Saturday, September 10, 2016
GS.HUỲNH CHIẾU ĐẲNG * LỐI XƯA XE NGỰA
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo…
Huỳnh Chiếu Đẳng

“Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài
Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người.
Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp,
Anh, Mỹ… nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải…” – Dương Thu Hương.
“Một
câu hỏi da diết xuất hiện trong những khoảnh khắc ấy: những gương mặt
mà ta đã gặp, những ngôi nhà, góc phố, hàng cây, mỗi ngôi làng hay thậm
chí một tiếng chuông chùa trong đêm sẽ như thế nào, sẽ ra sao, nếu như
không có Ngày Độc lập 2/9 ấy?…” – Trương Tấn Sang
“Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổCảnh ấy người đây luống đoạn trường” (Bà Huyện Thanh Quan)
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổCảnh ấy người đây luống đoạn trường” (Bà Huyện Thanh Quan)
Bài thơ tác giả “hoài cảm” sau
năm 1802 khi Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn lên ngôi, niên hiệu Gia
Long và định đô ở Huế. Từ đó, Thăng Long (Hà Nội) chỉ còn là “cố đô”– Lời thơ mang âm hưởng hoài niệm tiếc nuối một thời vàng son dĩ vãng.
Bối cảnh cũng gần giống như vậy – Sài Gòn xưa “hòn ngọc Viễn Đông”một
hình ảnh thiêng liêng, thân thương không thể nào phai nhòa trong trái
tim của gần ba mươi triệu người miền Nam, Việt Nam, có một thời, dù khói
lửa chiến chinh từ phía Bắc, bên kia vĩ tuyến 17 tràn sang nhưng cũng
cố gắng vươn lên trong những khoảnh khắc “tạm yên bình” ngắn ngủi giữa
thập niên 60-70 – Ngắn ngủi thôi, nhưng những gì có được cũng đã làm cho
những trái tim còn thuần khiết “tính người” như nhà văn nữ miền Bắc
Dương Thu Hương phải mềm lòng thổn thức rơi lệ bởi cảm xúc trong ngậm
ngùi, “tiếc nuối”, giữa lòng TP/phố Sài Gòn 30/4/1975. Nhà văn này tâm sự….
Dương Thu Hương: (thở dài) Điên rồ thì tôi có nhiều thứ điên rồ. Khóc thì tôi có hai lần khóc.
Lần thứ nhất khi đội
quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cả mọi người trong
đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi
xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp lắm vì
nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn
miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà
tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay
trên vỉa hè; và đầy dẫy các phương tiện thông tin như TV, radio,
cassette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ. Ở
miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà nước quản lý. Dân
chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán bộ được tin
tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Quốc.
Còn toàn bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là
chỉ được nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài
Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người.
Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp,
Anh, Mỹ… nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ.
Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm
lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải.(Nguồn: Nhật Báo Người Việt).
Và mới đây trong một bài viết nói về ngày 2/9 có cái tựa “Phải biết hổ thẹn với tiền nhân” ông “Tổng thống” (CT nước) Trương tấn Sang như “tâm sự” rằng (nguyên văn): “Một
câu hỏi da diết xuất hiện trong những khoảnh khắc ấy: những gương mặt
mà ta đã gặp, những ngôi nhà, góc phố, hàng cây, mỗi ngôi làng hay thậm
chí một tiếng chuông chùa trong đêm sẽ như thế nào, sẽ ra sao, nếu như
không có Ngày Độc lập 2/9 ấy?…” thì những dòng của viết bài này
ngoài mục đích hoài cảm “một thoáng hương xưa” với đồng bào, nhất là các
bạn đọc trẻ trong và ngoài nước sinh sau 1975 thì cũng nhân tiện gửi
đến ngài “Tổng thống nước” một số hình ảnh cũ của Sài Gòn ngày xưa, nơi
mà chắc ngài không lạ (vì ngài từng là “chủ nhân ông”, hít thở không khí
Sài Gòn một thuở) với cùng một câu hỏi: “… cảnh cũ này sẽ thay đổi ra sao, nếu như không có Ngày 2/9 định mệnh ấy?…” thưa ông!?…

Thập niên 1960-70 đường ray xe lửa vẫn còn trên đường Hàm Nghi – Sài Gòn
Nhưng vóc dáng một góc Sài Gòn, “thủ phủ Đông Dương” như thế này
(1960-65) Bangkok, Singapore, Đài Loan và Seoul sau Đệ II thế chiến chưa
thể có kịp, và những hình ảnh cũ dưới đây của Sài Gòn một thuở, người
dân đang năng động hối hả xây dựng một cuộc sống phồn vinh cho đất nước,
cùng nhịp điệu với các quốc gia tự do dân chủ vừa lấy lại độc lập trong
khu vực Asean (Đông Nam Á) mà không tốn một giọt máu nào.



Sài Gòn những năm
1960-1970 (trên), cùng thời điểm (ảnh dưới) là Hà Nội. Không cốt ý bôi
bác hay phê phán, bởi Nam Bắc cùng là dân Việt, nỗi buồn đâu của riêng
ai! Mà đơn giản, so sánh để khẳng định cái từ ngữ chiêu bài mà những
người CSVN đã “lừa bịp” đồng bào miền Bắc rằng: “Phải giải phóng đồng bào miền Nam đang bị kềm kẹp trong đói nghèo, đau thương” là
không có thật… mà thời điểm ấy, quốc tế CS (Nga-Tàu) chi viện quân sự
và chỉ thị cho CSVN phải tiến hành đánh chiếm “nhuộm đỏ” miền Nam VN
trước khi “cộng sản hóa” Đông Dương (Việt-Miên-Lào”) và sau đó là Đông
Nam Á, duy nhất trên thế giới tại thời điểm ấy chỉ có CSVN là lấy “máu xương, lương thực” của nhân dân miền Bắc làm “nhiên liệu”thử
nghiệm cổ máy cộng sản làm bàn đạp để tiến xuống phía Nam Châu Á. Nhân
dân miền Bắc không còn gì ngoài một đời sống “hắt hiu, u buồn” bên trong
bức màn sắt CNXH. Lo toan hàng ngày của mọi người, duy nhất, là có một
thứ gì đó cho vào bụng và mơ… một chiếc xe đạp! Tất cả họ, đều như là
những con “ốc vít” trong một cổ máy chiến tranh, không có ngoại lệ,
không ai được phép “sáng tạo” tư hữu cho bản thân và gia đình ngoài “Bác
và đảng cộng sản”…
Hình ảnh Hà Nội thập niên 1960 – 1970:


Sài Gòn miền Nam – những
năm 1960-1970 đang khởi đầu công nghiệp hóa nền kinh tế non trẻ bằng hệ
thống Ngân Hàng quốc gia tài trợ cho các dịch vụ nhập khẩu máy móc
trang thiết bị đầu tư kỹ thuật trong các dây chuyền sản xuất nâng cao
giá trị và năng suất các sản phẩm hướng đến xuất khẩu, điển hình là băng
rôn quảng bá cung ứng dịch vụ này treo ngang đường Tự Do (Đồng Khởi
ngày nay) – một chính sách thức thời mà chế độ CS/XHCN miền Bắc còn rất
xa lạ – không có trong kế hoạch, cũng như kinh phí ngoại tệ…

Sài Gòn -1966 – Băng rôn treo ngang đường Tự Do (Đồng Khởi)

Thập niên 1960-70 Hà Nội “kỹ thuật” chủ yếu dựa vào thủ công “sức người”
bởi hàng “viện trợ” của Nga Tàu hầu hết chỉ là vũ khí súng đạn cung ứng
cho cổ máy chiến tranh của CSVN rất ít hàng hoá dân dụng tiêu dùng.

24-10-1966 – Các Phu nhân Tổng Thống – bà Thiệu, bà Johnson, bà Kỳ, bà
Marcos tháp tùng cùng Phu quân là các tổng thống, thủ tướng tại
Philippines, trong phiên họp thượng đỉnh của các nguyên thủ quốc gia
trong Hiệp Ước Liên Phòng Đông Nam Á.

19/5/2010 Bà Phó “PCT/Nước: Nguyễn thị Doan”(áo đen thứ ba bên phải qua) và các “VIP” phụ nữ của CHXHCN/Việt Nam tham dự hội nghị thượng đỉnh phụ nữ toàn cầu tại Bắc Kinh.
Cách nhau gần nửa thế kỷ – hai nhóm phụ nữa trên và dưới có quá nhiều
khác biệt, không biết có phải là do “đặc trưng” của XHCN không? khiến
chúng ta khi so sánh sẽ mỉm cười thú vị mà không cần phải bình luận!
Cũng cần nhắc lại bà Nguyễn Thị Doan là tác giả câu nói bất hủ “Việt Nam dân chủ gấp vạn lần tư bản phương Tây…”
Nửa thế kỷ cách ngày hôm
nay nhưng vóc dáng phong thái của “phái yếu” người Sài Gòn ngày xưa đó
nét duyên dáng trí thức không lẫn vào đâu được, đa dạng mái tóc kiểu
phương Tây, chiếc áo dài ngày ấy đã canh tân không còn “cổ cao”, tay áo
cắt “raplan” và đặc biệt dễ nhận ra nhất của thập niên 60-70 là áo dài
có “chít eo” ngang hông rất rõ, những chiếc “jup” tây phương sắc màu
tươi trẻ nhưng không cao “quá gối” và nữ sinh, sinh viên tóc thề áo
trắng nên thơ, nói chung, phụ nữ xã hội miền Nam Sài Gòn thuở ấy có đủ
mọi thứ, để hoàn toàn tự do trang điểm làm đẹp cho chính mình mà không
bị lệ thuộc bất cứ chủ nghĩa giáo điều khe khắt nào khác…


Phương tiện xe gắn máy cá nhân phổ biến thông dụng ở thủ đô Sài Gòn ngày đó ngoài các loại xe Vespa, Lamberetta Ý và Gobel, Mobilete, Velosolet của Pháp thì đa phần là hai loại xe Nhật, Honda 67 cho nam và Honda Dame cho nữ, nhìn hình ảnh các “bóng hồng” ngày ấy, đẹp và lịch sự trên đường phố Sài Gòn cách nay nữa thế kỷ mà cứ ngỡ như mới ngày hôm qua – (cô gái có cái bảng nhắc nhở mọi người lấy thẻ cử tri bầu cử Tổng Thổng 1967 – Và hai cô gái váy đen bên chiếc taxi hai màu xanh vàng mang số hiệu 7533 của Sài Gòn thập niên 1960). Hình ảnh đủ để chúng ta chiêm nghiệm cái lạc hậu độc tài bảo thủ cố chấp của CSVN đã kéo lùi thời gian gây nên sự trì trệ trong phát triển của dân tộc như thế nào so với những gì chỉ trong một thời gian ngắn Sài Gòn làm được trước kia và so với các nước láng giềng trong khu vực.

Tương phản khác biệt quá
nhiều của khung cảnh, con người Sài Gòn và Hà Nội cùng thời điểm, rất
khó khăn và buồn lòng để bình luận khi mà mơ ước lớn lao nhất của mọi
người miền Bắc lúc bấy giờ chỉ là chiếc xe đạp tầm thường Phượng Hoàng
Trung Quốc trong khi xe đạp cực tốt mang nhãn hiệu “bồrô” của Pháp là
mặt hàng bình dân ở miền Nam buôn bán đầy đường ….
Hà Nội 1960-70:




Thập niên 1960-70 minh
chứng cho sự năng động phát triển kinh tế của Sài Gòn miền Nam mang tầm
khu vực Châu Á hướng ra thế giới là hãng Hàng Không AIR Việt Nam với đội
ngũ phi cơ phản lực mới nhất và các phi công chuyên nghiệp đường bay
quốc tế mà hãng hàng không cộng sản Trung Cộng lúc bấy giờ chưa sở hữu
được. Còn chế độ CS miền Bắc, Hà Nội thì chẳng biết gì về hàng không dân
dụng ở thời điểm ấy. Người dân và sinh viên Sài Gòn miền Nam hoàn toàn
tự do đi du học và xuất cảnh ra nước ngoài mà không bị ràng buộc bất cứ
lý do gì, đó là một điều không tưởng với nhân dân miền Bắc… bị cô lập
trong bức màn sắt CSVN.

Nói đến hàng hóa tiêu
dùng dân dụng thì tại thời điểm ấy thị trường Sài Gòn miền Nam hàng hóa
trù phú chất lượng cao, còn nhiều hơn Trung Quốc, tấp nập bày bán tự do.
Tại miền Bắc, Hà Nội chẳng có bất cứ một thứ gì để mà so sánh, bởi vì
người dân bình thường Sài Gòn thời điểm ấy đang sử dụng quạt máy, tủ
lạnh, máy may và TV đen trắng. Trong khi hai mặt hàng mà bất cứ người
dân miền Bắc nào cũng mơ ước (như nhà văn Dương Thu Hương nói) là đồng
hồ đeo tay và Radio thì thừa mứa ở các quầy hàng khắp miền Nam đến nỗi
các hảng sản xuất phải treo bảng quảng cáo trên đường (trong ảnh). Nói
cho vui, miền Bắc dưới sự lãnh đạo của đảng chỉ có hai thứ mà miền Nam
không có là (tên lửa Sam 2 và phân người hoại mục).




So với miền Nam- Ngắm nhìn hình ảnh bà con nhân dân miền Bắc và Hà Nội – CS/XHCN với chế độ “tem phiếu” tranh nhau từng chiếc “lốp” xe đạp, mảnh thịt, lạng đường, hộp diêm ngày đó… mà buồn nản đến nao lòng.




Cụ thể hơn, Sài Gòn miền Nam không cần phải CNXH hay “đấu tranh giai
cấp” nhưng nhìn hai hình ảnh dưới đây có cùng xấp xỉ thời gian thập niên
1960-70 để thấy, cùng một kiếp người “thì ai mới cần giải phóng cho ai”?
(Sài Gòn phương tiện mưu sinh gắn máy giải phóng sức người lao động
mang lại hiệu quả cao, Hà Nội công cụ mưu sinh còm cõi tiêu hao sinh lực
không thấy tương lai).


Thượng tầng cấu trúc Quốc Gia – Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam, Sài Gòn)
Thời điểm ấy 1960-70 đầy
đủ chuẩn mực, khuôn mẫu, của một đất nước văn minh ngày hôm nay. Tổng
Thống và Lưỡng viện Quốc Hội (Thượng và Hạ Viện) – Điển hình là một cuộc
họp tại thượng nghị viện Việt Nam Cộng Hòa (ảnh). Tự Do báo chí với hơn
50 tờ báo tư nhân các loại tại Sài Gòn so với không có tờ báo tư nhân
nào dưới chế độ CSVN ngày nay, sau hơn 2/3 thế kỷ – CSVN gọi đó là thống
nhất tự do dân chủ?

Sài Gòn miền Nam – người dân luôn được giáo dục nhắc nhở phải tôn trọng tri ân tưởng nhớ công lao các anh hùng tiền nhân của dân tộc, uống nước nhớ nguồn, tưởng niệm và tôn vinh, làm tấm gương soi rọi cho hậu thế noi theo (Kỷ niệm Lễ Hai Bà Trưng giữa lòng TP/Sài Gòn- và toàn dân tưởng nhớ đức Trần Hưng Đạo – Anh hùng Vua Lê Lợi).

Ngược lại dưới chế độ CSVN – Đục bia xóa bỏ chiến công Hoàng Đế Quang
Trung (Đền Vua Quang Trung núi Dũng Quyết), gắn thêm ngôi sao VN lên cờ
trung Quốc, tổ chức “Đại Hội Toàn Dân, Quân VN nhớ ơn trung Quốc” tại
thủ đô Hà Nội!? cho vui lòng “đồng chí” 4 tốt 16 vàng…



Hai hình ảnh trên, dưới – cách nay nửa thế kỷ cho thấy 1967 nhân dân SG bất đồng chính kiến vẫn được chính quyền Sài Gòn tôn trọng chấp nhận cho biểu tình.
Hơn 40 năm sau,
2011, dưới chế độ CSVN tại Hà Nội – Sài Gòn, người dân biểu tình, dù là
“yêu nước” chống TQ xâm lược lại bị đàn áp tàn bạo!


1958 – Quần đảo Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa – Do QL/VNCH
quản lý. Ông Phạm Văn Đồng (CS Bắc Việt) dưới sự chỉ đạo của ông HCM, ký
công hàm xác nhận Hoàng Sa nằm trong lãnh hải Trung Quốc.
1974 – Hải quân Trung
Quốc xâm lược đánh chiếm Hoàng Sa trong tay QL/VNCH – CS Bắc Việt im
lặng. Trong khi nhân dân Sài Gòn miền Nam và kiều bào hải ngoại biểu
tình lên án và phản đối hành vi xâm lược của Trung Quốc khắp nơi.

Những cuộc biểu tình của đồng bào miền Nam – Việt Nam Cộng Hòa toàn quốc
và khắp nơi trên thế giới của Sinh viên và Việt kiều năm 1974 tố cáo và
phản đối Cộng Sản Trung Quốc xâm lược quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.


Băng rôn sinh viên học sinh đồng bào SàiGòn biểu tình tố cáo, phản đối Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa năm 1974: “Cương quyết tận diệt Trung Cộng kẻ thù truyền kiếp của dân tộc”.

27-1-1973, CSVN ký hiệp định đình chiến chấm dứt chiến tranh tại Paris.
Trong đó Điều khoản 5 qui định: Sự tái thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng các biện pháp hòa bình.

Bà Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại
hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973).
hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973).
Tuy nhiên – Khi Mỹ rút hết quân – 1975 cộng sản Bắc Việt xua quân tràn
vào đánh chiếm miền Nam Việt Nam, bất chấp chữ ký của họ trước đó trong
Hiệp Định Paris.

1975 – Sinh viên VN tại Pháp “để tang” cho đất nước ngày 30/4.

Những bánh xích chiến xa của cộng sản miền Bắc VN đã nghiền nát giấc mơ của gần 30 triệu người miền Nam đang mang khát vọng đưa Sài Gòn và miền Nam VN cất cánh bay lên như Singapore, Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc ngày nay.
Họ, CSVN lừa bịp dân tộc, lừa bịp quốc tế, trơ tráo xé nát Hiệp Định
Paris – Phá bỏ điều khoản 5: (Thống nhất VN bằng những giải pháp hòa
bình), họ dấu tiệt lá “cờ đỏ sao vàng” vượt vĩ tuyến 17 bằng súng đạn,
xâm lược đánh chiếm miền Nam bằng lá cờ “nửa xanh, nửa đỏ” MTGPMN. Để
khỏi vướng bận và “tranh công” vài tháng sau 30/4 họ tự động hạ cờ “xanh
đỏ” giải tán “tấm bình phong bù nhìn” MTGP/MN này.
Chính họ – CSVN đã phạm
một sai lầm “vĩ đại” bắt cả dân tộc phải huynh đệ tương tàn hy sinh gần 5
triệu người – một thế hệ thanh niên tinh hoa của quốc gia nằm xuống vô
nghĩa, đổi lại lấy về một giang sơn của cha ông làm hao hụt đất đai biên
giới biển trời hải đảo và còn hơn thế nữa họ đẩy người Mỹ đi để Biển
Đông trống trải không ai canh giữ, cho bọn bành trướng Trung Quốc rảnh
tay tự do thôn tính biển đảo quê nhà VN mà họ, CSVN, đang lực bất tòng
tâm bắt cả nước phải “Đại Hội toàn Dân-Quân VN nhớ ơn Trung Quốc”!
“… Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là
sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn
nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải…”
SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Phúc Nổ

Xế chiều, tôi mới để ý tới ca dao:
Buồn vì một nỗi tháng Giêng
Con chim cái cú nằm nghiêng thở dài
Buồn vì một nỗi tháng Hai
Đêm ngắn ngày dài thua thiệt người ta
Buồn vì một nỗi tháng Ba
Mưa dầu nắng lửa người ta lừ đừ
Buồn vì một nỗi tháng Tư
Con mắt lừ đừ cơm chẳng muốn ăn
Buồn vì một nỗi tháng Năm
Chưa đặt mình nằm gà đã gáy kêu
Bước sang tháng Sáu lại đều
Vậy mà qua tới tháng Chín rồi nhưng sao tôi vẫn chưa cảm thấy “lại đều” gì ráo, vẫn cảm thấy nặng lòng vì những nỗi buồn ngun ngún từ vài tháng trước. Hồi tháng Tư (cái tháng “lừ đừ cơm chả muốn ăn”) nghe ông Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu, tại Hội Nghị Doanh Nghiệp Việt Nam, khiến tôi thiếu điều còn muốn bỏ uống luôn nữa kìa:
“Đặc biệt, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển và hội nhập để không những phát triển kinh tế trong nước mà còn có nhiều doanh nghiệp xuất khẩu ở nước ngoài, mang thương hiệu mà ta hay gọi là ‘Ma dzê in Việt Nam’. Đất nước mình anh hùng như vậy, giải phóng dân tộc như vậy, tại sao không thể xuất khẩu lớn được? ”
Tôi hoàn toàn không phiền hà gì cái thứ tiếng Anh ba rọi, và ba trợn của ông Phúc, vì đó chỉ là tiểu tiết. Một vị thủ tướng không nhất thiết phải thông thạo ngoại ngữ (bất kể là thứ tiếng nào) nhưng ít nhất thì cũng phải biết về tình trạng kinh tế của nước mình chớ bộ. Ông cho biết: “Dù bận cỡ nào, hằng ngày... tôi cũng đọc tin tức trên các báo để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người dân, doanh nghiệp ...” mà chả lẽ không rõ những mẩu tin sau:
- 58,2% doanh nghiệp FDI phải chi phí “bôi trơn” để được việc
- Làm được 10 đồng, thuế 'ăn' 4 đồng
- Gần 29.000 doanh nghiệp “chết lâm sàng” trong 5 tháng
Buồn vì một nỗi tháng Giêng
Con chim cái cú nằm nghiêng thở dài
Buồn vì một nỗi tháng Hai
Đêm ngắn ngày dài thua thiệt người ta
Buồn vì một nỗi tháng Ba
Mưa dầu nắng lửa người ta lừ đừ
Buồn vì một nỗi tháng Tư
Con mắt lừ đừ cơm chẳng muốn ăn
Buồn vì một nỗi tháng Năm
Chưa đặt mình nằm gà đã gáy kêu
Bước sang tháng Sáu lại đều
Vậy mà qua tới tháng Chín rồi nhưng sao tôi vẫn chưa cảm thấy “lại đều” gì ráo, vẫn cảm thấy nặng lòng vì những nỗi buồn ngun ngún từ vài tháng trước. Hồi tháng Tư (cái tháng “lừ đừ cơm chả muốn ăn”) nghe ông Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu, tại Hội Nghị Doanh Nghiệp Việt Nam, khiến tôi thiếu điều còn muốn bỏ uống luôn nữa kìa:
“Đặc biệt, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển và hội nhập để không những phát triển kinh tế trong nước mà còn có nhiều doanh nghiệp xuất khẩu ở nước ngoài, mang thương hiệu mà ta hay gọi là ‘Ma dzê in Việt Nam’. Đất nước mình anh hùng như vậy, giải phóng dân tộc như vậy, tại sao không thể xuất khẩu lớn được? ”
Tôi hoàn toàn không phiền hà gì cái thứ tiếng Anh ba rọi, và ba trợn của ông Phúc, vì đó chỉ là tiểu tiết. Một vị thủ tướng không nhất thiết phải thông thạo ngoại ngữ (bất kể là thứ tiếng nào) nhưng ít nhất thì cũng phải biết về tình trạng kinh tế của nước mình chớ bộ. Ông cho biết: “Dù bận cỡ nào, hằng ngày... tôi cũng đọc tin tức trên các báo để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người dân, doanh nghiệp ...” mà chả lẽ không rõ những mẩu tin sau:
- 58,2% doanh nghiệp FDI phải chi phí “bôi trơn” để được việc
- Làm được 10 đồng, thuế 'ăn' 4 đồng
- Gần 29.000 doanh nghiệp “chết lâm sàng” trong 5 tháng
Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh trong 5 tháng đầu năm nay là 4.643 doanh nghiệp, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước. Ảnh chú thích: vneconomy
Là người đứng đầu chính phủ hiện hành mà ông Phúc không thấy rằng ngành doanh nghiệp Việt Nam đang sống dở (và chết dở) sao? “Chúng ta chưa tự làm được cái đinh vít,” đã đành; “tăm tre, đũa tre cũng phải nhập khẩu cả chục ngàn tấn mỗi năm.” Vậy lấy cái gì ra “để xuất khẩu lớn,” ngoài thân xác của người dân Việt!
Đếm tháng Bẩy, vào ngày 18, báo Dân Trí đưa tin:
“Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ đạo cơ quan chức năng có giải pháp cụ thể chăm lo cho những Việt kiều nghèo từ Campuchia về nước, sống ở đầu sông Sài Gòn, đoạn nằm giữa 2 tỉnh Bình Phước và Tây Ninh…”
Mẹ ơi! Việt kiều về từ Campuchia đâu phải chỉ có một nhóm nhỏ ở đầu sông Sài Gòn – cha nội! Họ đang sống vất vưởng tại rất nhiều nơi khác nữa: Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, Đồng Nai, An Giang, và Kiên Giang.
Những đứa trẻ ở xóm "liều" biên giới không được đi học như những người bạn cùng trang lứa khác vì không có giấy khai sinh, hộ khẩu, quốc tịch và không thuộc quốc gia nào. Ảnh: Thuận Thắng. Chú thích: Tuổi Trẻ Online
Tình trạng Biển Hồ cạn nước, và tình hữu nghị Việt/Miên cũng đang đang từng bước cạn theo thì số lượng người Việt buộc phải hồi hương sẽ mỗi lúc một tăng. Theo luật lệ hiện hành của Việt Nam thì những người Việt “không có một manh giấy lận lưng này” sẽ phải chờ hai mươi năm sau mới được nhập tịch, nếu họ được cấp chứng minh thư và hộ khẩu.
Và không có quốc tịch thì họ sẽ không có việc làm, không được hưởng bất cứ phúc lợi xã hội nào, con cái cũng không được đến trường. Nếp sống khốn cùng và bấp bênh này sẽ kéo dài qua đến thế hệ kế sau, nếu không có sự tu chính về luật lệ di trú đối với những người dân bất hạnh này.
Đây là một vấn đề lớn, ở tầm mức quốc gia. Trong cương vị Thủ Tướng, ông Phúc cần phải có cái nhìn toàn diện và cách giải quyết rốt ráo. Chớ đâu phải bạ đâu nói đó (“Chỉ đạo cơ quan chức năng có giải pháp cụ thể chăm lo cho những Việt kiều nghèo từ Campuchia về nước, sống ở đầu sông Sài Gòn, đoạn nằm giữa 2 tỉnh Bình Phước và Tây Ninh…”) là xong!
Còn “những Việt kiều nghèo từ Campuchia về nước” ở những nơi khác thì sao? Không lẽ thây kệ họ! Đó là chưa kể đến những công dân, cũng chả có giấy khai sinh hay căn cước gì ráo trọi, đang sống trong những “xóm liều” giữa lòng Hà Nội mà ông Phúc (dám) chưa nghe ai nói đến bao giờ.
Xóm Liều giữa lòng Hà Nội. Ảnh: Báo Mới
Qua tháng Tám, tại Hội Nghị Ngoại Giao Lần Thứ Hai Mươi Chín, ông T.T. lại “nổ” một phát nghe cũng phát ù tai: “Khắc phục tình trạng nói không ai nghe.”
Ông Phúc à, ráng “khắc phục” chuyện gì dễ hơn chút xíu đi. “Khắc phục tình trạng lạm thu phí visa” của Bộ Ngoại Giao thử coi có được không?
Được chết liền!
Nếu không lạm thu, và không buôn lậu thì các sứ quán Việt Nam sẽ phải đóng cửa ráo trọi vì tất cả nhân viên ngoại giao sẽ chết đói hết trơn. Họ sống sao nổi, ở nước ngoài, với cái đồng lương đốn mạt của nhà nước Việt Nam ?
Ông nói chi đến chuyện viển vông (“khắc phục tình trạng nói không ai nghe”) nghe sao mệt quá hà! Dối trá, nói lấy được, nói cho qua chuyện, nói một đằng làm một nẻo đều là những nét văn hoá đặc trưng – đậm đà bản sắc dân tộc – của những quốc gia theo CNXH mà:- “Công dân của các nước ấy dùng ngôn từ để che đậy chứ không nhằm
giao tiếp, hoặc giao tiếp bằng cách che đậy ‘nói vậy mà không phải vậy’!
Nó là cái vỏ cứng để bảo vệ mọi sự bất trắc, chống lại thói quen hay
xét nét lời ăn tiếng nói của công dân của mọi chính quyền chuyên chế.”
(Nguyễn Khải – Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất).
- “Nói dối mãi thành quen, thành tự
nhiên, thành ‘mày phải’… nói dối. Không nói dối không thành gì cả, không
được gì cả. Một xã hội ứng xử bằng nói dối là một xã hội đang đứng bên
bờ vực thẳm hay đang rơi tự do xuống vực thẳm.” (Nguyễn Trọng Tạo – Ngày Nói Thật Cho Việt Nam).
- “Người nói cứ nói. Thừa hiểu mình nói dối, chẳng ai tin, nhưng cứ nói. Rất thành thật thiết tha. Thuyết giảng chân lý, thuyết giảng con đường. Người nghe làm ra vẻ chăm chú, rất chăm chú, mê say. Nhận thức đường đi. Sáng lòng sáng mắt. Tuy biết tỏng rằng người nói cũng chẳng mảy may tin những điều họ nói, thì mình tin sao được. Nhưng vẫn làm ra vẻ tin, tin thật, tin lắm. Xuýt xoa, tấm tắc dù biết ngời nói nhìn thấu ruột gan mình. Vở diễn vẫn cứ kéo dài năm này sang năm khác. Vì không ai dám nói ra sự thật nên vở vẫn cứ diễn. Cứ giả cách nói, giả cách nghe, giả cách tin tưởng”. (Bùi Ngọc Tấn. Chuyện Kể Năm 2000, tập II. CLB Tuổi Xanh, Westminster, CA: 2000).
- Nhà nước hiện hành được thiết
lập, xây dựng trên một thứ nền móng xảo trá và tồn tại tại
được là nhờ vào dối gạt triền miên: “Cứ giả cách nói, giả cách
nghe, giả cách tin tưởng ...” Đòi “khắc phục tình trạng” này là
đi ngược lại với chính sách cùng chủ trương của Đảng và Nhà
Nước chớ đâu phải chuyện giỡn chơi, cha nội.
Nổ nhỏ và nổ bớt chút xíu đi, ông Phúc. Mỏng mỏng thôi. Nổ hoài và nổ quá Trời dễ bị ù tai lắm; đã vậy, có bữa còn bị trúng miểng (uổng mạng) như không.
NS. TUẤN KHANH * VIỆT NAM
Việt Nam trước 3 lựa chọn chiến lược để đối phó với Trung Quốc

Trên tờ Forbes, bài viết mang tên Vietnam's Three Strategic Options
của nhà phân tích thời sự Anders Corr đã có một cái nhìn khá rõ ràng về
vấn đề biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt làm ảnh hưởng đến
các quốc gia chung quanh. Bài viết đáng đọc này, trích từ bài thuyết
trình hội nghị 17-08-2016 tại thành phố Nha Trang, Việt Nam. Các hội
nghị, được tài trợ bởi Đại học Phạm Văn Đồng và Đại Học Nha Trang, với
chủ đề 'Tình trạng pháp lý của đảo và đá Trong Luật Quốc Tế Và Thực hành
Trong Biển Đông.
Các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông đang ngày càng đầy tính quân
sự. Còn Việt Nam thì đang trở thành một quốc gia dễ xâm lấn từ Trung
Quốc, do cách chọn đứng một mình, thiếu các hiệp ước liên kết chặt chẽ
để tạo đồng minh. Trong tình hình an ninh đang xấu đi của Việt Nam, việc
đối phó với Trung Quốc có thể cần lựa chọn một trong ba chiến lược
sau: 1) tiếp tục các chiến lược hiện tại đi dây giữa các mối quan hệ Mỹ,
Trung Quốc và Nga; 2) Liên kết đồng minh với Mỹ nhằm chống lại Trung
Quốc; hoặc 3) phát triển khả năng quân sự của Việt Nam, bao gồm cả tiềm
năng về vũ khí hạt nhân.
Hành động của Trung Quốc lúc này, đang nhắm vào lãnh thổ của Việt Nam,
và từ cách đối phó của Việt Nam, kết quả của sự đối đầu qua lại này, sẽ
tạo ra một hiệu ứng toàn cầu. Nếu giả sử Trung Quốc đánh thắng Việt Nam,
hậu quả này sẽ khiến các nước khác lo ngại và nhượng bộ phần nào với
Trung Quốc. Về mặt quân sự thì Trung Quốc lúc đó cũng sẽ nổi bật hơn. Vì
lẽ này, các quyết định chiến lược của Việt Nam đối phó với Trung Quốc
trong những năm tới, cần được xem như mối quan tâm chính trị chung của
thế giới.
Mối đe dọa của Trung Quốc đối với Việt Nam, là âm mưu chiếm lấy vùng
biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ), vốn là quyền sở hữu mà Việt
Nam đã được Công ước Liên Hợp Quốc về Luật dự trữ Biển (UNCLOS) nhìn
nhận. Nhưng đến nay, Việt Nam chỉ có khả năng giải quyết các mối đe dọa
này, bằng cách điều đình và ngăn cản. Tương lai thì Việt nam chỉ còn có
thể chọn lựa một trong ba chiến lược đã nói trên.
Tất cả ba chiến lược này, cái nào cũng buộc phải chịu về chi phí, kèm
những theo rủi ro, và rất có thể sẽ gây ra những thay đổi cơ bản trong
chính trị và kinh tế của Việt Nam. Sự lựa chọn của Việt Nam sẽ gây ảnh
hưởng đến nhiều diễn biến trong nước và quốc tế, trong tương lai gần,
bao gồm việc Trung Quốc sẽ tăng cường sự hiện diện của nước này trên
lãnh hải của Việt Nam, ảnh hưởng sự ổn định của lãnh đạo hiện nay của
Việt Nam, cũng như các ứng phó của Trung Quốc đối với các nước khác.
Chiến lược hiện nay của Việt Nam, đi dây giữa các mối quan hệ Mỹ, Trung
Quốc và Nga, là phức tạp nhất, nhưng ít có khả năng dẫn đến các xung đột
ngoại giao, kinh tế, hoặc quân sự. Việt Nam là rất có khả năng đi theo
lộ trình này. Vì cách này bao gồm các yếu tố tương đối vô hại: luôn để
mở các cuộc đàm phán, nhận tài trợ phát triển và có được các hợp đồng
mua bán với tất cả các đồng minh tiềm năng, bao gồm Mỹ. và Trung Quốc.
Việt Nam chỉ cần giữ mối hợp tác quốc phòng với Mỹ và các đồng minh một
cách vừa phải, có cơ hội mua và mua thêm vũ khí mới như một cách răn đe.
Việc quá nghiêng về một phía của một trong ba chiến lược có thể sẽ dẫn
đến những hậu quả ngoài ý muốn. Cách tính quá kỹ của Việt Nam sẽ khiến
họ bị xa lánh bởi các đồng minh lớn, và làm mất khả năng thuyết phục Hà
Nội có thể là một đồng minh đáng để cam kết. Liên minh quá chặt với Mỹ.
chống lại Trung Quốc sẽ dẫn đến các biện pháp trả đũa của Trung Quốc và
có lẽ thêm cả Nga. Còn nếu nghĩ đến việc tạo một khả năng răn đe hạt
nhân thì ắt sẽ gây ra nhiều phản ứng ngoại giao tiêu cực, ít nhất là từ
cả Mỹ.
Chính sách đi dây có thể làm giảm nguy cơ của một cuộc chiến, nhưng
khiến Việt Nam yếu đuối và dễ bị tổn thương khi ảnh hưởng từ Trung Quốc
gia tăng. Vì lẽ Trung Quốc muốn đẩy mạnh sức mạnh kinh tế và quân sự của
nước này ở châu Á, ảnh hưởng của nước này với Việt Nam cũng sẽ tăng
lên. Và khi đó, Việt Nam có thể lại phải nhượng bộ các mặt chính trị,
ngoại giao và kinh tế với Trung Quốc trong vòng hai thập kỷ tới.
Nếu Việt Nam lựa chọn chính sách đi dây như một chiến lược chính, thì Hà
Nội sẽ phải đối mặt với các đòi hỏi của Trung Quốc, nhượng Trung Quốc
trong đường 9 đoạn. Từ đó sẽ cùng cam kết phát triển chung và chia sẻ
doanh thu tài nguyên, hydrocarbon và đánh bắt cá, và thậm chí Bắc Kinh
có thể hình thành kín đáo việc đánh thuế thương mại hàng hải của Việt
Nam. Nhưng chịu ảnh hưởng Trung Quốc tại Việt Nam, và các kiểu nhượng bộ
sẽ tạo ra sự bất mãn trong dân chúng Việt Nam, thậm chí gây rủi ro ổn
định chính trị và nhiệm kỳ của các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam hiện nay.
Chiến lược thứ hai là giả thuyết về việc đa số lãnh đạo của Việt Nam
muốn loại bỏ ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam, và dựng mối quan
hệ đồng minh chặt chẽ với Mỹ và các nước khác, bao gồm cả Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan, Philippines, Úc và Ấn Độ. Một phần của chiến lược này,
là Việt Nam có thể kiện Trung Quốc ra tòa trọng tài quốc tế, thông qua
UNCLOS. Chiến lược thứ hai này sẽ giúp duy trì sự độc lập và chủ quyền
của Việt Nam. Nhưng các đồng minh mới được gần gũi của Việt Nam sẽ theo
thời gian, cũng sẽ có ảnh hưởng của mình đối với Việt Nam về vấn đề cải
cách dân chủ hóa và tự do ngôn luận.
Việc cải cách dân chủ có thể dẫn đến các phong trào xã hội, yêu cầu lãnh
đạo hiện tại ra đi để ưu tiên cải cách hiến pháp, và cuối cùng là một
chính phủ dân chủ bầu. Những người chống lại chiến lược thứ hai này,
thường vẽ ra một viễn cảnh về hỗn loạn chính trị, nội chiến, cũng như
làm ảnh hưởng mức độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, vốn được coi là
rất ấn tượng.
Chiến lược thứ ba là phát triển khả năng quân sự của Việt Nam đến mức
Trung Quốc không muốn tấn công nữa. Hiện Việt Nam đã mua sáu tàu ngầm
kilo-class từ Nga trong vài năm qua. Có nhiều loại phi đạn tấn công trên
đất liền có thể với tới đảo Hải Nam, thậm chí là các thành phố sát biển
như Thượng Hải. Đây là sự đa dạng diesel-điện im lặng, và mang tên lửa
hành trình đất tấn công có khả năng đạt các căn cứ hải quân của Trung
Quốc trên đảo Hải Nam, thành phố ven biển lớn như Thượng Hải. Việt Nam
lần lần có thể mua hoặc phát triển đầu đạn hạt nhân cho các tên lửa này.
Chiến lược tăng cường quân sự có một điểm lợi cho Hà Nội, là ít có khả
năng gây ra sự thay đổi chế độ. Nhưng nó sẽ mất thời gian, kích động một
cuộc chạy đua vũ trang, vốn đã có ở châu Á. Và nếu là vũ khí hạt nhân,
thì chắc chắn sẽ kéo theo những chi phí rất lớn từ các cuộc phản ứng
ngoại giao quốc tế cũng như các đòn trừng phạt kinh tế.
Tuy nhiên, chiến lược này cũng có tính rủi ro cao. Việc xây dựng hệ
thống vũ khí hạt nhân của Việt Nam, có thể khiến Trung Quốc nảy sinh
việc muốn tấn công phủ đầu vào các cơ sở hạt nhân của Việt Nam. Ngoài
ra, Trung Quốc có thể sử dụng các chiến thuật đối với Việt Nam như đâm
tàu chìm, khiêu khích một cuộc chiến tranh, mà bình thường Trung Quốc
cũng chưa tính tới.
Trung Quốc cũng có thể nhấn mạnh ưu thế riêng của mình trong một cuộc
chiến tranh toàn diện với Việt Nam, kích động xung đột quân sự cường độ
thấp để chứng tỏ quyết tâm của mình. Điều này có thể sẽ khiến Việt Nam
phải nhượng bộ, dù có vũ khí hạt nhân hay không. Chạy đua quân sự thì
tốn kém và mệt sức về chính trị, nhưng lại không mấy hiệu quả đối với
một Trung Quốc đã sẵn sàng chấp nhận rủi ro.
Thật vậy, Trung Quốc đã chứng minh một sự thèm khát mạnh mẽ đối với rủi
ro trong vài năm qua. Do lập trường ngày càng hung hăng của Trung Quốc,
Việt Nam khác hơn những nước khác là không may phải đối mặt với các lựa
chọn khó khăn. Các lựa chọn tốt nhất cho giới lãnh đạo và nhân dân Việt
Nam, theo ý kiến của tôi, là liên minh chặt chẽ với Mỹ, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan, Philippines, Úc và Ấn Độ, trong khi vẫn tăng cường khả
năng quân sự của mình.
Giới lãnh đạo của Việt Nam hiện nay đang trong tay một cơ hội mang tính
lịch sử. Nếu biết nắm bắt đúng lúc, nhân dân Việt Nam chắc chắn dành sự
trọng vọng trong bài khải hoàn ca, cho những người xứng là người hùng
của tổ quốc
http://www.rfavietnam.com/node/3422
No comments:
Post a Comment