Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday 20 October 2016

HỌ LÝ ĐẠI HÀN - MÔI TRƯỜNG ĐỘC

YÊN TỬ * HỌ LÝ TẠI ĐẠI HÀN

Ði tìm con cháu Thuyền-nhân VN 849 năm về trước: 
       Yên-tử Cư-sĩ Trần Ðại Sĩ

Tác giả chân thành cảm tạ Tiến-sĩ Thái Văn Kiểm, hội viên Hàn-lâm viện Pháp-quốc hải ngoại, đã giúp đỡ rất nhiều khi viết bài này.
Ngày 17 tháng 9 năm 1957, Tổng-thống Ngô-đình Diệm công du Ðại-hàn (1). Năm sau, ngày 6 tháng 11 năm 1958, Tổng thống Ðại-hàn dân quốc là Lý Thừa Vãn, viếng thăm Việt-Nam. Trong dịp này ông đã tuyên bố rằng tổ tiên ông là người Việt. Báo hồi ấy có tường thuật sơ sài. Còn chính quyền thì gần như không để ý đến chi tiết lịch sử này.
Bấy giờ, đệ nhất Cộng-hòa thành lập chưa quá hai năm, mới chỉ có viện Khảo-cổ, không có cơ quan nghiên cứu lịch sử. Cho nên không ai nghĩ đến việc sang Ðại-hàn tìm hiểu xem họ Lý từ Việt Nam, đã di sang đây từ bao giờ? Ai là nguyên tổ của họ?
Thời gian này tôi mới 19 tuổi, vừa bước chân vào đại học. Nhưng nhờ thấm nhuần Nho-giáo, nên đã chững chạc lắm rồi. Tôi viết thư cho sứ quán Ðại-hàn tại Việt-Nam để hỏi về chi tiết này. Dĩ nhiên tôi viết bằng chữ Nho. Hơn tháng sau tôi được thư trả lời của tộc Lý tại Nam-hàn. Trong thư, họ cho tôi biết rằng:
"Tổng-thống Lý Thừa Vãn là hậu duệ đời thứ 25 của Kiến-bình vương Lý Long Tường. Kiến Bình vương là con thứ 6 của vua Lý Anh-Tông. Người cùng tông tộc sang Cao-ly vào đầu thế kỷ thứ 13 vì quốc nạn".
Ánh sáng đã mở ra trước mắt tôi. Nhưng tôi tra trong Ðại-Việt sử ký toàn thư (ÐVSKTT), trong Việt-sử lược (VSL), trong Khâm-định Việt-sử thông giám cương mục (KÐVSTGCM), không bộ nào nói đến Kiến Bình vương Lý Long Tường cả.
Tò mò chưa được thỏa mãn, nhưng tôi đành bỏ qua, vì bấy giờ tôi phải dồn hết tâm tư vào việc học. Năm 1959, trong khi lục lọi tại thư viện Paris, vô tình tôi đọc được Tập-san sử địa của Nhật-bản, số 2 năm 1941, trong đó nói vắn tắt rằng:
"Năm Bính Tuất, 1226, bấy giờ là niên hiệu Kiến-trung thứ nhì đời vua Thái-Tôn nhà Trần. Biết mình là con thứ sáu vua Lý Anh-Tông, lại đang giữ chức đô đốc, tư lệnh hải quân, trước sau gì cũng bị Trần Thủ Ðộ hãm hại, nên ông đã đem tướng sĩ dưới quyền, tông tộc, cùng hạm đội ra đi, sau đó trôi dạt vào Cao-ly".
Tôi tự hẹn, sau này có tiền sẽ sang Ðại-hàn tìm hiểu chi tiết này.
Thế nhưng, sau khi ra trường, 1964, tuy đã có chỗ đứng vững chắc về phương diện tài chánh. Ngặt vì nghề sinh nhai lối dọc đường ngang, tôi vẫn không thực hiện được cái ước vọng sang Hàn quốc, tìm hiểu về nguồn gốc họ Lý tại đây.
Mãi tới năm 1980, tháng 8, tôi đi trong phái đoàn Pháp, sang dự đại hội y khoa tại Hàng-châu Trung-quốc. Ở đại hội, tôi được tiếp xúc với phái đoàn Bắc-cao. Phái đoàn này có bác sĩ Lý Chiếu Minh ở Hùng-xuyên (Hunchon) và bác sĩ Lý Diệp Oanh ở Thuận-xuyên (Sunchon). Bấy giờ tôi đã 41 tuổi, còn Diệp Oanh mới 30 tuổi. Tuy là bác sĩ, thế nhưng cô tươi như hoa lan, phơi phới như hoa thủy tiên ban mai. Thấy mỗi bữa ăn cô lẩm nhẩm đọc kinh mà không làm dấu thánh giá, tôi cho là cô đọc kinh Phật. Tôi cũng đọc kinh Bát-nhã bằng tiếng Việt. Cô hỏi tôi:
- Ủa! Anh đọc kinh cảm ơn Tổng-thống Valéry Giscard đấy à?
- Không! Tôi đọc kinh Phật. Thế cô đọc kinh gì vậy?
- Phật đâu có cho anh cơm ăn, áo mặc ?
- Vậy cô đọc kinh gì ?
- Tôi đọc kinh cảm ơn cha già Kim Nhật-Thành đã cho chúng tôi đươc tự do, có cơm ăn, áo mặc! (2)
Nghe cô nói, tôi rùng mình. Song thấy cô xinh đẹp, tôi đùa:
"Ở nước tôi, vào thế kỷ thứ 12, dưới triều vua Lý Anh-tông, tổ tiên tôi là Trần Thủ Huy được gả công chúa Ðoan Nghi...".
Diệp Oanh cắt lời:
"Sang đầu thế kỷ thứ 13, cũng tổ tiên anh là Trần Liễu được gả công chúa Thuận Thiên, Trần Cảnh được vua Chiêu Hoàng tuyển làm chồng. Rồi tổ tiên anh xua đuổi, nên tổ tiên tôi thành thuyền nhân, ngày nay Hàn quốc mới có họ Lý".
À! Vạn lý tha hương ngộ tri kỷ đây. Biết rất rõ Diệp Oanh là con cháu của Kiến Bình vương Lý Long Tường, tôi đùa thêm:
"Biết đâu cô không là công chúa Ðoan Nghi, tôi không là Trần Thủ Huy tái đầu thai? Có lẽ chúng mình nên đi tiếp con đường tổ tiên mình đã đi".
Diệp Oanh vã tôi một cái vào má trái, tỏ cử chỉ thân thiện. Song chúng tôi bắt con tim ngừng phiêu lưu ở đây, vì bấy giờ bà vợ tôi còn sống, còn quá trẻ; vợ chồng lại rất tương đắc ngoài đời, nồng thắm trong phòng the.
Thế rồi chúng tôi nhận họ. Suốt đại hội, tôi với Chiếu Minh, Diệp Oanh gần nhau như bóng với hình. Tôi kể cho hai người nghe về những trang sử rực hào quang dưới thời Lý, nhất là huyền sử về Linh Nhân hoàng thái hậu (Ỷ Lan). Sau đại hội, Chiếu Minh, Diệp Oanh rủ tôi du lịch Bắc-cao. Bấy giờ là thịnh thời của chủ tịch Kim Nhật Thành, Bắc-cao khép kín cánh cửa với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên nhờ mang thông hành Pháp, nên tòa đại sứ Bắc-cao ở Bắc-kinh cho tôi cái chiếu khán được du lịch nghiên cứu về nhân sâm trong 8 ngày.
Tới Bắc-cao, ông đại sứ Pháp tưởng tôi đi nghiên cứu nhân sâm thực. Ông lệnh cho văn phòng tùy viên văn hóa giúp đỡ tôi. Tôi không muốn nói dối ông đại sứ. Tôi thú thật là đi tìm một số tài liệu lịch sử. Dù biết tôi mượn danh đi nghiên cứu y khoa, cơ quan trao đổi y học dư thừa tài chánh đài thọ tất cả phí tổn cho tôi. Thế nhưng sứ quán Pháp vẫn giúp đỡ tôi tận tình. Nào cung cấp xe, cung cấp tài xế, gửi thư giới thiệu.v.v... Kể ra làm công việc nghiên cứu của Pháp cũng sướng thực. Xin vạn vạn lần cảm ơn tinh thần yêu văn hóa của nước Pháp.
Tại Hùng-xuyên, cũng như Thuận-xuyên, các chi họ Lý tiếp đón tôi rất niềm nở. Buồn là các cuộc đàm thoại bị giới hạn khá nhiều, tôi phải dùng tiếng Quan-thoại nói với Chiếu Minh và Diệp Oanh. Hai vị này dịch sang tiếng Ðại-hàn. Các chi họ Lý xin phép chính quyền, rồi tổ chức những buổi hội, để nghe tôi nói chuyện về thời đại Tiêu-sơn. Khi nghe kể đến đoạn công chúa Bảo Hòa tu tiên, cho đến tuổi 90 vẫn trẻ như hồi 17 tuổi, cử toạ suýt xoa sung sướng. Lại khi nghe tôi thuật giai thoại vua Lý Thánh-Tông, đang đêm trốn khỏi hoàng cung, gặp cô thôn nữ Yến Loan, rồi sau đưa về cung phong làm Ỷ Lan phu nhân; cử tọa vỗ tay hết tràng này đến tràng khác. Khi nghe tôi kể đến các công chúa Bình Dương, Kim Thành, Trường Ninh trấn ngự biên cương khiến các quan Tống ở Nam-biên nghe đến tên đều kinh hồn vỡ mật. Các cô ngửa mặt lên nhìn trần nhà cười đầy vẻ hãnh diện. Lúc mà tôi thuật đến đoạn Quách Quỳ, Triệu Tiết đem đại quân phá vỡ phòng tuyến Như-nguyệt, tiến đến rừng tre, cách Thăng-long có 25 cây số... Trong phòng có đến hơn 700 người, mà không một tiếng đtrộng. Rồi tôi kể tiếp: Công chúa Thiên Ninh đánh bật quân Tống trở về Như-nguyệt, thì phòng hội hoan hô đến muốn rung động thành phố. Tôi thuật tiếp đến đoạn công chúa tuẫn quốc, thì cả phòng hội đều khóc nức nở. Những người khóc nhiều nhất lại là những thiếu niên.
Hầu hết những chi họ Lý đều đem gia phả ra hỏi tôi những chi tiết mà họ không hiểu. Tất cả gia phả đều viết bằng chữ Nho. Như gia phả của chi Thuận-xuyên, có đôi câu đối:
Thập-bát anh hùng giai Phù-đổng,
Tam thiên nữ kiệt tỷ Mê-linh.
(Mười tám anh hùng đều như Phù-đổng thiên vương.
Ba nghìn nữ kiệt đều có thể sánh với Trưng-vương).
Tôi phải moi trí nhớ, để đọc cho họ chép lại tiểu sử 18 danh tướng vào thời vua Lý Nhân-Tông, kháng Tống tuẫn quốc. Tôi lại phải thuật cho họ nghe về công chúa Thiên Ninh (Bà chúa kho) có 3 nghìn nữ binh. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết mang quân sang Ðại-Việt, phá vỡ phòng tuyến Như-nguyệt tiến về Thăng-long. Quân Tống nhập vào phòng đai phòng thủ chỉ cách Thăng-long có 25 cây số, bị công chúa đánh bật trở về Bắc sông Như-nguyệt. Sau đó công chúa cùng 3 nghìn nữ kiệt đều tuẫn quốc.
Hầu hết các chi, khi nghe tôi nói rằng: Triều Trần kế tục triều Lý. Nhưng các vua triều Trần đều dành ra một số ruộng đất lớn, cho tá điền cầy cấy, thu tô để làm phương tiện hương khói, thờ cúng, tu bổ lăng tẩm 9 đời vua triều Lý... đều hài lòng. Các triều đại kế tiếp như Lê, Nguyễn vẫn giữ nguyên truyền thống này. Mãi đến năm 1956, trong cuộc cải cách ruộng đất, những ruộng đất này mới bị tịch thu. Tuy nhiên đây là những di tích lịch sử, nên kể từ năm 1962, bộ Văn-hóa miền Bắc Việt-Nam đã ban nghị định công nhận là di tích văn hóa, lịch sử, và bảo quản rất kỹ.
Bác-sĩ Diệp Oanh dẫn tôi thăm những vùng đất linh của giòng họ Lý. Thực là kỳ điệu, dưới chế độ Cộng-sản cực đoan, chủ trương hủy diệt tất cả những gì là văn minh của tổ tiên, để chỉ còn biết đến Mác, Lê, biết đến cha già dân tộc Kim Nhật Thành. Thế nhưng giòng họ Lý vẫn giữ gìn được những di tích của tổ tiên. Nào cửa biển Phú-lương giang nơi hạm đội của Kiến-bình vương cập bến Cao-ly, nào Ung-tân, nơi đầu tiên họ Lý làm nhà ở, nào ngọn đồi Julhang thuộc xã Ðỗ-môn (Tô-mơ-ki) nơi có lăng của Kiến Bình vương Lý Long Tường. Tôi cũng được lên Quảng-đại sơn thăm Vọng-quốc đài, là nơi vương lên nhìn về quê hương.
Sau đó, năm 1983, tôi lên đường đi Nam-hàn để tìm hiểu thêm về giòng họ Lý. Tiếc rằng khi Lý Long Tường tới Hàn-quốc táp vào miền Bắc, vì vậy dường như tại Nam-hàn không có một chút di tích nào của ông. Giòng họ Lý sống tại Nam-hàn rất ít, tổng số chưa quá nghìn người. Họ cũng giống như người Bắc hồi 1954 di cư vào Nam, mang theo rất ít di vật, gia phả về tổ tiên mình. Không nhà nào mang được gia phả cổ. Gia phả mà họ cho tôi xem, hầu hết là mới chép gần đây. Nội dung lại quá nhiều sai lạc. Như chép về việc ra đi của Kiến Bình vương, gia phả nói rằng họ Lý bị Trần Thủ Ðộ cướp ngôi, Lý Long Tường cầm quân chống lại, bị thua. Về Lý Chiêu Hoàng, họ chép là hoàng hậu của vua Lý Huệ-Tông! (3)
Họ Lý, hậu duệ Kiến Hải vương, hay họ Lý Tinh-Thiện
Thế nhưng, tại Nam-hàn tôi gặp ông Lý Gia Trung. Ông cho biết, tổ tiên ông là người Việt, nhưng không thuộc giòng dõi Kiến Bình vương. Tổ tiên ông là Kiến Hải vương Lý Dương Côn, đã đến Cao-ly hồi đầu thế kỷ thứ mười một.
Quý độc giả có biết tâm trạng tôi bấy giờ ra sao không ? Kinh ngạc, bàng hoàng, đờ đẫn cả người ra. Vì trong khi nghiên cứu về triều Lý, tôi biết một huyền sử vắn tắt như sau :
"Vua Lý Nhân-Tông không có hoàng nam, người nhận con của các thân vương trong hoàng tộc làm con nuôi. Năm Ðinh Dậu (1117) nhận con của hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng làm con nuôi. Sau truyền ngôi cho con của Sùng Hiền hầu là Lý Dương Hoán, tức vua Lý Thần-Tông. Khi Lý Thần-Tông băng, Thái-tử Thiên-Tộ còn bế ngửa, triều thần muốn tôn con của Thành Quảng hầu là Lý Dương Côn lên nối ngôi. Cuộc tranh quyền trong giòng họ Lý diễn ra, sau vợ của vua Lý Thần-Tông nhờ có tình nhân là Ðỗ Anh Vũ giúp đỡ, mà loại hết các địch thủ. Năm Canh Ngọ (1150) nhân vụ chính biến, Cảm Thánh thái hậu mưu với tình nhân Ðỗ Anh Vũ giết hết tông tộc của các hầu Thành Khánh, Thành Chiêu, Thành Hưng. Bấy giờ con Thành Quảng hầu là Kiến Hải vương Lý Dương Côn đang là đô đốc Thủy-quân, bèn đem gia thuộc xuống chiến thuyền lưu vong. Song không biết đi đâu (1150)".
Bây giờ, sau 831 năm, tôi gặp lại hậu duệ của Kiến Hải vương. Tâm tư rúng động ! Hỡi ơi ! Tại Hàn-quốc có tới hai giòng họ Lý, gốc là thuyền nhân Ðại-Việt. Tôi ghi chú tất cả những gì mà giòng họ Lý của Kiến Hải vương cung cấp để khi viết về thời đại Tiêu-sơn còn có thêm tài liệu.
Cuối năm 1996, một nhà nghiên cứu tộc phả nổi tiếng của Nam-hàn là giáo sư Phiến Hoằng Cơ (Pyon Hong Ke) công bố kết quả cuộc nghiên cứu của ông rằng ông đã phát hiện một giòng họ Lý thứ nhì, tại Ðại-hàn, được gọi là Lý Tinh-thiện. Giòng họ này, chính là giòng họ Lý, con cháu Kiến Hải vương mà tôi đã có cơ duyên gặp hậu duệ là ông Lý Gia Trung.
Giáo sư Phiến Hoằng Cơ cho biết, căn cứ vào gia phả của giòng họ này mang tên Tinh-thiện Lý thị tộc phả, được lưu trữ tại thư viện Quốc-gia Hán-thành, thì ông tổ của giòng họ Lý Tinh-thiện là Lý Dương Côn (Lee Yang Kon) tới Ðại-hàn vào đầu thế kỷ thứ 12:
"Lý Dương Côn hiệu là Nguyên Minh, hoàng tử thứ ba con vua Càn Ðức, được Tống triều phong tước Nam-bình vương".
Tra trong sử Việt, thì vua Càn Ðức chính là tên của vua Lý Nhân-Tông. Vua Lý Nhân-Tông là con của vua Lý Thánh-Tông với Ỷ-Lan phu nhân, sau được tôn là Linh-Nhân hoàng thái hậu. Người chỉ đạo cuộc đánh Tống, kháng Tống lừng danh lịch sự Việt-Nam. Theo ÐVSKTT, Lý kỷ, Nhân-tông kỷ thì: "Niên hiệu Hội-tường Ðại-khánh thứ 8 (DL.1117, Ðinh Dậu)...
...Tìm con trai trong tôn thất để nuôi trong cung. Xuống chiếu rằng: "Trẫm cai trị muôn dân mà lâu không có hoàng nam, ngôi báu của thiên hạ biết truyền cho ai? Nên trẫm nuôi con của các hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng, chọn người giỏi lập làm thái tử. Bấy giờ con Sùng Hiền hầu là Dương Hoán, lanh lợi, vua rất yêu, bèn lập làm Thái-tử".
Vậy thì Lý Dương Côn là con nuôi của vua Lý Nhân-Tông, chứ không phải con đẻ. Con nuôi thứ ba, thì là con của Thành Quảng hầu tên Lý Dương Côn, tước phong Kiến Hải vương.
Giáo-sư Phiến Hoằng Cơ dựa theo Tinh-thiện Lý thị tộc phả và bộ Cao-ly sử, ông công bố: Hậu duệ đời thứ sáu của Lý Dương Côn là Lý Nghĩa Mẫn (Lee Unimin) trở thành nhân vật kiệt hiệt trong lịch sử. Bấy giờ Cao-ly đang ở dưới triều đại vua Nghị-tông (Ui-jiong 1146-1170). Nhà vua rất sủng ái Lý Nghĩa Mẫn, phong cho chức Biệt-trưởng. Nước Cao-ly trong thời gian này, phải chống trả với cuộc xâm lăng của Khiết-đan tức Ðại-liêu, nên các võ tướng nắm hầu hết quyền hành. Năm 1170 tướng Trịnh Trọng Phu (Jeong Jung-bu) chưởng môn một võ phái, đảo chính vua Nghị-tông lập vua Minh-tông (Mycong 1170-1179). Trọng Phu bị các võ phái, võ tướng nổi lên chống đối. Lý Nghĩa Mẫn là người phụ tá đắc lực cho Trịnh Trọng Phu, đem quân dẹp các cuộc nổi dậy. Ông được thăng chức Trung-lang tướng, Tướng-quân, Ðại-tướng quân (1173), Thượng-tướng quân (1174), cuối cùng là Tây Bắc bộ binh mã sứ (1178). Năm 1179, một võ quan khác là Khánh Ðại Thăng (Kyung Dae-Seung) làm cuộc chính biến, giết chết Trịnh Trọng Phu, lên nắm quyền. Bấy giờ Lý Nghĩa Mẫn giữ chức Hình-bộ thượng thư (1181). Vì ông thuộc phe Trịnh Trọng Phu, nên bị nghi ngờ, chèn ép. Ông cáo quan về hưu.
Sau khi Khánh Ðại Thăng chết, vua Minh-tông mời Lý Nghĩa Mẫn vào bệ kiến, được trao chức Tư-không, Tả-bộc xạ, Ðồng-trung thư môn hạ bình chương sự tức Tể-tướng trong 14 năm (1183-1196). Năm 1196, một phe võ tướng do Thôi Chung Hiếu (Cho Chung Heon) cầm đầu làm cuộc đảo chính, giết Lý Nghĩa Mẫn. Ba con ông là Lý Chính Thuần, Lý Chí Vinh, Lý Chí Quang đều là tướng cầm quân, cũng bị giết chết. Quân phiến loạn chỉ tha cho người con gái ông là Lý Hiền Bật. Giòng họ Lý Tinh-Thiện tưởng đâu tuyệt tự. Nhưng may mắn thay, giòng họ này còn kế tục là nhờ người anh Lý Nghĩa Mẫn và các con không bị hại.
Phối hợp chính sử với gia phả, giáo sư Phiến Hoằng Cơ kết luận rằng: Giòng họ Lý tại Tinh-thiện thuộc đạo Giang-nguyên, phía Ðông Nam Ðại-hàn ngày nay là con của hoàng tử Lý Dương Côn thuộc triều Lý, Việt-Nam (1010-1225). Lý Dương Côn bỏ quê hương ra đi vì sự đe dọa của nước Kim đối với Tống, năm 1115. Tới năm 1127 thì Bắc Tống bị diệt.
Qua cuộc nghiên cứu của Phiến Hoằng Cơ, tôi thấy có đôi chút nghi vấn:
Một là, vua Lý Nhân-Tông nhận con nuôi năm 1117. Vua Thần-Tông sinh năm 1116, vậy thì Lý Dương Côn chỉ có thể sinh năm 1116 hay 1117 mà thôi. Năm Lý Dương Côn rời Ðại-Việt ra đi là năm 1150. Bấy giờ ông mới 32-33 tuổi. Thế nhưng gia phả Lý Tinh-thiện nói rằng năm 1170 Lý Nghĩa Mẫn, hậu duệ đời thứ sáu của Lý Dương Côn, được vua Nghị-Tông phong cho chức Biệt-trưởng. Ðây là điều vô lý. Bởi năm đó chính Lý Dương Côn có còn tại thế thì ông mới có 54 tuổi, làm sao ông đã có cháu 6 đời? Tôi thì tôi cho rằng Lý Nghĩa Mẫn là con Lý Dương Côn. Còn hậu duệ đời thứ sáu là kể từ vua Lý Thái-tổ:
1.   Lý Thái-Tổ.
2.   Lý Thái-Tông.
3.   Lý Thánh-Tông.
4.   Lý Nhân-Tông.
5.   Kiến Hải vương Lý Dương Côn.
6.   Lý Nghĩa Mẫn.
Hai là, trong gia phả Lý Tinh-thiện nói rằng, Lý Dương Côn rời quê hương ra đi vì quốc nạn. Giáo-sư Phiến Hoằng Cơ cho rằng vì sự đe dọa của Kim. Có lẽ khi giải đoán việc ra đi của Lý Dương Côn, ông đã bị ảnh hưởng bởi sử Cao-ly. Vì hồi ấy, nước Kim đang từ một bộ lạc Nữ-chân, nổi lên diệt nước Liêu, rồi đem quân đánh Tống. Sau đó, họ bắt vua Tống mang về Bắc. Nhưng con cháu nhà Tống lại tái lập triều Nam-Tống. Khoảng cách Kim với Ðại-Việt còn một nước Tống quá rộng, quá xa. Dù Kim hùng mạnh cũng không ảnh hưởng gì tơí Ðại-Việt khiến Lý Dương Côn phải bỏ nước trốn đi. Nhất là giai đoạn 1161 đến 1174, bấy giờ binh lực Ðại-Việt đang mạnh, muốn hướng lên Bắc tái chiếm lại Quảng Ðông, Quảng Tây! (xin đọc Anh-hùng Ðông-A dựng cờ Bình-Mông hồi 4 và hồi 16-17-18).
Lần lại trang sử Ðại-Việt thời đó: Vua Thần-Tông được vua Nhân-Tông đem vào cung nuôi cùng 4 người anh em họ. Nhưng ngài được lập làm Thái-tử, rồi lên ngôi vua. Theo Hội-điển sự lệ triều Lý thì những chức như: Thái-úy, Tổng-lĩnh Thiên-tử binh, Ðại Ðô-đốc Thủy quân, luôn trao cho các hoàng đệ. Vì vậy trong 5 con nuôi của vua Lý Nhân-tông, thì Thái-tử Dương Hoán đươc truyền ngôi, còn 4 con nuôi khác, là con của các hầu Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng ắt được phong vào các chức trên. Con của Thành Quảng hầu là Lý Dương Côn được phong tước Kiến Hải vương, lĩnh chức Ðại Ðô-đốc Thủy-quân. Khi vua Thần-Tông băng (1138), Thái-tử Thiên-Tộ mới có 2 tuổi, triều thần muốn tôn hoàng đệ Lý Dương Côn lên ngôi vua, vì ông là người thông minh, tài trí, đang là Ðại Ðô-đốc, ở tuổi 22. Nhưng rồi mẹ của Thái-tử Thiên-Tộ là Cảm Thánh hoàng hậu đã dùng vàng bạc đút lót cho các quan, bà lại được tình nhân Ðỗ Anh Vũ là em của Chiêu Hiếu thái hậu, (mẹ vua Thần-Tông) hết sức ủng hộ. Thiên-Tộ lên ngôi vua, sau là vua Anh-Tông.
Dĩ nhiên vua Anh-Tông lên ngôi, khi còn bế ngửa, thì mẹ là Cảm Thánh thái hậu thính chính, nói khác đi là làm vua. Bà phải diệt hết những mầm mống có thể nguy hiểm cho con bà. Bà cùng Ðỗ Anh Vũ vu cáo, giết hết các em nuôi của vua Thần-Tông là con của các hầu em vua Nhân-Tông. Toàn gia các hầu, từ thê thiếp, con, cháu, thân binh, nô bộc đều bị giết sạch. Riêng Lý Dương Côn đóng quân ở Ðồn-sơn, được mật báo. Ông đem hết gia thuộc, xuống chiến thuyền, bỏ quê hương ra đi, rồi táp vào Cao-ly.
Dù Lý Nghĩa Mẫn là cháu 6 đời của Kiến Hải vương Lý Dương Côn hay là cháu 6 đời vua Lý Thái-tổ, thì ta vẫn kết luận rằng : Năm 1150, Kiến Hải vương Lý Dương Côn, lĩnh chức Ðại Ðô-đốc đã cùng tông tộc dùng thuyền tỵ nạn tại Cao-ly. Ðời sau có nhân vật kiệt hiệt là Lý Nghĩa Mẫn, đóng một vai trò trọng yếu trong lịch sử Cao-ly. Giòng họ Lý này, nay vẫn còn truyền tử lưu tôn tại Ðại-hàn.
Giòng thứ nhì, hậu duệ của Kiến-bình vương Lý Long Tường, còn gọi là Lý Hoa-Sơn
Giòng họ Lý thứ nhì tới Ðại-hàn sau giòng họ Lý Tinh-thiện 76 năm, là hậu duệ của Kiến Bình vương Lý Long Tường, con thứ 7 của vua Lý Anh-Tông. Mà tôi đã trình bầy ở trên.
Theo Trần-tộc vạn thế ngọc phả, của chi bốn, thuộc giòng dõi Chiêu-quốc vương Trần Ích Tắc, để tại nhà từ ở thị xã Lãnh-thủy, huyện Chiêu-dương, tỉnh Hồ Nam, Trung-quốc ; phần chép về Ninh-tổ hoàng đế Trần Lý. Có đoạn nói về các con vua Lý Anh-Tông, nguyên văn như sau :
Vua có bẩy hoàng tử.
Hoàng trưởng tử Long Xưởng do Chiêu Linh hoàng hậu sinh vào niên hiệu Ðại Ðịnh thứ 12 (DL.1151, Tân-Mùi). Ðược phong tước Hiển Trung vương, lập làm Thái-tử. Niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo nguyên nhiên (DL.1174, Giáp-Ngọ) bị giáng xuống làm con út, tước Bảo Quốc vương. Niên hiệu Trinh Phù thứ sáu (DL.1181, Tân-Sửu) làm phản, bị hạ ngục, rồi bị Ðỗ An Di giết cả nhà, thọ 31 tuổi.
Hoàng-tử thứ nhì Long Minh do Thần-phi Bùi Chiêu Dương sinh vào niên hiệu Ðại Ðịnh thứ 11 (DL. 1152, Nhâm-Thân). Tước phong Kiểm-hiệu Thái-sư, Thượng-trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Trung-vũ quân tiết độ sứ, lĩnh đại đô-đốc, Kiến Ninh vương. Bị giết niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo thứ nhì (DL.1175.). Thọ 24 tuổi.
Hoàng-tử thứ ba Long Ðức, cũng do Bùi Thần-phi sinh niên hiệu Ðại Ðịnh thứ 12 (DL.1153, Quý-Dậu) ra. Chức tước phong như sau : Dao-thụ Thái-bảo, Khu-mật viện sứ, Thượng-thư tả bộc xạ, Phụ-quốc thượng tướng quân, Long-thành tiết độ sứ, Kiến An vương. Bị giết niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo thứ nhì (1175), thọ 23 tuổi.
Hoàng-tử thứ tư Long Hòa do Quý-phi Hoàng Ngân Hoa sinh niên hiệu Ðại Ðịnh thứ 11 (DL.1152, Nhâm-Thân). Chức tước phong như sau : Ðặc tiến Thiếu-sư, Khu-mật viện sứ, Thượng-thư tả thừa, Trấn Nam tiết độ sứ, Thượng-thư lệnh, Tả kim ngô thượng tướng, Tổng-lĩnh Thiên-tử binh, Kiến Tĩnh vương. Bị giết niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo thứ nhì (1175) thọ 24 tuổi.
Hoàng-tử thứ năm Long Ích, do Ðức-phi Ðỗ Kim Hằng sinh niên hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ 5 (DL.1167, Ðinh-Hợi). Chức tước phong như sau : Dao-thụ Thái-phó, trấn Nam tiết độ sứ, Thượng-thư tả thừa, Kiến Khang vương. Hoăng niên hiệu Kiến-gia thứ 2 (DL.1212 Nhâm-Thân), thọ 46 tuổi.
Hoàng-tử thứ sáu Long Trát, do Thục-phi Ðỗ Thụy Châu sinh niên hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ 11 (DL.1172, Nhâm-Thìn), tháng 5, ngày 25, niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo nguyên niên được lập làm Thái-tử. Năm thứ nhì được truyền ngôi. Băng niên hiệu Trị-bình Long-ứng thứ 6 (DL.1210, Canh-Ngọ), ngày 28 tháng 10, thọ 38 tuổi.
Hoàng-tử thứ bảy Long Tường do Hiền-phi Lê Mỹ Nga, sinh vào niên hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ 12 (DL.1174, Giáp-Ngọ). Ðức Thái-Tông nhà ta (tức Trần Cảnh) phong chức tước phong như sau Thái-sư Thương-trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Thượng-thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô đốc, tước Kiến Bình vương. Niên hiệu Kiến-trung thứ nhì đời đức Thái-Tông nhà ta (tức Trần Cảnh), tháng tám, ngày rằm, vương cùng gia thuộc hơn 6 ngàn người bôn xuất.
So sánh giữa Tộc phả Hoa-sơn và Trần tộc vạn thế ngọc phả, có một chi tiết khác nhau. Tộc phả Kiến Bình thì chép Kiến Bình vương là con thứ sáu vua Anh-tông. Trong khi Trần tộc vạn thế ngọc phả lại chép vương là con thứ bẩy. Vì sao ? Phả Trần tộc chép theo huyết tộc, ai sinh trước là anh, ai sinh sau là em. Vì vậy Kiến Bình vương là con thứ 7. Phả Kiến Bình thì chép thứ tự theo chỉ dụ của vua Lý Anh Tông, Long Xưởng bị giang xuống làm con út, thì Long Tường trở thành con thứ sáu.
Hồi đó Lý Long Tường dẫn tông tộc rời Ðại-Việt ra đi. Trần triều không biết đi đâu. Nay chúng ta mới được biết vương với hạm đội bị bão phải ẩn ở Ðài-loan. Nghỉ ít lâu, hạm đội của vương lại tiếp tục lên đường rồi dạt vào Cao-ly. Duy một người con của vương tên Lý Long Hiền cùng gia thuộc hơn hai trăm người ở lại Ðài-loan. Vương là khai tổ của giòng họ Lý tại Ðại-hàn, thế tử Long Hiền là khai tổ của giòng họ Lý tại Ðài-loan hiện nay ? Sự kiện này tôi sẽ tìm hiểu sau.
Tôi đã bỏ công sang Bắc cũng như Nam-hàn, tìm các chi, hậu duệ của Kiến Bình vương Lý Long Tường, khảo gia phả của họ. Phần chi tiết tuy có sự khác biệt, nhưng đại lược vẫn giống nhau. Tổng-thống Lý Thừa Vãn của Ðại-hàn là hậu duệ đời thứ 25 của Kiến Bình vương Long Tường. Còn tổng thống Lý Ðăng Huy của Ðài-loan có phải là hậu duệ của thế tử Lý Long Hiền hay không, thì tôi không dám quyết, bởi Lý là giòng họ chiếm đa số ở Trung-quốc.
Cả ba bộ sử ÐVSKTT, VSL, KÐVSTGCM cùng chép rất mơ hồ về việc vua Anh-tông phế Long Xưởng lập Long Trát. Nhà vua có tới bẩy hoàng tử. Nếu sự thực Long Xưởng phạm tội, phế xuống, sao không lập các con đã trưởng thành, tài trí xuất chúng, đang cầm đại quyền như Kiến Ninh, Kiến An, Kiến Tĩnh vương? Hoặc cùng quá, thì lập Kiến Khang vương Long Ích, năm ấy đã chín tuổi? Mà phải lập Long Trát mới có 26 tháng làm Thái-tử, rồi phải cử Tô Hiến Thành làm phụ chính? Cái khúc mắc này tôi đã giải thích rất chi tiết, rất rõ ở hồi 21-23 bộ Anh-hùng Ðông-a dựng cờ bình Mông. Trong bài ngắn này không thể giải thích hết.
Dưới đây là phần tôi thuật theo Tộc-phả Lý Hoa-sơn:
Niên hiệu Kiến-trung thứ nhì đời vua Thái-tông nhà Trần (DL.1226, Bính Tuất), lo sợ bị Thái-sư Trần Thủ Ðộ hãm hại, vì vị thế trọng yếu của mình:
- Là con vua Anh-Tông, em vua Cao-Tông, chú vua Huệ-Tông.
- Thân vương duy nhất nắm quyền hành.
- Chức tước cực phẩm Thái-sư Thương-trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Thượng-thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô đốc.
Vương âm thầm cùng Bình Hải công Lý Quang Bật từ căn cứ Ðồn-sơn về Kinh Bắc, lạy ở lăng miếu Ðình-bảng. Lại đến Thái-miếu mang bài vị, các tế khí ra trấn Ðồn-sơn, rồi đem hết tông tộc hơn 6 nghìn người, xuống hạm đội ra đi.
Việc Kiến Bình vương ra đi, có lẽ bắt nguồn từ việc ra đi của Kiến Hải vương trước kia chăng? Sau hơn tháng lênh đênh trên biển, thì gặp bão. Hạm đội phải ngừng lại một đảo (Ðài-loan?) rồi tiếp tục lên đường. Một trong các con của vương là Thế-tử Lý Ðăng Hiền cùng vợ con ở lại đảo. Hạm đội lênh đênh trên biển một thời gian, thì táp vào cửa Phú-lương giang, quận Khang-linh (Ong Jin-Gun) tỉnh Hoàng-hải (Hwang-hac) thuộc Bắc Cao-ly. Nơi hạm đội táp vào, dân chúng gọi là Nak-nac-wac có nghĩa là Bến của khách phương xa có đồ thờ cúng.
Kỳ diệu thay, đêm hôm trước, vua Cao-Tông (Kojong) mơ thấy một con chim cực lớn bay từ phương Nam lại đậu ở bờ Tây-hải. Tỉnh lại, vua sai người tới đó tìm kiếm, thì gặp hạm đội của Kiến-bình vương. Kiến-bình vương được bệ kiến. Vương dùng bút đàm với vua Cao-Tông và các đại thần Cao-ly. Triều đình Cao-Tông đối xử với vương rất tốt, chu cấp lương thực. Cho làm nhà ở Ung-tân phủ Nam-trấn sơn (Chin-sang).
Lý Long Tường cùng tướng sĩ, gia thuộc bắt đầu cuộc sống mới. Trồng trọt, đánh cá, chăn nuôi làm kế sinh nhai. Ông mở trường dạy học: Thi phú, lễ nhạc, tế tự, binh pháp, võ thuật. Ông soạn sách Học vấn giảng hậu. Vì học trò đông, ông cho xây Ðộc-thư đường, Giảng võ đường. Ðệ tử của ông lúc nào cũng trên nghìn người.
Tháng 7 năm Quý-sửu (1253) đời vua Cao-Tông thứ 40, quân Mông-cổ xâm lăng Cao-ly, vượt Hỗn-đồng giang, chiếm Tây-hải, phá An-giang Tây-thành. Về mặt thủy, Mông-cổ chiếm các đảo Ðại-thanh, Tiểu-thanh, Sáng-lân, rồi tiến chiếm Tây-đô (Giang-hoa). Thủ-đô Cao-ly bị đe dọa. Các tướng sĩ hầu hết bị tử trận.
Thấy tình hình Cao-ly nguy ngập, Kiến Bình vương đến gặp Thái-úy (tướng tổng chỉ huy quân đội) là Vi Hiển Khoan, cố vấn cho ông về binh pháp Ðại-Việt. Ðích thân vương cỡi bạch mã chỉ huy cuộc giữ thành: Ðắp thành cao lên, đào hào đặt chông quanh thành. Trong thành đào giếng để có nước uống, tích trữ lương thảo. Ông đem tất cả binh pháp Ðại-Việt trong những lần đánh Tống, bình Chiêm ra giúp Cao-ly.
Ðánh nhau suốt 5 tháng, quân Nguyên bị tuyệt lương thảo, bị chặn đường rút lui, xin hàng (6). Tết năm ấy, toàn Cao-ly mừng chiến thắng. Triều đình khen ngợi Lý Long Tường, lấy tên ngọn núi ở quê hương ông là Hoa-sơn; phong cho ông làm Hoa-sơn tướng quân. Cho đổi tên ngọn núi nơi ông cư ngụ là Hoa-sơn. (4). Nhà vua sai dựng bia ghi công ông trên núi Hoa-sơn, đích thân vua viết ba chữ Thụ hàng môn (Cửa tiếp thụ giặc đầu hàng). Cho đến nay, sau 746 năm, trải biết bao nhiêu mưa nắng, thăng trầm; tấm bia ấy vẫn trơ gan cùng cùng tuế nguyệt, nhắc nhở du khách nhớ huân công của một Việt-kiều trên Hàn-quốc.
Trong dịp thăm Hoa-sơn năm 1981, tôi xin người đại diện tộc Lý cho phép được mượn thợ khắc vào một phiến đá bài thơ cổ phong, đặt cạnh tấm bia trên, gọi là chút lòng của người sau, tế người trước:
Phúc tại Tiêu-sơn lĩnh,
Thất đại bôn Bắc Cao,
Bình Mông danh vạn đại,
Tử tôn giai phong hầu.
Học phong nhân bất cập.
Vọng quốc hồn phiêu phiêu,
Kim tải quá bát bách,
Hà thời quy cố hương?
(Ngài là người họ Lý, được hưởng phúc tại ngọn núi Tiêu-sơn. Kể từ vua Lý Thái-tổ tới ngài là đời thứ bẩy, phải bôn tẩu đến xứ Bắc Cao-ly. Nhờ chiến công đánh Mông-cổ, mà con cháu ngài đều được phong hầu. Ngoài ra, ngài là người đem học phong tới Cao-ly, công đức ấy không ai sánh kịp. Thế nhưng trải trên 8 trăm năm, hồn ngài lúc nào cũng phiêu phưởng, không biết bao giờ được về cố hương ?).
Ngày nay trên ngọn đồi Julbang thuộc xã Ðỗ-môn (Tô-mơ-ki) cách núi Hoa-sơn 10 cây số về phía Tây còn lăng mộ ngài và con, cháu cho đến ba đời. Trên Quảng-đại sơn có Vọng-quốc đàn, nơi cuối đời ngài thường lên đó, ngày ngày nhìn về phương Nam, ôm mặt khóc, tưởng nhớ cố quốc. Mỏm đá mà ngài đặt chân đầu tiên lên bờ biển Cao-ly, được gọi là Việt-thanh nham, tức đá xanh in vết tên Việt. Trên Hoa-sơn còn rất nhiều di tích kỷ niệm huân nghiệp của vương. Khi đến Hoa-sơn hành hương, thay vì chào nhau, du khách được hướng dẫn viên du lịch dạy cho nói câu: Hữu khách, Hữu khách, kỵ bạch mã. Nghĩa là Có người khách cỡi ngựa trắng, tức Lý Long Tường.
Cho đến nay, giòng họ Lý Hoa-sơn truyền trải 28 đời. Tại Nam-hàn chỉ có khoảng hơn 200 hộ, với trên dưới 600 người. Tại Bắc-hàn thì đông lắm, không thống kê được. Lý tộc tại Nam-hàn, hầu hết họ là những gia đình có địa vị trọng yếu về giáo dục, kinh tế, kỹ nghệ. Kỳ ứng cử vừa qua, một ứng viên Tổng thống họ Lý suýt trúng cử.
Theo tấm bia trên mang tên Thụ-hàng môn bi ký, thì Kiến Bình vương Long Tường có nhiều con trai, tất cả đều hiển đạt. Không thấy nói tơí Lý Long Hiền, cùng tông tộc hơn 200 người ở lại Ðài-loan. Lý Cán Ðại lĩnh Ðề-học nghệ văn quán, Kim-tử quang lộc đại phu. Lý Huyền Lương, Tham-nghị lễ tào, Chính-nghị đại phu. Lý Long Tiền Giám- tu quốc sử.
Ngày nay, tại Bắc-hàn, cứ đến dịp tết Nguyên-đán, hậu duệ của Kiến Bình vương Lý Long Tường khắp lãnh thổ Ðại-hàn đều kéo về Hoa-sơn để dự lễ tế tổ. Khởi đầu của cuộc tế, đánh chín tiếng trống, gọi là Tâm-thanh để mọi người cùng tưởng nhớ cố quốc. Theo gia phả của chi Thuận-xuyên, sở dĩ đánh chín tiếng, vì muốn ghi lại triều Lý trải 9 đời vua, kể cả Lý Chiêu-Hoàng. (4)
Năm 1995, con cháu của Kiến Bình vương Lý Long Tường, quy tụ hơn trăm người trở về Ðình-bảng, huyện Tiên-sơn, tỉnh Bắc-ninh dự lễ hội làng vào ngày rằm tháng ba Âm-lịch. Tại thiên chi linh, hẳn 9 đời vua triều Tiêu-sơn, cũng như Kiến Bình vương Lý Long Tường đã thỏa nguyện: Những đứa cháu lưu lạc, nay trở về chầu tổ.
Lời quê gửi tới người Việt hải ngoại
Hiện nay gần ba triệu người Việt lưu lạc khắp mọi góc biển, mọi chân trời. Có nơi sống tập trung như Hoa-kỳ, Thái-lan, Cao-miên, Ai-lao, Canada, Úc, Pháp, Nga-sô. Có nơi sống rải rác cô độc như Do-thái, Iraq, Gabon... Nhìn vào tấm gương của hai giòng họ Lý tại Ðại-hàn. Dù con cháu quý vị không còn nói được tiếng Việt. Dù con cháu quý vị đã kết hôn với người địa phương. Nhưng quý vị phải luôn nhắc nhở cho chúng biết rằng: Chúng là người Việt, lấy chủ đạo là con Rồng cháu Tiên. Xin qúy vị khẩn chép lại:
1. Nguồn gốc giòng họ mình từ làng nào, xã nào, tỉnh nào. Hoặc liên lạc với họ hàng trong nước để xin bản sao gia phả.
2. Tiểu sử những tiền nhân. Nếu không nhớ được hành trạng của các tổ xa đời, thì ít ra cũng chép được từ đời ông, đời cha.
3. Rời Việt-Nam ra đi vì lý do gì? Bắt đầu đến đâu? Lập nghiệp ra sao?
4. Mỗi năm vào dịp tết, quý vị sai đọc cho tất cả con cháu đều nghe.
5. Hằng năm, nếu có thể, khuyên con cháu, nên trở về quê hương, viếng thăm đất tổ, thăm mồ mả tiền nhân. Khi về già, các vị sai chép ra thành nhiều bản, cho mỗi con một bản.
Vài lời thô thiển. Biết rằng các vị cho là thường. Thưa quý vị, bây giờ là thường, nhưng sau đây trăm năm, nghìn năm, sự ghi chép của quý vị sẽ trở thành quý báu vô cùng. Mong lắm thay! Cầu xin như vậy đấy.
Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ
----------------------------------------

(Những tài liệu tôi dùng để viết bài này rất phong phú, rất nhiều. Xin xem phần: Những nguồn tài liệu, trong bộ Anh-hùng Ðông-a dựng cờ bình Mông, quyển 1 )

(1) Trong chuyến đi này, Tổng-thống Ngô Ðình Diệm cho một sĩ quan tháp tùng, mà người ưu ái vì lòng yêu nước, tin tưởng vì lòng trung thành là Dương Văn Minh. Nhưng cũng tương đương với ngày tháng này, sáu năm sau, Dương Văn Minh tuân lệnh Hoa-kỳ, giết chúa.

(2) Chế độ Cộng-sản cực đoan của Bắc-cao là một chế độ suy tôn lãnh tụ vào bậc nhất thế giới, bậc nhất trong lịch sử nhân loại. Khi ăn cơm, sáng dậy, tối đi ngủ đều đọc kinh tạ ơn Kim chủ tịch.

(3) Sau đó tôi đã giúp họ hiệu đính lại những chỗ sai lầm trong gia phả của họ.

(4) Tôi tra trong địa lý thời Lý, trên lãnh thổ Ðại Việt không có ngọn núi nào tên Hoa-sơn cả. Có lẽ là núi Tiêu-sơn, nơi phát tích ra triều Lý chăng ?

(5) Chín đời vua triều Lý là :
1. Thái-tổ Lý Công Uẩn.
2. Thái-tông Lý Ðức Chính.
3. Thánh-tông Lý Nhật Tông
4. Nhân-tông Lý Càn Ðức.
5. Thần-tông Lý Dương Hoán .
6. Anh-tông Lý Thiên Tộ.
7. Cao-tông Lý Long Trát.
8. Huệ-tông Lý Long Sảm.
9. Chiêu-hoàng Lý Phật Kim

(6) Có một sự trùng hợp. Năm năm sau, tháng 1-1258, Thái-sư Mông-cổ là Ngột-lương Hợp-thai (Uriyang- qadai) đem quân đánh Ðại Việt, cũng bị tuyệt đường lương, rồi bỏ chạy. Xin đọc Anh-hùng Ðông-a dựng cờ bình Mông hồi 50.
 
Suu tam va tiep chuyen                                      Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ
Bài sử hay và quí: Con cháu rồng-tiên lưu-vong hải-ngoại khá nhiều, từ xa xưa!
Trước tui cũng đã đọc một bài ngắn nói về họ Lý và có nghe Thái-văn Kiểm (Bao-la Cư-sĩ) hồi đó nhắc qua chuyện gốc họ Lý ở Đại-hàn (Tôi chỉ được quen TVKiểm bắt đầu từ hồi anh ta hoàn-tất cuốn sách đầu tiên "Vietnam Past and Present" - cir. 1954) Nhưng nay mới được đọc bài của cụ cư-sĩ Trần Đại Sĩ (nghe ra thì đoán là nhỏ tuổi hơn tui, nhưng tui không may- mắn được quen biết)  kể lại chuyện họ Lý đầy-đủ, thêm vào kinh-nghiệm riêng của cụ cư-sĩ. (Tôi không may, cho đến ngày nay, chưa hề có dịp để chân đến Seoul bao giờ.  Hồi tôi còn Tham-chánh Báo-chí Phủ Tổng-thống, trước 1960, Ông  Tham-vụ  Chuyên-môn phụ-trách Báo-chí cũng như Ông Chánh Văn-phòng Đặc-biệt chưa cho tui tháp-tùng trong một hai chuyến state visits đầu tiên (kể cả Seoul) của Cụ... Sau mọi chuyến xuất-ngoại tiếp theo, kể cả những chuyến đi Hoa-kì hằng năm công việc về sau của tui, tôi lợi-dụng ghé mọi nơi Á-châu nhưng không hề để tâm ghé Seoul; ngay cả New Zealand cũng chưa hề ghé đến bao giờ! Bây giờ thì thấy quá muôn. đường-xá quá xa-xôi, mặc dầu có một cháu gái -- mẹ nó nguyên hội-trưởng Hội Bảo-trợ Học-sinh Nghèo ở Saigon -- nay ở Aistralia cứ rủ-rê chú qua phía cực-Nam  đó chơi vài tuần.)
Tui đã saved bài này, và sẽ in lại, sau khi format lại ngay-ngắn, nhất là sửa punctuation cho đúng phép-tắc một chút! Tài-liệu đáng nên cất cho con cháu mai-hậu.
   VT

 

GS. PHẠM ĐỨC LIÊN * NHỮNG ĐẬP THỦY ĐIỆN THƯỢNG NGUỒN SÔNG MÉKÔNG

Những đập thủy điện thượng nguồn sông Mekong và đồng bằng sông Cửu Long

Phạm Đức Liên
(Tặng quí bạn trẻ, "The Vietnam's future is in yours hands!")


A. Dẫn Nhập:

1. Nơi nào (thường thường là ở thượng nguồn) có đập thủy điện là nơi đó có hồ nước khổng lồ - nước lấy vào từ dòng chính Mekong (xoáy mòn và phá hủy sông Mekong - lấy đi cá tôm và một lượng phù sa, trầm tích rất cần cho vùng hạ lưu như châu thổ sông Cửu Long !). Từ năm 1994 đến 2009: Trung Cộng đã khánh thành 6 đập thủy điện và đang xây cất 7 đập nữa. Đập thủy điện Xayaburi của Vưong quốc Lào (chặn dòng chính ở hạ lưu sông Mekong là vô cùng tác hại cho đồng bằng sông Cửu Long - Nam Phần) sắp khánh thành. Đập Don Sahong bắt đầu được xây cất. Và 9 đập nữa trong kế hoạch bán điện rẻ cho Thái Lan mang lại lợi tức cho Lào, mỗi năm 1.2 tỉ Mỹ Kim. Để rồi ngay cả Cambodia cũng có kế hoạch xây 40 đập thủy điện ngăn dòng Mekong và những sông nhánh. 20 triệu dân Miền Tây - đi đâu mà sống - vì thiếu nước ngọt - nên diện tích canh tác bị thu hẹp lại và sản lượng thủy sản giảm đi rất nhiều !...

"Đồng Tháp Mười - cò bay thẳng cánh !,
Nước Tháp Mười - lấp lánh cá tôm! "
chỉ còn là vang bóng một thời! ?
và : Càng nhìn- đồng lúa cháy - càng đau !" (tháng 3/2016)


Những đập nước trên dòng Mekong

2. Mỗi đập thủy điện là một quả bom "chết người" :
    * Hồ chứa nước Cảnh Hồng (Jing Hong), Vân Nam - Trung Cộng: diện tích 525 km2, (25x21 km), dung tích 250,000,000 m3 (250 triệu mét khối nước). Đập cao 110 mét, dài 705 mét. Công suất 1750 MW.
    * Hồ chứa nước của đập thủy điện Xayaburi - Lào: diện tích 49 km2 (7 km x 7km), dung tích: 1,300,000,000 m3 (1,300 triệu mét khối nước), cao : 33 mét, dài 820 mét, công suất 1,285 MW. Nước dẫn vào từ sông Mekong làm xoáy mòn hạ lưu Mekong, là lấy đi thủy sản và phù sa gấp 5 lần đập Cảnh Hồng!. Còn gì cho Miền Tây - Việt Nam !!.

3. Mùa nước ngọt về (tháng 6 đến tháng 11) thì trồng lúa, chỉ có một mùa lúa nổi. Khi nước mặn vào (tháng 12 đến tháng 5) nuôi cá tôm. Nam Kỳ Lục Tỉnh là thế đó. Từ 300 năm rồi !. Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) là vựa lúa của toàn dân. Miền Bắc thì đói rét (Ất Dậu, 1945), Miền Trung thì lụt, thì gạo của Nam Phần đóng góp phần lớn sản lượng cả nước. 20 triệu dân Nam Bộ =20% dân số cả nước, diện tích châu thổ sông Cửu Long = 13% diện tích nước Việt Nam. Hạn hán như thế, ngập mặn như vậy mà năm 2015, tăng trưởng kinh tế lại nhất nước : 8% (toàn Việt Nam chỉ có 6.8%). Diện tích trồng lúa chỉ 47% lưu vực, thế nhưng ĐBSCL đã cống hiến 56% tổng sản lượng lúa của cả nước (gạo xuất cảng là hầu hết gạo của 12 tỉnh miền Tây Nam Phần từ Long An xuống tới Cà Mau: 90%). Thủy sản (cá tôm...) chiếm 40% tổng sản lượng quốc gia để rồi xuất cảng - thì 60% là của Tiền và Hậu Giang. Thế mà GDP per capita chỉ có 40 triệu đồng (2,000 USD)/ so với GDP per capita = 48 triệu (2,400 USD) cho người "Việt Nam ruột thịt" (chi phí nhiều lắm và thuế nặng - cái gì cũng phải bôi trơn, bôi trơn) - mà đôi chân người nông dân thì đã rã rời, rã rượi!.


Đập thủy điện Don Sahong (cực nam Lào) do công ty Sinohydro Interrnational (lớn nhất thế giới - Trung Cộng) xây cất. Khi khánh thành sẽ có công suất 260 MW.


4. Lãnh đạo (nhà cầm quyền, từ Giám Đốc Nha ở Trung Ương hay Tỉnh Trưỏng ở địa phương là phải biết sâu rộng (ít nhất là phải tốt nghiệp Đại Học - như Lý Quang Diệu của Singapore lúc làm cố vấn phát triển cho Hà Nội thập niên 1980 đã khuyến cáo : "Lãnh đạo phải có bằng BA/BS từ những đại học tiếng tăm và điều kiện đủ là phải thông thạo Anh ngữ = đậu TOEFL từ 650 trở lên), và phải có tầm nhìn xa, tiên liệu giỏi. Từ 1950/51, người viết đã vô tình đọc được tài liệu tối mật của VM: "Trong tương lai, nếu Việt Nam chia làm hai /thì đúng ngày 20-7-1954/ chúng ta phải làm gì trong nửa phần đất còn lại / thì chỉ là - ta đánh cho Trung Quốc , Liên Xô?"/ không thấy nói gì về kinh tế.
Miền Tây hôm nay bị hạn hán và xâm nhập mặn (hạn mặn) tháng 2, 3, 4/2016 là do biến đổi khí hậu toàn cầu (ấm lên 2 độ C là băng tuyết tan, nước biển tràn vào duyên hải để rồi 20--30 năm nữa nhiều thành phố lớn sẽ chìm dưới nước như : New York, London, Rio de Janero, Shanghai... . nhiều nơi của Tân Tây Lan, Úc Đại Lợi... là do El Nino (hạn hán, mùa khô đến sớm quá / sớm 2 tháng đến từ tháng 10  thay vì là tháng 12 ở miền Tây Nam Bộ. - thường có mùa khô từ tháng 12 đến tháng 5). Điều nầy đã được những nhà thiên văn học khuyến cáo từ năm 1985 và những nhà khoa học STEM nhấn mạnh từ những năm 2010. Thay vì lập kế hoạch dẫn nước vào những hồ chứa 20 đến 50 tỉ mét khối (như Trung Cộng, Thái Lan đã làm) để mùa khô thì xả nước ngọt ra cánh đồng miền Tây thì lại kế hoạch 5 năm nầy, ngũ niên nọ cho xuất cảng tôm (nông dân phải đào hầm nuôi tôm - hết nuôi tôm thì đất mặn rồi - làm sao mà trồng lúa, trồng tiêu, trồng dưa hấu...) cố xuất cảng gạo thật nhiều (thế là 3 vụ lúa một năm , kiệt quệ nguồn nước ngọt và hủy hoại nguồn sinh thái thiên nhiên phong phú của châu thổ sông Tiền sông Hậu !) Để hôm nay (tháng 4/2106) chung quanh ta là nước mà dân Bến Tre, Cà Mau không có nước ngọt để uống  vì nguồn nước nhiễm mặn đến 8‰ (tám phần ngàn) . Điển hình: Bến Tre có 162 xã thì 160 xã bị nhiễm mặn (nhiều con kênh chỉ còn chút nước, lại đỏ ngầu như gạch nung!). Đồng lúa vườn rau, mênh mông là màu xám vàng vì thiếu nước. Cụ thể kinh tế Việt Nam thiệt hại (2106) khoảng 7 tỉ đô la Mỹ hay 4% GDP - (GDP ước tính là 175 tỉ đô la -2016).

5. Biến đổi khí hậu toàn cầu, khí quyển địa cầu nóng lên, nóng lên (global warming) tác hại sâu xa đến nhân loại (bờ biển Việt Nam mất dần - mổi năm 8 mét - nhất là đoạn bờ biển Nam Phần ? trên dưới 600 km). Thế nhưng con người tác hại đến con người là dân ở thượng nguồn sông Mekong dẫn nước ngọt vào hồ thủy điện đe dọa sự sinh tồn của dân vùng hạ lưu nhiều lắm !. Đó là quyền lợi quốc gia, dân tộc họ. Nguy hiểm nhất là người cùng một nòi giống mà lại tác hại lẫn nhau bằng những kế hoạch 3 vụ lúa một năm, xây đập Ba Lai trên sông Ba Lai tưởng chừng xua nước mặn đi nhưng không - nước mặn vẫn xâm nhập !. Tăng diện tích trồng lúa nên khai kênh - dùng nước ngọt rửa nước mặn mà nước ngọt luôn luôn thiếu.!... Rõ ràng là kém thông minh và thiếu hiểu biết !!!

B. Sông Mekong và đồng bằng sông Cửu Long (Kowlon):
1. Sông Mekong là một trong 12 con sông dài nhất thế giới (4,900 km) phát nguyên từ Tây Tạng (Tibet Plateau) - ở cao độ 5,225 mét - chảy dài tới Vân Nam (Trung Cộng) - khoảng 2,250 km (đó là thượng lưu Mekong, đoạn dài nầy, người Tầu gọi là Lan Cang = Lan Thương). Tới Vân Nam - Mekong  - ở độ cao 4,500 m (so với mặt nước biển Đông là 0 mét ở cửa sông Tiền Giang, Hậu Giang của châu thổ  sông Cửu Long). Đoạn nầy dài 2,650 km. Đó là hạ lưu sông Mekong (Lower Mekong Basin). Với 4,900 km, sông Mekong chảy qua 6 quốc gia : Trung Cộng (thượng nguồn) và Miến Điện (Myanmar), Lào, Thái Lan, Cao Miên và Việt Nam là hạ nguồn. Trước năm 1990 - khi chưa có đập thủy điện, hồ chứa nước... ở thượng nguồn, thì châu thổ sông Cửu Long - nhất là trước năm 1975 - là "mênh mông gánh lúa bao la" - là "Mẹ ơi - đừng đánh con hoài, Để con câu cá - nấu xoài cho má ăn" - Vì phù sa và những trầm tích sông Mekong, mầu mỡ lắm, như phân bón thượng thặng tô thắm miền Tiền Giang và bồi đắp mũi Cà Mâu - cho lãnh thổ Mẹ Việt Nam lớn dần. Thế rồi ... !!! Để rồi - mùa hạn hán và nhiễm mặn đầu năm 2016 - phải ngoại giao khéo léo lắm - người anh em "sông liền sông, núi liền núi "Bắc Kinh - xả nước ngọt từ đập thủy điện Cảnh Hồng cho Hà Nội: 2,200 m3/sec với 2 đợt (xả trong nhiều ngày liên tiếp, từ 7 đến 21 tháng 3, 2016 và mở 15 ngày liên tục từ 5 đến 20 tháng 4). Theo các nhà khoa học - thì lượng nước về đến ĐBSCL chỉ còn là 10% vì dọc đường nước bị chặn (chỉ còn 220 m3/sec). Nước trên dòng chính Mekong khi được dẫn vào những hồ chứa ở thượng nguồn thì đỏ thắm (phù sa trầm tích), nước ở Cảnh Hồng ... được xả ra thì lờ đờ, trong trong (vì có đến 70% mầu mỡ - lắng tụ trong đáy hồ chứa). Ngớ ngẩn quá ! Cảnh Hồng xả dung tích 2,200 m3/sec thì hồ chứa là 250,000,000 m3 (250 triệu mét khối)
chỉ xả được 113,640 sec hay 32 giờ là hết nước! (hay 1 ngày 8 giờ). Xả nước Cảnh Hồng ... là giải pháp không thực tế!



2. Từ Vân nam, Mekong chảy chậm hơn - lòng sông rộng lớn hơn . Lưu vực của Mekong là 802,000 km2 (so với diện tích Việt Nam là 331.000 km2). Hàng năm Mekong chuyển tải từ đầu nguồn - cao nguyên Tây Tạng - 457 km3 nước ngọt = 457,000,000,000 m3 hay 457 tỉ m3 (hồ chứa nước Xayaburi của Lào : 1.3 tỉ m3). Lưu lượng trung bình mùa khô là 16,000 m3/sec, tối đa mùa lũ là 39,000 m3/sec. Về đến Việt Nam lưu lượng của Cửu Long vào mùa khô là 6,000 m3 (trung bình) và vào mùa lũ là 12,000 m3/sec (tối đa).
3. Lưu lượng nước sông Cửu Long (ĐBSCL) được điều hòa bởi Biển Hồ Tonlesap của Cambodia. Mùa nước lũ (từ tháng 6 đến tháng 11) thì nước chảy vào hồ và tôm cá đua nhau sinh sản ở đó. Lúc nầy thì Tonlesap sâu đến 9 mét và rộng 16,000 km2. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 5 hàng năm thì nước Biển Hồ rút xuống theo sông Tonlesap mà ra Mekong ( lúc nầy Biển Hồ chỉ còn sâu 1 mét , diện tích còn 2,700 km2 = 90x30km) mà chảy vào sông Cửu Long với biết bao thủy sản. Phù sa và trầm tích của Mekong chảy vào Biển Hồ nhiều lắm - mỗi năm đáy Tonlesap được nâng lên đáng kể = 1 cm ?. Ngư nghiệp trên Biển Hồ nuôi sống 3 triệu dân Cambodia và Tonlesap cung cấp 75% sản lượng cá nước ngọt cho dân xứ Chùa Tháp.
4. Chảy đến Phnom Penh (Nam Vang - thủ đô Cao Miên) thì Mekong chia ra làm 2 nhánh: Mekong và Bassac. Cả hai nhánh đều chảy vào Miền Tây Việt Nam. Mekong đuọc gọi là Tiền Giang (sông lớn, sông cái) và Bassac là Hậu Giang (sông Hậu) với lưu lượng đáng kể là 6,000 m3/sec vào mùa khô và 12,000 m3/sec vào mùa mưa (từ tháng 6 đến tháng 11).
    * Tiền Giang có lòng sông rộng lớn  nên có nhiều cù lao ở giữa dòng. Sông Cái chảy ra biển Đông bằng 6 cửa: Tiểu, Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên, Cung Hầu. Năm 1999, nhà cầm quyền Việt Nam xây đập Ba Lai (Bến Tre) trong chiều hướng giữ nước ngọt ở bên trong và ngăn chặn nước biển mặn. Thế nhưng lại có tác dụng ngược lại: nước ngọt không đủ dùng (để tưới cây và người dân ăn uống...) mà nước biển vẫn xâm nhập (đồng áng nhiều phèn= độ mặn gia tăng). Từ 1999, sông Lớn chảy vào biển Đông chỉ bằng 5 cửa mà thôi.
    * Hậu Giang: chảy ra biển bằng 3 cửa: Định An, Ba Thắc (Bassac) và Trần Đề. Ba Thắc là cửa chính của Sông Hậu (bị bồi đắp quá nhiều với phù sa và trầm tích cát từ sông Mekong từ đầu thế kỷ 20 (Sóc Trăng) và bị bồi đắp vào những năm 1960. Nhiều cồn cát ở cửa sông Ba Thắc - nối liền nhau - thành một đảo lớn - chắn trước cửa sông (đó là huyện Cù Lao Dung mà diện tích là 8x30 km = 240 km2 hay 24,000 hecta. (Đập thủy điện Cảnh Hồng có diện tích 525 km2). Hậu Giang chảy ra biển chỉ còn 2 cửa. Sông Tiền và sông Hậu có chiều dài như nhau là 235 km.
    Trước năm 1990 (Trung Cộng bắt đầu xây đập thủy điện ở thượng nguồn Mekong từ thập niên 1990), Tiền và Hậu Giang chuyên chở rất nhiều phù sa đỏ tươi cho đồng bằng sông Cửu Long và còn bồi đắp mũi Cà Mâu khoảng 10 mét mỗi năm cho quê hương Mẹ rộng mở. Thế nhưng hôm nay không có phù sa bồi đắp, bờ biển Việt Nam phần bị xói lỡ phần bị nước biển dâng cao (nóng lên rồi, nóng lên rồi!) đã mất đi khoảng 50 mét mỗi năm.
    Từ nhiều năm nay (2010) nước sông Tiền và sông Hậu xuống thấp khiến hiện tượng sạt lở bờ sông rất nghiêm trọng nhất là tại Đồng Tháp và An Giang. Có chỗ sạt lở đến 500 mét, có nơi dài 5 km, khiến cho cả ngàn gia đình phải di tản!
    5. Trước năm 1990, lượng phù sa do dòng chính Mekong đổ về ĐBSCL: khoảng 160 triệu tấn mỗi năm, nay chỉ còn 75 triệu tấn/năm - sau khi Trung Cộng khánh thành 6 đập thủy điện và hồ chứa nước ở thượng lưu sông Mekong (1994-2009) - sẽ chỉ còn 42 triệu tấn/năm khi các đập thủy điện của Lào và Cao Miên vận hành! - Rồi 30 triệu tấn/năm khi thủy điện Thái Lan nhập cuộc chơi!

II. Đồng Bằng Sông Cửu Long:
    1. Phù sa thắm - dòng Cửu Long,
    Cò bay thẳng cánh - ruộng đồng phì nhiêu
    Bà Đen, Châu Thới mỹ miều,
    Ninh Kiều nô nức - xế chiều Tây Đô
    (Thiên Thai)


Đồng bằng sông Cửu Long (châu thổ sông Cửu Long, lưu vực sông Cửu Long) có diện tích 40,000 km2= 40,000,000,000 m2=40,000,000 ha (4 triệu mẫu) coi như là hình vuông 200x200 km và chia làm 12 tỉnh: Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau. Dân số: 20 triệu người. (2015)
    2.  Nếu châu thổ sông Hổng là cái nôi "văn hóa dân tộc" (trước năm 1954) thì lưu vực sông Cửu Long là "vựa lúa gạo" của Miền Nam, cả Việt Nam. Hạn mặn đầu năm 2016 là hư hại mùa màng trên 160,000 ha (tính đến 29/2/2106)= 1,600,000,000 m2 (1.6 tỉ mét vuông)
coi như hình vuông thì 40kmx40 km.
    * Điển hình: gạo Việt Nam xuất cảng 2015 là 6.4 triệu tấn, trị giá 2.67 tỉ Mỹ kim (417 đô la một tấn) thì 90% là gạo của ĐBSCL - 5.76 triệu tấn - hay 2.4 tỉ đô. Thị trường gạo thế giới cạnh tranh nhiều giữa Ấn Độ, Thái Lan, Pakistan và Việt Nam...
    * Cụ thể: thủy sản Việt Nam xuất cảng 2015 trị giá 6.7 tỉ Mỹ kim thì 60 % là cá tôm, cá tra, mực, bạch tuộc... đến từ lưu vực Cửu Long (hay 4.02 tỉ đô) . Cạnh tranh lắm: (ngày 24/12/2015. 8,000 tấn thủy sản xuất cảng của Việt Nam bị trả về ! "Điện tử khúc hoan ca!)
    3. Trước năm 1975, Miền Tây chỉ có một mùa là lúa nước trời (tháng 6 đến tháng 11) hay lúa nổi. Thế rồi cưỡng canh bằng những kế hoạch ngũ niên... nông dân miền Tây Nam Bộ nhịp bước quân hành thi đua sản xuất lúa nước tưới (tưới cả châu thổ sông Cửu Long - nước đâu mà đủ ?). Miền Tây có 3 vụ lúa: Hè Thu, Thu Đông, và Đông Xuân.
"Nam đi trước - sắc hương trời,
Bao thôn nữ đẹp-ca lời lúa thơm !"
Nông dân miền Tây chưa bao giờ (từ đời chúa Nguyễn cuối thế kỷ 17) lao động quần quật như thế. Thế mà GDP per capita là 48 triệu đồng (2015) thì châu thổ sông Cửu Long chỉ có 40 triệu !. Mẹ Việt Nam anh hùng ơi! đàn con của
Mẹ bị kẻ phương Bắc đọa đày !?
    4. Đổ đồng thì mỗi gia đình (hộ) nông dân lưu vực Cửu Long có 2 ha (mẫu tây = 10,000 m2) để canh tác (dĩ nhiên là phải làm việc cật lực cho 3 vụ lúa/năm: mùa lúa nước trời và 2 màu nước tưới). Sau đây là chi phí, thu nhập, và lợi nhuận cho 1 hectare.
    Canh tác lúa gạo (2015) châu thổ sông Cửu Long:
    * Những chi phí:
        + Phân bón: 29%
        + Nông dược: 18%
        + Lao động thuê: 34%
        + Linh tinh: 19%
        cộng 100% (không kể công lao của người nông dân vì nông dân lấy công làm lời). Chi phí dao động từ 6.5 triệu đồng đến 7.2 triệu đồng hay trung bình cộng là 6.85 triệu cho một hectare.
    * Thu nhập: vụ lúa:
        + Hè thu: 12.4 triệu đồng /ha.
        + Thu đông: 9.4 triệu đồng/ha
        + Đông xuân: 19.3 triệu đồng/ha
dao động từ 9.3 triệu đồng đến 19.3 triệu đồng , trung bình cộng là 13.7 triệu đồng/ha.
    * Lợi nhuận: từ lúa:
        + Hè thu: 5.6 triệu/ha
        + Thu đông: 2.9 triệu/ha
        + Đông xuân: 12 triệu/ha
dao động từ 2.9 triệu/ha đến 12 triệu/ha. Trung bình cộng: 6.83 triệu/ha.
Công lao động gia đình (dao động từ 1.25 triệu đồng /ha đến 1.5 triệu/ha - trung bình: 1.38 triệu/ha
Quả thực người nông dân: "đổ mồ hôi lấy bát cơm vơi!" - lại còn bị thiên tai, nhân họa.
"Cửu Long hai tiếng ngọt ngào,
Quyện nơi đầu lưỡi - ngấm vào tim gan!

C. Lời kết:

    1. Cao Nguyên ( Tây Nguyên , Hoàng Triều Cương Thổ) Việt Nam rộng 56,650 km2 (ở cao độ 500 đến 1500 mét là đỉnh Lang Biang = Lâm Viên, cách thị xã Đà Lạt 12 km) chia ra là 5 tỉnh: Kontum, Gia Lai, Đăk Lắc (Darlac) , Đăk Nông ( Darnong) và Lâm Đồng.
    * Gia Lai là trù phú nhất với đàn gia súc 450,000 con (đa số là bò, xếp hạng 2 ở Tây Nguyên, trước 1975 - giá 30 triệu đồng hay 1,500 đô là Mỹ một con). Thế nhưng những hồ nước ở Cao Nguyên đã cạn ! (kể cả suối, sông nhỏ !!) và những con bò gầy trơ xương vì thiếu nước uống (8 lít nước cho 5 con bò mỗi ngày ) Vì thiếu ăn (nhiều nơi không còn rơm rạ - cỏ thì đồi trọc rồi - nông dân phải mua 1 xe rơm rạ giá 2 , 3 triệu cho 7 con bò ăn trong 10 ngày) . Những con số thống kê được dùng có xác xuất 2% (14/4/2016)
Sông Ba là con sông duy nhất còn chút ít nước !
    * Darlac còn thảm thương hơn: năm 2015 hồ nước bị trơ đáy cạn sạch là 30, năm 2016 số hồ cạn là 120!. 40,000 ha cà phê trồng mà không có nước tưới gây thiệt hại đến 70 triệu Mỹ kim (1400 tỉ đồng!). Nguồn nước ngầm cũng cạn kiệt, nhiều giếng nước đào sâu đến 10 mét mà vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt !.

    2. Thế là ĐBSCL hạn mặn ! (hạn hán và nhiễm mặn), Cao nguyên hạn hán ! Sóng gió - Y hệt miền Nam Việt Nam cách đây 41 năm. Bắc Kinh đang chuẩn bị vào Hà Nội vì dòng Cửu Long đang bị bức tử!!! Hai bàn chân ngọc ngà của Mẹ Việt Nam yêu dấu (Tiền và Hậu Giang) ngày xưa đẹp như mộng, dần dần teo lại vì mất nước !. Có nhiều nguyên nhân cho hạn hán cho hạn mặn:
        a. Do biến đổi khí hậu toàn cầu (không phải là nóng lên 2 độ C mà nóng lên đến 3 độ C, 4 độ C. Nhiều bài khảo cứu  STEM/ mới ấn hành đầu năm 2016 cho biết như thế, do El Nino (hạn hán), do La Nina ( bão tố ầm ầm!).
        b. Do con người tác hại con người (không cùng một dòng giống) - thực ra là bảo vệ quyền lợi của họ và dân tộc họ. Đó là những đập thủy điện thượng nguồn Mekong của Trung Cộng và ngay ở hạ nguồn của Thái Lan, Ai Lao, Cao Miên... (khoảng năm 1990, các nước tiên tiến đã thôi không xây đập thủy điện nữa thì Trung Cộng là bắt đầu và hầu như Trung Cộng xuất cảng đập thủy điện . Trung Cộng xây đập thủy điện của mình và xây 330 đập khác cho 75 quốc gia trên toàn cầu trong đó có Lào, Cao Miên, Thái Lan và dĩ nhiên có cả Việt Nam. 90% thủy điện hôm nay đều made in China. Trung Cộng còn sản xuất nhà máy điện nguyên tử, công suất 1000 MW - Hua Long One với kỹ thuật cao, giá phải chăng có thể so sánh ngang tầm với AP 1000 của Westing House , USA - (Anh, Nga đang mua nhiều...).
        c. Vì quyền lợi riêng tư, phe nhóm lợi ích : "cùng một giống nòi con người tác hại lẫn nhau" Giết hại nhau !!!
            + Xinh như mộng, đẹp như tiên - để yên mà ngắm/mà nhìn :
    "Nam Trung Bắc, sắc hương trời
    Bao cô gái đẹp ca lời thiên thai".
        - thì lại tạt axit hãm hại đời hoàng hậu vũ trường Cẩm Nhung, tháng 7 năm 1963 (1940-2013). Thời huy hoàng của Đệ I Cộng Hòa Việt Nam (hàng trăm vũ trường ở Saigon, Chợ Lớn nơi ăn chơi của giới thượng lưu xã hội và tham nhũng như tặng vũ nữ cả 200 lạng vàng tương đương 500,000 đồng hay nửa triệu = cái nhà. trong khi lương của thiếu tá, cử nhân, kỹ sư, QGHC là 5,500 đồng/tháng + vợ được 1,200 đồng + các con không hạn chế là 800 đồng/con (lúc đó tô phở ngon giá 5 đồng). Chim sa cá lặn mà lã lướt pasodoble, tango .. thì trên cả tuyệt vời.
        - thì lại ám sát chết tại chỗ (trước cửa nhà) hoàng hậu sân khấu Thanh Nga tháng 11 năm 1978 (1942-1978) sau khi Thanh Nga đã diễn Tiếng Trống Mê Linh, và Thái Hậu Dương Vân Nga. đề cao tinh thần chống ngoại xâm của con cháu Lạc Hồng. "Hồng Nhan Bạc Mệnh" - vũ nữ Cẩm Nhung ở tuổi 23 và nghệ sĩ Thanh Nga ở tuổi 36!. Vì xót thương cho số phận "Nữ Hoàng Vũ Trường" nhạc sĩ Nhật Ngân, Duy Trung đã sáng tác ca khúc "Bài Ca cho người Kỹ Nữ":
"Xót xa em là môt cánh hoa rơi,
Loài người vô tình giẫm nát thân em
Loài người vô tình giầy xéo thân em,
Loài người vô tình giết chết đời em !"
Còn gì đẹp bằng "Mưa Rừng" (Huỳnh Anh) qua tiếng hát Thanh Nga.

Xin lưu ý: Cho tới tháng 7/1963 (đệ I cộng Hòa , 1956-1963) Saigon có 100 vũ trường lớn nhỏ (mỗi vũ trường trung bình có 12 vũ nữ chuyên nghiệp, tính ra có 12x100 = 1200 vũ nữ. Cẩm Nhung đươc mô tả ở TOP 10 vũ nữ chính của sàn nhảy Kim Sơn đường Tự Do (nay là Đồng Khởi). Phong trào nhảy đầm nở rộ lên từ năm 1958. Cho tới 1962 số cố vấn Mỹ ở Miền Nam Việt Nam là 20,000 người chia đều cho 40 tỉnh thì mỗi tỉnh có 500 cố vấn, tương đương một tiẻu đoàn đầy đủ cấp số.
    * Bây giờ là người - tác hại đến dân tộc đến đất nước - do vô tình (vì thiếu văn hóa, đạo đức) hữu ý hay vì quyền lợi cá nhân, nhóm lợi ích...
        + Đập thủy điện là con dao hai lưỡi, là bom nổ chậm, là bom chết người mà Trung Cộng sử dụng như võ khí chiến lược để áp đảo những quốc gia ở hạ nguồn Mekong: khi đóng khi xã (Việt Nam tuy là cửa sông ra biển nhưng là cuối dòng !) Những hồ chứa nước có 2 nhiệm vụ: - cung cấp nước cho đập thủy điện/ làm turbine vận hành để có điện - trữ nước ngọt và phân phối cho nông nghiệp khi có hạn hán.
Bình thường thì Cao Nguyên không thể thiếu nước. Vũ lượng mưa ở Tây Nguyên là 1.85 m/năm. Như thế Cao Nguyên nhận 100 tỉ met khối nước mưa hàng năm (Xayabari chứa 1.3 tỉ m3). Nước mưa sanh ra dòng chảy qua hệ thống suối, sông, hồ + 48 tỉ m3 nước. Cả Tây Nguyên xử dụng (2010) chỉ: 14% dòng chảy = 48x14/100 = 6.72 tỉ m3 nước, còn lại 86%= 41.28 tỉ mét khối (6 lần nước đã sử dụng hàng năm) . Câu hỏi là nước đã chảy vào đâu, đi đâu?.
Trả lời: - chảy vào các hồ chứa nước của tỉnh Gia Lai với 400 đập thủy điện lớn nhỏ.
- chảy vào các hồ chứa nước của tỉnh Darlak. Năm 2015, Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Darlak cho 1 công ty xây đập thủy điện YokDon - thế là 53 ha = 530,000 m2 hay 728mx728 m của khu rừng quốc gia (rừng già, rừng nguyên sinh = toàn gỗ quý, rừng chưa bao giờ được khai thác) bị làm thịt. Muốn xây đập thủy điện thì và đầu tiên là khai thác gỗ quý - để mà đào hồ chứa nước và xây đập (Năm 1975, rừng chiếm đến 75% diện tích Việt Nam - 2015 chỉ còn là 30%. (theo số liệu của Viện Địa Lý Việt Nam, Tiến Sĩ Nguyễn lập Dân, 2015).
Cao nguyên - từ từ - thiếu nước từ mấy năm nay. 2015 là khô hạn . Đầu năm 2016 là hạn hán. Thế nhưng những hồ chứa nước của các đập thủy điện đã không tự động xả nước cho nông dân ?. Hay là nông dân cần thì bán ? Đúng là phi thương bất phú và 1 vốn, 4 lời ?. Chỉ có nhóm lợi ích biết với nhau. 200 dự án đập thủy điện ở Tây Nguyên, Trung Phần sắp đi vào khai thác!?

    + Ngay từ đầu thật niên 1990, khi Trung Cộng cho xây đập ở thượng nguồn sông Mekong chánh quyền từ trung ương đến địa phương (tỉnh) Việt Nam phải hiểu rõ điều đó để mà tránh họa cho dân tộc. Năm 2015, trắng đen rõ ràng 100% như thế mà tháng 2/2016 chánh quyền tỉnh Gia Lai vẫn cấp phép cho khai thác hai đập thủy điện nữa !
    + Đập thủy điện được cấp giấy phép toàn ở các khu rừng quốc gia (như đã nói ở trên là rừng nguyên sinh, rừng già toàn gỗ hiếm). Thế mà phá rừng bán gỗ quý để bù đắp - bà đầu tiên ! rồi xây đập - xây hồ chứa nước ngọt...
    + Theo Bộ Giáo Dục và Đào Tạo (Hà Nội) thì niên khóa 2015-2016 , Việt Nam có 120,000 du học sinh đang học tại 49 quốc gia khắp thế giới. Xính Mỹ lắm nên 80,000 du học sinh đang học tại xứ Cờ Hoa. (phí tổn cho 4 năm đại học khoảng 200,000 đô la một sinh viên) thì 70,000 học về nhân văn hay trá hình là du học sinh qua Mỹ lao động. Hy sinh đời bố, củng cố đời con - trong khi - muốn đuổi kịp Đài Loan, Thái Lan thì phải học khoa học kỹ thuật (Lãnh đạo bất đại học - bất tri lý - mà phải học đại học tử tế). Về STEM, thì Hà Nội đi sau Nhật Bản và Nam Hàn hàng thế kỷ (100 năm)!. Trong khi người Việt thông minh lắm (điển hình là 500 Professors với PhD, Postdoctors đang giảng dạy tại những đại học danh tiếng toàn cầu về khoa học kỹ thuật)
.
    Theo US Immigration, thì đơn xin visa cho diện đầu tư, kinh doanh ở Mỹ (EB -5) với số vốn từ 500,000 đô la đến 1,000,000 đô la và tạo công ăn việc làm cho 10 công nhân tại Mỹ:
        - 2014 : có 6,500 đơn xin.
        - 2015 : có 18,000 đơn xin
Trong 18,000 đơn nầy thì Trung Cộng đứng đầu danh sách, thứ hai là Việt Nam... Luật Mỹ khắt khe như phải chứng minh là tiền lương thiện (như tiền bán nhà, tiền thừa kế của cha mẹ, bán cơ sở thương mại...) thì mới có thẻ xanh. Thế là hạ cánh an toàn cho cha mẹ. Con qua trước, bố mẹ đi sau. Làm gì mà giá nhà ở Mỹ (CA, TX...) chẳng bay cao ?). Tiền Mỹ lại trở về Mỹ. Mỹ thế mà khôn. Xin mượn lời - thi sĩ Gió Ngàn - mà kết luận: "Việt Nam sản xuất cái gì?"


"Nhật Bản - sản xuất Camri,
Hon đa, rồi lại Sô ni lẫy lừng
Nam Hàn nổi máu anh hùng,
Huỳnh Đai (Hyundai), Kia Kía (KIA) tưng bừng lên cao !
Xam Xăng (Samsung) sản xuất ào ào,
Việt Cộng tức khí - ta nào ? về đâu?
Điện tử còn phải chờ lâu !
Đảng ta - nhất trí - bao thầu nhân công !



Bên dòng sông Lô (St. Laurent)
4/18/2016
 

No comments:

Post a Comment