Singapore luật hạn chế người nước ngoài mua bất động sản.
Một thành phố lành mạnh có những tiêu chí gì? Đó là sự kết hợp của hàng
loạt các yếu tố khác nhau, từ dịch vụ y tế, giao thông công cộng tốt cho
tới không gian xanh. Điểm lại danh sách mà báo The Guardian và tạp chí
The Economist của Anh xếp hạng các thành phố lành mạnh và các nước trên
thế giới, chúng tôi xin được giới thiệu năm thành phố có lịch sử đầu tư
vào những yếu tố để cho công dân của họ sống lành mạnh nhất.
Singapore
Singapore là thành phố có tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh thấp nhất thế giới
và cũng là nơi dân có tuổi thọ đứng thứ tư thế giới (84,07 năm), theo
CIA World Factbook.
Singapore được xếp hạng trong số những nơi có hệ thống chăm sóc y tế
hiệu quả nhất trên toàn thế giới với 80% người dân sử dụng hệ thống y tế
công cộng.
Nhìn chung, Singapore là một trong những thành phố sạch nhất thế giới
(có luật nghiêm khắc cấm mọi hành vi từ nhổ nước bọt tới xả rác), và
chính phủ đã sử dụng thành công các biện pháp nhằm giảm lưu lượng xe cộ
từ lúc thành phố bị quá tải xe vào năm 1970.
Hệ thống giao thông công cộng xe điện của thành phố, SMRT, phục vụ hơn
hai triệu lượt hành khách mỗi ngày. Tự xưng tên là Garden City,
Singapore có hàng chục công viên, vườn cây và khu đồi trồng cây quanh
đảo. Để phục vụ người đi xe đạp, chạy và người đi bộ, thành phố này có
Hệ thống Kết nối Công viên gồm hơn 200 km con đường nối các công viên
địa phương và không gian xanh.
Nhiều người nước ngoài thuê nhà ở Singapore vì tại đây có luật hạn chế
người nước ngoài mua bất động sản, và chính phủ đã đưa ra thêm các biện
pháp chẳng hạn như các loại thuế để ngăn bong bóng nhà đất.
Giá thuê trung bình cho một căn hộ hai phòng ngủ gần Orchard Road là
khoảng 5.000 đến 6.000 đô la Singapore/tháng (4000-4800 USD/tháng)
Tokyo
Lượng khí thải nhà kính của Tokyo thấp hơn so với hầu hết các thành phố châu Á
Tokyo là thành phố sở hữu hệ thống giao thông công cộng hiệu quả trên
thế giới, chuyên chở khoảng ba triệu người hàng ngày trong khu vực đô
thị lớn. Lượng khí thải nhà kính của Tokyo thấp hơn so với hầu hết các
thành phố châu Á khác. Theo Ngân hàng Thế giới, lượng khí CO2 của Tokyo
bình quân trên đầu người là 4,89 tấn, trong khi Bắc Kinh là 10,8 tấn và
Singapore là 7,86 tấn. Sau thảm họa sóng thần năm 2011, đã có quan ngại
sau sự cố Fukushima từ các nhà máy điện hạt nhân nhưng nhưng chính phủ
Nhật tuyên bố mức độ bức xạ tại Tokyo là an toàn.
Tokyo được báo The Guardian xếp hạng năm 2012 là thành phố lành mạnh thứ
hai trên thế giới, với tuổi thọ trung bình ở thủ đô Nhật Bản là một
trong những nơi cao nhất với 84,19 năm. Điều này có được là do một số
yếu tố, bao gồm cả việc đầu tư vào y tế công cộng, gia đình và cộng đồng
mạnh mẽ, truyền thống giữ vệ sinh tốt, và chế độ ăn uống lành mạnh gồm
cơm, cá tươi và rau quả. Bảo hiểm y tế toàn dân cũng đã được thực hiện
vào năm 1961 đã giúp cắt giảm các bệnh ở trẻ em và các bệnh truyền
nhiễm.
Thị trường bất động sản và giá của Tokyo được giá trong năm 2013 do các
chính sách kinh tế của Thủ tướng Abe, cũng như việc thành phố được trao
quyền đăng cai cho Thế vận hội Mùa hè năm 2020. Người nước ngoài không
bị hạn chế mua bất động sản, nhưng hầu hết người nước ngoài thuê nhà để ở
thay vì mua.
Giá thuê trung bình cho các căn hộ ba phòng ngủ tại các khu vực như
Azabu, Hiroo, Roppongi, Omotesando và Omotesando dao động từ 200.000 đến
450.000 yên/tháng. (1.700-3.800 USD/tháng). Giá trung bình để mua căn
hộ chung cư mới ở Tokyo là 686.000 yên/m2 (5.820 USD/m2), trong khi giá
mua trung bình của một căn hộ thường hiện nay là 399.700 m2 (3.390
USD/m2).
Perth
Được xếp hạng trong top 10 các thành phố dễ sống nhất của Economist
Intelligence Unit (EIU) 2013, Perth là một trong các thành phố lành mạnh
nhất của Úc dành cho phụ nữ.
Việc EIU xếp hạng được dựa trên năm tiêu chí: tính ổn định, y tế, giáo
dục, cơ sở hạ tầng và các hoạt động văn hóa và môi trường. Và theo tạp
chí Y tế của Úc Phụ nữ, Perth gần đứng đầu danh sách thành phố có tập
quán ăn uống lành mạnh, thỏa mãn về cuộc sống và y tế tốt.
Từ năm 1998 tới 2009, số lượng người đi xe đạp ở Perth tăng 450%, và
Transperth, hệ thống giao thông thành phố, đã lắp đặt nhà để xe tại
nhiều trạm, vì vậy hành khách đạp xe tới ga tàu có thể khóa và để xe của
họ tại ga. Khí hậu ấm áp và những bãi biển gần Ấn Độ Dương có nghĩa là
người dân được tiếp cận với nhiều hoạt động ngoài trời và chơi thể thao.
Thị trường bất động sản ở Perth, vốn bùng nổ trong những năm gần đây do
ngành công nghiệp khai thác mỏ, hiện đang giữ mức ổn định.
Giá trung bình của một căn hộ hai phòng ngủ ở Peppermint Grove là
1.360.000 đô la Úc (1.116.000 USD), trong khi giá thuê trung bình là là
665 đôla Úc/tuần (545 USD)/tuần.
Tại Cottesloe giá căn hộ hai phòng ngủ trung bình là 815,000 đôla Úc và
tiền thuê nhà là 690 đôla Úc/tuần. Trong khi tại Hillarys và Freemantle,
giá nhà là từ 600.000 đôl-650.000, đôla Úc và giá thuê trung bình là
550-570 đôla Úc/tuần.
Copenhagen
50% người dân Copenhagen đi làm hoặc đi học bằng xe đạp.
Thủ đô Đan Mạch đứng đầu nhiều danh sách toàn cầu về sức khỏe vì là nơi
có văn hóa đi xe đạp và giảm lượng khí thải CO2 nhiều trong thập niên
qua. Khí nhà kính giảm 20% kể từ năm 2005, một phần trong kế hoạch của
chính phủ biến Copenhagen trở thành thủ đô trung tính carbon đầu tiên
trên thế giới vào năm 2025.
Mỗi ngày 50% người dân ở Copenhagen đi làm hoặc đi học bằng xe đạp, và
có tới gần 400km làn đường xe đạp trong thành phố với khoảng 36.000
người đi xe đạp tại một số khu chính hàng ngày.
Giá nhà tại Copenhagen tăng đều từ năm 2009, và giá trung bình căn hộ
hai phòng ngủ là khoảng 1,3 triệu krone Đan Mạch (218.812 USD).
Giá thuê nhà tương đối khác nhau giữa các khua nhà xây mới so với các tòa nhà được trùng tu hoặc nhà cũ hơn.
Giá thuê trung bình hàng năm cho một căn hộ tại khu nhà cũ 60.000
krone/năm (10.000 USD/năm), trong khi giá thuê một căn tại khu được
trùng tu là khoảng 100.000 krone/năm (16.800 USD/năm).
Monaco
Monaco là nơi có nhiều triệu phú và tỷ phú nhất trên bình quân đầu người.
Monaco là một công quốc nhỏ ở vùng Riviera của Pháp cách Nice khoảng 15km về phía đông.
Đây là thành phố có diện tích chưa đầy 2 km2 và là quốc gia đông dân
nhất trên thế giới và có tuổi thọ cao nhất là 89,6 năm. Monaco cũng là
nơi có nhiều triệu phú và tỷ phú nhất trên bình quân đầu người. Người
giàu có sống tập trung ở thành phố này có nghĩa là họ có tiền để trả cho
dịch vụ y tế hàng đầu. Tổ chức Y tế Thế giới xếp hạng Monaco là nơi có
dịch vụ y tế đứng thứ 13 trên thế giới vào năm 2000. Quỹ Monaco của
Hoàng tử Albert Đệ nhị đã đưa ra một số sáng kiến xanh bao gồm giảm khí
thải nhà kính cũng như qui định quan chức trong các cơ quan chính phủ
dùng xe hơi chạy điện.
Monaco được chia thành bốn khu vực: khu cổ Monaco-Ville, khu Monte Carlo
hào nhoáng, khu cảng La Condamine và khu mới Fontvieille.
Phần lớn nhà ở Monaco là nhà chung cư với khối căn hộ có phong cách từ
Belle Époque đến hiện đại. Đất là hết sức đắt đỏ tại đất nước nhỏ bé
này, nơi mà phần lớn người mua là giới có tiền từ Pháp, Anh, Ý, Bỉ, Hà
Lan và Thụy Sĩ.
Giá bất động sản tại các khu trung tâm trung bình từ 35.000 đến 40.000
euro/m2 (43.532-49.751 USD/m2) trong khi giá tại Odeon Tour khoảng
70.000 euro/m2 (87.000 USD/m2)
Đi trong một đường hầm xe lửa nhớp nháp vào sau đó đến một cơ sở công
nghiệp nhỏ nằm ở đông nam London, bạn đã đến một cơ sở sản xuất bia
đặc trưng của Anh quốc. Nhà máy bia Kernel hoạt động được hơn 5 năm và
loại bia được sản xuất ở đây là sự kết hợp giữa truyền thống và cách tư
duy mới và một chút thử nghiệm.
Hương vị nhất quán
“Chúng tôi dựa vào quy trình bao gồm đặt giả thiết, thí nghiệm và kết
quả,” ông Toby Munn, một nhà pha chế bia, nói, “Chúng tôi có thể làm
thí nghiệm nhỏ cho chính mình và làm thử tất cả mọi thứ. Vui lắm.”
Munn khoe vại lên men, nơi men bia dần dần chuyển hóa đường thành chất cồn sau vài ngày và một căn phòng đầy những thùng tròn.
Ngoài
ra cơ sở này còn có một phòng thí nghiệm vốn không to hơn một cái tủ
quần áo có thể bước vào được. Chễm chệ trong phòng là một chiếc kính
hiển vi và xung quanh là các thiết bị đo độ đậm đặc và một chiếc máy
có hình dáng lạ lùng dùng để thúc đẩy quá trình lên men bằng cách tăng
nhiệt.
Sản xuất bia đôi khi được xem là một nghệ thuật nhưng một khi sản
xuất ở quy mô lớn thì vai trò của khoa học là rất quan trọng. Dù cho bạn
có là cơ sở sản xuất nhỏ hay là một tập đoàn bia đa quốc gia như
Guinness hay Budweiser, điều then chốt là phân tích khoa học và công
thức hóa học khôn ngoan.
Đối với người mới bắt đầu thì cần phải đầu tư nhiều vào việc làm cho
bia có hương vị đồng nhất trên toàn cầu, nhất là đối với các công ty đa
quốc gia. Men bia phải nhất quán, ông Chris Giles, người sở hữu
Surebrew, công ty phân tích hóa học và cung cấp các thiết bị lưu trữ men
bia, nói.
Hãng Guinness cất giữ men bia của họ ở một nơi bí mật và men bia này được giữ trong dạng hơi nước nitrogen.
Ông Gearoid Cahill ở Guinness cho biết công ty của ông phải tính đến rất
nhiều yếu tố để đảm bảo hương vị bia đồng nhất. Nước dùng để sản xuất
bia Guinness cần phải được kiểm tra nồng độ calcium do lượng calcium
nhiều hay ít có thể gây ức chế các enzyme giúp chuyển hóa tinh bột
thành đường.
Bí ẩn từ bọt bia
Sau
đó đến cách phục vụ bia. Bia Guinness có đặc trưng về đường nét và bọt
kem trắng nổi tiếng nổi trên đầu cốc. Đó là do các bong bóng nitrogen
được nhồi vào trong bia thông qua các vòi áp suất trong các quán bia.
Sau khi bia chảy ra cốc, nitrogen một lần nữa thoát khỏi dung dịch bia
cũng giống như trường hợp của bong bóng khí CO2 trong nước.
“Khi nitrogen thoát ra nó không phồng to lên mà được giữ ở kích thước
rất nhỏ,” Cahill giải thích. Đó là lý do tại sao bia Guinness có bọt kem
trắng mịn ở trên.
Sáng tạo hơn là không cần loại vòi đặc biệt gì cả mà vẫn tạo ra bọt
bia. Trong các lon bia của hãng Guinness và các hãng khác có một viên
tròn với một chút bia bên trong. Khi khui ra, áp suất bên trong giảm
xuống khiến những gì bên trong viên tròn này thoát ra thông qua một lỗ
rất nhỏ.
“Tác
động vật lý đến lon bia đã khiến cho nitrogen thoát ra và tạo thành
bọt bia và sau đó chúng trồi từ từ lên trên mặt,” Cahill nói.
Việc này không phải chỉ để cho đẹp mắt. Mức độ chính xác CO2 hay
nitrogen hòa tan trong bia có thể có tác động bất ngờ đến hương vị bia,
theo bà Joanne Hort tại Đại học Nottingham, Anh quốc.
“Nồng độ carbonic tăng sẽ khiến cho độ ngọt của bia giảm,” bà Hort
nói, “Cho nên hai cốc bia giống hệt nhau với độ ngọt như nhau có thể
có hương vị khác nhau nếu chúng có nồng độ carbonic khác nhau.”
Chai
dùng để chứa bia cũng có thể tạo ra sự khác biệt do đó các công ty bia
cũng phải sáng tạo chai như thế nào để đảm bảo rằng chúng không ảnh
hưởng đến hương vị. Bạn có bao giờ thấy chai bia nào làm bằng thủy tinh
trong suốt không? Bia thường được bán trong những chai thủy tinh mà xám
hoặc màu xanh lá cây để tránh cho bia bên trong bị ánh sáng tác động
làm hại đến hương vị.
Mặc dù với tất cả những sự phức tạp này, một số xưởng bia nhỏ vẫn tự
hào là quy trình sản xuất của họ có những khác biệt không thể biết
trước vì nó hứa hẹn sẽ cho ra những hương vị bia mới hoàn toàn.
Munn nói ông ta là một người hâm mộ bia ‘Lambic’ của Bỉ vốn được sản
xuất ở Pjottenland ở gần Brussels. Loại bia này được sản xuất bằng cách
để hèm (đường ở dạng lỏng được lên men thành bia) trong một cái đĩa lớn
qua một đêm. Nó sẽ tự động thu hút men bia và vi khuẩn trong không
khí.
“Họ gọi cách làm này là lên men tự động,” Munn giải thích.
Sự khác biệt từ men bia
Men
bia vốn có mặt ở khắp nơi và có hàng ngàn loại. Do đó, một số nhà sản
xuất bia đã sáng chế ra cách làm mới là lấy men bia từ trong môi trường
tự nhiên. Một công ty Mỹ có tên là Rogue Ales đã làm bia lấy từ men
được cấy trên râu cằm của một người.
Và một người chuyên pha chế bia ở London có tên là James Rylance cho
biết gần đây ông còn tìm cách kiếm men bia từ các hang động và các vườn
cây ăn quả. Có lẽ một trong những loại men này sẽ cho ra loại bia lý
tưởng. Ai mà biết được?
“Chỉ mới trong vài trăm năm qua chúng ta mới hiểu rõ về vi khuẩn và men bia,” Rylance nói.
Có
lẽ loại men bia đang được mọi người nhắc đến nhiều nhất hiện nay là
một loại có tên là brettanomyce. Nó đã được sử dụng để làm bia trong
hàng trăm năm qua nhưng gần đây trở nên thông dụng khi được các công ty
bia mới như Chad Yakobson sử dụng làm loại men chính. Yakobson là một
trong số vài nhà sản xuất bia thử sức với ‘bia chua’ được sản xuất từ
men brettanomyce.
Loại men này làm nên loại bia ít bị nhiễm khuẩn hay ôxy hóa và có một
hương vị chua nhẹ đặc trưng vốn đi kèm rất tốt với một số loại thức ăn
như phó mát hay những món có vị mặn. Khác với các loại bia thông
thường, bia này để càng lâu thì chất lượng càng tốt.
“Một
số loại bia được làm từ men này có thể để được đến 10 hay thậm chí đến
20 năm. Hương vị của chúng càng để lâu càng ngon,” công ty Yakobson cho
biết.
Tuy nhiên, tất cả những sự sáng tạo và ngẫu hứng trong sản xuất bia cần
phải có phương pháp làm cẩn thận và chặt chẽ, Chris Giles nói. Niềm
vui của việc pha chế bia là tìm ra được một loại bia mới nhưng bí
quyết là làm cách nào để luôn sản xuất được loại bia đó một cách nhất
quán. Đó là thử thách mà các nhà sản xuất bia lớn đã bỏ hàng triệu đô
la trong khi các công ty bia nhỏ đều muốn làm được.
“Pha chế bia là một nghệ thuật,” Giles nói, “Nhưng ngày nay công việc này cần rất nhiều sự giúp đỡ của khoa học.” Bản tiếng Anh bài này đã được đăng trên BBC Future http://www.bbc.co.uk/vietnamese/culture_social/2015/01/150111_secrets_beer_brewing_vert_fut
Già Năm
châm trà rồi vui vẻ ngồi gần
tôi: - Tôi đã đóng kín
các cửa.Không còn sợ
"bức vách có tai" nữa. Mời
ông dùng trà. Chuyện thầy Tướng,
tôi xin kể lại ông nghe. Nhưng không
bảo đảm trí nhớ của tôi
còn khá như xưa. Tôi nâng ly trà:
- Lâu rồi mới "nghe"
được vị chát của trà.
Cảm ơn già hậu đãi.
Già Năm cười
khiêm tốn: .
- Chẳng có gì, ngoài
ly trà mừng ông trở lại
còn mạnh giỏi. Tiện đây xin chia
buồn với ông về Bà Cụ,
bà nhà và một cháu trai của
ông mất trong những năm ông còn
trong tù. Mấy ông lối xóm của
tôi , ông nào cũng gặp chuyện
chẳng lành. Người thì vợ
con tử nạn trên đường
vưột biên. Người thì bà
xã ôm cầm thuyền khác. Có
người cũng không được
tiễn ông bà thân đến nơi
an nghỉ cuối cùng!
Tôi cúi đầu: -
Tạ ơn già, đó là những
cái giá mà kẻ bại trận phải
trả...
Già Năm không đồng
ý:
- Ông cũng nói... bại
trận sao? Tôi không ưa hai chữ bại
trận. Không đánh giặc mà phải
buông súng, sao gọi là bại trận
được? Mà có đánh
thiệt rồi tự xử, như ông
thầy Tướng, cũng không phải
là bại trận!
Thấy già Năm bắt
đầu vào... đề, tôi tiếp
lời:
- Xin già cứ nói
những điều tai nghe, mắt thấy.
Tôi muốn ghi lại một vài hình
ảnh của Thầy Tướng - càng
trung thực càng tốt.
Nét mặt già Năm
vụt trở nên đăm chiêu:
- Tôi không quen biết gì
với thầy Tướng, lại cũng
chưa bao giờ tới chỗ ổng
hành nghề. Mãi đến lúc thầy...
hy sinh, tôi cũng không nhìn rõ mặt.
Nhưng mười mấy năm nay, mỗi
lần nghe một tiếng gì đó phát
nổ, ví dụ tiếng pháo, tiếng
xe bể bánh... tôi lại nhớ tiếng
súng ầm ran tại khu vực gần ngã
tư này, vào xế trưa ngày 30 tháng
Tư!
- Nghe đồn, chỉ một
mình thầy Tướng dám chống
lại quân... "giải phóng". Trận chiến
quả không cân sức! Già Năm
thở dài:
- Cân sao được
mà cân! Ðơn thương độc
mã chọi cả mấy chục tên, nội
một điều này đã đủ
vinh danh thầy Tướng. Ðó là
chưa kể cuộc chạm súng kéo dài
gần cả 2 tiếng đồng hồ, đủ
biết "chúng" cũng ngán thầy, cũng
sợ chết. Mấy thuở vô được
Sàigon, sắp quơ một mớ ... chiến
lợi phẩm đem về Bắc, dại
gì chúng "xung phong" vô cứ điểm
của thầy, lỡ ra thiệt mạng...
Tôi đỡ lời
già:
- Thầy Tướng đâu
phải con nhà võ, làm sao biết cách
đánh giặc, lại đánh một
mình. Lẽ ra ổng cầm cự nhiều
lắm là nửa giờ, cũng
phải... bung!
Già Năm cười:
- Cái lý thú là
ở chỗ đó, ông à! Sau
trận chạm súng với một số
các anh em Dù, "quân Giải Phóng"
gặp ngay một ông phó thường
dân gan dạ và quyết tử. Ðứng
trên lầu, bằng một giọng chững
chạc, Thầy Tướng nói trong "loa"
oang oang:
- Tôi đã quyết
tử. Không phải tôi chán sống
nhưng vì các anh đã chiếm được
Sài Gòn. Tôi tự biết không
thể sống chung với Cộng Sản,
nên muốn đi trước cho khỏe.
Nhưng tôi lại không muốn đi một
mình. Mới đây, bè bạn
trong Dù trước khi "tan hàng" đã
chuyển đến cho tôi mấy cây
súng, ít đạn, lựu đạn
và chỉ cho tôi cách sử dụng...
tàm tạm, đủ xài! Cho nên, trước
khi chết, tôi cũng muốn rủ các
anh theo tôi cho có bạn, càng nhiều
càng tốt! Các anh đừng suy
bụng ta ra bụng người mà cho rằng
tôi cũng nói dóc như "vẹm", chớ
không dám chết. Tôi đã dành
riêng cho mình, một viên đạn cuối
cùng . Vậy anh nào muốn "đi" theo
tôi thì cứ nhào tới! Sinh
Bắc tử Nam mà!
Thầy cười hì
hì trong máy rồi nói tiếp:
- Các anh sẽ được
gặp lại Bác Hồ muôn vàn kính
yêu của các anh, sẽ thành "liệt
sĩ" trong chốc lát.Tại sao còn chần
chừ chưa chịu tiến lên?
Lát sau, có tiếng hô
xung phong thiệt lớn của một tên
nào đó. Nhưng hô cả chục
tiếng mà không có "chiến sĩ
" nào xung phong cả. Trong lúc đó,
ông thầy nóng ruột, thỉnh thoảng
lại liệng ra một trái lựu đạn,
hoặc bắn một tràng súng máy
hướng về phía "quân giải
phóng". Hình như sợ mất mặt
với "nhân dân Miền Nam", tên
chỉ huy đích thân lùa đồng
bọn men theo lề cây xăng tiến tới.
Chỉ đợi có vậy, mấy trái
lựu đạn nổ liên tiếp. Ba
bốn cái bóng nhào! Bà con bên
này khu phố không sợ đạn
lạc, dám túa ra chứng kiến.
Ai cũng cầu mong thầy Tướng
tìm cách nào đó đi thoát
được. Nhưng thầy đâu
còn muốn sống nữa. Ðã
nói là quyết tử, thầy muốn
chứng tỏ cho "cách mạng" biết,
không bao giờ "nhân dân Miền
Nam" muốn được Cộng Sản "giải
phóng"!
Tôi còn nhớ lời
thầy:
- Tôi không phải là
quân nhân, không cần nghe lệnh "Tổng
Thống" trở cờ Dương Văn
Minh mà ngưng chiến đấu để...
bàn giao cho "cách mạng"! Tôi quyết
tử với các anh và rồi
tôi cũng sẽ... bàn giao cái thân
xác tôi cho các anh. Sống với
Cộng Sản, đàng nào tôi cũng
chết. Thà chiến đấu rồi
chết cho mát mẻ, lại có thêm
mấy anh đi theo nữa cho... vui. Nào,
xung phong đi chớ?...
Già Năm đang nói
ngon trớn, bỗng dừng lại:
- Tôi xin mở dấu
ngoặc ở đây để... phụ
đề nỗi bất bình của tôi
đối với mấy cái đài
phát thanh ngoại quốc. Sau khi mất Ban Mê
Thuột, ngày nào mà mấy cái
đài đó không ra rả loan những
tin tức bất lợi cho VNCH, cho mãi
tới ngày xe... "bọc thép" của
" vẹm" tiến vào dinh Ðộc Lập...
Thế mà một sự kiện xảy ra
nóng bỏng, trận quyết tử giữa
một thường dân VN, chống lại
quân "giải phóng", cả mấy tiếng
đồng hồ, náo loạn cả một
góc trời mà hổng có bản
tin nào được ghi nhận. Ôi,
thế giới tự do!
Rồi già nhìn tôi:
- Ông ở tù mười
mấy năm, đâu có hiểu chúng
tôi phải sống thê thảm như thế
nào dưới sự "xài xể"
của... con cháu Bác? Do vậy mà nhiều
người nhớ ông Thầy Tướng,
có nhà cúng cơm ổng vào ngày
30 tháng Tư Ðen. Ai cũng đau lòng
nhớ lại cảnh tượng chiều
hôm đó. Lúc "biển người"
lính ngố nhào vô căn nhà ông
thầy Tướng, sau khi ông thầy
bắn hết đạn và cũng không
còn lựu đạn để liệng
nữa. Ai cũng nghĩ "chúng" sẽ
trói tay ông thầy, bịt mắt ổng
rồi đem ra xử bắn để răn
đe... đồng bào. Nhưng, bà con
đã thấy tận mắt, chúng chỉ
lôi ra được cái xác của
Thầy Tướng. Thầy đã bắn
viên đạn súng lục cuối cùng
vào thái dương bên mặt của
mình để tự xử.
Già Năm chép miệng
nói tiếp:
- Sau này tôi nghe nhiều
đến những trang sách báo hải
ngoại vinh danh các vị anh hùng: Nguyễn
Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai,
Hồ Ngọc Cẩn, Phạm Văn Phú, Lê
Nguyên Vỹ, Mạc Ly Châu Phạm Ðức
Lợi.... cùng bao nhiêu vị Quân,
Dân, Chính khác đã tự xử
khi mất nước, nhưng chưa có
ai viết cho một dòng về sự hy
sinh của Thầy Tướng. Ông sang
Mỹ, có dịp, nên ghi lại đôi
hàng... Tôi nói ngay:
- Tôi muốn được
nghe già kể lại, chẳng phải có
ý định viết lách gì, mà
vì ông thầy Tướng đối
với tôi vốn là chỗ quen biết
...
Già Năm gật gù:
- Hèn chi ông quan tâm
đặc biệt đến chuyện này.
Chắc ông cũng có nhiều kỷ
niệm với ông thầy Tướng.
Trong tù, ông có bao giờ nghe ai nói
về trận quyết tử của thầy
Tướng không?
Tôi lắc đầu: -
Tôi mới nghe cách đây mấy
bữa thôi. Kỷ niệm chỉ có
chút ít, toàn là chuyện vui.
Tôi và ông Ngọc,
tục danh của thầy Tướng, là
người đồng hương. Cuối
thập niên 30, đầu 40, tôi theo học
trường "Auger" tại Quy Hậu, phủ lỵ
của phủ Kim Sơn, cách làng tôi
chỉ 1km. Ngày 2 lượt đi về,
hầu như lần nào tôi cũng thấy
ông Ngọc kéo bễ lò rèn ở
làng Phúc Ðiền, ngay ven đường
hàng tỉnh số 10 Phát Diệm-Ninh Bình,
sát cạnh làng tôi.
Có lần nhác thấy
tôi đi học về ngang qua, ông Ngọc
cầm thanh sắt mới rút ta từ
đống than đỏ rực, dứ
dứ về phía tôi: Cậu Mõ!
Muốn đánh một thanh "Chu Long Kiếm"
không?... (1)
Hồi đó, ông Ngọc
hay tháp thùng ông bác ruột, đến
thăm thầy tôi nên quen cái tên
"cậu Mõ" mà người trong nhà
thường gọi tôi.
Mười mấy năm
sau cuộc ... di cư , tôi mới gặp
lại ông, lúc đó đã là
thầy Tướng, vào mùa mưa
1971.
Tôi còn nhớ chiều
hôm ấy, từ nhà ở Trường
Ðua Phú Thọ, tôi chở đứa
con trai lên Bà Quẹo ăn cơm với
Lê Văn Thuận để nó ở
chơi với cháu Lê Dũng, con anh
Thuận, còn tôi thả bộ xuống cư
xá Tự Do thăm một người
bạn. Lúc tôi trở lại, đi
qua ngã tư thì trời đổ
mưa bất chợt. Tôi vội đứng
nép vào căn nhà đóng cửa
để tránh mưa. Lúc nhìn ra mới
hay đó là Nhà Tướng Số
M.Y.
Cánh cửa sịch mở.
Một khuôn mặt lạ ló ra, một giọng
nói không quen cất lên:
- Cậu Mõ!
Tôi giật mình, nhìn
kỹ người đối diện:
- Xin lỗi, ông là...
Một bàn tay nắm lấy
vai tôi, vẫn giọng nói không quen:
- Mời Trung Tá vô ngồi tránh
mưa đã!
Từ nãy đến
giờ, tôi đang ngạc nhiên, không
phải bây giờ nghe danh xưng cấp
bậc trong quân đội, dù tôi đang
mặc thường phục, mà là tiếng
Cậu Mõ... nói trên! Tôi trùng
tên với một ông lúc sinh tiền
làm Mõ làng, lại xin đâu được
cái mõ cũ, hay học rao theo những
lời thường nghe:
-" Chiềng quan viên làng
nước, nay có...", nên Mẹ tôi
thường âu yếm gọi tôi là
Mõ của Mẹ!
"Cậu Mõ", hai tiếng này
cũng thường được những
người giúp việc nhà tôi
dùng để kêu tôi. Người
ngoài ít ai biết điều này.
Ông thầy Tướng này là
ai? Tại sao lại kêu đúng tên "cúng
cơm" của tôi?
Thầy Tướng cười:
- Trung Tá dùng gì?
Tôi lắc đầu:
- Cảm ơn ông, tôi
không khát. Ông cứ gọi tôi
là Mõ được rồi. Cấp
bậc chỉ dùng trong quân đội. Nhưng...
- Nhưng chắc "cậu Mõ"
ngạc nhiên khi tôi biết cái tên
này?
- Ðúng vậy, tôi chưa
nhận ra được là đã
gặp ông ở đâu!
Thầy Tướng nói:
- Cậu không nhận được
tôi, chứ tôi nhận được
cậu ngay từ hơn mười năm
trước. Có điều, thấy
cậu là sĩ quan, lại là con cụ
Cử, nên không dám với cao.
Thôi để tôi nói cho cậu rõ:
Tôi chính là Ngọc Lò Rèn ở
làng Phúc Ðiền đây.
Tôi vui mừng nắm
chặt bàn tay của ông, nhìn kỹ
khuôn mặt ông. Phải rồi, đúng
là "anh Ngọc" ngày xưa, đôi lần
từng theo ông bác ruột đến
thăm thầy tôi. Cái "anh Ngọc" thường
bị người đời nói
lén là "điên điên", vì
thấy anh mở lò rèn, làm thợ
rèn, không tương xứng với
gia thế theo quan niệm hồi đó! Nói
tên thì tôi nhận ra được,
nếu gặp ngoài đường thì
chắc tôi đi luôn:
- Ông Ngọc, tôi thật
không ngờ được gặp lại
ông. Nhưng thầy tôi không phải
là cụ Cử, chắc ông nhớ
lầm rồi! Ông Ngọc nhún vai:
- Ai cũng nghĩ cụ nhà
chỉ là một thầy thuốc giỏi,
nhưng Bác tôi, vì cũng là "cựu
đồng chí", nên được
biết ông cụ là người từng
lưu lạc tận Quảng Châu Loan bên Tàu
làm... cách mạng trong tổ chức
một Ðảng phái quốc gia. Bác
tôi còn biết ông cụ đỗ
cử nhân ân khoa Ất Mão 1915,
tức khoa thi cuối cùng của triều
Nguyễn, rồi không chịu hợp tác
với Tây, bỏ xứ đi xa. Cuối
năm 1930, vì những bất đồng
của tổ chức, cụ ẩn danh tại
Kim Sơn, tránh được con mắt
tò mò của nhà cầm quyền
sở tại. Nhờ vậy tôi mới
có dịp tháp tùng ông bác,
lâu lâu qua thăm cụ...
Tôi lắc đầu:
- Tôi thật chưa bao giờ
nghe gia phụ nói chuyện này. Dòng họ
tôi chỉ có cụ cố đỗ tiến
sĩ đến đời các bác
tôi và thầy tôi, đâu có
ai đỗ đạt gì?
Ðến lượt ông
Ngọc lắc đầu:
- Chắc là hồi đó
cậu Mõ còn nhỏ, ông cụ chưa
nói với cậu đó thôi.
Nhưng tôi không lầm đâu.
Tôi nhìn lại ông:
- Rồi làm sao ông lại
trở thành thày Tướng nổi
danh như ngày nay?
Sau đây là những
lời tâm sự của ông Ngọc:
- Nổi danh thì không
dám, nhưng cũng kiếm ăn nhì
nhằng. Còn tại sao làm nghề này
thì là tại tôi muốn làm. Lúc
còn ở quê nhà, cậu có
nhớ bên làng Như Ðộ, có
anh B. anh Ð. con nhà giầu không? Thế
mà anh B. quay ra làm thầy tướng.
Anh ta đã kẻ lên bức tường
trước nhà hàng chữ: "-
Muốn xem: - Tình duyên thất vọng, công
danh lận đận, sự nghiệp tan tành"
- Xin mời vào nhà.
Ðầu tiên tôi
cho là anh chàng này hơi điên.
Nhưng sau khi nghĩ lại, thấy anh ta có
lý. Tình duyên không thất vọng,
công danh không lận đận, sự
nghiệp không tan tành... thì đâu
có ai đi coi bói làm gì. Nên
sau đó, tôi vô nhà anh ta, coi một
quẻ. Ngờ đâu anh ta từ
chối thẳng thừng:
- Thắng Ngọc Lò Rèn!
Không xem cho mày!
Tôi ngớ người:
- Tại sao?
Anh B. nói dõng dạc:
- Tại mày là người
quen.! Mà tao thì đang bịp thiên hạ
đễ lấy tiền. Nguyên tắc của
tao là không bịp người quen, vậy
thôi. Mày về đi!
Tôi nài nỉ:
- Nhiều người khen
anh đoán hay lắm. Nhận tôi làm
đệ tử được không?
Xin đóng học phí vừa ý...
thầy!
Ðầu tiên, anh ta không
chịu, nhưng sau đó thằng Ð.,
em trai của anh, nói chen vào:
-Nhận đi anh, em cũng
học với anh Ngọc nữa!
Thế là, sau đó,
tôi nhận được bài học
vỡ lòng. Tôi còn nhớ
mãi, đó là một bài học
vui, nhan đề: Nhập môn, phải biết
tâm lý - nhất là đối với
phụ nữ, phải biết lựa lời
mà nói. Ta có câu: Lời nói
chẳng mất tiền mua, Lựa lời
mà nói cho vừa lòng nhau. Có
nhiều sự việc chẳng cần làm
thày bói cũng đoán trúng
phóc. Ví dụ: mới sáng bảnh
mắt, chị ta đã hối hả đập
cửa nhà thày bói. Vậy thì
chị ta gặp chuyện gì mà gấp vậy?
Dĩ nhiên có thể là đêm
qua, nhà chị bị mất trộm. Cũng
có thể là người nhà của
chị (ông chồng của chị , con trai,
con gái chị) bỏ đi cả đêm,
cờ bạc hay trai gái gì đây.
Mình lựa lời dò ý trước
cho chắc ăn. Có thể bắt đầu:
- Chị làm gì mà
đi xem bói sớm quá vậy? Bị
mất trộm à? Nếu... thánh cho ăn
lộc thì quả nhiên là chị ta vừa
bị kẻ gian ôm mất mớ đồ.
Mắt chị ta sẽ mở to lên, thán
phục:
- Trời! Sao thầy đoán
hay quá vậy?
Nếu câu dò ý
nói trên không ăn tiền, thì
thêm ngay, khi không thấy chị ta phản
ứng thuận lợi:
- Thôi, lại ông Xã
bỏ nhà đi đánh chén cả
đêm rồi! Nếu cá cắn câu
thì sẽ nghe, ví dụ:
- Ðánh chén còn
khá. Ông ấy có con nào dấu
ở đâu đó, tôi chưa
tìm ra...
Mới nghe bài học
vỡ lòng, tôi đã "mết"
ông thầy Ð. ngay. Sau này, nghề dạy
nghề, lại mua sách chuyên môn về
nghiền ngẫm. Tổ đãi thì cũng
không đến nỗi nào... Nói
đến đây, ông Ngọc ngưng
lại. Ông hạ giọng: - Nhưng, thú thiệt
với cậu Mõ, coi bói chỉ là
nghề ngụy trang - tuy cũng có đồng
ra, đồng vào. Nhưng tôi làm
nghề này là có mục đích.
- Ông làm việc cho chính
quyền ?
- Không! Tin cậu nên tôi
thú thiệt, công việc chính của
tôi là lột mặt nạ những tên
Cộng Sản nằm vùng. Nghề này
cho tôi nhiều cơ hội. Chắc là
cậu không thể ngờ là cả
nhà tôi, cha mẹ tôi, anh trai tôi đều
tử nạn do "Ðội Cải Cách Ruộng
Ðất" từ Nghê Tĩnh ra, phát
động đấu tố, giết hết.
Chỉ có mấy sào ruộng hương
hỏa không trực canh mà "chúng
nó" giết cả nhà tôi. Cậu nghĩ
coi, nhà giầu có, địa chủ
thứ thiệt, ai lại cho con làm thợ
rèn bao giờ!...
Tôi cúi đầu:
- Xin chia buồn với ông!
Ông Ngọc nói tiếp:
- Cảm ơn cậu. Nếu
tôi không theo mấy ông Cha đi Hải
Phòng để xuống tàu vào Nam,
thời hạn cuối cùng năm 1955
thì một năm sau, trong "Cải Cách Ruộng
Ðất", chắc cũng "đi" rồi.
Cho nên cả thù nhà, cả nợ
nước, khiến tôi căm bọn
Cộng Sản thấu xương, không bao giờ
tôi đội trời chung với
chúng. Làm nghề này, tôi đã
có dịp giúp cơ quan an ninh tóm được
mấy tên mới xâm nhập, phá
hoại. Nói có Phật Trời chứng
giám, tôi tự nguyện làm công...
quả thôi,chứ không bao giờ
nhận tiền của các cơ quan an ninh. Cũng
có nhiều chuyện vui. Khi nào cậu rảnh,
ghé tôi, mình lên ngã tư Lê
Văn Duyệt - Phan Ðình Phùng chào
cờ... tây một bữa, tôi sẽ
kể cậu nghe... Thấy bên ngoài đã
hết mưa, tôi đứng lên từ
giã ông Ngọc:
- Cảm ơn đồng hương
cho trú mưa.Tôi phải trở lại
nhà ông bạn, còn chở con về
Phú Thọ. Nhà tôi ở số
18 Cư xá Lê Ðại Hành, khi nào
có dịp đi ngang qua, mời ông
vào chơi. Bà cụ tôi chắc sẽ
rất mừng được gặp lại
ông.
Ông Ngọc tiễn tôi
khi cơn mưa vừa dứt:
- Vâng, nhưng bữa nào
cậu nhớ ghé tôi...
Tôi cầm tay ông Ngọc:
- Yên trí, ông thầy!
Thầy Tướng cùng
tôi bước ra ngoài:
- Thầy bà gì! Cậu
về cho tôi gửi lời thăm
bà cụ, "mợ Mõ" và các
cháu. Có dịp tôi xin ghé cậu.
- Thưa già, đó là
lần chót tôi gặp ông Ngọc, trước
khi sập tiệm. Nào ngờ là lần
cuối cùng. Từ bữa được
nghe câu chuyện... quyết tử của
ông Thầy Tướng, tôi thật
vô cùng trân trọng và thương
cảm. Hôm nay lại được nghe
già cho biết thêm nhiều chi tiết,
tôi thật hân hạnh đã có
một người cùng quê anh hùng.
Tôi không biết rằng sau này còn
có dịp cầm bút nữa không.
Nếu còn, sớm muộn gì tôi
cũng ghi lại câu chuyện này, để
tưởng niệm ông Thầy Tướng
của chúng ta, một thường dân
đã quyết liệt sống chết với
Cộng Sản. Ông đã dành cho mình
một viên đạn cuối cùng để
tự xử, chẳng khác gì một
danh tướng.
Hoàng Ngọc Liên
(*) Tên thanh kiếm trong tác
phẩm cùng tên của Văn Tuyền,
một bút hiệu khác của lão tiền
bối Phạm Cao Củng.
Ông phú hộ họ Cao là một trong những người giàu nhất phố Hiến. Ông là
một thương gia buôn bán tơ lụa và đồ cổ ngoạn. Ông lại còn là một nhà
buôn đường biển. Thuyền của ông thường ra vào buôn bán ở Thăng Long,
Thuận Hóa, Hội An, Đồng Nai. Thỉnh thoảng ông cũng sang buôn bán ở Hải
Nam hay Tiểu Tây Dương tức là vùng quần đảo Nam Trung Quốc và An Nam.
Những chuyến đi của ông có khi kéo dài gần nửa năm trời. Nhà của ông rất
rộng lớn, gồm tòa ngang dãy dọc thênh thang. Ông và vợ con ở trong ngôi
nhà chính, và ngôi nhà ngang.
Các cột và cửa bức bàn đều chạm trỗ rất
mỹ thuật. Các bà vợ thứ thì ở trong một ngôi nhà đàng sau ngôi nhà
chính, mỗi bà một phòng. Sau nữa là nhà ở các gia nhân và bếp núc. Bên
cạnh ngôi nhà ngang là kho hàng hóa. Xung quanh nhà có tường cao bao
bọc. Nhà nuôi một đàn chó rất dữ. Trong nhà ông nuôi khoảng năm sáu gia
nhân khỏe mạnh và biết võ nghệ để chống trộm cướp và vận chuyển hàng
hóa. Mỗi tối, các gia nhân thay nhau canh gác nghiêm ngặt như là một
trại lính. Ngoài ra, trong nhà, ông nuôi một thầy đồ Nghệ để dạy văn cho
các con ông, và một võ sư dạy võ cho con ông và các gia nhân. Bà vợ cả
và con gái lớn của ông trông coi của hàng tơ lụa ở ngoài phố. Thỉnh
thoảng ông cũng ra đây trông coi, kiểm soát mọi việc.
Cao phú
hộ là một người chăm chỉ kinh doanh. Ông không hút thuốc, không uống
rượu, không chơi bài bạc. Ông không muốn giao thiệp với người ngoài vì
sợ họ vay mượn hoặc nhờ vả. Ông cũng sợ bọn cướp giả dạng ăn mày để dò
xét nhà ông, hoặc giả làm khách sang để vào cướp của cải. Cửa nhà ông
luôn đóng kín. Ông dặn trước với vợ con và gia nhân rằng ông chỉ tiếp
các quan lớn hoặc nhà giàu trong vùng mà thôi.
Khách lạ và sang trọng
phải đưa thiếp cho gia nhân trình ông thì mới được vào. Ông có cái tật
là ghét những người nghèo, đặc biệt là ghét ăn mày. Ông cho rằng những
người nghèo là do lười biếng, cờ bạc, rượu chè. Bần cùng sinh đạo tặc.
Người nghèo thường sinh ra trôm cướp, bất lương. Ông thường đem bản thân
ông làm thí dụ. Ông đâu phải sinh trưởng trong cảnh giàu sang mà sinh
ra kiêu căng, khinh người. Quan niệm ông là do trải qua thực tế. Ông vốn
xuất thân nghèo khổ, nhưng nhờ chí phấn đãu mà dựng được sự nghiệp ngày
nay. Ông cấm tiệt ăn mày đến nhà. Ông không bao giờ giúp đỡ người nghèo
hoặc bố thí cho ăn mày vì ông cho rằng làm thế là khuyến khích họ lười
biếng. Vì vậy khi người nghèo và ăn mày đến thì bị gia nhân xua đuổi.
Nếu đuổi nhiều lần mà họ không đi, gia nhân có quyền xua chó ra cắn. Đó
là luật lệ bất di bất dịch đã được thiết lập ra trong mấy chục năm kể từ
ngày ông về làm chủ ngôi nhà này.
Cao phú ông thuở nhỏ trải
nhiều gian truân. Quê ông ở vùng dồi núi Hải dương. Nhà nghèo, mẹ mất
sớm, cha lấy vợ kế. Lúc bấy giờ Cao lên mười. Bà dì ghẻ này rất độc ác,
thường hành hạ, đánh đập con chồng tàn nhẫn. Uât ức và căm thù, Cao bèn
ôm quần áo và thu vén một ít tiền bạc vào trong một cái bị rồi trốn đi.
Ngày đêm đi mãi miết, một hôm Cao đến một vùng dất xa lạ, Cao bèn dừng
chân tại một miếu hoang. Trong miếu lúc bấy giờ đã có sẵn một đám ăn
mày, già có trẻ có. Chúng nhìn chăm chú vào cái bị của Cao và chúng
nhường cho Cao một chỗ ngả lưng. Khi Cao tỉnh dậy thì mặt trời đã lên
cao.
Đám ăn mày trong miếu đã đi hết mà cái bị của Cao cũng biến mất.
Không quần áo, không tiền bạc, Cao đành phải đi xin khắp chợ và quê. Vài
ngày sau, Cao đến một thị trấn, và đêm đến Cao ngủ ngoài chợ. Tại đây
có rất nhiều ăn mày. Ban ngày chúng là ăn mày nhưng ban đêm chúng làm
chủ khu chợ. Chúng chiếm các lều trại, và đánh đuổi những dân mới đến
như Cao. Chúng đòi Cao nộp cho chúng năm đồng chinh để được ngủ một đêm.
Cao không có tiền nên chúng đánh đập Cao và đuổi Cao đi. Cao phải ngủ
trước một mái hiên nhà nọ. Sáng sớm, Cao phải dậy đi thật sớm. Ngày đi
đêm nghỉ, sau mấy tháng, Cao đã đến phố Hiến. Nơi đây buôn bán tập nập.
Phố xá nhộn nhịp cả ngày lẫn đêm. Cao đi ăn xin và được một số tiền. Cao
bèn mua quần áo mới và đi khắp nơi kiếm việc. Cuối cùng Cao đã được một
quán cơm nhận Cao làm việc.
Công việc cũng nhàn hạ, Cao chỉ có việc
bưng đồ ăn cho khách và đứng hầu khách, hoặc làm các việc vặt cho bà
chủ. Khi bà chủ hay cô chủ đi chợ, Cao đi theo gánh cá thịt rau đưa. Khi
rảnh thì Cao lo việc đun bếp, bổ củi. Bà chủ cho Cao ở luôn tại quán,
thỉnh thoảng cho Cao một số tiền. Cao tích cực làm việc nên được bà chủ
tín nhiệm. Một thời gian sau, bà chủ già yếu, bị bệnh rồi mất, con cái
bỏ nghề cũ, sang nhượng cửa hàng cho một người khác. Cao bèn xin làm phu
khuân vác cho một hãng tàu buôn. Thấy Cao khỏe mạnh và chăm chỉ, thông
minh, ông chủ hãng giao cho Cao việc chỉ huy đám phu khuân vác, sau Cao
lên phụ trách việc coi kho hàng và đi biển cùng ông chủ. Từ đó Cao học
tập nghề buôn bán đường biển, quen thuộc thủy đạo, và gỉỏi việc điều
khiển tàu biển, rành việc buôn bán, giao dịch.
Cao được ông chủ tín
nhiệm, gả con gái cho. Từ đó Cao trở thành con rể ông chủ. Khi ông chủ
già yếu, giao hẳn cơ nghiệp cho Cao vì ông chủ chỉ có một con gái duy
nhất. Từ khi ông chủ mất đi, Cao bắt đầu chấn chỉnh mọi việc trong
ngoài. Cao xây tường quanh nhà, tuyển thanh niên mạnh khỏe vào canh gác
nhà cửa, và phụ trách việc chuyển vận hàng lên tàu hoặc xuống tàu, tuyển
gái đẹp phụ trách buôn bán ở các cửa hàng. Đối với các người giúp việc,
Cao trả luơng cho họ rất hậu và đối xử tử tế. Mỗi khi vợ con họ đau ốm,
Cao thường cho họ tiền bạc, rước thầy chẩn bệnh và cung cấp thuốc men
cho họ. Vì vậy mọi người rất quý mến Cao.
Chuyến đi này Cao
đã chuẩn bị mấy tháng rồi. Cao mua trà, cao, quế, lụa, vải vóc các thứ
định sang bán tại các nuớc ở phía nam Trung quốc như là Tiểu Tây dương,
Tân Gia Ba. . . Khi về Cao mua vàng bạc, ngọc, ngà, và vải vóc để bán.
Công việc mua bán rất thuận lợi hứa hẹn một tương lai sáng chói.
Trên
đường trở về đuợc ba ngày thì hai bên thuyền bỗng xuất hiện một đàn 'cú
biển' . Đó là những con cá rất lớn có cái mặt và tiếng kêu giống chim
cú. Những người đi biển rất sợ loài cá này. Nó là một thứ chim cú báo
tử. Những tiếng kêu của nó kéo dài trong đêm khuya khiến cho mọi người
sợ hãi. Ai nấy nín thở đón nhận một tai họa sắp giáng xuống đầu họ. Trưa
hôm sau, trời bỗng trở nên im lặng một cách kinh dị.
Mặt biển yên tĩnh
như nước hồ Gươm. Trời oi bức như cả không gian đang nằm trong chão
nóng. Bỗng nhiên đằng tây mây hồng bừng lên rực rỡ lạ thường. Mây hồng
từng lớp hiện lên rất đẹp. Rồi từ từ từng đám mây chuyển màu từ hồng
sang tía rồi vàng. Và cuối cùng mây đen phủ ngập không gian. Sấm sét nổi
lên. Mặt biển như rung rinh, và dần dần từ xa, những đợt sóng bốc cao
lên tận trời xanh để rồi đổ xuống như những dãy nhà lầu bị động đất lún
xuống và biến mất dưới làn nước xanh. Hết đợt sóng này lại đến lớp sóng
khác. Những lớp sóng này như muốn nhận chìm thuyền ông xuống tận đáy
biển. Có những lúc thuyền ông như đi trong lòng một ống cống lớn mà bốn
bề đều là nước. Nhưng lớp sóng khác lại đẩy thuyền ông lên. Cứ như vậy
suốt buổi. Ai cũng lo lắng không biết lúc nào thì thuyền chìm thật sự.
Ông Cao đã từng đi biển nhiểu lần nhưng không lần nào nguy hiểm như lần
này. Ông Cao rất lo lắng và sợ hãi vì ông biết giờ lâm tử đã đến. Khắp
thuyền ai cũng niệm chú Quan Âm, hoặc kêu gọi tên mẹ cha và vợ con.
Thuyền
ông đã gãy bánh lái, và cột buồm. Thuyền cứ chồm lên trời rồi lại rút
xuống đáy biển. Và thuyền cứ trôi theo cơn bão, tài công không còn điều
khiển đuợc thuyền. Nhưng rồi trời tạnh mưa, gió ngừng thổi, sóng cũng êm
và phương đông mặt trời thẹn thùng lấp ló sau đám mây, và không gian
như lóe lên một chút ánh sáng yếu ớt. Thuyền vẫn trôi đi theo giòng
nước. Đầu bếp chuẩn bị nấu ăn. Nước đã làm ướt hết thuyền nhưng nhờ sự
khôn ngoan của ông mà gạo nước, thức ăn và than củi vẫn khô. Ấy là ông
đã tính trước những hiểm nguy trong nghề nên trước đó ông đã mua những
thùng rượu Bồ Đào mỹ tửu bán hết rượu ông giữ lại thùng. Ông đặt vào
những thùng này những thứ cần thiết như gạo, thức ăn, lương khô, than
củi, và lấy chai gắn lại.
Ông cũng đặt riêng những hòm đựng vải vóc,
ngọc ngà có gắn chai để khỏi thấm nước. Nhờ sáng kiến đó, mọi người ăn
uống đầy đủ và lấy lại sức khỏe sau bao đêm bão tố hãi hùng. Nhưng rồi
buổi chiều, mây đen lại nổi lên, gió thổi nhè nhẹ rồi cơn bão lại đến.
Thuyền ông như mũi tên lướt trên biển. Những đợt sóng thần lại nổi lên
như trái núi. Mọi người nghe muôn vạn tiếng thét, tiếng la khóc nổi lên
bốn bề. Và trước mắt họ bỗng hiện lên những hình ảnh ma quỷ nhe răng
trợn mắt và những thây người đầy dòi bọ nhảy múa. Giữa cơn bão tố , mọi
người nghe một tiếng nổ rất lớn như trái đất vỡ tan thành muôn mảnh. Mặt
biển chao động như sụp đổ. Cùng lúc đó một lỗ hổng rất lớn xuất hiện
làm thành một vòng xoáy. Tiếng nuớc réo ầm ầm như thiên binh vạn mã.
Những bọt nước rất lớn nổi lên và chạy xung quanh xoáy rồi tất cả chui
tọt xuống hố nước vĩ đại. Ông ra lệnh mọi người đeo phao cấp cứu là
những tấm ván dày hay thân gỗ tạp có những dây đeo vào thân. Thuyền ông
càng lúc càng tiến dần vào vũng xoáy rồi chui tọt vào vũng xoáy vô tận.
Không
biết bao lâu, ông tỉnh dậy. Ông thấy xung quanh ông có nhiều người lạ.
Họ ăn mặc giống như người Mường, người Mán. Họ nói với nhau bằng một thứ
ngôn ngữ mà ông không hiểu họ là người nuớc nào. Nơi ông nằm là một ổ
rơm, dường như ông đang nằm nơi điếm canh của một thôn xã nào đó. Họ cho
ông ăn uống đầy đủ. Sau mấy ngày ông đã đi đứng được, họ đưa ông lên
một cơ quan địa phương. Quan địa phương cho lính đưa ông xuống nhà giam.
Sau mấy hôm, họ đưa ông lên thẩm vấn. Họ cho ông giấy bút để khai. Lúc
nhỏ ông thất học, nhưng từ khi làm việc cho chủ thuyền buôn, ông đã học
được ít nhiều chữ Hán. Ông viết rằng ông họ Cao, người An Nam quốc, đi
buôn bán ở Tiểu Tây Dương, khi về bị bão đánh chìm tàu, và nguyện vọng
của ông là được trở về An Nam quốc. Họ nghi ông là gián điệp ngoại bang
nên giam giữ ông bốn năm , sau nhận thấy ông thật thà, nên phóng thích
ông.
Khi ông ra về, viên quan địa phương cấp cho ông một giấy chứng nhận
ghi rằng quan trấn thủ Thiên Tân bắt được một người An Nam, xưng họ
Cao, đi thuyền bị đắm trôi vào đất Thiên Tân. Nay xét tên này vô tội nên
phóng thích. Nhờ xem tờ giấy này, ông mới biết là mình trôi đến bắc
Trung quốc rồi bị giải về Thiên Tân. Ông vội vàng nhắm phương Nam trực
chỉ. Ngày đi đêm nghỉ. Ông phải đi hành khất kiếm tiền độ nhật. Trên
đường đi nhiều khi ông phải nằm liệt một xó ở các miếu hoang vì đau ốm
gượng đi không nổi. Thân già dầm giải nắng mưa khiến cho ông xác xơ như
là ông lão bảy tám chục tuổi. Đã thế, ông thường xuyên bị bọn sơn tặc và
bọn lưu manh chận đường cướp của.
Thấy ông không có tiền bạc, chúng tức
giận đánh đập ông và xé luôn giấy chứng nhận của ông. Vì không có giấy
tờ, ông lại bị quan binh bắt giam vì nghi ông là gian tế. Lần này ông bị
giam năm năm . Lúc này quân Thanh xâm chiếm Thăng Long và bị vua Quang
Trung đánh cho một trận xiểng niểng nên họ thù ghét người An Nam quốc và
họ nghi ông là gián điệp nhà Tây Sơn. Đến khi bang giao giữa nhà Thanh
và Tây Sơn tốt đẹp, họ mới phóng thích ông. Ở trong tù quá lâu lại cực
khổ trăm bề nên ông rụng hết răng, nói không ra tiếng và đi đứng không
vững, phải chống gậy. Từ đó về đến Nam quan ông mất thêm hai năm. Và ông
lần mò từ Nam quan về phố Hiến phải mất thêm sáu tháng nữa. Khi ông về
đến cây đa đầu làng thì ông đã ngoại sáu mươi. Phong cảnh bây giờ khác
xưa. Phố Hiến sau loạn kiêu binh, sau việc quân Tây Sơn ra bắc dẹp Trịnh
và sau những biến loạn do Nguyễn Hữu Chỉnh, Trịnh Bồng và Vũ Văn Nhậm
cai trị thì đã sa sút.
Ngôi nhà ông vẫn uy nghi như xưa. Vẫn
hàng tường cao bao bọc. Vẫn khói lam chiều tỏa nhẹ trên mái nhà. Vẫn cái
cổng tam quan với cửa gỗ chắc nịch. Khi ông tới gần cổng thì một bọn
hai ba tráng đinh xa lạ ra chận lại. Chúng cầm roi xua đuổi ông. Chúng
lớn tiếng bảo: 'Cấm ăn mày vào! Ăn xin thì cút đi! Nếu còn đứng đó thì
chúng tao xua chó ra đuổi'. Ông cứ tiến tới. Ông gọi tên vợ ông, con
ông! Nhưng giọng ông không thoát ra khỏi cuống họng! Dù ông ta có kêu rõ
tiếng cũng chẳng ai nghe vì vợ con ông ở bên trong rất xa ngõ. Ông vẫn
đứng mãi đó. Bọn trai tráng tức giận mở cửa xút chó đuổi ông. Năm sáu
con chó há miệng
đỏ lòm chạy ra, mắt nhìn ông hau háu. Ông sợ hãi
cúi đầu chạy. Ông chạy mãi đến bờ sông thì đuối sức ngã lăn ra. Sáng hôm
sau, dân làng thấy xác chết một ông lão ăn mày nằm còng queo trên bờ
sông. Thương tình một ông già vô danh, họ bó chiếu rồi chôn ông ở ven
sông.
Khi nghe tiếng khóa lách cách bên ngoài, tôi cảm
thấy nhẹ nhàng. Dù sắp phải đối phó với những màn ép cung mà một lời nói
sơ suất có thể mang lại những hậu quả phiền toái; hoặc có thể xảy ra
màn tra tấn đánh đập như từng xảy ra khi chúng tôi bị gán tội sách động
đòi yêu sách hồi còn ở trại K5 Suối Máu. Tuy nhiên, công tâm mà nói, ở
Xuân Phước hơn sáu năm, anh em tù nhân có thể bị khủng bố nghiêm trọng
về tinh thần, nhưng cảnh tra tấn thì không dã man bằng ở trại Kà Tum,
hay các trại miền đồng bằng Cửu Long, nơi bọn du kích, địa phương Việt
cộng quản lý trong những năm đầu.
Chúng tôi vẫn coi thường những màn hỏi cung của bọn công an vì trình độ
học thức, lý luận chúng rất kém cỏi. Vấn đề là phải làm sao để không hớ
hênh khai báo gì mà có thể liên lụy cho các bạn mình hay để chúng chụp
thêm tội. Dù có nhận tội hay không thì thời gian bị cùm cũng chẳng thay
đổi gì. Đơn giản là nếu không nhận tội, thì chúng cho là ngoan cố; mà có
nhận đại cho xong, thì chúng nó đoán sẽ còn nhiều điều cần truy cứu
thêm. Nên trong cả hai trường hợp, chúng sẽ biệt giam cho đến khi nào
gần quỵ gục thì mới thả ra.
Vì gần cuối năm, khí hậu tương đối dễ chịu. Nếu ở một hoàn cảnh nào
khác, thì đó sẽ là một ngày đẹp trời, êm ả. Ánh nắng mai dịu dàng và
khoảng trời xanh trong. Anh em tù nhân đã xuất trại lao động. Chỉ có hai
ba đội đang làm cỏ chung quanh hội trường. Đó là các đội tù nhân thuộc
phân trại A (hai trại A và E liền nhau, không có hàng rào ngăn cách,
chung nhau một Hội trường). Các anh em đó là những người ra đi trên tàu
Việt Nam Thương Tín hồi cuối tháng 4 năm 75, và đã bị bọn Việt gian sách
động đòi trở về nước sau khi đến được đảo Guam. Họ được đón tiếp trọng
thể tại bờ biển Nha Trang. Có vòng hoa choàng cổ, có diễn văn chào mừng
như đối với những người con yêu trở về với Dân tộc. Nhưng ngay sau đó,
từng đoàn xe buýt đưa thẳng họ vào Xuân Phước, lột xách tư trang và đưa
vào đây để họ trở thành những người tiền phong xây dựng những lán trại
mà bây giờ là trại A-20 khét tiếng. Những người này vừa dân sự, vừa công
chức, Quân nhân các cấp, bị giữ từ 3 cho đến hơn 10 năm tùy theo lý
lịch trước 1975. Tuy nhiên, họ được quy chế rộng rãi hơn đám tù cải tạo
chúng tôi. Họ làm các công việc tương đối nhẹ nhàng, ít bị quản chế.
Hội trường cũng khá rộng. Trừ mặt sau bít kín, ba mặt kia đều có nhiều
cửa sổ thông thoáng. Có hai chiếc bàn kê trên sân khấu. Tôi ngồi đối
diện với tên cán bộ Luật ở bàn bên trái. Một cán bộ “giáo dục” ngồi bàn
bên phải đang chăm chú đọc hồ sơ mà tôi đoán là của chính tôi. Bên ngoài
anh em Việt Nam Thương Tín cũng vừa làm việc vừa lén theo dõi chúng
tôi.
Bắt đầu thông thường là các câu hỏi: tên họ, cấp bậc, chức vụ và tội danh.
Thời gian đầu mới vào trại, bọn cộng sản ép chúng tôi phải nhận là ngụy
quân, ngụy quyền. Nhiều anh em né tránh những danh từ điếm nhục mà kẻ
thù cố gán và khai mình là “sĩ quan chế độ cũ”. Sau này, bọn cán bộ mặc
nhiên chấp nhận tội danh SQCĐC này.
Hôm nay, thì từ một động lực tiềm ẩn nào đó, tôi đột nhiên nổi cơn ương ngạnh:
- Tôi không can tội gì cả!
Tên Luật sững sờ, buông bút gằn giọng:
- Anh nói không can tội, thì sao chúng tôi phải giữ anh ở đây?
- Đúng, tôi không can tội gì.
- Anh cầm súng Mỹ chống lại cách mạng và nhân dân. Đảng và nhà nước đã
khoan dung tha tội chết, cho anh học tập cải tạo để thành người lương
thiện mà anh lại chối à?
Tôi cười khẩy:
- Đối với tổ quốc và nhân dân, tôi không có tội gì cả. Năm 1975, chúng
tôi lầm về các anh nên mới đi trình diện cải tạo. Nhưng đã 5 năm nay,
chúng tôi nhận thức rằng các anh từ miền Bắc vào xâm chiếm miền Nam chỉ
đem lại cơ hàn, đói khổ, áp bức cho đồng bào. Vì vậy, nếu chúng tôi
chiến đấu, là chiến đấu cho chính nghĩa.
Luật ghi nguyên văn câu nói của tôi vào biên bản rồi chuyển qua cán bộ
giáo dục (Tôi quên mất tên. Nhưng anh cán bộ này hóa ra là một người
tốt, sau này đã giúp một anh trốn trại. Việc bị bể, cán bộ này lãnh án 5
năm ở trại tù tỉnh Phú Khánh). Đối thoại với cán bộ giáo dục cũng nhẹ
nhàng, tôi vẫn giữ nguyên luận điệu. Vì thế, cuối cùng tôi được đối diện
với viên trưởng trại Lê Đồng Vũ.
Với cặp mắt lừ đừ, gian ác trên khuôn mặt bèn bẹt của một thổ dân bán
khai miền núi, Vũ nhìn tôi và bắt bẻ thế ngồi bắt chân chữ ngũ của tôi:
- Anh ngồi lại nghiêm túc.
- Nghiêm túc là thế nào? Năm nay ông mới là Thượng úy. Năm năm trước đây tôi đã là một Đại úy. Ngồi thế này là lịch sự lắm rồi.
Biết đụng đầu với một anh liều mạng, cứng đầu cứng cổ, Vũ bắt đầu lải
nhải những luận điệu cũ rích về chính sách “khoan hồng độ lượng”, về
cuộc chiến “chống Mỹ anh hùng.” Tôi ngồi nghe một cách lơ đãng và vẫn
giữ một câu trả lời mỗi khi Vũ hỏi tôi về tội danh.
Sau cùng, không còn kiên nhẫn, Vũ đứng dậy và gầm lên:
- Chống Cộng là chính nghĩa! Hừm, tao cho mày chết rỉ cùm trong nhà kỷ luật.
Không biết trời xui đất khiến gì mà tôi cũng đâm ra liều lĩnh. Tôi ráng khạc một bãi đàm, nhổ toẹt ngay trước mặt Vũ.
Anh cán bộ giáo dục thấy tình hình quá nguy hiểm, đã kéo tay tôi lôi đi:
- Anh Phúc, bớt nóng, bớt nóng. Đi, đi mau. Mai mốt ra làm việc với tôi.
Anh em tù Việt Nam Thương Tín quanh đó hầu như ngưng tất cả công việc để
theo dõi từng diễn tiến. Vì thế khi cán bộ giáo dục dẫn tôi đi qua,
nhiều anh đã lén đưa ngón tay cái biểu lộ sự tán đồng.
Sau này, mãi cho đến khi chúng tôi bị di chuyển vào phân trại B, tên Lê
Đồng Vũ thường né tránh mỗi khi vào trại mà chạm mặt với tôi. Trong khi
tôi cứ xấn tới, thì Vũ tìm lối khác để đi. Với quyền uy tuyệt đối của
một trưởng trại, chúng muốn hành hạ gì người tù mà chẳng được. Nhưng rõ
ràng là Lê Đồng Vũ e sợ bị làm nhục mất uy tín trước các tù nhân trong
trại. Theo nội quy trại, tù nhân khi gặp cán bộ trại tù phải dỡ nón,
đứng cách 6 bước và hô “Chào cán bộ”. Cũng theo 30 điều nội quy, tù nhân
phải dỡ nón mỗi khi đi qua cổng trại. Sau này ở phân trại B, có một anh
đội trưởng là ĐPL, người Huế, cựu Tiểu đoàn trưởng thuộc một Sư đoàn BB
ở vùng 2, còn đặt thêm lệ bắt chúng tôi phải đi qua cho hết hàng dừa
bên ngoài cổng trại (cũng khoảng 50 mét nữa) mới được đội nón. Chúng tôi
đặt cho anh này xú danh là ông Ba Mươi; vì nhiều lần anh ta tuyên bố
rất xanh rờn: “Khi không có Cán bộ thì có tôi.” (ý muốn cho rằng mình
cũng uy quyền như cán bộ. Khiếp! Về anh này, còn nhiều chuyện vui lắm.
Nhưng để có dịp chúng ta sẽ biết thêm về anh này sau). Để tránh phải
chào bọn cán, anh em chúng tôi có quy ước với nhau là không đội nón, cho
dù mưa to gió lớn hay nắng lửa nứt da đầu. Không cần thiết thì không
nên xáp lại gần bọn cán. Lấy đủ cớ như đau mắt, nắng chói không nhìn rõ
để biện minh cho việc không chào cán bộ. Sáu năm sau, vào năm 1985, khi
tôi làm thủ tục ra tù ở ban chỉ huy trại, một tên cán bộ an ninh đã cúi
nhìn tận mặt tôi và lắc đầu:
- Anh này là… đây. Anh mà cũng được tha thì cũng lạ! Cán bộ Trưởng trại uy quyền tối cao mà anh còn làm nhục thì hết nước nói.
Tôi được đưa trở lại nhà kỷ luật. Trên đường đi, tôi cũng tự trách mình
đã quá nông nỗi để có thể bị họa lớn. Nhưng rồi cũng tự an ủi vì đã bao
lần, tôi đều chịu đựng và vượt qua. Vì sắp đến giờ phát bữa ăn trưa, là
bữa ăn duy nhất trong ngày của tù biệt giam, anh cán bộ này đã ra lệnh
cho nhà bếp dọn cho tôi ngay phòng quản lý bếp. Do các anh nhà bếp -
cũng là anh em quân nhân - đã chiếu cố đến một người bạn đồng cảnh xấu
số, tôi được ăn khá hơn cả phần người tù thường. Khi vào phòng giam, lợi
dụng sự dễ dãi của anh cán bộ giáo dục, tôi yêu cầu anh ta lấy cho tôi
một chiếc cùm lớn hơn. Tuy nhiên, tôi vẫn không được thêm thứ gì khác.
Lại một đêm lạnh lẽo và nhức nhối cùng mối lo chờ đợi sự trả thù của tên
trưởng trại, mà chắc là rất thâm độc.
Những Ngày Dài Trong Biệt Giam.
Mấy ngày sau khi tôi bị cùm, trại kiếm đủ cớ để đưa vào biệt giam thêm
khoảng chục anh. Chẳng bao lâu sau đó, các phòng biệt giam chật ních
người. Vì sắp đến lễ Giáng sinh, chúng lựa những người có thành tích đấu
tranh cho vào giam trước đề phòng chuyện không hay xảy ra. Thế là chúng
tôi, 4 người nằm một phòng, hai người trên một bệ chia nhau thanh sắt
cùm. Chúng tôi bắt đầu gửi tín hiệu thăm hỏi nhau và tôi được biết bên
ngoài cũng đang vô cùng căng thẳng. Nhất cử nhất động đều có ăng ten
theo dõi và báo cáo. Vì thế các anh khuyên tôi nên ứng xử thật khéo léo
để tránh bị gán thêm tội.
Mỗi ngày trong xà lim, chúng cho ăn một lần vào khoảng xế trưa. Mỗi bữa
ăn là hai lát khoai mì chan ngập trong nước muối thật mặn và chừng hai
muỗng nước uống. Cơn khát hành hạ chúng tôi đến điên người. Đói, khát,
lạnh (vì đang là mùa Đông) làm cho tôi kiệt sức rất nhanh. Chiếc cùm quá
chật làm rách thịt ở nhượng chân, làm độc; tôi dùng nước muối thoa lên
hàng ngày. Lâu dần, chân teo lại, có thể xoay sở được. Các anh nằm bên
các xà lim cạnh bày ra ca hát, đọc thơ cho lên tinh thần. Cũng có lúc
tôi nhận được tiếp tế do những anh gan lì nhất nhảy hàng rào biệt giam
chuồi vào khe cửa những miếng đường tán, chút thuốc lào.Đây là công lao
của Phạm Tuế, khóa đàn em của tôi và các bạn trẻ Tú Cường, Đức Nhì....
còn may mắn chưa bị “tó”. Chúng tôi giải quyết cơn khát bằng cách khi
một người bị kêu ra làm việc, cố gắng uống thật nhiều nước và nhúng ướt
áo quần, để khi về phòng vắt ra cho anh em khác uống. Có khi chúng tôi
phải uống nước tiểu, nhưng tình trạng thiếu nước làm cho nước tiểu cũng
quánh lại và gắt vô cùng, tưởng như uống máu của chính mình.
Cơn lạnh của vùng núi rừng miền trung thật khủng khiếp. Sàn xi măng thì
ẩm, trên người chẳng có gì che. Suốt ngày đêm chỉ gắng ngồi thu người,
ôm gối run cằm cặp. Tôi kiệt đến mức xuất tinh và tiểu tiện mà không
kiểm soát được, cũng không cảm giác được. Hình như ai ở xà lim lâu ngày
cũng có thể trở thành nhà triết học. Nằm buồn, khó ngủ, thời gian thì
như dừng lại. Tâm trí bắt đầu làm việc. Trước hết là ôn chuyện quá khứ,
bạn bè, yêu đương; những kỷ niệm vui buồn đời lính, những ngày tháng
gian khổ hiểm nguy nhưng hào hùng. Hết chuyện để suy nghĩ, tôi bắt đầu
nhìn chòng chọc vào vách tường, cố hình dung ra những hình ảnh kỳ ảo như
khi ta nhìn đám mây vân cẩu.
Một con thằn lằn bò chậm chậm bò ra, chạy đuổi bắt những chú muỗi no
máu. Thế là thằn lằn trở thành bạn đường để tôi trao gửi tâm sự. Trời
ơi, ước chi có tập giấy và cây bút để tôi ghi lại cả trăm ngàn trang tư
tưởng. Có lúc quay về nghĩ đến đấng tối cao, lúc thì cầu nguyện, lúc thì
than trách. Tôi nhớ cựu đại tá Trung hoa Quốc dân đảng Lý Thành Cầu
(năm đó đã gần 80) dạy tôi một câu: “Na ở chuy, wò mẵn sơ kuo cha rẩn.”
(dù bất cứ đâu, ta cũng là một người quốc gia), hoặc “Thien cung mỉ dậu
dằn xinh, cầy tha mẫn sẳng cung ma.” (Trời không có mắt để cho chúng nó
thành công sao?). Chúa trời ôi, nếu đây là con roi điện để Chúa trừng
phạt dân Nam, thì hóa ra bọn cộng sản này là tay sai của Chúa sao ?
Cũng có lúc nghĩ rằng Chúa thử thách chúng ta, và ngày mai đây sẽ đền bù
xứng đáng cho những ai vượt cơn khổ ải. Tôi đã làm được hai câu thơ,
nhặt cây đinh khắc lên vách nhà giam:
Đời có gian lao mới rạng danh hào kiệt,
Tù không đày đọa sao rõ mặt anh hùng.
Sau cùng, gần đến ngày Tết, chúng lần lượt thả chúng tôi ra. Lại nói
chuyện “Khoan hồng cho ra ăn Tết, phải thực tâm cải tạo tốt để được sớm
tha về.” Tôi vịn hàng rào, lê bộ xương khô từng bước về phòng giam, và
thấy quang cảnh hoàn toàn khác lạ. Bước qua khung cửa phòng, thấy một sự
im lặng đáng sợ. Khác với trước đây, mỗi lần có người ra khỏi xà lim là
anh em kéo đến. săn sóc, kẻ điếu thuốc, người viên đường. Lần này chỉ
thấy những đôi mắt lén lút trao gửi chút ái ngại, thương cảm. Tôi nhìn
thấy một nhúm thuốc lào của ai đó để dưới tấm chăn.
Đến chiều, khi anh em từ lao động về đông đủ, không có cảnh ồn ào như
trước kia, mà ai nấy lặng lẽ về chỗ mình, lãnh phần ăn, buông màn nằm im
thít. Tôi được chuyển qua đội tù chính trị và được thu xếp chỗ nằm bên
người đội trưởng Trần Phương, bên trái là Nguyễn Văn Chẩm, tổ trưởng.
Hai người này là thành phần tù gọi là Chính trị nhưng thuộc loại được
trại tin dùng. Thế là chim bị tách đàn, trói buộc trong cái lồng vô hình
nhưng rất chặt chẽ.
Tản mạn trước khi vào đề:(Trong nầy Tâm Hiền tôi có thay đổi một số
tên hay địa danh, nhằm tránh có hại cho một số người quen còn sống
trong nước, một vài tên đường cũ có khi biết nhờ lúc về thăm lại quê nhà
năm 1994, ngoài ra các tên đường khác thì đành chịu) Từ ngày bước chân
vào nhà tù lớn, chấm dứt cuộc sống tối tăm của nhà tù nhỏ, TH trở lại
Sàigòn vào những năm đầu của thập kỷ 80 thế kỷ trước, không thể trở về
căn nhà chính thức của mình ở cư xá Lữ Gia xưa vì họ đã chiếm dụng và
sang tay lâu rồi, mình phải tìm về địa chỉ cũ của thời thơ ấu trên đường
Nguyễn Đình Chiểu (không nhớ tên mới sau nầy) lối vào khám Chí Hòa
nổi tiếng một thời, nơi gắn bó với nhiều kỷ niệm thời thơ ấu, những
con hẻm lắt léo đến trường tiểu học Chí Hòa và cũng là nơi mài đủng quần
trong thời gian tiểu học với những ông Đốc học với cây thước kẻ kẹp
nách, ông giám thị cùng đôi mắt nghiêm nghị khó tính mà mình sợ như hổ
báo, co rút thân hình đã nhỏ bé lại càng thêm nhỏ bé núp vào góc tường,
bụi hoa hay thân cây chờ đi qua khuất, im bặt tiếng cười vui cùng bè
bạn, với rạp chiếu bóng Thanh Vân nằm trên đường Lê Văn Duyệt mà nay tên
đường đã đổi thành Cách Mạng tháng Tám, một cuộc cách mạng theo chân
các đàn anh Cộng Sản gây biết bao đau thương cho dân tộc, nơi nhiều lần
nắm tay người lạ để xin xem “cọp”, với chợ Hòa Hưng ngay ngã tư Lê Văn
Duyệt và Tô Hiến Thành nơi cũng từng lang thang trong những buổi tới
trường trể bị đóng cửa không vào học được, với những con rạch chảy ra
từ nước thải sau lưng khu nhà Thống tướng Lê văn Tỵ đường Tô Hiến Thành
không ngăn cản nổi lòng “yêu nước” của cậu bé tiểu học, quăng cặp, cởi
áo nhào xuống tập bơi trong một con rạch nhỏ nơi quy tụ của biết
bao nguồn nước thải đôi khi nước đục ngầu biến dạng thành màu xẩm
đen. Đó là địa chỉ của bà ngoại, tuy vậy vẫn phải ở lậu (dân chơi không
cần hộ khẩu, nói theo cách của dân sống lậu thời đó) vì xin tạm trú
không ai cho nhất là biết mình là thành phần tù “ct” (cựu thù, cải tạo
hay chính trị cũng đồng nghĩa như nhau), nhưng với một chút khéo léo
lợi dụng thời thế (nguyên là có một bà bạn trước kia là bạn thân hồi
nhỏ của má TH, nay ăn theo phe địch giữ chức vụ Hội trưởng hay là gì gì
đó của Phường trong việc vận động các phụ nữ vào Hội Phụ Nữ Phỏng G…
làm trung gian giới thiệu với tên Công An khu vực, nhớ lại khi đó tôi có
cắc cớ hỏi thăm về cuộc sống thì bà ta trả lời, Cách mạng vô rồi, đói
mà ăn muối vẫn sung sướng, thế mà năm 1994 gặp lại, gia đìnbh sa sút,
chân Hội trưởng bị cắt bỏ vì hơi bị dốt, cũng câu hỏi năm xưa khi tôi
nhắc lại thì bị bà phán cho một câu: Mẹ mầy, đói không có muối mà ăn con
à, nói gì gạo và chửi chính quyền bằng đủ ngôn từ khó diễn tả được), là
nhận dạy bổ túc văn hóa riêng cho anh chàng công an khu vực quê của
ba mươi sáu thôn vườn trầu dốt đặc nên được “vô tư” sống lén, sống
lậu, ngoại trừ mỗi khi có cuộc rùng bố khám xét hộ khẩu và được bắn
tin trước là dọt qua bên kia đường Lê Văn Duyệt (nay gọi là Cách Mạng
Tháng Tám, bên nầy là quận 10 còn bên kia là quận 3) thuộc quận Ba và
chờ tín hiệu để quay về đánh giấc tiếp tục.
Sống trong tư
thế “không hộ khẩu” và cũng không được chấp nhận tạm trú, vì
họ muốn mình phải lên sống những vùng có cái tên khó hiểu
“kinh tế mới” nên càng ngày càng thấy quá mỏi mệt vì phải tránh
né, thế rồi một ngày đẹp trời mình lội bộ xuống rạp Quốc Thanh trước
Tổng Nha Cảnh Sát cũ với một người bạn là nhạc sĩ Hoàng Tùng, mình
lại quen với anh Duy Khánh hiện đang xúc tiến việc mở đoàn văn nghệ Tân
nhạc mang tên “Tiên Phong”, sau khi nghe hoàn cảnh của mình, nhất là
mình có nghề hội họa nên bị “dụ dổ” theo đoàn, cọng thêm sự khuyến
khích của Hoàng Tùng là sẽ cùng tham gia nên mình có quyết định theo
đoàn tân nhạc nầy. Thế là cuốn gói nhập băng nhậu với ông “Bầu” Duy
Khánh ngay và cũng từ đó mình quen thêm nhiều bạn khác như kèn đồng
Quỳnh Hoa, sáo thần Nguyễn Đình Nghiã, tài tử Nguyễn Chánh Tín, ca
sĩ Bảo Yến, ảo thuật gia Mạc Can v.v… nhiều quá không nhớ hết nổi.
Sau
hơn sáu tháng lưu diển nhiều nơi lúc đắc lúc ế, riêng mình nghèo
vẫn hoàn nghèo, vì lở theo chân các đồng môn lưu linh nên tiền đến tay
này thì bay sang tay khác, quá nản chí vì trong thâm tâm mình là theo
đoàn đến những vùng đất có thể tìm cách vượt biên được dể làm một
chuyến vì kẹt một nỗi là mình không có giấy tờ tùy thân để đi lại
vì sống lậu, do đó mình chỉ xài tạm những giấy giả do chính mình “tự
biên tự diển” mà thôi. Một hôm đoàn trở về Sàigòn chờ anh Duy Khánh
kiếm thêm hợp đồng ca sĩ mới, ngồi trong một quán cà phê gần rạp
Hưng Đạo, nơi tập trung nhiều nghệ sĩ, ca sĩ cùng giới “Bầu sô”
mình gặp một anh phụ trách ngoại giao của một đoàn cải lương miền Tây
đang lên xin phép nhập thành phố, sau vài ba câu chuyện kèm theo vài cốc
ba xi đế câu chuyện cởi mở thêm ra, anh ấy mời mình về cộng tác khi
biết mình là họa sĩ và điêu khắc, cuối câu chuyện anh ta cho mình biết
là đoàn đang trình diển tại Cai Lậy và điểm kế tiếp là Cái Bè, nếu mình
thích có thể đến để gặp gở anh trưởng đoàn để trao đổi và ký những hợp
đồng chấp thuận theo đoàn.
Sau mấy ngày do dự, nằm chờ kết
quả của anh “Bầu” Duy Khánh, tiền thì cạn dần nên quyết chí làm một cuộc
thay đổi thữ thời vận nữa là lên xe đi Cai Lậy. Rạp hát cũng dễ tìm vì
nằm sát bên hông chợ cách bến xe cũng không xa, sau khi gặp gở anh em
phụ trách đoàn và nhận tiền chi phí di chuyển (thông thường sau khi thỏa
thuận, đoàn sẽ trích một số tiền làm lộ phí cho mình gọi là lộ phí về
đoàn không nhiều nhưng đủ tiền mua vé xe đò như một cách buộc chân) cùng
công việc ngoài mong đợi là phụ trách tài chánh cho đoàn, chắc có lẽ
anh em tin vào khả năng văn hóa của mình. Riêng TH thì có cảm nghĩ khác
vì đoàn thì thường lưu diển miền tây và thường thường hay đến các vùng
biển như Rạch Giá, Cà Mau, Minh Hải v.v… làm mình có nhiều hy vọng thêm
cho ý định vượt biên đã manh nha từ lâu trong đầu. Nhưng ý nghĩ vẫn là ý
nghĩ nên mọi chuyện vẫn trôi qua gần nữa năm không có gì tiến triển
hơn, dầu vậy trong khoảng thời gian nầy mình học hỏi đường đi nước bưóc
nhiều và quen biết không ít một số người từng có kinh nghiệm vượt biên
kể cả những tay chuyên nghề bến bải qua những trận nhậu làm quen.
Một
hôm đoàn về hát tại Gò Đen thuộc huyện Bình Chánh, thấy gần nhà nên đón
xe về thăm gia đình và thăm bạn bè, trong một tiệc nhỏ trong gia đình
một người bạn thân hỏi mình biết gì về cải lương mà theo đoàn hát, mình
bèn cười trừ và nói thật ý nghỉ trong lòng mình cho bạn nghe, nào ngờ
bạn mình lại đưa ra ý kiến là muốn mình làm người dẫn đường cho khách ở
Sài gòn ngược lại mình được hưởng ưu ái (lấy công làm lời) đi không phải
tốn tiền mà còn được dẫn thêm một người nào đó để hưởng lợi, nói thiệt
vì là bạn bè rất thân nên mình mới không ngại ngùng cũng như không
dám nghi ngờ, vã lại mình có tiền đâu mà tính chuyện vượt hay không,
ngoại trừ có những phép lạ như thế. Thôi thì đành chấm dứt sự nghiệp cải
lương kể từ hôm nay để lo chuyện vượt thoát.
Trước tiên
mình chỉ dám thố lộ với những ai mà mình có thể tin tưởng nhờ những
người nầy dùng uy tín cá nhân họ giúp mình mà thôi, qua vài cuộc gặp gở
mình cũng học thêm được cách xoay trở ứng phó, nhất là chưa nhìn thấy
chiếc tàu chiếc ghe ra làm sao lại không biết nằm ở khu vực nào, ghe
bao lớn, trọng lượng và sức chứa như thế nào thì làm gì có người tin
mình được, nhưng có một điều mình có thể tin tưởng là những cá nhân mình
trao đổi qua, không một ai cho mình là nói láo, lừa bịp. Đó cũng là
niềm hảnh diện còn sót lại cho một người không còn gì để mất trong xã
hội lừa đảo tận cùng nầy, như một số bạn trẻ trong nước thường gọi mĩa
mai “Xứ Lừa”.
Sau khi nghe những cảm nghĩ và ý kiến của
một số khách hàng mà mình tiếp xúc được, bạn mình quyết định làm một
chuyến “thực tế” xuống địa điểm xuất phát nơi chiếc tàu đang đậu,
người cậu ruột đương sự cũng là dạng người khôn ngoan nhiều kinh nghiệm,
trong lúc chuẩn bị vượt mà vẫn đến chính quyền xin giấy phép nới rộng
gia cư, làm cho không ít người được móc nối nghi ngờ là ông ta dùng tiền
đó để tu bổ cho riêng tư cá nhân, sau khi nghe giới thiệu về cá nhân
mình, ông cậu mới tâm sự trong một cuộc rượu (đa số dân miền Nam gặp
nhau là nhậu cái đả, gọi là tẩy trần không biết có đúng nhỉ) rằng để
tránh sự dòm ngó của địa phương nên ông cắn răng làm điều đó, vì khi ký
một giấy tờ gì thì cũng phải chung chi từ trên xuống dưới mới trot lọt,
vì vậy địa phương không mấy quan tâm đến ông ta dù bên ngoài cũng có kẻ
xấu miệng rầm rì bàn tán. Ngày hôm sau ông đưa hai chúng tôi lên ghe làm
một chuyến cào với cái cào mới mua để ngụy trang.
Sau mấy
ngày sống với ông cậu của bạn tôi, tôi hiểu ông thêm ít nhiều nhất là
tính mộc mạc đơn sơ nhưng cũng hiểu biết rộng rãi nhất là khả năng đi
biển tạo cho tôi nhiều niềm tin tưởng về chuyến hải hành trong tương lai
gần đây. Giả từ ông chúng tôi trở lại Sài gòn tiếp tục công việc như đã
định với những nhận xét cá nhân cũng như biết rõ địa điểm, kích thước
chiếc ghe, kinh nghiệm từng trãi của người chủ tàu v.v…
Chương Một - Một chuyến ra khơi
Phần 1: - Vượt biên lần thứ nhất
Khi
trở lại Sài gòn, mình tìm đến thăm vài người bạn thân mà mình có thể
tin tưởng vào sự kín miệng của họ và ngỏ ý định rũ họ vào cánh của mình,
nhưng đa số không có khả năng tài chánh để trang trải dù chỉ trã trước
một nửa cho phí tổn ăn uống, xăng dầu trong cuộc hành trình, tuy nhiên
qua các bạn nầy mình bắt liên lạc được một số người Việt gốc Hoa trong
Chợ Lớn và những người Hoa đó thỏa thuận trã trước một nửa và chỉ khi
nào người thân của họ có tín hiệu an toàn ra khơi thì người nhà sẽ chung
chi cho người liên lạc tại Sài Gòn phần còn lại. Sau hki được vài
người nhận lời và ứng trước một ít, tạm coi như gây được niềm
tin với anh em trong nhóm tổ chức của bạn mình, đồng thời mình cũng
vững tinh thần và mạnh miệng trình bày công việc cùng kế hoạch
đi đứng hơn khi trước rất nhiều, “hồ hởi và phấn khởi” (xài từ
thời thượng… cổ kẻo một mai sẽ quên đi) mình lại tiếp tục tìm khách
trong thân nhân quyến thuộc của mình chớ chưa dám tìm người lạ
trong những chuyến đi lên đi xuống dò đường hay “ém” người về các địa
điểm gần đó chờ giờ K. Mình lại nảy sinh ra một nghề chẳng đặng đừng mới
là buôn chuyến kiếm thêm sở phí cho việc đi lại nhờ vào những thân nhân
mình ngỏ ý mời cộng tác nhưng họ viện cớ bằng nhiều lý do để
từ chối khéo một phần vì sợ khó qua cuộc vượt đầy sóng gió và
bắt bớ, một phần ngại bị lường gạt vì lúc nầy chuyện lường
gạt và gài bẩy để cướp trắng trợn xảy ra thường xuyên, nhưng
ngược lại họ giúp mình bằng cách cho mượn hàng đem đi bán trước trã sau,
nhờ vậy cũng kiếm được thêm ít nhiều tài chánh bổ sung cho ngân quỷ
hạn hẹp của mình và nhất là quen thêm một số bạn hàng qua những cuộc
buôn chuyến bất đắc dĩ nầy kể cả các mặt hàng cấm như thuốc tây,
đá lửa, kim may dĩ nhiên là các món hàng nhỏ có thể xách tay hoặc dấu
trong mình .v.v….
Trong những ngày vất vả ngược xuôi, mình
đen hơn và giống tay thương buôn Hai lúa miệt vườn hơn là tay bắt mối
vượt biên kể cả ngôn ngữ thương lái học lỏm được, dĩ nhiên là dễ qua mắt
nhiều người kể cả thân nhân cùng vài nhà hàng xóm lân cận và
từ đó họ không thèm thắc mắc sự vắng mặt thường xuyên của mình vì cho
rằng mình đi buôn bán phương xa mà mỗi lần có khi kéo dài cả
tuần lễ hay mươi ngày. Sau những chuyến hàng nhỏ mang về bỏ mối lại
kiếm lời, mình đáp ứng theo nhu cầu của địa phương những nguồn cung
cấp cần thiết, đôi khi là mặt hàng hiếm hay cấm đoán vì dễ
bị mất vốn trắng tay cho nên mỗi lần xuống mình mang thuốc tây về bỏ
mối lại cho họ rồi trao đổi những thứ cần và có giá tại Sài
Gòn như vậy song phương cùng có lợi, vả lại mình lại có nhiều thời
gian hợp lý với tư cách thương buôn tìm nguồn hàng nên dễ la cà ở
đó nhiều hơn và lâu hơn, tìm hiểu phương tiện đi lại, đường bộ lẫn
đường sông, học hỏi cách phân bổ của sông rạch và các ngỏ ngách
trong vùng bổ sung cho kiến thức “tẩu vi thượng sách” trong trường hợp
khó khăn sau nầy, vỉ thời gian sống trong đoàn cải lương không lâu
và tiếp xúc bên ngoài chưa đầy đủ lắm.
Sau mấy tháng
chuẩn bị chu đáo, nhận được tín hiệu chuyển người, mình phải phân
“khách” ra thành những nhóm nhỏ và chia nhau ra đi dẫn đường với lý do
về lo đám cưới, rể là một trong số anh em bạn mình, dâu là khách đã đồng
ý vì có thể họ sẽ chính thức lấy nhau sau khi chuyến đi thành công. Cậu
của bạn mình lo thủ tục xin phép đám cưới tại địa phương vì cậu thay
mẹ lo cho cháu (dấu không cho biết bà chị còn sống sờ sờ tại Sài Gòn sau
nầy qua theo diện H.O. sống tại Houston, Texas, một cách qua mặt chính
quyền địa phương mà thôi). Nhóm của bạn tôi về trước một ngày, các nhóm
khác sẽ theo tôi và các bạn trong nhóm về ngày sau thành ba đợt với
quà cưới giống như thân nhân hai họ về dự đám cưới vì có nhiều
trẻ em đi theo như một cách qua mặt tai mắt địa phương mặc dù ông
cậu cũng đã gởi thiệp cưới quà cáp mời các quan chức tai to
mặt lớn tại chổ tham dự.
Mọi việc được tiến hành trót
lọt một cách tốt đẹp, sau phần nghi lễ chính thức của đám cưới
như lạy ông bà và thân nhân hai họ rồi giới thiệu cô dâu chú rễ
y như thật, khách khứa ở lại nhâu nhẹt với dân địa phương mà không một
ai tỏ ý nghi ngờ là đám cưới giả vì thấy cô dâu chú rể rất tâm đầu ý
hợp đi đâu cũng có đôi (có lẻ họ chịu nhau thiệt hay đóng kịch giỏi
mà cũng có thế tình yêu bắt đầu đến với hai trẻ). Tối hôm đó,
sau khi hội ý với cậu của bạn mình, chúng tôi phải chuyển các em nhỏ
xuống ghe trước cùng một số thủy thủ săn sóc chúng với lý do nhà chật,
nhưng thật ra là sợ các em khó kín miệng và được các phụ huynh đồng ý
mà thật ra họ cũng muốn con em của họ xuống trước cho chắc ăn.
Vì thế cho nên khuya đêm đó đó sau khi tan tiệc, chúng tôi chia
nhau hướng dẫn khách về các nhà đã thỏa thuận vì nhà chủ gia không
lớn gì mấy lại đang sửa chửa, đây chỉ là một phương cách ém
người hợp lý mà không cho dân địa phương có thời gian nghi ngờ
để chờ giờ tiến hành và đợi tín hiệu xuất phát ra điểm hẹn.
Quá
nữa đêm, thấy ánh đèn bên nhà cậu lóe rực lên theo tín hiệu vì ở
quê ít người thắp đèn sáng mà chỉ dùng đèn dầu để tiết
kiệm, nên chúng tôi từng nhóm ở các nhà dẫn khách lội xuống các rừng
tràm sau nhà theo chân của hướng dẫn viên địa phương tiến lần đến khu
vực đã định để khi tàu đến sẽ lội ra vì nước ngập tới khoảng ngang
bụng mà thôi, phụ nữ và các em gái thì có đám thanh niên giúp đở rồivà
không xa lắm chỉ chừng 500 mét từ bờ đến điểm chờ nhưng vẫn
mất hơn nữa tiếng vì nắm tay lần mò trong đêm tối.
Khoảng
ba giờ sáng thì chợt nghe có tiếng súng nổ văng vẳng, nhưng càng lúc
càng gần, mọi người hoảng hốt, mặc dù anh em chúng tôi cố trấn tỉnh họ,
nhưng khi nghe tàu tuần của biên phòng đến gần với ánh đèn pha quét
ngang quét dọc kèm theo vài loạt súng, thì mọi người mạnh ai nấy chạy,
nhóm của tôi 6 người men theo rừng tràm mà tôi biết rõ do đó tôi
hướng dẫn mọi người chạy theo con đường tôi nhớ trong mấy lần
theo ông cậu hướng dẫn về phía cơ quan xã phía tay trái của nhà
ông cậu, nhưng tới đất liền thì rẽ sang phải rồi thẳng ra chợ. Tại đây
chúng tôi rửa ráy chút đỉnh rồi đi thêm hơn 500 mét đến nhà một tài xế
xe Lam nhờ anh ta chở ra bến xe về thành phố Cần Thơ như ước định ban
đầu nếu bị trở ngại (anh tài xế là cháu họ, là anh em cô cậu với bạn
tôi).
Sau khi mọi người an toàn lên xe, tôi nhắn anh ấy là
chúng tôi sẽ quay trở lại khi nào em của bạn tôi có tin vui, ý muốn
nói khi vợ em của bạn tôi có bầu (cô dâu giả) mà cũng có nghỉa là
chúng tôi tạm thời thoát rồi. Anh ta cười đáp lại sẽ chuyển lời chúc
mừng đó với cậu để báo tin và còn nói khi nào về nhớ ghé thăm anh
ấy đồng nghĩa với việc bị trở ngại dọc đường thì nhắn với
tài xế xe đò mà cũng là người quen biết bên vợ anh ta để tìm
cách lo lót.
Xe tới đầu lộ “20” theo tên gọi con đường tẻ
ở địa phương, trước khi đến bến xe mới Cần Thơ thì tôi chia tay với
gia đình người khách và nói mình sẳn trên đường về nên luôn tiện
ghé thăm gia đình thật ra theo sự hiểu biết riêng cá nhân, tôi
không có nhiều thân nhân ở đây mà chỉ một vài người bà con bên
ngoại hơi xa, nói đúng ra tôi đã bị một phen hú hồn rồi cần tìm chổ
để bình tâm tỉnh trí một thời gian, nhân tiện tôi biết một anh bạn đang
sống tại đây mà trước kia tôi có quen lúc đó anh ta còn học ở Mỹ Nghệ
Bình Dương và hiện tại đang có phòng vẽ tại Cần Thơ, với 2 bộ quần áo và
một chút tiền còm tôi tìm đến anh ta và ngỏ ý muốn về đây sinh sống và
dấu nhẹm chuyện vượt biên đổ vỡ vừa qua. Hai vợ chồng anh ấy tiếp đón
chu đáo trong tình nghệ sĩ với nhau, vì nhà cửa rộng thênh thang mà
lại là một xưởng điêu khắc nữa thật không còn gì bằng thật hợp với
nghề nghiệp của mình. Công việc trong những ngày tới là tôi phụ đắp
và phân khuông với anh ấy cho bức tượng Quan Thế Âm cao 5 mét rưởi,
không thể di chuyển lên núi, nên chỉ có thể phân ra đúc thành từng
mảnh nhỏ khoảng nửa mét vuông để dễ di chuyển lên núi rồi ráp lại.
Công việc nầy không mấy khó khăn đối với tôi vì đã thực hiện nhiêu
lần rồi cho nên hai tháng sau mọi việc tốt đẹp, tiền anh trã cho tôi
cũng hậu hỉ, tuy nhiên có một điều tôi biết là anh ta thiên về phía bên
kia hơi nhiều (thiên cộng ấy mà). Trong một buổi tiệc mừng cho công
việc hoàn tất, tôi vô tình phán vào mặt anh một câu “Bần cố nông” vì
anh có những nhận thức hơi quê mùa, thế là cuộc tranh luận nỗ ra
giữa 2 phe Quốc Cộng làm tan nát tình nghệ sĩ với nhau, do đó tôi phải
chia tay giả từ anh ta để tiếp tục ra đi tìm phương tiện sinh nhai
khác, lang thang xuống bến Ninh Kiều với ý định tìm về Trà Ôn nơi tôi
sanh ra nhưng không lớn lên ở đây, măc dù không còn ai là thân bằng
quyến thuộc ở đây nhưng chỉ đến chổ nhà mà má tôi trong thời loạn lạc
của cuộc thế chiến thứ nhì 1945, đã sanh tôi ra trước khi chạy về
Sài Gòn sinh sống.
Đi ngang rạp hát Minh Châu tôi thấy một
đoàn cải lương đang trình diển nơi đây, ghé vào quán nước đối diện vô
tỉnh tôi gặp anh Út Vân, em của Ba Vân nghệ sĩ nổi tiếng nhiều thập niên
trước, anh Út Vân mời tôi qua ngồi chung bàn, lúc đầu tôi hơi bở ngở
nhưng anh ấy cho biết rằng anh biết tôi qua những lần tôi đến vẽ cảnh
cùng vài họa sĩ quen biết cho đoàn cải lương Kim Chung 5 (sau
nầy đổi thành đoàn Sài Gòn 1) mà tôi có thân nhân là cô đào Tô Kim
Hồng đang phục vụ trong đoàn trước 1975 ở Sài Gòn vào những ngày về
phép nhưng lại nhớ nghề nên phụ họa cùng vài bạn như Văn Chống, Nguyễn
Tăng cùng vẽ với mấy anh ấy cho vui chớ không tính tiền nông gì
ngoại trừ vài bửa chè chén với nhau sau thời gian dài không
gặp.
Câu chuyện càng ngày càng cởi mở hơn và nhất là lời mời
của anh Chánh Trị Viên đoàn (thật ra tôi không hiểu anh ta làm việc
gì trong đoàn, ngoài việc theo dõi mọi người, vì anh ta cũng
giống tôi có biết hát hò gì đâu) sau đó anh ta cho biết vào thời
điểm tôi đến vẻ cho đoàn là lúc anh ta đang trốn quân dịch và theo
đoàn làm công nhân tiền đài như soát vé, chỉ ghế, và nhiều việc mà
mình không biết chắc như lời kể hay nổ văng miển không biết (như
nào là nằm vùng trong ngành cải lương, nào là đặc công thành)
nên còn nhớ mài mại gương mặt tôi, dĩ nhiên anh ta không biết tôi
là lính, vì thế tôi phải bịa thêm cho mình một nghệ danh mới cho hợp
với hoàn cảnh chớ không dám nói thật tên tuổi trước kia. Tan buổi
cà phê, anh mời tôi qua đoàn nói chuyện, vì anh có ý định tìm một họa
sĩ riêng cho đoàn và nói rõ rằng anh ta với chức vụ chính thức là
Trưởng phòng nghệ thuật thuộc sở VHTT của tỉnh Vĩnh Long theo đoàn
trong thời gian ngắn vì chưa có đủ nhân lực nồng cốt điều hành, chớ
không vững mạnh như đoàn quốc doanh Tiếng Ca Sông Cửu đang lưu
diễn ở miền Trung, đồng thời anh ngỏ ý mong tôi nhận công việc phó
đoàn ngoại vụ kiêm họa sĩ và hưởng hai phần lương, nói thiệt ra tôi
không còn có ý định trở về sống với ngành cải lương, nhưng trong hoàn
cảnh nầy thì phải tạm thời chấp chận cho qua truông với điều kiện anh ta
phải lo giấy tờ chính thức để hợp thức hóa chức vụ cho tôi
trong đoàn vì “biên chế” là như thế, đối với cán bộ cở gộc như anh
ta thì không khó mấy và anh ấy hứa trong vòng 3 tháng là mọi chuyện sẽ
hoàn tất, và thế là tôi lại một lần nữa dấn bước trở lại với cải
lương dầu không biết một chữ đờn cũng như một câu ca vọng cổ hay bản
vắn bản dài, ba nam sáu bắc nào cả chớ đừng nói hát Lý mả dễ
nhất như Lý ngựa ô chẳng hạn.
Phần 2: - Trở lại với đoàn Cải lương
Trong
thời gian theo đoàn làm công việc ngoại giao hay gọi theo cách xưng
hô của trong ngành cải lương là “ngoại vụ” với công việc chạy đi
xin bải bến hát cho đoàn theo chương trình và lộ trình vạch ra, mùa nào
nên ra Trung, mùa nào rút về miền Tây, khi nào nhập vào Thành phố Sài
gòn v.v… trước là tìm cách tránh mưa bảo hay khí hậu khắc nghiệt của
từng vùng và đại loại như thế, với những kinh nghiệm trong hai lần
trước nên công việc chọn điểm hát cũng không mấy khó khăn nhất là đoàn
có hợp đồng với các đào kép nổi tiếng thì chỉ sợ không đáp ứng hết những
lời mời của các địa phương mà mình đã đi qua, nhưng mục tiêu chính yếu
của tôi là làm thế nào quen và kết thân với những tai mắt địa phương
qua những vé mời, buổi rượu xả láng mà tổn phí thì đoàn phải thanh toán
vì cần sự dễ dải của chính quyền địa phương như văn hóa, công an hay
biên phòng trong thời gian trình diển, thông thường thì lưu diển mỗi
nơi một tuần lễ nhưng có khi 10 ngày tùy vào số đào kép nổi tiếng ít
hay nhiều. Sau hơn ba tháng, mình dẫn đoàn đi khá nhiều vùng từ Vĩnh
Long qua Sa Đéc rồi Cao Lảnh vòng lại Cái Tàu Hạ và cũng tại nơi này
đoàn rã gánh vì trời mưa liên tục gần một tháng trời, sáng bán vé chiều
mưa trã vé và cứ như thế liên tục, đào kép đói meo, nợ đoàn với địa
phương càng chồng chất, mình lại phải chạy về cầu cứu xin xe chở đoàn về
chớ ngân quỹ đoàn không còn một xu mà đào kép hợp đồng có tiếng
tăm hoặc kha khá một chút đã lên xe dông mất rồi, còn lại toàn cắc
ké, nhưng vì không tiền thanh toán tại địa phương nhất là tiền mua
thiếu nhiều mặt hàng cho sinh hoạt hàng ngày trong đoàn như
gạo, thức ăn cho hơn năm mươi người nên không ai cho đi nếu không
có tiền thanh toán.
Sau khi chở xác gánh (gồm những
dụng cụ như phông màn, quần áo hát và vật dụng linh tinh khác
thường gọi chung là đạo cụ) về tỉnh nhà để củng cố và tái lập lại,
thời gian nầy ngoài cơm nước 2 buổi đoàn lo còn những chi phí khác cho
cá nhân như ăn sáng hay cà phê cà pháo phải tự mà lo liệu lấy, do
đó khi mình có dề cập về chuyện giấy chứng minh công việc ban quản
trị đoàn mà anh trưởng phòng nghệ thuật hứa mấy tháng trước thì được
biết chưa xong nên chỉ cấp tạm cho mình giấy chứng nhận là nhân viên
của phòng nghệ thuật tỉnh để dễ mua vé xe đi lại. Thêm một lần chán nản
nữa, mình mua vé xe trở lại Cần Thơ tìm kế sinh nhai khác có thể tìm
cách mở một phòng vẻ quảng cáo để kiếm sống qua ngày nhờ
thời gian trước khi ở đây mình kết bạn được vài anh họa sĩ
hoặc về phụ cho các bạn ấy vẻ những tấm pano cho rạp chiếu
bóng như mình đã từng làm trước đây khi còn ở Pleiku mình từng
vẻ cho rạp Diệp Kính một thời gian, nhưng cái nợ cải lương vẫn đeo
đuổi nên khi đến Cần Thơ thì gặp anh Hữu Kế, phụ trách ngoại vụ cho
đoàn cải lương Cao Văn Lầu tỉnh Minh Hải (Cà Mau), vì cùng là công
việc ngoại vụ của cải lương nên cả hai biết nhau qua những chuyến đụng
mặt về việc xin giấy phép bải bến hát, đôi khi phải nhường nhau hoặc
thương lượng bằng những buổi nhậu nên hiểu nhau khá rõ, nghe tin đoàn
mình bị rã gánh thì anh ấy cho là dịp may nên bằng mọi giá kéo mình
về làm phụ tá cho anh ta hầu chia sẻ công việc đi đứng, vì chị vợ
anh mới vừa sanh thêm một con trai.
Sự thật mà nói tôi
cũng muốn về các đoàn các tỉnh vùng biển nầy (để kiếm dịp vượt biên)
nhưng không có cơ hội, mà nay được anh bạn Hữu Kế gợi ý thì mình thích
quá đi chứ, nhưng vẫn làm ra vẻ do dự. Không thể vuột tôi được nên anh
kéo riết tôi vào gặp Ban quản trị đoàn, còn ca tụng tôi đủ thứ như quen
biết nhiều, chọn bải nhanh, có lộ trình chặt chẻ v.v… làm tôi
ngượng chín người. Thêm một khía cạnh khác là chị vợ của Trưởng đoàn gốc
gác nhà cửa ở gần chợ Hòa Hưng nên coi tôi là đồng hương mà nói châm
vào, vì thế ban quản trị đoàn quyết định nhanh chóng mời tôi về đoàn mà
không thèm hỏi thêm về lý lịch chi cả chỉ biết thời gian vừa qua tôi
phụ trách tài chánh, ngoại vụ kiêm họa sĩ cho đoàn Phù Sa
(mà nhiều người gọi trệch đi thành Phù Mỏ, giống như đoàn Hàm
Luông của Bến Tre được gọi trại ra là Nằm Luôn vì mỗi chổ
hát thường kéo dài cả tháng, còn Sóng Vang hay Sáng Dông cũng
là một cách chọc ghẹo cải lương cho vui vậy) của tỉnh Cửu Long
mà thôi, sau khi thỏa thuận các anh ấy ứng trước cho tôi một số tiền
để làm lộ phí xe cộ di chuyển về đoàn và hẹn điểm gặp kế tiếp ở
Phụng Hiệp vì đoàn ngày mốt đã dọn đi rồi.
Trở lại Vĩnh Long
để thu thập vật dụng cá nhân, gặp anh trưởng phòng tôi mới cho anh
ta hay ý định của tôi cùng công việc mới bên đoàn Cao Văn Lầu, anh
vô cùng tiếc rẻ và cho tôi ưu tiên nếu muốn trở lại thì anh rất hoan
nghinh đón tiếp. Nói thì nói vậy chớ anh ta làm sao hiểu nổi những tâm
tư thầm kín của tôi, vì trước đó tôi có đôi lần muốn mang đoàn đi những
vùng biển thì anh ngăn lại viện lý do là sở Văn hoá không cho phép,
thôi thì chia tay Vĩnh Long.
Mấy ngày la cà ở Cần Thơ thăm
một số bạn bè văn nghệ văn gừng tại đây, tôi đón xe đi Phụng Hiệp để bắt
đầu cho cuộc hành trình mới.
Sau một trận nhậu để giới thiệu
tôi cùng với mọi người trong đoàn, anh trưởng đoàn lại giao cho tôi
trách nhiệm không phải là phụ tá ngoại vụ như đã chấp thuận trước kia mà
lại là phó nội vụ cho đoàn kiêm họa sĩ, hưởng hai phần lương có lẻ như
muốn giữ chân tôi lâu dài sợ tôi dông mất, nhưng khi tìm hiểu kỷ thì mới
biết ý kiến đàn bà đôi khi mạnh hơn đàn ông, anh trưởng đoàn chìu ý vợ
mà giao tôi trách nhiệm đó với lý do hơi tức cười là tôi giống em ruột
chị ấy nhưng sao đó thì tôi cũng chính thức nhận chị ấy làm chị nuôi, có
thân nhân vẫn hơn không có ai.
Công việc nội bộ thì cũng
không mấy khó khăn lắm, công việc hòa giải thì nhiều hơn, theo dỏi lịch
trình tập tuồng, nhắc nhở những anh em say xỉn nhiều, trong khi đó thì
mình quá cha người ta cũng nhậu liên tu bất tận miễn trưởng đoàn không
nói thì ai dám. Tiếp đến mình lại nhận thêm công việc tài chánh chi thu
cho đoàn, không biết ý này do ai đề xướng nhưng miễn có thêm công việc
thì mình hưởng thêm lương thế thôi, nhưng nghỉ cho cùng thì đây lại là
tuyệt chiêu của trưởng đoàn phu nhân, vì muốn giữ chặc hầu bao của đoàn
(của chồng thì đúng hơn) không cho anh ấy phí phạm, móc ngoặc với anh
thủ quỹ đoàn dùng tiền chung mà ăn nhậu riêng. Cho nên công việc phải
làm là xem số thu nhập mỗi đêm diển là bao nhiêu rồi trừ các chi phí như
tiền hợp đồng xe, tiền chợ, tiền phần trăm cho quỹ an toàn, tiền gởi về
cho nhà trẻ và tiền bản quyền cho các soạn giả v.v… và tính liền tiền
lương mỗi đêm cho anh chị em trong đoàn, nhờ mình đã thực hiện bảng
lương trước nên cũng dễ cho người phát lương, ví dụ mình ra quyết định
trọn lương (full) thì lương người nào 50 thì lảnh 50, còn khi mình thấy
số tiền khá hơn thì mình có thể cho phép phát một rưởi hoặc gấp đôi,
nhiều khi ế quá mình phải quyết định “bạt tay” là 5 đồng từ trên trở
xuống giống nhau.
Trong khoảng thời gian đoàn về hát tại Sông Đốc thì phát sinh một biến cố lạ.
Giáo sư Stephen Young đã tốt nghiệp Harvard Law School, hiện là Khoa trưởng Luật khoa Đại học Hamline, Minnesota.
Ông đã
dành cho Vietnam Film Club một cuộc phỏng vấn liên quan đến thời cuộc
Việt Nam với những phân tích cụ thể về đảng Cộng sản Việt Nam, về quan
hệ Việt-Trung, và về bối cảnh thời sự hiện nay của Việt Nam.
Sài Gòn – Cha
Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, OFM, đã chia sẻ với cộng đoàn Dân Chúa trong
thánh lễ cầu nguyện cho Công lý và Hòa bình, ngày 29.09.2013, tại DCCT
Sài Gòn. Ngài đề cập đến vấn đề vô cảm theo ngôn sứ Amos và Tin mừng
Luca. Đồng thời ngài cũng giới thiệu một lớp trẻ Việt Nam hiện nay trước
vấn đề của đất nước và dân tộc, họ không vô cảm, họ đang dấn thân cho
người nghèo và bảo vệ tổ quốc. Kính mời quý vị cùng nghe và đọc nguyên
văn bài chia sẻ.
Phần 1
Phần 2
Bài giảng của LM Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, OFM
DẤN THÂN VÌ NGƯỜI NGHÈO, VÌ TỔ QUỐC(suy niệm Lời Chúa CN XXVI C Thường Niên *)
Bài Tin Mừng
Trong bài dụ
ngôn của Chúa Giê-su, “ông nhà giàu” không có tên. Nhân vật đó đại diện
cho một giai cấp trong xã hội. Ông ấy giàu, nhưng ta không biết giàu do
đâu. Có thể đó là một người làm ăn lương thiện, thành công nhờ tài trí,
nhờ sức lao động. Cũng có thể giàu vì đã khéo léo ăn cắp của công, mạnh
tay bóc lột, cướp đất dân oan. Vấn đề Chúa Giê-su muốn chúng ta lưu tâm ở
đây không ở chỗ nguồn gốc của tài sản có chính đáng hay không, nhưng là
thái độ của người có tài sản. Người giàu bị kết án vì thái độ đối với
người nghèo. Tội của ông ta là tội vô cảm. Chúa Giê-su sẽ lặp lại giáo
huấn này cách cặn kẽ hơn khi Ngài đề cập đến cuộc phán xét chung trong
Tin Mừng Mát-thêu. “Mỗi lần các ngươi không làm cho một trong những
người bé nhỏ nhất đây là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy” (Mt
25,31-35). Tội bị kết án ở đây vẫn là tội vô cảm trước nỗi đau của đồng
loại, đặc biệt những người nghèo.
Đoạn sách ngôn sứ A-mốt
Và để làm sáng
tỏ giáo huấn của Chúa Giê-su thì Giáo Hội cho ta nghe bài đọc 1 trích
trong sách ngôn sứ A-mốt, vị ngôn sứ đầu tiên trong sách Kinh Thánh có
những lời lẽ mạnh mẽ nhất, hùng hồn nhất về các vấn đề xã hội. Và tội bị
vạch trần trong bài đọc 1 hôm nay vẫn là tội vô cảm. Bây giờ từ nội
dung Lời Chúa, chúng ta hãy duyệt qua một số vấn đề thời sự.
Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô với người nghèo
Đối với anh chị
em tín hữu Công Giáo chúng ta thì biến cố lớn trong những tháng đầu năm
2013 hẳn là việc Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô từ nhiệm, và tiếp theo sau
là việc vị lên thay thế, Đức Giáo Hoàng đương kim, đã chọn danh hiệu
Phan-xi-cô, tên của vị thánh thành Át-xi-di, thường được gọi là vị thánh
nghèo. Và một trong những lời tuyên bố đầu tiên của Đức Giáo Hoàng
Phan-xi-cô là “Tôi muốn một Giáo Hội nghèo giữa những người nghèo”.
Và chuyến du
hành đầu tiên của ngài ra khỏi đất Ý là để đến thăm những thuyền nhân tỵ
nạn tại đảo Lampedusa. Đề cập đến chuyến viếng thăm này khi trả lời
phỏng vấn trên chuyến bay ngày 29-07-2013 từ Rio de Janeiro về Rô-ma,
ngài nói: “Có một chuyện đau lòng lọt vào tim tôi, đó là chuyến viếng
thăm Lampedusa. Nó đã khiến tôi phải khóc, nhưng đã đem lại thiện ích
cho tôi. Khi các người tị nạn tới, họ để thuyền xa bờ hàng mấy hải lý
trước bãi biển và họ phải tìm cách vào bờ một mình. Điều này khiến cho
tôi đau khổ, vì tôi nghĩ họ là các nạn nhân của một hệ thống xã hội kinh
tế toàn cầu.” Lời nói cũng như việc làm của Đức Giáo Hoàng cho thấy
ngài không vô cảm trước nỗi đau của người nghèo, trái lại ngài đã quan
tâm, gần gũi, chia sớt nỗi đau của những người bị bỏ rơi. Thái độ của
Đức Giáo Hoàng hoàn toàn tương phản với thái độ ông nhà giàu đối với anh
La-da-rô, trong bài dụ ngôn.
Tội bị kết án ở đây là tội vô cảm
Khi cho người
nghèo một tên, La-da-rô, hẳn Chúa Giê-su muốn chúng ta nghĩ tới những
con người cụ thể, bằng xương bằng thịt đang sống cạnh chúng ta, chung
quanh chúng ta. Đó là những con người nghèo vật chất như cơm ăn, áo mặc,
nhà ở, và cả những người nghèo tinh thần, thiếu hiểu biết, thiếu tự do,
thiếu dân chủ, thiếu công lý. Có những cá nhân nghèo thì đã hiển nhiên,
nhưng còn có những tập thể nghèo, chẳng hạn một tầng lớp xã hội như
những công nhân bị bóc lột, những nông dân suốt đời dãi nắng dầm mưa mà
vẫn thiếu ăn thiếu mặc, những người dân oan bỗng dưng bị tước đoạt ruộng
vườn từ bao đời tổ tiên để lại cho con cháu.
Ta còn có thể
nói đến cái nghèo của đất nước. 38 năm sau ngày im tiếng súng, bất chấp
vẻ bên ngoài hào nhoáng, Việt Nam vẫn là một nước nghèo. Đất đai bị kẻ
thù gặm nhắm, hết hải đảo đến cao nguyên. Bao nhiêu cây số vuông rừng
phòng hộ, trên danh nghĩa là cho người nước ngoài thuê 50 năm, thực chất
là mở toang cửa rước giặc vào nhà. Người dân bị lừa bịp, bị bóc lột, bị
đàn áp, không có dân chủ, không có tự do, những quyền thiêng liêng
Thượng Đế ban cho con người thì bị tước đoạt. So với cái nghèo vật chất,
cái nghèo tinh thần còn khủng khiếp gấp bội.
Lúc nãy trong
đoạn sách ngôn sứ A-mốt cũng như trong bài Tin Mừng, những người giàu có
bị trừng phạt phải đi lưu đày hay đẩy xuống địa ngục vì đã dửng dưng,
vô cảm trước nỗi đau của người nghèo. Vì vô cảm với người nghèo mà đã bị
trừng phạt nặng nề như thế thì phải nói làm sao về những kẻ nhân danh
một chủ nghĩa hoang tưởng đã bị lịch sử bỏ vào sọt rác, để đàn áp, bóc
lột, tước đoạt cả những quyền thiêng liêng cơ bản nhất của con người ?
Những người đồng cảm và dấn thân
Tuy nhiên, thay
vì nói đến những chuyện tiêu cực nói không bao giờ hết, tôi muốn làm
nổi bật những khuôn mặt, đề cao những con người hiên ngang, can đảm lội
ngược dòng, mạnh mẽ đấu tranh cho quyền con người, cho sự sống còn của
dân tộc. Đó là những con người dấn thân, bất chấp mọi nguy hiểm cho bản
thân, sẵn sàng trả giá để đấu tranh cho nhân quyền, cho dân chủ tự do,
cho vẹn toàn lãnh thổ.
Chỉ nói đến
quãng thời gian năm bảy năm trở lại đây thôi, trong số những người đã
công khai và mạnh mẽ lên tiếng, một số đã bị bắt và cầm tù. Điều đáng
ghi nhận là những tiếng nói mạnh mẽ không chỉ xuất phát từ những người
đã lớn tuổi như linh mục Nguyễn Văn Lý, luật sự Cù Huy Hà Vũ, nhà báo
Điếu Cày, hay giáo sư Phạm Minh Hoàng, nhưng ngày càng có những người
trẻ hơn như Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Tiến Trung, rồi Tạ
Phong Tần, Phạm Thanh Nghiên, Đỗ Thị Minh Hạnh, Huỳnh Thục Vy, Nguyễn
Hoàng Vy, Trịnh Kim Tiến… Để khỏi quá dài dòng, tôi xin giới hạn chuyện
thời sự vào thời gian mấy tuần lễ gần đây thôi. Xin lấy vụ xử Nguyên Kha
và Phương Uyên làm mốc.
Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên
Khi bị bắt,
Đinh Nguyên Kha mới 25 tuổi, sinh năm 1988 là sinh viên Đại Học Kinh Tế
Công Nghiệp tỉnh Long An. Còn Nguyễn Phương Uyên lúc đó chưa tròn 20,
sinh năm 1992, là sinh viên năm thứ 3 trường Đại Học Công Nghệ Thực Phẩm
Tp. Hồ Chí Minh.
Tại sao hai em
bị kết án ? Thưa vì đã phổ biến truyền đơn, và đây là một đoạn trích nội
dung: “Hỡi đồng bào Việt Nam hãy đứng lên chống lại bạo quyền độc tài
Cộng sản Việt Nam… hãy đứng lên vì Tự Do, Nhân Quyền và Chân Lý ! … Dậy
mà đi hỡi đồng bào ơi ! … Trung Quốc đang từng bước thôn tính nước ta,
bọn chúng đang chiếm dần biển đảo của ta … Ðảng Cộng sản Việt Nam dâng
hiến Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc và hàng ngàn cây số vuông đất biên giới
cho Trung Quốc … Tổ quốc đang lâm nguy ! Toàn dân hãy đứng lên cứu nước
!”
Trong phiên xử
ngày 16-05-2013 tại Long An, Nguyên Kha dõng dạc tuyên bố: “Trước sau
tôi vẫn là một nguời yêu nước, yêu dân tộc tôi. Tôi không hề chống dân
tộc tôi, mà tôi chỉ chống đảng Cộng sản. Mà chống đảng thì không phải là
tội.” Còn Phương Uyên thì khẳng định: “Chúng tôi làm để thức tỉnh mọi
người trước hiểm họa Trung Quốc xâm lược đất nước và cuối cùng là chúng
tôi làm xuất phát từ cái tấm lòng yêu nước nhằm chống cái xấu để cho xã
hội ngày càng tốt đẹp tươi sáng hơn.”
Có mặt tai
phiên toà phúc thẩm xử Nguyên Kha và Phương Uyên, blogger Hoàng Hưng đã
mô tả “cuộc biểu dương khí thế của lương tri, của chính nghĩa, của tình
đồng bào, đồng đội, của lòng yêu nước đẹp tuyệt vời” như sau:
“Bà mẹ trẻ địu
đứa bé một tuổi trước ngực lặn lội cả ngàn cây số vào Long An chia lửa
cho hai bà mẹ của Uyên và Kha; …các cụ bảy mươi cùng các cháu gái trai
nằm lăn xuống đường chặn bánh xe hung bạo bắt người; …tiếng hát vang
‘Dậy mà đi’ do người cựu tù Côn Đảo tóc bạc phơ khởi giọng, tiếng hô ‘Đả
đảo Trung Quốc xâm lược’, ‘Đả đảo bọn tay sai bán nước !’, ‘Uyên – Kha
vô tội’… đánh thức cả khu trung tâm thành phố Tân An; … một bà bán quán
chạy tới ôm chầm người mẹ có con đang lâm nạn, khiến hàng trăm người đi
đường dừng lại lắng nghe.
Hãy nhìn cảnh
một rừng công an cảnh sát, dân phòng tự vệ… ngây mặt nghe một người đàn
bà sang sảng kêu gọi ‘Hãy tìm một lối quay súng trở về với nhân dân’ !
Phiên phúc thẩm Uyên – Kha sẽ đi vào lịch sử…”
Khi trả lời
phóng viên đài VOA, mẹ của Phương Uyên nhắc lại lời Phương Uyên tuyên bố
trước toà: “Tôi dùng máu viết khẩu hiệu ‘Tàu khựa cút khỏi Biển Đông’
và ‘Đảng cộng sản chết đi’, khẩu hiệu bị cho là ‘phỉ báng đảng cộng sản
Việt Nam’, là vì tôi thể hiện lòng yêu nước khi tôi căm phẫn Trung Quốc
xâm chiếm Việt Nam đến tột cùng sự phẫn uất.” Ta cứ tưởng tượng những
buổi học chủ thuyết Mác-Lê mà mọi sinh viên đại học buộc phải có mặt,
khi người nói nếu đủ thông minh thì cũng không thể tin những gì mình
nói, làm sao thuyết phục nỗi người nghe ? Chuyện đó ai cũng biết. Nhưng
một trong những mục tiêu và cũng là hậu quả tất yếu của những lớp học
này là làm cho thanh niên chán ghét chính trị, coi việc nước không phải
việc của mình. Mặc dù cho đến hôm nay, trên mọi văn bản mang tính pháp
lý luôn phải có từ “độc lập”, nhưng trong thực tế, về mọi mặt, Việt Nam
đã là một tỉnh lẻ của Tàu. Tình cảnh đất nước bi thảm như vậy, nhưng đa
số người dân không biết, mà có biết cũng chỉ thở dài vì bất lực. Quả là
kỳ diệu khi ta gặp thấy một khí phách, một sự tự tin, một lòng yêu nước
nồng nàn như qua mấy câu thơ của cô bé Phương Uyên sau đây:
Ơi đồng bào Việt Quốc Đất nước không chiến tranh Cớ chi đau thắt ruột ! Sự tự hào ngộ nhận Một chế độ bi hài sau chiến tranh. Bọn cường quyền gian manh cơ hội Đào bới bóc lột dân lành Núp dưới bóng cờ máu, bác đảng Âm thầm bán từng mảnh đất quê hương… Ơi thanh niên Việt Quốc ! Chúng ta là ai ? Hãy đứng lên trước vận mệnh tổ quốc Giặc đang tràn tới ngõ…
Đọc những vần
thơ này, hay nhìn dáng dấp của cô bé Phương Uyên trước vành móng ngựa,
cho dù thân hình mảnh khảnh, mình khoác áo học trò, mặt mày non choẹt,
nhưng lời lẽ thì đanh thép, không khoan nhượng, biểu thị một ý chí quật
cường, cô bé tuổi 20 này không thua kém gì một Điếu Cày, một Cù Huy Hà
Vũ hay một Nguyễn Văn Lý. Và từ đó ta hiểu được tâm tình của người Việt
khắp nơi trên thế giới, những ai nặng lòng với dân tộc, với quê hương,
khi theo dõi phiên toà xử Phương Uyên qua màn ảnh.
Phương Uyên là một nguồn cảm hứng
Phương Uyên đã
làm dấy lên bao niềm vui, niềm tự hào và hy vọng nơi người trẻ cũng như
người già, và đã gây cảm hứng cho nhiều người. Những bài viết và bài thơ
ca ngợi Phương Uyên thì nhiều lắm, chỉ xin đưa ra một số đoạn trích làm
ví dụ.
Trước tiên là bài “Phương Uyên, Thiên thần nhỏ” của Nguyễn Hàm Thuận Bắc, một người lính Trường Sa và cũng là bạn học đồng hương của Phương Uyên:
Phương Uyên thiên thần nhỏ Hiên ngang đứng trước tòa Ngẩng cao đầu tuyên bố Tôi yêu nước thiết tha ! Tôi ghét bầy tham nhũng Làm tay sai giặc Tàu Nếu ai cũng như chúng Việt Nam sẽ về đâu ?…
Và sau đây là nhà thơ Trần Mạnh Hảo. Ít lâu trước phiên toà sơ thẩm xử Nguyên Kha và Phương Uyên, tác giả đã thở dài ngao ngán khi đặt câu hỏi và cũng là lời than “Đất nước có bao giờ buồn như hôm nay ?”
Nhưng sau phiên toà thì Trần Mạnh Hảo đã sững sờ trước vẻ đẹp không chỉ
của khuôn mặt thiên thần, nhưng là của khí phách, của lòng dũng cảm,
của lòng yêu nước nơi một bạn trẻ chỉ đáng tuổi con mình:
Nguyễn Phương Uyên đứng trước tòa Em xinh hơn mọi loài hoa trên đời Em không phải đóa mặt trời Mà sao bóng tối rụng rời vây quanh. Trước vành móng ngựa gian manh Phương Uyên chợt mọc lên thành đóa sen Trái tim yêu nước thắp đèn Phương Uyên em giữa bùn đen sáng lòa. Em là nụ, em là hoa Bởi yêu nước phải ra tòa em ơi Đưa tay chúng tính che trời Làm sao che nổi nụ cười trinh nguyên…
Và đây Nguyễn Quốc Chánh. Trước hết qua bài thơ “Quê hương và chủ nghĩa” tác giả nhìn thẳng vào sự thật phũ phàng xót xa của dân tộc, của đất nước:
Bao nhiêu năm, ai nhân danh chủ nghiã, Tự-Do xích xiềng, Dân-Chủ dối gian Mác-Lênin, đâu phải người Việt Nam ! Sự thật đó có làm em đau nhói ?…
Rồi Nguyễn Quốc
Chánh mời tuổi trẻ Việt Nam hướng nhìn tương lai để nhận ra trách nhiệm
của mình đối với lịch sử qua những lời tâm huyết sau đây:
Em thấy đó, trên đường đi không đến, Quê hương đau, chồn cáo vẫn nghênh ngang Những con thú người nhảy múa kiêu căng Ngửa mặt hú một bài ca chủ nghiã. Ngôn ngữ văn nô, đỉnh cao trí tuệ !
Ngoài những tác
giả vừa nêu trên đây, ta cần ghi thêm lời nói hay bài viết của một số
người khác nữa liên quan đến hai bạn trẻ được tôn vinh như những bậc anh
hùng của Việt Nam hôm nay.
Trên mạng “danlambao.vn”, Vũ Đông Hà đã viết:“Bản
án dành cho Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha nếu nhìn cho kỹ, suy
cho sâu, chính là bản án dành cho chế độ. Nó bày ra hết những ti tiện,
nhỏ nhen, yếu hèn, gian ác của chế độ và những con người cộng sản Việt
Nam – từ cấp lãnh đạo cho đến những người đang xếp hàng chờ sổ hưu…
Một tiếng nói khác rất có uy tín là giáo sư Tương Lai,
một giáo sư ngành xã hội học từng làm cố vấn cho 2 thủ tướng từ 1991
đến 2006. Ông đã có một bài viết đăng trên một nhật báo hàng đầu của Mỹ
là tờ “Nựu Ước Thời Báo” (New York Times) bản tiếng Việt do chính ông
cung cấp cho đài VOA mang tựa đề “Những bàn chân nổi giận”. Xin ghi lại mấy đoạn trích sau đây:
“Tháng trước, Tòa Án tỉnh
Long An Việt Nam đã kết án nặng nề hai sinh viên yêu nước ở độ tuổi 20.
Trong những tội danh bị áp đặt có tội ‘nói xấu Trung Quốc’. Những cáo
buộc này đã chạm vào điểm nhạy cảm bậc nhất trong tâm thế người Việt Nam
là lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Người ta phẫn nộ vì như thế là
ai đó đã hợp đồng với Trung Quốc xâm lược để quay lại đàn áp người yêu
nước. Đầu tuần này, công an Hà Nội đã đàn áp một cuộc biểu tình chống
Trung Quốc và bắt nhiều người, hành hung, đánh đập họ, trong đó có cả
phụ nữ.
Vì thế, những ‘bàn chân
nổi giận’ đã rầm rập xuống đường biểu tình chông Trung Quốc xâm lược.
Cùng với những cuộc biểu tình ấy, những khiếu kiện tập thể của nông dân
cũng dồn dập bùng lên. Sự nối kết giữa tầng lớp trí thức với giới trẻ ở
đô thị và nông dân – những người bị đẩy vào cuộc sống đói nghèo vì mất
đất sản xuất khi người ta nhân danh ‘sở hữu toàn dân’ để tước đoạt quyền
sở hữu mảnh đất cha ông họ để lại mà không được đền bù thỏa đáng.”
Và có lẽ hơn
lúc nào hết, từ khắp nơi trên thế giới, đồng bào Việt Nam tỵ nạn cộng
sản dù đã an cư lạc nghiệp và một số lớn đã thành đạt từ nhiều năm nay,
vẫn hướng về quê mẹ, đau nỗi đau của những người ở trong nước, nhất là
từ khi thấy rõ Việt Nam đang trở thành tỉnh lẻ của Tàu. Ta hãy nghe Kiều Tiến Dũng từ Úc Châu: “Lòng
người đang sôi sục căm phẫn. Căm phẫn Trung Cộng đã chiếm đoạt từng
mảng, cả đất lẫn biển của quê cha đất tổ. Căm phẫn hơn nữa bọn người nắm
quân đội trong tay mà lại khiếp nhược, cúi đầu cam tâm quy phục ngoại
bang, giữ công an trong tay chỉ để dùng bạo lực đàn áp chính người dân,
và tệ hơn, chà đạp tuổi trẻ tương lai của đất nước.”
Và Trần Trung Đạo từ Hoa Kỳ: “Bức
tường chuyên chính CSVN đã không sụp đổ vì những cơn bão thời đại Liên
Xô, Đông Âu, Bắc Phi xa xôi nhưng chắc chắn sẽ sụp đổ vì những giọt nước
kiên nhẫn Việt Nam đang nhỏ xuống từ tuổi trẻ Việt Nam, từ đồng bào
Việt Nam trong cũng như ngoài nước… Đừng khóc cho Phương Uyên mà hãy
sống cùng mơ ước của em.”
Ví dụ cuối cùng
tôi trưng dẫn ở đây rất là độc đáo. Đó là một đoạn trích lá thư ngỏ khá
dài đề ngày 16-05-2013 tức là sau phiên toà sơ thẩm xử Nguyên Kha và
Phương Uyên, kính gửi một người bạn học cùng trường là ông tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng xin được đi tù thay cho Nguyên Kha và Phương Uyên, tác giả đã 70 tuổi, hiện sống tại Hà Nội, đó là tiến sĩ Đặng Huy Văn:
“Ông có biết Phương Uyên
và Nguyên Kha là ai không ? Là những thanh niên ưu tú của nhân dân toàn
nước Việt. Chủ nghĩa Công sản không rành, nhưng kẻ thù của nhân dân là
ai thì biết. Và các cháu đã sẵn sàng dấn thân để cứu dân tộc, non sông.
Chúng ta phải làm thế nào
để được họ gọi bằng ông ? Đừng để các cháu khinh rẻ chúng mình là già
rồi sinh lú: Hèn với giặc, ác với dân, ghét tự do, yêu độc tài, bài dân
chủ, Chỉ vì đồng đô la và địa vị chức quyền mà bán biển đảo, núi sông!
Nhưng hai cháu Uyên, Kha
là hiền nhân của Tổ Quốc, Có sức trẻ và chí khí kiên cường có thể cứu
được núi sông. Ông hãy lấy quyền làm vua để bắt tôi đi tù thay hai cháu.
Tôi 70 đã lẫn rồi, sống làm gì thêm khốn khổ thưa ông !…
Khởi điểm mới chứ không phải điểm dừng
So sánh với
thái độ nơm nớp, co rúm vì sợ hãi của người dân suốt mấy chục năm trường
thì những gì chúng ta đang chứng kiến hôm nay qua những bài viết, những
lời nói, những việc làm của những người đấu tranh cho dân chủ tự do,
cho độc lập quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ thật là kỳ diệu. Nhưng nếu chỉ
có vậy thì tự do hạnh phúc của tuyệt đại đa số nhân dân không là cái
bánh vẽ thì cũng mới chỉ là những mẩu bánh ăn để cầm hơi, trong khi nền
độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc thì hoàn toàn là bánh vẽ. Nhưng
hy vọng đã bừng sáng khi không chỉ có một số khuôn mặt đã trở nên quen
thuộc, nhưng trong những tháng, những ngày gần đây, cho dù thông tin lề
phải hoàn toàn im bặt, nhưng nhờ internet mà ta thấy được khuôn mặt,
nghe được tiếng nói của những người ở trong cũng như ngoài nước đang
hiên ngang mạnh mẽ tranh đấu cho dân tộc, cho đất nước mình.
Chẳng hạn giữa
hai phiên toà sơ thẩm và phúc thẩm xử Nguyên Kha và Phương Uyên, chính
xác là ngày 15-08, lễ Đức Mẹ Lên Trời, bổn mạng vương cung thánh đường
Đức Bà tại Paris, các bạn trẻ Việt Nam đã có sáng kiến tham gia vào cuộc
rước truyền thống trước thánh lễ chiều. Trong đoàn rước khổng lồ theo sau kiệu Đức Mẹ, ta thấy một rừng cờ vàng ba sọc đỏ,
thấy các bạn trẻ Việt Nam rạng rỡ, tay cầm cờ hay dương biểu ngữ, ngực
đeo những tấm hình phóng lớn của Uyên Kha và Phương Uyên hay của các bạn
trẻ Việt Nam đang ở tù, giữa tiếng hát trầm buồn “Mẹ ơi đoái thương xem nước Việt Nam, trời u ám bất công lan tràn…”.
Trước đó, ngày
02-08-2013, một nhóm năm thanh niên gồm Phạm Đoan Trang và Nguyễn Lâm
Thắng từ Hà Nội, Nguyễn Thảo Chi và Nguyễn Anh Tuấn từ Đà Nẵng, cùng với
Nguyễn Nữ Phương Dung từ Sài Gòn đã qua Thái Lan, tới văn phòng Uỷ Ban
Luật Gia Quốc Tế tại Bangkok, nộp tuyên bố 258 với nội dung phản đối
điều 258 của bộ luật Hình Sự quy định tội danh “lợi dụng các quyền dân
chủ xâm phạm lợi ích nhà nước” và yêu cầu bãi bỏ điều luật đối với những
ai viết bài chỉ trích nhà nước, vì như thế là vi phạm quyền tự do ngôn
luận của công dân. Khi trở về Việt Nam, những người này dù có gặp khó
khăn tại phi trường Tân Sơn Nhất, cuối cùng đã được các bạn blogger công
khai rước về an toàn.
Đến ngày 07-08,
năm blogger khác lại đến Toà Đại Sứ Thuỵ Điển ở Hà Nội cũng để trao bản
Tuyên Bố 258. Bà Phó Đại Sứ đã ra tiếp đón ngay tại cổng.
Chiều ngày
10-09 đại diện mạng lưới blogger Việt Nam đã trao tuyên bố 258 cho phái
đoàn đại diện Liên Hiệp Châu Âu tại Hà Nội. Trước đó họ cũng đã trao
tuyên bố này cho đại diện Toà Đại Sứ Úc Đại Lợi.
Kết quả là chỉ
24 giờ sau, cho dù truyền thông nhà nước coi như không có gì xảy ra,
khắp nơi trên thế giới đều biết đến bản Tuyên bố này.
Sự kiện Đặng Chí Hùng
Và sự kiện cuối
cùng tôi muốn đề cập tới hôm nay là hơn 2 tuần sau ngày nghị định 72
của thủ tướng chính phủ có hiệu lực, nghị định nhằm “quản lý, cung cấp,
sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng”, thì ngày 18-09-2013,
trên diễn đàn Danlambao, người ta đọc thấy lá thư tác giả Đặng Chí Hùng “gửi bạn đọc thôn Danlambao”, Đặng Chí Hùng tuyên bố:
“Tôi sẽ yêu quê hương bằng cả trái tim của mình và đi đến cùng con
đường chân lý đem lại độc lập cho quê hương trước bạo quyền của cộng sản
cho đến khi tôi không còn hơi thở nữa thì đành chịu”… “Bản thân tôi
chưa bao giờ có liên hệ với Việt Nam Cộng Hoà…”, “Bản thân tôi chưa bao
giờ là đảng viên mặc dù tôi đã có thời gian nắm chức vụ khá lớn trong tổ
chức đoàn thanh niên cộng sản HCM. Tôi không vào đảng vì tôi đã nhận ra
bộ mặt thật của nó từ khá sớm. Tôi đã chấp nhận bỏ lại sau lưng cơ
ngơi, tương lai tươi sáng mà bao nhiêu người trẻ ở Việt Nam mong muốn để
ẩn mình thực hiện công việc mà tôi cho là cần thiết cho dân tộc.”
Sau khi đã công bố loạt bài viết “Những sự thật không thể chối bỏ”
gồm 18 phần liên quan đến nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh, tác giả cho
biết đã bỏ ra 5 năm trời ròng rã để nghiên cứu, thu thập tài liệu và
thực hiện công trình này. Tác giả còn nói là trong tương lai gần sẽ công
bố “Những sự thật cần phải biết” liên quan đến các lãnh đạo đảng cộng
sản Việt Nam. Hy vọng công trình của Đặng Chí Hùng sẽ soi sáng cho những
ai, đặc biệt các bạn trẻ, muốn tìm hiểu sự thật về những con người có
trách nhiệm đối với dân tộc Việt Nam từ 68 năm nay.
Ở tuổi ngoài
50, Đặng Chí Hùng vẫn là một người trẻ. Chỉ vì khát khao đi tìm sự thật,
tâm can bị thiêu đốt bởi tình yêu đồng bào, yêu tổ quốc mà dám dấn thân
vào một cuộc chiến vô cùng nguy hiểm cho bản thân cũng như gia đình,
dám liều cả mạng sống, thì ngọn đuốc phi thường đó, không sức mạnh nào
dập tắt được.
Những cánh én báo hiệu mùa xuân ?
Nếu một con én
không làm nổi mùa xuân như ai cũng biết, thì điều ta đang chứng kiến là
trên đất nước chúng ta, đã thấy xuất hiện nhiều con én, và đàng sau là
cả một bầy én đã sẵn sàng vỗ cánh giữa khung trời bát ngát bao la. Điều
đặc biệt đáng ghi nhận là sự tích cực tham gia của một số bạn trẻ ngày
càng nhiều vào các vấn đề của xã hội, của đất nước. Các bạn không chỉ có
sức trẻ, nhưng còn giàu nghị lực, giàu sáng kiến, giàu khả năng linh
hoạt, thích nghi, lại dễ dàng sử dụng các phương tiện thông tin hiện
đại. Tôi nói “đặc biệt” vì các bạn đã hấp thụ một nền giáo dục què quặt
do chính sách ngu dân và sự tuyên truyền lừa bịp từ khi cắp sách đến
trường. Dù vậy, ngay giữa lúc xã hội tan hoang, đất nước như con mồi sắp
bị con hổ đói khổng lồ ăn tươi nuốt sống thì ý thức quốc gia và lòng
yêu nước bừng tỉnh như do một phép mầu.
Và trong lúc đó
thì những bậc cha anh cũng đang thoát ra khỏi sự sợ hãi, và thể hiện
quyết tâm của mình bằng nhiều cách khác nhau. Chỉ cần nhìn lại những gì
đã xảy ra từ các vụ Toà Khâm Sứ, Thái Hà, Đồng Chiêm, Tam Toà, Cồn Dầu
cũng thấy. Rồi trong khi tiếng súng Đoàn Văn Vươn còn âm ỉ thì lại xảy
ra vụ Đặng Văn Viết ở Thái Bình, và mới đây nhất là vụ Mỹ Yên. Khi người
dân bị đàn áp dã man, bị bóc lột đến tận cùng nên chẳng còn gì để mất,
đồng thời ý thức được quyền lợi của mình, cũng như ý thức được sứ mạng
đối với xã hội, đối với tổ quốc, và nhờ các phương tiện tân kỳ của công
nghệ thông tin mà biết rõ tình hình, nhìn ra sự thật, biết mình không
đơn độc, lẻ loi, nên đã thoát ra khỏi vòng sợ hãi, thì mọi vũ khí đều vô
hiệu.
Đến đây không
thể không nói đến một sự kiện quan trọng xảy ra hơn 3 tuần sau khi nghị
định 72 đã nói trên có hiệu lực, và 2 tháng sau bản tuyên bố 258 của các
blogger về tự do ngôn luận ta đã đề cập tới. Đó là ngày 23 tháng 09 vừa
qua, thay vì ký thỉnh nguyện thư hay kiến nghị mà bao nhiêu lần kinh
nghiệm cho thấy đã bị bỏ vào sọt rác, thì 130 nhân sĩ, trí thức, trong
đó có giám mục Chủ tịch Uỷ Ban Công Lý & Hoà Bình của Hội Đồng Giám
Mục Việt Nam, đã ra một tuyên bố xuất hiện trên tất cả các trang mạng
nổi tiếng và có nhiều người truy cập nhất hiện nay. Đó là tuyên bố quyền
thực thi dân sự. Trong bản Tuyên bố này, có đoạn viết: “Chúng tôi
yêu cầu nhà cầm quyền tôn trọng quyền bày tỏ quan điểm của công dân,
thẳng thắn tranh luận và đối thoại, từ bỏ cách đối xử không công bằng,
không minh bạch và không đường hoàng như đã và đang áp dụng đối với
những kiến nghị sửa đổi Hiến pháp và những tiếng nói đòi dân chủ khác
với quan điểm của nhà cầm quyền”.
Kết luận
Những ai là tín
hữu Chúa Ki-tô thì qua đoạn Tin Mừng hôm nay đã nghe lời cảnh cáo nặng
nề của Chúa về tội vô cảm. Nhưng hôm nay tôi đã cố gắng đề cao những con
người Việt Nam, đặc biệt các bạn trẻ, đã không vô cảm, hơn nữa đã đồng
cảm, đã dấn thân vì người nghèo, vì đất nước nghèo, vì dân tộc, vì tổ
quốc. Khi nhìn thấy “giặc Tàu tràn lan trên quê hương ta”, Việt Khang đã
nghẹn ngào: “Giờ đây, Việt Nam còn hay đã mất ?” Nay ta đã nghe Phương
Uyên cũng như các bạn đồng trang lứa, cùng với các bậc cha anh đồng
thanh nhiệt tình đáp lại: “Mẹ Việt Nam ơi, chúng con vẫn còn đây ** !” Liệu chúng ta sẽ đáp lại như thế nào ?
Sài Gòn, ngày 29 tháng 09 năm 2013
Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm địa chỉ mới: pascaltinh2011@gmail.com (Nguồn: Chuacuuthe.com — Ngày 30.9.2013)
BẢO VỆ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM,TUYỆT ĐỐI KHÔNG DÙNG TỪ NGỮ CỦA CỘNG
SẢN.
Quý vị nghĩ sao về đoạn
văn dưới đây của Việt Cộng…
(Phát hiện em trong
quần chúng, anh khẩn trươngbố trí tình yêu. Nếu đôi
ta nhất trí yêu
nhau, thì hãy đến phường khóm đăng ký, để sau này
anhquản lý đời
em.)
Trần Văn
Giang
Lời người giới
thiệu:
- Có những từ ngữ của
miền Nam và miền Bắc trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 viết và cách dùng
giống nhau; nhưng đồng thời cũng có rất nhiều chữ viết giống y như
nhau nhưng ý nghĩa (hoàn toàn khác biệt) dễ dàng gây “hoang mang”
(confused) nếu người đọc (hoặc người nghe) không biết
trước.
- Ở Việt
Nam sau 1975, vì nhiều lý do, một số từ ngữ của miền Nam (VNCH) đã bị
thay thế hẳn. Tuy nhiên văn hóa và truyền thông của cộng đồng người
Việt tị nạn CS ở hải ngoại vẫn tiếp tục duy trì các từ ngữ
VNCH.
- Đã có
một số tác gia hiện đang sống ở hải ngọai viết về vấn đề gọi là “cái
chết của ngôn ngữ Sài gòn cũ.” Cá nhân tôi không đồng ý với quan điểm
là tiếng Sài Gòn cũ (VNCH) đã hoặc sẽ chết. Thực tế cho thấy dân số tị
nạn CS tại hải ngọai gần 3 triệu người hàng ngày vẫn dùng và bảo tồn
chữ Sài gòn cũ trong gia đình, trong các buổi thánh lễ ở nhà thờ,
trong kinh sách vào những buổi lễ thuyết pháp Phật giáo, trong các
sinh họat thiếu nhi thánh thể cũng như gia đình phật tử… Hiển nhiên
chữ Sài Gòn cũ luôn luôn có sẵn và không hề thiếu thì hà cớ gì chúng
ta phải dùng đến chữ của Vi-Ci (VC) (riêng sự việc người dân Việt đang
sống trong trong nước phải dùng từ ngữ CS trong mọi liên lạc, văn hóa
là chuyện cũng dể hiểu thôi…)
- Người
Do thái sau khi tan hàng ở Palestine vì có thể bị diệt chủng (bởi áp
lực của Hồi giáo và dân Ả rập) cả chục thế kỷ rồi. Họ cũng sống lưu
vong khắp nơi trên thế giới giống như dân Việt tị nạn CS; Vậy mà khi
vừa mới tái lập quốc gia Do thái ở khoảng năm 1950 là họ đã khai sinh
ngay trở lại một tử ngữ (dead language) của họ, tiếng Hebrew, thành
một sinh ngữ (living language). Với cái đà xuống dốc tệ hại của chủ
nghĩa CS hiện nay ở Việt Nam thì cơ hội phục hưng của người quốc gia
và sự trở lại tiếng Sài Gòn cũ không phải chỉ có trong ước mơ. Bây giờ
chúng ta cứ vô tình dùng chữ ngây ngô của VC thi chẳng khác gì như vô
hình chung chúng ta chấp nhận CS (tương tự như trang điện báo của đảng
CSVN hoan hỉ phổ biến sự thao dượt hải quân của Trung cộng trên quần
đảo trường sa và Hoàng sa của Việt Nam).
- Tôi cố
gắng thu góp lại, từ nhiều bài viết của nhiều tác giả và từ kinh
nghiệm cá nhân, một số từ ngữ (của VC và VNCH) thuộc lọai “dễ dàng gây
hoang mang” này và tạm xếp vào một bảng đối chiếu dưới đây để quí vị
rộng đường tham khảo; tùy ý sử dụng; và để may ra giúp quí vị tránh
các trường hợp đáng tiếc (bị đồng bào chung quanh hiểu lầm “địa chỉ”
của mình).
T.V.G.
Sau đây là Bản Đối Chiếu
TỪ NGỮ
VC - TỪ NGỮ
VNCH
Ấn tượng = Đáng ghi nhớ, đáng nhớ
Bác sỹ / Ca sỹ = Bác sĩ
/ Ca sĩ Bang = Tiểu bang (State) (Vịt + nói chuyên trơ
trẽn) Bắc bộ / Trung bộ / Nam bộ = Bắc phần / Trung phần
/ Nam phần Báo cáo = Thưa trình, nói, kể Bảo quản = Che chở, giữ gìn, bảo vệ Bài nói =
Diễn văn Bảo hiểm (mũ) = An toàn (mũ) Bèo
= Rẻ (tiền) Bị (đẹp) = Không dùng động từ “bị;” chỉ dùng
tĩnh từ (đẹp) Bồi dưỡng (hối lộ?) = Nghỉ ngơi, tẩm bổ,
săn sóc, chăm nom, ăn uống đầy đủ Bóng đá = Đá Banh, Túc
cầu Bức xúc = Dồn nén, bực tức Bất ngờ =
Ngạc nhiên (surprised) Bổ sung = Thêm, bổ túc
Cách ly = Cô lập Cảnh báo = Báo động, phải chú ý Cái A-lô =
Cái điện thọai (telephone receiver) Cái đài = Radio, máy
phát thanh Căn hộ = Căn nhà Căng (lắm) =
Căng thẳng (intense) Cầu lông = Vũ cầu Chảnh = Kiêu ngạo, làm tàng
Chất lượng = Phẩm
chất tốt (chỉ đề cập phẩm “quality,” không đề cập lượng
“quantity”)
Chất xám = Trí tuệ, sự
thông minh Chế độ = Quy chế Chỉ đạo = Chỉ
thị, ra lệnh Chỉ tiêu = Định suất Chủ
nhiệm = Trưởng ban, Khoa trưởng Chủ trì = Chủ
tọa
Chữa cháy = Cứu
hỏa
Chiêu đãi = Thết đãi Chui = Lén lút Chuyên chở = Nói lên, nêu
ra Chuyển ngữ = Dịch Chứng minh nhân dân =
Thẻ Căn cuớc Chủ đạo = Chính Co cụm = Thu
hẹp Công đoàn = Nghiệp đoàn Công nghiệp =
Kỹ nghệ Công trình = Công tác Cơ bản = Căn
bản Cơ khí (tĩnh từ!) = Cầu kỳ, phức tạp Cơ sở = Căn bản, nguồn gốc Cửa khẩu = Phi
cảng, Hải cảng Cụm từ = Nhóm chữ Cứu hộ =
Cứu cấp
Diện = Thành phần Dự kiến = Phỏng định
Đại học mở = ??? Đào tị = Tị nạn Đầu ra / Đầu vào = Xuất lượng
/ Nhập lượng Đại táo / Tiểu táo = Nấu ăn chung, ăn tập
thể / Nấu ăn riêng, ăn gia đình Đại trà = Quy mô, cỡ
lớn Đảm bảo = Bảo đảm Đăng ký = Ghi danh,
ghi tên Đáp án = Kết quả, trả lời Đề xuất
= Đề nghị Đội ngũ = Hàng ngũ Động não =
Vận dụng trí óc, suy luận, suy nghĩ Đồng bào dân tộc =
Đồng bào sắc tộc Động thái = Động lực Động
viên = Khuyến khích Đột xuất = Bất ngờ Đường băng = Phi đạo Đường cao tốc = Xa lộ
Gia công = Làm ăn
công Giải phóng = Lấy lại, đem đi… (riêng chữ này bị VC
lạm dụng rất nhiều) Giải phóng mặt bằng = Ủi cho đất
bằng Giản đơn = Đơn giản Giao lưu = Giao
thiệp, trao đổi
Hạch toán = Kế toán Hải quan = Quan Thuế Hàng không dân dụng =
Hàng không dân sự Hát đôi = Song ca Hát
tốp = Hợp ca Hạt nhân (vũ khí) = Nguyên tử Hậu cần = Tiếp liệu Học vị = Bằng cấp Hệ quả = Hậu quả Hiện đại = Tối tân Hộ Nhà = Gia đình Hộ chiếu = Sổ Thông hành Hồ hởi = Phấn khởi Hộ khẩu = Tờ khai gia
đình Hội chữ thập đỏ = Hội Hồng Thập Tự Hoành tráng = Nguy nga, tráng lệ, đồ sộ Hưng
phấn = Kích động, vui sướng Hữu hảo = Tốt đẹp Hữu nghị = Thân hữu Huyện = Quận
Kênh = Băng tần
(Channel) Khả năng (có) = Có thể xẩy ra (possible) Khẩn trương = Nhanh lên Khâu = Bộ phận, nhóm,
ngành, ban, khoa Kiều hối = Ngoại tệ Kiệt
suất = Giỏi, xuất sắc Kinh qua = Trải qua
Làm gái = Làm điếm Làm việc = Thẩm vấn, điều tra Lầu năm góc /
Nhà trắng = Ngũ Giác Đài / Tòa Bạch Ốc Liên hoan = Đại
hội, ăn mừng Liên hệ = Liên lạc (contact) Linh tinh = Vớ vẩn Lính gái = Nữ quân nhân Lính thủy đánh bộ = Thủy quân lục chiến Lợi
nhuận = Lợi tức Lược tóm = Tóm lược Lý
giải = Giải thích (explain)
Máy bay lên thẳng =
Trực thăng Múa đôi = Khiêu vũ Mĩ – Mỹ =
(Hoa kỳ =USA)
Nắm bắt = Nắm vững Nâng cấp = Nâng, hoặc đưa giá trị lên Năng nổ
= Siêng năng, tháo vát Nghệ nhân = Thợ, nghệ sĩ Nghệ danh = Tên (nghệ sĩ = stage name) dùng ngoài tên
thật Nghĩa vụ quân sự = Đi quân dịch Nghiêm túc = Nghiêm chỉnh Nghiệp dư = Đi làm
thêm (2nd job / nghề phụ, nghề tay trái) Nhà khách =
Khách sạn Nhất trí = Đồng lòng, đồng ý Nhất quán = Luôn luôn, trước sau như một Người nước ngoài = Ngoại kiều Nỗi niềm (tĩnh
từ!) = Vẻ suy tư
Phần cứng = Cương
liệu Phần mềm = Nhu liệu Phản ánh = Phản
ảnh Phản hồi = Trả lời, hồi âm Phát sóng =
Phát thanh Phó Tiến Sĩ = Cao Học Phi khẩu
= Phi trường, phi cảng Phi vụ = Một vụ trao đổi thương
mại (a business deal = thương vụ) Phục hồi nhân phẩm =
Hoàn lương Phương án = Kế hoạch
Quá tải = Quá sức, quá
mức Quán triệt = Hiểu rõ Quản lý = Quản
trị Quảng trường = Công trường Quân hàm =
Cấp bực Quy hoạch = Kế hoạch Quy trình =
Tiến trình
Sốc (“shocked)” = Kinh
hoàng, kinh ngạc, ngạc nhiên Sơ tán = Tản cư Sư = Sư đoàn Sức khỏe công dân = Y tế công
cộng Sự cố = Trở ngại
Tập đòan / Doanh nghiệp
= Công ty Tên lửa = Hỏa tiễn Tham gia lưu
thông (xe cộ) = Lưu hành Tham quan = Thăm viếng Thanh lý = Thanh toán, chứng minh Thân thương
= Thân mến Thi công = Làm Thị phần = Thị
trường Thu nhập = Lợi tức Thư giãn = Tỉnh
táo, giải trí Thuyết phục (tính) = Có lý (makes sense),
hợp lý, tin được Tiên tiến = Xuất sắc Tiến
công = Tấn công Tiếp thu = Tiếp nhận, thâu nhận, lãnh
hội Tiêu dùng = Tiêu thụ Tổ lái = Phi hành
đòan Tờ rơi = Truyền đơn Tranh thủ = Cố
gắng Trí tuệ = Kiến thức Triển khai = Khai
triển Tư duy = Suy nghĩ Tư liệu = Tài
liệu Từ = Tiếng, chữ
Ùn tắc = Tắt nghẽn
Vấn nạn = Vấn đề Vận động viên = Lực sĩ Viện Ung Bướu = Viện
Ung Thư Vô tư = Tự nhiên
Xác tín = Chính xác Xe con = Xe du lịch Xe khách = Xe đò Xử lý = Giải quyết, thi hành
(… còn
tiếp)
* Quý vị
nào thấy có thêm những chữ loại này ở đâu đó (?) hoặc thấy sự đối
chiếu chưa đúng (!) thì xin vui lòng mách dùm để nhà cháu bổ
túc (không phải bổ sung) và sửa đổi cho đúng (không phải
làhoàn chỉnh) mà sửa chữa (chứ không phải sửa đổi), và cũng để
mọi người cùng phấn khởi (không phải là hồ hởi) mà tham
khảo.
Xin Đa tạ…
Trần Văn Giang [ghi
chép lại]
Bắt mắt = Đẹp mắt, Ưa
nhìn, Hấp dẫn
Bình ổn = Quân bình, ổn
định
Căn hộ = Căn
nhà
Cải tạo = Tù khổ
sai
Chui cửa hậu = Công
du
Cục Đường biển = Hàng
hải
Cục Đường sắt = Hỏa
xa
Có khả năng = Có
thể
Dũng cảm = Mạnh
mẽ
Đại trà = Quy
mô
Đáp án = Câu trả lời,
Đáp số
Đẳng cấp = Giai
cấp
Đi làm suốt = Đi làm
suốt ngày, suốt buổi …
Điện cho ai (sai) = Gọi
điện cho ai, điện thoại cho ai
Động thái = Động
tĩnh (thái độ và hành động)
Động viên = khuyến
khích
Giá mềm = Giá
rẻ
Giá hữu nghị = Giá
tượng trưng
Giảm tốc = Giảm tốc
độ
Giao dịch (cs dùng từa
tựa như trả giá) = Thương thảo (négocier)
Hãy trả lại sự thật cho sự thật: Hoàng đế Bảo Đại đã thật sự giành lại Độc lập cho Việt Nam từ ngày 11 tháng 3 năm 1945
Phạm Cao Dương, TS
June 28, 2010One Bình Luận Nhơn
đọc bài nầy trên trang báo điện tử Ái Hữu Đại học Sư Phạm Sàigòn,
daihocsuphamsaigon.org, xin Giáo sư Phạm Cao Dương và Ban chủ nhiệm
trang báo điện tử, cùng cho phép chúng tôi giới thiệu đến quý độc giả
bài viết của Giáo sư Phạm Cao Dương.
Cũng
xin đôi lời cùng quý độc giả về Giáo Sư Phạm Cao Dương và xin long
trong mời quý vị viếng thăm trang điện tử daihocsuphamsaigon.org .
Giáo sư Phạm Cao Dương tốt nghiệp ĐH Sư phạm, ĐH Văn khoa Sàigòn và
Tiến Sĩ Sử học tại Pháp. Ông từng giảng dạy tại các trường Đại học Sư
Phạm Sàigòn, Đại học Văn Khoa Sàigòn và là giáo sư thỉnh giảng tại các
đại học Đà Lạt, Huế, Cần Thơ, Vạn Hạnh và Cao Đài.
Định cư tại
Hoa kỳ từ năm 1975, ông tiếp tục giảng dạy các môn lịch sử, văn hóa và
ngôn ngữ Việt nam trong gần ba chục năm qua tại các trường UCI, UCLA,
Cal State Long Beach, Santa Ana College…
Xin đa ta Giáo Sư Phạm Cao Dương và daihocsuphamsaigon.org
Phan Văn Song
Sáu mươi năm nhìn lại: Từ Bảo Đại đến Hồ Chí Minh: HAI BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
Trong lịch sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ
hai mươi, hai lần nước ta đã được các nhà cầm quyền đương thời chính
thức tuyên bố độc lập. Lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi
Hoàng Đế Bảo Đại và lần thứ hai bởi Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Hai lần cả
thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần. Họ
chỉ biết có bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết
bản tuyên ngôn của Bảo Đại ngày 11 tháng 3. Lịch sử do đó chỉ được biết
có một nửa thay vì toàn vẹn. Bài này nhằm bổ khuyết cho tình trạng thiếu
sót đó, đồng thời phân tích nội dung và ý nghĩa của từng bản.
TUYÊN NGÔN CỦA BẢO ĐẠI:
Hoàn cảnh được công bố
Bản tuyên ngôn độc Lập của Bảo Đại được công bố ngày 11 tháng 3 năm
1945, hai ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và sau một thời
gian dài hơn bốn năm, từ tháng 9 năm 1940, sau khi quân Nhật vào phần
đất này của Đông Nam Á và gần năm tháng trước khi Nhật Bản đầu hàng và
Thế Chiến Thứ Hai kết thúc. Trong thời gian này Việt Nam bị sống dưới sự
cai trị của cả người Pháp, từ sau khi Hòa Ước 1884 được ký kết, lẫn
người Nhật, từ ngày 22 tháng 9 năm 1940, với một hậu quả khủng khiếp là
Trận Đói Tháng Ba Năm Ất Dậu.\
Hoàn cảnh này đã làm cho không chỉ riêng những người Cộng Sản, vốn chủ
trương đánh đổ chế độ quân chủ để cướp chính quyền (chữ của chính người
Cộng Sản) để từ đó thực thi cách mạng vô sản mà luôn cả những người
không có cảm tình với chế độ quân chủ đương thời và chủ trương lật đổ
chế độ này để thay thế bằng một chế độ dân chủ, không nhìn nhận giá trị
đích thực của nó. Bảo Đại bị coi như một ông vua bù nhìn, trước kia
trong tay người Pháp và lúc đó trong tay người Nhật.
Theo họ trước kia người Pháp bảo sao, ông làm vậy và sau đảo chính 9
tháng 3 năm 1945, người Nhật bảo ông tuyên bố độc lập thì ông tuyên bố
độc lập, thế thôi. Người ta hiểu hay được học đơn giản như vậy. Nền độc
lập mà Bảo Đại tuyên bố chỉ là do người Nhật ban cho và bản tuyên ngôn
của ông chẳng có một giá trị gì trong lịch sử đấu tranh giành độc lập
của người Việt. Thực chất của nó chỉ là sự tuyên bố công khai việc thay
thầy đổi chủ của triều đình Bảo Đại(1) không hơn không kém.
Sự thực không đơn giản như vậy. Người Nhật có lý do làm đảo chính lật đổ
người Pháp và Bảo Đại có lý do phải chấp nhận yêu cầu của người Nhật
tuyên bố Việt Nam độc lập. Lý do của Bảo Đại đã được ông giải thích khi
tiếp kiến Trần Trọng Kim và cố gắng thuyết phục ông này chấp nhận làm
thủ tướng đầu tiên của chính phủ Nam Triều độc lập. Nguyên văn câu nói
được Trần Trọng Kim kể lại như sau: -Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo
hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy
những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên Bộ thượng
thư đã tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải đứng vai chủ trương việc nước
và lập chính phủ để đối phó mọi việc.(2)
Người ta cần phải nhớ là hơn mười năm trước đó, sau khi du học từ Pháp
về tới Huế được hai ngày, ngày tháng 10 tháng 9 năm 1932, Bảo Đại đã ra
Dụ số 1 tuyên bố chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ của Nam Triều
hủy bỏ Quy Ước 6 tháng 11 năm 1925 do Hội Đồng Phụ Chính, đứng đầu là
Tôn Thất hân, ký với Toàn Quyền Đông Dương thời ông còn nhỏ tuổi và đang
du học bên Pháp, tước bỏ hầu hết các quyền hành còn lại của nhà vua trừ
các quyền có tính cách nghi lễ, ân xá, sắc phong, tế lễ…kèm theo nhiều
dụ khác nhằm thực hiện những cải cách qui mô trong nền hành chánh của
chính phủ Nam Triều, nhưng đã bị người Pháp ngăn cản và bị thất bại. Đảo
chính 9 tháng 3 năm 1945 và lời yêu cầu tuyên bố độc lập của người Nhật
dù gì đi chăng nữa cũng là điều vị hoàng đế còn trẻ tuổi từ lâu mong
đợi. Ngoài ra theo nhận định và giải thích nhằm thúc đẩy Trần Trong Kim
chịu khó lập chính phủ mới. Ông nói :
-Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập
hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có
chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo
thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập
thành một chính phủ để lo việc nước.(3)
Hai tiếng cơ hội Bảo Đại dùng ở đây cho ta thấy ông từ lâu mong có dịp
này. Đồng thời ông cũng hiểu rằng nền độc lập mà ông tuyên cáo chưa phải
độc lập hẳn. Chưa hết, tuyên bố rồi ông còn có nhu cầu phải tỏ ra có đủ
tư cách để độc lập và nhất là để tránh không để cho người Nhật lập cách
cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Một sự e ngại chỉ có
những người có kiến thức về lịch sử và chính trị học mói biết được.
Ngoài ra những tiếng rất có hại cho nước ta cũng cho người ta thấy đối
tương của hành động tuyên cáo độc lập của ông không phải lả ngôi vua mà
là đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, đất nước của ông và thần dân
của ông. Cái nhìn và quan điểm này cũng như sự hiểu biết của ông về tình
hình thế giới và thế tất bại của người Nhật về sau đã được ông nói rõ
trong hồi ký của ông. Riêng đối với người Nhật, ông đã không tin tưởng ở
họ cũng như chiêu bài Đại Đông Á của họ. Nói cách khác Bảo Đại ở vị thế
phải chấp nhận nhập cuộc dù ông hiểu rõ sự phức tạp của vấn đề. Phần
khác như ông cũng nói tới trong hồi ký của ông: Độc lập là ước mơ của
tất cả mọi người Việt Nam thời đó.
Nội dung bản Tuyên ngôn:
Đây là một bản văn tương đối ngắn so với những bản văn cùng loại, nhằm
ba mục tiêu chính yếu là hủy bỏ hòa ước Triều Đình Huế đã ký với nước
Pháp, tuyên bố Việt Nam độc lập, đứng vào khối Đại Đông Á trong chương
trình phát triển chung, đồng thời bày tỏ sự tin tưởng vào lòng thành của
nước Nhật với nguyên văn như sau:
Cứ tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi Đông Á, chính phủ
Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và
nước Nam khôi phục quyền độc lập.
Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc
lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp
cho cuộc thịnh vương chung. Vậy Chính Phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng
thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài
sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.(4)
Bản Tuyên Bố được đề ngày 11 tháng Ba năm 1945 tức ngày 27 tháng Giêng
năm Bảo Đại thứ 20 được Bảo Đại ký tên với sáu thượng thư phó thự.
Đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập này của Bảo Đại, người ta cần chú ý tới những chi tiết sau đây:
Thứ nhất: Điều ước bị hủy bỏ ở đây là Hòa Ước Giáp Thân được ký kết giữa
Triều Đình Huế và người Pháp ngày 6 tháng 6 năm 1884, đặc biệt hai điều
khoản là điều khoản thứ nhất, theo đó Việt Nam công nhận và chấp nhận
Quyền Bảo Hộ của nước Pháp và điều khoản thứ mười lăm, theo đó nước Pháp
cam kết bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ của các xứ do vua Việt Nam cai trị
và bảo vệ nhà vua chống lại những sự xâm nhập từ bên ngoài và những
cuộc nổi loạn từ bên trong…(5).
Sự hủy bỏ này phải được hiểu là do người Pháp bất lực không bảo vệ được
Việt Nam trước sự bành trướng của quân đội Nhật và cuối cùng là chính họ
đã bị người Nhật lật đổ trong cuộc Đảo Chính 9 tháng 3 năm 1945. Sự hủy
bỏ này cũng có tính cách đơn phương từ phía Bảo Đại với tư cách là
người kế vị chính thống của Triều Đình Nhà Nguyễn căn cứ vào những gì đã
xảy ra vào thời điểm này. Điểm cần được lưu ý ở đây là từ ngữ hòa ước
trong văn kiện này được dùng theo số ít, trong tiếng Việt, không có chữ
các đi kèm và trong tiếng Pháp không có chữ s theo sau.
Điều này có nghĩa là bản tuyên cáo chỉ hủy bỏ hòa ước bảo hộ tức Hòa Ước
Giáp Thân 1884 mà thôi thay vì hủy bỏ tất cả các hòa ước đã được ký kết
trước đó. Đó là các Hòa Ước Nhâm Tuất 1862 và Hòa Ước Giáp Tuất 1874
liên hệ tới xứ Nam Kỳ. Vấn đề thâu hồi xứ Nam Kỳ do đó đã trở thành mối
bận tâm và một phần hành quan trọng của chính Bảo Đại ngay từ buổi nhà
vua tiếp kiến Đại Sứ nhật Yokoyama liên hệ tới việc tuyên cáo độc lập và
của chính quyền Bảo Đại – Trần Trọng Kim trong gần suốt thời gian tồn
tại. Xứ Nam Kỳ chỉ được người Nhật trao trả trong những ngày cuối của
chính quyền này.
Thứ hai: Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự phát triển cho xứng đáng một quốc
gia độc lập….giúp cho cuộc thịnh vượng chung. Câu này xác định phương
thức hoạt động nhăm thực hiện tư cách độc lập (tự phát triển như một
quốc gia độc lập không phụ thuộc vào nước ngoài cho xứng đáng một quốc
gia độc lập) và thế đứng của Việt Nam trên trường quốc tế (tự coi mình
là một phần tử Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung).
Nên để tới khẩu hiệu Châu Á của Người Á do người Nhật đưa ra trong thời
này, một khẩu hiệu hàm chứa sự độc lập của các nước Á Châu lúc đó là
thuộc địa của các đế quốc Âu Châu. Đây cũng là một cách nói trước một
cách khéo léo để ngăn chặn trước sự can thiệp vào nội tình Việt Nam của
người Nhật.
Thứ ba: Chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế
quốc…Câu này nhằm buộc chặt lời hứa của người Nhật bằng cách nhấn mạnh
vào sự trung thành với những gì họ đã nói của họ, một truyền thống chung
của các dân tộc Á Đông.
Thứ tư: quyết chí hợp tác với nước Nhật đem hết tài sản trong nước để
đạt được mục đích như trên. Mục đích như trên là mục đích gì? Phải hiểu
mục đích này bao gồm hai phần là tự tiến triển cho xứng đáng một quốc
gia độc lập và giúp cho cuộc thịnh vượng chung như là một phần tử Đại
Đông Á.
Nói cách khác, đây là một bản văn tuy ngắn ngủi, cô đọng nhưng rất quan
trọng vì nó vừa mang tính cách pháp lý, có liên hệ tới nhiều văn kiện
ngoại giao khác đã được hình thành trước đó, vừa biểu lộ chủ trương của
một quốc gia được trao trả độc lập trong một hoàn cảnh không nhận không
được, vô cùng tế nhị và phức tạp vào lúc tình hình thế giới biến chuyển
quá nhanh và hoàn toàn bất lợi cho quân đội và quốc gia đảm nhận sự trao
trả nền độc lập này. Mỗi điều nói ra, mỗi chữ được viết đều đòi hỏi
người soạn thảo phải vô cùng thận trong và ước tính kỹ càng.
Ai là tác giả của bản tuyên ngôn này?
Người được nói đến nhiều nhất là Phạm Quỳnh, lúc đó đang giữ chức thượng
thư bộ lại. Điều này có nhiều phần đúng nếu người ta để ý tới khả năng
nghị luận và viết văn, viết báo kèm theo sự hiểu biết của ông trước đó.
Nó cũng được Phạm Khắc Hòe, Ngự Tiền Văn Phòng Tổng Lý của Bảo Đại trong
hồi ký của ông này xác nhận.(6)
BẢN TUYÊN NGÔN CỦA HỒ CHÍ MINH:
Hòan cảnh được công bố
Bản tuyên ngôn này đã được Hồ Chí Minh đọc tại Quảng Trường Ba Đình ở Hà
Nội vào buổi chiều ngày 2 tháng Chín năm 1945, ngót năm tháng sau bản
tuyên ngôn của Bảo Đại, hơn hai tuần lễ sau khi Nhật Bản đầu hàng,, mười
ba ngày sau khi Việt Minh cướp được chính quyền ở Hà Nội và hai ngày
sau khi Bảo Đại chính thức thoái vị.
Vì được công bố sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, sau khi người Nhật đã
đầu hàng cũng như chế độ bảo hộ của người Pháp đã bị người Nhật lật đổ
trước đó, bản tuyên ngôn này đã bị nhiều người cho là thừa, không cần
thiết, chưa kể tới sự kiện là chính phủ mới do Hồ Chí Minh thành lập là
kế vị chính phủ Nam Triều do Bảo Đại thoái vị nhường cho dựa theo chiếu
thoái vị của Bảo Đại và đã được Hồ Chí Minh và chính phủ mới của ông
chấp nhận.
Chính Phủ Lâm Thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong những điều
kiện này đương nhiên kế tục những gì Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim
đã làm trước đó, trong đó có Bản Thuyên Ngôn Độc Lập ngày 11 tháng 3
năm 1945. Lập luận như vậy là hoàn toàn hợp lý đứng trên phương diện
pháp lý. Một lập luận đơn giản và hoàn toàn dễ hiểu.
Câu hỏi được đặt ra là Hồ Chí Minh, và những cộng sự viên của ông, khi
đưa ra bản tuyên ngôn của mình có biết là trước đó Bảo Đại đã làm công
việc này rồi hay không? và biết như vậy tại sao ông lại còn làm lại việc
đó một lần nữa? Cho câu hỏi thứ nhất, câu trả lời là chắc chắn có; Hồ
Chí Minh chắn phải biết là Bảo Đại trước đó đã tuyên cáo hủy bỏ hòa ước
bảo hộ 1884 rồi. Nhưng ông vẫn làm lại công việc này vì ông có nhu cầu
phải làm. Những nhu cầu đó là những nhu cầu gì?
Thứ nhất là vì từ lâu toàn dân ai nấy đếu khao khát được thấy nước nhà
độc lập, đúng như Bảo Đại đã viết trong hồi ký của ông, độc lập là ước
mơ của mọi người dân Việt(7), cũng như nó được phản ảnh ở khắp nước ngay
trước và sau ngày 2 tháng 9 năm 1945. Nói tới độc lập vào lúc đó là gõ
đúng tần số của bất cứ một người dân Việt Nam nào.
Thứ hai là cho tới ngày 2 tháng 9 năm 1945, cái tên Hồ Chí Minh hoàn
toàn xa lạ ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Võ Nguyên Giáp, một trong
những cộng sự viên thân cận nhất của Hồ Chí Minh trong thời gian này,
đã viết trong hồi ký của ông này rằng: Ba tiếng HỒ CHÍ MINH không bao
lâu đã vang đi khắp thế giới với những truyền thuyết mà người ta thường
dành cho các bậc vĩ nhân. Nhưng vào ngày hôm ấy, cái tên mới của Bác vẫn
còn mới lạ với nhiều đồng bào. Số người biết Bác chính là đồng chí
Nguyễn Ái Quốc khi đó không nhiều.(8)
Ngay vua Bảo Đại ngày 23 tháng 8 năm 1945, khi nhận được điện tín của
của các ông Nguyễn Xiển, Nguyên Văn Huyên, Ngụy Như Kon-Tum và Hồ Hữu
Tường nhân danh Ủy Ban Nhân Dân Cách mạng, yêu cầu nhà vua thoái vị
nhường quyền lãnh đạo quốc gia cho Chính Phủ Nhân Dân Cách mạng với chủ
tịch là Cụ Hồ Chí Minh đã không biết Hồ Chí Minh là ai.
Còn Phạm Khắc Hòe, người được Việt Minh gài vào cạnh nhà vua cũng không
biết nốt, phải chạy đi hỏi Tôn Quang Phiệt, rồi Đào Duy Anh nhưng Tôn
Quang Phiệt đi vắng và Đào Duy Anh lục lọi, truy tìm các tài liệu , sách
vở ông có nhưng cũng không ra tên này. Cuối cùng Vũ Văn Hiền, ở Bắc về
mới xác nhận Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc.(9)
Tuyên bố Việt Nam độc lập đối với Hồ Chi Minh vào thời điểm này do đó
là cách tự giới thiệu mình tốt nhất và hữu hiệu nhất vói toàn thể đồng
bào và để được nhìn và được chấp nhận như là lãnh tụ đầu tiên đã mang
lại được độc lập cho tổ quốc và cho toàn dân Việt Nam, một nhu cầu tối
cần thiết, dầu rằng nền độc lập này hoàn toàn không phải do ông hay do
Mặt Trận Việt Minh tạo ra mà là do những biến cố khác của lịch sử, trong
đó quan trọng nhất là Đảo Chính 9 tháng Ba năm 1945, trong đó người
Nhật đã loại bỏ người Pháp và cuối cùng là sự bại trận sau này của người
Nhật.
Chúng ta cũng cần để ý là đối với đa số người Việt Nam thời đó, ngày 2
tháng 9 là Ngày Độc Lập, đúng như Nguyễn Hữu Đang, người được Hồ Chí
Minh chỉ định tổ chức ngày này gọi qua các văn thư chính thức ông đã gửi
cho các cơ quan liên hệ, trong đó có thư gửi cho Thị Trưởng Hà Nội(10)
và theo bìa in bản tuyên ngôn của bản đầu tiên năm 1945, do Chủ Tịch
Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Hồ Chí Minh đọc trong Ngày Độc Lập.(11)
Nhưng đối với Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 còn có một ý nghĩa quan trọng
hơn nữa. Đó là ngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và khai sinh nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, theo lời ông nói với Nguyễn Hữu Đang, Chú
phải nhớ…(12)Tại sao vậy? Tại vì Hồ Chí Minh phải làm chuyện này trước
khi quân Đồng Minh kéo vô Việt Nam, đặc biệt là thủ đô Hà Nội, nhằm đặt
họ trước một sự đã rồi, không thể đảo ngược được.. Sự kiện vua Bảo Đại
thoái vị được nhắc tới và câu Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng,
kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp là nhằm vào mục tiêu
này.
Nội dung bản Tuyên Ngôn
Bản Tuyên Ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh vì được phổ biến rộng rãi và hầu
như duy nhất cùng với ngày 2 tháng 9 sau đó được coi như Ngày Quốc Khánh
của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và sau này là của Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam nên đã được nhiều người đọc, phân tích, tìm hiểu. Trong
phần này người viết chỉ nêu lên nhừng gì ít được người ta nhắc hay để ý
đến.
Trong khi Tuyên Cáo của Bảo Đại đơn giản chỉ là một bản văn thuần túy
pháp lý hủy bỏ hòa ước bảo hộ mà triều đình Huế đã ký trước đó căn cứ
vào sự bất lực của người Pháp không giữ được cam kết đã được ghi trong
điều khoản thứ nhất và điều khoản thứ mười lăm của hòa ước này mà không
nhằm vào một đối tượng- quần chúng hay quốc tế, thì bản Tuyên Ngôn của
Hồ Chí Minh nhằm vào toàn thể người Việt qua lời mở đầu “Hỡi đồng bào cả
nước” nhưng ở những đoạn cuối lại nhắm vào các nước Đồng Minh.
Điều này phải tinh ý người ta mới nhận ra được. Về tư cách, Bảo Đại nhân
danh Hoàng Đế Việt Nam, người đứng đầu của một quốc gia độc lập đã tồn
tại từ trước khi người Pháp xâm lăng và là người kế thừa chính thống của
các vua Nhà Nguyễn., thì Hồ Chí Minh đã nhân danh Lâm Thời Chính Phủ
của nước Việt Nam mới. Mới là vì đến ngày đó chính phủ này mới chính
thức được ra mắt trước quốc dân.
Lời văn do đó phản ảnh hai tư cách của hai bản chất con người khác
nhau. Một người là hoàng đế kế thừa chính thống của một triều đại đã trị
vì một quốc gia từ hơn một trăm năm trước dù cho là chỉ còn hư vị; một
người là lãnh tụ của một phong trào cách mạng vừa chủ trương chống Pháp,
vừa chủ trương chống Nhật và lật đổ chế độ quân chủ để giành chính
quyền. Văn phong trong bản tuyên ngôn của Bảo Đại là văn phong bình
thường của người cầm quyền; còn văn phong của Hồ Chí Minh mang tính cách
kêu gọi và ở một mức độ nào đó có tính cách bình dân, kể lể dài dòng và
nhất là xách động.
Mở đầu cho bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã trích dẫn một số câu trong
phần đầu của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của người Mỹ và một câu trong Bản
Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp. Sự trích dẫn này,
vào lúc mà sự hiểu biết của quần chúng Việt Nam còn thấp kém, đặc biệt
là về lịch sử Hoa Kỳ và thế giới chắc chắn không nhằm vào quần chúng
người Việt mà nhằm vào người Mỹ và người Pháp.
Lý do là Hồ Chí Minh như là một đảng viên Cộng Sản Quốc Tế chắc chắn đã
hiểu hơn ai hết là người Mỹ vào thời điểm này đã đóng một vai trò vô
cùng quan trọng trong chính tình ở Á Châu, trong đó có Việt Nam. Được
nguời Mỹ công nhận là coi như làm chủ được chính quyền. Hiểu được như
vậy, ngay từ khi còn ở chiến khu Hồ Chí Minh khi tiếp xúc với người Mỹ
đã yêu cầu họ cung cấp cho ông một bản Tuyên Ngôn Độc Lập của họ, đồng
thời khi tiếp xúc với họ, Hồ Chí Minh cũng nhận thấy rằng nói về lịch sử
nước Mỹ với họ là một cách để chinh phục cảm tình của họ.
Cũng vậy, với những chứa đựng trong bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân
Quyền của người Pháp. Có điều sự trích dẫn chỉ nhằm một mục tiêu lôi
cuốn sự chú ý và cảm tình của người Mỹ mà thôi. Hồ Chí Minh không cần đi
xa hơn nữa và rất có thể ông cũng không hiểu rõ hơn hay cố tình không
hiểu sự khác biệt trong quá trình giành độc lập của mười ba thuộc địa
của người Mỹ vào cuối thế kỷ XVIII vàø của nước Việt Nam thời ông. Vì
vậy ông đã áp dụng quan điểm của người Mỹ về quyền bình đẳng, quyền được
sống tự do và mưu cầu hạnh phúc của mọi – người – như-là-những-cá-nhân
vào trường hợp Việt Nam như một – quốc – gia đòi quyền độc lập một cách
gượng ép hay ít ra là suy luận theo quan điểm chủ quan của mình với dụng
ý riêng của mình. Cũng vậy với những gì ông trích dẫn từ bản Tuyên Ngôn
Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp.
Phần kế tiếp , Hồ Chí Minh lên án người Pháp và người Nhật, đồng thời
ông kể công cho Việt Minh. Trước ngày mồng 9 tháng 3, đã bao lần Việt
minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật…sau đó đã giúp cho
nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu nhiều người Pháp ra khỏi
nhà giam Nhật, và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ, và kết luận là Sự
thật là dân ta đã lấy lại nước Việt-nam từ tay Nhật, chứ không phải từ
tay Pháp. Điều như người viết đã nói ở trên là không đúng sự thật. Sự
thật là Chính Phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim đã lấy lại được toàn thể nước
Việt Nam từ trước khi người Nhật đầu hàng kể cả xứ Nam Kỳ và Việt Minh
đã cướp chính quyền từ trong tay của chính phủ Bảo Đại -Trần Trọng Kim
trong những ngày 17 và 19 tháng 8 năm 1945 sau đó.
Lý do là vì Việt Minh đã có đường riêng của họ rồi, nói theo Phan Anh,
Bộ Trưởng Thanh Niên trong Chính Phủ Trần Trọng Kim và sau này là Bộ
Trưởng Bộ Quốc Phòng trong Chính Phủ Liên Hiệp của Hồ Chí Minh.Trong
những đoạn này Hồ Chí Minh đã dùng các từ ngữ ta hay dân ta hay đất nước
ta, nhưng mục đích không nhằm vào người Việt Nam mà vào người Pháp.
Phần cuối cùng của bản văn, từ Bởi thế cho nên…cho đến hết, lời văn cho
người ta thấy Hồ Chí Minh không hướng về người Việt mà về cả thế giới.
Trong phần này ông xưng là chúng tôi, Lâm thời Chính phủ, đại biểu cho
toàn dân Việt -nam để tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, kêu gọi
các nước Đồng Minh công nhận quyền độc lập của dân Việt-nam…
Phần này Hồ Chí Minh thay vì quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc của mọi – người – như – những – cá – nhân do Tạo Hóa ban
cho, những quyền phải hiểu là tự nhiên ai cũng có, đã nói về quyền hưởng
tự do và độc lập của – cả – nước – Việt – Nam. Điều này hoàn toàn trái
với tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Người Mỹ và nhất là của bản
Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp mà danh xưng của
nó đã nói lên một cách rõ ràng, không thể hiểu sai được.
Không những thế, thay vì coi những quyền này là do Tạo Hóa ban cho, ông
lại lý luận là vì dân tộc Việt Nam là Một dân tộc đã gan góc chống ách
nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe
Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân
tộc ấy phải được độc lập! Lý luận như vậy người ta phải hiểu, theo Hồ
Chí Minh, rằng những dân tộc không gan góc chống lại những thế lực đè
nén, áp bức mình và không gan góc đứng về phe Đồng Minh, chống phát-xít
là không đáng được tự do, độc lập.
Cũng vậy, với các quyền độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc của con
người như là những cá nhân trong xã hội. Chính vì vậy Trần thanh
Hiệp,khi được Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn ngày 2 tháng 9 năm 2007, đã có
lý khi ông gọi bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh này là một bản tuyên ngôn
phi nhân quyền(13) dù cho là nó đã được chính tác giả của nó trích dẫn
và soạn thảo theo tinh thần của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền
của Cách mạng Pháp.
Người ta có thể giải thích sự thiếu rõ ràng trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập
kể trên là do nó đã được soạn thảo trong một thời gian quá ngắn và
trong tình trạng tác giả (hay những tác giả) của nó còn phải bận rộn với
nhiều vấn đề cấp bách khác. Điều này không đúng vì trước đó từø lâu,
khi tiếp xúc với một sĩ quan người Mỹ, Hồ Chí Minh đã xin một bản tuyên
ngôn của người Mỹ rồi.
Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã nghĩ tới và đã thai nghén bản tuyên ngôn
của ông từ lâu rồi. Do đó những gì ông nói tới, những từ ngữ ông dùng
đều được cân nhắc kỹ và đều có dụng ý riêng với những mục tiêu riêng mà
chỉ sau này phải phân tích kỹ, đối chiếu kỹ và có thể sau này khi mọi
việc liên hệ đã xảy ra rồi, người ta mới có thể hiểu được.
Gs Phạm Cao Dương
Chú thích:
1 – Dương Trung Quốc. Việt Nam : Những Sự Kiện Lịch Sử (1919-1945). HàNội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 202.tr. 388.
2 – Lệ Thần Trần Trọng Kim. Một Cơn Gió Bụi (Kiến Văn Lục). Saigon, Nhà Xuất Bản Vĩnh Sơn, 1969. tr. 49.
3 – nt – , tr. 51.
4 – Dương Trung Quốc, Việt Nam…, tr. 388; Nguyễn Vỹ. Tuấn, Chàng Trai
Nước Việt (Chứng Tích Thời Đại Từ 1900 đến 1970, Quyển II. Saigon, ? ,
1970. Fort Smith, AR tái bản ở Hoa Kỳ, ?. tr. 512.; S.M. Bao Dai. Le
Dragon d’Annam. Paris, Plon. 1990. Cameron, Allan W. Viet-Nam Crisis, A
Documentary History, Volume I: 1940-1956. Ithaca, N.Y. Cornell
University Press, 1971.. tr. 31-32. Hai bản tiếng Việt in trong tác phẩm
của Dương Trung Quốc và tác phẩm của Nguyễn Vỹ hơi khác nhau ngôn từ
những hoàn giống nhau về nội dung. David G. Marr trong Viênam 1945, The
quest for Power (Berkeley, University of California Press, 1995, tr. 71)
có nói tới các bản tiéng Việt và tiếng Pháp ở văn khố Pháp và bản đăng
trên tờ Dân Báo, ngày 12 tháng Ba. Vũ Ngự Chiêu cũng nói tới tờ Tin Mới,
nhưng nhất thời người viết bài này chưa đến được các nơi cần đến để tìm
kiếm.
5 – Taboulet, Georges. La Geste Francaise en Indochine, Histoire par les
textes de la France en Indochine des origines à 1914, tome II, Paris,
Adfrien – Maisonneuve, 1956. tr. 809 – 812; Phan Khoang, Việt Nam Pháp
Thuộc Sử, 1884 – 1945. Saigon,, ? ,1961. Tái bản ở Hoa Kỳ. tr. 322 –
328.
6 – Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Đình Huế Đến Chiến Khu Việt Bắc. Huế, Thuận Hóa, 1987, tr. 16 -.
7 – Bảo Đại, Le Dragon d’Annam, đã dẫn, tr. 103.
8 – Võ Nguyên Giáp, Những Năm Tháng Không Thể Nào Quên, trong Tổng Tập
Hồi Ký. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 206, tr.. 255.
9 – Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Đình Huế…, tr. 76.
10 – Phùng Quán, Ba Phút Sự Thật. Thành Phố Hồ Chí Minh, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, 2006, tr. 114 – 115.
11 – Hồ Chí Minh, Tuyên Ngôn Độc Lập Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hà
Nội, Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1976, tr.13. Nguyễn Khánh Toàn va Lữ Huy
Nguyên, Tổng Tập Văn Học Việt Nam, Tập 36. Hà Nội, 1980. tr. 812 – 823.
12 – nt
13 – Trần Thanh Hiệp và Trương Giang, Một Bản Tuyên Ngôn Phi Nhân Quyền,
trên Người Việt, số 7940, ngày Thừ hai, 3 tháng 9 năm 2007.
Chiến tranh đồng nghĩa với bom đạn, với súng gươm, với giết chóc, với gian lao, khổ ải, với tàn phá, hủy diệt,…
mà lại nói tới lãng mạn, hay dù hẹp hơn, tới thi ca lãng mạn là một
điều hoàn toàn nghịch lý, khó có thể tưởng tượng được. Nhưng đối với
những người Việt Nam đã từng sống trong cuộc chiến ba mươi năm vừa qua,
đây lại là một sự thực, một sự thực có bằng chứng hẳn hoi mà người tìm
hiểu khó có thể chối cãi. Nó hoàn toàn đúng ít ra là cho ba năm đầu của
cuộc chiến nếu ta tính từ cuối năm 1946 khi cuộc kháng chiến chống Pháp
mới thực sự bùng nổ trên toàn quốc Việt Nam đến năm 1949 là năm Mao
Trạch Đông và Đảng Cộng Sản của ông làm chủ được Trung Hoa Lục Địa,
Tưởng Giới Thạch phải bỏ chạy ra Đài Loan, biên giới Việt Trung trở
thành biên giới giữa hai nước Cộng Sản Á Châu và Quốc Gia Việt Nam của
Cựu Hoàng Bảo Đại được thành lập, mở đầu cho một giai đoạn mới cho cuộc
chiến. Đây chính là ba năm cuối cùng của nửa đầu của thế kỷ hai mười, ba
năm đầu của thời kỳ độc lập hay tranh đấu giành độc lập dưới hình thức
này hay hình thức khác, sau một thời gian dài sống dưới sự cai trị của
người Pháp. Đây ba năm đẹp nhất của lịch sử chiến tranh của người Việt
trong thế kỷ hai mươi, trước khi mọi chuyện đều thay đổi và thay đổi một
cách bi thảm ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Câu hỏi được đặt ra là
do đâu mà đặc tính lãng mạn này đã có thể tồn tại và lãng mạn đã được
thể hiện ra sao trong thi ca của thời này?
Nguyên nhân nào đã khiến cho đặc tính lãng mạn tiếp tục tồn tại trong ba năm đầu của thời kỳ kháng chiến chống Pháp?
Có nhiều nguyên nhân khiến cho cuộc sống lãng mạn của người Việt, vốn
đã nảy nở và phát triển từ trước, đặc biệt là lãng mạn trong thi ca và
đương nhiên trong bộ môn song sinh của nó là âm nhạc, không những vẫn có
thể tồn tại được mà còn phát triển rộng rãi hơn trong giai đoạn này.
Thứ nhất:Người Cộng Sản chưa sẵn sàng để thực thi chính sách kiểm soát chặt chẽ sinh hoạt văn nghệ trong ba năm đầu của cuộc chiến
Thế lực của người Cộng Sản xuyên qua chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa của Hồ Chí Minh cho đến hết thời gian này còn quá mới, chưa đủ để
cho họ có thể áp đặt một sự chỉ đạo và kiểm soát chặt chẽ lên mọi phạm
vi sinh hoạt của người dân, trong đó có văn nghệ, vốn dĩ là một sinh
hoạt rất tế nhị mà họ đang cần để tuyên truyền lôi cuốn mọi người vào
cuộc kháng chiến chống Pháp dưới sự lãnh đạo của Việt Minh, đồng thời
tiêu diệt nốt những thành phần đối lập, dù cho là bản Đề Cương Văn Hóa
của Đảng Cộng Sản đã được soạn thảo và phổ biến từ năm 1943. Làm sao có
lợi cho vai trò lãnh đạo của họ là được rồi. Cũng cần phải để ý là trong
thời gian này Hồ Chí Minh và chính phủ của ông đã dời bỏ thủ đô Hà Nội,
di tản lên miền rừng núi Việt Bắc, do đó cần phải có thì giờ để củng cố
lại thế lực cũng như để sắp đặt lại mọi cơ sở, mọi hệ thống liên lạc
mới nhằm thắt chặt trung ương với địa phương, song song với vai trò lãnh
đạo kháng chiến của mình.
Thứ hai:Lãng mạn trong thời gian này đã trở thành rất phổ biến trong sinh hoạt của giới thanh niên
như là sự tiếp nối phong trào lãng mạn của những năm cuối của thập niên
ba mươi và những năm đầu của thập niên bốn mươi của thế kỷ hai mươi
Ở
thời điểm ba mươi của thế kỷ hai mươi người ta nói tới ý muốn thoát ly
khỏi cuộc đời nhàm chán, dù cho là chẳng biết để đi đâu trong khi cách
mạng hãy còn là một ý niệm mơ hồ và chế độ đô hộ của người Pháp có vẻ
mỗi ngày một vững hơn. Sang đầu thập niên bốn mươi tất cả đã đổi khác.
Lý do là sự bại trận của người Pháp ở ngay chính nước Pháp và sự thắng
thế của quân đội Nhật và sự hiện diện của họ trên đất nước Việt Nam. Nếu
vào cuối thập niên ba mươi người ta nói tới chuyện
Rũ áo phong sương trên gác trọ. Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang
hay
ngồi trước lò sưởi trong một ngày mưa gió, hút thuốc lá, thở khói lên
trần… thì vào đầu thập niên bốn mươi, ngưới ta lại sính hát “Hòn Vọng
Phu” của Lê Thương hay tìm hiểu và ngâm những đoạn thơ và vẽ những cảnh
diễn tả buổi chia ly tuyệt đẹp và vô cùng lãng mạn trong Chinh Phụ Ngâm:
Áo chàng đỏ tựa ráng pha, Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
Mọi người dường như chờ đợi và sẵn sàng để làm công việc này.
Khi chiến
tranh toàn quốc bùng nổ vào tháng Chạp năm 1946, tinh thần lãng mạn qua
ý niệm thoát ly để đi làm cách mạng từ mơ hồ đến chỗ gần như bế tắc đã
được thay thế bằng một thứ lãng mạn yêu nước cụ thể hơn. Người ta sẵn
sàng từ bỏ gia đình, từ bỏ quê hương, ruộng vườn để ra đi và ra đi mà
không ai trách cứ. Nhiều thanh niên đã hăng hái xung phong gia nhập Vệ
Quốc Đoàn, nhiều người không được nhận vì thiếu sức khỏe đã khóc khi
phải trở về nhà. Người ta đã ra di để cứu quốc một cách ngây thơ, tự
nhiên, đơn giản, không cần biết ai là người lãnh đạo, nói như Phạm Duy ở
một chỗ nào đó trong hồi ký của ông. Trước đó, khi các mặt trận mới chỉ
diễn ra ở các thành phố, các lực lương Tự Vệ Thành đã thu hút một số
lớn thanh thiếu niên nam nữ thuộc đủ mọi thành phần từ các sinh viên,
học sinh đến những người làm nghề lao động. Họ tự bỏ tiền túi ra để may
quần áo, khí giới, làm huy hiệu… và đã ở lại giữ thành trong một thời
gian khá dài, điển hình là sáu mươi ngày ở Hà Nội, trong khi quân đội
chính qui của Cộng Sản được rút lên miền núi cùng với Hồ Chí Minh và các
nhân viên chính phủ của ông.
Thứ ba: Ảnh hưởng của các phong trào Hướng Đạo và thanh niên thể thao
Các
phong trào Hướng Đạo và thanh niên thể thao qua những buổi cắm trại hay
du ngoạn đã đưa giới trẻ đến chỗ có dịp thoát ra khỏi cuộc sống chặt
hẹp nhàm chán ở các thành phố hay các phủ hay huyện lỵ của thời bấy giờ
để có thể vào rừng, lên núi, ra các miền quê hay bờ biển sống gần với
thiên nhiên, tiếp xúc với dân quê hay người miền núi hơn, đồng thời thăm
viếng các thắng cảnh hay các di tích lịch sử của đất nước mà trước đó
họ chỉ có dịp tiếp xúc qua sách vở hay trong lớp học. Lãng mạn tính thể
hiện trong tình yêu thiên nhiên, tình yêu thương quê hương, đất nước và
đồng bào cũng như cái đẹp của quê hương, đất nước, và của những người
dân quê hay miền núi, công lao xây dựng và bảo vệ đất nước của người
xưa… của một thế hệ người Việt mới đã nẩy nở trong bối cảnh này.
Thứ tư: Ảnh hưởng của những bài ca mới đầy tình cảm mang chủ đề quê
hương, đất nước và lịch sử oai hùng của dân tộc đã xuất hiện trước đó
Những
năm đầu của thập niên bốn mươi cũng là thời gian xuất hiện của nhiều
bài ca mang nặng tình cảm bình thường của con người cùng tình yêu quê
hương, đất nước, đặc biệt là những bài ca lịch sử. Bắt đầu những bài ca
này được phổ biến ở thành thị, sau đã tràn về thôn quê do những cuộc tản
cư thời phi cơ Mỹ ném bom các cơ sở của quân đội Nhật hay trong các
cuộc cắm trại hay du khảo của các phong trào Hướng Đạo hay thanh niên.
Nên nhớ là khi Cộng Sản còn ẩn náu ở các chiến khu Việt Bắc những bài ca
được dùng trong các sinh hoạt của họ phần lớn là những bài ca của Hướng
Đạo và khi Văn Cao được cán bộ Cộng Sản tiếp xúc, người nhạc sĩ này đã
được giao cho nhiệm vụ làm những bài ca mới để thay thế cho những bài ca
của Hướng Đạo cũ với bài đầu tiên ông làm là bài “Tiến Quân Ca”, sau
trở thành quốc ca của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa Xã Hội Việt
Nam hiện tại..
Từ sau năm 1949, mọi sự đã hoàn toàn thay đổi, ở trong nước cũng như
trên thế giới. Ở trong nước, chính phủ của Hồ Chí Minh và những người
Cộng Sản đã đứng vững được về cả hai phương diện chính trị và quân sự,
những lực lượng chống đối không còn nữa. Ở Trung Quốc, Đảng Cộng Sản của
Mao Trạch Đông đã hoàn toàn đánh bại được quân đội của Tưởng Giới Thạch
và làm chủ được toàn thể Trung Hoa Lục Địa, biên giới giới hai khối
Cộng Sản Hoa, Việt đã tiếp giáp với nhau và Cộng Sản Việt Nam đã được
Cộng Sản Trung Quốc trực tiếp hỗ trợ kèm theo với những ảnh hưởng của
họ. Sự e ngại kẻ thù từ phương bắc tới không còn nữa, nhưng áp lực của
người anh em mới mỗi ngày một thêm đè nặnglên vai của người anh em đang
cần sự giúp đỡ. Một mặt khác, cũng năm 1949, Quốc Gia Việt Nam của Cựu
Hoàng Bảo Đại đã được chính thức thành lập với sự trao đổi văn kiện trực
tiếp giữa Cựu Hoàng Bảo Đại với chính Tổng Thống Pháp Vincent Auriol
thay vì với một nhân vật cấp dưới, rồi rất nhanh chóng chính quyền Quốc
Gia này đã được hai nước Anh và Mỹ và rất nhiều quốc gia thuộc khối tự
do thân Tây Phương thừa nhận, đe dọa sự chính thống của Hồ Chí Minh và
của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Những biến chuyển này đã khiến
cho Hồ Chí Minh và chính phủ của ông phải thay đổi hoàn toàn đường lối
cai trị của mình, trong đó có lãnh đạo văn nghệ. Sự thả lỏng cho các văn
nghệ sĩ dù là các người làm thơ, các người soạn kịch, các người vẽ
tranh… muốn làm sao thì làm, muốn đi đâu thì đi, miễn là tất cả hướng
vào toàn quốc kháng chiến, toàn quốc chống Pháp phải được bãi bỏ. Ở Đại
Hội Văn Nghệ Lần Thứ Hai mà Phạm Duy đã tinh ý nhận xét là có thêm hai
chữ Nhân Dân vào mùa hè năm 1950 ở Việt Bắc, chính quyền trung ương đã
bắt đầu áp đặt đường lối mới. Thiếu Tướng Nguyễn Sơn, một ngưới rất yêu
mến văn học nghệ thuật và các văn, nghệ sĩ, người đã biến đại bản doanh
của mình ở Thanh Hóa thành một thủ đô của giới văn nghệ sĩ thời bấy giờ,
bên cạnh nhiều trung tâm khác như Cống Thần – Chợ Đại, Rừng Thông… đã
bị triệu hồi về trung ương. Đây là thời điểm các cuộc dinh tê của mọi
người bấy lâu theo chân kháng chiến tản cư trở nên ào ạt hơn trong đó có
rất đông các văn nghệ sĩ mà sau này người ta thấy xuất hiện trong sinh
hoạt văn hóa ở các vùng Quốc Gia, ở miền Nam và luôn cả ở Hải Ngoại
trong những năm kế tiếp. Luận cứ cho rằng những người tản cư từ các
thành phố về thôn quê hay lên miền trung du dinh tê về thành là do họ đã
quen với cuộc sống tiểu tư sản thành thị không chịu nổi cuộc sống kham
khổ, thiếu thốn ở trong vùng kháng chiến là không đúng. Nó chỉ là một
trong nhiều nguyên nhân mà thôi. Còn nhiều nguyên nhân khác hơn nguyên
nhân hoàn toàn vật chất này. Cuộc sống tự do, nhân bản và chính quyền
quốc gia không Cộng Sản, tương lai học vấn của giới trẻ, chẳng hạn.
Thi ca lãng mạn thời chiến
Bây
giờ nói tới thi ca thời chiến, đúng hơn thi ca lãng mạn thời chiến hay
đúng hơn nữa, thi ca lãng mạn trong những năm đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp của người Việt trong nửa sau của thế kỷ hai mươi, thời quân
đội kháng chiến còn được gọi là Vệ Quốc Đoàn, chưa bị đổi tên là Quân
Đội Nhân Dân, những năm tôi nghĩ đẹp nhất trong lịch sử giành độc lập
của người Việt trong thế kỷ hai mươi, bất kể là do ai lãnh đạo, trước
khi mọi chuyện thay đổi. Còn nếu so sánh với cả lịch sử của dân tộc Việt
Nam thì đó cũng là một trong những thời gian đẹp nhất như chính những
người tham dự đương thời đã miêu tả như:
Ở thời nhà Trần:
Bạch đầu quân sĩ tại Vãng vãng thuyết Nguyên Phong ……………. Lính già phơ tóc bạc Kể chuyện thuở Nguyên Phong (Thơ Trần Nhân Tông, Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng Ngô Tất Tố dịch)
và thời kháng chiến chống Pháp:
Buông tay gầu vui lại thuở bình Mông Thơ Yên Thao, Nhà Tôi
Nếu người lính già của thời nhà Trần cứ thỉnh thoảng ngồi kể chuyện của
thời Nguyên Phong thì những người đã từng là lính hay đã từng sống hay
tham dự vào những sinh hoạt ở thời chống Pháp từ cuối năm 1946 đến đầu
năm 1950 cũng không bao giờ quên được những ngày kháng chiến của mình dù
là sau này họ sống ở vùng Tê hay ở hậu phương, ở trong Nam hay ở ngoài
Bắc, ở trong nước hay ở hải ngoại, dù là họ tiếp tục được sống trong
vinh quang hay bị bỏ quên ở một góc phố hay ở một làng thôn hẻo lánh nào
đó. Có điều văn thơ của họ đã được phổ biến mỗi ngày một rộng, từ hình
thức những bài chép tay nằm dưới đáy ba lô của những người lính Vệ Quốc
Đoàn hay những cán bộ còn nặng đầu óc tiểu tư sản ở ngay chính thời
chúng mới được làm đến những bản in trong các sách vở, những bản phổ
nhạc ở miền Nam hay được đưa lên sân khấu ở Hải Ngoại. Nhưng tên tuổi
của Hoàng Cầm, Quang Dũng, Chính Hữu, Hoàng Trung Thông, Yên Thao, Hữu
Loan… đã được người ta nhắc tới. Những tác phẩm như Đêm Liên Hoan,
Tâm Sự Đêm Giao Thừa, Bên Kia Sông Đuống, Tây Tiến, Đôi Bờ, Đôi Mắt
Người Sơn Tây, Đồng Chí, Bao Giờ Trở Lại, Làng Tôi, Màu Tím Hoa Sim...của
các tác giả này đã được nhiều người thuộc lòng dù là thuộc một vài
đoạn, một vài dòng hay một đôi câu hay ít ra là có thể nhận ra được vì
đã được nghe ngâm, nghe hát vào một dịp nào đó trong đời mình, kể cả
những người chưa từng được nghe, được học về cuộc kháng chiến chống Pháp
của thời cha ông họ.
Nhận xét về các tác giả này, người ta thấy đa số họ là những tên tuổi
mới và hầu hết đều rất trẻ. Tất nhiên là rất trẻ cho thời kỳ các tác
phẩm của họ được sáng tác. Đa số năm sinh của họ là vào đầu hay giữa
thập niên hai mươi, tuổi của những người đã đóng vai trò chính trong
cuộc cướp chính quyền của Việt Minh vào tháng 8 năm 1945. Họ cũng là
những người có học, đã từng là cựu học sinh các trường Sư Phạm, Bưởi,
Thăng Long…. Điều này cũng có nghĩa là họ đã có dịp tiếp xúc với văn hóa
tây phương, trong đó có văn chương lãng mạn Pháp. Nhưng quan trọng hơn
hết họ là những nhà thơ có thực tài, có cảm giác rất bén nhậy với những
nhận định tinh vi và đã được sống trong thời kỳ sôi sục nhất của lịch sử
dân tộc. Riêng Quang Dũng còn là một người rất tài hoa, phóng khoáng.
Cái lãng mạn của họ do đó không phải chỉ khác hơn mà còn phức tạp hơn
cái lãng mạn của những nhà thơ lớp trước. Lãng mạn của họ là lãng mạn
kết hợp bởi không riêng tình yêu nam nữ mà luôn cả tình yêu gia đình,
đặc biệt là tình yêu dành cho người mẹ, người vợ, cho đứa con còn bú,
cho xóm làng, bờ sông, ruộng vườn, hình ảnh quê hương thuở còn thanh
bình… và đương nhiên cả cuộc kháng chiến với những đồng đội, với đơn vị,
với núi rừng, với bệnh hoạn, với cái chết kề bên, với những xóm làng đã
đi qua…Chính vì vậy mà có nhà nghiên cứu chỉ xếp Hữu Loan và Quang Dũng
vào loại những tác giả lãng mạn, còn các tác giả khác vào loại tranh
đấu hay tuyên truyền cho kháng chiến dù là ở một mức cao về nghệ thuật.
Có điều dù xếp thơ của họ vào loại nào đi chăng nữa, người ta phải cũng
phải công nhận rằng những thi ca này đã phát xuất một cách tự nhiên, từ
tâm hồn của mỗi tác giả. Chúng đã được làm vào lúc họ vẫn còn được quyền
tự do sáng tạo, chưa bị áp lực và sự kiềm chế chặt chẽ của chính quyền
Cộng Sản như trong những năm sau này. Chính vì thế mà mỗi người có một
phong cách riêng tùy theo bản chất và hoàn cảnh của mình. Ngôn từ họ
dùng cũng rất đơn sơ, giản dị, trong sáng, dễ dàng khiến cho người nghe,
người đọc không đến nỗi phải cố gắng, phải căng óc ra để tìm hiểu. Âm
điệu cũng vậy. Đa số những bài mọi người ưa thích đều là thơ tự do,
nhưng dòng thơ rất tự nhiên, trôi chảy, nhẹ nhàng từ đó lôi cuốn người
đọc khác với nhiều bài làm theo cùng thể về sau này.
Hữu Loan
Vì thời giờ có hạn, tôi không thể đi sâu vào từng tác phẩm, từng tác
giả mà chỉ đề cập tới hai tác giả chính, được nhiều người ưa thích là
Hoàng Cầm và Quang Dũng. Hữu Loan vì là, năm 2007, nên chắc chắn đã được
mọi người tìm hiểu nên tôi thấy không cần phải nói thêm ở đây.
Hoàng Cầm và Quang Dũng, hai người cùng một tuổi, một người sinh ở Bắc
Ninh, quê hương của dân ca miền Bắc, một người ở làng Phùng, một làng
được người ta biết tới là vừa chăm chỉ làm ăn, vừa ham mê du hí, nói
theo Trần Lê Văn, tác giả của một tuyển tập về Quang Dũng. Hai người
cùng có trình độ học vấn cao ở thời bấy giờ và cùng dự tính vào nghề dạy
học. Nhưng trong khi Hoàng Cầm ở lại với nghề trước khi tham gia kháng
chiến thì Quang Dũng, mặc dầu đã ra trường sư phạm nhưng lại bỏ nghề đi
đánh đàn, kéo nhị cho môt gánh hát, chỉ làm thày giáo dạy kèm để được đi
đây, đi đó, kể cả lên Yên Báy làm ký ga, sau mới về Hà Nội, tham gia
cách mạng rồi kháng chiến và kháng chiến thực sự trong đoàn quân Tây
Tiến. Sự khác biệt trong đời sống của hai người đã ảnh hưởng lớn tới thi
ca. Thơ của Hoàng Cầm phát xuất từ quần chúng, từ đoàn thể, lấy quần
chúng, đoàn thể làm đối tượng nên có lời lẽ bình dị, dễ dàng, lôi cuốn,
hấp dẫn, khi thì mạnh mẽ, khi thì sôi nổi, khi thì nỉ non, kể lể, tha
thiết.., điển hình là ba bài bài Đêm Liên Hoan, Tâm Sự Đêm Giao Thừa và
Bên Kia Sông Đuống. Cả ba đều là thơ ca tụng kháng chiến và cổ võ cho
kháng chiến nhưng ca tụng và cổ võ với một nghệ thuật cao, một phong
thái tự nhiên vững vàng, không sống sượng thô lỗ như những bài thơ tuyên
truyền người ta thường thấy về sau này dưới chế độ Cộng Sản. Cả ba bài
đều lấy đám đông hay người của đám đông làm khởi điểm với những bối
cảnh, những tình tiết của đám đông hay những con người của đám đông, đám
đông làm công việc chiến đấu để bảo vệ quê hương với những hình ảnh
quen thuộc của quê hương được nêu lên trong truyện kể. Bài Đêm Liên Hoan
theo Phạm Duy được làm để thay thế cho một vở kịch thơ mà ôHoàng Cầm
muốn dựng, hướng vào các Vệ Quốc Quân nhưng vì đội văn nghệ của ông có
rất ít người nên cuối cùng ông chỉ có thể làm một bài thơ cho một hay
hai người ngâm trên một sân khấu ngoài trời mà thôi. Chính vì thế ta
không lấy làm lạ là khi trình bày bài thơ này người ta không thể chỉ có
ngâm, chỉ có dùng lời nói để diễn tả mà thôi mà còn phải kèm theo những
cử chỉ, những điệu bộ và kèm ngay khi ngâm mấy câu đầu:
Đêm liên hoan đầu người nhấp nhô như sóng biển ngang tàng Ta muốn thét cho vỡ tung lồng ngực Vì say sưa tình thân thiết Vệ Quốc Đoàn…
Hoàng Cầm
Cũng
theo Phạm Duy, Phạm Duy đã cùng Hoàng Cầm diễn ngâm rất nhiều lần trước
hàng trăm, hàng ngàn Vệ Quốc Quân với những lời lẽ vô cùng tha thiết và
đầy hào khí như:
Trong tiểu đội của anh Những ai còn ai mất? Không ai còn ai mất Ai cũng chết mà thôi! Người sau kẻ trước lao vào giặc Giữ vững nghìn thu một giống nòi! Dù ta thịt nát xương rơi Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam!
“Tâm
Sự Đêm Giao Thừa” kể chuyện người lính nghèo có vợ mới sinh con. Vì
nghèo và đang chiến đấu ở chiến trường nên anh lính và cũng có thể chính
tác giả không có gì để gửi về cho vợ con ăn Tết . Còn nếu có thì chỉ là
ráng lập công để sớm được về. Trong khi đó thì người vợ ở nhà sinh sống
bằng bán hàng ở một quán nhỏ, cuối năm ế khách, thiếu ăn, không đủ sữa
cho con bú. Người lính tưởng tượng ra cảnh vợ mình đang đói ăn, không có
sữa cho con bú, nhưng nghe tin chồng thắng trận thì vui mừng quá, máu
bỗng chảy mạnh trong huyết quản, sữa bỗng căng trên đầu vú và đứa con
được bú một bữa no trong niềm vui lớn của cả dân tộc. Ta hãy đọc những
đoạn chính của “Tâm Sự Đêm Giao Thừa”:
Đêm nay hết một năm Phải gác tới giao thừa Quê hương chừng rét lắm Lất phất mấy hàng mưa Tôi có người vợ nghèo Đời vất vả gieo neo Từ khi chồng đi lính Nhà tranh bóng hắt hiu Lần hồi rau cháo dăm phiên chợ Tóc rối, thân gầy, quán vắng teo.
Đêm ba mươi gió thổi Tôi lại nhớ con tôi Vợ đói, con cùng đói Khóc thét lặng từng hồi Mẹ thì nước mắt nhiều hơn sữa Ngực lép con nhai đã rã rời…
với bốn câu kết luận:
À ơi! Cha con ăn Tết lập công Cho sữa mẹ chảy một giòng nghìn thu Cha đem cái chết quân thù Làm nên cuộc sống bây giờ của con
Trong bài “Bên Kia Sông Đuống” Hoàng Cầm dùng lối kể chuyện để giải
buồn cho người yêu. Ông đã dùng tất cả những hình ảnh tươi đẹp, hiền
lành của quê hương thời thanh bình trước kia và mơ ước một ngày cùng
người yêu trở về.
Em ơi buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh Năm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ ……
rồi
Hoàng Cầm kể tiếp những hình ảnh hiền hòa dễ thương của cuộc sống ở quê
hương ông như lúa nếp thơm nồng, tranh Đông Hồ, áo the đen, cô hàng xén
răng đen, những cô nàng cắn chỉ môi trầu, những em bé xột xoạt quân
nâu… mà chiến tranh đã làm tan hoang phiêu bạt, để cùng người yêu mơ ước
một ngày về:
Bao giờ về bên kia Sông Đuống Anh lại tìm em Em mặc yếm thắm Em thắt lụa hồng Em đi trẩy hội non sông Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
Quang Dũng
Thơ
của Quang Dũng khác hẳn. Quang Dũng không làm thơ hướng vào đám đông,
để tuyên truyền, để cổ võ cho kháng chiến, để thúc đẩy mọi người hy sinh
cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Ông làm thơ cho ông hay chia sẻ với bạn
bè của riêng ông. Ông nhìn mọi chuyện qua con mắt riêng của ông, trình
bày những cảm nhận của riêng ông, của một con người vừa tài hoa, vừa
phóng khoáng, độc lập, không chịu sống gò bó, mà trước kia ông đã có dịp
thể hiện qua hành động không ở lại với nghề dạy học sau khi đã tốt
nghiệp trường sư phạm để đi theo một gánh hát kéo đàn nhị hay lên Yên
Bái làm thư ký nhà ga. Phong thái của ông đã hiện rõ nét trong thơ ông.
Đi kháng chiến, theo đơn vị vượt biên giới sang Lào, trải qua nhiều gian
lao, vất vả, hiểm nguy, bệnh tật, chết chóc… Nhưng qua thơ của ông tất
cả đã trở thành nhẹ nhàng, rất lãng mạn, rất đẹp và rất thơ, không vướng
vào những hạt sạn của tuyên truyền.
Ông viết:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Hiu hắt cồn mây súng ngửi trời. Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống…
Tây tiến đoàn quân không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Những hình ảnh thật hào hùng khó kiếm được ở những nhà thơ khác đương
thời. Cần để ý đoàn quân không mọc tóc không phải là đoàn quân trọc đầu
vì theo kỷ luật của quân đội mà là bị sốt rét nặng mà những ai đã từng
sống ở miền Bắc trong thời gian tản cư về các miền quê hay miền núi đều
có kinh nghiệm.
Với cái chết, Quang Dũng cũng nhìn với phong thái tương tự, một phong
thái bình thản, có thể nói là hồn nhiên của trẻ thơ bởi vì đi lính là
đương nhiên người ta phải chấp nhận tất cả dù là gian lao, nguy hiểm,
chết chóc, dù là đi lính cho một mục tiêu vô cùng đẹp đẽ, vô cùng lý
tưởng như Hoàng Cầm và các nhà thơ khác diễn tả. Nhưng Quang Dũng đã đạt
tới một trình độ cao hơn. Ông cảm nhận được sự mong manh của cuộc sống
ngoài chiến trận. Một phút trước người ta còn tồn tại, phút sau đã trở
thành hư vô. Ông đã chấp nhận sự mong manh đó như người ta chấp nhận trò
chơi hồi còn nhỏ. Chán, mệt thì không chơi nữa, không thèm chơi nữa,
lúc khác sẽ chơi lại.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
hay
Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
hay:
Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Thực sự thì ở đây chết là chết không có chiếu mà chon nhưng người ta
cũng có thể hiểu theo nghĩa tình cảm đối với là về với đất nước quê
hương của dân tộc.
Những câu thơ kể trên được trích từ bài Tây Tiến của Quang Dũng. Nhưng
đó không phải là những câu hay nhất vì trong bài này câu nào cũng hay,
cũng xúc tích, cũng gợi nên những cảm xúc sâu xa ở người đọc. Xen vào
những câu này, là những câu dầy tình cảm, mang nặng bản chất hào hoa,
tiểu tư sản thành thị ở con người tác giả. Đêm trằn trọc không ngủ được
trên đường hành quân, Quang Dũng viết:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiêu thơm.
hay ở một bài thơ khác, bài Đôi Bờ:
Khói thuốc khơi dòng thương nhớ xưa Đêm đêm Sông Đáy lạnh đôi bờ. Thoáng hiện em về trong đáy cốc Nói cười như chuyện một đêm mơ.
hay trong Đôi mắt Người Sơn Tây:
Vầng trán em mang trời quê hương Mắt em dìu dịu buồn Tây phương Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm Em có bao giờ em nhớ thương.
Ngay cả đối với những sinh hoạt mà các văn nghệ sĩ đương thời thường
gặp hay tham gia trong những năm này ở vùng kháng chiến như các đêm liên
hoan chẳng hạn, khác với Hoàng Cầm, Quang Dũng cũng tham dự nhưng tham
dự như là một khách phong lưu, tài tử. Ông không gọi là liên hoan, tiếng
thời thượng, ai cũng dùng. Ông dùng hai hai chữ đuốc hoa và kèm theo
hai chữ xiêm áo của văn chương lãng mạn cổ điển:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ. Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
và
còn nhiều nữa nhưng bài đã quá dài, viết thêm nữa e làm loãng những gì
người viết muốn viết hay muốn nói. Xin để cho người đọc suy nghĩ, tìm
tòi tiếp.
Kết luận:
Khi
tham gia đoàn quân Tây Tiến vào năm 1947, một đoàn quân được nói để bảo
vệ miền Thượng Lào và biên giới Việt Lào nhưng rất có thể chỉ là để
thanh toán những thành phần tiểu tư sản trí thức còn lại của Trung Đoàn
Thủ Đô và của Tự Vệ Thành Hà Nội sau khi họ đã làm tròn nhiệm vụ vì ai
cũng biết chiến đấu ở các miền rừng núi đoàn quân này không thể nào so
sánh được với quân đội chính qui của Võ Nguyên Giáp mà để lại ở miền
đồng bằng thì nguy hiểm, Quang Dũng làm đại đội trưởng. Cuộc đời binh
nghiệp của ông đã không lên cao hơn được nữa, có thể là vì gốc gác của
ông cũng như bản chất con người nghệ sĩ phóng khoáng của ông. Sau này
khi về Hà Nội, ông đã được thấy những cảnh bi thảm của vợ con những tử
sĩ của thời chiến và đã ghi lại trong bài “Đường Chiều Thứ Bảy” với
những câu như sau:
Tôi đã gặp Nhiều người vợ trẻ Đàn ông đã ngã trên chiến trường Vất vả nuôi con những ngày kháng chiến Xót xa thương khóc bao ngày Chiều thứ bảy hôm nay Họ đi bên người chồng mới lấy Và những đứa con Bước còn bỡ ngỡ Bên người cha mới hôm qua. Ai biết được bây giờ Tâm sự của những người Ngậm ngùi cất kỹ ảnh chồng Vào đáy hộp nữ trang Bến nước đi thêm một bước nữa.
Bài thơ tả chân nhưng cũng có thể mang tính chất biểu tượng. Nó nói lên
sự thê thảm, thật là thê thảm của những người được gọi là thắng trận,
thê thảm như chính cuộc đời của tác giả, của Hữu Loan, của Nguyễn Hữu
Đang và của nhiều người khác… , những người nửa đường đứt gánh, những
người sáng tạo nhưng không được sáng tạo. Có điều vì những ngày theo
kháng chiến của họ đẹp quá, nên thơ họ luôn luôn tiếc nuối, bỏ không
được, giữ không xong. Họ không có được sự nhạy cảm, dứt khoát, nhanh và
gọn gàng của Phạm Duy sau khi người nhạc sĩ này được gọi về trung ương
tham dự Đại Hội Văn Nghệ Nhân Dân, người viết xin nhấn mạnh hai chữ sau,
hai chữ nhân dân, lần thứ hai vào mùa hè năm 1950 như Phạm Duy đã nhận
định và đã làm. Âu cũng là một sự bất hạnh cho nền văn học Việt Nam hậu
bán thế kỷ hai mươi.
Phạm Cao Dương Tháng 10 năm 2007
Hiệu chính 30 Tháng 10, năm 2012
Ghi chú: Đây là bài phát biểu tác giả đọc trong buổi sinh hoạt ghi dấu Nguyệt San Khởi Hành sang năm Thứ Mười Hai và giải Văn Chương của báo này trao cho nhà thơ Hữu Loan được công bố.
Một
buổi hòa nhạc do một hiệp hội Pháp tổ chức vào năm 2013 tại Cam Bốt để
vinh danh Đền Angkor Wat nổi tiếng và Nghệ thuật Múa Cung đình Khmer,
rốt cuộc lại là một vụ lừa đảo lớn : Không một nhà cung cấp thiết bị và
dịch vụ nào đã được thanh toán. Cả chính phủ Pháp lẫn cơ quan Liên
Hiệp Quốc Unesco, bảo trợ cho sự kiện có dấu hiệu bị biến thành nạn
nhân vụ lừa gạt.
Đây là
một vụ việc khá phiền phức không chỉ đối với các đại sứ quán Pháp tại
Cam Bốt và Miến Điện, mà cả đối với Unesco, một định chế rất đứng đắn,
cũng như một loạt tập đoàn lớn đã bảo trợ cho sự kiện đó, mà không có
những biện pháp kiểm tra cẩn thận thông thường.
Thực ra, vụ lừa
đảo này không có gì mới lạ : Một hiệp hội đứng ra tổ chức - ở đây là hội
Khloros Concert – và một phụ nữ đứng tên xinh đẹp rất năng động, lịch
thiệp. Câu chuyện xảy ra vào tháng 12/2013, khi Unesco muốn tổ chức lễ
mừng 10 năm Nghệ thuật Múa Cung đình Khmer được đưa vào danh sách di sản
văn hóa của nhân loại, và 20 năm thành lập Ủy ban bảo tồn Angkor Wat mà
chủ tịch là Pháp và Nhật.
Một đề án tổ chức hòa nhạc ngay trong
đền đã được đưa ra và Khloros Concert đã được chọn tổ chức. Quốc vương
Cam Bốt cũng đứng ra bảo trợ sự kiện trọng đại này. Giám đốc nghệ thuật
là bà Odile Perceau đứng ra chỉ huy giàn nhạc mà kết quả đã bị cựu bộ
trưởng văn hóa Pháp Aurélie Filipetti đánh giá là « cực kỳ tồi tệ ».
Trên
danh nghĩa thì sẽ có nhiều nhà tài trợ tư nhân hào phóng bí mật đứng ra
chi trả cho đề án. Thế những một năm sau, vẫn còn thiếu 600.000 euro,
nhiều nhà cung cấp thiết bị, dịch vụ vẫn chưa được thanh toán, phần lớn
nghệ sĩ tham gia vẫn không được thù lao.
Đã có nhiều đơn kiện nhắm vào phụ nữ sáng lập hội Khloros Concert, nhưng đến giờ thì nhân vật này vẫn không thấy tăm hơi.
Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khai mạc hôm 5/1 với chủ đề nhân sự đang đặt ra nhiều câu hỏi trong dư
luận.
Dự kiến kéo dài cả tuần, khoảng 200 nhân vật cao
cấp nhất của Đảng gặp nhau để bàn các chủ đề quan trọng về nhân sự, tổng
kết đường lối, phương hướng cho Đại hội Đảng lần thứ 12.
BBC có cuộc trao đổi với Giáo sư Carl Thayer, một nhà nghiên cứu sống ở Úc chuyên quan sát tình hình chính trị Việt Nam.
Carl Thayer:
Trước hết có thể nhận xét Hội nghị Trung ương 10 đã bị trì hoãn quá
lâu. Trong suốt cả năm 2014 chỉ có mỗi một hội nghị trung ương 9 diễn ra
vào tháng Năm. Hội nghị này lẽ ra có thể đã được nhóm vào tháng Tám
khẩn trương để đối phó với khủng hoảng Giàn khoan HD-981. Sau đó nó được
định lại ngày vào tháng Mười, tháng Mười Hai và nay thì vào tháng
Giêng.
Ngay từ kỳ hội nghị lần thứ 9 hồi tháng Năm đã có các tiểu
ban làm việc về vấn đề nhân sự. Nhưng hội nghị này cũng là cơ hội cuối
để đảng tiếp tục hoạch định kế hoạch kinh tế - xã hội chiến lược tổng
thể, cân nhắc việc điều chỉnh vị trí của Đảng, điều lệ Đảng và bầu cử,
xác định xem cơ cấu quyền lực tới đây sẽ lớn nhỏ như thế nào, kể cả với
cơ cấu, số ghế Bộ Chính trị...Do đó đây là là một hội nghị trung ương
rất quan trọng.
BBC: Ông nghĩ là Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng sẽ trụ lại? Đã có những nguồn gợi ý rằng ông ấy cũng
quan tâm tới chiếc ghế Tổng Bí thư của Đảng.
Tất cả những gì
tôi có thể nói được là trong quá khứ, với tiêu chí hạn chế tuổi lãnh đạo
ở ngưỡng 65 tuổi, thì người ta luôn mở ra đặc lệ với ghế Tổng Bí thư
Đảng. Có nguồn nói thậm chí người ta sẽ mở ngoại lệ ra cho hai cá nhân
đợt này.
Nhưng rõ ràng tính số lượng với những ủy viên sắp nghỉ
hưu, chỉ tính những người đã ngồi trọn nhiệm kỳ, mà không tính tới hai
ủy viên mới trong Bộ Chính trị, thì đây là một vấn đề với Việt Nam. Cứ
năm năm một lần Việt Nam lại lặp lại vấn đề là Đảng không có đủ nhân sự
tài năng, cả nam lẫn nữ, để điền vào cho các ghế mới. Do đó hiện có
những đồn đoán và phải nói là vẫn còn sớm để nói lên điều gì.
Họ
có kế hoạch lấy phiếu tín nhiệm, sẽ được sử dụng để đề bạt những người
làm việc tốt hoặc để loại bỏ nhân sự. Và trong quá khứ đã có hành động
trong nội bộ được cho là để hạ bệ Thủ tướng, nhưng ông ấy đã tỏ ra rất
mạnh mẽ trong vấn đề Biển Đông và do đó sự ủng hộ trong Trung ương Đảng
cho ông ấy khá cao. Trước đây, đã có những tấn công mạnh mẽ, nhưng ông
Dũng đã thoát ra được khá là ngoạn mục.
Có hai khả năng, thứ nhất
là có sự đồng thuận để ai đó như ông Nguyễn Tấn Dũng có thể trụ lại và
làm việc tiếp, hoặc nếu không thì tất cả sẽ đều phải về hưu. Và đó cũng
từng là cách xảy ra trong quá khứ.
Tôi nghĩ bây giờ vẫn còn quá sớm và chúng ta phải chờ các cuộc lấy phiếu tín nhiệm trong Đảng để mà đo đếm.
BBC: Ông
nghĩ là ông Nguyễn Phú Trọng đã có được một ứng cử viên nào đó ở trong
ống tay áo của ông ấy để có thể kế vị? Tương tự, các ông Trương Tấn
Sang, Nguyễn Sinh Hùng có tự chọn ra ai chưa để thay thế vị trí của họ?
Hết đồn đoán này đến đồn đoán khác. Có
nguồn nói ông Nguyễn Phú Trọng đã chọn ông Phạm Quang Nghị (Ủy viên Bộ
Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội) là ứng viên được ưa thích của ông ấy.
Do đó ông Nghị đã được cử sang Washington trong vụ Khủng hoảng Giàn
khoan 981, trước khi Phó Thủ tướng, Ngoại trưởng Phạm Bình Minh được cử
đi. Phải xem điều này có đúng không.
Tôi thì phải nói ngay là tôi
không thấy ông Nguyễn Phú Trọng có thể tiếp tục chức Tổng Bí thư. Điều
ông ấy có thể làm bây giờ chỉ là cố gắng tác động, ảnh hưởng. Nhưng
thành tích trong quá khứ của ông ấy không được tốt. Ông ấy đã từng đề cử
hai nhân vật quan trọng vào Bộ Chính trị năm ngoái, nhưng không ai
trong đó được thăng tiến vào đó. Trung ương Đảng đã không quyết việc đó.
Thành tích bổ nhiệm nhân sự của ông ấy đã không được hiệu quả.
Với
cặp được cho là cạnh tranh giữa các ông Trương Tấn Sang và Nguyễn Tấn
Dũng, hai người ở miền Nam, nếu họ tiếp tục cạnh tranh và thù địch để
một người trụ lại trong khi người kia bị hạ bệ, thì có thể cả hai sẽ
phải cùng rời ghế quyền lực. Bởi vì ở Việt Nam, quyền lực luôn có khuynh
hướng tập trung, mà không có sự quá khích, và Đảng luôn muốn điều tiết
quyền lực ấy, nhất là để chọn ra giới lãnh đạo.
Do đó, một lần
nữa, gác những đồn đoán lại, đối với tôi điều quan trọng là liệu Đảng có
cho biết công khai bỏ phiếu tín nhiệm sẽ xảy ra như thế nào, được tiến
hành ra sao, liệu có được công bằng cho tất cả không, đối với các vị tri
lãnh đạo chóp bu thế nào? Ở trong những kỳ lấy phiếu tín nhiệm tại Quốc
hội, ông Trương Tấn Sang có kết quả khá cao, nhưng năm 2014, ông Thủ
tướng đã phục hồi được sau lần có kết quả khá thấp của đợt phiếu tín
nhiệm diễn ra năm trước đó.
BBC: Về phần mình, ông Nguyễn Tấn Dũng có chuẩn bị cho mình một ứng cử viên nào để thay thế ông ấy hay là không?
Tôi
sẽ không đưa ra lời trả lời có hay không như thế, vì như thế mọi việc
coi như đã xong rồi còn gì. Riêng với ghế Thủ tướng thì có vẻ như là ông
ấy sẽ không tiếp tục ngồi lại đó. Nhiều nhà phân tích, trong đó có cả
tôi, cũng gặp những khó khăn nhất định trong việc phân tích xem ai sẽ là
vị Thủ tướng kế tiếp.
Cũng có một số gợi ý rằng trong số các cấp
Phó của ông Dũng, sẽ có thể có ứng cử viên ngồi vào ghế đó. Một lần nữa,
ta nhớ rằng hội nghị trung ương 10 lẽ ra phải diễn ra sớm hơn thay vì
liên tục bị trì hoãn lâu như vậy. Lẽ ra nó phải được nhóm vào cuối năm
ngoái, nhưng rồi lại không. Mặc dù hai hội nghị trung ương một năm phải
là tối thiểu, trong 10-15 năm qua, người ta thấy cũng khá thường xuyên
diễn ra tới ba hội nghị một năm. Nhưng năm ngoái, Đảng chỉ tổ chức được
mỗi một hội nghị và điều đó thực là bất thường. Và điều đấy cho thấy ở
trong Đảng đang có một số vấn đề gì đó và việc chậm trễ lịch trình cũng
gợi ý rằng, hiện nay còn quá sớm để đưa ra một đánh giá, dự đoán.
BBC:
Có vẻ Trung Quốc có quy hoạch cụ thể rõ rệt về việc chuyển giao lãnh
đạo từ mấy năm trước Đại hội Đảng, còn ở Việt Nam không làm được như
vậy?
Thông tin về cuộc họp của Đảng ít được công bố ra ngoài
Đúng thế, chỉ nói riêng quy mô
của Bộ Chính trị, số lượng ủy viên phải nghỉ hưu đã tới con số 50%, đây
là một tỷ lệ phần trăm rất cao về những người phải về nghỉ. Trong quá
khứ, những người được phép ngồi vào năm vị trí lãnh đạo cao cấp như Tổng
Bí thư, Chủ tịch Nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, Thường
trực Ban Bí thư đều phải là những ủy viên đã ngồi ít nhất 5 năm toàn
thời gian trong Bộ Chính trị.
Và ngay cả nếu Bộ Chính trị có mở rộng
nhiều hơn, thì Việt Nam vẫn gặp rủi ro mà tôi so sánh như khi người ta
ngồi vào ghế trong một trò chơi tìm ghế trước khi ‘tắt nhạc’. Đó là ở
phương Tây, người ta luôn có nhiều người hơn số ghế, và khi bản nhạc tắt
đi, những người không tìm được ghế thì phải ra ngoài. Còn ở Việt Nam
thì trò chơi lại là người ta đặt 5 người sẵn cho 5 cái ghế. Và khi nhạc
dừng, tất cả đều phải ngồi xuống.
Cho nên trong kỳ Đại hội lần
trước, ông Trương Tấn Sang được người ta bảo là: “Chào ông, ông phải
ngồi xuống ghế Chủ tịch Nước, vì tất cả các ghế kia đều đã có người
ngồi.” Hội nghị này, hay bất cứ sự kiện nào diễn ra sau cùng, nếu không
thay đổi lối chơi thì vẫn thế, trừ phi có ai đó “vắng mặt” thôi. Nhưng
mọi thứ vẫn còn quá sớm để nhận định.
BBC: Gần
đây có một trang mạng “Chân dung Quyền lực” đưa ra nhiều thông tin chưa
thể kiểm chứng, chủ yếu xoay quanh hai ông Nguyễn Bá Thanh và Nguyễn
Xuân Phúc. Trang này cáo buộc Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có mâu
thuẫn lớn với ông Thanh. Theo ông ai đứng sau trang web này, mục đích
của nó là gì?
Tôi không biết ai đứng sau trang này. Ông Nguyễn
Bá Thanh được điều ra khỏi Đà Nẵng và đứng đầu Ban Nội chính Trung ương
Đảng để chống tham nhũng và ông báo cáo trực tiếp với Tổng Bí thư của
Đảng. Động thái của ông Tổng Bí thư để tiến hành điều tra, thanh tra
khoảng hai chục vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, làm sai lớn, và đặt ông
Thanh vào hướng đối diện với ông Thủ tướng Chính phủ, ông hỗ trợ cho ông
Trọng và mạng lưới của ông ấy… Tuy nhiên, kế hoạch này đã không được
hiệu quả.
Ông Thanh là một nhân vật rất được biết tới ở Đà Nẵng,
ông ấy đã có những thử nghiệm về dân chủ ở Đà Nẵng, ông trực tiếp chỉ
đạo việc bầu cử các quan chức địa phương v.v…
Tôi nghĩ trang “Chân
dung Quyền lực” có thể ít nhiều bộc lộ nội tình và tình trạng sức khỏe
của nền chính trị Việt Nam. Với ông, Nguyễn Bá Thanh, người ta đã thiết
kế nhiều cách thức để lần trước ông không thể vào được Bộ Chính trị, còn
ông Nguyễn Xuân Phúc đương nhiên là một người gần hơn với Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng. http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2015/01/150105_carl_thayer_plenum_10th
Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng có trong tay hai ứng cử viên để giới thiệu vào
chức Tổng Bí thư ở Đại hội lần tới của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong khi
chỉ một trong ba phương án nhân sự có thể có xác suất cao thành hiện
thực, theo một nhà phân tích tình hình Việt Nam từ trong nước.
Trao đổi với BBC hôm
05/01/2015 về Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
đang diễn ra, Tiến sỹ Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên
cứu Phản biện độc lập IDS (đã tự giải thể), nói đương kim Tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng có ít nhất hai phương án nhân sự 'thay ông'.
TS.
Quang A nói: "Ông ấy dự định đưa ông Phạm Quang Nghị lên, đó cũng là một
suy đoán và tôi nghĩ nó không phải là không có cơ sở.
"Nhưng cũng có những giả thuyết khác là bây giờ ông ấy muốn đưa ông Đinh Thế Huynh chứ không phải là ông Phạm Quang Nghị.
"Bởi
vì ông Phạm Quang Nghị là một người tất nhiên là rất thân cận với ông
Trọng rồi, nhưng ông Nghị lại cùng tuổi với năm ông khác, đều là năm ông
tuổi 'Trâu' cả. Dân chúng Hà Nội người ta gọi là 'năm con Trâu'.
"Thế thì giữ ông Nghị lại, thì bốn 'con Trâu' khác họ cũng có thể bảo tôi cũng là con trâu hay hơn chẳng hạn.
Theo
nhà quan sát này, ông Nghị hiện có vấn đề về mặt 'giới hạn tuổi tác',
nhưng lại có lợi thế từng lãnh đạo một Bộ trên cương vị Bộ trưởng và đã
làm Bí thư của Thành ủy Hà Nội.
Trong khi đó, ông Đinh Thế Huynh, theo nhà phân tích,
tuy 'thiếu kinh nghiệm' lãnh đạo thực tế như ông Nghị, nhưng có lợi thế
là trong Ban chuẩn bị văn kiện cho Đại hội Đảng 12.
Tiến sỹ Quang A
nói: "Ông Đinh Thế Huynh là ông Phó Trưởng ban Văn kiện, ông ấy đã đi
khắp nơi để chỉ đạo này kia, như thế tức là để làm cho việc vận động sẽ
thuận lợi hơn chẳng hạn."
'Ai sẽ làm Tổng Bí thư?'
Ông
Quang A nói: "Phương án thứ hai nhắc đến tức là sẽ có môt người nào đấy
có thể lực, có sức mạnh và có thể gạt, hoặc là thỏa hiêp với các thế
lực khác, tôi nghĩ khả năng đó là khả năng cao hơn cả.
"Bởi vì
trong bất kỳ một cuộc đấu đá nào, thì kẻ mạnh là kẻ thắng, và kẻ mạnh ở
đây tức là có nhiều người ủng hộ trong Ban chấp hành Trung ương hiện
nay.
"Có thể có những người mà thực sự chẳng ai để ý đến cả, bởi
vì họ đầu óc cũng không sắc sảo gì, cũng chẳng làm được việc gì cả,
nhưng mà gọi là ngoan hay là hiền, tức là chẳng bao giờ phát biểu cả.
"Và có thể một người như thế lại nổi lên làm Tổng Bí thư chưa biết chừng," nhà quan sát nói với BBC.
Ông Du Chính Thanh, một thành viên của Ủy ban Thường vụ Bộ
Chính trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc gặp Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn
Dũng tại Hà Nội hôm 26/12/2014.
AFP photo
Hội nghị Trung ương 10 Đảng Cộng sản Việt Nam đang diễn ra ở Hà Nội
nhằm quyết định một số vấn đề quan trọng cho Đại hội lần thứ 12 sẽ diễn
ra vào năm tới. Sự kiện này có những gì đáng chú ý và có thể đáp ứng kỳ
vọng phát triển và bảo vệ độc lập- chủ quyền của đất nước hay không?
Vẫn như cũ
Đối với những người quan tâm đến tình hình chính trị tại Việt Nam thì
Hội nghị Trung ương 10 bắt đầu từ ngày 5 tháng giêng và kéo dài trong
một tuần lễ đến ngày 12 tháng giêng này cũng không có gì mới mẻ.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, nói về điều này như sau:
Theo tôi cũng như từ trước đến nay thôi, Hội nghị Trung ương là để
xác định những văn kiện đưa ra Đại hội 12 thôi, đồng thời để chuẩn bị
nhân sự cho Đại hội 12. Chỉ có 2 vấn đề thế thôi.
Từ Đà Lạt, tiến sĩ Hà Sĩ Phu cũng có một số nhận định về Hội nghị Trung ương 10 đang diễn ra ở Hà Nội như sau:
Dư luận cũng nói đến việc họp chậm so với kế hoạch, và người ta
cũng chú ý đến chuyến thăm của ông Du Chính Thanh- chủ tịch Ủy ban Chính
Hiệp Đảng Cộng sản Trung Quốc. Và chắc chắn điều đó có liên quan đến
việc bố trí nhân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều đó thật đáng buồn.
Đại hội nào vấn đề nhân sự cũng phải thông qua Trung Quốc hết! Ít nhất
nói một cách khiêm tốn là chịu ảnh hưởng rất nặng nề của phía Trung
Quốc.
Đó là một chuyện và chuyện thứ hai theo như thông báo là đề cử
nhân sự cho Đại hội 12. Kỳ này ngay trong Đảng, các ông cũng không dân
chủ gì cả: giới thiệu từ trên xuống; ở cấp nào thì phải theo Ban Chấp
hành cũ của cấp đó giới thiệu mới được chứ đâu có quyền tự ứng cử. Theo
tôi nghĩ, các vị ấy không dám dân chủ ngay trong Đại hội Đảng chứng tỏ
sự áp đặt rất nặng nề mà có thể sự áp đặt nặng nề đó có sự ảnh hưởng của
Trung Quốc.
Theo tôi cũng như từ trước đến nay thôi,
Hội nghị Trung ương là để xác định những văn kiện đưa ra Đại hội 12
thôi, đồng thời để chuẩn bị nhân sự cho Đại hội 12. - Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh
Theo thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh thì cũng như những kỳ đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam trước đây, phía Trung Quốc bao giờ cũng cử những quan
chức của họ sang trước kỳ đại hội nhằm có những tác động có lợi cho họ,
và lần này cũng thế. Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh phát biểu về điều
này:
Chúng ta đều biết từ trước đến nay, cứ Việt Nam sắp có đại hội-
Đại hội Đảng lần thứ 10, 11, 12 gì, đều có dồn dập các chuyến của cán bộ
cao cấp, lãnh đạo cao cấp Trung Quốc sang, mục đích không khỏi là để
thăm dò xem cơ cấu nhân sự như thế nào và ai sẽ là tổng bí thư. Tất
nhiên họ không phải chỉ thăm dò xem xét mà họ cũng có cách của họ để gây
sức ép phải bố trí tổng bí thư hợp với họ. Họ đều có mưu đồ ấy. Nhưng
vấn đề này còn tùy Hội nghị Trung ương bỏ phiếu như thế nào.
Đấu đá nội bộ
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh cũng cho rằng lý do hội nghị lần này
diễn ra chậm vì có sự thiếu nhất trí trong Bộ Chính Trị Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Đây cũng là điểm được chia sẻ bởi tiến sĩ Hà Sĩ Phu:
Đấu đá thì rất rõ rồi. Các ông ấy muốn giấu cũng không giấu được.
Người ta đùa nói rằng lúc Cụ Hồ viết di chúc nói phải bảo vệ sự đoàn kết
của Đảng như bảo vệ con ngươi (trong mắt); nhưng người ta thấy ‘con
ngươi’ chẳng ngon lành gì cả. Tức cũng muốn che đậy sự mất đoàn kết
nhưng không thể che đậy được nữa rồi; nhất là qua cái chết của một số
người đặc biệt bệnh nặng của ông Nguyễn Bá Thanh kỳ này không che giấu
được sự mâu thuẫn nội bộ một cách rất gay gắt.
Mong đợi
Trước một sự kiện chính trị như Hội nghị Trung ương 10 sẽ ra những
quyết định quan trọng về nhân sự điều hành đảng và đất nước trong thời
gian tới, dư luận tại Việt Nam cũng đã có những đồn đoán. Tuy nhiên theo
tiến sỹ Hà Sĩ Phu đây là vấn đề phức tạp khó lường nhưng ông không mấy
tin tưởng vì theo ông thì ai đi chăng nữa cũng sẽ vì quyền lợi cá nhân
và phe nhóm của họ. Tiến sỹ Hà Sĩ Phu có ý kiến:
Từ nay cho đến Đại hội diễn biến còn rất phức tạp. Chính các vị
ấy trong nội bộ cũng chưa có thể dám chắc khả năng nào cả. Huống chi
mình là người ngoài chỉ có nghe thông tin gián tiếp thôi, làm sao có thể
có những nhận định chắc chắn gì được vì còn tùy theo tương quan ‘các vị
đấu đá nhau’, bên nào thắng gần đến cuối cùng mới rõ ra được. Chỉ có
điều hy vọng sẽ có một lực lượng ‘vì dân, vì nước’ thay đổi quĩ đạo;
nhưng khả năng đó rất ít, rất ít! Trước hết vì quyền lợi của họ đã gắn
chặt với thể chế này rồi.
Theo tôi nghĩ, các vị ấy không dám dân chủ
ngay trong Đại hội Đảng chứng tỏ sự áp đặt rất nặng nề mà có thể sự áp
đặt nặng nề đó có sự ảnh hưởng của Trung Quốc. - Tiến sĩ Hà Sĩ Phu
Dù họ đứng nhóm này hay nhóm khác cũng chỉ để bảo vệ nhóm của họ
mà thôi; chứ tôi nghĩ trong hệ thống cộng sản mà có một người vì dân, vì
nước thật sự thì ít lắm. Người tử tế có chăng là đảng viên ở dưới,
không có quyền chức gì thì còn có tấm lòng; chứ lên đến cấp cao quyền
lợi rất lớn rồi thì chả có người nào tử tế cả. Tôi nói thật với ông như
thế. Đó là về phía nội bộ, chứ còn điều to lớn hơn nữa là bị sự khống
chế bởi phía Trung Quốc.
Ví dụ như có một nhân vật nào đó mà có ích lợi cho dân cho nước
thì Trung Quốc họ sẽ diệt ngay, không ‘mọc’ lên được. Do có áp lực rất
lớn từ bên ngoài như thế nên theo tôi khả năng còn ‘tốt’ cho dân tộc ít
lắm; không dám nói không có nhưng khả năng đó, xác suất ít.
Một điểm được thông báo là trong kỳ hội nghị trung ương 10 sẽ có việc
lấy phiếu tín nhiệm các vị trong Bộ Chính trị, Ban Bí Thư. Việc làm này
cũng không được mấy tin tưởng như quốc hội từng làm. Thiếu tướng Nguyễn
Trọng Vĩnh phát biểu về điều này:
Đây đúng là điểm mới nhưng còn chờ xem bởi vì nói thế nhưng rồi có
công bố không và bỏ phiếu tín nhiệm những ai thì điều đó còn giữ bí
mật, chưa biết như thế nào.
Hướng đi
Đối với những người quan tâm đến tình hình đất nước như thiếu tướng
Nguyễn Trọng Vĩnh và tiến sĩ Hà Sĩ Phu thì cần phải có những thay đổi
cần thiết và triệt để chứ không thể cứ nói suông và làm theo cách như
bấy lâu nay.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh có ý kiến như sau:
Chính phủ có tuyên bố đẩy mạnh phát triển kinh tế, không biết kết
quả như thế nào. Nhưng từ trước đến nay do sai lầm cho nên mới tụt hậu
như bây giờ.Tình hình kinh tế và mọi mặt của đất nước sa sút như bây giờ
là do sai lầm từ trước cho đến nay.
Tình hình đất nước Việt Nam hiện nay được nhìn nhận là ‘vô vàn khó
khăn’ trong tất cả mọi lĩnh vực, người dân trông chờ vào khả năng lèo
lái của những người nắm quyền lãnh đạo. Tuy nhiên theo nhận định của
những vị quan tâm đến tình hình đất nước mà quí thính giả vừa nghe thì
khó có thể lạc quan vào lúc này.
Tàu Trung Quốc (trái) dùng vòi rồng phun nước tấn công tàu Việt Nam tại Biển Đông trong vụ giàn khoan HD-981.DR
Trong
các dự đoán về tình hình châu Á năm 2015 vừa bắt đầu, bi quan nhất vẫn
là các nhận định về Biển Đông, được cho là sẽ tiếp tục bị các tranh chấp
giữa Trung Quốc và các láng giềng, đặc biệt là với Philippines và Việt
Nam, khuấy động. Theo ghi nhận của hầu hết các nhà phân tích, tương tự
như trong năm 2014, Trung Quốc sẽ tiếp tục vai trò kẻ gây rối tại Biển
Đông.
Trong bài viết trên báo mạng
Nhật Bản The Diplomat công bố hôm qua, 31/12/2014, Biển Đông tiếp tục
được xếp vào trong số 10 diễn biến tại Đông Nam Á cần phải theo dõi
trong năm 2015, nhất là trong bối cảnh một nước trực tiếp can dự vào
tranh chấp Biển Đông là Malaysia lên làm chủ tịch luân phiên ASEAN, đồng
thời bắt đầu nhiệm kỳ Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an
Liên Hiệp Quốc.
The Diplomat : Một năm đầy sóng gió ở Biển Đông Theo tác giả Prashanth Parameswaran, năm 2015 rất có thể sẽ tiếp tục là một năm đầy sóng gió, nếu căn cứ vào xu thế hiện nay : «
Với những gì đã xảy ra trong vài năm qua, thì chớ dại bỏ Biển Đông ra
khỏi danh sách (những sự kiện cần chú ý), mặc dù rất khó dự đoán chính
xác sự việc sẽ diễn biến ra sao ».
Đối với chuyên gia này,
trong số hai vấn đề cần đặc biệt theo dõi, trước hết phải xem các nước
Đông Nam Á trong khối ASEAN - cả các nước có tranh chấp lẫn không có
tranh chấp - điều chỉnh phản ứng của họ ra sao trước chiến lược càng lúc
càng rõ ràng của Trung Quốc, vừa bành trướng trên biển bằng cách dần
dần thay đổi nguyên trạng Biển Đông, vừa gắn chặt mình vào khu vực Đông
Nam Á trên bình diện kinh tế.
Một diễn biến thứ hai cần chú ý là
phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực tại La Haye (Hà Lan) về vụ
kiện của Philippines nhắm vào Trung Quốc, sớm nhất là sau ngày
16/06/2015 là thời hạn chót mà Tòa án đã dành cho Bắc Kinh để trả lời
luận chứng bổ sung mà Tòa đã yêu cầu Manila phải nộp trước ngày
15/03/2015. Phán quyết của cơ chế trọng tài của Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển có thể ảnh hưởng đến các diễn biến trên hiện trường, đặc biệt
là đến việc các bên sử dụng công cụ pháp lý để tìm giải pháp cho các
tranh chấp đang diễn ra.
Trung tâm nghiên cứu Mỹ CSIS : Biển Đông vẫn là điểm nóng Dự
đoán của The Diplomat cũng không khác gì so với nhận xét của một loạt
chuyên gia Mỹ về Biển Đông. Trong tạp chí của nhóm Sáng kiến Minh bạch
Hàng hải Á châu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế CSIS
tại Washington, số ra ngày 23/12/2014, rất nhiều chuyên gia phân tích
tên tuổi về Biển Đông đều không một chút nghi ngờ là Biển Đông sẽ tiếp
tục là một điểm nóng trong năm 2015.
Bà Bonnie Glaser cho rằng bãi
Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal), ở vùng quần đảo Trường Sa đối tượng
tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc nhưng hiện
do Philippines kiểm soát rất có thể trở thành điểm nóng.
Trên bãi
cạn này có xác một chiếc tàu cũ do Hải quân Philippines cố tình cho mắc
cạn vào năm 1999 để làm chỗ đóng quân cho một toán lính Thủy quân lục
chiến làm nhiệm vụ canh gác. Trong năm 2014, lực lượng Trung Quốc đã
thành công trong việc ngăn không cho Philippines mang vật liệu xây dựng
đến nơi để gia cố chiếc tàu. Trong tình hình đó, chuyên gia Glaser
thẩm định rằng, trong trường hợp mà chiếc tàu bị rệu rã và tuột khỏi
bãi cạn này, lực lượng Trung Quốc có thể thừa dịp tiến chiếm luôn bãi
cạn này, và vấp phải sự chống đối của hải quân Philippines.
Vùng
Biển Đông cũng có nguy cơ bị khuấy động do việc Trung Quốc đưa giàn
khoan trở lại. Theo giáo sư Chu Phong (Zhu Feng), vụ Trung Quốc đưa giàn
khoan HD-981 vào hoạt động trong vùng biển gần Việt Nam vào năm 2014 đã
tạo ra căng thẳng cùng cực giữa Bắc Kinh và Hà Nội, trước khi tình hình
tạm lắng dịu.
Tuy nhiên trong năm 2015, theo ông Chu Phong, «
Trung Quốc có khả năng di chuyển giàn khoan dầu trở lại vùng biển tranh
chấp, chắc chắn Việt Nam sẽ lại quấy rối hoạt động giàn khoan dầu của
Trung Quốc ». Chu kỳ trả đũa lẫn nhau đó sẽ chỉ có thể chấm dứt khi
hai bên đạt được thỏa thuận chính trị về việc cùng khai thác dầu trong
vùng biển tranh chấp ở Biển Đông. Có điều là, theo giáo sư Chu Phong, trước mắt chưa thấy được một thỏa thuận như vậy ở chân trời.
Trước và sau ngày 30/4/1975 báo chí phương tây cũng như trong nước
đưa nhiều tin bài với nghi vấn nhà lãnh đạo VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã tẩu
tán số vàng dự trữ 16 tấn của Nam Việt Nam. Phải mấy chục năm sau Lịch
sử mới được làm sáng tỏ.
Nam Nguyên phỏng vấn ông Huỳnh Bửu Sơn, người đã quản lý và chuyển
giao số tài sản quốc gia đó cho chế độ mới. Trong biến cố lịch sử tháng
4/1975, ông Huỳnh Bửu sơn mới 29 tuổi tốt nghiệp Cao học Kinh tế Đại học
Luật khoa Saigon. Ông Sơn thuộc nhóm lãnh đạo Nha Phát hành Ngân hàng
Quốc gia Việt Nam và là người giữ chìa khóa hầm vàng. Từ Saigon trước
hết ông Huỳnh Bửu Sơn phát biểu:
Ông cũng biết, số lượng vàng có trong hầm như thế nào, thì khi được
tiếp quản và chuyển giao cho Ủy ban Quân quản của Ngân hàng Nhà nước lúc
đó được giao toàn vẹn không thiếu một nút vàng nào cả. Chúng tôi thường
gọi là nút vàng vì ngoài những thoi vàng tính cách ra, còn có những
đồng tiền cổ, những đồng tiền vàng Napoleon nhưng mà buôn lậu sang Việt
Nam bị bắt dưới hình thức những cái nút cài áo. Cho nên là khi được giao
lại cho Ủy ban Quân quản thì toàn bộ vàng trong hầm bạc bao gồm cả
những đồng tiền cổ đó được giao đầy đủ hết.
Số lượng vàng có trong hầm như thế nào,
thì khi được tiếp quản và chuyển giao cho Ủy ban Quân quản của Ngân
hàng Nhà nước lúc đó được giao toàn vẹn không thiếu một nút vàng nào
cả. - Ông Huỳnh Bửu Sơn
Nam Nguyên: Thưa sau này ông có được nghe nói là
chính phủ mới đã sử dụng lượng vàng đó như thế nào hay không? Bởi vì 16
tấn vàng vào thời ký đó rất là lớn có thể giúp phát triển kinh tế, hay
chính phủ lại dung để trả nợ các nước bạn có quân viện giúp cho việc
thống nhất đất nước. Ông Huỳnh Bửu Sơn: Thật ra lúc đó có rất nhiều tin đồn về việc
sử dụng số vàng đó. Nhưng tôi không ở trong một vị trí mà biết được
những thông tin như vậy và xin được phép không dám nói về những lời đồn
xung quanh chuyện sử dụng số vàng đó. Tôi nghĩ là Chính phủ Việt Nam thì
cũng sử dụng số vàng đó cho những mục tiêu rất thiết yếu về kinh tế hay
cho mục tiêu nào khác của chính phủ. Nam Nguyên: Thưa ông là người quản lý cuối cùng và
chuyển giao qua chính phủ mới. Lúc đó ở Việt Nam có tin đồn là Tổng
thống Thiệu đã mang số vàng đó đi, thời gian đó ông có nghe tin này hay
không ?
Ông Huỳnh Bửu Sơn: Có tôi cũng có nghe chuyện đó, chính BBC
trong thời gian đó cũng có một loạt bài về chuyện này, cũng có nói tôi
đã minh oan cho ông Thiệu (cười). Thật ra có thể ông Thiệu lúc đi có
mang theo một số vàng của riêng ông ấy thôi, còn số vàng của quốc gia
thì vẫn còn tại hầm vàng của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Nam Nguyên: Thưa quản lý vàng của chế độ cũ trong Ngân hàng Quốc gia có chặt chẽ và khoa học hay không? Ông Huỳnh Bửu Sơn: Mình không dám dùng những tĩnh từ để nói
rằng chặt chẽ hay khoa học, nhưng riêng việc cuối cùng toàn bộ những
thoi vàng đó được giữ rất là chu đáo, đầy đủ và không thiếu như tôi nói
là một cái nút vàng, theo đúng như sổ sách và được giao lại cho chính
phủ mới. Điều đó cũng cho thấy cách quản lý của Ngân hàng Quốc gia,
không riêng gì vàng mà đối với các tài sản khác đều có kỷ luật rất tốt. Nam Nguyên: Thưa ông có thể mô tả chút ít về cách quản lý khoa học như thế?
Ông Huỳnh Bửu Sơn: Tôi nghĩ nếu mà so với kỹ thuật quản lý
hiện nay của những Ngân hàng Trung ương trên thế giới thì nó cũng không
phải là có cái gì đặc sắc lắm. Tuy nhiên vàng được cất giữ trong những
hầm trong đó có thể vừa chứa vàng vừa chứa tiền chưa được phát hành và
có thể nói là được quản lý, kiểm kê khá là thường xuyên. Chắc chắc mỗi
năm đều có việc kiểm kê đó và tất nhiên việc ra vào hầm bạc cũng rất
nghiêm ngặt, chỉ những người có trách nhiệm thôi.
Việc giữ chìa khóa hầm bạc không phải chỉ một người mà giữ được. Tức
là có hai bộ chìa khóa, một bộ thuộc về bên kiểm soát, một bộ thuộc về
bên điều hành; phải có hai bộ chìa khóa đó và thêm một người giữ mật mã
của cửa ra vào hầm vàng hầm bạc đó thì mới có thể mở cửa được. Như ông
biết các cửa hầm vàng của Ngân hàng Trung ước các nước là rất kiên cố có
độ dày lên tới 8 tấc hay một thước, phải nói là rất kiên cố chưa kể
việc giữ an ninh bên ngoài rất là chặt chẽ. Tôi nghĩ đây là việc bình
thường của bất cứ Ngân hàng Trung ương nào có kho trữ vàng trữ tiền.
Thật ra có thể ông Thiệu lúc đi có mang
theo một số vàng của riêng ông ấy thôi, còn số vàng của quốc gia thì vẫn
còn tại hầm vàng của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. - Ông Huỳnh Bửu Sơn
Nam Nguyên: Thưa hồi đó chưa có kỹ thuật điện toán (computer) thì sổ sách kế toán ghi chép có chặt chẽ và bảo đảm hay không? Ông Huỳnh Bửu Sơn: Thật ra lúc đó cũng đã có điện toán rồi,
tất nhiên không mạnh và nhanh như hiện nay. Nhưng đã có sử dụng điện
toán để theo dõi tài sản đó và ghi rõ trên các bảng kê, chúng tôi gọi là
listing. Những bảng kê đó được đối chiếu nhiều lần mỗi khi có trường
hợp đột xuất về vàng. Vì thật ra hồi xưa Ngân hàng Quốc gia cũng có sử
dụng số vàng trong kho bán ra để bình ổn thị trường vàng vào lúc đó. Nam Nguyên: Thưa trong những ngày cuối cùng cho đến
30/4/1975 ông có thấy chính quyền cũ có nỗ lực nào để chuyển số vàng đó
đi hay không. Dẫn tới tin đồn là đã chuyển ra ngoại quốc.
Ông Huỳnh Bửu Sơn: Thật sự là có và cũng đã dự kiến là chuyển
sang gởi ở tại Mỹ, tôi nhớ không lầm là gởi tại một ngân hàng ở Mỹ và đã
có sự chuẩn bị đó rồi. Chính vì sự chuẩn bị đó cho nên một hãng bảo
hiểm ở Bỉ là nơi được hợp đồng bảo hiểm số vàng chuyển đi đã tiết lộ ra.
Nhưng cuối cùng của chính phủ quyết định giữ lại số vàng đó cho nên nó
không được chuyển đi. Nam Nguyên: Đối với tư cách công dân Việt Nam một
người chịu trách nhiệm quản lý, nói chung là của đất nước và ông đã
chuyển giao không suy suyển thì ông có cảm nhận gì vào ngày hôm đó?
Ông Huỳnh Bửu Sơn: Lúc đó từ việc kiểm kê số vàng đó và giao
lại cho Ủy ban Quân quản thì tôi nghĩ tôi cũng chỉ hành động như một
nhân viên bình thương của Ngân hàng Quốc gia mà thôi. Tức là làm cho
tròn trách nhiệm mình được giao phó, chứ lúc đó tôi cũng không nghĩ ngợi
gì cả…mà cũng khá lo vì nếu lỡ mà thiếu một cái gì thì có khi chính
mình phải chịu trách nhiệm oan đấy (cười) mà may quá đã không thiếu gì
cả. Nam Nguyên: Cảm ơn ông Huỳnh Bửu Sơn đã trả lời RFA. http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/the-case-of-16-tons-gold-of-south-vn-nn-01052015155936.html
NGỒI TRONG VĂN PHÒNG TRƯƠNG TẤN SANG CA NGỢI NGUYỄN VĂN THIỆU
Nếu bác chưa đọc thì khó nói chuyện lắm, bởi vì bác không rành. Bác nên đọc để nắm rõ vấn đề hơn. Còn bài viết của Phạm Trần tôi đã coi rồi, nhưng tôi không tin, lấy ví dụ : Phạm Trần nói ông Tướng Hồ Văn Kỳ Thoại nói : "Từ khi tôi biết được có sự xuất hiện bất thường của quân Trung Cộng ở vùng bán đảo Hoàng Sa". Tôi không tin là ông Tướng Thoại nghĩ rằng Hoàng Sa là "bán đảo",
chắc chắn ông phải biết Hoàng Sa là một quần đảo. Vì vậy tôi nghĩ là PT
bịa, nhưng vì không rành nên bịa không có căn. Và PT nói ông Hoàng Đức Nhã nói : “chính Tổng thống Thiệu đã quyết định không dùng Phi cơ F-5 oanh
tạc các tầu chiến và lính Trung Cộng ở Hoàng Sa ví quá nguy hiểm cho các
Phi công trong hoàn cảnh thiếu nguyên liệu và không có yểm trợ của Hoa
Kỳ." Tôi không tin ông Nhã là Bộ trưởng thông tin mà không biết dùng chữ
Việt : Máy bay thiếu nguyên liệu nghĩa là gì? Có lẽ là PT muốn nói thiếu
nhiên liệu.
Nhưng bác cũng như tôi đều biết không thể có chuyện thiếu nhiên liệu
cho 120 chiếc máy bay bay ra HS. Thuở đó quân đội VNCH thiếu thì đã
thiếu nhiều rồi, nhưng không có thể nào thiếu xăng cho 120 chiếc máy
bay. Bằng chứng là cả ngàn chiếc máy bay bay suốt 1 năm vẫn còn thừa
xăng cho Sư đoàn 1 KQ bay vào SG. Sơ sơ 2 đoạn đó cũng đủ để tôi không tin. Nếu tôi tin thì hóa ra ông Thoại và ông Nhã quá dốt.
Bac Trinh than, Bac nen chu y ve tong the chu dung di
vao tung cau chu. Bac mo bao thanh nien online ngay 10/1/14 muc hai
Chien hoang sa da 40 nam ma xem Nguyên Thanh Trung noi doc.lam coc gi ma co 120 F5 cho mot phi Doan? Bác X thân, Tổng thể thì đảo Hoàng Sa biến thành bán đảo HS thì có
thể được gọi là tổng thể chưa? Muốn bàn về trận chiến HS mà cho rằng HS
là bán đảo thì còn gì nữa để bàn? Thôi bỏ qua chuyện đó, chuyện tổng thể còn lại mà ông Hồ Văn Kỳ Thoại nói là cái gì? “Các phi vụ không thực hiện được vì theo tư lịnh Sư Đoàn 1 Không
Quân (Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh) cho biết chỉ chiến đấu dược có 15
phút vì quá xa, quá nguy hiểm. Kể từ 1973 Hoa Kỳ không còn dính líu với
miền Nam VN về quân sự nên tôi không có xin Hoa Kỳ tiếp viện. Việc xin
cứu người trôi giạt cũng không được Mỹ giúp."
Như vậy chuyện Nguyễn Thành Trung nói máy bay bay ra được tới HS là
có thật và chuyện Mỹ không giúp VNCH là có thật. Vậy tại sao không tin
hắn và ông Thoại, ông Khánh? Còn tổng thể trong lời của Hoàng Đức Nhã là
gì? “chính Tổng thống Thiệu đã quyết định không dùng Phi cơ F-5 oanh
tạc các tầu chiến và lính Trung Cộng ở Hoàng Sa vì quá nguy hiểm cho các
Phi công trong hoàn cảnh thiếu nguyên liệu và không có yểm trợ của Hoa Kỳ."
Trong khi Nguyễn Thành Trung nói : “Dường như vì lợi ích của
mình, các quốc gia lớn có quyền mặc cả và thương lượng bất chấp sự toàn
vẹn lãnh thổ của quốc gia khác”. Nghĩa là Mỹ bán Hoàng Sa cho Trung Cọng. Vậy thì ông Nhã và Trung nói cùng một ý thì tại sao không tin? Đó, tổng thể đó, ông Thiệu có tính chuyện đưa KQ đánh HS nhưng phía
Mỹ không tán thành, thậm chí không cứu cả những người lính VNCH bị trôi
giạt trên biển Giờ đây bác biểu tôi nên tin ông Nhã, ông Thoại, ông Khánh hay tin
Phạm Trần? Tôi có cái đầu để biết phân biệt cái nào Phạm Trần nói và cái
nào ông Thoại, ông Khánh, ông Nhã nói.
Còn bác cho rằng Trung nói : “co 120 F5 cho mot phi Doan?” Tôi không tin NTT có nói câu này, lại càng không nên tin tờ Thanh
Niên là cơ quan tuyên truyền của CSVN. Tôi chỉ cần coi lại nguyên văn
câu của NTT trong Website của Trương Tấn Sang: “Ngày 19.1.1974, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu điều năm phi đoàn
F5, bốn ở sân bay Biên Hoà, một ở sân bay Đà Nẵng, mỗi phi đoàn có 24
máy bay và 120 phi công ra Đà Nẵng chuẩn bị đánh lấy lại Hoàng Sa. Mọi
người rất phấn khởi, tụi tôi đi ra với tư thế là đi lấy lại một phần
lãnh thổ đất nước. Sĩ quan cấp tá ở các phi đoàn 520 – Nguyễn Văn Dũng,
536 – Đàm Thượng Vũ, 540 – Nguyễn Văn Thanh, 544 – Đặng Văn Quang, 538 –
Nguyễn Văn Giàu đều đã lên kế hoạch tác chiến kỹ lưỡng”.
Rõ ràng Nguyễn Thành Trung nói là 5 phi đoàn, chính văn phòng của
Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng đều đăng y như vậy, cả hai nơi này đều
đăng tin có trách nhiệm chứ không phải là đăng tin tuyên truyền. Vậy thì ai nói rằng NTT nói 1 phi đoàn có 120 F5 là bịa. Tôi không
cần coi lại báo TN thì tôi cũng biết là TN bịa ra, NTT không đời nào nói
như vậy.
Tại sao tôi tin Nguyễn Thành Trung? Bởi vì hắn ta là một đại tá VC đang ở trong nước mà dám chưởi chế độ CS, ca ngợi không quân VNCH, ca ngợi Nguyễn Văn Thiệu : - “Tôi là người được học hành tử tế trong những ngôi trường khá
lý tưởng của Sài Gòn và tiếp cận nhiều nguồn tài liệu khác nhau, tôi
biết rõ những sai lầm trong chính sách kinh tế của miền Bắc nước ta. Bi
kịch cải cách ruộng đất còn nguyên đó, công nghiệp chẳng có gì. Khu gang
thép Thái Nguyên còn thô sơ lắm, Dệt Nam Định, Sứ Hải Dương chỉ sản
xuất được những mặt hàng tiêu dùng cấp thấp, đặc biệt là hạn chế về
trình độ của cán bộ quản lý….”
- “Sau khi thành lập bộ phận tiếp quản, tôi nhận nhiệm vụ làm
sống lại những chiếc máy bay này. Khi sửa xong, tôi là người bay thử.
Phi công bay thử của người ta điều kiện bảo hiểm ngặt nghèo lắm, còn tôi
thì như con thiêu thân. Gần 50 lần bay như thế, tôi luôn sẵn sàng tình
huống nhảy dù khẩn cấp bởi máy bay có thể hư bất cứ lúc nào. Mỗi lần
bay, nhiên liệu chỉ cung cấp đủ phân nửa cơ số. Vốn là người nhạy cảm
trong cuộc sống, con ruồi bay qua tôi phân biệt ruồi đực hay ruồi cái,
huống chi chuyện nhiên liệu chỉ đủ bay một vòng trong bán kính hẹp. Điều lăn tăn mà tôi kể trên là như vậy đó….”. Nghĩa là họ sợ Trung bay luôn sang Thái Lan.
- “150 phi công thuộc sáu phi đoàn F5 của không lực Việt
Nam Cộng hoà khi đó đều ký tên chung vào một lá đơn tình nguyện “Xin
được chết vì Hoàng Sa”…. - “Mặt khác, thời gian sống trong đội ngũ không lực Sài Gòn cho
tôi một niềm tin rằng vợ tôi, một người phụ nữ không liên quan gì đến
công việc của tôi, con tôi còn quá nhỏ (đứa lớn mới 5 tuổi, đứa nhỏ chưa
tròn năm) sẽ không bị đối xử một cách tàn nhẫn. Thực tế diễn ra đúng như tôi dự đoán. Cánh an ninh không quân đưa
xe đến nhà bắt vợ con tôi. Vợ tôi phản đối vì mình không biết gì về
công việc của chồng. Họ từ tốn: “Thưa bà, chúng tôi không bắt bà (nếu
bắt chúng tôi đã dùng còng số 8, trói bà chẳng hạn), chúng tôi tới đây
mời bà vào phòng an ninh sư đoàn, với trách nhiệm bảo vệ sự an toàn tính
mạng của bà và các con bà. Nếu bà có tài sản quý giá nào thì bà cứ mang
theo”. - “Một tuần sau vợ và con tôi bị đưa từ Biên Hoà về số 4 Nguyễn
Bỉnh Khiêm – Sài Gòn cho đến ngày 30.4.1975. Đương nhiên, họ vẫn điều
tra vợ tôi về những gì liên quan đến tôi, nhưng không bị đối xử vô nhân
đạo. Có thể đó là những người có học và biết cách ứng xử một cách văn hoá với người thân của kẻ thù”.
- “Trong thời gian vợ tôi bị giam ở số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm, trung
tướng không quân Trần Văn Minh đến thăm với tư cách người chỉ huy có
một người lính phản chiến. Ông ấy hỏi vợ tôi có cần bạn bè, người thân
đến chuyện trò gì không hay cần mua sắm gì thì ông sẽ giúp đỡ”.
Tội tin NTT vì 5 ông phi đoàn trưởng còn đó, 150 philot cũng còn đó,
nó không thể bịa ra được bởi vì hễ anh ta bịa thì ít nhất một trong 5
ông phi đoàn trưởng hoặc một trong 150 tên pilot sẽ lên tiếng phản đối. Bài phỏng vấn được phổ biến từ tháng 4 năm 2013, đến nay chằng có một
người nào trong số 5 ông Phi đoàn trưởng hoặc 150 pilot lên tiếng phản
đối, chứng tỏ chuyện mà Trung nói là có thật. Website của Không quân
VNCH luôn luôn mở rộng cho các Pilot lên tiếng. Vậy tại sao họ lại không
lên tiếng? Mà hễ không ai lên tiếng thì có nghĩa là có thật.
Vấn đề nên quan tâm Bài phỏng vấn Nguyễn Thành Trung mới đầu được đăng trên Sài Gòn Tiếp
Thị, là tờ báo kinh tế của Mỹ tại VN, Huy Đức là người làm việc cho SGTT
với mức lương 2.500 USD/ tháng. Huy Đức cũng được Mỹ cấp học bổng du
học tại HK hai lần, và hai con của Huy Đức cũng được cấp học bổng du học
tại HK. Vậy mà văn bài phỏng vấn của SGTT lại được đăng và lưu giữ trên truongtansang.net và nguyentandung.ogr. Vấn đề mà tôi quan tâm là tại sao một bài viết ca ngợi QLVNCH, ca
ngợi Nguyễn Văn Thiệu, và nói xấu CSVN lại được đăng trên Website của
Chủ tịch nước và của Thủ tướng? Vậy nên tìm hiểu xem ai là người có đủ quyền lực để buộc TTS, NTD
phải phổ biến lời ca tụng VNCH, ca tụng Nguyễn Văn Thiệu trên website
của Chủ tịch và Thủ tướng nước CSVN ? Chắc chắn không phải là Tổng bí thư Nguyển Phú Trọng hay Trung ương ĐCSVN. BÙI ANH TRINH
Đầu năm đọc Chủ Tịch Sang, nhớ Tổng Thống Thiệu
Nguyễn Bá Chổi (Danlambao)
- Đầu năm mới 2015, đọc bài viết của Chủ tịch nước CHXHCNCC Trương Tấn
Sang, rồi nhìn lại những vụ “đảng ta” bắt bớ bờ-lốc-gơ dồn dập cuối năm
vừa rồi, Bá tước De Balais càng khâm phục ông Tổng Thống nước Việt Nam
Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu.
Dù là một người nước ngoài mắt xanh mũi lõ, nhưng, “như trời đất sinh ra
một anh ở Phía Tây, một anh ở phía Đông” gác cho nhau ngủ nghỉ, anh gặm
mía, anh khoai mì (trước khi đổi mới tư duy, hít bã Mỹ Cút), Bá tước De
Balais được thầy bấm cho lá số tử vi có mạng thân cư thê ở tít bên kia
nửa vòng trái đất là Bá tước phu nhân, dân Hải Phòng, Bắc Kỳ ri cư 54
hiện cư ngụ tại Thành phố Vũng Tàu nên dù muốn dù không thì- Bá tước lẩm
bẩm, “Les choses sont faites”- chuyện đã rồi (lấy vợ Mít)- không còn
con đường nào khác hơn là “bằng lòng cam chịu y như tay Chúa ban xuống
cho tôi”, cứ thế mà trôi theo vận nước vợ; tính đến nay đã qua hai chế
độ Tư Bản và Cộng Sản.
Qua hai chế độ, đương nhiên không ít thì nhiều cũng được/bị thừa hưởng
gia tài của chế độ mình được/bị sống với, nhưng gia tài chế độ cũ VNCH
để lại cho Bá tước Balais cũng như 30 triệu công dân của nước phu nhân
đã bị thiêu rụi sau ngày Phỏng hai hòn, ngoại trừ một thứ không cháy thể
cháy được và không thể “cải tạo” được. Đó là lời phán truyền của “vạn
thế sư biểu” Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng nghe những gì CS nói, nhưng hãy
nhìn những gì CS làm”, đúng y chang lời bác Hồ “Sông có thể cạn, núi có
thể mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi”.
Còn “gia tài” của chế độ mới CHXHCNCC thì nhiều vô kể, toàn là những gì CS nói một đàng, CS làm một nẻo.
Chỉ tính chuyện CS nói đầu năm và CS làm sau đó trong năm, nghe cũng đủ
oải rồi. Nhưng cũng rán phấn đấu “lý lịch trích ngang” vài chuyện nói và
làm của CS, để gọi là tưởng nhớ ông thầy Nguyễn Văn Thiệu; bác Mao bác
Mác có thể sai, nhưng thầy Thiệu không bao giờ sai khi bảo “Đừng nghe
những gì CS nói, nhưng hãy nhìn những gì CS làm”.
Nhớ 2014, trong thông điệp đầu năm, Thủ tướng Ba Ếch, miệng bô bô nhu
cầu Dân Chủ và Cải cách Thể chế, nhưng liền ngay tay cầm còng hơi bị
nhiều, nặng hơn những năm trước đi “bắt quả tang” những Bờ-lô-gơ vì cả
tin lời Thủ tướng mà mở nỗi lòng khát khao Nhu cầu Dân Chủ và Cải Cách
Thể Chế.
Nay mới đầu năm Dương lịch 2015, Chủ tịch nước CHXHCNCC Trương Tấn Sang
chưa gì đã nổ như pháo Tết ta, đại khái khôi phục lòng tin từ người dân,
bảo vệ chủ quyền đất nước.
“Lòng dân là quốc bảo dựng nước và giữ nước”, đọc lời CS Chủ tịch nước
Trương Tân Sang, nghe mà ham. Nhưng ông viết lên trong bối cảnh nào vậy?
Chỉ mới đây thôi, các ông Nguyễn Hữu Vinh/Anh ba Sàm, Hồng Lê Thọ/Người
Lót Gạch, Nguyễn Quang Lập/Quê Choa, Nguyễn đình Ngọc/Nguyễn Ngọc Già,
tất cả toàn là công dân của nước CHXHCNCC mà ông Sang làm chủ tịch bị
“bắt khẩn cấp”, “bắt quả tang” đang bày tỏ lòng dân một cách ôn hòa
trước tình trạng nguy kịch đất nước bởi thù trong lẫn giặc ngoài. Rồi
trong thời gian quan Tàu Du Chính Thanh sang VN mới đây, những người
người dân lâu nay lên tiếng đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia bị Côn
An rinh rập, khủng bố, đe dọa, bao vây, cô lập. Xem thế phải chăng
“nước” mà chủ tịch CS Sang yêu cầu dân Việt “dựng và giữ” là nước Chai
Na chai mặt chai mày trước dư luận quốc tế lên án vì hành động thảo khấu
trên Biển Đông.
Nước của Bá tước De Balais tuy chỉ là nước…Vợ, nhưng “Tiên sư Anh Tẹc Nét”,
cái gì nó cũng “phô” lên giữa thanh thiên bạch nhật, nên ngài thừa biết
chuyện nói và làm của CS thì nhiều vô kể, lấy sạch nước bể Đông làm mực
viết cũng không xong, và có kể ra cũng bằng thừa vì người nước ngoài
như bá tước mà còn rành sáu câu chuyện nói và làm của CS, thì huống hồ
là dân nước Vợ.
Bá tước De Balais mổ cò bài này chỉ để làm quà cho bá tước phu nhân dân
Hải Phòng có được vị Tổng thống tuy bị thần dân kết tội làm mất nước,
nhưng sự nghiệp của ông vẫn sống mãi trong lòng họ qua câu nói “Đừng
nghe những gì CS nói, nhưng hãy nhìn những gì CS làm”, mà chính đối
thủ của ông Thiệu lúc bấy giờ là Ông- cờ- lờ HÔ, dân nước Vợ gọi là “Bác
Hồ”cũng phải công nhận, “Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý
ấy không bao giờ thay đổi”.
Ông Nguyễn Bá Thanh đã điều trị tại Hoa Kỳ từ hồi tháng Tám năm ngoái
Thành ủy Đà Nẵng đang chuẩn bị cho việc đón Trưởng ban Nội chính Trung ương Nguyễn Bá Thanh từ Hoa Kỳ về nước chữa bệnh. Thông tin trên được ông Võ Công Trí, Phó Bí thư Thành ủy Đà Nẵng đưa ra trong cuộc phỏng vấn với BBC hôm 6/1. Ông Trí cũng cho biết chuyến bay được lên kế hoạch hôm 5/1 để đưa ông Thanh về nước đã bị hoãn vì "lý do thời tiết". "Hiện nay chưa có thông tin chính thức về chuyến bay đưa ông Thanh về," ông nói. "Thành
phố Đà Nẵng đang chuẩn bị tích cực. Chúng tôi sẽ làm hết sức mình để
phối hợp với Ban Bảo vệ Sức khỏe Trung ương tiến hành điều trị cho ông
Thanh thật tốt". Ông cho biết Khoa Ung bướu thuộc Bệnh viện Đà Nẵng đang thực hiện các khâu cần thiết để chuẩn bị cho việc đón ông Thanh. Tuy nhiên ông cũng nói đây chưa hẳn sẽ là nơi ông Thanh được điều trị khi trở về Việt Nam. "Hiện nay thành phố chủ động tích cực chuẩn bị như thế. Nhưng việc này phải do gia đình lựa chọn và quyết định," ông Trí nói. "Thứ hai là phải do quyết định từ cơ quan chuyên môn là Ban Bảo vệ Sức khỏe Trung ương." "Thành phố chuẩn bị các khả năng có thể thôi chứ không thể quyết định hoàn toàn về việc này." Cũng theo ông Trí, phía Sở Y tế thành phố Đà Nẵng "hoàn toàn chưa có" hồ sơ bệnh án của ông Thanh. Về tình trạng sức khỏe của ông Thanh, ông Trí cho biết là "vẫn ổn định và bình thường" "Các chuyên gia đang đảm bảo cho thể trạng của ông đủ tốt đi chuyến bay đường dài từ Mỹ về Việt Nam", ông nói. "Tôi nghe nói ông sẽ trở về cùng với các chuyên gia người Mỹ". Ngày 2/1, sân bay Đà Nẵng đã được thắt chặt an ninh trước tin đồn ông Thanh được đưa về nước trong cùng ngày. Tuy nhiên, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Trần Thọ đã bác bỏ thông tin này trong cuộc phỏng vấn với BBC cùng ngày. Mặc dù vậy, các báo trong nước cho biết vẫn có nhiều người dân Đà Nẵng đổ đến sân bay để ngóng tin. Hôm 1/1, một số người dân ở Đà Nẵng đã đến chùa cầu an cho ông Thanh, theo báo điện tử VnExpress. giúp đỡ với media player
Bình
luận về tin đồn trên các trang mạng những ngày qua về việc ông Thanh bị
đầu độc, ông Trí nói "những thông tin đó là không có cơ sở". "Tôi
cũng không hiểu lắm vì sao họ đưa ra những thông tin đó vào lúc này.
Nhưng cái đó là không có thật, không đủ cơ sở để tin cậy".
Trả lời
BBC chiều 6/1, một nhà quan sát trong nước cho rằng tình trạng 'nhiễu
loạn' thông tin hiện nay là do sự 'bưng bít thông tin' từ phía chính
quyền lẫn gia đình ông Thanh.
"Do chủ trương nhà nước và gia đình
bưng bít thông tin, làm người ta suy diễn rất nhiều chuyện và làm kích
thích sự tò mò của mọi người", blogger Huỳnh Ngọc Chênh nói.
"Những
thông tin trên xuất hiện vào đúng thời điểm trước Hội nghị Trung ương
10 làm người ta nghĩ có thể là nhằm tranh giành quyền lực, đả phá, bôi
nhọ lẫn nhau trong nội bộ".
"Bệnh tật của ông Thanh người ta xem như là bí mật quốc gia, trong khi đó là những thông tin bình thường".
"Chính
sự bưng bít đã tạo ra sự nhiễu loạn thông tin và những tin đồn, làm
xuất hiện những trang mạng này trang mạng khác muốn lợi dụng sự bưng bít
đó để tung thông tin".
"Trong khi đó, nhu cầu muốn biết sự thật của người dân dễ khiến họ tìm đến những trang như vậy".
Ông
Nguyễn Bá Thanh từng là lãnh đạo cao nhất ở Đà Nẵng trong nhiều năm
trước khi ra trung ương làm trưởng Ban Nội chính trung ương.
Trong
thời gian qua, công chúng Việt Nam đã có sự quan tâm rất lớn đến tình
hình sức khỏe ông Thanh khiến phát sinh tin đồn về bệnh tình của ông
trên mạng.
Một phần dư luận Việt Nam, ở cả Đà Nẵng và các địa
phương khác từng hy vọng vào độ quyết liệt của ông Thanh trong cuộc
chiến chống tham nhũng nhưng nay có ý kiến lo ngại với sự vắng mặt của
ông, công tác này phần nào bị ngưng trệ.
Chiếc tàu Blue Sky M tại bến cảng Gallipoli Ý, với hơn 800 thuyền nhân, mỗi người phải trả gần 6.000 đô la - Reuters
Thuyền
trưởng chiếc “tàu ma” Blue Sky đưa hơn 800 thuyền nhân Syria vượt biển
vào nước Ý đã khai nhiều tình tiết với báo chí Ý. Sarkis Rani, 36
tuổi,người Syria cho biết được đường dây buôn người trả công 25.000
đôla. Tàu khởi hành từ Thổ Nhĩ Kỳ, đi ngang qua Hy Lạp với hơn 800 người
xếp lớp như thú vật mà không bị kiểm soát. Sự tuyệt vọng của nạn nhân
chiến tranh đã bị lạm dụng tối đa.
Từ Roma, thông tín viên Huê Đăng cho biết thêm chi tiết.
RFI
: Từ Giáng Sinh đến nay, hàng ngàn thuyền nhân khởi hành từ các hải
cảng của Hy Lạp hay Thổ Nhĩ Kỳ bằng thương thuyền hay tàu chở súc vật
phế thải xâm nhập vào lãnh hải của Ý. Xin anh cho biết cụ thể chuyện gì
đang xẩy ra trên vùng biển Địa Trung Hải trong thời gian gần đây ?
Huê Đăng :
Đúng như vậy, trong những ngày qua các mạng truyền thông ở Ý đã đăng
tít lớn về hiện tượng thuyền nhân đang ồ ạt tiến vào lãnh hải của Ý trên
các con tàu hàng hải cũ. Đây là một hiện tượng mới, so với cách thức
vượt biển trước đây của các thuyền nhân, chủ yếu đến từ Bắc Phi, vốn
xưa chỉ dùng những chiếc ghe chài đánh cá hay các thuyền ca nô trên đó
có khoảng vài trăm thuyền nhân, thì bây giờ hiện tượng này đã “nâng cấp”
lên thành hàng ngàn thuyền nhân được nhồi nhét trên những chiếc thương
thuyền hàng hải cũ.
Khi những chiếc thương thuyền này sắp sửa vào
lãnh hải của Ý thì đội quân lái tàu đã nhanh chóng bỏ thương thuyền, gài
tay lái tự động, bỏ mặt thương thuyền cùng với hàng ngàn nhân mạng lững
lờ từ từ trôi vào hải phận của Ý. Đây là một phương thức mới của các tổ
chức vượt biển: họ không còn dùng những chiếc ghe chài hay ca-nô nhỏ để
đưa thuyền nhân nhập cư bất hợp pháp vào nước Ý, mà họ trực tiếp thu
mua thẳng những thương thuyền hàng hải cũ rồi dùng nó như phương tiện
đưa mỗi lần hàng ngàn thuyền nhân vượt biển vào nước Ý.
RFI : Thế thì trước hiện tượng làn sóng di dân nhập cư tăng vọt như trên, chính phủ Ý đã và đang đối phó như thế nào ?
Huê Đăng :
Như ta đã biết là trước đây chính phủ Ý đã có chương trình nhân đạo cứu
vớt thuyền nhân mang trên là “Mare Nostrum”. Chương trình này kéo dài
một năm bắt đầu từ tháng Mười 2013 và đã chấm dứt hồi tháng Mười 2014
vừa qua, và theo tin của Bộ Quốc phòng Ý thì trong thời gian đó Ý đã cứu
vớt được hơn 160.000 thuyền nhân.
Hiện nay, đã có chương trình
“Triton” thay thế, đây là một chương trình cứu vớt thuyền nhân của chính
Liên Hiệp Châu Âu (chứ không phải của riêng Ý như trường hợp “Mare
Nostrum” trước đây), và do cơ quan Frontex, một tổ chức của UE đặc trách
về vấn đề nhập cư đến từ các quốc gia ngoài Châu Âu. Nhưng vì lý do địa
lý, trên thực tế hiện nay các hoạt động cứu hộ ngay trên mặt biển phần
lớn vẫn do các lực lượng hải quân và biên phòng Ý đứng ra trực tiếp đảm
nhận.
RFI : Ngoài lý do địa lý như anh nói, cũng có thể
hiểu đây là chính sách nhân đạo của nhà nước Ý, dù rằng vấn đề này cũng
đã gây không ít tranh cãi chính trị với các lực lượng đảng phái bài
ngoại và căng thẳng với các chính phủ Châu Âu khác ?
Huê Đăng : Tạm
chưa hãy nói đến nhân đạo. Cụ thể là hiện tượng thuyền nhân đổ bộ ồ ạt
lên các đảo cực Nam nước Ý là một điều gần như là “tự nhiên” bởi vị trí
địa lý thiên nhiên của Ý đã biến vùng cực Nam của quốc gia này thành
điểm tiếp cận gần nhất của làn sóng thuyền nhân đến từ các vùng Nam Địa
Trung Hải để tràn vào lục địa Châu Âu. Dù muốn dù không, chính phủ Ý
cũng không thể nào làm ngơ trước cảnh hàng ngàn thuyền nhân trôi theo
sóng nước đổ vào các vùng đảo cực Nam nước Ý.
Ngoài ra, cũng nên
nhớ là ở Ý còn có Tòa thánh Vatican, và chắc chắn là các lực lượng chính
trị đảng phái của Ý, nhất là các lực lượng ít nhiều mang màu sắc Công
giáo, cũng không thể làm ngơ trước những tuyên bố nhân đạo của Tòa
Thánh. Đó là những mặt … mà ta có thể gọi là “tích cực” nhân đạo của Ý
trước hiện tượng thuyền nhân … Nhưng trên thực tế, không phải chỉ có
những mặc tích cực, mà còn có những … điều mà ta có thể gọi là “động cơ
tiêu cực” đến từ phía nước Ý.
RFI : Đông cơ tiêu cực ? Xin anh giải thích rõ hơn vấn đề ?
Huê Đăng :
Chuyện các người nhập cư bất hợp pháp vào nước Ý để rồi biến thành một
đội quân lao động “chui”, tức là lao động không chính thức, phần lớn nằm
ở các vùng nông nghiệp ở miền Nam nước Ý là chuyện mà từ mấy năm nay
báo chí Ý vẫn phanh phui ra. Đó là những lao động giá rẻ, không hề được
hưởng quyền lợi bảo vệ lao động, đó là những lao động lúc nào cũng có
thể bị o ép bức hiếp mà không thể nào đứng lên tố cáo bất kỳ ai vì chính
vị thế nhập cư bất hợp pháp của họ đã đặt họ ra ngoài vòng pháp luật.
Thậm
chí chính vì vị thế bất hợp pháp này, rất đông những người nhập cư bất
hợp pháp là đối tượng để các băng đảng Mafia xã hội đen lôi cuốn vào các
hoạt động bất chánh vì họ không có lựa chọn. Nhìn chung mà nói, có thể
nói là chính những thuyền nhân này đã đang trở thành một lực lương lao
động rẻ tiền, không được bảo vệ, dễ bị ức hiếp bóc lột của một số chủ
nhân ông bất lương hay của băng đảng Mafia.
Từ đó có thể thấy là
chính những băng đảng xã hội đen Mafia của Ý là những nhóm đứng ra liên
kết với những băng đảng xã hội đen của các quốc gia phía Bắc Phi hay các
vùng Nam Địa Trung Hải để tổ chức các tuyến buôn người, các mạng nô lệ
thời hậu hiện đại. Nhưng đó cũng chỉ mới là những mặt tiêu cực của các
băng đảng xã hội đen Mafia, hay của các chủ nhân ông vô nhân đạo của các
nông trại. Ngoài ra, còn cả những lực lượng chính trị, ngoài miệng thì
lớn tiếng đã kích bài ngoại nhưng bên trong lại chính là những bộ phận
đã sống cộng sinh một cách đắc lợi trước hiện tượng nhập cư bất hợp pháp
…
RFI : Cụ thể, hiện tượng cộng sinh nói trên là như thế nào ?
Huê Đăng : Trong
những tháng gần đây ở Ý đã nổ ra xì-căn-đan mà báo chí Ý gán tên là
“Mafia capitale”, tức là hiện tượng Mafia đã thâm nhập lũng đoạn các lực
lượng chính trị, các cơ chế nhà nước ở Thủ đô Roma. Đó là hiện tượng
tham nhũng hối lộ của các nhóm băng đảng xã hội đen cấu kết với một số
quan chức trong guồng máy hành chánh nhà nước ở thủ đô để cùng nhau chia
chác các khoảng tài trợ mà chính phủ Ý dành để đối phó vấn đề nhập cư
bất hợp pháp và để hỗ trợ những người tị nạn.
Cụ thể là chính phủ Ý
đã có những khoảng tài chính để xây dựng các cơ sở hậu cần để tiếp đón
bảo quản những người nhập cư bất hợp pháp, và chính các băng đảng Mafia
đã thâm nhập vào cơ chế nhà nước để có thể trúng thầu gần như toàn bộ
các công trình xây cất và các hoạt động hỗ trợ người tị nạn. Từ đó,
những người nhập cư bất hợp pháp, những thuyền nhân, nhưng người tị nạn
đã trở thành một nguồn lợi lớn để khai thác tài chính một cách bất hợp
pháp.
Nguồn khai thác này to lớn đến độ mà theo tiết lộ của báo
chí về các thông tin nghe lén điện thoại của cảnh sát để làm bằng cớ
truy tố các băng đảng, chính các tay thủ lãnh của băng đảng Mafia đã
khoe nhau rằng … “kinh doanh người nhập cư bất hợp pháp đang có
những thu hoạch tài chính to lớn gấp bao nhiêu lần so với các hoạt động
buôn lậu ma túy trước đây.”
David Thiên Ngọc (Danlambao) - Cứ
mỗi độ xuân về mở đầu cho một năm mới thì từ người dân cho đến các tập
đoàn KT hay các tổ chức trong XH cho đến chính phủ không riêng gì nơi
đâu mà hầu như trên toàn thế giới đều có vạch ra một chương trình hành
động cụ thể hướng tới tương lai cho một năm mới đầy hứa hẹn…
Đối với những vị nguyên thủ đứng đầu chính phủ, nhà nước thường có những
bài được gọi là “Thông điệp đầu năm” được đưa ra trước toàn dân như một
bản “hạ quyết tâm” mà vị nguyên thủ đó thay mặt cho cả một hệ thống cầm
quyền của một đất nước “tuyên thệ” với toàn dân và chịu trách nhiệm với
non sông đất nước về những gì trong cái thông điệp ấy nêu lên.
Đối với các nước trên thế giới thì những lời tuyên thệ cùng với chương
trình hành động được ban ra thì chính phủ, nhà nước ấy đến cuối năm soát
xét lại đều có thực hiện nhưng đến mức độ nào, mỹ mãn hay không là tùy
theo hoàn cảnh và điều kiện đặc thù nơi đó. Nhưng nói chung thì cái
thông điệp được ban ra từ đầu năm là một chương trình hành động cụ thể
là mục tiêu phải tiến tới và đạt được.
Riêng ở VN dưới chế độ độc tài cộng sản thì việc nói và làm của chính
phủ, nhà nước nơi đây tôi không phải nói thêm gì nữa mà ai ai cũng rõ.
Tuy nhiên họ vẫn nói, vẫn ban truyền, vẫn ra thông điệp… với những lời
lẽ mới mẻ đầy hương đầy sắc, đầy khí phách (đúng hơn là chướng khí) mà
người nghe đôi khi phải nhởn gai ốc nổi da gà.
Đầu năm 2014- Ông thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng đã phun ra một bản
thông điệp với một nội dung mà người nghe không thể tưởng tượng nổi bởi
với những ý tưởng cùng chương trình hành động với khẩu khí, khí phách đó
nếu thành hiện thực thì rõ ràng Nguyễn Tấn Dũng đã đọc bản tuyên bố
“cáo chung chế độ CSVN” vì nó hoàn toàn ngược lại với chế độ với thể
chế, đường lối mà đảng CSVN đang áp đặt cho toàn thể nhân dân VN trong
gần thế kỷ qua.
Trong thông điệp ấy có đoạn ông nói: "…Đổi mới thể chế và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân…”“…Tập
trung nỗ lực xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát huy mạnh mẽ quyền làm
chủ của Nhân dân…”; “…Nhà nước phải làm tốt chức năng kiến tạo phát
triển…” tựu trung ở các điểm mà ông thủ tướng muốn nhấn mạnh là: Cải
cách thể chế, xóa bỏ độc quyền, nắm vững ngọn cờ dân chủ, nhà nước kiến
tạo phát triển… với những mục tiêu trên thì rõ ràng đối với chế độ CSVN
là hoàn toàn ngược lại. Riêng với cụm từ “nhà nước kiến tạo phát triển”
thì hoàn toàn xa lạ đối với cả hệ thống kinh tế chính trị VN.
Đây là
một lối khoa trương cường điệu mà không ý thức được cái tầm và vị trí về
kiến thức của mình tới đâu mà Nguyễn Tấn Dũng được sự tham mưu một cách
tối kiến của cái ê-kíp đỉnh cao “trí tệ” của ông ta. Từ các cụm từ
“Lòng tin chiến lược” đến “thành tâm chính trị” mà trên thế giới người
ta đã từng dùng nhất là quan thầy Bắc Kinh mà vừa qua Ê-kíp tối kiến lại
lồng vào để cho Nguyễn Tấn Dũng khoa môi mà tưởng rằng sáng tạo mới mẻ ở
tầm cao. Giờ thì “nhà nước kiến tạo phát triển.” Theo tôi biết thì cái
cụm từ này là một mô hình do một vị GS ở trường đại học California- Hoa
Kỳ đưa ra từ năm 1982 nhưng trên thực tế chỉ mới là lý thuyết chưa được
kiểm chứng thực nghiệm nên nó chưa có một kết quả giá trị nào. Hơn nữa
đây là một mô hình nếu có giá trị thì cũng được áp dụng ở xã hội tư bản
giãy chết Hoa Kỳ mà thôi.
Kiểm chứng lại suốt cả năm 2014 với những gì nói và làm của Nguyễn Tấn
Dũng và chính phủ, nhà nước CSVN là hai chiến tuyến đối nghịch nhau. Mới
đầu năm khi nghe ông ta phát ra bản thông điệp thì người dân VN ai ai
cũng lóe lên trong đầu một tia hy vọng mặc dù vẫn biết là viễn vông
nhưng vẫn hy vọng với tâm thức của người đang đi trong sa mạc lâu ngày,
cơn khát đã đến hồi cực điểm mà nghe đâu đó có dòng nước mát.
Cụ thể qua các điểm, các mục tiêu như: “cải cách thể chế” thì đây chỉ là
mỵ ngôn, Nguyễn Tấn Dũng liệu có làm được một cuộc Perestroika như
Gorbachev ở Liên Xô vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước? trong lúc
sinh mệnh chính trị của ông nơi động Ba Đình sóng gió luôn chực hờ đổ ập
lên đầu ông và cuốn phăng lúc nào chưa biết mà đòi cải cách cả một hệ
thống chính sách, chính thể của chế độ? Đó chỉ là mỵ ngôn nhằm lừa dân
tộc. “Xóa bỏ độc quyền”! Độc quyền chính trị (điều 4 HP) là máu xương là
sống còn của đảng CSVN- Xóa bỏ độc quyền về chính trị là điều viễn vông
với cuồng vọng của tập đoàn CSVN, về kinh tế thì nó vẫn là cái đuôi của
chính trị cho nên nếu xóa bỏ độc quyền KT khác nào CSVN tự cầm dao mà
hoạn mình! Hủy đi cái phương tiện tuyệt vời để độc tài tham nhũng. Dẹp
bỏ đốt phá sân sau và từ bỏ đặc quyền đặc lợi, bòn rút xà xẻo nguyên khí
Quốc Gia.
Những con thuyền Vina… cùng các tập đoàn KT lớn là minh
chứng, vốn ODA là cụ thể. Trong suốt năm qua Nguyễn Tấn Dũng vẫn tuyên
bố các tập đoàn KT Quốc Doanh là chủ đạo. “Nắm chắc ngọn cờ dân chủ” hai
từ dân chủ mà Nguyễn Tấn Dũng phun ra hoàn toàn là một cái bánh vẽ to
tướng và đủ sắc màu. Các blogers lần lượt nhập kho từ đầu năm cho đến
những ngày cuối năm là thể hiện bản chất quá rõ ràng.
Những phiên tòa
bất công chưa nói là phi nhân và vô đạo liên tục diễn ra cho các nhà dân
chủ yêu nước như Bùi Hằng, Thúy Quỳnh, Văn Minh, các thanh niên công
giáo, các dân oan Dương Nội, các dân tộc thiểu số… và những án oan từ
hàng chục năm tù cho đến tử hình để phục vụ cho thành tích của ngành
công an, kiểm sát. Ngược lại các hành vi dùng nhục hình, tra tấn gây ra
những cái chết oan của công dân thì chỉ là những bản án qua loa cho có
lệ, luật sư giúp đỡ cho nạn nhân lại bị đe dọa và trù dập dưới nhiều
hình thức.
Khủng bố, đánh đập, sách nhiễu càng gắt gao hơn đối với các
nhà hoạt động dân chủ ôn hòa, kể cả các viên chức sứ quán của nước ngoài
cũng không là ngoại lệ. Côn an còn thể hiện cao độ tính côn đồ, dã thú
đối với nhân dân đưa đến cái chết của nhiều nạn nhân từ đồn bót cho đến
ngoài đường phố. Thậm chí gần cuối năm bộ côn an và quốc phòng còn đưa
ra thông điệp với nhiều hình thức trấn áp, dập tắt các dân oan khiếu
kiện, công nhân đình công và thành phần bị cho là đối lập có tư tưởng
chỉ trích và phản biện lại chế độ thần phục Bắc Kinh một cách ôn hòa,
minh bạch, tích cực và văn minh.
Về ngoại giao trên trường Quốc Tế thì Nguyễn Tấn Dũng phun ra những sáo ngữ mà không hề biết ngượng mồm từ “lòng tin chiến lược”, “thành tâm chính trị” “…ai đó áp đặt cường quyền với những đòi hỏi phi lý…” đến “hòa bình hữu nghị viễn vông”…
sau khi tuột xuống diễn đàn thì hoàn toàn quên hết (vì chỉ biết đọc lại
những lời của kẻ khác viết) và làm ngược lại. Như sau khi tuyên bố cứng
rắn về tình hình Biển Đông với những lời “hòa bình hữu nghị viễn vông”
ở Manila thì ngay sau đó quay về Hà Nội ngoan ngoãn ngã vào mình ôm hôn
thắm thiết Dương Khiết Trì qua thu hồi “đứa con hoang quay về với mẹ”!
rồi đưa ra sáng kiến ươn hèn với giặc là “vừa họp tác vừa đấu tranh” và
mới đây là phủ phục trước Du Chính Thanh qua ban lời chỉ dụ. Phải nói
rằng trong 4 tên đầu sỏ động Ba Đình, Nguyễn Tấn Dũng là tên điếm thối,
xảo ngôn nhất kể cả từ trước giờ trong cái guồng máy CSVN vô thần, vô
đạo.
Đầu năm 2015- Nếu Nguyễn Tấn Dũng tiếp tục bò lên để phun lời “xảo ngôn-
điếm ngữ” thì không biết sẽ ra sao? Sẽ có bao nhiêu là cà chua trứng
thối tới tấp bay vào kèm theo lắm điều xỉ vả. Do đó Ba Đình động sắp bày
cho con sâu róm Trương Tấn Sang thay vai diễn tuồng hề.
Thật tình mà nói, chỉ một cảm quan bình thường cho dù là đứa trẻ chứ
đừng nói một người có chút ít về hình tướng học thì ai mà chẳng phản cảm
với bản mặt “đần độn” của tư sâu? Nó toát ra một trời u mê và ngu muội…
thế mà leo lên ngồi ở ghế nguyên thủ Quốc Gia? Thật bất hạnh cho con
dân VN dưới thời cộng sản.
Các bạn cứ thử nhìn hình ảnh tư sâu cúi gập mình không thể thấp hơn được
nữa trước hàng lính của Trung cộng khi bò qua Bắc Kinh nhận chiếu chỉ
Thành Đô II là thấy cái hèn và nhục không giấu vào đâu cho hết.
Năm 2015 chắc hẳn là thời điểm mà nhân dân VN ngoan cường bước qua lằn
ranh của sự sợ hãi để nhìn thẳng vào mặt đảng CSVN vứt bỏ niềm tin mà
gần thế kỷ qua đã lầm tưởng lẫn sợ hãi miễn cưỡng trao.
Trong bài viết đầu năm nay ông Trương Tấn Sang đề cập tới vấn đề mấu chốt và sống còn là “khôi phục lại lòng tin của nhân dân, bảo vệ chủ quyền và vực dậy nền kinh tế…” qua đó ông gọi lòng dân là “Quốc bảo dựng nước và giữ nước.” Nơi
đây ông nói sự tụt hậu của nền kinh tế khiến đất nước khó tránh khỏi
rơi vào lệ thuộc, trở thành sân sau của người khác và rằng “Nếu tụt hậu thì khó có thể bảo vệ được độc lập, chủ quyền đất nước” về ngoại giao thì ông cho rằng "cần nhận diện ai là bạn, ai là thù, ai là đối tác... trong từng lĩnh vực, từng tình huống, hoàn cảnh cụ thể" và rằng “Những ai tôn trọng độc lập chủ quyền... hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta" ông viết tiếp: "Bất
kỳ thế lực nào có âm mưu, hành động chống phá mục tiêu của chúng ta
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... đều là đối tượng đấu
tranh".
Đến thời điểm này mà ông Trương Tấn Sang, đảng CSVN gọi là khôi phục
lòng tin của nhân dân thì e rằng đảng CSVN đã ngộ nhận. Bởi từ trước giờ
nhân dân VN chưa bao giờ thực tâm có niềm tin và tự nguyện trao lòng
tin cho đảng CSVN mà đảng CSVN cướp chính quyền từ tay nhân dân rồi tự
trao cho mình cái quyền cai trị nhân dân, quản lý xã hội và ngồi trên
hiến pháp và pháp luật mà ban bố cho nhân dân những gì mà đảng muốn.
Qua
các cuộc bầu cử tốn 7, 8 trăm tỉ đồng tiền thuế của người dân để cho
đảng diễn tuồng đã sắp sẵn rồi hàng năm mấy kỳ hội tụ lại hơn tháng trời
ăn hút lãnh phần chỉ để ngoan ngoãn gật gù một cách vô thức những gì
đảng đã vẽ… là chứng minh rằng người dân có bao giờ tự nguyện trao niềm
tin và quyền thay mặt nhân dân cho đảng? những lá phiếu chỉ là hình thức
với bản chất điếm lừa che mắt thế gian. Ngày nay tình hình chính trị đã
bước sang một kỷ nguyên mới và ý thức công dân về các quyền phải có đã
tiến lên nhiều. Do đó bức tường che chắn để cho bạo quyền tung hoành có
nguy cơ sụp đổ theo trào lưu trên thế giới.
Tôi thiết tưởng cũng nên nói thêm chỗ này về hai chữ niềm tin chẳng
những nó đã rơi vào tình trạng khủng hoảng trong toàn dân. Không riêng
về niềm tin mà đến độ là khủng hoảng toàn diện và trong cả các cán bộ
quan chức trong và ngoài đảng. Cái cụm từ “khủng hoảng sâu sắc và toàn
diện” hầu như nó đã lan man âm ỉ trong từng ngóc ngách, mọi hành lang
của cung vua, phủ chúa. Chính ông Lê Khả Phiêu cựu TBT đảng CSVN đã phải
thốt lên rằng: “Đảng hiện đang tồn tại trong suy thoái…”
Đảng CSVN không còn cái thời mà trọn quyền đi đêm, trốn lén, bí mật bò
qua biên giới để âm thầm bán nước cầu vinh được nữa. Mà người dân công
khai mạnh mẽ đứng lên đấu tranh đòi quyền phải biết những gì có quan hệ
đến sự tồn vong của đất nước giang san mà nhiều năm qua đảng đã che mắt
bịt tai nhân dân bằng họng súng đường gươm.
Ngày nay đảng CSVN nói “Lòng dân là Quốc bảo dựng nước và giữ nước”
là giáo điều, sáo ngữ mà người dân VN đã thấm đòn đau thương, máu lửa
gần thế kỷ qua dưới chế độ độc tài cộng sản thì dễ gì hôm nay tiếp nhận
một cách dễ dàng và đơn điệu?
Nói về KT các nước XHCN trước đây trên thế giới đã sụp đổ thì thiết
tưởng ta cũng không cần nói gì thêm nữa. Tuy nhiên với tình hình thực
tại của nền KT VN thời cộng sản với chiêu trò mông muội “KT thị trường
định hướng XHCN” thì trên thế giới này có một không hai-tôi đã từng ví
cái nền KT quái thai này như một người có hai bàn chân ngược nên khi
bước đi không ngã nhào mới là điều quá lạ.
Ông Trương Tấn Sang nói nền KT tụt hậu sẽ bị lệ thuộc và trở thành sân
sau (như một cái đuôi của con thú) của người khác mà không dám nói là
Tàu cộng Bắc Phương? Và một khi đã trở thành cái đuôi rồi thì độc lập
chủ quyền đất nước là điều xa lạ và lúc này cái quyền xác định ai bạn ai
thù, ai là bóc lột ai người tâm giao không còn của người VN nữa!
Muốn thoát khỏi cái ám ảnh này CSVN cần bỏ hẳn cái thói xấu “đu dây” và
phải minh bạch, thành tâm nhận chân cái giá của sự hai lòng mà trước đây
CSVN đã phải trả cho cuộc tình tay ba với hai gã tình nhân khổng lồ
tham sắc mê ăn Bắc Phương và điên rồ ra sức lội giữa hai dòng nước
ngược, trong lòng lại canh cánh nỗi niềm “Gát tay qua Tề e Sở giận- Quay
mình qua sở sợ Tề ghen.”
Ngoài ra để thoát khỏi vòng xoáy của cuồng lưu và vực dậy nền KT để
không bị rơi vào các thảm trạng nêu trên thì ngoài từ bỏ thói xấu đu
giây CSVN còn phải đoạn tuyệt với ý tưởng “ba không” mà cả tập đoàn CSVN
mấy năm qua tuyên bố.
Để vững bước đi trên con đường khôi phục lại tiền đồ thì trước mắt là
lối dẫn vào sân chơi TPP đầy hương sắc để hóa giải mọi nỗi niềm, mọi lo
âu trăn trở thì CSVN phải cúi đầu bước qua mái vòm với hai chữ NHÂN
QUYỀN trên đầu cổng! Liệu CSVN có đủ dũng khí vượt qua? Nếu không thì
bức tranh Kinh Tế- Chính Trị VN với gam màu u tối trong cái nền “khủng
hoảng sâu sắc và toàn diện”.
Và những luận điệu đầu năm cũng chỉ là cơn gió thoảng để rồi bay đi
trong chốc lát mà các diễn viên hề CSVN thay nhau diễn trò tuy sen màn
có khác nhau nhưng cùng trong một kịch bản được đưa ra từ động Ba Đình.
Tình trạng thặng dư nhiên liệu trên thị trường thế giới tạo ảnh hưởng
tai hại cho Nga là điều không thể tránh, dù Hoa Kỳ muốn tránh; đằng này
Hoa Kỳ lại không muốn tránh mà còn muốn gây áp lực kinh tế, đòi Nga nhả
bán đảo Crimea của Ukraine mà họ vừa thôn tính. Phản Công
Bài NGUYỄN ĐẠT THỊNH Phản công là phản ứng của một lực lượng quân sự sau khi bị tấn công, để
tái chiếm lãnh thổ bị địch chiếm, hoặc để gây tổn thất cho địch. Nã Phá
Luân viết, "Phút nguy hiểm nhất là phút mừng chiến thắng," vì đó cũng là
phút địch phản công. Từ Hàng Không Mẫu Hạm Vinson cất cánh đi tác chiến
Chiến lược gia Barack Obama có thể đang sống cái phút nguy hiểm nhất
trong cuộc tấn công kinh tế ông đánh vào ba quốc gia thù nghịch với Hoa
Kỳ -Nga, Iran và Venezuela, vì ông đang chiến thắng. Nga lên án Hoa Kỳ lôi kéo Saudi Arabia vào chiến lược đánh gục nền kinh
tế Nga bằng cách gia tăng quá đáng số lượng dầu bơm lên khỏi lòng giếng
để tạo ra tình trạng thặng dư -số cung nhiều hơn số cầu- khiến xăng, dầu
mất giá đến gần một nửa, và đồng ruble của Nga cũng mất giá theo. Nhiều cơ quan truyền thông Hoa Kỳ cho là lập luận này có phần đúng, ký
giả Mỹ Andrew Higgin đồng ý với lời buộc tội đó; anh viết, "Không thể
chối cãi dụng ý của Hoa Thịnh Đốn trong việc làm xăng, dầu mất giá; chỉ
riêng việc gia tăng sản xuất của Hoa Kỳ cũng đã đủ tạo tình trạng xăng,
dầu tràn ngập thị trường."
Thật ra, dù không cố ý, mức sản xuất xăng, dầu của Hoa Kỳ vẫn gia tăng
nhờ việc bành trướng kỹ thuật bơm dầu từ những lớp đá trong lòng đất
(shale); kỹ thuật này khiến đang từ vai trò nhập cảng nhiên liệu, Hoa Kỳ
trở thành một quốc gia có khả năng xuất cảng xăng, dầu, và khí đốt;
những thứ này vốn vẫn đem lại cho Nga gần một nửa tổng sản lượng quốc
gia.
Tình trạng thặng dư nhiên liệu trên thị trường thế giới tạo ảnh hưởng
tai hại cho Nga là điều không thể tránh, dù Hoa Kỳ muốn tránh; đằng này
Hoa Kỳ lại không muốn tránh mà còn muốn gây áp lực kinh tế, đòi Nga nhả
bán đảo Crimea của Ukraine mà họ vừa thôn tính. Cơ quan United States Energy Information -Tin Tức Về Năng Lượng Mỹ- cho
biết năm 2008 Hoa Kỳ có khả năng sản xuất mỗi ngày 5 triệu thùng dầu
thô, năm nay họ sản xuất 9 triệu thùng -gần gấp đôi. Mức gia tăng đó
khiến Hoa Kỳ sản xuất nhiều dầu hơn cả Iraq lẫn Iran, và không thể không
gây xáo trộn sinh hoạt trên thị trường xăng, dầu. Tổng Thống Barack Obama chủ trương gia tăng vai trò lãnh tụ thế giới của
Hoa Kỳ, trong lúc giảm thiểu tổn thất sinh mạng của người lính Mỹ; ông
thể hiện chủ trương đó bằng chiến lược "không chạm gót xuống đất" và
chiến lược "bóp nghẹt kinh tế" đối phương.
Chiến lược không chạm gót xuống đất đang giúp 6,000 người lính Mỹ -2%
khả năng quân sự của Hoa Kỳ- đánh bại lực lượng IS (Islam State) giúp
đem lại thắng thế cho cả 4 quốc gia Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Kurd, và Syria;
riêng Syria -chủ trương thù nghịch với Hoa Kỳ- nhưng vẫn hưởng lợi trong
việc Hoa Kỳ gây tổn thất nặng nề cho IS -lực lượng chính trong cuộc nội
chiến Syria.
Tác chiến trên chiến trường Trung Đông, nhưng 6,000 người lính Mỹ lại
không ăn, không ngủ trên bãi cát sa mạc, không đối diện với mìn bẫy, và
không là mục tiêu cho xe bom Ả Rập tàn sát. Họ ăn thức ăn nóng, ngủ
trong phòng lạnh, đọc sách trong thư viện, xem chiếu bóng, đánh bóng rổ
trên Hàng Không Mẫu Hạm Vinson, rồi cũng từ đó cất cánh bay vào chiến
trường tấn công những cánh quân IS đang di chuyển, hoặc đánh bom những
căn cứ họ ẩn trốn trên lãnh thổ 2 nước Iraq và Syria; tấn công địch
quân, tiêu diệt hàng chục, hàng trăm sinh mạng, mà họ nhẩn nha, nhàn hạ
như những viên chức đi làm công sở.
Chiến lược "không chạm gót xuống đất" chỉ tuyệt diệu trên chiến trường
Trung Đông; nhưng để đối phó với một đối thủ có khả năng quân sự lớn lao
như Nga, chiến lược gia Obama tránh không dùng đến quân đội, vì một
cuộc giao tranh giữa quân Mỹ và quân Nga tạo ra nguy cơ rất gần với một
cuộc thế chiến, trong đó nguy cơ tàn sát bằng võ khí nguyên tử là điều
có thể xẩy ra. Tuy cần tránh nguy cơ thế chiến, nhưng Hoa Kỳ cũng không thể để Nga đi
vào con đường lấn chiếm lân quốc như Đức Quốc Xã đã lấn chiếm 80 năm
trước -cuộc lấn chiếm đã làm bùng nổ Thế Chiến Thứ Nhì. Để tránh chiến tranh quân sự, Hoa Kỳ sử dụng chiến lược siết chặt, bóp
nghẹt kinh tế Nga; mỗi ngày đòn kinh tế một siết chặt hơn, bóp nghẹt
hơn, mặc dù Ủy Ban đặc trách Chính Sách Tài Chánh của Ngân Hàng Anh Quốc
báo động Hoa Kỳ đừng quá mạnh tay, vì chính Hoa Kỳ và Liên Âu cũng đang
gặp khó khăn do tình trạng giá xăng dầu hạ quá thấp. Nhưng Obama vẫn không để lực lượng đối lập với Hoa Kỳ -Nga, Iran và
Venezuela- thoát khỏi cảnh suy thoái kinh tế, trước khi họ gục ngã, như
chế độ Cộng Sản Nga đã gục ngã năm 1989, vì suy thoái kinh tế. Cựu tổng trưởng ngân khố Nga, ông Aleksei L. Kudrin, một trong những
người thân thiết của tổng thống Nga Vladimir V. Putin, vừa lên tiếng
khuyến cáo Putin nên cải thiện bang giao với Hoa Kỳ và Liên Âu trước khi
tình hình kinh tế Nga trở thành xấu hơn. Học giả Edward N. Luttwak -người đã viết nhiều tác phẩm về chiến lược
kinh tế, và cũng là cố vấn của Ngủ Giác Đài- nhận định, "Mỹ đang loại
nhiều cường quốc đối nghịch, mà không bắn một viên đạn nào cả."
Tại Iran -một trong 3 quốc gia chống Mỹ- tình trạng thâm thủng ngân sách
nghiêm trọng đến mức Iran đang cho phép những thanh niên đến tuổi quân
dịch không phải nhập ngũ nữa, vì ngân sách quốc phòng không còn đủ để
đón nhận thêm tân binh. Kinh tế gia Iran, ông Hossein Raghfar tuyên bố với tờ báo Etemaad,
"Chúng ta đang lâm vào cảnh cực kỳ túng quẫn; chính phủ cần tiền, rất
cần tiền, nhưng không tìm đâu ra tiền." Venezuela, cũng không khá gì hơn, vì 95% tổng sản lượng quốc gia là tiền
bán dầu; ỷ lại vào thế ngồi trên giếng dầu lớn nhất thế giới, Venezuela
giúp đỡ Cuba bằng cách bán dầu rẻ, và thực hiện nhiều chương trình xã
hội rộng rãi trong nước để giúp đỡ người nghèo. Giờ này họ đang thiếu
ngân khoản cần thiết để tài trợ những chương trình xã hội đó.
Không bán được dầu, thiếu ngoại tệ nhập cảng hàng hóa, nên Venezuela
thiếu thốn đủ thứ trên thị trường; thiếu đến cả những nhu yếu phẩm thông
thường nhất như xà bông giặt quần áo, đồ gia dụng, và đến cả thực phẩm
cũng trở nên khan hiếm, khiến quần chúng phải xếp hàng để mua. Nhưng, khốn đốn nhất vẫn là Nga; quần chúng mất tin tưởng vào giá trị
đồng ruble -đang mỗi ngày một mất giá hơn- mọi người đổ xô đi mua hàng,
mua bất cứ thứ gì để tiêu cho hết những đồng tiền đang trở thành giấy
lộn.
Không phải là một kinh tế gia, Putin tìm cách giải quyết tình trạng
tuyệt vọng kinh tế bằng một giải pháp quân sự cũng tuyệt vọng không kém:
hôm thứ Sáu 12/26 ông ký ban hành một bản "đường hướng quân sự" mới,
nhận định là lực lượng NATO (North Atlantic Treaty Organization-Tổ Chức
Liên Phòng Bắc Đại Tây Dương) là kẻ thù số 1, và đang trở thành mối hiểm
họa cho Nga, ông nói thêm là nhận định này có thể bắt buộc Nga sử dụng
loại vũ khí có đặc tính chính xác để đối phó với NATO.
Bản đường hướng quân sự chỉ trích chủ trương bành trướng của NATO tạo
tình trạng mất thăng bằng cho Nga và khuyến khích bọn khủng bố tấn công
Nga. Bản đường hướng quân sự cũng nêu đích danh Hoa Kỳ như một trong
những đe dọa cho Nga, và xác định là Nga có thể sử dụng vũ khí nguyên tử
để tự vệ chống một cuộc tấn công quân sự. Chắc chắn cả NATO lẫn Hoa Kỳ sẽ không tấn công Nga bằng lực lượng quân
sự; chiến lược kinh tế và vũ khí dầu hỏa đã đủ mạnh để đốt nóng cái ghế
tổng thống Nga của Putin. Ông không thể ngồi lâu trên mặt ghế quyền lực
đó mà không bị đốt cháy. Ông chỉ còn một khoảng thời gian rất ngắn để -hoặc trở về sinh hoạt
trong trật tự chung của thế giới, hoặc làm loạn- gây ra một cuộc thế
chiến vô cùng khiếp đảm, như Nã Phá Luân viết "phút nguy hiểm nhất là
phút mừng chiến thắng." (nđt)
VŨ KHÍ KINH TẾ
Nguyễn Đạt Thịnh
Tổng Thống Obama tổ chức họp báo trên sân Tòa Bạch Ốc, sau lưng là trực thăng đang chờ sẵn. Hôm thứ Năm 20 tháng 3, trước khi bay xuống Florida tham dự một cuộc vận
động tài trợ ứng cử (fund-raising), Tổng Thống Obama gặp phóng viên
truyền thông ngay trên sân cỏ Bạch Cung để loan báo trận tấn công thứ
nhì nhắm vào những nhân vật cự phú và thân cận với tổng thống Nga
Vladimir Putin. Ông trừng phạt những người này về tội đồng lõa với ông
Putin xâm lược Ukraine, chiếm Crimea.
Phóng viên Mark Landler của tờ The New York Times viết: “Cuộc họp báo
được tổ chức vội vã, với chiếc trực thăng chờ cất cánh ngay sau lưng
ông, khiến những điều tổng thống Obama công bố mang tính khẩn trương của
một biện pháp chiến tranh, nhằm đáp ứng tình hình đang biến chuyển trên
chiến trường Ukraine.”
Súng chưa nổ mà cuộc xâm lược đã thành công, Nga đã chiếm Crimea; nhưng
lại đang khựng đứng tại đó, chịu đựng cuộc phản công bằng bom kinh tế
của Mỹ.
Trong danh sách những nhân vật Hoa Kỳ vừa chọn để dội bom kinh tế lên
đầu, có ông Sergei B. Ivanov, tham mưu trưởng của Putin, ông Gennady N.
Timchenko, một nhà tỉ phú Nga nhiều liên hệ với ông Putin, và ông Yuri
V. Kovalchuk, nhân vật “tay hòm, chìa khóa” của nhiều lãnh tụ Nga, kể cả
ông Putin.
Obama còn nói ông đang tự chế – chỉ sử dụng những biện pháp trừng phạt
cá nhân – nhưng nếu những biện pháp này chưa đủ để khuyến cáo Nga, có
thể ông phải tấn công vào những mục tiêu lớn hơn trong kỹ nghệ dầu và
khí đốt của Nga. Ông hy vọng sẽ không phải sử dụng đến những biện pháp
đó, để không gây tổn thất quá lớn cho Nga, và tạo xáo trộn thị trường
thế giới. Tuy nhiên, nếu phải sử dụng đến những biện pháp này mới ngăn
chặn được cuộc tấn công Ukraine, ông sẽ không ngần ngại.
Nói cách khác, kỳ vương Obama cho đối thủ biết trước, nếu con chốt đỏ cứ
lầm lũi vượt biên, sang sông, ông sẽ gài thế song xa, đưa Putin vào thế
bí.
Viên chức hành pháp nói thêm là đợt tấn công kinh tế thứ nhì, tuy chỉ
nhắm vào những nhân vật thân cận của ông Putin, nhưng mang tầm vóc nặng
hơn những đòn kinh tế tấn công Iran năm ngoái, khiến nước này phải ngồi
vào bàn thương thuyết.
Trả đòn, Nga công bố trừng phạt 9 chính khách Hoa Kỳ, trong số có chủ
tịch Hạ Viện John A. Boehner, trưởng khối đa số Thượng Viện, Harry Reid,
nghị sĩ John McCain, và 3 cố vấn thân tín của ông Obama.
Obama nói, “Toàn bộ những trừng phạt kinh tế này đều do viên chức Nga tự
lựa chọn, Hoa Kỳ chỉ bắt họ trả giá cho hành động xâm lược của họ. Hoa
Kỳ đã cảnh cáo họ trước, giờ này họ mới thấy là chúng ta không nói
suông.”
Đợt trừng phạt đầu tiên xẩy ra vào ngày thứ Hai 17/3. Khi công bố biện
pháp tấn công kinh tế nhắm vào những cá nhân có trách nhiệm trong việc
xâm lược Ukraine, ông Obama nói là ông sẽ leo thang, hay xuống thang
trừng phạt tùy theo phản ứng của người Nga. Giờ này – chỉ 48 tiếng đồng
hồ sau lần đầu công bố trừng phạt – ông gia tăng số người bị phạt, và đe
còn mở rộng mục tiêu oanh tạc rộng hơn nữa, nếu cần.
Một viên chức hành pháp nói, “Sự trừng phạt chuyển từ những viên chức
chính phủ sang đám tay chân của ông Putin; trong những người bị trừng
phạt đợt sau có nhiều tay kinh tài của Putin.”
Hành pháp Mỹ dùng đợt trừng phạt kinh tế thứ nhì để đối phó với việc Nga
chuyển quân đến sát biên giới Đông và Nam của Ukraine, sẵn sàng vượt
biên giới để chiếm thêm nhiều vùng đông cư dân gốc Nga trú ngụ; Nga muốn
leo thang chiến tranh, tổng thống Obama vẫn gạt bỏ giải pháp tiếp cứu
quân sự.
Giới chiến lược đánh giá đợt trừng phạt thứ nhì là chính xác như một
cuộc truy kích bằng drones, chỉ nhắm vào túi tiền của những kẻ thân tín
với Putin chứ không gây tổn hại cho quần chúng Nga. Ông Anders Aslund –
nhân vật lão thành của Viện Peterson for International Economics –
chuyên nghiên cứu về tình hình kinh tế thế giới nhận định: “Tổn thất gây
ra không đáng kể trên tầm vóc quốc gia, nhưng rất lớn đối với một cá
nhân, hay một tổ chức; những cá nhân và tổ chức này lại kề cận với ông
Putin.
Nếu Âu Châu phối hợp biện pháp trừng phạt với Hoa Kỳ, và nếu Hoa Kỳ nới
rộng biện pháp trừng phạt qua địa hạt năng lượng thì kết quả sẽ rất
lớn.” Nhưng trừng phạt chưa leo thang, Obama vẫn cho đối phương có thời
giờ để tỏ thái độ: chọn hòa bình hay hay tiếp tục chọn con đường xâm
lược.
Danh sách do bộ Ngân Khố còn có tên 16 viên chức cao cấp và tổng giám
đốc những Công Ty Quốc Doanh, những nhân vật này đều có liên hệ cố cựu
với ông Putin; một số cũng đang bị Liên Âu trừng phạt. Bốn nhân vật mới trong danh sách phạm nhân là những người đã thu hoạch
tài sản lớn lao nhờ có liên hệ với chính quyền Nga; ngoài 2 ông
Timchenki và Kovalchuk, là anh em ông Arkady và Boris Rotenberg, cả hai
cùng giầu bạc tỉ và cùng được chính phủ Nga cho lãnh mối thầu kiến trúc
khu Thế Vận Hội Sochi trị giá $7 tỉ mỹ kim.
Một ngân hàng cỡ trung -Bank Rossiya- cũng bị Bộ Ngân Khố Mỹ trừng phạt,
vì tỉ phú Kovalchuk nắm nhiều cổ phần nhất; Bank Rossiya không được
tiếp tục chuyển ngân bằng trị giá Mỹ kim nữa, và toàn bộ tài khoản của
ngân hàng này ký thác trong hệ thống ngân hàng Âu Châu đều bị phong tỏa.
Obama tuyên bố trong cuộc họp báo tốc hành là ông không chủ trương tấn
công toàn diện vào nền kinh tế Nga; giới chuyên viên kinh tế cũng tin là
ông chưa sử dụng đòn tối độc đó, chưa gây tổn thất cho hệ thống kỹ nghệ
gồm những cơ xưởng năng lượng, kim khí, hầm mỏ, và dịch vụ tài chánh.
Ông tuyên bố, “Viên chức Nga phải thấy là càng leo thang chiến tranh, họ
càng đưa Nga vào thế bị cô lập nhiều hơn.”
Cân nhắc lợi hại, các chuyên viên kinh tế cho rằng hậu quả cuộc tấn công
của Obama sẽ rất nhỏ cho nền kinh tế Hoa Kỳ, vì tầm vóc khiêm tốn của
kinh tế Nga, và mật độ doanh thương Nga-Hoa Kỳ cũng không quan trọng
lắm.
Viên chức Bộ Ngân Khố cho biết đã ghi nhận được những tín hiệu cho thấy
Nga thấm đòn tấn công kinh tế; một trong những tín hiệu này là tổ chức
đánh giá Standard & Poor vừa định giá kinh tế Nga xuống mức âm
-negative; đồng ruble của Nga cũng đã tuột giá trầm trọng. Tỉ phú
Timchenko còn loan báo bán gần như toàn bộ cổ phiếu trong tổ chức doanh
nghiệp Gunvor Group cho giám đốc điều hành của tổ chức này, để tránh hậu
quả trừng phạt kinh tế.
Phản ứng của Nga đối với đòn kinh tế thứ nhì là vừa bất bình vừa khinh
thị; ngoại trưởng Sergey V. Lavrov tuyên bố, “Những biện pháp trừng phạt
này phạm pháp, vì thiếu căn bản pháp lý quốc tế; không đạo luật nào cho
ông Obama được làm như ông đang làm.”
Phát ngôn viên của Putin, ông Dmitri S. Peskov, đe dọa Mỹ là họ cũng sẽ
có biện pháp trả đũa và những biện pháp này sẽ đến rất nhanh, Mỹ không
phải chờ đợi lâu.
Một trong những nhân vật bị trúng bom kinh tế – ông Vladimir I. Yakunin,
tổng giám đốc sở Hỏa Xa Nga – nói với hãng thông tấn Interfax, “Thật
đáng trách là Hoa Kỳ, quốc gia tự xưng là dân chủ, lại sử dụng những đòn
trừng phạt như vậy đối với việc làm lương thiện của Nga.”
Trong 2 cuộc điện đàm với ông Putin trước khi cuộc xâm lược Crimea xẩy
ra, chắc chắn Obama đã cảnh cáo Putin về những biện pháp trừng phạt bằng
vũ khí kinh tế của Mỹ, và về chiến thuật trừng trị đích danh từng cá
nhân, mà ông đã sử dụng để truy kích đích danh, và loại từng tên lãnh tụ
al-Qaeda ra khỏi vòng chiến.
Nga không là mục tiêu thí điểm để Obama trắc nghiệm công dụng của vũ khí
kinh tế; ông đã thử nghiệm thành công loại vũ khí này với Iran. Nga
cũng không giúp Obama thử nghiệm chiến thuật tấn công đích danh, và loại
từng thủ lãnh địch; Obama đã dùng chiến thuật này đánh tê liệt tổ chức
khủng bố al-Qaeda.
Đối thủ tương lai của Hoa Kỳ – Trung Cộng – đang theo dõi cuộc chiến
tranh xâm lược chiếm Crimea không đổ máu của Nga, và cuộc phản công
không nổ súng của Mỹ để hoàn chỉnh chiến lược mở rộng lãnh thổ về hướng
Nam, sát nhập vùng Cao Nguyên Việt Bắc vào lãnh thổ Tầu.
Hai con cá mà xếnh xáng Tập Cận Bình đang rình bắt bằng cả 2 tay là vừa
chiếm được lãnh thổ Việt Nam, vừa tiếp tục bán tạp hóa cho Wal Mart. Họ
Tập đang học tập kinh nghiệm của Putin – biết sợ, và biết cách tránh né
vũ khí kinh tế. NGUYỄN ĐẠT THỊNH ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~ * Trang bài viết của Nhà văn Nguyễn Đạt Thịnh – Viễn Đông Daily News Share this:
Cộng Đảng
là đảng vô sản nghĩa là gồm những người nghèo và it học . Marx đã đề cao
giai cấpvô sản là giai cấp cách mạng nhất, còn các giai cấp khác là
thành phần lưng chừng phản động, phản cách mạng. Theo Marx, Lenin,
Stalin sau đảo chính tháng mười đã đuổi các trí thức ra khỏi nước Nga để
sau đó bỏ tiền ra thuê các khoa học gia ngoại quốc với giá cắt cổ. .
Việt nam cũng thế. Năm 1930, Xô Viết Nghệ Tĩnh nổi dậy với khẩu hiệu "trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ" làm
cho trí thức bị tàn sát nặng nề. Nói đánh tư sản nghe ra còn ngửi được
vì bọn họ vu cáo nhà giàu bóc lột, còn trí thức như Tản Đà, Hàn Mặc Tử,
Lê Văn Trương, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng cũng là vô sản kia mà! Sao
Marx bất công và lệch lạc như thế?
Trong kháng
chiến chống Pháp, bọn Nguyễn Tuân, Văn Cao đã phải che giấu lý lịch trí
thức của mình bằng cách lấy vợ nông dân, nói tục, chửi thề, mặc áo quần
rách rưới, cả tháng không tắm rửa, ngủ dậy không đánh răng súc miệng.
Họ sợ nhất là bị phê bình tạch tạch sè (tiểu tư sản), hủ hóa và lãng
mạn, làm như nông dân không bao giờ sờ mu rùa và lòng thanh tịnh, đạo
đức cách mạng triệt để như bác Ba suốt đời hy sinh hạnh phúc gia đình
cho sự nghiệp cách mạng, chẳng bao giờ thấy con bướm vàng nó xòe đôi
cánh!
Bác chỉ
học lớp ba hay lớp nhì, và đã tự hào vô sản và khinh miệt trí thức, coi
trí thức là cục phân thế sao bác và đồng bọn phải tuyên truyền rằng bác
đỗ tiểu học, đỗ Thành Chung, học trường Quốc Học, làm thầy giáo trường
Dục Thanh Phan Thiết, học trường Bách Nghê Saigon dù chỉ vài tháng, vài
tuần? Và tại sao bác cũng phải chôm bút hiệu Nguyễn Ái Quốc của Phan Chu
Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền là những trí thức? Và khi
sang Nga, bác đâu có được học trường Phương Đông như Trần Văn Giàu,
Nguyễn Thị Minh Khai mà cũng hô lên mình học trường này? Chỉ có
bọn phong kiến mua quan bán tước mới cần bằng cấp, và bọn tay sai Pháp
Mỹ cần bằng cấp để làm thông phán, tối rượu sâm banh, sáng sữa bò , còn
giai cấp vô sản, và các chiến sĩ cách mạng đâu cần bằng cấp!Giật cầu,
phá đường, bắn sẻ, ám sát mới là nhiệm vụ vinh quang, đầu cần bằng cấp!
Sao lại phải khổ như thế nhĩ?
"Có âm
dương có vợ chồng", ai cũng thế cả. Ông Marx, ông Mao cũng có vợ con tại
sao bác lại muốn làm thánh khổ tu? Có ai bắt bác phải làm thế, nói thế?
Đi đâu, cả trăm, ngàn lần bác cứ nói ta hy sinh hạnh phúc cá nhân cho
cách mạng! Nhưng sự thực bác noí láo. Bác có cả tá đàn bà trẻ con xung
quanh bác. Hơn nữa bác mang bệnh nhi dâm, tội hãm hiếp phụ nữ, trẻ con
và giết người.Tại sao bác và cộng đảng phải giết Nông Thị Xuân và chị em
của bà ấy rồi quăng xác ra đường? Sao bác và cộng đảng điên cuồng và
khốn khổ như thế nhĩ?
Huỳnh Tâm
cho biết Mao, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai muốn đưa Hồ Tập Chương, người Hẹ,
gốc Đài Loan làm chủ tịch Việt Nam để biến Việt Nam thành một quận lị
của Trung Quốc. Họ bèn đưa tập "Ngục Trung Nhật Ký" của một tác
giả vô danh, trình độ thấp kém gán cho là tác phẩm của Hồ Chí Minh tức
Hồ Tập Chương. Các ông Lưu, Chu đều có học, và cả cái lò tình báo Hoa
Nam thiếu gì người tài lại đi làm một chuyện ấu trĩ như thế? Tại sao lại
để cái bìa ghi 1932-1933 mà lại bảo rằng ghi sai, phải là 1942-1943 là
thời gian Hồ Chí Minh bị Tưởng Giới Thạch bắt giam tại Quảng Tây- Trùng
Khánh! Bọn Trung Cộng khôn mà không ngoan. Muốn quảng cáo cho Hồ Chí Minh tại sao họ không bảo bọn văn nô làm một tập thơ và ghi là 1942-1943?
Lấy tập thơ
đề 1932-1933 mà bảo là 1942-1943 là dại dột, sao không xé tờ bỉa đi,
thay vào cái bìa ghi 1942-1943? Trung Cộng làm điều ngốc nghếch như vậy
khiến cho Hồ Chí Minh và Việt Cộng phải ra công chữa lửa mà chẳng ai
tin! Sao khổ như thế?
Trước
năm 2000, nhiều người vẫn còn theo Việt Cộng tin rằng Hồ Chí Minh là
Nguyễn Ái Quốc, là Nguyễn Tất Thành là người Việt Nam. Nếu ông Hồ là
người Việt Nam thì Ngục Trung Nhật Ký không phải của ông Hồ mà
của một người Hoa, có thể là của già Lý, theo như Giáo sư Lê Hữu Mục tố
cáo năm 1990. Việt Cộng cũng nhiều nhân tài nhưng trước tố cáo của GS Lê
Hữu Mục họ im lặng chỉ có vài con cầy tơ nhảy ra kêu gâu gâu mấy tiếng
yếu ớt. Gần đây
Trần Gia Phụng lại bồi thêm một quả búa tạ. Ông tố cáo. bác chôm thơ của
Vương Hàn mà gửi cho tướng Trần Canh. Bài thơ của Vương Hàn 28 chữ, bác
bê 21 chữ của người ta, thành ra bác thuổng 1/3 bài thơ của Vương Hàn.
Vương Hàn王翰(687 – 726) là một nhà thơ đời đường mà bài Lương châu từ là một
bài thơ nổi tiếng. Tôi xin ghi lại hai bài để độc giả thưởng thức tài
nghệ của Hồ Chí Minh, một nhà thơ lớn của Việt Cộng.
涼州詞
葡萄美酒夜光杯,
欲飲琵琶馬上催
醉臥沙場君莫笑,
古來征戰幾人回
Bồ
đào mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
Rượu đào, uống chén dạ quang
Chưa say, đàn địch gọi vang lên đường
Chớ cười say ngủ sa trường,
Chiến chinh mấy kẻ lên đường về quê!
赠陈赓同志 香槟美酒夜光杯,
欲饮琵琶马上催
醉卧沙场君莫笑,
敌兵休放一人回!”
Tặng
Trần Canh đồng chí
;Hồ Chí Minh
Hương tân mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm, tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Địch nhân hưu phóng nhất nhân hồi.
Tặng đồng chí Trần Canh
"Sâm banh" rượu ngọt chén lưu ly,
Muốn uống mà đàn giục ngựa phi
Say ngủ sa trường
chớ cười cợt,
Đừng tha quân giặc một tên về!
Hồ Chí Minh là người Trung Quốc sao lại ăn cắp thơ Trung Quốc? Ngục Trung Nhật
Ký chưa đủ nay lại lộ ra bài thơ Vương Hàn. Nếu ông là người Trung Quốc thì
sáng tác thơ Hán tự có gì khó khăn? Dù
không làm thơ được thì cũng chẳng sao.Một lãnh tụ sao lại có hành vi trẻ con và trộm đạo như thế?Sao bác suốt đời đạo văn? Sao bác khổ như thế?
Hơn
nữa bác là cộng sản, đạo đức và tư tưỏng " hoành tráng" sao lại chôm
một bài thơ phản động, phong kiến, lạc hậu như thế bởi vì quân đội và
tướng cách mạng đâu có uống rựợu say trên sa trường? Đó là chuyện khờ
khạo để cho quân địch lấy đó mà xuyên tạc quân cách mạng say sưa rượu
chè, hủ hóa, không có tinh thần chiến đấu và đạo đưc cách mạng! Than
ôi, lập trường của bác để đâu? Sao bác phải làm thơ, phải cóp thơ Vương
Hàn cho khổ thân như thế?
Sống
chết là chuyện thường vì ở đời mấy ai thoát khổ "sinh, lão, bệnh, tử"?
Ông Nguyễn Bá Thanh chữa không lành bệnh phải về. Tại sao có người muốn
xì tin ra, có người muốn bưng bít. Té ra dấu giếm, che đậy và dối trá là
căn bệnh mãn tính của Việt Cộng. Có gì quan trọng đâu mà phải bưng bít. Tại sao phải khổ thế nhĩ?.
Du Tử Lê là một trong những người đầu tiên sau 1975 được Mỹ bốc qua Mỹ. Ông làm thơ khá hay, đặc sắc nhất là bài " Khi tôi chết hãy đưa tôi ra biển.
Không cần phải đưa xác ông ra biển, ông cũng đã về Việt Nam in được vài
tập thơ. Xưa nay truyền thống Việt Nam in thơ là để tặng bạn bè chỉ có
tiểu thuyết là có giá nếu nổi danh. Sau 1975, tại Việt Nam sách in ra
nhà xuất bản tặng cho tác giả vài chục quyển thế là xong, không có tiền
xây nhà tậu xe như ngày xưa Lê Văn Trương, Bình Nguyên Lôc, Lê Xuyên...
Không hiểu người ta chi cho Du Tử Lê, Nhật Tiến bao nhiêu? Nhưng ta phải
khen Du Tử Lê đa tài. Ngoài tài thơ còn có tài xoay trở theo như Lão Tử
dạy:" Lưỡi mềm thì còn, răng cứng thì gẫy". Tuyệt hảo từ là bài thơ dưới đây:
MỘT BÀI THƠ CỦA DU TỬ LÊ (viết về 30 tháng Tư/ 1975) ai nhớ ngàn năm một nỗi mừng
Tháng tư đã đến rừng chưa thức Mưa vẫn chờ tôi ở cuối đường Có môi, không nói lời
ly biệt Và mắt chưa buồn như mộ bia
Tháng tư nao nức chiều quên tắt Chim bảo cây cành hãy lắng nghe Bước chân giải phóng từng khu phố Và tiếng chân người như suối reo
Tháng tư khao khát, ngày vô tận Tôi với người riêng một góc trời Làm sao ngưòi biết trời đang sáng Và cánh chim nào sẽ bỏ tôi
Tháng tư sum họp người đâu biết Cảnh tượng hồn tôi: một bóng cờ Với bao chiêng, trống, bao cờ xí Tôi đón anh về tự mỗi nơi
Tháng tư binh mã về ngang phố Đôi mắt nhìn theo một nỗi mừng Đêm ai tóc phủ mềm da lụa Tôi với người chung một bóng cờ
Tháng tư nắng ngọt hoa công chúa Riêng đoá hoàng lan trong mắt tôi Làm sao anh biết khi xa bạn Tôi cũng như người: Một nỗi vui
Tháng tư chăn
gối nồng son, phấn Đêm với ngày trong một tấm gương Thịt, xương đã trả hờn sông, núi Tôi với người, ai mang vết thương?
Tháng tư rồi sẽ ngàn năm nhớ Rừng sẽ vì tôi nức nở hoài Mắt ai ngu sẽ như bia mộ Ngựa có về qua cũng thiếu đôi
Tháng tư nhắc nhở ngàn năm nữa! Cảnh tượng hồn tôi những miếu đền Trống, chiêng, cờ, xí như cơn mộng Mưa đã chờ tôị Mưa...đã ...mưa
Mai kia sống với vầng sao ấy người có còn thương một bóng ai Góc phố còn treo ngời lãnh tụ Ai nhớ ngàn năm một bóng ai?" Muôn
năm chánh sách Việt Cộng vẫn là đấu tố. Muốn về Việt Nam làm ăn thì
phải như Phạm Duy, Nguyễn Cao Kỳ, Bùi Duy Tâm ... phải quỳ lạy, phải ca
tụng Việt Cộng, phải chửi mình và tố người ngay cả tố cha mẹ mình nữa.
Thu Tứ ( con Võ Phiến) , Du Tử Lê đều đi theo con đường này. Sao khổ
thế nhĩ?
* Các cuộc Đảo chánh tại Vatican và
Mac-tư-khoa sẽ xảy ra trong Mùa Giáng Sinh cuối tháng 12 năm 2014 và Đầu Năm
2015. Giáo Hoàng Francis bị truất phế. Tổng Thống Nga Putin bị sát hại.
* Trận Nguyên
Tử Thế Chiến III sẽ bùng nổ vào lúc 6 giờ chiều ngày 4 tháng
Giêng năm 2015.
Kinh Thánh báo
trước ngày giờ cho Nga tấn-công tiêu-diệt Mỹ và các nước Đồng-Minh, nhưng đã tiên-tri trật
lất khiến cho Tổng-Thống Putin phải bật khóc!?
Chiếc tàu Blue Sky M tại bến cảng Gallipoli Ý, với hơn 800 thuyền nhân, mỗi người phải trả gần 6.000 đô la - Reuters
Thuyền
trưởng chiếc “tàu ma” Blue Sky đưa hơn 800 thuyền nhân Syria vượt biển
vào nước Ý đã khai nhiều tình tiết với báo chí Ý. Sarkis Rani, 36
tuổi,người Syria cho biết được đường dây buôn người trả công 25.000
đôla. Tàu khởi hành từ Thổ Nhĩ Kỳ, đi ngang qua Hy Lạp với hơn 800 người
xếp lớp như thú vật mà không bị kiểm soát. Sự tuyệt vọng của nạn nhân
chiến tranh đã bị lạm dụng tối đa.
Từ Roma, thông tín viên Huê Đăng cho biết thêm chi tiết.
RFI
: Từ Giáng Sinh đến nay, hàng ngàn thuyền nhân khởi hành từ các hải
cảng của Hy Lạp hay Thổ Nhĩ Kỳ bằng thương thuyền hay tàu chở súc vật
phế thải xâm nhập vào lãnh hải của Ý. Xin anh cho biết cụ thể chuyện gì
đang xẩy ra trên vùng biển Địa Trung Hải trong thời gian gần đây ?
Huê Đăng :
Đúng như vậy, trong những ngày qua các mạng truyền thông ở Ý đã đăng
tít lớn về hiện tượng thuyền nhân đang ồ ạt tiến vào lãnh hải của Ý trên
các con tàu hàng hải cũ. Đây là một hiện tượng mới, so với cách thức
vượt biển trước đây của các thuyền nhân, chủ yếu đến từ Bắc Phi, vốn
xưa chỉ dùng những chiếc ghe chài đánh cá hay các thuyền ca nô trên đó
có khoảng vài trăm thuyền nhân, thì bây giờ hiện tượng này đã “nâng cấp”
lên thành hàng ngàn thuyền nhân được nhồi nhét trên những chiếc thương
thuyền hàng hải cũ.
Khi những chiếc thương thuyền này sắp sửa vào
lãnh hải của Ý thì đội quân lái tàu đã nhanh chóng bỏ thương thuyền, gài
tay lái tự động, bỏ mặt thương thuyền cùng với hàng ngàn nhân mạng lững
lờ từ từ trôi vào hải phận của Ý. Đây là một phương thức mới của các tổ
chức vượt biển: họ không còn dùng những chiếc ghe chài hay ca-nô nhỏ để
đưa thuyền nhân nhập cư bất hợp pháp vào nước Ý, mà họ trực tiếp thu
mua thẳng những thương thuyền hàng hải cũ rồi dùng nó như phương tiện
đưa mỗi lần hàng ngàn thuyền nhân vượt biển vào nước Ý.
RFI : Thế thì trước hiện tượng làn sóng di dân nhập cư tăng vọt như trên, chính phủ Ý đã và đang đối phó như thế nào ?
Huê Đăng :
Như ta đã biết là trước đây chính phủ Ý đã có chương trình nhân đạo cứu
vớt thuyền nhân mang trên là “Mare Nostrum”. Chương trình này kéo dài
một năm bắt đầu từ tháng Mười 2013 và đã chấm dứt hồi tháng Mười 2014
vừa qua, và theo tin của Bộ Quốc phòng Ý thì trong thời gian đó Ý đã cứu
vớt được hơn 160.000 thuyền nhân.
Hiện nay, đã có chương trình
“Triton” thay thế, đây là một chương trình cứu vớt thuyền nhân của chính
Liên Hiệp Châu Âu (chứ không phải của riêng Ý như trường hợp “Mare
Nostrum” trước đây), và do cơ quan Frontex, một tổ chức của UE đặc trách
về vấn đề nhập cư đến từ các quốc gia ngoài Châu Âu. Nhưng vì lý do địa
lý, trên thực tế hiện nay các hoạt động cứu hộ ngay trên mặt biển phần
lớn vẫn do các lực lượng hải quân và biên phòng Ý đứng ra trực tiếp đảm
nhận.
RFI : Ngoài lý do địa lý như anh nói, cũng có thể
hiểu đây là chính sách nhân đạo của nhà nước Ý, dù rằng vấn đề này cũng
đã gây không ít tranh cãi chính trị với các lực lượng đảng phái bài
ngoại và căng thẳng với các chính phủ Châu Âu khác ?
Huê Đăng : Tạm
chưa hãy nói đến nhân đạo. Cụ thể là hiện tượng thuyền nhân đổ bộ ồ ạt
lên các đảo cực Nam nước Ý là một điều gần như là “tự nhiên” bởi vị trí
địa lý thiên nhiên của Ý đã biến vùng cực Nam của quốc gia này thành
điểm tiếp cận gần nhất của làn sóng thuyền nhân đến từ các vùng Nam Địa
Trung Hải để tràn vào lục địa Châu Âu. Dù muốn dù không, chính phủ Ý
cũng không thể nào làm ngơ trước cảnh hàng ngàn thuyền nhân trôi theo
sóng nước đổ vào các vùng đảo cực Nam nước Ý.
Ngoài ra, cũng nên
nhớ là ở Ý còn có Tòa thánh Vatican, và chắc chắn là các lực lượng chính
trị đảng phái của Ý, nhất là các lực lượng ít nhiều mang màu sắc Công
giáo, cũng không thể làm ngơ trước những tuyên bố nhân đạo của Tòa
Thánh. Đó là những mặt … mà ta có thể gọi là “tích cực” nhân đạo của Ý
trước hiện tượng thuyền nhân … Nhưng trên thực tế, không phải chỉ có
những mặc tích cực, mà còn có những … điều mà ta có thể gọi là “động cơ
tiêu cực” đến từ phía nước Ý.
RFI : Đông cơ tiêu cực ? Xin anh giải thích rõ hơn vấn đề ?
Huê Đăng :
Chuyện các người nhập cư bất hợp pháp vào nước Ý để rồi biến thành một
đội quân lao động “chui”, tức là lao động không chính thức, phần lớn nằm
ở các vùng nông nghiệp ở miền Nam nước Ý là chuyện mà từ mấy năm nay
báo chí Ý vẫn phanh phui ra. Đó là những lao động giá rẻ, không hề được
hưởng quyền lợi bảo vệ lao động, đó là những lao động lúc nào cũng có
thể bị o ép bức hiếp mà không thể nào đứng lên tố cáo bất kỳ ai vì chính
vị thế nhập cư bất hợp pháp của họ đã đặt họ ra ngoài vòng pháp luật.
Thậm
chí chính vì vị thế bất hợp pháp này, rất đông những người nhập cư bất
hợp pháp là đối tượng để các băng đảng Mafia xã hội đen lôi cuốn vào các
hoạt động bất chánh vì họ không có lựa chọn. Nhìn chung mà nói, có thể
nói là chính những thuyền nhân này đã đang trở thành một lực lương lao
động rẻ tiền, không được bảo vệ, dễ bị ức hiếp bóc lột của một số chủ
nhân ông bất lương hay của băng đảng Mafia.
Từ đó có thể thấy là
chính những băng đảng xã hội đen Mafia của Ý là những nhóm đứng ra liên
kết với những băng đảng xã hội đen của các quốc gia phía Bắc Phi hay các
vùng Nam Địa Trung Hải để tổ chức các tuyến buôn người, các mạng nô lệ
thời hậu hiện đại. Nhưng đó cũng chỉ mới là những mặt tiêu cực của các
băng đảng xã hội đen Mafia, hay của các chủ nhân ông vô nhân đạo của các
nông trại. Ngoài ra, còn cả những lực lượng chính trị, ngoài miệng thì
lớn tiếng đã kích bài ngoại nhưng bên trong lại chính là những bộ phận
đã sống cộng sinh một cách đắc lợi trước hiện tượng nhập cư bất hợp pháp
…
RFI : Cụ thể, hiện tượng cộng sinh nói trên là như thế nào ?
Huê Đăng : Trong
những tháng gần đây ở Ý đã nổ ra xì-căn-đan mà báo chí Ý gán tên là
“Mafia capitale”, tức là hiện tượng Mafia đã thâm nhập lũng đoạn các lực
lượng chính trị, các cơ chế nhà nước ở Thủ đô Roma. Đó là hiện tượng
tham nhũng hối lộ của các nhóm băng đảng xã hội đen cấu kết với một số
quan chức trong guồng máy hành chánh nhà nước ở thủ đô để cùng nhau chia
chác các khoảng tài trợ mà chính phủ Ý dành để đối phó vấn đề nhập cư
bất hợp pháp và để hỗ trợ những người tị nạn.
Cụ thể là chính phủ Ý
đã có những khoảng tài chính để xây dựng các cơ sở hậu cần để tiếp đón
bảo quản những người nhập cư bất hợp pháp, và chính các băng đảng Mafia
đã thâm nhập vào cơ chế nhà nước để có thể trúng thầu gần như toàn bộ
các công trình xây cất và các hoạt động hỗ trợ người tị nạn. Từ đó,
những người nhập cư bất hợp pháp, những thuyền nhân, nhưng người tị nạn
đã trở thành một nguồn lợi lớn để khai thác tài chính một cách bất hợp
pháp.
Nguồn khai thác này to lớn đến độ mà theo tiết lộ của báo
chí về các thông tin nghe lén điện thoại của cảnh sát để làm bằng cớ
truy tố các băng đảng, chính các tay thủ lãnh của băng đảng Mafia đã
khoe nhau rằng … “kinh doanh người nhập cư bất hợp pháp đang có
những thu hoạch tài chính to lớn gấp bao nhiêu lần so với các hoạt động
buôn lậu ma túy trước đây.”
David Thiên Ngọc (Danlambao) - Cứ
mỗi độ xuân về mở đầu cho một năm mới thì từ người dân cho đến các tập
đoàn KT hay các tổ chức trong XH cho đến chính phủ không riêng gì nơi
đâu mà hầu như trên toàn thế giới đều có vạch ra một chương trình hành
động cụ thể hướng tới tương lai cho một năm mới đầy hứa hẹn…
Đối với những vị nguyên thủ đứng đầu chính phủ, nhà nước thường có những
bài được gọi là “Thông điệp đầu năm” được đưa ra trước toàn dân như một
bản “hạ quyết tâm” mà vị nguyên thủ đó thay mặt cho cả một hệ thống cầm
quyền của một đất nước “tuyên thệ” với toàn dân và chịu trách nhiệm với
non sông đất nước về những gì trong cái thông điệp ấy nêu lên.
Đối với các nước trên thế giới thì những lời tuyên thệ cùng với chương
trình hành động được ban ra thì chính phủ, nhà nước ấy đến cuối năm soát
xét lại đều có thực hiện nhưng đến mức độ nào, mỹ mãn hay không là tùy
theo hoàn cảnh và điều kiện đặc thù nơi đó. Nhưng nói chung thì cái
thông điệp được ban ra từ đầu năm là một chương trình hành động cụ thể
là mục tiêu phải tiến tới và đạt được.
Riêng ở VN dưới chế độ độc tài cộng sản thì việc nói và làm của chính
phủ, nhà nước nơi đây tôi không phải nói thêm gì nữa mà ai ai cũng rõ.
Tuy nhiên họ vẫn nói, vẫn ban truyền, vẫn ra thông điệp… với những lời
lẽ mới mẻ đầy hương đầy sắc, đầy khí phách (đúng hơn là chướng khí) mà
người nghe đôi khi phải nhởn gai ốc nổi da gà.
Đầu năm 2014- Ông thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng đã phun ra một bản
thông điệp với một nội dung mà người nghe không thể tưởng tượng nổi bởi
với những ý tưởng cùng chương trình hành động với khẩu khí, khí phách đó
nếu thành hiện thực thì rõ ràng Nguyễn Tấn Dũng đã đọc bản tuyên bố
“cáo chung chế độ CSVN” vì nó hoàn toàn ngược lại với chế độ với thể
chế, đường lối mà đảng CSVN đang áp đặt cho toàn thể nhân dân VN trong
gần thế kỷ qua.
Trong thông điệp ấy có đoạn ông nói: "…Đổi mới thể chế và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân…”“…Tập
trung nỗ lực xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát huy mạnh mẽ quyền làm
chủ của Nhân dân…”; “…Nhà nước phải làm tốt chức năng kiến tạo phát
triển…” tựu trung ở các điểm mà ông thủ tướng muốn nhấn mạnh là: Cải
cách thể chế, xóa bỏ độc quyền, nắm vững ngọn cờ dân chủ, nhà nước kiến
tạo phát triển… với những mục tiêu trên thì rõ ràng đối với chế độ CSVN
là hoàn toàn ngược lại. Riêng với cụm từ “nhà nước kiến tạo phát triển”
thì hoàn toàn xa lạ đối với cả hệ thống kinh tế chính trị VN.
Đây là
một lối khoa trương cường điệu mà không ý thức được cái tầm và vị trí về
kiến thức của mình tới đâu mà Nguyễn Tấn Dũng được sự tham mưu một cách
tối kiến của cái ê-kíp đỉnh cao “trí tệ” của ông ta. Từ các cụm từ
“Lòng tin chiến lược” đến “thành tâm chính trị” mà trên thế giới người
ta đã từng dùng nhất là quan thầy Bắc Kinh mà vừa qua Ê-kíp tối kiến lại
lồng vào để cho Nguyễn Tấn Dũng khoa môi mà tưởng rằng sáng tạo mới mẻ ở
tầm cao. Giờ thì “nhà nước kiến tạo phát triển.” Theo tôi biết thì cái
cụm từ này là một mô hình do một vị GS ở trường đại học California- Hoa
Kỳ đưa ra từ năm 1982 nhưng trên thực tế chỉ mới là lý thuyết chưa được
kiểm chứng thực nghiệm nên nó chưa có một kết quả giá trị nào. Hơn nữa
đây là một mô hình nếu có giá trị thì cũng được áp dụng ở xã hội tư bản
giãy chết Hoa Kỳ mà thôi.
Kiểm chứng lại suốt cả năm 2014 với những gì nói và làm của Nguyễn Tấn
Dũng và chính phủ, nhà nước CSVN là hai chiến tuyến đối nghịch nhau. Mới
đầu năm khi nghe ông ta phát ra bản thông điệp thì người dân VN ai ai
cũng lóe lên trong đầu một tia hy vọng mặc dù vẫn biết là viễn vông
nhưng vẫn hy vọng với tâm thức của người đang đi trong sa mạc lâu ngày,
cơn khát đã đến hồi cực điểm mà nghe đâu đó có dòng nước mát.
Cụ thể qua các điểm, các mục tiêu như: “cải cách thể chế” thì đây chỉ là
mỵ ngôn, Nguyễn Tấn Dũng liệu có làm được một cuộc Perestroika như
Gorbachev ở Liên Xô vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước? trong lúc
sinh mệnh chính trị của ông nơi động Ba Đình sóng gió luôn chực hờ đổ ập
lên đầu ông và cuốn phăng lúc nào chưa biết mà đòi cải cách cả một hệ
thống chính sách, chính thể của chế độ? Đó chỉ là mỵ ngôn nhằm lừa dân
tộc. “Xóa bỏ độc quyền”! Độc quyền chính trị (điều 4 HP) là máu xương là
sống còn của đảng CSVN- Xóa bỏ độc quyền về chính trị là điều viễn vông
với cuồng vọng của tập đoàn CSVN, về kinh tế thì nó vẫn là cái đuôi của
chính trị cho nên nếu xóa bỏ độc quyền KT khác nào CSVN tự cầm dao mà
hoạn mình! Hủy đi cái phương tiện tuyệt vời để độc tài tham nhũng. Dẹp
bỏ đốt phá sân sau và từ bỏ đặc quyền đặc lợi, bòn rút xà xẻo nguyên khí
Quốc Gia.
Những con thuyền Vina… cùng các tập đoàn KT lớn là minh
chứng, vốn ODA là cụ thể. Trong suốt năm qua Nguyễn Tấn Dũng vẫn tuyên
bố các tập đoàn KT Quốc Doanh là chủ đạo. “Nắm chắc ngọn cờ dân chủ” hai
từ dân chủ mà Nguyễn Tấn Dũng phun ra hoàn toàn là một cái bánh vẽ to
tướng và đủ sắc màu. Các blogers lần lượt nhập kho từ đầu năm cho đến
những ngày cuối năm là thể hiện bản chất quá rõ ràng.
Những phiên tòa
bất công chưa nói là phi nhân và vô đạo liên tục diễn ra cho các nhà dân
chủ yêu nước như Bùi Hằng, Thúy Quỳnh, Văn Minh, các thanh niên công
giáo, các dân oan Dương Nội, các dân tộc thiểu số… và những án oan từ
hàng chục năm tù cho đến tử hình để phục vụ cho thành tích của ngành
công an, kiểm sát. Ngược lại các hành vi dùng nhục hình, tra tấn gây ra
những cái chết oan của công dân thì chỉ là những bản án qua loa cho có
lệ, luật sư giúp đỡ cho nạn nhân lại bị đe dọa và trù dập dưới nhiều
hình thức.
Khủng bố, đánh đập, sách nhiễu càng gắt gao hơn đối với các
nhà hoạt động dân chủ ôn hòa, kể cả các viên chức sứ quán của nước ngoài
cũng không là ngoại lệ. Côn an còn thể hiện cao độ tính côn đồ, dã thú
đối với nhân dân đưa đến cái chết của nhiều nạn nhân từ đồn bót cho đến
ngoài đường phố. Thậm chí gần cuối năm bộ côn an và quốc phòng còn đưa
ra thông điệp với nhiều hình thức trấn áp, dập tắt các dân oan khiếu
kiện, công nhân đình công và thành phần bị cho là đối lập có tư tưởng
chỉ trích và phản biện lại chế độ thần phục Bắc Kinh một cách ôn hòa,
minh bạch, tích cực và văn minh.
Về ngoại giao trên trường Quốc Tế thì Nguyễn Tấn Dũng phun ra những sáo ngữ mà không hề biết ngượng mồm từ “lòng tin chiến lược”, “thành tâm chính trị” “…ai đó áp đặt cường quyền với những đòi hỏi phi lý…” đến “hòa bình hữu nghị viễn vông”…
sau khi tuột xuống diễn đàn thì hoàn toàn quên hết (vì chỉ biết đọc lại
những lời của kẻ khác viết) và làm ngược lại. Như sau khi tuyên bố cứng
rắn về tình hình Biển Đông với những lời “hòa bình hữu nghị viễn vông”
ở Manila thì ngay sau đó quay về Hà Nội ngoan ngoãn ngã vào mình ôm hôn
thắm thiết Dương Khiết Trì qua thu hồi “đứa con hoang quay về với mẹ”!
rồi đưa ra sáng kiến ươn hèn với giặc là “vừa họp tác vừa đấu tranh” và
mới đây là phủ phục trước Du Chính Thanh qua ban lời chỉ dụ. Phải nói
rằng trong 4 tên đầu sỏ động Ba Đình, Nguyễn Tấn Dũng là tên điếm thối,
xảo ngôn nhất kể cả từ trước giờ trong cái guồng máy CSVN vô thần, vô
đạo.
Đầu năm 2015- Nếu Nguyễn Tấn Dũng tiếp tục bò lên để phun lời “xảo ngôn-
điếm ngữ” thì không biết sẽ ra sao? Sẽ có bao nhiêu là cà chua trứng
thối tới tấp bay vào kèm theo lắm điều xỉ vả. Do đó Ba Đình động sắp bày
cho con sâu róm Trương Tấn Sang thay vai diễn tuồng hề.
Thật tình mà nói, chỉ một cảm quan bình thường cho dù là đứa trẻ chứ
đừng nói một người có chút ít về hình tướng học thì ai mà chẳng phản cảm
với bản mặt “đần độn” của tư sâu? Nó toát ra một trời u mê và ngu muội…
thế mà leo lên ngồi ở ghế nguyên thủ Quốc Gia? Thật bất hạnh cho con
dân VN dưới thời cộng sản.
Các bạn cứ thử nhìn hình ảnh tư sâu cúi gập mình không thể thấp hơn được
nữa trước hàng lính của Trung cộng khi bò qua Bắc Kinh nhận chiếu chỉ
Thành Đô II là thấy cái hèn và nhục không giấu vào đâu cho hết.
Năm 2015 chắc hẳn là thời điểm mà nhân dân VN ngoan cường bước qua lằn
ranh của sự sợ hãi để nhìn thẳng vào mặt đảng CSVN vứt bỏ niềm tin mà
gần thế kỷ qua đã lầm tưởng lẫn sợ hãi miễn cưỡng trao.
Trong bài viết đầu năm nay ông Trương Tấn Sang đề cập tới vấn đề mấu chốt và sống còn là “khôi phục lại lòng tin của nhân dân, bảo vệ chủ quyền và vực dậy nền kinh tế…” qua đó ông gọi lòng dân là “Quốc bảo dựng nước và giữ nước.” Nơi
đây ông nói sự tụt hậu của nền kinh tế khiến đất nước khó tránh khỏi
rơi vào lệ thuộc, trở thành sân sau của người khác và rằng “Nếu tụt hậu thì khó có thể bảo vệ được độc lập, chủ quyền đất nước” về ngoại giao thì ông cho rằng "cần nhận diện ai là bạn, ai là thù, ai là đối tác... trong từng lĩnh vực, từng tình huống, hoàn cảnh cụ thể" và rằng “Những ai tôn trọng độc lập chủ quyền... hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta" ông viết tiếp: "Bất
kỳ thế lực nào có âm mưu, hành động chống phá mục tiêu của chúng ta
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... đều là đối tượng đấu
tranh".
Đến thời điểm này mà ông Trương Tấn Sang, đảng CSVN gọi là khôi phục
lòng tin của nhân dân thì e rằng đảng CSVN đã ngộ nhận. Bởi từ trước giờ
nhân dân VN chưa bao giờ thực tâm có niềm tin và tự nguyện trao lòng
tin cho đảng CSVN mà đảng CSVN cướp chính quyền từ tay nhân dân rồi tự
trao cho mình cái quyền cai trị nhân dân, quản lý xã hội và ngồi trên
hiến pháp và pháp luật mà ban bố cho nhân dân những gì mà đảng muốn.
Qua
các cuộc bầu cử tốn 7, 8 trăm tỉ đồng tiền thuế của người dân để cho
đảng diễn tuồng đã sắp sẵn rồi hàng năm mấy kỳ hội tụ lại hơn tháng trời
ăn hút lãnh phần chỉ để ngoan ngoãn gật gù một cách vô thức những gì
đảng đã vẽ… là chứng minh rằng người dân có bao giờ tự nguyện trao niềm
tin và quyền thay mặt nhân dân cho đảng? những lá phiếu chỉ là hình thức
với bản chất điếm lừa che mắt thế gian. Ngày nay tình hình chính trị đã
bước sang một kỷ nguyên mới và ý thức công dân về các quyền phải có đã
tiến lên nhiều. Do đó bức tường che chắn để cho bạo quyền tung hoành có
nguy cơ sụp đổ theo trào lưu trên thế giới.
Tôi thiết tưởng cũng nên nói thêm chỗ này về hai chữ niềm tin chẳng
những nó đã rơi vào tình trạng khủng hoảng trong toàn dân. Không riêng
về niềm tin mà đến độ là khủng hoảng toàn diện và trong cả các cán bộ
quan chức trong và ngoài đảng. Cái cụm từ “khủng hoảng sâu sắc và toàn
diện” hầu như nó đã lan man âm ỉ trong từng ngóc ngách, mọi hành lang
của cung vua, phủ chúa. Chính ông Lê Khả Phiêu cựu TBT đảng CSVN đã phải
thốt lên rằng: “Đảng hiện đang tồn tại trong suy thoái…”
Đảng CSVN không còn cái thời mà trọn quyền đi đêm, trốn lén, bí mật bò
qua biên giới để âm thầm bán nước cầu vinh được nữa. Mà người dân công
khai mạnh mẽ đứng lên đấu tranh đòi quyền phải biết những gì có quan hệ
đến sự tồn vong của đất nước giang san mà nhiều năm qua đảng đã che mắt
bịt tai nhân dân bằng họng súng đường gươm.
Ngày nay đảng CSVN nói “Lòng dân là Quốc bảo dựng nước và giữ nước”
là giáo điều, sáo ngữ mà người dân VN đã thấm đòn đau thương, máu lửa
gần thế kỷ qua dưới chế độ độc tài cộng sản thì dễ gì hôm nay tiếp nhận
một cách dễ dàng và đơn điệu?
Nói về KT các nước XHCN trước đây trên thế giới đã sụp đổ thì thiết
tưởng ta cũng không cần nói gì thêm nữa. Tuy nhiên với tình hình thực
tại của nền KT VN thời cộng sản với chiêu trò mông muội “KT thị trường
định hướng XHCN” thì trên thế giới này có một không hai-tôi đã từng ví
cái nền KT quái thai này như một người có hai bàn chân ngược nên khi
bước đi không ngã nhào mới là điều quá lạ.
Ông Trương Tấn Sang nói nền KT tụt hậu sẽ bị lệ thuộc và trở thành sân
sau (như một cái đuôi của con thú) của người khác mà không dám nói là
Tàu cộng Bắc Phương? Và một khi đã trở thành cái đuôi rồi thì độc lập
chủ quyền đất nước là điều xa lạ và lúc này cái quyền xác định ai bạn ai
thù, ai là bóc lột ai người tâm giao không còn của người VN nữa!
Muốn thoát khỏi cái ám ảnh này CSVN cần bỏ hẳn cái thói xấu “đu dây” và
phải minh bạch, thành tâm nhận chân cái giá của sự hai lòng mà trước đây
CSVN đã phải trả cho cuộc tình tay ba với hai gã tình nhân khổng lồ
tham sắc mê ăn Bắc Phương và điên rồ ra sức lội giữa hai dòng nước
ngược, trong lòng lại canh cánh nỗi niềm “Gát tay qua Tề e Sở giận- Quay
mình qua sở sợ Tề ghen.”
Ngoài ra để thoát khỏi vòng xoáy của cuồng lưu và vực dậy nền KT để
không bị rơi vào các thảm trạng nêu trên thì ngoài từ bỏ thói xấu đu
giây CSVN còn phải đoạn tuyệt với ý tưởng “ba không” mà cả tập đoàn CSVN
mấy năm qua tuyên bố.
Để vững bước đi trên con đường khôi phục lại tiền đồ thì trước mắt là
lối dẫn vào sân chơi TPP đầy hương sắc để hóa giải mọi nỗi niềm, mọi lo
âu trăn trở thì CSVN phải cúi đầu bước qua mái vòm với hai chữ NHÂN
QUYỀN trên đầu cổng! Liệu CSVN có đủ dũng khí vượt qua? Nếu không thì
bức tranh Kinh Tế- Chính Trị VN với gam màu u tối trong cái nền “khủng
hoảng sâu sắc và toàn diện”.
Và những luận điệu đầu năm cũng chỉ là cơn gió thoảng để rồi bay đi
trong chốc lát mà các diễn viên hề CSVN thay nhau diễn trò tuy sen màn
có khác nhau nhưng cùng trong một kịch bản được đưa ra từ động Ba Đình.
Tình trạng thặng dư nhiên liệu trên thị trường thế giới tạo ảnh hưởng
tai hại cho Nga là điều không thể tránh, dù Hoa Kỳ muốn tránh; đằng này
Hoa Kỳ lại không muốn tránh mà còn muốn gây áp lực kinh tế, đòi Nga nhả
bán đảo Crimea của Ukraine mà họ vừa thôn tính.
Phản Công
Bài NGUYỄN ĐẠT THỊNH
Phản công là phản ứng của một lực lượng quân sự sau khi bị tấn công, để
tái chiếm lãnh thổ bị địch chiếm, hoặc để gây tổn thất cho địch. Nã Phá
Luân viết, "Phút nguy hiểm nhất là phút mừng chiến thắng," vì đó cũng là
phút địch phản công.
Từ Hàng Không Mẫu Hạm Vinson cất cánh đi tác chiến
Chiến lược gia Barack Obama có thể đang sống cái phút nguy hiểm nhất
trong cuộc tấn công kinh tế ông đánh vào ba quốc gia thù nghịch với Hoa
Kỳ -Nga, Iran và Venezuela, vì ông đang chiến thắng.
Nga lên án Hoa Kỳ lôi kéo Saudi Arabia vào chiến lược đánh gục nền kinh
tế Nga bằng cách gia tăng quá đáng số lượng dầu bơm lên khỏi lòng giếng
để tạo ra tình trạng thặng dư -số cung nhiều hơn số cầu- khiến xăng, dầu
mất giá đến gần một nửa, và đồng ruble của Nga cũng mất giá theo.
Nhiều cơ quan truyền thông Hoa Kỳ cho là lập luận này có phần đúng, ký
giả Mỹ Andrew Higgin đồng ý với lời buộc tội đó; anh viết, "Không thể
chối cãi dụng ý của Hoa Thịnh Đốn trong việc làm xăng, dầu mất giá; chỉ
riêng việc gia tăng sản xuất của Hoa Kỳ cũng đã đủ tạo tình trạng xăng,
dầu tràn ngập thị trường."
Thật ra, dù không cố ý, mức sản xuất xăng, dầu của Hoa Kỳ vẫn gia tăng
nhờ việc bành trướng kỹ thuật bơm dầu từ những lớp đá trong lòng đất
(shale); kỹ thuật này khiến đang từ vai trò nhập cảng nhiên liệu, Hoa Kỳ
trở thành một quốc gia có khả năng xuất cảng xăng, dầu, và khí đốt;
những thứ này vốn vẫn đem lại cho Nga gần một nửa tổng sản lượng quốc
gia.
Tình trạng thặng dư nhiên liệu trên thị trường thế giới tạo ảnh hưởng
tai hại cho Nga là điều không thể tránh, dù Hoa Kỳ muốn tránh; đằng này
Hoa Kỳ lại không muốn tránh mà còn muốn gây áp lực kinh tế, đòi Nga nhả
bán đảo Crimea của Ukraine mà họ vừa thôn tính.
Cơ quan United States Energy Information -Tin Tức Về Năng Lượng Mỹ- cho
biết năm 2008 Hoa Kỳ có khả năng sản xuất mỗi ngày 5 triệu thùng dầu
thô, năm nay họ sản xuất 9 triệu thùng -gần gấp đôi. Mức gia tăng đó
khiến Hoa Kỳ sản xuất nhiều dầu hơn cả Iraq lẫn Iran, và không thể không
gây xáo trộn sinh hoạt trên thị trường xăng, dầu.
Tổng Thống Barack Obama chủ trương gia tăng vai trò lãnh tụ thế giới của
Hoa Kỳ, trong lúc giảm thiểu tổn thất sinh mạng của người lính Mỹ; ông
thể hiện chủ trương đó bằng chiến lược "không chạm gót xuống đất" và
chiến lược "bóp nghẹt kinh tế" đối phương.
Chiến lược không chạm gót xuống đất đang giúp 6,000 người lính Mỹ -2%
khả năng quân sự của Hoa Kỳ- đánh bại lực lượng IS (Islam State) giúp
đem lại thắng thế cho cả 4 quốc gia Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Kurd, và Syria;
riêng Syria -chủ trương thù nghịch với Hoa Kỳ- nhưng vẫn hưởng lợi trong
việc Hoa Kỳ gây tổn thất nặng nề cho IS -lực lượng chính trong cuộc nội
chiến Syria.
Tác chiến trên chiến trường Trung Đông, nhưng 6,000 người lính Mỹ lại
không ăn, không ngủ trên bãi cát sa mạc, không đối diện với mìn bẫy, và
không là mục tiêu cho xe bom Ả Rập tàn sát. Họ ăn thức ăn nóng, ngủ
trong phòng lạnh, đọc sách trong thư viện, xem chiếu bóng, đánh bóng rổ
trên Hàng Không Mẫu Hạm Vinson, rồi cũng từ đó cất cánh bay vào chiến
trường tấn công những cánh quân IS đang di chuyển, hoặc đánh bom những
căn cứ họ ẩn trốn trên lãnh thổ 2 nước Iraq và Syria; tấn công địch
quân, tiêu diệt hàng chục, hàng trăm sinh mạng, mà họ nhẩn nha, nhàn hạ
như những viên chức đi làm công sở.
Chiến lược "không chạm gót xuống đất" chỉ tuyệt diệu trên chiến trường
Trung Đông; nhưng để đối phó với một đối thủ có khả năng quân sự lớn lao
như Nga, chiến lược gia Obama tránh không dùng đến quân đội, vì một
cuộc giao tranh giữa quân Mỹ và quân Nga tạo ra nguy cơ rất gần với một
cuộc thế chiến, trong đó nguy cơ tàn sát bằng võ khí nguyên tử là điều
có thể xẩy ra.
Tuy cần tránh nguy cơ thế chiến, nhưng Hoa Kỳ cũng không thể để Nga đi
vào con đường lấn chiếm lân quốc như Đức Quốc Xã đã lấn chiếm 80 năm
trước -cuộc lấn chiếm đã làm bùng nổ Thế Chiến Thứ Nhì.
Để tránh chiến tranh quân sự, Hoa Kỳ sử dụng chiến lược siết chặt, bóp
nghẹt kinh tế Nga; mỗi ngày đòn kinh tế một siết chặt hơn, bóp nghẹt
hơn, mặc dù Ủy Ban đặc trách Chính Sách Tài Chánh của Ngân Hàng Anh Quốc
báo động Hoa Kỳ đừng quá mạnh tay, vì chính Hoa Kỳ và Liên Âu cũng đang
gặp khó khăn do tình trạng giá xăng dầu hạ quá thấp.
Nhưng Obama vẫn không để lực lượng đối lập với Hoa Kỳ -Nga, Iran và
Venezuela- thoát khỏi cảnh suy thoái kinh tế, trước khi họ gục ngã, như
chế độ Cộng Sản Nga đã gục ngã năm 1989, vì suy thoái kinh tế.
Cựu tổng trưởng ngân khố Nga, ông Aleksei L. Kudrin, một trong những
người thân thiết của tổng thống Nga Vladimir V. Putin, vừa lên tiếng
khuyến cáo Putin nên cải thiện bang giao với Hoa Kỳ và Liên Âu trước khi
tình hình kinh tế Nga trở thành xấu hơn.
Học giả Edward N. Luttwak -người đã viết nhiều tác phẩm về chiến lược
kinh tế, và cũng là cố vấn của Ngủ Giác Đài- nhận định, "Mỹ đang loại
nhiều cường quốc đối nghịch, mà không bắn một viên đạn nào cả."
Tại Iran -một trong 3 quốc gia chống Mỹ- tình trạng thâm thủng ngân sách
nghiêm trọng đến mức Iran đang cho phép những thanh niên đến tuổi quân
dịch không phải nhập ngũ nữa, vì ngân sách quốc phòng không còn đủ để
đón nhận thêm tân binh.
Kinh tế gia Iran, ông Hossein Raghfar tuyên bố với tờ báo Etemaad,
"Chúng ta đang lâm vào cảnh cực kỳ túng quẫn; chính phủ cần tiền, rất
cần tiền, nhưng không tìm đâu ra tiền."
Venezuela, cũng không khá gì hơn, vì 95% tổng sản lượng quốc gia là tiền
bán dầu; ỷ lại vào thế ngồi trên giếng dầu lớn nhất thế giới, Venezuela
giúp đỡ Cuba bằng cách bán dầu rẻ, và thực hiện nhiều chương trình xã
hội rộng rãi trong nước để giúp đỡ người nghèo. Giờ này họ đang thiếu
ngân khoản cần thiết để tài trợ những chương trình xã hội đó.
Không bán được dầu, thiếu ngoại tệ nhập cảng hàng hóa, nên Venezuela
thiếu thốn đủ thứ trên thị trường; thiếu đến cả những nhu yếu phẩm thông
thường nhất như xà bông giặt quần áo, đồ gia dụng, và đến cả thực phẩm
cũng trở nên khan hiếm, khiến quần chúng phải xếp hàng để mua.
Nhưng, khốn đốn nhất vẫn là Nga; quần chúng mất tin tưởng vào giá trị
đồng ruble -đang mỗi ngày một mất giá hơn- mọi người đổ xô đi mua hàng,
mua bất cứ thứ gì để tiêu cho hết những đồng tiền đang trở thành giấy
lộn.
Không phải là một kinh tế gia, Putin tìm cách giải quyết tình trạng
tuyệt vọng kinh tế bằng một giải pháp quân sự cũng tuyệt vọng không kém:
hôm thứ Sáu 12/26 ông ký ban hành một bản "đường hướng quân sự" mới,
nhận định là lực lượng NATO (North Atlantic Treaty Organization-Tổ Chức
Liên Phòng Bắc Đại Tây Dương) là kẻ thù số 1, và đang trở thành mối hiểm
họa cho Nga, ông nói thêm là nhận định này có thể bắt buộc Nga sử dụng
loại vũ khí có đặc tính chính xác để đối phó với NATO.
Bản đường hướng quân sự chỉ trích chủ trương bành trướng của NATO tạo
tình trạng mất thăng bằng cho Nga và khuyến khích bọn khủng bố tấn công
Nga. Bản đường hướng quân sự cũng nêu đích danh Hoa Kỳ như một trong
những đe dọa cho Nga, và xác định là Nga có thể sử dụng vũ khí nguyên tử
để tự vệ chống một cuộc tấn công quân sự.
Chắc chắn cả NATO lẫn Hoa Kỳ sẽ không tấn công Nga bằng lực lượng quân
sự; chiến lược kinh tế và vũ khí dầu hỏa đã đủ mạnh để đốt nóng cái ghế
tổng thống Nga của Putin. Ông không thể ngồi lâu trên mặt ghế quyền lực
đó mà không bị đốt cháy.
Ông chỉ còn một khoảng thời gian rất ngắn để -hoặc trở về sinh hoạt
trong trật tự chung của thế giới, hoặc làm loạn- gây ra một cuộc thế
chiến vô cùng khiếp đảm, như Nã Phá Luân viết "phút nguy hiểm nhất là
phút mừng chiến thắng." (nđt)
VŨ KHÍ KINH TẾ
Nguyễn Đạt Thịnh
Tổng Thống Obama tổ chức họp báo trên sân Tòa Bạch Ốc, sau lưng là trực thăng đang chờ sẵn.
Hôm thứ Năm 20 tháng 3, trước khi bay xuống Florida tham dự một cuộc vận
động tài trợ ứng cử (fund-raising), Tổng Thống Obama gặp phóng viên
truyền thông ngay trên sân cỏ Bạch Cung để loan báo trận tấn công thứ
nhì nhắm vào những nhân vật cự phú và thân cận với tổng thống Nga
Vladimir Putin. Ông trừng phạt những người này về tội đồng lõa với ông
Putin xâm lược Ukraine, chiếm Crimea.
Phóng viên Mark Landler của tờ The New York Times viết: “Cuộc họp báo
được tổ chức vội vã, với chiếc trực thăng chờ cất cánh ngay sau lưng
ông, khiến những điều tổng thống Obama công bố mang tính khẩn trương của
một biện pháp chiến tranh, nhằm đáp ứng tình hình đang biến chuyển trên
chiến trường Ukraine.”
Súng chưa nổ mà cuộc xâm lược đã thành công, Nga đã chiếm Crimea; nhưng
lại đang khựng đứng tại đó, chịu đựng cuộc phản công bằng bom kinh tế
của Mỹ.
Trong danh sách những nhân vật Hoa Kỳ vừa chọn để dội bom kinh tế lên
đầu, có ông Sergei B. Ivanov, tham mưu trưởng của Putin, ông Gennady N.
Timchenko, một nhà tỉ phú Nga nhiều liên hệ với ông Putin, và ông Yuri
V. Kovalchuk, nhân vật “tay hòm, chìa khóa” của nhiều lãnh tụ Nga, kể cả
ông Putin.
Obama còn nói ông đang tự chế – chỉ sử dụng những biện pháp trừng phạt
cá nhân – nhưng nếu những biện pháp này chưa đủ để khuyến cáo Nga, có
thể ông phải tấn công vào những mục tiêu lớn hơn trong kỹ nghệ dầu và
khí đốt của Nga. Ông hy vọng sẽ không phải sử dụng đến những biện pháp
đó, để không gây tổn thất quá lớn cho Nga, và tạo xáo trộn thị trường
thế giới. Tuy nhiên, nếu phải sử dụng đến những biện pháp này mới ngăn
chặn được cuộc tấn công Ukraine, ông sẽ không ngần ngại.
Nói cách khác, kỳ vương Obama cho đối thủ biết trước, nếu con chốt đỏ cứ
lầm lũi vượt biên, sang sông, ông sẽ gài thế song xa, đưa Putin vào thế
bí.
Viên chức hành pháp nói thêm là đợt tấn công kinh tế thứ nhì, tuy chỉ
nhắm vào những nhân vật thân cận của ông Putin, nhưng mang tầm vóc nặng
hơn những đòn kinh tế tấn công Iran năm ngoái, khiến nước này phải ngồi
vào bàn thương thuyết.
Trả đòn, Nga công bố trừng phạt 9 chính khách Hoa Kỳ, trong số có chủ
tịch Hạ Viện John A. Boehner, trưởng khối đa số Thượng Viện, Harry Reid,
nghị sĩ John McCain, và 3 cố vấn thân tín của ông Obama.
Obama nói, “Toàn bộ những trừng phạt kinh tế này đều do viên chức Nga tự
lựa chọn, Hoa Kỳ chỉ bắt họ trả giá cho hành động xâm lược của họ. Hoa
Kỳ đã cảnh cáo họ trước, giờ này họ mới thấy là chúng ta không nói
suông.”
Đợt trừng phạt đầu tiên xẩy ra vào ngày thứ Hai 17/3. Khi công bố biện
pháp tấn công kinh tế nhắm vào những cá nhân có trách nhiệm trong việc
xâm lược Ukraine, ông Obama nói là ông sẽ leo thang, hay xuống thang
trừng phạt tùy theo phản ứng của người Nga. Giờ này – chỉ 48 tiếng đồng
hồ sau lần đầu công bố trừng phạt – ông gia tăng số người bị phạt, và đe
còn mở rộng mục tiêu oanh tạc rộng hơn nữa, nếu cần.
Một viên chức hành pháp nói, “Sự trừng phạt chuyển từ những viên chức
chính phủ sang đám tay chân của ông Putin; trong những người bị trừng
phạt đợt sau có nhiều tay kinh tài của Putin.”
Hành pháp Mỹ dùng đợt trừng phạt kinh tế thứ nhì để đối phó với việc Nga
chuyển quân đến sát biên giới Đông và Nam của Ukraine, sẵn sàng vượt
biên giới để chiếm thêm nhiều vùng đông cư dân gốc Nga trú ngụ; Nga muốn
leo thang chiến tranh, tổng thống Obama vẫn gạt bỏ giải pháp tiếp cứu
quân sự.
Giới chiến lược đánh giá đợt trừng phạt thứ nhì là chính xác như một
cuộc truy kích bằng drones, chỉ nhắm vào túi tiền của những kẻ thân tín
với Putin chứ không gây tổn hại cho quần chúng Nga. Ông Anders Aslund –
nhân vật lão thành của Viện Peterson for International Economics –
chuyên nghiên cứu về tình hình kinh tế thế giới nhận định: “Tổn thất gây
ra không đáng kể trên tầm vóc quốc gia, nhưng rất lớn đối với một cá
nhân, hay một tổ chức; những cá nhân và tổ chức này lại kề cận với ông
Putin.
Nếu Âu Châu phối hợp biện pháp trừng phạt với Hoa Kỳ, và nếu Hoa Kỳ nới
rộng biện pháp trừng phạt qua địa hạt năng lượng thì kết quả sẽ rất
lớn.” Nhưng trừng phạt chưa leo thang, Obama vẫn cho đối phương có thời
giờ để tỏ thái độ: chọn hòa bình hay hay tiếp tục chọn con đường xâm
lược.
Danh sách do bộ Ngân Khố còn có tên 16 viên chức cao cấp và tổng giám
đốc những Công Ty Quốc Doanh, những nhân vật này đều có liên hệ cố cựu
với ông Putin; một số cũng đang bị Liên Âu trừng phạt.
Bốn nhân vật mới trong danh sách phạm nhân là những người đã thu hoạch
tài sản lớn lao nhờ có liên hệ với chính quyền Nga; ngoài 2 ông
Timchenki và Kovalchuk, là anh em ông Arkady và Boris Rotenberg, cả hai
cùng giầu bạc tỉ và cùng được chính phủ Nga cho lãnh mối thầu kiến trúc
khu Thế Vận Hội Sochi trị giá $7 tỉ mỹ kim.
Một ngân hàng cỡ trung -Bank Rossiya- cũng bị Bộ Ngân Khố Mỹ trừng phạt,
vì tỉ phú Kovalchuk nắm nhiều cổ phần nhất; Bank Rossiya không được
tiếp tục chuyển ngân bằng trị giá Mỹ kim nữa, và toàn bộ tài khoản của
ngân hàng này ký thác trong hệ thống ngân hàng Âu Châu đều bị phong tỏa.
Obama tuyên bố trong cuộc họp báo tốc hành là ông không chủ trương tấn
công toàn diện vào nền kinh tế Nga; giới chuyên viên kinh tế cũng tin là
ông chưa sử dụng đòn tối độc đó, chưa gây tổn thất cho hệ thống kỹ nghệ
gồm những cơ xưởng năng lượng, kim khí, hầm mỏ, và dịch vụ tài chánh.
Ông tuyên bố, “Viên chức Nga phải thấy là càng leo thang chiến tranh, họ
càng đưa Nga vào thế bị cô lập nhiều hơn.”
Cân nhắc lợi hại, các chuyên viên kinh tế cho rằng hậu quả cuộc tấn công
của Obama sẽ rất nhỏ cho nền kinh tế Hoa Kỳ, vì tầm vóc khiêm tốn của
kinh tế Nga, và mật độ doanh thương Nga-Hoa Kỳ cũng không quan trọng
lắm.
Viên chức Bộ Ngân Khố cho biết đã ghi nhận được những tín hiệu cho thấy
Nga thấm đòn tấn công kinh tế; một trong những tín hiệu này là tổ chức
đánh giá Standard & Poor vừa định giá kinh tế Nga xuống mức âm
-negative; đồng ruble của Nga cũng đã tuột giá trầm trọng. Tỉ phú
Timchenko còn loan báo bán gần như toàn bộ cổ phiếu trong tổ chức doanh
nghiệp Gunvor Group cho giám đốc điều hành của tổ chức này, để tránh hậu
quả trừng phạt kinh tế.
Phản ứng của Nga đối với đòn kinh tế thứ nhì là vừa bất bình vừa khinh
thị; ngoại trưởng Sergey V. Lavrov tuyên bố, “Những biện pháp trừng phạt
này phạm pháp, vì thiếu căn bản pháp lý quốc tế; không đạo luật nào cho
ông Obama được làm như ông đang làm.”
Phát ngôn viên của Putin, ông Dmitri S. Peskov, đe dọa Mỹ là họ cũng sẽ
có biện pháp trả đũa và những biện pháp này sẽ đến rất nhanh, Mỹ không
phải chờ đợi lâu.
Một trong những nhân vật bị trúng bom kinh tế – ông Vladimir I. Yakunin,
tổng giám đốc sở Hỏa Xa Nga – nói với hãng thông tấn Interfax, “Thật
đáng trách là Hoa Kỳ, quốc gia tự xưng là dân chủ, lại sử dụng những đòn
trừng phạt như vậy đối với việc làm lương thiện của Nga.”
Trong 2 cuộc điện đàm với ông Putin trước khi cuộc xâm lược Crimea xẩy
ra, chắc chắn Obama đã cảnh cáo Putin về những biện pháp trừng phạt bằng
vũ khí kinh tế của Mỹ, và về chiến thuật trừng trị đích danh từng cá
nhân, mà ông đã sử dụng để truy kích đích danh, và loại từng tên lãnh tụ
al-Qaeda ra khỏi vòng chiến.
Nga không là mục tiêu thí điểm để Obama trắc nghiệm công dụng của vũ khí
kinh tế; ông đã thử nghiệm thành công loại vũ khí này với Iran. Nga
cũng không giúp Obama thử nghiệm chiến thuật tấn công đích danh, và loại
từng thủ lãnh địch; Obama đã dùng chiến thuật này đánh tê liệt tổ chức
khủng bố al-Qaeda.
Đối thủ tương lai của Hoa Kỳ – Trung Cộng – đang theo dõi cuộc chiến
tranh xâm lược chiếm Crimea không đổ máu của Nga, và cuộc phản công
không nổ súng của Mỹ để hoàn chỉnh chiến lược mở rộng lãnh thổ về hướng
Nam, sát nhập vùng Cao Nguyên Việt Bắc vào lãnh thổ Tầu.
Hai con cá mà xếnh xáng Tập Cận Bình đang rình bắt bằng cả 2 tay là vừa
chiếm được lãnh thổ Việt Nam, vừa tiếp tục bán tạp hóa cho Wal Mart. Họ
Tập đang học tập kinh nghiệm của Putin – biết sợ, và biết cách tránh né
vũ khí kinh tế.
NGUYỄN ĐẠT THỊNH
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
* Trang bài viết của Nhà văn Nguyễn Đạt Thịnh – Viễn Đông Daily News
Share this:
Cộng Đảng
là đảng vô sản nghĩa là gồm những người nghèo và it học . Marx đã đề cao
giai cấpvô sản là giai cấp cách mạng nhất, còn các giai cấp khác là
thành phần lưng chừng phản động, phản cách mạng. Theo Marx, Lenin,
Stalin sau đảo chính tháng mười đã đuổi các trí thức ra khỏi nước Nga để
sau đó bỏ tiền ra thuê các khoa học gia ngoại quốc với giá cắt cổ. .
Việt nam cũng thế. Năm 1930, Xô Viết Nghệ Tĩnh nổi dậy với khẩu hiệu "trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ" làm
cho trí thức bị tàn sát nặng nề. Nói đánh tư sản nghe ra còn ngửi được
vì bọn họ vu cáo nhà giàu bóc lột, còn trí thức như Tản Đà, Hàn Mặc Tử,
Lê Văn Trương, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng cũng là vô sản kia mà! Sao
Marx bất công và lệch lạc như thế?
Trong kháng
chiến chống Pháp, bọn Nguyễn Tuân, Văn Cao đã phải che giấu lý lịch trí
thức của mình bằng cách lấy vợ nông dân, nói tục, chửi thề, mặc áo quần
rách rưới, cả tháng không tắm rửa, ngủ dậy không đánh răng súc miệng.
Họ sợ nhất là bị phê bình tạch tạch sè (tiểu tư sản), hủ hóa và lãng
mạn, làm như nông dân không bao giờ sờ mu rùa và lòng thanh tịnh, đạo
đức cách mạng triệt để như bác Ba suốt đời hy sinh hạnh phúc gia đình
cho sự nghiệp cách mạng, chẳng bao giờ thấy con bướm vàng nó xòe đôi
cánh!
Bác chỉ
học lớp ba hay lớp nhì, và đã tự hào vô sản và khinh miệt trí thức, coi
trí thức là cục phân thế sao bác và đồng bọn phải tuyên truyền rằng bác
đỗ tiểu học, đỗ Thành Chung, học trường Quốc Học, làm thầy giáo trường
Dục Thanh Phan Thiết, học trường Bách Nghê Saigon dù chỉ vài tháng, vài
tuần? Và tại sao bác cũng phải chôm bút hiệu Nguyễn Ái Quốc của Phan Chu
Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền là những trí thức? Và khi
sang Nga, bác đâu có được học trường Phương Đông như Trần Văn Giàu,
Nguyễn Thị Minh Khai mà cũng hô lên mình học trường này? Chỉ có
bọn phong kiến mua quan bán tước mới cần bằng cấp, và bọn tay sai Pháp
Mỹ cần bằng cấp để làm thông phán, tối rượu sâm banh, sáng sữa bò , còn
giai cấp vô sản, và các chiến sĩ cách mạng đâu cần bằng cấp!Giật cầu,
phá đường, bắn sẻ, ám sát mới là nhiệm vụ vinh quang, đầu cần bằng cấp!
Sao lại phải khổ như thế nhĩ?
"Có âm
dương có vợ chồng", ai cũng thế cả. Ông Marx, ông Mao cũng có vợ con tại
sao bác lại muốn làm thánh khổ tu? Có ai bắt bác phải làm thế, nói thế?
Đi đâu, cả trăm, ngàn lần bác cứ nói ta hy sinh hạnh phúc cá nhân cho
cách mạng! Nhưng sự thực bác noí láo. Bác có cả tá đàn bà trẻ con xung
quanh bác. Hơn nữa bác mang bệnh nhi dâm, tội hãm hiếp phụ nữ, trẻ con
và giết người.Tại sao bác và cộng đảng phải giết Nông Thị Xuân và chị em
của bà ấy rồi quăng xác ra đường? Sao bác và cộng đảng điên cuồng và
khốn khổ như thế nhĩ?
Huỳnh Tâm
cho biết Mao, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai muốn đưa Hồ Tập Chương, người Hẹ,
gốc Đài Loan làm chủ tịch Việt Nam để biến Việt Nam thành một quận lị
của Trung Quốc. Họ bèn đưa tập "Ngục Trung Nhật Ký" của một tác
giả vô danh, trình độ thấp kém gán cho là tác phẩm của Hồ Chí Minh tức
Hồ Tập Chương. Các ông Lưu, Chu đều có học, và cả cái lò tình báo Hoa
Nam thiếu gì người tài lại đi làm một chuyện ấu trĩ như thế? Tại sao lại
để cái bìa ghi 1932-1933 mà lại bảo rằng ghi sai, phải là 1942-1943 là
thời gian Hồ Chí Minh bị Tưởng Giới Thạch bắt giam tại Quảng Tây- Trùng
Khánh! Bọn Trung Cộng khôn mà không ngoan. Muốn quảng cáo cho Hồ Chí Minh tại sao họ không bảo bọn văn nô làm một tập thơ và ghi là 1942-1943?
Lấy tập thơ
đề 1932-1933 mà bảo là 1942-1943 là dại dột, sao không xé tờ bỉa đi,
thay vào cái bìa ghi 1942-1943? Trung Cộng làm điều ngốc nghếch như vậy
khiến cho Hồ Chí Minh và Việt Cộng phải ra công chữa lửa mà chẳng ai
tin! Sao khổ như thế?
Trước
năm 2000, nhiều người vẫn còn theo Việt Cộng tin rằng Hồ Chí Minh là
Nguyễn Ái Quốc, là Nguyễn Tất Thành là người Việt Nam. Nếu ông Hồ là
người Việt Nam thì Ngục Trung Nhật Ký không phải của ông Hồ mà
của một người Hoa, có thể là của già Lý, theo như Giáo sư Lê Hữu Mục tố
cáo năm 1990. Việt Cộng cũng nhiều nhân tài nhưng trước tố cáo của GS Lê
Hữu Mục họ im lặng chỉ có vài con cầy tơ nhảy ra kêu gâu gâu mấy tiếng
yếu ớt. Gần đây
Trần Gia Phụng lại bồi thêm một quả búa tạ. Ông tố cáo. bác chôm thơ của
Vương Hàn mà gửi cho tướng Trần Canh. Bài thơ của Vương Hàn 28 chữ, bác
bê 21 chữ của người ta, thành ra bác thuổng 1/3 bài thơ của Vương Hàn.
Vương Hàn王翰(687 – 726) là một nhà thơ đời đường mà bài Lương châu từ là một
bài thơ nổi tiếng. Tôi xin ghi lại hai bài để độc giả thưởng thức tài
nghệ của Hồ Chí Minh, một nhà thơ lớn của Việt Cộng.
涼州詞
葡萄美酒夜光杯,
欲飲琵琶馬上催
醉臥沙場君莫笑,
古來征戰幾人回
Bồ
đào mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
Rượu đào, uống chén dạ quang
Chưa say, đàn địch gọi vang lên đường
Chớ cười say ngủ sa trường,
Chiến chinh mấy kẻ lên đường về quê!
赠陈赓同志 香槟美酒夜光杯,
欲饮琵琶马上催
醉卧沙场君莫笑,
敌兵休放一人回!”
Tặng
Trần Canh đồng chí
;Hồ Chí Minh
Hương tân mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm, tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Địch nhân hưu phóng nhất nhân hồi.
Tặng đồng chí Trần Canh
"Sâm banh" rượu ngọt chén lưu ly,
Muốn uống mà đàn giục ngựa phi
Say ngủ sa trường
chớ cười cợt,
Đừng tha quân giặc một tên về!
Hồ Chí Minh là người Trung Quốc sao lại ăn cắp thơ Trung Quốc? Ngục Trung Nhật
Ký chưa đủ nay lại lộ ra bài thơ Vương Hàn. Nếu ông là người Trung Quốc thì
sáng tác thơ Hán tự có gì khó khăn? Dù
không làm thơ được thì cũng chẳng sao.Một lãnh tụ sao lại có hành vi trẻ con và trộm đạo như thế?Sao bác suốt đời đạo văn? Sao bác khổ như thế?
Hơn
nữa bác là cộng sản, đạo đức và tư tưỏng " hoành tráng" sao lại chôm
một bài thơ phản động, phong kiến, lạc hậu như thế bởi vì quân đội và
tướng cách mạng đâu có uống rựợu say trên sa trường? Đó là chuyện khờ
khạo để cho quân địch lấy đó mà xuyên tạc quân cách mạng say sưa rượu
chè, hủ hóa, không có tinh thần chiến đấu và đạo đưc cách mạng! Than
ôi, lập trường của bác để đâu? Sao bác phải làm thơ, phải cóp thơ Vương
Hàn cho khổ thân như thế?
Sống
chết là chuyện thường vì ở đời mấy ai thoát khổ "sinh, lão, bệnh, tử"?
Ông Nguyễn Bá Thanh chữa không lành bệnh phải về. Tại sao có người muốn
xì tin ra, có người muốn bưng bít. Té ra dấu giếm, che đậy và dối trá là
căn bệnh mãn tính của Việt Cộng. Có gì quan trọng đâu mà phải bưng bít. Tại sao phải khổ thế nhĩ?.
Du Tử Lê là một trong những người đầu tiên sau 1975 được Mỹ bốc qua Mỹ. Ông làm thơ khá hay, đặc sắc nhất là bài " Khi tôi chết hãy đưa tôi ra biển.
Không cần phải đưa xác ông ra biển, ông cũng đã về Việt Nam in được vài
tập thơ. Xưa nay truyền thống Việt Nam in thơ là để tặng bạn bè chỉ có
tiểu thuyết là có giá nếu nổi danh. Sau 1975, tại Việt Nam sách in ra
nhà xuất bản tặng cho tác giả vài chục quyển thế là xong, không có tiền
xây nhà tậu xe như ngày xưa Lê Văn Trương, Bình Nguyên Lôc, Lê Xuyên...
Không hiểu người ta chi cho Du Tử Lê, Nhật Tiến bao nhiêu? Nhưng ta phải
khen Du Tử Lê đa tài. Ngoài tài thơ còn có tài xoay trở theo như Lão Tử
dạy:" Lưỡi mềm thì còn, răng cứng thì gẫy". Tuyệt hảo từ là bài thơ dưới đây:
MỘT BÀI THƠ CỦA DU TỬ LÊ (viết về 30 tháng Tư/ 1975) ai nhớ ngàn năm một nỗi mừng
Tháng tư đã đến rừng chưa thức Mưa vẫn chờ tôi ở cuối đường Có môi, không nói lời
ly biệt Và mắt chưa buồn như mộ bia
Tháng tư nao nức chiều quên tắt Chim bảo cây cành hãy lắng nghe Bước chân giải phóng từng khu phố Và tiếng chân người như suối reo
Tháng tư khao khát, ngày vô tận Tôi với người riêng một góc trời Làm sao ngưòi biết trời đang sáng Và cánh chim nào sẽ bỏ tôi
Tháng tư sum họp người đâu biết Cảnh tượng hồn tôi: một bóng cờ Với bao chiêng, trống, bao cờ xí Tôi đón anh về tự mỗi nơi
Tháng tư binh mã về ngang phố Đôi mắt nhìn theo một nỗi mừng Đêm ai tóc phủ mềm da lụa Tôi với người chung một bóng cờ
Tháng tư nắng ngọt hoa công chúa Riêng đoá hoàng lan trong mắt tôi Làm sao anh biết khi xa bạn Tôi cũng như người: Một nỗi vui
Tháng tư chăn
gối nồng son, phấn Đêm với ngày trong một tấm gương Thịt, xương đã trả hờn sông, núi Tôi với người, ai mang vết thương?
Tháng tư rồi sẽ ngàn năm nhớ Rừng sẽ vì tôi nức nở hoài Mắt ai ngu sẽ như bia mộ Ngựa có về qua cũng thiếu đôi
Tháng tư nhắc nhở ngàn năm nữa! Cảnh tượng hồn tôi những miếu đền Trống, chiêng, cờ, xí như cơn mộng Mưa đã chờ tôị Mưa...đã ...mưa
Mai kia sống với vầng sao ấy người có còn thương một bóng ai Góc phố còn treo ngời lãnh tụ Ai nhớ ngàn năm một bóng ai?" Muôn
năm chánh sách Việt Cộng vẫn là đấu tố. Muốn về Việt Nam làm ăn thì
phải như Phạm Duy, Nguyễn Cao Kỳ, Bùi Duy Tâm ... phải quỳ lạy, phải ca
tụng Việt Cộng, phải chửi mình và tố người ngay cả tố cha mẹ mình nữa.
Thu Tứ ( con Võ Phiến) , Du Tử Lê đều đi theo con đường này. Sao khổ
thế nhĩ?
* Các cuộc Đảo chánh tại Vatican và
Mac-tư-khoa sẽ xảy ra trong Mùa Giáng Sinh cuối tháng 12 năm 2014 và Đầu Năm
2015. Giáo Hoàng Francis bị truất phế. Tổng Thống Nga Putin bị sát hại.
* Trận Nguyên
Tử Thế Chiến III sẽ bùng nổ vào lúc 6 giờ chiều ngày 4 tháng
Giêng năm 2015.
Kinh Thánh báo
trước ngày giờ cho Nga tấn-công tiêu-diệt Mỹ và các nước Đồng-Minh, nhưng đã tiên-tri trật
lất khiến cho Tổng-Thống Putin phải bật khóc!?
Vụ
gia đình ông cựu
tổng thanh tra Trần Văn Truyền có quá nhiều nhà đất với khối tài sản
kếch sù vừa được phát hiện vẫn tiếp tục khuấy động sự bất mãn của dư
luận làm lan ra cả những ông khác. Đúng là ông này làm hại “anh em,”
cháy nhà mình làm cháy cả nhà háng xóm.
Cái nhà to quá giữa khu đất vàng nên ông Cựu chủ tịch Hà Nội chưa chịu trả
Sau
vụ ông Truyền, người bị “văng miểng” đầu tiên cũng từng là một quan to
giữa thủ đô. Ngay tuần này, lại um xùm vụ ông Hoàng Văn Nghiên, cựu Chủ
tịch UBND TP Hà Nội sau khi rời chức vụ được 8 năm vẫn chưa chịu trả lại
nhà cho nhà nước. Ngoài ra theo báo Tiền Phong: Cựu chủ tịch “chê”
chung cư, “thích” xài biệt thự, nói rõ hơn là ông còn đặt vấn đề phải
thuê cho ông cái nhà sang mới chịu dời đi. Đúng là “cha thiên hạ”
thật.
Câu
chuyện tưởng như đã xong từ 8 năm trước (năm 2006) khi thành phố Hà Nội
thông báo không bán biệt thự cho cựu chủ tịch thành phố Hoàng Văn
Nghiên. Thế nhưng chỉ vỉ một điều khoản nhỏ là phải tìm nhà cho ông
Nghiên trước khi thu hồi biệt thự của nhà nước kéo dài gần chục năm bỗng
quá khó như… lên trời. Làm rúng động cả đến Ủy Ban Nhân Dân và nhân dân
thành phố.
Ông Hoàng Văn Nghiên nguyên chủ tịch UBND TP Hà Nội
Sự
thật trước khi bước lên ghế chủ tịch TP Hà Nội, ông Nghiên không
phải là dân vô gia cư mà ông có nhà cửa đàng hoàng. Theo ông Phạm Sỹ
Liêm – nguyên thứ trưởng Bộ Xây Dựng, ông phó chủ tịch UBND TP Hà Nội –
trước khi tới sinh sống tại biệt thự 12 Nguyễn Chế Nghĩa (của nhà nước),
ông Hoàng Văn Nghiên sinh sống ở một ngôi nhà thuộc phường Bách Khoa
(quận Hai Bà Trưng).
Biệt thự 12 Nguyễn Chế Nghĩa, Hà Nội
Không
những thế, hiện nay bản thân ông Hoàng Văn Nghiên không sống tại căn
biệt thự số 12 đường Nguyễn Chế Nghĩa của nhà nước mà chỉ có con trai
ông là Hoàng Hữu Nam cùng vợ con sống tại đó. Còn ông Nghiên hiện đang
sống tại căn biệt thự nằm ở quận Hoàn Kiếm, trung tâm nhất của thủ đô.
Đó là căn biệt thự tại khu đô thị Ciputra hạng sang ở Hà Nội. Căn
biệt thự 12 Nguyễn Chế Nghĩa rộng hơn 400 m2 mà cựu Chủ tịch TP Hà Nội
Hoàng Văn Nghiên chưa chịu trả nằm giữa “khu đất vàng” tại phường Hàng
Bài – Hà Nội. Trong khi các căn nhà lân cận cho thuê với giá từ $1000
USD trở lên (tương đương với 30 m2 trở lên) thì căn biệt thự mà ông
Nghiên thuê trên thửa đất rộng 411 m2 với giá chỉ gần 460 nghìn đồng
($22 đô)/tháng, chỉ có giá bằng 10 tô phở.
Theo
ông Liêm, lãnh đạo TP Hà Nội đang có sự lúng túng trong việc thể hiện
thái độ kiên quyết thu hồi biệt thự này. “Có thể ông Nghiên cũng biết
thế nên chây ì ra.” Cái sự chây ì của ông Nghiêm một phần lớn là do sự
thiếu cương quyết, thiếu minh bạch của cơ quan quản lý.
Tại sao phải vất vả đi tìm nhà đổi cho ông Nghiên?
Để
trả lại ngôi biệt thự 12 Nguyễn Chế Nghĩa, ông Hoàng Văn Nghiên sẽ được
thuê và mua ngôi nhà tại dự án phía Đông hồ Nghĩa Đô (thuộc quận Cầu
Giấy) trị giá trên dưới 30 tỉ đồng.
Khu Đô thị Nam Thăng Long (Ciputra) là nơi ông cựu Chủ tịch UBND TP Hà Nội Hoàng Văn Nghiên đề nghị thành
phố mua đất xây biệt thự để ông thuê ở.
Việc
cơ quan chức năng TP Hà Nội tìm nhà rồi “đàm phán” để thuyết phục
nguyên Chủ tịch UBND TP Hà Nội Hoàng Văn Nghiên trả lại ngôi biệt thự 12
Nguyễn Chế Nghĩa đang gây chú ý. Nhiều ý kiến cho rằng không cần thiết
vì quy định pháp luật không bắt buộc phải cấp nhà công vụ đối với cán bộ
là người địa phương.
Ông
Trần Ngọc Hùng, Chủ tịch Tổng Hội Xây Dựng Việt Nam, cho biết Luật Nhà ở
có hiệu lực từ năm 2006 đã quy định rõ việc quản lý, bàn giao, thu hồi
nhà ở công vụ và ông Nghiên là Chủ tịch UBND TP Hà Nội giai đoạn 1994 –
2004 và bắt đầu thuê căn biệt thự 12 Nguyễn Chế Nghĩa vào năm 2001, tức
là trước khi Luật Nhà ở ra đời.
Ông
Hùng nhấn mạnh: “Tuy vậy, dù trong bất cứ giai đoạn nào thì nguyên tắc
chung là nhà ở công vụ đều phải
trả lại cho nhà nước bởi đây là tài sản được dùng với mục đích công;
nếu mua, bán, cho ở thuê, ở nhờ không phải vì mục đích công là đều sai.”
Không
đồng tình với việc ông Hoàng Văn Nghiên chần chừ trả nhà công vụ và đòi
hỏi TP Hà Nội phải bố trí chỗ ở khi thực tế ông không khó khăn về nhà
ở, ông Phạm Sỹ Liêm, nguyên thứ trưởng Bộ Xây Dựng, nguyên Phó Chủ tịch
UBND TP Hà Nội, cho rằng việc ông Nghiên được cấp ngôi biệt thự 12
Nguyễn Chế Nghĩa để ở theo dạng nhà công vụ và nay được cho thuê lại với
giá 459,688 đồng ($22 đô)/tháng là không thỏa đáng. Ông Liêm dẫn
chứng hiện biệt thự thì đã được gia đình con trai ông Nghiên sinh sống
từ lâu, có nghĩa là ông không hề khó khăn về nhà ở. Ông
Liêm nói, “Việc Hà Nội cấp nhà đất cho ông Nghiên thuê như vậy có khác
gì cấp chỗ ở cho con trai ông Nghiên. Mà tại sao lại vừa cấp đất, rồi
lại bỏ tiền xây dựng nhà cửa hoành tráng như thế được chứ ?”
Khu
đất để xây biệt thự phía Đông hồ Nghĩa Đô là “khu đất vàng” của quận
Cầu Giấy, giao thông rất thuận tiện. Khu dự án biệt thự này nằm trên
đường Nguyễn Văn Huyên, rộng khoảng 0,4
ha, chỉ xây dựng 19 căn biệt thự với diện tích từ 140-200 m2/căn. Hiện ở
đây có 5 căn biệt thự đã xây thô xong, trong đó có 2 căn đang hoàn
thiện nội thất. Căn biệt thự diện tích đất 163 m2 được UBND TP Hà Nội dự
định mua và cho ông Hoàng Văn Nghiên thuê, sau đó có thể mua lại.
Theo
giới kinh doanh địa ốc và người dân địa phương, giá đất ở khu vực này
giai đoạn “sốt” là khoảng hơn 200 triệu đồng/m2, hiện nay giảm còn
khoảng 130-170 triệu đồng/m2. Như vậy, chỉ riêng với lô đất có diện tích
163 m2 mà UBND TP Hà Nội chấp thuận mua và xây nhà biệt thự để nguyên
chủ tịch UBND
TP Hà Nội Hoàng Văn Nghiên thuê và có thể mua, có giá bán hơn 27 tỉ
đồng. Còn nếu tính cả chi phí xây dựng, có thể lên đến trên dưới 30 tỉ
đồng.
Người
dân Hà Nội chê ngài cựu chủ tịch tham lam quá đáng nhưng 8 năm nay ngài
vẫn tỉnh bơ? Đến nay bị dư luận chê bai, rồi mới chịu trả, đúng là kiểu
gặm không trôi phải nhả ra.Tại sao ngay cả UBND Thành Phố cũng lúng
túng? Nể nang hay ví chút uy quyền chằng chéo còn sót lại của ngài chủ
tịch TP?
Nhà
của dân khi cần thu hồi thì làm cái rụp là ra đi liền. Không trả thì
cưỡng chế, có thế thôi hà cớ gì phải băn khoăn, họp bàn tới bàn lui cho
mất thì giờ. Vậy mà ngài Bộ Trưởng Bộ Xây Dựng Trịnh Đình Dũng cho rằng
cho rằng như thế không phải là tham nhũng. Còn thế nào mới gọi là tham
nhũng đây? Chẳng trách tham nhũng cứ cái đà này thì chỉ có thể tham thêm
chứ không hy vọng gì bớt.
Hãy nhìn ra nước ngoài
Tổng
thống thứ 40 của Mỹ là Ronald Reagan trước khi nghỉ hưu vào năm 1989 đã
phải đi tìm nhà ở cho mình. Trước đó ông sống trong dinh thống đốc tiểu
bang California khi giữ cương vị này trong nhiều năm. Còn
người tiền nhiệm, tổng thống thứ 39 Jimmy Carter, khi mãn nhiệm đã
chuyển về sống tại ngôi nhà mà ông mua trả góp từ năm 1960 khi còn làm
cố vấn luật tại hãng chuyên kinh doanh đậu phộng của gia đình và cuối
cùng trở thành chủ nhân thực sự của căn nhà.
Tổng
thống thứ 42, Bill Clinton, danh tiếng lừng
lẫy nhưng, cho đến lúc sắp về hưu không có nhà riêng và hai vợ chồng
phải “thắt lưng buộc bụng” để gom đủ $1.7 triệu USD, tính ra tiền Việt
vào lúc đó là khoảng 34 tỷ đồng, để mua một ngôi nhà tại thành phố nhỏ
Chappaqua, tiểu bang New York.
Còn
ở Anh, cứ ông nào lên làm thủ tướng thì dời về số 10 phố Downing ở thủ
đô London. Hết nhiệm kỳ hoặc mất chức lập tức phải dọn đi. Có lần, thủ
tướng mới dọn đồ về ở trong khi người tiền nhiệm còn đang tất bật chằng
buộc chăn đệm, vali chuẩn bị rời đi.
Tội nghiệp các quan ở cơ quan quản lý!
Đó
là chuyện ở nước ngoài, càng làm lớn người ta càng minh bạch và luôn
đặt lòng tự trọng trước danh dự của mình. Nhìn thấy các quan chức nước
người mà chán cho nước mình. Lòng tự trọng đi chơi vắng đâu mất tiêu
rồi. Và các cơ quan quản lý nhà quan ở VN cũng mua lấy sự vất vả vào
mình, nguyên cái việc chạy đi tìm nhà cho quan về
hưu thuê đã mướt mồ hôi rồi còn làm được việc gì nữa. Gặp quan ủng oẳng
như ông Nghiên nay chấp thuận nhà này, mai yêu cầu thuê chỗ khác mới
chịu ở còn phải “điều đình, trao đổi” toát mồ hôi. Tội nghiệp! Dân è cổ
đóng thuế nuôi các quan “vờn” nhau chơi.
Thật
ra thì tại khu nhà công vụ của chính phủ ở nhiều nơi cũng đang gặp tình
trạng “lùng bùng” như thế. Như khu Hoàng Cầu (ngõ 61 Trần Quang Diệu,
quận Đống Đa, Hà Nội), có 59 cán bộ nghỉ hưu ở nhà công vụ, song chỉ 11
người làm thủ tục trả nhà. Thế cho nên dư luận đặt câu hỏi “Còn biết bao
ông Nghiên, ông
Truyền khác?.” Đàn
anh lì lợm nên đàn em “học hỏi.” Mới nhất lại là chuyện của Phó chủ
tịch tỉnh lấn chiếm 400 m2 đất công và mới hơn là chuyện Tướng công an
xây biệt thự lụi. Xin kể chuyện quan phó chủ tịch trước.
Vừa mới nghỉ hưu hồi tháng 11-2014 đã lấn chiếm đất công
Ông
Hà Hòa Bình, nguyên Phó chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc
mới nghỉ hưu từ 1-11-2014 vừa qua đã bị phát hiện lấn chiếm đất công
gần 400 m2 và xây dựng biệt thự có tiếng ở Thành Phố Vĩnh Yên.
Biệt thự của ông Hà Hòa Bình, Phó chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc
Đáng
chú ý, tổ công tác cho biết quá trình lập hồ sơ xử lý đã gặp vướng mắc
khi có 3 gia đình dân lấn chiếm ra khu vực đất của dự án, gồm: ông Phùng
Quốc Huy lấn 27.6 m2; ông Nguyễn Trường Tiến lấn 53.6 m2; ông Hà Hòa
Bình lấn 399.2 m2. Trường hợp ông Hà Hòa Bình (khu phố Vĩnh Thịnh 4,
phường Tích Sơn) khiến người dân địa phương và chính quyền địa phương
chú ý hơn cả, bởi ông Bình là phó chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc vừa mới
nghỉ hưu từ ngày 1-11 vừa qua.
Theo
xác minh của UBND phường Tích Sơn, trên diện tích lấn chiếm gần 400 m2,
gia đình ông Hà Hòa Bình đã cho xây dựng một lầu ngũ giác để ngắm cảnh,
một dãy tường gạch kiên cố dài hàng trăm mét, nhiều cây cảnh… Khu nhà
có tường gạch xây bao quanh đang trong giai đoạn hoàn thiện dài 112.32 m
(cao 1.8m, có 42 trụ cao 2m), 2 trụ cổng có mái lợp ngói,…
Vụ này có nhiều chi tiết lằng nhằng giữa ba anh em ông phó chủ tịch. Nhưng tựu chung vẫn là sự lấn chiếm đất công. Ông
Nguyễn Duy Báu, Phó chủ tịch UBND Tích Sơn tiết
lộ: “Khi triển khai dự án thì họ mới lấn chiếm. Do dự án không làm đồng
loạt nên có khi họ tổ chức xây dựng lấn chiếm vào buổi trưa, buổi tối
nên phường không ngăn chặn được hết.” Rõ
ràng ông Báu đã cố tình che giấu sự thật. Việc ông Bình công khai lấn
đất công rồi xây dựng trên đất đã tách thửa rõ ràng là có sự thiếu trách
nhiệm từ chính quyền và cơ quan chức năng ở TP Vĩnh Yên. Bởi công trình
xây dựng lớn như thế, giữa thanh thiên bạch nhật như thế chứ có phải
cây kim cọng chỉ trong bọc đâu mà khó thấy? Cần biết dân TP Vĩnh Yên chỉ
cần đổ đống cát, vài trăm viên gạch sửa cái nhà dột cũng đã có cán bộ
đến “hốt” ngay. Sau đó ông Bình lại đổ tội cho con trai làm
chứ ông không hề biết. Rõ ràng là cả hai ông lớn đều quanh co đổ tội
cho con, đúng là thứ chuyện khôi hài ấu trĩ, đáng xấu hổ
Đến tướng công an xây biệt thự lụi
Nguyên
giám đốc Công an (vừa nghỉ hưu tháng 9-2014) tỉnh Quảng Nam là Thiếu
tướng Phan Như Thạch từ khi đương chức đã xây biệt thự tráng lệ không
phép ngay bìa rừng Nam Hải Vân nhưng không bị xử lý rốt ráo làm dân
phẫn nộ. Người dân càng phẫn nộ hơn khi nhà của công nhân từng trồng
rừng Nam Hải Vân (phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng) và
người dân cơi nới thì bị các cơ quan chức năng buộc tháo dỡ, cấm xây
dựng.
Toàn cảnh biệt
thự xây dựng “lụi” của tướng công an Thạch.
Khu
biệt thự “hoành tráng” của tướng Thạch ở đường vào Suối Lương, rộng
17.750 m2. Khuôn viên biệt thự này được xây bờ tường cao vút, bên trong
công nhân đang thi công biệt thự, nhà rường, nhà cổ… cùng các kiến trúc
khác. Khu vực biệt thự này được thi công nhiều năm nay nhưng vẫn chưa
xong. Xe chở đất cát, gỗ, vật liệu xây dựng vẫn liên tục ra vào.
Đại
tá Thái Thanh Hùng, đại biểu HĐND TP Đà Nẵng, Chủ tịch Hội Cựu Chiến
Binh TP Đà Nẵng, nhận định: “Cái này nếu làm không xin phép thì phải xử
lý theo pháp luật.” Ông Hùng cho biết tại khu vực của tướng Thạch xây
dựng biệt thự có trường hợp ông Nguyễn Như Tiến chỉ làm nhà tranh thôi
nhưng báo, đài lên tiếng rồi bị tháo dỡ. “Ông Tiến làm thế thì bắt tháo
dỡ, còn giờ anh làm to thế mà không tháo dỡ.” Cũng theo ông Hùng, cử tri
sẽ thắc mắc là họ lấy tiền đâu ra mà xây biệt thự to thế.
Chưa
hết, ngoài khu đất biệt thự này, gia đình tướng Thạch mua gom giấy tay
nhiều hecta đất lâm nghiệp từ các gia đình dân trồng rừng Nam Hải Vân,
nằm gần Hạt kiểm lâm quận Liên Chiểu (thuộc Chi cục kiểm lâm TP Đà
Nẵng). Theo
cơ quan chức năng quận Liên Chiểu thì khu đất này gia đình tướng Thạch
bán lại cho đại gia tên Quang, chuyên khai thác vàng ở tỉnh Quảng Nam.
Hiện khu đất này đã mọc lên một quần thể biệt thự, nhà sàn, nhà rường
cổ… cùng các công trình nguy nga khác có giá trên 100 tỉ đồng. Quần thể
này cũng bị cơ quan chức năng nhiều lần lập biên bản vì xây không phép,
lấn đất rừng đặc dụng Nam Hải Vân.
Khu vực quần thể biệt thự, nhà sàn gỗ của tướng Thạch bán cho đại gia tên Quang.
Tuy
nhiên, đến nay quần thể biệt thự đã được xây kín, tường rào bao quanh
cao tới khoảng 3 m và bao
bọc bởi dây thép gai như biệt phủ. Hiện hằng ngày có hàng chục công
nhân cưa xẻ, đục đẽo, xây dựng, xe chở vật liệu nườm nượp ra vào. Cả
quần thể biệt thự được xây dựng liên tục nhiều năm nay nhưng vẫn chưa
xong, mọc lên tại khu vực dân còn nghèo khó khiến người dân choáng ngợp. Chủ
tịch UBND quận Liên Chiểu, cho biết: “Đã mời tướng Thạch làm việc nhiều
lần!” nhưng cũng chẳng giải quyết được gì. Ngoài ra, theo ông phó chủ
tịch quận thì vì tướng Thạch là em phó bí thư Đà Nẵng (?!)
Trong
khi đó, ông Huỳnh Đức
Thắng (Giám đốc Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất quận Liên Chiểu)
khẳng định: “Hiện tại các hộ dân tại khu vực đó sử dụng đất nhưng không
có hợp đồng giao đất, kể cả ông Thạch. Nếu là đất rừng thì phải cấp,
giao đất còn trường hợp này là ông Thạch tự tung tự tác. Không có nhà
nào là đất ở hết. Mà cũng không được cấp luôn. Chúng tôi không thể giải
quyết cấp sổ được vì ở khu vực đó không có ai có hợp đồng giao đất hết.
Đất ở đây từ trước đến nay không chuyển đổi, không cấp phép.”
Bất hợp tác, địa phương bó
tay
Ông
Nguyễn Xuân Hoài, Đội trưởng Đội Quy tắc đô thị quận Liên Chiểu, thì
lắc đầu: “Khi chúng tôi đi kiểm tra nhà ông Thạch, thợ ở trong đó nhiều
nhưng kêu cửa không ai mở. Gọi chỉ thấy có chó chạy ra thôi. Phường có
lập biên bản, anh em chúng tôi hỗ trợ. Vô kiểm tra, nhà đó xây dựng
không phép thì buộc phải tháo dỡ nhưng họ đâu có hợp tác. Họ không đưa
bất cứ một giấy tờ gì, mời ổng lên làm việc nhiều lần nhưng cũng không
được.”
Câu
chuyện dài kiểu “nhân dân tự vận” này vẫn chưa có hồi kết. Chưa biết
chính quyền địa phương sẽ giải quyết ra sao khi quan to về hưu nhưng còn
vô số quyền hành “ngầm” đứng sau lưng. Thôi thì nhân dân ráng chờ vậy. Tham
nhũng đất đai không còn là chuyện lạ nhưng tham nhũng đất đai kiểu Bình
Phước thì quả đúng là lạ, đáng được ghi vào kỉ lục Guiness.
Xà xẻo đất rừng ban phát cho quan chức
Qua
hai ba đời chủ tịch, rừng tự nhiên của Bình Phước từ chỗ có tới
127.800ha đã tụt xuống còn 58.600ha hiện nay. Tức lá mất biến luôn quá
nửa 69.200ha. Vậy đất “chạy” đi đàng nào?
Ở những lô đất rừng trồng cao su được các quan lấy vẫn còn dấu tích của những cây cổ thụkhi xưa bị chặt bỏ nay chỉ còn trơ gốc. Ảnh chụp tháng 10, 2014 tại rừng phòng hộ Tà Thiết, huyện Lộc Ninh)
Số
là, năm bảy năm về trước, lãnh đạo ở địa phương này đã từng có nghị
quyết hẳn hoi về việc ban phát đất rừng cho các quan chức cấp tỉnh. Thực
chất đó là một sự chia chác, xẻ đất rừng cho cá nhân sử dụng, mà ở đây
là rừng phòng hộ Tà Thiết (huyện Lộc Ninh) có
vị trí đắc địa về mặt giao thông, nằm ven trục quốc lộ 13, cách thị xã
Bình Long không xa. Toàn là những mảnh đất hái ra tiền.
Những ai được ưu ái đặc biệt như vậy?
Xin
thưa, họ là những cán bộ cao cấp của tỉnh như viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân tỉnh, trưởng phòng tổ chức – hành chính Văn phòng UBND tỉnh,
phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận tổ quốc VN tỉnh, trưởng Ban văn hóa
– xã hội HĐND tỉnh, phó chánh Thanh tra tỉnh; là các cán bộ thuộc Tổ
chức Tỉnh ủy, Công an tỉnh, Sở Kế hoạch – đầu tư, Sở Nội vụ, Văn phòng
UBND tỉnh… Họ không phải là đối tượng cần đất để mưu sinh như 8000 gia đình dân nghèo rớt mùng tơi của tỉnh đang khát đất như khát nước.
Kỳ
lạ hơn, trong danh sách cấp phát còn có cả vợ con của lãnh đạo: vợ
quyền chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh, vợ giám đốc Sở Tài nguyên
Môi trường, vợ giám đốc, phó giám đốc Sở NN&PTNT, con nguyên chủ
tịch UBND tỉnh… Chả
trách, trong vòng 10 năm, qua hai ba đời chủ tịch, rừng tự nhiên của
Bình Phước từ chỗ có tới 127.800ha đã tụt xuống còn 58.600ha hiện nay.
Hơn
một nửa diện tích rừng đã biến mất. Liệu cái nửa non còn lại còn tồn
tại được bao lâu khi mà các vị lãnh đạo địa phương tiếp tục vin vào
những “căn cứ pháp lý hai năm rõ mười” và tính “hợp hiến hợp pháp” kỳ lạ
theo kiểu “phép vua thua lệ làng” để xà xẻo?
Còn nhiều chuyện “cướp đất kỳ lạ” hơn nữa, kỳ sau tôi tường thuật cùng bạn đọc.
Pháo hoa rực sáng trên Nhà hát Opera và Cầu Cảng ở Sydney, Australia, ngày 1 tháng 1, 2015
Dân chúng thả bóng bay bên cạnh tháp Tokyo để mừng năm mới tại Tokyo, Nhật Bản, ngày 1 tháng 1, 2015
Pháo hoa rực sáng Cảng Victoria đón mừng năm 2015 ở Hong Kong, ngày 1 tháng 1, 2015
Những người ủng hộ dân chủ mang dù màu vàng, biểu tượng của phong trào
Chiếm Trung, hô khẩu hiệu trong đám đông mừng năm mới ở Hong Kong, ngày 1
tháng 1, 2015
Trong bức ảnh do Thông tấn xã Trung ương Bắc Triều Tiên công bố, những
em học sinh biểu diễn tiết mục "Chúng ta hạnh phúc nhất thế giới" đón
mừng năm mới ở Bình Nhưỡng, ngày 31 tháng 12, 2014
Một người phụ nữ treo mẩu giấy viết điều ước năm mới lên một cái cây ở Seoul, Hàn Quốc, ngày 31 tháng 12, 2014
Hoa giấy trút xuống người xem pháo hoa mừng năm mới tại Manila, Philippines, ngày 1 tháng 1, 2015.
Sinh viên đứng trên tuyết xếp thành con số "2015" chào đón năm mới tại
Đại học Nông nghiệp Thẩm Dương ở thành phố Thẩm Dương, tỉnh Liêu Ninh,
Trung Quốc, ngày 31 tháng 12, 2014.
Bánh mừng năm mới bày bán bên ngoài một cửa hàng ở khu phố Sheikh
Maksoud của thành phố Aleppo, Syria, ngày 31 tháng 12, 2014.
Những khối cầu đặt trong Vịnh Marina tạo thành số '50' để đánh dấu kỷ
niệm 50 năm thành lập nước Singapore vào năm 2015, ngày 31 tháng 12,
2014.
Vẫy tay chào mặt trời lặn trên một dòng sông vào ngày cuối cùng của năm cũ, Yangon, Miến Điện 31/12/14
Những người tham dự nhạc hội Đêm Giao thừa tại Cổng Brandenburg mang tính biểu tượng ở Berlin, Đức, ngày 31 tháng 12, 2014.
01.01.2015
Người dân ở New Zealand, Australia và châu Á đã đón mừng năm mới với
những màn bắn pháo hoa hoành tráng vào lúc các nước trên toàn thế giới
từ biệt năm 2014 nhiều hỗn loạn và chào đón ngày đầu tiên của năm 2015.
Chiếc đồng hồ khổng lồ trên Tháp Sky mang tính biểu tượng của thành phố
Auckland đếm ngược những phút cuối cùng tối ngày thứ Tư đến năm mới,
trước khi pháo hoa bắn đi từ tòa tháp thắp sáng bầu trời đêm.
Tại Sydney, hơn 1,5 triệu người tụ tập trong thời tiết mùa hè ấm áp bên
bến cảng của thành phố để xem một màn bắn pháo hoa ngoạn mục với hình
những cây dừa màu vàng và bạc sáng lung linh. Pháo hoa tưng bừng rực
sáng khắp bầu trời bên trên Cảng Victoria ở Hong Kong.
Các thành phố lớn nhỏ khắp thế giới đã chuẩn bị những màn bắn pháo hoa
của riêng mình, những buổi trình diễn âm nhạc và những hoạt động đón
mừng khác dành riêng cho cộng đồng của họ.
Bắc Kinh đếm ngược đến năm 2015 với một buổi biểu diễn trượt băng nghệ
thuật nhằm mục đích quảng bá nỗ lực đăng cai Thế vận hội Mùa đông năm
2022 của Trung Quốc, trong khi thành phố Dubai của Liên hiệp các tiểu
vương quốc Ả-rập đón năm mới bằng cách thắp sáng toàn bộ mặt tiền tòa
nhà cao nhất thế giới bằng đèn LED.
Rio de Janeiro đón hơn 1 triệu người đến mừng năm mới trên Bãi biển
Copacabana với những buổi trình diễn nhạc rock trên ba sân khấu.
New York, nơi có hoạt động mừng năm mới nổi bật nhất ở Mỹ, sẽ thả quả
cầu pha lê xuống vào lúc nửa đêm, với vài trăm ngàn người đến tham dự sự
kiện hàng năm này.
Đồng hồ đón chào Năm Mới 2015 ở Times Square, New York, Hoa Kỳ hôm 1/1/2015.
AFP PHOTO/JEWEL SAMAD
Ngày đầu của năm 2015 Thanh Trúc kính chúc quí thính giả khắp nơi một
ngày mới vui vẻ bình an để cả năm được hanh thông, suông sẻ.
Hôm nay, người Việt Nam năm châu đón mừng Tết Tây theo truyền thống và
tập tục của đất nước mà họ cư trú. Mọi người có lúc như dừng lại, lắng
đọng tâm tư trong phút giây, để nhớ để ước mơ điều gì đó cho 365 ngày
trước mặt.
Sydney - Australia
Từ thủ đô Sydney của Australia, nơi đón giao thừa 2015 sớm nhất, nghĩa
là chỉ sau New Zealand, nhà báo Nguyễn Đình Khánh mơ một thay đổi cho
người Việt Nam:
Ước mơ của mình, và của bất cứ ai cũng vậy, thường thì nó cao xa lắm.
Bây giờ mình thu nhỏ bớt lại đi. Mình là người đã xa quê hướng khá lâu,
đang mơ ước trở về quê hướng sống trong tự do dân chủ.
-Nguyễn Đình Khánh
“Ước mơ của mình, và của bất cứ ai cũng vậy, thường thì nó cao xa
lắm. Bây giờ mình thu nhỏ bớt lại đi. Mình là người đã xa quê hướng khá
lâu, đang mơ ước trở về quê hướng sống trong tự do dân chủ. Khi mình đã
về trong tự do dân chủ rồi thì người dân của mình cũng sẽ sống trong tự
do dân chủ cùng với mình, tức là cuộc sống của họ sẽ thay đổi.”
Không có gì to tát đâu,là giấc mơ 2015 của bạn Ngọc Sơn, thành viên nhóm Happy To Share Hạnh Phúc Sẻ Chia ở Hà Nội:
“Nếu mà to tát quá thì em cũng chẳng muốn nói gì, có điều là bước
sang một năm mới thì em cùng các bạn trong nhóm có thể làm nhiều việc
hơn nữa để giúp đỡ từ trẻ em vùng sâu vùng xa hay đến bà con miền Trung
lũ lụt các thứ dù là lực mình rất bé. Chỉ muốn cứ mỗi một năm đi qua thì
mình làm nhiều hơn nữa, giúp đỡ nhiều hơn nữa, có thể mình tận lực bước
sang năm mới có thể mình tận lực mình làm hết sức. Cả một năm vừa rồi
bọn em làm được rất nhiều chương trình nhưng vẫn thấy là nó ít quá, càng
làm càng thấy nhiều người cần mình hơn, lên đến vùng này lại thấy một
vùng khác, đâm ra rất là khó.Cũng mong sang năm này kinh
tế phát triển hơn, doanh nghiệp người ta làm được hơn thì mình có thể
đến mình xin và họ xuất được nhiều hơn để mình có được nguồn kinh tế dồi dào hơn, đưa đến giúp nhiều đồng bào hơn. Em chỉ nghĩ đơn giản như vậy.”
Chuẩn bị đón năm mới 2015 tại Hà Nội hôm 31/12/2014.
Trên đường dây viễn liên từ Huế, tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng, giám đốc công ty sách Thái Hà , trình bày ước mơ của ông:
“Năm 2015 sẽ có rất nhiều biến động trong mọi mặt, từ chính trị, kinh
tế, văn hóa, không những chỉ Việt Nam mà đối với cả thế giới, không chỉ
các bạn trẻ mà tất cả người dân mọi thế hệ.
Con số dân Việt Nam trong nước hiện đã lên 90 triệu theo thống kê mới
nhất. Nước Việt Nam đang ở trong giai đoạn dân số vàng, tức là tỷ lệ
bạn trẻ đang trong tuổi lao động là lớn nhất. Năm 2015 tới thì
Việt Nam kỷ niệm 40 năm ngày thống nhất đất nước. Tôi chỉ mong muốn sao
không chỉ thống nhất về mặt lãnh thổ mà còn thống nhất về mặt tư duy. Trong
những giờ phút cuối cùng của 2014 chuyển sang 2015, có lẽ chúng ta hãy
dành ít phút để nhìn lại năm vừa rồi, để đưa ra kế hoạch của chình mình,
để mỗi chúng ta, mỗi cơ quan, mỗi doanh nghiệp biết đúng biết sai. Đó là mong muốn của tôi.”
Texas - Hoa Kỳ
Còn giấc mơ của tiến sĩ Phan Minh Liêm, một nghiên cứu sinh từ Việt Nam
sang Hoa Kỳ mà nay trở thành khoa học gia trong Trung Tâm Nghiên Cứu Ung
Thư MD Anderson, đại học Texas, cũng là một giấc mộng lớn:
“Trong năm 2015 này Liêm mong ước nhân loại tìm ra được những phương
pháp mới để điều trị và phòng ngừa ung thư hiệu quả hơn.Ung thư là một
căn bệnh phức tạp, có nhiều điều mình chưa biết về căn bệnh này cho nên
những phương pháp điều trị tới giờ này vẫn chưa hiệu quả.
Và Liêm hy vọng năm 2015 này sẽ có thêm nhiều bạn trẻ ở Việt Nam
quyết định dấn thân vào con đường khoa học để nghiên cứu những căn bệnh
nguy hiểm. Đường đi thì rất khó khăn và chông gai, nhưng thành quả đạt
được thì rất có ý nghĩa.”
Làm sao để dân tộc mình phú cường, mọi người có công ăn việc làm, có đủ
phương tiện sống hàng ngày, sống đời nhân bản là mơ ước của ông Lê Hữu
Đào, chủ tịch Cộng Đồng Người Việt tại Liege, Belgium:
Niềm mong ước của tôi là dù có tiến bộ vượt bực bao nhiêu đi nữa thì
cái lòng người, cái nhân bản vẫn phải giữ, đừng có quên, tức là vẫn biết
phải yêu thương nhân loại, vẫn biết lo lắng cho đồng bào cho láng
giềng, cho đất nước và cho xã hội.
-Lê Hữu Đào<
“Mơ ước đó thực sự rất sâu xa từ đáy lòng. Mình sẽ qua năm 2015, mình
sẽ sống trong một thế giới biến chuyển rất mau từ truyền thông cho đến
tin học. Niềm mong ước của tôi là dù có tiến bộ vượt bực bao nhiêu đi
nữa thì cái lòng người, cái nhân bản vẫn phải giữ, đừng có quên, tức là
vẫn biết phải yêu thương nhân loại, vẫn biết lo lắng cho đồng bào cho
láng giềng, cho đất nước và cho xã hội. Đừng vì những thu hút của sự
tiến triển đó mà quên đi giá trị nhân bản của nhân loại.”
Thụy Sĩ
Làm người thì phải biết mơ cao mơ xa dù đang ở trong bất kỳ hoàn cảnh
nào, là lời nhà ngoại giao đối kháng Đặng Xương Hùng, đang tị nạn trong
lúc công tác tại Thụy Sĩ:
“Trong tình hình đất nước như thế này thì cũng rất mong muốn có những
biến đổi thuận lợi cho công cuộc dân chủ để cho đất nước Việt Nam, nhân
dân Việt Nam có được tự do và nhân quyền, có thể tham gia quyết định sứ
mệnh chính trị của đất nước, đưa đất nước đi theo con đường văn minh
của nhân loại.
Trong năm 2015 tôi cũng mong muốn có điều kiện đóng góp nhiều hơn
nữa. Nhất là trong hoàn cảnh tôi đang xin tị nạn thì rất mong hồ sơ sớm
hoàn thành để mình có giấy tờ đủ để đi sang các nước khác, cùng phối hợp
với các lực lượng khác để tạo một sức mạnh lớn hơn.”
Pháo hoa chào đón năm mới 2015 tại Sydney, Australia.
Cư ngụ tại Paris, bà Hồ Quì, người sáng lập tổ chức Avenir Măng Non tại
Pháp hơn 20 năm qua, đối tượng phục vụ là người nghèo ở Việt Nam, đặc
biệt là trẻ em, kể về giấc mơ nối tiếp năm này sang năm khác:
“Năm 2015 ước mơ của tôi là mong sao cho người Việt hải ngoại được sức khỏe thôi. Còn ở bên Việt Nam là cần nhất,
mọi người được cuộc sống hạnh phúc ấm no. Đó là ước nguyện của tôi năm
2015. Công việc của Avenir Măng Non là giúp trẻ em có cuộc sống tươi đẹp
hơn, tất cả mọi em đều được đến trường và học hành tốt đẹp, em nào cũng
phải tốt nghiệp đại học.
Tổ chức của chúng tôi vẫn cố gắng không những tiếp tục trong 2015 mà
còn tiến triển mạnh hơn. Không dám nói là khắp nước Việt Nam nhưng càng
ngày số trẻ em được giúp càng đông hơn, tất nhiên là sẽ nhiều trẻ em
được cắp sách đến trường và được tốt nghiệp đại học.”
Từ Montreal, Canada, giáo sư đại học Bùi Tiến Rũng, từng được vị toàn
quyền Quebec trao giải nghiên cứu khoa học năm 2012, nói rằng mơ ước
2015 của ông là Việt Nam có một nền kinh tế và một bối cảnh chính trị
sáng sủa hơn:
“Thứ hai nữa là nhà cầm quyền Việt Nam sáng con mắt hơn. Tôi xin nhấn
mạnh “ sáng con mắt hơn” là bởi vì đang lâm vào nhiều trường hợp khó
khăn với nước láng giềng khổng lồ phương Bắc. Họ đưa vào những cái tròng
rất khó ra. Nếu những nhà lãnh đạo của mình nhìn không thấy thì để càng
lâu càng khó.
Cái vụ Viện Khổng Tử chẳng hạn là một trong những cái bẫy của người
ta. Những đại học bên Mỹ, Canada, Châu Âu người ta nhìn thấy và người ta
giải quyết vấn đề rất nhẹ nhàng, còn nếu để càng lâu thì càng khó. Điểm
thứ ba, bây giờ thế hệ chúng tôi càng ngày càng xa cõi trần này, vậy
thế hệ sau lớn lên phải xứng đángđể giữ lại tiếng tăm cho cộng đồng
người Việt ở nước ngoài.”
Kiev - Ukraina
Nhập gia tùy tục, sống đâu quen đó, ước muốn 2015 của chị Đồng Thị
Hường, một doanh nhân thành đạt tại Kiev, Ukraina, là cuộc chiến ở đất
nước này sớm dứt cho dân nhờ:
“Làm sao mà đất nước Ukraina thanh bình chấm dứt chiến tranh kiểu khủng hoảng chính trị, để cho
mọi người yên tâm làm ăn và đón được cái Tết vui vẻ. Cũng mong cho đất
nước mình sánh vai được cùng các nước trên thế giới ….Cũng là sánh vai
rồi nhưng chưa thể bằng nhiều c nước bởi vì chưa thấy có
đổi mới nhiều trong công cuộc xây dựng. Vừa rồi là có Trung Quốc, biển
Đông của mình như thế thì cũng mong cho có sự yên ổn trở lại.”
Cũng có những người mẹ Việt ở hải ngoại mà giấc mơ quá đỗi bình thường,
vậy mà cứ mơ mỗi lần năm mới về. Chị Nhâm ở Warsaw, Ba Lan:
“Năm cũ đi sang năm mới thì muốn mọi sự tốt, làm ăn thuận lợi, sức
khỏe tốt thế thôi. Về phía Việt Nam thì nói chung ai cũng muốn ngày Tết
là ngày về quê hương nhưng bên này nhiều khi điều kiện không cho phép.
Hy vọng thì ai chẳng có, con cái học hành tốt, công việc có thu nhập để
mình về Việt Nam làm ăn hay đầu tư chẳng hạn thế. Mình cũng muốn về mình
làm công việc gì đó cho thuận lợi. Ai chẳng muốn quay trở về nước của
mình chứ, còn đi làm ăn chả biết đâu mà tính.”
Sau cùng là Thái Lan, đất nước mỗi lần ghé qua thì người xa xứ cảm thấy
mình gần với quê nhà của mình biết chừng nào. Mời quí vị gặp gỡ vị linh
mục vốn là một cựu quân nhân Hoa Kỳ, trở thành tu sĩ Công giáo khi sang
tham chiến tại Việt Nam hơn 40 năm trước. Ông cũng là tu sĩ nước ngoài
duy nhất ở lại Đà Nẵng sau ngày 30 tháng Tư 1975.Đến tháng Mười 1975 thì
bị trục xuất sang Thái Lan. Linh mục đặt mơ ước của người vào lời khấn
mỗi ngày của mình, ông nói:
“Cha là John Thabor, tên Việt Nam là Dương Tấn Bằng, đang làm
việc ở Udonthani mạn Đông Bắc nước Thái. Đầu năm mới tây, cũng mong ước
cho những người Việt Nam đến đây làm việc kiếm tiền để giúp những người ở
quê Việt Nam, xin Chúa ban ơn cho họ được phát đạt trong đời sống . Tại
vì họ hy sinh nhiều lắm, làm việc vất vả khổ sở, ntự do trong việc sống
và hành đạo. hiều người cũng phục người Việt Nam vì họ cần cù, làm việc
hết sức mình, hơn cả những người Thái ở đây. Cầu xin Chúa tiếp tục giúp
người Việt Nam chịu khó làm việc để làm cho người ta luôn luôn mến phục
người Việt Nam.
Cha cũng mơ ước cho người Việt Nam được tự do trong việc sống và hành
đạo vì nghe đâu ở ngoài Bắc không được tự do như ở trong miền Nam, mà
nhiều khi cũng có những sự va chạm đụng độ với chính quyền. Bây giờ Cha
cũng cầu xin cho họ được sống đạo một cách bình an để tiến tới trong
nhân đức.”
Lời khấn của linh mục Dương Tấn Bằng đã kết thúc mục Đời Sống Người Việt
Khắp Nơi ở đây. Chân thành cầu chúc quí thính giả một năm 2015 ước gì
được nấy.
Hầu như Giáng Sinh năm nào Thanh Trúc cũng mời quí vị đi một vòng qua
các nước, xem người Việt mình mừng Giáng Sinh như thế nào.
Năm nay, một lần nữa, xin đi cùng Thanh Trúc đến những miền đất và những
người chưa từng được nhắc đến trong những bài về lễ Giáng Sinh của
những năm trước.
Giáo xứ Ka Đơn, Lâm Đồng
Đầu tiên, khởi hành với linh mục Nguyễn Đức Ngọc, quản xứ giáo xứ Ka
Đơn, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng, nơi có nhiều người dân tộc Chu Ru
và Kô Hô, có nhà thờ Ka Đơn với kiến trúc đặc trưng Tây Nguyên vừa khánh
thành tháng Bảy năm nay: “Tại vì năm nay được ngôi nhà thờ mới nên giáo xứ cũng cố gắng tổ
chức cho nó vui hơn. Đêm 24 có một Thánh lễ cho tất cả mọi người. Đến
ngày 25 cũng có Thánh lễ 25. Sau Thánh lễ 25 thì có hội chợ cho cả giáo
xứ, rồi sau hội chợ thì cũng có buổi văn nghệ hoàn toàn mang tính cách
gia đình.
Giáng Sinh năm này anh em bà con vui hơn năm trước, kinh tế làm ăn gì
cũng được hết. Năm nay đông lắm, đang nhóm đó, gần 100 người, cùng vui
cùng đón năm mới.
-Thầy A Ninh
Các anh em dân tộc Chu Ru cũng như K ô Hô rất
vui và rất lên tinh thần. Chúng tôi cử hành Thánh lễ hoàn toàn bằng
tiếng dân tộc Chu Ru cũng như tiếng Kô Hô. Các cha trong vùng, ngay cha
quản hạt cũng vậy, ngài cũng giảng bằng tiếng dân tộc. Tôi thấy rõ ràng
là anh em dân tộc lên tinh thần nhiều và vui lắm.”
Bên Tin Lành, điển hình làng Ba Gốc tỉnh Kon Tum, nơi có Hội Thánh Tin Lành Trưởng Lão Việt Nam. Thầy A Ninh: “Giáng Sinh năm này anh em bà con vui hơn năm trước, kinh tế
làm ăn gì cũng được hết. Năm nay đông lắm, đang nhóm đó, gần 100 người,
cùng vui cùng đón năm mới.”
Trái với những điều có vẻ nhẹ nhõm mà thầy truyền đạo A Ninh ở Ba Gốc
Kontum vừa nói, thì từ sáng 23 trụ sở Tổng Hội Thánh Tin Lành Trưởng Lão
Việt Nam tại xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, được lệnh cấm nhóm Giáng
Sinh tối 24 từ chính quyền địa phương gởi xuống:
“Tôi có xin phép nhóm vào dịp lễ Giáng Sinh. Ở Việt Nam thì mọi hoạt
động tôn giáo đều phải xin phép. Khi tôi nộp đơn xin phép thì người ta
dựa trên đơn của tôi người ta nói là “không cho nhóm Giáng Sinh”, đồng
thời cũng nói là không cho nhóm bình thường ngày Chúa Nhật.”
Trụ sở Tổng Hội Thánh Tin Lành Trưởng Lão Việt Nam tại xã Bình Hưng,
huyện Bình Chánh. Hình do Tổng Hội Thánh Tin Lành Trưởng Lão VN cung
cấp.
Đến hôm qua, ngày 24 tức ngày vọng Giáng Sinh mà theo truyền thống là có
Thánh lễ nửa đêm, mục sư Trần Quốc Bảo báo cho Thanh Trúc biết: “Có lẽ người ta đã nóng vội khi làm biên bản đó. Sau khi ký
xong thì người ta có gởi lại cho tôi cái biên bản. Tôi thì có xin phép
là vào dịp lễ Giáng Sinh thì xin cho những người ngoại quốc nhóm chung.
Những người Hàn Quốc làm ăn ở đây họ không có nơi nhóm đàng hoàng
thì họ muốn mượn chỗ mình họ nhóm. Nhưng rốt cuộc thì xin mà họ không
cho phép, chỉ cho phép người Việt Nam nhóm thôi chứ người ngoại quốc thì
không được nhóm. Trước giờ nhóm thì một số người trong đó vừa công an vừa chính quyền
họ đến nói thôi mục sư cứ nhóm, chúng tôi ngồi ở ngoài này bảo vệ cho
mục sư thôi chứ không có gì hết.”
Hố Lương, Campuchia
Rời Việt Nam, mời quí vị qua vùng nghèo Neak Loeung, nơi người Việt cư
ngụ bên đó gọi là Hố Lương, để thấy năm này Giáng Sinh đặc biệt chú
trọng đến các em học sinh người Việt: “Vì năm nay nhà thờ đang sửa chữa sắp xong nên bà con đón
Giáng Sinh cũng nhộn nhịp, người dân cả làng đến coi mấy em múa hát rồi
diễn kịch Chúa sinh ra đời.
Năm nay mình tăng thêm quà cho mấy em đi học, khoảng đâu 240 em Lớp
Nột đến Lớp 12, trong đó 40 đi mẫu giáo. Mỗi em được lãnh sách, vở, viết
và chút đỉnh tiền. Giáng Sinh năm nay đặc biệt những em nào đang đi học
ở trường thì có quà hết cho nó vui. Những hộ nghèo thì trước Giáng Sinh
người già đã được phát quà.”
Đó là lời linh mục Paul Hoàng, vị chủ chăn vùng Hố Lương với những làng
nhỏ của người Việt sống bám vào mãnh đất nghèo nàn cằn cỗi của Campuchia
bao năm qua.
Người Việt ở Hồng Kông đón Giáng Sinh 2014 như thế nào? Chị Thủy, một
giáo dân thuộc xứ đạo Thánh Giu Xe, chia sẻ một tin vui diễn ra từ tháng
Mười Một:
Mỗi một Cộng Đoàn thì thay nhau hàng năm để làm hang đá, năm nay Cộng
Đoàn người Việt mình làm hang đá cho giáo xứ là một. Hai nữa, đêm vọng
Giáng Sinh tức đêm 24 là lễ chung toàn giáo xứ, ba Cộng Đoàn thì lễ
tiếng Hoa, tiếng Anh và tiếng Việt.
-Chị Thủy
“Hồi tháng Mười Một vừa tổ chức lễ mừng 20 năm thành lập
Cộng Đoàn xong. Ở Hồng Kông, giáo xứ thánh Giu Xe của mình bây giờ, có
ba Cộng Đoàn duy trì ở đấy. Cộng Đoàn người Hoa là chính, sau đó là Cộng
Đoàn Việt Nam của mình khoảng chừng 300 giáo dân, và Cộng Đoàn Phi là
những người sang bên này theo hợp đồng lao động.
Mỗi một Cộng Đoàn thì thay nhau hàng năm để làm hang đá, năm nay Cộng
Đoàn người Việt mình làm hang đá cho giáo xứ là một. Hai nữa, đêm vọng
Giáng Sinh tức đêm 24 là lễ chung toàn giáo xứ, ba Cộng Đoàn thì lễ
tiếng Hoa, tiếng Anh và tiếng Việt.”
Qua ngày 25, chị Thủy kể tiếp, Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tổ chức một Thánh lễ riêng vào lúc 12 giờ 30 trưa:
“Ở Hồng Kông thì tất cả những ngày lễ trọng, trong đó có ngày
Giáng Sinh, là ngày qui tụ đoàn viên tất cả những người Việt đang sinh
sống ở Hồng Kông mà nhiều khi bởi hoàn cảnh khác nhau không đi lể thường
được nhưng lễ lớn thì người ta qui tụ về thường là rất đông, phải 200
cho tới 300 giáo dân. Có cái tiệc truyền thống là mỗi một chị em được
phân công nấu một món mang tới, sau lễ thì mình có tiệc liên hoan trên
đó, ăn chung với nhau rồi hò hát, nhận quà Giáng Sinh . Đấy là cái không
khí chung.”
Cách đó không xa là Macao với Giáng Sinh mà hầu như thật trầm lắng trong
đặc điểm nỗi bật của nó. Người Việt ở Macao đi nhà thờ của giáo xứ
Fatima, nơi có Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Macao, có một nữ tu, ba
thầy và một linh mục người Việt, Thầy Giang thuộc giáo xứ Fatima, giải
thích:
“Bà con sang bên đây đi làm, hơn 80% là người Công Giáo xuất
phát từ Nghệ An, Hà Tĩnh và một số tỉnh miền Bắc... Thì người ta mang
qua đây cái truyền thống gọi là giữ đạo rất sâu sắc giống như ở ngoài
Bắc vậy. Từ cách ăn mặc, cách đi lễ, cách cầu nguyện rồi các nghi thức
trong lễ lễ...Nói chung là hoàn toàn rất sốt sắng giữ đạo.
Giáo xứ Fatima này được Giám Mục giao cho một Cha người Việt coi sóc
những người Công giáo đó. Năm nay Nô En thì cũng rất bình thường, một số
người đi làm hôm đấy, một số được nghỉ, một số người lại nghỉ hôm sau,
không như ở Việt Nam mà ai cũng nghĩ ngày đó hết. Các Cha và các Thầy là
chỉ họp lại, cố gắng tạo một chương trình Giáng Sinh cho tất cả mọi
người nhưng mà trên một phương diện chung chung vậy thôi chứ không thể
nào đặc biệt hơn. Thánh lễ thì có một chút hiến nguyện, sau đó là ăn
uống rồi sinh hoạt , gói gọn trong một ngày 25 thôi.”
Thủ đô Kiev, Ukraina
Và bây giờ là lúc Thanh Trúc đưa quí vị đi xa hơn, tới thủ đô Kiev của
Ukraina đang co ro trong mùa đông buốt giá. Anh Hải Hà, có cơ sở kinh
doanh ở Kiev, nói rằng Giáng Sinh kiểu Âu Châu gần như không thịnh hành
với người Việt nói riêng ở nơi này:
“Ở bên đây thì họ đón Giáng Sinh ngày mùng 7 tháng Một theo Chính Thống Giáo như
của bên Nga, Ukraina và một số nước Đông Âu, tức là chậm hơn so với đạo
Tin Lành hai tuần. Ở bên đây gần như không ai tổ chức Giáng Sinh cả,
nhất là trong cộng đồng Việt Nam bên đây nữa thì lại rất ít người theo
đạo, còn một số người theo Tin Lành thì người ta đi nhà thờ theo cách
riêng.
Bên đây thì năm nay đồng nội tệ mất giá, lạm phát cũng tăng rất
nhanh thành ra mức sống của bà con mình cũng như mức sống của cả xã hội
Ukraina nói chung là giảm rất nhiều.”
Cũng từ thủ đô Kiev, chị Hường, cho rằng dù có bày biện vui chơi Giáng
Sinh thì cũng không ai dấu được sự ảm đạm lo âu từ cuộc sống và chiến
tranh:
“Đại khái là không khí nó buồn tẻ hơn, kiểu đồng Rúp mất giá,
đồng tiền Ukraina mất giá, lên gấp ba lần so với đồng Đô La. Bà con,
người dân người ta cũng nghèo hơn, điện đóm thì lúc được lúc mất. Nói
chung tình hình không được vui vẻ, suông sẻ bằng như mọi năm. Hầu như
người Việt bên này theo đạo chỉ có một số người thôi, không phải là ai
cũng đi đón Giáng Sinh. Nô En hoặc ngày 31 Tết sang giao thừa thì lên
trung tâm chụp ảnh với cây thông rồi xem lễ hội người ta tổ chức ở đấy
thôi.”
Cũng là một đất nước có đa số người theo Chính Thống Giáo, người Nga chỉ
bắt đầu mừng Giáng Sinh từ ngày 6 bước qua ngày 7 tháng Giêng. Tuy
nhiên người Việt Nam ở Nga vẫn giữ thông lệ đón mừng Giáng Sinh ngày 24
và 25 tháng Mười Hai. Từ Moscow, anh Thắng, cho biết có một Cộng Đoàn
Công Giáo Việt Nam ngay tại Moscow:
“Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam cũng phải hàng trăm người, nói chung là
tương đối đông nhưng ở tản hết thành thử nhóm cũng không được nhiều,
nhưng nếu đến nhà thờ vào Giáng Sinh thì cũng đông hơn, còn ngày bình thường chỉ độ bốn năm chục người.
Ăn vào ngày 24 là tối Giáng Sinh, còn ngày mai là ngày nghỉ. Nhà thờ
này gồm sáu nước, các Cha của các nước đồng tế cùng một lúc, có Cha Việt
Nam, Cha người Nga, Cha người Pháp… các nước đều có.
Noel năm nay cũng không được như mọi năm, ở Nga bây giờ cũng khó khăn
về mặt kinh tế về mặt chính trị các thứ thành thử năm nay cộng đồng
mình không nhóm như năm ngoái. Cộng đồng mình bây giờ là kiểu đi dự lễ
Giáng Sinh ở nhà thờ về rồi thì sau đấy người ta tổ chức gia đình thì nó
hợp lý hơn, rầm rộ thì mọi người năm nay không hợp lý lắm.”
Sau cùng, mời quí vị quay về Ba Lan, đến thủ đô Varsaw của nước này. Anh
Thực, một giáo dân thuần thành gốc Nghệ An, đang làm việc tại Warsaw:
“Ở đây là có một Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Ba
Lan do Cha Khánh lãnh đạo, khoảng 300 hoặc hơn gì đấy, chủ yếu là dân
miền Trung, Nghệ An và các vùng Bắc cũng nhiều, còn miền Nam thì không
có.
Nhà thờ thì do giáo dân góp tiền và thuê để tổ chức Thánh lễ gồm ba
địa điểm. Địa điểm chính thường tổ chức các dịp lễ lớn, thí du như lễ Nô
En, lễ đầu năm hoặc lễ Phục Sinh thì tổ chức ngày tại nhà thờ lớn .
Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam cũng tổ chức làm hang đá nhà thờ và đi lễ
vọng Giáng Sinh như ở Việt Nam thôi. Thường thì Cha xứ đi lễ nơi này
xong về phải đi nơi khác nên Cha không tổ chức gì cả. Sau Thánh lễ thì
những nhóm nhỏ góp tiền ăn uống giao lưu với nhau thôi.”
Đó là Giáng Sinh 2014 của người Việt ở Việt Nam, Kampuchia, Hồng Kông, Macao, Ukraina, Nga và Ba Lan.
Thanh Trúc kính chúc quí thính giả một mùa lễ tràn đầy niềm vui cũng như
bình an trong hồng ân Thiên Chúa. Xin hẹn tái ngộ tối thứ Năm tuần tới.
Toàn
bộ các tuyến đường dẫn vào trung tâm quận 1 TP.HCM đều kẹt cứng, các
điểm vui chơi quá tải trong đêm 31/12. Tại Hà Nội, các tuyến phố quanh
các điểm tổ chức chương trình ca nhạc đón giao thừa 2015 cũng tắc nghẽn.
Ghi
nhận của VietNamNet trên nhiều tuyến đường dẫn vào khu trung tâm Sài
Gòn, đặc biệt là khu vực xung quanh tòa nhà Bitexco nơi được chọn làm
điểm bắn pháo hoa trong dịp Tết Dương lịch 2015 đang trong tình trạng
người và phương tiện ùn tắc nghiêm trọng.
Ước tính có hàng trăm
ngàn người kéo về khu trung tâm, gây nên tình trang kẹt xe kéo dài trên
nhiều tuyến đường như Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Đồng Khởi, Tôn Đức Thắng, Trần
Hưng Đạo….
Tại tuyến đường Hàm Nghi, lực lượng chức năng chốt chặn
hai đầu không cho xe máy di chuyển qua và đây đã trở thành một con phố
dành cho người đi bộ.
Do lượng người đổ về đây cũng quá đông khiến
khu vực này dù chỉ dành cho người đi bộ cũng trở nên quá tải. Tương tự
còn có khu vực công viên 23/9, bến Bạch Đằng…cũng không còn chỗ chen
chân.
Tại cầu Khánh Hội nối quận 1 - quận 4 (TP.HCM) cũng chật cứng người dân đến "xí" chỗ để chờ đón xem bắn pháo hoa.
Dọc
bờ kênh trên tuyến đường Võ Văn Kiệt, đoạn gần hầm vượt sông Sài Gòn,
lượng người và xe quá đông lấn chiếm cả phần đường xe cơ giới lưu thông,
gây ra tình trạng ùn tắc kéo dài trên tuyến đường huyết mạch này.
Khu
vực bến xe buýt Bến Thành cũng đông nghịt người chờ đón màn trình diễn
pháo hoa, ánh sáng 3D. Trên các con đường Lê Lợi, Nguyễn Huệ, vòng xoay
chợ Bến Thành, Đồng Khởi, Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn tràn ngập người đón
giao thừa.
Tại khu vực phố Tây, người nước ngoài cũng đổ ra đường chào đón giờ phút thiêng liêng chuyển giao năm cũ sang năm mới.
Hà Nội: Nguời dân đổ ra đường đón giao thừa Tết Dương lịch
Tối
31/12/2014, thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, rất người dân
Hà Nội đã đổ ra đường đón giao thừa, gây nên tình trạng tắc nghẽn tại
một số tuyến đường.
Theo ghi nhận của phóng viên VietNamNet, các
tuyến phố Khâm Thiên, Lê Duẩn và quanh hồ Thiền Quang ken đặc người đi
bộ. Phố Huế, Hàng Bài và các con đường dẫn đến hồ Gươm, Nhà hát Lớn chật
ních dòng người và xe đi đón năm mới.
Sự kiện đếm ngược quen
thuộc hàng năm diễn ra từ 21h ngày 31/12/2014 – 0h30 ngày 1/1/2015 tại
hồ Thiền Quang (Hà Nội). Chương trình năm nay có sự góp mặt của nhiều ca
sĩ nổi tiếng như Hồ Ngọc Hà, Tuấn Hưng, Hoàng Thùy Linh, Bùi Anh Tuấn,
Sơn Tùng MTP, và ca sĩ Hip-hop Kimmese, Rapper Boogie, DJ Kruise, Drew
Tudose.
Ngoài ra, sự kiện Yamaha Clear Men Countdown cũng không
kém phần hấp dẫn diễn ra vào lúc 20h30 ngày 31/12/2014 – 0h30 ngày
1/1/2015 tại Quảng trường Cách Mạng Tháng 8, phía trước Nhà Hát Lớn.
Đây
cũng là một đêm đáng nhớ cho các fan hâm mộ nhạc rock và bóng đá với
các pha trình diễn tâng bóng đỉnh cao của vận động viên tâng bóng nghệ
thuật Đỗ Kim Phúc, cùng sự góp mặt của nhóm rock Microwave và ca sỹ Phạm
Anh Khoa.
Ở phần cuối chương trình, thời khắc chuyển giao giữa
hai năm sẽ được đánh dấu bằng màn biểu diễn kết hợp giữa pháo hoa, ánh
sáng và nhảy tương tác với các DJ.
Toàn bộ quảng trường Cách mạng
tháng Tám sẽ được chuyển sang màu đỏ, tượng trưng cho sự may mắn và
thuận lợi, dưới ánh sáng của đèn laser và pháo hoa.
Những hình ảnh sau đây do P.V VietNamNet ghi nhận tại trung tâm TPHCM vào lúc 22g ngày 31/12:
Hình ảnh giao thông tắc nghẽn tại các điểm tổ chức đón giao thừa Tết Dương lịch tại Hà Nội:
No comments:
Post a Comment