HUY VÂN * NGÀY ĐỊNH MỆNH
Ngày Định Mệnh
Huy Văn
Tiếng loa kêu gọi tập họp vang lên liên tục. Đám bộ
đội ôm súng hối hả chạy về các vọng gác. Hoạt cảnh quen mắt lúc đầu làm
mọi người thót bụng, nhưng sau gần một tháng chung đụng thì ba mớ “lên
gân“ của kẻ coi tù đã trở thành một màn hài kịch không hơn không kém.
Mỗi lần có tập họp - dù chỉ để ngồi ngoài sân cờ xem phim tài liệu của
chiến trận vừa qua, hay loại phim tuyên truyền cho chế độ - thì y như là
chúng sắp sửa đem ai đó ra xử bắn. Đám nón cối lúc nào cũng đằng đằng
sát khí đứng bao quanh, súng chĩa ngang người, mắt trừng trừng thật căng
thẳng. Nhưng có điều gì đó làm chúng tôi đưa mắt nhìn nhau rồi thì thầm
dọ hỏi vì lần này chúng bắt tù tàn binh tập trung vào buổi sáng: Chỉ
mới hơn 9 giờ! Đành là đỡ lo lắng hơn những lần điểm danh bất thần vào
buổi tối, hay cả lúc nửa đêm, nhưng vẫn là nỗi hoang mang của những kẻ
đang nằm trong rọ, hay đúng hơn là trong cảnh tù đày. Chuyện gì nữa
đây?! Mọi người nhìn nhau thầm hỏi.
Chuyển trại! Lời thông báo ngắn gọn của tên Chính trị viên, đại diện ban
quản giáo được chúng tôi đón nhận trong hoang mang như thường lệ. Đi
đâu? Câu hỏi chỉ nằm trong đầu hoặc trao đổi qua tiếng thì thào với
người đang đứng kề bên. Tù không có quyền thắc mắc và cai tù thì không
cho biết thêm chi tiết, ngoại trừ mọi thứ phải được chuẩn bị trong thời
gian nhanh nhứt. Danh sách phân toán và phân nhóm để lên xe vừa đọc xong
thì chúng tôi mới có cơ hội xì xào khi trở vào thu xếp đồ đạc. Thật ra
thì cũng chẳng có gì để thu xếp vì từ lúc bị hốt đi từ Quận Nhứt, Đà
Nẵng, cho tới hôm nay thì anh em tàn binh nhiều lắm là thêm được vài bộ
domino làm từ bình ắc quy hay vài vật dụng cần thiết chế biến từ bất cứ
thứ gì có thể gom góp được trong doanh trại vốn là hậu cứ của một Tiểu
Đoàn Công Binh Kiến Tạo, mà vị Tiểu Đoàn Trưởng là chồng của một ca sĩ
nhạc twist kiêm nghệ sĩ sân khấu thời danh của thập niên 60.
Cũng như khi bị gom lần đầu, cả đám molotova, xe hàng và xe tải đều căng bạt kín mít. Vẫn là cảnh hai tên nón cối non choẹt ôm súng đứng canh trong xe. Vẫn là câu căn dặn có tính cách doạ nạt thường lệ: “…Ngồi trên sàn xe. Không được đứng lên vì bất cứ lý do gì…”. Và vẫn là sự suy đoán dựa theo hướng xe lăn bánh để thầm hình dung đoạn đường sẽ dẫn về đâu. Từ sân cờ ra khỏi cổng, nếu rẽ trái thì vào phố Hội An hay ra biển, còn quẹo phải thì ra Điện Bàn… Quẹo phải! Vậy là đoàn xe đang trở ra phía Vĩnh Điện ngoài Quốc lộ 1. Lại quẹo phải! Vậy là đoàn xe đang ngược Bắc. Lúc nhanh, lúc chậm. Khi thì nghe tiếng gió ào ạt và tiếng bánh xe nghiến trên đường, lúc thì có nhiều tiếng máy nổ của xe cộ các loại, cùng với âm thanh hỗn tạp của những vùng đông dân cư.
Khoảng hơn một tiếng sau thì xe quẹo trái, chạy thật chậm trên một đoạn đường dằn xóc rồi dừng hẳn lại. Đến nơi rồi!
Vừa bước xuống xe, và nhìn quanh một vòng thì đã có tiếng xì xào của vài bạn tù gốc Quảng Nam. Thì ra đây là Trung Tâm Huấn Luyện Hòa Cầm, nơi đào tạo tân binh cho Sư Đoàn 3 BB và cũng là nơi các đơn vị thuộc Tiểu Khu Quảng Nam cũng như Biệt Động Quân chúng tôi thỉnh thoảng về “hấp“, tái bổ sung, hay dưỡng quân ngắn hạn. Sau một màn điểm danh, và phổ biến những điều ngăn cấm, tù binh liên quan tới việc không được tự tiện rời chỗ ở và đi lòng vòng trong doanh trại. Chúng tôi được quản giáo chia thành từng nhóm 50 người rồi giao cho vệ binh dẫn về các “Sam“ để chính thức trở thành tù nhân ngay trong Quân trường mới hơn một tháng trước còn là chiếc nôi nuôi dưỡng sức sống của các đơn vị cơ hữu trong vùng.
Dù đang cuối Xuân nhưng nắng đủ nóng để mọi người đổ mồ hôi như tắm. Một số ra ngoài tìm bóng cây để hóng mát thì bị đám nón cối đuổi trở vào bên trong “Sam“ với lý do “…ăn mặc hở hang, kém văn hóa!“
Nhìn lại thì ai nấy đều chỉ có quần đùi trên người và điều này làm cho mấy em nón tai bèo mắc cỡ, hay tỏ vẻ khó chịu, hoặc trừng trợn khi đi ngang qua “Sam“ của chúng tôi. Không có thông báo rõ rệt về chuyện dời trại ban sáng, nhưng đã có lời rỉ tai về một cuộc tập trung toàn bộ sĩ quan của QLVNCH thuộc vùng Quảng Nam về một chỗ để kiểm kê số lượng và dễ bề kiểm soát, hay còn để thực hiện một việc gì đó rất quan trọng.
- Biết đâu sẽ có trao trả tù binh nay mai!? Không lẽ trong đó không phản công hoặc “mấy ổng“ bỏ rơi mình hay sao?
- Phải đó! Chắc là phải có một giải pháp cho tù binh của hai bên. Nếu không thì cần gì tụi nó phải đưa tụi mình về đây cho mất công?!
- Cả tháng nay không có chút tin tức gì từ thế giới bên ngoài. Không có radio, không tiếp xúc được với ai. Mình bị bưng bít mọi chuyện. Chỉ toàn là ba mớ tuyên truyền của tụi nó không hà ! Một quân nhân BĐQ tại mặt trận Xuân Lộc, tháng 3-1975.
Những lời đoán già đoán non cứ thế mà trao qua đổi lại cả ngày. Nét lo âu hiện rõ trên gương mặt của mỗi người. Mặc dù mức độ căng thẳng không đến đỗi như lần bị lừa “…tập trung đi học tập cải tạo từ 7 giờ đến 9 giờ sáng …” như trước đây, nhưng mỗi lần có thay đổi trong sinh hoạt của tù binh là lại thấy xốn xang và buồn bực trong lòng. Đã vậy, nơi tập trung vừa qua và lần này đều là những doanh trại cũ, những nơi đã từng in màu áo trận, từng vang rền tiến chân đưa theo nhịp quân hành. Bảo sao không bùi ngùi, không rấm rức, không buồn đau khi mà số phận nghiệt ngã đã đưa mọi người lọt vào trong quyền sinh sát của lũ ngông cuồng đang say men chiến thắng!
Tiếng lách cách của những quân cờ chơi trong thinh lặng hay chơi để mà chơi, chơi để không bắt trí óc rã rời phải cố công suy niệm. Tiếng thì thầm của từng nhóm bạn, tiếng thở dài lẻ loi của ai đó trong góc tối hầu như ngưng bặt cùng một lúc khi những ngọn đèn vàng trong “Sam“ vụt tắt. Đêm dần trôi trong lặng lẽ. Đêm mờ bóng vực, trầm lắng đến tận cùng tâm thức. Dưới khe hở của lớp tường lợp tôle là vòm sáng mờ mờ, nhợt nhạt từ xa dọi vào làm khung cảnh trong “Sam“ càng trở nên u tịch. Tiếng rù rì của những câu chuyện trao đổi cũng đã im bặt từ lâu. Không gian thinh lắng như trầm tích. Ngoài tiếng động của những bước chân tuần tiễu kèm theo lời xì xào của vệ binh, thì tiếng động còn lại là chỉ là những tiếng trở mình sột soạt trên nền chiếu của ai đó trong góc “Sam“. Một ngày đã qua. Một ngày lê thê, vô cảm, đã trôi vào quá khứ của thời gian suốt từ lúc Đà Nẵng rơi vào tay nón cối. Lại là một đêm dài của tương lai vô định và của số phận đã bị đóng khung.
***
Đêm mất ngủ khiến nhiều người còn nằm co quắp dưới nền xi măng mặc dù bên ngoài nắng đã lên cao. Đa số đã thức dậy từ lâu và đang nằm, ngồi thả khói trong tư lự. Lại là những suy tư miên man về thân phận tàn binh. Lại những âu lo và phiền muộn đủ làm khô khốc cả người. Không ai muốn đối diện thực tại não nề. Mọi thứ đều như trong giấc mơ. Và nỗi buồn thì cứ chất ngất trong cùng tận đáy lòng nên hiếm hoi lắm mới thấy tàn binh nở một nụ cười - cho dù chỉ là một nụ cường gượng gạo - để tự dối lòng và tạm quên thực tại. Cách lãng quên đời tốt nhứt là… hút thuốc ! Cũng may là khi còn trong Hội An, ngày nào chúng tôi cũng có cơ hội ném tiền qua hàng rào để được người dân thảy lại những bao thuốc Quân Tiếp Vụ nên bây giờ mới có thể “Mang cơn sầu đời thả thành sương mộng. Vàng tay khô trên từng nhánh lụy phiền ".
Cả buổi sáng không có tên nón cối nào đến “làm phiền“ chúng tôi. Hình như cảnh vệ cũng lơ là trong việc ngăn chận tù tàn binh ở các “Sam“ gần nhau chạy qua, chạy lại, xì xào trao đổi tin tức. Cũng chẳng có gì để nói cho nhau nghe ngoài những câu chuyện bâng quơ về mọi thứ trên đời, trong đó niềm hy vọng - dù không mấy lạc quan - về một ngày được trả tự do là đề tài được nhắc đi, nhắc lại nhiều nhứt. Và cứ thế, buổi sáng rồi buổi trưa uể oải trôi qua trong một ngày nắng thật đẹp. Lại giải khuây và giết thì giờ quanh mấy bàn cờ tướng hoặc domino. Lại bó gối ngồi nhìn trời, ngắm đất trong thinh lặng. Không nói ra nhưng ai cũng biết người bạn đồng cảnh đang lo gì, nghĩ gì sau bộ mặt trầm tư qua làn khói thuốc. Cá nằm trong rọ, thú nhốt trong chuồng, người trong tù ngục, chắc chắn đều có chung một khát vọng: Tự Do. Nhưng tự do của tàn binh bây giờ cũng có nghĩa là bước vào một nhà tù lớn hơn vì ngoài kia người dân cũng đang đối diện với nghịch cảnh đổi đời và cũng đang oằn mình vì mớ gông cùm cộng sản đang lần hồi siết chặt. Đường nào cũng bí rị, cũng tối đen. Đáng buồn thay cho thân phận tàn binh!
Lại có lệnh tập trung ngay trước cửa “Sam“. Bước ra ngoài thì đã thấy các “Sam“ khác cũng vậy. Nếu không có đám nón cối (lại nón cối!) ôm súng đứng giăng hàng như thể đang dàn chào, thì quang cảnh không khác gì một buổi tập họp của các tân binh trong quân trường trước đây. Nhưng lần này lại có không khí nghiêm trọng hẳn ra vì không chỉ có đám bộ đội đứng trước sân tập họp, mà phía sau “Sam“, ngay sát vòng rào lưới mắt cáo có giăng kẽm gai, cũng có bóng dáng của những cây AK chĩa ngang hông. Lại một phen hồi họp và lo lắng. Lại có chuyện gì nữa đây!?
Như đoán biết sự bồn chồn của mọi người, tên quản giáo chậm rãi đi tới đi lui trên thềm xi măng, tay giơ cao đếm số người đang đứng thẳng hàng trước cửa “Sam“ rồi mới sửa bộ, tằng hắng vài tiếng, cố làm ra vẻ trịnh trọng nói cho chúng tôi biết rằng miền Nam tự do đã mất vào tay giặc Cộng, vào lúc 12 giờ trưa ngày 30 tháng Tư.
Tên quản giáo ngừng lại giây lát như thể đang thăm dò phản ứng của chúng tôi. Những cái đầu vốn đã cúi nhìn xuống đất nay lại càng gập sâu hơn nữa. Trời đang xế trưa. Nắng gay gắt như đang hừng hực lửa mà lòng chợt lạnh đến rùng mình. Thật vậy sao?! Mơ chăng?! Không thể nào! Chỉ mới đúng một tháng mà đã mất cả một miền Nam vào tay giặc. Không! Mất cả Quốc gia mới đúng!
Còn đang bàng hoàng thì câu nói kế tiếp của tên quản giáo vang lên như một lời hù dọa để chính thức phủ đầu những kẻ đang thật sự sa cơ:
“… Các anh đừng mơ tưởng tới việc trao trả tù binh nữa. Chúng tôi (cộng Sản) sẽ trừng trị thẳng tay…”
Như để chứng minh cho sự thật lịch sử, tên quản giáo ngu xuẩn giơ cao chiếc radio, mở âm lượng tối đa để chúng tôi nghe những gì đang được tiếp vận từ đài phát thanh Sàigòn. Câu mở đầu và giọng xướng ngôn quen thuộc đã không còn. Thay vào đó là những bài hát cộng đồng, những bản nhạc sắt máu mang âm hưởng của nhạc Tàu, và giọng “sốt rét“ nhưng cũng không kém phần đanh thép của ai đó cứ nhai đi nhai lại những khẩu hiệu an dân và đầy tính chất tuyên truyền cho chế độ. Tên quản giáo cứ thế mà gằn giọng răn đe này nọ. Hắn còn nói nhiều chuyện khác nữa nhưng không ai còn để tâm đến làm gì. Cả tháng nay ai nấy cố nuôi hy vọng để bây giờ thất vọng não nề. Nỗi đau buồn không bút mực nào diễn đạt cho đúng với những gì chúng tôi đang cảm nhận trong lòng. Mọi người không ai nhìn ai.
Tất cả lẵng lặng trở vào trong “Sam”. Bước chân nặng nề như treo đá. Lòng quặn thắt từng hồi. Giữa trưa mà tưởng như đang bước vào bóng tối. Mặt trời “đen“ hơn bao giờ hết, đen hơn tất cả những gì người nhạc sĩ thời danh nào đó đã ta thán trong bài hát của ông ta mấy năm trước đây. Lịch sử Việt Nam đã vừa thay trang mới. Miền Nam tự do đã không còn tồn tại trên chính trường thế giới. Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử! Và chúng tôi, những chiến sĩ của tiền đồn chống cộng hôm qua, cũng vừa mới được kẻ chiến thắng chính thức công bố số phận của mình: số phận nghiệt ngã của những tù binh không có ngày trao trả.
Lúc đó là 2 giờ chiều, ngày thứ Tư 30 tháng 4 năm 1975! Ngày định mệnh của cả một Dân Tộc!
Cũng như khi bị gom lần đầu, cả đám molotova, xe hàng và xe tải đều căng bạt kín mít. Vẫn là cảnh hai tên nón cối non choẹt ôm súng đứng canh trong xe. Vẫn là câu căn dặn có tính cách doạ nạt thường lệ: “…Ngồi trên sàn xe. Không được đứng lên vì bất cứ lý do gì…”. Và vẫn là sự suy đoán dựa theo hướng xe lăn bánh để thầm hình dung đoạn đường sẽ dẫn về đâu. Từ sân cờ ra khỏi cổng, nếu rẽ trái thì vào phố Hội An hay ra biển, còn quẹo phải thì ra Điện Bàn… Quẹo phải! Vậy là đoàn xe đang trở ra phía Vĩnh Điện ngoài Quốc lộ 1. Lại quẹo phải! Vậy là đoàn xe đang ngược Bắc. Lúc nhanh, lúc chậm. Khi thì nghe tiếng gió ào ạt và tiếng bánh xe nghiến trên đường, lúc thì có nhiều tiếng máy nổ của xe cộ các loại, cùng với âm thanh hỗn tạp của những vùng đông dân cư.
Khoảng hơn một tiếng sau thì xe quẹo trái, chạy thật chậm trên một đoạn đường dằn xóc rồi dừng hẳn lại. Đến nơi rồi!
Vừa bước xuống xe, và nhìn quanh một vòng thì đã có tiếng xì xào của vài bạn tù gốc Quảng Nam. Thì ra đây là Trung Tâm Huấn Luyện Hòa Cầm, nơi đào tạo tân binh cho Sư Đoàn 3 BB và cũng là nơi các đơn vị thuộc Tiểu Khu Quảng Nam cũng như Biệt Động Quân chúng tôi thỉnh thoảng về “hấp“, tái bổ sung, hay dưỡng quân ngắn hạn. Sau một màn điểm danh, và phổ biến những điều ngăn cấm, tù binh liên quan tới việc không được tự tiện rời chỗ ở và đi lòng vòng trong doanh trại. Chúng tôi được quản giáo chia thành từng nhóm 50 người rồi giao cho vệ binh dẫn về các “Sam“ để chính thức trở thành tù nhân ngay trong Quân trường mới hơn một tháng trước còn là chiếc nôi nuôi dưỡng sức sống của các đơn vị cơ hữu trong vùng.
Dù đang cuối Xuân nhưng nắng đủ nóng để mọi người đổ mồ hôi như tắm. Một số ra ngoài tìm bóng cây để hóng mát thì bị đám nón cối đuổi trở vào bên trong “Sam“ với lý do “…ăn mặc hở hang, kém văn hóa!“
Nhìn lại thì ai nấy đều chỉ có quần đùi trên người và điều này làm cho mấy em nón tai bèo mắc cỡ, hay tỏ vẻ khó chịu, hoặc trừng trợn khi đi ngang qua “Sam“ của chúng tôi. Không có thông báo rõ rệt về chuyện dời trại ban sáng, nhưng đã có lời rỉ tai về một cuộc tập trung toàn bộ sĩ quan của QLVNCH thuộc vùng Quảng Nam về một chỗ để kiểm kê số lượng và dễ bề kiểm soát, hay còn để thực hiện một việc gì đó rất quan trọng.
- Biết đâu sẽ có trao trả tù binh nay mai!? Không lẽ trong đó không phản công hoặc “mấy ổng“ bỏ rơi mình hay sao?
- Phải đó! Chắc là phải có một giải pháp cho tù binh của hai bên. Nếu không thì cần gì tụi nó phải đưa tụi mình về đây cho mất công?!
- Cả tháng nay không có chút tin tức gì từ thế giới bên ngoài. Không có radio, không tiếp xúc được với ai. Mình bị bưng bít mọi chuyện. Chỉ toàn là ba mớ tuyên truyền của tụi nó không hà ! Một quân nhân BĐQ tại mặt trận Xuân Lộc, tháng 3-1975.
Những lời đoán già đoán non cứ thế mà trao qua đổi lại cả ngày. Nét lo âu hiện rõ trên gương mặt của mỗi người. Mặc dù mức độ căng thẳng không đến đỗi như lần bị lừa “…tập trung đi học tập cải tạo từ 7 giờ đến 9 giờ sáng …” như trước đây, nhưng mỗi lần có thay đổi trong sinh hoạt của tù binh là lại thấy xốn xang và buồn bực trong lòng. Đã vậy, nơi tập trung vừa qua và lần này đều là những doanh trại cũ, những nơi đã từng in màu áo trận, từng vang rền tiến chân đưa theo nhịp quân hành. Bảo sao không bùi ngùi, không rấm rức, không buồn đau khi mà số phận nghiệt ngã đã đưa mọi người lọt vào trong quyền sinh sát của lũ ngông cuồng đang say men chiến thắng!
Tiếng lách cách của những quân cờ chơi trong thinh lặng hay chơi để mà chơi, chơi để không bắt trí óc rã rời phải cố công suy niệm. Tiếng thì thầm của từng nhóm bạn, tiếng thở dài lẻ loi của ai đó trong góc tối hầu như ngưng bặt cùng một lúc khi những ngọn đèn vàng trong “Sam“ vụt tắt. Đêm dần trôi trong lặng lẽ. Đêm mờ bóng vực, trầm lắng đến tận cùng tâm thức. Dưới khe hở của lớp tường lợp tôle là vòm sáng mờ mờ, nhợt nhạt từ xa dọi vào làm khung cảnh trong “Sam“ càng trở nên u tịch. Tiếng rù rì của những câu chuyện trao đổi cũng đã im bặt từ lâu. Không gian thinh lắng như trầm tích. Ngoài tiếng động của những bước chân tuần tiễu kèm theo lời xì xào của vệ binh, thì tiếng động còn lại là chỉ là những tiếng trở mình sột soạt trên nền chiếu của ai đó trong góc “Sam“. Một ngày đã qua. Một ngày lê thê, vô cảm, đã trôi vào quá khứ của thời gian suốt từ lúc Đà Nẵng rơi vào tay nón cối. Lại là một đêm dài của tương lai vô định và của số phận đã bị đóng khung.
***
Đêm mất ngủ khiến nhiều người còn nằm co quắp dưới nền xi măng mặc dù bên ngoài nắng đã lên cao. Đa số đã thức dậy từ lâu và đang nằm, ngồi thả khói trong tư lự. Lại là những suy tư miên man về thân phận tàn binh. Lại những âu lo và phiền muộn đủ làm khô khốc cả người. Không ai muốn đối diện thực tại não nề. Mọi thứ đều như trong giấc mơ. Và nỗi buồn thì cứ chất ngất trong cùng tận đáy lòng nên hiếm hoi lắm mới thấy tàn binh nở một nụ cười - cho dù chỉ là một nụ cường gượng gạo - để tự dối lòng và tạm quên thực tại. Cách lãng quên đời tốt nhứt là… hút thuốc ! Cũng may là khi còn trong Hội An, ngày nào chúng tôi cũng có cơ hội ném tiền qua hàng rào để được người dân thảy lại những bao thuốc Quân Tiếp Vụ nên bây giờ mới có thể “Mang cơn sầu đời thả thành sương mộng. Vàng tay khô trên từng nhánh lụy phiền ".
Cả buổi sáng không có tên nón cối nào đến “làm phiền“ chúng tôi. Hình như cảnh vệ cũng lơ là trong việc ngăn chận tù tàn binh ở các “Sam“ gần nhau chạy qua, chạy lại, xì xào trao đổi tin tức. Cũng chẳng có gì để nói cho nhau nghe ngoài những câu chuyện bâng quơ về mọi thứ trên đời, trong đó niềm hy vọng - dù không mấy lạc quan - về một ngày được trả tự do là đề tài được nhắc đi, nhắc lại nhiều nhứt. Và cứ thế, buổi sáng rồi buổi trưa uể oải trôi qua trong một ngày nắng thật đẹp. Lại giải khuây và giết thì giờ quanh mấy bàn cờ tướng hoặc domino. Lại bó gối ngồi nhìn trời, ngắm đất trong thinh lặng. Không nói ra nhưng ai cũng biết người bạn đồng cảnh đang lo gì, nghĩ gì sau bộ mặt trầm tư qua làn khói thuốc. Cá nằm trong rọ, thú nhốt trong chuồng, người trong tù ngục, chắc chắn đều có chung một khát vọng: Tự Do. Nhưng tự do của tàn binh bây giờ cũng có nghĩa là bước vào một nhà tù lớn hơn vì ngoài kia người dân cũng đang đối diện với nghịch cảnh đổi đời và cũng đang oằn mình vì mớ gông cùm cộng sản đang lần hồi siết chặt. Đường nào cũng bí rị, cũng tối đen. Đáng buồn thay cho thân phận tàn binh!
Lại có lệnh tập trung ngay trước cửa “Sam“. Bước ra ngoài thì đã thấy các “Sam“ khác cũng vậy. Nếu không có đám nón cối (lại nón cối!) ôm súng đứng giăng hàng như thể đang dàn chào, thì quang cảnh không khác gì một buổi tập họp của các tân binh trong quân trường trước đây. Nhưng lần này lại có không khí nghiêm trọng hẳn ra vì không chỉ có đám bộ đội đứng trước sân tập họp, mà phía sau “Sam“, ngay sát vòng rào lưới mắt cáo có giăng kẽm gai, cũng có bóng dáng của những cây AK chĩa ngang hông. Lại một phen hồi họp và lo lắng. Lại có chuyện gì nữa đây!?
Như đoán biết sự bồn chồn của mọi người, tên quản giáo chậm rãi đi tới đi lui trên thềm xi măng, tay giơ cao đếm số người đang đứng thẳng hàng trước cửa “Sam“ rồi mới sửa bộ, tằng hắng vài tiếng, cố làm ra vẻ trịnh trọng nói cho chúng tôi biết rằng miền Nam tự do đã mất vào tay giặc Cộng, vào lúc 12 giờ trưa ngày 30 tháng Tư.
Tên quản giáo ngừng lại giây lát như thể đang thăm dò phản ứng của chúng tôi. Những cái đầu vốn đã cúi nhìn xuống đất nay lại càng gập sâu hơn nữa. Trời đang xế trưa. Nắng gay gắt như đang hừng hực lửa mà lòng chợt lạnh đến rùng mình. Thật vậy sao?! Mơ chăng?! Không thể nào! Chỉ mới đúng một tháng mà đã mất cả một miền Nam vào tay giặc. Không! Mất cả Quốc gia mới đúng!
Còn đang bàng hoàng thì câu nói kế tiếp của tên quản giáo vang lên như một lời hù dọa để chính thức phủ đầu những kẻ đang thật sự sa cơ:
“… Các anh đừng mơ tưởng tới việc trao trả tù binh nữa. Chúng tôi (cộng Sản) sẽ trừng trị thẳng tay…”
Như để chứng minh cho sự thật lịch sử, tên quản giáo ngu xuẩn giơ cao chiếc radio, mở âm lượng tối đa để chúng tôi nghe những gì đang được tiếp vận từ đài phát thanh Sàigòn. Câu mở đầu và giọng xướng ngôn quen thuộc đã không còn. Thay vào đó là những bài hát cộng đồng, những bản nhạc sắt máu mang âm hưởng của nhạc Tàu, và giọng “sốt rét“ nhưng cũng không kém phần đanh thép của ai đó cứ nhai đi nhai lại những khẩu hiệu an dân và đầy tính chất tuyên truyền cho chế độ. Tên quản giáo cứ thế mà gằn giọng răn đe này nọ. Hắn còn nói nhiều chuyện khác nữa nhưng không ai còn để tâm đến làm gì. Cả tháng nay ai nấy cố nuôi hy vọng để bây giờ thất vọng não nề. Nỗi đau buồn không bút mực nào diễn đạt cho đúng với những gì chúng tôi đang cảm nhận trong lòng. Mọi người không ai nhìn ai.
Tất cả lẵng lặng trở vào trong “Sam”. Bước chân nặng nề như treo đá. Lòng quặn thắt từng hồi. Giữa trưa mà tưởng như đang bước vào bóng tối. Mặt trời “đen“ hơn bao giờ hết, đen hơn tất cả những gì người nhạc sĩ thời danh nào đó đã ta thán trong bài hát của ông ta mấy năm trước đây. Lịch sử Việt Nam đã vừa thay trang mới. Miền Nam tự do đã không còn tồn tại trên chính trường thế giới. Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử! Và chúng tôi, những chiến sĩ của tiền đồn chống cộng hôm qua, cũng vừa mới được kẻ chiến thắng chính thức công bố số phận của mình: số phận nghiệt ngã của những tù binh không có ngày trao trả.
Lúc đó là 2 giờ chiều, ngày thứ Tư 30 tháng 4 năm 1975! Ngày định mệnh của cả một Dân Tộc!
PHƯƠNG ANH * CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG
PHƯƠNG ANH
Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, chỉ một thời gian ngắn, làn sóng người Việt bỏ nước ra đi bằng thuyền càng ngày càng tăng. Mặc cho bao hiểm nguy đang chờ đón họ. Không ai có thể thống kê được đã có nhiêu người đã bỏ thây trên biển cả và bao nhiêu con thuyền đã chìm dưới lòng đại dương mênh mông.
Đó là chưa kể những người bị hải tặc bắt đi mất tích. Những câu chuyện thương tâm, những bi kịch trên các chuyến vượt biển rất ít khi được kể lại. Phần lớn, đều muốn quên đi quá khứ để bắt đầu cuộc sống mới. Thế nhưng, vết thương lòng của họ thật khó phai mờ. Có những người vẫn còn bị ám ảnh hay sống trong nỗi dằn vặt bởi chuyến vượt biển hãi hùng.
Sau đây xin gửi tới quí vị câu chuyện của chị Trịnh Thanh Tùng, người phụ nữ sống sót trong vụ án Bolinao 52 vào năm 1988, khi thuyền vượt biên của chị bị một chiến hạm Mỹ từ chối không vớt, gây nên thảm cảnh vô cùng khủng khiếp.
Cũng là một phụ nữ rất bình thường như bao nhiêu người khác, chị Trịnh Thanh Tùng sinh năm 1956, cha và anh là sĩ quan cao cấp, phục vụ trong trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Thế rồi, biến cố 30-4, cha và anh ruột đều đi tù cải tạo, nhà cửa bị tịch thu, chị kể lại:
“Sau 75 thì mấy ông Cộng Sản vô không cho đi học nữa, phải đi buôn bán, phụ mẹ. Ba thì đi ở tù, anh cả cũng ở tù tới 14 năm… mấy mẹ con ở nhà khổ lắm… bị lấy nhà… họ đuổi ra, không cho ở nhà của mình (khóc)… sau đó phải đi bán buôn, đi làm ruộng... rồi ba tui đi ở tù về thì má tui mất. Anh cả thì vẫn ở tù, tháng tháng phải xách đồ đi thăm nuôi… nhắc tới khổ lắm!”
* Chuyến vượt biển định mệnh
Vào ngày 22 tháng 5 năm 1988, sau khi ly dị một thời gian, chị quyết định dắt con trai chưa đầy 5 tuổi xuống thuyền vượt biên cùng với người anh trai, chị kể tiếp: “Lúc đó tui ly dị và dẫn đưá con đi theo, anh trai tui mới ở tù ra cũng đi theo luôn và anh dẫn theo thêm một đưá con của ảnh… Đi cực lắm, đi rồi lại về, năm lần bảy lượt mới được… mà rốt cuộc cũng bị gì đâu… 4 người đi ngõ Bến Tre, chờ cho đến khi lên tàu lớn…khi đi rất ngon lành, tàu chạy nguyên một đêm, ban ngày ra chạy khoảng nửa ngày thì máy tắt, ông tài công sưả…lúc đó ai cũng còn “sặc sừ”, sau đó máy chạy lại, được một chút thì mưa to gió lớn quá…
Ông tài công nói tắt máy vì sợ sóng lớn đánh tàu bị lật, sau khi hết mưa thì cho máy chạy lại thì máy không còn nổ nữa, lúc đó là khoảng 4, 5 giờ chiều, sửa hoài cũng không nổ, vì thế ông tài công nói là không đi được thì thôi để máy trôi vô bờ, lúc đó tụi này thấy núi xa xa…thì mình nghĩ cũng đúng, và ổng còn nói là ai có giấy tờ gì thì xé đi, đồ ăn uống gì thì ăn cho hết đi, rồi lên bờ thì mạnh ai nấy chạy.
Nghe ông ta nói như vậy thì ai cũng ăn, sau đó mọi người đều ngủ. Sáng ra, tui thấy biển xanh như mực, nó không trôi vào mà trôi ra, lúc đó ông tài công sửa máy nhưng nó không chạy và từ đó trôi luôn…”
Theo lời chị cho biết, chiếc ghe cứ trôi trên biển như thế và nhìn thấy rất nhiều tàu qua nhưng không chiếc nào dừng lại…Giữa biển cả mênh mông, chỉ có trời và nước, mọi người đều bắt đầu kiệt sức…chị nói tiếp:
“Không có ai ngừng lại để vớt mình hết, duy nhất ngừng lại là chiếc tàu Mỹ, không có chiếc tàu nào dừng lại hết, toàn là đi ngang qua thôi, gặp nhiều lắm…Ngày thứ 10, gặp tàu Nhật thì có mấy người trên tàu nhảy xuống, đến ngày 19 thì gặp tàu Mỹ ngừng lại cho đồ ăn…
Ngày thứ tư là tui hết đồ ăn rồi, chỉ còn gói bột cam và ống sữa. Khi biết chiếc tàu bị trôi thì gia đình chủ tàu đã dành đồ ăn cho riêng họ, nước cũng vậy, khát nước thì họ chỉ phát cho chút xíú, rốt cuộc cũng hết nước.”
* Chuyến đi hãi hùng
Thế rồi, trên chiếc ghe nhỏ với 110 người ấy, ngoài những người đã hoảng loạn nhảy xuống biển, thì bắt đầu có người chết: “Người nào chết thì thẩy xuống biển, chết trước nhất là con bé nhỏ 3 tuổi, ngồi kế tui vì nó khóc nhiều quá, nó đòi ăn, đòi uống hoài, nó là đưá chết đầu tiên…Khi gặp tàu Mỹ, ở trên chiếc tàu đó có người Việt Nam, ông ta tên Nghiêm hay Nghiệm gì đó vì tui thấy bảng tên của ông ta, ông ta là lính trên chiếm hạm đó.
Ông Việt Nam đó nói là chiếc tàu của ông ta đang trên đường đi công tác ở vùng Vịnh, không thể giúp tụi tui được, chỉ cung cấp thức ăn trong vòng hai ngày, sau đó, sẽ được đưa vào Nam Dương hay Phi Luật Tân…
Họ cung cấp thức ăn trong hai ngày mà trong khi đó, mình đói 19 ngày rồi, mà chiếc ghe phải có người tát nước, ngày nào nước cũng vô mà không ai chịu tát hết, thành ra, ai tát nước thì mới được phát đồ ăn, đồ ăn có trong hai ngày, ngày thứ ba thì cũng chờ…rốt cuộc không thấy gì hết và không còn đồ ăn nữa.”
Được biết, vì để sống còn, giữa biển cả mênh mông, không nước, không lương thực, chị đã phải uống nước tiểu của con trai mình và chấp nhận ăn thịt đồng loại để giữ mạng sống cho mình và con trai. Chị kể:
“Có người nói là khi nào tôi chết thì lấy thịt tôi làm thức ăn để cho mọi người sống sót còn tới bến bờ chứ nếu không thì không ai biết như thế nào…Nghe nói vậy thì mình không biết ai nói câu nói và ai đã làm chuyện đó…
Ai cũng phải tát nước hết, thành ra, ngoại trừ con nít thôi, ai cũng phải tát hết, cho nên tui quả quyết rằng 52 người còn sống sót người nào cũng phải ăn hết, anh Minh đưa cho tui hai phần vì tui có con nhỏ, nhưng tui cũng phải tát nước.. có những người không chịu làm thì anh ta đánh người ta…
Sáng ra, anh kêu dậy tát nước mà chưa kịp dậy là anh ta múc nước biển đổ lên người mình. Mỗi một đêm, sáng ra là nước ngập nửa ghe rồi.”
* Công khai câu chuyện
Cuối cùng, đến ngày thứ 37, như một phép mầu, một chiếc tàu đánh cá Phi đi qua đã vớt những thuyền nhân khốn khổ này và đưa vào đảo Bolinao, sau đó, họ được chuyển tới trại tạm cư Palawan và câu chuyện của họ được khám phá.
Vị hạm trưởng chiến hạm Mỹ bị đưa ra toà án quân sự, và những thuyền nhân sống sót lần lượt đi định cư, trong số đó có chị Trịnh Thanh Tùng. Đến Mỹ năm 1991, sau một thời gian ổn định cuộc sống, chị trở thành cô thợ cắt tóc bình thường như bao phụ nữ khác, chỉ biết cố gắng nuôi dậy đưá con trai sao cho nên người.
Những tưởng cuộc sống sẽ bình lặng nhưng không đơn giản như thế, vì mỗi khi đêm xuống, trong một thoáng nào đó, sâu thẳm trong trái tim chị, hình ảnh những người đồng hành trên chiếc ghe năm xưa vẫn còn ám ảnh: “Tui nhớ mãi có một chị đó ngồi ngoài sau chiếc ghe, và ngoài đó thì nắng quá, chị đó người Hoa, không nói tiếng Việt, chị ngồi đó mà chết luôn, người chị khô và đen, y như là bức tượng chứ không phải là người, mắt mũi miệng của cổ sùi bọt trắng bóc, giống như bọt kem đánh răng vậy. Tui nhớ nhất là chị Năm, nằm cạnh tui, chị cứ nói là: “lạnh quá, Tùng ơi, ôm chị đi.” Tui đưa áo mưa của tui cho chị ấy luôn và ôm chị, sáng ra thì chị ấy chết…”
Cho đến một ngày, một người bạn của chị nói với chị rằng, có đạo diễn Nguyễn Hữu Đức nhắn tin trên Đài phát thanh địa phương đang đi tìm những nhân chứng trong vụ án Bolinao 52 năm xưa.
Suy nghĩ mãi, cuối cùng, chị đồng ý cho gặp mặt và cũng từ đó, câu chuyện về chuyến vượt biển kinh hoàng mới được chị công khai cho mọi người và nhất là cậu con trai nay đã trưởng thành. Và, điều quan trọng hơn cả, tâm nguyện của chị là:
“Tui muốn đi về Bolinao để cảm ơn họ, mặc dù sống ở đó có 7 ngày nhưng tui ráng nhớ chỗ đó để khi có dịp trở lại, vì theo tui, đó là nơi tui được sanh ra lần thứ nhì, ước nguyện của tui là được trở về thăm lại chỗ đó. Trước khi tui đi Bolinao, tui cảm thấy mình chưa làm xong điều gì hết, tui muốn trở về để thăm và ra ngoài biển, vái những người bạn của tui cũng như vái những người đã giúp cho tui sống.”
Với một tâm hồn bình dị, đơn sơ và đầy lòng vị tha, khi chị gặp lại một trong những người thuỷ thủ trên chiến hạm Mỹ năm xưa đã ngoảnh mặt làm ngơ, để gây ra thảm cảnh đau lòng, chị chỉ hỏi ông ta rằng: “Tôi đã hỏi ông ta tại sao không giúp, thì ông ta nói rằng ông chỉ thừa hành lệnh thôi, tất cả những người trên chiếc tàu đều giống như ông ta thôi, đều cảm thấy có tội khi bỏ chiếc ghe mà đi…Chính ông bác sĩ trên tàu của họ cũng đã chuẩn bị sẵn sàng giường để đón qua, nhưng họ rất sững sờ khi thuyền trưởng ra lệnh đi, vì họ biết chiếc ghe này sẽ chết..”
* Trở lại Bolinao
Giờ đây, sau khi đã về lại Bolinao, nơi chị được cưu mang chỉ có 7 ngày, gặp lại ân nhân đã cứu mạng, cùng ra biển thắp nhang cho 58 người thiệt mạng, lòng chị cảm thấy nhẹ nhàng và thanh thản:
“Sau khi trở về, tui cảm thấy sống bình yên hơn…Tui chỉ ước mơ cho con tui thành tài, mình qua đây đâu phải cho mình đâu, mà để lo cho con mình. Nghĩ về quãng đời qua của mình, tui nghĩ con người ai cũng có số, mình muốn cũng không được, cuộc đời nó đưa đẩy thì mình phải chấp nhận như vậy…
Can đảm thì cũng không phải là can đảm gì vì gặp hoàn cảnh như vậy thì mình phải làm như vậy thôi… Khi tui ở trên ghe, không bao giờ tui nghĩ tui sẽ chết, tui được như vậy là Trời Phật thương mình lắm rồi, mình không cần phải giàu, không cần phải đi xe đẹp, không cần phải mặc quần áo sang…cuộc sống bình lặng như vầy là được rồi.”
Riêng với cậu con trai vượt biên với chị chưa đầy 5 tuổi năm xưa, nay đã là lính thuỷ quân lục chiến trong quân đội Hoa Kỳ, thì cho đến bây giờ anh mới được nghe mẹ kể lại. Chúng ta hãy nghe anh Phan Thanh Lâm tâm sự:
“Tôi chỉ nhớ rằng trên thuyền, tôi rất yếu, chỉ nằm thôi, và đã bị đói khát, tôi phải ăn cả kem đáng răng, nhưng sau cùng, mẹ tôi cũng tìm cho tôi đồ ăn, mà tôi không biết đó là thức ăn gì, cho đến bây giờ tôi mới hiểu ra… Nhưng tôi nghĩ, chẳng qua vì chúng tôi phải sống mà thôi. Tôi không ngờ suốt mười mấy năm qua, bà đã phải chịu đựng sự dằn vặt như thế. Mẹ tôi đã hy sinh cho tôi rất nhiều và bà ấy là một người mẹ tuyệt vời. Nếu mẹ tôi không can đảm đưa tôi qua đây, để tôi được như ngày nay, thì tôi không biết rằng tương lai của tôi ở Việt Nam sẽ ra sao nữa”...
Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, chỉ một thời gian ngắn, làn sóng người Việt bỏ nước ra đi bằng thuyền càng ngày càng tăng. Mặc cho bao hiểm nguy đang chờ đón họ. Không ai có thể thống kê được đã có nhiêu người đã bỏ thây trên biển cả và bao nhiêu con thuyền đã chìm dưới lòng đại dương mênh mông.
Đó là chưa kể những người bị hải tặc bắt đi mất tích. Những câu chuyện thương tâm, những bi kịch trên các chuyến vượt biển rất ít khi được kể lại. Phần lớn, đều muốn quên đi quá khứ để bắt đầu cuộc sống mới. Thế nhưng, vết thương lòng của họ thật khó phai mờ. Có những người vẫn còn bị ám ảnh hay sống trong nỗi dằn vặt bởi chuyến vượt biển hãi hùng.
Sau đây xin gửi tới quí vị câu chuyện của chị Trịnh Thanh Tùng, người phụ nữ sống sót trong vụ án Bolinao 52 vào năm 1988, khi thuyền vượt biên của chị bị một chiến hạm Mỹ từ chối không vớt, gây nên thảm cảnh vô cùng khủng khiếp.
Cũng là một phụ nữ rất bình thường như bao nhiêu người khác, chị Trịnh Thanh Tùng sinh năm 1956, cha và anh là sĩ quan cao cấp, phục vụ trong trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Thế rồi, biến cố 30-4, cha và anh ruột đều đi tù cải tạo, nhà cửa bị tịch thu, chị kể lại:
“Sau 75 thì mấy ông Cộng Sản vô không cho đi học nữa, phải đi buôn bán, phụ mẹ. Ba thì đi ở tù, anh cả cũng ở tù tới 14 năm… mấy mẹ con ở nhà khổ lắm… bị lấy nhà… họ đuổi ra, không cho ở nhà của mình (khóc)… sau đó phải đi bán buôn, đi làm ruộng... rồi ba tui đi ở tù về thì má tui mất. Anh cả thì vẫn ở tù, tháng tháng phải xách đồ đi thăm nuôi… nhắc tới khổ lắm!”
* Chuyến vượt biển định mệnh
Vào ngày 22 tháng 5 năm 1988, sau khi ly dị một thời gian, chị quyết định dắt con trai chưa đầy 5 tuổi xuống thuyền vượt biên cùng với người anh trai, chị kể tiếp: “Lúc đó tui ly dị và dẫn đưá con đi theo, anh trai tui mới ở tù ra cũng đi theo luôn và anh dẫn theo thêm một đưá con của ảnh… Đi cực lắm, đi rồi lại về, năm lần bảy lượt mới được… mà rốt cuộc cũng bị gì đâu… 4 người đi ngõ Bến Tre, chờ cho đến khi lên tàu lớn…khi đi rất ngon lành, tàu chạy nguyên một đêm, ban ngày ra chạy khoảng nửa ngày thì máy tắt, ông tài công sưả…lúc đó ai cũng còn “sặc sừ”, sau đó máy chạy lại, được một chút thì mưa to gió lớn quá…
Ông tài công nói tắt máy vì sợ sóng lớn đánh tàu bị lật, sau khi hết mưa thì cho máy chạy lại thì máy không còn nổ nữa, lúc đó là khoảng 4, 5 giờ chiều, sửa hoài cũng không nổ, vì thế ông tài công nói là không đi được thì thôi để máy trôi vô bờ, lúc đó tụi này thấy núi xa xa…thì mình nghĩ cũng đúng, và ổng còn nói là ai có giấy tờ gì thì xé đi, đồ ăn uống gì thì ăn cho hết đi, rồi lên bờ thì mạnh ai nấy chạy.
Nghe ông ta nói như vậy thì ai cũng ăn, sau đó mọi người đều ngủ. Sáng ra, tui thấy biển xanh như mực, nó không trôi vào mà trôi ra, lúc đó ông tài công sửa máy nhưng nó không chạy và từ đó trôi luôn…”
Theo lời chị cho biết, chiếc ghe cứ trôi trên biển như thế và nhìn thấy rất nhiều tàu qua nhưng không chiếc nào dừng lại…Giữa biển cả mênh mông, chỉ có trời và nước, mọi người đều bắt đầu kiệt sức…chị nói tiếp:
“Không có ai ngừng lại để vớt mình hết, duy nhất ngừng lại là chiếc tàu Mỹ, không có chiếc tàu nào dừng lại hết, toàn là đi ngang qua thôi, gặp nhiều lắm…Ngày thứ 10, gặp tàu Nhật thì có mấy người trên tàu nhảy xuống, đến ngày 19 thì gặp tàu Mỹ ngừng lại cho đồ ăn…
Ngày thứ tư là tui hết đồ ăn rồi, chỉ còn gói bột cam và ống sữa. Khi biết chiếc tàu bị trôi thì gia đình chủ tàu đã dành đồ ăn cho riêng họ, nước cũng vậy, khát nước thì họ chỉ phát cho chút xíú, rốt cuộc cũng hết nước.”
* Chuyến đi hãi hùng
Thế rồi, trên chiếc ghe nhỏ với 110 người ấy, ngoài những người đã hoảng loạn nhảy xuống biển, thì bắt đầu có người chết: “Người nào chết thì thẩy xuống biển, chết trước nhất là con bé nhỏ 3 tuổi, ngồi kế tui vì nó khóc nhiều quá, nó đòi ăn, đòi uống hoài, nó là đưá chết đầu tiên…Khi gặp tàu Mỹ, ở trên chiếc tàu đó có người Việt Nam, ông ta tên Nghiêm hay Nghiệm gì đó vì tui thấy bảng tên của ông ta, ông ta là lính trên chiếm hạm đó.
Ông Việt Nam đó nói là chiếc tàu của ông ta đang trên đường đi công tác ở vùng Vịnh, không thể giúp tụi tui được, chỉ cung cấp thức ăn trong vòng hai ngày, sau đó, sẽ được đưa vào Nam Dương hay Phi Luật Tân…
Họ cung cấp thức ăn trong hai ngày mà trong khi đó, mình đói 19 ngày rồi, mà chiếc ghe phải có người tát nước, ngày nào nước cũng vô mà không ai chịu tát hết, thành ra, ai tát nước thì mới được phát đồ ăn, đồ ăn có trong hai ngày, ngày thứ ba thì cũng chờ…rốt cuộc không thấy gì hết và không còn đồ ăn nữa.”
Được biết, vì để sống còn, giữa biển cả mênh mông, không nước, không lương thực, chị đã phải uống nước tiểu của con trai mình và chấp nhận ăn thịt đồng loại để giữ mạng sống cho mình và con trai. Chị kể:
“Có người nói là khi nào tôi chết thì lấy thịt tôi làm thức ăn để cho mọi người sống sót còn tới bến bờ chứ nếu không thì không ai biết như thế nào…Nghe nói vậy thì mình không biết ai nói câu nói và ai đã làm chuyện đó…
Ai cũng phải tát nước hết, thành ra, ngoại trừ con nít thôi, ai cũng phải tát hết, cho nên tui quả quyết rằng 52 người còn sống sót người nào cũng phải ăn hết, anh Minh đưa cho tui hai phần vì tui có con nhỏ, nhưng tui cũng phải tát nước.. có những người không chịu làm thì anh ta đánh người ta…
Sáng ra, anh kêu dậy tát nước mà chưa kịp dậy là anh ta múc nước biển đổ lên người mình. Mỗi một đêm, sáng ra là nước ngập nửa ghe rồi.”
* Công khai câu chuyện
Cuối cùng, đến ngày thứ 37, như một phép mầu, một chiếc tàu đánh cá Phi đi qua đã vớt những thuyền nhân khốn khổ này và đưa vào đảo Bolinao, sau đó, họ được chuyển tới trại tạm cư Palawan và câu chuyện của họ được khám phá.
Vị hạm trưởng chiến hạm Mỹ bị đưa ra toà án quân sự, và những thuyền nhân sống sót lần lượt đi định cư, trong số đó có chị Trịnh Thanh Tùng. Đến Mỹ năm 1991, sau một thời gian ổn định cuộc sống, chị trở thành cô thợ cắt tóc bình thường như bao phụ nữ khác, chỉ biết cố gắng nuôi dậy đưá con trai sao cho nên người.
Những tưởng cuộc sống sẽ bình lặng nhưng không đơn giản như thế, vì mỗi khi đêm xuống, trong một thoáng nào đó, sâu thẳm trong trái tim chị, hình ảnh những người đồng hành trên chiếc ghe năm xưa vẫn còn ám ảnh: “Tui nhớ mãi có một chị đó ngồi ngoài sau chiếc ghe, và ngoài đó thì nắng quá, chị đó người Hoa, không nói tiếng Việt, chị ngồi đó mà chết luôn, người chị khô và đen, y như là bức tượng chứ không phải là người, mắt mũi miệng của cổ sùi bọt trắng bóc, giống như bọt kem đánh răng vậy. Tui nhớ nhất là chị Năm, nằm cạnh tui, chị cứ nói là: “lạnh quá, Tùng ơi, ôm chị đi.” Tui đưa áo mưa của tui cho chị ấy luôn và ôm chị, sáng ra thì chị ấy chết…”
Cho đến một ngày, một người bạn của chị nói với chị rằng, có đạo diễn Nguyễn Hữu Đức nhắn tin trên Đài phát thanh địa phương đang đi tìm những nhân chứng trong vụ án Bolinao 52 năm xưa.
Suy nghĩ mãi, cuối cùng, chị đồng ý cho gặp mặt và cũng từ đó, câu chuyện về chuyến vượt biển kinh hoàng mới được chị công khai cho mọi người và nhất là cậu con trai nay đã trưởng thành. Và, điều quan trọng hơn cả, tâm nguyện của chị là:
“Tui muốn đi về Bolinao để cảm ơn họ, mặc dù sống ở đó có 7 ngày nhưng tui ráng nhớ chỗ đó để khi có dịp trở lại, vì theo tui, đó là nơi tui được sanh ra lần thứ nhì, ước nguyện của tui là được trở về thăm lại chỗ đó. Trước khi tui đi Bolinao, tui cảm thấy mình chưa làm xong điều gì hết, tui muốn trở về để thăm và ra ngoài biển, vái những người bạn của tui cũng như vái những người đã giúp cho tui sống.”
Với một tâm hồn bình dị, đơn sơ và đầy lòng vị tha, khi chị gặp lại một trong những người thuỷ thủ trên chiến hạm Mỹ năm xưa đã ngoảnh mặt làm ngơ, để gây ra thảm cảnh đau lòng, chị chỉ hỏi ông ta rằng: “Tôi đã hỏi ông ta tại sao không giúp, thì ông ta nói rằng ông chỉ thừa hành lệnh thôi, tất cả những người trên chiếc tàu đều giống như ông ta thôi, đều cảm thấy có tội khi bỏ chiếc ghe mà đi…Chính ông bác sĩ trên tàu của họ cũng đã chuẩn bị sẵn sàng giường để đón qua, nhưng họ rất sững sờ khi thuyền trưởng ra lệnh đi, vì họ biết chiếc ghe này sẽ chết..”
* Trở lại Bolinao
Giờ đây, sau khi đã về lại Bolinao, nơi chị được cưu mang chỉ có 7 ngày, gặp lại ân nhân đã cứu mạng, cùng ra biển thắp nhang cho 58 người thiệt mạng, lòng chị cảm thấy nhẹ nhàng và thanh thản:
“Sau khi trở về, tui cảm thấy sống bình yên hơn…Tui chỉ ước mơ cho con tui thành tài, mình qua đây đâu phải cho mình đâu, mà để lo cho con mình. Nghĩ về quãng đời qua của mình, tui nghĩ con người ai cũng có số, mình muốn cũng không được, cuộc đời nó đưa đẩy thì mình phải chấp nhận như vậy…
Can đảm thì cũng không phải là can đảm gì vì gặp hoàn cảnh như vậy thì mình phải làm như vậy thôi… Khi tui ở trên ghe, không bao giờ tui nghĩ tui sẽ chết, tui được như vậy là Trời Phật thương mình lắm rồi, mình không cần phải giàu, không cần phải đi xe đẹp, không cần phải mặc quần áo sang…cuộc sống bình lặng như vầy là được rồi.”
Riêng với cậu con trai vượt biên với chị chưa đầy 5 tuổi năm xưa, nay đã là lính thuỷ quân lục chiến trong quân đội Hoa Kỳ, thì cho đến bây giờ anh mới được nghe mẹ kể lại. Chúng ta hãy nghe anh Phan Thanh Lâm tâm sự:
“Tôi chỉ nhớ rằng trên thuyền, tôi rất yếu, chỉ nằm thôi, và đã bị đói khát, tôi phải ăn cả kem đáng răng, nhưng sau cùng, mẹ tôi cũng tìm cho tôi đồ ăn, mà tôi không biết đó là thức ăn gì, cho đến bây giờ tôi mới hiểu ra… Nhưng tôi nghĩ, chẳng qua vì chúng tôi phải sống mà thôi. Tôi không ngờ suốt mười mấy năm qua, bà đã phải chịu đựng sự dằn vặt như thế. Mẹ tôi đã hy sinh cho tôi rất nhiều và bà ấy là một người mẹ tuyệt vời. Nếu mẹ tôi không can đảm đưa tôi qua đây, để tôi được như ngày nay, thì tôi không biết rằng tương lai của tôi ở Việt Nam sẽ ra sao nữa”...
TIỂU TỬ * ĐẠP XICH LÔ
Đạp xích lô
Trung đã cao lớn lại ham chơi thể thao và tập thể dục đều đặn nên anh
ta rất “đô” con. Đi với tụi bạn đồng nghiệp người Pháp hay người da
đen, Trung là người Việt Nam mà vóc dạc ngang ngửa với tụi nó. Có đứa
nói giỡn: “Thằng này, nó ăn phở không mà nó lớn con như vậy. Nếu nó ăn
bánh mì “xúc xích – phô mai” như mình chắc nó thành ông khổng lồ quá!”.
Cách đây hai năm, Trung về thăm Việt Nam. Đó là lần đầu tiên anh về.
Tôi không có dịp gặp anh để hỏi thăm. Mãi đến gần đây tình cờ gặp nhau ở
khu 13 Paris, anh mới kể cho tôi nghe chuyến về Việt Nam của anh lần
đó. Tôi xin ghi lại chuyện nhỏ sau đây…
… Con qua Pháp với ba mẹ hồi con mới 5 tuổi, bây giờ về, thấy cái gì
cũng lạ! Cho nên con dành mấy ngày đầu để đi vòng vòng cho biết Sài Gòn.
Con nhờ anh tiếp viên của khách sạn kêu cho con một anh xích lô bao
chạy một ngày.
Vậy là sáng hôm sau, đúng theo lời con dặn, anh tiếp viên gọi con dậy
bằng điện thoại cho hay xích lô đang đợi, đồng thời cho biết luôn số
tiền thuê bao. Con đếm số tiền rồi để riêng vào một túi quần, con muốn
tránh móc bóp đếm tiền trước mặt mọi người sợ bọn lưu manh nó giựt. Con
xuống tới quầy thì anh tiếp viên vui vẻ chỉ ra phía trước. Con cám ơn
rồi bước ra ngoài.
Thấy con, ông xích lô đang ngồi chồm hổm trên vỉa hè vội vã đứng lên
chấp tay chào. Tự nhiên, con khựng lại, mặc dù ông ta đang đón con bằng
một nụ cười rạng rỡ.
Bác biết không? Ổng già khú, ốm nhom, nhỏ xíu. Cái nón vải đen ổng
đội, đã rách bươm. Còn bộ đồ trên người ổng, con không biết tả làm sao
cho bác thấy. Nó là cái áo bà ba xanh dương vá chầm vá đụp và không còn
hai ống tay! Còn cái quần ka-ki là loại quần dài đã bị xé mất hai khúc
ống cỡ ngang đầu gối, một bên cao một bên thấp.
Đó! Ông xích lô của con đó! Bác coi: con như vầy thì nỡ lòng nào lên
ngồi cho ông già ốm nhom đó đạp xe đưa con đi. Mà liệu ổng có đạp nổi
một ngày cho con xem chỗ này chỗ nọ không?
Con định hồi không đi nhưng nghĩ lại tội nghiệp ông già. Cái cười tươi rói của ổng cho thấy là ổng đang “trúng mối lớn”.
Con bước lại bắt tay ổng, móc túi đưa tiền, nói:
– “Đây, tiền công của bác trọn ngày này đây!”.
Ổng mừng rỡ, móc trong lưng ra một túi vải miệng có dây rút, run run tay mở ra cho tiền vào.
Con hỏi:
– “Bác không đếm sao?”
Ổng cười, nhìn con:
– “Khỏi! Hổng lẽ cậu như vầy mà đi ăn gian tui sao?”
Rồi ổng xăng xốm chạy lại kềm phía sau xe, mời:
– “Cậu lên ngồi, đi!”
Con lắc đầu:
– “Không! Bác lên ngồi đi, để tôi đạp!”.
Nụ cười của ổng tắt mất:
– “Ủa! Gì kỳ vậy?”
Con giải thích:
– “Tôi như vầy mà để cho bác đạp, coi sao được!”
Ổng vỗ vỗ lên yên xe:
– “Tôi đạp được! Bảo đảm! Cậu đừng lo! Cậu lên ngồi đi!”
Con nghĩ chắc ổng sợ con chê ổng rồi không đi, lấy tiền lại, nên con ôn tồn nói:
– “Bác yên tâm. Bác cứ giữ số tiền tôi đưa, rồi lên xe ngồi. Tôi đạp từ từ”.
Ổng bắt đầu nhìn con nửa ngạc nhiên nửa hốt hoảng. Để khỏi cù cưa, con
bước lại đưa hai tay cặp eo ếch của ổng nhấc bổng lên đặt vào chỗ ngồi
của khách. Ổng nhẹ đến nỗi cái xe không nhúc nhích! Rồi con trèo lên đạp
đi. Ông già cứ nhìn ngược về phía sau, lo lắng:
– “Cậu liệu được không cậu?”
Con vui vẻ trả lời cho ông yên tâm:
– “Được mà… Dễ ợt hà!”.
Con men theo lề đường đạp chầm chậm để tránh luồng xe chạy ồ ạt trên
lòng đường. Thiên hạ nhìn con chở ông già, cười nói chỉ trỏ. Ông già
ngồi không yên, lâu lâu ngoái nhìn lại coi con ra sao! Có lẽ vững bụng
nên không nghe ổng nói gì hết.
Một lúc sau bỗng ổng la lớn:
– “Quẹo mặt! Quẹo mặt! Khúc này cấm xe xích lô!”
Từ đó, ổng chỉ cho con chạy:
– “Từ từ …Đằng trước có xe đậu. Khi nào kềm bằng chân không nổi thì kéo thắng ở dưới đít …”
Có lúc thấy con xiên xiên định quẹo vô một con đường nằm ngang, ổng la lên:
– “Đừng! Đừng! Đường cấm xe xích lô!”…
Và như vậy, con đạp đi loanh quanh, nhìn ngang nhìn ngửa, yên chí có ông
già coi chừng đường nhắc trước con phải làm gì …làm gì …Gần trưa, con
tấp vô một quán phở, nói:
– “Mình vô ăn cái gì đi”.
Ổng nói:
– “Cậu vô ăn đi, tôi không đói”.
Con kéo tay ổng để cùng đi vào tiệm, ổng rị lại:
– “Thôi mà cậu! Tôi lạy cậu mà cậu! Cậu để tôi ngồi ngoài này giữ xe!”.
Rồi ổng gỡ tay con ra, bước lại vệ đường ngồi chồm hổm bên cạnh chiếc xe
xích lô, vấn thuốc hút. Trong quán, con nhìn ông già mờ trong khói
thuốc sao bỗng nghe bất nhẫn vô cùng. Không còn lòng dạ đâu để ăn phở,
con kêu tách cà phê uống đại rồi đi ra.
Thấy con, ổng quăng điếu thuốc, đứng lên vẻ ngạc nhiên:
– “Ăn gì mau vậy cậu?”
Con nói trớ:
– “Thấy không ngon nên không ăn”.
Rồi con nói tiếp:
– “Bây giờ, tôi trả xe lại cho bác đó! Bác cứ giữ nguyên số tiền tôi đưa
hồi sáng, đừng thắc mắc. Tôi đi bộ chơi lanh quanh được rồi”.
Nói xong con bước đi, lâu lâu ngừng coi cửa hàng này cửa hàng nọ. Thấy
ông già cứ đạp xe rề rề đi theo, con bèn gọi một xe Honda ôm đang đợi
khách ở ngã tư đường, trèo lên “ôm” đi thẳng!
Kể xong, Trung hỏi:
– “Nhà Nước đang có lịnh cấm sử dụng xe xích lô xe ba gác, không biết bây giờ ông già đạp xích lô sẽ sống làm sao, hả bác?”.
Tôi nói: “Ờ…” Rồi nín luôn. Một cách trả lời để không trả lời!
Tiểu Tử
NVT* LÀM RỂ XỨ HUẾ
Làm Rể Xứ Huế
Năm đó chị của O có cái quán cà phê Thượng Uyển trong Đà Nẵng nên mùa
hè vào giúp chị. Tôi xăng xái xin làm gia sư. Mới được hơn một tháng
thì O Điểm “bỏ buà” cho tôi.
Hết hè, O trở lại Huế đi học thì rời trường Nữ Thành Nội mà qua Đồng
Khánh, tôi xin biệt phái đi theo Trực thăng tản thương đêm, trong Mang
Cá (Tổng Y Viện Nguyễn Tri Phương) và ban ngày đi học nơi trường Luật.
Học cho vui và để lấy le thôi, chứ tôi học dốt lắm.
Học cho vui và để lấy le thôi, chứ tôi học dốt lắm.
Những lần rủ O trốn học đi chơi ở đồi Thiên An, hay lên các lăng tẩm
là những ngày vui không bao giờ chúng tôi quên được. Hai đứa cũng tránh
không lên chùa Thiên Mụ, vì nghe nói cặp nào đưa nhau lên nơi linh
thiêng đó thì thếnào cuộc tình cũng tan vỡ..
Chuyện tình Romeo và Juliet (hay Rô bi nê và Toa lét) của O và tôi lắm nỗi thăng trầm, là vì O bên Lương, còn tôi bên Đạo.
Ông Nhạc gia tôi hồi đó không chịu gả là vì tôi khác đạo, con nhà làm
ruộng, lại nữa ông có thành kiến với người Bắc, chắc ông nghe người ta
nói nhiều về con trai Bắc Kỳ thường đểu.
Tôi biết lý do chính là vì ông không muốn con gái út lấy chồng phương xa, tuốt mãi trong Rạch Giá.
-Có con mà gả chồng gần, có bát canh cần nó cũng bưng cho
Có con mà gả chồng xa, trước là mất họ sau là mất con
-Có con mà gả chồng gần, có bát canh cần nó cũng bưng cho
Có con mà gả chồng xa, trước là mất họ sau là mất con
Nhưng Cậu ruột của O lại là một Linh Mục đang ở Nha Trang nên hết lòng hỗ trợ cho chúng tôi lấy nhau.
Nhớ hồi sau 1975 chúng tôi nghèo quá, đám cưới chỉ có một con heo 50
ký do anh cả tôi cho; hai cái nhẫn vàng mỏng dính như sợi chỉ; chiếc áo
cưới chỉ là áo trắng như hồi còn đi học.
Năm 1981 chúng tôi đến Mỹ, trong tay có 5 đồng bạc. Vất vả cũng lắm mà hạnh phúc cũng nhiều.
Gia đình Mẹ và các anh chị em tôi, nhất là mấy bà chị dâu thường nói:
-Chú lấy được O Điểm là phúc đức ông bà để lại.
Quả thực có thế, O đã sanh cho tôi 3 đứa con trai cao ráo và một đứa
con gái út rất đẹp -Chắc đẹp cỡ như tôi. (Just kidding-đùa thôi).
Cách dậy dỗ con cái tôi phú hết cho O, nên đứa nào cũng ngoan ngoãn, nay hai đứa đã ra trường còn hai đứa cũng sắp xong.
Đúng là phúc đức ông bà, chứ tánh tôi cục cằn thô lỗ, dạy con chắc không xong, mà còn bị ếp phê ngược là đằng khác.
Qua xứ người, tôi còn có thời giờ cắp sách đến trường để học thêm
chút đỉnh, chứ O rời sở làm là lao đầu vào bếp, lau nhà, giặt quần áo,
trồng rau thơm, rau cải sau vườn.
Bây giờ tôi ra kinh doanh ở ngoài, đâu có bảo hiểm sức khỏe gì, may
có hãng của O nên cả gia đình không phải lo tới vấn đề chi phí cho khám
bịnh, nhà thương gì hết. Thật là quá mừng.
Không nhắc đến tài nấu ăn, nhất là những món Huế của O quả là một điều thiếu sót.
Bạn bè xa gần thường nhắc nhớ đến Bún Bò O Điểm, mà hầu hết tháng nào
cũng có nấu một lần trong cái nồi lớn chừng 30 lít. Người trong nhà,
con cháu và bạn tới chơi thường ăn hai tô, một tô lúc mới tới và một tô
trước khi ra về.
Những món như bánh nậm, bánh bột lọc, bánh ít… tôi không thích mấy, chỉ khoái những món chè của O mà thôi. Chắc nhiều người cũng biết rằng Chợ Dinh ngoài Huế nơi O ở có cả làng bán chè rất nổi tiếng, qua đến Mỹ, món chè của O đã được “thăng hoa” lên hàng thượng thừa vì vật phẩm dùng để nấu có thêm nhiều thứ như rong biển, nấm trắng, táo tàu nhỏ, hoài sơn, ý dĩ v v.. nên chè đã ngon lại càng thêm ngon.
Thành phố chúng tôi đang định cư là Little SG ở Nam Cali, có thể gọi
là Thủ Phủ của người VN ở Hải Ngoại, cách bờ biển chừng 10 phút lái xe.
Dọc bờ biển có những chiếc cầu bắt nhoài ra biển cả gần nửa cây số cho
dân chúng đứng câu, nơi đây có rất nhiều cá nục chuối và cá trích. Những
mùa khác thì cá ít hơn nhưng mùa hè đến thì cá nhiều vô số, một dây câu
cột mấy lưỡi là dính bằng ấy cá, có khi cả chục con nhưng vì cầu khá
cao, mà cá giãy dữ quá nên rơi rớt hết phân nửa.
Người Nam và Bắc khi kho cá, nhứt là cá biển thì thường kho khô và bỏ
nhiều tiêu, khi họ thấy dân Huế kho cá nục lõng bõng nước thì sợ nó sẽ
tanh, nhưng khi O Điểm kho cá nục tươi rói mới đi câu về với mấy trái ớt
xanh bẻ đôi, tỏi đập dập, vắt chút chanh, ăn với bún thì ôi thôi ai nấy
nuốt vội nuốt vàng có khi nuốt luôn cả lưỡi.
Tôi thường ăn kèm với món này một ít rau thơm và giá, nhưng O nói ăn như vậy không thưởng thức hết mùi vị của con cá nục.
Tôi thường ăn kèm với món này một ít rau thơm và giá, nhưng O nói ăn như vậy không thưởng thức hết mùi vị của con cá nục.
Đó, nhờ được O “chăm bẵm” như vậy nên tôi không còn ốm nhách cao kều
như cây tre miễu nữa, mà nay trông rất “sổ sữa”, cắt tóc cạo râu, cho
diện đồ mới, chân mang dép mang giầy vô coi cũng ra dáng con người lắm,
chứ không giống con đười ươi!
Nếu có ai hỏi tôi yêu O ở điểm nào, thì tôi tình thực trả lời rằng,
đó là nụ cười vui với hàm răng trắng bóng như bắp cồn Hến và nhất là
…bàn chân nhỏ nhắn, có cái gót hồng hào, người ta nói là “Vượng phu ích
tử” gì gì đó.
Bạn bè tôi thường ganh tị rằng họ đã lỡ lấy vợ miền khác, chứ không may mắn lấy được vợ Huế như tôi.
Họ hỏi bí quyết nào mà có được nhà cửa êm ấm làm vậy, tôi thường trả
lời rằng lấy vợ Huế, khi cô ấy cằn nhằn mình nghe không hiểu gì hết, nên
có cãi lại vợ bao giờ mà thành lớn chuyện, lục đục trong nhà.
Nếu kiếp sau được làm người, nhất là được làm đàn ông, thì tôi sẽ
nhất quyết lấy vợ Huế nữa, cho dù mấy cô kia có là Hoa Hậu, Hoa Khôi đi
nữa…. tôi cũng chẳng màng.
NVT
VIÊT TỪ SAIGON * CHÂN DUNG QUYỀN LỰC
Chân Dung Quyền Lực vẫn chưa ra đòn chí tử
Thu, 01/22/2015 - 09:02 — VietTuSaiGon
Cho đến thời điểm hiện nay, có nhiều người hoài nghi trang blog
Chân Dung Quyền Lực (CDQL) là của phe Nguyễn Bá Thanh gồm Nguyễn Phú
Trọng, Trương Tấn Sang và Nguyễn Bá Thanh dùng đế đấu tố phe Nguyễn Tấn
Dũng. Điều này đúng sai, thực hư vẫn chưa xác định được. Cũng có giả
thiết cho rằng CDQL là của phe Nguyễn Tấn Dũng đưa ra nhằm “phân hóa cái
nội bộ” Nguyễn Phú Trọng. Vậy đúng sai ra sao và nếu CDQL của một phe
nào đó thì đòn chí tử của nó sẽ là gì?
Trước nhất, giả thiết CDQL là của phe Nguyễn Phú Trọng dùng để đánh
phe Nguyễn Tấn Dũng, theo giả thiết này, chỉ có phe này mới có đủ thông
tin về đối thủ, đánh vào uy tín của bộ sậu Chính phủ nhằm làm mất uy tín
của bộ sậu này, sau đó, nhân Hội nghị trung ương 10 đại hội thứ XII, sẽ
đưa ra một số điều khoản nhằm làm giảm bớt quyền lực của Nguyễn Tấn
Dũng và các Thủ tướng sau NguyễnTấn Dũng, thu hồi quyền lực về tay Tổng
Bí thu Cộng sản Việt Nam, sau đó sẽ là cú đánh chí tử vào tài sản và gia
đình Nguyễn Tấn Dũng.
Giả thiết này mới nghe cũng có lý vì sau Hội nghị trung ương 10, đã
có một số đề xuất nhằm làm giảm bớt quyền hạn của Thủ tướng. Nhưng nghe
ra những đề xuất này khó thành hiện thực vì nó được đá qua đá lại giữa
Nguyễn Sinh Hùng và một số đại biểu thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đá
riết một hồi rồi đâu cũng lại vào đó bởi điều này đã thành thói quen,
thông lệ của đảng Cộng sản Việt Nam, cứ mỗi kì họp, đại hội, hội nghị
đưa ra hàng loạt ý kiến, đề xuất nhưng vài tháng sau thì chìm xuồng, xem
như chưa hề có ý kiến ý cò nào cả…
Và ở hướng giả thiết này, nếu như CDQL là của phe Nguyễn Phú Trọng
đưa ra nhằm đấu tố Nguyễn Xuân Phúc, Phùng Quang Thanh thì ảnh hưởng gì
đến Nguyễn Tấn Dũng? Có thể trả lời nhanh là không hề ảnh hưởng, nếu
không nói là cơ hội đánh bóng của Nguyễn Tấn Dũng sẽ rất cao nếu ông có
những phát biểu và đường hướng (dù là nói miệng) tốt trong hội nghị lần
này.
Vì sao? Vì những đối thủ nặng ký nhất ngồi vào ghế Tổng Bí Thư đảng
Cộng sản Việt Nam trong đại hội đảng Cộng sản sắp tới đây xem như mất
điểm hoàn toàn. Dù nói theo cách gì thì Nguyễn Sinh Hùng, Nguyễn Xuân
Phúc và Phùng Quang Thanh cũng là những ứng cử viên nặng ký trong chiếc
ghế Tổng Bí Thư đảng Cộng sản sắp tới.
Ở giả thiết thứ hai, trang CDQL là của phe Nguyễn Tấn Dũng. Giả thiết
này, có những dấu hiệu sau: Đây là trang blog có giọng văn của một nhà
báo chuyên nghiệp cố tình viết theo lối thả lơ cảm xúc; Thông tin về tài
sản của các quan chức trong trang này có sức thuyết phục rất lớn, họ
đưa ra được những bằng chứng cụ thể; Trang này đặt nặng vấn đề sức khỏe
của Nguyễn Bá Thanh và đưa ra thông tin khẳng định Nguyễn Xuân Phúc ám
hại Nguyễn Bá Thanh; Trang này đánh Phùng Quang Thanh và Nguyễn Xuân
Phúc đến độ không kịp vuốt mặt.
Nhưng, CDQL có những điểm lạ: Chưa đụng đến gia đình và tài sản Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng; Chưa đụng đến tài sản của những quan chức đàn em
Nguyễn Tấn Dũng; Riêng vụ Nguyễn Bá Thanh bị bệnh, CDQL có được bức ảnh
ông Thanh nằm viện tại Mỹ củng thời gian Nguyễn Thị Thanh Phượng, con
gái rượu Nguyễn Tấn Dũng chính thức thành công dân Mỹ; Sau khi Nguyễn Bá
Thanh về Đà Nẵng điều trị, CDQL không thể đưa ra bất cứ hình ảnh hay
thông tin nào về Nguyễn Bá Thanh.
Điều này đặt ra câu hỏi: Phải chăng khi về Đà Nẵng điều trị, với lực
lượng và phe nhóm bảo vệ hết sức nghiêm ngặt, hình ảnh của Nguyễn Bá
Thanh được giữ kín, khác với lúc điều trị ở Mỹ, mặc dù vẫn được bảo vệ
trong chừng mực nào đó nhưng các y tá, điều dưỡng, hộ lý vẫn có thể bị
mua chuộc để thành một tay chụp hình trộm vì khoản thù lao quá cao. Và
hình ảnh tiều tụy của Nguyễn Bá Thanh sẽ là một nắm muối xát vào những
“vết thương chính trị” vốn mưng mủ trong mối quan hệ Nguyễn Xuân Phúc –
Nguyễn Bá Thanh do CDQL kiến tạo?
Và cũng chính vì thế, để xoa dịu dư luận, khi Nguyễn Bá Thanh về Đà
Nẵng điều trị, Nguyễn Xuân Phúc là một trong những người đến thăm ông
Thanh sớm nhất và ở lại với ông Thanh lâu nhất, hơn nửa giớ đồng hồ
trong phòng điều trị của ông Thanh, họ đã nói với nhau những gì, CDQL
tịt ngòi, không có ý kiến?!
Cũng theo hướng này, CDQL là của phe Nguyễn Tấn Dũng thì đòn thế của
họ như thế nào? Có thể nói, đòn khởi sự mà Nguyễn Bá Thanh đánh Nguyễn
Tấn Dũng nằm trong cuộc họp Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng, trong
cuộc họp này, Nguyễn Bá Thanh đã chửi khéo Nguyễn Tấn Dũng không biết
nhục, không có văn hóa từ chức, chỉ biết xin lỗi qua loa cho xong
chuyện… Và tuyên bố sẽ “hốt liền” khi thấy dấu hiệu tham nhũng chứ không
cần bằng chứng cụ thể, hốt trước rồi điều tra sau. Tiếp nối sê ri đòn
này, Nguyễn Bá Thanh hốt cũng khá nhiều, những vụ hốt này không cần bàn
thêm ở đây.
Đáp trả, Nguyễn Tấn Dũng cho chuyên viên Chính phủ vào Đà Nẵng điều
tra làm rõ vụ Nguyễn Bá Thanh mờ ám trong quản lý đất tại Đà Nẵng (phải
khẳng định là do Nguyễn Tấn Dũng điều động, hạ lệnh, không có lệnh của
Dũng thì có ăn gan trời các chuyên viên cũng không dám làm điều này).
Đòn này xem như một cú đánh vỗ mặt, cảnh cáo cho Nguyễn Bá Thanh bớt nói
bung lung boa loa.
Tiếp theo, sau khi Nguyễn Bá Thanh ra Hà Nội nhậm chức, đương nhiên
không thể nói là Thanh bị cô lập, không có đồng minh ở Hà Nội được bởi
chính những đồng minh đã kéo Nguyễn Bá Thanh ra Hà Nội, họ thấy được
hiệu dụng ở ông và họ phải vỗ béo ông để được việc cho họ. Công cuộc
“chống tham nhũng” trên thực tế là đấu tố tham nhũng để hạ thủ phe đối
phương, cuộc chiến ủy nhiệm đánh vào Nguyễn Tấn Dũng do Nguyễn Bá Thanh
cầm trịch và chịu đạn bắt đầu. Nhiều nhân vật vốn là cánh tay đắc lực ở
sân sau Nguyễn Tấn Dũng bị dính chưởng như Dương Chí Dũng, Nguyễn Đức
Kiên, Phạm Quí Ngọ… Đương nhiên là Nguyễn Bá Thanh đã “bứt dây động
rừng” ở Hà Nội.
Tháng 5 năm 2014, Nguyễn Bá Thanh lâm bệnh, đến tháng 8 thì bệnh
chuyển sang giai đoạn bạo phát, phải đi điều trị nước ngoài, đây cũng là
giai đoạn CDQL xuất hiện, nhiều câu chuyện “thâm cung bí sử” được phơi
bày, các quan tham lộ diện từng chân tơ, kẽ tóc. Nhưng có một điều lạ là
tài sản của gia đình Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không được nhắc đến.
Và CDQL đưa tin khá chi tiết về vụ việc Nguyễn Bá Thanh bị ám sát bởi
tình báo Hoa Nam, do Nguyễn Xuân Phúc sang Lào nhờ Tổng Đại sứ Trung
Quốc can thiệp, để thời gian này, nhân lúc Nguyễn Bá Thanh công du Trung
Quốc mà ra tay. CDQLcũng đưa tin khá rõ về bệnh tình của Nguyễn Bá
Thanh ở Mỹ. Nhưng khi ông Thanh về đến Đà Nẵng thì mọi thông tin về
Nguyễn Bá Thanh rất nhạt, nếu không muốn nói là không có gì!
Đến đây, mối nghi vấn CDQL là của phe Nguyễn Tấn Dũng nghe ra có sức
thuyết phục hơn. Bởi lẽ, tranh nhau chiếc ghế Tổng Bí Thư đảng Cộng sản
Việt Nam sắp tới, những ứng cử viên cao cấp sẽ có Nguyễn Sinh Hùng
(nhưng Hùng quá già so với Dũng,Thanh quân đội và Phúc), Nguyễn Tấn
Dũng, Phùng Quang Thanh, Giàng Xeo Phử, Phạm Quang Nghị, và Nguyễn Xuân
Phúc. Trong đó, ba đối thủ nặng ký nhất là Phùng Quang Thanh, Nguyễn
Xuân Phúc và Nguyễn Tấn Dũng.
Diệt được hai đối thủ Phùng Quang Thanh và Nguyễn Xuân Phúc thì xem
như con đường bước lên ghế Tổng Bí Thư của Nguyễn Tấn Dũng rất hanh
thông. Và đây cũng là thứ mà Nguyễn Tấn Dũng cần nhất. Bởi ông từng làm
nhiều nhiệm kì Thủ tướng, nếu bây giờ ông làm tiếp là chuyện không thể
xảy ra, nhưng ngồi ghế Chủ tịch nước thì chẳng có bao nhiêu quyền lực vì
mọi thứ quyền lực kinh tế đã tập trung trong tay Chính phủ. Bây giờ,
với kinh nghiệm làm Thủ tướng và nắm được mọi đường đi lối về trong
Chính phủ, nếu ngồi ghế Tổng Bí Thư đảng Cộng sản thì xem như Nguyễn Tấn
Dũng đã nắm trọn vẹn quyền lực trong tay, Chính phủ khó bề mà qua mặt
Tổng Bí Thư, khác với Nguyễn Phú Trọng không biết gì về hệ thống quyền
lực trong Chính phủ nên đâm ra ngớ ngẩn, bị coi là Trọng Lú.
Và một khi Nguyễn Tấn Dũng nắm ghế Tổng Bí Thư, ông có thể là một Tập
Cận Bình của Việt Nam, thế hệ Hậu Cộng sản chính thức lên ngôi ở Việt
Nam. Và lúc đó, Phạm Quang Nghị hay Nguyễn Xuân Phúc, Nguyễn Sinh Hùng,
Vũ Đức Đam, Giàng Xeo Phử… hay bất kì ai lên làm Thủ tướng Chính phủ
cũng không thoát khỏi tay Nguyễn Tấn Dũng. Chính vì những đường hướng
chính trị này mà CDQL nhắm vào Phúc và Thanh quân đội để đánh, Nguyễn
Tấn Dũng cố tình phát biểu hớ hênh trong Hội nghị trung ương 10 rằng
“các trang mạng xã hội rất khó mà quản lý, không thể quản lý…”.
Điều này chẳng khác nào gợi ý cho các đảng viên khác tiếp tục vào đọc CDQL để hạ điểm các đối thủ và cuối cùng là chỉ còn mỗi Nguyễn Tấn Dũng đủ tư cách, nghiễm nhiên ngồi vào ghế này.
Điều này chẳng khác nào gợi ý cho các đảng viên khác tiếp tục vào đọc CDQL để hạ điểm các đối thủ và cuối cùng là chỉ còn mỗi Nguyễn Tấn Dũng đủ tư cách, nghiễm nhiên ngồi vào ghế này.
Và, nếu thật sự CDQL là của phe Nguyễn Tấn Dũng thì đòn thế tiếp theo
sau vụ này sẽ là gì? Bây giờ, lại phụ thuộc vào sức khỏe của Nguyễn Bá
Thanh, nếu ông Thanh không khỏe lại, nghỉ hưu vì bệnh tật hoặc chết đi
thì CDQL sắp tới sẽ im hơi lặng tiếng về Nguyễn Bá Thanh nhưng lại phanh
phui các quan chức khác không đáng kể (như Nguyễn Hòa Bình chẳng hạn!),
duy trì một thời gian ngắn nữa rồi im lặng, đóng cửa sau Hội nghị trung
ương 10.
Ngược lại, sức khỏe ông Thanh là một ẩn số, ông khỏe lại và ra Hà Nội để làm việc lại, tiếp tục phanh phui tham nhũng thì người kế tiếp sẽ là Nguyễn Bá Thanh, đánh Nguyễn Bá Thanh gục, xem như đánh phe đang đấu tố Nguyễn Tấn Dũng gục và quyền bính sẽ trở lại tay của Dũng.
Ngược lại, sức khỏe ông Thanh là một ẩn số, ông khỏe lại và ra Hà Nội để làm việc lại, tiếp tục phanh phui tham nhũng thì người kế tiếp sẽ là Nguyễn Bá Thanh, đánh Nguyễn Bá Thanh gục, xem như đánh phe đang đấu tố Nguyễn Tấn Dũng gục và quyền bính sẽ trở lại tay của Dũng.
Và đương nhiên đây chỉ là những giả thiết, dẫu sao thì CDQL vẫn đưa
ra những bằng chứng tham nhũng cộm cán, rất tiếc là chưa đủ, nếu đưa
được thông tin về tài sản, gia đình Nguyễn Tấn Dũng một cách rõ nét thì
mọi chuyện lại khác?!
PAUL MASON * NẠN ĐÓI TRUNG CỘNG
Người đưa ra sự thật về nạn đói TQ
Paul Mason
Biên tập viên Kinh tế, chương trình Newsnight
Cập nhật: 17:29 GMT - thứ năm, 22 tháng 11, 2012
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Dưới thời Mao Trạch Đông, vận may
của ông Dương là tìm được việc trong tòa báo của chính quyền, Tân Hoa
xã. Điều không may là ông phải chứng kiến cái chết của cha do thiếu ăn
năm 1961, đỉnh điểm nạn đói làm 36 triệu người chết.
“Khi cha qua đời, tôi đã nghĩ đó là vấn đề riêng
gia đình tôi. Tôi trách bản thân đã không về nhà nhặt lượm cây dại cho
bố ăn. Sau đó, chủ tịch tỉnh Hà Bắc nói hàng triệu người đã chết. Tôi
sững sờ,” ông Dương nói.
Những năm 90, ông Dương lúc đó đã thành biên tập
viên cấp cao ở Tân Hoa xã, dùng vị trí của mình để bí mật tìm hiểu sự
thật về nạn đói trên khắp 12 tỉnh khác nhau qua các tư liệu lưu trữ:
“Tôi không thể nói là tôi đang đi tìm tài liệu
về nạn đói, tôi chỉ có thể nói là đang tìm tài liệu về lịch sử chính
sách nông nghiệp Trung Quốc. Trong những dữ liệu đó tôi tìm được rất
nhiều thông tin về nạn đói và về những người chết vì nó. Một số thư viện
cho tôi sao lại; nơi khác thì chỉ cho ghi chép thông tin. Đây,” ông làm
cử chỉ về phía đống phong bì màu nâu nghiêng ngả trên sàn nhà, “là các
bản sao”.
Kết quả là: Tấm bia mộ: Chuyện chưa kể về Nạn đói lớn của Mao, xuất bản ở phương Tây năm nay và được tán thành nhiệt liệt.
Ông Dương, 72 tuổi, gọn gàng, nhỏ bé, bó người trong hai chiếc áo len, mặc cho tia sáng mặt trời mùa đông chiếu xiên trên bàn.
Ông lần mò trên giá để tìm cuốn sách mà ông không nhớ tựa đề: của một tác giả phương Tây bỗng xẹt qua trí nhớ ông.
“Viết về sự nô lệ?” ông nói. Tôi gợi ý tên Hayek
và sau một hồi thử các kiểu chuyển ngữ sang tiếng Trung cũng hiệu
nghiệm. Ông vồ ngay lấy cuốn Con đường dẫn tới chế độ nô lệ của
Friedrich von Hayek trong thư viện và khẽ cười với chút nghi ngờ khi tôi
bảo ông đây có lẽ là cuốn sách có ảnh hưởng lớn nhất tới kinh tế phương
Tây:
“Trước khi đọc Hayek, tôi chỉ đọc sách do Đảng
bảo tôi đọc. Hayek nói rằng dùng chính phủ để khuyến khích một xã hội
không tưởng là rất nguy hiểm. Ở Trung Quốc đó chính xác là những gì họ
làm. Họ dùng một xã hội không tưởng do Marx khuyến khích, dù là nó đẹp
đi nữa, cũng rất nguy hiểm.”
Cho tới bây giờ, 50 năm đã qua, chính sử Trung
Quốc vẫn khẳng định nạn đói năm 1958-61 là do thiên tai. Tác phẩm của
ông Dương cho thấy nạn đói ở tầm khổng lồ và do một nguyên nhân chính
trị, rất trực tiếp.
Nông nghiệp bị hợp tác hóa một cách thô bạo, để
nông dân phụ thuộc vào sự phân chia lương thực. Đảng viên địa phương
xông vào tận bếp từng nhà, sung công tất tật, và phạt những ai giữ lấy
nguồn cung cấp thực phẩm riêng.
Sau đó, khi Mao yêu cầu khẩn trương công nghiệp
hóa trong thời Bước đại Nhảy vọt, việc cung cấp lương thực lặn tăm mất.
Cùng lúc đó các quan chức địa phương, hoảng hốt vì thất bại, bắt đầu báo
khống con số thu hoạch.
Trong lúc đó Mao công khai làm nhục những đảng viên lãnh đạo tỏ ý nghi ngờ. Kết quả là nạn đói lớn nhất trong lịch sử hiện đại.
Chính việc ông Dương từ chối đi theo những gì
chính thống của Trung Quốc mà cuốn sách bị cấm xuất bản ở Trung Quốc.
Xảy ra nạn đói là do tập trung quyền lực Đảng, ông tranh luận – lãnh đạo
bây giờ thì cũng phải đối mặt với bao tai họa ở Trung Quốc – nào là vụ
bán máu nhiễm HIV, cho tới dịch cúm Sars, cho tới chuyện nhà sập ở động
đất Tứ Xuyên – đều là kết quả của chính trị thiếu tự do và báo chí thiếu
tự do.
Mặc cho bị dán nhãn phản động, ông Dương cho
rằng có khoảng nửa triệu bản sao bằng tiếng Hong Kong lưu hành ở Trung
Quốc. Bản của riêng ông, được giấu kín trong tủ đựng ly tách, mua được ở
chợ đen sau này: trang sách đều là sao lại, bìa bọc chắc chắn, bóng
loáng và rõ ràng thiếu chuyên nghiệp.
“Có khoảng 10,000 cuốn như thế này đang được lưu hành,” ông nói. “Mọi người vẫn muốn mang sách thật từ Hong Kong về nhưng bị chặn, nên phải làm thế này. Phản hồi rất mạnh mẽ, tôi đã nhận được nhiều thư từ độc giả kể cho tôi chuyện người thân mất mạng trong nạn đói.”
Bản tiếng Anh tạo nên dấu ấn khổng lồ, nhiều
người gọi ông Dương là Solzhenitsyn của Trung Quốc. Với tôi, ông lại như
Vasily Grossman của Trung Quốc: dù ông cho rằng chủ nghĩa Marx là kiểu
tưởng tượng nguy hiểm ông vẫn là Đảng viên. Cái tính tầm thường ám ảnh
ông – cũng như Grossman – bảo vệ lấy quyền lực của kỷ niệm:
“Trung Quốc trải qua giai đoạn thay đổi lớn.
Nhưng... việc lợi dụng quyền lợi riêng trong nền kinh tế thị trường và
quyền lực không bị cản trở nên chế độ chuyên chế tạo ra hàng vô tận
những điều phi lý, và tầng lớp thấp hơn ngày càng giận dữ. Trong thế kỷ
mới này tôi rằng những người nắm quyền và dân thường phải như nhau từ
chính trong tim họ và chế độ chuyên quyền đã đến điểm kết thúc rồi.”
(Trang 22, Ngôi mộ đá).
"Chúng tôi được học rất nhiều về lịch sử. Nhưng, phần lớn là những điều không thật. Toàn những chuyện bịa đặt để phục vụ tư tưởng. Một khi anh nhận ra là mình bị lừa, anh bắt đầu theo đuổi sự thật. "
Cảm giác như thế nào, tôi hỏi, là một sử gia ở đất nước mà kỷ niệm lịch sử bị chèn ép hoàn toàn?
“Đau lắm,” ông nói. “Chúng tôi được học rất
nhiều về lịch sử. Nhưng, phần lớn là những điều không thật. Toàn những
chuyện bịa đặt để phục vụ tư tưởng. Một khi anh nhận ra là mình bị lừa,
anh bắt đầu theo đuổi sự thật. Đó là những gì tôi làm: Tôi đã bị lừa,
nên tôi muốn viết ra sự thật – dù có nguy hiểm thế nào đi nữa.”
Dù đã nghỉ hưu khỏi Tân Hoa xã, ông Dương vẫn
rất năng động. Tờ tạp chí chính trị ông làm từ văn phòng nhỏ bé này, từ
đống ấn bản chưa bán vẫn chất chồng trong hành lang, không có ảnh hưởng
gì nhiều nhặn. Ông cho rằng phải mất 10 năm nữa cuốn Ngôi mộ đá mới có
thể xuất bản ở Nhân dân Cộng hòa, nếu cải cách chính trị vẫn giữ nguyên
tiến độ ảm đạm này.
Nhưng cũng như các cây viết bất đồng chính kiến khác của Trung Quốc, ông học được cách không vội vàng.
Ông ấn mấy lá trà vào trong cái cốc giấy, đổ
nước nóng ra từ phích. Ở góc phòng có bộ máy tính cổ lỗ hiếm khi được
chạm tới, nhưng công cuộc của ông Dương đã được thực hiện ở mộ thế giới
thông tin không kỹ thuật số: photocopy và ghi chép tay.
Ông gõ gõ vào bản tiếng Anh một cách hài lòng, vẫn sửng sốt về giá sách mà nhà xuất bản Penguin đưa ra bán:
“Tấm bia mộ có bốn tầng ý nghĩa. Đầu tiên là
dành cho cha tôi đã chết trong nạn đói, nữa là để nhớ 36 triệu người
chết trong nạn đói. Ý nghĩa thứ ba là ngôi mộ đá cho thể chế đã giết
họ.”
Còn ý nghĩa thứ tư?
“Thứ tư là – cuốn sách mang tới những đe dọa
chính trị cho tôi, thế nên nó là tấm bia mộ cho tôi nếu bất kỳ điều gì
xảy ra vì đã viết nó.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2012/11/121122_chinese_famine_book
”
GS. CARL THAYER * ĐẠI HỘI RUỒI
GS Carl Thayer: Nhìn về Đại hội 12
Đảng Cộng sản Việt Nam đang bắt đầu chuẩn bị cho Đại hội 12 vào đầu năm 2016, tròn 30 năm sau khi chính sách Đổi mới được đưa ra tại Đại hội 6 hồi năm 1986.
Trong cuộc phỏng vấn với Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia nghiên cứu Việt Nam lâu năm từ Australia, Nguyễn Hùng của BBC cũng hỏi ông về các yếu tố có thể ảnh hưởng tới nhân sự tại Đại hội.
BBC: Ông nhận thấy sự thay đổi gì khi Bộ
Chính trị nay có 16 thành viên thay vì 14 vì như ông nói 14 thành viên
của Bộ Chính trị trước đây đã bỏ phiếu với khoảng cách phiếu lớn để kỷ
luật thủ tướng. Và liệu sẽ có thêm thành viên vào Bộ Chính trị từ giờ
tới cuối năm, trước đại hội tới, để thay đổi cuộc chơi cho thủ tướng
không?
Có thể chứ. Kế hoạch hiện tại là mở rộng Bộ Chính trị [từ nay] tới Đại hội sắp tới lên ít nhất 17 thành viên.
Tháng
11 trước tôi tới Việt Nam và được biết một danh sách 50 người đã được
đưa lên Ban Tổ chức và người ta đã lược xuống còn 23 [người].
Như vậy có 23 thành viên Bộ Chính trị tiềm năng và họ sẽ còn phải đi qua các vòng lựa chọn khác nữa.
Nếu
nhìn vào 16 người hiện nay, chín trong số 14 người ban đầu sẽ [tới
tuổi] về hưu, bảy người [trong số 16 thành viên hiện tại] sẽ ở lại, như
vậy [cần] 10 thành viên mới.
Sự chuyển giao này không phải là không có
tiền lệ do cách tổ chức của Việt Nam, họ chỉ mở năm vị trí hàng đầu
[trong Đảng] cho những người đã giữ trọn một nhiệm kỳ trong Bộ Chính
trị.
Họ thực sự cần một Bộ Chính trị nhiều thành viên hơn hoặc tiếp nhận những người trẻ vào sớm hơn nữa.Người ta luôn có thể mở rộng Bộ Chính trị từ nay tới Đại hội Đảng nhưng tôi cho rằng điều đó còn sớm quá và nếu đó là toan tính để ngáng thủ tướng thì nó sẽ tạo ra hiệu ứng ngược.
Tôi cũng phải chỉ ra rằng chúng ta đang nói về các đảng viên thủ cựu trong Ban Tổ chức toan thao túng và chọn nhà lãnh đạo kế tiếp.
Nhưng lịch sử đã cho thấy các đại biểu [Đại hội] được bầu ở cấp tỉnh khá độc lập tại Đại hội, họ có quyền tiến cử ứng viên và ngay cả khi họ được trao danh sách 23 người để chọn ra 17, họ có thể bầu ra ban chấp hành trung ương mà bản thân nó cũng độc lập và có thể phủ quyết.
Cách đây hai kỳ Đại hội, họ đòi được quyền chọn tổng bí thư và không được đáp ứng nhưng họ được phép bỏ phiếu thăm dò và kết quả được thông báo cho ban chấp hành trung ương.
Chúng ta vẫn đối mặt với thực tế là cho dù nhóm thủ cựu muốn để lại di sản như thế nào đi chăng nữa thì điều đó có thể không được ban chấp hành trung ương chấp nhận khi chúng ta tiến gần tới đại hội với vài kỳ họp còn lại.
Và tại chính đại hội, chúng ta đã thấy trong đại hội trước có những nhân vật không được giới thủ cựu ủng hộ nhưng vẫn được bầu vào ban chấp hành trung ương.
BBC: Ông nói rằng có danh sách 23 người để bầu vào Bộ Chính trị vậy có nghĩa là tất cả các thành viên Bộ Chính trị đều phải được bầu lại bao gồm cả hai thành viên mới?
Ý tôi muốn nói là Ban Tổ chức xem xét một loạt những người có thể đủ tiêu chuẩn vào Bộ Chính trị và thoạt đầu họ có danh sách 50 người.
Họ xem xét danh sách đo và giảm số người xuống còn 23. Họ vẫn còn phải được sàng lọc, [và mọi chuyện phụ thuộc vào việc] liệu có cuộc điều tra nào diễn ra, các tin tức bị rò rỉ, rồi cuối cùng Ban Tổ chức muốn tiến cử, ra chỉ dấu cho ban chấp hành trung ương mới lựa chọn của họ.
Ý tôi muốn nói là Ban Tổ chức xem xét một loạt những người có thể đủ tiêu chuẩn vào Bộ Chính trị và thoạt đầu họ có danh sách 50 người.
Họ xem xét danh sách đo và giảm số người xuống còn 23. Họ vẫn còn phải được sàng lọc, [và mọi chuyện phụ thuộc vào việc] liệu có cuộc điều tra nào diễn ra, các tin tức bị rò rỉ, rồi cuối cùng Ban Tổ chức muốn tiến cử, ra chỉ dấu cho ban chấp hành trung ương mới lựa chọn của họ.
Quyết định cuối cùng thuộc về ban chấp hành trung ương mới sẽ được các đại biểu Đảng bầu ra tại Đại hội tới và vào ngày họp cuối cùng họ [các ủy viên trung ương mới] họp hội nghị đầu tiên mà tại đó bộ chính trị sẽ được bầu ra và một khi đã có bộ chính trị họ sẽ chọn một người trong số đó làm tổng bí thư.BBC: Có vẻ như thủ tướng hiện tại là ứng viên mạnh cho chức ông chủ Đảng nhưng vấn đề là tổng bí thư đương nhiệm cũng có những lựa chọn của ông và chúng ta có biết các lựa chọn đó thế nào không và các lựa chọn đó có khả năng cạnh tranh như thế nào so với thủ tướng?
Thông tin duy nhất mà tôi có đã được một thời gian lâu rồi là ông Nguyễn Phú Trọng tiến cử ông Phạm Quang Nghị và đó là lý do mà ông được cử sang Mỹ giữa lúc xảy ra cuộc khủng hoảng giàn khoan để ông có thể về và nói với ông Phạm Bình Minh rằng tôi đã làm việc với người Mỹ, tôi có kinh nghiệm đối ngoại.
Còn có những người khác từ bên Đảng nhưng tôi không biết ông Nguyễn Tấn Dũng sẽ ủng hộ ai làm tổng bí thư nếu ông không vào được vị trí này.
Ông sẽ không thể bỏ phiếu được nếu không có mặt trong ban chấp hành trung ương mới nên ông chỉ có thể đi lên hoặc về vườn.
Người vào vị trí để trống của ông [Dũng] thường được chọn từ các phó thủ tướng và nhiều đồn đoán mà tôi nghe được là ông Nguyễn Xuân Phúc chính là lựa chọn của ông [Dũng].
Nhưng ông [Phúc] bị trang Chân dung quyền lực đánh tới tấp và có vẻ đã bị Ủy ban kiểm tra thuộc quyền Tổng Bí thư điều tra về các cáo buộc.
Ông về thứ 10/16 trong bỏ phiếu [tín nhiệm], tức là hai bậc dưới bán nhưng [điều quan trọng] là đừng có ai đạt dưới 50% mà hiện chúng ta chưa biết thông tin về số phiếu bất tín nhiệm.
BBC: Mọi chuyện sẽ phức tạp hơn khi tính tới quy định mới của Đảng mà theo đó không ai được phép ứng cử hay chấp nhận đề cử mà không được Bộ Chính trị 16 người hiện nay bật đèn xanh. Ông nói rằng Bộ Chính trị hiện tại, trừ hai thành viên mới, đã bỏ phiếu kỷ luật thủ tướng cách đây chưa lâu. Vậy liệu họ có chấp nhận ông cho vị trí tổng bí thư hay bất kỳ vị trí nào khác không? Vướng mắc là ở chỗ ông ấy sẽ thắng khi ra trước Ban Chấp hành trung ương nhưng liệu ông có vượt qua được thử thách đầu tiên, đó là đạt được sự đồng thuận [có lợi cho ông] trong cơ quan quyền lực cao nhất với 16 [thành viên hiện tại] hay 17 thành viên trong tương lai để được ứng cử?
Hai năm trước khi bỏ phiếu diễn ra Bộ Chính trị chỉ có 14 người và quyết định [kỷ luật] đó bị Ban Chấp hành Trung ương phủ quyết.
Anh nói đúng là cốt lõi của Bộ Chính trị, dù là chín hay mười người thì vẫn là đa số đáng kể nếu mọi người tại vị.
Điều rõ ràng là thủ tướng có ủng hộ lớn từ Ban Chấp hành Trung ương và các thành viên của ban này có thể làm cho mọi chuyện khó khăn nếu người ta định tấn công hay bỏ phiếu loại ông.
Ông có vẻ đã nổi trội hơn, hay đánh đúng tình cảm của công chúng đối với Trung Quốc trong cuộc khủng hoảng giàn khoan, thậm chí gửi tin nhắn tới điện thoại của dân chúng, rồi các bài diễn văn và hành động của ông tại Quốc hội.
Thế nên vấn đề là nhóm chín hay 10 người từ hai năm trước có còn thống nhất không và liệu các thành viên có nghĩ tới chính tương lai của họ nếu họ còn có tương lai và đổi phe.
Và ngay cả khi anh nói về quy định của Đảng thì như tôi đã nói cách đây hai đại hội, các đại biểu đã đòi được quyền chọn tổng bí thư và cho dù họ không được đáp ứng nhưng trường hợp vé vớt có thể xảy ra.
Điều rõ ràng là thủ tướng có ủng hộ lớn từ Ban Chấp hành Trung ương và các thành viên của ban này có thể làm cho mọi chuyện khó khăn nếu người ta định tấn công hay bỏ phiếu loại ông.
BBC: Còn về ứng viên cho vị trí thủ tướng, hai ứng viên nào có thể coi là đang ở hàng đầu? Chúng tôi có nói chuyện với cựu Đại biểu Quốc hội Nguyễn Minh Thuyết và ông nói người ta nhắc tới bốn nhân vật gồm hai Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Vũ Đức Đam, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Nguyễn Thiện Nhân.
Trong quá khứ, phó thủ tướng thứ nhất sẽ trở thành thủ tướng nhưng hiện chúng ta không biết ai là [phó thủ tướng thứ nhất]. Người ta không nói rõ ra. Có năm phó thủ tướng cả thảy, vậy là có năm ứng viên.
Nếu ông Phúc là lựa chọn của ông Nguyễn Tấn Dũng thì chuyện ông ấy bị nêu tên trên blog [khiến người ta đặt câu hỏi] ai rò rỉ ra những thông tin đó.
Chúng ta không biết đó có phải là an ninh hay tình báo quân đội hay không.
Bởi vậy vấn đề là liệu Thủ tướng có tiếp tục chọn ông [Phúc] hay không.
Bà Ngân, cách đây chín tháng hay một năm được nhiều người ca ngợi, nhưng bà phù hợp hơn cho ghế chủ tịch Quốc hội.
Nó cũng là điều chưa có tiền lệ [nếu bà trở thành thủ tướng] vì bà chưa ở nhiệm sở trọn một nhiệm kỳ.
Câu hỏi là liệu Việt Nam có chấp nhận một thủ tướng mà chưa trải qua vị trí phó thủ tướng trong khoảng bốn hay năm năm không.
Đối với ông Vũ Đức Đam, nhiều người ủng hộ ông khi nghe nhắc tới tên lúc tôi ở Việt Nam.
Người ta thích khả năng kỹ trị và tuổi trẻ của ông nên ông có thể là người thay thế khi sự phản đối ông Phúc lớn tới mức ông phải từ bỏ [tham vọng làm thủ tướng].
Đối với ông Nguyễn Thiện Nhân, khi người ta đẩy ông sang Mặt trận Tổ Quốc phần cũng là vì Đại hội trước đã thay đổi điều lệ mà theo đó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc phải là một ủy viên Bộ Chính trị không về hưu [tại Đại hội kế tiếp] như từng xảy ra.
Họ muốn trẻ hóa Mặt trận Tổ quốc.
Cũng khó khẳng định chuyện Thủ tướng [Nguyễn Tấn Dũng] đang muốn cho hai, hay ba người chạy đua.
Người ta đều đồng tình rằng ông Nhân không được việc khi làm bộ trưởng giáo dục và thoạt đầu ông không phù hợp với vị trí ở Mặt trận Tổ quốc nhưng có vẻ ông ấy đã quen dần với công việc.
Đó là những đồn đoán về những ứng viên hàng đầu cho tới khi có những cáo buộc trên blog mà tôi cho rằng không chính xác.
Nhưng cũng có tin đồn về chuyện có điều tra của [Ban] kiểm tra và nó cũng đặt ra những câu hỏi.
Tôi nghĩ rằng những gì diễn ra ở cấp đại biểu Đại hội tới sẽ quyết định số phận của thủ tướng tương lai.
BBC: Theo quan điểm cá nhân của ông, đội hình lý tưởng cho bốn vị trí hàng đầu gồm tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng và chủ tịch quốc hội cần có những ai? Và ông có cho rằng cần phải hợp nhất hai vị trí tổng bí thư và chủ tịch không?
Tôi nghĩ rằng Việt Nam cần điều đó [hợp nhất vị trí chủ tịch và tổng bí th] vì nhiều lý do.
Chẳng
hạn sắp tới kỷ niệm 20 năm quan hệ Việt - Mỹ và họ rất muốn ông Nguyễn
Phú Trọng tới thăm [Hoa Kỳ] và tới được Phòng Bầu dục trong Nhà Trắng
nhưng ông [Trọng] không phải là nguyên thủ quốc gia.
Trước đây Việt Nam cũng đã gặp phải vấn đề này.
Thực tế là từ khi ông Hồ Chí Minh qua đời, người ta đã làm như vậy để đảm bảo cân bằng quyền lực.
Đó là lý do ông Trương Tấn Sang được đưa lên để vị trí chủ tịch không chỉ có tính hình thức mà còn có thực quyền.
Tôi không phải là người thích ông Nguyễn Tấn Dũng nhưng càng ngày ông ấy càng thuyết phục được tôi hơn.
Ông ấy là nhân vật năng động nhất, có thể đã bị khiển trách, nhưng sẵn sàng chấp nhận rủi ro và có đầu óc tưởng tượng phong phú.
[Bởi vậy ông ấy] sẽ là một tổng bí thư mạnh, có lẽ mạnh hơn là Việt Nam muốn có.
Nhưng nếu ông ở vào vị trí đó, ông sẽ nổi trên quốc tế.
Câu hỏi khác là liệu ông có thay đổi được bộ mặt của văn phòng tổng bí thư không?
Điều
tôi vẫn luôn nói là trong hai nhiệm kỳ của ông, cho dù tăng trưởng kinh
tế có giảm sút, nhưng văn phòng thủ tướng luôn mạnh hơn nhiều so với
bên Đảng.
Nếu ông lên làm tổng bí thư và có người mà ông tin cậy được làm thủ tướng thì đó sẽ là kết hợp mạnh.
Bà
Nguyễn Thị Kim Ngân [có kết quả bỏ phiếu tín nhiệm cao trong Đảng] và
về đầu trong bỏ phiếu tín nhiệm ở Quốc hội phù hợp với chức chủ tịch
Quốc hội.Tướng Phùng Quang thanh đã được nhắc tới [như một ứng viên] vì đã có những người tiền nhiệm của ông lên chức chủ tịch nhưng không phải tất cả những người làm chủ tịch đều từ quân đội đi lên.
Về vị trí thủ tướng, tôi nghĩ đã đến lúc
có người trẻ và năng động [vào vị trí này] và [nếu] ông Vũ Đức Đam [làm
thủ tướng ông] có thể làm hai nhiệm kỳ mà vẫn chưa tới 69 tuổi và còn có
thể đóng góp thêm.
Vị trí chủ tịch là vị trí khó đoán.
Trong
trò chơi 'Musical Chairs' ở phương Tây luôn có nhiều người chơi hơn số
ghế và khi nhạc [do một người không tham gia chơi điều khiển] dừng một
người [không tìm được ghế để ngồi xuống trước những người khác] sẽ phải
rời [cuộc chơi và người ta cũng bỏ đi thêm một ghế để luôn có ít ghế hơn
số người chơi. Những người chơi bị loại dần cho tới khi còn một người
chiến thắng].
Còn trong Đại hội trước có năm ghế và năm người
chơi. Khi nhạc dừng ông Trương Tấn Sang thành chủ tịch còn những người
khác bị loại.
Bởi thế nên mọi chuyện chưa rõ ràng.
Tướng
Phùng Quang thanh đã được nhắc tới [như một ứng viên] vì đã có những
người tiền nhiệm của ông lên chức chủ tịch nhưng không phải tất cả những
người làm chủ tịch đều từ quân đội đi lên.
Điều đó [nếu ông Thanh làm chủ tịch] sẽ tạo sự cân bằng và có thể có ích cho quan hệ với Trung Quốc.
BBC:
Nhưng ông Thanh và con trai ông cũng là đối tượng nhắm tới của blog
[Chân dung quyền lực], vậy chúng ta có thể nói gì về chuyện này?
Nên
nhớ rằng con [rể] của ông Nông Đức Mạnh đã bị tấn công liên quan tới
PMU 18 và theo tôi mỗi lần gần tới Đại hội Đảng họ lại tấn công các
thành viên gia đình của một số nhân vật chỉ để chứng minh rằng nếu anh
không kiểm soát được gia đình thì làm sao điều hành chính quyền được.
Thông
tin có được tới từ theo dõi lén và chúng ta phải đặt câu hỏi những cơ
quan nào ở Việt Nam có khả năng này và tại sao họ muốn làm điều đó.
Trong vụ ông Phùng Quang Thanh, có cáo buộc là Tổng cục 2, tức tình báo quân đội có liên quan.
Nhưng
có thành viên gia đình bị chỉ trích chưa chắc đã là trở ngại. Trong vụ
ông Nông Đức Mạnh, ông ấy vẫn được bầu làm tổng bí thư, rồi con gái của
thủ tướng cũng từng bị chỉ trích.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2015/01/150114_carl_thayer_iv_2
Thursday, January 22, 2015
VĂN HÓA -XÃ HỘI VIỆT NAM
Vé xe Tết, nỗi khổ của người lao động nghèo
Năm nào cũng giống năm nào, việc mua vé xe về quê ăn Tết luôn là nỗi
lo lớn nhất của người lao động xa quê tại đất Sài Gòn, bến xe Miền Đông
trở thành cái nơi mà họ phải vật vạ, chờ đợi và cầu may để mua được tấm
vé, lên xe về quê. Khác với nhiều năm trước, năm nay, người lao động ít
lo chuyện phải bị nhét xuống gầm xe, nằm vật vạ trong không gian chật
hẹp và có thể bị chết ngạt, chết vì xóc bất cứ giờ nào. Nhưng bù vào đó,
giá vé cao ngất ngưởng cùng với hàng loạt giá dịch vụ phụ khiến cho
người lao động phải chóng mặt.
Giá xăng giảm nhưng nhà xe vẫn tăng giá vé
Một đại diện nhà xe tên Trúc tại bến xe Miền Đông, Sài Gòn cho biết:“Khoảng
từ 24 đến 28 tháng 12 âm lịch đã hết vé, chỉ còn vé từ 23 tháng chạp
trở về trước và sau ngày 29 tháng chạp. Vé xe đã có vậy rồi, không giảm,
vé Tết mà!”
Theo bà Trúc, giá vé xe hiện nay vẫn chưa có gì thay đổi ngoài việc
giảm từ 3% đến 5% nhưng lại tăng mức cước phí theo lịch Tết, mặc dù giá
xăng đã được hạ xuống mức khá thấp. Sở dĩ có chuyện như vậy vì nhà xe
tuy mới vui mừng vì giá xăng thì những chuyện khác không vui lại đến,
mức phí chung chi cho cảnh sát giao thông suốt tuyến đường lại tăng gấp
đôi so với trước. Như vậy, giá xăng hạ vẫn không bù được khoản chung chi
nhân gấp đôi.
Tuyến đường từ Sài Gòn ra Hà Nội có đến vài ba chục trạm gác, thường
thì những trạm gác chính do cảnh sát giao thông mỗi tỉnh đứng đường, rồi
thỉnh thoảng có các trạm gác đột xuất do công an huyện đứng đường.
Mỗi xe muốn đi qua trạm gác đều phải chung 200 ngàn đồng, đó là con
số qui ước, cứ thấy cảnh sát giao thông chỉ gậy vào xe thì liền tấp xe
vào lề, kẹp 200 ngàn đồng vào giấy tờ xe, xuống chào hỏi đúng thủ tục,
đưa giấy tờ cho cảnh sát giao thông. Lúc này, cảnh sát giao thông chỉ
làm mỗi một việc là nhẹ nhàng kẹp tờ tiền vào giữa hai ngón tay, đưa nó
vào giữa lòng bàn tay rồi nhét vào đai nịt cảnh sát.
Trước đây, mức giá chung là 100 ngàn đồng, từ ngày giá xăng giảm, mức
giá tăng lên gấp đôi. Chính vì vậy mà giá cước vé xe qui định ở các bến
xe luôn là nỗi ám ảnh của nhà xe, họ buộc phải tìm khách bên ngoài bến
xe để thỏa thuận giá mà kiếm chút lãi, đỡ đi khoản thuế bến đỗ.
Cách làm của nhà xe thường tỏ ra rất nghiêm túc, cứ đến giờ là xuất
bến. Nhưng thực tế, họ có riêng một đội ngũ cò mồi lân la ở các dãy ghế
chờ trong bến xe, tìm hiểu khách đã chờ bao lâu và nếu thấy khách chưa
có vé thì bán vé chợ đen với giá cao hoặc chỉ cho họ ra ngoài ngã ba Thủ
Đức để đứng chờ, ở đó sẽ có được ghế ngồi và giá cả hợp lý vì nhà xe
không cần phải đóng thuế phần trăm vé xe cho bến.
Thường thì những lao động xa quê có mang theo xe máy, nôn nóng về nhà
nên nghe theo lời các tay cò, ra đứng đón ở ngã ba Thủ Đức, và đương
nhiên là đúng như lời của các cò mồi, giá vé mỗi người không đắt hơn giá
vé trong bến, lại có chỗ ngồi tốt vì xe còn trống lúc xuất bến. Nhưng
giá dịch vụ phụ thì miễn bàn, một chiếc xe gắn máy có thể tốn cả triệu
đồng vận chuyển về đến Hà Nội và sáu trăm, bảy trăm ngàn đồng về đến
miền Trung. Đến nước này, không thể bỏ chiếc xe lại, đành phải phóng lao
thì theo lao, chấp nhận mất tiền.
Và cũng đương nhiên, với cách làm việc này, bất kì nhà xe nào cũng cố
gắng tăng thêm khách, tăn g thêm vòng chạy đua ngày giáp Tết, mức độ an
toàn trên đường đi rất thấp do sức khỏe của tài xế xuống dốc bởi liên
tục làm việc. Chính vì việc chạy đua này mà giao thông mùa giáp Tết hết
sức nguy hiểm, mọi rủi ro luôn rình rập.
Người lao động chật vật vì vé xe
Chị Huệ, là công nhân giày da trong khu công nghiệp Tân Bình, quê ở Quảng Trị, chia sẻ: “Chỉ
cần lên xe là chen lấn, Tết là họ nhét mình như nhét heo vậy. Ghế 3
người chứ nhét từ 4 đến 5 người, Họ còn để thêm ghé nhỏ chen giữa các
lối đi, ở những khoảng trống nhỏ để nhét thêm khách…!”
Chị Huệ cho biết, năm nay, tuy giá xăng có giảm nhưng việc mua vé để về quê ăn Tết và đến mồng Mười tháng Giêng lại quay vào Sài Gòn khiến chị mất hết gần hai tháng lương. Với mức lương một công nhân xí nghiệp may công nghiệp dao động từ hai triệu rưỡi đến bốn triệu đồng, phải trả các loại chi phí chỗ thuê trọ, tiền điện, tiền nước, ăn uống, sinh hoạt… Để dư được một triệu đồng giắt lưng làm vốn mỗi tháng là một chuyện hết sức khó khăn.
Nhiều người cũng là công nhân xa quê giống như chị Huệ, có khi cả năm
làm lụng vất vả không dư được 5 triệu đồng vì chi phí hằng ngày đã ngốn
hết tiền lương, trong trường hợp này, cuối năm chỉ biết buồn, khóc và
tiếp tục trọ lại thành phố để bảo toàn số tiền dành dụm bởi nếu về quê,
số tiền này chỉ vừa đủ chi phí đi lại, mua một ít quà Tết cho gia đình,
ra Giêng lại cày xới, dành dụm… Chẳng còn gì.
Chính vì khó khăn này nên chị Huệ chọn cứ hai năm lại về thăm nhà một
lần vào dịp Tết, dù có tiết kiệm cách gì thì mỗi lần thăm nhà cũng tốn
của chị ngót nghét một chục triệu đồng bởi tiền vé xe, tiền mua quà và
lì xì Tết cho người thân. Với chị, để có số tiền này, chị phải tốn gần
một năm rưỡi dành dụm.
Và đây cũng là nỗi chật vật không riêng gì của chị Huệ mà hầu hết
những người lao động xa quê, đặc biệt là với những người lao động bươn
bả ngoài đời như lượm ve chai, bán vé số, bán bánh kẹo, đậu phộng rang…
Việc mua một tấm vé xe về quê ăn Tết có khi phải dành dụm nửa năm trời
mới đủ, và để có một tấm vé khứa hồi vào lại thành phố để làm ăn, tốn cả
năm trời dành dụm. Với họ, một năm dài làm lụng chỉ đủ mua vé về quê,
vào lại để tiếp tục bươn bả, cày xới qua ngày đoạn tháng, chẳng có gì
hơn.
Tết âm lịch sắp đến, không khí mua vé ở các bến xe Sài Gòn bắt đầu
chộn rộn, tuy nhiên, giới lao động nghèo chỉ có thể xếp hàng chờ mua vé
vào dịp họ chính thức nghỉ Tết, đây cũng là dịp mà các hãng xe có thể
hét bất kì giá nào ở ngã ba Thủ Đức vì trong các bến xe đã chật như nêm,
khó hy vọng mua được tấm vé Tết.
Và năm nào cũng như năm nào, nhà nước luôn đưa thông tin về chính
sách tốt dành cho người nghèo nhưng trên thực tế, Tết, với người nghèo
nói chung và người nghèo xa quê nói riêng, bao giờ cũng là dịp người ta
cảm nhận được sự chạm đáy thân phận của mình.
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.http://www.rfa.org/vietnamese/reportfromvn/tet-festiv-poor-suff-01202015050150.html
Áo quần bành Trung Quốc
Hằng năm, khi mùa Đông tới, những người bán áo quần bành lại mang
hàng hóa ra các ngã ba đường, vỉa hè, khu chợ… để bán. Mặt hàng của họ
chủ yếu là áo quần đã qua sử dụng, bán với giá rẻ bèo cho người lao
động, người nghèo, người có thu nhập thấp. Chủng loại hàng hóa của họ
cũng khá phong phú, từ đôi vớ đeo chân cho đến chiếc nịt, chiếc áo
khoác, áo ấm, áo len, áo pull, quần jean, quần Kaki… Có thể nói, đồ bánh
có gốc từ kho hàng Sida của Campuchia một thuở dù sao cũng giúp cho
người nghèo có quần áo mặc mà không phải bận tâm lắm về giá cả. Thế
nhưng thời gian gần đây, đồ bành trá hình có nguồn Trung Quốc đã khiến
không ít người hoảng hồn.
Trứng côn trùng và những thứ độc hại
Một người từng là đại lý áo quần bành cho khu vực miền Trung, hiện sống tại thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng, tên Tri, chia sẻ: “Hồi
trước nó bán từng kiện bên Campuchia chở về. Bây giờ nguồn đó không còn
nữa. Trước đây hồi PolPot bị thua, người Campuchia được viện trợ áo
quần cũ theo từng kiện, rồi họ lấy họ bán cho mình, giờ người Campuchia
họ cũng không cần đồ cũ nữa, đồ Sida cũng không còn nữa, nếu có chỉ là
hàng tồn trước đây thôi. Giờ thì toàn đồ bị lỗi của Việt Nam, đồ Trung
Quốc xấu, bị lỗi mang sang Việt Nam bán, giờ thứ gì họ cũng gọi là đồ
Sida hết trơn.”
Trước đây, áo quần bành trên thị trường Việt Nam còn có tên là áo quần Sida, do tổ chức Sida tài trợ cho chính phủ Campuchia để phát cho dân nghèo
Ông Tri cho biết thêm là hiện tại, khái niệm áo quần bành cũng đã bị
đánh tráo, nếu như trước đây, áo quần bành trên thị trường Việt Nam còn
có tên là áo quần Sida, do tổ chức Sida tài trợ cho chính phủ Campuchia
để phát cho dân nghèo, thay vì phân phát cho dân nghèo sau chiến tranh,
chính quyền Campuchia đã ém số đồ này bán cho tư thương Việt Nam. Tư
thương người Việt lại mang về bán cho người Việt Nam trên ba miền với
giá vừa phải. Đương nhiên là khi mua, với một bành áo quần vài trăm
chiếc chỉ tốn vài trăm ngàn đồng, mang về bán với giá vài chục ngàn một
chiếc, tỉ lệ lãi có thể gấp ba bốn chục lần so với giá gốc.
Và càng về sau, kinh tế Campuchia phát triển hơn, người dân quê cũng
không muốn mặc những thứ áo quần của phương Tây bỏ đi, các kho hàng từ
thiện của Campuchia xả hàng loạt, tư thương mua về bán cho người dân ồ
ạt. Đến những năm 2010 thì nguồn hàng này cạn kiệt, người buôn áo quần
bành chuyển sang buôn bán áo quần lỗi mốt, lỗi kĩ thuật được xả bỏ ở các
hãng may. Những bộ áo quần có chi tiết lỗi không lớn lắm nhưng không
thể xuất hàng được tuồn ra thị trường đồ bành.
Nhưng chuyện này diễn ra không được bao lâu, kéo dài chưa đầy nửa năm
thì hàng Trung Quốc ồ ạt tấn công Việt Nam, áo quần Trung Quốc có giá
rẻ mạt, mẫu mã bắt mắt được trưng bán khắp các hang cùng ngõ hẻm Việt
Nam. Đã có nhiều người mua loại áo quần này, sau khi ngâm nước để giặt,
các loại côn trùng nở ra chi chit trong thau nước, phải mang cả thau đồ
đi đổ, hôm sau, ngay vị trí đổ thau đồ này, hàng ngàn con đỉa con và
những côn trùng loi nhoi hiện ra.
Không biết áo quần này người Trung Quốc đã sản xuất theo cách nào, bảo quản ra sao mà lại có nhiều trứng đỉa, trứng côn trùng ẩn náu trong đó. Điều này có phải là sự vô tình do sản xuất cẩu thả hay là một chủ trương gây hại cho quốc dân một nước láng giềng
Chuyện áo quần Trung Quốc thì thiên hình vạn trạng cái để nói. Nhưng
cái điều đáng nói nhất mà theo ông Tri là hầu như thị trường áo quần
hiện nay chỉ toàn đồ Trung Quốc, có nhãn mác Trung Quốc thì bán giá đắt,
không có nhãn mác thì bán giá rẻ bèo và rất có thể đó là một ổ trứng
đỉa, có nhiều bộ áo quần không có nhãn mác đã được dân buôn Việt Nam gắn
nhãn mác sản xuất tại Việt Nam để lừa người mua. Mọi thứ hoàn toàn bị
đánh tráo, ngay cả khái niệm áo quần bành cũng đã bị đánh tráo, người ta
đâu có mua từng bành về bán như trước đây mà mua từng lô hàng của Trung
Quốc, có số lượng và giá cả hẳn hoi nhưng lại bán với danh nghĩa đồ
bành để qua mặt người tiêu dùng.
Và ông Tri cũng lấy làm khó hiểu vì không biết áo quần này người
Trung Quốc đã sản xuất theo cách nào, bảo quản ra sao mà lại có nhiều
trứng đỉa, trứng côn trùng ẩn náu trong đó. Điều này có phải là sự vô
tình do sản xuất cẩu thả hay là một chủ trương gây hại cho quốc dân một
nước láng giềng nằm trong tầm ngắm? Và ông Tri cũng lấy làm lạ khi mọi
chuyện có nguy cơ cho sức khỏe người dân vẫn diễn ra hằng ngày mà nhà
cầm quyền chẳng có động thái nào để ngăn chặn, mặc cho nó bùng phát!
Dở khóc dở cười vì đồ bành
Một người buôn đồ bành tên Vi, hiện đang sống ở Buôn Hồ, Đắc Lắck chia sẻ: “Giờ
khó lắm, ví dụ như mình ra mình chọn mấy hàng họ để đống, mua năm ngàn,
bảy ngàn về mình hô hai mươi, hai lăm ngàn đồng thì họa ra mới có lời.
Giờ đâu như hồi xưa nữa, hồi xưa người ta nghèo người ta mua đại cái đồ
bành về mặc cho ấm, chứ giờ hàng công ty xả đầy, cái áo sơ mi mới có hai
lăm ngàn đồng. Ít ai mua đồ bành này nữa, phải đồ xịn kia họ mới mua!”
Giờ đâu như hồi xưa nữa, hồi xưa người ta nghèo người ta mua đại cái đồ bành về mặc cho ấm, chứ giờ hàng công ty xả đầy, cái áo sơ mi mới có hai lăm ngàn đồng. Ít ai mua đồ bành này nữa, phải đồ xịn kia họ mới mua!
Một người buôn đồ bành
Theo bà Vi, nghề buôn đồ bành ở Việt Nam hiện tại đã qua thời vàng
son, không phải bởi người dân hết nghèo, không thèm xài đồ bành nữa,
cũng không phải đời sống xã hội đã khấm khá hơn khiến cho thẩm mỹ con
người phát triển, không ai mặc áo quần lỗi mốt nữa mà trên thực tế, đồ
bành đã hoàn toàn mất uy tín, người ta đã bỏ nghề buôn đồ bành rất
nhiều, những người bán áo quần bành khắp nơi hiện tại có đời sống rất
khó khăn, họ cố vớt vát, bán nốt những lô hàng tồn kho từ mùa Đông năm
trước, thậm chí nhiều năm trước.
Cũng có nhiều trường hợp vẫn tiếp tục mua đồ bành Trung Quốc về các
chợ quê, vùng nghèo khó để bán, những trường hợp này thu lãi rất cao
nhưng nếu tính tổng thể thì mức lãi ròng cũng chẳng là bao vì chi phí
xăng cộ, đi lại, ăn uống, thuê chỗ ở trọ. Chính vì nhịp sống quay cuồng,
vội vã như vậy nên những người buôn đồ bành ít ổn định, rày đây mai đó,
sống cẩu thả, được chăng hay chớ và ít nghĩ đến đường dài. Một khi đầu
óc con người bị thui chột bởi nhịp sống, cái lợi trước mắt sẽ che khuất
mọi thứ và người ta không còn đủ thời gian để phản tĩnh, suy tư về lương
tri, đạo đức nữa.
Theo bà Vi, một khi những người dân Việt Nam trở thành nạn nhân của
các thứ hàng hóa độc hại của Trung Quốc, điều đáng nói không phải ở chỗ
Trung Quốc thâm hiểm mà chính là phông kiến thức của người dân quá thấp,
từ người buôn bán cho đến người tiêu dùng, không hề ý thức được là mình
đang tiếp tay cho giặc để giết hại chính đồng bào của mình và cũng
không hề ý thức được là mua hàng hóa Trung Quốc là giết chính mình, giết
cả tương lai của con cái mình.
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
Sapa đắt khách nhưng đồng bào thiểu số lại buồn
Thị trấn Sapa có lượng khách đông đúc vượt bậc và hàng loạt khách sạn
cháy phòng, du khách phải thuê sân nhà dân để căn lều trại ngủ qua đêm
trong giá lạnh là một trong những thông tin vui cho ngành du lịch Lào
Cai. Nhưng thông tin này lại không hề có ý nghĩa gì đối với những nông
dân làm vườn cũng như người đồng bào H.Mong, Thái Trắng, Dao Đỏ ở Sapa.
Nếu nhìn một cách khách quan, sự thắng lợi trong kinh doanh du lịch lại
một lần nữa cứa vào vết thương chưa kịp lành của đồng bào thiểu số. Vết
thương này là gì?
Mùa khốn khó bắt đầu
Một người bạn Dao Đỏ tên Miền, chia sẻ: “Người nghèo thì nhiều
lắm, ba phần thì có hai phần rồi, ở đây nghèo lắm. Làm ruộng, trồng rau
ăn, các thứ thì đi mua nhà nước rồi về bán, lãi một xu hai xu, một đồng
hai đồng để ăn. Cứ ăn hết lại đi mua. Như các thứ đồ dệt, mình mua rồi
bán lại, như mua hai mươi ngàn, bán hai lăm ngàn, lãi năm ngàn thì ăn”.
Người nghèo thì nhiều lắm, ba phần thì có hai phần rồi, ở đây nghèo lắm. Làm ruộng, trồng rau ăn, các thứ thì đi mua nhà nước rồi về bán, lãi một xu hai xu, một đồng hai đồng để ăn. Cứ ăn hết lại đi mua. Như các thứ đồ dệt, mình mua rồi bán lại, như mua hai mươi ngàn, bán hai lăm ngàn, lãi năm ngàn thì ăn.-Bạn Miền
Với kinh nghiệm làm vườn lâu năm, chị Miền dự đoán rằng năm nay sẽ có
tuyết rơi vào dịp Tết âm lịch, và đó cũng là dịp khó khăn nhất cho
người nông dân. Thường thì người nông dân miền núi không có nhiều ruộng
như nông dân miền xuôi, bên cạnh đó, cũng chưa bao giờ được mùa như nông
dân miền xuôi. Thường mỗi gia đình có không tới hai sào ruộng bậc thang
gồm nhiều thửa lẻ tẻ dọc các triền núi để trồng lúa. Và mỗi sào chỉ thu
hoạch được từ hai đến ba trăm ký lúa. Nếu được mùa, bội thu thì được ba
trăm ký.
Và với sáu trăm ký lúa, giã thành gạo còn lại được gần bốn trăm ký
gạo nếu như được mùa, mất mùa thì số lượng gạo dùng trong vòng sáu tháng
của một gia đình năm, sáu người chỉ còn chừng hai trăm ký. Trong trường
hợp thức ăn giàu dinh dưỡng thì hai trăm ký gạo vẫn có thể đắp đổi
được. Nhưng với nông dân miền núi, vấn đề dinh dưỡng vẫn còn rất xa tầm
tay, chính vì thiếu dinh dưỡng nên thay vì ăn một bát cơm, người ta phải
ăn lên hai bát, ba bát mới lấp nổi cái bụng đói.
Và cũng chính vì lẽ này, trong những ngày trời lạnh, nguy cơ thiếu
ăn, đói ăn của nhiều gia đình đồng bào thiểu số là rất cao. Trong khi
đó, mọi súc vật, gia cầm sẽ chết hàng loạt vào những ngày trời băng giá,
thay vì bán lợn, gà, vịt, ngan để mua lương khô, mì gói, người ta phải
muối thịt để ăn qua ngày nhưng cũng chẳng được mấy ngày vì thời tiết
thất thường, ngày hửng nắng, đêm tuyết rơi, tủ lạnh thì chẳng gia đình
nào có. Ngay cả cái ăn còn thiếu huống gì là tủ lạnh.
Hơn nữa, mùa giá rét, rau cải, từ su hào cho đến hoa hồng, thậm chí
măng giang đều bị chín nhũn vì tuyết lạnh. Hầu như chẳng còn gì để bán
mà tồn tại, người H.Mong, người Thái Trắng, người Dao Đỏ lại một lần nữa
mang bị, mang gậy chống ra khỏi bản để bán quà lưu niệm. Nói là bán quà
lưu niệm nhưng trên thực tế, những người này đi ăn xin một cách trá
hình.
Mặc dù rất buồn vì đồng bào của mình lại cam phận làm ăn mày trá hình
nhưng chị Miền cũng ngậm ngùi thừa nhận là không còn cách nào khác,
nhiều bà mẹ mới sinh con vài ngày cũng phải bồng con đi kiếm ăn, có
người ăn xin, cũng có người đi lượm ve chai. Tụ điểm của họ là hai con
phố sầm uất trong thị trấn Sapa, phố Fansipan và phố Cầu Mây. Ở đây, vào
cuối tuần, khi các xe rác hụ còi, những đồng bào thiểu số sẽ xúm xít
chờ người ta mang rác đi vứt để sục sạo tìm những vỏ hộp, những thức ăn
thừa và nếu may mắn thì có nhiều thứ vỏ lon vứt đi, những thứ này kiếm
được nhiều tiền hơn.
Những ngày khác trong tuần, những người mẹ lại cõng con đi lang thang
khắp các nẻo phố để kiếm ăn, nếu may mắn gặp khách du lịch thươgg tình
cho vài đồng, xem như ngày đó trúng đậm. Nhưng đáng ngại nhất vẫn là cái
lạnh, họ ăn mặc phong phanh, người lớn xám môi, trẻ em run lập cập,
riết thành quen, cái lạnh chẳng còn khiến cho người ta sợ chết mà không
dám ra đường kiếm ăn nữa.
Vết thương phẩm hạnh bị tấy đau
Một người đàn ông Dao Đỏ tên A Khương, chia sẻ:“Lạnh lắm, thường
thì khoảng 2 độ đến 5 độ, nhiều khi còn có 0 độ. Chuyện thiếu ăn thì có,
nhiều bản xa hơn ở đây còn khó hơn nữa. Chuyện thiếu ăn là chuyện
thường, chết đói thì chưa đến nối nhưng thiếu ăn thì thường xuyên. Chủ
yếu thì ăn ngô với nếp, trồng được ở ruộng bậc thang. Phải dự trữ nhưng
vẫn thiếu ăn. Đâu có đất đâu mà trồng nhiều.”
Chuyện thiếu ăn thì có, nhiều bản xa hơn ở đây còn khó hơn nữa. Chuyện thiếu ăn là chuyện thường, chết đói thì chưa đến nối nhưng thiếu ăn thì thường xuyên. Chủ yếu thì ăn ngô với nếp, trồng được ở ruộng bậc thang. Phải dự trữ nhưng vẫn thiếu ăn. Đâu có đất đâu mà trồng nhiều.
-A Khương
Theo ông A Khương, vấn đề đau lòng nhất của bà con dân tộc thiểu số
Tây Bắc, ven những vùng du lịch không phải là chuyện thiếu đói, vì thiếu
đói vốn là căn bệnh mãn tính ở đây, không cần bàn tán gì thêm nữa. Vấn
đề là lương tri, bản tính hồn nhiên đã hoàn toàn mất dấu trong tâm hồn
những đồng bào thiểu số quanh các khu du lịch. Đây là căn bệnh đáng sợ
nhất.
Nếu như các cô gái đều mang giấc mơ học giỏi tiếng Anh để làm hướng
dẫn viên và kiếm chồng Tây thì không thiếu những phụ nữ ở tuổi 40, 50 cố
tình học tiếng Anh điể tiếp cận nhưng ông Tây sồn sồn mà bán dâm. Có lẽ
chính vì thế mà khái niệm “chơi dân tộc”, “chơi mọi” được giới ăn chơi
nhắc đến khá nhiều trong thời gian gần đây. Khái niệm gia đình không còn
sâu sắc và thiêng liêng đối với nhiều phụ nữ đồng bào thiểu số nữa. Họ
bắt đầu nghĩ đến những ông chồng giàu ở xứ khác và mơ những giấc mơ đổi
đời bằng con đường lấy chồng xứ lạ.
Đây là vết thương mưng đau của đồng bào thiểu số, bởi suy cho cùng,
với họ, thứ duy nhất khiến họ yêu quí đời sống và gắn với núi rừng
thiêng liêng, bản làng thân thuộc, vượt qua mọi khổ ải chính là tính hồn
nhiên, thủy chung và nếp sống chân chất, mộc mạc giữa người với người.
Rất tiếc, chuyện ấy đang dần trở thành quá khứ, người thiểu số cũng bắt
đầu học đòi quay cuồng theo đời sống vật dục nhưng lại không có bất kì
kiến thức gì về đời sống này cũng như không có đủ những phương tiện văn
hóa căn bản nhất để theo đuổi giấc mộng hão huyền của mình.
Vô hình trung, sự thành công của ngành du lịch lại đẩy những bản làng
hồn nhiên trở nên phức tạp, giảo hoạt và tụt hậu, lún sâu vào những vấn
đề tệ hại nhất của loài người. Và điều đó nổi trội mỗi khi lượng khách
du lịch Sapa nhiều lên thất thường, mọi sự quản lý chểnh mảng, những trò
rủ rê, chèo kéo khách du lịch lại diễn ra ở các bản làng.
Suy cho cùng, nếu như băng giá làm cho ngành du lịch trở nên thịnh
vượng thì đôi khi, chính sự thịnh vượng này lại làm cho tâm hồn con
người trở nên đóng băng, đẩy những nhóm dân tộc thiểu số vào chỗ lạnh
lùng và tật nguyền vĩnh viễn. Không có gì đáng sợ hơn một sự giàu có của
người này kéo theo một nỗi tật nguyền của người khác, không có lối
thoát!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 347
Thursday, January 22, 2015
LÊ NGUYỄN * VIỆT CỘNG HÈN HẠ
Hèn là sự thật không thể loại trừ của lãnh đạo CSVN
Le Nguyen (Danlambao)
- Cuộc đấu đá tranh giành quyền lực trong nội bộ đảng nhằm vào các vị
trí lãnh đạo quyền lực tối cao của đảng, nhà nước CSVN thời a còng (@).
Xét ra lãnh đạo CSVN đã có tiến bộ “vượt bậc”, nghĩa là đấu đá nội bộ
tuy không còn quá man rợ nhưng không kém phần quyết liệt so với thời loa
đài của thời đại Hồ Chí Minh và cũng không khó để chúng ta nhận ra cái
sự man rợ lẫn không man rợ này: một là không còn cảnh đồng chí đi chiến
trường về dự đại hội đảng bị địch ném bom chết trên đường về hay trong
hội nghị được đồng chí mời cốc nước, uống vô sùi bọt mép, ngã lăn đùng
ra á khẩu chết; hai là không còn cảnh đảng viên rỉ tai, truyền tay tờ
rơi nói xấu, bôi nhọ đồng chí lãnh đạo suy thoái đạo đức lối sống hay
làm gián điệp âm mưu phản đảng, chống chế độ mà “các đồng chí lãnh đạo”
đã biết sử dụng kỹ thuật internet tung tin tố cáo, kể tội, nói xấu, xúc
phạm nhau trên các trang blog, trang mạng xã hội?...
Hiện nay theo đồn đoán trang Chân Dung Quyền Lực là phương tiện hiện đại
để các “đồng chí” lãnh đạo CSVN ra đòn hạ gục nhau. Đến thời điểm hiện
tại có nhiều phân tích, suy đoán nhưng chưa có ý kiến thống nhất về phe
nhóm, thế lực nào nằm đằng sau chỉ đạo trang Chân Dung Quyền Lực. Dù có
nhiều suy đoán khác nhau nhưng tựu trung các suy đoán đều cho là ông chủ
thật sự của Chân Dung Quyền Lực phải là một trong các phe nhóm nắm giữ
quyền lực trong nội bộ đảng CSVN và không loại trừ khả năng có liên hệ
ít nhiều đến Tàu Cộng(?)
Những thông tin nổi cộm đăng tải trên trang blog Chân Dung Quyền Lực gây
xôn xao dư luận xã hội, làm chấn động nội bộ đảng CSVN là thông tin về
tài sản khủng của gia đình các ông chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng,
phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang
Thanh... và thông tin trưởng Ban nội chính trung ương Nguyễn Bá Thanh bị
hạ độc bằng chất phóng xạ gây bệnh ung thư là nóng nhất. Trong số thông
tin mờ mờ ảo ảo khó kiểm chứng vừa kể chỉ có những kẻ trong cuộc hoặc
các ủy viên bộ chính trị nắm giữ các tài liệu thanh tra, điều tra và đặc
trách công tác an ninh nội bộ mới có xác suất phần trăm cao để xác định
thông tin trên là thật hay giả.
Dù thế nào đi nữa thì những ông ủy viên bộ chính trị có tên trong danh
sách có tài sản khủng do trang Chân Dung Quyền Lực loan tải “ghi vào sổ
bìa đen” như bị lưỡi gươm treo ngang cổ. Trò chơi này quả thâm độc, nó
có tính khủng bố tinh thần cao bởi thông tin xấu về các ông, rất có khả
năng bị “các đồng chí lãnh đạo” sử dụng làm vũ khí hạ độc thủ bất cứ lúc
nào và thông tin có tính răn đe, khủng bố cao nhất là chuyện ông Nguyễn
Bá Thanh bị hạ độc đã được đảng cộng sản chỉ đạo cho các phương tiện
truyền thông lề đảng nhập cuộc loan tin mang tính chất “mê tín, thần bí”
nhằm mục đích khủng bố tinh thần các đồng chí ủy viên bộ chính trị lẫn
ủy viên trung ương đảng chưa thần phục một phe phái nào đó nằm trong
đảng cộng sản, phải ngầm hiểu sẽ bị thịt nếu có ý chống lại thế lực ma
quỷ này!
Nhận định về việc báo lề đảng sử dụng sự kiện Nguyễn Bá Thanh bị bệnh
hết thuốc chữa để khủng bố tinh thần “đồng chí” trong cuộc đấu đá tranh
giành quyền lực là có cơ sở bởi báo lề đảng được phép đăng tin về Nguyễn
Bá Thanh nhưng không đưa tin để giải tỏa áp lực thắc mắc các đồn đoán
của dư luận xã hội về Nguyễn Bá Thanh mà các báo lề đảng lại đi tin úp
úp mở mở như thầy pháp đuổi tà, như vong nhập chỉ nghe ông Thanh nói thế
này, ông Thanh bảo thế kia nhưng không ai thấy hình ảnh của ông trên
báo chí, truyền thanh, truyền hình nào cả. Thế là thế nào, nếu không
phải đây là đòn phép khủng bố phục vụ mục tiêu chính trị của thế lực
ngầm trong nội bộ CSVN?
Xét qua lời nói, hành động giúp cho mọi người thấy nhân cách, đạo đức
của các đầu lãnh CSVN thật đáng khinh và khi thấy chúng sử dụng thủ đoạn
đánh nhau còn đáng khinh hơn nữa. Chúng đánh đấm tranh giành quyền lực
điên cuồng, chúng điên cuồng đến độ mù quáng bất kể đến sự an nguy, độc
lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc và mục đích của các phe
phái trong đảng CSVN từ trước tới nay là bằng mọi giá để nhận được sự
bảo hộ của thiên triều phương bắc, dù có phải hợp tác với quan thầy Tàu
Cộng biến Việt Nam thành một tỉnh của Tàu như Tân Cương, Tây Tạng...
chúng cũng không ngần ngại chối từ.
Quan sát từ bên ngoài quan hệ ngoại giao, giao lưu của hai đảng, hai nhà
nước Tàu - Việt và dù không nắm nhiều thông tin nội bộ đảng CSVN nhưng
không ít người dân có quan tâm đến tình hình đất nước vẫn có thể nhận ra
âm mưu thôn tính Việt Nam của Tàu Cộng, huống hồ chi những kẻ lãnh đạo
CSVN nắm giữ nhiều bí mật đã được hai bên ký kết, cam kết trên lưng dân
tộc Việt Nam của hai đảng cộng sản Tàu - Việt lại không nhân ra tham
vọng bành trướng của cộng sản Tàu?
Người Việt Nam tuy biết lãnh đạo CSVN có ngu nhưng không ai tin CSVN ngu
đến độ Tàu Cộng từng bước thực hiện kế hoạch sáp nhập Việt Nam vào Tàu
mà chúng không hay biết? Chỉ có một cách giải thích là lãnh đạo CSVN tuy
có đấu đá tranh giành quyền lực với nhau nhưng chúng có truyền thống
rất “đoàn kết, thống nhất” trong việc phản quốc, làm tay sai biến Việt
Nam thành chư hầu của Tàu.
Điển hình như “đồn đoán” lãnh đạo đảng CSVN bán nước trong Nghị Hội
Thành Đô năm 1990 qua việc “Linh, Mười, Giáp” khấu đầu xin làm vùng tự
trị của Tàu vào năm 2020, cho giống với các dân tộc anh em Mông, Mãn,
Tạng, Hồi... Cũng như hình ảnh bán nước khác, là việc lãnh đạo CSVN tự
nguyện làm ngôi sao thứ sáu trên lá cờ Tàu Cộng, được giới hữu trách đưa
cho các em thiếu niên Việt Nam cầm tay đón tiếp “hoàng đế Tập” lúc Tập
chưa là tổng bí thư kim chủ tịch nước Tàu.
Có lẽ hình ảnh cờ sáu sao trên truyền hình, trên tay các em thiếu niên
cầm đi đón tiếp Tập Cận Bình và đồn đoán về việc Nguyễn Văn Linh, Đỗ
Mười, Võ Nguyên Giáp... bán nước Việt Nam cho Tàu Cộng ở nghị hội Thành
Đô... được tuyên giáo trung ương đảng xua văn nô, bồi bút, báo nô, dư
luận viên... đổ cho các thế lực thù địch, phản động lưu vong nước ngoài
bịa đặt, vu khống đảng, nhà nước và xuyên tạc bôi nhọ, xúc phạm lãnh đạo
(?) nhưng chúng không có nổi lý lẽ nào thuyết phục, ngoài những lý luận
ngớ ngẩn rất trẻ con về lý do xuất hiện cờ sáu sao và thông tin “đồn
đoán” lãnh đạo CSVN thỏa thuận sáp nhập Việt Nam vào lãnh thổ Tàu năm
2020!
Để thấy rõ hơn hành động bán nước của CSVN qua việc giao nạp từng phần
lãnh thổ, lãnh hải và từng bước tập cho cán bộ, quan chức, đảng viên làm
quen dần với tổ chức chi bộ đảng, với cơ chế tổ chức hành chánh cấp
tỉnh trực thuộc trung ương Bắc Kinh, là việc chúng lộ liễu giao nộp Ải
Nam Quan, Thác Bản Giốc, Bãi Tục Lãm... cùng hàng vạn cây số vuông vùng
vịnh Bắc Bộ qua hiệp ước phân định, cấm mốc biên giới trá hình.
Với cách giao nộp lộ liễu của CSVN đã gặp phản ứng quyết liệt của người
dân lẫn một số cán bộ, đảng viên có thể dẫn đến sự sụp đổ của đảng, chế
độ nên chúng thay đổi cách giao nộp chủ quyền Việt Nam núp với danh
nghĩa hợp tác, hợp đồng kinh tế như khai thác bauxite Tây Nguyên, trồng
rừng đầu nguồn, đặc khu kinh tế Vũng Áng, thành phố Việt Nam của Trung
Quốc ở Bình Dương... cùng với nhiều làng mạc phố xá mọc lên trên khắp
lãnh thổ Việt Nam, chưa kể “dân Tàu, thương buôn Tàu”(?) tư do tung
hoành ngang dọc trên toàn cõi Việt Nam như chỗ không có chính quyền?
Đó là chuyện trên đất liền, còn ngoài biển đảo xa xôi người dân khó tiếp
cận sự thật và chỉ được nghe thông tin từ loa đài của đảng, nhà nước.
Sự thật chỉ được phơi ra khi người dân tiếp cận thông tin khách quan
trung thực của các cơ quan truyền thông quốc tế và qua đó người dân mới
biết được Tàu Cộng tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa phủ trùm lên quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Cũng như qua các cơ quan truyền
thông quốc tế lẫn truyền thông báo chí Tàu người dân mới biết được Tàu
Cộng tôn tạo các đảo đá ngầm, bãi hoang chim ỉa đủ tiêu chuẩn sống, làm
việc phục vụ mục tiêu dân sự lẫn quân sự, hoàn thiện cột mốc cho bản đồ
lưỡi bò chín đoạn nhằm thực hiện ý đồ độc chiếm biển đông vĩnh viễn. Thế
thì chuyện loa đài đảng ta la lối góp đá cho Trường Sa hay những lá thư
tình lãng mạn của các em gái hậu phương gởi các anh lính đảo Trường Sa
chỉ là màn kịch diễn cho vui thôi bởi các đảo còn lại trong quần đảo
Trường Sa đã nằm gọn trong bản đồ tự vẽ của Tàu Cộng.
Chuyện đến nước này rồi mà các ông bà lãnh đạo “đảng ta” rất đỗi vô tư,
hòa nhã cho là “...xích mích chuyện gia đình... vừa hợp tác vừa đấu
tranh...” chỉ là trò mỵ dân bởi ai cũng biết âm mưu của Tàu Cộng độc
chiếm biển đông làm bàn đạp tiến xuống phía nam để thể hiện sức mạnh
“trỗi dậy hòa bình” của nhà nước đại hán, có lý nào lãnh đạo đảng ta tự
hào “tài tình, sáng suốt” lại không biết (?)
Thật ra thì không phải tất cả lãnh đạo CSVN đều tham dự vào việc bán
nước cho Tàu nhưng bản chất hèn không dám lên tiếng phản kháng, chống
lại “đồng chí” của chúng bán nước thì không thể chối cãi vì đã có không
ít “đồng chí” chết bất đắc kỳ tử do không đồng tình với chủ trương,
đường lối của đảng, của đồng chí lãnh đạo. Trước kia có tướng Nguyễn
Bình, Nguyễn Chí Thanh... ngày nay có Phạm Quý Ngọ, Nguyễn bá Thanh...
như tấm gương sờ sờ ra đó làm cho chúng sợ rồi trở thành hèn.
Thế cho nên, những động thái nhằm chuẩn bị cho việc sáp nhập Việt Nam
thành một tỉnh của Tàu được các thế lực dấu mặt từng bước thực hiện đã
không gặp sự phản đối tích cực của tầng lớp lãnh đạo cấp cao đảng CSVN.
Cụ thể là những cuộc gặp gỡ, học tập, trao đổi làm quen với cung cách
làm việc trực tiếp với lãnh đạo Bắc Kinh không thông qua hoặc vai trò
rất mờ nhạt của đảng, nhà nước CSVN, chẳng hạn như:
Về mặt tổ chức đảng là trường hợp bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang
Thanh, bộ trưởng bộ công an Trần Đại Quang dẫn phái đoàn tướng tá học
tập tổ chức sinh hoạt quân đội, công an làm theo chỉ thị của Tàu và việc
chủ tịch mặt trận tổ quốc Nguyễn Thiện Nhân đưa hàng ngàn đoàn viên
thanh niên sang Tàu học tập làm theo đoàn thanh niên cộng sản Tàu là nằm
trong kế hoạch sáp nhập của Tàu Cộng.
Về mặt tổ chức nhà nước thì bộ phận lãnh đạo nguyên tắc chỉ đạo cơ bản
của Tàu luôn nhắc nhở nhà nước CSVN thúc đẩy các bộ, ngành Việt Nam hợp
tác làm việc với các bộ, ngành Tàu Cộng như là một bộ phận cấp dưới,
trực tiếp lệ thuộc, không thể tách rời của nhà nước trung ương Bắc Kinh
và những động thái học tập về mặt tổ chức nhà nước cũng không nằm ngoài
mục đích làm cho cán bộ đảng viên quen dần với tính cách một tỉnh trực
thuộc Tàu.
Qua một số sự việc liên quan đến việc của Tàu Cộng - Việt Cộng thực hiện
âm mưu biến Việt Nam thành một tỉnh của Tàu mà mọi người ai thấy cũng
kinh sợ. Thế còn biết bao nhiêu sự việc bí ẩn nằm đằng sau thỏa thuận
của hai đảng cộng sản Việt - Tàu, chính xác là văn kiện bí mật ký kết,
hứa hẹn của lãnh đạo CSVN với lãnh đạo Tàu Cộng hẳn sẽ gay cấn, rùng rợn
hơn nhiều, nhất là về việc lãnh đạo CSVN hung hăng, lạnh lùng, độc ác
với dân, với đồng chí nhưng lại cực hèn, sợ quan thầy Tàu “... chích
thuốc, cho nhiễm độc phóng xạ...” là một phần sự thật hèn không thể loại
trừ của những tên lãnh đạo đảng CSVN.
CAO ĐẮC TUẦN * GIÁO DỤC VNCH
Nền giáo dục VNCH - một kinh nghiệm bản thân
Cao-Đắc Tuấn (Danlambao) - Tóm lược:
Nền giáo dục dưới thời Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) trong hai thập
niên 1960 và 1970 nhắm vào ba mục tiêu dân tộc, khoa học và nhân
bản. Theo kinh nghiệm bản thân, các mục tiêu này được thể hiện
qua đường lối giáo dục, từ tiểu học đến trung học, khuyến
khích tự do tư tưởng, sáng tạo; duy trì đạo đức và luân lý;
phát huy tinh thần dân tộc và quê hương đồng bào; và cổ võ tinh
thần tự do dân chủ. Mối liên hệ giữa thầy cô và học sinh
thường biểu lộ tình thân mật và quý mến lẫn nhau và dựa vào
căn bản đạo đức.
*
Đã có nhiều bài viết về nền giáo dục thời VNCH. Đặc biệt,
Huỳnh Minh Tú biên soạn một bài rất công phu về toàn diện nền
giáo dục VNCH (Huỳnh 2013). Độc giả nên đọc bài của Huỳnh Minh
Tú để hiểu rõ thêm về cơ cấu, tổ chức, chương trình học, và
các điểm liên quan khác. Trong bài này, tôi viết về kinh nghiệm
cá nhân qua những mẩu chuyện vụn vặt khi tôi học trong thời Đệ
Nhất Cộng Hòa (tiểu học) và Đệ Nhị Cộng Hòa (tiểu học và
trung học).
Có bốn điểm tôi cần phải nêu ra: (1) Bài này chỉ nói về kinh
nghiệm bản thân với những mẩu chuyện và nhận xét cá nhân và
không có tính chất tổng quát, và do đó không phản ảnh toàn
diện cho nền giáo dục thời VNCH; (2) Tôi ghi lại dựa vào trí
nhớ về quá khứ xa xưa, từ hơn 40 cho tới 50 năm, nên chắc chắn
có nhiều thiếu sót hoặc không chính xác tuyệt đối; (3) Những
gì tôi ghi nhận trong bài này xảy ra vào thập niên 1960 và 1970,
cách đây hơn bốn năm chục năm; do đó, mọi so sánh thời bấy giờ
với hiện tại đều không cân xứng; và (4) Tôi cố cho những chi
tiết rõ rệt và cụ thể nhưng vì lý do tôn trọng những khía
cạnh tế nhị, riêng tư, liên hệ nhiều người khác nên tôi chỉ cho
biết một cách khái quát. Tuy nhiên, tôi tin là những mẩu
chuyện, giai thoại, nhận xét, và cảm nghĩ của tôi phản ảnh
trung thực phần nào nền giáo dục tôi hấp thụ trong thời VNCH
trong những năm tiểu học và trung học.
Theo Hiến Pháp VNCH 1967, Điều 10 quy định: "Nền giáo dục Đại Học được tự trị"
(Wikisource 2012). Tự trị trong Đại Học có nghĩa là Đại Học
không ở dưới sự quản trị của chính phủ (Bộ Quốc Gia Giáo
Dục), mà được độc lập quản trị bởi thành phần giáo sư của
trường. Điều 11 quy định: "Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản" (Wikisource
2012). Căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản được thể hiện rõ rệt
nhất trong giáo dục tiểu học và trung học.
Trường tiểu học và trung học mà tôi theo học là trường công,
nằm trong vùng quanh Sài Gòn. Học sinh toàn là nam, và đa số
thuộc gia đình nghèo hoặc trung lưu. Cả hai trường không lớn mà
cũng không nhỏ về số học sinh, có lẽ thuộc vào hàng trung
bình trong các trường tại Sài Gòn và vùng phụ cận bấy giờ.
Một cách tổng quát, tôi được dậy dỗ một cách chu đáo trong
một môi trường tự do, giúp tôi phát triển trí tuệ, khả năng lý
luận và suy nghĩ, đạo đức, và tinh thần tự do dân chủ.
A. Tôi được hấp thụ một nền giáo dục khuyến khích tự do tư tưởng và sáng tạo:
Một trong những điểm đặc sắc nhất mà tôi ghi nhớ trong lúc đi
học là không hề có sự cấm cản tự do tư tưởng, nếu không muốn
nói là có sự khuyến khích. Lúc ấy còn nhỏ, tôi không biết đó
là một khía cạnh tốt đẹp nhất trong nền giáo dục trẻ em.
Trong suốt hơn mười năm học tiểu học và trung học, tôi chưa hề
thấy hoặc nghe nói đến thầy cô nào cấm đoán hoặc chỉ trích
học trò phát biểu ý kiến riêng tư. Thực ra, các thầy cô còn
làm ngược lại, là khuyến khích chúng tôi bày tỏ ý tưởng hoặc
đưa ra những sáng kiến.
1. Sự khuyến khích tự do phát biểu tư tưởng, dùng đầu óc
suy luận, và duy trì bản chất trung thực có ngay từ lớp ba
tiểu học:
Một mẩu chuyện mà tôi nhớ mãi xảy ra vào năm tôi học lớp ba
(lớp 3 bây giờ) tiểu học. Thầy tôi thường hay kể chuyện sau khi
dạy xong bài. Thầy kể chuyện rất hay, mỗi lần thầy kể chuyện
là cả lũ chúng tôi cứ há hốc mồm lắng tai nghe. Các câu
chuyện thầy kể thường là về cách cư xử, sử ký, địa lý, và
các chuyện cổ tích thật hay. Một hôm, thầy kể về cuộc nổi
dậy của Hai Bà Trưng. Tôi không nhớ lúc đó lớp ba có học sử
ký về Hai Bà Trưng không, nhưng chỉ biết là lúc ấy chúng tôi
say mê nghe câu chuyện. Thầy kể Trưng Trắc vì thù chồng bị Tô
Định giết mà cùng em lãnh đạo hàng ngàn người đánh đuổi Tô
Định rồi thừa thế lan tràn khắp nơi chiếm 65 thành trì. Khi
nghe tới đó, tôi, lúc bấy giờ là một thằng nhãi con 7-8 tuổi
nhưng cũng có chút suy nghĩ, phát biểu ý kiến, "Chắc Hai Bà
có ý đánh Tàu trước rồi làm bộ kiếm cớ trả thù chồng, chứ
làm sao mà dân theo hai bà đông vậy." Lúc bấy giờ, tôi không
biết sự khác biệt giữa nguyên do của cuộc nổi dậy vì trả thù
chồng và vì đánh đuổi Tàu rất là tinh tế và cũng rất là
quan trọng. Nhưng hẳn nhiên là thầy biết. Tôi vẫn còn nhớ rõ
khi nghe câu tôi nói, ông nhìn tôi chằm chằm một lúc. Tôi không
hiểu tại sao thầy nhìn tôi lâu vậy, chắc ông tưởng tôi sửa sai
ông. Sau đó, thầy gật gù nói, "Chắc con nói đúng. Thầy chỉ kể
theo sách vở, nhưng sách vở cũng có khi sai." Rồi ông quay qua
nói cả lớp, "Các con đi học phải biết xài cái đầu để suy
nghĩ." Tôi vẫn nhớ hình ảnh thầy lấy ngón tay chỉ vào đầu mà
nói đi nói lại, "Phải biết xài cái đầu." Sau này, khi có dịp
tìm hiểu về chuyện Hai Bà Trưng, quả thật có chứng cớ lịch
sử cho thấy khi Hai Bà khởi nghĩa, chồng bà Trưng Trắc (tên là
Thi, không phải là Thi Sách) vẫn còn sống (Cao-Đắc 2014, 336).
Các sử gia bấy giờ, vẫn còn có ý tưởng trọng nam khinh nữ,
không muốn, hoặc không nghĩ là Hai Bà nổi dậy với ý chính là
đánh đuổi Tàu, mà quy gán là vì trả thù chồng bị giết. Điểm
quan trọng là thầy tôi không la tôi là con nít nói tầm bậy, mà
lại còn tôn trọng ý kiến của tôi. Ngoài ra, thầy còn dùng đó
để khuyên học trò là phải biết dùng đầu óc để suy nghĩ về
các câu chuyện lịch sử và đừng có mù quáng tin tưởng vào
sách vở. Nên nhớ lúc đó tôi đang học lớp ba tiểu học.
Năm lớp ba tiểu học, tôi đã được khuyến khích tự do phát huy tư
tưởng và không nên tin vào sách vở một cách mù quáng mà phải
biết dùng đầu óc để suy luận.
Một điểm đặc biệt trong lối dạy của thầy là ông đối xử chúng
tôi như những cá nhân có bản chất trung thực, lương thiện. Thầy
không bao giờ nghi ngờ chúng tôi nói láo, gian lận, hoặc chối
tội. Thí dụ có đứa đi học trễ hoặc quên bài, ông hỏi lý do,
và lúc nào cũng tin lời học trò. Ông không căn vặn, hoạnh họe,
hoặc hỏi thêm, cho dù lý do nghe hơi khó tin. Việc này được
thể hiện cụ thể qua kiểu thầy ghi điểm vào sổ như sau. Thỉnh
thoảng, ông khảo bài học trò. Lối khảo bài của ông khác hẳn
các thầy cô sau này tôi học. Thay vì gọi từng đứa lên đứng bên
cạnh bàn, ông đi xuống chỗ ngồi đám học trò, và đảo qua một
vòng. Ông lấy quyển vở học trò, hỏi bài và ghi điểm vào vở,
có lúc có lời phê, có lúc không. Tôi không nhớ là thầy khảo
bài cả lớp hay chỉ một số, nhưng hình như cả lớp, vì sau đó
ông trở về bàn và gọi tên từng đứa để ghi vào sổ điểm. Thầy
không hề thắc mắc hoặc lo sợ học trò nói sai điểm, và ghi
xuống điểm học trò nói. Một cách kỳ lạ, không có đứa nào
nói sai điểm. Trong suốt cả năm học, có cả hàng mấy chục lần
ghi điểm như vậy, chúng tôi biết là nếu muốn gian lận nói điểm
cao hơn, thầy cũng chẳng biết. Nhưng không đứa nào nói sai điểm
cho cao hơn. Làm sao tôi biết chuyện đó? Tôi không biết chắc
100%, nhưng chúng tôi thường coi điểm lẫn nhau, và tôi biết những
đứa quanh tôi không nói sai dù điểm tụi nó rất tệ (chỉ có 2-3
trên 10 điểm). Tôi không nghe đứa nào kiện cáo bạn mình nói sai
điểm. Hình như sự trung thực tiềm tàng trong mỗi đứa nên không
đứa nào nghĩ đến chuyện gian lận. Lúc bấy giờ, tôi cũng chẳng
suy nghĩ gì về chuyện đó và coi nó bình thường, không có gì
đáng nói. Nhưng sau này khi nghĩ lại, tôi thật cảm phục cách
đối xử đó.
Chúng tôi là những đứa bé lương thiện vì thầy đối xử chúng tôi như những người lương thiện.
2. Trong những năm trung học, chúng tôi luôn luôn được khuyến khích tự do phát huy sáng tạo:
Khi lên trung học, cái tinh thần tôn trọng học sinh và khuyến
khích tự do tư tưởng đó vẫn tiếp tục, với một mức độ rõ rệt
và mạnh mẽ hơn. Tôi không nghĩ là Bộ Quốc Gia Giáo Dục đặt ra
quy chế rõ rệt về chuyện đó, mà cái tinh thần đó đã tiềm
tàng trong xã hội bấy giờ. Hoặc cũng có thể thầy cô hấp thụ
tinh thần đó trong lúc học trường sư phạm, và áp dụng một
cách tự phát trong lúc hành nghề.
Năm Đệ Thất (lớp 6 bây giờ) là năm mới lạ với tôi, vì tôi có
nhiều bạn và có nhiều thầy cô, mỗi người dạy một môn. Thông
thường mỗi thầy cô dạy một kiểu, và ít khi giống nhau. Chúng
tôi học hỏi những đề tài học vấn, nhưng nhiều khi cũng qua
cách thức cư xử đạo đức và đường lối làm việc khoa học của
các thầy cô. Chính những sắc thái khác biệt của các lối dạy
đó tạo cho chúng tôi có khái niệm tự do. Ngoài ra, thầy cô lúc
nào cũng trực tiếp và gián tiếp khuyến khích chúng tôi phát
huy tinh thần tự do sáng tạo trong việc học hành. Vài thí dụ
là thầy cô đều khuyến khích khi tôi có những sáng kiến hoặc
làm những chuyện khác lạ không theo bài dạy, như vẽ biểu đồ
cho dễ học cho các sự kiện lịch sử, dùng mẩu đối thoại là
nhập đề trong bài luận văn, tìm tòi và cắt dán hình ảnh thú
vật trong các tạp chí Tây phương cho môn vạn vật.
Ngay ở năm Đệ Thất, tôi đã được khuyến khích tự do sáng tạo,
khiến tôi yêu tiếng Việt và quý sự tự do diễn tả ý tưởng, và
tự do tìm tòi và nghiên cứu.
3. Những buổi thuyết trình trong lớp và toàn trường cho
chúng tôi tự do tư tưởng và giúp phát huy khả năng tìm tòi, suy
luận, và tinh thần cư xử trưởng thành:
Trong năm lớp Đệ Ngũ (lớp 8 bây giờ), trường phát động chương
trình thuyết trình. Chương trình này nhằm giúp học sinh phát
huy kh̉ả năng nghiên cứu, bình luận, lý luận, ăn nói trước công
chúng, và quan trọng nhất là tạo cơ hội cho học sinh phát biểu
ý kiến tự do. Tôi không rõ chương trình này chỉ áp dụng cho
lớp Đệ Ngũ, hay chỉ xảy ra trong niên khóa đó, vì các năm kế
tiếp không còn chương trình này nữa. Ngoài ra, tôi không rõ đây
có phải là một chương trình đưa ra từ Bộ Quốc Gia Giáo Dục hay
chỉ là sáng kiến của hội đồng giáo sư trường tôi. Bây giờ
nghĩ lại, tôi thật không ngờ lúc bấy giờ, vào cuối thập niên
1960, nước VNCH lại có thể có một chương trình giáo dục đầy
sáng tạo và cách mạng như vậy.
Đại khái chương trình đó hoạt động như sau. Thỉnh thoảng, thầy
cô cho học sinh tình nguyện làm "giáo sư," thuyết trình về đề
tài mà giáo sư giảng dạy. Nếu có nhiều người tình nguyện thì
thầy cô sẽ chọn một người, hoặc chia đề tài ra phân phối cho
mỗi người một phần. Nếu không có ai tình nguyện, thì giáo sư
sẽ giảng bài như thường lệ. Mỗi thuyết trình viên có một tuần
để chuẩn bị. Anh ta phải tự tìm tòi, nghiên cứu về đề tài
đó, tham khảo vị giáo sư đang dạy nếu cần. Anh thuyết trình
viên phải nghiên cứu đề tài thật kỹ lưỡng và chuẩn bị cho mọi
câu hỏi, "bồ tèo" hay "thù địch." Tới ngày thuyết trình, anh
thuyết trình viên sẽ đứng trên bục giảng và giảng về đề tài.
Sau bài giảng, học sinh trong lớp sẽ có dịp "quay" thuyết trình
viên, hỏi đủ mọi câu hỏi về đề tài đó. Chương trình đó chỉ
áp dụng cho vài môn mà phương pháp thuyết trình có hiệu quả.
Tôi nhớ chắc chắn có hai môn là Việt văn và Vạn vật, và có
khoảng cả chục lần thuyết trình như vậy.
Bạn sẽ tự hỏi làm sao mà một thằng nhóc 14-15 tuổi biết gì
về văn chương, cách hành văn và ý nghĩa của các truyện, hoặc
địa chất học và cấu trúc đá mà giảng bài về đề tài đó?
Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết được sức mạnh của tự do và sáng
tạo khi học sinh được cho phép tìm tòi nghiên cứu độc lập.
Chính tôi cũng không hiểu tại sao các thuyết trình viên làm
được chuyện đó. Không những thế, nhiều thuyết trình viên giảng
bài còn hay hơn cả thầy cô. Học sinh thường chăm chú nghe bạn
mình thuyết trình hơn là nghe lời thầy giảng.
Phần hỏi đáp là phần cao đỉnh của buổi thuyết trình. Thông
thường, khi thầy cô giảng bài, chúng tôi ít khi giơ tay hỏi.
Nhưng khi bạn mình lên giảng bài thì chúng tôi được dịp "quay"
thuyết trình viên túi bụi, y hệt như những tranh luận trong các
diễn đàn trên Internet bây giờ. Cũng có lúc thuyết trình viên
"bí" thì có các bạn "cứu bồ" hoặc thầy cô ra tay. Phần hỏi
đáp, nhất là trong môn Việt văn, kéo dài hơn nửa tiếng, nhiều
khi hết cả giờ, phải tiếp tục kỳ sau. Điểm độc đáo nhất là
thầy cô thường đứng ngoài cuộc tranh cãi, và để chúng tôi tự
do phát biểu ý kiến, và chỉ can thiệp khi các câu hỏi ra ngoài
đề hoặc cuộc tranh cãi trở nên gay go, hoặc khi thuyết trình
viên tự động "cầu cứu." Một điểm kỳ lạ nữa là chúng tôi
thường "mày tao chi tớ" với nhau trong cuộc nói chuyện hàng
ngày, nhưng trong cuộc hỏi đáp hoặc tranh cãi trong buổi thuyết
trình, chúng tôi cư xử với nhau rất nhã nhặn và lịch sự.
Tuy chương trình thuyết trình không còn tiếp tục trong lớp trong
những năm sau, một chương trình thuyết trình đặc biệt được tổ
chức ở phạm vi cao và rộng rãi hơn trong một niên khóa sau đó.
Năm tôi học Đệ Tam (lớp 10 bây giờ), khối Học Tập toàn trường
tổ chức các buổi thuyết trình trên mọi đề tài, không nhất
thiết dính líu đến đề tài học trong lớp, và bất cứ học sinh
nào, từ các em Đệ Thất tới các anh Đệ Nhất (lớp 12 bây giờ),
cũng có thể tham dự là thuyết trình viên hoặc chỉ là người
tham dự. Chúng tôi có một vị giáo sư hướng dẫn. Nhiệm vụ vị
giáo sư hướng dẫn là duyệt xét nội dung đề tài và thời giờ
và địa điểm của các buổi thuyết trình. Mọi đề tài nộp lên
đều được chấp thuận. Các đề tài gồm có đề tài về triết lý,
sử ký, khoa học, và xã hội. Thuyết trình viên có khoảng 20-30
phút nói về đề tài mình, vả sau đó là phần hỏi đáp và
thảo luận.
Điểm nổi bật của các buổi thuyết trình này là không hề có
sự tham dự, kiểm soát hay giám thị của nhà trường. Nhà trường
để chúng tôi tự do tổ chức, tự do chọn đề tài (với sự chấp
thuận của vị giáo sư hướng dẫn), tự do chọn thuyết trình viên,
tự do kêu gọi học sinh tham gia, tự do đi xin sách vở từ các
tiệm sách để làm phần thưởng cho các thuyết trình viên. Chúng
tôi có toàn quyền thảo luận và phát biểu ý kiến trong các
buổi thuyết trình. Bạn nên nhớ lúc bấy giờ phong trào biểu
tình của sinh viên học sinh chống chính phủ đang rầm rộ trên
đường phố. Các dân biểu của phe đối lập đang hô hào xuống
đường. Nhưng chính phủ không hề can thiệp vào các sinh hoạt học
sinh trong trường. Nhà trường tin tưởng chúng tôi, thầy cô tin
tưởng chúng tôi, và để chúng tôi tự do hội họp thuyết trình.
Nhà trường đối xử chúng tôi như những người trưởng thành, và
do đó chúng tôi cư xử như những người trưởng thành. Chúng tôi
hành xử rất có trật tự và lịch sự mặc dù không có thầy cô
giám thị hiện diện. Có những lúc tranh cãi gay go, nhưng chúng
tôi vẫn lễ độ với nhau, và trao đổi ý kiến một cách nhã
nhặn.
Những hoạt động thuyết trình trong lớp năm Đệ Ngũ và toàn
trường năm Đệ Tam nhắm vào các đề tài học đường. Nhưng thu
thập kiến thức học hành chỉ là một trong nhiều thành quả.
Xung quanh thành quả học tập này là các thành quả phụ thuộc
nhưng quan trọng trong việc hun đúc chúng tôi trở thành những
công dân hữu ích cho xã hội. Các thành quả phụ thuộc này dựa
vào một căn bản tối thượng: tự do. Chính cái tinh thần tự do
tiềm tàng trong xã hội và học đường bấy giờ khiến chúng tôi
phát huy sáng tạo, khả năng tìm tòi nghiên cứu và lý luận, và
tinh thần nhã nhặn, lịch sự, tôn trọng lẫn nhau. Một hậu quả
tinh tế nhưng sâu đậm của những hoạt động thuyết trình này là
tạo cho chúng tôi niềm tự tin và lòng can đảm. Khi không bị kềm
chế trong tư tưởng, con người thường biểu lộ những cái hay và
tốt đẹp nhất.
Chúng tôi được đối xử với đầy đủ mọi quyền con người, ngay từ
lúc còn bé trong học đường, và được hưởng tự do hoàn toàn
trong tư tưởng và sáng tạo. Cái tinh thần tự do đó là một
trong nhiều khía cạnh nhân bản của nền giáo dục VNCH.
B. Các sinh hoạt học sinh biểu lộ tinh thần dân tộc và tự do dân chủ cao độ:
Sinh hoạt học sinh là những hoạt động do học sinh làm, có thể
tự phát hoặc dưới sự hướng dẫn của nhà trường. Ở tiểu học,
theo như tôi nhớ, hầu như không có sinh hoạt học trò, ngoại trừ
các buổi văn nghệ vào dịp phát phần thưởng cuối năm. Trên trung
học, chúng tôi có nhiều sinh hoạt học sinh ngoài chuyện học,
như làm việc xã hội, văn nghệ, báo chí. Những việc này được
thực hiện qua ban đại diện học sinh trong lớp và toàn trường.
1. Tinh thần dân tộc và thương yêu đồng bào được thể hiện từ tiểu học đến trung học:
Năm lớp Nhất (lớp 5 bây giờ), lễ ra trường và phát phần thưởng
được tổ chức tại một cơ sở hành chánh địa phương. Cuộc trình
diễn văn nghệ là phần sáng chói trong buổi lễ. Tôi nhớ rất
rõ cuộc trình diễn đó vì đứa hàng xóm nằm trong toán diễn
viên nên hắn ta tập dượt nghêu ngao hát cả ngày. Màn trình diễn
là ca kịch "Hội Nghị Diên Hồng" với bài hát "Hội Nghị Diên Hồng." Anh chàng diễn viên chính, đóng vai Trần Hoàng (Trần Thánh Tông), hát thật oai, "Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến. Hận thù đằng đằng, biên thùy rung chuyển."
Tôi còn nhớ đám nhóc mặc khăn đóng áo dài sặc sỡ và hóa
trang là bô lão. Đứa hàng xóm nhà tôi đeo bộ râu đáng ghét.
Đám nhóc xếp hàng đi ra sân khấu với gậy chống, đập đập xuống
sàn sân khấu theo nhịp hát "Kìa vừng hồng, tràn lan trên đỉnh núi." Lúc bấy giờ, tôi không hiểu tại sao nhà trường chọn ca kịch "Hội Nghị Diên Hồng"
cho buổi lễ phát phần thưởng, nhưng cuộc trình diễn tạo một
ấn tượng sâu sắc và lâu dài trong tâm trí tôi, nhất là lúc đám
nhóc bô lão la lớn "Quyế̉t chiến" khi diễn viên chính hỏi "Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến?" và "Hy sinh" cho câu hỏi "Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh?"
Tinh thần dân tộc đã nảy mầm trong tâm trí tôi trong những năm
tiểu học với hình ảnh Hai Bà Trưng và Hội Nghị Diên Hồng.
Tinh thần dân tộc không những thể hiện qua những quý trọng lịch
sử mà còn thể hiện qua mọi hình thức của tình thương yêu
đồng bào. Như sẽ đươc̣ trình bày sau, ở trung học, học sinh có
ban đại diện mỗi lớp và toàn trường. Đây không phải là những
ban đại diện bù nhìn hoặc là công cụ của nhà trường, mà các
đại diện học sinh thực sự hoạt động cho học sinh. Một trong
những ban đại diện là ban xã hội. Ban này chuyên môn làm những
chuyện xã hội, tình nguyện cho các công tác cộng đồng, tham gia
các hoạt động từ thiện. Nhà trường chỉ cung cấp giáo sư
hướng dẫn và các giúp đỡ hành chánh, như viết giấy giới
thiệu hoặc xin phép. Một hoạt động xã hội hầu như xảy ra hàng
năm là quyên tiền trợ giúp đồng bào lụt lội miền Trung. Các
lớp tham gia tích cực đóng góp và có sự ganh đua trong việc
thâu tiền. Các trưởng ban xã hội làm việc tích cực, hô hào anh
em trong lớp đóng góp. Anh trưởng ban lớp tôi ăn nói rất hay và
lớp tôi hầu như năm nào cũng đóng góp khá cao.
Năm Đệ Tam, có vụ Cam Bốt "cáp duồn" người Việt Nam sống tại
Cam Bốt. Hàng trăm ngàn người Việt Nam phải rời Cam Bốt về
Việt Nam sống trong các trại tị nạn. Khối xã hội toàn trường
phát động phong trào giúp người tị nạn. Theo tôi biết, phong
trào này do học sinh phát động và không do chỉ thị của nhà
trường. Chúng tôi hưởng ứng tích cực và cả trăm học sinh đi
tới các khu đất tị nạn và giúp dựng lều trại. Tôi nhớ tôi
cuốc đấ̃t cả buổi đến độ đau nhức cả hai tay. Lúc ấy, khái
niệm "bầu ơi thương lấy bí cùng" hình như không rõ rệt trong tâm
trí chúng tôi vì chúng tôi coi chuyện đó là chuyện tự nhiên,
như là chuyện người trong gia đình mình bị hoạn nạn và mình
có bổn phận giúp đỡ mà không phải suy nghĩ đắn đo.
Suy tôn lãnh tụ là chuyện không xảy ra trong nền giáo dục VNCH.
Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà, khi tôi còn học tiểu học, chương
trình phát thanh thường phát thanh bài hát ca ngợi Tổng thống
Ngô Đình Diệm, nhưng chuyện đó không xảy ra trong học đường.
Thời Đệ Nhị Cộng Hòa lại càng không có chuyện suy tôn bất cứ
một ai. Một cách kỳ lạ, tuy Hoa Kỳ giúp đỡ miền Nam Việt Nam
rất nhiều, chúng tôi không hề có bài học hoặc lời lẽ ca ngợi
Hoa Kỳ, hoặc học hỏi về kinh tế tư bản trong học đường, ngoại
trừ những sự kiện có thật về sử ký địa lý thế giới. Chúng
tôi học về Hoa Kỳ như học về các quốc gia khác trên thế giới.
2. Tinh thần tự do dân chủ thể hiện qua các cuộc bầu cử
ban đại diện học sinh và các hoạt động của ban đại diện:
Sinh hoạt học sinh khởi sự bằng cuộc bầu cử ban đại diện. Mỗi
lớp có trưởng lớp, phó trưởng lớp, và các trưởng ban. Toàn
trường có Tổng thư ký, phó tổng thư ký, và các trưởng khối
tương ứng với các trưởng ban. Chúng tôi rất khoái bầu cử vì
không phải học trong lúc bầu cử và anh em có dịp cãi cọ tranh
luận.
Thông thường, các ban trong mỗi lớp gồm có: học tập, kỷ luật,
xã hội, văn nghệ khánh tiết, và báo chí. Trong lớp tôi, các
cuộc bầu cử trong mọi niên khóa xảy ra dựa hoàn toàn trên căn
bản dân chủ. Ai cũng có thể ứng cử và ai cũng có thể đề cứ
bất cứ người nào. Ai được nhiều phiếu nhất là thắng, bất kể
anh ta thuộc thành phần gì. Thực ra, đa số kết quả không ngạc
nhiên lắm và những ai đắc cử xứng đáng với chức vụ mình. Năm
Đệ Thất, vì mới lạ nên chúng tôi không biết ai vào ai. Có anh
chàng bự con nhất ra ứng cử trưởng lớp và được đắc cử. Té ra
anh chàng này chẳng làm gì nên chuyện, nên gần cuối năm chúng
tôi đòi bầu lại (re-call) và bầu một trưởng lớp khác xứng
đáng hơn. Năm Đệ Nhị (lớp 11 bây giờ), có chuyện tức cười là
anh chàng phá phách nhất lớp lại được bầu làm trưởng ban kỷ
luật. Thầy cô bực lắm, nhưng chẳng biết làm sao, vì đó là ý
"dân."
Ly kỳ nhất là cuộc bầu cử ban đại diện toàn trường, nhất là
cho chức Tổng thư ký và phó Tổng thư ký. Tới ngày bầu cử,
các "cử tri" (trưởng lớp và phó trưởng lớp) và các ứng cử
viên tụ họp trong một lớp học trống. Thầy cô hướng dẫn thường
hiện diện để giám sát cuộc bầu cử. Mỗi liên danh có độ 10-15
phút nói về lý do ứng cử và những hoạt động hoặc chương
trình họ muốn thực hiện cho học sinh. Sau đó là cuộc bỏ phiếu
kín. Kết quả được công bố ngay sau đó. Hình thức bầu cử này
cũng áp dụng cho các trưởng khối. Tôi thấy ai có tài ăn nói
và có những kế hoạch hoặc chương trình thực tế là đắc cử.
Bạn sẽ thắc mắc có lợi gì làm Tổng thư ký, trưởng khối,
trưởng lớp hoặc trưởng ban. Trên thực tế, chẳng có lợi lộc gì
cả, nếu không muốn nói là mất thì giờ. Nhưng chúng tôi rất
thích những hoạt động đó vì những hoạt động đó giúp chúng
tôi đóng góp vào sinh hoạt học đường ngoài việc học hành.
Cũng có một chút lợi nhỏ là chúng tôi có dịp tiếp xúc với
xã hội bên ngoài như các công tác từ thiện, giao tiếp thư viện
nhà sách, nhà in trong việc làm báo. Ngoài ra, các trưởng lớp
và trưởng ban thỉnh thoảng được phép ra khỏi lớp để đi họp,
và cũng là dịp xả hơi như là một hình thức "cúp cua" hợp
pháp.
Có lẽ một trong những lợi lộc lớn nhất là các đại diện
trường có dịp tiếp xúc với các đại diện trường bạn, nhất là
các trường nữ. Một hoạt động rầm rộ trong năm là làm báo
Xuân, và mang báo đi bán ở các trường bạn. Mỗi năm, vào dịp
Tết, chúng tôi tích cực làm việc cho ra giai phẩm Xuân cho
trường. Đây l̀à lúc các trưởng ban báo chí bận rộn nhất. Họ
hô hào cổ võ học sinh viết bài, đọc bài, và lựa bài cho đăng
vào giai phẩm. Chúng tôi có khá nhiều tự do trong việc làm giai
phẩm Xuân. Chúng tôi tự do chọn bài, vẽ minh họa, trang trí tờ
bìa. Giáo sư hướng dẫn thường duyệt xét bản thảo cuối cùng,
và thường là chấp thuận. Ngoài chuyện mang báo đến các trường
bạn, ban đại diện trường còn phải tiếp đón trả lễ khi các
đại diện trường bạn đến. Đó là dịp chúng tôi tiếp xúc và
làm quen các nữ sinh trường bạn.
Các hoạt động học sinh và ban đại diện cho chúng tôi cơ hội
hiểu biết và thực hiện thể chế tự do dân chủ. Nền giáo dục
VNCH đào tạo những công dân yêu chuộng tự do dân chủ qua những
hoạt động học đường và bầu cử ban đại diện học sinh.
C. Liên hệ giữa thầy cô và học sinh dựa vào căn bản đạo đức và không hề có những vụ tai tiếng:
Trong suốt thời gian sống dưới thời VNCH, tôi không hề nghe hoặc
đọc về một vụ tai tiếng nào trong ngành giáo dục, liên hệ đến
thầy cô, tiểu học hay trung học. Theo trí nhớ tôi, tôi không hề
biết đến tai tiếng tình dục, sách nhiễu hoặc gây khó dễ, đánh
nhau, tranh giành, hối lộ, đút lót, gian lận thi cử, yếu kém
khả năng, hoặc bất cứ chuyện gì vi phạm đến đạo đức, luân lý,
hoặc thuần phong mỹ tục. Vì là trường nam, chuyện sách nhiễu
tình dục đương nhiên không xảy ra. Cùng lắm là có vài anh chàng
"thầm yêu trộm nhớ" cô giáo trẻ đẹp nào đó. Tôi không rõ các
trường nữ thế nào, chắc cũng có những mối tình câm như vậy,
nhưng tuyệt nhiên tôi không hề biết hoặc nghe đến một vụ sách
nhiễu tình dục nào.
Ngay từ tiểu học, chúng tôi đã phải học công dân giáo dục, dạy
cách cư xử ăn nói và những giá trị đạo đức. Những bài học
thường có những câu chuyện giải thích thêm về ý nghĩa trừu
tượng trong bài học. Trên tường có treo bảng "Tiên học lễ, hậu học văn"
là lời nhắc nhở chúng tôi hàng ngày, và chúng tôi coi đó là
châm ngôn. Trên trung học, lớp công dân giáo dục tiếp tục cho tới
hết trung học đệ nhất cấp. Chương trình học bao gồm những đề
tài về đạo đức luân lý, và nghĩa vụ người công dân với xã
hội, quốc gia, và tổ quốc.
Phụ huynh tham dự rất ít trong việc giao du với thầy cô, có lẽ
vì tránh né những "áp lực" không thích hợp hoặc vì không cần
thiết vì ít khi có những chuyện phải cần đến phụ huynh dính
líu. Theo tôi biết, lương lậu thầy cô không cao lắm và chỉ đủ
sống. Trong suốt hơn mười năm mài đũng quần ở tiểu học và
trung học trong thời VNCH, tôi chưa hề nghe thầy cô nào than vãn
về cuộc sống hoặc lương lậu. Nhưng tôi biết đa số thầy cô có
cuộc sống đạm bạc qua nhà cửa, quần áo họ mặc và xe cộ họ
đi. Đa số thầy cô ăn mặc đơn giản nhưng đứng đắn. Các thầy
thường mặc áo sơ mi và quần tây. Có vài người thỉnh thoảng
thắt cà vạt hoặc mặc áo vét. Các cô luôn luôn mặc áo dài.
Màu sắc áo dài thường một màu. Thỉnh thoảng có cô xinh đẹp
mặc áo có chút thêu màu sặc sỡ, nhưng cũng chỉ có một vài
lần "chơi nổi" rồi sau đó cũng mặc áo màu sắc nhàm chán. Đa
số thầy cô đi xe đạp, xe solex, xe Honda dame, Honda 90. Có vài
người đi xe buýt hoặc xích lô. Trong suốt trung học, chỉ có một
hai thầy lái xe hơi đi dạy.
Có vài thầy cô mở lớp dạy kèm học sinh, nhưng luôn luôn là
trong dịp hè, và học phí phải chăng. Các thầy cô đó thường
không dạy khóa sau, nên không có chuyện học sinh bị áp lực đi
học để được nâng đỡ sau này. Một trong những lý do các thầy cô
không mở lớp dạy kèm học sinh trong lớp là có những trường tư
dạy hè, hoặc nhiều sinh viên học sinh nhận dạy kèm tư gia. Tôi
cũng đã từng dạy kèm tư gia cho các em học sinh để phụ thêm
vào chi phí gia đình. Có thầy mở lớp dạy kèm, nhưng nhận đủ
mọi học sinh khắp nơi chứ không phải chỉ dành cho học sinh trong
lớp hoặc trong trường. Những lớp dạy kèm này thường đông
nghẹt học trò, nhất là các lớp Toán Lý Hóa luyện thi Tú Tài
I và II.
Chuyện biếu xén, quà cáp, phong bì cho thầy cô hoàn toàn không
có, cho dù là cuối năm hoặc vào các dịp lễ như Tết Nguyên
Đán. Nên nhớ dưới thời VNCH, tệ trạng tham nhũng cũng có
nhiều, nhưng phần lớn là trong quân đội. Ngành giáo dục như thể
được cô lập tách ra chuyện tham nhũng. Tôi nghĩ chắc cũng có
những vụ gửi gấm con em, nhưng thường chỉ giới hạn vào chuyện
nhập học hoặc chuyển trường, và số đó rất ít. Theo tôi nghĩ,
có hai lý do. Thứ nhất, thầy cô thời VNCH có tinh thần đạo đức
cao và có lòng tự trọng. Họ không bao giờ làm những chuyện đi
ngược lại đạo đức và phẩm cách nhà giáo. Thứ nhì, chuyện
đút lót cũng không cần thiết hoặc vô ích, vì thầy cô cũng
chẳng làm được gì cả cho dù có muốn nhận hối lộ. Lý do đơn
giản là tinh thần tự do dân chủ tiềm tàng trong xã hội và học
đường tự động vô hiệu hóa các vụ đút lót. Không cách chi một
học sinh kém cỏi mà được điểm cao, vì có sự ganh đua giữa
học sinh và tính chất trong suốt của cơ chế học tập. Ngay cả
con cái của hiệu trưởng, giám học, giám thị, giáo sư cũng
phải học chết bỏ như mọi học sinh khác, và thầy cô cũng chẳng
ai thiên vị con cái những người này.
Hầu hết học trò rất kính trọng thầy cô và thầy cô cũng thương
yêu và quý mến học trò. Thầy trò thường đối xử với nhau thân
mật và xuề xòa. Tuy có vài thầy cô nghiêm khắc, chúng tôi
không hề có thái độ hỗn láo hoặc coi thường thầy cô. Thỉnh
thoảng có giám thị "hắc ám" thì chúng tôi thường trêu chọc,
chứ cũng ít khi gây gỗ. Tình nghĩa thầy trò thường rất thắm
thiết và thân mật, nhất là ngoài giờ học. Tôi chỉ còn nhớ
vài câu chuyện điển hình. Năm Đệ Lục (lớp 7 bây giờ) có hôm cô
giáo dạy Pháp văn bị ốm và có giáo sư dạy thế. Sau giờ học,
chúng tôi tự động hùn tiền mua quà và đến nhà thăm cô giáo.
Cô đang nằm liệt giường, nhưng cũng ráng ngồi dậy cám ơn chúng
tôi, một lũ vây quanh nhà cô. Năm Đệ Tam, thầy dạy Anh văn, sinh
ngữ phụ, mới cưới vợ, nên nghỉ vài ngày. Thế là chúng tôi
kéo nhau một đám đến nhà thầy sau giờ học tới chúc mừng. Gặp
lúc thầy và cô vợ mới cưới đang đi ra ngoài chắc sắp đi chơi
đâu. Thấy một đám học trò tới, thầy ngạc nhiên, nhưng cười
thích thú và giới thiệu cô vợ mới thiệt đẹp, và mời chúng
tôi vào nhà.
Chỉ có một trường hợp là năm tôi học Đệ Ngũ (lớp 8 bây giờ),
có vị giáo sư dạy Toán rất nghiêm khắc, và hay la mắng học
sinh. Tuy nhiên, thầy rất tôn trọng những học sinh giỏi. Thầy
dạy rất hay, giảng bài mạch lạc rõ rệt, cho nhiều thí dụ cụ
thể. Ông dạy chúng tôi lý luận vững chắc, lúc nào cũng phải
viết ra tiền đề, trình bày các bước chứng minh mạch lạc để
đưa đến kết luận. Thầy không kiên nhẫn với lối chứng minh không
đầu không đuôi. Đứa nào mà nói nhăng nói cuội là bị lườm. Đứa
nào mà "dốt hay nói chữ" là bị quạt ngay. Ông la mắng khá
nặng nề, nhưng đích đáng.
Nói đến cuộc sống học trò mà không nói đến những phá phách,
nhất là lũ học trò con trai, là cả một sự thiếu sót trầm
trọng. Câu "Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò" được thể hiện
liên tục trong suốt hơn mười năm. Tôi không thể kể hết những vụ
phá phách nghịch ngợm. Một cách tổng quát, những vụ phá
phách thường vô hại, và chỉ phản ảnh bản chất nghịch ngợm
của học trò, như là những lúc xả hơi cho bớt căng thẳng. Đa số
những vụ phá phách nhắm vào bạn bè, rất ít khi nhắm vào
thầy cô. Nếu có thì cũng chỉ là những nghịch ngợm trong giờ
học như ca hát nhảm nhí, giấu khăn lau bảng, kê lại bàn ghế,
phóng máy bay giấy trong lúc thầy giảng bài, hoặc nói chọc
ghẹo các cô giáo trẻ xinh đẹp. Thỉnh thoảng nạn nhân chúng tôi
là các giám thị, nhưng thường thì cũng không có gì tai hại
lắm, chỉ làm họ bị quê một cục trước mặt học sinh.
D. Kết Luận:
Tôi sinh trưởng và sống trong thời VNCH trong suốt tuổi niên
thiếu cho tới ngày tôi rời Việt Nam năm 1975. Trong khoảng thời
gian này, tôi không có ý thức rõ rệt về bản chất nhân bản,
khoa học, và dân tộc của nền giáo dục VNCH nhưng tôi biết tôi
hấp thụ một nền giáo dục tôn trọng con người, đề cao đạo đức,
tinh thần dân tộc và đồng bào, khuyến khích sáng tạo, tự do,
và dân chủ.
Cho đến giờ, khi nghĩ lại, tôi kinh ngạc về những khía cạnh
tốt đẹp ấy của thời VNCH. Với nền giáo dục VNCH đó, quốc gia
Việt Nam đã có thể hiện nay trở thành một siêu cường trên thế
giới với một xã hội đạo đức, trật tự, và nhân bản.
_________________________________________
Tài Liệu Tham Khảo:
1. Cao-Đắc, Tuấn. 2014. Lửa Cháy Trong Mưa. Hellgate Press, Oregon, U.S.A.
2. Huỳnh Minh Tú. 2013. Nhìn lại nền Giáo dục VNCH: Sự tiếc nuối vô bờ bến. 1-12-2013. http://tuxtini.com/2013/12/01/nhin-lai-nen-giao-duc-vnch-su-tiec-nuoi-vo-bo-ben/ (truy cập 22-1-2015).
3. Wikisource. 2012. Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967. Thay đổi chót: 26-4-2012. http://vi.wikisource.org/wiki/Hi%E1%BA%BFn_ph%C3%A1p_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_1967 (truy cập 22-1-2015).
© 2015 Cao-Đắc Tuấn
NGUYỄN ĐĂNG QUANG * PHIẾU TÍN NHIỆM
22/01/2015
Phiếu tín nhiệm, sự thật và lòng tin
Nguyễn Đăng Quang
Ngày
10/01/2015 tại Hội nghị Trung ương 10, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với các ủy viên Bộ Chính trị và Ban
Bí thư. Trước đấy, qua phương tiện thông tin đại chúng, người dân đã
được hứa là Đảng sẽ công khai kết quả phiếu tín nhiệm trong Đảng cho
nhân dân biết để nhân dân giám sát. Đến hôm nay, Hội nghị Trung ương 10
đã bế mạc được 10 ngày, nhưng không thấy Đảng thực hiện cam kết như đã
hứa. Người dân thắc mắc hỏi lẫn nhau là điều gì đã xảy ra mà Đảng phải
giấu giếm, không công bố cho nhân dân biết? Chẳng người dân nào có thể
biết được sự thật nó diễn ra như thế nào và hiện nó đang nằm ở đâu?
(Ngoại trừ số gần 200 vị ủy viên Trung ương Đảng -gồm 173 ủy viên trung
ương chính thức và 24 ủy viên dự khuyết - tham dự Hội nghị này biết mà
thôi!) Nhưng rất bất ngờ, sáng ngày 16/01/2015, một trang mạng lạ có tên
là “Chân dung Quyền lực” công bố kết quả lấy phiếu tín nhiệm đối
với BCT và BBT tại Hội nghị lần thứ 10 BCHTW Đảng khóa XI. Điều này gây
ngạc nhiên và tò mò cho không ít người! Đọc bản “Kết quả bỏ phiếu tín nhiệm Bộ Chính trị, Ban Bí thư tại Hội nghị Trung ương 10” đăng trên Blog “Chân dung Quyền lực”
sáng ngày 16/01/2015, đa số người đọc rơi vào tâm trạng phân tâm, họ
rất băn khoăn, chưa biết là nên tin hay là không nên tin, một số người
thể hiện sự thận trọng, chỉ dám “tạm thời ghi nhận như vậy”, số đông còn
lại rơi vào ở trạng thái “bán tín, bán nghi” để chờ Trung ương công bố
chính thức, dù có chậm nhưng đáng tin hơn cái anh “Chân dung Quyền lực “ này!
Cho đến hôm nay, 10 ngày đã trôi qua kể từ sau khi Hội nghị Trung ương
10 kết thúc, nhiều bạn đọc - trong đó có người viết bài này - vốn rất hy
vọng và trông chờ “sự thật” do các cơ quan ngôn luận chính thống
của Đảng và Nhà nước công bố, trở nên thất vọng! Đơn giản bởi lâu nay
hàng ngày họ chỉ trông chờ ở “sự thật” chính thống mà không được!
Còn trang mạng “Chân dung Quyền lực”
đâu có thể dễ tin vào, vì đây là một trang mạng phi chính thống, không
thuộc lề phải, nó “rất bí hiểm và đáng ngờ” mà các nhà tuyên giáo của
Đảng thường bỏ tuốt vào một rọ, được đặt tên chung là “các thế lực thù địch, chống đối Đảng và Nhà nước và thực hiện diễn biến hòa bình”!
Theo họ, bọn này sinh ra là để xuyên tạc, bịa đặt, vu khống,… nhằm gây
chia rẽ, làm phân hóa nội bộ, gieo hoang mang trong dư luận quần chúng,
làm suy giảm lòng tin (vốn đã cạn kiệt) của nhân dân đối với Đảng và chế
độ, chia rẽ khối Đại đoàn kết dân tộc, v.v… nên toàn dân phải hết sức
cảnh giác, phải kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn
thâm độc của các thế lực xấu xa này! Khi tung lên mạng “Kết quả phiếu tín nhiệm” nói trên, trang mạng “Chân dung Quyền lực” khẳng định đây là “ nguồn tin đáng tin cậy được tập hợp từ các UVTƯ Đảng vừa tham dự Hội nghi Trung ương 10”, và Ban Biên tập trang mạng này còn trưng
ra số liệu rất đầy đủ và chi tiết, kèm theo bản phân tích khá khoa học
và lời bình có vẻ rất khách quan! Một tuần lễ đã trôi qua, các cơ quan
thông tin chính thống lề phải của ta vẫn lặng im, không khẳng định và
cũng chẳng phủ nhận, cứ để trang “Chân dung Quyền lực” một mình độc chiếm sân chơi. Không chỉ đưa thông tin về kết quả lấy phiếu tín nhiệm, trang “Chân dung Quyền lực”
còn đưa thêm nhiều thông tin “có sức lôi cuốn” khác, kể cả việc đưa ra
những bằng chứng cụ thể tố cáo đích danh 3 Ủy viên BCT đang tại chức về
hành vi tiêu cực, tham nhũng, vi phạm pháp luật, v.v… Nhưng thôi, ta
chẳng nên mất thời gian đi sâu tìm hiểu xem ba chuyện đó là hư hay thực,
hãy trở lại bàn thêm về bản kết quả “Phiếu tín nhiệm” được công bố trên blog “Chân dung Quyền lực”.
Theo
thiển nghĩ của người viết bài này, có thể vụ việc sẽ dẫn đến 2 kịch bản
như sau: Kịch bản 1 như nó đang xảy ra là Đảng vẫn tiếp tục im lặng,
không công bố kết quả lấy phiếu tín nhiệm BCT và BBT tại Hội nghị Trung
ương 10 vừa rồi và cũng không phủ nhận hoặc xác nhận bản kết quả “Phiếu tín nhiệm” của trang “Chân dung Quyền lực” công
bố, vì Đảng cho rằng đây là “vấn đề nhạy cảm”, nên phải thận trọng,
cảnh giác để khỏi mắc mưu “ các thế lực thù địch”! Nếu kịch bản này vẫn
như vậy, không thay đổi lại, nghĩa là vẫn kiên quyết “giữ kín” kết quả
lấy phiếu tín nhiệm vừa qua trong Đảng, không cho nhân dân biết, thì hệ
quả đương nhiên là người dân sẽ mất lòng tin, sẽ rất thất vọng vì
họ cảm thấy là bị gạt ra bên lề! Người dân sẽ thấy mình ở một phía, còn
Đảng thì ở phía ngược lại! Xưa nay Đảng vẫn tự coi Đảng là của dân,
phụng sự mọi lợi ích của dân nhưng Đảng lại không thực hiện lời hứa với
dân, Đảng vẫn còn giấu dân thì khác nào Đảng đang ngày đẩy dân ra xa
khỏi Đảng. Nhân dân là chủ nhân ông của đất nước, họ phải biết và có
quyền được biết các vấn đề liên quan đến những người “đang nắm vận mệnh
nhân dân, vận mệnh đất nước” tức những người đang lãnh đạo họ, về các
mặt như năng lực, uy tín, phẩm chất, đạo đức, nhân cách, v.v… và ngay cả tài sản, sức khỏe hoặc bệnh tật nữa! Việc
này là hết sức bình thường ở các quốc gia dân chủ. Khi người dân bị từ
chối, không được đáp ứng, thì hệ quả tất nhiên là người dân từ chỗ do dự
hoặc nghi ngờ chưa tin vào những gì họ biết qua không gian mạng, họ sẽ
dễ dàng tin vào “những thực đơn” hàng ngày mà thế giới mạng trong đó có
trang “Chân dung Quyền lực” và các trang mạng lề trái khác thường
xuyên cung cấp cho họ! Còn kịch bản thứ hai là trong vài ngày tới, sau
khi cân nhắc kỹ các mặt lợi và hại, Đảng sẽ dũng cảm công bố kết quả lấy
phiếu tín nhiệm ở HNTƯ 10 vừa qua như TBT Nguyễn Phú Trọng đã hứa.
Nếu kết quả do Đảng công bố trùng với kết quả mà trang mạng “Chân dung Quyền lực” đưa
công khai hôm 16/01/2015 thì rõ ràng là trong trường hợp này, Đảng đã
thua – nói theo ngôn từ của bóng đá – là “thua ngay trên sân nhà”, vì
Đảng đã tự nhường trận địa truyền thông cho “các thế lực thù địch” chiếm
lĩnh! Và mọi sự lên án, kết tội trang “Chân dung Quyền lực” và “các trang mạng lề trái khác” là xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, nói xấu Đảng và Nhà nước, v.v… sẽ tự nó mất hiệu nghiệm và phản tác dụng. Đây là điều hết sức tối kỵ trong công tác truyền thông của mọi thể chế! Cùng
kết quả như nhau, nhưng việc người dân biết do Đảng chủ động thông tin
cho họ biết với việc họ biết bởi một nguồn tin phi chính thống cung cấp
cho họ biết trong khi Đảng cố tình giấu diếm, thì điều này hoàn toàn
khác nhau xa và có ý nghĩa trái ngược nhau rất nhiều! Còn nếu kết quả mà Đảng công bố lại khác với kết quả mà trang “Chân dung Quyền lực” công
bố cho người đọc biết thì vấn đề hẳn sẽ còn đi xa hơn nữa. Người viết
bài này cũng không dám tưởng tượng được là kết cục sẽ đi đến đâu và sẽ
như thế nào, lúc đó vấn đề “Sự thật nằm ở đâu” hẳn sẽ không chỉ giới hạn trong “cuộc chiến truyền thông” mà chắc chắn nó sẽ mở rộng sang các cuộc chiến khác nữa!
Vì giả thiết thứ hai này chưa xảy ra nên mọi luận bàn đều là vội vàng
và võ đoán. Xin bạn đọc cứ yên tâm chờ đợi, mọi sự hạ hồi sẽ phân giải!
N.Đ.Q.
Tác giả gửi BVN
VŨ HOÀNG * TÀU SÂN BAY TRUNG QUỐC
23/01/2015
Doanh nhân tiết lộ bí mật trong vỏ tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc
Vũ Hoàng
“Chiếc
tàu sân bay Liêu Ninh vẫn sở hữu 4 động cơ còn nguyên vẹn khi được mua
về và chuyển giao cho quân đội Trung Quốc”, người đàn ông đứng sau
thương vụ mua bán đình đám 17 năm trước tiết lộ.
-
Ông Từ Tăng Bình (phải) và cựu phó tư lệnh hải quân Trung Quốc Tô Sỹ Lương trên boong tàu Liêu Ninh. Ảnh: SCMP
Đó
là một nhiệm vụ chưa từng có. Ngay sau khi Liên Xô vừa sụp đổ, một
doanh nhân nắm trong tay lượng tiền mặt khổng lồ cùng câu chuyện về ước
mơ xây dựng casino đã khiến cả thế giới bất ngờ khi quyết định mua phần
vỏ một chiếc tàu sân bay chưa hoàn thiện của Ukraine. Con tàu mới đầu
được mua với mục đích tuyên bố là dùng để làm casino này về sau trở
thành tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc.
Lần
đầu phát biểu trước báo giới về nhiệm vụ năm xưa, doanh nhân người Hong
Kong Từ Tăng Bình đã tiết lộ một loạt chi tiết liên quan đến thương vụ
ít ai biết đến này, những dàn xếp nơi hậu trường nhằm hiện thực hóa ước
vọng sở hữu tàu sân bay bấy lâu của Bắc Kinh.
Động
cơ của chiếc tàu vẫn trong tình trạng nguyên vẹn khi Ukraine năm 1998
quyết định bán nó. Đây là một chi tiết nhạy cảm về mặt quân sự và hoàn
toàn trái ngược so với những gì Trung Quốc tuyên bố vào thời điểm đó.
"4
động cơ vẫn được phủ lớp dầu bảo vệ một cách hoàn hảo" sau khi việc
đóng tàu bị ngưng lại vào năm 1992, một tín hiệu về kỹ thuật khá hấp dẫn
đối với những quốc gia đang tìm mọi cách để hiện đại hóa đội ngũ quân
sự của mình như Trung Quốc.
Đây là lần đầu tiên
một người có liên quan tới thương vụ này công khai xác nhận các động cơ
của tàu sân bay vẫn còn khi nó được mua lại. Theo những báo cáo trước
đây, hệ thống phát điện, điện tử và vũ khí của tàu đã bị tháo dỡ tại
xưởng đóng tàu Nam Nikolayev của Ukraine trên Biển Đen trước khi ông Từ
mua nó với giá 20 triệu USD vào năm 1998.
"Khi
kỹ sư trưởng của xưởng đóng tàu đưa tôi đến phòng động cơ, tôi phát hiện
ra 4 động cơ vẫn còn mới nguyên và được phủ dầu rất cẩn thận. Một chiếc
trong số này đã có giá gốc là 20 triệu USD rồi", SCMP dẫn lời
ông Từ cho hay đồng thời thêm rằng cả 4 động cơ đều hoạt động trơn tru,
bình thường sau một đợt đại tu được hoàn thành vào năm 2011.
Cái
mà ngày nay thường gọi là tàu Liêu Ninh của Trung Quốc được đóng dựa
trên một phần thân vỏ của chiếc Varyag, tàu sân bay lớp Kuznetsov của
Liên Xô. Khi xưởng đóng tàu Biển Đen chuẩn bị hoàn thành 2/3 khối lượng
thi công thì quá trình lắp đặt tàu bị ngừng lại do Liên Xô sụp đổ. Khối
sắt thép khổng lồ trị giá nhiều triệu USD bị bỏ không cho đến khi ông
Từ, với tư cách là người môi giới cho hải quân Trung Quốc, đưa ra lời đề
nghị mua lại.
Ông Từ cho biết xưởng đóng tàu đồng ý bán bởi tình hình chính trị bất ổn khiến họ rơi vào tình trạng tài chính kiệt quệ.
"Phía Trung Quốc cố ý đưa thông tin sai về việc động cơ bị tháo dỡ để giúp ông Từ dễ dàng đàm phán hơn với xưởng đóng tàu", South China Morning Post
dẫn lời một nguồn tin thông thạo vấn đề cho hay. Truyền thông phương
Tây thời đó cũng khẳng định Mỹ đã gây sức ép buộc Ukraine phải tháo rời
mọi thiết bị lắp đặt trên chiếc tàu sân bay và chỉ bán duy nhất phần vỏ
cho khách hàng Trung Quốc.
Một đại tá nghỉ hưu
thuộc lực lượng hải quân Trung Quốc nhận định "nhiều khả năng" tàu Liêu
Ninh hiện tại vẫn sử dụng các động cơ nguyên bản của Ukraine. "Công nghệ
động cơ của Ukraine tốt hơn so với Trung Quốc", ông nói. "Theo như tôi
hiểu, hải quân sau đó đã nhờ cậy phía Ukraine giúp đỡ để khiến các động
cơ tàu sân bay, vốn bị niêm phong trong quãng thời gian dài, hoạt động
trở lại".
Việc mua lại chiếc tàu sân bay chỉ là
bước khởi đầu. Phải đến 4 năm sau người ta mới có thể kéo nó từ Ukraine
về tới bến cảng Đại Liên, thuộc tỉnh Liêu Ninh, đồng thời mất thêm 10
năm nữa để trùng tu nó.
Theo Antony Wong Dong,
nhà quan sát quân sự tại Macau, sau nhiều năm thương lượng, xưởng đóng
tàu Biển Đen của Ukraine cũng đã chuyển giao công nghệ động cơ cho công
ty tua bin Cáp Nhĩ Tân, một nhà máy chuyên sản xuất nồi hơi, tua bin và
thiết bị hơi nước của Trung Quốc.
Có những dấu
hiệu cho thấy các động cơ đã được nâng cấp. "Hệ thống đẩy nguyên bản
được thiết kế cho tàu Liêu Ninh giống với tàu sân bay lớp Kuznetsov của
Nga, với vận tốc tối đa đạt 32 hải lý/h. Tuy nhiên, tải trọng của tàu
Liêu Ninh lại nặng hơn tới 6.000 tấn. Vì thế, theo logic thì nó phải
chậm hơn", ông Wong nhận xét. "Nhưng những đợt chạy thử trên biển lại
cho thấy tốc độ lớn nhất của tàu Liêu Ninh cũng tương đương 32 hải lý/h.
Điều này cho thấy hệ thống đẩy rõ ràng đã có cải tiến".
Chiếc
tàu sân bay được đổi tên thành Liêu Ninh khi chuyển giao cho quân đội
Trung Quốc vào tháng 9/2012 và tới nay vẫn đang sử dụng cho mục đích
huấn luyện. Số cờ hiệu của nó là 16. "Bạn có biết vì sao Liêu Ninh lại
được đánh số 16 không?", ông Từ hỏi. "Đó là vì chúng tôi phải mất 16 năm
để hoàn thành mọi công việc, từ bước thỏa thuận đến tân trang lại nó".
Ông Từ (phải) và thiết kế trưởng của tàu sân bay Varyag, tại Mykolaiv, Ukraine tháng 1/1998. Ảnh: SCMP
V.H. (theo SCMP)
THE GIỚI QUANH TA
Tây Tạng: Tu viện Sakya tổ chức biểu diễn Thần Hộ pháp khiêu vũ
(PGVN)
Hôm thứ Hai, ngày
19/01/2015, quần chúng địa phương mặc trang phục và đeo mặc nạ thần Hộ
Pháp xếp hàng để chuẩn bị cho cuộc biểu diễn trước công chúng.
Hôm thứ Hai, ngày
19/01/2015, quần chúng địa phương mặc trang phục và đeo mặc nạ thần Hộ
Pháp xếp hàng để chuẩn bị cho cuộc biểu diễn trước công chúng.
Mỗi năm vào ngày 29/11 lịch Tây Tạng,
tu viện Sakya đều tổ chức biểu diễn “Thần Hộ pháp khiêu vũ”, truyền
thống lịch sử hơn 500 năm trôi qua vẫn duy trì, do các vị tăng và cư sĩ
phật tử nghệ sĩ biểu diễn, mỗi trang phục và mặt nạ với trọng lượng
50kg, Thần Cự Phúc Hộ Pháp, Thần Ngưu . . . xem rất ngoạn mục hấp dẫn.
Có những nông dân Tây Tạng họ cùng cả
gia đình mặc quốc phục mới đi hơn 70km trên đường đến tu viện Sakya để
dự Lễ hội. Những người chăn gia súc các nơi từ Lazi, Angren, Dinggye,
Gamba và các quận lân cận khác, đều kéo nhau về dự Lễ hội hơn 40.000
người.
Thích Vân Phong
MÙA THU KHẮP NƠI TRÊN THẾ GIỚI
1. Con đường Thủy sam, Hàn Quốc
Nếu bạn là fan trung thành của những bộ phim lãng mạn của xứ sở Kim chi thì hẳn bạn đã nhìn thấy con đường này trên màn ảnh. Đây chính là con đường Thủy sam nổi tiếng – một trong những con đường đẹp nhất Hàn Quốc.
Nếu bạn là fan trung thành của những bộ phim lãng mạn của xứ sở Kim chi thì hẳn bạn đã nhìn thấy con đường này trên màn ảnh. Đây chính là con đường Thủy sam nổi tiếng – một trong những con đường đẹp nhất Hàn Quốc.
Con đường này dài khoảng 8,5km, chạy dọc theo Quốc lộ 24 và là một trong những tuyến đường chạy xe phổ biến nhất ở xứ Hàn.
Con đường Thủy sam khi còn xanh mướt…
Những cây Thủy sam ở đây đã hơn 40 tuổi và cao hơn 20m. Những tán cây đan vào nhau, che chắn ánh nắng Mặt trời. Vào mùa hè, tán cây Thủy sam như cao vút hơn với màu xanh mướt.
… rực rỡ khi vào thu…
Nhưng
mùa thu mới là lúc con đường đẹp nhất, khi những cây Thủy sam bắt đầu
thay màu lá. Chúng tạo thành một con đường tuyệt đẹp và kỳ lạ khiến
người đi có cảm giác như đang đi trên con đường trong một câu chuyện cổ
tích vậy.
2. Đường cây bạch quả, Nhật Bản
Không
ồn ào như đường bạch quả (ginkgo) nổi tiếng ở Icho Namiki (Aoyama), con
đường cây bạch quả ở công viên Showa Kinen (Tachikawa) mang nét tĩnh
lặng hơn. Có lẽ vì thế mà khung cảnh ở
đây càng trở nên thơ mộng và quyến rũ.
Hai đường cây bạch quả nổi tiếng này nằm ngay lối vào của công viên, được ngăn cách giữa một con kênh nhân tạo. Vào mùa thu, hơn 100 cây bạch quả thi nhau chuyển mình thay màu lá vàng rực rỡ. Con đường ngập tràn trong sắc lá thu vàng tạo thành một bức tranh vô cùng nên thơ.
3. Đại lộ Diaoyutai, Trung
Quốc
Mùa
thu đến, đại lộ Diaoyutai Ginkgo, Bắc Kinh (Trung Quốc) lại bước vào
mùa du lịch đẹp nhất trong năm với sắc vàng kỳ diệu, lung linh, óng ả
của những hàng cây bạch quả ngàn năm tuổi.
Con đường này nằm gần Diaoyutai State Guesthouse và được mệnh danh là con đường tình yêu của thành phố Bắc Kinh. Nơi đây thu hút rất nhiều cặp tình nhân bởi vẻ đẹp thơ mộng, lãng mạn của nó.
Còn
đối với giới văn nghệ sĩ, đặc biệt là nhiếp ảnh và hội họa, Diaoyutai
lại được coi là thiên đường nghệ thuật, nơi thỏa sức sáng tạo, đem đến
nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho tâm hồn yêu nghệ thuật.
4. Đại lộ Blue
Ridge, Mỹ
Blue
Ridge Parkway là một con đường nổi tiếng về cảnh đẹp tự nhiên và được
cho là một trong những con đường đẹp nhất nước Mỹ. Tuyến đường trải dài
thơ mộng này bắt đầu ở công viên quốc gia Shenandoah, thuộc tiểu bang
Virginia kéo dài
xuống tận công viên quốc qua Great Smoky Moutains của tiểu bang North
Carolina.
Với chiều dài gần 755km, Blue Ridge Parkway được mệnh danh là “con đường xanh” bởi những tán cây xanh mượt bao phủ khắp con đường. Nhưng thực sự Blue Ridge Parkway đẹp nhất lại chính là vào mùa lá đổi màu.
Trong mùa thu, hơn 100 loài cây khác nhau trải dài theo con đường núi cùng “rủ” nhau “rực cháy” với đủ
các màu vàng, đỏ, nâu… tạo nên một bức tranh sắc thu khổng lồ ngây ngất lòng người.
5. “Con đường văn học”, Mỹ
Literary
Walk
(tạm dịch: Con đường văn học) là một con đường xinh đẹp nằm trong khuôn
viên Central Park, New York (Mỹ). Cứ mỗi mùa thu sang, Literary Walk
lại khoác lên mình một tấm áo vàng tươi tắn.
Con đường êm ái trải đầy lá vàng này là địa điểm lý tưởng nếu bạn muốn vừa thả bộ vừa ngắm cảnh. Hoặc bạn cũng có thể thư giãn ngồi trên ghế và thưởng thức một cuốn sách hay.
Literary
Walk không chỉ nổi tiếng là con đường mùa thu lãng mạn nhất nhì Central
Park mà còn nổi tiếng là khu vực đặt nhiều pho tượng các tác gia và nhà
thơ nổi tiếng thế giới như William Shakespeare, Sir Walter Scott,
Robert Burns…
6. Đại lộ Niagara, Canada
Canada
là điểm đến tuyệt vời cho những ai yêu thích mùa thu. Sắc màu ấn tượng
của rừng thu với những con đường êm ái trải đầy lá phong đỏ
có thể được tìm thấy ở tất cả những khu rừng của Canada vào tháng 9 và
tháng 10.
Thủ tướng Anh Winston Churchill trong một lần tới thăm đại lộ Niagara thuộc bang Ontario, Canada đã thốt lên rằng: “Nơi đây là con đường đẹp nhất thế giới trong một chiều Chủ nhật mùa thu”.
Chạy
men theo con sông Niagara, phân cách nước Mỹ và Canada, quả thực đại lộ
Niagara chính là con đường đẹp nhất Canada trong sắc thu thơ mộng với
rừng cây lá đỏ tuyệt đẹp. Dọc theo đại lộ, bạn cũng có thể ghé vào thị
trấn nhỏ
Queenston để thưởng thức thứ rượu Niagara thơm nức như mùi nhựa thông.
7. Đường phố ở Vancouver, Canada
Miền
Đông Canada thường được nói đến nhiều nhất nếu bạn muốn khám phá các
màu sắc mùa thu ở đất nước có biểu tượng lá phong này. Nhưng thậm chí
nếu bạn đang ở một vùng khác, bạn vẫn có thể tận hưởng cảm giác tuyệt
vời này. Vancouver là một ví dụ điển hình. Nằm ở miền Tây của Canada,
nhưng mùa thu ở đây cũng vô cùng thơ mộng.
Từ giữa tháng 9 đến giữa tháng 10, những con phố ở Vancouver lại ngập tràn trong những tán lá phong mùa thu tuyệt đẹp. Điều đặc biệt là những con phố ở đây không mang một màu sắc giống nhau mà đa dạng với các sắc vàng, đỏ, nâu…
8. Đường kênh đào Midi, Pháp
Kênh
đào Midi (Canal du Midi) đem lại cho du khách cảm giác của một miền Tây
Nam nước Pháp thật yên bình, trong sáng và đầy thơ mộng. Khác với cảnh
tượng hoành tráng của con sông lớn nhất nước Pháp – Garonne – nằm liền
kề, dòng kênh Midi thật nhỏ xinh và gợi lên chút gì đó rất riêng tư,
tĩnh lặng.
Đây chính là nơi để bạn thoát khỏi cái ồn ào của thành phố, để đắm chìm trong dòng nước xanh trong. Bạn có thể tảo bộ trên con đường trải đầy lá phong đỏ dọc con kênh, hay lang thang trên những cây cầu nhỏ xinh rồi ngồi thư giãn tại chiếc ghế đá ven đường…
Kênh đào Midi hiện lên thật xinh đẹp và bình dị trong sắc thu huyền ảo. Kênh đào Midi đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới năm 1996.
nguồn: kenhsinhvien.net
Màu sắc mùa thu vòng quanh thế giới
Mùa
hè oi ả đã đi qua để nhường chỗ cho
một mùa thu dịu dàng với những sắc màu rực rỡ. Cùng chiêm ngưỡng những
địa điểm tuyệt vời để cảm nhận sự quyến rũ của cảnh sắc mùa thu.
Agawa Canyon, Canada: Đến Agawa Canyon vào mùa thu, du khách sẽ được chiêm ngưỡng bức tranh thiên nhiên sắc màu đẹp nhất hành tinh. Du khách sẽ được đi xe từ Saul Ste Marie qua biên giới Canada – Mỹ và trên chặng đường dài gần 190km, cảnh đẹp của Canada hiện lên đầy lãng mạn. Thời gian tốt nhất để tới đây là khoảng cuối tháng 9 hoặc đầu tháng 10.
Rừng Dean, Anh: Tọa lạc ở Gloucestershire, rừng Dean được coi là một trong những rừng cây sồi lớn nhất và cổ đại nhất nước Anh, từng được sử dụng như một vùng săn bắn của hoàng gia. Đến đây, du khách sẽ được tản bộ hoặc đi xe đạp dưới những tán rừng để chiêm ngưỡng cảnh sắc mùa thu lãng mạn dưới bàn tay nhào nặn nghệ thuật của thiên nhiên.
Công viên Núi Trắng – New Hamshire, Mỹ: New England là nơi đẹp nhất nước Mỹ vào mùa thu, ở đó có công viên Núi Trắng với những phong cảnh đẹp nổi tiếng không chỉ riêng ở New England mà còn toàn thế giới. Vào đầu tháng mười, đi qua những rặng núi xanh ngắt, bạn sẽ vô cùng thích thú với cảnh sắc rực rỡ của những rừng phong ngập chìm trong sắc đỏ, khám phá sự phong phú của đời sống hoang dã trong vùng.
<Thung lũng Loire, Pháp: Mùa thu là thời điểm tốt nhất để ghé thăm thung lũng Loire và khám phá vùng sản xuất rượu vang danh tiếng với những cánh đồng nho ánh lên sắc vàng, cam và đỏ. Bạn sẽ vừa được thưởng thức một ly rượu vang, vừa được chiêm ngưỡng vô số lâu đài cổ kính ẩn mình trong bức tranh mùa thu ở thung lũng Loire huyền ảo.
Núi Hoàng Sơn, Trung Quốc: Thuộc tỉnh An Huy, phía đông Trung Quốc, ngọn núi Hoàng Sơn, hay còn gọi là Núi Vàng, nổi tiếng với phong cảnh tuyệt đẹp, nhất là vào mùa thu. Sắc đỏ bạt ngàn cùng với cảnh đẹp ẩn hiện trong mây trời khiến hàng nghìn du khách đều kéo tới đây để được chiêm ngưỡng và chụp ảnh. Bình minh là thời điểm núi Hoàng Sơn đẹp nhất trong cảnh thu.
Dãy Dandenong, Australia: Mùa thu ở Australia thường diễn ra vào tháng 3, bởi vậy, tới Dandenong bạn sẽ kết hợp được những hoạt động trên bãi biển, lướt sóng trong mùa hè sống động, vừa được ngắm sắc màu rực rỡ của mùa thu. Là một công viên quốc gia có vẻ đẹp kỳ diệu, Dandenong càng trở nên rực rỡ khi những chiếc lá đổi màu khiến du khách luôn được đắm mình trong những vườn hoa tràn ngập sắc đỏ, vàng, xanh nơi đây.
.
Bishop Creek Canyon – California, Mỹ: Hình ảnh những khu rừng thay đổi màu sắc xanh thông thường sang màu vàng cam hay đỏ khi thay lá ở California khiến Bishop Creek Canyon trở thành một trong những điểm đến mùa thu lý tưởng nhất. Nép mình trong dãy núi Sierra Nevada, Bishop Creek Canyon luôn khiến du khách phải sững sờ bởi vẻ đẹp tuyệt vời, rực rỡ trong nắng thu.
Pitlochry, Scotland: Rừng thông ở Scotland có thể không thay đổi màu sắc nhưng những chiếc lá rụng lại tạo thành một màu sắc đặc biệt tạo nên một cảnh quan tuyệt đẹp phản chiếu trên mặt nước hồ Faskally. Vào tháng mười mỗi năm, du khách tới Pitlochry còn được tham gia vào một lễ hội âm thanh và ánh sáng mùa thu, tham quan công viên tuần lộc hoặc viếng thăm những lâu đài long lanh trong vùng.
Hàn Quốc: Hơn 100 hình ảnh Sơn môn Cổ tự mùa Thu
Tu viện vàng trên núi dựng đứng độc nhất thế giới
- Việc xây dựng một tu viện bế thế trên những vách núi đá dốc đứng là
Tu viện Phật giáo Taung Kalat ở Myanmar được coi là một trong những công
trình tôn giáo được xây dựng ở nơi hiểm trở nhất thế giới.
Tu viện này được xây dựng trên đỉnh nú Popa, một ngọn núi lửa
Tu viện tọa lạc ở độ cao 737m so với mặt đất. Muốn lên tới đây, du khách phải leo tổng cộng777 bậc thang.
Vạn Lý Trường Thành đang thành đống gạch vụn khổng lồTrái với hình ảnh hoành tráng thường thấy trong phim ảnh, sách báo, phần lớn chiều dài của Vạn Lý Trường Thành đang rơi vào tình trạng xuống cấp đáng kinh ngạc...
Vạn Lý Trường Thành, được xây dựng ở Trung Quốc từ cách đây 2.200 năm được coi là công trình nhân tạo lớn nhất thế giới với chiều dài hàng nghìn km. Tuy nhiên, gần 2/3 công trình này hiện tại đã bị hư hại hay đổ nát.Ngoài một số đoạn tường thành được khai thác để phục vụ du lịch, hàng nghìn km Vạn Lý Trường Thành đã nằm trong tình trạng hoang phế từ hàng tHập niên qua.
Bên cạnh sự tác động từ thiên nhiên, hoạt động của con người cũng góp phần không nhỏ vào việc hủy hoại công trình kiến trúc kì vĩ này.
Tại một số vùng ở Trung Quốc, Vạn Lý Trường Thành đã được sử dụng làm nguồn cung cấp đá để người dân xây nhà và đường xá.Có những đoạn tường thành đã bị phá sập để mở lối đi đến các công trình xây dựng hoặc hầm mỏ.Mặc dù chính quyền Trung Quốc đã đưa ra những quy định pháp luật khắt khe để bảo vệ Vạn Lý Trường Thành, nhưng những quy định này hầu như vô hiệu ở những khu vực xa xôi hẻo lánh.
Chiều dài hàng nghìn km cùng địa hình hiểm trở khiến việc bảo vệ Vạn Lý Trường Thành là nhiệm vụ vô cùng khó khăn và tốn kém.Trước tình trạng xuống cấp nghiêm trọng của Vạn Lý Trường Thành, quỹ Bảo tồn Di sản thế giới đã liệt công trình này vào danh sách những di sản bị đe dọa nặng nề nhất.
Theo Tân Hoa Xã, tại Hà Bắc, các chuyên gia bảo vệ văn hóa cho biết, chỉ còn khoảng 20% phần tường của Vạn Lý Trường Thành là “còn tốt hoặc được bảo tồn khá tốt”.Năm 2006, chính phủ Trung Quốc từng đưa ra kế hoạch trùng tu Vạn Lý Trường Thành, nhưng công trình này quá lớn nên chưa đủ kinh phí thực hiện.
QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM
10 ĐIỂM DU LỊCH HẤP DẪN Ở XỨ SỞ SƯƠNG MÙ SAPA
Nếu thành phố trong sương mù London là trái tim của Anh Quốc thì Sapa là trái tim của du lịch miền Bắc.
Quanh năm, sương mù bao phủ đồi núi và bản làng khiến cho mỗi ai khi
đặt chân đến Sapa cũng đều liên tưởng đến xứ sở sương mù London. Hãy
cùng chúng tôi khám phá một Sapa xinh đẹp, đặc biệt quyến rũ lòng người
này nhé!
Vẻ đẹp hùng vĩ và không kém phần thơ mộng của núi rừng Sapa - Ảnh: TanDS Le
Sapa thuộc tỉnh Lào Cai là một tỉnh vùng cao Tây Bắc. Nằm ở độ cao
hơn 2.000 mét so với mực nước biển, khí hậu ở Sapa quanh năm mát mẻ,
sương mù bao phủ mờ mịt trên những ngọn đồi, đỉnh núi. Đặc biệt, vào
những buổi sáng sớm mùa đông, ra đường bạn có thể đưa tay ra là có thể
chạm vào sương mù, cảm giác từng làn sương mỏng mảnh luồn qua tay thật
thú vị.
Vẻ đẹp làm rung động lòng người của từng thửa ruộng bậc thang ở Sapa - Ảnh: mangviet.com
1. CHINH PHỤC NÓC NHÀ ĐÔNG DƯƠNG - ĐỈNH FANSIPAN
Điểm đến đầu tiên vô cùng hấp dẫn cho những du khách đam mê chinh phục những thử thách nguy hiểm đó là đỉnh Fansipan - được gọi là nóc nhà Đông Dương. Nằm ở dãy Hoàng Liên Sơn, với độ cao 3.143 m Fansipan xứng đáng là ngọn núi cao nhất nước ta và là nóc nhà của Đông Dương (cao nhất ba nước: Việt Nam, Lào, Campuchia.)Fansipan được mệnh danh là nóc nhà Đông Dương với độ cao 3.134 mét - Ảnh: Mytour.vn
Cảnh quan kỳ vĩ trên đỉnh Fansipan - Ảnh: fxhfh Eyrndj
Mặc dù chỉ cách Sapa 9 km nhưng để chinh phục Fansipan, tận hưởng
trọn vẹn cảm giác vinh quang của chiến thắng thì bạn phải mất từ 6-7
ngày để leo núi. Khó khăn là thế, gian lao là thế nhưng Fansipan vẫn
quyến rũ mãnh liệt đối với những nhà leo núi chuyên nghiệp và cả nghiệp
dư.
Vẻ đẹp hùng vĩ của Sapa khi đứng từ đỉnh Fansipan phóng tầm mắt xuống - Ảnh: Mytour.vn
Ở Fansipan mưa suốt nhiều tháng liền nhưng quanh năm ở vùng núi cheo
leo này lại ngập tràn sắc hoa, rực rỡ tỏa hương thơm ngát. Tại đây có hệ
thực vật và động vật phong phú, đa dạng, một số loài động vật quý hiếm
được đưa vào sách đỏ.
2. NGẮM ĐÈO Ô QUY HỒ HÙNG VỸ TỪ CỔNG TRỜI TRẠM TÔN
Bạn có thể tận hưởng không khí của Fansipan từ cổng trời Trạm Tôn - Ảnh: biletomsk.ru
Muốn chiêm ngưỡng đỉnh Fansipan thì bạn phải đi qua cổng trời Trạm
Tôn. Cách Sapa khoảng 18 km, con đường Trạm Tôn dẫn đến cổng trời là một
con đường uốn lượn quanh co khắp triền núi. Đến với cổng trời bạn mới
cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp của Sapa không chỉ qua những thửa ruộng bậc
thang vàng óng trứ danh, những làn sương mù bao phủ quanh năm mà còn đẹp
bởi vẻ hoang sơ, yên bình, và trong lành bởi không khí của vùng rẻo cao
miền núi.
Vẻ đẹp của nơi đây là cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn học kinh điển - Ảnh: hoang tuan anh
Từ cổng trời, bạn có thể thưởng thức trọn vẹn vẻ đẹp của con đèo Ô Quy Hồ đầy nguy hiểm đến thót tim. Con đèo này đã từng được đi vào văn học qua những câu văn sống động trong tác phẩm “Lặng lẽ Sapa” của tác giả Nguyễn Thành Long.
Đèo Ô Quy Hồ là một con đèo hiểm trở vào bậc nhất nước ta nhưng cảnh đẹp thì không bút nào tả xiết - Ảnh: fxhfh Eyrndj
3. KHÁM PHÁ BÃI ĐÁ CỔ
Bãi đá cổ Sapa là một danh lam thắng cảnh thu hút khách tour trong nước và tour nước ngoài tham quan mỗi khi đến Sapa. Bãi đá được phát hiện vào năm 1925 bởi một nhà khoa học người Pháp gốc Nga. Bãi đá rộng hơn 8 km2 với hơn 200 phiến đá có hình dạng và kích thước độc đáo. Bãi đá cổ được cho là dấu tích lịch sử của người Việt Cổ với những hình vẽ trên các phiến đá là hoa văn trang trí, hình người, hình cây cối hoa lá, hình bậc thang, hình mặt trời hay hình các vật dụng hàng ngày…Bãi đá cổ ở Sapa là một danh thắng thu hút khách du lịch - Ảnh: Internet
Nhiều nhà khoa học để giải thích ý nghĩa của bãi đá cổ đã cho rằng đây có thể là một cuốn sách ghi lại các hoạt động sống hằng ngày hoặc bản đồ của người Mông Cổ, cũng có giả thiết cho rằng đó là một cuốn sách ghi lại các sách lược của các trận đánh. Nhưng giả thiết vẫn là giả thiết, bãi đá cổ vẫn nằm đó thách thức với thời gian và là một bí ẩn chưa có lời giải đáp chính thức cho các nhà khoa học.
Những kí tự đặc biệt hiện vẫn còn là thách thức đối với các nhà khoa học - Ảnh: ferienvietnam.com
4. VẺ ĐẸP CỔ KÍNH VỚI NÉT KIẾN TRÚC ĐỘC ĐÁO CỦA NHÀ THỜ ĐÁ
Nhà thờ đá Sapa là một biểu tượng không thể thiếu khi nhắc đến Sapa.
Tọa lạc tại trung tâm của thị trấn Sapa, phía trước có một khoảng trống
rộng, là nơi mà mỗi sáng bà con dân tộc tụ tập buôn bán các nhu yếu phẩm
hàng ngày. Đây cũng là nơi mà mỗi thứ 7 hàng tuần lại vang lên tiếng
khèn réo rắt, những điệu múa duyên dáng mang âm hưởng núi rừng của những
cô gái chàng trai bản trong phiên chợ tình.
Vẻ đẹp trường tồn với thời gian của kiến trúc Gothic - Ảnh: Sưu tầm
Nhà thờ đá mang phong cách gothic La Mã ấn tượng đặc trưng bởi mái
nhà, tháp chuông và vòm cuốn, được xây dựng vào giữa thế kỷ XX, nhà thờ
đá là một công trình kiến trúc được kiến trúc sư tài ba người Pháp đặt
rất nhiều tâm huyết vào đó, lựa chọn rất kĩ từng nguyên vật liệu để hình
thành. Tuy chịu nhiều tác động khắc nghiệt của thời gian nhưng nhà thờ
đá Sapa vẫn đứng vững thách thức sự tàn phá của thiên nhiên và là niềm
tự hào của người dân Sapa.
Nhà thờ đá Sapa lung linh trong ánh đèn vàng một tối mùa thu - Ảnh: Internet
5. DẠO CHƠI Ở THUNG LŨNG MƯỜNG HOA
Thung lũng Mường Hoa luôn là cái tên được nhắc đến nhiều nhất khi đến Sapa. Đây là một thung lũng non nước hữu tình, có phong cảnh tuyệt đẹp, lãng mạn và còn là nơi sinh sống của nhiều người dân tộc vùng cao. Bãi đá cổ cũng nằm ở đây nên Mường Hoa luôn là điểm đến hấp dẫn cho những du khách yêu thích du lịch.Khung cảnh lãng mạn của thung lũng Mường Hoa nhìn từ trên cao xuống - Ảnh: Mytour.vn
Nằm cách thị trấn Sapa khoảng 8 km về phía Đông Nam, thung lũng Mường Hoa được đánh giá là một trong những thung lũng đẹp và rộng lớn nhất Việt Nam. Dưới chân thung lũng có con suối Mường Hoa uốn lượn duyên dáng chảy qua. Vào mùa lúa chín, những con suối này mang nguồn nước dồi dào đi khắp các thửa ruộng bậc thang. Màu lúa chín vàng soi bóng xuống con suối làm nên một phong cảnh thơ mộng, đắm say biết bao du khách.
Mường Hoa nổi tiếng với những bậc thang lên thiên đường - Ảnh: truyenhinhanvien.vn
Sapa còn có rất nhiều điều lý thú và kỳ diệu nữa đang chờ đón để được khám phá. Mời các bạn đón đọc phần 2 của bài viết để có những trải nghiệm thú vị về một vùng đất quanh năm sương mù bao phủ này nhé!
Lọ Lem - Mytour.vn
Một thoáng Sàigòn xưa - CÓ AI CÒN NHỚ ?
HỦ TIẾU MÌ ĐÂY
KEM SỮA, ĐẬU ĐEN ĐÂYHỒ CON RÙA NGÀY XƯATrên bưu ảnh có ghi Le Chateau d'eau - người Việt gọi là xa-ta-đô tức là tháp nước (hoặc thủy đài), đến 1921 thì người Pháp đã cho xây dựng một tượng đài ba binh sĩ Pháp bằng đồng với hồ nước nhỏ, để đánh dấu cuộc xâm chiếm và biểu tượng của việc ngườiPháp làm chủ Đông Dương. Do đó người địa phương thường gọi nó là Công trường Ba hình. Đến 1964 thì Chính phủ Việt Nam CH phá bỏ và xây tháp mới, bây giờ còn một phần (thiếu tấm bia và con rùa chở bia tưởng niệm binh sĩ các nước đồng minh VNCH)
HỒ CON RÙA HỒ
Xe lam, một thời có khắp saigon
BÙNG BINH QUÁCH THỊ TRANG 1966
Và một thời trước đó 1960... XÍCH LÔ MÁY
TOÀN CẢNH CẦU BỘ HÀNH TRƯỚC CHỢ BẾN THÀNH
CẦU XA LỘ SAIGON ĐANG ĐƯỢC THI CÔNG - 1960
Và LỂ KHÁNH THÀNH của TT NGÔ ĐÌNH DIỆM
Và LỂ KHÁNH THÀNH của TT NGÔ ĐÌNH DIỆM
NHỮNG CON TEM MANG HÌNH XA LỘ SAIGON-BIÊN HÒA
DINH ĐỘC LẬP
DINH ĐỘC LẬP 1966
Dinh Độc lập được xây lên do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ...khởi công từ năm 1961 và hoàn tất vào năm 1966.
Một hình ảnh lạ của chợ Bến Thành
Nhà hàng nồi MỸ CẢNH (Bến Bạch Đằng)
LĂNG TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT (Lăng ông - khu vực gần chợ Bà Chiểu)
Xe Huê Kỳ 1960 - Xe chuyên đón cô dâu trong thập niên 60 của thế kỉ 20
Bạn có còn nhớ hình ảnh này không ???...... GIỰT CÔ HỒN , RẰM THÁNG 7
Di tản 29.4.1975 - Bến BẠCH ĐẰNG - Bộ Tư Lệnh Hải Quân VNCH
AI ĐÂY NHỈ !???
SƠ LƯỢC T.S.:ÔNG DẠO DỪA
NGƯỜI SÁNG LẬP RA ĐẠO DỪA TÊN NGUYỄN
THÀNH NAM,XUẤT THÂN TRONG 1.GIA ĐÌNH KHÁ GIẢ Ở HUYỆN CHÂU THÀNH TỈNH
ĐỊNH TƯỜNG,ĐI DU HỌC Ở PHÁP VỚI TẤM BẰNG KỶ SƯ HÓA HỌC
ÔNG VỀ NƯỚC TỔ CHỨC SẢN XUẤT XÀ
PHÒNG, NHƯNG VÌ KHÔNG CẠNH TRANH NỔI NÊN ĐÀNH PHẢI GIẢI NGHỆ,SAU ĐÓ ÔNG
BỎ LÊN NÚI TU KHỔ HẠNH,MỖI NGÀY CHỈ ĂN 1.LẦN VÀO GIỜ NGỌ,BẰNG RAU VÀ HOA
QUẢ,UỐNG NƯỚC DỪA XIÊM.TỪ NÚI ÔNG VỀ LẠI BẾN TRE DỰNG 1.TÚP LỀU Ở MỎM
CÙ LAO TÂN LONG NĂM 1952,SAU MẤY THÁNG HOẠT ĐỘNG BẤT
TIỆN, ÔNG VỀ QUÊ Ở ẤP 1,XẢ PHƯỚC THANH HUYỆN CHÂU THÀNH ,MUA 1.CÁI XÀ
LAN,ĐẬU TRÊN MÉ SÔNG BA LAI VÀ DỰNG MỘT NGÔI CHÙA TRÊN MỘT MẪU VƯỜN
DỪA,RỒI TU "TỊNH KHẨU"
TỪ ĐÓ ÔNG NGUYỄN THÀNH NAM BẮT ĐẦU XƯNG GIÁO CHỦ CỦA MỘT ĐẠO LẤY TÊN LÀ ĐẠO DỪA
NHẬN THẤY ĐỊA ĐIỂM NÀY CÓ NHIỀU BẤT
LỢI ÔNG ĐẠO DỪA CHUYỂN TOÀN BỘ CƠ SỞ VỂ CỒN PHỤNG NẰM TRÊN TUYẾN PHÀ
RẠCH MIỂU ĐỂ CÓ ĐIỀU KIỆN MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG .
“Ðoàn Văn Nghệ Vì Dân” và “Ðoàn Việt Nam”
- Nhạc sỹ Hoàng Thi Thơ là Trưởng Đoàn vào năm 1961.
- Nhạc sỹ Nguyễn Văn Ðông (đứng ngoài
cùng, bên phải) và các ca nhạc sỹ, nghệ sỹ tên tuổi thời ấy: Hoàng Thi
Thơ, Lê Thương, Lê Mộng Bảo, Thu Hồ, Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Út
Trà Ôn, Trần Văn Trạch, Trịnh Toàn, Ngọc Phu, Bảy Xê, Ba Vân, Tùng Lâm,
Phi Thoàn, Anh Sơn, Anh Lân, Quách Ðàm, Thúy Nga, Bạch Yến, Tuý Hoa, Tuý
Phượng, Minh Diệu, Thẩm Thúy Hằng…
* Lưu ý : Nhạc sỹ Lê Thương, nhạc sỹ
Lê Mộng Bảo (Giám đốc nxb “Tinh hoa miền Nam), và nghệ sỹ Út Trà Ôn là
khách mời, không ở trong Ðoàn Vì Dân hay Ðoàn Việt Nam.
Nhạc sĩ TRẦM TỬ THIÊNG :Kỷ niệm 77 năm ngày sinh của cố nhạc sỹ Trầm Tử Thiêng. 1/10/1937 - 1/10/2014
Xe nước mía
nước sâm, nước đắng
xe nước sinh tố
Có ai còn nhớ những chiếc hủ này đựng gì ???
Vua Bao Dai 1913-1997 , vi Hoang De cuoi cung cua VietNam
Những đặc sản miền Tây níu chân khách phương xa
Thứ bảy, 17 Tháng 1 2015
Đăng tại Gia chánh
Những đặc sản miền Tây níu chân khách phương xa
Ở miền Tây có rất nhiều rau cỏ hoang dại trở thành “đặc sản” xứ nước mặn đồng chua được nông dân mang đãi khách quý.
Ở
miền Tây, khi khách quý đến chơi nhà, nông dân chẳng biết đãi khách thứ
gì ngoài “đặc sản” cây nhà lá vườn, như khổ qua rừng mọc trong vườn
tràm, mắm chưng chấm với chuối xanh và rau choại luộc.Đĩa
rau sống ăn mắm chưng rất giản dị chất Nam bộ, gồm dưa leo, cà, rau
thơm, diếp cá trồng trong vườn nhà với rau nhút hái vào từ đồng.Nhiều
loại mắm cá đồng như nắm cá rô, cá lóc, cá trê vàng… mang chưng cách
thủy với củ hành tím thơm nức mũi, chưa ăn khách đã thấy thèm.Người
miền Tây có “sản vật” khá đặc biệt hái từ những vườn tràm hoặc rừng U
Minh là rau choại. Dây choại luôn leo theo những cây tràm. Đến mùa khô,
choại héo lá khiến cây tràm trông như những ngọn đuốc, nếu gặp lửa rất
dễ gây cháy rừng. Vào mùa mưa, choại mới mọc hơn gang tay, nông dân hái
về xào hoặc luộc chấm cá kho, mắm chưng ăn rất ngon.Khổ qua rừng chỉ to hơn ngón tay cái được ăn sống, chấm với mấm tôm, ăn vào không đắng mà có vị ngọt dần rất thú vị.Nhiều
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long người dân chọn nuôi tôm theo kiểu “thả
hoang” vào những cánh đồng năn mọc hoang dại. Khi có khách quý, tôm sú
từ đồng được mang vào hấp nước dừa ăn rất ngọt, thơm.Là
cây cỏ hoang dại mọc ngoài đồng nước phèn chua, những năm gần đây, năn
đã “lên ngôi” khi người thành thị rất thích ăn. Những phụ nữ miền Tây cứ
mỗi sáng là trầm mình dưới nước nhổ lên những cọng năn non như thế này.Năn được lột vỏ, ruột bên trong trắng ngần.Cá
nâu kho trái giác được nông dân miền Tây xếp vào danh sách các loại sản
vật đồng bưng. Năn sống chấm với nồi cá kho như thế này đảm bảo hết cơm
ngày nắng lẫn ngày mưa.Trái giác mọc hoang, có vị chua thanh được gọi là “nho rừng”.Trái giác kho cá, nấu canh chua ăn rất ngon, nhưng cần lưu ý không nên bóp lấy nước thoa vào người, gây ngứa khủng khiếp.Cá nâu kho trái giác cũng được dùng chung với món chấm có vị chát là lõi bắp chuối.Lõi
bắp chuối còn dùng để nấu canh chua. Trong nồi canh chua cá chốt nấu
cơm mẻ này, nông dân miền Tây cho lõi bắp chuối vào nấu ăn rất ngon.Một
trong những loại rau dại được nhúng vào nồi canh chua không thể thiếu ở
miền Tây là bông súng (góc trái). Bông súng cũng được trộn giấm đường
chấm với cá kho.Canh chua cá chốt không chỉ làm ấm lòng người nông dân mà còn là đặc sản trong các nhà hàng miền Tây và TP.HCM. Nhờ người dân thành thị thích các món ăn từ động ruộng không sử dụng hóa chất khiến rau hoang, cây dại và các loại cá đồng ở miền Tây tăng giá, giúp nông dân có cuộc sống ổn định hơn nếu chí thú làm ăn. Với cá chốt, người nông dân này chỉ cần thả lưới xuống sông hoặc vuông tôm, 5 phút sau kéo lên cá chốt dính chùm thế này. |
Làn sóng từ chối Viện Khổng Tử trên thế giới và bài học cho VN
Tiếp theo sau những phản đối của một số trường đại học Mỹ về sự có
mặt của Viện Khổng Tử của Trung Quốc tại các trường đại học ở Bắc Mỹ,
mới đây một trường đại học ở Thụy Điển cũng đã từ chối gia hạn hợp đồng
với Viện Khổng Tử. Đây được coi là một làn sóng phản đối những ảnh hưởng
của chính phủ Trung Quốc thông qua viện Khổng Tử vào môi trường học
thuật.
Tuy nhiên Việt Nam mới đây đã cho phép mở một viện Khổng Tử tại
trường đại học Hà Nội. Liệu làn sóng từ chối ảnh hưởng của viện Khổng tử
trên thế giới sẽ tiến tới đâu, và bài học gì đối với những nước như
Việt Nam khi cho phép mở những viện này trong các trường đại học của
mình?
Việt Hà phỏng vấn giáo sư sử học Steven Levine, thuộc trường đại học
Montana, người đã góp phần đưa viện Khổng Tử vào đại học Montana nhưng
gần đây đã lên tiếng phản đối hình thức này. Viện Khổng Tử hiện do văn
phòng dạy tiếng Trung quản lý, gọi là Hanban.
Là một cơ quan của chính phủ TQ
Trước hết nói về những gì mà viện Khổng Tử mang lại cho các trường đại học Mỹ, Giáo sư Levine cho biết:Tôi nghĩ nếu họ được đăng ký như một trường đại học độc lập thì sẽ khác, họ sẽ được nhìn nhận như một nhánh tuyên truyền của chính phủ Trung Quốc. Nhưng khi họ nằm trong trường đại học thì họ là một phần của trường đại học vốn có chủ trương là tìm hiểu tự do.
-GS Steven Levine
GS Steven Levine: Theo tôi cái mà họ có thể đóng góp nhất là
đối với những cơ sở nhỏ không có các chương trình lớn nghiên cứu về đông
Á và Trung Quốc là tiền và giáo viên dạy tiếng Trung và văn hóa Trung
Hoa nhưng văn hóa Trung hoa mà họ dạy thì rất nhạt và không sâu. Ở các
trường đại học lớn và có tiền thì viện Khổng Tử chỉ là một phần rất nhỏ
trong những gì họ có. Ở nhiều trường đại học bao gồm trường đại học
Montana của tôi ở miền Tây Bắc nước Mỹ thì chúng tôi có rất ít cho các
chương trình nghiên cứu về Trung Quốc cho nên viện Khổng Tử đóng vai trò
lớn hơn và thực sự viện này chỉ là một cơ quan của chính phủ Trung
Quốc, đó chính là phản đối chính của tôi đối với họ.
Tôi nghĩ nếu họ được đăng ký như một trường đại học độc lập thì sẽ
khác, họ sẽ được nhìn nhận như một nhánh tuyên truyền của chính phủ
Trung Quốc. Nhưng khi họ nằm trong trường đại học thì họ là một phần của
trường đại học vốn có chủ trương là tìm hiểu tự do, các vấn đề học
thuật, kiến thức, đào tạo không bị gây ảnh hưởng, nhưng đó không phải là
điều đang xảy ra với viện Khổng Tử vì họ là một nhánh của chính phủ
Trung Quốc và họ bị giới hạn phạm vi những gì họ có thể nói. Như bạn
biết là có nhiều đề tài bị coi là cấm kị vì đảng cộng sản Trung Quốc
không cho phép thảo luận những đề tài đó dù là ở Trung Quốc hay ở nước
ngoài. Trong các đề tài đó có vụ 4 tháng 6 năm 1989 khi hàng ngàn người
bị giết hại ở Bắc Kinh, vấn đề độc lập của Tây Tạng, vấn đề Đài Loan, và
nhiều vấn đề khác về nhân quyền mà văn hóa phương Tây ca ngợi còn đảng
cộng sản Trung Quốc phản đối vì coi đó là đe dọa cho quyền lực của họ.
Theo tôi trường đại học phải là nơi không vấn đề gì không được quyền
thảo luận.
Việt Hà: Một số giáo sư đại học tại Mỹ có lập luận cho rằng
những tranh luận về ảnh hưởng không tốt của viện Khổng Tử trong các
trường đại học đã bị cường điệu quá đáng vì tâm lý chống Trung Quốc, lo
ngại Trung Quốc. Ông nghĩ thế nào về nhận xét này?
GS Steven Levine: Vấn đề không nằm ở chỗ là cường điệu hóa vấn
đề Trung Quốc. Theo tôi vấn đề là chúng ta phải duy trì được tính độc
lập của học thuật của các trường đại học Mỹ. Tôi nhận thấy là vấn đề ở
đây khác với Việt Nam nơi có hệ thống chính trị hoàn toàn khác. Cho nên
phản đối của tôi hoàn toàn dựa vào kiến thức về nước Mỹ và nền dân chủ
phương Tây.
Việt Hà: Các viện Khổng Tử đã có mặt ở các trường đại học
Mỹ cả thập kỷ qua, tại sao đến giờ các giáo sư mới nhận thấy vấn đề của
viện này?
GS Steven Levine: Từ cá nhân tôi thì tôi thực sự liên quan
trực tiếp đến việc đưa viện Khổng Tử vào trường đại học Montana vào
khoảng 10 năm về trước. Lúc đầu, chúng tôi thấy đó là một viện vô thưởng
vô phạt, không gây nguy hiểm gì và sẽ mang các nguồn lực vào trường nơi
chúng tôi không có nhiều nguồn lực cho việc giảng dạy các vấn đề về văn
hóa Trung Quốc. Chúng tôi như bị mù và tôi không có lý do gì biện minh
cho những gì tôi làm lúc đó. Lúc đó chỉ là đi tìm thêm nguồn lực cho
trường. Nhưng khi tôi bắt đâu xem xét vấn đề cũng như một số các giáo sư
khác cũng vậy, chúng tôi thấy vấn đề về kiểm duyệt và tự kiểm duyệt và
tôi bắt đầu thay đổi cách nhìn của mình.
Vào năm 2009 tôi dự một cuộc họp các giám đốc viện Khổng Tử ở Bắc
Kinh, đó là vào tháng 12 năm 2009 và tôi biết được nhiều hơn Hanban đã
thực hiện việc kiểm soát thế nào từ Bắc Kinh. Cuộc họp như là cuộc họp
của đảng cộng sản nơi các chỉ thị được các lãnh đạo đưa ra. Rõ ràng là
có nhiều thảo luận không được phép. Trong một cuộc họp riêng của viện
tôi có đề nghị dạy thuyết Khổng Tử trong quá khứ nhưng họ không làm. Ý
tưởng viện Khổng Tử nên dạy về Khổng Tử đã bị từ chối, nó không phải
nhiệm vụ của họ…. theo tôi đây thực sự là sự biên dịch sai tên của Viện
và tinh thần Khổng tử chỉ để thực hiện ý chí chính trị của Đảng cộng
sản.
Cần đảm bảo sự tự do và độc lập
Việt Hà: Bất chấp lời kêu gọi của hiệp hội các giáo sư các
trường đại học Mỹ về tẩy chay viện Khổng Tử, hiện chỉ có một vài trường
đại học tại Mỹ và Canada không gia hạn hợp đồng với viện này. Ngoài vấn
đề tài chính, nguyên nhân nào khiến các đại học chưa có quyết định tương
tự?
GS Steven Levine: Theo tôi vấn đề chính là tài chính và một
phần là sự giải thích vấn đề. Có một số giáo sư ở một số trường khác cơ
bản là đã không nhìn nhận vấn đề này. Họ nói rằng các trường đại học có
nhiều nguồn lực và nếu viện Khổng Tử không muốn bàn về Tây Tạng, Thiên
An Môn thì họ sẽ nói về những vấn đề này ở chỗ khác. Nó đúng với trường
đại học Chicago nhưng không đúng với các trường khác vì viện Khổng tử ở
các trường khác là nơi duy nhất có các cơ hội để có được nguồn tiền tài
trợ cho các sự kiện liên quan đến Trung Quốc. Nó không phải là một vấn
đề đơn lẻ, nó phức tạp hơn thế nhiều. Theo tôi, tiền bạc ở một số nơi
không phải là quá lớn nhưng ở những nơi không có nhiều tài trợ thì nó có
ảnh hưởng lớn trong những gì mà họ có thể làm. Theo tôi hiện chỉ có một
số nhỏ trường từ chối hợp đồng với viện. Có thể trong một hai năm nữa
sẽ có thêm những trường khác nữa nhưng tôi thực sự không mấy lạc quan về
làn sóng này.
Việt Hà: Hiệp hội các giáo sư các trường đại học Mỹ cũng nêu ra điều kiện đối với viện Khổng Tử muốn hoạt động ở các trường đại học Mỹ để đảm bảo sự tự do và độc lập trong nghiên cứu và giảng dạy. Theo ông liệu Trung Quốc có sẵn sàng chấp nhận các điều kiện này hay không?Bây giờ vẫn còn quá sớm để nói nhưng thực sự thì cũng không có đủ các phản ứng ở Mỹ cũng như các nơi khác trên thế giới để khiến Hanban phải thay đổi chính sách của mình.-GS Steven Levine
GS Steven Levine: Theo tôi lãnh đạo Trung Quốc và Hanban sẽ
quan sát một thời gian để xem các trường khác ở Mỹ và Canada có phản ứng
thế nào. Như đã nói từ trước thì đến lúc này chỉ có vài trường có hành
động. Nhưng vấn đề khác nữa là các trường thường không nhanh chóng có
hành động. Nó giống như thời gian tan băng trong thay đổi. Cho nên có
thể là có một giáo sư hay một số của một khoa nào đó ở trường đặt câu
hỏi, và họ sẽ có những cuộc họp trước khi có hành động. Cho nên bây giờ
vẫn còn quá sớm để nói nhưng thực sự thì cũng không có đủ các phản ứng ở
Mỹ cũng như các nơi khác trên thế giới để khiến Hanban phải thay đổi
chính sách của mình.
Việt Hà: Theo ông thì các nước khác như Việt Nam có thể học
được bài học nào từ các trường đại học Mỹ trong trường hợp viện Khổng
Tử với điều kiện hạn hẹp về ngân quỹ và nhất là hệ thống chính trị khác
biệt?
GS Steven Levine: Tôi hy vọng rằng các trường đại học ở các
nơi khác bao gồm ở Việt Nam tiến tới hướng tự do trong giảng dạy. Tôi
hiểu là Việt Nam và Trung Quốc có sự kiểm soát rất chặt đối với các
trường đại học. và điều này cũng đúng với nhiều vùng khác trên thế giới.
Nhưng theo tôi trường đại học là nơi tự do tìm hiểu, là nơi mà giáo sư
và sinh viên không bị trói buộc bởi những lo ngại chính trị. Họ có thể
khám phá mọi điều tự do. Tôi hiểu đó là điều lý tưởng nhưng lý tưởng đó
nên là điều mà các giáo sư và sinh viên đánh giá cao. Theo thời gian,
theo tôi, dù Trung Quốc có ảnh hưởng lớn về kinh tế, Trung Quốc sẽ tiếp
tục đặt các viện Khổng tử ở khắp nơi trên thế giới. Tôi nghĩ là những
phản ứng với vấn đề này sẽ còn chậm chạp hơn so với sự mở rộng của viện
Khổng Tử trong tương lai gần.
Việt Hà: Xin cảm ơn ông đã dành cho chúng tôi buổi phỏng vấn.http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/rejecting-ci-in-the-world-lesson-for-vn-vh-01232015145551.html
TIN QUỐC TẾ
Philippines tố cáo Trung Quốc mở rộng đòi hỏi lãnh thổ ở Biển Đông
Người dân Philippines biểu tình phản đối Trung Quốc.AFP
Hôm
nay 21/01/2015, chính quyền Manila tố cáo Bắc Kinh mở rộng các hoạt
động cải tạo bãi đá, đảo, tại các nơi đang có tranh chấp ở Biển Đông.
Trong khi đó Hoa Kỳ kêu gọi các bên kiềm chế, tránh để xẩy ra xung đột.
Trong
hai ngày 20 và 21/01, Philippines và Hoa Kỳ đã tiến hành cuộc Đối thoại
chiến lược song phương thường niên lần thứ 5, tại Manila.
Dẫn đầu
phái đoàn Hoa Kỳ là ông Daniel Russel, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ, phụ
trách khu vực Đông Á – Thái Bình Dương và Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng
David Shear. Lãnh đạo phái đoàn Philippines là Trợ lý Ngoại trưởng Evan
Garcia và Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Pio Lorenzo Batino.
Kết thúc cuộc đối thoại, Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Batino nói với các nhà báo : « Các hoạt động của Trung Quốc tại vùng biển Tây Philipines (tức Biển Đông) tiếp tục gây quan ngại nghiêm trọng ».
Về
phần mình, Trợ lý Ngoại trưởng Philippines Evan Garcia cho rằng Trung
Quốc đã tiến hành ồ ạt các hoạt động cải tạo, nâng cấp bãi đá, đảo trong
vùng có tranh chấp, vi phạm các thỏa thuận mà Trung Quốc tham gia. Theo
đó, các bên liên quan không có các hoạt động xây dựng thêm, cho đến khi
có được một bộ luật ứng xử tại Biển Đông mang tính ràng buộc.
Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Daniel Russel kêu gọi các bên kiềm chế và « các nước lớn không nên hăm dọa các nước nhỏ ».
Trước
đó, ông Daniel Russel cũng đã hội đàm với Ngoại trưởng Philippines
Albert del Rosario và Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Voltaire Gazmin.
Được
coi là cố vấn trụ cột của Tổng thống Mỹ Barack Obama trong hồ sơ Đông
Á, ông Daniel Russel đã từng chỉ trích gay gắt bản đồ đường 9 đoạn của
Trung Quốc ở Biển Đông và kêu gọi Bắc Kinh không nên sử dụng bạo lực
trong các tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền với các nước láng giềng.
Manila
và Washington có quan hệ liên minh từ hơn 60 năm qua, trong khuôn khổ
Hiệp định Phòng thủ chung, được ký năm 1953 và Mỹ là đồng minh quân sự
duy nhất của Philippines.
Tháng 04/2014, hai nước ký Thỏa thuận
Tăng cuờng Hợp tác Quốc phòng (EDCA) có hiệu lực trong vòng 10 năm, cho
phép quân đội Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự của Philippines để luyện
tập, bố trí lực lượng và các thiết bị quân sự.
Philippines là một
trong những nước yếu kém về quân sự tại Châu Á. Ngoài việc trợ giúp,
nâng cao khả năng chiến đấu cho quân đội Philippines, thông qua thỏa
thuận EDCA, Hoa Kỳ gia tăng sự hiện diện quân sự tại Châu Á-Thái Bình
Dương, trong khuôn khổ chiến lược xoay trục sang Châu Á của Mỹ, ngăn
ngừa và răn đe các hành động hung hăng của Trung Quốc trong khu vực.
Giải mã ngân sách quốc phòng ‘chống Trung Quốc’ của Nhật Bản
Ảnh chụp tại nghi thức duyệt binh thường niên của quân đội Nhật tại căn cứ Asaka , gần Tokyon, ngày 27/10/2013.Reuters/Issei Kato
Tokyo
vào hôm qua 14/01/2015 đã loan báo một ngân sách quốc phòng mới cho
tài khóa 2015-2016 - khoảng 42 tỷ đô la - được đánh giá là lớn nhất
trong lịch sử Nhật Bản từ trước đến nay. Ngân sách đó cũng được cho là
nhằm đối phó với mối đe dọa ngày càng tăng đến từ Trung Quốc, đặc biệt
là ý muốn chiếm lấy quần đảo Senkaku/Điếu Ngư đang do Tokyo quản lý,
nhưng bị Bắc Kinh đòi chủ quyền.
Tính
theo giá trị tuyệt đối, ngân sách quốc phòng mới của Nhật Bản tuy lớn,
nhưng thấp hơn nhiều so với khoản tiền mà đối thủ Trung Quốc dành cho
các chi tiêu quân sự, đã vượt mức 112 tỷ đô la trong năm 2014, và chẳng
thấm vào đâu so với đồng minh Mỹ, mà ngân sách quốc phòng đã đạt hơn 600
tỷ trong năm 2013.
Có lẽ chính vì không dồi dào cho lắm mà trong
cách thức sử dụng ngân sách quốc phòng mới của mình, Tokyo đã đặc biệt
ưu tiên cho việc tăng cường và hiện đại hóa các phương tiện cũng như lực
lượng có nhiệm vụ giám sát vùng biển đảo xa đang bị Bắc Kinh nhòm ngó,
theo dõi hành tung của quân đội Trung Quốc, và sẵn sàng đẩy lùi đối
phương khi cần thiết.
Một cách cụ thể, theo các dự án trang bị vũ
khí đã từng được tiết lộ, ngân sách quốc phòng mới của Nhật Bản sẽ được
dùng vào việc mua thêm 20 máy bay trinh sát hàng hải loại P-1 do chính
Nhật Bản chế tạo, có tính năng vượt trội loại P-3C của Mỹ, 5 máy bay
V-22 Osprey hiện đại, có khả năng lên thẳng tương tự như trực thăng, một
phi đội máy bay không người lái Global Hawk, và một máy bay cảnh báo
sớm E-2D có nhiệm vụ bảo vệ các hòn đảo ở miền Nam Nhật Bản.
Không
quân Nhật Bản sẽ có thêm một loạt phi cơ và máy bay trực thăng, trong
đó có 6 chiến đấu cơ tàng hình F-35A cực kỳ tối tân. Hải quân sẽ được
trang bị thêm hai khu trục hạm Aegis, trong lúc một hệ thống lá chắn
chống tên lửa được phát triển chung với Mỹ.
Ngay từ cuối năm 2013,
chính phủ Abe đã quyết định dành khoảng 24.700 tỷ yen trong vòng 5 năm
để mua vũ khí, thiết bị quốc phòng, từ máy bay không người lái, chiến
đấu cơ, cho đến tàu ngầm, xe lội nước tấn công nhằm phục vụ mục tiêu
chuyển hướng chiến lược về phía nam và phía tây.
Một trong những
quyết định đầy ý nghĩa là việc dùng ngân sách năm nay, mua đất tại chuỗi
đảo Amami để có thể triển khai quân đội, cũng như việc chuẩn bị đặt một
đơn vị giám sát duyên hải trên đảo Yonaguni, không xa quần đảo Senkaku.
Bộ
Quốc phòng cũng có kế hoạch mua thêm 30 xe lội nước tấn công để trang
bị cho Thủy quân lục chiến Nhật, đang được thành lập theo mô hình lực
lượng Marines của Mỹ. Đây là đơn vị chủ lực có nhiệm vụ bảo vệ các hòn
đảo xa xôi hẻo lánh, có nguy cơ bị Trung Quốc đánh chiếm. Như để dự
phòng tình huống xấu này, trong thời gian gần đây, quân đội Nhật đã
thường xuyên rèn luyện năng lực tấn công tái chiếm hải đảo.
Ngân
sách quốc phòng Nhật Bản được tăng cường còn nhằm nhiều mục tiêu khác,
nhưng rõ ràng là việc đối phó với Trung Quốc là một ưu tiên hàng đầu.
Jun Okumura, giáo sư thỉnh giảng tại Viện Nghiên cứu Toàn cầu Meiji tại Tokyo, nhận định : "Hành
vi ngày càng quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Hoa Đông, trên không
phận, và dĩ nhiên là cộng thêm với những hành động hiếu chiến công khai
nhắm vào Philippines và Việt Nam, chắc chắn đã có tác động mạnh, thúc
đẩy Nhật Bản gia tăng chi tiêu quân sự, điều chỉnh học thuyết quân sự và
cách tiếp cận các liên minh an ninh của mình".
Còn theo ông
Tetsuo Kotani, chuyên gia nghiên cứu cao cấp tại Viện Quan hệ Quốc tế
Nhật Bản, căng thẳng Nhật-Trung Quốc sẽ tiếp tục ngày nào mà Bắc Kinh
còn từ chối tuân thủ luật pháp quốc tế.
Theo chuyên gia này : "Trung
Quốc không công nhận quyền tự do hàng hải và hàng không dành cho quân
đội nước ngoài, nhưng cùng lúc lại đe dọa lãnh hải và không phận của các
nước khác... Trừ phi Trung Quốc tôn trọng luật lệ quốc tế, các cuộc
khủng hoảng sẽ tiếp tục."
Mỹ, Philippines lập mặt trận thống nhất để đối phó với TQ ở Biển Đông
Thứ
trưởng Quốc phòng Philippines Pio Lorenzo Batino (phải) nói các diễn
tiến 'lấp biển lấy đất' của Trung Quốc tại bãi đá Chữ Thập là 'mối quan
ngại rất nghiêm trọng'.
- 41 năm trận chiến Hoàng Sa, ai nhớ ai quên?
- ‘Việt Nam không hợp tác với nước nào hầu chế ngự Trung Quốc’
- Mỹ, Trung Quốc diễn tập chung ở Biển Đông
- TQ phản bác chỉ trích của Philippines về dự án xây cất ở Biển Đông
- Trung Quốc thừa nhận nổ súng cảnh cáo tàu cá ở biển Đông
- Việt Nam tố cáo Trung Quốc vi phạm DOC ở Biển Đông
Simone Orendain
21.01.2015
Philippines đang trông mong vào liên minh với Hoa Kỳ để tìm cách
bắt kịp các hoạt động lấn chiếm của Trung Quốc tại các vùng đảo đang
tranh chấp ở Biển Đông. Thông tín viên VOA Simone Orendain tường thuật
từ Manila.
Các giới chức cấp cao của cả hai nước đã củng cố liên minh chiến lược
trong 2 ngày đàm phán song phương về thương mại và quốc phòng kết thúc
hôm nay tại Manila.
Nằm cao trong nghị trình thảo luận là vấn đề an ninh hàng hải, cũng
như những mối quan ngại về công tác nhằm lấn chiếm các bãi đá và bãi cạn
thuộc quần đảo Trường Sa mà Philippines nhận chủ quyền.
Tháng trước, tham mưu trưởng quân đội Philippines nói dựa vào thông
tin tình báo, các cơ sở tại một trong các bãi lớn hơn mà Việt Nam gọi là
Bãi đá Chữ thập, có thể sắp được hoàn tất.
Thứ trưởng Quốc phòng Philippines Pio Lorenzo Batino gọi diễn biến
tại bãi đá này, mà hồi tháng 11 dường như đã mở rộng để dùng làm một phi
đạo, là “một mối quan ngại rất nghiêm trọng.” Nhưng với ngân sách quốc
phòng nhỏ nhất ở Châu Á, Philippines không có đủ sức để ngăn chặn bất kỳ
hành động nào.
“Chúng ta phải tăng cường khả năng của chúng ta và điều đó chỉ có
được thông qua hiện đại hoá. Đây dĩ nhiên là việc thực hiện hiện đại hoá
cấp thiết mà chúng ta cần phải tiến hành sớm hơn.”
Trợ
lý Bộ trưởng Quốc phòng David Shear nói ngân sách bộ Quốc phòng trong
năm 2015 bao gồm 40 triệu đôla các khoản vay và trợ cấp về quân sự cho
Philippines.
Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng David Shear nói với các phóng viên sau
cuộc họp rằng ngân sách bộ của ông trong năm 2015 bao gồm 40 triệu đôla
các khoản vay và trợ cấp về quân sự cho Philippines.
Nước này đang trong tiến trình thực thi một chương trình hiện đại hoá
quân sự 1,8 tỷ đôla, nhưng vẫn có những đoàn tàu hải quân và các đội
bay rất nhỏ bé so với các nước láng giềng.
Với một quân đội thiếu thốn, Manila đang đi theo con đường ngoại
giao. Một toà án quốc tế đang duyệt lại một vụ kiện chống lại Bắc Kinh
nêu nghi vấn về điều được gọi là “những hành động khẳng định chủ quyền
quá đáng ở Biển Đông.” Trung Quốc bác bỏ vụ trọng tài và không đệ trình
bất kỳ tài liệu hỗ trợ nào chi Toà án Trọng tài Thường trực ở La Haye.
Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố có “chủ quyền không thể tranh cãi được” đối với vùng biển và bãi đá.
Hải quân Philippinescanh gác trên một tàu chiến ở cảng Manila.
Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ Daniel Russel nói Hoa Kỳ đã liên tục kêu
gọi Trung Quốc tôn trọng một tuyên bố không có tính cưỡng hành đã ký với
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á gồm 10 thành viên về việc duy trì hoà
bình giữa những tuyên bố chủ quyền chồng chéo nhau, và dựa vào luật quốc
tế làm cơ bản cho những tuyên bố chủ quyền trong vùng biển giàu tài
nguyên.
“Lối hành xử làm tăng thêm căng thẳng, lối hành xử nêu ra những nghi
vấn về ý đồ và thái độ của Trung Quốc dường như không phù hợp với các
nguyên tắc mà tôi đã nêu ra, có tác dụng đi ngược lại các mục tiêu đó.”
Thứ trưởng Ngoại giao Philippines Evan Garcia nói Manila đang “theo
đuổi một giải pháp hoà bình” và các hoạt động khẳng định chủ quyền của
Trung Quốc tại các đảo có tranh chấp “không phải là một diễn biến tích
cực.”
VIỆT HÀ * VIỆN KHỔNG TỬ
Làn sóng từ chối Viện Khổng Tử trên thế giới và bài học cho VN
2015-01-23
Là một cơ quan của chính phủ TQ
Trước hết nói về những gì mà viện Khổng Tử mang lại cho các trường đại học Mỹ, Giáo sư Levine cho biết:Cần đảm bảo sự tự do và độc lập
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/rejecting-ci-in-the-world-lesson-for-vn-vh-01232015145551.html
TIN QUỐC TẾ
Philippines tố cáo Trung Quốc mở rộng đòi hỏi lãnh thổ ở Biển Đông
Giải mã ngân sách quốc phòng ‘chống Trung Quốc’ của Nhật Bản
Mỹ, Philippines lập mặt trận thống nhất để đối phó với TQ ở Biển Đông
VIỆN KHỔNG TỬ