QUÊ HƯƠNG * NGUYỄN PHÚ TRỌNG
Việt Nam sẽ đi về đâu dưới gọng kềm của Trung cộng và tay sai Nguyễn Phú Trọng
Quê Hương (Danlambao)
- Trong những ngày vừa qua, tình hình nội bộ của ĐCSVN đã thay đổi một
cách nhanh chóng không ngờ. Từ việc bộ 3 chủ tịch nước Trương Tấn Sang,
chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng và thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng với 20 bộ
trưởng bắt buộc phải từ chức về vườn trong khi nhiệm kỳ của chủ tịch
nước và thủ tướng tới tháng 7 bởi vì, phải chờ Quốc Hội mới bầu xong mới
bàn giao. Tại sao Nguyễn Phú Trọng sau khi dùng đủ mánh khóe gian manh
để loại Nguyễn Tấn Dũng ra khỏi BCT và không cho ứng cử chức TBT bằng
luật riêng là TBT đảng phải là người miền Bắc có lý luận rõ ràng. Bây
giờ lại dùng luật rừng vi phạm điều 97 HP hiện hành để buộc QH phải bãi
nhiệm ông Trương Tấn Sang, ông Nguyễn Sinh Hùng và đặc biệt là ông
Nguyễn Tấn Dũng phải ra đi trong tháng 4 này trước thời hạn tổng thống
Obama đến Việt nam vào ngày 20/5/2016. Có phải ông Nguyễn Phú Trong
trong vai trò tay sai của Trung cộng, đã sợ và không muốn cho Nguyễn Tấn
Dũng hội kiến với tổng thống Obama.
Trong những năm qua, kể từ ngày bọn bá quyền Trung cộng đưa giàn khoan
vào vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam cho tới bây giờ, với vai
trò TBT quyền uy nhất nước, Nguyễn Phú Trọng đã không dám đưa ra bất cứ
lời lẽ nào để phản đối Trung cộng. Ngược lại, ông còn tìm đủ mọi cách để
Quốc hội không được họp bàn về biển Đông mặc cho Trung cộng tự do tung
hoành và xây dựng các căn cứ quân sự, phi trường trên các hòn đảo của
Trường Sa và Hoàng Sa mà Trung công đã ngang nhiên chiếm giữ, giữ thái
độ im lặng cho Trung cộng tự do cướp tài sản và bắn giết ngư dân VN. Ông
còn ký hàng loạt những hiệp ước với Trung cộng để thắt chặt tình hữu
nghị đời đời và tham gia vào con đường tơ lụa của Trung cộng. Trong khi
Trung cộng đang gia tăng sự độc quyền của chúng tại biển Đông, tuyên bố
với thế giới là biển Đông trong đó, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ
quyền của chúng thì Nguyễn Phú Trọng lại lấy tiền thuế của nhân dân để
chào đón Tập Cận Bình bằng nghi thức long trọng nhất chưa từng có cùng
với 21 phát đại bác, lại còn cho họ Tập đứng trong hội trường Diên Hồng
của Quốc Hội phát biểu như là một thủ lĩnh trước sự vỗ tay của 500 đại
biểu QH. Đây quả thật là một sự nhục nhã cho một dân tộc VN kiêu hùng mà
tiền nhân xưa đã từng đánh bại quân Tàu xâm lược trong suốt chiều dài
lịch sử của 1000 năm giặc Tàu đô hộ để dành độc lập. Trong lịch sử cũng
có những vì vua chấp nhận đi theo Tàu như vua Lê Chiêu Thống, Trần Ích
Tắc nhưng chưa bao giờ ký kết dâng cho Tàu một tấc đất nào của đất nước
cả. Còn ngày nay các nhà lãnh đạo ĐCSVN đã ký hiệp định biên giới tháng
12/1999 dâng Ải Nam Quan, 2/3 thác Bản Giốc, bãi Tục Lãm và Cao điểm Lão
Sơn... cho Trung cộng, hiệp ước biển tháng 12/2000 tiếp tục dâng thêm
10. 000 km2 vùng biển vịnh Bắc bộ. Trước đó, ngày 14/9/1958 Phạm Văn
Đồng trong vai trò thủ tướng đã theo lệnh Hồ Chí Minh ký công hàm gởi
cho Trung cộng công nhận công hàm của Trung cộng ngày 4/9/1958, mà công
hàm của Trung cộng tuyên bố 2 quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa là của
chúng. Như vậy với công hàm này của ông Phạm Văn Đồng đã mặc nhiên cộng
nhận Hoàng Sa - Trường Sa là của Trung cộng rồi.
Trong tình hình hiện nay, khi mà thời gian cũng đến gần theo mật ước
Thành Đô thì Nguyễn Phú Trong với 72 tuổi cái tuổi đáng lẽ phải về hưu,
nhưng Nguyễn Phú Trọng đã không về hưu. Trái lại, còn tìm đủ mọi cách đê
hèn để tiếp tục tại vị chức TBT đảng để thực hiện con đường đưa đất
nước vào gọng kềm của Trung cộng. Tuy nhiên, cho dù Nguyễn Phú Trọng cố
tình đưa đất nước VN vào gọng kềm của Trung cộng, bất chấp sự phản đối
của nhân dân và rất nhiều người trí thức yêu nước trong và ngoài đảng,
Nguyễn phú Trọng sẽ không bao giờ thành công trong mưu đồ của mình bởi
vì, khi mà Trung cộng bất chấp luật pháp Quốc tế để độc chiếm biển Đông
thì sẽ đụng đến quyền lợi của Hoa Kỳ và các nước cùng có quyền lợi liên
quan như Hoa Kỳ. Nếu trong trường hợp Trung cộng không dừng bước tại
biển Đông thì chiến tranh chắc chắn sẽ xảy ra, với sức mạnh và vũ khí
tối tân của Hoa kỳ cùng các nước đồng minh của Hoa Kỳ thì Trung cộng sẽ
không bao giờ thắng nỗi. Khi đó Trung cộng qua tay Nguyễn Phú Trọng sẽ
kéo VN đứng chung chiến hào để cùng nhau chết. Nhưng điều tồi tệ như thế
chắc chắn sẽ không bao giờ xảy ra bởi vì, nhân dân VN trong và ngoài
nước đang căm thù Trung cộng, đang chống lại những chính sách và chủ
trương thân Trung cộng của ĐCSVN, những phong trào đấu tranh dân chủ
trong nước tiếp tục gia tăng và đang cùng với các phong trào dân oan
trên khắp miền đất nước buộc các nhà lãnh đạo ĐCSVN phải thay đổi tư duy
từ bỏ con đường độc đảng độc tài để thực hiện nền dân chủ đa nguyên.
Cộng đồng VN hải ngoại là hậu phương vững chắc và có đầy đủ sức mạnh
ngoại giao trên trường QT buộc các nhà lãnh đạo ĐCSVN phải thực hiện
những gì đã hứa, đã ký với Quốc Tế cho dù, TBT Nguyễn Phú Trọng và bọn
bá quyền Trung cộng có mưu mô xảo huyệt tới đâu cũng sẽ không bao giờ
thành công trước ý chí và sự quyết tâm của toàn dân tộc VN.
14.04.2016
TRUC GIANG * NĂM KHỈ
Năm khỉ lắm trò khỉ!
Trúc Giang (Danlambao)
- Năm Bính Thân vừa mới đi qua hết một quý nhưng có lắm “trò khỉ” nực
cười của CS đã xảy ra. Xin liệt kê ra một số “trò khỉ” tiêu biểu vừa
được CS biểu diễn làm xiếc như những con khỉ đu dây gần đây.
Đầu tiên phải kể đến là việc áp dụng quyết định 244 loại đồng chí X
trong một thể thức bầu cử hết sức quải đản mà không ai hiểu nổi của
Trọng lú. Quyết định này tạo điều kiện cho Trọng lú lú lẫn thêm một
nhiệm ký ít nhất là 5 năm nữa để phát huy “4 dốt” và “16 chữ ngu” với
thiên triều Tàu cộng. Từ đó tạo điều kiện cho đồng chí X có cơ hội về
vườn ráng “làm người tử tế” trong quãng đời còn lại để chuộc lại lỗi lầm
do quản lý yếu kém làm thiệt hại cho đất nước vài ngàn tỉ đồng trong
các vụ Vinashin, Vinalines...
Việc bầu cử quái đản, lắm chiêu, lắm “trò khỉ” như: dân không bầu nhưng
vẫn ngang nhiên ngồi trên ghế chỉ đạo hay ‘chỉ đại” vì dốt, hoặc chưa
bầu cử đã có kết quả từ vài tháng trước, thậm chí vài năm trước của chế
độ CS không còn làm ai ngạc nhiên. Tuy nhiên, sau khi loại được đồng chí
X với chiêu thức tung hỏa mù là đồng chí X “xin rút lui” khỏi chức TBT
để Trọng lú một mình một ngựa về đích với phiếu bầu cao chót vót gần
100%. Đây là lúc Trọng lú giở “trò khỉ” lừa bịp dân chúng là hết sức
ngạc nhiên vì phiếu tín nhiệm ở lại vị trí TBT quá cao! Còn trò khỉ nào
hơn trò khỉ này!?
Một “trò khỉ” nữa mà chế độ độc tài CS đã giở chiêu bài mị dân lừa đảo
cả dân tộc Việt Nam suốt mấy chục năm qua là luật quy định cá nhân có có
quyền tự ứng cử vào ĐBQH nếu đủ 21 tuổi trở lên. Tuy nhiên hãy nhìn vào
những “cửa ải”gian nan mà những cá nhân tự ứng cử - những người có tâm
huyết đến vận mệnh của đất nước phải vượt qua trong những trò khỉ “đấu
tố” hết sức phản dân chủ mà chế độ CS đã dựng lên những rào cản ở
phường, xã... mới thấy quá trình thỏa hiệp với CS để mở ra một chế độ
dân chủ đúng nghĩa ở Việt Nam của một số người đấu tranh cho dân chủ là
hết sức xa vời.
Thêm một “trò khỉ” nữa mà truyền thông CS vừa tung ra hôm ngày 1/4: Việt
Nam bắt một tàu chở dầu Trung cộng xâm phạm lãnh hải. “Tin lạ” nhưng
tàu không lạ! Chỉ có điều hơi lạ là con tàu chở dầu bị bắt chỉ có 2-3
người Tàu gì đó. Lạ hơn là việc bắt giữ tàu Trung cộng diễn ra sau khi
bộ trưởng quốc phòng TC Thường Vạn Toàn sang thăm Việt Nam và Việt Nam
mở cửa Cam Ranh cho giặc Tàu ghé thăm. Tưởng đây là màn đạo diễn rất
hoàn hảo giữa TC và VC nhưng nhìn kỹ mới thấy đây rõ ràng là “trò khỉ”
đu dây rất nguy hiểm của CSVN.
SG, 13/4/2016
NS. TÔ HẢI * BÀ CHỦ TỊT
Bà chủ tịt mới nhận nhiệm vụ mới bằng... nói phét! Ông tướng thủ mới nhận nhiệm vụ mới bằng... ba hoa!
Nhạc sĩ Tô Hải (Danlambao)
- Đây! Ông Phúc, từ vai trò phó cho anh Ba, nay được “đôn” lên, thay
thế anh Ba, trong cuộc họp nội các mới, lần đầu đã nghiêng đầu, hùng hồn
đọc trên tờ giấy đã viết sẵn: "...yêu cầu mỗi thành viên Chính phủ
phải đổi mới cách làm: dân chủ, minh bạch, cởi mở, quyết đoán, sáng tạo,
dám nghĩ, dám làm, tạo nguồn lực cho phát triển. Cái gì kìm hãm thì
phải bỏ ngay, cái gì có lợi cho dân thì nỗ lực thực hiện..."
Nghĩa là anh rút kinh nghiệm của anh Ba X, vừa lên đã hứa những điều cụ
thể như "Không chống được tham nhũng thì từ chức! " để rồi... trơ mắt
ếch khi bị chất vấn về cái lời hứa quá cụ thể này.
Còn anh Phúc thì... dù cái đầu có bị teo tóp tí chút, nhưng khôn vặt ra
mặt, khi chỉ đưa ra những thứ khó mà sờ mó tới vì nó toàn là đỉnh cao lý
tưởng hoàn chỉnh của bất cứ một chính quyền nào! Anh toàn đề ra các thứ
"cần phấn đấu...", "Chúng ta sẽ...", “Chúng ta cần”...
Đố ai bắt bẻ được anh cũng như chả ai lên án người nói câu: "Nhân chi sơ, tính bản thiện" được!
Trái lại, chị Kim Ngân, một người phó mà công chúng chỉ mới được biết
trình độ qua độc có một câu nói: "Mời đại biểu X lên phát biểu, đại biểu
Y chuẩn bị!" lần này, bị đôn lên làm nghề...
Phải công khai nói dối, nói láo, nói bậy, nói ngược với cái gì đang diễn ra trong thực tế đời sống!
Khổ cho chị thiệt! Hãy nghe chị ấy lần đầu ca ngợi cái quác hụi mà chị
ấy được "đôn" lên nắm nó dù đã bao năm biết nó đã bị chính ông Hùng Hói
và hàng loạt các đại biểu lên án nó làm sai trái, vi hiến, vi phạm pháp
luật, "bắt bớ tùy tiện", "ác độc với nhân dân"... (nhất là những ngày
họp cuối cùng trước khi “gút bai” nhau). Vậy mà lên chức chủ tịt, chị
đành phải nhận nghề "nói láo, nói dối, nói phét, nói phịa ra những điều
chẳng hề có bao giờ, mà... cứ tỉnh bơ như... đại vương Trọng vậy! Đây
nè":
“Nhìn lại cả nhiệm kỳ, có thể khẳng định Quốc hội khóa XIII đã làm
tròn trọng trách ban hành Hiến pháp năm 2013 và căn bản hoàn thành việc
cụ thể hóa Hiến pháp trong các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước; bảo
vệ công lý, quyền con người, quyền công dân;
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
củng cố quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; bảo đảm an sinh xã
hội, bảo vệ môi trường, đối ngoại và hội nhập quốc tế…”
Tuy chẳng có phép mầu nào, chẳng có lý lẽ nào có thể "cứu" các vị khỏi
con đường tội lỗi bắt đầu ngày càng nghiêm trọng do trọng trách lớn hơn,
tớ chỉ còn cầu mong sao toàn bộ cái bộ chính trị nhà các vị bỗng dưng
có một vài tên nào... chấp hành nghị quyết ĐH XII mà... đổi mới tư duy sâu sắc và toàn diện bằng cách:
Không ai trong bô-xê-tê quí vị ứng cử vào quốc hội cả để khỏi mang tiếng đảng trị với thế gian!
Đảng là đảng của đảng viên các vị chứ không phải của 90 triệu dân đen chúng tôi!
Nói thẳng, nói thật là:
Mong các ông vua quyền lực lớn nhất của các vị hãy dừng tay đẩy đảng
viên các vị vào vũng lầy của tội ác nữa! Thời khắc của các nhà chánh
trọe mà không có lý tưởng chính trị đã điểm! "Chuông gọi hồn ai" đã vang
vọng từ Bắc Kinh sang Ba Đình rồi đó!
14.04.2016
LÊ MINH KHÔI * HỒ CHÍ MINH
Đi tìm sự thật về con người muôn mặt Hồ Chí Minh (phần 1)
Lê Minh Khôi (Danlambao)
- Dù chấp nhận hay chống đối, dù kính trọng hay khinh ghét, Hồ Chí Minh
vẫn là một nhân vật lịch sử đương đại. Viết về Hồ Chí Minh, khen cũng
nhiều, chê cũng lắm, thần thánh hóa cũng không ít mà bôi bác cũng không
thiếu.
Những người từng đứng dưới trướng Hồ Chí Minh thì ra sức bào chữa và che
đậy tội ác của Hồ Chí Minh, không phải vì họ thương tiếc kính trọng con
người này, mà là để bảo vệ chính họ. Càng che đậy được tội ác của Hồ
Chí Minh càng chứng tỏ con đường đi của họ trong quá khứ không có gì sai
lầm. Ngược lại, tội ác của Hồ Chí Minh càng bị lột trần thì họ càng bị
nhục nhã vì đã tiếp tay cho một tên ác quỷ hại dân hại nước và cuộc đời
của họ hiện nguyên hình chỉ là cuộc đời của những tên thời cơ, hoạt đầu,
cuồng tín, ngu si, hại dân hại nước.
Với người chống Cộng, ngoài việc mong muốn trả lại sự thật cho lịch sử
còn muốn lột trần thủ đoạn và tội ác của Hồ Chí Minh. Trong
việc làm này, nhiều sự thật phũ phàng tới độ khó tin đã được
phát hiện, đẩy người viết đến những cảm xúc và những bài viết
quá mạnh. Cũng chính vì vậy mà một số người cho rằng người viết mang
nặng định kiến.
Nhớ lại, năm 1954 cả triệu đồng bào Miền Bắc di cư vào Nam, khi kể lại
những chuyện đấu tố, công an trị, xiết bao tử hoặc ngăn sông cấm chợ
của Cộng Sản Hà Nội thì rất nhiều người nghi ngờ cho là “dân Bắc Kỳ di
cư xạo sự”. Cho đến tháng 4 năm 1975, không ít người Miền Nam vẫn
còn tỏ ra vui mừng lúc “đàn bò vào thành phố”. Nhưng chỉ một thời
gian ngắn, sau khi chứng kiến tận mắt cộng sản sục sạo từng góc
nhà, lập trạm kiểm soát dọc đường, chận bắt từng ký gạo lạng thịt, bày
trò đánh tư sản mại bản, cưỡng bức dân thành phố lên các vùng
rừng rú hoang địa được mệnh danh là các vùng kinh tế mới để
cướp đoạt tài sản nhà cửa thì chính những kẻ một thời từng
mơ ước Cộng Sản và từng lên đường xuống đường chống phá Miền
Nam mới mở mắt và tìm cách vượt biên bất kể sống chết. Lúc này mọi
người mới nhận ra rằng mọi câu chuyện kể về tội ác của Cộng Sản đều là
sự thật, và “nếu cái cột đèn biết đi thì nó cũng đi”.
Vì vậy, để có một nhận định đúng về Hồ Chí Minh chúng ta không thể căn
cứ hoàn toàn vào những gì thấy trên các mạng truyền thông hay trên một
trang sách mà cần phải phân tách tìm hiểu các bài viết đó từ nhiều góc
độ. Hơn thế nữa, chúng ta còn phải so sánh lời nói và việc làm của chính
Hồ Chí Minh mới có thể nhận diện được mặt thật của con người muôn mặt
này.
Việc đấu tố tại Miền Bắc trong những năm 1953-1956 do Hồ Chí
Minh phát động giết oan hàng trăm ngàn người là có thật. Việc
triệt hạ các đảng phái đối lập và bắt bớ tù đày hàng triệu
người dân vô tội chỉ vì nghi ngờ những người này sẽ gây nguy
hiểm cho chế độ là có thật. Hình ảnh Hồ Chí Minh khóc lóc
lau nước mắt trong màn kịch sửa sai ngày 29-10-1956 tại quãng
trường Ba Đình- Hà Nội cũng là có thật. Nhưng những giọt nước
mắt của Hồ Chí Minh chỉ là những giọt nước mắt cá sấu bởi
vì hàng trăm ngàn nạn nhân bị đấu tố cùng thân nhân của họ
vẫn tiếp tục bị truy sát lý lịch, quản chế, cô lập, hành hạ,
đầy đọa cho đến ba đời con cháu vẫn không ngóc đầu lên được.
Ông Nguyễn Văn Thiệu, cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, từng có một câu
nói để đời: “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm”.
Có hai tập sách của hai tác giả biết rất nhiều, biết rất rõ
ràng, biết chi ly, biết hết những góc cạnh uẩn khúc cuộc đời và
hoạt động của Hồ Chí Minh từ tuổi ấu thơ cho đến ngày Hồ Chí Minh “đi
gặp cụ Các Mác cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác” theo bản di
chúc. Hai tập sách này do Hà Nội xuất bản: Tập thứ nhất có tựa đề “Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” tác
giả Trần Dân Tiên, nhà xuất bản Sự Thật, Cơ Quan Tuyên Huấn Trung Ương
Đảng, in lần thứ nhất năm 1949 và tái bản nhiều lần. Tập thứ hai có tựa
đề “Vừa Đi Vừa Kể Chuyện” của tác giả T. Lan do nhà xuất bản Thanh Niên Hà Nội ấn hành.
Về phía ngoại quốc, ngoài Jean Lacouture, Bernard B. Fall, Jean Francois Revel, Oliver Tood... còn có ba tác phẩm nặng ký là “Vietnam A History” của Stanley Karnow, Viking Press, 1983, “Ho Chi Minh - The Missing Years 1919-1941” của Sophie Quinn-Judge, Bekeley, University of California 2003 và “Ho Chi Minh” của William J. Duiker.
Stanley Karnow viết về Việt Nam giống như phò mã cỡi ngựa xem hoa hay
một anh thợ chụp hình, chỉ thấy được những gì “bên ngoài” chứ không biết
được “bên trong”. Lại nữa, tài liệu của Stanley Karnow phần lớn dựa
theo tài liệu của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ cùng các nguồn tin của Cộng Sản
nên hời hợt, không cân bằng. Tuy nhiên dù một chiều và nhiều thiếu sót, “Vietnam A History” của Stanley Karnow lại là “A Companion to the PBS Television Series” nên ảnh hưởng không ít đến giới trẻ và những người không biết gì về Việt Nam. Hai tác phẩm còn lại, “Ho Chi Minh The Missing Years 1919-1941” của Sophie Queen Judge và “Ho Chi Minh” của
William J. Duiker, nhờ ra đời sau khi đế quốc Liên Sô và các nước Cộng
Sản Đông Âu sụp đổ vào năm 1989 nên đã thu thập và khui ra được một số
bí mật. Tuy nhiên cũng còn vô số bí ẩn chưa tìm được lời giải.
Ở trong nước sách báo viết về Hồ Chí Minh nhiều hơn lá mùa thu, để câu
cơm, để giữ ghế, để chạy chức chạy quyền, để mỗi tháng trong sổ lương
thực được bồi dưỡng thêm nửa lạng thịt hay vài trăm gam bột ngọt nên đầy
dẫy những tâng bốc và thần thánh hóa, đại loại như “Tác Phẩm Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh” của Hà Minh Đức, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội 1984, “Thời Niên Thiếu Của Bác Hồ” của Ban Nghiên Cứu Lịch Sử Đảng, “Bác Hồ Trên Đất Pháp”, “Bác Hồ Trên Đất Nước Lê Nin” của Hồng Hà hay “Di Tích Chủ Tịch Hồ Chí Minh”
của Trần Minh Siêu... Những tập sau này tuy thêm một số chi tiết và
mang nội dung như những tập biên khảo nhưng thực chất chỉ là dựa theo
hai quyển sách của Trần Dân Tiên và T. Lan rồi vẽ cọp thêm râu, vẽ rắn
thêm chân, bịa đặt, khuếch đại. Những tập sách tâng bốc ngu si và nhảm
nhí này không đáng để mắt tới.
Dưới đây là nguyên bản hai trang mở đầu của Chương I trong tập “Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch”, tác giả Trần Dân Tiên, ấn bản đầu tiên 1949, tái bản tại Hà Nội 1976:
Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và
ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa, nhưng mãi đến nay, chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất
giản đơn: Chủ Tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình.
Ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945, lần đầu
tiên tôi trông thấy Hồ Chủ tịch. Đó là một ngày lịch sử. Ngày hôm ấy,
đứng trước rất đông quần chúng hoan hô nhiệt liệt, Hồ Chủ tịch trang
nghiêm đọc bản TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP của nước Việt-nam dân chủ cộng hòa.
Ngày thứ hai tôi viết thư xin phép được
gặp Hồ Chủ tịch. Ngay chiều hôm ấy, tôi rất sung sướng tiếp được thư
trả lời của Hồ Chủ tịch viết như thế này:
“Ngày mai 7 giờ 30 mời chú đến”
Ký tên HỒ-CHÍ MINH
Thư trả lời chóng, nội dung thư giản đơn và giờ hẹn gặp sớm khiến cho tôi rất băn khoăn.
“Sáng ngày 4-9-1945, đúng 7giờ 25 tôi
đến dinh Chủ Tịch. Đúng 7 giờ 30, một người thanh niên đến phòng khách,
lễ phép nói với tôi: “Hồ Chủ Tịch đang đợi anh ở phòng làm việc”. Phòng
làm việc của Chủ Tịch là một gian phòng rất rộng, một bên có nhiều cửa
sổ lớn. Trong phòng có một cái bàn làm việc, một chiếc giường, một tủ
sách nhỏ kê sát vào tường, và hai bàn nhỏ của hai thư ký. Phía trên lò
sưởi có một lọ hoa. Đây là tất cả những đồ trang trí trong phòng làm
việc, không có trang trí một thứ gì khác.
Hồ Chủ tịch thường mặc bộ quần áo
ka-ki, đi giày vải đen. Tóc Người đã hoa râm, trán rộng và cao, đôi mắt
sáng ngời, mũi thẳng, râu che nửa miệng, mặt gầy, da ngăm ngăm đen,
khiến người ta nghĩ đến sương gió dãi dầu trong rừng sâu và những nỗi
gian khổ của chiến tranh du kích...
Không cần mất công suy nghĩ, chỉ đọc một trích đoạn ngắn trên chúng ta đã thấy ngay có những điều không ổn:
Theo tác giả Trần Dân Tiên, sau khi đến quảng trường Ba Đình chiêm
ngưỡng Hồ Chủ Tịch đọc diễn văn vào ngày Chủ Nhật 2-9-1945 thì ngày hôm
sau, Thứ Hai 3-9-1945, ông về nhà lập tức viết ngay một lá thư xin được
gặp để làm cuộc phỏng vấn. Thư viết gửi đi buổi sáng thì ngay chiều hôm
ấy, nghĩa là cũng vào ngay chiều Thứ Hai 3-9-1945 ông đã nhận được thư
phúc đáp viết ngắn gọn như thế này: “Ngày mai 7 giờ 30 mời chú đến” Ký tên Hồ Chí Minh.
Chuyện sẽ không có gì đáng nói nếu như sự việc xảy ra vào thời buổi tin
học hiện đại, hai người có địa chỉ điện thư của nhau, chỉ cần một cái
nhấp chuột là người kia nhận được điện thư và trả lời. Tiếc thay, vào
thời điểm 1945, phương tiện truyền tin tối tân nhất chỉ nhờ vào tín hiệu
tạch tạch tè tè của ông Samuel Morse, và phương tiện này chỉ dành cho
các cơ quan công quyền hay sở bưu điện, còn đám dân thường thì chỉ trông
cậy vào người đưa thư.
Ông Trần Dân Tiên là một nhà báo, đâu có phương tiện như một cơ quan
công quyền, còn Hồ Chí Minh thì mới sáng hôm qua còn bận bịu đọc Tuyên
Ngôn Độc Lập, bề bộn công việc, đâu có thì giờ ngồi ở phòng nhận, đọc và
trả lời điện tín. Như vậy chuyện một nhà báo buổi sáng gữi thư đi, buổi
chiều nhận được thư trả lời của một vị Chủ Tịch Nước, nhanh đến như thế
là một chuyện bịa đặt bá láp, cực kỳ vô lý, cực kỳ ngu xuẩn.
Bây giờ chúng ta cùng xem hai bác cháu gặp nhau rồi nói với nhau những gì!
Nhà báo Trần Dân Tiên viết nơi trang 6:
... Lúc mới gặp, tôi có cảm giác người
như một thày giáo ở nông thôn. Tóc người hoa râm, trán rộng và cao, đôi
mắt sáng ngời, mũi thẳng, râu che nửa miệng, mặt gầy, da ngăm ngăm
đen,...
Người bô trai quá! Vừa bô trai vừa phong sương gấp trăm lần anh chàng
Dũng trong Đoạn Tuyệt của Nhất Linh! Chưa hết! Người còn nhiều cái hay
kinh hãi khác nữa. Khi nhà báo Trần Dân Tiên muốn được biết tiểu sử của
Người thì Người cười và đáp:
“Tiểu sử. Đấy là một ý kiến hay. Nhưng
hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn. Chúng ta phải làm những công việc
hết sức cần kíp đi đã! Còn tiểu sử của tôi... hong thả sẽ nói đến...”
Và ký giả Trần Dân Tiên đưa ra nhận xét của mình nơi trang 7:
“Một người như Hồ Chủ Tịch của chúng ta
với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc làm
sao có thể kể lại cho tôi nghe bình sinh của Người được?”
Trời đất ơi là trời đất! Bác thì trán rộng và cao, đôi mắt sáng ngời,
mũi thẳng, không chỉ đẹp trai hết sẩy lại còn thêm đức khiêm tốn không
muốn nói về mình. Còn cháu thì thông minh giỏi giang (bởi vì không
giỏi giang làm sao có được cuộc phỏng vấn và viết được quyển Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch cho chúng ta đọc).
Hai bác cháu khen nhau rối rít.
Có điều sau này vỡ lẽ ra trên mảnh đất Việt Nam hình cong chữ S này từ thời Hồng Bàng lập quốc đến nay chẵng
có một ai mang tên Trần Dân Tiên làm nghề viết báo. Hồ Chí Minh đã dựng
lên một Trần Dân Tiên không có thật và dựng lên cuộc phỏng vấn không có
thật để tự khen mình bô trai, thông minh, con nhà giàu, học giỏi, khiêm
nhượng. Hồ Chí Minh đã tự đề cao mình, tự đánh bóng mình, hay nói một
cách đúng hơn là để tự sướng. Điều này đã được chính thức xác nhận bởi ông Nguyễn Khánh Toàn, Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa Giáo Dục Hà Nội. Trong bài đề tựa quyển “Tác Phẩm Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh” của tác giả Hà Minh Đức, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1984, ông Nguyễn Khánh Toàn viết: “Trần Dân Tiên là bút danh của Hồ Chủ Tịch ghi lại những sự kiện lớn đã đi qua cuộc đời của Người do chính Người miêu tả...” Một số tác phẩm khác do Hội Nhà Văn Việt Nam tại Hà Nội ấn hành từ giữa những năm 1990 về sau cũng xác nhận tác giả tập “Vừa Đi Vừa Kể Chuyện” là T.LAN cũng là một bút hiệu khác của Hồ Chí Minh.
Bởi vì Trần Dân Tiên là một nhân vật không có thật nên cuộc phỏng vấn
đương nhiên là không có thật và những sự việc được kể ra trong quyển Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch hoàn toàn không có thật. Cũng như vậy, những mẫu chuyện trong tập Vừa Đi Vừa Kể Chuyện
của T.LAN viết về Hồ Chí Minh cũng chỉ là những chuyện Hồ Chí Minh
tưởng tượng tô vẽ về mình. Nói trắng ra là bịa đặt, là phịa, là dối trá,
là bịp bợm. Như vậy, các bài viết và những quyển sách của một số tác
giả tại Hà Nội cũng như của một vài cây viết ngoại quốc dựa theo mấy
quyển sách này thì lấy đâu ra sự thật. Vì thế, muốn biết về Hồ Chí Minh không gì hơn là đi tìm tài liệu, đi tìm nhân chứng và bằng chứng để đối chiếu.
Sáu tháng sau vụ khủng bố 9-11-2001, cựu Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Nga
Sô và cũng là cựu tổng thống Liên Bang Xô Viết Mikhail Gorbachev đã đến
đặt vòng hoa tưởng niệm nạn nhân tại Trung Tâm Thương Mại New York. Sau
đó ông có một buổi nói chuyện với thính giả và sinh viên Columbia
University. Tại đây ông xác nhận: "Đảng Cộng Sản mà tôi phục vụ cả
đời chỉ biết tuyên truyền. Chúng tôi, trong số đó có tôi, từng nói 'Tư
bản đang dãy chết. Trên thực tế, chúng tôi bị bỏ rơi lại đàng sau và chế
độ đã tan rã..."
Cộng Sản Việt Nam là tay sai của Cộng Sản Nga Sô nên việc tuyên truyền
và dối trá là điều đương nhiên. Kỹ thuật tuyên truyền của Cộng Sản là
dựa trên một số sự kiện có thật để phịa ra những điều không thật, nhất
là trong việc bịp bợm và thần thánh hóa lãnh tụ. Những bịp bợm này được
lồng qua những bài viết trên các cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng Sản như
Tạp Chí Cộng sản, Tạp chí Học Tập, trên báo chí, trên các trang mạng,
và đầy dẫy trên Wikipedia...
Đó là lý do tại sao chúng tôi cho đăng nguyên văn dưới đây một số trích
đoạn tài liệu của Cộng Sản để chúng ta dễ dàng phân tích, đối chiếu, lựa
chọn, trong việc đi tìm sự thật.
Xuất thân và quê quán:
Theo tài liệu của Hà Nội:
Gia phả của dòng họ Nguyễn ở làng Sen
xã Kim Liên tại huyện Nam Đàn, Nghệ An thì Hoàng sơ tổ khảo là Nguyễn Bá
Phụ, tổ đời thứ hai là Nguyễn Bá Bạc, tổ đời thứ ba là Nguyễn Bá Ban,
tổ đời thứ tư là Nguyễn Văn Dân, tổ đời thứ năm là Nguyễn Sinh Vật giữ
chức giám sinh đời Lê Thánh Đức (tức Lê Thần Tông năm thứ ba), tổ đời
thứ sáu là Nguyễn Sinh Tài đỗ hiếu sinh khi 17 tuổi, năm 34 tuổi đỗ tam
trường khoa thi Hội..., tổ đời thứ 10 là Nguyễn Sinh Nhậm. Cả bốn đời
đầu tiên của dòng họ đều chưa lấy đệm là "Sinh" và không rõ năm sinh,
năm mất.
Chủ Tịch tên thật là Nguyễn Sinh Cung
(giọng địa phương phát âm là Công), tự là Tất Thành. Quê nội là làng Kim
Liên (tên Nôm là làng Sen). Ông được sinh ra ở quê ngoại là làng Hoàng
Trù (tên Nôm là làng Chùa, nằm cách làng Sen khoảng 2 km) và sống ở đây
cho đến năm 1895. Hai làng này vốn cùng nằm trong xã Chung Cự, thuộc
tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn. Quê nội của ông, làng Kim Liên là một
làng quê nghèo khó. Phần lớn dân chúng không có ruộng, phải làm thuê cấy
rẽ, mặc quần ít, đóng khố nhiều, bởi thế nên làng này còn có tên là
làng Đai Khố. Vào đời ông, phần lớn dòng họ của ông đều cơ hàn, kiếm
sống bằng nghề làm thuê, và cũng có người tham gia các hoạt động chống
Pháp.
Thân phụ ông là một nhà nho tên là
Nguyễn Sinh Sắc, từng đỗ phó bảng. Thân mẫu là bà Hoàng Thị Loan. Ông có
một người chị là Nguyễn Thị Thanh, một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm
(tự Tất Đạt, còn gọi là Cả Khiêm) và một người em trai mất sớm là Nguyễn
Sinh Nhuận 1900-1901, tên khi mới lọt lòng là Xin...
Trên đây là lai lịch của Hồ Chí Minh trên trang mạng Wikipedia. Sự thật
quan trọng đầu tiên là Hồ Chí Minh không hề mang huyết tộc họ Nguyễn và
Hồ Chí Minh cũng không phải là con của ông Nguyễn Sinh Sắc (sau này dổi
tên là Nguyễn Sinh Huy) mà là con hoang dâm của bà Hoàng Thị Loan và Hồ
Sĩ Tảo.
Chúng ta có bằng chứng:
Cuộc tình duyên của ông Nguyễn Sinh Sắc và bà Hoàng Thị Loan được Ban
Nghiên Cứu Lịch Sử Đảng Tỉnh Ủy Nghệ Tĩnh ghi lại nơi trang 15 trong “Những Mẩu Chuyện Về Thời Niên Thiếu của Hồ Chủ Tịch”, nhà xuất bản Hà Nội, nguyên văn:
...Vào thời bấy giờ quan niệm “môn đăng
hộ đối” trong hôn nhân phong kiến ràng buộc chặt chẽ mọi người, nhất là
đối với tầng lớp nho sĩ. Song bởi hết lòng yêu mến một học trò có đức
có tài nên ông bà Đường đã gã bà Hoàng Thị Loan, con gái đầu lòng của
mình cho ông Nguyễn Sinh Sắc. Năm ấy bà Loan mới 13 tuổi...
Quả thật vào thời buổi ấy tại một vài nơi có hủ tục tảo hôn, nghĩa là
cha mẹ dựng vợ gã chồng cho con ở lứa tuổi rất sớm. Có thể cha mẹ đôi
bên là bạn bè thân thiết nên hứa hẹn với nhau khi bào thai còn nằm trong
bụng mẹ. Có thể gã con để trừ nợ. Có thể vì “Làm lẽ mà đắp chăn bông. Còn hơn chánh thất mà không chiếu nằm”.
Trường hợp chồng lớn tuổi vợ nhỏ tuổi là rất thường vì đàn ông ai cũng
thích có vợ trẻ. Tuy nhiên không hiếm trường hợp người chồng rất nhỏ
tuổi nhưng lại lấy vợ rất lớn tuổi. Chú rể hãy còn mặc quần thủng đáy,
hỷ mũi chưa sạch đã được cha mẹ cưới về cho một cô vợ mười tám đôi mươi.
Chuyện ngược đời xảy ra có thể vì nhà trai muốn có thêm người làm hay
vì công việc gia đình không thể trao cho người ngoài, còn nhà gái vì
thương con, muốn con được vào chỗ có cơm ăn áo mặc không phải chịu cảnh
nghèo đói khổ cực. Người con trai cũng chẵng thiệt thòi gì vì khi trưởng
thành có thể cưới thêm nhiều bà vợ thứ.
Chồng già lấy vợ trẻ là để hưởng thụ. Chồng trẻ lấy vợ già là để gia
đình nhà chồng có người làm. Tuy nhiên dù ở vào trường hợp nào đi nữa cả
hai đều rơi vào một mẫu số chung duy nhất là người vợ luôn luôn phải ở
vào lứa tuổi mười tám đôi mươi, một lứa tuổi sẵn sàng cáng đáng ông việc
nhà chồng, sẵn sàng làm vợ và làm mẹ.
Ở đây câu chuyện hoàn toàn trái ngược. Bà Hoàng Thị Loan chỉ mới 13
tuổi, một cái tuổi chưa đủ khôn ngoan để biết giúp đỡ và lo lắng công
việc nhà chồng, một cái tuổi quá nhỏ để biết làm vợ và làm mẹ. Vậy thì
ông Nguyễn Sinh Huy rước về làm gì? Câu trả lời chỉ có thể nằm một trong
ba trường hợp: Thứ nhất: Ông Nguyễn Sinh Huy là người không đường
hoàng, mắc bệnh ấu dâm. Thứ hai: Thầy đồ Hoàng Xuân Đường nhìn thấy
tương lai sáng sủa của ông Nguyễn Sinh Huy nên đã hành động như quan phủ
họ Trần trong chuyện tình Lan và Điệp. Thứ ba: Bà Hoàng Thị Loan có máu
đa tình quá độ và quá sớm.
Cân nhắc kỹ càng ta thấy giả thiết thứ nhất không thể chấp nhận được bởi
vì trong suốt cuộc đời, từ lúc hàn vi thư sinh tới khi ra làm quan và
cho tới khi bị sa thải sống đời phiêu bạt cũng không tìm thấy nơi ông
Nguyễn Sinh Huy có một chuyện tình lăng nhăng nhảm nhí nào.
Sở dĩ phải phân tích dài dòng chuyện vợ chồng của ông Nguyễn Sinh Huy vì
nó là đầu mối của nhiều bí ẩn: Việc bà Hoàng Thị Loan sinh thêm một đứa
con tên Xin. Việc ông Nguyễn Sinh Huy thất chí rồi mất chức. Việc Hồ
Chí Minh cư xử bạc bẽo với ông Nguyễn Sinh Huy cùng hai người anh chị
cùng chung máu mủ là bà Nguyễn Thị Thanh và ông Nguyễn Tất Đạt. Đây cũng
là đầu mối dẫn đến cuộc đời gian tặc của Hồ Chí Minh.
Về đứa con mang tên Nguyễn Sinh Xin sách Những Mẫu Chuyện Về Thời Niên Thiếu Của Hồ Chủ Tịch do Ban Nghiên Cứu Lịch Sử Đảng Tỉnh Ủy Nghệ An ấn hành năm 1976, trang 17, ghi rõ như sau:
...Xa mẹ, xa em, xa bà con làng xóm ấm
áp nghĩa tình và rời bỏ ruộng vườn với những công việc quen thuộc là
điều mà bà Loan không muốn. Nhưng vì đường học hành thi cử của chồng,
với tấm long yêu chồng và thương con sâu sắc, bà Loan đã gữi cô Thanh
lại cho bà ngoại, rồi cùng chồng dắt díu hai anh em cậu Thành, cậu Đạt
vào kinh đô Huế...
Trang 19 viết tiếp:
... Khóa thi Hội năm 1898 ông Sắc vẫn không đỗ. Cũng thời gian ấy bà sinh thêm cậu Nguyễn Sinh Xin.
Trang 20 viết:
Được một người bạn làm việc ở Huế giới
thiệu, ông Sắc đưa hai anh em cậu Thành đi theo và đến dạy học ở nhà cụ
Nguyễn Sĩ Độ tại làng Dương Nỗ, huyện Phú Vang, ngày nay là huyện Hương
Phú, cách thành phố Huế khoảng 7 ki lô mét. Bà Loan ở lại Huế tiếp tục
làm nghề dệt vải thuê và nuôi con nhỏ...
Trang 21 viết:
...Theo học với cha ở làng Dương Nỗ
chưa được hai năm thì bà Hoàng Thị Loan lâm bệnh. Mặc dù ông Sắc và bạn
bè hết lòng chạy chữa nhưng vì bịnh tình quá nặng lại không đủ thuốc
thang nên bà Hoàng Thị Loan đã qua đời ngày 10-2-1901.
Những sự kiện nói trên trong quyển Những Mẫu Chuyện Về Thời Niên Thiếu Của Hồ Chủ Tịch do Ban Nghiên Cứu Lịch Sử Đảng Tỉnh Ủy Nghệ An đưa ra đã tạo nên nhiều dấu hỏi và càng giải thích càng khó hiểu.
Nói rằng bà Loan theo chồng vào Huế là để có thể lo lắng giúp chồng ăn
học, vậy thì thời gian ở Huế tại sao ông Nguyễn Sinh Huy không ở với vợ
mà dẫn hai con đến nhà ông Nguyễn Sĩ Độ tại bến Hương Trà cách Huế hơn 7
cây số. Ông Nguyễn Sinh Huy đã từng một mình ở Huế trước khi đón vợ con
vào, điều này chứng tỏ ông Nguyễn Sinh Huy rất thương vợ thương con và
muốn có vợ con bên cạnh. Vậy thì lý do nào đã khiến ông Nguyễn Sinh Huy
bỏ đi ở chỗ khác trong khi bà Hoàng Thị Loan mới sinh nở một đứa con mọn
rất cần sự có mặt của người chồng. Lúc này bà Loan ở đâu và ở với ai?
Chẵng lẽ bà Loan ở một mình trơ trọi. Với đứa con mọn trên tay cảnh sống
chồng một nơi vợ một nẻo lại càng thêm tốn kém. Tự nuôi lấy thân đã rất
khó mà có ở lại Huế cũng không được ở bên chồng, tại sao bà Loan không
ẵm đứa nhỏ trở về Nghệ An mà vẫn ở lại Huế để đến nỗi cả hai mẹ con đều
chết tức tưởi vì bệnh tật thiếu thốn.
Như ta đã biết ông Nguyễn sinh Huy là một tay khoa bảng nên mọi việc đều
rất cẩn trọng để xứng đáng với danh phận ưu đãi của xã hội dành cho
giới sĩ phu thời bấy giờ. Hãy nhận xét việc ông đặt tên cho ba người con
trước. Nguyễn Thị Thanh tự Bạch Liên vì quê ở làng Kim Liên. Rồi Nguyễn
Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Cung và sau đó đổi ra Nguyễn Tất Đạt, Nguyễn
Tất Thành. Bốn chữ Khiêm Cung Thành Đạt tự nó đã nói lên đức tính
cẩn trọng của một nhà nho đồng thời cũng nói lên kỳ vọng của một người
cha gửi gấm vào các con. Với cả một sự cẩn trọng như vậy thì tại sao lại
lọt vào một cái tên Xin nôm na mách qué lọt vào phả hệ họ Nguyễn. Xin
có nghĩa là gì?
Xin của ai? Xin ở đâu? Xin lúc nào?
Trong quyển Chân Tướng Hồ Chí Minh nơi trang 37 và 38 giáo sư Cao Thế Dung đã ghi lại:
... Dòng cử nhân Hồ Sỹ Tảo nguyên quán
làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, sau di sang làng Thái Nhã, tổng Võ
Liệt, huyện Thanh Chương. Ông là một người ngang ngược, theo tư liệu của
Hồng Liên Lê Xuân Giáo thì ông Hồ Sỹ Tảo lại có tật nghiện rượu, thiếu
cốt cách nho phong, vì vậy cho dù là đồng môn và đồng hương với Hoàng
Cao Khải, ông cử Tảo vẫn không được Khải đề bạt làm quan nên Cử Tảo
chung thân bất mãn. Câu chuyện phòng the oan trái vỡ lỡ, tiếng đồn lan
khắp một tổng Lâm Thịnh qua lời nói đầy độc địa “Tảo đúc cốt, Sắc tráng men”.
Đây là một biến cố đối với nho sĩ Nam Đàn, vi phạm nghiêm trọng đến nho
phong và danh giá. Cử Tải bị Nho lâm và đồng môn Nghệ An mặc nhiên
không nhìn nhận. Do vật gốc gác thụ sinh ra ông Hồ không phải là điều
quá bí mật với lớp cao niên Nghệ Tĩnh.
Lớn lên lúc 7, 8 tuổi cậu Cung tức ông
Hồ cũng đã biết gốc gác không đẹp trong việc sinh ra mình cho nên thuở
thiếu thời, theo lời cụ Cao Xuân Ôn người làng Hương Khê, Hà Tĩnh, cậu
Cung rất ít nói, trong lòng cũng như mang mối hận mênh mang...
Câu chuyện Tảo đúc cốt Sắc tráng men lan tràn khắp làng Quỳnh Đôi
và làng Sen đất Nghệ An, ai ai cũng biết nhưng không dám hó hé đả động,
cho mãi tới thập niên 1990 một sử gia Miền Bắc là ông Trần Quốc Vượng
mới kín kín hở hở đề cập tới trong bài viết Thật Mà Chưa Chắc Là Thật và sau đó triển khai thêm trong quyển “Trong Cõi”. Nối tiếp sự khám phá của sử gia Trần Quốc Vượng là các bài viết của hai ông Sơn Tùng (sử gia miền Bắc) và ông Phạm Xuân Cần.
Tuy nhiên bài viết mập mờ “Thật Mà Chưa Chắc Là Thật” của ông
Trần Quốc Vượng lại tiết lộ rằng ông Hồ Sỹ Tảo thông dâm với cô Đèn tức
là thông dâm với bà Hà Thị Hy là vợ của ông Nguyễn Sinh Nhậm rồi đẻ ra
ông Nguyễn Sinh Sắc (sau này ông Sắc tự đổi tên là Nguyễn Sinh Huy). Như
vậy là Hồ Sỹ Tảo gian dâm với bà nội của Hồ Chí Minh chứ không phải
gian dâm với mẹ Hồ Chí Minh, và cũng vì vậy ông Nguyễn Sinh Sắc tức
Nguyễn Sinh Huy và tất cả các con của ông là Nguyễn Thị Thanh, Nguyễn
Tất Đạt cũng như Nguyễn Tất Thành đều mang giòng máu Hồ Sĩ Tảo.
Sử gia Trần Quốc Vượng hoặc đã lầm hoặc không dám viết đúng sự thật, vì
theo lời người dân hai làng Quỳnh Đôi và Kim Liên truyền miệng thì chỉ
có một mình Hồ Chí Minh mang dòng máu Hồ Sĩ Tảo mà thôi, và người hoang
dâm với Hồ Sĩ Tảo là mẹ ruột Hồ Chí Minh tức là bà Hoàng Thị Loan chứ
không phải bà Hà Thị Hy. Điều này còn được ông Đào Bình Giang trong Phụ
Nữ Diễn Đàn số 115, xuất bản tháng 8-1993, trưng dẫn cuốn sách cổ Quốc Triều Đăng Khoa Lục
của cụ đại thần Cao Xuân Dục làm minh chứng. Theo sách này cử nhân
Nguyễn Sinh Sắc sinh năm 1862 còn cử nhân Hồ Sỹ Tảo sinh năm 1869. Hồ Sĩ
Tảo kém cha của Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Sắc đến bảy tuổi, không thể
nào là cha của Nguyễn Sinh Sắc được.
Hồ Chí Minh có nhiều năm sinh khác nhau. Ngay cả ngày chết cũng ghi khác
nhau. Theo lý lịch chính thức, Hồ Chí Minh có tên đầu đời là Nguyễn
Sinh Cung sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890. Tuy nhiên, căn cứ theo nhiều
tài liệu khả tín thì ngày sinh 19-5 cũng chỉ cũng là một sự ngụy tạo.
Theo nhiều tài liệu thì khi thế chiến thứ hai kết thúc, Nhật bại trận
nên bị giải giới và Pháp lại nuôi ý định quay trở lại Đông Dương. Ngày
19-5-1946 một phái bộ Pháp do tướng D’Argenlieu cầm đầu đến Hải Phòng
rồi lên Hà Nội. Để tiếp đón phái đoàn này Hồ Chí Minh cho treo cờ hai
bên dọc đường, nhưng sợ nhân dân phản đối nên nhận vơ đó là ngày sinh
của mình.
Một sự việc khác, ngay cả ngày chết của Hồ Chí Minh cũng bị Bộ Chính Trị
Trung Ương Đảng cộng sản sửa đổi. Hồ Chí Minh chết ngày 2-9-1969 nhưng
ngày 2-9 lại trùng với ngày Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn tại Ba Đình
2-9-1945, mà theo niềm tin của dân chúng người khai sinh chế độ lại chết
trùng vào ngày này thì đây là một điềm bất tường có ảnh hưởng gây nguy
hại cho chế độ. Vì vậy Bộ Chính Trị đảng cộng sản Hà Nội quyết định ra
công bố ngày từ trần của Hồ Chí Minh là 3-9-1969. Sau này vì che đậy
không được nên Bộ Chính Trị Tung Ương Cộng Đảng Hà Nội lại phải ra thông
báo chính thức công nhận là Hồ Chí Minh chết ngày 2-9-1969.
Điều này cho thấy từ ngày tháng năm sinh cho đến ngày chết của Hồ Chí
Minh do Hà Nội đưa ra đều vì lý do chính trị chứ không đúng sự thật
Theo lý lịch chính thức, Nguyễn Sinh Cung sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, tuy nhiên có những thông tin khác không đồng nhất.
- Năm 1911 trong đơn xin học trường Hành Chính Thuộc Địa để ra làm
quan cho thực dân Pháp, Hồ Chí Minh tự ghi là sinh năm 1892.
- Năm 1920, ông khai với một quận cảnh sát tại Paris ngày sinh của mình là 15 tháng 1 năm 1894.
- Theo một tài liệu do Phòng nhì Pháp lập năm 1931, có sự xác nhận của
một số nhân chứng làng Kim Liên, quê nội của ông, thì ông sinh tháng 4
năm 1894.
- Trong tờ khai của ông tại Đại sứ quán Liên Xô ở Berlin, vào tháng 6 năm 1923, thì ngày sinh là 15 tháng 2 năm 1895.
- Lý lịch lần đầu đến Nga Sô khai sinh năm 1892.
- Lý lịch sau cái chết vào năm 1933 tại Hương Cảng, khi trở lại Nga Sô
Hồ Chí Minh khai sinh năm 1903. Lý do có sự sai biệt hơn 10 năm (lúc
1890, lúc 1892, lúc 1894, lúc 1895, cuối cùng là 1903) vì sự thật có hai
Hồ Chí Minh (?)
- Trong cuốn Chân Tướng Hồ Chí Minh, Giáo sư Cao Thế Dung ghi
rằng Hồ Chí Minh sinh năm Tân Mão (1891), có tên thánh là Gioan Bao Ti
Xi Ta, cha là Hồ Sỹ Tảo chứ không phải Nguyễn Sinh Huy. Giáo sư Cao Thế
Dung trích các tác giả Hoàng Văn Chí, Hồng Liên Lê Xuân Giáo cho biết Hồ
Chí Minh là con hoang dâm của ông Hồ Sỹ Tảo với bà Hoàng Thị Loan, vợ
ông Cử Sắc.
- Trong kỳ thi Tiểu học niên khóa 1949-1950 tại Liên Khu 4 gồm
các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tỉnh, đề thi môn luận văn ra như
sau: “Em hãy viết thư dâng lên Hồ Chủ Tịch nhân dịp “60 tuổi của Người”. Như vậy là Hồ Chí Minh sinh vào năm 1890.
Với những năm sinh mù mờ nói trên ta chỉ có thể phỏng đoán Hồ Chí Minh sinh vào khoảng thời gian 1890-1895.
Về phần ông Nguyễn Sinh Sắc, sau này tự đổi tên là Nguyễn Sinh Huy, trên
danh nghĩa là cha của ba người con: Con trai đầu lòng, thường gọi con
trưởng hay con cả, là ông Nguyễn Sinh Khiêm tục gọi Cả Khiêm sau đổi tên
là Nguyễn Tất Đạt, con thứ hai là bà Nguyễn Thị Thanh hiệu Bạch Liên vì
quê ở làng Sen, và con út là Nguyễn Sinh Cung sau đổi tên là Nguyễn Tất
Thành. Nghiệt ngã thay, đứa con thứ ba mang tên Nguyễn Sinh Cung, tức
Nguyễn Tất Thành, tức Hồ Chí Minh, lại là đứa con gian dâm của bà Hoàng
Thị Liên với Hồ Sĩ Tảo. Sau này bà Hoàng Thị Loan, con gái của ông đồ
Hoàng Đường, tức là mẹ ruột của Hồ Chí Minh lại còn hoang dâm với một kẻ
vô danh khác đẻ ra một đứa nhỏ đặt tên là Xin và chết tại Huế. Bà này
được báo chí cộng sản ca tụng là bậc nữ lưu trinh tiết.
Viết về một người đúng lẽ chỉ nên viết về cá nhân người đó nhưng vì
Cộng Sản đã đưa ra một sự mạo nhận huyết thống để lừa bịp mọi người. Đã
có nhiều bài viết của rất nhiều tác giả khác nhau, trong đó có bài vở
của một số sử gia, kể cả sử gia Trần Quốc Vượng của Cộng sản Hà Nội nói
về sự kiện “Tảo đúc cốt Sắc tráng men”. Chúng ta cũng đang đi tìm
sự thật, vì vậy phải hiểu rằng những dẫn chứng được đưa ra ở đây không
hàm chứa bôi bác mà chỉ là để đóng góp và soi sáng vấn đề. Hơn thế nữa,
cho dù Hồ Chí Minh có là giọt máu của ông Nguyễn Sinh Huy hay chỉ là
giọt máu rơi của Hồ Sỹ Tảo thì cũng không có gì đáng chê trách. Xã hội
dẫu nghiêm khắc cách mấy cũng chỉ có thể lên án việc làm dâm loạn của bà
Hoàng Thị Loan chứ không thể chê trách Hồ Chí Minh bởi lẽ con cái không
thể chọn lựa được cha mẹ.
Luân lý Á Đông thoạt nhìn có vẻ khó khăn chật hẹp nhưng thật ra lại rất
cởi mở. Lịch sử Trung Hoa chép rằng ông Cổn rất hung ác nhưng có con
trai là vua Vũ được người đời ca tụng là bậc thánh quân, vua Thuấn là
bậc nhân đức nhưng lại có người cha là Cổ Tẩu hung tàn bạo ngược. Lịch
sử nước ta cũng ghi rằng vua Lê Đại Hành vốn là con không cha, bà mẹ đi
tắm sông gặp con rái cá rồi thụ thai. Trường hợp vua Thái Tổ nhà Lý cũng
rất mập mờ. Ngoại sử chép rằng bà mẹ vua Lý Thái Tổ một đêm nằm mộng
gặp thần nhân rồi sinh ra Lý Công Uẩn. Đứa nhỏ được nhà sư Lý Khánh Vân
nuôi dưỡng sau này lớn lên đã sáng lập ra triều đại cực thịnh nhà Lý. Có
người còn suy luận rằng Lý Công Uẩn chính là con của nhà sư Lý Khánh
Vân. Nói một cách khác, gia thế nhân thân của hai vị hoàng đế Lê Đại
Hành và Lý Thái Tổ có nhiều nghi vấn. Tuy nhiên công đức của hai vị minh
quân vẫn được người dân Việt Nam đời đời ghi nhớ chứ không vì thế mà
suy giảm.
Ở nhiều nơi tại Miền Bắc và Miền Trung nước ta có tục lệ thờ Thành
Hoàng. Vị thần không nhất thiết phải là người trong làng mà có thể là
một người không biết từ đâu đến nằm chết đói bên cạnh bờ tre bụi rậm
được dân làng chôn cất và thắp cho vài nén nhang. Đền Bảo Hà dưới chân
đồi Cấm, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai thờ thi thể một xác chết trôi trên
sông Hồng dạt vào bờ sông chảy qua làng. Từ ngày an táng thi thể người
chết tại đây dân trong làng cảm thấy có nhiều linh ứng thay đổi: Người
trong làng khỏe mạnh không bệnh tật, nhà nhà làm ăn phát đạt nên tin
tưởng là người chết đã chết nhằm giờ thiêng (?) và có công phù trợ dân
làng nên tôn là Thành Hoàng, quanh năm lễ bái nhang khói. Có địa
phương còn thờ cả Cá Ông như trường hợp làng Kiến Phước, quận
Hòa Tân, tỉnh Gò Công, vì từ ngày có một con cá ông chết trôi
lạc vào vùng này được dân làng chôn cất đường hoàng thì từ
đó ngư dân trong làng ra biển làm ăn đều được bình an, không có
tai nạn.
Kể lại những chuyện trên để thấy rằng con người Việt Nam vốn rất
nhân ái khoáng đạt, có tình, có nghĩa. Truyền thống ngàn đời của
người Việt Nam là luôn luôn tôn kính và ghi ơn công đức những ai
đã giúp đỡ mình. Cho dù Hồ Chí Minh có là con hoang dâm của bà Hoàng
Thị Loan với Hồ Sĩ Tảo hay là một đứa bé trôi sông lạc chợ của một ai
khác từ xứ Hẹ bên Tàu trôi qua xứ Việt Nam mà có công với đất nước Việt
Nam thì cũng vẫn được người dân Việt Nam kính trọng, tôn thờ. Ngược lại,
bất cứ ai dù mang huyết thống hoàng tộc quyền quý cao sang nhưng làm
điều hại dân hại nước như Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, Mạc Đỉnh Chi...
Cũng sẽ bị muôn đời nguyền rủa khinh khi phỉ nhổ.
Trở lại huyết thống của Hồ Chí Minh. Từ 7, 8 tuổi Hồ Chí Minh đã
biết gốc gác của mình, và chỉ có riêng mình mang dòng máu Hồ Sĩ Tảo nên
khi có uy quyền trong tay Hồ Chí Minh đã bất nhân với ông Cử Sắc và cư
xử rất bạc bẽo với hai người anh chị cùng mẹ khác cha là ông Cả Khiêm
tức Nguyễn Tất Đạt và bà Nguyễn Thị Thanh hiệu Bạch Liên. Mộ ông Nguyễn
Sinh Huy tại Cao Lảnh mặc cho lau sậy và cỏ hoang phủ kín. Em làm Chủ
Tịch Nước mà anh là ông Nguyễn Sinh Khiêm phải đi coi bói và chị là
Nguyễn Thị Thanh phải đi bán trầu bán cau tại chợ Sa Nam để kiếm sống.
Ông Nguyễn Sinh Huy tuy không có công sinh nhưng có công dưỡng. Nguyễn
Sinh Cung hay Nguyễn Tất Thành hay Hồ Chí Minh được nuôi dưỡng và được
học hành hiểu biết là nhờ công ơn của ông Nguyễn Sinh Huy. Vậy mà Hồ Chí
Minh đã bất hiếu bất nhân bất nghĩa với ngay cả người cha của mình.
Rạch Cái Tôm là một vùng đất ban đêm do Việt Cộng kiểm soát. Việc đem
cây vú sữa từ Miền Nam ra Miền Bắc còn làm được thì việc Hồ Chí Minh ra
lệnh bốc mộ cha mình tại xẻo rạch Cái Tôm hẻo lánh đem ra Nghệ An hay
đem ra Hà Nội để thờ phụng cho trọn tình hiếu thảo là điều không khó.
Nhưng Hồ Chí Minh không làm chỉ vì Hồ Chí Minh nghĩ mình mang giòng máu
của Hồ Sĩ Tảo, đâu có mắc mớ gì đến ông Nguyễn Sinh Huy. Thật đáng
thương cho ông Nguyễn Sinh Huy đã uổng công dưỡng dục một tên lưu manh
bất nhân bất hiếu. Có điều làm mọi người vô cùng kinh ngạc và bội phục
là vào năm 1956 chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã ra lệnh cho Bộ Trưởng
Bộ Kiến Thiết là kỹ sư Hoàng Hùng tái tạo ngôi mộ này. Tổng Thống Ngô
Đình Diệm đã cho tái tạo ngôi mộ cho bố Hồ Chí Minh trong lúc Hồ Chí
Minh lại không thèm nhòm ngó đến mồ mã của người đã dày công nuôi dưỡng
mình.
Về lai lịch của Hồ Chí Minh chỉ riêng phần tên họ cũng đủ nhức đầu. Theo cuốn sách “Những bí danh, bút danh của Hồ Chủ Tịch”
nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2001, thì Hồ Chí Minh có tới
169 tên họ, bí danh, bút danh khác nhau: Nguyễn Sinh Côn, Nguyễn Sinh
Cung, Nguyễn Tất Thành, Paul Tất Thành là những tên của Hồ Chí Minh từ
thời ấu thơ đến khi xuống tàu sang Pháp. Sau đó là Nguyễn Ái Quốc 1919,
Cheng Vang 1923, Lin 1924, Lý Thụy 1924, Vương Sơn Nhi 1925, Tống Văn Sơ
1931, Hồ Quang 1938, P.C.Lin (PC Line), 1938, ông Trần, 1940, Cúng Sáu
Sán 1941, Già Thu 1941, Hoàng Quốc Tuấn, 1941, Hồ Chí Minh, X.Y.Z 1947,
Trần Lực 1949, CB 1950...
Tuổi ấu thơ
Gia cảnh Hồ Chí Minh ở tuổi ấu thơ không được suôn sẻ. Tuy
nhiên, dù cho khó khăn đến mấy ông Nguyễn Sinh Huy cũng đã hết
sức vượt mọi chướng ngại để lo cho con cái, nhất là đường học
vấn.
Nguyên văn một đoạn nơi trang trang 36 quyển “Những Mẫu Chuyện Về Thời Niên Thiếu Của Bác Hồ” của Ban Nghiên Cứu Lịch Sử Đảng Tỉnh Ủy Nghệ Tỉnh ghi lại:
Trong lúc còn bận sắp xếp việc gia đình
sau ngày bà Loan từ trần ông Phó Bảng gữi hai anh em cậu Thành đến học
tại nhà thày đồ Trần Thân ở làng Ngọc Đình bên cạnh Kim Liên. Là một nhà
nho khẳng khái sống trong xã hội đen tối đạo lý đổi thay vàng thau lẫn
lộn bất mãn trước thời cuộc nên thày đồ Trần Thân chọn nghề dạy học và
làm thuốc chữa bệnh để giữ tròn khí tiết. Tuy vậy thầy là một nhà nho
bảo thủ, một mực trung thành với lễ giáo phong kiến và những điều răn
dạy trong sách vở nho giáo. Trong các buổi học với thầy cậu thường nêu
ra các câu hỏi trái với ý nghĩ của thày. Vì vậy học chưa đầy một tháng
cậu Thành đã bị thầy Thân trả lại cho ông Phó Bảng. Cậu trở về học với
cha...
Như vậy cụ đồ Trần Thân đã được chính Ban Nghiên Cứu Lịch Sử Đảng Tỉnh
Ủy Nghệ Tỉnh xác nhận là một nhà nho khí tiết khẳng khái bất mãn với
thời cuộc. Trước khi qua đời cụ còn di ngôn cho con cháu: “Độc thị môn tâm hạ vấn. Hào vô kim hắc chi tâm” nghĩa là “Phải biết lòng tự nhủ lòng. Đừng để đồng tiền làm hoen ố lương tâm”.
Một người thầy như thế mà gặp người học trò có chí lớn cùng khắc khoải
với thời cuộc như mình thì tất hẵn thày trò tâm đầu ý hợp. Từ ngàn xưa
đến nay chưa có một người thầy nào lại đuổi khỏi cửa một học trò thông
minh giỏi giang lại cùng có tâm tư khắc khoải như mình. Vậy thì tại sao
cậu Thành không được thầy đồ giữ lại rèn luyện thêm để sau này có người
tiếp nối chí hướng. Tại sao đến khi học thì cả hai anh em nhưng cậu
Thành chỉ học với thầy chưa đầy một tháng thì bị đuổi. Thầy Nhan Uyên
học trò của Đức Khổng Phu Tử qua đời lúc mới 30 tuổi. Nghe tin người học
trò của mình mất vị Vạn Thế Sư Biểu ngửa mặt lên trời than: Y! Thiên táng dư! Thiên táng dư! Có nghĩa: Ôi! Trời lấy mất người truyền đạo của ta!
Biết rõ con không ai bằng cha mẹ. Biết rõ trò không ai hơn được thầy. Sự
việc này do Ban Nghiên Cứu Lịch Sử Đảng tỉnh Nghệ Tỉnh tiết lộ tự nó
xác nhận là ngay từ lúc còn nhỏ Hồ Chí Minh đã là một hạng người bất trị
và không ra gì. Cái bản chất “mất dạy”, xin cố gắng hiểu là không thể
dạy được, trong con người Hồ Chí Minh càng được biểu hiện rõ rệt khi Hồ
leo lên bàn độc.
Vì gia cảnh rối rắm cộng thêm hoạn lộ quan trường trắc trở nên ông
Nguyễn Sinh Huy thường say sưa mượn rượu tiêu sầu. Rất nhiều bài viết,
trong đó có cả bài viết của cựu Đại Tá bộ đội Bắc Việt Bùi Tín, cũng ghi
nhận trong lúc nóng giận ông đã sai thủ hạ đánh chết một nông dân nên
bị cách chức. Tuy nhiên sách vở tài liệu của Hà Nội thì vẫn một mực viết
rằng ông Nguyễn Sinh Huy bị cách chức vì giúp đỡ nhân dân chống thuế và
thường ghi lại một câu nói gán cho là của ông: Quan trường thị nô lệ,
trung chi nô lệ, hựu nô lệ, có nghĩa “Những người làm quan là kẻ nô lệ trong đám nô lệ lại càng nô lệ hơn”.
Lập luận này cần được xét lại vì ở vào cái thời buổi mà thực dân Pháp và
triều đình phong kiến coi người dân rẻ như bèo, ông nghè Trần Quý Cáp
vì lãnh đạo phong trào chống thuế mà bị xử yêu trảm nghĩa là bị xử chém
ngang lưng, Ông Nguyễn Hàng Chi anh ruột ông Nguyễn Hiệt Chi người tỉnh
Bình Định cũng vì tội chống thuế mà bị xử trảm. Một số vị khoa bảng
trước hay cùng thời với ông Nguyễn Sinh Huy như ông nghè Ngô Đức Kế sinh
năm 1879 quê làng Trảo Nha đỗ Tiến Sĩ khoa Tân Sửu 1901, ông Đặng
Nghiêm Cẩn sinh năm 1867 quê làng Lương Điền huyện Thanh Chương đỗ Phó
Bảng khóa Ất Mùi 1895, ông Đặng Ngiêm Bá hiệu Nghiêm Giang đậu Cử Nhân
cùng khoa với cụ Phan Bội Châu, ông Lê Văn Nghiêm hiệu Lâm Ngu đậu Giải
Nguyên năm 1875 tại làng Lạc Thiện huyện Đức Thọ, Hà Tỉnh, ông Phan Châu
Trinh đậu Phó Bảng cùng khóa với ông Nguyễn Sinh Huy, tất cả đều bị
triều đình Huế bắt đày ra Côn Đảo chỉ vì bị tình nghi chống đối. Ông
Nguyễn Sinh Huy đang là quan lại của triều đình mà lại dám yểm trợ dân
chống thuế mà chỉ bị cách chức thì thật là điều khó hiểu. Cũng may,
người tìm ra câu trả lời cho điều khó hiểu của chúng ta là ông Bùi Tín,
nguyên Phó Tổng Biên Tập báo Nhân Dân Hà Nội. Theo ông Bùi Tín thì “Ông Cụ (tức là ông Nguyễn Sinh Huy) là tri huyện Bình Khê vì đánh chết một nông dân nên bị đuổi ra khỏi ngành quan lại”.
(RFA 18-5-2007). Sau khi bị cách chức vì tội say rượu đánh chết người
thì ông Nguyễn Sinh Huy vào Nam làm nghề bốc thuốc Bắc tại các tiệm
thuốc bắc Thiên Phúc Đường và Tế Xuyên Đường nằm trên phố Lagrandiere và
Rue d’Espagne ngày nay rồi sau đó đến ở nhờ nhà ông Năm Giáo bên cạnh
rạch Cái Tôm quận Cao Lãnh và chết tại đó.
Như chúng ta đã biết, thời niên thiếu Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế.
Ông sống và theo học tại đây cho đến khi cha bị cách chức vào năm 1909
thì phải thôi học. Đầu năm 1910 ông vào Phan Thiết. Nhờ sự quen biết
trước đây giữa ông Nguyễn Sinh Huy và ông Hồ Tá Bang nên Nguyễn Tất
Thành được vào dạy Pháp Văn lớp Ba (Cour Elementaire) tại trường Dục
Thanh. Hiệu trưởng trường này là cụ Nguyễn Thông. Ban sáng lập gồm có
các ông Trần Lê Chất (867-1970), Nguyễn Trọng Lợi, Nguyễn Quý Anh, Hồ Tá
Bang (thân phụ Bác Sĩ Hồ Tá Khanh, Tổng Trưởng Kinh Tế của nội các Trần
Trọng Kim) và ông Nguyễn Hiệt Chi quê ở Can Lộc Hà Tĩnh (anh ruột của
ông Nguyễn Hàng Chi, người bị chém đầu vì lãnh đạo dân Hà Tĩnh chống
thuế). Nhưng lương lậu của trường tư thục không có là bao nên đến cuối
năm 1910 Nguyễn Tất Thành rời Phan Thiết vào Saigon kiếm sống. Thất bại,
Hồ Chí Minh tìm đường sang Pháp.
Trong tập Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch, tác giả “Trần Dân Tiên” cũng chính là Hồ Chí Minh đã viết về mình như sau:
“Vì muốn chống lại sự cai trị của thực
dân Pháp mà cha ông là Phó Bảng Nguyễn Sinh Huy đã từ chức Tri Huyện
Bình Khê. Nối chí cha, và nhất là thấy những nhà cách mạng trong nước
như Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Hoàng Hoa Thám, Phan Châu
Trinh... lúng túng trong việc chống lại bọn thực dân đế quốc nên năm
1911 Nguyễn Tất Thành dưới tên Văn Ba xin được một chân làm phụ bếp trên
tàu Đô đốc Latouche-Tréville sang Pháp tìm đường cứu nước.”
Đây cũng là một sự vẽ rắn thêm chân. Tài liệu ghi rõ bà Hoàng
Thị Loan chết ngày 10-2-1901 nhằm ngày 12 tháng 12 năm Canh Tý. Ông
Nguyễn Sinh Huy sau khi thi trượt các khóa Ất Mùi 1895 và Mậu Tuất 1898,
mãi đến khóa Tân Sửu 1901 mới đậu Phó Bảng, cùng khóa với cụ Phan Châu
Trinh, nghĩa là mấy tháng sau khi vợ chết ông mới thi đậu. Cả hai đều
làm việc ở bộ Lễ dưới quyền ông Ngô Đình Khả nhưng đến năm 1904 cụ Phan
Châu Trinh rũ áo từ quan. Vào các năm 1907-1908 liên tiếp có những vụ
biểu tình chống thuế rầm rộ ở Quảng Nam, Quảng Ngải, Phú Yên, Thừa
Thiên, cụ Phan Chu Trinh bị thực dân Pháp nghi ngờ là kẻ chủ mưu nên bị
bắt và bị xử tử hình, sau được đổi thành bản án lưu đày Côn Đảo, trong
khi Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc vẫn tiếp tục hoạn lộ với chức vụ tri huyện
Bình Khê, tỉnh Bình Định, cho đến khi bị cách chức vào năm 1909. Như
vậy việc ông Nguyễn Sinh Huy từ quan chỉ là một sự bịa đặt
trắng trợn và thô bỉ.
Ông Bùi Tín, cựu đại tá Quân Đội Miền Bắc có hơn 40 năm tuổi đảng và 37
năm tuổi lính và cũng là người tiếp thu dinh Độc Lập từ tên hàng tướng
Dương Văn Minh ngày 30-4-1975. Hơn thế nữa ông Bùi Tín lại là con trai
của ông Bùi Bằng Đoàn, cựu Chủ Tịch Quốc Hội Việt Cộng, người đã đứng
ngang hàng với Hồ Chí Minh trao quân hàm Đại Tướng cho Võ Nguyên Giáp
vào năm 1948. Tuy chỉ mang cấp bậc Đại Tá nhưng ông Bùi Tín lại nắm giữ
chức vụ Phó Tổng Biên Tập báo Nhân Dân Hà Nội (tương đương với cấp Trung
Tướng) và là người từng gặp và làm việc với Hồ Chí Minh, từng giao
tiếp thường trực với Võ Nguyên Giáp nên có cơ hội biết được nhiều chuyện
thuộc loại thâm cung bí sử. Đây là lời ông Bùi Tín trong một cuộc phỏng
vấn được ghi âm đài RFA ngày 18-5-2007 do phóng viên Trà Mi thực hiện:
“Ông Hồ Chí Minh là một nhà chính
khách, một nhân vật lịch sử mà hiện nay trong và ngoài nước có những
đánh giá trái ngược hẳn nhau. Một số người ca ngợi ông ta đến mức như
thần thánh, như một con người tuyệt đối không bao giờ có sai lầm. Trong
khi đó, cũng có những người xem ông ta là một nhân vật tiêu cực và gây
ra những tàn phá ghê gớm cho đất nước. Càng về sau, ông Hồ càng trở
thành một nhân vật thực hiện sứ mạng do quốc tế cộng sản giao cho, tức
là gây dựng và phát triển phong trào cộng sản ở Việt Nam, Đông Dương, và
mở rộng chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á. Con đường ấy, theo tôi bây
giờ, đó là con đường sai lầm, đưa đất nước vào tình hình khó khăn sau
này.
Sự đánh giá của tôi về ông Hồ là cả một
quá trình thay đổi khác nhau. Trước đây khi còn ở trong nước thì khác.
Dần dần, qua sự so sánh và nghiền ngẫm thì cách nhìn của mình trở nên
đúng mức hơn, công bằng và khoa học hơn. Theo tôi, khi ông Hồ sang Pháp
năm 1911 lúc đầu không phải vì mục đích đi tìm đường cứu nước. Lúc bấy
giờ ông ta gặp phải một bi kịch gia đình tha phương ở phía Nam. Mất chỗ
dựa, ông Hồ quyết định ra đi tìm kế sinh nhai và giúp đỡ gia đình...”
Như vậy, điều khẳng định đầu tiên về những bài viết cho rằng Hồ Chí Minh
xuống tàu Latouche Treville xuất dương tìm đường cứu nước chỉ là sản
phẩm của tuyên truyền lừa bịp. Hồ Chí Minh xuất dương là để tìm đường
cứu mình và cứu gia đình.
(còn tiếp)
15.04.2016
NGUYỄN HỒN VIỆT * VIẾT VỀ HỒ
Viết về Hồ
Nguyễn Hồn Việt (Danlambao) - Đứa viết tiểu sử Hồ “thành công nhất”
là một kẻ bị... bệnh sọ não nặng từ trước! Người viết về “Bác Hồ” đầu
tiên là một gã... ất ơ, vô thừa nhận. Cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt
động của Hồ Chủ tịch” là một cuốn sách... lậu 100%!
I. Đứa viết “thành công nhất” là một kẻ bị... bệnh sọ não nặng từ 1971!
1. Búp sen xanh là... tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng nhất của nhà văn Sơn Tùng
“Búp sen xanh là tiểu thuyết đầu tiên viết về Chủ tịch Hồ Chí
Minh[1][2] và cũng là tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng nhất của nhà văn Sơn
Tùng. Xây dựng nên hình tượng Hồ Chí Minh từ khi cất tiếng khóc chào
đời tại Làng Chùa quê ngoại tới khi rời Bến Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu
nước, tác phẩm được tác giả dày công sưu tầm tư liệu có liên quan và
chấp bút trong thời gian dài, bắt đầu từ năm 1948 và hoàn thành năm
1980.
...Búp sen xanh viết về thời thơ ấu và trai trẻ của Hồ Chí Minh trong
độ dài khoảng 300 trang khổ sách thông thường, được nhà văn chia làm 3
chương: "Thời thơ ấu", "Thời niên thiếu" và "Tuổi hai mươi".
...Năm 1981, 100.000 bản Búp sen xanh đã được bán và gây tiếng vang lớn.
...những khu di tích Bác Hồ bao giờ cũng có sách Búp sen xanh bày bán như một món quà thiêng lưu niệm.” (1).
“(TT&VH) - Giờ đây nhìn lại khối lượng tác phẩm văn học với
khoảng 40 đầu sách, trong đó hơn 20 đầu sách viết về Bác Hồ, nhiều người
khó có thể hình dung nổi là làm thế nào mà một nhà văn thương binh hạng
1/4 luôn luôn phải chống chọi với sự hành hạ của thương tật, nhất là
khi trái nắng trở trời, trong hoàn cảnh sống hết sức eo hẹp, lại có thể
làm được.
Nhận xét về nhà văn Sơn Tùng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có lần nói:“Đó
là một con người có trí mệnh”. Đánh giá về sự nghiệp văn chương của Sơn
Tùng, giáo sư Phan Ngọc viết: “Đó là con đường khiến anh trở thành con
người có uy tín nhất viết về tiểu sử Hồ Chí Minh” với một“Phong cách Sơn
Tùng”.” (3).
“Năm 1983, Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết trong “Lời tựa” cho lần xuất
bản thứ hai tiểu thuyết Búp sen xanh (Nhà xuất bản Kim Đồng chính thức
in và in đầy đủ trong lần xuất bản năm 2005):“...Cuốn sách Búp sen xanh
nêu lên một vấn đề: ở đây tiểu thuyết và lịch sử có thể gặp nhau không?
Về vấn đề này các đồng chí hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ thuật
nói chung và tất cả chúng ta, cần suy nghĩ để có thái độ. Song, ở đây
cũng vậy, lời nói có trọng lượng lớn thuộc về người đọc, nghĩa là nhân
dân”. Gần 30 năm kể từ ngày ra mắt (1982), đến nay tiểu thuyết Búp sen
xanh liên tục được tái bản tới 25 lần, một điều hiếm thấy nếu không muốn
nói là duy nhất trong đời sống văn học Việt Nam. ” (3).
“Giáo sư Hoàng Chí Bảo - chuyên gia cao cấp Hội đồng Lý luận Trung
ương - đã đọc bản thảo của Những chuyện Bác Hồ - Cả trăm năm chưa dễ
thấu ngọn nguồn. Ông viết "Lời giới thiệu" cho sách, trong đó đưa ra
nhận xét: "Bạn đọc sẽ tìm thấy trong tác phẩm này nhiều tư liệu vô cùng
quý giá, xúc động về Bác Hồ; và lại thêm một lần nữa ta kính yêu, thương
nhớ Bác, ta cảm ơn nhà văn Sơn Tùng với tất cả tấm lòng".” (2).
3. Nhà văn Sơn Tùng đã bị bệnh não mất 81% sức khỏe từ 1971
“Trước khi trở thành nhà văn, Sơn Tùng tham gia hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ. Tháng 4/1971, ông bị thương nặng trở về với 14
mảnh đạn trên mình: Liệt tay phải, vỡ vai trái, mắt phải còn 1/10, ba
mảnh đạn găm trong sọ não không thể mổ gắp ra được. Mất 81% sức khỏe,
xếp hạng thương tật 1/4 (hạng thương binh nặng nhất), song ông vẫn cầm
bút viết. Từ 1974 đến nay, với bàn tay chỉ còn 3 ngón cầm bút được, ông
đã viết hàng chục tiểu thuyết, tập truyện ngắn, văn xuôi...” (2).
Nhận xét: Một kẻ “ba mảnh đạn găm
trong sọ não không thể mổ gắp ra được. Mất 81% sức khỏe” mà lại có “khối
lượng tác phẩm văn học với khoảng 40 đầu sách, trong đó hơn 20 đầu sách
viết về Bác Hồ” đúng là chuyện... tiếu lâm thời Hồ tặc!
Hỏi nhỏ: Lũ quỷ cũng biết ngượng khi viết không thành có à? Sao phải lấy một kẻ bị bệnh sọ não nặng đứng tên làm... bình phong?
Nếu quả thật như vậy, thì chúng bây cũng còn 1 chút tính người đấy, mau mau cải hối!
II. Kẻ viết về “Bác Hồ” đầu tiên là một gã... ất ơ, vô thừa nhận
“Trần Dân Tiên là tác giả của cuốn tiểu sử nổi tiếng Những mẩu chuyện
về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch. Đây cũng là tác phẩm duy nhất đã được
biết của tác giả Trần Dân Tiên.” (4).
Bút nô phỏng đoán:
1. Đứa bảo “Trần Dân Tiên” là... Bác.
“Bên cho rằng Trần Dân tiên là bút danh của bác Hồ. Báo Nghệ An điện tử (của Đảng bộ tỉnh Nghệ An):
...Thời gian Bác ở nước Pháp từ năm 1919 đến năm 1923, cuốn sách
“Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” của Trần Dân Tiên
(một bút danh của Bác) cho biết: Thường thường, ông chỉ làm việc nửa
ngày; làm buổi sáng để kiếm tiền, còn buổi chiều đi đến thư viện...”…
“Ông Hà Minh Đức trong “Tác phẩm văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985, trang 132, ông Hà Minh Đức viết:
“...Đáp lại tình cảm mong muốn của đồng bào, và của bạn bè trên thế
giới, Hồ chủ tịch với bút danh Trần Dân Tiên đã viết tác phẩm “Những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch...”.
Nguồn ông Hà Minh Đức dựa vào từ cuốn “Những sự kiện lịch sử Đảng”,
NXB Sự thật, năm 1976, tập 1, trang 672. Có lẽ căn cứ vào các nguồn nói
trên, trang Wikipedia khẳng định Trần Dân Tiên là một trong những bút
danh của Hồ chí Minh (chỉ dùng một lần duy nhất cho cuốn sách này).” (5)
“Trong các bút danh của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên là bút danh gây nhiều tranh cãi tồn nghi nhất.
Thông tin rằng Trần Dân Tiên là một bút danh của Hồ Chí Minh được
khẳng định và được hiểu như vậy bởi một số nguồn trong và ngoài nước.
...
Vậy là từ những tư liệu trong và ngoài nước, của ta và cả của địch đều
lấy từ báo Nghệ An, báo Nhân Dân, ông Hà Minh Đức... không biết bao
nhiêu bài viết vay mượn tư liệu này “nhân ra” theo hướng khẳng định tác
giả Trần Dân Tiên chính là Hồ Chí Minh. Nhưng những ý kiến này cũng chỉ
phán đoán chứ không đưa ra một chứng lý nào thuyết phục người đọc.” (5)
“Cái khó cho các nhà nghiên cứu tiếp về sau cũng không tìm ra tư liệu
gốc như bản thảo, lời nói của người có liên quan... Cuốn sách lại không
được in phát hành trong nước mà in phát hành bên Trung Quốc bằng chữ
Hán trước. Điều này càng khó tìm chứng cứ nên bị bao trùm một màn bí ẩn.
Vậy thì đã có người viết trước quả quyết rồi, giờ cứ theo đó mà nêu
thêm ý kiến “yêu-ghét” theo cảm tính của mình.” (5)
Nhận xét: “ông Hà Minh Đức dựa vào từ cuốn “Những sự kiện lịch sử Đảng”, NXB Sự thật, năm 1976, tập 1, trang 672.” Là sai à?
Thế của lũ quỷ cộng sản cái gì là đúng?
2. Kẻ bảo “Trần Dân Tiên” là tên... du thủ du thực!
“Một số nguyên nhân khác để Trần Dân Tiên không phải là Hồ Chí Minh.
“Khoảng thời gian từ 1945 đến 1948 là thời kỳ cực kỳ cam go đối với
vận mệnh của nhà nước non trẻ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: chiến đấu cùng
một lúc với 3 tên giặc: đói, dốt và ngoại xâm trong bối cảnh “đơn thương
độc mã”, thiếu thốn đủ đường về kinh tế, lương thực, trang thiết bị
quân sự, kinh nghiệm chiến đấu..., mà không hề có sự trợ giúp quốc tế
nào. Đó không phải là lúc thích hợp và cũng chẳng thể có thời gian để
viết về mình đối với bất kỳ người lãnh đạo nào huống hồ một lãnh tụ đã
được cả thế giới ngả mình kính phục.” (6).
“Viết về mình không phải là thói quen của những người nổi tiếng ở
Việt Nam bấy giờ nhưng cho dù nếu Bác muốn điều đó thì cũng có vô vàn ký
giả, nhà văn, nhà báo nổi tiếng sẵn sàng “chầu chực” để được là người
chấp bút. Rốt cuộc là chẳng có ai làm được điều đó, cho dù sau năm 1954,
tên tuổi Bác dã gắn liền vào tên nước Việt Nam trong con mắt bạn bè
quốc tế. Rất nhiều nhà báo, nhà văn quốc tế đã gặp Bác nhưng tất cả thu
hoạch chỉ là những cuộc phỏng vấn về tình hình đất nước, chính sách của
Việt Nam bấy giờ.
Chẳng có lý do gì với quỹ thời gian hạn hẹp của mình, Bác phải viết
đến 2 cuốn sách có nội dung, chủ đề tương tự nhau mà giữa 2 cuốn lại có
những thông tin khác nhau.
Nếu Bác Hồ viết cuốn “Những mẩu chuyện...” thì chẳng có lý do gì bản
thảo (hoặc những gì còn sót lại của nó) lại không được những người có
trách nhiệm lưu giữ lại (như cuốn “Vừa đi đường vừa kể chuyện’”) vì bất
cứ thứ gì liên quan đến Bác từ bấy giờ đã là vô giá. Chẳng lẽ Bác tự
viết, tự in, tự phát hành (dù chung quanh là đội ngũ cán bộ chiến sĩ bảo
vệ ngày đêm)!?” (6).
“- Mặc dù Nguyễn Hải Thần đã bỏ đất nước để theo quân Tưởng nhưng Bác
Hồ cũng rất bao dung đối với ông này chứ không “vạch mặt” như trong
cuốn “Những mẩu chuyện...”. PGS. Song Thành trong bài “Khoan dung, nhân
ái Hồ Chí Minh biểu tượng của văn hóa hòa bình Việt Nam” đã cho biết:
“Chúng ta đều biết sự khoan dung của Hồ Chí Minh đối với Nguyễn Hải Thần
khi ông ta từ bỏ nhiệm vụ, chạy theo quân Tưởng, sang Quảng Châu sinh
sống, ngày càng lâm vào hoàn cảnh khốn đốn. Sau hoà bình lập lại bạn hỏi
ta định xử trí với ông ta như thế nào? Với tam lòng khoan dung, độ
lượng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị với Thủ tướng Chu Ân Lai chu cấp
cho ông ta mỗi tháng 100 nhân dân tệ cho đến cuối đời. Số tiền đó sẽ lấy
từ khoản viện trợ không hoàn lại của Trung Quốc giúp nhân dân ta khôi
phục kinh tế sau chiến tranh”.
Mặc dù cuốn sách được cho rằng ra đời từ năm 1948 nhưng có vẻ như
người ta chưa tìm thấy một bản tiếng Việt nào in thời điểm đó mà bản in
đầu tiên lại là bản tiếng Hoa với tựa đề “Hồ Chí Minh truyện”, do Trương
Niệm Thức dịch, xuất bản tại Thượng Hải tháng 6-1949. Bản in tiếng Việt
(chính thức) đầu tiên dường như là của NXB Văn Nghệ, Hà Nội 1955. Như
vậy, nếu Bác Hồ là tác giả của cuốn sách này, với mong muốn “giới thiệu
mình với nhân dân” thì thật vô lý khi cuốn sách không được in tại Việt
Nam mà lại là một bản tiếng Hoa ở Trung Quốc. Điều đó phù hợp với giả
thuyết tác giả phải “giấu” Hồ Chủ tịch khi in cuốn sách này vì không
muốn làm trái ý Người.
Nếu Hồ Chủ tịch là tác giả hoặc là người “đứng sau” tác phẩm này thì
thật vô lý nếu phải mất đến hơn 2 năm để viết xong cuốn sách mỏng như
vậy, trong khi mục đích là để “giới thiệu Hồ Chí Minh với nhân dân” (như
giả thiết của nhiều người), nhất là thời điểm cần kíp cho nhu cầu này
phải là trước 2-9-1945 (trước khi Bác ra mắt quốc dân đồng bào) đến cuối
1946 (khi Bác ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến – 20-12-1946).” (6).
“Sau khi đưa dẫn chứng cứ sổ Bác Hồ tiếp khách ngày 4-9-1945, và đến
ngày toàn quốc kháng chiến, dẫn giải những tình tiết, nhân vật liên quan
với Bác ở trong nước và cả ở nước ngoài, tác giả Thanh Tùng cho rằng
tác giả có thể là... Vì Bác không đồng ý viết về mình nên các đồng chí
tác giả phải góp nhặt thông tin từ mọi nguồn có thể để tổng hợp thành
cuốn sách. Nhưng khi viết xong, các tác giả lại sợ Bác phật lòng nên
không dám đem in trong vùng kiểm soát của Chính phủ kháng chiến, dẫn đến
việc bản in đầu tiên lại là bản tiếng Hoa, phát hành tại Thượng Hải”.” (6).
“...Từ những dẫn chứng và phân tích nêu trên, tôi thiên về và mạnh
dạn nêu ý kiến của mình: Trần Dân Tiên không phải là Hồ Chí Minh. -
Nguyễn Xuân Ba” (6).
Nhận xét: “khi viết xong, các tác
giả lại sợ Bác phật lòng nên không dám đem in trong vùng kiểm soát của
Chính phủ kháng chiến, dẫn đến việc bản in đầu tiên lại là bản tiếng
Hoa, phát hành tại Thượng Hải”?
Tôi chán không buồn nhận xét ý này của bọn bút nô! Nô lệ tới thế là cùng!
Thế mới thật là:
Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông.
Chúng bảo nhau rằng “ấy ái uông”.
Viết tới đây tôi chỉ mong độc giả chứng kiến cho rằng: Khi tôi chứng
minh được Hồ chính là tên họ Trần kia, hay chính xác là bút danh tên họ
Trần kia chính là của Hồ thì mặc nhiên thừa nhận “Bác” của chúng chẳng
xứng “với bất kỳ người lãnh đạo nào” như chính bọn chúng đã tự nhận xét: “Đó
không phải là lúc thích hợp và cũng chẳng thể có thời gian để viết về
mình đối với bất kỳ người lãnh đạo nào huống hồ một lãnh tụ đã được cả
thế giới ngả mình kính phục” (6).
3. Bọn phản động lợi dụng …“để xuyên tạc” …để hạ uy tín của Bác?
“LTS: Trần Dân Tiên là ai? Do bài viết dài nên chúng tôi xin đăng làm
hai kỳ. Kỳ này: 1. Bên cho rằng Trần Dân Tiên là bút danh của Bác Hồ -
Kỳ sau: 2. Những ý kiến nói Trần Dân Tiên không phải của Bác Hồ.
Tác giả cuốn sách “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”
ghi tên tác giả là Trần Dân Tiên. Hiện có hai luồng ý kiến nói cuốn
sách này do chính Bác Hồ viết lấy bút danh Trần Dân Tiên. Một số ý kiến
nói cuốn sách này do người khác viết về Bác chứ Bác Hồ không phải là tác
giả. Những người chống chế độ ta lợi dụng để xuyên tạc, cho rằng Hồ Chí
Minh tự viết sách đề cao bản thân là thực hiện tham vọng cá nhân... để
hạ uy tín của Bác.” (5).
Nhận xét: Viết tới đây tôi chỉ mong độc giả chứng kiến cho rằng: Khi
tôi chứng minh được Hồ chính là tên họ Trần kia, hay chính xác là bút
danh tên họ Trần kia chính là của Hồ thì mặc nhiên thừa nhận “Bác” của
chúng đã “tự viết sách đề cao bản thân là thực hiện tham vọng cá
nhân...” như chính bọn chúng đã tự nhận xét!
4. Vậy Trần Dân Tiên là ai? Chính là 1 tên du thủ du thực!
Ô hay, thế Trần Dân Tiên là ai? Chẳng là ai sao sách kia xuất bản được?
Hồ sơ xuất bản đâu? Không có gì à? Không lẽ Chính phủ của Hồ là một tụi
phỉ để một cuốn sách xuất bản đi xuất bản lại mà lại có 1 tác giả là một
gã du thủ du thực? một tên cha căng chú kiết nào đó? Vậy thì cuốn
“Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” không nghi ngờ gì
nữa, nó là một cuốn sách... lậu 100%!
Nếu quả thực là như vậy thì Nguyễn Phú Trọng - nếu còn 1 chút tính người thì phải ra lệnh thủ tiêu ngay cuốn sách... lậu đó đi!
(Đón đọc: Trần Dân Tiên chính là… Hồ cáo!)
Viết từ Việt Nam.
________________________________________
Chú thích:
(2). Con trai Sơn Tùng viết tiếp sách về Chủ tịch Hồ Chí , vnexpress.net
(3). Nhà văn Sơn Tùng - Người viết về Bác Hồ thành công nhất, thethaovanhoa.vn
(6). Trần Dân Tiên là ai? (kỳ cuối xem từ số 347) - Tuần Báo Văn Nghệ TP HCM.
Bài cùng chuyên mục đã đăng:
No comments:
Post a Comment