tắm. Tôi nghe tiếng chiếc gương xen nước chảy rào rào.
Tôi nghe cả tiếng cửa phòng tắm mở. Nàng nhẹ nhàng lên giường nằm cạnh.
Tôi nghe tất cả, nhưng tôi thấy lúc chưa phải để giải hòa. Chúng tôi đã
giận nhau hơn một tuần nay.
– Anh đi ngủ gì sớm thế? – Nàng khẽ chạm vào vai tôi rồi nói nghe như một lời mời mọc.
– Mình ơi em vừa tắm xong – Nói xong nàng đột ngột lôi hẳn tôi quay lại. Nàng nói:
– Hôm nay em sẽ dành cho anh một sự ngạc nhiên !
– Anh đi ngủ gì sớm thế? – Nàng khẽ chạm vào vai tôi rồi nói nghe như một lời mời mọc.
– Mình ơi em vừa tắm xong – Nói xong nàng đột ngột lôi hẳn tôi quay lại. Nàng nói:
– Hôm nay em sẽ dành cho anh một sự ngạc nhiên !
Nàng ôm lấy tôi, mùi hương rất lạ thôi thúc tôi. Đó là mùi
hoa hồng tôi chưa thấy nàng dùng đến bao giờ. Tôi tỉnh ngủ hẳn. Trong
lòng tôi hiện tại là một cô gái mềm mại, dịu dàng và đặc biệt khác mọi
lần là một mùi hương vô cùng quyến rũ. Mùi thơm đánh thức mọi giác quan.
Nàng biến thành một phụ nữ hoàn toàn mới đối với tôi, và có lẽ đối với
cả nàng. Tôi thấy trong cử chỉ của nàng một niềm vui thầm kín. Mấy ngày
hờn trách nhau trước đây như tan biến đi cả.
Cuộc làm lành diễn ra như thế. Luôn luôn nàng tỏ ra là kẻ
biết điều, còn tôi bao giờ cũng vẫn là một người cố chấp. Một tuần nay
chúng tôi giận hờn nhau. Sự việc khá đơn giản.
Tôi bảo nàng bỏ nghề. Nàng không chịu. Tôi là giáo sư dạy
toán tại một trường đại học danh tiếng. Còn nàng là một diễn viên và là
người dạy thú. Nàng chuyên huấn luyện và biểu diễn với cọp. Kể về tiếng
tăm nàng lừng lẫy hơn tôi rất nhiều. Thu nhập của nàng cũng gấp bội
tôi. Nhưng tôi không chịu nổi cái nghề kỳ dị của nàng. Nàng nói: “Em yêu
lũ cọp. Chúng nó yêu em và em yêu nghề. Bỏ nghề này ra em biết làm gì?
Thư ký hay bán hàng ư? Tìm một chỗ làm khó lắm. Nhưng còn tìm một thư ký
thì dễ, còn tìm một người dạy thú như em thì rất khó. Em yêu cái không
khí của gánh xiếc. Em sống quen trong cái khung cảnh này rồi”. Nàng nói
gì thì nói, tôi vẫn thấy cái nghề này nó kỳ quái thế nào.
Kể cũng lạ cho cuộc hôn nhân này. Chúng tôi có nghề nghiệp
và tính cách hoàn toàn khác hẳn nhau. Trước khi thành hôn, đã có người
bảo chúng tôi không làm sao được hạnh phúc bên nhau lâu dài được đâu.
Lúc đó cả tôi và nàng bất chấp mọi lời khuyên. Nàng có một ý tưởng ngộ
nghĩnh mà khi đó tôi cũng cho rằng vô cùng thú vị. Nàng nói con chúng ta
sẽ dũng mãnh như hổ và thông tuệ như anh!
Tôi xin kể lại buổi đầu gặp nhau. Lúc đó tôi chếnh choáng
men say vì mấy cốc rượu của sinh viên trong buổi lễ phát thưởng cuối năm
học. Có một sinh viên đưa ý kiến và được các bạn tán thành ngay: hay là
chúng ta kéo nhau đi xem xiếc. Lần cuối cùng trong đời tôi đến rạp xiếc
là lúc tôi lên chín. Từ đó đến nay tôi không để ý gì về loại hoạt động
này.
Chúng tôi bước vào rạp xiếc vừa đúng lúc một tràng pháo to
hào hứng nổi lên. Nhiều người đứng lên tặng hoa cho một cô gái đang rực
sáng trong bộ áo xiếc đầy kim tuyến. Một ngọn đèn rất sáng từ trên cao
chiếu thẳng vào nụ cười rạng rỡ của nàng. Cạnh nàng là ba con cọp to lớn
nằm phủ phục. Thú thật cả đời tôi chưa bao giờ chứng kiến một cảnh
tượng hùng tráng đến thế. Một cô gái nhỏ nhắn khuất phục được ba chúa
sơn lâm! Bỗng một sinh viên ấn vào tay tôi bó hoa cẩm chướng màu huyết
dụ nó đẩy tôi: lên tặng hoa người đẹp đi thầy. Lúc đó thực tình tôi như
một cái máy. Lần đầu tiên trong đời tôi lên sân khấu tặng hoa cho một
diễn viên, mà lại là diễn viên dạy thú.
Có lẽ nàng thấy bộ mặt ngờ nghệch và cặp mắt kính cận thị
quá dày của tôi hoàn toàn lạc lõng giữa một khung cảnh ồn ào đầy sự kích
động nên nàng tặng cho tôi một nụ cười: “ Chắc đây là lần đầu tiên ông
đến xem chúng tôi biểu diễn?” Lại gần, tôi thấy nàng rất đẹp. Một khuôn
mặt thanh tú, mái tóc mềm óng ả như tơ. Có một điều mà tôi cho là khác
thường là khuôn mặt nàng rất tươi nhưng hoàn toàn không một chút phấn
son. Có lẽ nàng còn ánh lên trong ánh hào quang rực rỡ của sự thành
công. Phải thú nhận rằng nghề nghiệp của tôi dù thành công đến mấy tôi
cũng không bao giờ hy vọng có những giây phút được nhiều người ngưỡng mộ
như thế này. Định mệnh đã xui khiến tôi nói với nàng một câu mà từ
trước đến nay tôi chưa bao giờ thốt ra với một người phụ nữ nào. “Tôi vô
cùng hâm mộ tài nghệ của cô. Sau buổi diễn, nếu cô vui lòng, – chúng ta
sẽ gặp nhau tại…”. Nàng nói rất khẽ: “Xin hân hạnh”.
Sau đó chúng tôi còn gặp nhiều lần. Chúng tôi thích nhau vì
cảm thấy trong việc này có cái gì là lạ. Theo cách nói của nàng thì đấy
là một cuộc kết hợp vô tiền khoáng hậu giữa sức mạnh và trí tuệ. Cuối
cùng chúng tôi quyết định đi tới hôn nhân. Lễ kết hôn của chúng tôi thật
đáng nên kể lại. Bạn phía tôi gồm toàn thượng lưu trí thức. Mấy ông bà
này rất tiết kiệm nụ cười và lời nói đùa. Trái lại phía nàng là cả một
rừng náo nhiệt. Họ uống rượu, nói cười và phá phách như điên. Tôi bắt
đầu yêu mến cái thế giới xiếc từ buổi gặp gỡ này. Anh chàng làm hề tung
hứng lấy bốn chiếc đũa biểu diễn ngay trên bàn tiệc. Anh chàng ảo thuật
lấy chiếc khăn ăn đậy lên tô xúp rồi hô: biến. Chẳng có cái gì biến ra
cả. Chỉ có biến ra một trận cười hào hứng. Mấy chàng hề tha hồ chọc
cười. Quý vị giáo sư lần hồi cũng trút bỏ bộ áo đạo mạo tham gia vào
cuộc vui. Rượu chảy như suối. Một ông giáo sư cao hứng đứng lên hát tặng
cô dâu và chú rể một bài. Bài hát Người đẹp và quái vật. Ông này muốn
ám chỉ quái vật là tôi? Tôi thật xấu trai và có thể bảo quê mùa. Một phụ
nữ chuyên diễn màn nhào lộn hát thực to: “Đêm động phòng ông giáo coi
chừng bị hổ vồ!” Anh chàng biểu diễn trên lưng ngựa cũng gào to: “Cô dâu
nhớ mang roi dạy hổ và phòng. Nếu “nó” làm ăn bôi bác thì quất cho mấy
roi!”.
Đêm tân hôn cũng không bị hổ vồ cũng không bị quất roi nào.
Nàng cao lớn và hùng dũng trên sàn diễn bao nhiêu, lại nhỏ nhắn và mềm
mại trong lòng tôi bấy nhiêu. Tôi cũng không ngờ rằng tính tình nàng lại
dịu dàng đến thế. Nàng bảo: “Người dạy thú cần nhất là phải yêu thương
và dịu ngọt với chúng”. Có lẽ tôi hiện là một con thú được nàng yêu
thương chiều chuộng đây.
Có một điều mãi mãi còn lại trong tôi sau đêm tân hôn là từ
thân thể nàng và rõ nhất là trong mái tóc nàng có một mùi nồng hăng
hắc. Sau này tôi mới biết đó là mùi cọp. Một mùi không thể nào quên
được.
Thời kỳ trăng mật và những năm tháng qua đi. Chúng tôi sống
với nhau khá hạnh phúc. Chúng tôi có rất ít thời gian gần nhau. Mùa
đông nàng lưu diễn. Tôi thường đi đây đó dự hội nghị, hội thảo, có khi ở
nước ngoài. Vì thế giây phút gặp nhau trong ngày đối với chúng tôi hết
sức quý giá. Còn nghề của nàng không bao giờ hết những chuyện lý thú. Có
hôm nàng kể chuyện con gấu Tô Tô không chịu ra diễn. Chẳng ai hiểu vì
lẽ gì. Sau mới biết hôm đó đúng là ngày loài gấu ngủ đông. Chuyện con
Đác Lắc, một con cọp cái dài hơn hai mét và nặng hơn một tạ rưỡi mà theo
nàng là một con vật duyên dáng nhất là vừa sinh lứa con đầu lòng.
Có
hôm nàng kể một chuyện cảm động. Một con ngỗng trong khi trình diễn rủi
ro bị con ngựa dẫm phải. Trước lúc chết nó dang đôi cánh rộng ôm lấy chủ
nó. Chủ nó khóc sướt mướt thề rằng suốt đời không bao giờ huấn luyện
một con ngỗng nào nữa. Có hôm nàng trao cho tôi xem một bức thư tỏ tình
của một anh chàng nào đó giấu trong bó hoa trao tặng nàng…
Không biết các bạn đồng diễn có ai chế nhạo nàng về việc
chọn một ông giáo làm chồng hay không. Còn tôi thì bị không ít lời chế
diễu. Cô thư ký trẻ đẹp và chưa chồng ở trường tôi hỏi rằng có bị vợ bắt
nhảy qua vòng lửa hay không? Có cô càng sỗ sàng thách thức hỏi tôi con
cọp cái đó mỗi khi lên giường ngủ nó có cào xé và kêu gào hay không. Đôi
khi chúng tôi ra phố, thiên hạ nhìn vợ chồng chúng tôi với cặp mắt tò
mò. Tôi rất khó chịu. Về sau tôi không đi đâu với nàng nữa.
Chỉ có một lần tôi thấy nàng tỏ ra khổ sở, lúng túng về cái
nghề đặc biệt của mình. Đó là lần chúng tôi đi dự sinh nhật một người
bạn. Con chó của nhà chủ tỏ ra thân thiện với mọi người chỉ trừ có
nàng. Nó sủa vang và còn muốn cắn xé. Quý bà nhìn nhau như thầm bảo: kìa
xé mãnh hổ đang địch quân hổ! Lần đó tôi thấy nàng rất khó chịu và giục
tôi về sớm.
Đến nhà nàng nói: “Chắc anh khổ vì cái mùi cọp của em lắm
phải không?” Đây là lần đầu tiên tôi nghe đến đúng tên cái mùi hăng hắc
này. Tôi trả lời để an ủi nhưng chắc không thực với lòng mình. “Không,
hoàn toàn không, anh yêu em và yêu luôn cái mùi cọp này”. Nàng cười bảo:
“Anh nói dối. Em biết anh không thích. Tháng trước anh viện cớ giường
chật đòi ngủ riêng. Mọi người đàn bà được phép thơm tho còn em thì
không”. Tôi hỏi tại sao, nàng nói “Con vật, nhất là cọp, nó không nhận
biết bằng mắt mà bằng mũi. Một mùi lạ có nghĩa là một kẻ thù!”. Nàng nói
với một giọng ân hận và buồn buồn: “Em biết anh rất khó chịu vì em đem
cái mùi của ác thú vào tận phòng ngủ…”
Đêm hôm sau cái đêm nàng làm lành với tôi, nàng gặp nạn.
Tôi đến nơi thì nàng đã qua đời. Tôi đau đớn cùng cực ôm lấy nàng. Trong
làn tóc nhung mượt và đen thẫm, tôi còn nghe thoang thoảng một mùi
hương hoa hồng mà nàng đã tắm hôm qua! Dưới ánh đèn thật sáng và trong
bộ áo xiếc thấm đầy máu, khuôn mặt nàng yên tĩnh như đang trong một giấc
mơ. Tôi khóc. Cả đời tôi không bao giờ khóc như hôm nay. Tôi thét lên
thật to: “Tại sao em biết rõ hơn ai hết mà em vẫn làm thế? Vì sự ích kỷ
của tôi đấy ư?”. Tôi muốn gieo mình xuống chín tầng địa ngục để ăn năn.
Ngày hôm sau ông chủ gánh xiếc cho tôi biết tất cả sự việc
diễn ra trong cái đêm hãi hùng ấy: “Con cọp Đác Lắc mấy ngày qua nó bệnh
hoạn và trở tính hung dữ. Hình như nó thấy chồng nó bị đem nhốt qua
chuồng một con cọp cái khác. Tôi có một linh cảm về một chuyện gì đó nên
dặn cô ấy: hay là tối nay bỏ tiết mục xiếc cọp. Nhưng cô ấy cương quyết
và rất tự tin nói với tôi: “Không, nhất định không. Người dạy thú không
cho phép mình nhút nhát!” Rồi nàng kiêu hãnh tiến ra sàn diễn trong một
tràng pháo tay cỗ vũ nồng nhiệt. Ba con thú tỏ ra phục tùng tuyệt đối
dưới làn roi điều khiển của nàng. Theo đúng kịch bản.
Con Đác Lắc chuẩn
bị nhảy qua vòng lửa. Nàng đứng trước mặt nó và quất một roi vào không
khí, con thú nhảy lên chiếc ghế cao. Nàng bước tới giơ cao vòng lửa.
Bỗng nhiên tôi thấy con thú thu mình lại. Nó nhìn nàng bằng cặp mắt kỳ
lạ. Tôi cho tay vào cây súng dưới áo mở nắp bao da. Thật là nhạy bén và
bình tĩnh đến rợn người. Cô ấy nhận ra tất cả. Cô ấy biết con thú sắp
sửa tấn công mình. Cô ấy cũng đã nhận ra việc tôi định dùng súng giết
con thú. Cô thét lên: “Đừng bắn!…” Cũng là lúc con Đác Lắc lao vào người
cô như một khối đá. Trễ rồi, cô ấy đỗ xuống sàn diễn. Con ác thú say
máu quay lại. Tôi nổ súng. Tôi nhào đến. Chiếc áo trắng lấp lánh kim
tuyến loang máu. Cả rạp như đông cứng lại trong sự hãi hùng, tôi chỉ kịp
nghe cô ta thì thào rất yếu: “Con Đác Lắc chết rồi sao? Tội nghiệp nó,
nó còn bốn con dại. Không phải lỗi tại nó. Lỗi tại tôi…”
Qua giây phút hãi hùng đó, ban nhạc sực tỉnh, chơi một khúc
quân hành rời rạc. Theo truyền thống nghề xiếc, bất cứ lâm vào tình
trạng nào vẫn tiếp tục trình diễn. Nhưng không còn ai muốn xem, không
còn ai muốn diễn. Cuối cùng ban nhạc cũng ngừng. Rồi thì cả rạp yên lặng
như một nhà mồ. Mọi người đều trông tin từ bệnh viện. Một giờ sau nàng
qua đời. Tôi lê ra sàn diễn nghẹn ngào báo tin. Khán giả không ai chịu
ra về. Bao nhiêu là hoa đặt vào nơi nàng đã ngã xuống. Mấy anh hề hai
mắt đỏ hoe thất thểu ra sân…
ZHANG DUN * TRUNG QUỐC
Lãnh đạo Trung Quốc ‘cầm chắc chuôi dao’ chĩa vào đối thủ
Zhang Dun, Epoch Times & Matthew Robertson, Epoch Times 25 Tháng Một , 2015
Ông
Chu Vĩnh Khang, cựu thành viên Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng
sản Trung Quốc phụ trách lĩnh vực An ninh, phát biểu tại một cuộc họp ở
Bắc Kinh, Trung Quốc, ngày 18/ 5/2012. (STR / AFP / Getty Images)
Đối
với việc thanh trừng quan chức An ninh hàng đầu Chu Vĩnh Khang, lãnh
đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình dường như xử lý dứt khoát cựu
quan chức An ninh này và ám chỉ rằng các quan chức khác ở cấp cao hơn
sắp bị loại bỏ.
Các thông điệp này, được chuyển
tải trực tiếp hoặc được diễn giải sau đó bởi các nhà phân tích, đã được
thể hiện trong các phát biểu gần đây của ông Tập tới các cán bộ của Ủy
ban Chính trị và Pháp luật (PLAC), cơ quan kiểm soát toàn bộ bộ máy an
ninh nội địa của nhà nước Trung Quốc. Động thái này tượng trưng cho một
phán xét công khai đầu tiên về hậu quả quyền lực của ông Chu Vĩnh Khang
đối với bộ máy An ninh, một bộ máy được khẳng định rộng rãi là trung tâm
quyền lực thứ hai trong chế độ.
Nhiều cán bộ của Ủy ban Chính trị và Pháp luật thở dài: “lâu lắm rồi tôi mới nghe đến cụm từ chuôi dao”.
Nhân dân nhật báo
Ông
Chu, người đứng đầu Ủy ban Chính trị và Pháp luật từ năm 2007 đến năm
2012 (sau 5 năm là người đứng đầu Bộ Công an), trên thực tế đã được bổ
nhiệm vào vị trí này nhờ cựu thủ lĩnh Đảng Giang Trạch Dân. Ngoài việc
tiếp bước ông Giang thực hiện các hoạt động bạo lực chống lại nhóm tâm
linh Pháp Luân Công, ông Chu đã góp phần xây dựng cơ quan này trở thành
một đế chế nhiều chân rết, hầu như không chịu ảnh hưởng từ các chỉ thị
của lãnh đạo Hồ Cẩm Đào.
Sự lớn mạnh của hệ
thống này cũng được dựa trên phương châm “duy trì ổn định” bằng những
động cơ tai ác, chẳng hạn, đáp trả các cuộc biểu tình bằng một lực lượng
áp đảo, khiến sự tức giận đối với chế độ càng tệ hơn và dẫn đến nhiều
cuộc biểu tình hơn, nhờ đó lại biện minh cho việc sử dụng nhiều lực
lượng hơn nữa.
“Chuôi dao”
Như
là một phần trong nỗ lực phá bỏ hệ thống quyền lực này của ông Chu, ông
Tập đã chủ trì một hội nghị lớn vào ngày 20/1 tại Bắc Kinh, tại đây ông
Tập đã nói về sự cần thiết phải “cầm chắc chuôi dao” khi nhắc đến hoạt
động của Ủy ban Chính trị và Pháp luật, nơi ông Chu từng tận hưởng quyền
lực vô biên của mình.
Một giải thích hữu ích được đăng trên tờ Nhân dân nhật báo
vào cùng ngày đã làm sáng tỏ những lời nhận xét của ông Tập là rất
nghiêm trọng - trong đó tác giả nhắc đến ông Tập bằng biệt danh đầy cung
kính, “Tập Dada”, có nghĩa là “Bác Tập”.
Tác
giả (không được nêu tên) viết: “Nhiều cán bộ của Ủy ban Chính trị và
Pháp luật thở dài: “lâu lắm rồi tôi mới nghe đến cụm từ chuôi dao”.
Bài báo tiếp tục giải thích rằng cụm từ này xuất phát từ ông Mao Trạch
Đông, nhà lãnh đạo cách mạng của lực lượng nổi dậy Cộng sản Trung Quốc
và là Chủ tịch đầu tiên của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
“Tại thời điểm đó, cuộc đấu tranh giai cấp rất là dữ dội, mâu thuẫn giai cấp rất nổi cộm, và ông đã nhấn mạnh cụm từ chuôi dao để chỉ ra tính chất giai cấp của hệ thống chính trị - pháp lý”.
Lãnh
đạo Đảng Cộng sản Tập Cận Bình chủ trì một hội nghị ở Bắc Kinh về công
tác An ninh vào ngày 7/1. Ông Tập dường như đang nắm lấy quyền lực của
bộ máy chính trị-tư pháp (Ảnh chụp màn hình / Tân Hoa Xã).
Vào
tháng năm 1926, khi ông Mao chủ trì một hội thảo ở Quảng Châu về Cách
mạng nông nghiệp, ông ta phát biểu: “Làm cách mạng là dao đấu với dao,
súng đấu với súng. Để lật đổ lực lượng dân quân của địa chủ, chúng ta
cần có quân đội nông dân của chúng ta. Nếu không cầm được chuôi dao
trong tay thì sẽ có hỗn loạn”.
Tác giả của tờ Nhân dân nhật báo
đã nêu rõ những ẩn ý của ông Tập khi nhắc đến cụm từ này: Ông Tập Cận
Bình phải là người có quyền kiểm soát các công cụ cưỡng chế của Đảng.
Tác
giả viết: “Hệ thống chính trị - pháp lý là cơ quan quyền lực của dân
tộc; nó có khả năng hạn chế quyền tự do của người dân và tịch thu tài
sản cá nhân; nếu nó rời khỏi sự kiểm soát của Đảng và nhân dân, mà rơi
vào tay của một người với những động cơ thầm kín, thì nó sẽ trở thành
một vũ khí sắc bén gây hại đối với Đảng và nhân dân”.
Âm mưu
Rất bất thường đối với một bài báo đăng trên tờ Nhân dân nhật báo,
bài báo này đã đề cập đến các cáo buộc lạm dụng quyền lực của ông Bạc
Hy Lai và ông Vương Lập Quân, những người điều hành thành phố Trùng
Khánh ở phía tây nam Trung Quốc như là “đế chế của gia đình họ”, theo
lời tác giả.
Kể từ năm 2012, các báo cáo và chuyên mục của Epoch Times (Đại Kỷ Nguyên),
đặc biệt trong phiên bản tiếng Trung, đã bàn về một âm mưu thâu tóm
quyền lực của ông Chu Vĩnh Khang và ông Bạc Hy Lai cùng những người khác
phía sau hậu trường. Epoch Times đã nhận định rằng ông Giang
Trạch Dân, cựu lãnh đạo, đã chỉ đạo âm mưu này, trong khi ông Tăng Khánh
Hồng, tay sai của ông Giang và là người vận động hành lang, đề ra các
âm mưu chi tiết.
Bài phát biểu mới đây của ông Tập Cận Bình tượng trưng cho phán xét công khai đầu tiên về hậu quả quyền lực của ông Chu Vĩnh Khang trong bộ máy an ninh.
Các bài báo của Epoch Times,
dựa trên các thông tin chi tiết mà những người trong Đảng cung cấp vào
thời điểm đó, đã cho biết, theo kế hoạch ban đầu, ông Bạc Hy Lai sẽ thay
thế ông Chu Vĩnh Khang làm người đứng đầu bộ máy an ninh, và sau đó,
khi thời gian chín muồi, sẽ hạ bệ ông Tập Cận Bình để tóm lấy quyền lực
cao nhất trong Đảng. Điều này là khả thi vì chủ tịch của Ủy ban Chính
trị và Pháp luật có quyền lực to lớn theo hệ thống cũ, bao gồm: bộ máy
công an, cảnh sát vũ trang nhân dân (khoảng một triệu quân), và các lực
lượng phụ trợ khác.
Nội dung của âm mưu này tới
nay đã được xác nhận một phần, gần đây nhất với các bài báo trong giới
báo chí Hồng Kông và Đại Lục về việc ông Chu Vĩnh Khang và ông Bạc Hy
Lai đã có những cuộc họp bí mật nhằm thảo luận về một đường lối chính
trị thay thế, dựa trên lý luận giai cấp của chủ nghĩa Mao cứng rắn, thay
vì các chính sách “cải cách và mở cửa
” theo hướng thị trường của ông Đặng Tiểu Bình. Tin tức cho hay họ đã
định “làm việc lớn”. Các nhà phân tích cho rằng các bài báo trên nhằm ám
chỉ rằng hai nhân vật này bị cáo buộc có âm mưu thâu tóm quyền lực.
Hiện
giờ, các nhà phân tích nghi ngờ rằng ông Tập Cận Bình đang mài dao cho
một mục tiêu mới: Ông Giang Trạch Dân. Một điều kiện tiên quyết cho bất
kỳ động thái nào quan trọng cỡ đó, tất nhiên, là việc nắm quyền kiểm
soát chặt chẽ đối với cả quân đội và bộ máy An ninh nội địa. Với việc
thanh trừng các quan chức quân sự cấp cao từ năm ngoái và năm nay, và
việc củng cố hệ tư tưởng hiện nay đang được áp dụng cho ngành An ninh,
ông Tập dường như đang tiến hành những thu xếp đúng như vậy.
Nguồn: http://vietdaikynguyen.com/v3/30853-lanh-dao-trung-quoc-cam-chac-chuoi-dao-chia-vao-doi-thu/
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 348
LÊ HẢI LĂNG * CỘNG SẢN NẰM VÙNG
Lê Hải Lăng (Danlambao)
- Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, gia đình ba mẹ của bà Hai Xu
thuộc dạng giàu có nhất trong huyện này. Mấy cái tiệm chạp phô trong chợ
thuộc sở hữu ông Tổng Trương cho thuê. Hồi đó ông Tổng nổi tiếng là tay
cự phách về buôn bán và đầu tư đất đai. Ông bỏ tiền ra thuê người khai
khẩn những khu đất hoang phế. Bạn bè ông ai cũng cười nhạo báng. Nhưng
dần dà dân cư tăng trưởng, đất đai có giá ông trúng to. Ông có hai đứa
con. Đứa con trai đậu xong cái bằng Thành chung bỏ theo kháng chiến rồi
tập kết ra Bắc. Còn lại đứa con gái là Hai Xu.
Khi ông bà Tổng bỏ tiền của ra yểm trợ chính phủ trong công trình xây
dựng nông thôn, cũng là thời gian ông phát giác ra con gái mình là cán
bộ hoạt động nằm vùng. Đã bao lần ông khuyên răn con từ bỏ nhưng Hai Xu
quyết liệt một là thủ tiêu cha mẹ, hoặc cha mẹ để yên cho Hai Xu. Không
có cách nào khác, ông bà buồn bã đau bệnh mà chết sớm. Dân chúng trong
các làng lân cận vẫn nhớ tới chiếc cầu tre, cái dốc trên bờ đê, cái cột
mốc ở bến đò, cái bình phong đình miếu không nhiều thì ít có bàn tay vị
tha của ông Tổng.
*
Hai Xu ngồi đu đưa trên chiếc võng đan bằng dây dứa với mây. Bà ôn lại
khúc phim gia đình thời vàng son. Mắt đong đưa nhìn ra con đường cái dẫn
lối vào chợ. Chiếc xe bộ đội rú ga chạy để lại một vùng khói đen. Vài
ba cái xe hơi từ hướng tỉnh chạy qua rồi mất hút. Những đám bụi cuồng
cuộn theo gió thổi vào mặt Hai Xu. Bà dụi mắt nhìn tỉ mỉ căn nhà. Bức
tường nắng mưa loang lổ. Cái giường ngủ bốn cái chân xiêu vẹo. Trên bàn
thờ cái chậu nhang lạnh tanh, bên cạnh “Bác” ngồi gọn gàng trong cái
lộng kiếng. Bất giác Hai Xu nhớ ngày hôm nay người đồng chí cách mạng từ
Cam Lộ về thăm. Bà mở miệng kêu con gái:
- Con Hoa mi mô rồi?
- Dạ có tui đây.
Hai Xu bước tới đầu giường dở cái gối mốc meo mồ hôi. Bà lấy tờ bạc giúi
vào tay con Hoa, bảo nó ra chợ mua ít rau cải và cá duội khô về đãi
khách.
Chờ con Hoa ra khỏi nhà. Hai Xu cầm cái gương hình tròn lên soi mặt,
thong thả ngắm nghía, búi lại chùm tóc hai màu. Rồi tìm mặc bộ áo quần
thời kỳ làm Chủ tịch xã cất giữ mấy năm nay. Bà muốn chứng tỏ cho người
cán bộ về vườn tên Ba Nước là bà vẫn còn sáng giá mặc dù đảng đã thải ra
ngoài lề xã hội. Nhìn kỷ trong gương, Hai Xu biết mình có cái môi xệ,
cái lưỡng quyền cao, lại thêm đôi mắt con cú, hai bên thái dương có
nhiều chấm rổ. Nhờ có diện mạo thế này nên mỗi cuộc họp nhân dân ai cũng
ngồi yên nghe bà nói, giọng bà đanh thép không có cái đầu nào dám nhìn
thẳng vào mặt. Cái uy quyền của bà các đồng chí trong huyện ai cũng
khen. Cho nên đảng ra lệnh sai lầm bao nhiêu bà vẫn răm rắp làm theo còn
dân chúng kêu than mặc kệ.
Hai Xu đang loay hoay tìm đôi dép Bình Trị Thiên. Bổng nghe cái giọng quen quen ngoài cửa vọng vào:
- Chị Hai Xu ơi! Ba Nước xuống thăm đây!
- Có tui ra bi chừ.
Hai người tiến lại gần ôm nhau. Con chó vàng ốm trơ xương từ đâu chạy
tới sủa gâu gâu rồi vẩy đuôi chĩa mồm vào cái giỏ mây trên tay người
khách. Hai Xu trườn chân đạp con chó một cái nảy lửa, đoạn mở miệng:
- Nom đồng chí không khác thời kỳ còn hoạt động chi mấy.
Ba Nước cau mày sầm nét mặt:
- Hết thời rồi. Cũng như cái MTGPMN thôi. Gọi nhau bằng tên cho phải
lúc. Chị thấy đó. Cấp lớn ở Bắc đưa vô, đảng chưa vắt chanh. Còn trong
ni từ chủ tịch Mặt trận trở xuống bị vắt khô liệng thùng rác cả rồi.
Hai Xu nhìn Ba Nước mặc cái áo nâu vải thô, cái quần đen thụng đít, thân
hình như cây tre già khẳng khiu. Bà giơ tay phủi bụi trên áo mình như
để khoe lại cái uy phong một thời. Thấy Ba Nước có vẻ lơ là. Hai Xu vội
kéo tay bạn ra phía sau hè. Bà đằng hắng một cái nhìn qua về không thấy
ai kề miệng vào tai Ba Nước:
- Hì! Có mang theo sắn Cùa trong giỏ không hỉ?
- Có chớ. Thời buổi ni đi mô cũng phải lo xa. Mà ăn củ sắn uống nước chè lá xanh thì say ghê gớm lắm đó!
Biết sáng giờ không có một hột cơm trong bụng. Hai Xu nắm lấy cơ hội:
- Ừ phải. Để tui bắt nồi nấu sắn. Ăn để nhớ lại những năm đảng bắt cả
nước ăn khoai nhai sắn. Còn cán bộ như mình thì tha hồ ăn cơm với cá.
- Chị nhắc tui mới nhớ. Hồi ở Đông Hà tui ra chỉ thị bắt nhân dân tăng
gia sản xuất, khai báo kiểm kê gà vịt. Có lắm lần công an bắt được người
ta ăn lén do người chung tổ tố cáo. Thế là có dịp mình bắt học học tập
đem ra tố rồi tịch thu. Cơ quan tỉnh, huyện tha hồ ăn gà tươi khỏi tốn
quỷ nhà nước bồi dưỡng. Nhớ mà thèm.
Hai Xu đứng dậy nhìn ra ngoài trời. Từng đám mây đen nối lớp nhau cuồng
cuộn trong gió. Tiếng chim lạc bầy trên cây ổi bên hè cất tiếng kêu. Bất
giác Hai Xu than vãn:
- Chị cũng như tôi đời sắp tàn vẫn còn cô độc. Mình hy sinh của cải sự
nghiệp cho cách mạng. Rút cục người ta đưa toàn bộ đảng viên miền Bắc vô
thay sạch hết những cán bộ miền Nam như chị em mình.
- Chị còn hơn tôi. Chị có đứa con gái để chị tâm sự. Còn tôi chồng xé
thẻ đảng chạy vô miền Tây đi theo vợ bé. Nghe nói vượt biên rồi. Mấy đứa
con mạnh ai nấy tìm đường nuôi thân.
- Thôi mình lấy sắn ăn cho say rồi ngủ một giấc. Con Hoa tui đi chợ về thì dành ăn bữa tối.
- Tôi còn ở lại chơi những mấy hôm kia mà. Đằng nào cũng một thân một
ngựa “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa” như đảng
vạch ra.
*
Con Hoa đội chiếc nón lá bài thơ rách viền. Nó đang lủi thủi đi trong
chợ. Chợ vỏn vẹn có năm ba cái sạp bằng tre đan, hoặc gỗ mục chắp nối.
Người ta dùng những tấm ni lông gói đồ may vá lại để che mái. Các sạp
bày bán bánh khoai môn, bánh củ đậu, bánh lá gai và đồ ăn lặt vặt như
đậu phộng, muối, tiêu, ớt, sã, nồi đất, chén đất, rổ mây... Dân chúng
các làng lân cận mang rau răm, rau thơm, khoai sắn, dưa leo, bầu bí, con
tôm con cá bắt được trong ao ngoài ruộng về đây họp chợ. Họ chiếm một
khoảnh đất nhỏ rồi theo nhau ngồi chồm hổm bên cái thúng cái đòn gánh
của mình. Trời tháng bảy. Cái nắng trưa hè gay gắt cháy da, chen theo
gió Lào thổi về trộn lẫn mùi hôi của những con cá ươn. Rồi mùi phân
người, mùi nước đái, rác rến rải rắc trong chợ. Tất cả cuộn chập chờn
vào mặt mũi người dân quê không nón, không mũ, không chiếc khăn tay. Họ
chỉ thấy đầy dẫy những bích chương, những lá cờ, những biểu ngữ với hàng
chữ to tướng ca tụng đảng.
Con Hoa nãy giờ đi lui đi lại. Cầm tờ giấy hình “bác” trong tay tính lui
tính tới chưa mua được cái gì. Nó đứng lại nhìn hai vợ chồng người
Thượng chỉ có miếng vải che nơi háng. Người đàn ông Thượng dang chân
ngồi chài bải, tay mở những xâu lá thuốc khô ra trao đổi muối. Con Hoa
để ý tới cái vòng hột cườm trên đùi ông ta. Nó đứng trân người nhìn thật
kỷ con gì lắc lư lạ thường. Hai gò má nó nóng lên. Nó nhớ lại những
ngày mẹ nó chửi rủa đàn bà bỏ nước ra đi là tụi đĩ điếm theo Mỹ đen. Khi
người đàn ông Thượng đứng dậy cũng là lúc con Hoa ngượng ngùng quay
lưng đi tới cái sạp mụ Hương. Thấy mụ ta đang cầm quạt đuổi ruồi. Nó chỉ
tay vào cái thẩu đựng cá:
- Nì mụ Hương! Cá khô duội bao nhiêu một ký?
- Mua mở hàng đi. Tui bán tính con. Thời buổi ni còn hỏi cân với ký, lên trên xã trên huyện mà hỏi.
Con Hoa biết là bà chửi mánh mẹ mình. Nó cảm thấy khó chịu. Nó bốc mấy
nắm cá khô bỏ vào tờ báo “Sài Gòn giải phóng” hoen chữ rồi gói lại, đoạn
nói:
- Tính tiền đi, bao nhiêu mắc chịu để đó khi mô có tiền rồi trả.
- Tui không bán thiếu. Cả lũ con đói meo. Mỗi ngọn rau, mỗi cái đầu cá là giọt máu.
- Ê con mệ chằng. Đừng có dở thói nói xóc óc.
- Ai con nhà có tật thì giật mình. Đồ cái phường vô lại.
Con Hoa xông tới giật thêm cái mớ cá rồi ngoay ngoảy bỏ đi. Mụ Hương bước xuống khỏi sạp. Mụ kéo cái tay con Hoa rồi la lên:
- Bớ làng nước ơi! Quân ăn cướp!
Con Hoa vung văng giơ tay kéo cái lọn tóc bối. Mụ Hương bắn người lên
lồng lộn. Mụ kê đầu gối túi bụi lên ngực con Hoa. Nó xiểng liểng đi. Mụ
bồi thêm mấy cái tát vào má. Rồi lấy tay xé toạc cái áo, tay kia níu kéo
cái quần xuống khỏi đầu gối. Con Hoa bị lột trần, lộ ra hai cái vú xẹp
lép như trái bí làng Sen. Miệng trên miệng dưới của nó hả ra thâm tím
như hột sim sau đồi nhà Lê Duẩn.
Tụi trẻ năm bảy đứa tắm ở ven sông cạnh chợ đua nhau chạy lên xem. Có
đứa cao ngồng ngộng không mặc quần. Bọn họ nhìn con Hoa mà tha hồ chúm
chím cười khúc khích. Một đứa nói:
- Coi tề. Mụ Hương có võ. Mụ Hương chịu chơi tụi bây ơi!
Đứa khác chen vào:
- Đồ chơi của con "cách mạng “có khác chi mô mà ác rứa hè.
Nhóm người lớn đứng xung quanh nhìn nhau xì xào:
- Xấu mặt. Đáng đời. Hoan hô mụ Hương. Hoan hô phe ta thắng.
Một người công an đi tới. Hắn rã đám đông ra, rồi cúi xuống thọc một tay
vô háng con Hoa. Tay kia từ từ lấy cái nón cối có hình ngôi sao đậy
lại, rồi kéo cái quần con Hoa lên khỏi rốn. Người ta nghe tiếng kêu úi
chà. Mụ Hương đứng dậy phủi tay cười thầm trong bụng. Con Hoa bấy giờ
ngồi nhỏm dậy, hai tay ôm lấy ngực. Ai đó trong đám đông ném tới tờ báo
Nhân Dân có hàng chữ cơ quan ngôn luận của đảng. Người công an chụp lấy
quấn áo lên vú con Hoa rồi nói:
- Chỗ này không tiện xử lý. Hai người theo tôi về cơ quan.
*
Đi trên con đường đất gập ghềnh khô cằn. Qua một cái cầu gỗ đổ xuống
triền dốc. Mụ Hương nhìn những căn nhà lá lụp xụp hai bên vệ đường. Nhóm
trẻ con đang hì hục cuốc bới đụn rác sau lưng nhà Ủy ban. Mụ nhớ rõ dân
trong xã đã có nhiều người chết đói chết khát trên cái bãi cát vàng,
bên cái ụ đất khô trọc để trồng khoai theo lệnh “cách mạng”. Không biết
bao nhiêu người bị dán nhãn hiệu “phản động” “ác ôn” đem ra đội đoàn đấu
tố giữa đêm khuya. Mụ tự nhiên cảm thấy vui trong lòng. Ít ra cũng được
dịp làm nhục con nhà “cách mạng” cho thiên hạ coi nó có lông có cánh
như chim diều hâu không mà mổ tới đâu tai họa tới đó.
Vừa tới trụ sở. Thằng Cu Voi con mụ Hương cũng chạy đến kịp lúc. Bước vô phòng, người công an cất giọng:
- Tên kia xin việc gì ra ngoài chờ. Chớ có lảng vảng khi chưa được lệnh cho vào.
- Dạ thưa. Lúc cán bộ dẫn mẹ tôi đi. Tôi theo sau nhặt được cái đồng hồ cán bộ làm rớt, tôi đem trả lại đây.
Người công an vội vã cầm cái đồng hồ bỏ túi. Suy nghĩ giây lát rồi nói:
- Tao giả vờ đánh rớt. Để coi dân trong khu vực có tham lam, hối lộ như
bè lũ “Thiệu Kỳ” không. Tao hết chuyện nói với mầy rồi. Cho mầy ra khỏi
chỗ này để tao làm việc. Nói xong hắn quay qua mụ Hương và con Hoa:
- Tôi sẽ cho lệnh điều tra ngọn ngành. Bà già này về đi, chờ giấy cơ
quan mời sau. Còn chị này tạm thời ngồi đây, để tôi kiếm cái áo mặc đàng
hoàng rồi về.
Mụ Hương gấp gáp đứng dậy đi ra. Mụ nghĩ thầm trong lòng là đứa con
thương mẹ đâm ra liều lĩnh. Lở vô phúc nó khám phá ra cái đồng hồ dỏm
thì có nước độn thổ cả đám chớ phải đùa. Mụ lẩm nhẩm:
- Lạy phúc đức ông bà xui khiến cho nó gửi ra Bắc càng sớm càng tốt.
*
Ngọn gió Lào thổi về vừa khô vừa nóng. Bà Ba Nước cầm quạt phây phẩy.
Nhìn cái áo bịn rịn mồ hôi. Nghĩ tới cán bộ cấp lớn cấp nhỏ ở miền Bắc
vô chiếm đất, chiếm nhà rồi chễm chệ ngồi trong xe hơi, đèo nhau trên xe
Honda, tiền bạc xài thả giàn, ăn mặc theo kiểu mới. Ngồi đây nơi căn
nhà Hai Xu, thấy trước mặt những bà mẹ già nua gánh bó củi qua đường. Ba
Nước không mảy may thương hại. Đảng đã luyện cho bà trái tim sắt để
giết người cướp của. Đâu có biết rằng khi trái tim kia hoen rỉ bị đảng
quăng đi nhẹ nhàng. Ba Nước biết rằng làm con người hay con vật muốn
sống thì phải ăn. Cái bao tử đang cồn cào ra đây. Nghĩ tới đó Ba Nước vổ
một cái vào đùi:
- Biết thế này hồi đấu tố chém giết tư sản mại bản đem vàng bạc chôn cất
riêng cho rồi. Cái gì cũng nộp gửi về cấp trên ráo trọi.
Những thỏi vàng óng ánh. Những tờ giấy bạc chập chờn bay lượn trước mắt
Ba Nước. Bên tai văng vẳng tiếng gió hú, tiếng van xin, lạy lục “cho tôi
được sống”, “tội cho chúng tôi lắm”. Ba Nước thấy lại rõ ràng cái lưỡi
lê sắc bén trong tay. Nghĩ tới chuyện huyên thiên, đôi mắt Ba Nước chớp
chớp rồi mơ màng khép lại.
Hai xu nhìn qua biết Ba Nước đã ngủ, có lẻ ăn nhiều củ sắn bị say. Thấy
con Hoa đi chợ cả buổi chưa về. Bà ước đoán chắc nó đi cặp kè cán bộ.
Biết mô chừng nó vớ được đứa có xe hơi nhà lầu. Chẳng cần thắc mắc, Hai
Xu đứng dậy xuống bếp. Bà mở nắp nồi cơm, tay cạo miếng cơm cháy sót lại
trong đáy nồi bỏ lên miệng nhai. Trước mặt bà là bộ ly tách kiểu xưa,
cái mâm bằng đồng trong thời kỳ làm chủ tịch xã. Năm cái chén làm bằng
miểng B52 và mười đôi đũa tre là món quà của người anh tập kết ra Bắc
đem vô tặng. Nhìn vật dụng hai miền, bà chắt lưỡi thầm thì trong bụng:
- Ngoài Bắc chỉ có mỗi một cái loa. Đảng nói cái gì cả nước phải tin.
Mình ở trong Nam tự do sung sướng lại chạy theo đảng, theo cách mạng để
giết người cướp của cho đảng. Đảng đỗ thừa”Mỹ Ngụy” xấu xa. Nhưng bây
giờ thấy rõ đảng kềm kẹp, đảng ác ôn, đảng vừa ăn cướp vừa la làng. Giai
cấp vô sản đi xe hơi ở nhà lầu. Đảng lòi cái xỏ lá là đưa bộ đội vô Nam
đánh chiếm để đảng cướp giật tài sản. Hiểu cái ba sạo của “bác, đảng”
thì mình đã lỡ một đời người rồi. Có cái mình được an ủi là tai to mặt
lớn trong cái Mặt trận cũng giơ ruột ra đánh trống khóc hu hu, mang ân
hận xuống tuyền đài.
*
Ra khỏi đồn công an. Con Hoa nửa vui nửa bực tức. Nó vui vì người công
an trẻ tuổi to béo mập mạp biết vỗ về nuông chìu khi nó khóc, biết cho
nó cái hôn táo bạo nẩy lửa. Lại còn biết cách đóng phòng lại nhốt
người...
Mấy năm nay rồi không có con trai nào bén mảng làm quen nó. Nó biết là
mẹ nó gây quá nhiều tội ác. Hôm nay trong cái xui lại có cái hên.
Người công an đã cho nó hưởng cái mùi ngai ngái của da thịt. Nó nghĩ tới
những lần vô bếp ăn vụng cảm thấy ngon. Nó bực một cái là mụ Hương chưa
vô tù ngay cho rồi. Ở tù rục xương ra, rồi con cái đói nhăn răng ra mà
chết. Con Hoa nhớ lại hình ảnh mẹ nó hiên ngang trên bục gỗ giữa đình
làng, la hét chửi rủa làng, xã “ngụy quân ngụy quyền”. Hàng mấy trăm
người ngồi yên như pho tượng. Mẹ nó ra lệnh nhân dân lùa trâu bò, gà vịt
vào nuôi trong đình, chùa, nhà thờ. Rồi đêm đêm có những người bộ đội
mang những nồi vịt xáo măng, gà ướp sả, thịt heo luộc tới nhà cho nó ăn,
trong lúc nhà hàng xóm trưng mặt ra ăn bo bo với rau dền. Nghĩ tới đó
tự nhiên miệng nó rỏ dãi.
Về tới nhà, con Hoa ôm mặt khóc sướt mướt. Hai Xu vồn vã hỏi con:
- Có chuyện chi nói nghe coi nào?
- Mụ Hương đánh tui, lột áo quần tui ngoài chợ.
Hai tay Hai Xu run lên. Bà há mồm trợn mắt to tiếng:
- Mà tại răng chớ!
- Mụ chửi “cách mạng”. Tui ngứa tai chửi lại, bênh vực mạ đó.
- Đồ ngu. Sao không kêu công an tới kéo nó bỏ tù cho chết tiệt.
- Có. Nhưng công an nói là để họ điều tra. Anh nớ còn nói riêng với tui
là thả con mệ đó về để theo dõi người liên hệ rồi giăng lưới bắt một mẻ
luôn đó.
- Thôi được rồi. Tau với chị Ba Nước đói lả người ra đây, mi lo đi nấu cơm cái đã.
Hai Xu bước ra ngoài hiên. Nhìn trời cao lồng lộng. Những con bướm cánh
đen bay vật vờ đi kiếm nhụy hoa trong nắng. Bà cúi xuống nhặt cái bông
hoa thọ héo khô tàn tạ. Bà nhìn vào cái quần đen thô kệch. Trong trí nhớ
hiện về hàng cây hoa mẫu đơn, hoa cúc tươi trước nhà mụ Hương. Cái hàng
vải đủ màu sắc trong cửa hàng mụ Hương đã bị chính tay bà ra lệnh trưng
thu, để rồi chồng mụ Hương điên khùng mà chết rồi mụ tìm kế sinh nhai
bằng bán lặt vặt cá lòng tong, hành tỏi. Bất xác Hai Xu gọi con Hoa:
- Chắc mụ Hương trả thù?
- Mà mạ có mần chi mụ nớ mô.
- Thì tau mở tòa án nhân dân tịch biên gia sản của mụ để nộp nhà nước.
- Úi chà! Phải chi mạ còn mần việc như hồi đó, thì con xé xác mụ Hương ra từng mảnh mà đem nộp đảng phải không mạ?
Ba Nước nghe tiếng mẹ con Hai Xu thì tỉnh dậy bước ra khỏi võng. Bà dụi mắt nói:
- Chị và tui gần đất xa trời. Nên nghĩ lại sự thật. Chị nên cải hóa lòng
căm thù trong lòng đứa con chị. Nói trắng ra mình giải phóng miền Bắc
đói khổ đọa đày mới phải. Ai lại đi giải phóng vùng tư bản để chôn chung
một lỗ địa ngục.
- Biết vậy nhưng lỡ nhúng máu thì che đậy luôn. Cả một tập đoàn cộng sản chứ mô phải mình tui với chị.
Con Hoa dọn cơm ra. Bữa ăn gồm có nồi cơm gạo mốc, cái tô đựng nước mắm
ruốc kho loảng, đĩa rau dền và mấy trái ớt khô. Không đợi mời, Ba Nước
vội vàng ngồi bệt xuống lấy chén xúc cơm. Hai Xu cầm đôi đũa ngà của
“bọn tư bản” để lại phân chia phần sắn lát trong cơm ra một bên. Con Hoa
múc hết tất cả sắn vào chén của nó rồi nhìn mẹ:
- Mạ với thím Ba lựa cơm mà ăn, tui đói thì chạy qua nhà cán bộ ngoài Bắc vào để ăn chực.
Ngoài kia từ phía trụ sở. Tiếng loa phóng thanh lập đi lập lại:
- “Bác Hồ vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp chúng ta”. “Đảng cộng sản quang vinh muôn năm”...
Bà Hai Xu trố mắt nhìn thẳng vào mặt Ba Nước:
- Tui mãi lắng nghe coi đảng ra chỉ thị gì không. Chị dọn sạch nồi cơm vô bụng. Rứa phần mạ con tui mô?
Bà Ba Nước đập mạnh đôi đũa xuống chén. Hai tay run run, sắc mặt từ từ
đổi màu rồi té xỉu ngất đi. Trong đôi mắt bà chập chờn “bác” nằm ngủ ở
lăng Ba Đình và đoàn con cháu bác trong đoàn quân cách mạng vô sản mang
cờ xí dao mác đi giữa phố giữa làng. Hai cái tai của bà văng vẳng tiếng
gió hú hòa chung tiếng rên rỉ ai oán của những cái hồn.
Con Hoa đứng dậy lắc vai Ba Nước:
- Trời ơi! Ra Ủy ban mà chết có xe cộ mang đi. Chết ở nhà tui lấy tiền mô mua gỗ mua đinh mà đóng!
Hai Xu đặt tay lên đôi mắt người bạn “đồng chí cách mạng” rồi nói:
- Người cộng sản có cái “đỉnh cao trí tuệ” nhất thế giới là khi sắp chết mới biết khóc mà nói lên sự thật.
Hai mẹ con Hai Xu choàng tay nhau cúi đầu xuống trên cái lưng Ba Nước.
Con chó vẹn ngồi một mình lẻ loi buồn bã. Nó đói quá tức mình lè lưỡi uốn, đưa mắt châu mõm lên bệ thờ:
- Hâu hâu! bác bóc bác bóc. Nó rán sủa chữ “lột”. Tội nghiệp nó đã hết
hơi kiệt sức. Nó đành chịu nằm dài chân chờ lưỡi hái hung thần tới mang
đi. Rồi xương tủy con chó sẽ được người ta xây vòng tròn ngồi nhậu với
rượu ngoại.
Trên tường lá cờ đỏ sao vàng trông như đậm đỏ thêm ra...
*
Ngày hôm sau bên kia góc chợ. Cái hàng rau cải ngò hành của mụ Hương đông người lui tới hỏi thăm. Mụ mỉm cười nói với đứa con:
- Bà con xã mình chưa chết tiệt. Chúng giết hết thì lấy ai làm kiếp trâu
ngựa cho chúng trấn lột. Mà cũng may nhờ cái đồng hồ “cửa sổ tư bản”.
Nhờ thế mẹ mới thoát nạn.
- Miệng nó chống tư bản. Tay nó đi ăn cướp vơ vét cạn tàu láng. Trâu bò ngoài ruộng còn chạy mặt đó mẹ.
Tiếng nhạc vàng từ căn lầu nhà cán bộ phát ra nghe rõ mồn một:
Con biết bây giờ mẹ chờ trông con. Mụ Hương chạnh lòng thương nhớ những
người lính Cộng Hòa mong bình yên để về quê ăn Tết bên mẹ.
Nhưng tiếng súng đã ngưng. Những người con của mẹ đã đi biền biệt, chết
đầu sông, cuối núi, chết giữa biển cả mênh mông, chết trong trại tù, để
lại những người mẹ đợi chờ tuyệt vọng. Tự nhiên những giọt nước mắt trên
đôi má gầy gò từ từ lểu dểu...
Thấy mẹ đứng khóc. Thằng Cu Voi cầm tay mẹ thủ thỉ:
- Mẹ đáng hãnh diện là mẹ đã cho con uống cạn dòng suối ngọt. Mẹ là trái
chín thương yêu. Mẹ đã vui để sống dù đời đầy gian khổ. Cười với con đi
mẹ. Ngày mai trời lại sáng.
Mụ Hương lau nước mắt. Mụ ngồi xuống nhìn vào háng của mình, rồi nhủ thầm:
- Đời còn một miếng đất cằn cỗi khô héo thế này. Chẳng lẻ nhà nước kêu
gọi hiến dâng cho sự nghiệp xã hội chủ nghĩa cũng không biết chừng!
PHAN * CHIẾC LÁ TRONG KỆT CỬA
Góc của Phan: Chiếc lá trong kẹt cửa…
Chiếc lá lẻ loi trong kẹt cửa mang hình ảnh của một kẻ tinh khôn,
mà nghĩ cho cùng chẳng khác gì tên trốn chạy mùa đông bên ngoài đang bao
trùm tất cả. Nếu đem bỏ chiếc lá này ra ngoài thì nó cô lẻ lắm vì mọi
chiếc lá khác đã theo dòng, gió… tan biến! Cái giá của sự sống sót nào
chả bắt đầu từ sự tinh khôn, và sự tinh khôn nào không kết thúc buồn bã
bởi cô độc của kẻ sống sót. Giả sử ngày tận thế ập xuống bất tử một hôm
nào thì người sống sót cô đơn biết dường nào so với đồng loại chỉ còn
việc khiêu vũ với bầy sói trong tiếng rít diều hâu…
Chiếc lá trong kẹt cửa làm nhát chổi phát ghét kẻ trốn chạy hay phục
kẻ không cam tâm chịu chết bình thường mà chổi trân trân nhìn chiếc lá
Behrman. Bởi trong truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng”. Tôi vẫn tin chính
nhân vật Behrman là hiện thân của tác giải O’Henry – người cả đời cơ cực
nhưng vẫn cố gắng sống để thực hiện hoài bão của đời mình. Behrman tự
chọn cho nghề vẽ của ông một cái chết rất họa sĩ, ông chỉ từ giã cuộc
sống sau khi vẽ được chiếc lá thường xuân để trả nợ đời, ơn thầy vẽ của
ông, tình đồng nghiệp, lòng yêu nghệ thuật chân chính của người nghệ sĩ.
Behrman mang hình ảnh của O’Henry cả đời cơ cực nhưng vẫn sống để viết
“Chiếc lá cuối cùng” như sự trả ơn chữ nghĩa đã sinh ra ông.
“Chiếc lá cuối cùng” của O’Henry kể về Sue và Johnsy là hai nữ họa sĩ
trẻ sống trong khu nhà trọ. Cụ Behrman là một họa sĩ già cũng sống ở
đó. Cả đời cụ khao khát vẽ được một kiệt tác nhưng tới già vẫn chỉ có
hoài mong. Nhưng mùa đông năm ấy, Johnsy bị bệnh sưng phổi, khiến cô
tuyệt vọng và nghĩ rằng khi chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống sẽ
là lúc cô từ giã cuộc đời. Người bạn Sue hết lòng chạy chữa cho bạn
Johnsy nhưng vô ích. Biết được ý nghĩ đen đủi của Johnsy, cụ Behrman âm
thầm thức suốt đêm mưa gió để vẽ chiếc lá thường xuân trên bức tường
ngoài cửa sổ phòng Johnsy. Nên chiếc lá cuối cùng – chiếc lá vẽ, đã
không rụng trong đêm mưa bão lớn, khiến Johnsy sống lại, từ bỏ ý nghĩ
đen tối về cái chết. Tuy nhiên, cụ Behrman lại chết vì bệnh sưng phổi
sau một đêm giầm mưa tắm gió để vẽ chiếc lá cuối cùng lên tường nhằm cứu
Johnsy. Bí mật của chiếc lá cuối cùng chỉ mình Sue biết, nhưng đã trở
thành thông điệp tình người cho hậu thế.
Không biết chiếc lá trong kẹt cửa giữ bí mật gì của mùa qua trong giá
rét đông đầy. Có những người ham sống thì trời không cho thọ và những
người muốn chết thì trời bắt sống dai. Ngoài cái thuyết số mệnh ấy là
từng thân phận có sứ mệnh, hoài bão riêng. Cụ Behrman đã sống cả đời
buồn bã nhưng vì hoài bảo chính đáng nên cuối cùng cụ vẽ được kiệt tác
là chiếc lá thường xuân để cứu mạng một đồng nghiệp trẻ.
O’Henry ấp ủ
tình yêu chữ nghĩa, cuộc sống và con người ngay trong cuộc đời khắc khổ
để cuối cùng hoài bão đạt thành là tác phẩm trứ danh để lại muôn đời. Và
chiếc lá trong kẹt cửa là thông điệp của mùa trước để lại cho mùa sau
hay chỉ là tội đồ của đồng loại, kẻ đã vui xuân, hưởng hạ, nhàn thu cùng
vạn lá nhưng trốn lạnh một mình, rồi váng nhện vây quanh tới bao giờ,
bụi bặm phủ mờ tới bao giờ. Sự tồn tại, ngoài giá trị hiện hữu không có
giá trị gì khác thì sự tồn tại không có ý nghĩa của sự tồn tại nữa trong
vũ trụ luân hồi – vạn vật không mất đi mà chỉ biến chuyển từ dạng này
sang dạng khác thì dạng hiện hữu là sơ đẳng, mong manh nhất.
Hay chỉ là cách nghĩ áp đặt của lý trí con người lên chiếc lá vô tri.
Chiếc lá có tâm hồn không, sao gợi lại bao nhiêu mùa lá là bấy nhiêu
mùa biệt xứ đã thấm đẫm linh hồn. Từ đi thổi lá nhà người bản xứ ngày
mới qua để kiếm sống, nhưng tới khi quét lá nhà mình cũng chưa cam phận
đủ đầy, chắc cuối đời đi quét lá đa mới vừa lòng…
… Chiếc lá trong kẹt cửa không đại diện cho người ham sống, chẳng tượng
trưng cho ý nghĩa sinh tồn nào cả, cũng không mang thông điệp gởi mùa
sau nào hết. Chỉ là dĩ vãng chợt về qua hình ảnh chiếc lá như con cá mắc
cạn lẻ loi. Bao nhiêu chiếc lá lặng trầm cô lẻ, bao nhiêu con cá mắc
cạn đã chết khô một mình, bao nhiêu người… sống để bụng chết mang theo
những hoài bão cá nhân, đều có lý do riêng của mỗi một người. Trường hợp
Behrman là một nghệ sĩ chân chính và Thượng đế giúp ông hoàn thành tâm
nguyện lúc cuối đời để lưu danh muôn thuở.
Cây chổi nhìn chiếc lá trong kẹt cửa làm cho những chiếc lá xa xưa dồn
về thành đống lá trong ký ức, người quét nhà ngồi sắp lá cuối đông…
Những ngày còn bé, thấy củi mắc quá nên giúp mẹ bằng cách rủ bạn bè
(đằng nào cũng tắm sông mỗi chiều) thì thôi tụi mình bơi qua cù lao,
tước mớ lá dừa nước về làm củi. Thế là chiều nào mỗi đứa cũng ôm về nhà
một bó lá dừa nước để phơi khô, đốt thay củi. Từ đó, chiều về ven sông,
xóm nhà lá ngoằn ngoèo những lọn khói lá dừa trắng xanh vươn lên không
gian mờ ám của hòa bình lập lại. Nhưng lớp trẻ đi tuốt lá dừa nước bên
cù lao chưa kịp tận hưởng niềm vui, lời khen ngợi của những bà mẹ nghèo
thì bọn cách mạng ba mươi đã xách súng AK ra bờ sông cảnh cáo con nít,
“không được tuốt lá dừa nước bên cù lao… của ông chủ tịch Ủy ban nhân
dân xã”.
Lũ trẻ chúng tôi chờ mùa gặt, đi hốt lá lúa ngoài đồng về cho mẹ nấu
cơm, cũng bị ngăn chận vì lá lúa cắt khỏi ruộng gọi là rơm, mà rơm thì
để dành cho trâu bò ăn, chứ đâu phải của bỏ. Rơm để làm nấm rơm, thui cá
lóc còn không đủ. Huống chừ lại thêm bọn dùng rơm thui chó từ bắc tràn
vào thì rơm làm gì đến tay trẻ nhỏ được.
Nhớ cái lá lúa cũng phải đi ăn trộm thời hòa bình ở quê tôi.
Nhưng lá đã vô tình nhập vào ký ức từ tiếng kèn lá gọi nhau ra đồng thời
đi bắt dế. Tờ mờ sáng, ngắt cái lá chầm giuộc vấn kèn, thổi te te vài
tiếng là có tiếng kèn lá đáp lời ngay. Dại gì sang nhà kêu thằng Tý,
thằng Chuột cho chó nó cắn, má nó chửi, làm xui hết ngày chả được con dế
nào!
Tới khi có trí nhớ mẹ ngồi lau lá, sắp lá dong, cha chẻ lạt để gói
bánh chưng là Tết về. Bên nhà hàng xóm sắp lá chuối từng xếp như những
xếp vải ngoài chợ, hứa hẹn Tết sang hàng xóm ăn chực bánh tét cho đã đời
vì thể nào thằng Tý cũng sang nhà mình ních cứng bụng bánh chưng mà nó
khoái. Chẳng ai giải phóng ai, không ai cần thống nhất, khỏi kêu gọi hòa
hợp hòa giải con khỉ khô gì hết mà mấy nhà người Bắc di cư sống trong
xóm nhà người Nam hoàn toàn tự trị khẩu vị của mình, ai muốn gói bánh
chưng cứ gói bánh chưng, ai muốn gói bánh tét cứ gói bánh tét. Không có
khúc ruột ngàn dặm nào hết mà chỉ có thằng con nhà người Bắc khoái bánh
tét, mà thằng con nhà người Nam khoái bánh chưng thì vác bụng sang nhà
nhau mà ăn, để thành ký ức xóm làng muôn đời. Đâu có cái nghị quyết hòa
hợp hòa giải nào phải ra đời cho kẻ chống người khinh.
Nhưng những cái tết chiến tranh mà có ăn đã bị hòa bình bịt miệng.
Rồi lá nuôi tôi lớn từ hôm biết cầm cây mác đi chặt lá dừa nước tính
thiên đưa về lợp mái nhà giam chính mình. Nhớ lá làm bỡ ngỡ khi nhìn cái
nón lá ở bến đò sao đẹp vậy! Chưa dám nhận dù là tự nhận mình thấy
người đội nón lá đẹp hơn. Rồi tới lá biết nói từ đêm trừ tịch chở mẹ đi
chùa, là hái dùm người thấp hơn ta một cái đầu nhưng cao hơn ta “tầm
nhìn chiến lược” một nhánh lá! Bởi không đẹp trai thì ai mà nhờ hái hộ
em nhánh lộc đầu đời để nhớ nhau suốt kiếp.
Rồi lá bùa hộ mệnh cho con đi vượt biên, mẹ lấm lét mang về từ ông
thầy chùa, thầy bùa, thầy ngải nào đó… đeo lá bùa vào cổ tay làm đồ
trang sức vì đeo lên cổ thì quê với bạn bè chọc. Nhưng thần linh đâu
chịu đeo bùa ở tay vì tay phải làm gì đâu cho tay trái biết! Thần linh
không phù hộ còn nổi giận tống vô tù sau chuyến vượt biên bị bắt. Đi
chặt lá dừa nước mờ mắt về lợp trại giam chính mình mới nhớ đời.
Chiếc lá trong kẹt cửa làm dày lên lớp lá trong ký ức với bâng khuâng
khi lá bên hàng xóm bay sang mà chẳng có ký tự nào trên lá để dệt mơ
suốt đời không thành mộng. Tới lá vàng từng cánh rơi từng cánh ngoài
khung cửa giảng đường mà mơ hồ theo lá bi tráng trên trang sách nói về
người vệ quốc năm xưa, “người ra đi đầu không ngoảnh lại/ sau lưng thềm
nắng lá rơi đầy”. Hình ảnh quá buồn mà lại quá đẹp về chiếc lá. Từ đó…
hút thuốc lá! Đêm về chong đèn với năm mươi hai lá tiến lên, chặt hẻo
kiếm được mấy điếu thuốc lá với ly cà phê sáng thì trời đã sáng.
Lá ấp lẫm trong hồn tới đời thực. Nhưng lá còn xanh như anh còn trẻ,
bỗng mùa thu lá bay thấy ngậm ngùi! Giờ nhìn chiếc lá trong kẹt cửa,
chiếc lá mùa đông riêng một góc trời như người tha phương với năm tàn
tháng tận. Những mùa lá vui hay gió vui tuổi trẻ chỉ còn khoảng lặng của
ký ức trong những mùa quét lá xứ người. Mới thoát cảnh mặc mấy lớp áo
để đi làm sớm, chưa kịp vui với chồi non, lá biếc thì hạ đã về, nương
bóng lá che thân với cái máy cắt cỏ khi hụt hơi trưa hè chưa kịp thở thì
mùa thu rầm rập tới cuốn lá đi. Cây cào lá trong garage còn chưa nghỉ
ngơi thỏa đáng đã ra sân uể oải nói gì sức người đi làm quanh năm ở Mỹ.
Thấy lá trên cây chớm vàng đã ngao ngán. Ai nói mùa thu đẹp, lãng mạn,
mơ mộng… xin mời quét lá mấy cây sồi một hôm sẽ chết (hết) hồn thi sĩ
ngay tức khắc. Càng cào, quét, gom… lá càng rơi.
Những buổi chiều hồn trôi bềnh bồng trong lá là bấy mùa xa quê. Chiều
tha phương quét lá biết bao giờ cho xong, người xa quê nhớ nhà biết bao
giờ cho nguôi. Chiếc lá trong kẹt cửa là tinh khôn của lá; hay tắc
trách của người quét lá; độc ác của gió cũng không chừng! Mà cũng có thể
là ngẫu nhiên của số phận của lá. Là bạn già của ngài Culapanthaka.
Tiền kiếp ngài là một quân vương anh minh, nhưng cũng mắc sai lần đã
trêu ghẹo một người bạn si khờ. Kiếp sau của ngài có người anh là
Panthaka, cực kỳ thông minh, theo Đức Phật tu học, đắc quả A La Hán.
Nhưng nghiệp báo người em Culapanthaka bị chứng si khờ để trả nợ tiền
kiếp. Ngài không thể học thuộc được một bài kệ, buồn bã bỏ tu. Nhưng Đức
Phật khuyên ngài hãy làm việc có thể. Ngài chỉ có thể quét lá sân chùa.
Sự tự biết mình là cách tham thiền qua việc quét lá, ngài quét đi được
hết lục dục trong tâm, đắc quả A La Hán như người anh Panthaka. Cả hai
cùng là đại đệ tử của Đức Phật.
Chiếc lá trong khe cửa gợi lại bao điều, nghĩ tới bao nhiêu… đời lá
như đời ta, thời lộc chồi mau qua để khoe sắc lá muôn màu trong trời đất
bao la này. Và cũng vì trời đất quá bao la nên chiếc lá (đời người)
sắc-không luân hoán. Lá vui hay gió vui, lá bay hay gió bay; người vui
hay đời vui… rồi càn khôn như nhau. Ngày xưa yêu biết mấy lời nhạc, “xin
chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em…” Nhưng phải quét lá vài chục mùa
trên nước Mỹ thì biết yêu em nào phụ anh hốt lá là chính xác! Những hằn
học được gì khi lượt chổi đi qua giáp drive way thì lá lại rơi đầy; cào
lá toát mồ hôi chưa kịp nhìn thảm cỏ thì lá lại rơi đầy.
Ngài Culapanthaka đã chứng nghiệm lá rơi là tự tại của lá, người quét là tự tại của người quét. Sinh-diệt trong trời đất tự nhiên, không có thắng thua mà chỉ có tự tại của muôn loài cộng hưởng thành vũ trụ. Mới cào nhát đầu đã nghĩ tới thảm cỏ nâu mùa này sạch không chiếc lá là tham (sự toàn bích); mới quét nhát chổi đã thấy cái nhà sạch là… lười (!). Thấy chiếc lá trong kẹt cửa mà nghĩ tới thu tàn, đông lập, những sinh linh, tới vũ trụ… là ta bà.
Ngài Culapanthaka đã chứng nghiệm lá rơi là tự tại của lá, người quét là tự tại của người quét. Sinh-diệt trong trời đất tự nhiên, không có thắng thua mà chỉ có tự tại của muôn loài cộng hưởng thành vũ trụ. Mới cào nhát đầu đã nghĩ tới thảm cỏ nâu mùa này sạch không chiếc lá là tham (sự toàn bích); mới quét nhát chổi đã thấy cái nhà sạch là… lười (!). Thấy chiếc lá trong kẹt cửa mà nghĩ tới thu tàn, đông lập, những sinh linh, tới vũ trụ… là ta bà.
Nhưng quét sao cho hết lá, lòng sao cho hết nhớ nhà khi năm tàn tháng
tận, khi lá đã ghim vào phế phủ từ tiếng kèn lá xa xưa tới chiếc lá
cuốn cùng… Gởi gió cho mây ngàn bay nghe sao hay lạ khi trên tay cầm
chiếc lá khô vào một ngày cuối năm… “Với bao tà áo xanh đây mùa thu/
Hoa lá tàn, hàng cây đứng hững hờ/ Lá vàng từng cánh rơi từng cánh/ Rơi
xuống âm thầm trên đất xưa… Thấy hối tiếc nhiều/ Thuyền đã sang bờ/
Đường về không lối/ Giòng đời trôi đã về chiều/ Mà lòng mến còn nhiều/
Đập gương xưa tìm bóng…/ Nhưng thôi tiếc mà chi/ Chim rồi bay, anh rồi
đi/ Đường trần quên lối cũ/ Người đời xa cách mãi/ Tình trần khôn hàn
gắn thương lòng…”
Nghe Tuấn Ngọc hát “đường về không lối/ giòng đời trôi đã về chiều…” Sao u uẩn quá! Liệu “đập gương xưa tìm bóng” có ích gì?
Chiếc lá trơ trơ trong tay…
Phan
Phan
CÁNH CÒ * MAFIA ĐỎ
Home › Blogs › canhco's blog
Chân dung mafia đỏ.
Sun, 01/11/2015 - 10:34 — canhco
Nhớ hồi còn trẻ sống với mẹ, mỗi lần bà nhặt gạo là lại kêu mình
tới ngồi bên và chỉ cho biết cách lựa vỏ trấu, sạn và nhất là sâu gạo.
Nói là sâu nhưng nó hoàn toàn không có sự sống. Có lẽ do các tạp chất
khi người ta phơi lúa không thổi hết đã để lại những vật trăng trắng
không có hình thù gì nhất định nằm lẫn trong gạo và việc lựa nó ra cùng
lúc với trấu và sạn là điều bắt buộc.
Gạo càng cũ sâu gạo càng nhiều. Đó là điều tôi nhớ nhất. Và sau nhiều
năm lựa sâu gạo trước khi đun cơm, tôi không quên được thói quen ấy cho
mãi tới sau này các con lớn khôn, gạo trắng hơn và không còn sâu nữa
thì tôi mới được chúng nhắc rằng đừng tìm sâu làm chi cho mất thời gian
mà hãy làm việc khác cho vui.
Tôi vẫn ngờ ngợ lắm tại sao sâu lại biến mất? Chúng tự diễn biến hay
tại thuốc diệt cỏ, diệt sâu rầy đã diệt luôn chúng? Hỏi vậy nhưng tự
biết là đâu có ai diệt chúng, mình không thấy chúng nữa vì chúng đã biến
thành thứ khác trong thời buổi hiện đại này.
Mấy hôm nay không biết trở chứng hay sao lại thích bắt sâu gạo. Nói
sâu gạo là không chính xác, phải nói là bắt sâu trên computer, và chính
xác hơn nữa là sâu trên trang Chân dung quyền lực! (CDQL)
Vụ ông Thanh từ Mỹ về Đà Nẵng do cái anh này loan mà cả hệ thống như
gái ngồi phải cọc. Máy bay loại gì, cất cánh khi nào, hoãn lại ra sao,
rồi cất cánh lại, bay tới đâu về đâu ...trúng phóoc và người đọc cảm
nhận rằng cái người viết cho Chân dung Quyển lực là người đang ngồi kế
bên ông Thanh từ Mỹ về Đà Nẵng chứ không phải ai khác.
Nhưng nghĩ mãi cũng không logic: Có mà điên mới lạy ông tôi ở bụi
này. Bao nhiêu đứa đang chăm chăm tìm xem người viết cho Chân dung quyển
lực là ai, nếu ngồi chung chuyến bay với ông Thanh về có phải là ngu
đến hết thuốc chữa.
Cách mà ngòi bút CDQL mô tả không phải là của một anh thư ký hay một
cậu công văn. Nó được mài giũa cẩn thận ngôn từ và sản phẩm nó đưa ra
tên CDQL không kém bài viết của một nhà báo chuyên nghiệp. Chuyên nghiệp
và có tài không chừng, mặc dù anh hay chị ta cố gắng lái người đọc
không để ý tới phong cách viết của mình.
CDQL không chửi bới, miệt thị, hay cả vú lấp miệng em như mấy trang
đấu tố khác đang nhan nhản mang đủ thứ tên của các tai to mặt lớn.
Hình ảnh nó mang lên thuyết phục đã đành, cách đặt vấn đề của nó đã làm cho nhiều người chú ý. Bài mới nhất có cái tựa: “Ông Phùng Quang Thanh: ông có thể cho biết những điểm nào trong khối tài sản khổng lồ sau đây là xuyên tạc, bịa đặt?”
Chỉ hỏi thôi, nhẹ nhàng mà ông Phùng cảm thấy như hỏa tiển Sam khai pháo.
Dưới cái tựa nhẹ nhàng ấy là tài sản 6 căn nhà có địa chỉ, giá tiền,
mua khi nào, do ai bán mà quý tử ông Thanh đang sở hữu ... cộng với ba
người đàn bà có tên tuổi hình ảnh hẳn hoi. Ông con của đại tướng quân
chỉ mới mang lon đại tá đã chứng tỏ tài năng không kém bố về mặt kinh
tài. Ai có thể chụp được Phùng Quang Hải ngồi ôm bồ nhí trong phòng làm
việc? Ai có thể biết cả serie number của chiếc xe cực sang của công tử
họ Phùng, và quan trọng hơn nữa ai biết việc cha con ông Phùng đã nhiều
lần sang Trung Quôc trị bệnh?
Ông Phùng không thể trả lời công khai lẫn bán công khai. Lý do rất
đơn giản: nó quá đúng và đúng đến nỗi chính con trai ông cũng không biết
tại sao người ngoài lại biết rõ từng chi tiết còn hơn anh ta.
Công việc thu thập tài liệu này chỉ duy nhất một nơi có thể làm được: cơ quan tình báo.
Những bức ảnh công bố chứng tỏ được chụp công khai từ trong nhà ông
Hải. Chiếc xe, văn phòng và các thứ khác rõ đến nỗi giống như chính
đương sự thuê người chụp cho mình để làm lưu niệm và trong lúc bất ngờ
nhất đã bị đặc tình lục ra và sao chép.
Trong cái tủ sắt bí mật ấy chắc chắn còn những thứ khác quan trọng
hơn nhiều do đó CDQL mới mạnh miệng tố ông Thanh rằng nếu cần họ sẽ tiếp
tục mang ra cho hàng triệu người xem nếu ông Thanh vẫn giữ luận điệu
cho rằng trang này xuyên tạc và đưa tin thất thiệt.
Khi cần đánh vào chính diện thì CDQL sử dụng ngôn ngữ của chính luận.
Khi muốn đánh lạc hướng dư luận nó lại viết theo kiểu định hướng của dư
luận viên cao cấp.
Vì thế bác Bùi Tín đã nhặt những con sâu trong CDQL qua bài viết của
bác . Bác lo rằng tương kế tựu kế CDQL sẽ hướng dẫn dư luận theo chiều
hướng có lợi cho phe nhóm của nó và người đấu tranh phải cẩn thận đối
với trang này.
Bác Bùi Tín ơi bác và em cùng chung căn bệnh. Nhìn gạo thấy sâu dù
gạo mình đang ăn ở năm 2015, tức là không con sâu nào sống được nữa với
cách chà gạo tân tiến hiện nay. Em mang thói quen nhặt sâu gạo cũng như
bác đã quen cẩn thận với sâu cộng sản. Bác và em đều hiểu rằng sâu biến
hóa trăm bề và xem thường hay ngủ quên với nó là nguy hiểm.
Nhưng trong chuyện này em lại nghĩ: sâu giả tung hỏa mù đấy bác ạ.
Trong sự nguy hiểm của các thế lực gầm gừ nhau hiện nay, trang CDQL
chưa chắc là mạnh nhất, bí ẩn nhất và nằm trong tay của một cá nhân. Nó
có thể do bất cứ ai, hay nhóm nào sở hữu, và việc giữ bí mật tuyệt đối
bằng cách rêu rao, mạt sát những tên tuổi đấu tranh dân chủ là phân tán
sự chú ý của đối thủ và không phải là mục đích của nó.
Mục đích của nó không phải một, ngay cả chiếc ghế cao nhất cùng các
chiếc ghế chung quanh, mà nó còn nhắm xa hơn: tiêu diệt mầm mống, vây
cánh từng đồng chí một.
Chân dung quyền lực là ai, kệ họ. Mục đích đấu đá tranh giành nội bộ
của nó ngoài sự hiểu biết của em và cuối cùng em nghĩ, nếu cứ đọc nó như
đọc tiểu thuyết trinh thám được không? Em xin trả lời nhanh và luôn:
sao không, ít ra nó còn có cái để tin, không lẽ lại ngồi ì ra xem lễ bế
mạc Hội Nghị Trung Ương 10 và vỗ tay với kết luận Hội nghị thành công
tốt đẹp?
Dĩ nhiên khác với tiểu thuyết trinh thám một chút, phải đọc nó như
xem chân dung của các tay mafia đỏ và không quên rằng đã là mafia đỏ thì
kết quả cuối cùng không phải là bãi chiến trường mà là một bàn nhậu
trong Ban Chấp hành trung ương sau khi mọi vấn đề “gút mắc” đều được
tháo gỡ.
- canhco's blog
- http://www.rfavietnam.com/node/2403
BEN MACINTYRE * THANH TOÁN CỘNG SẢN
Không thể không thanh toán tội ác của chế độ cộng sản
Wed, 01/07/2015 - 17:15 — ledienduc
Ben Macintyre - Lê Diễn Đức dịch
Cách đây một phần tư thế kỷ chế độ của Nicolae Ceausescu sụp đổ, nhưng những tội ác của nhà cầm quyền Cộng sản vẫn chưa được giải quyết. Bộ máy của chế độ Cộng sản này chưa bao giờ được đưa ra công lý.
Trong tuần qua đánh dấu 25 năm kể từ khi nhà độc tài Nicolae Ceausescu Romania và vợ Elena, bị giết chết. Cũng từng ấy năm họ đã cai trị Rumani.
Năm 1989, sau cuộc cách mạng chống lại chế độ cộng sản ở Rumani, người ta đã đưa họ ra xét xử và thi hành án nhanh một cách đáng ngạc nhiên.
Cách đây một phần tư thế kỷ chế độ của Nicolae Ceausescu sụp đổ, nhưng những tội ác của nhà cầm quyền Cộng sản vẫn chưa được giải quyết. Bộ máy của chế độ Cộng sản này chưa bao giờ được đưa ra công lý.
Trong tuần qua đánh dấu 25 năm kể từ khi nhà độc tài Nicolae Ceausescu Romania và vợ Elena, bị giết chết. Cũng từng ấy năm họ đã cai trị Rumani.
Năm 1989, sau cuộc cách mạng chống lại chế độ cộng sản ở Rumani, người ta đã đưa họ ra xét xử và thi hành án nhanh một cách đáng ngạc nhiên.
Bối cảnh xử bắn cặp vợ chồng toàn năng này diễn ra vào ngày Giáng
sinh năm 1989, gây sốc cho tới hôm nay cũng như một phần tư thế kỷ
trước.
Ban đầu, trong thời gian đọc bản án của tòa, hai vợ chồng vẫn giữ
thái độ hung hăng. Sau đó họ lớn tiếng chửi rủa. Khi những người lính
nhảy dù trói tay họ lại, họ mới ngạc nhiên và tức giận.
Camera cố tình chiếu vào chiếc vòng có giá trị trên cổ tay của bà
Elena. Một vài giây sau, một loạt súng máy nổ. Hai vợ chồng đứng ở góc
sân tòa án. Họ đổ sụp xuống rất nhanh.
Chỉ mới bốn ngày trước đó bạo chúa Rumani còn đứng trên ban công của
Toà nhà Nhân dân hoành tráng - bây giờ là trụ sở quốc hội - nhìn ra
Quảng trường Bucharest và nói to với đám đông về những ưu điểm của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ông ta, một người thợ đóng giày, đã hoang
tưởng đến quái đản - đỏng đảnh, mù quáng với tất cả mọi thứ và tàn bạo.
Khi từ đám đông nghe thấy tiếng huýt sáo chế giễu và la ó, khuôn mặt nhà
độc tài nhăn nhó hoài nghi. Ông cố gắng trấn an họ bằng lời hứa tăng
lương. Nhưng cuối cùng ông phải trốn chạy bằng máy bay trực thăng đợi
sẵn trên mái nhà.
Cuộc cách mạng Rumani đã kết thúc giai đoạn đau khổ của 42 năm bị áp
đặt bởi nhà nước Cộng sản. Nhà độc tài đã xây dựng cho mình cung điện
nguy nga, nhưng đưa quốc gia này vào tình trạng nghèo đói không thể
tưởng tượng. Tuân phục tuyệt đối được thực thi một cách dã man bằng mạng
lưới cảnh sát mật Securitate (Cục An ninh Nhà nước).
Giống như tất cả các cuộc cách mạng - từ cuộc Cách mạng Pháp đến Mùa
xuân Ả Rập - cuộc cách mạng này cũng hứa hẹn nhiều hơn điều nó có thể
làm.
Tuy nhiên, kể từ Ceausescu bị bắn chết dã man, đất nước trông về phía
Tây nhiều hơn so với phía Đông. Và chắc chắn - không bao giờ nhìn lại
phía sau.
Trong năm 2004 Rumani gia nhập Liên minh Quân sự Bắc Đại Tây Dương
NATO. Ba năm sau đó - vào Liên minh châu Âu. Cho đến khi nền kinh tế
toàn cầu suy thoái, Romania có mức tăng trưởng ấn tượng. Mức sống đã
được cải thiện không thể tưởng tượng. Không nhìn còn thấy hình ảnh những
trẻ mồ côi Romania bị xích vào cũi làm cả thế giới kinh sợ, khi chế độ
Ceausescu sụp đổ và trên truyền hình có thể nhìn thấy tội ác của chế độ.
Tổng thống mới Klaus là thành viên của một nhóm nhỏ nói tiếng Đức.
Ông hứa sẽ thắt chặt quan hệ với phương Tây và tiến hành một chiến dịch
truy quét tham nhũng. Ông được ca ngợi như là một người tương phản hoàn
toàn với chế độ Ceauşescu - để chứng minh, cuối cùng ông đã có ý tưởng
mới sau một phần tư thế kỷ.
Tuy nhiên, trong lịch sử Rumani vẫn còn tồn tại một khoảng trống. Các
vết thương trong ký ức tập thể của 25 năm qua không ai dám chạm vào nó.
Nó nói với chúng ta rằng cuộc cách mạng vẫn chưa hoàn thành. Người ta
chưa nhổ tận rễ. Chưa bao giờ điều tra đầy đủ tội ác dưới thời
Ceauşescu. Những kẻ phạm tội chưa bao giờ xuất hiện trước tòa án. Nạn
nhân chưa bao giờ được phục hồi. Họ cũng không chờ được sự bồi thường.
Từ Đức Quốc xã, đến Nam Phi và từ Chile, từ Bắc Ireland, từng quốc gia
phải vật lộn với các vấn đề của sự hiểu biết và ăn năn về những tội ác
khủng khiếp của thế kỷ 20.
Tuy nhiên, Rumani chưa bao giờ trải qua giai đoạn như là một loại
phấn chấn quốc gia. Trong năm 1989 người ta vứt vào thùng rác lịch sử
Cộng sản, thậm chí không cố gắng thâm nhập gần hơn với sự thực của nó.
Hơn nữa, phần lớn nhiều kiến trúc sư của cuộc cách mạng đã từng tham gia
vào những gì đã xảy ra trước đây.
Không giống như ở Cộng hòa Czech, Ba Lan và Hungary, Rumani đã không
thực hiện - trong một thời gian - lệnh cấm hoạt động chính trị đối với
lãnh đạo cộng sản.
Tiến trình xét xử phô diễn vợ chồng Ceausescu là công việc của các
đồng chí Cộng sản. Mặt trận Cứu quốc sau đó lên nắm quyền có rất nhiều
mối quan hệ mơ hồ với chế độ cộng sản, dù người ta sử dụng trôi chảy
ngôn ngữ của tự do dân chủ.
Chưa bao giờ người ta điều tra các quan chức cấp cao của thời Cộng
sản. Người ta cho phép họ được nghỉ hưu nặc danh. Và trong một số trường
hợp, thậm chí có người từng làm giàu nhờ các đặc ân của chế độ cũ.
Trong thời Cộng sản đã có khoảng 617 ngàn người chống đối bị ngồi tù.
Người ta cũng xác nhận có 120 ngàn trong số họ đã chết trong tù. Bộ máy
an ninh cực kỳ rộng lớn, sử dụng tra tấn có hệ thống và bắt bớ ngay cả
những hình thức nhỏ nhất của sự phản kháng. Người ta cũng đã giết chết
ít nhất một ngàn người đối lập.
Tuy nhiên, ngoại trừ một vài cố vấn của nhà độc tài, chưa bao giờ
người ta truy nã bất kỳ quan chức nào. Cho đến bây giờ hồ sơ lưu trữ
đóng kín tại các Bộ nội vụ và Tư pháp vẫn là chủ chốt và chứng minh cho
một thời kỳ sợ hãi trước công an mật vụ cộng sản Securitate.
Đất nước này chỉ thực hiện một bước nhỏ về trách nhiệm đạo đức và
pháp luật là không xoá bỏ thời hạn cho tội ác chống lại nhân loại.
Trong năm 2006, Tổng thống bấy giờ là Traian Basescu đã chính thức
lên án những tội ác của thời Ceauşescu. Một năm sau đó cho thành lập
Viện Nghiên cứu tội ác Cộng sản và Tuởng nhớ Người Rumani Di tản
(IICCMER). Người ta đã lập một danh sách 170 người phải điều tra. Tuy
nhiên chỉ diễn ra một quá trình truy tố. Alexandru Visinescu, 88 tuổi,
ra tòa về việc trông coi nhà tù khét tiếng Ramnicu Sarat.
Các thế hệ trẻ có nguy cơ không biết gì về sự kiểm duyệt, trấn áp và
kiểm soát toàn dân. Tại sao? Bởi vì không ai khuyến khích họ tìm hiểu.
Sách giáo khoa không đề cập tới những vấn đề vi phạm liên tục pháp
luật dưới thời Ceauşescu. Gần 40 phần trăm thanh thiếu niên Rumani tin
rằng trong thời kỳ cộng sản sống tốt hơn. Bất cứ ai xem những hình ảnh
truyền hình của cuộc cách mạng Romania, sẽ không bao giờ quên. Những
người bình thường chỉ được trang bị bằng đá, gạch và ý nghĩa riêng của
họ về sự công bình, đã tấn công Toà nhà Nhân dân, pháo đài của chế độ
Cộng sản. Trên cả Quảng trường là tiếng rầm rì lan toả theo cuộc cách
mạng xảy ra.
Không ai có thể quên cảnh xử bắn nghiệt ngã Ceauşescus. Nhưng sự bóp
nghẹt tự do lâu ngày của nhà độc tài mà người Romania trải nghiệm trước
cuộc cách mạng, cùng với chạy trốn khỏi bộ nhớ của các kiến trúc sư của
cuộc cách mạng... và trước sự hiện diện của công lý. Sự thật được khắc
vào một trong các tượng đài di tích: "Chiến thắng vĩ đại của cộng sản
dựa trên một điều là nó đẩy con người ra khỏi bộ nhớ".
Tổng thống mới của Rumani hứa hẹn một cuộc kiểm tra kỹ lưỡng về những
gì đã xảy ra trước chế độ độc tài Nicolae Ceausescu, trong và sau khi
nó sụp đổ. -
- Chúng ta chưa bao giờ thực hiện một phép tính lương tâm - Tổng
thống mới cho biết. Có thể hoàn thành cuộc cách mạng năm 1989 và đối
diện với quá khứ bằng cách mở ra cho người Romania một tương lai minh
bạch.
Bản Việt ngữ © Lê Diễn Đức
-----------------------------------------------
* Bài được dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan, từ bài đăng trên nhật
báo Ba Lan "Polska The Times", ngày 06 tháng 01 năm 2015 tại link: http://www.polskatimes.pl/artykul/3704904,rumunia-przez-25-lat-nie-rozliczono-zbrodni-rezimu-ceausescu-nowy-prezydent-chce-to-zmienic,1,id,t,sa.html
AUTUM * NHÓM QUYỀN LỰC
Home › Blogs › autum's blog
Cơn sốt rét ác tính của các nhóm quyền lực
Mon, 01/26/2015 - 15:15 — autum
Nhà văn Võ Thị Hảo, viết từ Hà Nội
Từ 15/12/2014 đến nay, mỗi ngày blog Chân dung quyền lực lại thường thong dong thả ra một bài.Mỗi bài như một phần của khối u băng hoại được màn hình nội soi từ trong ruột của bộ máy quyền lực cao nhất của VN hiện thời trình ra cho dân chúng xem.
Từ 15/12/2014 đến nay, mỗi ngày blog Chân dung quyền lực lại thường thong dong thả ra một bài.Mỗi bài như một phần của khối u băng hoại được màn hình nội soi từ trong ruột của bộ máy quyền lực cao nhất của VN hiện thời trình ra cho dân chúng xem.
* Chờ đợi chân dung của những“đồng chí chưa bị lộ“
Dù chưa rõ độ xác thực của thông tin mà blog này đưa ra, nhưng đúng
như tên của blog, chân tướng của nhiều nhân vật trong một bộ máy quyền
lực tham lam, cánh hẩu, siêu trộm cướp và siêu vô đạo đang hút máu nhân
dân và đất nước VN đã được khắc họa một cách cụ thể, sắc nét đến mức
người ta khó mà không tin.
Dẫu lâu nay người dân cũng đã hình dung sự băng hoại cao nhất của vô
số nhân vật có quyền lực trong bộ máy, nhưng cũng không thể không sốc
và công phẫn trước những chi tiết, hiện trạng đã được trang blog này nêu
ra, với những tiêu đề sốc như „Cục u bướu di căn...“, Liên minh đen tối
hút máu quân đội và nhân dân…“, „Đề nghị TƯ thanh tra khối tài sản hàng
ngàn tỉ…“. Điều đáng nói, đây chỉ là một phần những chân dung trong bộ
máy quyền lực. Người ta có thể rùng mình khi nghĩ rằng nếu tất cả các
chân tướng của những „đồng chí chưa bị lộ“ đều được đưa ra ánh sáng thì
còn kinh khủng tới mức nào?
Nếu đúng như vậy, cộng thêm với những tư liệu từ blog Quan làm báo,
Dân làm báo… cũng đang đưa những tội ác và sự tham nhũng của bộ máy cầm
quyền, và mặc dù chưa được kiểm chứng, nhưng không phải không có những
chi tiết và chứng cứ khiến người ta muốn tin, thì phải chăng đây là bộ
máy quyền lực tội lỗi và tham lam nhất trong lịch sử VN từ cổ chí kim?!
Và mỗi ngày, người ta lại vào Chân dung quyền lực, để đón xem về
những „đồng chí chưa bị lộ“ mà dân thừa biết là nếu lộ ra thì cũng …ghê
sợ không kém.
* Cơn sốt rét ác tính.
Chân dung quyền lực – thế lực truyền thông mạnh nhất trong những
trang báo mạng „lề trái“ hiện đang nhân danh quyền lợi của nhân dân VN
để đưa ra các thông tin tố cáo rất cụ thể, đã gây ra một cơn „sốt rét ác
tính“, run rẩy đến tận chân răng của giới quyền lực.
Số người truy cập tăng từng giây, nhảy múa trước những con mắt và
cái miệng tham lam vô đáy của các quan chức „tay đã nhúng chàm“. Lượng
truy cập tăng gần triệu lượt mỗi ngày trong thời gian gần đây, khi công
chúng khao khát tìm biết những kẻ mà họ vốn phẫn uất và khinh miệt đã và
đang dùng cách nào để cướp đoạt miếng ăn và tương lai của họ, con cái
họ. Họ cố gắng „bói“ xem đằng sau vở kịch này là phe nào đang đấu với
phe nào và phấp phỏng chờ kết cục để an ủi cho sự bất lực của chính
mình. Với người dân VN, dẫu sao đó cũng là một bữa tiệc thông tin mà họ
bỗng nhiên được thưởng thức.
Muốn „cắt cơn sốt rét“ này của các đồng chí đã bị lộ và chưa bị lộ,
đồng thời minh oan cho những đồng chí bị vu oan giá họa bởi „lề trái“,
có một diệu kế.
Đó là phải đánh tan tác bọn „lề trái“, trong đó có Chân dung quyền
lực. Việc này tưởng khó mà lại cực dễ. Bằng cách báo „lề Đảng“ chiếm hết
thông tin, hớt tay trên của bọn lề trái.
*Hiến kế cắt cơn sốt rét : Bất chiến tự nhiên thành
Nhưng bọn lề trái là bọn nào mà kinh khủng và láo xược thế? Bọn này
từ trước đã ghê, bây giờ chúng lại có thêm Chân dung quyền lực nhập bọn,
mà chúng vẫn âu yếm gọi là „anh Lực“. Chẳng biết anh Lực động cơ thế
nào, có nhập bọn lâu không, nhưng quả là ba đầu sáu tay. Càng kêu gọi
trừ khử bọn diễn biến hòa bình, chúng càng trở nên ghê gớm.
Thực ra, lề trái là „con đẻ“ của lề Đảng.
Đó là hậu quả nhỡn tiền của việc bưng bít thông tin, của việc có
những nhóm người luôn đứng trên pháp luật và quyền lợi của nhân dân, đất
nước.
Đó mới là kẽ hở cho bọn lề trái gia nhập mạng thông tin. Nhất là khi
lề trái lại còn có khả năng đưa thông tin theo kiểu chuyên nghiệp, „nói
có sách mách có chứng“ từ ruột đưa ra. Lại là những thông tin lại về tội
ác tày trời, về khối tài sản khổng lồ do tham nhũng và trộm cướp của
nhân dân mà có, về nhiều nhân vật lãnh đạo cao nhất cùng cái sân sau
thân hữu, quyền lợi nhóm, sự buôn quan bán tước của những nhân vật này,
lâu nay vẫn bị xì xào bàn tán, bị nghi ngờ nhưng không bao giờ được
phát lộ bởi họ là những người đứng trên pháp luật VN, báo chí truyền
thông không thể tiếp cận, chạm đến là chết…Thông tin ấy do hiếm nên trở
thành vô giá.
Nhưng cần biết rằng bọn báo lề trái cũng có tử huyệt. Đâm trúng tử huyệt chúng là bất chiến tự nhiên thành.
Tử huyệt của bọn lề trái rất nông cạn. Chúng chỉ là loài ký sinh
thông tin. Chúng chỉ sống được trên làn rêu ẩm ướt tối tăm của sự bưng
bít thông tin, dối trá thông tin, bạo lực thông tin, bè phái thông tin
của các vị quan chức từ trên xuống dưới. Chúng là lũ chuyên dùng từ điển
ngược, như dùng „kính chiếu yêu“, soi ra gương mặt dị dạng của những
thông tin lừa bịp hoặc che giấu.
Vậy thì cắt cái chỗ ký sinh thông tin là diệt được bọn báo lề trái,
chấm dứt cuộc chiến mà ta hô hào bao lâu nay, tốn kém bao nhân tài vật
lực và tạo ra cho ta những cơn sốt rét.
Để đánh cho tan tác bọn báo lề trái trong đó có Chân dung quyền lực,
chỉ có một loại thuốc chữa, là những nhà lãnh đạo cao nhất hãy chỉ đạo
và tự mình bỏ ngay luật rừng nếu có sử dụng. Là đảm bảo chỉ tuân thủ
điều 6 và những điều khác của Luật phòng chống tham nhũng hiện hành và
yêu cầu các báo lề Đảng phải đưa tin ngay lập tức về sự thật, có sao
viết vậy, vét sạch thông tin không để cho bọn lề trái bất cứ mẩu xương
nào.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch quốc hội và Thủ tướng VN cùng
Trưởng Ban phòng chống tham nhũng, Bộ công an, Thanh tra chính phủ, Bộ
quốc phòng, ngành điều tra, kiểm sát và tòa án chỉ cần sực nhớ ra Luật
phòng chống tham nhũng, Luật Hình sự và Luật báo chí… để thực hiện,
cùng vào cuộc điều tra làm rõ xem những thông tin mà các trang mạng đưa
ra có đúng không hay là sự vu cáo để xử lý thích đáng.
Trong khi chỉ đạo, kẻ nào bao che, đưa thông tin không trung thực thì
„hốt liền“. Kẻ nào dùng côn đồ cấu kết với công an dọa dẫm hành hung
người tố cáo, như cách giật băng tang trên vòng hoa người chết vửa rồi,
thì xem có dây mơ rễ má gì với bọn đó không mà cũng tùy tội là „hốt
theo“. Nếu điều tra ra, thì các đồng chí cũng có công lớn nhất trong
việc kiếm tiền bằng cách thu hồi tài sản tham nhũng về cho đất nước.
Còn ngành truyền thông, thay vì đã sốt sắng nâng tầm cho những tố cáo
của báo lề trái tầm lên mức „loại tội phạm này có thể xếp vào những
nguy cơ an ninh lớn nhất cho đất nước và „như ở Anh, loại tội phạm này
có thể xếp ngang hàng tội tấn công khủng bố, thảm họa hạt nhân…“(Lời của
một ông Thứ trưởng), thì bây giờ hãy chống khủng bố, chống thảm họa hạt
nhân bằng cách đánh tan tác bọn báo lề trái, cắt cơn sốt rét ác tính
cho nhà cầm quyền.
Trách nhiệm của quan chức ngành truyền thông là phải tuân thủ ngay
điều 6 của Luật Phòng chống tham nhũng, chỉ đạo toàn nghành truyền thông
VN phải đi vào cuộc làm phóng sự điều tra để làm rõ trắng đen, bảo vệ
kịp thời những „cây ngay không sợ chết đứng“, bãi bỏ các „vùng cấm“
thông tin, theo quy định „công dân có quyền phát hiện, tố cáo hành vi
tham nhũng, có nghĩa vụ hợp tác, giúp đỡ cơ quan cá nhân có thẩm quyền
trong việc phát hiện, xử lý người có hành vi tham nhũng“(điều 6 Luật
Phòng chống tham nhũng). Kẻ nào chống tự do ngôn luận, đe dọa phóng viên
và người tố cáo, đương nhiên kiến nghị cơ quan chức năng „hốt liền“.
Một khi đã như thế, điều tra đến đâu công bố xử ly đến đó, báo lề
Đảng cắt hết nguồn ký sinh thông tin của bọn báo lề trái, những dạng như
„Chân dung quyền lực“ chỉ biết ngồi liếm mép mà chết héo thôi.
Một khi đã như thế, làm gì còn tình trạng bọn báo lề trái đưa ra cái
gì thì được người đọc khao khát hút lấy như người đang khát nước gặp
mưa. Số lượng truy cập trang Chân dung quyền lực cứ tăng vùn vụt từng
giây và có ngày tăng lên cả triệu lượt người đọc.
Nếu thế, chỉ trong vòng một tháng, không chỉ Chân dung quyền lực mà
đến Quan làm báo, Dân làm báo và vô số trang mạng „lề trái“ khác cũng
phải im tiếng, đóng cửa về nhà đi chăn mèo, vì không thể cạnh tranh
thông tin được với cả ngàn tờ báo lề Đảng đang răm rắp nằm chờ trong ống
tay áo của Ban Tuyên giáo TƯ và sẵn sàng lao ra nhanh nhất có thể khi
được lệnh đăng tải.
- Sẽ có những Chân dung quyền lực khác ?
Những keo đấu vật giữa các nhóm quyền lực và quyền lợi ngày càng lộ
rõ, nếu căn cứ và theo dõi thông tin trên cả nhóm lề Đảng và lề trái -
nhiều người cho rằng rất nhiều khi báo lề trái là báo lề Dân.
Sự ăn miếng trả miếng trả miếng đã rõ ràng. Có những cú đấm xoay
chuyển tình thế 180 độ giữa các phe nhóm. Ai nắm được kho tiền và kho
bổng lộc, người đó rốt cuộc sẽ thắng? Ai nắm được thủ túc trong nghành
công an và an ninh, người đó sẽ có khả năng tung ra nhữn cú động đất và
những cơn sốt rét ác tính làm loãng máu đối phương? Ai bán nước nhanh
gọn một cục hơn cho Trung quốc, để có cả một đại lục và tình báo Hoa Nam
hậu thuẫn phất cờ ván chót?
Và phần thắng cuối cùng mong rằng không cũng chỉ để vào tay một con
tắc kè khổng lồ sẵn sàng đổi màu, sẵn sàng tráo trở đổi sinh mạng nhân
dân và đất nước VN cho quyền lợi cá nhân và quyền lợi nhóm, dù họ nhân
danh ai?!
Sẽ có những Chân dung quyền lực khác trong tương lai? Chắc chắn là
có, dù dưới hình thức này hay hình thức khác. Vì đối phương không thể
không phòng vệ và trả miếng. Đó là quy luật sinh tồn.
Ai hưởng lợi trong cuộc đấu này?
Mong rằng diễn biến không như nhiều lần trước.
Hiện trạng nhiều lần trước đây cho thấy, dẫu chứng cứ tố cáo tham
nhũng có chính xác và thuyết phục đến đâu, cũng chỉ là những ngón đòn
tạm thời các đối thủ ra oai với nhau trong những phút cuối giành quyền
lực mà thôi. Rồi họ sẽ ngồi quanh bàn bầu dục tròn. Không ai làm gì ai
cả bởi nhìn ai cũng có „ngón tay thứ sáu“, có nét sinh ra cùng cha cùng
mẹ, không đánh chuột bởi chuột đã chính là bình. Sau khi ngã ngũ trong
cuộc chiến quyền lực, các đối thủ lại thỏa hiệp với nhau một cách mau
lẹ, dẫu không đoàn kết nhưng lại rất dễ thỏa thuận im lặng để đắm say
trong lạc thú chia chác các chiến lợi phẩm có được từ việc xẻo thịt đất
nước và nhân dân VN.
Dẫu sao, khi có cuộc chiến thông tin giữa các thế lực cầm quyền, là
đã manh nha cho các cuộc cạnh tranh chính trị giữa các nhóm lợi ích. Dẫu
đang sơ khai nhưng độ khốc liệt của nó sẽ đẩy nhanh tốc độ trưởng
thành.
Cuộc chiến ngày càng gay cấn thì dân càng được lợi. Hóa ra, đôi khi
những cuộc chiến quyền lực độc tài nhất cũng phải tựa vào chút lợi ích
của quyền tự do ngôn luận./.
Võ Thị Hảo
TIN THẾ GIỚI
;
Mỹ-Ấn kêu gọi bảo đảm tự do lưu thông tại Biển Đông
Thủ tướng Ấn N. Modi (trái) và tổng thống Mỹ, B. Obama, dự lễ duyệt binh nhân ngày Cộng Hòa, 26/01/2015.REUTERS/Stephen Crowley
Trong
một bản tuyên bố chung kết thúc chuyến công du Ấn Độ của tổng thống Mỹ
Barack Obama, lãnh đạo hai nước nhận định tầm quan trọng « an ninh hàng hải và hàng không trong khu vực, đặc biệt tại biển Nam Trung Hoa » tức Biển Đông. Bắc Kinh phản ứng tức khắc kêu gọi New Delhi « đừng rơi vào bẫy » của Washington.
Trong bài diễn văn đọc ngày 27/01/2015 tại New Delhi, tổng thống Mỹ Barack Obama tuyên bố
“Hoa Kỳ hoan nghênh vai trò lớn mạnh của Ấn Độ trong vùng châu Á Thái
Bình Dương, nơi mà quyền tự do lưu thông phải được duy trì. Mọi xung
khắc phải được giải quyết ôn hòa, không sử dụng vũ lực ».
Lời
tuyên bố này có cùng nội dung với bản tuyên bố chung công bố hôm Chủ
nhật, sau những cuộc thảo luận song phương giữa lãnh đạo Mỹ và thủ tướng
Ấn Narendra Modi, một nhân vật có lập trường cứng rắn đối với Trung
Quốc hơn là các nhà lãnh đạo tiền nhiệm.
Theo AFP, sự kiện tổng thống Obama cùng thủ tướng Modi khẳng định quyền tự do giao thông « trên biển và trên không đặc biệt tại Biển Đông » cho thấy Hoa Kỳ kỳ vọng vào Ấn Độ đóng vai trò chủ động hơn để cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc.
Tuy
hai nhà lãnh đạo Mỹ-Ấn không nêu đích danh Trung Quốc, nhưng trong bối
cảnh Bắc Kinh đang lấn chiếm vùng biển Đông Nam Á và có ý đồ thành lập
vùng nhận dạng phòng không tại đây, Hoa lục đã lập tức phản ứng.
Phát ngôn viên bộ ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh cho rằng Mỹ và Ấn Độ không nên lo xa vì « giao thông trong biển Nam Hải vẫn ổn định » và « mọi tranh chấp sẽ được giải quyết song phương bằng tham khảo ý kiến ».
Tuy
nhiên, chính quyền Trung Quốc để cho báo chí của đảng nhiệm vụ công
kích. Trong một bài bình luận, Hoàn Cầu Thời Báo kêu gọi New Delhi đừng
rơi vào âm mưu của Hoa Kỳ, trong chiến lược chuyển trục, lôi kéo Ấn Độ
vào liên minh bao vây Trung Quốc.
Bắc Kinh cũng đem lợi nhuận kinh tế ra để chiêu dụ Ân Độ với lời kêu gọi « nâng cao quan hệ chiến lược » kể cả trợ giúp, có điều kiện, trong vấn đề hạt nhân.
http://vi.rfi.fr/20150127-my-an//
Trung Quốc: Mỹ-Ấn không cần quan ngại về Biển Đông
Phổ biến ngày 27.01.2015
Tin tức: http://www.facebook.com/VOATiengViet,
http://www.youtube.com/VOATiengVietVideo,
http://www.voatiengviet.com.
Nếu không vào được VOA, xin các bạn hãy vào http://vn3000.com để vượt
tường lửa. Trung Quốc tuyên bố Hoa Kỳ và Ấn Độ không cần quan ngại về
quyền tự do hàng hải-hàng không tại Biển Đông, 1 ngày sau khi Washington
và New Delhi công bố ‘Tầm nhìn Chiến lược chung’ về Châu Á-Thái Bình
Dương. Tuyên bố Tầm nhìn chung của Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi và Tổng
thống Mỹ, Barack Obama không đề cập trực tiếp tới Trung Quốc nhưng nhắc
đến các quan ngại trong khu vực về Biển Đông, nơi đang có tranh chấp
chủ quyền giữa Bắc Kinh với hơn chục quốc gia Đông Nam Á.
Malaysia: ASEAN thảo luận về hồ sơ Biển Đông
Trong
hai ngày, kể từ hôm nay, 27/01/2015, tại Kota Kinabalu, Malaysia, các
Ngoại trưởng thành viên Hiệp hội Đông Nam Á - ASEAN, họp kín, thảo luận
về việc thực hiện Tuyên bố của các bên về ứng xử tại Biển Đông DOC và
thúc đẩy việc xây dựng một bộ luật mang tính ràng buộc COC.
Trong
cuộc họp báo ngày hôm qua, ông Anifah Aman Datuk Seri, Ngoại trưởng
Malaysia, nước hiện là Chủ tịch luân phiên ASEAN, đã thông báo nội dung
cuộc họp kín này và cho biết không loại trừ khả năng một số hồ sơ khác
cũng sẽ được đề cập đến.
Theo Ngoại trưởng Malaysia, trong năm nay, sẽ có ba cuộc họp của nhóm công tác hỗn hợp ASEAN-Trung Quốc về DOC và một cuộc họp của các quan chức cao cấp ASEAN-Trung Quốc về DOC.
Năm 2002, các quốc gia thành viên ASEAN và Trung Quốc đã ký DOC năm 2002, một văn kiện cơ bản cho việc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông. Trong tuyên bố, các bên liên quan khẳng định rằng việc thông qua một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông sẽ tiếp tục thúc đẩy hòa bình và ổn định trong khu vực và đồng ý làm việc, trên cơ sở đồng thuận, nhằm hướng tới đạt được mục tiêu cuối cùng này.
Kuala Lumpur đã nhấn mạnh sự cần thiết thúc đẩy tiến độ đàm phán để có thể sớm đạt được một bộ luật về ứng xử của các bên ở Biển Đông - COC - mang tính ràng buộc.
Vào tháng 06/2014, Thủ tướng Malaysia Datuk Seri Najib Tun Razak đã nhấn mạnh đến việc thượng tôn pháp luật để giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông.
10 nước thành viên ASEAN gồm Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan, Brunei và Việt Nam. Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ ở Biển Đông với một số đối tác ASEAN như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei.
Bắc Kinh nhiều lần tuyên bố sẵn sàng giải quyết các tranh chấp thông qua thương lượng nhưng chỉ trong khuôn khổ đàm phán song phương, tức là giữa Trung Quốc với từng quốc gia có tranh chấp.
http://vi.rfi.fr/20150127-asean//Theo Ngoại trưởng Malaysia, trong năm nay, sẽ có ba cuộc họp của nhóm công tác hỗn hợp ASEAN-Trung Quốc về DOC và một cuộc họp của các quan chức cao cấp ASEAN-Trung Quốc về DOC.
Năm 2002, các quốc gia thành viên ASEAN và Trung Quốc đã ký DOC năm 2002, một văn kiện cơ bản cho việc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông. Trong tuyên bố, các bên liên quan khẳng định rằng việc thông qua một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông sẽ tiếp tục thúc đẩy hòa bình và ổn định trong khu vực và đồng ý làm việc, trên cơ sở đồng thuận, nhằm hướng tới đạt được mục tiêu cuối cùng này.
Kuala Lumpur đã nhấn mạnh sự cần thiết thúc đẩy tiến độ đàm phán để có thể sớm đạt được một bộ luật về ứng xử của các bên ở Biển Đông - COC - mang tính ràng buộc.
Vào tháng 06/2014, Thủ tướng Malaysia Datuk Seri Najib Tun Razak đã nhấn mạnh đến việc thượng tôn pháp luật để giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông.
10 nước thành viên ASEAN gồm Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan, Brunei và Việt Nam. Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ ở Biển Đông với một số đối tác ASEAN như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei.
Bắc Kinh nhiều lần tuyên bố sẵn sàng giải quyết các tranh chấp thông qua thương lượng nhưng chỉ trong khuôn khổ đàm phán song phương, tức là giữa Trung Quốc với từng quốc gia có tranh chấp.
TQ tổ chức diễn binh lớn để đe dọa Nhật
RFA
2015-01-27
2015-01-27
Năm nay, Trung Quốc sẽ tổ chức cuộc diễn hành quân sự lớn chưa từng
có, với các mục đích biểu dương sức mạnh quốc phòng, đánh dấu kỷ niệm
70 năm ngày thế chiến thứ Hai kết thúc, và đe dọa Nhật Bản.
Tin này được phổ biến trên trang mạng của tờ Nhân Dân Nhật Báo, là cơ quan truyền thông chính thức của đảng và nhà nước Hoa Lục, và được các tờ báo khác trích dẫn lại.
Bản tin không cho biết cuộc diễn hành sẽ được tổ chức vào thời điểm nào, chỉ nói là sẽ không diễn ra vào ngày Quốc Khánh Mùng 1 Tháng Mười.
Bản tin này có đoạn viết với nội dung cho rằng biểu dương sức mạnh quân sự là cách duy nhất để cho Nhật Bản biết rằng quốc gia nào chạm đến quyền lợi cốt lõi của Trung Quốc đều bị người dân và chính phủ Hoa Lục xem là kẻ thù, và Bắc Kinh không bao giờ http://www.rfa.org/vietnamese/internationalnews/china-to-hold-military-parade-to-frighten-japan--report-01272015091440.htmlnhân nhượng với kẻ thù.
TQ 'đang xây căn cứ quân sự gần Nhật'
Đảo Nam Cát chỉ cách Senkaku/Điếu Ngư chừng 300km, còn Okinawa, nơi đặt các căn cứ quân sự lớn của Hoa Kỳ và Nhật, cách khu vực có tranh chấp này 400km.
Tin tức về việc Trung Quốc xây căn cứ quân sự tại Nam Cát lần đầu tiên được hãng tin Kyono News của Nhật loan tải hồi cuối tháng trước.
"Một số điểm đặt radar lớn đã được lắp đặt tại các vị trí cao trên đảo Nam Cát. Một số ô đáp trực thăng đã được xây, nhiều khả năng là để phục vụ các phi cơ chuyên đậu trên tàu chiến hoặc tàu tuần tra, và đã có thêm các ô đáp đang được xây trên một hòn đảo gần với Nam Cát trong thời gian năm tới," Kyodo nói.
Sau khi Kyodo đưa tin, phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng Trung Quốc Dương Vũ Quân nói rằng đó "thuần túy là tin nhảm của báo chí", nhưng khẳng định: "Việc nghi ngờ và chỉ trích đã đi quá giới hạn khi Trung Quốc có các hoạt động và tiến hành xây dựng trên phần lãnh thổ của mình.
"Một số báo chí Nhật đã đưa ra những đồn đoán không liên quan về các hoạt động hợp pháp của Trung Quốc và đã cố làm tăng căng thẳng trong khu vực."
Việc xây dựng căn cứ trên đảo Nam Cát là nhằm tăng cường khả năng sẵn sàng đối phó của Trung Quốc trong các cuộc khủng hoảng quân sự, và nhằm tăng cường khả năng giám sát vùng nhận dạng phòng không mà Bắc Kinh đã tuyên bố trong khu vực hồi tháng 11/2013, theo nhận định của hãng tin Kyodo.
Tuy nhiên, một nhà nghiên cứu cao cấp từ Viện Nghiên cứu Hải quân Trung Quốc nói với hãng tin Bloomberg rằng quân đội Trung Quốc đã có sự hiện diện ở mức khiêm tốn tại nơi này từ trước.
"Đó là nơi có vị trí chiến lược quan trọng bởi rất gần với Điếu Ngư... Không tranh cãi gì, rõ ràng Trung Quốc muốn tăng sự hiện diện quân sự tại đây," nhà nghiên cứu không nêu tên nói.
Tin này được phổ biến trên trang mạng của tờ Nhân Dân Nhật Báo, là cơ quan truyền thông chính thức của đảng và nhà nước Hoa Lục, và được các tờ báo khác trích dẫn lại.
Bản tin không cho biết cuộc diễn hành sẽ được tổ chức vào thời điểm nào, chỉ nói là sẽ không diễn ra vào ngày Quốc Khánh Mùng 1 Tháng Mười.
Bản tin này có đoạn viết với nội dung cho rằng biểu dương sức mạnh quân sự là cách duy nhất để cho Nhật Bản biết rằng quốc gia nào chạm đến quyền lợi cốt lõi của Trung Quốc đều bị người dân và chính phủ Hoa Lục xem là kẻ thù, và Bắc Kinh không bao giờ http://www.rfa.org/vietnamese/internationalnews/china-to-hold-military-parade-to-frighten-japan--report-01272015091440.htmlnhân nhượng với kẻ thù.
- 9 giờ trước
Các
hình ảnh chụp từ vệ tinh xác nhận nội dung được nêu trong các tường
thuật trước, theo đó nói Trung Quốc đang xây dựng một căn cứ quân sự
gần khu vực mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư, mà Nhật gọi là Senkaku, nơi
Nhật cũng tuyên bố chủ quyền và đang quản lý, trang tin
nationalinterest nói.
Tuần báo quốc phòng
IHS Jane nói rằng các hình chụp được từ tháng Mười 2014 cho thấy
Trung Quốc đang xây một bãi đáp trực thăng với 10 chỗ đậu, có turbin
gió trên đảo Nam Cát (Nanji), là một trong cụm 52 đảo thuộc quần đảo
của tỉnh Chiết Giang.Đảo Nam Cát chỉ cách Senkaku/Điếu Ngư chừng 300km, còn Okinawa, nơi đặt các căn cứ quân sự lớn của Hoa Kỳ và Nhật, cách khu vực có tranh chấp này 400km.
Tin tức về việc Trung Quốc xây căn cứ quân sự tại Nam Cát lần đầu tiên được hãng tin Kyono News của Nhật loan tải hồi cuối tháng trước.
"Một số điểm đặt radar lớn đã được lắp đặt tại các vị trí cao trên đảo Nam Cát. Một số ô đáp trực thăng đã được xây, nhiều khả năng là để phục vụ các phi cơ chuyên đậu trên tàu chiến hoặc tàu tuần tra, và đã có thêm các ô đáp đang được xây trên một hòn đảo gần với Nam Cát trong thời gian năm tới," Kyodo nói.
Sau khi Kyodo đưa tin, phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng Trung Quốc Dương Vũ Quân nói rằng đó "thuần túy là tin nhảm của báo chí", nhưng khẳng định: "Việc nghi ngờ và chỉ trích đã đi quá giới hạn khi Trung Quốc có các hoạt động và tiến hành xây dựng trên phần lãnh thổ của mình.
"Một số báo chí Nhật đã đưa ra những đồn đoán không liên quan về các hoạt động hợp pháp của Trung Quốc và đã cố làm tăng căng thẳng trong khu vực."
Việc xây dựng căn cứ trên đảo Nam Cát là nhằm tăng cường khả năng sẵn sàng đối phó của Trung Quốc trong các cuộc khủng hoảng quân sự, và nhằm tăng cường khả năng giám sát vùng nhận dạng phòng không mà Bắc Kinh đã tuyên bố trong khu vực hồi tháng 11/2013, theo nhận định của hãng tin Kyodo.
Tuy nhiên, một nhà nghiên cứu cao cấp từ Viện Nghiên cứu Hải quân Trung Quốc nói với hãng tin Bloomberg rằng quân đội Trung Quốc đã có sự hiện diện ở mức khiêm tốn tại nơi này từ trước.
"Đó là nơi có vị trí chiến lược quan trọng bởi rất gần với Điếu Ngư... Không tranh cãi gì, rõ ràng Trung Quốc muốn tăng sự hiện diện quân sự tại đây," nhà nghiên cứu không nêu tên nói.
VN 'tiến thoái lưỡng nan' vì giá dầu?
Chính
phủ Việt Nam chưa biết cách phát huy mặt tích cực và hạn chế tác động
tiêu cực của tình trạng giảm giá dầu, theo ý kiến một chuyên gia trong
nước.
Nhận định trên đuợc kinh tế gia Phạm Chi Lan, cựu
thành viên trong ban cố vấn chính phủ, đưa ra trong cuộc phỏng vấn với
BBC ngày 27/1.
Trước đó, hôm 22/1, Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư Bùi
Quang Vinh được báo điện tử VnExpress dẫn lời cho biết tăng trưởng kinh
tế năm 2015 sẽ trượt xa so với chỉ tiêu nếu giá dầu tiếp tục giảm.
"Khi
giá dầu về mức 40 đôla mỗi thùng ... thì GDP có thể giảm 1%, nghĩa là
nếu dự kiến 2015 GDP tăng 6,2% thì chỉ còn 5,2% mà thôi”, ông nói.
Trước đó, một số ý kiến trong giới quan sát cho rằng việc giá dầu giảm xuống 40 đôla/thùng là hoàn toàn có thể xảy ra.
"Không
có dấu hiệu nào cho thấy Opec sẽ ngưng sản xuất quá mức, vì vậy, nhiều
khả năng chúng ta sẽ thấy giá dầu giảm xuống mức 40 đôla trong những
tuần tới," phân tích gia Michael Hewson từ CMC Markets nói với BBC trong
cuộc phỏng vấn gần đây.
Trong tin ngày 27/1, báo tài chính
Bloomberg dẫn số liệu riêng cho biết thâm hụt ngân sách của Việt Nam sẽ
đạt 5,3% GDP trong năm nay, cao hơn mức chỉ tiêu 5%.
Hiện dự toán thu ngân sách từ dầu thô cho năm 2015 là 93 nghìn tỷ đồng, theo số liệu từ Bộ Kế hoạch Đầu tư.
Khoản thu ngân sách trên dựa trên mức giá dự toán dầu thô là 100 đôla/thùng.
Điều
này đồng nghĩa với việc Việt Nam có thể hụt thu ngân sách khoảng 60.000
tỷ đồng trong năm nay nếu giá dầu rơi xuống mức giá 40 đôla/thùng,
tương đương 3 tỷ đôla.
'Không phát huy được lợi thế'
"Tôi
nghĩ là chính phủ đang cố gắng nhưng thực sự để bù với hụt thu ngân
sách thì không dễ dàng", bà Phạm Chi Lan nói với BBC qua điện thoại".
"Ngay
cả giá dầu giảm có giúp cho giá đầu vào của các sản phẩm khác giảm thì
cũng cần có thời gian và trông đợi vào nỗ lực thực tế của các ngành cũng
như sự phục hồi của các doanh nghiệp".
Dù giá dầu có không giảm hay không thì cũng cần tái cơ cấu về chi tiêu công. Gánh nặng trả nợ đang ngày càng lớn, chiếm phần lớn hơn so với GDP
Bà Lan cho rằng vấn đề ngân sách cần được xem xét dù có xảy ra tình trạng giảm giá dầu hay không.
"Tôi
cho rằng đây cũng là một dịp để xem lại vấn đề ngân sách theo hướng
khác, nghĩa là thực hiện theo tinh thần tái cơ cấu như đã đề ra với đầu
tư công. Làm sao để không chỉ đầu tư công mà chi tiêu công cũng hiệu quả
hơn", bà nói.
"Như mấy năm vừa rồi chi thường xuyên tăng rất cao và vì vậy làm ảnh hưởng đến phần đầu tư của nhà nước."
"Dù
giá dầu có không giảm hay không thì cũng cần tái cơ cấu về chi tiêu
công. Gánh nặng trả nợ đang ngày càng lớn, chiếm phần lớn hơn so với
GDP."
Trong nỗ lực nhằm phát huy lợi thế của tình trạng giảm giá
dầu, chính phủ Việt Nam đã chỉ đạo cho các doanh nghiệp bán lẻ giảm giá
xăng ít nhất 20 lần từ giữa năm 2014.
Tuy nhiên theo bà Lan, nỗ lực này không tạo những tác động đáng kể.
"Những cố gắng giảm giá xăng dầu trước hết để đáng hoan nghênh", bà nói.
"Nhưng những lần giảm, nhất là trong thời gian đầu, quá nhỏ giọt, không tạo thay đổi tích cực lên vật giá".
"Ngành
liên quan nhất là vận tải, có giá đầu vào xăng dầu chiếm rất lớn trong
chi phí, thì giá cước vận tải chưa giảm được bao nhiêu."
"Ở đây có
một số người lấy lý do là trong thời gian vừa qua thì thời gian vừa qua
xăng tăng quá nhiều, người ta không kịp tăng theo, tới khi giá giảm ít
một thì người ta cho là chưa đủ để giảm giá vận tải."
"Đến nay mức
giảm giá đã khá lớn thì cũng đã đến lúc các doanh nghiệp vận tải phải
giảm giá xuống mới hợp lý, nhưng họ không làm."
"Vì vậy nên giá đầu vào cho các doanh nghiệp trong những lĩnh vực khác cũng không được bao nhiêu."
TỔ CHỨC SIÊU QUYỀN LỰC
Nhóm Siêu Quyền Lực Trên Thế Giới
Xin gửi đến qúy vị một bài viết về những thế lực thực sự quyết
định chính sách của nước Mỹ và cả thế giới tư bản không phải
là chính phủ , quốc hội Mỹ hoặc của các nước Âu Tây , mà nằm
trong tay giới tài phiệt (Tư bản) Âu Mỹ . Nếu bài viết này đúng
sự thật thì chúng ta có thể hiểu tại sao Mỹ bỏ VNCH ,
tại sao Mỹ phải nhảy vào Irak , tại sao Mỹ phải bảo vệ Do Thái vv...
CHÚNG
TA THƯỜNG
NÓI ĐẾN
SIÊU QUYỀN
LỰC
-ĐÓ LÀ
BILDERBERGERS-
ĐỤNG
ĐẾN
VÀNG ĐEN
TRUNG
CỘNG
ĐỤNG
ĐẾN
ĐÁM SIÊU QUYỀN
LỰC
-
NHẤT
ĐỊNH
TRUNG CÔNG PHẢI
NHƯỢNG
BỘ
-
SƠ
ĐỒ
TỔ
CHỨC
SIÊU QUYỀN
LỰC
Lý
do Trung cộng
dời
giàn khoan
Đêm
15/7/2014, bọn
hung hăng Tầu
Cộng
đã buộc
phải
rút giàn khoan
HD981 ra khỏi
thềm
lục
địa
Việt
Nam. Đây là một
cú mất
mặt
"bá quyền"
của
tập
đoàn đầu
sỏ
Tập
Cận
Bình và Đảng
Trung Cộng.
Nhóm "Siêu Quyền
Lực"
thế
nào mà buộc
Tầu
Cộng
đã phải
lùi bước
trước
công luận
thế
giới?
Kính
mời
quý vị
tìm hiểu
vài điều
bí ẩn
vụ
này, tại
Link sau đây:
HD-981 "CHUỒN" KHỎI BIỂN ĐÔNG CỦA VN!
Sau khi Thượng Viện Hoa Kỳ ra Nghị Quyết số 412 ngày 10-7-2014 cảnh cáo TC và đòi TC phải rút Giàn Khoan ra khỏi Biển Đông nơi tranh chấp với VN; ngày 11-7-2014, ông
Michael
Fuchs, Phó Trợ
Lý Ngoại
Trưởng
Hoa Kỳ phụ
trách Chiến
Lược
và Quan Hệ
Địa
Phương
khu vực
Đông Á và Thái
Bình Dương,
bày tỏ
quan ngại
sâu sắc
về
tình hình ở
Biển
Đông và chỉ
trích kiểu
hành xử
khiêu khích của
Trung cộng
tại
đây
Ngày
15-7-2014 Phát
ngôn viên của
Trung
cộng
lên tiếng
khuyến
báo Hoa Kỳ
không được
can thiệp
vào các vấn
đề
tranh chấp
giữa
TC và các nước
láng giềng
về
vấn
đề
Biển
Đông
Nhưng
ngay sau
đó, TT
Barack Obama
đã điện
đàm với
Chủ
Tịch
Trung cộng
Tập
Cận
Bình để
nói thẳng
thừng
rằng
mặc
dù Hoa Kỳ
muốn
có những
hợp
tac tốt
đẹp
với
TC, nhưng
nếu
TC không rút
Giàn Khoan ra
khỏi
Biển
Đông và chấm
dứt
các hành động
hung hăng xâm
lược,
thì TC sẽ
gánh chịu
mọi
thiệt
hại
về
các trừng
phạt
kinh tế,
tài chánh và
ngoại
giao của
Hoa Kỳ và thế
giới
Hiện
nay Hoa Kỳ có
liên minh
chính thức
với
80 quốc
gia trên khắp
thế
giới;
Nga có liên
minh với
8 quốc
gia nhỏ,
và Trung CỘNG
chỉ
có 1 liên minh
duy nhất
là Bắc
Triều
Tiên.
Bắc
Triều
Tiên là nước
sản
xuất
vũ khí nguyên
tử;
trong khi Iran
là nước
có hệ
thống
lò xử
lý các chất
Uranium để
chế
vũ khí nguyên
tử.
TC liên kết
đống
minh với
Bắc
Triều
Tiên với
ý đồ
nâng khả
năng nguyên tử
của
TC
lên thế
mạnh;
cùng
lúc TC tìm
cách ve vãn viện
trợ
cho Iran để
trấn
áp vùng Trung
Đông.
Một số thành
viên dự Hội
Nghị
Bilderberg
TT Obama và
bà Ngoại
Trưởng
Hillary
Clinton đến
Thế
nhưng
phiên họp
hằng
năm của
Siêu Quyền
Lực
Hoa Kỳ và thế
giới
là Bilderberg
họp
vào các ngày từ
5 đến
8-6-2008 tại
Chantilly,
Virginia,
Washington
D.C. với 140
nhân vật
đại
diện
13
tổ
chức
Siêu Quyền
Lực
Illuminati tham
dự,
đã quyết
định
sẽ
giải
quyết
vấn
đề
an ninh nguyên
tử,
giải
giới
và cấm
nguyên tử
đối
với
Bắc
Triều
Tiên và Iran;
vấn
đề
sắp
đặt
trật
tự
tại
Phi Châu, Nga,
Afghanistan,
Pakistan; vấn
đề
Hồi
Giáo và Trung
Đông; vấn
đề
Khủng
Bố,
vấn
đề
kinh tế
tài chánh và sắp
xếp
lại
ngân hàng thế
giới;
an ninh mạng;
và vấn
đềchọn
Tổng
Thống
cho Hoa Kỳ để
điều
hành
trật
tự
Thế
Giới
Mới!
Thượng
Nghị
Sĩ da đen
Barack Obama được
Siêu Quyền
Lực
chọn
và mời
ông đến
tham gia phiên
họp
ngày 5 đến
8-6-2008 tại
Khách sạn
Chantilly ở
Washington DC,
trước
khi ông tranh
cử
và đắc
cử
chính thức
làm Tổng
Thống
thứ
44 Hoa Kỳ vào
ngày
02-11-2008
(How Bilderberg Made Obama ).
Qua
sự
chọn
lựa
nầy,
Ứng
Cử
Viên Barack
Obama được
Siêu Quyền
Lực
tổ
chức
buổi
nói chuyện
trên sân vận
động
ở
Đức
với
trên 200,000
người
hoan hô nhiệt
liệt
vào ngày
24-7-2008.
Đia
điểm
họp
Hội
Nghị
Bilderberg năn
2014
TNS
Barack Obama đắc
cử
Tổng
Thống
Thứ
44 Hoa Kỳ vào
ngày
04-11-2008, và
nhiệm
vụ
của
ông là thi
hành đường
lối
như
nghị
trình
Bilderberg đã
vạch
ra tại
hội
nghị
từ
5 đến
8-6-2008 ở
Chantilly,
Washington DC.
Tiếp
đến
là Hội
Nghị
Siêu Quyền
Lực
Illuminati Bilderberg
2009 họp
các ngày 14 đến
17-5-2009 tại
bán đảo
du lịch
Vouliagmeni
thuộc
thành phố
Athens của
Hy Lạp
TT
Obama và bà
Ngoại
Trưởng
Hillary
Clinton đều
đến.
Hội
nghị
nầy
quyết
định
xoay trục
chiến
lược
chuyển
60% sức
mạnh
Quân sự
Hoa Kỳ qua Á
Châu – Thái
Bình Dương;
thanh toán
khủng
bố
và Osama Bin
Laden; họp
hội
nghị
quốc
tế
về
an ninh nguyên
tử,
kinh tế,
tài chánh và vấn
đề
TC.
Căn
cứ
quyết
định
nầy
của
Siêu Quyền
Lực,
vào ngày 12 và
13-4-2010, TT
Barack Obama
cho triệu
tập
Hội
Nghị
Quốc
Tế
về
an ninh nguyên
tử
lần
đầu
tiên
nhóm họp
tại
Washington DC
và Thủ
Tướng
Nguyễn
Tấn
Dũng của
CSVN được
mời
đầu
tiên trong
danh sách 44
quốc
gia và 3 tổ
chức
quốc
tế
về
nguyên tử.
Qua hội
nghị
nầy,
Hoa Kỳ đã phá
bỏ
số
lương
lớn
các vũ khí
nguyên tử
từ
Đệ
II Thế
Chiến,
có các quyết
định
chó các quyết
định
cho
tổ
chức
quốc
tế
về
nguyên tử
kiểm
soát Iran và sẽ
cấm
Bắc
Triều
Tiên thủ
đắc
về
Nguyên
Tử.
TRẦN HỒNG TÂM * CHÂN DUNG QUYỀN LỰC
Mũi thuyền xé sóng – Mũi Cà Mau
Chân dung Quyền lực
Năm năm Đại hội đại biểu một lần, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương (BCH –TU). Từ đó, BCH –TU bầu Tổng Bí thư, và các Ủy viên Bộ Chính trị (BCT). Nói một cách lý thuyết thì BCH –TU là cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng. Điều 36 mục 3, Điều lệ Đảng viết: “Ban Chấp hành Trung ương quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, kể cả Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Bộ Chính trị.”
Chân dung Quyền lực
Xin kính gửi đến quý độc giả bài viết
của tác giả Trần Hồng Tâm đăng tải trên trang mạng Đàn Chim Việt về
những thăng trầm trong sự nghiệp của ông Nguyễn Tấn Dũngvà nhận địnhcủa
tác giả đối với các lãnh đạo trong thời điểm hiện tại và tương lai sắp
tới.
Năm năm Đại hội đại biểu một lần, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương (BCH –TU). Từ đó, BCH –TU bầu Tổng Bí thư, và các Ủy viên Bộ Chính trị (BCT). Nói một cách lý thuyết thì BCH –TU là cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng. Điều 36 mục 3, Điều lệ Đảng viết: “Ban Chấp hành Trung ương quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, kể cả Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Bộ Chính trị.”
Bài học Trần Xuân Bách
Tháng Năm năm 2013, Hội nghị BCH – TU 7 khai mạc. Tổng Bí thư đích thân đứng ra giới thiệu hai đồng chí: Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vào Bộ Chính trị.
Hội nghị Trung ương 10, Khóa XI
Tháng Ba năm 1990, Nguyễn Văn Linh ra
tay trừng trị Trần Xuân Bách. Trong BCT lúc đó có đến ba nhân vật cấp
tiến: Trần Xuân Bách, Nguyễn Cơ Thạch và Võ Văn Kiệt. Cả hai ông Thạch
và Kiệt thúc thủ. Ông Bách đơn thương độc mã, chống đỡ trong vô vọng
dưới trận đòn của Nguyễn Văn Linh.
Cuối cùng, ông Bách không những bị đuổi ra khỏi BCT mà còn bị trục xuất ra khỏi BCH –TU. Lần đầu tiên trong lịch sử ĐCSVN có một Ủy viên Bộ Chính trị bị kỷ luật nặng đến như thế.
Cũng trong khoảng thời gian đó, ông Linh còn lạm quyền, vi phạm nguyên tắc, điều lệ đảng, tùy tiện không cho hai Ủy viên Trung ương vào phòng họp.
Hội nghị Trung ương 6, Khóa XI
Giữa năm 2012, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng định lặp lại thủ đoạn này với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Ông Trọng dùng bài “Phê và tự phê” trong nội bộ BCT. Ông Dũng cùng hàng trợ lý không khoanh tay chịu trận, không để cho Tổng Bí thư lấn sân. BCH – TU là cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng mới đủ thẩm quyền quyết định.
Tháng Mười năm 2012, Hội nghị BCH – TU 6 khai mạc. Ông Trọng tuyên bố: “Bộ Chính trị đã thống nhất 100% đề nghị BCH – TU cho được nhận một hình thức kỷ luật và xem xét kỷ luật đối với một đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị.”
Cùng lúc, blog Quan Làm Báo ra đời, tung những thông tin cá nhân tấn công Nguyễn Tấn Dũng. Thậm chí, còn tung tin gia đình ông Dũng đã bắt đầu di tản khỏi Việt Nam.
Hội nghị BCH – TU 6 bế mạc. Thế cờ lật ngược. Ông Dũng bình an. Ông Trọng diễn một màn bi hài chưa từng có trong lịch sử: Khóc trên kênh truyền hình quốc gia, xin BCH – TU cho Bộ Chính trị một hình thức kỷ luật nhưng không được.
Từ đó, uy tín cá nhân của ông Trọng lao xuống vực trong khi uy tín của Thủ tướng Dũng bắt đầu có dấu hiệu khôi phục.
Hội nghị Trung ương 7, Khóa XI
Cuối cùng, ông Bách không những bị đuổi ra khỏi BCT mà còn bị trục xuất ra khỏi BCH –TU. Lần đầu tiên trong lịch sử ĐCSVN có một Ủy viên Bộ Chính trị bị kỷ luật nặng đến như thế.
Cũng trong khoảng thời gian đó, ông Linh còn lạm quyền, vi phạm nguyên tắc, điều lệ đảng, tùy tiện không cho hai Ủy viên Trung ương vào phòng họp.
Hội nghị Trung ương 6, Khóa XI
Giữa năm 2012, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng định lặp lại thủ đoạn này với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Ông Trọng dùng bài “Phê và tự phê” trong nội bộ BCT. Ông Dũng cùng hàng trợ lý không khoanh tay chịu trận, không để cho Tổng Bí thư lấn sân. BCH – TU là cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng mới đủ thẩm quyền quyết định.
Tháng Mười năm 2012, Hội nghị BCH – TU 6 khai mạc. Ông Trọng tuyên bố: “Bộ Chính trị đã thống nhất 100% đề nghị BCH – TU cho được nhận một hình thức kỷ luật và xem xét kỷ luật đối với một đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị.”
Cùng lúc, blog Quan Làm Báo ra đời, tung những thông tin cá nhân tấn công Nguyễn Tấn Dũng. Thậm chí, còn tung tin gia đình ông Dũng đã bắt đầu di tản khỏi Việt Nam.
Hội nghị BCH – TU 6 bế mạc. Thế cờ lật ngược. Ông Dũng bình an. Ông Trọng diễn một màn bi hài chưa từng có trong lịch sử: Khóc trên kênh truyền hình quốc gia, xin BCH – TU cho Bộ Chính trị một hình thức kỷ luật nhưng không được.
Từ đó, uy tín cá nhân của ông Trọng lao xuống vực trong khi uy tín của Thủ tướng Dũng bắt đầu có dấu hiệu khôi phục.
Hội nghị Trung ương 7, Khóa XI
Tháng Năm năm 2013, Hội nghị BCH – TU 7 khai mạc. Tổng Bí thư đích thân đứng ra giới thiệu hai đồng chí: Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vào Bộ Chính trị.
Cuộc bầu bán vô cùng gian nan, kéo dài đến ba giờ sáng vẫn không ngã ngũ. Bầu
chính thức, bầu lại, rồi bầu bổ sung. Cả hai ứng cử viên trên vẫn không hội đủ
số phiếu quy định, nhưng Nguyễn Thiện Nhân và Nguyễn Kim Ngân đắc cử ngoài dự
kiến.
Lại một chuyện chưa từng có trong lịch sử của ĐCSVN đã xảy ra ở Hội nghị này.
Ý kiến của Tổng Bí thư Trọng không trọng lượng. Hay nói một cách khác, ông không
được các Ủy viên Trung ương tôn trọng.
Những ngày cuối tháng Sáu, 2013, Quốc hội Việt Nam họp lấy phiếu tín nhiệm,
ông Dũng chỉ đạt 42.14% phiếu tín nhiệm cao. Cuối tháng 11 năm 2014, Quốc hội
lấy phiếu tín nhiệm lần hai: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, chiếm tỉ lệ 64,39% tín
nhiệm cao.
Ông thở phào nhẹ nhõm. Nếu hai năm liền ông đạt tỷ lệ dưới 50%, các đấu thủ
sẽ gây sức ép bắt ông phải từ chức. Giờ đây, cơn giông tố đã qua. Ông lấy lại
được sự quân bình.
Tháng Giêng 2015, tại Hội nghị 10, Trung ương lấy phiếu tín nhiệm các Ủy viên
Bộ Chính trị. Kế quả bị giấu kín, coi đó là bí mật quốc gia. Nhưng có tin đồn:
Thủ tướng Dũng đạt số phiếu tín nhiệm cao nhất.
Người ta không phải mất quá nhiều thời gian và công sức để xác minh tính chân
thực của thông tin trên. Vài ngày sau blog Chân Dung Quyền Lực công bố kế quả.
Lời đồn đoán trên đây là chính xác. Nếu chỉ tính riêng phiếu “tín nhiệm cao” thì
ông Dũng đứng đầu. Nếu tính tổng số phiếu “tín nhiệm cao” và “tín nhiệm” thì ông
Sang cao hơn, nhưng chỉ hơn đúng một phiếu.
Điều này khẳng định rằng, sự nghiệp chính trị của ông Dũng chưa thể kết thúc
ở cuối nhiệm kỳ này. Hoặc ông vẫn giữ chức Thủ tướng, hoặc ông sẽ lên làm Tổng
Bí thư khóa XII. Ở lại chức thủ tướng có lẽ không mấy khó khăn, nhưng leo lên
tổng bí thư thì vô vàn những gian nan, rủi ro và cạm bẫy đang rình rập ông phía
trước.
Bài học Võ Văn Kiệt
Năm 1995, uy tín của ông Kiệt trong đảng và trong dân rất cao. Tổng bí thư Đỗ
Mười ở tuổi 80. Ông Kiệt trở thành ứng cử viên cho chức tổng bí thư vào Đại hội
VIII. Điều này đã làm cho Trung Quốc và đặc biệt là Nguyễn Văn Linh không loại
trừ một thủ đoạn nào để loại ông Kiệt ra khỏi sân chơi.
Bắt đầu bằng việc bôi xấu vợ ông Kiệt, bà Phan Lương Cầm. Hình bà Cầm mang
gói quà được truyền tay nhau: “Ông xem, nó chỉ đi để lấy quà”, và lời đồn thổi
về chuyên cơ chở bà Cầm mang nhiều hàng hóa. Ông Linh công khai: Bà Cầm tham
nhũng.
Ông Kiệt lấy vợ, ông Linh cho là “ẩu”, “không thèm hỏi ai”, “không chấp nhận
được”. Ông Kiệt chơi tennis, ông Linh cho là “xa rời lối sống và đạo đức cách
mạng”, “tốn kém” và “học đòi”. Ông Kiệt có con ngoài giá thú, ông Linh chỉ mặt
từng đứa một. Ông Linh công khai: “Tham nhũng đâu cần chống ở đâu, cứ chống ngay
trong nhà Thủ tướng”.
Ông Linh dựng một nhân vật cũng gốc miền Tây, Nam Bộ, Nguyễn Hà Phan vào Bộ
Chính trị. Từng là đệ tử ruột, nay Nguyễn Hà Phan trở thành người đối đầu trực
tiếp với Võ Văn Kiệt. Tháng 1 năm 1994 tại hội nghị giữa nhiệm kỳ, ông Phan đưa
ra một bản thống kê mười sáu điểm chệch hướng của ông Kiệt.
Một vây cánh bền vững gồm: Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, Nguyễn Đức
Bình, Nguyễn Hà Phan được dựng lên để cô lập và loại Võ Văn Kiệt ra khỏi sân
chơi.
Tất cả những hoạt động trên mới làm giảm uy tín, chứ chưa thể kết liễu sự
nghiệp chính trị của ông Kiệt. Cho đến khi ông Kiệt công bố “Thư gởi Bộ Chính
Trị”. Lá thư này được cho là do Nguyễn Trung, thư ký của ông, chấp bút.
Đối thủ của ông Kiệt đã không bỏ lỡ cơ hội. “Thư gởi Bộ chính trị” bị hình sự
hóa. Ông Lê Hồng Hà bị khám nhà, hưởng hai năm tù giam vì tội tàng trữ lá thư.
Tiến sỹ Hà Sỹ Phu hưởng một năm tù giam vì tội chuyên chở lá thư. Nguyễn Kiến
Giang 15 tháng tù treo vì tội đọc lá thư.
Người chống đối lá thư này mạnh nhất là Nguyễn Hà Phan. Phan kết tội ông Kiệt
là “nối giáo cho giặc”, “không vững vàng”, “chệch hướng 100%”. Lê Khả Phiêu
người đập lại lá thư này bằng hàng loạt bài đanh thép trên tờ “Quân đội nhân
dân” đã trở thành Tổng Bí thư sau đó.
Người ta phải dàn xếp để Nguyễn Văn Linh không “đao to búa lớn” với ông Kiệt
như từng làm với Trần Xuân Bách. Nhưng sự nghiệp chính trị của ông Kiệt coi như
đã cáo chung.
Bài học Trường Chinh
Tháng Bảy năm 1986, Lê Duẩn trước khi chết, chỉ định Trường Chinh thay ông
làm Tổng Bí thư. Khác với những người đồng chí chỉ đổi mới bằng đầu môi chóp
lưỡi, Trường Chinh thay đổi từ trong nhận thức. Ông công khai tuyên bố đoạn
tuyệt với “Quan liêu bao cấp”, xóa bỏ lệnh “Ngăn sông cấm chợ”. Ông mời gọi
những chuyên gia giỏi, có tấm lòng về giúp việc, viết lại toàn bộ văn kiện Đại
hội VI.
Uy tín của ông lên cao, đặc biệt những đảng viên gốc miền Nam, sau cuộc “Hội
đàm Đà Lạt”. Ông nắm chắc ghế Tổng Bí thư ở Đại hội VI tháng 12 năm 1986.
Lê Đức Thọ thèm muốn ghế tổng bí thư từ Đại hội III, năm 1960. Đi đến đâu ông
cũng bảo lũ đàn em: “Giờ đến lượt tao”. Nhưng bóng của Lê Duẩn quá lớn, ông
không thể vượt qua. Giờ đây Lê Duẩn chết, cơ hội để ông thực hiện giấc mơ. Bất
hạnh thay, uy tín cá nhân của ông không cao. Hơn nữa, trong hơn một phần tư thế
kỷ làm Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, vô tình hay cố ý, ông đã sản sinh ra bao
kẻ thù chính trị.
Lê Đức Thọ nhìn chiếc ghế tổng bí thư đang từ từ tuột khỏi tầm tay, vô phương
cứu vãn. Bất ngờ, hai giờ đêm trước ngày khai mạc Đại hội VI, ông cùng Phạm Văn
Đồng đến nhà riêng Trường Chinh và bảo: “Anh mà không rút lui thì Đảng ta tan
nát mất”. Trường Chinh lặng lẽ rút lui, rồi qua đời do bị té cầu thang hai năm
sau đó.
Những liệt sỹ của Đổi Mới
Từ Đại hội VI đến nay, ĐCSVN đã thay đổi nhiều theo chiều hướng phức tạp.
Càng về sau, càng phức tạp, không thể chọn ra được những người tài đức. Nguyễn
Văn Linh thủ đoạn và thành kiến. Đỗ Mười bảo thủ và gia trưởng. Lê Khả Phiêu thủ
cựu và bè phái. Nông Đức Mạnh non kém toàn diện. Nguyễn Phú Trọng giáo điều và
lạc hậu. Ngược lại, những nhân vật có uy tín, có tấm lòng và có tài năng, thường
chết ngay ở loạt đạn đầu.
Trường Chinh kiến trúc sư của Đổi Mới chết tươi trong trong tay Lê Đức Thọ và
Phạm Văn Đồng. Trần Xuân Bách kêu gọi đổi mới kinh tế phải song song với đổi mới
chính trị, chết thê thảm duới tay đao phủ Nguyễn Văn Linh. Võ Văn Kiệt người dấn
thân cho Đổi Mới chết dần chết mòn trong bàn tay lông lá của một bầy đoàn bảo
thủ giáo điều đứng đầu là Nguyễn Văn Linh.
Nhìn lại ba “liệt sỹ của phong trào Đổi Mới”, người quan sát nhận ra cả ba
nạn nhân đều có điểm chung: Ba ông cùng chọn trợ lý là những chuyên gia giỏi
chuyên môn, có tâm huyết, nhưng lại vắng bóng những nhà mưu lược.
Nếu Trường Chinh và ban tham mưu đánh giá đúng, và hiểu rõ ý đồ Lê Đức Thọ,
hẳn ông không bị động mà chấp nhận rút lui một cách dễ dàng như vậy. Nếu Trường
Chinh quyết mang vấn đề ra trước Đại hội, để đại biểu quyết định. Có lẽ sự
nghiệp chính trị của ông kết thức ở một ngả khác và ĐCSVN không thể nằm gọn
trong tay của nhóm vừa bảo thủ vừa thủ đoạn.
Trần Xuân Bách cũng mắc sai lầm tương tự. Ông cùng ban tham mưu không đấu
tranh đến cùng để đưa sự việc ra trước Ban Chấp hành Trung ương, không thể để
một mình Nguyễn Văn Linh thao túng, lạm quyền, vi phạm vào điều lệ Đảng một cách
trắng trợn. Nếu Ban Chấp hành Trung ương giải quyết vụ Trần Xuân Bách, có lẽ kết
quả hoàn toàn khác. Tại sao ông Bách và nhiều Ủy viên Trung ương lại không nắm
lấy vũ khí “Điều lệ Đảng” đứng lên bảo vệ quyền lợi sinh mạng chính trị cho mình
mà chỉ biết nghiến răng chịu đựng.
Trường hợp Võ Văn Kiệt có hơi khác. Ban tham mưu của ông không đánh giá đúng
tình hình. Công bố lá thư vào một tình huống mà ông Kiệt đang bị bao vây bởi
cánh bảo thủ, và ở vào một thời điểm trước đại hội, khi mà các phe nhóm đang
tính sổ với nhau, là một sai lầm chiến lược.
Bó đũa chọn lấy cột cờ
Trình độ nhận thức của các Ủy viên Bộ Chính trị hiện tại rất yếu, không theo
kịp bánh xe lịch sử, cứ loay hoay bám víu lấy một mớ lý thuyết bảo thủ đã cũ
nát. Hình như một mình Nguyễn Tấn Dũng có những thay đổi từ nhận thức trong thời
gian gần đây, nhất là từ vụ Giàn khoan HD 981. Thảng hoặc, ông có những phát
biểu khá táo bạo, hợp với lòng dân hơn.
Khi nói về mối quan hệ Việt – Trung, ông bảo: “Không thể đánh đổi chủ quyền
quốc gia lấy tình hữu nghị viển vông”, hay “không có chuyện nhà anh cũng là nhà
tôi.” Hai câu nói này không thể nằm ngoài tai của Trung Nam Hải.
Cho đến giờ, chưa một ai đụng đến, chỉ ông Dũng dám nói “Người dân được làm
tất cả những gì luật pháp không cấm”. Ông công khai đề nghị phải có luật biểu
tình, được đưa thông tin lên mạng, tôn trọng quyền được biết của dân. Ông ủng hộ
gia đình Đoàn Văn Vươn v.v.
Trong BCT, ông là người có học vấn thấp nhất, trưởng thành từ chiến tranh.
Nhưng những bài phát biểu của ông đỡ mùi bảo thủ, mùi giáo điều, mùi dậy dỗ, mùi
trịch thượng, mùi rao giảng. Nó mang chút hơi hướng của nhân văn, của khai phá,
vượt xa những ủy viên mang học hàm học vị đầy mình.
Tuy vậy, những lời phát biểu có thể thành mục tiêu để đối phương khai thác.
Bài học của Bộ trưởng Đinh La Thăng đã chứng minh. Ông Thăng chỉ phê bình nhà
thầu Trung Quốc vô trách nhiệm gây ra tai nạn chết người tại công trường xây
dựng ở Hà Nội, nhưng bị quy chụp kích động tư tưởng bài Hoa.
Nếu cần, cánh bảo thủ có thể chụp mũ ông những tội không thua kém gì Trần
Xuân Bách hay Võ Văn Kiệt.
Lí lịch của ông rõ ràng, không mù mờ ám muội như Lê Đức Anh. Đời tư của ông
cũng trong sạch, không ngoại tình, tai tiếng như Lê Khả Phiêu, hay Nông Đức
Mạnh.
Ngôi nhà thờ họ của ông ở Rạch Giá bị dư luận rùm beng một thời. Thực ra, nó
cũng chỉ bằng cái gác xép của những quan chức khác. Con cái ông học hành thành
đạt, còn tốt hơn nhiều lần những kẻ mượn quyền lực danh vọng của cha anh để ăn
chơi quậy phá.
Ông Trọng ngậm ngùi khóc lóc xin kỷ luật mà BCH không cho. Ông Sang bóng gió
“đồng chí X”, “bầy sâu”, “cay đắng lắm”. Nguyễn Sinh Hùng dí dỏm, hài hước.
Phùng Quang Thanh ăn không nên đọi, nói chẳng nên lời, và nhu nhược với Trung
Quốc. Phạm Quang Nghị mang thành tích dọn vệ sinh thủ đô đi ngoại giao.
Ông Dũng vượt lên như một người thuyền trưởng. Liệu ông có thể đưa con thuyền
vượt qua sóng gió. Liệu ông có thể trở thành mũi thuyền rẽ sóng ra khơi như một
câu thơ mà tôi thuộc từ hồi còn bé, hình như của Xuân Diệu, viết về Việt Nam, về
đất mũi Cà Mau quê hương ông:
Tổ quốc tôi như một con thuyền
Mũi thuyền xé sóng – mũi Cà Mau
Mũi thuyền xé sóng – mũi Cà Mau
Tháng Giêng 2015
© Trần Hồng Tâm
© Đàn Chim Việt
© Đàn Chim Việt
NGUYỄN CÔNG LÝ * KHUÔNG VIỆT THÁI SƯ
Khuông Việt thái sư với vương triều Đinh, Lê (Kỷ niệm 1000 năm ngày viên tịch của Thiền sư)
TÓM TẮT:
Bài viết khẳng định vai trò cùng đóng góp to lớn của thiền sư Khuông
Việt đối với vương triều Đinh (968 – 980), Tiền Lê (981 – 1009) trong
buổi đầu độc lập tự chủ, phục hưng những giá trị văn hoá tinh thần
truyền thống của dân tộc, trên các lĩnh vực:
- Với đất nước, thiền sư đã giúp vương triều xây dựng đất nước (đối nội và đối ngoại);
- Với Phật giáo, thiền sư đã hoằng dương Phật pháp, gắn kết Phật giáo với dân tộc, tạo nên một Phật giáo Đại Việt nhập thế;
- Với văn học, thiền sư đã để lại một đoạn Ngữ lục, bài Kệ thị tịch và
một bài Từ khúc. Bài từ là một trong hai tác phẩm đầu tiên của dòng văn
học viết Việt Nam, là tác phẩm văn học bang giao sớm nhất, mang đậm tư
tưởng yêu nước, yêu hoà bình và tinh thần nhân văn cao đẹp.
Bên cạnh, bài viết còn bàn lại về năm sinh, nêu ý kiến về văn bản bài Từ khúc đúng như diện mạo của lối chính thể theo điệu Nguyễn lang quy có 47 chữ.
*
* *
Muốn hiểu rõ hơn về vai trò cùng đóng góp của thiền sư đối với đất nước ở
vương triều Đinh (968 – 980), Tiền Lê (981 – 1009) trong buổi đầu vừa
giành lại độc lập tự chủ, đất nước thống nhất, bước đầu phục hưng những
giá trị văn hoá tinh thần truyền thống, thiết nghĩ cần nói qua dòng dõi
và nhất là xác định lại năm sinh của ngài.
1. Trước hết, xin được bàn lại về năm sinh của Khuông Việt Thái sư:
Sách Thiền uyển tập anh 禪 苑 集 英 (sách
được viết cuối đời Lý đầu đời Trần) bản in xưa nhất hiện còn là bản năm
Vĩnh Thịnh thứ 11, tức năm 1715, đời Lê Dụ Tông (1705 – 1720), ký hiệu
A.3144. Đây là một tác phẩm đan xen các thể loại, vì vừa ghi lại hành trạng, tiểu truyện các vị thiền sư; vừa ghi chép lịch sử truyền thừa các thế hệ thuộc các dòng Thiền ở Việt Nam: truyện truyền đăng; trong đó có ghi chép lời đối đáp giữa các vị thiền sư: ngữ lục; và những lời này có thể xem như là các công án Thiền; trong các tiểu truyện lại có tàng trữ thi kệ nên
tác phẩm có giá trị thi ca rất lớn, nhờ đó mà các văn bản văn học của
các bậc tiền nhân - chủ yếu là của các thiền sư - từ thời Bắc thuộc (thế
kỷ thứ VI) đến đầu đời Trần (thế kỷ thứ XIII) còn được lưu truyền đến
nay; cũng có thể xem tác phẩm thuộc thể tài biến văn, và là cuốn Phật giáo sử đầu tiên của nước ta. Riêng viết về tiểu sử, hành trạng của Khuông Việt thiền sư 匡 越 禪 師 thì
tác phẩm này là cuốn sách chép đầu tiên. Từ đó, các bộ chính sử phong
kiến, các bộ Phật giáo sử sau này căn cứ vào đó mà biên chép lại.
Khuông Việt tên là Ngô Chân Lưu, người ở hương Cát Lợi, huyện Thường Lạc[1], là hậu duệ của Ngô Thuận Đế[2].
Thiền sư có tướng mạo khôi ngô, tính tình phóng khoáng, chí khí cao xa,
thuở nhỏ theo nghiệp Nho, lớn lên quy y Phật, nhờ đó được tinh thông
tam giáo cửu lưu, đọc rộng kinh sách Phật giáo, hiểu sâu ý chỉ Thiền
học. Thiền sư thuộc thế hệ thứ tư dòng Thiền Vô Ngôn Thông, là đệ tử
truyền thừa của thiền sư Vân Phong. Căn cứ vào sách Thiền uyển tập anh 禪 苑 集 英 thì
ngài mất năm 1011. Còn về năm sinh, ngài sinh năm 960, 933 hay 930? Đặt
ra câu hỏi này, bởi lẽ, hiện có vài tài liệu viết khác nhau.
Sách Thiền uyển tập anh 禪 苑 集 英, ở đoạn cuối tiểu truyện về Khuông Việt có chép: 李 朝 順 天 二 年 二 月 十 五 日, 將 告 寂, 示 寶 偈 云: 木 中 原 有 火, 有 火 火 還 生. 若 謂 木 無 火, 鑽 遂 何 由 萌. 偈 畢, 趺 跏 而 逝. 壽 五 十 有 二 (或 云 壽 七 十 九) (TUTA tờ 9b2-9b4).
Lý triều Thuận Thiên nhị niên nhị nguyệt thập ngũ nhật, tương cáo tịch,
thị Bảo kệ vân: ‘Mộc trung nguyên hữu hoả, Hữu hoả hoả hoàn sinh. Nhược
vị vô mộc hoả. Toản toại hà do manh’. Kệ tất, phu già nhi thệ, thọ ngũ
thập hữu nhị (hoặc vân thọ thất thập cửu).
Dịch: Ngày 15 tháng 2 năm Thuận Thiên thứ 2, triều Lý, khai sắp tịch.
thiền sư dạy Đa Bảo một bài kệ: ‘Trong cây sẵn có lửa, Có lửa lửa lại
sinh. Nếu bảo cây không lửa, Cọ xát do đâu sinh’. Nói xong, thiền sư
ngồi kiết già mà hoá, thọ 52 tuổi (hoặc nói thọ 79 tuổi).
Năm Thuận Thiên thứ 2, triều Lý, tức năm Tân Hợi (1011) đời vua Lý Thái Tổ (1009 – 1028). Như vậy, theo Thiền uyển tập anh 禪 苑 集 英, thì Khuông Việt tịch năm 1011. Điều này không có gì phải bàn cãi. Nhưng về năm sinh, theo ghi chép trong Thiền uyển tập anh, nếu Khuông Việt tịch lúc 52 tuổi (tuổi âm lịch), thì ngài sinh vào năm 960 (tức [1011 – 52] + 1); còn nếu tịch lúc 79 tuổi thì ngài sinh vào năm 933 (tức [1011 – 79] + 1). Vì thế, Thơ văn Lý – Trần tập 1 của Viện Văn học ghi Khuông Việt sinh năm 933[3]; Bản dịch Thiền uyển tập anh của Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thuý Nga cũng ghi năm sinh là 933[4]; Hà Văn Tấn trong Lịch sử phật giáo Việt Nam (Viện Triết học - Nguyễn Tài Thư chủ biên) cũng ghi như thế[5]; Hoà thượng Thích Thanh Từ trong Thiền sư Việt Nam, và trong Tham đồ hiển quyết và thi tụng các thiền sư đời Lý giảng giải đều ghi sinh năm 933[6]. Trong khi đó, Lê Mạnh Thát ở công trình Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh và trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 2 thì lại ghi sinh năm 930[7]. Có việc ghi về năm sinh như trên là vì các nhà nghiên cứu đều căn cứ vào sách Thiền uyển tập anh cùng bộ chính sử Đại Việt sử ký toàn thư mà suy ra. Thơ văn Lý – Trần tập 1; bản dịch Thiền uyển tập anh của Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thuý Nga; Lịch sử Phật giáo Việt Nam của
Viện Triết học (Nguyễn Tài Thư chủ biên) và một số tài liệu Phật học,
sử học khác v.v.. đều cho rằng thiền sư Khuông Việt sinh năm 933 là vì
căn cứ vào cái mốc Khuông Việt mất năm 79 tuổi như Thiền uyển tập anh có ghi chú thêm sau câu chính văn với dòng chữ nhỏ: 或 云 壽 七 十 九 “hoặc vân thọ thất thập cửu” (hoặc nói thọ 79 tuổi) (TUTA tờ 9b4). Nhưng dựa vào đâu mà Lê Mạnh Thát lại cho rằng Khuông Việt sinh năm 930? Ông biện luận rằng: như Thiền uyển tập anh đã chép, nếu Khuông Việt mất năm 52 tuổi thì không viết là ‘thọ’ được[8];
ông còn phủ nhận Khuông Việt không thể mất năm 79 tuổi (tức sinh năm
933), bởi không thể Khuông Việt được vua Đinh Tiên Hoàng phong làm Tăng
thống và ban hiệu Khuông Việt trước năm 40 tuổi (vì năm được phong là
năm Thái Bình thứ hai 971); rồi cuối cùng Lê Mạnh Thát lại nghi ngờ sách đã in nhầm một chữ ở cả 3 bản in đời Lê và đời Nguyễn, đó là chữ 八 “bát” in thành chữ 五 “ngũ” trong 壽 五 十 有 二 “thọ ngũ thập hữu nhị”, mà theo ông đúng ra phải là 壽 八 十 有 二 “thọ bát thập hữu nhị” (thọ 82 tuổi), từ đó ông khẳng định thiền sư Khuông Việt sinh năm 930 (tức [1011 – 82] + 1)[9].
Ý kiến của Lê Mạnh Thát như vừa nêu, theo thiển nghĩ, xét đến cùng,
cũng chỉ là suy đoán chứ chưa đủ sức thuyết phục, vì ông chưa làm phép
tính chính xác, ông nói “như Thiền uyển tập anh đã chép” nhưng thật ra sách có chép như ông viết đâu!
Xin được nói thêm, hiện chưa thấy một tài liệu nào đồng ý với năm sinh
của ngài là 960, bởi năm 971 là năm thiền sư được vua mở đầu nhà Đinh
phong chức Tăng thống và ban danh hiệu, thì lúc này ngài chỉ mới 12
tuổi! Nên nếu ghi năm sinh là 960 thì không thể thuyết phục và khó lòng
chấp nhận.
Nhưng theo tôi, Khuông Việt có thể sinh trước năm 933 một vài năm. Bởi lẽ, cũng ở tiểu truyện Khuông Việt trong sách Thiền uyển tập anh có ghi thông tin sau:
年 四 十, 名 震 于 朝, 丁 先 皇 帝 召, 對 稱 旨, 拜 為 僧 統, 太 平 二 年, 賜 號 匡 越 大[10] 師 (tờ 8a9-10-11).
Niên tứ thập, danh chấn vu triều, Đinh Tiên Hoàng đế triệu, đối xưng
chỉ, bái vi Tăng thống, Thái Bình nhị niên, tứ hiệu Khuông Việt đại sư.
Dịch: Năm 40 tuổi, danh tiếng vang dội đến triều đình, vua Đinh Tiên
Hoàng mời về kinh đô [Hoa Lư], [thiền sư] đối đáp hợp ý, [được vua] bái
phong làm Tăng thống, năm thứ hai niên hiệu Thái Bình (tức năm 971), vua
ban hiệu Khuông Việt đại sư.
Thêm một thông tin khác, bộ chính sử Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ, quyển 1, kỷ nhà Đinh có chép:
“Tân Mùi, Thái Bình năm thứ hai (971) [Tống, Khai Bảo năm thứ tư],
mới định ra giai phẩm cho các quan văn võ và tăng đạo. Cho Nguyễn Bặc
làm Định Quốc công, Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư, Lê Hoàn làm Thập đạo
tướng quân, cho Ngô Chân Lưu làm Tăng thống hiệu là Khuông Việt
Thái sư, cho Trương Ma Ni làm Tăng lục đạo sĩ, Đặng Huyền Quang làm Sùng
chân uy nghi”[11].
Như vậy, trong lịch sử nước nhà, các chức Tăng quan, cụ thể là Tăng
thống, Tăng lục v.v.. bắt đầu có từ năm 971, mà thiền sư Khuông Việt Ngô
Chân Lưu là người được triều đình nhà Đinh phong tặng đầu tiên, và là
vị Tăng thống đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Căn cứ vào hai văn bản gốc với những ghi chép thông tin nhất quán về năm
phong chức Tăng thống như trên, từ đó làm phép tính để suy ra năm sinh
của thiền sư Khuông Việt như sau: Ngài tịch vào năm 1011, mà năm Tân Mùi
(971), lúc 40 tuổi được phong làm Tăng thống, được ban hiệu Khuông Việt
Thái sư 匡 越 太 師 (vị
Thái sư khuông phò nước Đại Cồ Việt), thì 1011 – 971 = 40 tuổi âm lịch
(năm và tuổi được vua phong chức, ban hiệu) và [971 – 40] + 1 = 932, như vậy ngài sinh vào năm 932. Còn có thuyết nói ngài tịch lúc 79 tuổi như Thiền uyển tập anh có ghi chú thêm, mà sau này bộ Thơ văn Lý – Trần, tập 1; bản dịch Thiền uyển tập anh do Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thuý Nga dịch, chú thích; sách Lịch sử Phật giáo Việt Nam của
Viện Triết học v.v.. đã dùng để ghi lại (tức sinh năm 933), thì theo
tôi khó lòng thuyết phục, bởi [933 + 40 tuổi] – 1 = 972 (năm được phong
chức ban hiệu), và như vậy thì năm này lại không đúng như sử sách đã
ghi, tức năm 971; đồng thời, giả sử nếu đúng là ngài sinh vào năm
933, rồi năm 971 ngài được nhà vua phong chức và ban hiệu, thì lúc này
ngài chỉ mới 39 tuổi, tức chưa đầy 40, và như thế cũng không đúng với thông tin mà sách Thiền uyển tập anh cùng bộ Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ, quyển 1, Kỷ nhà Đinh đã ghi.
Từ đó, xin được kết luận: Khuông Việt thiền sư sinh năm 932. Năm
ngài 40 tuổi, tức năm 971 (năm Tân Mùi, năm thứ hai niên hiệu Thái Bình)
được vua Đinh Tiên Hoàng phong chức Tăng thống và ban hiệu Khuông Việt
Thái sư. Ngài viên tịch vào ngày rằm tháng 2 năm thứ hai niên hiệu Thuận
Thiên, triều vua Lý Thái Tổ (1009-1028), tức năm Tân Hợi (1011), thọ 80
tuổi. Và ngày rằm tháng 2 năm Tân Mão này (dương lịch là ngày 19 tháng 3
năm 2011) chính là ngày kỷ niệm giỗ kỵ lần thứ 1000 của Thiền sư.
2. Thứ đến, xin được bàn về vai trò, đóng góp của thiền sư Khuông
Việt đối với đất nước, Phật giáo Đại Việt và văn học sử trong buổi đầu
của thời đại độc lập tự chủ, thống nhất và phục hưng:
2.1 Đối với đất nước
- Một là, dưới triều Đinh, nhờ uy tín, đức độ và học vấn uyên bác, nhất
là về Thiền học, Phật học thâm diệu mà vua Đinh Tiên Hoàng (968 – 979)
đã bái phong thiền sư làm Tăng thống và ban danh hiệu Khuông Việt cùng
chức vụ Thái sư. Tăng thống là vị sư tối cao, có nhiệm vụ lãnh đạo giáo
hội, lãnh đạo tăng đoàn. Theo tình hình tư liệu lịch sử hiện còn, thì
thiền sư Ngô Chân Lưu là vị Tăng thống đầu tiên của Phật giáo Đại Việt.
Danh hiệu Khuông Việt mà vua nhà Đinh đã sắc ban với ý nghĩa tôn vinh và
kính trọng. Đinh Tiên Hoàng đã xem thiền sư là vị Thánh với nhiệm vụ “Khuông phò nước Việt”. Còn với chức Thái sư, thì dưới triều nhà Đinh và các triều đại sau, chức vụ này là một trong Tam thái[12],
có quyền ngang như Tể tướng. Và dĩ nhiên, với chức vụ và danh vị này,
thiền sư có nhiều điều kiện để chấn hưng Phật pháp, củng cố đất nước,
xây dựng vương triều, trị quốc an dân trong buổi đầu khi đất nước vừa
thống nhất, sau loạn cát cứ “Thập nhị sứ quân” (965 – 967), để đưa đất
nước bước vào công cuộc phục hưng những giá trị văn hoá tinh thần truyền
thống của dân tộc sau hơn một ngàn năm bị phương Bắc đô hộ.
- Hai là, sang triều Tiền Lê (980 – 1009), dù hiện không thấy sử sách
ghi lại thiền sư đảm nhận trọng trách gì của triều đình, có thể ngài vẫn
giữ chức vụ cũ, chỉ biết lúc này thiền sư được vua Lê Đại Hành (980 –
1005) rất kính trọng, được mời bàn việc quân việc nước với vai trò là cố
vấn về chính trị của triều đình. Điều này, sách Thiền uyển tập anh có ghi:
黎 大 行 皇 帝 尤 加 禮 敬, 凡 朝 廷 軍 國 之 事, 師 皆 與 焉 (tờ 8b1).
Lê Đại Hành hoàng đế vưu gia lễ kính, phàm triều đình quân quốc chi sự, sư giai dữ yên.
Dịch: Vua Lê Đại Hành kính trọng sư hơn, phàm các việc quân, việc nước của triều đình, sư đều được mời tham dự.
- Ba là, thiền sư đã cùng các vị cao tăng khác giúp triều đình xây dựng
đất nước, vỗ về nhân dân, đặc biệt là hiến kế giúp vua, góp phần đánh
tan quân Tống xâm lược vào năm 981. Bằng chứng là, thiền sư đã đến núi
Vệ Linh cầu đảo Tỳ Sa Môn Thiên Vương, thần đã ứng hiện và giúp nước ta
phá tan giặc Tống xâm lược. Thiền uyển tập anh có ghi:
天 福 元 年, 宋 兵 入 寇, 帝 素 聞 其 事, 命 師 就 祠 禳 禱. 虜 軍 驚 駭, 退 保 友 寧 江, 又 見 風 濤 震 瘍, 蛟 龍 騰 躍, 虜 乃 奔 (tờ 8b).
Thiên Phúc nguyên niên, Tống binh nhập khấu, đế tố văn kỳ sự, mệnh sư
tựu từ nhương đảo. Lỗ quân kinh hãi, thối bảo Hữu Ninh giang, hựu kiến
phong đào chấn dương, giao long đằng dược, lỗ nãi bôn.
Dịch: Năm Thiên Phúc thứ 1 (980)[13],
binh Tống đến cướp. Vua vốn biết việc đó, liền sai sư đến cầu đảo. Quân
giặc kinh hãi, rút về giữ sông Hữu Ninh, lại thấy sóng gió nổi lên,
giao long nhảy nhót, giặc bèn tan vỡ”.
Bên cạnh Khuông Việt, còn có hai vị thiền sư là Vạn Hạnh và Đỗ Pháp Thuận đã giúp triều đình hộ quốc an dân, như Thiền uyển tập anh đã
chép, lúc nhà Tống sai Hầu Nhân Bảo xua quân sang xâm lược nước ta, vua
Lê Đại Hành có hỏi ý kiến thiền sư Vạn Hạnh (? – 1018) về thế giặc thì
thiền sư trả lời “chỉ trong ba bảy ngày giặc tất phải lui”. Sau
quả đúng như thế. Cũng trong dịp này, vua Lê Đại Hành còn hỏi thiền sư
Đỗ Pháp Thuận (915 – 990) về vận nước, thì được sư trả lời:
答 國 王 國 祚 之 問 (國 祚) Đáp quốc vương Quốc tộ chi vấn (Quốc tộ)
國 祚 如 滕 絡, Quốc tộ như đằng lạc,
南 天 里 太 平. Nam thiên lý thái bình.
無 為 居 殿 閣, Vô vi cư điện các,
處 處 息 刀 兵. Xứ xứ tức đao binh.
Bản dịch 1: Trả lời nhà vua hỏi về vận nước (Vận nước)
Ngôi nước như mây quấn, Bản dịch 2: Vận nước như mây cuốn,
Trời Nam mở thái bình. Trời Nam ắt thái bình.
Vô vi trên điện gác, Ở yên trên điện gác,
Chốn chốn tắt đao binh. Chốn chốn dứt đao binh.
(Đoàn Thăng dịch, Thơ văn Lý – Trần, tập 1, tr 204) (NCL dịch)
Xin nói thêm về hai chữ “đằng lạc” 滕 絡, mới đây PGS.TS. Nguyễn Đăng Na đã đưa ra cách hiểu là “thuốc quý”, như vậy câu này có nghĩa: “Vận nước như thuốc quý”. Xin ghi lại đây để các bậc thức giả suy nghĩ và tìm hiểu thêm.
Bài thơ ngắn gọn nhưng chứa đựng một nội dung tư tưởng lớn: thể hiện
niềm tin vào vận mệnh của Tổ quốc, ca ngợi triều đại bền vững, đất nước
thái bình. Hai câu sau khẳng định đường lối cai trị “vô vi” của nhà vua,
coi đó là nguyên nhân dẫn đến thắng lợi, dập tắt binh đao, ổn định cuộc
sống. Cùng với bài Từ khúc của thiền sư Khuông Việt, thì bài thơ này
của thiền sư Đỗ Pháp Thuận là một trong hai bài thơ sớm nhất hiện còn
trong văn học trung đại Việt Nam kể từ sau khi nước nhà giành lại độc
lập tự chủ và cả hai đều là của nhà chùa, đều mở đầu cho dòng văn học
yêu nước, đậm chất nhân văn.
- Bốn là, thiền sư đã cùng với thiền sư Đỗ Pháp Thuận đại diện triều
đình nhà Tiền Lê, giúp vua Lê Đại Hành tiếp phái đoàn sứ thần nhà Tống
do Lý Giác làm chánh sứ sang nước ta vào năm Thiên Phúc thứ 7[14] (987),
nhờ vậy mà công cuộc bang giao Việt – Trung (sau chiến tranh giữa hai
nước gần 7 năm) đã diễn ra tốt đẹp, hữu nghị, hoà hiếu thật lòng.
2.2 Đối với Phật giáo:
+ Dưới triều Đinh, dù hiện nay không còn sách vở, tài liệu nào nói cụ
thể về công đức Phật sự của thiền sư dưới triều nhà Đinh, nhưng từ những
ghi chép ít ỏi trong các sách Thiền uyển tập anh, Đại Việt sử ký toàn thư,
đặc biệt là qua công cuộc khảo cổ khai quật di chỉ dọc bờ sông Hoàng
Long gần kinh đô Hoa Lư vào các năm 1963, 1964 và 1987, ta có thể suy
luận rằng với cương vị là đức Tăng thống lãnh đạo giáo hội Phật giáo bấy
giờ, thiền sư Khuông Việt đã tạo nhiều điều kiện để giúp Nam Việt vương
Đinh Liễn (con trai đầu của Đinh Tiên Hoàng, mất năm 797) khắc kinh Tổng trì đà la ni (Phật đỉnh Tôn Thắng gia cú linh nghiệm đà la ni)
- một bộ kinh của Phật giáo Mật tông - trên cột đá rồi dựng ở vùng gần
Hoa Lư, Ninh Bình, dọc theo sông Hoàng Long. Các cột kinh này, lần đầu
được khắc dựng vào năm 973 với 100 tràng kinh; lần cuối được khắc dựng
vào năm 979 cũng 100 tràng kinh nữa. Những tràng kinh này được khắc trên
các trụ đá hình bát giác cao từ 50 cm đến 80 cm, mỗi bề mặt có trụ rộng
6,5 cm; 7,0 cm; và có trụ rộng đến 10,5 cm [15].
Căn cứ vào những chữ còn đọc được ở các tràng kinh trên, có thể thấy
những tràng kinh khắc năm 973 này được Tĩnh hải quân Tiết độ sứ Nam Việt
vương Đinh Liễn với tư cách ông là một Phật tử thuần thành, cho khắc để
cầu nguyện, nhưng không rõ mục đích vì những dòng cuối bị mờ, không đọc
được. Riêng tràng kinh khắc năm Kỷ Mão (979), Đinh Liễn cho khắc để cầu
giải thoát cho em mình là Hoàng thái tử Hạng Lang (vì quyền lợi cá
nhân, ông đã cho người ngầm giết đi vào mùa xuân năm Kỷ Mão 979), đồng
thời cầu cho cha mình là Đại Thắng Minh hoàng đế (tức Đinh Tiên Hoàng)
được sống lâu và bản thân mình được lộc vị bền vững.
Qua những tràng kinh mà khảo cổ học đã phát hiện, có thể nói, ngay từ
thế kỷ thứ X, dưới triều nhà Đinh (và có thể trước đó), Phật giáo nước
ta có sự kết hợp giữa Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông, bởi Tổng trì đa la ni là một bộ kinh trọng yếu của Phật giáo Mật tông.
+ Sang triều Tiền Lê, thiền sư đã cùng các vị cao tăng khác xiển duơng
Phật pháp, trong đó có việc dựng chùa, lập am, đúc tượng, nhất là trước
đó từ triều Đinh, thiền sư đã cho thợ đốn cây tạc tượng thần Tỳ Sa Môn
Thiên Vương – một vị thần Hộ pháp trong Phật giáo - để thờ tại núi Vệ
Linh, nhờ thế mà mấy năm sau, chính vị thần này đã ứng hiện giúp nhà
Tiền Lê đánh tan tác giặc xâm lược, đem lại thái bình cho dân tộc, đất
nước. Sách Thiền uyển tập anh tờ 8b có ghi lại việc này:
嘗 遊 平 虜 郡, 衛 靈 山, 悦 其 境 致 幽 勝 歇 爱 庵 居 之 夜 夢 神 人 身 披 金 甲 左 執 金 鎗 右 擊 寶 塔 從 有 十 餘 輩 狀 貌 可 怖 來 謂 之 曰: 吾 即 毗 沙 門 天 王 從 者 皆 落 叉 也 天 帝 有 勑 令 往 此 國 護 其 疆 界 使 佛 法 興 行 於 汝 有 緣 故 來 相 託. 師 驚 悟, 聞 山 中 有 呵 喝 聲 心 甚 異 之. 及 旦 入 山, 見 一 大 木 長 十 丈 許 枝 降 蘩 茂 又 有 瑞 雲 覆 蔭 其 上 因 命 工 伐 取 如 夢 中 所 見 刻 像 祠 焉.
Thường du Bình Lỗ quận, Vệ Linh sơn, duyệt kỳ cảnh chí u thắng, yết ái
am cư chi. Dạ mộng thần nhân, thân phi kim giáp, tả chấp kim thương, hữu
kích bảo tháp, tùng giả thập dư, bối trạng mạo khả bố, lai vị chi viết:
Ngô tức Tỳ Sa Môn Thiên Vương, tùng giả giai lạc xoa dã. Thiên đế hữu
sắc lệnh vãng thử quốc hộ kỳ cương giới, sử Phật pháp hưng hành. Ư nhữ
hữu duyên, cố lai tương thác. Sư kinh ngộ, văn sơn trung hữu kha hát
thanh, tâm thậm dị chi. Cập đán nhập sơn, kiến nhất đại mộc, trường thập
trượng hử (hứa), chi hàng phồn mậu, hựu hữu thuỵ vân phúc âm kỳ thượng,
nhân mệnh công phạt thủ, như mộng trung sở kiến khắc tượng từ yên.
Dịch: Sư thường đi chơi ở núi Vệ Linh, quận Bình Lỗ, thích nơi đây
phong cảnh đẹp đẽ, thanh u, muốn dựng am để ở. Ban đêm nằm mộng thấy một
vị thần, mình mặc giáp vàng, tay trái cầm thương vàng, tay phải đỡ bảo
tháp, hơn mười người theo hầu, tướng mạo dễ sợ, đến nói rằng: “Ta là Tỳ
Sa Môn Thiên Vương, những người theo ta là Dạ xoa. Thiên đế có sắc sai
ta đến nước này để giữ gìn biên giới, khiến cho Phật pháp thịnh hành. Ta
có duyên với ông nên đến đây báo cho biết”. Sư kinh ngạc thức dậy, nghe
trong núi có tiếng kêu la ầm ĩ, lòng rất lấy làm lạ. Đến sáng sư vào
núi, thấy một cây to, cao khoảng mười trượng, cành lá sum suê, bên trên
lại có mây lành bao phủ, nhân đó sai thợ đến chặt, đem về khắc tượng như
đã thấy trong giấc mộng để thờ.
Từ những ghi chép trên, về sau các sách: Việt điện u linh tập, Việt điện u linh tập lục toàn biên, Lĩnh Nam chích quái lục đều dựa vào Thiền uyển tập anh mà chép lại ở truyện Sóc Thiên Vương
dù có thêm bớt vài ba chi tiết, nhưng về đại thể thì giống nhau, và
những chi tiết trong truyện này ở các sách trên đều gắn với giấc mộng
của Khuông Việt Thái sư.
Xin nói thêm về Tỳ Sa Môn Thiên Vương. Nguyên thuỷ, đây là một vị thần
đại chúng, thuộc Ấn giáo (Hindu giáo) - một bước tiếp biến, phát triển
từ Bà la môn giáo - ở Ấn Độ, vị thần này có tên Vaisravana hay Kubera,
mà danh xưng được đề cập trong kinh điển Ấn giáo từ Vệ đà (Rig Veda) đến
anh hùng ca (epics), tuỳ hoàn cảnh mà thần đảm nhiệm những vai trò khác
nhau như: Vua của các quỷ thần sống trong bóng tối; Lãnh chúa của kẻ
trộm và tội phạm; Thần bảo hộ các thương gia; Một trong bốn thần bảo vệ
thế gian; Một trong tám thần canh giữ các phương hướng; Thần bảo hộ tiền
tài và sự phong phú v.v.. Từ đó, các thần trong Ấn giáo như thần Phạm
Thiên (Brahma), Đế Thích (Shakra) được kết nhập vào thần hệ (pantheon)
của Phật giáo và trở thành các vị Hộ pháp (Dharmapala). Cũng vậy, Tỳ Sa
Môn Thiên Vương trong Ấn giáo bước vào Phật giáo với vai trò là vị Hộ
pháp, có danh xưng là Vaisravana (tiếng Pali: Vessavana), là một trong
Tứ Thiên Vương[16]
nguyện bảo vệ Phật pháp. Phật giáo từ khi truyền sang Việt Nam, Trung
Hoa và các nước trong khu vực, thì bên cạnh kinh điển, hẳn nhiên các
thần hệ này cũng được truyền theo. Riêng ở Việt Nam, Tỳ Sa Môn Thiên
Vương có lúc đã được Việt hoá thành Sóc Thiên Vương mà Việt điện u linh tập, Lĩnh Nam chích quái lục đã ghi chép lại thành truyện Sóc Thiên Vương, có tài liệu còn nói vị thần này đã hoá thân thành Phù Đổng Thiên Vương như Lĩnh Nam chích quái liệt truyện tục loại đã
chép. Vị thần Hộ pháp này có duyên với ngài Khuông Việt, báo mộng cho
ngài biết, và chính ngài đã sai thợ chặt cây, tạc tượng để thờ phụng
đúng y như trong giấc mộng, để sau đó, năm 981, thiền sư đến đó cầu đảo
và Thần đã hiển linh giúp triều đình nhà Tiền Lê bằng cách nổi sóng to
gió lớn để đánh tan giặc Tống xâm lược trên dòng Ninh giang mà ở trên
chúng tôi có trích dẫn.
2.3 Đối với văn học sử dân tộc
Cũng theo Thiền uyển tập anh thì thiền sư Khuông Việt đã để lại một đoạn ngữ lục, một bài kệ Thị tịch để khai ngộ cho đệ tử là Đa Bảo và một bài từ khúc viết theo điệu Nguyễn lang quy. Ở
đây, xin được dừng lại để nói về bài Từ khúc (còn về ý chỉ của đoạn ngữ
lục và bài kệ thị tịch, xin xem một bài viết khác của chúng tôi, cũng
trong dịp Kỷ niệm kỵ giỗ lần thứ 1000 này của thiền sư).
+ Về nhan đề, thể loại và văn bản của bài từ khúc:
Lâu nay, nhiều nhà nghiên cứu đã tốn công sức, giấy mực để bàn cãi về nhan đề của thi phẩm này là Vương lang quy từ hay Ngọc lang quy từ? Theo
tôi, dù nhan đề nào thì cũng không có gì quan trọng cả, bởi lẽ, nó sẽ
không làm giảm đi ý nghĩa và nội dung của bài từ khúc. Chỉ cần biết
rằng, bài từ này được Khuông Việt viết năm 987, theo lời đề nghị của vua
Lê Đại Hành, nhân dịp tiễn đưa sứ giả Lý Giác nhà Tống trở về lại Trung
Hoa, sau khi công việc bang giao Việt – Trung hoàn thành tốt đẹp.
Theo Từ luật quyển 4 tờ 19b2-5 thì bài từ được viết theo điệu Nguyễn lang quy lối chính thể buộc phải tuân thủ những quy định yêu cầu về âm luật như sau:
Câu 1: x B x T T B B
Câu 2: x B x T B
Câu 3: x B x T T B B
Câu 4: x B x T B
Câu 5: B T T T B B
Câu 6: x B x T B
Câu 7: x B x T T B B
Câu 8: x B x T B
Theo quy định như trên, bài từ viết theo điệu Nguyễn lang quy lối
chính thể phải có 8 câu, tổng cộng 47 chữ, chia thành 4 vế, mỗi vế 2
câu, câu đầu 7 chữ câu sau 5 chữ, riêng vế thứ ba thì câu đầu 6 chữ. Về
luật bằng trắc trong từng câu như mô hình trên thì B là chữ mang thanh
bằng, T là chữ mang thanh trắc, x là chữ mang thanh bằng hoặc trắc tuỳ
ý. Về vần, bài Từ viết theo điệu Nguyễn lang quy này buộc phải dùng cước vận bằng (B) ở cả 8 câu.
Về nguồn gốc, điệu Nguyễn lang quy lấy nguồn từ điển tích Lưu Thần và Nguyễn Triệu, mà theo sách Thần tiên ký thì
Lưu, Nguyễn vào núi Thiên Thai (nay là huyện Thiên Thai, tỉnh Triết
Giang, Trung Quốc) hái thuốc, bị lạc đường, gặp hai người con gái (là
hai nàng tiên ở núi này) mời về nhà rồi kết duyên vợ chồng. Ở Thiên thai
được nửa năm, hai chàng nhớ nhà đòi về thăm, khi về đến nhà thì con
cháu đã đến đời thứ bảy, không còn nhận ra. Hai chàng bèn trở lại Thiên
Thai nhưng không tìm được lối vào. Từ tích này mà người sau viết thành
điệu khúc Nguyễn lang quy để chỉ Lưu, Nguyễn từ biệt Đào nguyên
trở về trần thế, dùng để tiễn đưa trong buổi ly biệt, một đi khó trở
lại. Cho nên, theo tôi, có lẽ bài từ này mang nhan đề là Nguyễn lang quy như tên gọi của điệu khúc thì mới hợp lý.
Bài từ của Khuông Việt chép trong Thiền uyển tập anh ở cả ba bản in đời Lê và đời Nguyễn giống nhau, đều có 48 chữ; trong khi đó ở Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ, quyển thứ nhất, Kỷ đời Lê, tờ 18b5-8 thì chép 49 chữ, mà sau này, bộ Thơ văn Lý – Trần, tập 1, trang 209, đã chép lại văn bản của bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Hai văn bản có khác nhau một số chữ trong các câu 2, 3, 5, 6, 7, 8.
Sau đây là văn bản bài Từ chép trong Thiền uyển tập anh:
祥 光 風 好 錦 帆 張 Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
神 僊 復 帝 鄉 Thần tiên phục đế hương.
千 重 萬 里 涉 滄 浪 Thiên trùng vạn lý thiệp thương lang [lãng],
九 天 歸 路 長 Cửu thiên quy lộ trường.
人 情 慘 切 對 離 觴 Nhân tình thảm thiết đối ly thương,
攀 戀 星 星 郎 Phan luyến tinh tinh lang.
願 將 深 意 為 喃 彊 Nguyện tương thâm ý vị Nam cương,
分 明 報 我 皇 Phân minh báo ngã hoàng.
Còn đây là văn bản bài Từ chép trong Đại Việt sử ký toàn thư:
祥 光 風 好 錦 帆 張 Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
遙 望 神 僊 復 帝 鄉 Dao vọng thần tiên phục đế hương.
萬 重 山 水 涉 滄 浪 Vạn trùng sơn thuỷ thiệp thương lang [lãng],
九 天 歸 路 長 Cửu thiên quy lộ trường.
情 慘 切 對 離 腸 Tình thảm thiết đối ly trường,
攀 戀 使星 郎 Phan luyến sứ tinh lang.
願 將 深 意 為 邊彊 Nguyện tương thâm ý vị biên cương,
分 明 揍我 皇 Phân minh tấu ngã hoàng.
(Ghi chú: những chữ in đậm là chữ khác nhau giữa hai văn bản)
Trên tạp chí Hán Nôm số 1-1995, Nguyễn Đăng Na trong bài Về bài Vương lang quy từ - khảo sát và giải mã văn bản (trang 9-14) đã tìm hiểu Tống từ viết theo điệu Nguyễn lang quy rồi đối sánh hai văn bản bài từ chép trong Thiền uyển tập anh và trong Đại Việt sử ký toàn thư,
để đi đến kết luận : Bài Từ khúc theo điệu này lối chính thể có 47 chữ,
biến thể giảm là 44 chữ, biến thể tăng là 50 chữ, tức biên độ dao động
là + và – 3. Từ đó, bằng phương pháp khảo sát văn bản, dựa vào cấu trúc
loại hình thể loại, giải mã văn bản, tìm hệ quy chiếu ảnh xạ của các sự
kiện lịch sử - ngoại giao - văn học - từ nghĩa, rồi cho rằng bài Từ của
Khuông Việt được viết theo biến thể tăng, tức 50 chữ, bằng cách ông lấy
nguyên bài Từ chép trong Đại Việt sử ký toàn thư rồi lấy một chữ Nhân ở câu thứ năm của văn bản chép trong sách Thiền uyển tập anh mà thêm vào “Nhân tình thảm thiết đối ly trường”. Văn bản bài Từ theo Nguyễn Đăng Na như sau:
祥 光 風 好 錦 帆 張 Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
遙 望 神 僊 復 帝 鄉 Dao vọng thần tiên phục đế hương.
萬 重 山 水 涉 滄 浪 Vạn trùng sơn thuỷ thiệp thương lang [lãng],
九 天 歸 路 長 Cửu thiên quy lộ trường.
人 情 慘 切 對 離 腸 Nhân tình thảm thiết đối ly trường,
攀 戀 使星 郎 Phan luyến sứ tinh lang.
願 將 深 意 為 邊彊 Nguyện tương thâm ý vị biên cương,
分 明 揍我 皇 Phân minh tấu ngã hoàng.
Trước đây, trong công trình Văn học Phật giáo thời Lý – Trần: diện mạo và đặc điểm
(viết 1998, Nxb ĐHQG TP HCM, 2002), ở trang 121-122, tôi đã đồng tình
với ý kiến của Nguyễn Đăng Na, nhưng gần đây, khi có dịp đọc Từ luật của Trung Hoa thì tôi lại nghĩ khác. Theo tôi, bài từ này viết theo điệu Nguyễn lang quy lối chính thể, tức chỉ có 47 chữ. Nếu bỏ một chữ Nhân ở câu 5 của văn bản chép trong Thiền uyển tập anh thì bài từ còn lại 47 chữ, đúng theo lối chính thể. Cũng vậy, nếu bỏ hai chữ Dao vọng (Diêu vọng) ở câu 2 của văn bản chép trong Đại Việt sử ký toàn thư thì bài từ cũng còn lại 47 chữ, đúng theo lối chính thể. So sánh hai văn bản thì bài từ chép trong Đại Việt sử ký toàn thư
hay hơn về câu chữ, về nội dung, nhưng văn bản này lại có 49 chữ; câu
thứ hai có 7 chữ, tức sai âm luật quy định của điệu thức, đúng ra câu
này chỉ có 5 chữ. Vì thế, như trên có nói, đề nghị bỏ hai chữ ‘Dao vọng’ (Diêu vọng) ở câu 2 (bản ĐVSKTT), đồng thời lấy chữ ‘thương’ trong ‘đối ly thương’ (bản TUTA) thay cho ‘trường’ trong ‘đối ly trường’ (bản ĐVSKTT),
để bài Từ có 47 chữ, đúng theo lối chính thể, cùng luật bằng trắc ở vị
trí các chữ trong từng câu mà âm luật Từ khúc yêu cầu. Do vậy, diện mạo
văn bản của bài từ này theo thiển ý của tôi như sau:
祥 光 風 好 錦 帆 張 Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
神 僊 復 帝 鄉 Thần tiên phục đế hương.
萬 重 山 水 涉 滄 浪 Vạn trùng sơn thuỷ thiệp thương lang [lãng],
九 天 歸 路 長 Cửu thiên quy lộ trường.
情 慘 切 對 離 觴 Tình thảm thiết, đối ly thương,
攀 戀 使星 郎 Phan luyến sứ tinh lang.
願 將 深 意 為 邊彊 Nguyện tương thâm ý vị biên cương,
分 明 揍我 皇 Phân minh tấu ngã hoàng.
Dịch:
Trời lành gió thuận cánh buồm giương,
Thần tiên về cố hương.
Nghìn trùng non nước vượt đại dương,
Trời xa bao dặm trường.
Tình thảm thiết, chén đưa đường.
Vin xe sứ vấn vương.
Nguyện xin lưu ý chốn biên cương,
Rõ tâu với thánh hoàng.
(NCL dịch lại theo đúng luật bằng trắc, câu chữ)
+ Về ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa văn học sử của bài từ khúc:
Theo tư liệu hiện còn thì đây là một văn bản thuộc loại văn học bang giao Việt – Trung sớm nhất trong văn học trung đại Việt Nam, gắn với các sự kiện quan trọng của lịch sử ngoại giao hai nước Việt – Trung.
Đây cũng là tác phẩm văn học cắm cái mốc về vấn đề Phật giáo hoà đồng
cùng dân tộc, nhập thế hành đạo, tham gia chính trị, mang tinh thần hộ
quốc an dân trong thời đại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Tư
tưởng hoà bình, hữu nghị thể hiện rõ. Hai câu kết đánh giá cao hảo ý của
sứ giả, vì sứ giả Lý Giác đã công nhận nền độc lập, công nhận nền văn
hoá văn hiến của ta, coi vua nước ta ngang hàng với vua Trung Quốc như
qua bài thơ của ông viết tặng, trong đó có hai câu kết: 天 外 有 天 應 遠 照, 溪 潭 波 靜 見 蟾 秋. Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu, Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu. Dịch: Ngoài trời lại có trời soi chiếu, Sóng lặng khe đầm, rọi trăng thu.
Đồng thời, đây còn là bài thơ viết theo thể Từ khúc đầu tiên trong văn học trung đại Việt Nam và là một trong vài tác phẩm sớm nhất, có vị trí và vai trò mở đầu - dẫn đường cho văn học viết Việt Nam sau ngày nước nhà giành lại độc lập. Cùng với bài thơ của thiền sư Đỗ Pháp Thuận thì đây cũng là một trong hai tác phẩm đầu tiên mang nội dung yêu nước và nhân văn trong
lịch sử văn học dân tộc. Cả hai tác phẩm đều thuộc về văn học Phật
giáo, tác giả là những vị thiền sư cao tăng đắc đạo. Điều đó đã khẳng
định, bộ phận văn học Phật giáo đã chính thức mở đầu cho nền văn học
viết Việt Nam tính từ khi nước nhà được độc lập tự chủ với chiến thắng
của Ngô Quyền năm 938.
*
Tóm lại, đối với đất nước trong buổi đầu độc lập tự chủ, bước vào thời
đại phục hưng những giá trị văn hoá tinh thần truyền thống của dân tộc
sau hơn một thiên niên kỷ trong đêm trường nộ lệ, với tư cách và vai trò
của một vị Thái sư, quyền ngang Tể tướng triều đình, về đối nội, thiền
sư đã cùng các vị cao tăng và đại thần khác giúp vua trị nước an dân,
bình ổn cuộc sống; về đối ngoại, thiền sư đã cùng sư Đỗ Pháp Thuận đón
tiếp phái đoàn sứ giả nước bạn trên tinh thần chỉ đạo của tư tưởng hoà
bình và tình hoà hiếu hữu nghị, nhờ thế mà công cuộc bang giao hai nước
Việt – Trung đã diễn ra một cách tốt đẹp, thân ái. Đối với Phật giáo,
với tư cách và vai trò của một vị Tăng thống – vị Tăng thống đầu tiên
trong lịch sử Phật giáo Việt Nam – thiền sư đã góp phần hoằng dương Phật
pháp, chủ trì chứng minh việc khắc kinh trên đá, đã gắn kết Phật giáo
với dân tộc, hoà cùng dân tộc, tạo nên một Phật giáo Đại Việt nhập thế,
để các giai đoạn sau kế thừa và phát triển. Đối với văn học, bên cạnh
đoạn Ngữ lục và bài Kệ thị tịch khai ngộ truyền pháp cho đệ tử Đa Bảo,
thì thiền sư còn để lại một bài Từ khúc: Đây là tác phẩm được viết theo
thể Từ khúc đầu tiên; là tác phẩm văn học bang giao sớm nhất hiện còn
trong văn học Việt Nam; cũng là một trong hai tác phẩm có vị trí mở đầu
của dòng văn học viết Việt Nam sau ngày nước nhà giành lại độc lập, mang
đậm tư tưởng yêu nước, yêu hoà bình và tinh thần nhân văn cao đẹp. Bên
cạnh, bài viết đã bàn lại về năm sinh, nêu ý kiến về văn bản bài Từ khúc
đúng như diện mạo của lối chính thể theo điệu Nguyễn lang quy. Rất mong
các vị cao minh, các bậc thức giả góp ý bổ sung thêm.
Nhân ngày kỷ niệm giỗ kỵ lần thứ 1000 của thiền sư, chúng con là thế hệ
cháu chắt nhiều đời thành tâm đốt nén hương lòng kính dâng lên ngài,
kính mong ngài chứng giám, tiếp tục hộ quốc an dân, phù trì Phật pháp
như sinh thời ngài đã từng hoằng dương, để đất nước này dân tộc này ngày
càng phát triển bền vững.
Tết dương lịch 2011 - NCL
Nguồn: Hội thảo Quốc tế:Quốc sư Khuông Việt và Phật giáo Việt Nam đầu kỷ
nguyên độc lập – ĐHQG HN và Học viện PGVN tại HN, ngày 18 và 19-3-2011,
tr. 106-120.
Đăng lại trên Tập san Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường ĐHKHXH&NV-ĐHQG TP HCM, số tháng 4-2011.
Tài liệu tham khảo:
1. 禪 苑 集 英, 黎 朝 永 盛 十 一 年 四 月 穀 日 重 刊 (Thiền uyển tập anh, Lê triều Vĩnh Thịnh thập nhất niên tứ nguyệt cốc nhật trùng san), ký hiệu A3144, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
2. Thiền uyển tập anh, bản dịch của Đoàn Thăng, tài liệu đánh máy Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.3. Thiền uyển tập anh, Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thuý Nga dịch và chú thích, Phân viện Nghiên cứu Phật học – Nxb Văn học, HN, 1999.
4. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, Cao Huy Giu phiên dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, chú giải và khảo chứng, Nxb KHXH, HN, 1967.
5. Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, Nxb Lá Bối, Sài Gòn, in lần thứ nhất, 1972; Nxb Văn học, HN, tái bản, 1994.
6. Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1999; Nxb Phương Đông, in lần thứ tư, TP. HCM, 2005.
7. Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 2, [từ Lý Nam Đế (544) đến Lý Thái Tông (1054)], Nxb TP. HCM, 2001.
8. Viện Văn học, Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb KHXH, HN, 1977.
9. Nguyễn Đăng Na, Về bài Vương lang quy từ - khảo sát và giải mã văn bản, Tạp chí Hán Nôm, số 1 – 1995, trang 9-14.
10. Nguyễn Công Lý, Văn học Phật giáo thời Lý – Trần: diện mạo và đặc điểm, Nxb ĐHQG TP HCM, 2002.
11. Trần Trọng Dương, Khuông Việt thiền sư hay phức thể dung hội Nho – Phật, in trong sách Văn học, Phật giáo với 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, (Học viện Phật giáo TP HCM và Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP HCM), Nxb VHTT, 2010.
-----------------------------------------
[1] Các khu vực hành chính thời Lý – Trần, dưới quận, huyện vừa có hương hay giáp, vừa có làng hay xã. Hương thường lớn hơn xã. Huyện Thường Lạc, theo sách Thái bình hoàn vũ ký 太 平 寰 宇 記 thì huyện Thường Lạc sau đổi thành huyện An Lạc. Đào Duy Anh trong Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Sử học, HN, 1964, thì căn cứ vào Đại Việt sử ký toàn thư, ông cho rằng Thường Lạc thuộc khoảng huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá ngày nay (dẫn lại: Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb KHXH, HN, 1977, trang 208). Bản dịch Thiền uyển tập anh của
Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thuý Nga, Nxb VH và Phân viện Nghiên cứu Phật
học, HN, 1995, ghi chú là hương Cát Lợi ở Bắc Giang, hiện chưa rõ ở đâu
(tlđd, trang 42). Hoàng Văn Lâu trong bài Đi tìm địa chỉ Ngô Chân lưu, Tạp
chí Hán Nôm, số 1 (26) -1996 thì cho rằng hương Cát Lợi, huyện Thường
Lạc, sau là thôn Đoài, xã Da Hạ, huyện Kim Hoa, phủ Bắc Hà, nay là thôn
Thuỵ Hương, xã Phú Cường, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Lê Mạnh Thát trong Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, Nxb Tp. HCM, 1999; Nxb Phương Đông, tái bản, 2005, thì ông căn cứ vào các sách: Tây hồ chí, Đại Nam nhất thống chí
mà cho rằng đất Cát Lợi, Thường Lạc sau này thuộc huyện Kim Anh, tỉnh
Vĩnh Phúc (tlđd, trang 365-366). Hiện tại, chúng tôi chưa có điều kiện
tra cứu lại để xác định cụ thể về vị trí địa danh. Có điều chắc chắn địa
danh hương Cát Lợi, huyện Thường Lạc là nơi sư Khuông Việt về tu hành
rồi viên tịch. Còn quê gốc (nguyên quán) của thiền sư phải là châu Đường
Lâm, nơi phát tích dòng họ Ngô, mà theo tư liệu hiện có thì Ngô Mân,
rồi Ngô Quyền là những nhân vật lịch sử tỏa sáng đầu tiên của dòng họ
này. Và châu Đường Lâm này có lẽ thuộc Thanh Hoá như cụ Đào Duy Anh đã
nêu, chứ không phải là xã Đường Lâm ở Sơn Tây, như lâu nay nhiều người
đã nói.
[2] Theo Ngô Đức Thọ thì Ngô
Thuận Đế là thuỵ hiệu của Ngô Quyền. Theo gia phả họ Ngô thì Khuông
Việt Ngô Chân Lưu là con của Ngô Xương Tỷ, là cháu của Ngô Xương Sắc
(dẫn lại bản dịch Thiền uyển tập anh của Ngô Đức Thọ, tlđd, trang 42). Gần đây, Trần Trọng Dương trong bài viết Khuông Việt thiền sư hay phức thể dung hội Nho – Phật trong sách Văn học, Phật giáo với 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, (Học
viện Phật giáo TP HCM và Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP HCM),
Nxb VHTT, 2010 cũng nói như thế và có bổ sung rõ hơn về dòng dõi của
thiền sư. Nhưng khi chúng tôi tra cứu lại trong các bộ chính sử như Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư thì không thấy ghi thuỵ hiệu của Ngô Quyền là Ngô Thuận Đế.
[3] Viện Văn học, Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb KHXH, HN, 1977, trang 208, người biên soạn không giải thích về năm sinh.
[4] Thiền uyển tập anh, Ngô
Đức Thọ - Nguyễn Thuý Nga dịch và chú thích, Phân viện Nghiên cứu Phật
học – Nxb Văn học , HN, 1990, trang 42, có lý giải về năm sinh ở chú
thích trang 46.
[5] Nguyễn Tài Thư (chủ biên) Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb KHXH, HN, 1982, trang 152.
[6] Thích Thanh Từ, tlđd, Thiền viện Thường Chiếu ấn hành, 1997, tr 165.
[7] Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, Nxb Phương Đông, TP. HCM, tb, 2005, trang 204, cùng lý giải nhiều ở chú thích số 13, trang 382; Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 2, Nxb TP. HCM, 2001, trang 416-417.
[8] chỗ
này có lẽ ông Lê Mạnh Thát hơi chủ quan, bởi trong các sách sử xưa, khi
chép tiểu sử các bậc tôn quý như vua chúa, cao tăng, thạc đức, để tỏ ý
tôn kính, dù các bậc này sống chưa đầy 60 tuổi, người chép vẫn thường
ghi là “thọ”.
[9] Lê Mạnh Thát, cả hai tlđd, (riêng phép tính trừ, cộng là do chúng tôi ghi chú thêm – NCL).
[10] chữ này có lẽ là chữ “thái” 太 khi khắc bản in đã nhầm thành chữ “đại” 大. Bởi “Khuông Việt Thái sư” mới đúng là danh hiệu và chức vụ do nhà vua ban, còn “đại sư” thì bất kỳ vị cao tăng thiền sư nào cũng có thể gọi danh xưng ấy được. Đương thời, trong các sách: Việt điện u linh tập, Đại Việt sử ký toàn thư đều chép là Khuông Việt Thái sư. Vì thế, Hoà thượng Thích Thanh Từ trong Thiền sư Việt Nam và trong Tham đồ hiển quyết và thi tụng các thiền sư đời Lý giảng giải, Thiền viện Thường Chiếu ấn hành, đều ghi là Thái sư Khuông Việt.
[11] Đại Việt sử ký toàn thư, tập
1, Cao Huy Giu phiên dịch; Đào Duy Anh hiệu đính, chú giải và khảo
chứng, Nxb KHXH, HN, 1967, trang 155. Về các chức Tăng quan, xin được
nói thêm: Tăng thống là chức đứng đầu tăng đoàn, là người lãnh đạo cao nhất của giáo hội Phật giáo; Tăng lục là chức quan dưới chức Tăng thống; Sùng chân uy nghi là chức coi riêng về đạo sĩ của Đạo giáo.
[12] Tam thái: 3
chức danh là Thái sư, Thái phó, Thái bảo, hàm Chánh nhất phẩm, đứng đầu
ban Văn; còn Thái uý đứng đầu ban Võ. Tất cả là chức hàm vinh phong, có
quyền ngang Tể tướng.
[13] Đại Việt sử ký toàn thư, bản
kỷ, quyển thứ nhất, kỷ nhà Lê, ghi là Tân Tỵ, năm thứ 2 (981) và chú
thêm như sau: “Tống, Thái Bình hưng quốc năm thứ 6. Xét các bản chép
niên kỷ các triều đều lấy năm này làm năm Thiên Phúc thứ nhất, nay đổi
lại”, bản dịch, Nxb KHXH, HN, trang 167. Như vậy, năm giặc Tống sang xâm
lược phải là năm 981 (Tân Tỵ, Thiên Phúc năm thứ hai).
[14] Chỗ này sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi là Đinh Hợi, năm thứ 8 (987).
[15] Xin xem: Hà Văn Tấn, Từ một cột kinh Phật năm 973 vừa phát hiện ở Hoa Lư, Nghiên cứu lịch sử, số 1-1965, tr 39 – 45 và Hà Văn Tấn, Cột kinh Phật thứ hai ở Hoa Lư, trong sách Theo dấu các văn hoá cổ, Nxb
KHXH, HN, 1998, tr 816 – 832. Đầu năm 1963, các nhà khảo cổ đã phát
hiện tràng kinh thứ nhất ở xã Gia Trường, huyện Gia Viễn. Tràng kinh này
là trụ đá bát giác cao 65 cm. mỗi mặt rộng 6,5 cm. Tháng 6 năm 1964 tìm
thấy một tràng kinh nữa, cũng là trụ đá bát giác cao 80 cm, mỗi mặt
rộng 10,5 cm. Năm 1987, lại phát hiện một tràng kinh nữa cũng hình bát giác cao 70 cm, mỗi bề mặt rộng 7,0 cm. Tất cả đều khắc kinh chú Phật đỉnh Tôn Thắng gia cú linh nghiệm đà la ni.
[16] Theo
kinh sách nhà Phật, Tứ Thiên Vương coi giữ bốn phương ở cõi Diêm phù đề
(cõi trần thế): Phương Đông là Dhritarashtra; Phương Nam là Virudhaka;
Phương Tây là Virupaksha; Phương Bắc là Vaisravana (Pali: Vessavana).
Như vậy, vị thần Tỳ Sa Môn Thiên Vương thờ ở núi Vệ Linh với danh xưng
Vaisravana là vị Hộ pháp coi giữ Phương Bắc.
ALEXANDRE LE * BÀI TỪ NGỌC LANG QUY
BÀI TỪ NGỌC LANG QUY 玉 郎 歸
CỦA KHUÔNG VIỆT ÐẠI SƯ
匡 越 大 師 (933-1011)
VÀ VẤN ĐỀ VĂN BẢN HỌC
Alexandre Lê1
Tóm tắt
I.1.2. Từ ở Việt Nam:
Ngọc Lang quy
祥光風好錦帆張
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
神僊復帝鄉
Thần tiên phục đế hương.
千重萬里涉滄浪
Thiên trùng vạn lý thiệp thương lang (lãng),
九天歸路長
Cửu thiên quy lộ trường.
人情慘切對離觴
Nhân tình thảm thiết đối ly trường!
攀戀星星郎
Phan luyến tinh tinh lang.
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 137
願將深意為南強
Nguyện tương thâm ý vị Nam cường (cương?),
分明報我皇
Phân minh báo ngã hoàng.
[dịch nghĩa:
Ánh nắng lành, gió tốt, cánh buồm gấm giương
Thần tiên trở về quê hương của Hoàng đế
Ngàn trùng muôn dặm lướt sóng xanh
Ðường về nơi Chín trời xa xôi
Nhân tình thảm thiết [khi] đối diện với chén rượu chia ly
Quyến luyến vịn [xe] "tinh tinh lang" (?)
Xin [Ngài] vì sự cường thịnh ở phương Nam16 mà đem ý sâu xa
[về] phân minh tâu lại Hoàng đế của chúng ta]
B. Bản Ðại Việt sử ký toàn thư (bản kỷ, q. I, tờ 18b):
祥光風好錦帆張
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
遙望神僊復帝鄉
Dao vọng thần tiên phục đế hương.
萬重山水涉滄浪
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang (lãng),
九天歸路長
Cửu thiên quy lộ trường.
情慘切
Tình thảm thiết
對離觴
Ðối ly trường!
攀戀使星郎
Phan luyến sứ tinh lang.
願將深意為邊疆
Nguyện tương thâm ý vị biên cương,
分明奏我皇
Phân minh tấu ngã hoàng.
Bản này khác bản A với những dị biệt như sau:
"Dao vọng": ngóng trông từ xa hoặc từ dưới thấp, nhìn dõi theo (thường được dịch là "xa trông" hoặc "xa ngóng" tùy theo niêm luật trong bài dịch).
"Vạn trùng sơn thủy": muôn trùng sông (nước) núi.
"Sứ tinh lang": vị sứ giả.
"Biên cương": biên cương, biên giới.
"Tấu": tâu lên.
THỜI ÐẠI số 6
138
C. Bản của Việt sử tiêu án (tờ 70a):
祥[?]風好錦帆張
Tường [?] phong hảo cẩm phàm trương,
遙望神仙復帝鄉
Dao vọng thần tiên phục đế hương.
萬重山水涉滄浪
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang (lãng),
九天歸路長
Cửu thiên quy lộ trường.
情慘切
Tình thảm thiết
對離觴
Ðối ly trường!
攀戀使星郎
Phan luyến sứ tinh lang.
願將深意為邊方
Nguyện tương thâm ý vị biên phương,
分明奏我皇
Phân minh tấu ngã hoàng.
Bản này so với bản B thiếu chữ "光 quang" và khác ở chữ "biên phương", tức cõi (hoặc phương trời) ở biên giới.
D. Bản của Lịch triều hiến chương loại chí (tr. 151 [mục Bang giao chí, q. 48, Khoản tiếp chi nghi]):
祥光風好錦帆張
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
遙望神仙復帝鄉
Dao vọng thần tiên phục đế hương.
萬重山水泛滄浪
Vạn trùng sơn thủy phiếm thương lang (lãng),
九天歸路長
Cửu thiên quy lộ trường.
情慘切
Tình thảm thiết
對離觴
Ðối ly trường!
攀戀使星郎
Phan luyến sứ tinh lang.
願將深意歸邊疆
Nguyện tương thâm ý quy biên cương,
分明奏我皇
Phân minh tấu ngã hoàng.
140
2. Bản A trùng hợp hoàn toàn với bài từ 夜 登 叢 桂 樓 (Dạ đăng Tùng Quế Lâu) của Wu Zixiao 吳 子 孝 (Ngô Tử Hiếu), tức cũng chỉ khác tám bản còn lại ở một chữ duy nhất ở câu 5.
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 141
2
3
4
5
6
7
Câu 1.
bằng (5/6)
bằng
bằng
trắc
trắc
bằng
bằng
Câu 2.
bằng (5/6)
bằng
bằng (4/6)
trắc
bằng
Câu 3.
trắc (4/6)
bằng
bằng
trắc
trắc
bằng
bằng
Câu 4.
bằng (4/6)
bằng
bằng (4/6)
trắc
bằng
Câu 5.
bằng (6/6)
trắc
trắc
Câu 6.
trắc (6/6)
bằng
bằng
Câu 7.
bằng (5/6)
bằng
trắc (4/6)
bằng
Câu 8.
bằng (3/6)
bằng
bằng (3/4)
trắc
trắc
bằng
bằng
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 143
Câu 9.
bằng (5/6)
bằng
bằng (4/6)
trắc
bằng
hoặc: Nguyện tương thâm ý quy biên cương, (D)
Câu 9: Phân minh báo ngã hoàng. (A)
hoặc: Phân minh tấu ngã Hoàng. (B, C, D)
Tóm lại, các chữ khác nhau là:
Câu 3: a. "thiên trùng vạn lý" (A) ↔ "vạn trùng sơn thủy" (B, C, D)
b. "thiệp" (A, B, C) ↔ "phiếm" (D)
Câu 7: "tinh tinh lang" (A) ↔ "sứ tinh lang" (B, C, D)
Câu 8: a. "vị" (A, B, C) ↔ "quy" (D)
b. "nam cường (cương?)" (A) ↔ "biên cương" (B, D) ↔ "biên phương" (C)
Câu 9: "báo" (A) ↔ "tấu" (B, C, D)
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
神仙復帝鄉
Thần tiên phục đế hương.
萬重山水涉滄浪
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang,
九天歸路長
Cửu thiên quy lộ trường.
情慘切
Tình thảm thiết
對離觴
Ðối ly trường!
攀戀使星郎
Phan luyến sứ tinh lang.
願將深意為南強
Nguyện tương thâm ý vị Nam cường,
分明報我皇
Phân minh báo ngã Hoàng.
THỜI ÐẠI số 6
152
[dịch nghĩa:
Thoạt đầu, khi đọc hai khả năng trên đây, ta dễ dàng nhận thấy "tấu" hay hơn "báo" vì có vẻ cung kính và nghiêm trang hơn. Nhưng khi xét lại, "báo" theo nghĩa cổ trong Lễ ký là "báo cáo lên vua sau khi
THỜI ÐẠI số 6
150
III. BẢN NGỌC LANG QUY HIỆU ĐÍNH
Sau khi phân tích ngữ nghĩa của các dị thể, chúng tôi xin đề nghị một bài Ngọc Lang quy hiệu đính. Chúng tôi không dám khẳng định là nó thỏa đáng hơn cả, nhưng nó được đúc kết từ những suy luận riêng mà chúng tôi đã trình bày:
祥光風好錦帆張
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
神仙復帝鄉
Thần tiên phục đế hương.
萬重山水涉滄浪
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang,
九天歸路長
Cửu thiên quy lộ trường.
情慘切
Tình thảm thiết
對離觴
Ðối ly trường!
攀戀使星郎
Phan luyến sứ tinh lang.
願將深意為南強
Nguyện tương thâm ý vị Nam cường,
分明報我皇
Phân minh báo ngã Hoàng.
THỜI ÐẠI số 6
152
[dịch nghĩa:
Ánh nắng lành, gió tốt, cánh buồm gấm giương
Thần tiên trở về quê hương của Hoàng đế
Ngàn trùng muôn dặm lướt sóng xanh
Ðường về nơi Chín trời xa xôi
Tình thảm thiết
Ðối diện với chén rượu chia ly
Quyến luyến vịn [xe] sứ giả
Xin [Ngài] vì sự cường thịnh ở phương Nam mà đem ý sâu xa
[về] phân minh tâu lại Hoàng đế của chúng ta]
Tạm dịch theo nguyên điệu:
Nắng lành gió tốt gấm buồm giương,
Thần tiên hướng đế hương.
Muôn trùng sông núi lướt làn xanh,
Ðế cung cách dặm trường.
Tình thảm thiết,
Chén lên đường.
Vin xe sứ luyến thương.
Xin đem thâm ý bởi Nam cường,
Phân minh tấu Thánh hoàng.
KẾT LUẬN
CỦA KHUÔNG VIỆT ÐẠI SƯ
匡 越 大 師 (933-1011)
VÀ VẤN ĐỀ VĂN BẢN HỌC
Alexandre Lê1
Tóm tắt
Trong bài viết này, tác giả đã cố gắng tái lập văn bản của bài từ Ngọc
Lang quy. Ðược Khuông Việt Ðại sư biên soạn vào năm 987 để tiễn sứ thần
nhà Tống về nước, bài từ đã trải qua nhiều lần sửa đổi suốt một ngàn năm
lịch sử để thích nghi với những điều kiện của thời đại. Sau khi giới
thiệu sơ lược về thể loại từ ở Trung Quốc và ở Việt Nam, tác giả đối
chiếu và so sánh bốn dị bản lấy từ những thư tịch cổ điển như: Thiền
uyển tập anh 禪 苑 集 英 (thời Trần), Ðại Việt sử ký toàn thư 大 越 史 記 全 書
(chính sử của triều Lê), Việt sử tiêu án 越 史 標 案 của Ngô Thời Sĩ và Lịch
triều hiến chương loại chí 歷 朝 憲 章 類 誌 của Phan Huy Chú. Trong phần
phân tích, tác giả đã sử dụng những yếu tố văn học, từ vựng và lịch sử
để đưa ra sự chọn lựa riêng.
Ngoài nhu cầu văn bản học (đề nghị một bản Ngọc Lang quy tái lập), bài
viết này cũng cho ta thấy những thao tác thầm lặng của những nhà nho
biên soạn chính sử. Khi quy quá khứ về những điều kiện của hiện tại,
việc sửa chữa văn bản cổ, được giải thích bởi trách nhiệm chính trị và
đôi khi bởi sự yếu kém của nguồn thư tịch, đã dẫn đến hậu quả xóa nhòa
các mốc thời gian và nội dung của văn bản.
Theo các nguồn thư tịch khác nhau, Khuông Việt Ðại sư chỉ để lại cho ta
một bài từ, một bài kệ và hai câu thơ trả lời câu hỏi của đệ tử Ða Bảo
về sự thủy chung (bắt đầu và kết thúc) của việc học Ðạo2. Song,
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 131
THỜI ÐẠI số 6
132
số ít không có nghĩa là chính xác, hoàn hảo và không sản sinh những vấn
đề cụ thể. Nếu bài kệ "Mộc trung nguyên hữu hỏa..." chỉ có một bản duy
nhất theo chỗ chúng tôi biết, thì bài từ do Ðại sư làm để tiễn Li Jue 李 角
(Lý Giác) trở về nước Tống thì ngược lại có ít nhất đến 4 dị bản với
những sai biệt ở từ ngữ và cấu trúc của câu (số lượng và cách sắp xếp
chữ trong câu). Sau đây chúng tôi xin nêu lên một số vấn đề liên quan
đến các dị bản của bài từ ấy3.
I. BÀI TỪ NGỌC LANG QUY 玉 郎 歸
VÀ CÁC VẤN ĐỀ CỦA NÓ
I.1. Thể loại "từ" và từ ở Việt Nam.
I.1.1. Thể loại "từ":
Từ 詞, lúc đầu được gọi là "khúc từ 曲 詞" hoặc "khúc tử từ 曲 子 詞" xuất
hiện vào thời Tùy 隨, phát triển dần từ thời Ðường 唐 và hưng thịnh vào
thời Tống 宋. Nhưng đến thời Nguyên 元, thời Minh 明 thì suy thoái để được
phục hưng vào thời Thanh 清. Từ là một thể loại nằm giữa văn học và nghệ
thuật diễn xướng Trung Quốc. Lúc đầu, từ là văn bản ngôn từ có phối
nhạc, cùng thể tài với thơ nhạc phủ (nhạc phủ thi 樂 府 詩). Nhưng càng
được cảm thụ, từ càng phát triển và càng phát triển, từ càng dần dần
tách mình khỏi âm nhạc để trở thành một thể loại của thơ. Do ảnh hưởng
càng ngày càng rõ rệt của luật thơ (trong đó có niêm luật), nên từ còn
được gọi là "thi dư 詩 餘" (cái dư thừa của thơ). Nếu "thơ" là một thể
loại văn học có cấu trúc ngôn từ ổn định nhất với các thể chính như: tứ
ngôn 四 言 (4 chữ mỗi câu), ngũ ngôn 五 言 (5 chữ), thất ngôn 七 言 (7 chữ),
trường đoản cú 長 短 句 (câu dài câu ngắn xen kẽ), thì ngược lại, "từ" có
cấu trúc đa dạng và phong phú hơn nhiều.
Về cấu trúc, từ được xếp vào loại "trường đoản cú ", nhưng cũng có ngoại
lệ như thể "Cán khê sa 浣 溪 沙". Nếu dùng thuật ngữ của thi học thì ta có
thể gọi lạm điệu này là "thất ngôn lục cú" (sáu câu bảy chữ), kém thơ
Ðường luật hai câu. Nhưng điệu này không những khác với thơ Ðường luật
(thất ngôn bát cú, tức tám câu bảy chữ) ở điểm đó
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 133
mà còn ở "vận" (vần). Hầu hết các bài từ "Cán khê sa" được biết đều có cùng một vần ở cả sáu câu.
Căn cứ vào độ dài ngắn của bài (tức số lượng chữ trong bài), người ta đã
chia từ ra làm ba loại: tiểu lệnh 小 令, trung điệu 中 調 và trường điệu 長
調. Theo 填 詞 圖 譜 (Ðiền từ đồ phổ) [cuốn phả về cách làm từ4], "tiểu lệnh"
là loại từ có từ 16 đến 59 chữ, còn "trung điệu" có từ 60 đến 90 chữ và
"trường điệu" có từ 91 đến 240 chữ. Hai thể "trung điệu" và "trường
điệu" có thể đã manh nha trước thời Tống (vì động Ðôn Hoàng 敦 煌, ở tỉnh
Cam Túc 甘 肅, trước đây còn lưu trữ được một vài bài theo hai thể này5),
nhưng người ta thường coi Liu Yong 柳 永 (Liễu Vĩnh, 987?-1055) là người
khởi xướng thể "trường điệu" với một vài bài, rồi được Su Shi 蘇 軾 (Tô
Thức, 1036-1101), Qin Guan 秦 觀 (Tần Quán, 1049-1100) và Huang Tingjian 黃
庭 堅 (Hoàng Ðình Kiên, 1045-1105) kế tục. Thể "trường điệu" thịnh hành
từ đó.
Khác với thơ, mỗi điệu từ đều có ít nhất một tên gọi, và có khi có đến
ba tên hoặc nhiều hơn nữa, như điệu "Bồ tát man 菩 薩 鬘" (còn được viết là
"Bồ tát man 菩 薩 蠻") với các tên gọi khác như "Tử dạ ca 子 夜 歌", "Trùng
điệt kim 重 迭 金", hoặc như "Cán khê sa 浣 溪 沙" với các tên khác như "Tiểu
đình hoa 小 庭 花", "Cán sa khê 浣 沙 溪" hay "Cán sa khê 浣 紗 溪". Theo chúng
tôi, hiện tượng này có thể được giải thích bởi nhu cầu đặt tên cho sáng
tác theo nội dung của nó (bằng cách lấy lời và ý trong câu từ). Ðây là
chức năng mà từ bài 詞 牌 (tên gọi bài từ) không thể đảm nhiệm.
Wan Shu 萬 樹 (Vạn Thụ, 1630?-1688) đã thống kê trong cuốn 詞 律 (Từ luật)
[Cách luật của từ] (1687) của mình được khoảng 1180 thể từ (điệu). Nhưng
con số này đã được nâng lên đến 2306 thể trong cuốn 欽 定 詞 譜 (Khâm định
từ phổ) [Cuốn phả về từ được biên soạn theo lệnh của Hoàng đế] của nhóm
Wang Yiqing 王 奕 清 (Vương Dịch Thanh) biên soạn (1715)6. Vì thế, từ về
cấu trúc đã vượt xa các thể loại văn học khác ở tính đa dạng và ở nhịp
điệu.
THỜI ÐẠI số 6
134
Ở Trung Quốc, từ bắt đầu được quan tâm nghiên cứu, hệ thống hóa từ đời
Tống (960-1278), còn ở Việt Nam, tuy đã có người làm từ, từ Khuông Việt
Ðại sư cho đến Hồ Xuân Hương 胡 春 香 (1772-1822)7, Miên Thẩm 綿 審
(1819-1870), rồi Ðào Tấn 陶 進 (1845-1907), nhưng vẫn không có công trình
nghiên cứu rõ rệt. Trong các bài viết của các nhà Nho Việt Nam về các
thể loại văn học, chúng tôi chỉ thấy viết nhiều về thơ và phú và họa
hoằn lắm mới thấy vài câu về từ. Phải chăng vì nó không được phổ biến
như thơ bởi tính đa dạng của nó. Nếu thơ dùng để nói lên chí của mình
(thi dĩ ngôn chí 詩 以 言 志)8 theo quan niệm của Nho giáo, thì từ cho phép
tự do hơn, phóng túng hơn. Khác với thơ chữ Hán của mình, từ của Hồ Xuân
Hương da diết, nói lên khát vọng của tình yêu9. Ngoài ra, về từ tập, ta
chỉ biết Miên Thẩm và Ðào Tấn là những tác giả còn để lại từ tập10.
Trên đây, chúng tôi xin chỉ đưa ra những ý chính về từ và từ ở Việt Nam,
chứ không đi sâu vào vấn đề vì đây không phải là chủ đề của bài viết.
Thật ra, vấn đề từ ở Việt Nam cần được tập trung nghiên cứu kỹ hơn. Khi
đọc thơ ca Hán-Việt qua các thời đại, đôi khi ta bắt gặp những thể xa lạ
với thơ, như bài thơ không tên với câu đầu là "Xuân khứ bách hoa
lạc..." của Mãn Giác thiền sư 滿 覺 禪 師 (1052-1096) chẳng hạn. Phải chăng
đây cũng là một điệu từ? Còn hai bài Ngư tiều trường điệu 魚 (sic; 漁) 樵 長
調 và Mắc bệnh cúm từ 縸 噤 詞 (sic) do Trương Vĩnh Ký phiên âm có phải là
hai bài từ không? Và chúng có phải là những bài từ duy nhất bằng chữ nôm
không? Ngoài ra, quan hệ giữa "từ" và "ca", "ngâm", "hành",... cũng cần
được tìm hiểu rõ hơn. Chúng tôi xin tạm gác lại vấn đề này trong khi
chờ đợi tìm hiểu thêm.
I.2. Các dị bản được lưu truyền:
Theo sử liệu thì bài Ngọc Lang quy của Khuông Việt Ðại sư được sáng tác
theo lệnh của vua Ðại Hành trong dịp tiễn sứ thần nhà Tống là Li Jue (Lý
Giác) về nước năm 987. Tuy sử liệu không nói rõ, nhưng chúng ta hiểu là
những cuộc tiễn đưa như thế hẳn phải có lễ và tiệc trước khi sứ giả lên
đường. Việc sử dụng thể loại từ trong hoàn cảnh
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 135
này là hoàn toàn hợp lý vì một trong những đặc tính của từ là nhạc điệu.
Ta có thể nghĩ rằng thời Tiền Lê (981-1009) tương đương với đầu đời
Tống (960-1278), nên tính chất nhạc điệu của từ còn cao, có lẽ chưa tách
khỏi hẳn âm nhạc như đã nói. Nội dung của từ hay thơ trong trường hợp
này mang đậm tính ngoại giao và có dụng ý nhắn gửi. Ngoài ra, việc sử
dụng thể loại từ vào dịp này có lẽ cũng có một dụng ý khác. Triều đình
nhà Lê hẳn đã ý thức được địa vị của từ trong xã hội văn hóa Tống. Ðiều
này cho ta thấy rõ ý thức về nhu cầu cập nhật tri thức văn hóa Hán ở
Việt Nam để dùng nó làm chiêu bài "đồng văn 同 文" (tức đồng văn tự và văn
hóa) trong các dịp tiếp sứ và đi sứ. Ðây có lẽ cũng là ý của Phan Huy
Chú khi hãnh diện viết "足 誇 人 才 túc khoa nhân tài " ([cũng] đủ để khoe
nhân tài) để kết luận về địa vị bài từ của Khuông Việt Ðại sư.
Song, các sử liệu không thống nhất với nhau về văn bản bài từ, tạo nên
tình trạng một bài mà có tới bốn dị bản: bản của Thiền uyển tập anh, bản
của Ðại Việt sử ký toàn thư, bản của Việt sử tiêu án 越 史 標 案 và bản của
Lịch triều hiến chương loại chí 歷 朝 憲 章 類 誌11. Nhưng vì có sự sai biệt
giữa các bản cả về ngôn từ lẫn cấu trúc nên chúng tôi xin sao lục lại
đây cả bốn dị bản để từ đó phân tích những dị đồng và để đi đến đề nghị
hiệu đính bài từ. Trước đây, Hoàng Văn Lâu đã đề cập đến vấn đề văn bản
bài từ và đã một lần hiệu đính, nhưng chỉ giới hạn trong hai bản Ðại
Việt sử ký toàn thư và Thiền uyển tập anh12. Chúng tôi xin đặt lại vấn
đề để đưa ra thêm một lý giải mà ở một vài điểm, nó cũng thống nhất với
đề nghị của ông Hoàng. Ðó là vấn đề văn bản học và ngữ nghĩa học. Ngoài
ra, một số người còn đặt ra một vấn đề khác nữa là nội dung tư tưởng,
xuất phát từ nghĩa của hai câu cuối và bối cảnh lịch sử để xác định lập
trường quốc gia của bài từ13.
Thao tác của chúng tôi ở đây chỉ nhằm giải quyết vấn đề dị biệt giữa các
văn bản, tức dị biệt về hình thức và ngôn từ. Nhưng bên cạnh một vài dị
biệt nhỏ thuộc về ngữ nghĩa thuần túy còn có những dị biệt có thể dẫn
ta đến những nhận định liên quan đến nội dung tư tưởng của bài từ bởi vì
nó được soạn ra trong một bối cảnh nhất định và vì một đối tượng nhất
định. Tuy nhiên, bối cảnh và đối tượng không phải là
THỜI ÐẠI số 6
136
cứu cánh của việc hiệu đính, mà chỉ là cơ sở lý giải đối với một vài
trường hợp mà ngữ nghĩa không đủ để phân biệt và quyết định. Ðể dễ nhận
diện các dị biệt trong các bản, chúng tôi xin gạch dưới các yếu tố có
vấn đề văn bản học.
A. Bản Thiền uyển tập anh (tờ 9a):
TUTA là sách duy nhất ghi rõ tên bài từ là Ngọc Lang quy 玉 郎 歸14. Tuy
nhiên, nhiều nhà nghiên cứu đã ghi là "Vương Lang quy 王 郎 歸". Phải chăng
đây là do sự lầm lẫn tự dạng giữa hai chữ "ngọc 玉" và "vương 王" ở ngay
bản in TUTA thời Nguyễn15? Hoặc có lẽ những người chủ trương "Vương Lang
quy" đã cho rằng "Vương Lang" là cách gọi tôn trọng sứ thần đế triều
nhà Tống? Còn "ngọc lang" là gì? Theo 古 汉 语 大 词 典 (Cổ Hán ngữ đại từ
điển) [mục "ngọc lang"] thì cụm từ này có hai nghĩa. Thứ nhất, "ngọc
lang" là tên gọi một phẩm quan trên Tam thanh Cửu cung 三 清 九 宮, theo
quan niệm Ðạo giáo, thấp hơn các chức "đạo quân 道 君", "chân nhân 真 人",
"chân công 真 公", "chân khanh 真 卿" và "ngự sử 御 使". Thứ hai, "ngọc lang"
là tên gọi một người thanh niên với ý khen ngợi hoặc tôn trọng. Vì câu
thứ hai của bài từ có cụm từ "thần tiên" nên chúng tôi cho rằng "ngọc
lang" ở đây có khả năng thuộc về nghĩa thứ nhất, tức với nghĩa một
"người có cốt cách như tiên nhân giữ trọng trách trên thiên cung". Vì có
sự thống nhất trên nên chúng tôi cho rằng đây là tựa của bài từ chứ
không phải là tên gọi của điệu từ (từ bài). Vì trong ba bản TUTA, Ngọc
Lang quy xuất hiện trong hai bản sớm nhất nên chúng tôi xin lấy làm tên
gọi bài từ.
Nội dung như sau:
玉郎歸Ngọc Lang quy
祥光風好錦帆張
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
神僊復帝鄉
Thần tiên phục đế hương.
千重萬里涉滄浪
Thiên trùng vạn lý thiệp thương lang (lãng),
九天歸路長
Cửu thiên quy lộ trường.
人情慘切對離觴
Nhân tình thảm thiết đối ly trường!
攀戀星星郎
Phan luyến tinh tinh lang.
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 137
願將深意為南強
Nguyện tương thâm ý vị Nam cường (cương?),
分明報我皇
Phân minh báo ngã hoàng.
[dịch nghĩa:
Ánh nắng lành, gió tốt, cánh buồm gấm giương
Thần tiên trở về quê hương của Hoàng đế
Ngàn trùng muôn dặm lướt sóng xanh
Ðường về nơi Chín trời xa xôi
Nhân tình thảm thiết [khi] đối diện với chén rượu chia ly
Quyến luyến vịn [xe] "tinh tinh lang" (?)
Xin [Ngài] vì sự cường thịnh ở phương Nam16 mà đem ý sâu xa
[về] phân minh tâu lại Hoàng đế của chúng ta]
B. Bản Ðại Việt sử ký toàn thư (bản kỷ, q. I, tờ 18b):
祥光風好錦帆張
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
遙望神僊復帝鄉
Dao vọng thần tiên phục đế hương.
萬重山水涉滄浪
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang (lãng),
九天歸路長
Cửu thiên quy lộ trường.
情慘切
Tình thảm thiết
對離觴
Ðối ly trường!
攀戀使星郎
Phan luyến sứ tinh lang.
願將深意為邊疆
Nguyện tương thâm ý vị biên cương,
分明奏我皇
Phân minh tấu ngã hoàng.
Bản này khác bản A với những dị biệt như sau:
"Dao vọng": ngóng trông từ xa hoặc từ dưới thấp, nhìn dõi theo (thường được dịch là "xa trông" hoặc "xa ngóng" tùy theo niêm luật trong bài dịch).
"Vạn trùng sơn thủy": muôn trùng sông (nước) núi.
"Sứ tinh lang": vị sứ giả.
"Biên cương": biên cương, biên giới.
"Tấu": tâu lên.
THỜI ÐẠI số 6
138
C. Bản của Việt sử tiêu án (tờ 70a):
祥[?]風好錦帆張
Tường [?] phong hảo cẩm phàm trương,
遙望神仙復帝鄉
Dao vọng thần tiên phục đế hương.
萬重山水涉滄浪
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang (lãng),
九天歸路長
Cửu thiên quy lộ trường.
情慘切
Tình thảm thiết
對離觴
Ðối ly trường!
攀戀使星郎
Phan luyến sứ tinh lang.
願將深意為邊方
Nguyện tương thâm ý vị biên phương,
分明奏我皇
Phân minh tấu ngã hoàng.
Bản này so với bản B thiếu chữ "光 quang" và khác ở chữ "biên phương", tức cõi (hoặc phương trời) ở biên giới.
D. Bản của Lịch triều hiến chương loại chí (tr. 151 [mục Bang giao chí, q. 48, Khoản tiếp chi nghi]):
祥光風好錦帆張
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
遙望神仙復帝鄉
Dao vọng thần tiên phục đế hương.
萬重山水泛滄浪
Vạn trùng sơn thủy phiếm thương lang (lãng),
九天歸路長
Cửu thiên quy lộ trường.
情慘切
Tình thảm thiết
對離觴
Ðối ly trường!
攀戀使星郎
Phan luyến sứ tinh lang.
願將深意歸邊疆
Nguyện tương thâm ý quy biên cương,
分明奏我皇
Phân minh tấu ngã hoàng.
Bản này chỉ khác bản B ở hai chữ "phiếm": bơi thuyền, đi thuyền, và "quy": trở về.
Qua các dị bản trên, ta thấy những sai biệt nằm ở từ ngữ và ở số lượng
chữ trong bài. Chúng tôi sẽ lần lượt xem xét sự khác biệt về số lượng
chữ để xử lý các phần tử dư thừa so với điệu "Nguyễn Lang quy" như đã
từng được khẳng định bởi nhiều nhà nghiên cứu như
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 139
Hoàng Văn Lâu17, Lê Mạnh Thát18,... và sau đó sẽ tiến hành hiệu đính theo các khâu ngữ nghĩa.
II. PHÂN TÍCH CÁC DỊ BẢN VÀ HIỆU ĐÍNH
"NGỌC LANG QUY"
II.1. Việc hiệu đính theo cấu trúc
II.1.1. Vấn đề biến thể của điệu Nguyễn Lang:
Ðiệu "Nguyễn Lang quy 阮 郎 歸", có khi còn được biết dưới từ bài "Túy đào
nguyên 醉 桃 源", "Bích đào xuân 碧 桃 春", "Yến đào nguyên 宴 桃 源", v.v...,
gồm có 47 chữ được chia làm hai đoạn (từ học gọi là "phiến 片") gồm 9
câu. Ðoạn đầu 4 câu và đoạn sau 5 câu.
Khi bắt đầu nghiên cứu Ngọc Lang quy, chúng tôi cũng không tìm ra được
một biến thể của điệu Nguyễn Lang quy, cho nên đã một lần nhận định và
hiệu đính theo những dữ liệu đã có. Nhưng sau một thời gian tìm kiếm,
chúng tôi đã tìm thấy trong 词 律 辞 典 (Từ luật từ điển) [Từ điển về từ
luật] (TLTÐ) do Pan Shen 潘 慎 (Phan Thận) chủ biên (1991), một thể khởi
bằng vần trắc và hai biến thể của điệu này: một với 48 chữ và một với 38
chữ19.
Nhưng thế nào là một biến thể? Biến thể phải thuân thủ các quy luật
chung của nguyên thể, song chỉ được thay đổi ở một vài chi tiết về hình
thức, và ở đây chủ yếu là số lượng chữ và chỗ của những chữ thêm đó
trong câu từ. Như vậy, trước khi đi vào phân tích điệu Nguyễn Lang quy,
chúng tôi xin tìm hiểu về hai biến thể nói trên trong văn học Trung
Quốc.
Các tác giả của TLTÐ đã căn cứ vào số lượng chữ trong bài 贈 岳 秀 才 (Tặng
Nhạc tú tài) [Tặng tú tài họ Nhạc] của Ma Yu 馬 鈺 (Mã Ngọc, 1123-1183) mà
cho rằng đây là một biến thể gồm 38 chữ của điệu Nguyễn Lang quy. Song,
các tác giả không cho biết những tiêu chí nào đã dẫn đến khẳng định
trên và chỉ cho biết rằng đây là một "tàng đầu thể 藏 頭 體" (thể giấu
đầu), tức một thể mà chữ đầu của mỗi câu lấy lại chữ cuối của câu trước
đó. Nếu đây thực sự là một tàng đầu thể thì việc tái lập theo nguyên
điệu bài từ 贈 岳 秀 才 (Tặng
THỜI ÐẠI số 6140
Nhạc tú tài) của Ma Yu không phải là việc khó. Nhưng thao tác này đồng
thời cũng triệt tiêu khái niệm biến thể với 38 chữ vì thực chất bài từ
này theo đúng nguyên thể Nguyễn Lang quy và rốt cuộc, đây chỉ là một lối
chơi chữ mà thôi20.
Biến thể thứ hai mà các tác giả TLTÐ đưa ra là một thể với 48 chữ, tức
hơn nguyên thể một chữ. Việc thừa nhận biến thể này xuất phát từ bài từ 夜
登 叢 桂 樓 (Dạ đăng Tùng Quế Lâu) [Ðêm lên lầu Tùng Quế] của Wu Zixiao 吳 子
孝 (Ngô Tử Hiếu, 1495-1563)21.
Nhưng điều làm chúng tôi chú ý là bài từ này chỉ có tám câu và chữ được
thêm vào ấy lại nằm ở câu thứ 5 của bài từ, tức hoàn toàn trùng hợp với
bản A của bài Ngọc Lang quy. Nhưng để trở thành một biến thể, một điệu
phải có ít nhất là hai bài từ có cấu trúc hình thức giống nhau. Tuy đồ
sộ, TLTÐ chỉ ra được một bài duy nhất nên ta phải dè dặt trong việc sử
dụng khái niệm biến thể ở đây.
Nếu ta cho rằng bài từ của Khuông Việt Ðại sư và bài của Wu Zixiao đủ để
cho ta giả thuyết có một biến thể thì một câu hỏi sẽ được đặt ra: Tại
sao chúng lại cách xa nhau đến 5 thế kỷ? Phải chăng đây là do tính sáng
tạo của mỗi tác giả ở hai thời đại khác nhau? Và nếu thừa nhận bài từ
của Khuông Việt Ðại sư nguyên có 48 chữ thì tại sao và trên cơ sở nào nó
lại được sửa thành 49 chữ trong ÐVSKTT (B, C, D), nhất là việc ngắt câu
5 (7 chữ) ra làm 2 câu 6 và 7 (mỗi câu 3 chữ)? Vậy ở đây vấn đề phải
được xem xét:
1. Trên cơ sở nguyên thể điệu Nguyễn Lang quy (47 chữ).
2. Trên khả năng có biến thể (48 chữ).
3. Trên cơ sở các dị bản của Ngọc Lang quy lưu hành ở Việt Nam (49 và 48 chữ).
Theo đó thì nhận xét của chúng tôi như sau22:
1. Bản B (cũng như các bản C và D) với 49 chữ có cấu trúc không trùng
hợp với bất cứ bài từ Nguyễn Lang quy nào được biết đến và khác thể
chuẩn ở câu 2 (dư hai chữ).2. Bản A trùng hợp hoàn toàn với bài từ 夜 登 叢 桂 樓 (Dạ đăng Tùng Quế Lâu) của Wu Zixiao 吳 子 孝 (Ngô Tử Hiếu), tức cũng chỉ khác tám bản còn lại ở một chữ duy nhất ở câu 5.
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 141
Tình hình trên buộc chúng tôi phải căn cứ vào các thể chuẩn (47 và 48
chữ) để loại bỏ thể không thích hợp (49 chữ) của các dị bản B, C và D vì
không có tiền lệ trong văn học Trung Quốc và văn học Việt Nam23. Vậy,
chúng tôi xin giữ lại hai thể 47 và 48 chữ để từ đó tìm hiểu thêm về bản
A của Ngọc Lang Quy. Bản A có khả năng là một biến thể hay không, hay
chỉ là kết quả của một sự hiệu đính mà sự trùng hợp với cấu trúc của bài
từ Trung Quốc chỉ là một sự ngẫu nhiên.
Do sự câu thúc của niêm luật, câu 5 chỉ có hai khả năng là "nhân tình"
(7 chữ, theo biến thể 48 chữ) và "tình" (6 chữ, theo biến thể chuẩn) mà
thôi. "Nhân tình" là gì? "Nhân tình" có ba nghĩa chủ yếu là "tình cảm
của con người", "tình cảm của dân chúng" (như trong "nhân tình thế
thái") và "tình hình trong dân chúng". Theo chúng tôi, bối cảnh ở đây là
sự nhắn nhủ, gửi gắm tâm sự, nên nó phải mang nặng tính trữ tình trực
diện để đạt được sự chân thật nồng nàn trong lời nói. Vậy, "tình thảm
thiết" hợp với bối cảnh hơn "nhân tình thảm thiết" vì "nhân tình" chỉ
cái quá chung chung, cái phổ biến hoặc cái cộng đồng, tức không có sự
đồng cảm trực tiếp giữa tác giả và người tiếp nhận bài từ.
Nhận định này của chúng tôi dựa vào tâm lý và phương diện ngữ nghĩa của
bài từ. Hơn nữa, chúng tôi cũng quan niệm rằng trí thức (nhà Nho) Việt
Nam không có lệ tạo ra biến thể. Chúng tôi chưa gặp trường hợp này trong
các lối văn vần Việt Nam. Hơn nữa, bài từ này được biên soạn trong hoàn
cảnh chính thức nên chúng tôi không cho rằng tác giả đã tạo ra một biến
thể mà chỉ sử dụng lại một hình thức thịnh hành đương thời. Như thế,
câu thứ 5 với 7 chữ có thể chỉ là kết quả của một sự biên tập, sửa chữa
bằng cách gộp hai câu 5 và 6 làm một và thêm chữ "nhân" vào đầu câu này.
Biên tập như thế sẽ đem lại tính thống nhất từ đầu đến cuối cho bài từ
với cấu trúc bốn vế với 7 và 5 chữ mỗi vế.
Chúng tôi xin giữ lại thể Nguyễn Lang quy 47 chữ bằng cách loại bỏ chữ
"nhân" trong câu 5 và ngắt câu này ra làm hai câu 3 chữ theo nguyên điệu
(5 và 6) ở dị bản A và hai chữ "dao vọng" ở các dị bản B, C và D.
THỜI ÐẠI số 6
142
II.1.2. Sơ đồ niêm luật điệu Nguyễn Lang quy chuẩn:
Chúng tôi hiện đã tìm được 6 bài từ "Nguyễn Lang quy" khởi bằng vần
bằng24: một bài của Li Yu 李 煜 (Lý Dục, 937-978), một bài của Ouyang Xiu 歐
陽 修 (Âu Dương Tu, 1007-1072), hai bài của Yan Jidao 晏 幾 道 (Yên Kỷ Ðạo,
1030-1106), một bài của Huang Tingjian 黃 庭 堅 (Hoàng Ðình Kiên,
1045-1105), một bài của Qin Guan 秦 觀 (Tần Quán, 1049-1100)25. Sau khi
khảo sát 6 bài từ trên chúng tôi nhận thấy có 12 chỗ có niêm luật khác
nhau trên 16 khả năng theo lý thuyết (chữ in nghiêng đậm dưới đây). Ðể
tiện tham khảo chúng tôi xin đưa ra một sơ đồ được thiết lập trên cơ sở
sáu bài trên, trong đó tần số xuất hiện cao nhất của một niêm luật cụ
thể (bằng hoặc trắc) sẽ được giữ lại dùng làm tiêu chuẩn không cố định
(thí dụ như: "bằng (5/6)" có nghĩa là niêm luật "bằng" ở đây chiếm 5
trên 6 trường hợp và trường hợp còn lại là "trắc"):
12
3
4
5
6
7
Câu 1.
bằng (5/6)
bằng
bằng
trắc
trắc
bằng
bằng
Câu 2.
bằng (5/6)
bằng
bằng (4/6)
trắc
bằng
Câu 3.
trắc (4/6)
bằng
bằng
trắc
trắc
bằng
bằng
Câu 4.
bằng (4/6)
bằng
bằng (4/6)
trắc
bằng
Câu 5.
bằng (6/6)
trắc
trắc
Câu 6.
trắc (6/6)
bằng
bằng
Câu 7.
bằng (5/6)
bằng
trắc (4/6)
bằng
Câu 8.
bằng (3/6)
bằng
bằng (3/4)
trắc
trắc
bằng
bằng
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 143
Câu 9.
bằng (5/6)
bằng
bằng (4/6)
trắc
bằng
Sơ đồ trên cho ta thấy rằng niêm luật bằng trắc khá lỏng lẻo ở chữ đầu
và chữ thứ ba của mỗi câu. Ngược lại các nhà soạn từ phải tuân theo niêm
luật chặt chẽ (cố định) ở chữ thứ hai và từ chữ thứ tư trở đi, nhất là ở
chữ cuối của mỗi câu.
Nhưng chúng tôi phải thừa nhận rằng giải quyết xong vấn đề số lượng chữ
không có nghĩa là đã xử lý xong các dị bản, vì còn vấn đề từ ngữ bất
đồng. Kết quả vẫn dẫn ta đến bốn dị bản do sự bất đồng ấy. Như vậy, sơ
đồ này trong chừng mực nào đó sẽ làm cơ sở cho việc hiệu đính về ngôn từ
dựa trên các chuẩn niêm luật.
II.2. Hiệu đính về ngôn từ:
Nghiên cứu vấn đề từ ngữ của các dị bản sẽ tất yếu dẫn đến việc đề nghị
công bố một bản từ tái lập. Thao tác này khó tránh khỏi chủ quan, nhưng
vì phải giải quyết vấn đề, chúng tôi buộc phải loại bỏ những từ ngữ
"không thích hợp" để chỉ giữ lại một khả năng mà thôi. Mọi sự lựa chọn
của chúng tôi đều có giải thích. Sau đây là những dị biệt về từ ngữ:
Câu 1: Tường quang phong hảo cẩm phàm trương, (A,B,C,D)
Câu 2: Thần tiên phục đế hương. (A,B,C,D)
Câu 3: Thiên trùng vạn lý thiệp thương lang (lãng), (A)
hoặc: Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang (lãng), (B,C)
hoặc: Vạn trùng sơn thủy phiếm thương lang (lãng), (D)
Câu 4: Cửu thiên quy lộ trường. (A, B, C, D)
Câu 5: Tình thảm thiết, (A, B, C, D)
Câu 6: Ðối ly trường. (A, B, C, D)
Câu 7: Phan luyến tinh tinh lang, (A)
hoặc: Phan luyến sứ tinh lang, (B, C, D)
Câu 8: Nguyện tương thâm ý vị Nam cường (cương?), (A)
hoặc: Nguyện tương thâm ý vị biên cương, (B)
hoặc: Nguyện tương thâm ý vị biên phương, (C)hoặc: Nguyện tương thâm ý quy biên cương, (D)
Câu 9: Phân minh báo ngã hoàng. (A)
hoặc: Phân minh tấu ngã Hoàng. (B, C, D)
Tóm lại, các chữ khác nhau là:
Câu 3: a. "thiên trùng vạn lý" (A) ↔ "vạn trùng sơn thủy" (B, C, D)
b. "thiệp" (A, B, C) ↔ "phiếm" (D)
Câu 7: "tinh tinh lang" (A) ↔ "sứ tinh lang" (B, C, D)
Câu 8: a. "vị" (A, B, C) ↔ "quy" (D)
b. "nam cường (cương?)" (A) ↔ "biên cương" (B, D) ↔ "biên phương" (C)
Câu 9: "báo" (A) ↔ "tấu" (B, C, D)
Trừ ở ba chỗ (3b, 8a và 8b), các bản B, C và D thống nhất với nhau.
Ngược lại, bản A khác với bản B ở 4 chỗ, bản C ở 4 chỗ và bản D ở 6 chỗ.
Các Bản B, C, D chỉ khác nhau ở hai chỗ. Ðiều này cho ta thấy ảnh hưởng
của bản B (Ðại Việt sử ký toàn thư) đến các bản C (Việt sử tiêu án) và D
(Lịch triều hiến chương loại chí). Cả ba bản này là những bản được trí
thức thời trung cận đại quan tâm đến nhiều nhất. Vì có sự ảnh hưởng của
bản B đến các bản C và D nên tần số xuất hiện (số lượng) các chữ giống
nhau ở đây không phải là cơ sở để cho ta hiệu đính. Việc hiệu đính phải
căn cứ một phần vào niêm luật và một phần vào nghĩa của các từ và các
câu26.
II.2.1. Hiệu đính theo niêm luật:
Bốn dị bản trên đây tuy chỉ còn 47 chữ, song về niêm luận lại có sai
biệt so với sơ đồ do chúng tôi đã lập. Sau đây là những tương đồng và
sai biệt:
Câu 1: A, B, C, D= theo sơ đồ.
Câu 2: A, B, C, D= "phục": trắc thay vì chuẩn cố định bằng so với sơ đồ.
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 145
Câu 3: A= "thiên": bằng thay vì chuẩn không cố định trắc, và "vạn": trắc thay vì chuẩn không cố định bằng; B, C, D= theo sơ đồ.
Câu 4: A, B, C, D= theo sơ đồ.
Câu 5: A, B, C, D= theo sơ đồ.
Câu 6: A, B, C, D= theo sơ đồ.
Câu 7: A, B, C, D= "luyến": trắc thay vì chuẩn cố định bằng; A= "tinh": bằng thay vì chuẩn không cố định trắc.
Câu 8: A, B, C, D= "nguyện": trắc thay vì chuẩn không cố định bằng; D= "quy": bằng thay vì chuẩn cố định trắc.
Câu 9: A, B, C, D= theo sơ đồ.
Tóm lại ở đây, chúng ta chỉ nên lưu ý những chỗ đi ngược lại các chuẩn
cố định (tức các ngoại lệ so với các chữ thứ hai và từ thứ tư trở đi
trong các câu từ) vì nó có thể giúp ta hiệu đính theo niêm luật. Các dị
bản của bài từ có ba trường hợp không theo chuẩn cố định là: "phục" (câu
2: A, B, C, D), "luyến" (câu 7: A, B, C, D) và "quy" (câu 8 D). Nhưng
trong ba trường hợp này chỉ có "quy" là có 1 dị bản ("vị"), còn "phục"
và "luyến" thì hoàn toàn không. Vậy, chúng tôi chỉ có thể hiệu đính theo
niêm luật ở chữ thứ 5 của câu 8 ("vị" hay "quy"?) mà thôi. Ở đây niêm
luật chuẩn phải là trắc nên chúng tôi xin giữ lại "vị". Ngoài ra còn có
một lý do khác nữa là chữ "quy" thuộc về bản muộn nhất. Tuy nhiên, để
hiểu rõ hơn, chúng tôi đề nghị xem phần hiệu đính từ ngữ ở câu hỏi số 4
dưới đây.
Ngoài ra, chúng tôi cũng xin lưu ý là chữ "浪" thường được phiên "lãng"
(trắc). Nhưng ở đây các nhà nghiên cứu đều phiên là "lang" (bằng). Chúng
tôi không nghĩ rằng đây là một sự phiên âm gượng ép vì niêm luật cố
định bằng ở cuối câu. Ðây không phải là trường hợp duy nhất vì âm "lang"
còn xuất hiện trong một số thơ ca như Phóng cuồng ca 放 狂 歌 của Trần
Quốc Tảng 陳 國 顙 (1252-1313).
II.2.2. Hiệu đính theo ngữ nghĩa:
Ở đây, vấn đề không phải đơn giản là hình thức như ở trên, mà liên quan
đến các vấn đề khác như văn hóa, xã hội và chính trị vì lý do chức năng
ngoại giao của bài từ khi nó được biên soạn.
THỜI ÐẠI số 6
146
1. "Thiên trùng vạn lý 千 重 萬 里" hay "vạn trùng sơn thủy 萬 重 山 水"?
Về niêm luật, tuy "thiên" và "vạn" (A) không theo sơ đồ, nhưng lại nằm ở
những chỗ có niêm luật không cố định nên không có vấn đề thất luật. Còn
"vạn" và "sơn" (B, C, D) theo đúng mô hình của sơ đồ. Vậy ở đây, cả hai
khả năng đều có thể dùng trong bản hiệu đính. Nhưng về nghĩa, Hoàng Văn
Lâu nhận định: "Căn cứ vào nội dung của đoạn này, từ "nắng", "gió",
cánh buồm", sóng xanh, đều nhằm vào miêu tả một chuyến đi bằng thuyền.
Vì đi bằng thuyền nên mới "thiệp thương lang". "Thiên trùng vạn lý" cũng
là miêu tả "thương lang" (Ngàn trùng vạn dặm sóng xanh). Còn "vạn trùng
sơn thủy" là một thành ngữ sáo, nằm ở câu này lại không ăn nhập gì với
"thương lang". Chúng tôi cho rằng câu "thiên trùng vạn lý thiệp thương
lang" là phù hợp với nguyên tác."27
Chúng tôi không hoàn toàn đồng ý với lý giải của ông Hoàng vì nhiều lý
do. Thật ra, "thiên trùng vạn lý" là một thành ngữ sáo, cũng sáo như
"vạn trùng sơn thủy". Hai cụm từ này đều chỉ sự cách trở xa xôi, nhưng
khác nhau ở chỗ "vạn trùng sơn thủy" nhấn mạnh ý nghĩa chướng ngại vật
hoặc quang cảnh trên đường đi. "Sơn thủy" (núi và nước) đối với "thương
lang" (sóng xanh) thật ra không thừa vì "sơn thủy" chỉ cảnh quan chứ
không chỉ riêng nước hay sóng. Tuy rằng "vạn trùng sơn thủy" đầy đủ
nghĩa hơn, chúng tôi xin giữ lại "thiên trùng vạn lý" trong bản hiệu
đính, không phải vì nó "phù hợp với nguyên tác (?)" mà vì chúng tôi cho
rằng tác giả có thể chỉ nhấn mạnh khía cạnh đường dài mà sứ giả phải
chịu.
2. "Thiệp 涉" hay "phiếm 泛"?
Chúng ta chỉ thấy "phiếm" trong dị bản D. "Thiệp" (sang; qua [khe,
sông,...]) và "phiếm" (bơi [thuyền,...], trôi nổi) về nghĩa chỉ khác
nhau ở chỗ "thiệp" ngụ ý điểm đến, còn "phiếm" chủ yếu chỉ hành động di
chuyển trên mặt nước. Ở đây chúng tôi xin giữ lại "thiệp" vì quan niệm
rằng Khuông Việt Ðại sư có thể chỉ nghĩ đến việc phải vượt sóng biển để
về đến đế kinh tâu lại hoàng đế, tức điểm đến. Lý do thứ hai là
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 147
"phiếm" chỉ có trong bản Lịch triều hiến chương loại chí, tức là bản muộn nhất trong các dị bản của chúng tôi.
3. "Tinh tinh lang 星 星 郎" hay "sứ tinh lang 使 星 郎"?
Sau khi tham khảo nhiều loại từ điển, chúng tôi vẫn không thể chứng minh
cụm từ "tinh tinh lang" là một thành ngữ có thực được dùng để chỉ sứ
giả. Chúng tôi cho rằng tuy bản TUTA là bản tốt nhất trong các bản,
nhưng vẫn không tránh khỏi một khuyết điểm thường thấy trong thư tịch cổ
điển là đọc lầm và khắc lầm tự dạng. Hiện tượng này thường thấy đối với
một văn bản bị nhàu nát hay bị mờ và trong trường hợp này, "tinh" và
"sứ" có thể đọc lầm thay cho nhau vì ranh giới phân biệt bị nhòe. Chúng
tôi xin giữ lại "sứ tinh lang" (vị sứ giả do Hoàng đế phái đi) theo các
bản B, C và D.
4. "Vị 為" hay "quy 歸"?
Mặc dù ta có thể giải quyết dị biệt này ở khâu niêm luật. Nhưng chúng
tôi xin giải quyết thêm về mặt ngữ nghĩa vì nó cho phép ta thấy lý do
tại sao bản D đã chữa ra "quy" và phần nào ý nghĩa của cụm từ "biên
cương" (hoặc "Nam cường (cương?)" hoặc "biên phương") ngay sau đó.
Ta chỉ thấy "quy" trong bản D, tức bản muộn nhất. Tại sao bản Lịch triều
hiến chương loại chí này lại ghi là "quy" (trở về) trong khi các bản
trước đó đều ghi là "vị" (vì)? Chữ "quy" ở đây một phần làm lạc niêm
luật (thất luật), một phần mang lại một cách hiểu khác về câu từ. Phải
chăng việc hoán đổi "vị" ra "quy" là vì một lý do khác, do ý nghĩa của
cả hai câu cuối và nhất là do cụm từ "biên cương"? Phải chăng Phan Huy
Chú (nếu quả thực là Phan Huy Chú), đã biến "vấn đề biên cương" (B)
thành hành động "đi đến biên giới" hoặc "qua biên giới" (D)? Ðiều này
cho ta thấy vấn đề ở đây nằm ở khái niệm "biên cương". Phải chăng người
biên tập đã nghi ngờ về hàm nghĩa của cụm từ này nên đã chữa đi?
Nhưng nếu theo nghĩa của dị bản "quy biên cương" thì cả câu không ổn vì
sứ giả đi bằng thuyền. Chúng tôi nghĩ rằng nếu có tiễn đến tận biên giới
đi nữa thì phải là đường bộ, vì nếu là đường biển thì chỉ đưa ra đến
bến hoặc một đoạn bằng thuyền mà thôi. Vậy, chúng tôi xin
THỜI ÐẠI số 6
148
giữ lại "vị" trong bản hiệu đính. Ngoài ra, như đã nói, vấn đề này còn liên quan đến câu hỏi thứ 5.
5. "Nam cường 南 強 (cương?)", "biên cương 邊 疆" hay "biên phương 邊 方"?
Vấn đề ngữ nghĩa của các dị bản ở câu thứ 8 này thật ra khá phức tạp, vì
không phải ngẫu nhiên mà trong bốn dị bản câu này có đến bốn dị thể.
Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu nghĩa của từng dị bản:
a. Hai chữ "南 強" (A) ở đây phải đọc là "Nam cường" và có nghĩa là "sức
mạnh của phương Nam" hoặc "sự cường thịnh của phương Nam". Vì phải tâu
lên vua để có một chính sách (do có chữ "vị"), tức là một hy vọng, một
cái cần tiến hành, nên theo chúng tôi ở đây, nếu đúng tự dạng, phải hiểu
là "sự cường thịnh của phương Nam".
Chúng tôi không biết vì lý do nào mà các bản phiên âm dị bản TUTA (A)
đều ghi là "Nam cương". Phải chăng do tiếp xúc với bản có trong các sách
sử như ÐVSKTT (B) và LTHCLC (D) trước khi tiếp xúc với bản này, rồi khó
đi ngược lại hai chữ "biên cương" nên đã phiên "強" ra "cương"? Phải
chăng các tác giả đã cho rằng chữ "cương 疆" được viết tắt thành "強", có
chữ "土 thổ" ở trong chữ cung "弓", rồi bị mất nét chữ thổ "土"? Tuy không
phải là hoàn toàn vô lý, như cũng khó chấp nhận được vì chúng tôi chưa
bắt gặp chữ viết tắt như thế.
Trong hai bản TUTA thời Lê28, chữ khắc rõ ràng là "強". Hơn nữa, không
thể có sự lầm lẫn giữa "強 cường" và "cương 疆" được vì trước đó ở tờ 8b
có khắc rõ chữ "疆 cương". Vậy ở đây, chúng tôi xin đọc "南 強" là "Nam
cường".
b. "Biên cương 邊 疆" (B, D) có nghĩa là "biên cương, biên giới; miền, đất ở biên giới".
c. "Biên phương 邊 方" (C) có nghĩa là "cõi, miền, phương trời ở [tận] biên giới".
Qua các lý giải trên, cả hai khả năng b và c đều có một hằng số là "biên
giới". Ðều này phải chăng phù hợp với thực tế trong quan hệ
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 149
Việt-Tống vào cuối thế kỷ thứ X, cho nên khái niệm "biên giới" mang đậm tính thời sự?
Tính chất thời sự có thể có trong bài từ là trước đó không lâu, quân
Tống sang chiếm nước Ðại Cồ Việt, nhưng bị quân của Lê Ðại Hành đánh bại
(981). Ý đồ xâm phạm nước Ðại Việt của nhà Tống, nhà Nguyên, rồi nhà
Minh vẫn hiển hiện trong suốt các đời Lý (1075-77) và Trần (1257,
1284-85, 1287). Chúng tôi cho rằng vấn đề ở đây không chỉ là vấn đề biên
giới theo định nghĩa ngày hôm nay mà quan trọng hơn nữa là vấn đề lãnh
thổ, quốc gia. Vấn đề lãnh thổ quốc gia tuy hiển nhiên, song thực tế
ngoại giao thì khác. Nước Ðại Cồ Việt của Lê Ðại Hành, cũng như các
triều đại khác về sau, vẫn thừa nhận mình là phiên thần (thần dân ở phên
giậu, tức chư hầu) của các triều đại Trung Hoa. Và trên danh nghĩa này,
các thư từ qua lại cũng như các cuộc tiếp sứ trao đổi thơ ca,... mang
đậm tính cách ước lệ, thường nằm ngoài thực tế chính sách tự chủ của
nước Ðại Việt. Vậy vấn đề thừa nhận nước Ðại Việt là miền đất ở biên
giới phía Nam nhà Tống (phiên bang, nước ở phên giậu) ở đây không hề đi
ngược lại địa vị riêng biệt của Ðại Việt (nếu theo lý luận này thì dị
bản "biên phương" đúng hơn "biên cương"). Cho nên ranh giới giữa hai
nước (biên giới) theo cách suy nghĩ hiện đại có lẽ không thích hợp với
bối cảnh của bài từ.
Chúng tôi cho rằng vấn đề "biên giới" có thể trở nên bức thiết, rõ ràng
hơn từ thời Lý trở đi, bắt đầu với chuyến đi sứ của Nguyễn Văn Thịnh năm
1084, tức gần một trăm năm sau, mà mục đích duy nhất là để bàn về biên
giới29. Vậy khi chưa có dữ liệu chính xác hơn nữa về "biên giới" vào
thời Tiền Lê và vì cho rằng "biên cương" có thể là do các sử gia Việt
Nam thời sau biên tập, có thể từ thời Lý-Trần trở đi30, chúng tôi xin
giữ lại "Nam cường" với nghĩa là "sự thịnh cường ở phương Nam"31.
6. "Báo 報" hay "tấu 奏"?
Thoạt đầu, khi đọc hai khả năng trên đây, ta dễ dàng nhận thấy "tấu" hay
hơn "báo" vì có vẻ cung kính và nghiêm trang hơn. Nhưng khi xét lại,
"báo" theo nghĩa cổ trong Lễ ký là "báo cáo lên vua sau khi
THỜI ÐẠI số 6
150
phụng mạng thi hành sứ mạng về". Ở đây, bản của TUTA giữ lại được cách
dùng trong kinh điển Nho giáo. Rất có thể Khuông Việt Ðại sư đã dùng chữ
này vì theo lệ thường trong loại thơ ca tiễn đưa, thù tạc, người ta
thường dùng điển cố, và nhất là từ ngữ trong các kinh điển để ngụ tình
cảm hay tư tưởng của mình bởi tính chính thống phổ thông của ngôn từ
kinh điển. Tuy tấu (tâu lên vua) cũng có nghĩa tương tự, nhưng chúng tôi
xin giữ lại dị bản "báo" trong bản hiệu đính.
Ngoài ra, nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn còn đưa ra vấn đề lý giải ngữ
nghĩa căn cứ vào cú pháp của câu 8 (dị bản B). Vì chủ từ các động từ
"nguyện" và "tương" vắng mặt trong câu từ nên nghĩa của câu được ông lý
giải theo cú pháp để kết luận. Theo ông thì câu "Nguyện tương thâm ý vị
biên cương" có cấu trúc mà chúng tôi xin đúc kết lại theo công thức sau
đây:
[chtừ1] + nguyện + [chtừ1] + tương... (chtừ: chủ từ)
Theo đây thì "nguyện" có nghĩa là "nguyện" (xin nguyện, phát nguyện) và
các chủ từ của "nguyện" và "tương" chỉ là một, tức là "tôi" (Khuông
Việt) hoặc "chúng tôi". Trong chú thích 2 [tr. 140], ông Nguyễn Tài Cẩn
cũng đồng ý với đề nghị của Cung Văn Lược về cách hiểu các chữ "nguyện"
và "ngã hoàng":
Nguyên tác: Nguyện tương thâm ý vị biên cương,
Phân minh tấu ngã hoàng. (bản B)
Cách hiểu của Cung Văn Lược:
"[Chúng tôi] hứa xin đem cái ý sâu xa [của sứ giả], vì cõi biên cương,
tìm hiểu thật rõ ràng và tâu lên cùng hoàng đế của chúng tôi."
Theo chúng tôi, đây có thể là một cách hiểu hai câu cuối của bài từ nếu
chúng ta tách chúng khỏi bài từ và tách bài từ khỏi bối cảnh của nó.
Song, ngoài cách hiểu chữ "nguyện" như trên, ta còn có thể hiểu theo một
cách khác như vẫn thường được hiểu từ trước tới nay. Câu "Nguyện tương
thâm ý vị biên cương" còn có một cấu trúc cú pháp khác là:
[chtừ1] + nguyện + [chtừ2] + tương...
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 151
vì ngoài nghĩa 'nguyện' (đã được Việt hóa) ra, "nguyện" (Hán-Việt) còn
có nghĩa là 'hy vọng', 'ước mong'. Theo cú pháp trên thì chúng tôi hiểu
câu này như sau:
"Tôi/chúng tôi (= chtừ 1) ước mong [rằng] Ngài (= chtừ 2) vì biên giới
mà đem cái ý sâu xa về phân minh tâu lên hoàng đế của chúng ta".
Nếu ta đặt cách hiểu thứ hai này vào bài từ và bài từ vào bối cảnh của
nó (như chúng tôi đã trình bày trên đây) thì nó hợp lý hơn cách hiểu của
ông Nguyễn Tài Cẩn. Ta có thể giả thuyết như ông trong trường hợp vua
Lê Ðại Hành vắng mặt trong buổi lễ tiễn đưa và nhất là trong trường hợp
sứ thần và vua Lê Ðại Hành không gặp mặt nhau. Ở đây, cả hai đều đã tiếp
xúc và hẳn đã trao đổi. Vậy không lý do gì mà phải trao đổi với các
quan đưa đón sứ giả rồi nhờ các quan này tâu lại một điều quan trọng như
"biên giới" lên Hoàng đế Việt Nam.
Chúng tôi xin giữ lại khả năng A và xin dịch toàn bộ hai câu 8 và 9 của
dị bản A như sau: "Xin Ngài vì sự cường thịnh ở phương Nam mà đem thâm ý
về phân minh tâu lại Hoàng đế của chúng ta".
III. BẢN NGỌC LANG QUY HIỆU ĐÍNH
Sau khi phân tích ngữ nghĩa của các dị thể, chúng tôi xin đề nghị một
bài Ngọc Lang quy hiệu đính. Chúng tôi không dám khẳng định là nó thỏa
đáng hơn cả, nhưng nó được đúc kết từ những suy luận riêng mà chúng tôi
đã trình bày:
祥光風好錦帆張Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
神仙復帝鄉
Thần tiên phục đế hương.
萬重山水涉滄浪
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang,
九天歸路長
Cửu thiên quy lộ trường.
情慘切
Tình thảm thiết
對離觴
Ðối ly trường!
攀戀使星郎
Phan luyến sứ tinh lang.
願將深意為南強
Nguyện tương thâm ý vị Nam cường,
分明報我皇
Phân minh báo ngã Hoàng.
THỜI ÐẠI số 6
152
[dịch nghĩa:
Ánh nắng lành, gió tốt, cánh buồm gấm giương
Thần tiên trở về quê hương của Hoàng đế
Ngàn trùng muôn dặm lướt sóng xanh
Ðường về nơi Chín trời xa xôi
Tình thảm thiết
Ðối diện với chén rượu chia ly
Quyến luyến vịn [xe] sứ giả
Xin [Ngài] vì sự cường thịnh ở phương Nam mà đem ý sâu xa
[về] phân minh tâu lại Hoàng đế của chúng ta]
Tạm dịch theo nguyên điệu:
Nắng lành gió tốt gấm buồm giương,
Thần tiên hướng đế hương.
Muôn trùng sông núi lướt làn xanh,
Ðế cung cách dặm trường.
Tình thảm thiết,
Chén lên đường.
Vin xe sứ luyến thương.
Xin đem thâm ý bởi Nam cường,
Phân minh tấu Thánh hoàng.
KẾT LUẬN
Trên đây là nhận định của chúng tôi về những vấn đề văn bản học và ý
nghĩa của bài từ Ngọc Lang quy của Khuông Việt Ðại sư. Tuy chỉ có một
bài nhưng thực tế văn bản như chúng tôi đã trình bày quả thật phức tạp,
thường làm cơ sở cho những lý giải theo nhiều lĩnh vực khác nhau: xã
hội, chính trị, tôn giáo,... Chúng tôi chỉ tập trung bám sát văn bản,
giải mã những ký hiệu để rút ra những kết luận, đưa ra những nhận định
về bài từ của thế kỷ X. Việc hiệu đính một tác phẩm cổ điển như bài từ
Ngọc Lang quy phải huy động nhiều lĩnh vực như đã được tiến hành.
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 153
Ðiều quan trọng hơn nữa là thực tế văn bản ở đây là một thí dụ điển
hình, nhưng hiếm hoi, bởi lịch trình biến đổi của nguyên tác qua một
ngàn năm lịch sử. Nó cho ta thấy rõ những thao tác biên tập vì những nhu
cầu khác nhau. Việc thêm "Dao vọng" hay "nhân" bất chấp cấu trúc chuẩn
chỉ nhằm ý nghĩa tu từ thuần thúy. Song, việc đổi "vị Nam cường" (A) ra
"vị biên cương" (B), ra "vị biên phương" (C) rồi ra "quy biên cương" (D)
cho ta thấy ý thức chính trị trong thao tác biên tập một sáng tác văn
học ở những nhà Nho mang trọng trách viết sử, để thích nghi nó với điều
kiện chính trị hay biểu đạt sự ám ảnh của một thực tế, biến tác phẩm văn
học nghệ thuật thành tác phẩm văn học chức năng. Hiện tượng này đồng
thời cũng xóa nhòa ranh giới giữa quá khứ và hiện tại và tính thời gian
của tác phẩm. Việc đọc "Nam cường" ra "Nam cương" của nhiều học giả hiện
đại cho ta thấy ảnh hưởng sâu và rộng của chính sử của các triều đại.
Sách tham khảo chính
Sách Việt Nam:
Bạch Hào Tử (Miên Thẩm), Khúc hát gõ mái chèo (Cổ duệ từ), Phan Văn Các
sưu tầm, phiên dịch, chú thích giới thiệu, Việt Nam: Trung tâm Khoa học
Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Việt Nghiên cứu Hán Nôm, 2000, 163 tr.
Bế Lãng Ngoạn (Sông Bằng) biên soạn, Lê Văn Hòe (Văn Hạc) san nhuận,
Việt Hoa thông sứ sử lược 越 華 通 使 史 略, Hà Nội: Quốc học Thư xã, Tủ sách
Quốc học, 1943, 171 tr.
Chân Nguyên, Nguyễn Tường Bách, Từ điển Phật học 佛 學 辭 典, Huế: nxb. Thuận Hóa, 1999, 655 tr.
Cuong Tu Nguyen, Zen in medieval Vietnam, a study and translation of the
Thiền Uyển Tập Anh, Honolulu: University of Hawaii's Press, a Kuroda
Institute book, 1997, 481 tr.
Ðoàn Trung Còn, Phật học từ điển 佛 學 辭 典, t. 1, 2, 3, Taiwan: Shyh Hyah Printing Co, Ltd, [không ghi năm], 616, 1530 tr.
THỜI ÐẠI số 6
154
Ðại Việt sử ký toàn thư, Nguyễn Khánh Toàn (giới thiệu), Phan Huy Lê
(khảo cứu), Ngô Ðức Thọ, Hoàng Văn Lâu, Ngô Thế Long (dịch), Hà Văn Tấn
(hiệu đính), t. I-IV, Hà nội: nxb. Khoa Học Xã Hội, 1993, 342, 528, 474,
673 tr.
Ðặng Thai Mai, Cao Xuân Huy (chỉ đạo và duyệt), Thơ văn Lý - Trần, t. I, Hà Nội: nxb. Khoa học Xã hội, 1977, 631 tr.
Hoàng Văn Lâu, "Về bài từ ở thế kỷ X", Một số vấn đề văn bản Hán Nôm, Hà Nội: nxb. Khoa học Xã hội, 1983, tr. 191-211.
Kim Cương Tử (chủ biên), Từ điển Phật học Hán - Việt 漢 越 佛 學 辭 典, tái
bản có sửa chữa và bổ sung, Hà Nội: nxb. Khoa Học Xã Hội, 1998, 1572 tr.
Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, Việt Nam: nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, 840, [5] tr.
Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, t. 2, Việt Nam: nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2001, 773, [25] tr.
Lê Quý Ðôn, Kiến văn tiểu lục, Hà Nội: nxb. Sử Học, 1962, 541 tr.
吳 時 仕 (Ngô Thời Sĩ), 越 史 標 案 (Việt sử tiêu án), cuối tk. XVIII (EFEO: microfilm I. 43).
Ngô Thời Sỹ (Ngọc Phong), Việt sử tiêu án, từ Hồng Bàng đến ngoại thuộc
nhà Minh, bản dịch của Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên lạc Văn hóa Á Châu,
Saigon: Văn hóa Á Châu, 1960, 307 tr.
Nguyễn Quốc Hùng, Hán Việt tân từ điển 漢 越 新 辭 典, Saigon: Nhà sách Khai Trí, 1975, 871 tr. [phát hành năm 1982]
Nguyễn Tài Cẩn, "Vấn đề lập trường đối với nhà Tống trong bài Vương Lang
quy của Ngô Chân Lưu", Tạp chí Văn học, 2 (188), 3/4-1981, tr. 137-142,
149.
Phạm Thị Tú, "Về bài từ đầu tiên và tác giả của nó: sư Khuông Việt", Tạp chí Văn Học, 6 (150), 11/12-1974, tr. 135-138, 152.
Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Khâm định thông giám cương mục, t. 1, Việt Nam: nxb. Giáo Dục, 1998, 1207 tr. [tái bản]
潘 輝 注 (Phan Huy Chú), 歷 朝 憲 章 類 誌 (Lịch triều hiến chương loại chí), đầu tk. XIX (EFEO: microfilm III 78-79).
Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, t. III, Binh chế chí, Văn
tịch chí, Bang giao chí, Hà Nội: nxb. Khoa học Xã hội, 1992, 420 tr.
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 155
Trần Văn Chánh, Tự điển Hán Việt Hán ngữ cổ đại và hiện đại 古 今 漢 越 語 字
典, Việt Nam: nxb. Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, XXX,1414 tr.
Vũ Ngọc Liễn (chủ biên), Nguyễn Thanh Hiện, Tống Phước Phổ, Mạc Như Tòng, Thơ và từ Ðào Tấn, Hà Nội: nxb. Văn Học, 1987, 284 tr.
川 本 邦 衛 (Xuyên Bản Bang Vệ), 傳 奇 漫 錄 刊 本 攷 (Truyền kỳ mạn lục san bản
khảo) [biên khảo về các bản khắc Truyền kỳ mạn lục], 東 京 (Tokyo): 慶 應 義 塾
大 學 (Khánh Ứng Nghĩa Thục Ðại Học), 言 語 文 化 研 究 所 (Ngôn ngữ Văn hóa
Nghiên cứu sở), 1998, VII, 280 tr.
Sách Trung Quốc:
Cha Jichao 查 继 超 (tập), Chen Guoqing 陈 果 青, Fang Kaijiang 房 开 江 (hiệu
đính), 词 学 全 书 (Từ học toàn thư) [Toàn thư về từ học], Guizhou Renmin
Chubanshe 貴 州 人 民 出 版 社, 1990, 819 tr.
Ma Xingrong 马 兴 荣, Wu Xionghe 吴 熊 和, Cao Jiping 曹 济 平 (chủ biên), 中 国 词 学
大 词 典 (Trung Quốc từ học đại từ điển) [Từ điển lớn về từ học Trung
Quốc], Zhejiang Jiaoyu Chubanshe 浙 江 教 育 出 版 社, 1996, 755 tr.
Pan Shen 潘 慎 (Phan Thận) (chủ biên), 词 律 辞 典 (Từ luật từ điển) [Từ điển
về từ luật], Shanxi 山 西: Shanxi Renmin Chubanshe 山 西 人 民 出 版 社, 1991,
1708 tr.
Shang Jiang Cun Min 上 彊 村 民 (重 編) (Thượng Cương Thôn Dân) (trùng biên),
Tang Kui Zhang 唐 圭 璋 (箋 注) (Ðường Khuê Chương) (tiên chú), 宋 詞 三 百 首
(Tống từ tam bách thủ tiên chú) [Ba trăm bài từ đời Tống, bản có chú
thích], Shang Hai 上 海: Shang Hai Guji Chubanshe 上 海 古 籍 出 版 社, 1993, 259
tr.
Wang Li 王 力 (Vương Lực), 诗 词 格 律 (Thi từ cách luật), Beijing: Zhonghua Shuju (Bắc Kinh: Trung Hoa Thư cục), 2000, 182 tr.
THỜI ÐẠI số 6
156
(Tập thể tác giả), 古 汉 语 大 词 典 Guhanyu da cidian (Cổ đại Hán ngữ đại từ
điển) [Từ điển lớn tiếng Hán], Shang Hai 上 海: Shang Hai Cishu Chubanshe 上
海 辞 书 出 版 社, 2000, 2613 tr.
Chú thích
1 Nghiên cứu sinh, năm thứ ba, Luận án tiến sĩ tại Ðại học Paris VII (văn học).
2 Hai sáng tác sau chỉ có trong TUTA.
3 Bài này là một bước nối tiếp bài viết đã được công bố trên mạng
(khuongviet.com) với tên là Khuông Việt Ðại sư 匡 越 大 師 (933-1011) qua
các sáng tác vận văn còn lưu truyền. Do tiếp xúc được một số thư tịch
mới, chúng tôi xin sửa chữa bằng cách giới hạn bài viết trong các vấn đề
xung quanh bài Ngọc Lang quy, chủ yếu là vấn đề biến thể của điệu
Nguyễn Lang quy (liên quan đến câu 5 và 6 của bài từ) và kết luận về
thực tế văn bản qua thí dụ bài từ.
4 "Ðiền từ 填 詞" là làm từ theo điệu có sẵn, đặt lời từ.
5 Xin xem Wang Li 王 力, 诗 词 格 律 (Thi từ cách luật), tr. 78.
6 Wangli, sđd., chú thích 1, tr. 79.
7 Xem Bùi Hạnh Cẩn, Hồ Xuân Hương - thơ chữ Hán, chữ Nôm và giai thoại, Việt Nam, nxb Văn Hoá Thông Tin, 1995.
8 Từ có thể đối lập với thơ ở hình thức cũng như ở nội dung mà một trong
những giá trị được nhà Nho lưu tâm hơn cả là tôn chỉ "詩 以 言 志 thi dĩ
ngôn chí (tức thơ dùng để nói lên chí [hướng])". Ngoài ra về một quan
niệm tương tự đối với "văn", xin xem thêm Trần Nghĩa, "Góp phần tìm hiểu
quan niệm «Văn dĩ tải đạo»", Tạp chí Văn Học, số 2-1970, tr. 84-102.
9 Về từ của Hồ Xuân Hương, xin xem Nguyễn Lộc, Thơ Hồ Xuân Hương, Hà Nội: nxb. Văn Học, 1982, tr. 79-85.
10 Xem Bạch Hào Tử, Khúc hát gõ mái chèo (Cổ duệ từ), Phan Văn Các sưu
tầm..., 2000, 163 tr.; Vũ Ngọc Liễn (chủ biên), Thơ và từ Ðào Tấn, 1987,
284 tr.
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 157
11 Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi đã trích các dị bản Ngọc Lang quy
từ các văn bản chữ Hán sau đây: Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền uyển
tập anh [bản khắc], Cuong Tu Nguyen, Zen in medieval Vietnam, a study
and translation of the Thiền Uyển Tập Anh [bản khắc], Ðại Việt sử ký
toàn thư, nxb. Khoa Học Xã Hội, 1993 [bản khắc], 吳 時 仕 (Ngô Thời Sĩ), 越 史
標 案 (Việt sử tiêu án) (EFEO: microfilm I. 43) [bản viết], 潘 輝 注 (Phan
Huy Chú), 歷 朝 憲 章 類 誌 (Lịch triều hiến chương loại chí) (EFEO: microfilm
III 78-79) [bản viết].
12 Hoàng Văn Lâu, "Về bài từ ở thế kỷ thứ X", trong Một số vấn đề văn bản Hán Nôm, tr. 191-211.
13 X. Nguyễn Tài Cẩn, "Vấn đề lập trường đối với nhà Tống trong bài
Vương Lang quy của Ngô Chân Lưu, 1981"; Phạm Thị Tú, "Về bài từ đầu tiên
và tác giả của nó: sư Khuông Việt", 1974.
14 Xin xem hai bản thời Lê in kèm theo Nghiên cứu về… của Lê Mạnh Thát và Zen in medieval Vietnam của Nguyen Tu Cuong (tờ 9a).
15 Chúng tôi không có bản thời Nguyễn trong tay nên đã căn cứ vào nhận xét của ông Lê Mạnh Thát trong Nghiên cứu về..., tr. 342.
16 Về nghĩa của "Nam cường", xin xem phần Hiệu đính theo ngữ nghĩa, câu hỏi thứ 5.
17 "Về bài từ...", tr. 196.
18 Nghiên cứu về..., chú thích 10: 342-347.
19 Tr. 921, 922.
20 Hơn nữa, bài từ tái lập trong TLTÐ không chuẩn vì trong chín câu từ,
sáu câu được tái lập với những chữ không có trong bài từ. Việc tái lập
như thế mang nhiều tính võ đoán. Vậy vấn đề tái lập ở đây còn bỏ ngõ.
Chúng tôi không sao lục lại cả bài vì nghĩ rằng nó không giúp được gì
cho việc hiệu đính bài từ của Khuông Việt Ðại sư và cũng để tránh độ dài
không cần thiết cho bài viết của chúng tôi.
21 Bài từ này như sau: 一 年 月 色 最 宜 秋, 銀 江 映 玉 流, 半 輪 寒 魄 未 曾 周, 清 光 處 處
浮, 金 尊 瑤 管 共 綢 繆, 毫 端 風 景 收, 名 山 相 望 倚 危 樓, 知 音 千 古 求 (Nhất niên nguyệt
sắc tối nghi thu, Ngân giang ánh ngọc lưu; Bán luân hàn phách vị tằng
chu. Thanh quang xứ xứ phù. Kim tôn, dao quản cộng trù mâu. Hào đoan
phong cảnh thâu. Danh sơn tương vọng, ỷ nguy lâu, Tri âm thiên cổ cầu)
[dịch nghĩa: Trong suốt một năm,
THỜI ÐẠI số 6
158
trăng đẹp nhất là trăng mùa thu, Sông Ngân như ngọc lấp lánh chảy. Nửa
vành trăng sáng chưa từng đầy, Ánh sáng trong tràn lên khắp nơi, Chén
vàng, sáo ngọc hài hòa với nhau. Phong cảnh thâu tóm lại vào đầu ngọn
bút. Tựa lầu cao vút, trông ngọn núi nổi tiếng. Bạn tri âm từ ngàn xưa
vốn phải tìm].
22 Nhận định này dựa vào chín bài từ Nguyễn Lang quy mà chúng tôi đã tìm
được trong văn học Trung Quốc qua các nguồn thư tịch khác nhau.
23 Có lẽ bản B (cũng như các bản C và D) là kết quả của một lần sửa chữa
về mặt cấu trúc của bài từ. Người sửa chữa có lẽ đã đưa "dao vọng" vào
câu 2 để tỏ ý kính cẩn, thắm thiết. Nếu ta loại bỏ cụm từ này, các dị
bản này sẽ trở thành thể chuẩn 47 chữ của điệu Nguyễn Lang quy.
24 Như đã trình bài ở phần trên, chúng tôi thật ra đã tìm được chín bài
từ Nguyễn Lang quy: sáu bài khởi bằng vần bằng, một khởi bằng vần trắc,
một bài của Ma Yu cho là thuộc điệu này và một bài với 48 chữ của Wu
Zixiao. Chúng tôi xin chỉ giữ lại sáu bài hoàn chỉnh khởi bằng vần bằng
để làm cơ sở cho việc thống kê.
25 Nhưng để giảm bớt độ dài của bài viết, chúng tôi xin bỏ nguyên văn
các bài từ trên và chỉ công bố kết quả phân tích. Sau đây là xuất xứ của
sáu bài từ nói trên: Từ học toàn thư, tr. 213; Tống từ tam bách thủ
tiên chú, tr. 45; 70; Từ luật từ điển, tr. 91-92.
26 Một nhận định khác có thể đưa ra là bốn bản đã sử dụng hai thể của
chữ "tiên". Bản A và B dùng "僊", còn bản C và D dùng "仙". Sự khác biệt
này về ý nghĩa của bài từ không quan trọng. Phải chăng "僊" (được dùng
trong các bản cổ nhất ở đây) là thể chuẩn nhất thường được dùng vào thời
ấy? Chúng tôi xin giữ lại thể "僊" trong bản hiệu đính.
27 "Về bài từ...", tr. 203.
28 Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về..., tr. 824; Nguyen Tu Cuong, Zen in vietnam..., nguyên tác in kèm, tờ 9a.
29 X. ÐVSKTT, t. 1, tr. 281; Cương Mục, t. 1, tr. 359, lời cẩn án.
30 Tuy trong TUTA (tờ 8a) có nhắc tới hai chữ "疆 界 cương giới", nhưng
chúng tôi cho rằng đây là sự biên tập của tác giả TUTA khi viết về Ðại
sư. Phải chăng chính chữ này đã ảnh hưởng đến viêc biên tập lại câu 8
của bài từ trong các sách sử?
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 159
31 Việc dịch "Nam cường" ở đây ra "sự cường thịnh ở phương Nam" không
loại bỏ khả năng chơi chữ trong câu từ. Ý của tác giả có thể ở đâu đó
giữa sự cường thịnh và sức mạnh của Việt Nam khi dùng "Nam cường".
hoặc: Nguyện tương thâm ý vị biên cương, (B)
hoặc: Nguyện tương thâm ý vị biên phương, (C)
hoặc: Nguyện tương thâm ý quy biên cương, (D)
Câu 9: Phân minh báo ngã hoàng. (A)
hoặc: Phân minh tấu ngã Hoàng. (B, C, D)
Tóm lại, các chữ khác nhau là:
Câu 3: a. "thiên trùng vạn lý" (A) ↔ "vạn trùng sơn thủy" (B, C, D)
b. "thiệp" (A, B, C) ↔ "phiếm" (D)
Câu 7: "tinh tinh lang" (A) ↔ "sứ tinh lang" (B, C, D)
Câu 8: a. "vị" (A, B, C) ↔ "quy" (D)
b. "nam cường (cương?)" (A) ↔ "biên cương" (B, D) ↔ "biên phương" (C)
Câu 9: "báo" (A) ↔ "tấu" (B, C, D)
Trừ ở ba chỗ (3b, 8a và 8b), các bản B, C và D thống nhất với nhau.
Ngược lại, bản A khác với bản B ở 4 chỗ, bản C ở 4 chỗ và bản D ở 6 chỗ.
Các Bản B, C, D chỉ khác nhau ở hai chỗ. Ðiều này cho ta thấy ảnh hưởng
của bản B (Ðại Việt sử ký toàn thư) đến các bản C (Việt sử tiêu án) và D
(Lịch triều hiến chương loại chí). Cả ba bản này là những bản được trí
thức thời trung cận đại quan tâm đến nhiều nhất. Vì có sự ảnh hưởng của
bản B đến các bản C và D nên tần số xuất hiện (số lượng) các chữ giống
nhau ở đây không phải là cơ sở để cho ta hiệu đính. Việc hiệu đính phải
căn cứ một phần vào niêm luật và một phần vào nghĩa của các từ và các
câu26.
II.2.1. Hiệu đính theo niêm luật:
Bốn dị bản trên đây tuy chỉ còn 47 chữ, song về niêm luận lại có sai
biệt so với sơ đồ do chúng tôi đã lập. Sau đây là những tương đồng và
sai biệt:
Câu 1: A, B, C, D= theo sơ đồ.
Câu 2: A, B, C, D= "phục": trắc thay vì chuẩn cố định bằng so với sơ đồ.
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 145
Câu 3: A= "thiên": bằng thay vì chuẩn không cố định trắc, và "vạn": trắc thay vì chuẩn không cố định bằng; B, C, D= theo sơ đồ.
Câu 4: A, B, C, D= theo sơ đồ.
Câu 5: A, B, C, D= theo sơ đồ.
Câu 6: A, B, C, D= theo sơ đồ.
Câu 7: A, B, C, D= "luyến": trắc thay vì chuẩn cố định bằng; A= "tinh": bằng thay vì chuẩn không cố định trắc.
Câu 8: A, B, C, D= "nguyện": trắc thay vì chuẩn không cố định bằng; D= "quy": bằng thay vì chuẩn cố định trắc.
Câu 9: A, B, C, D= theo sơ đồ.
Tóm lại ở đây, chúng ta chỉ nên lưu ý những chỗ đi ngược lại các chuẩn
cố định (tức các ngoại lệ so với các chữ thứ hai và từ thứ tư trở đi
trong các câu từ) vì nó có thể giúp ta hiệu đính theo niêm luật. Các dị
bản của bài từ có ba trường hợp không theo chuẩn cố định là: "phục" (câu
2: A, B, C, D), "luyến" (câu 7: A, B, C, D) và "quy" (câu 8 D). Nhưng
trong ba trường hợp này chỉ có "quy" là có 1 dị bản ("vị"), còn "phục"
và "luyến" thì hoàn toàn không. Vậy, chúng tôi chỉ có thể hiệu đính theo
niêm luật ở chữ thứ 5 của câu 8 ("vị" hay "quy"?) mà thôi. Ở đây niêm
luật chuẩn phải là trắc nên chúng tôi xin giữ lại "vị". Ngoài ra còn có
một lý do khác nữa là chữ "quy" thuộc về bản muộn nhất. Tuy nhiên, để
hiểu rõ hơn, chúng tôi đề nghị xem phần hiệu đính từ ngữ ở câu hỏi số 4
dưới đây.
Ngoài ra, chúng tôi cũng xin lưu ý là chữ "浪" thường được phiên "lãng"
(trắc). Nhưng ở đây các nhà nghiên cứu đều phiên là "lang" (bằng). Chúng
tôi không nghĩ rằng đây là một sự phiên âm gượng ép vì niêm luật cố
định bằng ở cuối câu. Ðây không phải là trường hợp duy nhất vì âm "lang"
còn xuất hiện trong một số thơ ca như Phóng cuồng ca 放 狂 歌 của Trần
Quốc Tảng 陳 國 顙 (1252-1313).
II.2.2. Hiệu đính theo ngữ nghĩa:
Ở đây, vấn đề không phải đơn giản là hình thức như ở trên, mà liên quan
đến các vấn đề khác như văn hóa, xã hội và chính trị vì lý do chức năng
ngoại giao của bài từ khi nó được biên soạn.
THỜI ÐẠI số 6
146
1. "Thiên trùng vạn lý 千 重 萬 里" hay "vạn trùng sơn thủy 萬 重 山 水"?
Về niêm luật, tuy "thiên" và "vạn" (A) không theo sơ đồ, nhưng lại nằm ở
những chỗ có niêm luật không cố định nên không có vấn đề thất luật. Còn
"vạn" và "sơn" (B, C, D) theo đúng mô hình của sơ đồ. Vậy ở đây, cả hai
khả năng đều có thể dùng trong bản hiệu đính. Nhưng về nghĩa, Hoàng Văn
Lâu nhận định: "Căn cứ vào nội dung của đoạn này, từ "nắng", "gió",
cánh buồm", sóng xanh, đều nhằm vào miêu tả một chuyến đi bằng thuyền.
Vì đi bằng thuyền nên mới "thiệp thương lang". "Thiên trùng vạn lý" cũng
là miêu tả "thương lang" (Ngàn trùng vạn dặm sóng xanh). Còn "vạn trùng
sơn thủy" là một thành ngữ sáo, nằm ở câu này lại không ăn nhập gì với
"thương lang". Chúng tôi cho rằng câu "thiên trùng vạn lý thiệp thương
lang" là phù hợp với nguyên tác."27
Chúng tôi không hoàn toàn đồng ý với lý giải của ông Hoàng vì nhiều lý
do. Thật ra, "thiên trùng vạn lý" là một thành ngữ sáo, cũng sáo như
"vạn trùng sơn thủy". Hai cụm từ này đều chỉ sự cách trở xa xôi, nhưng
khác nhau ở chỗ "vạn trùng sơn thủy" nhấn mạnh ý nghĩa chướng ngại vật
hoặc quang cảnh trên đường đi. "Sơn thủy" (núi và nước) đối với "thương
lang" (sóng xanh) thật ra không thừa vì "sơn thủy" chỉ cảnh quan chứ
không chỉ riêng nước hay sóng. Tuy rằng "vạn trùng sơn thủy" đầy đủ
nghĩa hơn, chúng tôi xin giữ lại "thiên trùng vạn lý" trong bản hiệu
đính, không phải vì nó "phù hợp với nguyên tác (?)" mà vì chúng tôi cho
rằng tác giả có thể chỉ nhấn mạnh khía cạnh đường dài mà sứ giả phải
chịu.
2. "Thiệp 涉" hay "phiếm 泛"?
Chúng ta chỉ thấy "phiếm" trong dị bản D. "Thiệp" (sang; qua [khe,
sông,...]) và "phiếm" (bơi [thuyền,...], trôi nổi) về nghĩa chỉ khác
nhau ở chỗ "thiệp" ngụ ý điểm đến, còn "phiếm" chủ yếu chỉ hành động di
chuyển trên mặt nước. Ở đây chúng tôi xin giữ lại "thiệp" vì quan niệm
rằng Khuông Việt Ðại sư có thể chỉ nghĩ đến việc phải vượt sóng biển để
về đến đế kinh tâu lại hoàng đế, tức điểm đến. Lý do thứ hai là
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 147
"phiếm" chỉ có trong bản Lịch triều hiến chương loại chí, tức là bản muộn nhất trong các dị bản của chúng tôi.
3. "Tinh tinh lang 星 星 郎" hay "sứ tinh lang 使 星 郎"?
Sau khi tham khảo nhiều loại từ điển, chúng tôi vẫn không thể chứng minh
cụm từ "tinh tinh lang" là một thành ngữ có thực được dùng để chỉ sứ
giả. Chúng tôi cho rằng tuy bản TUTA là bản tốt nhất trong các bản,
nhưng vẫn không tránh khỏi một khuyết điểm thường thấy trong thư tịch cổ
điển là đọc lầm và khắc lầm tự dạng. Hiện tượng này thường thấy đối với
một văn bản bị nhàu nát hay bị mờ và trong trường hợp này, "tinh" và
"sứ" có thể đọc lầm thay cho nhau vì ranh giới phân biệt bị nhòe. Chúng
tôi xin giữ lại "sứ tinh lang" (vị sứ giả do Hoàng đế phái đi) theo các
bản B, C và D.
4. "Vị 為" hay "quy 歸"?
Mặc dù ta có thể giải quyết dị biệt này ở khâu niêm luật. Nhưng chúng
tôi xin giải quyết thêm về mặt ngữ nghĩa vì nó cho phép ta thấy lý do
tại sao bản D đã chữa ra "quy" và phần nào ý nghĩa của cụm từ "biên
cương" (hoặc "Nam cường (cương?)" hoặc "biên phương") ngay sau đó. Ta
chỉ thấy "quy" trong bản D, tức bản muộn nhất. Tại sao bản Lịch triều
hiến chương loại chí này lại ghi là "quy" (trở về) trong khi các bản
trước đó đều ghi là "vị" (vì)? Chữ "quy" ở đây một phần làm lạc niêm
luật (thất luật), một phần mang lại một cách hiểu khác về câu từ. Phải
chăng việc hoán đổi "vị" ra "quy" là vì một lý do khác, do ý nghĩa của
cả hai câu cuối và nhất là do cụm từ "biên cương"? Phải chăng Phan Huy
Chú (nếu quả thực là Phan Huy Chú), đã biến "vấn đề biên cương" (B)
thành hành động "đi đến biên giới" hoặc "qua biên giới" (D)? Ðiều này
cho ta thấy vấn đề ở đây nằm ở khái niệm "biên cương". Phải chăng người
biên tập đã nghi ngờ về hàm nghĩa của cụm từ này nên đã chữa đi?
Nhưng nếu theo nghĩa của dị bản "quy biên cương" thì cả câu không ổn vì
sứ giả đi bằng thuyền. Chúng tôi nghĩ rằng nếu có tiễn đến tận biên giới
đi nữa thì phải là đường bộ, vì nếu là đường biển thì chỉ đưa ra đến
bến hoặc một đoạn bằng thuyền mà thôi. Vậy, chúng tôi xin
THỜI ÐẠI số 6
148\
giữ lại "vị" trong bản hiệu đính. Ngoài ra, như đã nói, vấn đề này còn liên quan đến câu hỏi thứ 5.
5. "Nam cường 南 強 (cương?)", "biên cương 邊 疆" hay "biên phương 邊 方"?
Vấn đề ngữ nghĩa của các dị bản ở câu thứ 8 này thật ra khá phức tạp, vì
không phải ngẫu nhiên mà trong bốn dị bản câu này có đến bốn dị thể.
Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu nghĩa của từng dị bản:
a. Hai chữ "南 強" (A) ở đây phải đọc là "Nam cường" và có nghĩa là "sức
mạnh của phương Nam" hoặc "sự cường thịnh của phương Nam". Vì phải tâu
lên vua để có một chính sách (do có chữ "vị"), tức là một hy vọng, một
cái cần tiến hành, nên theo chúng tôi ở đây, nếu đúng tự dạng, phải hiểu
là "sự cường thịnh của phương Nam".
Chúng tôi không biết vì lý do nào mà các bản phiên âm dị bản TUTA (A)
đều ghi là "Nam cương". Phải chăng do tiếp xúc với bản có trong các sách
sử như ÐVSKTT (B) và LTHCLC (D) trước khi tiếp xúc với bản này, rồi khó
đi ngược lại hai chữ "biên cương" nên đã phiên "強" ra "cương"? Phải
chăng các tác giả đã cho rằng chữ "cương 疆" được viết tắt thành "強", có
chữ "土 thổ" ở trong chữ cung "弓", rồi bị mất nét chữ thổ "土"? Tuy không
phải là hoàn toàn vô lý, như cũng khó chấp nhận được vì chúng tôi chưa
bắt gặp chữ viết tắt như thế.
Trong hai bản TUTA thời Lê28, chữ khắc rõ ràng là "強". Hơn nữa, không
thể có sự lầm lẫn giữa "強 cường" và "cương 疆" được vì trước đó ở tờ 8b
có khắc rõ chữ "疆 cương". Vậy ở đây, chúng tôi xin đọc "南 強" là "Nam
cường".
b. "Biên cương 邊 疆" (B, D) có nghĩa là "biên cương, biên giới; miền, đất ở biên giới".
c. "Biên phương 邊 方" (C) có nghĩa là "cõi, miền, phương trời ở [tận] biên giới".
Qua các lý giải trên, cả hai khả năng b và c đều có một hằng số là "biên
giới". Ðều này phải chăng phù hợp với thực tế trong quan hệ
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 149
Việt-Tống vào cuối thế kỷ thứ X, cho nên khái niệm "biên giới" mang đậm tính thời sự?
Tính chất thời sự có thể có trong bài từ là trước đó không lâu, quân
Tống sang chiếm nước Ðại Cồ Việt, nhưng bị quân của Lê Ðại Hành đánh bại
(981). Ý đồ xâm phạm nước Ðại Việt của nhà Tống, nhà Nguyên, rồi nhà
Minh vẫn hiển hiện trong suốt các đời Lý (1075-77) và Trần (1257,
1284-85, 1287).
Chúng tôi cho rằng vấn đề ở đây không chỉ là vấn đề biên giới theo định
nghĩa ngày hôm nay mà quan trọng hơn nữa là vấn đề lãnh thổ, quốc gia.
Vấn đề lãnh thổ quốc gia tuy hiển nhiên, song thực tế ngoại giao thì
khác. Nước Ðại Cồ Việt của Lê Ðại Hành, cũng như các triều đại khác về
sau, vẫn thừa nhận mình là phiên thần (thần dân ở phên giậu, tức chư
hầu) của các triều đại Trung Hoa.
Và trên danh nghĩa này, các thư từ qua lại cũng như các cuộc tiếp sứ
trao đổi thơ ca,... mang đậm tính cách ước lệ, thường nằm ngoài thực tế
chính sách tự chủ của nước Ðại Việt. Vậy vấn đề thừa nhận nước Ðại Việt
là miền đất ở biên giới phía Nam nhà Tống (phiên bang, nước ở phên giậu)
ở đây không hề đi ngược lại địa vị riêng biệt của Ðại Việt (nếu theo lý
luận này thì dị bản "biên phương" đúng hơn "biên cương"). Cho nên ranh
giới giữa hai nước (biên giới) theo cách suy nghĩ hiện đại có lẽ không
thích hợp với bối cảnh của bài từ.
Chúng tôi cho rằng vấn đề "biên giới" có thể trở nên bức thiết, rõ ràng
hơn từ thời Lý trở đi, bắt đầu với chuyến đi sứ của Nguyễn Văn Thịnh năm
1084, tức gần một trăm năm sau, mà mục đích duy nhất là để bàn về biên
giới29. Vậy khi chưa có dữ liệu chính xác hơn nữa về "biên giới" vào
thời Tiền Lê và vì cho rằng "biên cương" có thể là do các sử gia Việt
Nam thời sau biên tập, có thể từ thời Lý-Trần trở đi30, chúng tôi xin
giữ lại "Nam cường" với nghĩa là "sự thịnh cường ở phương Nam"31.
6. "Báo 報" hay "tấu 奏"?Thoạt đầu, khi đọc hai khả năng trên đây, ta dễ dàng nhận thấy "tấu" hay hơn "báo" vì có vẻ cung kính và nghiêm trang hơn. Nhưng khi xét lại, "báo" theo nghĩa cổ trong Lễ ký là "báo cáo lên vua sau khi
THỜI ÐẠI số 6
150
phụng mạng thi hành sứ mạng về". Ở đây, bản của TUTA giữ lại được cách
dùng trong kinh điển Nho giáo. Rất có thể Khuông Việt Ðại sư đã dùng chữ
này vì theo lệ thường trong loại thơ ca tiễn đưa, thù tạc, người ta
thường dùng điển cố, và nhất là từ ngữ trong các kinh điển để ngụ tình
cảm hay tư tưởng của mình bởi tính chính thống phổ thông của ngôn từ
kinh điển. Tuy tấu (tâu lên vua) cũng có nghĩa tương tự, nhưng chúng tôi
xin giữ lại dị bản "báo" trong bản hiệu đính.
Ngoài ra, nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn còn đưa ra vấn đề lý giải ngữ
nghĩa căn cứ vào cú pháp của câu 8 (dị bản B). Vì chủ từ các động từ
"nguyện" và "tương" vắng mặt trong câu từ nên nghĩa của câu được ông lý
giải theo cú pháp để kết luận. Theo ông thì câu "Nguyện tương thâm ý vị
biên cương" có cấu trúc mà chúng tôi xin đúc kết lại theo công thức sau
đây:
[chtừ1] + nguyện + [chtừ1] + tương... (chtừ: chủ từ)
Theo đây thì "nguyện" có nghĩa là "nguyện" (xin nguyện, phát nguyện) và
các chủ từ của "nguyện" và "tương" chỉ là một, tức là "tôi" (Khuông
Việt) hoặc "chúng tôi". Trong chú thích 2 [tr. 140], ông Nguyễn Tài Cẩn
cũng đồng ý với đề nghị của Cung Văn Lược về cách hiểu các chữ "nguyện"
và "ngã hoàng":
Nguyên tác: Nguyện tương thâm ý vị biên cương,
Phân minh tấu ngã hoàng. (bản B)
Cách hiểu của Cung Văn Lược:
"[Chúng tôi] hứa xin đem cái ý sâu xa [của sứ giả], vì cõi biên cương,
tìm hiểu thật rõ ràng và tâu lên cùng hoàng đế của chúng tôi."
Theo chúng tôi, đây có thể là một cách hiểu hai câu cuối của bài từ nếu
chúng ta tách chúng khỏi bài từ và tách bài từ khỏi bối cảnh của nó.
Song, ngoài cách hiểu chữ "nguyện" như trên, ta còn có thể hiểu theo một
cách khác như vẫn thường được hiểu từ trước tới nay.
Câu "Nguyện tương thâm ý vị biên cương" còn có một cấu trúc cú pháp khác là:
[chtừ1] + nguyện + [chtừ2] + tương...
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 151
vì ngoài nghĩa 'nguyện' (đã được Việt hóa) ra, "nguyện" (Hán-Việt) còn
có nghĩa là 'hy vọng', 'ước mong'. Theo cú pháp trên thì chúng tôi hiểu
câu này như sau:
"Tôi/chúng tôi (= chtừ 1) ước mong [rằng] Ngài (= chtừ 2) vì biên giới
mà đem cái ý sâu xa về phân minh tâu lên hoàng đế của chúng ta".
Nếu ta đặt cách hiểu thứ hai này vào bài từ và bài từ vào bối cảnh của
nó (như chúng tôi đã trình bày trên đây) thì nó hợp lý hơn cách hiểu của
ông Nguyễn Tài Cẩn. Ta có thể giả thuyết như ông trong trường hợp vua
Lê Ðại Hành vắng mặt trong buổi lễ tiễn đưa và nhất là trong trường hợp
sứ thần và vua Lê Ðại Hành không gặp mặt nhau. Ở đây, cả hai đều đã tiếp
xúc và hẳn đã trao đổi. Vậy không lý do gì mà phải trao đổi với các
quan đưa đón sứ giả rồi nhờ các quan này tâu lại một điều quan trọng như
"biên giới" lên Hoàng đế Việt Nam.
Chúng tôi xin giữ lại khả năng A và xin dịch toàn bộ hai câu 8 và 9 của
dị bản A như sau: "Xin Ngài vì sự cường thịnh ở phương Nam mà đem thâm ý
về phân minh tâu lại Hoàng đế của chúng ta".III. BẢN NGỌC LANG QUY HIỆU ĐÍNH
Sau khi phân tích ngữ nghĩa của các dị thể, chúng tôi xin đề nghị một bài Ngọc Lang quy hiệu đính. Chúng tôi không dám khẳng định là nó thỏa đáng hơn cả, nhưng nó được đúc kết từ những suy luận riêng mà chúng tôi đã trình bày:
祥光風好錦帆張
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
神仙復帝鄉
Thần tiên phục đế hương.
萬重山水涉滄浪
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang,
九天歸路長
Cửu thiên quy lộ trường.
情慘切
Tình thảm thiết
對離觴
Ðối ly trường!
攀戀使星郎
Phan luyến sứ tinh lang.
願將深意為南強
Nguyện tương thâm ý vị Nam cường,
分明報我皇
Phân minh báo ngã Hoàng.
THỜI ÐẠI số 6
152
[dịch nghĩa:
Ánh nắng lành, gió tốt, cánh buồm gấm giương
Thần tiên trở về quê hương của Hoàng đế
Ngàn trùng muôn dặm lướt sóng xanh
Ðường về nơi Chín trời xa xôi
Tình thảm thiết
Ðối diện với chén rượu chia ly
Quyến luyến vịn [xe] sứ giả
Xin [Ngài] vì sự cường thịnh ở phương Nam mà đem ý sâu xa
[về] phân minh tâu lại Hoàng đế của chúng ta]
Tạm dịch theo nguyên điệu:
Nắng lành gió tốt gấm buồm giương,
Thần tiên hướng đế hương.
Muôn trùng sông núi lướt làn xanh,
Ðế cung cách dặm trường.
Tình thảm thiết,
Chén lên đường.
Vin xe sứ luyến thương.
Xin đem thâm ý bởi Nam cường,
Phân minh tấu Thánh hoàng.
KẾT LUẬN
Trên đây là nhận định của chúng tôi về những vấn đề văn bản học và ý
nghĩa của bài từ Ngọc Lang quy của Khuông Việt Ðại sư. Tuy chỉ có một
bài nhưng thực tế văn bản như chúng tôi đã trình bày quả thật phức tạp,
thường làm cơ sở cho những lý giải theo nhiều lĩnh vực khác nhau: xã
hội, chính trị, tôn giáo,... Chúng tôi chỉ tập trung bám sát văn bản,
giải mã những ký hiệu để rút ra những kết luận, đưa ra những nhận định
về bài từ của thế kỷ X. Việc hiệu đính một tác phẩm cổ điển như bài từ
Ngọc Lang quy phải huy động nhiều lĩnh vực như đã được tiến hành.
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 153
Ðiều quan trọng hơn nữa là thực tế văn bản ở đây là một thí dụ điển
hình, nhưng hiếm hoi, bởi lịch trình biến đổi của nguyên tác qua một
ngàn năm lịch sử. Nó cho ta thấy rõ những thao tác biên tập vì những nhu
cầu khác nhau. Việc thêm "Dao vọng" hay "nhân" bất chấp cấu trúc chuẩn
chỉ nhằm ý nghĩa tu từ thuần thúy. Song, việc đổi "vị Nam cường" (A) ra
"vị biên cương" (B), ra "vị biên phương" (C) rồi ra "quy biên cương" (D)
cho ta thấy ý thức chính trị trong thao tác biên tập một sáng tác văn
học ở những nhà Nho mang trọng trách viết sử, để thích nghi nó với điều
kiện chính trị hay biểu đạt sự ám ảnh của một thực tế, biến tác phẩm văn
học nghệ thuật thành tác phẩm văn học chức năng. Hiện tượng này đồng
thời cũng xóa nhòa ranh giới giữa quá khứ và hiện tại và tính thời gian
của tác phẩm. Việc đọc "Nam cường" ra "Nam cương" của nhiều học giả hiện
đại cho ta thấy ảnh hưởng sâu và rộng của chính sử của các triều đại.
Sách tham khảo chính
Sách Việt Nam:
Bạch Hào Tử (Miên Thẩm), Khúc hát gõ mái chèo (Cổ duệ từ), Phan Văn Các
sưu tầm, phiên dịch, chú thích giới thiệu, Việt Nam: Trung tâm Khoa học
Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Việt Nghiên cứu Hán Nôm, 2000, 163 tr.
Bế Lãng Ngoạn (Sông Bằng) biên soạn, Lê Văn Hòe (Văn Hạc) san nhuận,
Việt Hoa thông sứ sử lược 越 華 通 使 史 略, Hà Nội: Quốc học Thư xã, Tủ sách
Quốc học, 1943, 171 tr.
Chân Nguyên, Nguyễn Tường Bách, Từ điển Phật học 佛 學 辭 典, Huế: nxb. Thuận Hóa, 1999, 655 tr.
Cuong Tu Nguyen, Zen in medieval Vietnam, a study and translation of the
Thiền Uyển Tập Anh, Honolulu: University of Hawaii's Press, a Kuroda
Institute book, 1997, 481 tr.
Ðoàn Trung Còn, Phật học từ điển 佛 學 辭 典, t. 1, 2, 3, Taiwan: Shyh Hyah Printing Co, Ltd, [không ghi năm], 616, 1530 tr.
THỜI ÐẠI số 6
154
Ðại Việt sử ký toàn thư, Nguyễn Khánh Toàn (giới thiệu), Phan Huy Lê
(khảo cứu), Ngô Ðức Thọ, Hoàng Văn Lâu, Ngô Thế Long (dịch), Hà Văn Tấn
(hiệu đính), t. I-IV, Hà nội: nxb. Khoa Học Xã Hội, 1993, 342, 528, 474,
673 tr.
Ðặng Thai Mai, Cao Xuân Huy (chỉ đạo và duyệt), Thơ văn Lý - Trần, t. I, Hà Nội: nxb. Khoa học Xã hội, 1977, 631 tr.
Hoàng Văn Lâu, "Về bài từ ở thế kỷ X", Một số vấn đề văn bản Hán Nôm, Hà Nội: nxb. Khoa học Xã hội, 1983, tr. 191-211.
Kim Cương Tử (chủ biên), Từ điển Phật học Hán - Việt 漢 越 佛 學 辭 典, tái
bản có sửa chữa và bổ sung, Hà Nội: nxb. Khoa Học Xã Hội, 1998, 1572 tr.
Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, Việt Nam: nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, 840, [5] tr.
Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, t. 2, Việt Nam: nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2001, 773, [25] tr.
Lê Quý Ðôn, Kiến văn tiểu lục, Hà Nội: nxb. Sử Học, 1962, 541 tr.
吳 時 仕 (Ngô Thời Sĩ), 越 史 標 案 (Việt sử tiêu án), cuối tk. XVIII (EFEO: microfilm I. 43).
Ngô Thời Sỹ (Ngọc Phong), Việt sử tiêu án, từ Hồng Bàng đến ngoại thuộc
nhà Minh, bản dịch của Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên lạc Văn hóa Á Châu,
Saigon: Văn hóa Á Châu, 1960, 307 tr.
Nguyễn Quốc Hùng, Hán Việt tân từ điển 漢 越 新 辭 典, Saigon: Nhà sách Khai Trí, 1975, 871 tr. [phát hành năm 1982]
Nguyễn Tài Cẩn, "Vấn đề lập trường đối với nhà Tống trong bài Vương Lang
quy của Ngô Chân Lưu", Tạp chí Văn học, 2 (188), 3/4-1981, tr. 137-142,
149.
Phạm Thị Tú, "Về bài từ đầu tiên và tác giả của nó: sư Khuông Việt", Tạp chí Văn Học, 6 (150), 11/12-1974, tr. 135-138, 152.
Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Khâm định thông giám cương mục, t. 1, Việt Nam: nxb. Giáo Dục, 1998, 1207 tr. [tái bản]
潘 輝 注 (Phan Huy Chú), 歷 朝 憲 章 類 誌 (Lịch triều hiến chương loại chí), đầu tk. XIX (EFEO: microfilm III 78-79).
Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, t. III, Binh chế chí, Văn
tịch chí, Bang giao chí, Hà Nội: nxb. Khoa học Xã hội, 1992, 420 tr.
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 155
Trần Văn Chánh, Tự điển Hán Việt Hán ngữ cổ đại và hiện đại 古 今 漢 越 語 字
典, Việt Nam: nxb. Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, XXX,1414 tr.
Vũ Ngọc Liễn (chủ biên), Nguyễn Thanh Hiện, Tống Phước Phổ, Mạc Như Tòng, Thơ và từ Ðào Tấn, Hà Nội: nxb. Văn Học, 1987, 284 tr.
川 本 邦 衛 (Xuyên Bản Bang Vệ), 傳 奇 漫 錄 刊 本 攷 (Truyền kỳ mạn lục san bản
khảo) [biên khảo về các bản khắc Truyền kỳ mạn lục], 東 京 (Tokyo): 慶 應 義 塾
大 學 (Khánh Ứng Nghĩa Thục Ðại Học), 言 語 文 化 研 究 所 (Ngôn ngữ Văn hóa
Nghiên cứu sở), 1998, VII, 280 tr.
Sách Trung Quốc:
Cha Jichao 查 继 超 (tập), Chen Guoqing 陈 果 青, Fang Kaijiang 房 开 江 (hiệu
đính), 词 学 全 书 (Từ học toàn thư) [Toàn thư về từ học], Guizhou Renmin
Chubanshe 貴 州 人 民 出 版 社, 1990, 819 tr.
Ma Xingrong 马 兴 荣, Wu Xionghe 吴 熊 和, Cao Jiping 曹 济 平 (chủ biên), 中 国 词 学
大 词 典 (Trung Quốc từ học đại từ điển) [Từ điển lớn về từ học Trung
Quốc], Zhejiang Jiaoyu Chubanshe 浙 江 教 育 出 版 社, 1996, 755 tr.
Pan Shen 潘 慎 (Phan Thận) (chủ biên), 词 律 辞 典 (Từ luật từ điển) [Từ điển
về từ luật], Shanxi 山 西: Shanxi Renmin Chubanshe 山 西 人 民 出 版 社, 1991,
1708 tr.
Shang Jiang Cun Min 上 彊 村 民 (重 編) (Thượng Cương Thôn Dân) (trùng biên),
Tang Kui Zhang 唐 圭 璋 (箋 注) (Ðường Khuê Chương) (tiên chú), 宋 詞 三 百 首
(Tống từ tam bách thủ tiên chú) [Ba trăm bài từ đời Tống, bản có chú
thích], Shang Hai 上 海: Shang Hai Guji Chubanshe 上 海 古 籍 出 版 社, 1993, 259
tr.
Wang Li 王 力 (Vương Lực), 诗 词 格 律 (Thi từ cách luật), Beijing: Zhonghua Shuju (Bắc Kinh: Trung Hoa Thư cục), 2000, 182 tr.
THỜI ÐẠI số 6
156
(Tập thể tác giả), 古 汉 语 大 词 典 Guhanyu da cidian (Cổ đại Hán ngữ đại từ
điển) [Từ điển lớn tiếng Hán], Shang Hai 上 海: Shang Hai Cishu Chubanshe 上
海 辞 书 出 版 社, 2000, 2613 tr.
Chú thích
1 Nghiên cứu sinh, năm thứ ba, Luận án tiến sĩ tại Ðại học Paris VII (văn học).
2 Hai sáng tác sau chỉ có trong TUTA.
3 Bài này là một bước nối tiếp bài viết đã được công bố trên mạng
(khuongviet.com) với tên là Khuông Việt Ðại sư 匡 越 大 師 (933-1011) qua
các sáng tác vận văn còn lưu truyền. Do tiếp xúc được một số thư tịch
mới, chúng tôi xin sửa chữa bằng cách giới hạn bài viết trong các vấn đề
xung quanh bài Ngọc Lang quy, chủ yếu là vấn đề biến thể của điệu
Nguyễn Lang quy (liên quan đến câu 5 và 6 của bài từ) và kết luận về
thực tế văn bản qua thí dụ bài từ.
4 "Ðiền từ 填 詞" là làm từ theo điệu có sẵn, đặt lời từ.
5 Xin xem Wang Li 王 力, 诗 词 格 律 (Thi từ cách luật), tr. 78.
6 Wangli, sđd., chú thích 1, tr. 79.
7 Xem Bùi Hạnh Cẩn, Hồ Xuân Hương - thơ chữ Hán, chữ Nôm và giai thoại, Việt Nam, nxb Văn Hoá Thông Tin, 1995.
8 Từ có thể đối lập với thơ ở hình thức cũng như ở nội dung mà một trong
những giá trị được nhà Nho lưu tâm hơn cả là tôn chỉ "詩 以 言 志 thi dĩ
ngôn chí (tức thơ dùng để nói lên chí [hướng])". Ngoài ra về một quan
niệm tương tự đối với "văn", xin xem thêm Trần Nghĩa, "Góp phần tìm hiểu
quan niệm «Văn dĩ tải đạo»", Tạp chí Văn Học, số 2-1970, tr. 84-102.
9 Về từ của Hồ Xuân Hương, xin xem Nguyễn Lộc, Thơ Hồ Xuân Hương, Hà Nội: nxb. Văn Học, 1982, tr. 79-85.
10 Xem Bạch Hào Tử, Khúc hát gõ mái chèo (Cổ duệ từ), Phan Văn Các sưu
tầm..., 2000, 163 tr.; Vũ Ngọc Liễn (chủ biên), Thơ và từ Ðào Tấn, 1987,
284 tr.
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 157
11 Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi đã trích các dị bản Ngọc Lang quy
từ các văn bản chữ Hán sau đây: Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền uyển
tập anh [bản khắc], Cuong Tu Nguyen, Zen in medieval Vietnam, a study
and translation of the Thiền Uyển Tập Anh [bản khắc], Ðại Việt sử ký
toàn thư, nxb. Khoa Học Xã Hội, 1993 [bản khắc], 吳 時 仕 (Ngô Thời Sĩ), 越 史
標 案 (Việt sử tiêu án) (EFEO: microfilm I. 43) [bản viết], 潘 輝 注 (Phan
Huy Chú), 歷 朝 憲 章 類 誌 (Lịch triều hiến chương loại chí) (EFEO: microfilm
III 78-79) [bản viết].
12 Hoàng Văn Lâu, "Về bài từ ở thế kỷ thứ X", trong Một số vấn đề văn bản Hán Nôm, tr. 191-211.
13 X. Nguyễn Tài Cẩn, "Vấn đề lập trường đối với nhà Tống trong bài
Vương Lang quy của Ngô Chân Lưu, 1981"; Phạm Thị Tú, "Về bài từ đầu tiên
và tác giả của nó: sư Khuông Việt", 1974.
14 Xin xem hai bản thời Lê in kèm theo Nghiên cứu về… của Lê Mạnh Thát và Zen in medieval Vietnam của Nguyen Tu Cuong (tờ 9a).
15 Chúng tôi không có bản thời Nguyễn trong tay nên đã căn cứ vào nhận xét của ông Lê Mạnh Thát trong Nghiên cứu về..., tr. 342.
16 Về nghĩa của "Nam cường", xin xem phần Hiệu đính theo ngữ nghĩa, câu hỏi thứ 5.
17 "Về bài từ...", tr. 196.
18 Nghiên cứu về..., chú thích 10: 342-347.
19 Tr. 921, 922.
20 Hơn nữa, bài từ tái lập trong TLTÐ không chuẩn vì trong chín câu từ,
sáu câu được tái lập với những chữ không có trong bài từ. Việc tái lập
như thế mang nhiều tính võ đoán. Vậy vấn đề tái lập ở đây còn bỏ ngõ.
Chúng tôi không sao lục lại cả bài vì nghĩ rằng nó không giúp được gì
cho việc hiệu đính bài từ của Khuông Việt Ðại sư và cũng để tránh độ dài
không cần thiết cho bài viết của chúng tôi.
21 Bài từ này như sau: 一 年 月 色 最 宜 秋, 銀 江 映 玉 流, 半 輪 寒 魄 未 曾 周, 清 光 處 處
浮, 金 尊 瑤 管 共 綢 繆, 毫 端 風 景 收, 名 山 相 望 倚 危 樓, 知 音 千 古 求 (Nhất niên nguyệt
sắc tối nghi thu, Ngân giang ánh ngọc lưu; Bán luân hàn phách vị tằng
chu. Thanh quang xứ xứ phù. Kim tôn, dao quản cộng trù mâu. Hào đoan
phong cảnh thâu. Danh sơn tương vọng, ỷ nguy lâu, Tri âm thiên cổ cầu)
[dịch nghĩa: Trong suốt một năm,
THỜI ÐẠI số 6
158
trăng đẹp nhất là trăng mùa thu, Sông Ngân như ngọc lấp lánh chảy. Nửa
vành trăng sáng chưa từng đầy, Ánh sáng trong tràn lên khắp nơi, Chén
vàng, sáo ngọc hài hòa với nhau. Phong cảnh thâu tóm lại vào đầu ngọn
bút. Tựa lầu cao vút, trông ngọn núi nổi tiếng. Bạn tri âm từ ngàn xưa
vốn phải tìm].
22 Nhận định này dựa vào chín bài từ Nguyễn Lang quy mà chúng tôi đã tìm
được trong văn học Trung Quốc qua các nguồn thư tịch khác nhau.
23 Có lẽ bản B (cũng như các bản C và D) là kết quả của một lần sửa chữa
về mặt cấu trúc của bài từ. Người sửa chữa có lẽ đã đưa "dao vọng" vào
câu 2 để tỏ ý kính cẩn, thắm thiết. Nếu ta loại bỏ cụm từ này, các dị
bản này sẽ trở thành thể chuẩn 47 chữ của điệu Nguyễn Lang quy.
24 Như đã trình bài ở phần trên, chúng tôi thật ra đã tìm được chín bài
từ Nguyễn Lang quy: sáu bài khởi bằng vần bằng, một khởi bằng vần trắc,
một bài của Ma Yu cho là thuộc điệu này và một bài với 48 chữ của Wu
Zixiao. Chúng tôi xin chỉ giữ lại sáu bài hoàn chỉnh khởi bằng vần bằng
để làm cơ sở cho việc thống kê.
25 Nhưng để giảm bớt độ dài của bài viết, chúng tôi xin bỏ nguyên văn
các bài từ trên và chỉ công bố kết quả phân tích. Sau đây là xuất xứ của
sáu bài từ nói trên: Từ học toàn thư, tr. 213; Tống từ tam bách thủ
tiên chú, tr. 45; 70; Từ luật từ điển, tr. 91-92.
26 Một nhận định khác có thể đưa ra là bốn bản đã sử dụng hai thể của
chữ "tiên". Bản A và B dùng "僊", còn bản C và D dùng "仙". Sự khác biệt
này về ý nghĩa của bài từ không quan trọng. Phải chăng "僊" (được dùng
trong các bản cổ nhất ở đây) là thể chuẩn nhất thường được dùng vào thời
ấy? Chúng tôi xin giữ lại thể "僊" trong bản hiệu đính.
27 "Về bài từ...", tr. 203.
28 Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về..., tr. 824; Nguyen Tu Cuong, Zen in vietnam..., nguyên tác in kèm, tờ 9a.
29 X. ÐVSKTT, t. 1, tr. 281; Cương Mục, t. 1, tr. 359, lời cẩn án.
30 Tuy trong TUTA (tờ 8a) có nhắc tới hai chữ "疆 界 cương giới", nhưng
chúng tôi cho rằng đây là sự biên tập của tác giả TUTA khi viết về Ðại
sư. Phải chăng chính chữ này đã ảnh hưởng đến viêc biên tập lại câu 8
của bài từ trong các sách sử?
Alexandre Lê, Bài từ Ngọc Lang quy và vấn đề văn bản học 159
31 Việc dịch "Nam cường" ở đây ra "sự cường thịnh ở phương Nam" không
loại bỏ khả năng chơi chữ trong câu từ. Ý của tác giả có thể ở đâu đó
giữa sự cường thịnh và sức mạnh của Việt Nam khi dùng "Nam cường".
No comments:
Post a Comment