Tổng thống Obama gặp Điếu Cày trước khi tiếp Nguyễn Phú Trọng
ALEX WONG, GETTY IMAGES
Bạn đọc Danlambao -
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama vừa có
cuộc gặp gỡ với blogger Điếu Cày -
Nguyễn Văn Hải, người từng bị chế độ cộng sản VN gọi là ‘phản động’ và
kết án tổng cộng gần 15 năm tù giam.
Đây
là cuộc gặp có ý nghĩa đặc biệt, diễn ra trước thời điểm TBT đảng CSVN
Nguyễn Phú Trọng dự kiến có chuyến công du Hoa Kỳ trong tháng 5 này.
Được
biết, cuộc gặp giữa blogger Điếu Cày và tổng thống Obama diễn ra tại
Nhà Trắng vào lúc 10:55 sáng ngày 1/5/2015, theo giờ Washington, D.C.
Tham
dự buổi hội luận còn có các nhà báo từng bị trả thù độc đoán tại các
quốc gia khác nhân dịp đánh dấu ngày Tự do Báo chí Thế giới 3/5 sắp tới.
Ảnh
từ trái sang phải: Blogger Điếu Cày – Nguyễn Văn Hải, Tổng thống Barack
Obama và cô Simegnish "Lily" Mengesha từ Ethiopia tại buổi hội luận tại
phòng Roosevelt trong khuôn viên Nhà Trắng. (AP Photo/Susan Walsh)
Hồi
năm 2012, trong phát biểu nhân ngày Tự do Báo Chí Thế Giới, tổng thống
Obama cũng đã nêu thông điệp: Đừng quên blogger Điếu Cày!
Các
nỗ lực vận động mạnh mẽ đã khiến nhà cầm quyền CSVN phải trục xuất Điêú
Cày sang Hoa Kỳ hồi cuối năm ngoái. Dù phải sống cảnh lưu vong, Điếu
Cày vẫn tiếp tục nhiều nỗ lực tranh đấu cho tự do ngôn luận và vận động
cho các tù nhân lương tâm tại Việt Nam.
Hôm
27/4/2015 vừa qua, bộ ngoại giao Hoa Kỳ phát động chiến dịch Tự do Báo
chí, đồng thời kêu gọi nhà cầm quyền CSVN trả tự do ngay lập tức cho
blogger Tạ Phong Tần, một thành viên Câu lạc bộ Nhà báo Tự do hiện vẫn
đang bị cầm tù.
Việc
một cựu tù nhân lương tâm Việt Nam xuất hiện tại Nhà Trắng cùng tổng
thống Obama là một hình ảnh gây nhiều chú ý, nhất là vào thời điểm
chuyến công du Hoa Kỳ của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sắp diễn ra.
Hiện
nghi thức đón tiếp đối với người đứng đầu đảng CSVN vẫn tiếp tục là chủ
đề gây nhiều tranh cãi. Phía CSVN vẫn nằng nặc đòi tổng thống Obama
phải tiếp đón ông Nguyễn Phú Trọng tại phòng Bầu Dục theo nghi thức dành
cho nguyên thủ quốc gia.
Mặc
dù nghi đón tiếp ngoại giao chưa ngã ngũ, nhưng rõ ràng cuộc gặp giữa
tổng thống Obama và blogger Điếu Cày - người luôn bị chế độ CS coi là
'phản động' sẽ là một cái tát mạnh mẽ vào mặt Nguyễn Phú Trọng và tập
đoàn đảng CSVN.
Video: RFA phỏng vấn blogger Điếu Cày - Nguyễn Văn Hải ngay sau kết thúc buổi hội luận cùng tổng thống Obama.
Tổng Thống Obama đã có cuộc hội luận bàn tròn với blogger Điếu Cày - Nguyễn Văn Hải
Một cái tát nảy lửa vào mặt đảng CSVN
Vào
sáng ngày 1 tháng 5, tại phòng họp Roosevelt bên trong Toà Bạch Ốc,
Tổng Thống Obama đã có cuộc hội luận bàn tròn với blogger Điếu Cày -
Nguyễn Văn Hải, cùng một số các nhà báo khác đã từng bị bắt bớ, cầm tù.
Cuộc
hội luận bàn tròn này được tổ chức nhân dịp ngày Tự Do Báo Chí Thế Giới
2015 (Chủ Nhật Ngày 3 Tháng 5). Trong buổi hội luận với Tổng thống
Obama còn có nhà báo Simegnish 'Lily' Mengesha từ Ethiopia và nhà báo
Fatima Tlisova từ Nga. Tương tư như Blogger Điếu Cày, hai nhà báo bất
đồng chính kiến này đã bị trục xuất ra khỏi quốc gia của mình
Trong
buổi hội luận, Tổng thống Obama đã nhấn mạnh rằng tự do báo chí đóng
vai trò sống còn của một nền dân chủ. Những nhà báo phải có quyền cho
người dân một nước biết sự thật về quốc gia của mình, về chính quyền của
mình. Điều này sẽ giúp cho một quốc gia trở nên tốt đẹp hơn, và giúp
cho người đứng đầu một đất nước như ông trở nên đáng tin cậy hơn. Thật
là đáng thất vọng khi có nhiều nơi trên thế giới, quyền tự do báo chí bị
tấn công bởi chính quyền. Nhà báo bị sách nhiễu, thậm chí bị giết.
Những tiếng nói độc lập bị ngăn cản, những người bất đồng chính kiến bị
buộc phải im lặng. Trong đó có Việt Nam, là quốc gia hiện đang bị thế
giới và Hoa Kỳ lên án về tự do báo chí.
Cũng
trong phần trình bày của mình, blogger Điếu Cày đã chia sẻ về tình hình
tự do báo chí tại Việt Nam, sự bắt bớ, trù dập đối với những blogger,
những cây bút tự do muốn nói lên chính kiến của mình. Ông cũng gởi đến
Tổng thống Obama danh sách một số tù nhân lương tâm hiện đang bị cầm tù.
Xin
được nhắc lại, blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải bị bắt vào năm 2008. Ông
bị kết án vì tội trốn thuế. Sau khi mãn án vì tội danh này, nhà cầm
quyền CSVN tiếp tục giam giữ ông và sau đó ông bị kết án 12 năm tù với
tội danh ‘tuyên truyền chống nhà nước’ theo điều 88 Bộ Luật Hình sự Việt
Nam.
Vào
năm 2012, Tổng thống Obama cũng đã công khai nhắc đến blogger Điếu Cày
nhân ngày Tự Do Báo Chí Thế Giới. Trong một bài phát biểu kêu gọi trả tự
do ngay cho những nhà báo bị bắt giam trên thế giới, Tổng thống Obama
đã kêu gọi mọi người "không được phép quên những người khác như blogger
Điếu Cày, người bị bắt vào năm 2008 trong đợt trù dập rộng lớn đối với
hoạt động báo chí công dân tại Việt Nam."
Vào
tháng 10/2014. chính quyền Hoa Kỳ đã can thiệp, tạo sức ép lên chính
quyền CSVN, buộc họ phải trả tự do, và trục xuất ông thẳng từ trại giam
sang Mỹ.
Buổi
gặp gỡ với Blogger Điếu Cày, một trong những tù nhân lương tâm nổi
tiếng nhất của Việt Nam diễn ra trước chuyến viếng thăm của ông Tổng bí
thư CSVN Nguyễn Phú Trọng đến Hoa Kỳ vào năm nay.
Blogger Điếu Cày cùng hai nhà báo Simegnish 'Lily' Mengesha (Ethiopia) và Fatima Tlisova (Nga).
Cựu tù nhân chính trị, blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải (bìa
trái) vào lúc 10:55 sáng ngày 1 tháng 5 theo giờ miền đông Hoa Kỳ, có
cuộc hội luận với tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama (giữa) cùng với các nhà
báo nước ngoài khác từng bị bắt bớ.
AFP
Cựu tù nhân chính trị, blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, vào 10:55
sáng hôm qua 1 tháng 5 theo giờ miền đông Hoa Kỳ, có cuộc hội luận với
tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama cùng với các nhà báo nước ngoài khác từng
bị bắt bớ.
Cuộc hội luận diễn ra giữa tổng thống Barack Obama cùng những nhà báo
bị tù tội như vừa nêu nhằm đánh dấu Ngày Tự do Báo chí Thế giới năm
nay.
Vào năm 2012, cũng nhân dịp Ngày Tự do Báo chí Thế giới, tổng thống
Barack Obama công khai nhắc đến blogger Điếu Cày. Dịp đó người đứng đầu
chính phủ Hoa Kỳ nói rõ ‘ Vào khi chúng ta lên án những vụ bắt giữ gần
đây đối với các nhà báo như Mazen Darwish, một tiếng nói hàng đầu ủng hộ
tự do báo chí ở Syria, cũng như kêu gọi trả tự do ngay cho những nhà
báo bị bắt giam như thế, chúng ta không được phép quên những người khác
như blogger Điếu Cày, người bị bắt vào năm 2008 trong đợt cấm cách rộng
khắp đối với hoạt động báo chí công dân tại Việt Nam.
Xin được nhắc lại, sau khi bị bắt blogger bị kết án vì tội trốn thuế,
nhưng khi mãn án vì tội danh này, ông tiếp tục bị giam giữ và bị kết án
với tội danh ‘tuyên truyền chống nhà nước’ theo điều 88 Bộ Luật Hình sự
Việt Nam.
Tổng thống Barack Obama 'rất quan tâm' tới tình hình tự do ngôn luận,
báo chí và nhân quyền ở Việt Nam, theo blogger Điếu Cày - Nguyễn Văn
Hải, cựu tù nhân lương tâm, người vừa được nhà lãnh đạo Hoa Kỳ mời tới
Nhà Trắng để gặp gỡ và trao đổi nhân ngày Tự do Báo chí Quốc tế hôm
01/5/2015.
Trao đổi với BBC từ Washington D.C. hôm thứ Bảy, nhà báo tự do Điếu Cày - Nguyễn Văn Hải nói:
"Chuyến gặp lần này đã cho tôi một cảm
xúc rất đặc biệt. Tổng thống Obama là một người rất bình dị. Khi chúng
tôi ngồi ở bên cạnh nhau để thảo luận về các vấn đề tự do báo chí, tự do
ngôn luận của các nước có các nền báo chí tồi tệ, tôi thấy rằng Tổng
thống Obama rất quan tâm đến tình hình của các nước như là Ethiopia, Nga
hay Việt Nam.
"Cách Tổng thống diễn đạt những câu chuyện rất bình dị và ấm áp."
Khi được hỏi vì sao Tổng thống Mỹ chọn gặp ba nhà báo từ Việt Nam, Nga và Ethiopia trong cuộc gặp này, blogger Điếu Cày đáp:
"Đấy cũng là một chỉ dấu cho thấy là ba quốc gia này có nền báo chí tồi tệ nhất.
"Theo
tôi được biết có một danh sách trên 30 nhà báo được lựa chọn, nhưng chỉ
có 3 người được vào gặp Tổng thống, và như vậy cũng cho thấy rằng những
người mà đã bị đàn áp ở những quốc gia có nền báo chí tồi tệ, thì Tổng
thống lựa chọn để gặp mặt."
'Giữ kín cuộc gặp'
<
null
Blogger Điếu Cày cho hay ông đã được biết trước về cuộc gặp cách đó không lâu:
"Tôi đã biết trước được khoảng một tuần trước, nhưng vì lý do an ninh nên cái này phải giữ kín...
"Bên Bộ Ngoại giao và sau đó là bên phía Nhà Trắng (đặt vấn đề mời)."
Điếu
Cày cũng chia sẻ thêm về một danh sách các tù nhân lương tâm, trong đó
có nhiều nhà báo, blogger đang bị giam giữ ở Việt Nam, mà ông đã gửi
Tổng thống Obama nhân dịp này.
Blogger, chủ nhiệm Câu lạc Bộ Nhà báo Tự do mới tái lập ở Hoa Kỳ nói:
"Có
Trần Huỳnh Duy Thức, Tạ Phong Tần, anh Vinh Ba Sàm (blogger Ba Sàm -
Nguyễn Hữu Vinh), chị Bùi Hằng, Trần Vũ Anh Bình, Việt Khang và một số
tù nhân nữa, chúng tôi có đưa một danh sách."
Khi được hỏi về phản ứng của Tổng thống Hoa Kỳ, blogger Điếu Cày cho hay:
"Tổng
thống đã rất quan tâm tới câu chuyện này," nhà tranh đấu cho tự do báo
chí, ngôn luận và nhân quyền ở Việt Nam nói với BBC hôm 02/5/2015.
'Hoàn toàn ngẫu nhiên'
Bình
luận về việc Tổng thống Hoa Kỳ tiếp đón nhà báo tự do, blogger Điếu Cày
- Nguyễn Văn Hải tại Nhà Trắng, Tiến sỹ Nguyễn Quang A, một nhà quan
sát chính trị, xã hội Việt Nam, nói với BBC:
"Nhân ngày tự do báo chí quốc tế, Tổng thống Obama đã gặp ba nhà báo như vậy, trong đó có anh Điếu Cày.
"Tôi
nghĩ đây thể hiện một sự quan tâm của nước Mỹ cũng như là của Tổng
thống Obama rất nhiều đến vấn đề tự do ngôn luận ở Việt Nam
"Mà anh Điếu Cày là một người tiêu biểu bị đàn áp trong vấn đề không có tự do ngôn luận ở nước ta (Việt Nam)."
Nhà quan sát cho rằng phía Mỹ đã có sự chuẩn bị từ trước cho sự kiện này.
Theo
ông, cuộc gặp đã diễn ra 'ngẫu nhiên' sau khi chính quyền Việt Nam long
trọng kỷ niệm 40 năm ngày 30/4 với một bài diễn văn của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng được cho là có một số lời lẽ 'không mới' và khá 'rắn'
khi nói về nước Mỹ.
Tiến sỹ Nguyễn Quang A nói:
"Tôi nghĩ
rằng đây là một sự ngẫu nhiên hoàn toàn, bởi vì một cuộc tiếp các nhà
báo của các nước khác bị đàn áp, thì Nhà Trắng đã phải chuẩn bị từ lâu
rồi.
"Chứ không phải là vì cái chuyện lời phát
biểu của ông Nguyễn Tấn Dũng hôm trước đó mà họ có phản ứng như thế
này," ông nói với BBC hôm thứ Bảy từ Hà Nội.
'Hy vọng tiến bộ'
Còn
từ Sài Gòn, thạc sỹ Nguyễn Tiến Trung, cựu tù nhân lương tâm, nhà tranh
đấu cho nhân quyền và dân chủ hóa của Việt Nam chia sẻ cảm tưởng của
mình về cuộc gặp giữa ông Obama với blogger Điếu Cày cùng các nhà báo
quốc tế.
Thạc sỹ Nguyễn Tiến Trung, người từng được Tổng thống Hoa
Kỳ George W. Bush mời gặp mặt vào tháng 8/2006 trước khi về lại Việt
Nam sau thời gian du học ở nước ngoài, nói:
"Đầu tiên, tôi thấy
rất vui bởi vì tôi còn có một người bạn nữa thân thiết là chị Tạ Phong
Tần vẫn đang ở trong tù, thì qua sự kiện này, cộng với sự kiện trước đó
nữa là Bộ Ngoại giao Mỹ đã liên tiếng yêu cầu Việt Nam cần phải trả tự
do ngay lập tức cho chị Tạ Phong Tần, tôi thấy chứng tỏ chính phủ Hoa Kỳ
rất quan tâm đến tình trạng các bloggers Việt Nam bị giam giữ nói riêng
và tình trạng nhân quyền của Việt Nam nói chung, cho nên tôi hy vọng là
thời gian tới sẽ có những tiến bộ hơn nữa về nhân quyền Việt Nam...
"Vừa qua ngày 1/5 là ngày Tự do
Báo chí Quốc tế cho nên Tổng thống Mỹ gặp gỡ những nhà báo, bloggers đã
bị đàn áp, và tôi nghĩ anh Điếu Cày cũng hạn chế trong việc đưa ra danh
sách những người, chủ yếu là những bloggers, nhà báo ở Việt Nam bị giam
giữ.
"Còn những người bị bắt giữ vì lý do khác, như là 'gây rối
trật tự công cộng', hay là kết các tội khác ngoài vấn đề 'tuyên truyền,
chống phá' này nọ, thực ra những anh em, đồng đội của tôi ở Mỹ, ở châu
Âu, kể cả ở Việt Nam nữa thì đều có sự vận động đối với quốc tế.
"Để
mà thả tất cả những tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm và tù nhân tôn
giáo Việt Nam ra, thì điển hình như sắp tới Đối thoại Nhân quyền Việt -
Mỹ, phía Mỹ cũng có nói chuyện với tôi để biết quan điểm của phía tôi
như thế nào để mà có thể đối thoại với phía Việt Nam.
"Và tôi nghĩ
phía Mỹ cũng san sẻ với rất nhiều người đấu tranh dân chủ khác để họ
nắm được bức tranh toàn diện về vấn đề nhân quyền Việt Nam để mà có thể
đối thoại với Việt Nam, cũng như nắm được thông tin về các tù nhân chính
trị, tù nhân lương tâm và tù nhân tôn giáo, để có biện pháp thuyết phục
chính quyền Việt Nam cần phải thả họ ra," thạc sỹ Nguyễn Tiến Trung nói
với BBC hôm 02/5.
Thủ tướng VN Nguyễn Tấn Dũng đọc bài diễn văn trước cuộc diễn binh mừng ngày 30 tháng 4 tại TPHCM.
AFP
Không đáp ứng sự trông đợi
Bài diễn văn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đọc trước cuộc diễn binh
mừng ngày 30 tháng Tư được cho là không đáp ứng sự trông đợi của hàng
triệu người trong và ngoài nước trong dấu mốc thời gian 40 năm sau ngày
thống nhất.
Từ nhiều tháng trước Sài Gòn chứng kiến cảnh nhộn nhịp chuẩn bị ngày
lễ kỷ niệm 40 năm thống nhất đất nước mà chính quyền vẫn gọi là ngày
giải phóng. Tâm lý chờ đợi một điều gì đó khác với 39 lần trước sẽ xảy
ra từ phía chính quyền đã làm không ít người nôn nóng và tâm lý ấy dành
hẳn cho bài diễn văn quan trọng mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ là
người đọc lên không những cho gần 90 triệu đồng bào trong nước mà còn
gửi tới một thông điệp cho hơn ba triệu đồng bào hải ngoại, những người
trực tiếp có dính líu tới cuộc chiến mà 40 năm vể trước đã đứt ruột bỏ
nước ra đi.
Tâm lý ấy khiến hàng triệu người lắng nghe và thầm hy vọng rằng Thủ
tướng sẽ có những lời lẽ đột phá như ông đã từng làm vài lần trước đây
và niềm hy vọng ấy kéo dài nhiều ngày cho tới sáng ngày 30 tháng 4 năm
2015.
Giáo sư Nguyễn Đình Cống từ Hà nội cho biết nhận xét của ông khi nghe bài diễn văn này:
“Tôi đoán chắc rằng cái lời phát biểu này không phải là
chính ông Dũng nói mà chắc là phải thông qua Bộ Chính trị. Và vì chuyện
như thế thành ra có những điều mà tôi mong đợi thì ông Dũng không nói
tới. Phần lớn vẫn thổi lại điệu dèn ò e í e như trước nay cộng sản họ
vẫn nói thôi chứ chưa thấy một cái gì mới mẻ cả.”
Bên cạnh việc nhắc lại những thành tựu quen thuộc, một nỗi thất vọng
lớn lao tràn ngập khi câu chữ được dùng trong bài diễn văn quan trọng
này không khác một mảy may nào so với 40 năm về trước khi người Sài Gòn
lần đầu tiên nghe trên đài phát thanh và ở những buổi họp tổ dân phố sau
khi bộ đội kéo vào tiếp quản Sài Gòn. Cụm từ “đánh cho Mỹ cút, đánh cho
ngụy nhào” được lập lại trong không khí lắng đọng đã làm cho hàng triệu
tiếng thở dài từ trong cũng như ngoài nước nổi lên.
“Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ kính yêu, quân và
dân cả nước đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, kiên cường, sáng
tạo, anh dũng chiến đấu, hy sinh, lập nên những chiến công oanh liệt,
đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào mà đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy mùa Xuân năm 1975”
Từ trái sang: TBT
Nguyễn Phú Trọng, Cựu TBT Nông Đức Mạnh và TT Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc
diễn binh mừng ngày 30 tháng 4 ở TPHCM. AFP PHOTO.
Nữ nghệ sĩ Kim Chi, người theo dõi trực tiếp bài diễn văn đã cay đắng nói với chúng tôi: “Tôi nghĩ đã đến giai đoạn sang trang vì đã 40 năm rồi,
người Mỹ người ta không có ý định gì xấu với Việt Nam nữa hết mà người
ta lại đang hết lòng muốn giúp đỡ, tại sao lại còn làm ra như thế? Tại
sao phải khuếch trương cái thắng lợi ấy làm gì để khoét thêm nỗi đau của
những người anh em ruột thịt mình. Bây giờ người ta đã ở xa rồi người
ta cũng muốn quay về nhưng mà với thái độ như thế cứ tự ca mình chiến
thắng hoài thì làm sao mà hòa hợp được dân tộc.”
Trong bài diễn văn dài 25 phút ngoài các chi tiết nhắc tới những
chiến thắng vang dội hay thành tựu kinh tế và phát triển quen thuôc,
giới quan sát chú ý tới các điểm mà đồng bào trong và ngoài nước chờ đợi
đã không được Thủ tướng đáp ứng. Vấn đề cốt lõi nhất là công cuộc hòa
giải giữa chính quyền và đồng bào hải ngoại. Trong bài diễn văn cũng
được Thủ tướng nhắc tới nhưng chủ thể đã lệch sang một hướng khác. Thủ
tướng Dũng cho rằng: “đồng bào ta ở trong nước cũng như ở nước ngoài,
mỗi người chúng ta hãy nêu cao tinh thần dân tộc, lòng yêu nước thương
nòi, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, không phân biệt quá khứ, vượt
lên trên những khác biệt, cùng nhau chân thành hòa hợp dân tộc, vun đắp
và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân”.
Chưa bao giờ cần hòa giải?
Thực tế cho thấy đồng bào trong và ngoài nước chưa bao giờ cần hòa
giải vì họ chưa khi nào hành hạ, giết chóc hay bắt bớ giam cầm lẫn nhau.
Đối tượng cần được hòa giải là Chính quyền và đồng bào hải ngoại. Bài
diễn văn quan trọng này đã sai sót khi quên chủ thể là Chính phủ, hay
Đảng Cộng sản Việt Nam khi nói đến vấn đề hòa giải.
Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng có lẽ là người chờ đợi câu nói hòa giải từ
người đứng đầu chính phủ nhất, bởi ông là người từng bỏ nước ra đi nay
đã quay về giúp Việt Nam đào tạo hàng trăm Tiến sĩ cũng như thạc sĩ cấp
quốc tế, ông chia sẻ: “Bài diễn văn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong ngày lễ
30 tháng 4 hôm qua cái vấn để hòa giải hòa hợp dân tộc lẽ ra nên đặt vào
dịp này để đáp ứng yêu cầu của rất đông người trông đợi, nhất là anh
chị em trí thức. Một điểm nữa tôi cũng hơi ngạc nhiên là không thấy Thủ
tướng đề cập tới vấn đề bảo vệ biển đào của Việt Nam nhất là phía Trung
Quốc họ đang kiến tạo những pháo đài, sân bay quân sự mà những nhà học
giả người ta nói là có khả năng Trung Quốc sẽ dần dần tiến tới kiểm soát
toàn bộ Biển Đông.”
Trong thời gian gần đây trước sự o ép ngày càng mạnh của Trung Quốc,
họa ngoại xâm chừng như sẽ xảy ra bất cứ giờ phút nào đã khiến đảng Cộng
sản Việt Nam cần tới sự hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực nhằm cân
bằng, đối trọng với sự lớn mạnh của Trung Quốc. Hàng chục cuộc viếng
thăm cấp cao của hai nước đã diễn ra và sắp tới là chuyến công du chính
thức của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Thật ngạc nhiên khi Thủ tướng
NguyễnTấn Dũng nhắc lại những gì mà trong chiến tranh Đài Tiếng nói Việt
Nam phát thanh từ miền Bắc vẫn nhắc đi nhắc lại hàng ngày, ông nói: “Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
nhân dân Việt Nam có quyền thực hiện khát vọng thiêng liêng của mình là
được sống trong một đất nước hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do, hạnh
phúc và có quan hệ bình đẳng, hữu nghị với tất cả các quốc gia trên thế
giới. Nhưng Đế quốc Mỹ đã ngang nhiên áp đặt chế độ thực dân kiểu mới,
biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự của Mỹ, đàn áp tàn bạo Cách
mạng miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại khốc liệt ở miền Bắc.
Chúng đã gây ra biết bao tội ác dã man, biết bao đau thương, mất mát đối
với đồng bào ta, đất nước ta. Tổ quốc ta đã phải trải qua những thử
thách cực kỳ nghiêm trọng.”
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn thuộc Viện nghiên cứu Y khoa Garvan tại Úc,
đã rất nhiều lần về Việt Nam giúp cho ngành y khoa trong nước những kinh
nghiệm mà ông có được trong vai trò của một Giáo sư y khoa. Giáo sư
Tuấn chia sẻ:
“Nói một cách công bằng khả năng rất cao là ông Thủ tướng
không phải là người chấp bút để viết cái bài diễn văn đó. Rất có thể một
người phụ tá của ông ấy đã viết mà phụ tá thì họ xem cái việc viết diễn
văn như một cái nghề của họ và họ đã quen dùng từ ngữ rất là quen thuộc
thành ra trong bài diễn văn đó có những chữ như “đánh cho Mỹ cút, ngụy
nhào..rồi tội ác dã man, rồi đế quốc Mỹ...” tôi rất ngạc nhiên về chữ đế
quốc Mỹ, thực dân mới, những từ ngữ mà người ta đã nghe cả 40 năm nay
rồi.
Ai viết không cần biết nhưng ông Thủ tướng đúng ra đọc thành ra
người ta chỉ biết là ông Thủ tướng thôi. Tôi rất ngạc nhiên vì thấy
trong bài ông Thủ tướng có những đoạn rất là gay gắt với Mỹ mà Mỹ thì họ
lại đang có mối quan hệ ngoại giao rất tốt với Việt Nam mình. Nếu tôi
nhớ không lầm thì năm nay kỷ niệm 20 năm nối lại bang giao Việt Mỹ. Mỹ
còn đã và đang giúp Việt Nam rất nhiều như giáo dục, khoa học thậm chí
quân sự nữa thành ra tôi rất ngạc nhiên. Từ trước tới nay tôi vẫn nghĩ
ông Thủ tướng là người khá cởi mở trong giới lãnh đạo Việt Nam vì ông có
vẻ muốn đối thoại. Tôi rất ngạc nhiên vì ngôn ngữ của ông ấy thiếu tính
ngoại giao.”
Đồng bào trong và ngoài nước cùng nhận ra rằng dù dưới lý do nào thì
bài diễn văn đã mang tới cho tất cả mọi công dân Việt Nam một thông điệp
rất rõ ràng: Chính phủ Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên định
lập trường: “Mỹ trước sau như một vẫn là kẻ xâm lược và chế độ Sài Gòn
sau 40 năm vẫn là chế độ ngụy”.
Về những kẻ mơ “nối vòng tay lớn” trong hòa bình với kẻ thù
Trần Quốc Việt (Danlambao)
- Họ là những kẻ góp phần lớn vào sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa. Họ
không ngừng cực lực lên án chính phủ Quốc gia và không ngừng xuống đường
liên tục với đủ sắc áo màu cờ nhân danh phản chiến và hòa bình. Những
chiến sĩ VNCH hy sinh biết bao xương máu ngoài mặt trận trong suốt 21
năm trời để bảo vệ hậu phương cho họ tự do lợi dụng và khai thác thể chế
dân chủ và tự do để gây rối loạn ở hậu phương. Vô tình hay hữu ý hay
thơ ngây, họ trở thành ngọn giáo nối dài của Cộng sản đâm vào hậu phương
từng nuôi dưỡng, giáo dục và bảo vệ họ và gia đình. Họ là những sinh
viên, trí thức, văn nghệ sĩ, chính trị gia, tu sĩ, và thành phần thứ ba ở
miền Nam.
Những kẻ phản chiến và ngụy hòa này, tức những kẻ đối lập cửa trước rước
giặc cửa sau vì, xét cho cùng, trung lập trong chiến tranh chính là bạn
của kẻ thù. Nhưng cuối cùng khi cuộc chiến tàn, họ bị Cộng sản bỏ rơi,
coi thường, hay cả bị tù đày. Họ chính là những kẻ mà Lenin đặt tên là
“những kẻ ngu xuẩn có ích” cho cộng sản. Họ hiện diện thường xuyên trên
các đường phố ở miền Nam và Mỹ kêu gọi hòa bình mà thực tế mở đường cho
cuộc chiến tranh mới không tiếng súng nhưng tàn ác gấp bội lần.
Nhân dịp kỷ niệm bốn mươi năm Việt Nam Cộng hòa bị cộng sản cưỡng chiếm,
chúng tôi trích lại lời phát biểu của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vào
ngày 24 tháng Mười 1972, và dịch một trích đoạn trong bài diễn văn của
nhà văn Nga Alexander Solzhenitsyn tại đại học Havard vào ngày 8 tháng
Sáu 1978. Những tiểu đề là của người sưu tầm và người dịch.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu- Hai lối vào lịch sử
Tôi thiết tha kêu gọi những ai, ở miền Nam này, đang ăn cơm miền Nam,
đang thở không khí miền Nam, đang được sự che chở của xương máu Dân Quân
miền Nam, mà đến ngày nay, còn âm thầm tiếp tay với Cộng sản, còn lén
lút đi đêm với Thực dân, Ngụy hòa, còn tính đâm sau lưng chiến sĩ đồng
bào…Tôi kêu gọi lương tri của mấy người, vì đất nước, vì dân tộc, hãy
dừng chân lại, hãy dừng tay lại, hãy từ bỏ ý định đó đi mà cùng với 17
triệu rưỡi Dân Quân miền Nam chiến đấu chống kẻ thù Cộng sản. Tôi kêu
gọi mấy người hãy suy nghĩ, nếu thích Cộng sản thì hãy có can đảm ra
ngoài Bắc ở với Cộng sản, như vậy Cộng sản còn ít khinh rẻ mấy người hơn
là làm tay sai cho chúng ở miền Nam này.
Có thể không ai ở miền Nam tự do này giết mấy người đâu, nhưng chính Cộng sản sẽ giết mấy người.
Mấy người nếu muốn có tên trong lịch sử, thì cũng có hai lối có tên
trong lịch sử. Một đàng khi nhắc đến, thì toàn dân cúi đầu khâm phục,
con cháu lại ngẩng đầu lên hãnh diện. Một đàng khác, khi nhắc đến, thì
toàn dân ngẩng đầu lên nguyền rủa, còn con cháu mấy người lại cúi đầu
tủi nhục. Tôi chắc mấy người sẽ được lịch sử ghi tên vào hạng thứ hai
này.
Nếu mấy người không cầm súng xông pha lửa đạn để chiến đấu, nếu không
làm được một việc gì hữu ích cho hậu phương thì mấy người đừng làm gì
hại dân bán nước.
Một hành động ngu xuẩn, phản bội Tổ Quốc, Chiến Sĩ và Nhân Dân, dù có
gạt được ai 5, 3 tháng, 5, 3 năm, rồi cũng sẽ bị lịch sử lôi ra chứng
minh và cũng sẽ bị trừng trị nghiêm khắc.
Alexander Solzhenitsyn- Phản chiến hay phản bội
Tuy nhiên, lầm lẫn tàn ác nhất xảy ra do không hiểu cuộc chiến tranh
Việt Nam. Nhiều người thực lòng chỉ muốn tất cả các cuộc chiến tranh
chấm dứt càng sớm càng tốt; những người khác tin rằng nên có chỗ cho
quốc gia, hay cộng sản, quyền tự quyết ở Việt Nam, hay ở Cambodia, như
ngày hôm nay chúng ta thấy rất rõ ràng. Nhưng những thành viên của phong
trào phản chiến Mỹ rốt cuộc liên can đến việc phản bội những nước Viễn
Đông này, đến cuộc diệt chủng và đến đau khổ bị áp đặt hôm nay lên 30
triệu người ở đấy. Những người theo chủ nghĩa hòa bình xác tín này có
nghe bao tiếng rên từ nơi đấy vọng đến? Hôm nay họ có hiểu trách nhiệm
của họ? Hay họ chẳng muốn nghe?
Tàu đổ bộ của Mỹ và Philippines trong cuộc tập chung Balikatan ngày 21/4/2015.REUTERS/Erik De Castro
Hoa Kỳ đã yêu cầu Philippines cho Mỹ quyền sử dụng các căn cứ quân sự
tại tám địa điểm để có thể tiếp nhận binh lính, phi cơ và chiến hạm Mỹ.
Đây sẽ là các đơn vị được huy động trong khuôn khổ chiến lược tăng cường
sức mạnh quân sự của Mỹ tại Đông Nam Á, vào lúc Trung Quốc mở rộng sự
hiện diện quân sự của họ tại Biển Đông.
Theo hãng tin Anh Reuters, lãnh đạo quân đội Philippines, tướng Gregorio
Catapang đã tiết lộ vào tối hôm qua, 24/04/2015, trên một đài truyền
hình địa phương rằng Mỹ đã xác định được ít nhất là tám địa điểm ở
Philippines có thể được dùng làm nơi đồn trú cho các lực lượng quân đội,
máy bay và tàu chiến sẽ thay phiên nhau ghé Philippines để tham gia của
cuộc tập trận hay các công tác huấn luyện.
Danh sách các căn cứ đã được hai nước đúc kết vào tháng 10 năm ngoái,
bao gồm 4 căn cứ trên đảo chính Luzon, nơi thường xuyên được hai nước
chọn để tổ chức tập trận, và hai căn cứ khác trên đảo Cebu ở miền
Trung. Điểm đáng chú ý là có hai căn cứ trên đảo Palawan ở miền Tây
Philippines, nằm gần quần đảo Trường Sa đang tranh chấp tại Biển Đông.
Thông tin về việc tám địa điểm tại Philippines sẽ tiếp nhận lực lượng Mỹ
được đưa ra trong bối cảnh tân Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter,
trong một bài phát biểu tại Arizona gần đây, đã phác họa giai đoạn tiếp
theo của chiến lược xoay trục qua châu Á của Washington : Đó là triển
khai các khu trục hạm, các loại oanh tạc cơ và chiến đấu cơ hiện đại
nhất của Mỹ tới khu vực, trong đó có vùng Biển Đông.
Theo các nhà phân tích, chiến lược xoay trục qua Châu Á của Mỹ đã được
cụ thể hóa một cách rõ ràng bằng quyết định cho Thủy quân lục chiến Mỹ
thay phiên nhau đồn trú tại Darwin, thành phố Úc gần Đông Nam Á nhất.
Tuy nhiên, trước mắt Manila chưa bật đèn xanh cho việc mở cửa các căn cứ
có liên quan cho lực lượng Mỹ. Lý do, như Tướng Catapang giải thích, đó
là vì cần phải đợi cho đến cuối năm nay, sau khi Tòa án Tối cao
Philippines phán quyết về tính hợp hiến của thỏa thuận quân sự mang tên
Hiệp định Hợp tác Quốc phòng Nâng cao, ký kết năm ngoái 2014 giữa Manila
và Washington.
Các thông tin về việc Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự tại vùng Đông
Nam Á đã được liên tiếp đưa ra trong thời gian gần đây, vào lúc Trung
Quốc ngày càng có thêm những hành động bị đánh giá là « khiêu khích » nhằm áp đặt chủ quyền của Bắc Kinh trên gần như toàn bộ Biển Đông, thúc ép các láng giềng, đặc biệt là Philiphtpines
Thủ Tướng Malaysia khẳng định ASEAN sẽ duy trì hướng tiếp cận ôn hoà để
giải quyết vấn đề Biển Đông trong khi Tổng Thư Ký ASEAN khẳng định các
dự án lấn biển xây đảo của Trung Quốc đi ngược lại một thoả thuận giữa
Trung Quốc và ASEAN.
Lãnh đạo nước chủ nhà của hội nghị thượng đỉnh ASEAN năm nay, Thủ Tướng
Malaysia Najib Razak, tuyên bố rằng các nước hội viên ASEAN sẽ duy trì
phương hướng tiếp cận ‘không đối đầu’ trong nỗ lực gấp rút hình thành
một bộ Quy tắc Ứng xử trên biển COC ở Biển Đông.
Hãng tin Bloomberg hôm nay thuật lời của Thủ Tướng Najib Razak nói
chuyện với các nhà báo tại Kuala Lumpur hôm nay, nói rằng phương hướng
tiếp cận có tính hoà dịu đó đã tỏ ra ‘rất hiệu quả’ trong việc bảo đảm
không có căng thẳng với Trung Quốc.
Tin Bloomberg nói ông Razak đưa ra bình luận vừa kể trong cương vị là
Chủ tịch luân phiên của ASEAN, mặc dù Tổng Thống Philippines cùng lúc
nói với các nhà lãnh đạo ASEAN rằng các hoạt động cải tạo đất xây đảo
quy mô lớn của Trung Quốc đặt ra một mối nguy cho tình hình an ninh và
sự ổn định của khu vực, đồng thời cản trở quyền tự do thương mại của các
tàu bè quốc tế sử dụng thuỷ lộ này.
Ông Najib nói: “Chúng tôi sẽ tiếp tục mời gọi sự tham gia của Trung Quốc
theo đường lối có tính cách xây dựng, và Trung Quốc hiểu vị thế của
chúng tôi. Chúng tôi hy vọng có thể thuyết phục Trung Quốc rằng duy trì
thái độ không đối đầu với ASEAN cũng phục vụ lợi ích của Trung Quốc, và
bất cứ cố gắng nào nhằm gây bất ổn cho khu vực này, cũng sẽ không có lợi
cho Trung Quốc.”
Ảnh
vệ tinh cho thấy Trung Quốc tiến hành các hoạt động lấp biển lấy đất
tại những đảo nhỏ mà Bắc Kinh chiếm đóng ở quần đảo Trường Sa, nơi Bắc
Kinh có tranh chấp chủ quyền với Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei
và Đài Loan.
x
Ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc tiến hành các
hoạt động lấp biển lấy đất tại những đảo nhỏ mà Bắc Kinh chiếm đóng ở
quần đảo Trường Sa, nơi Bắc Kinh có tranh chấp chủ quyền với Việt Nam,
Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan.
Về các công trình lắp đất xây đảo trong các vùng biển tranh chấp, Thủ
Tướng Malaysia nói “tinh thần thượng tôn luật pháp quốc tế phải là nền
tảng quy định mọi quy luật và hành động trong Biển Đông” , nhưng ông
Najib không nêu lên chi tiết các sự cố đã làm leo thang những căng thẳng
với Trung Quốc.
Nhưng tương phản với thái độ hoà dịu của Thủ Tướng nước chủ nhà, hôm
qua, Tổng Thư Ký ASEAN nói khối ASEAN bác bỏ việc Trung Quốc sử dụng cái
gọi là ‘đường 9 đoạn’ do họ vẽ ra để tuyên bố chủ quyền các vùng biển
đang trong vòng tranh chấp ở Biển Đông, giữa lúc Trung Quốc đẩy mạnh
công tác cải tạo đất xây đảo trong các vùng biển này.
Tờ Wall St. Journal trích lời ông Lê Lương Minh, phát biểu trong một
cuộc phỏng vấn, nói rằng các nước ASEAN 'không thể chấp nhận cái đường 9
đoạn bởi vì nó không phù hợp với luật quốc tế'.
Tổng Thư Ký ASEAN nói rằng đường 9 đoạn do Trung Quốc vẽ ra trên các bản
đồ của nước này, và những công trình xây đảo của Trung Quốc đi ngược
lại một thoả thuận đã đạt được cách đây 13 năm giữa Trung Quốc với
ASEAN.
Ông Minh nói ASEAN sẽ đẩy nhanh các cuộc đàm phán để thiết lập một bộ
Quy tắc Ứng xử trên biển về cách giải quyết các tuyên bố chủ quyền chồng
chéo nhau ở Biển Đông.
Hôm Chủ nhật, Philippines cũng lên tiếng kêu gọi các nước hội viên ASEAN
khác hãy có những bước tức thời để ngăn chận các hoạt động cải tạo đất
của Trung Quốc ở Biển Đông. Ông cảnh báo rằng không làm điều đó thì
Trung Quốc sẽ chiếm quyền kiểm soát toàn thể khu vực trên thực tế.
Ngoại Trưởng Philippines Albert del Rosario nói với các vị tương nhiệm
trong khối ASEAN rằng khu vực ASEAN phải 'đứng lên thách thức Trung Quốc
về các hành vi cải tạo đất của nước này'. Ông del Rosario nói việc
Trung Quốc xây các đảo nhân tạo đặt ra những mối đe doạ có thực, và
‘không thể bị làm ngơ vì rõ ràng các động thái đó là nhằm củng cố quyền
kiểm soát trên thực tế của Trung Quốc trên khu vực này.
Hãng tin Reuters sáng hôm nay nói rằng nước chủ nhà Malaysia sẽ nhượng
bộ trước áp lực của các nước láng giềng, và sẽ đề cập tới vấn đề lấn đất
xây đảo trong Biển Đông, nói rằng hành động đó có thể phương hại tới
hoà bình, an ninh và tình hình ổn định trong khu vực, trong dự thảo
Tuyên bố chung sẽ được công bố sau hội nghị hôm nay.
Hôm 17/3, Phó Đô Đốc Robert Thomas chỉ huy Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ
nói rằng các nước Á Châu nên thành lập một lực lượng hỗn hợp để tuần tra
Biển Đông.
Cuộc tranh chấp Biển Đông hồi gần đây đã trở thành một điểm nóng trên
thế giới, làm dấy lên quan ngại giữa lúc 10 nước ASEAN đang tìm cách
thành lập một Cộng đồng kinh tế ASEAN trước cuối năm nay.
Thủ Tướng nước chủ nhà Hội nghị ASEAN nói khối này phải xử lý các tuyên
bố chủ quyền chồng chéo trong Biển Đông mà không làm leo thang căng
thảng. Ông nói 'một khối ASEAN bị xâu xé vì những tranh chấp nội bộ
không thể nào trở thành một cộng đồng thực thụ'.
Ông Najib nói dự kiến tổng GDP của toàn khối ASEAN sẽ tăng lên tới 4
nghìn tỉ đôla trong 5 năm, so với 2,5 nghìn tỉ hiện nay. Các giới chức
ASEAN đang làm việc để tạo điều kiện cho sự luân lưu tự do của hàng hoá,
dịch vụ, đầu tư, vốn tư bản và lao động, trong khuôn khổ một kế hoạch
hình thành một khối tương tự như Liên Hiệp Âu Châu, nhưng không sử dụng
một đơn vị tiền tệ chung.
Trung Quốc lên tiếng phản đối Việt Nam và Philippines “tiến hành hoạt động xây dựng trái phép các đảo” ở Biển Đông.
Sau nhiều tuần bị phê phán vì việc tôn tạo, bồi đắp đang diễn ra ở Biển Đông, Trung Quốc hôm thứ Tư có tuyên bố phản bác.
Người phát ngôn Hồng Lỗi nói Trung Quốc “bày tỏ quan ngại sâu sắc và
kiên quyết phản đối cá biệt nước ASEAN như Philippines, Việt Nam… tiến
hành hoạt động xây dựng trái phép các đảo ở Nam Sa của Trung Quốc”.
“Yêu cầu nước hữu quan lập tức chấm dứt mọi lời nói và hành động xâm
phạm chủ quyền và quyền lợi của Trung Quốc,” ông Hồng tuyên bố.
Phản ứng của Trung Quốc diễn ra sau khi ngày 28/4, Hội nghị Cấp cao
ASEAN ra Tuyên bố Chủ tịch, bày tỏ quan ngại về hoạt động xây dựng các
đảo của Trung Quốc.
Cũng hôm 28/4, khi gặp Thủ tướng Nhật Shinzo Abe, Tổng thống Mỹ Barack
Obama cũng nói ông lo ngại ngại về việc Trung Quốc xây dựng đảo ở Biển
Đông.
Ông Hồng Lỗi nói việc Trung Quốc xây dựng đảo là “hoàn toàn hợp pháp chính đáng”.
Mỹ và Nhật “không phải nước đương sự vấn đề Nam Hải”, ông Hồng nói.
Ông Hồng tố cáo Việt Nam đang xây bến tàu, đường băng cho sân bay, vị
trí cho tên lửa, khách sạn…trên 20 đảo và bãi cạn như bãi cạn Phúc
Nguyên và bãi Đất. http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2015/04/150429_china_vietnam_xay_dung_bien_dong
GS Tương Lai : Xúc tiến TPP, thay vì rơi vào bẫy hội nghị Thành Đô thứ hai
Tổng
bí thư Việt Nam Nguyễn Phú Trọng (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận
Bình tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh, 07/04/2015.REUTERS/China Daily
Vừa qua, trên 40 trí thức, nhà hoạt động tên tuổi và văn nghệ sĩ đã gởi
thư lên Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam,
bày tỏ sự bức xúc trước diễn biến thời cuộc hiện nay.
Nhắc lại quá khứ và mưu đồ bành trướng của Trung Quốc, liên hệ với
chuyến đi Bắc Kinh vừa rồi của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, các nhân sĩ
cho rằng cần kiên quyết không để xảy ra một sự kiện « Thành Đô » thứ
hai. Theo lá thư, vào thời điểm quyết định này, Việt Nam đang đứng trước
một vận hội mới, trong đó hành động thiết thực là việc gia nhập TPP.
Nhân danh những người đang ưu tư vì vận nước, các nhân sĩ đòi hỏi được
hồi âm và đối thoại.
RFI Việt ngữ đã phỏng vấn giáo sư Tương Lai ở Saigon, một trong những người ký tên trong lá thư trên. RFI : Kính chào giáo sư Tương Lai. Thưa giáo sư,
mới đây các nhân sĩ trí thức lại gởi thư lên Bộ Chính trị và Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo như lá thư, đó là do những
bức xúc về vận nước, mà trước mắt là chuyến đi Trung Quốc của Tổng bí
thư Nguyễn Phú Trọng, trong tình hình Biển Đông đang hết sức sôi động vì
tham vọng của Bắc Kinh ? Giáo sư Tương Lai : Đúng là ông Nguyễn Phú Trọng đã
vội vã lên đường theo lời mời của Tập Cận Bình. Chuyến đi vội vã đó có
phải là vì Việt Nam đang đứng trước triển vọng gia nhập vào TPP, và ông
Trọng cũng đang chuẩn bị đi Mỹ ? Có phải nhằm ý đồ ngăn chặn Việt Nam
vào TPP mà có lời mời đó hay không ?
Vì thực ra Trung Quốc chưa hề có một cái gì thay đổi trong âm mưu của
họ. Ngày mùng 8 thì ra thông cáo Việt-Trung nói lên tất cả những điều
tốt đẹp, thì ngày mùng 9 Hoa Xuân Oánh - người phát ngôn Bộ Ngoại giao -
đã nói rõ là việc họ xây những đảo nhân tạo trên biển là xây trên sân
nhà họ, ở ngoài không được tham gia vào.
Đây không phải là lần đầu tiên, mà là sự lặp lại luận điệu của Vương
Nghị. Chưa bao giờ cái bộ mặt ăn cướp lại được bộc lộ một cách trắng
trợn như thế ! Vậy mà những lời hứa hẹn viển vông về cùng chung ý thức
hệ xã hội chủ nghĩa này nọ, lại được lặp lại trong chuyến đi ấy.
Thì chúng tôi nghĩ, đã đến lúc chúng tôi phải vạch trần cái bộ mặt thật
của Trung Quốc, đồng thời nói rõ : Đừng bị mắc mưu Trung Quốc để đánh
mất cơ hội một lần nữa trong việc gia nhập TPP. Vì với việc tham gia
TPP, Việt Nam có cơ sở mới, một nền tảng mới để thoát cái vòng kiềm tỏa
của Trung Quốc.
Mà TPP chính là một đòi hỏi của cả Mỹ khi xoay trục sang châu Á. TPP là
lời cam kết chiến lược của Mỹ về sự hiện diện ở khu vực châu Á-Thái Bình
Dương lâu dài, vì lợi ích của cả nước Mỹ. Cho nên trong phát biểu
thường niên của Tổng thống Barack Obama trước Quốc hội Hoa Kỳ vào tháng
Giêng năm 2014, ông nói rằng TPP là một cách để bảo đảm là Hoa Kỳ không
đơn giản nhường lại quyền đặt ra quy tắc cho Trung Quốc.
Đây chính là lý do mà Tập Cận Bình vội vã mời Nguyễn Phú Trọng sang
Trung Quốc, và bằng cái thông cáo đó, làm như mọi việc đều tốt đẹp cả.
Nhưng mà người ta thấy những điều đó trên thực tế lại đang diễn ra rất
xấu. Nên chúng tôi phải có ngay một cái thư gửi Bộ Chính trị là như thế. RFI : Tức là không để cho có cơ hội xảy ra một Hội nghị Thành Đô thứ hai ?
Vâng. Cho nên tôi có nói, lúc này đây, khi mà Trung Quốc biết rõ nếu
Việt Nam trở thành thành viên của TPP, thì sẽ có tiền đề để bước ra khỏi
cái bóng của Trung Quốc. Mà đây là việc hết sức khó khăn, bởi vì Trung
Quốc đã cài cắm người, cài cắm nhà máy, những khu đầu tư công nghiệp
trên khắp Việt Nam từ phía Bắc cho đến tận Mũi Cà Mau ở phía Nam.
Thế thì vì lợi ích của cả Hoa Kỳ và Việt Nam trong TPP – hai lợi ích đó
gắn với nhau – nên lúc này đây Việt Nam nếu không tranh thủ để gia nhập
TPP, thì một lần nữa lại rơi vào cái bẫy của Trung Quốc. Và sẽ lặp lại
nguy cơ của một « Thành Đô » thứ hai : lệ thuộc vào Trung Quốc không dứt
ra được. Thế nên trong nội dung chúng tôi nói, gia nhập TPP là một
trong những nhân tố góp vào quyết sách giữ nước và phát triển đất nước
bền vững.
Hành động một cách thiết thực nhằm thúc đẩy tiến trình gia nhập TPP
chính là đòi hỏi bức xúc của nhân dân Việt hôm nay. Đó cũng là đòi hỏi
của lịch sử. Chúng tôi kêu gọi ông Nguyễn Phú Trọng cũng như những nhà
ngoại giao đi sang Mỹ kỳ sắp tới, hãy đi vào lịch sử, như những người
thúc đẩy lịch sử. Chứ không nên là tội đồ của lịch sử, nếu lại để vuột
mất cơ hội một lần nữa. RFI : Dạ thưa giáo sư, có lẽ những người cầm
quyền ở Việt Nam cũng rất muốn gia nhập TPP, nhưng cũng lo sợ người láng
giềng phương Bắc lại ở sát bên. Nếu tỏ thái độ thân phương Tây quá, cụ
thể là thân Mỹ, thì sẽ bất lợi ?
Đúng, tôi nghĩ có chuyện đó. Bất cứ một chính khách nào, bất cứ nhà cầm
quyền nào cũng đều phải có sự khôn ngoan để nhìn nhận ra vị thế địa
chính trị của Việt Nam, nằm sát với một nước láng giềng khổng lồ.
Nhưng tôi xin nhắc lại, không phải chỉ thế kỷ 21 này, nhiệm kỳ của ông
Nguyễn Phú Trọng, của Nông Đức Mạnh, những người lệ thuộc vào Trung Quốc
một cách quá hèn nhát, thì Việt Nam mới ở cạnh Trung Quốc. Mà người
Việt Nam, đất nước Việt Nam là láng giềng của Trung Quốc hàng nghìn năm
nay rồi.
Cái mộng xâm chiếm của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán qua các triều đại
Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh cho đến Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu
Bình rồi đến Tập Cận Bình đều cùng một giuộc như nhau cả. Vậy mà Việt
Nam vẫn tồn tại. Việt Nam tồn tại vì có đủ bản lĩnh chống trả lại âm mưu
bành trướng của Trung Quốc.
Thế kỷ thứ 13 Trần Hưng Đạo và nhà Trần ba lần đánh tan đạo quân Nguyên.
Thế kỷ thứ 15 đánh bại quân Minh của Minh Thành Tổ. Thế kỷ 18 đánh tan
hơn mười vạn quân của Tôn Sĩ Nghị - quân Thanh, trong vòng mười ngày. Và
lần nào cũng vậy, sau khi đánh tan giặc rồi thì lập tức lại có chính
sách để hòa hợp, tạo nên những mối quan hệ.
Như Nguyễn Huệ trước khi ra Bắc mở trận phản công mười ngày đó, đã nói
với Ngô Thời Nhiệm : Đánh như thế nào ta đã có, nhưng dù đánh tan giặc,
đó vẫn là một nước lớn. Phải chuẩn bị làm sao để có tư lệnh, để dẹp bỏ
can qua, không tiếp tục chiến tranh nữa. Vì thế sau khi đánh thắng quân
Thanh, cho chôn xác giặc trên gò Đống Đa, Quang Trung lập tức xây dựng
ngay mối hòa hiếu với nhà Thanh. Lịch sử ghi nhận rất rõ ràng như vậy.
Bây giờ đây, Việt Nam không phải ở vào thế cô lập như thời kỳ thế kỷ 13
của nhà Trần ; thế kỷ 15 của Nguyễn Trãi, Lê Lợi ; thế kỷ 18 của Quang
Trung Nguyễn Huệ. Việt Nam bây giờ có cả một tư thế trong khối ASEAN,
trong những mối quan hệ với nhiều nước lớn, và đặc biệt hiện nay chuẩn
bị gia nhập TPP, trong bối cảnh Mỹ đang xoay trục sang châu Á.
Việt Nam đã từng bị những nước lớn biến mình thành con tốt đen, vì lợi
ích của họ. Cho nên như trong thư chúng tôi đã nói, hiệp định Genève
1954 chính là chơi trên đầu chúng tôi giữa các nước lớn Mỹ, Pháp, Liên
Xô, Anh, ép Việt Nam phải chia đôi đất nước ở vĩ tuyến 17. Thông cáo
Thượng Hải của Nixon và Chu Ân Lai năm 1972 chính là viết bằng máu của
người Việt Nam đấy, vì sau đó Mỹ tiến hành một cuộc chiến tranh ném bom ồ
ạt…
Cho nên lúc này đây Việt Nam cần có bản lĩnh. Phải có những nước cờ cao
để khi TPP mở ra một chương mới hợp tác liên minh với phương Tây, đồng
thời phải có một chính sách hòa hiếu với nước láng giềng. Điều đó ông
cha ta có đầy đủ bài học để làm. Nhưng muốn vậy phải biết đặt lợi ích
của Tổ quốc lên trên hết, và phải dám kiên cường chứ không nhu nhược. RFI : Có những ý kiến cho là những lời đó dù tâm
huyết, trước đây đã có nhiều kiến nghị rồi. Bây giờ thay vì một lá thư
gởi cho Bộ Chính trị và Trung ương Đảng, có thể là một tuyên bố để hiệu
triệu được người dân, gây sức ép lên những người lãnh đạo Việt Nam. Giáo
sư nghĩ thế nào về ý kiến này ?
Ý kiến đó cũng tốt thôi – trăm hoa đua nở, mỗi người có một cách làm,
cách thể hiện. Làm cách nào để có lợi cho nước cho dân thì làm. Trước
mắt, một nhóm chúng tôi - những người khởi xướng ra bức thư này, như đã
ký tên ở dưới - thì chúng tôi nhận thức rằng lúc này đây đang trình bày
tâm huyết của mình, với những người đang gánh chịu trách nhiệm của lịch
sử đối với dân tộc.
Hiện nay chưa có một thế lực chính trị nào có thể thay thế Đảng Cộng sản
Việt Nam được đâu. Và lúc này đây, khả năng tốt nhất chính là những
người cộng sản Việt Nam hiểu rõ sứ mệnh của họ vào lúc này. Để lấy lại
niềm tin của dân, mà bộ phận lãnh đạo, do sự hư hỏng của họ, đã làm cho
cái đảng của Hồ Chí Minh bị mất hết lòng tin trong dân rồi.
Thế thì bây giờ những người lãnh đạo hãy trở lại với bản lĩnh mà đảng
Cộng sản đã có, trong quá trình lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành công,
kháng chiến chống thực dân Pháp, chống Mỹ thành công. Đánh tan đạo quân
Pôn Pốt - thực chất là bàn tay của Trung Quốc không muốn cho Việt Nam
có một phút yên lành, mà muốn đánh Việt Nam gục ngay sau khi chiến tranh
mới kết thúc. Và bằng cuộc chiến đấu đánh tan Pôn Pốt để cứu Campuchia
ra khỏi họa diệt chủng, bị thua cái trận nặng nề đó thì Đặng Tiểu Bình
phát động cuộc chiến tranh biên giới và bị Việt Nam đẩy lùi.
Chúng tôi khẳng định rằng khả năng tốt nhất, có ý nghĩa lớn nhất là tự
những người lãnh đạo trong giới cầm quyền hiện nay tự chuyển biến, để họ
biết đặt lợi ích của Tổ quốc, lợi ích của dân tộc lên trên hết. Từ sự
chuyển biến đó, dần dần từng bước thay đổi thể chế chính trị, thay đổi
cơ cấu kinh tế, thay đổi vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nếu
làm được như thế, họ sẽ lấy lại uy tín.
Và trên nền tảng mới của một luật chơi mới khi vào TPP - tức là Việt Nam
xây dựng một nền kinh tế sạch khi tái cấu trúc lại kinh tế, tái cấu
trúc về mặt chính trị - thì lúc bấy giờ mới có tiền đề để thực hiện
những đòi hỏi về thượng tôn pháp luật, về nhân quyền, dân quyền và tất
cả các mặt khác. Vì hai vấn đề này đi đôi với nhau nhưng phải trên nền
tảng của một nền kinh tế mới, tái cấu trúc mới về các mặt, thì những đòi
hỏi khác mới có cơ sở để thực hiện.
Chính trên ý nghĩa đó mà chúng tôi gửi thư này cho Bộ Chính trị và Ban
chấp hành Trung ương Đảng. Vì chúng tôi biết rằng trong những người đó
vẫn âm ỉ lòng yêu nước thiết tha. Và họ cũng âm ỉ mong muốn Việt Nam độc
lập và tự cường. Chứ Việt Nam không phải nhục nhã như cam kết Thành Đô,
để biến Việt Nam thành con tốt trong tay của Trung Quốc, Việt Nam chịu
áp lực của Trung Quốc.
Với lực lượng đã có, bằng những biểu hiện cụ thể, chúng tôi tin rằng
hẵng làm điều này. Tức là trình bày bằng một cách rất chân tình, mạnh mẽ
với những người lãnh đạo. Để chúng tôi góp phần vào thúc đẩy cho những
nhân tố tiến bộ, tích cực, dân chủ hóa trong nội bộ cho Bộ Chính trị,
trong nội bộ Ban chấp hành Trung ương Đảng ; tạo nên một bước đột phá
mới trong những Hội nghị trung ương mới của Đảng sắp tới đây tiến tới
Đại hội 12.
Quan điểm của chúng tôi công bố một cách rành rọt, rõ ràng như thế.
Đương nhiên sẽ gặp những ý này ý kia phản đối - thì đã gọi là đa nguyên
về tư tưởng thì phải chấp nhận những sự khác biệt. Vậy thì những ai muốn
làm cái gì tốt hơn hãy làm đi. Còn chúng tôi thì làm như vậy đấy. RFI : Thưa giáo sư, hy vọng các nhà lãnh đạo
Việt Nam có thể tự chuyển biến liệu có là ảo tưởng không, khi mà những
kiến nghị trước đây đều không được hồi âm ?
Đó là một câu hỏi đặt ra. Nhưng lịch sử không đứng yên, sự vật không
đứng yên. Và không có nhà cầm quyền nào lại tự mình rời bỏ chiếc ghế
quyền lực đâu, nhưng rồi cuối cùng họ vẫn phải tạo ra những điều để
không bị áp lực càng ngày càng mạnh mẽ, biến họ trở thành tội đồ của
lịch sử.
Chúng tôi vẫn tin rằng, trong những người cầm quyền hiện nay có rất
nhiều những người yêu nước. Rất nhiều những người muốn thay đổi, và có
thời cơ là sẽ thay đổi. Những diễn biến vừa qua cho thấy rằng từng bước
từng bước một, chủ trương của lực lượng bảo thủ muốn kiên định đường
lối, vì vậy mà muốn gắn chặt với Trung Quốc - gọi là nước cùng chung ý
thức hệ - đã càng ngày càng tự thấy rằng mình mất uy tín quá nhiều rồi.
Bây giờ đây trước tình hình mới, chuyển biến mới mà TPP là một ví dụ,
người ta thấy những nhân tố mới này đang có những chuyển biến. Chính vì
thế mà có những người nói với chúng tôi rằng khoan ra bức thư này, đợi
sau khi ông Nguyễn Phú Trọng đi về đã rồi hẵng ra. Đó cũng là một ý hay
bởi vì các ông, các anh, các chị đó thấy có những nhân tố mới chưa rõ,
nên muốn từ từ đợi cho rõ ra đã rồi mới làm.
Nhưng đối với chúng tôi, thì chúng tôi cho rằng các anh nghĩ như vậy,
các anh đợi lúc bấy giờ mới làm, rất tốt, lúc ấy chúng tôi cũng sẽ tham
gia. Nhưng bây giờ đây khi ông Nguyễn Phú Trọng chuẩn bị đi Mỹ, và đang
có những nhân tố mới, đang có những chuyển biến mới, bàn bạc mới, thì
chúng tôi tỏ rõ thêm thái độ cho rành rọt ra nữa.
Đây cũng là cách để tác động, giúp cho những người lãnh đạo biểt rằng họ
cần hành động vì dân. Đặt lợi ích của dân tộc của Tổ quốc lên trên cái
gọi là ý thức hệ, bởi vì không làm gì có mục tiêu đấu tranh cho một chủ
nghĩa xã hội thắng lợi. Không đấu tranh cho chủ nghĩa A, chủ nghĩa B
thắng lợi ; mà trước hết là đấu tranh cho một nước độc lập, cho một đời
sống tự do và hạnh phúc của dân.
Như vậy mục tiêu của những người cộng sản, nói đúng ra không phải đấu
tranh cho chủ nghĩa của họ, cho lý tưởng của họ. Vì trên thực tế cái học
thuyết Mác nó đã tự phơi bày ra quá nhiều những sai lầm rồi. Người ta
đã từ bỏ dần dần những sai lầm đó, và từ lâu hàng chục nước, hơn năm
chục đảng Cộng sản đã vứt bỏ cái gọi là chủ nghĩa Mác-Lênin đi rồi.
Vậy thì đến bây giờ đây phải làm thế nào ? Đảng Cộng sản muốn giữ được
vai trò họ đã từng có, thì một lần nữa hãy thể hiện mình. Đi với dân,
trở về lại với dân, có như vậy họ sẽ giành được thắng lợi. RFI : RFI Việt ngữ xin chân thành cảm ơn giáo sư
Tương Lai ở Saigon, đã vui lòng dành thì giờ trả lời cuộc phỏng vấn hôm
nay của chúng tôi.
Giáo sư Tương Lai - Saigon 29/04/2015 - Thụy My nghe
Người Việt Nam năm ngoái nhiều lần xuống
đường biểu tình phản đối việc Trung Quốc đưa giàn khoan dầu gây tranh
cãi vào khu vực mà Hà Nội tuyên bố là thềm lục địa của mình.
Một nhóm nhạc rock gồm 4 thành viên của Canada mới đây đã phải lý giải
rằng việc đặt tên ban nhạc là ‘Viet Cong’ không có ý định “kích động”
hay “làm tổn thương” bất kỳ ai.
Sau khi phải hủy bỏ kế hoạch kỷ niệm ngày 30/4 tại một căn cứ thuỷ quân
lục chiến ở Nam California, người Mỹ gốc Việt ở bang California đã tìm
được một địa điểm mới
Thưa quý vị, bốn thập kỷ sau cuộc chiến đẫm máu, gây ra cảnh hoang tàn
và làm hàng triệu người thiệt mạng, Việt Nam đã đạt được những thành quả
nào, và đất nước sẽ đi về đâu trong 10 hay 20 năm nữa? VOA Việt Ngữ đã
đi tìm câu trả lời trong cuộc phỏng vấn giáo sư Tương Lai, người có thời
kỳ làm cố vấn cho thủ tướng. Trước hết, nhà nghiên cứu từng có nhiều
bài bình luận đăng trên tờ The New York Times của Mỹ đánh giá Việt Nam
trong khoảng thời gian 40 năm qua.
Giáo sư Tương Lai: Sau 30/4/1975, Việt Nam chấm dứt chiến tranh,
đi vào hòa bình xây dựng, nhưng nào có hòa bình xây dựng được đâu. Có
một nước ở sát cạnh Việt Nam, không muốn Việt Nam trở thành một nước
mạnh, sau khi đã đánh tan những đạo quân chưa hề thua như của Pháp và
Mỹ.
Cho nên, 30/4 xong một cái, thì nó đã giục bọn Pol Pot đánh vào phía tây
nam, kéo một cuộc chiến tranh biên giới tây nam từ 76 tới 78. Trung
Quốc trang bị tận răng cho Pol Pot. Sau khi quân Pol Pot bị Việt Nam
giáng cho một đòn chí mạng, giải phóng đất nước Campuchia, thoát khỏi
diệt chủng thì Đặng Tiểu Bình mượn cớ ấy để rồi phát động chiến tranh
biên giới năm 1979. Như vậy là nó muốn cho Việt Nam đang còn mình đầy
thương tích từ chiến tranh thì nó giáng cho một đòn nữa để củng cố quyền
lực của Trung Quốc, để Việt Nam không thể ngoi dậy, tiếp tục lớn mạnh
bên cạnh một nước láng giềng khổng lồ, luôn luôn đối chọi mà muốn nuốt
chửng Việt Nam.
Vậy thì 40 năm qua, khi người ta nói đến xây dựng, thì trước hết phải
nói đến xây dựng trong một âm mưu hết sức thâm độc của chủ nghĩa bành
trướng đại Hán, mà nó lại nhân danh cùng chung ý thức hệ xã hội chủ
nghĩa. Chính vì vậy mà việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ấy nó gặp trở ngại
hết sức lớn.
40 năm qua, khi người ta nói đến xây dựng, thì trước hết phải nói đến
xây dựng trong một âm mưu hết sức thâm độc của chủ nghĩa bành trướng đại
hán, mà nó lại nhân danh cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Chính
vì vậy mà việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ấy nó gặp trở ngại hết sức lớn.
Và trên thực tế, 40 năm vừa qua, nếu Việt Nam so sánh với Việt Nam thôi
thì chuyện so sánh không giải quyết được. Nhưng so sánh Việt Nam với các
nước láng giềng, ví dụ như Singapore hay với một quốc gia châu Á khác
mà xuất phát điểm năm 1975 cũng không khác gì Việt Nam là Hàn Quốc thì
Việt Nam tuột hậu quá xa vì Việt Nam duy trì một mô hình kinh tế quá lạc
hậu, mặc dù có cái tên rất kêu là xã hội chủ nghĩa. Nhưng mà cũng trong
40 năm ấy, hệ thống xã hội đã sụp đổ. Để cứu vãn, hy vọng chủ nghĩa xã
hội không sụp đổ thì Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã làm một việc dại dột
là sang Thành Đô để cầu cứu, muốn Trung Quốc làm điểm tựa bảo vệ thành
quả xã hội chủ nghĩa. Bắt đầu từ đấy, Việt Nam chui vào thời kỳ bắc
thuộc lần thứ hai, như cảnh báo của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, người
mà Trung Quốc rất căm thù.
Khi nhìn lại 40 năm, phải thấy rằng đấy là 40 năm trong những cố gắng
tối đa của người nông dân trên đồng ruộng, công nhân trên nhà máy, của
người trí thức trong các giảng đường đại học hay trong các phòng thí
nghiệm và của các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước có những
nỗ lực hết sức lớn, và đưa tới những thay đổi khá cơ bản. Phải nói
những công trình xây dựng của Việt Nam trong 40 năm qua là đáng kể,
nhưng những sự đáng kể ấy, sức lực của người lao động vắt kiệt ra để làm
điều ấy, trong lúc mức sống chưa được cải thiện đáng kể là bao nhiêu vì
mô hình chọn sai lầm, và mô hình chọn ấy nó lại chui vào cái thòng lọng
của Trung Quốc. Trung Quốc trong 40 năm ấy, đặc biệt là từ năm 90 sau
hội nghị Thành Đô, thì bàn tay bẩn thỉu của Trung Quốc thò vào kinh tế
Việt Nam, chính trị Việt Nam, xã hội Việt Nam, văn hóa Việt Nam, gây nên
một tác động rất xấu.
Việt Nam phải đau đớn mà nói rằng 40 năm qua, thời gian dài, hy sinh
lớn, vất vả, gian khổ, thành tựu có nhưng mà quá hạn hẹp, so với khả
năng mà đất nước có thể vươn lên.
VOA:Theo ông, người dân Việt Nam hiện nay kỳ vọng gì vào đảng Cộng sản?
Giáo sư Tương Lai: Trên thực tế, uy tín của Đảng Cộng sản đã
xuống rất thấp. Đó là một thực tế. Bây giờ, khi nói đến những người cầm
quyền hiện nay, người ta nói tới với một giọng khinh miệt, do những
thành tích mà họ đã tạo ra.
Trên thực tế phải nói rằng hiện nay chưa có một lực lượng chính trị nào
có thể thay thế, lực lượng đang cầm quyền hiện nay. Có nghĩa là chưa có
một đảng chính trị nào, chưa có một tổ chức chính trị nào có thể thay
thế đảng cộng sản Việt Nam, mặc dù đảng này đã mất uy tín trong dân.
Trên thực tế phải nói rằng hiện nay chưa có một lực lượng chính trị nào
có thể thay thế lực lượng đang cầm quyền hiện nay. Có nghĩa là chưa có
một đảng chính trị nào, chưa có một tổ chức chính trị nào có thể thay
thế đảng cộng sản Việt Nam, mặc dù đảng này đã mất uy tín trong dân. Uy
tín đó, không phải dân người ta đổ đồng làm một đâu. Người ta biết rõ
trong những người lãnh đạo hiện nay có những kẻ nào ngu Trung, kiên định
con đường Mác – Lênin, nghĩa là kiên định cùng chung ý thức hệ với
những bọn như Tập Cận Bình, Đặng Tiểu Bình, những kẻ vào xâm lược Việt
Nam.
Và nếu kỳ này, ông Nguyễn Phú Trọng đi Mỹ mà thực hiện được ý chí, và
nguyện vọng của nhân dân, gia nhập TPP, càng sớm càng tốt để chống lại
áp lực của Trung Quốc. Nếu mà làm được như vậy, uy tín sẽ được lấy lại
và dần dần người ta sẽ biết người ta ủng hộ ai đem lại lợi ích cho dân
tộc, đặt lợi ích dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết,
chứ không phải đặt ý thức hệ giáo điều và những lời hứa hẹn viển vông.
Những người làm như thế là những người sẽ được dân ủng hộ.
VOA:Đối mặt với những thách thức từ Trung Quốc trên biển Đông, liệu Việt Nam có nên nghiêng hẳn về quốc gia cựu thù Hoa Kỳ?
Giáo sư Tương Lai: Không có kẻ thù vĩnh viễn cũng chẳng có bạn
vĩnh viễn mà chỉ có lợi ích của dân tộc là vĩnh viễn mà thôi. Việt Nam
biết quá rõ vì Việt Nam từng là con tốt trên bàn cờ của các nước lớn.
Việt Nam không liên minh với một nước để chống lại một nước thứ ba nhưng
Việt Nam không nên từ bỏ quyền liên minh với ai mà giúp Việt Nam giữ
vững chủ quyền lãnh thổ trên biển, và trên đất liền của Việt Nam.
Việt Nam không liên minh với một nước để chống lại một nước thứ ba nhưng
Việt Nam không nên từ bỏ quyền liên minh với ai mà giúp Việt Nam giữ
vững chủ quyền lãnh thổ trên biển, và trên đất liền của Việt Nam.
Lúc này đây, theo tôi, cần phải dẹp bỏ những việc khác đi để bỏ bớt
những chuyện bên thắng cuộc, ai thắng, ai thua đi mà hãy nhìn vào kẻ thù
trước mắt là Trung Quốc xâm lược, là ngăn cản không để Việt Nam thoát
ra khỏi cái bóng của Trung Quốc, là những âm mưu thủ đoạn gây áp lực,
chia rẽ nội bộ bằng nhiều thủ đoạn, thì phải làm sao vạch ra được những
cái đó.
VOA:Theo ông, 10 năm hay 20 năm nữa, khi đánh dấu 50 hay 60 năm ngày kết thúc cuộc chiến thảm khốc, Việt Nam sẽ về đâu?
Giáo sư Tương Lai: Tôi không phải là thầy bói, nên tôi không bói
trước vận mệnh của dân tộc. Nhưng mà tôi khẳng định điều này, chúng ta
đang sống trong thời đại mà kiểu tư duy tuyến tính lạc hậu mất rồi, vì
đây là thời đại của phi tuyến tính. Trong những bước phát triển thì luôn
luôn ấp ủ những bước đột phá và những bước đột phá ấy nó sẽ mở ra những
cục diện mới, và không ai tiên lượng được hết. Không thể vạch ra kế
hoạch 10 – 20 năm một cách chi li đâu, chỉ hướng đi thôi, vì thành tự
như vũ bão của khoa học, công nghệ và diễn biến quá phức tạp của tình
hình thế giới.
Phóng viên người Mỹ nhớ lại những giây phút cuối của Sài Gòn
Phóng viên Arnold Issacs di tản ngày 29/4/1975
Hình do Arnold Issacs gửi RFA
Cựu phóng viên Arnold Issacs của tờ Baltimore Sun, Hoa Kỳ nằm trong số
làn sóng những phóng viên Mỹ cuối cùng đến Việt Nam để đưa tin về cuộc
chiến trong giai đoạn từ 1972 đến 1975. Ông là người đã rời Sài gòn vào
ngày 29 tháng 4 cùng với nhiều phóng viên nước ngoài khác. Nhân kỷ niệm 40 năm kết thúc cuộc chiến Việt Nam, phóng viên Arnold
Issacs đã dành cho Việt Hà một cuộc phỏng vấn nhớ lại những năm tháng
cuối của Việt Nam cộng hòa và những giây phút cuối của Sài gòn. Trước
hết nói về bối cảnh cuộc chiến Việt Nam khi ông bắt đầu nhận nhiệm vụ
đến Việt Nam để viết về cuộc chiến, phóng viên Arnold Issacs cho biết: Vào tháng 6 năm 1972 là khi những cuộc phản công của quân đội Việt Nam
Cộng Hòa đã đang được thành hình. Tôi nhớ không nhầm là vào tháng 4 và
tháng 5, Bắc Việt đưa quân vào tấn công và chiếm lấy Quảng Trị. Họ cũng
bao vây hai thủ phủ của hai tỉnh khác nhưng vào lúc mà tôi tới thì tình
hình đã ổn định hơn và quân miền Nam đã tiến công lại. Đó là giai đoạn
của cuộc chiến mà tôi bước vào. Việt Hà:Khi ông đến Việt nam để đưa tin về cuộc chiến vào năm
1972 và sau đó là hiệp định Paris, ông có cảm giác rằng cuộc chiến sẽ
sớm chấm dứt không? Arnold Issacs: Bản thân hiệp định không thực sự giải quyết được
câu hỏi về cuộc chiến. Cho nên nó không cho cảm giác là sẽ có một sự kết
thúc. Nhưng tôi cũng không nghĩ là lệnh ngưng bắn sẽ hoàn toàn vô hiệu
lực như đã xảy ra. Cho nên trong một thời gian ngắn tôi đã nghĩ cuộc
chiến sẽ tiếp tục nhưng sẽ ở mức độ ít nghiêm trọng hơn và sẽ có quá
trình đàm phán. Tôi đã vui khi xung đột ít đi nhưng nó không kéo dài bao
lâu. Chỉ trong vòng 1 tuần sau đó, rõ ràng lệnh ngưng bắn đã không thay
đổi điều gì. Điều thực sự thay đổi chỉ là những buổi họp báo ngắn hàng
ngày. Trước đó họ thường nói là kẻ thù là bên bắt đầu những vụ gây hấn,
còn bây giờ thì họ nói kẻ thù là bên vi phạm lệnh ngưng bắn. Nói chung
là cũng giống nhau chỉ có từ ngữ là thay đổi. Việt Hà:Một số người sau này nói rằng ngay sau khi hiệp định
Paris được ký, cuộc chiến dường như đã kết thúc đối với miền Nam. Ông có
nhận xét gì về ý kiến này? Arnold Issacs: Tôi không nhìn thấy như vậy. Cuối cùng thì nhìn
nhận của những người đó là đúng nhưng nó phải mất 2 năm để cuộc chiến
kết thúc. Bối cảnh là trận chiến lớn vào năm 1972. Đó là năm của những
trận chiến khốc liệt nhất. Đó là lý do cả hai phía đều mệt mỏi. Không
bên nào giành được thắng lợi thực sự mà họ muốn. Sự bế tắc vẫn duy trì
nhưng xung đột thì ở mức cao hơn. Thương vong của quân miền Nam cao hơn
so với tất cả những năm trước đó. Nhiều đơn vị tinh nhuệ phía Nam không còn chiến đấu hiệu quả như trước
kia. Nhưng phía bên kia cũng chịu tổn thất tương tự. Đó là lý do mà
chúng ta có hiệp định. Cả hai bên đều ra những đòn mạnh nhất và đều
không thắng. Người ta có thể nói khác bây giờ nhưng đó là sự thật mà tôi
thấy. Tôi chắc chắn đã không nghĩ là cuộc chiến sẽ sớm kết thúc và tôi
có cảm giác là phía Bắc sẽ không bao giờ bỏ cuộc. Nhưng kết cục của cuộc
chiến vẫn còn xa và nhiều người không nghĩ nó sẽ có kết thúc nhanh
chóng vào lúc đó. Việt Hà:Nhưng vào giai đoạn đó, số lượng phóng viên Mỹ đến chiến trường Việt Nam cũng không nhiều như trước nữa… Arnold Issacs: Những chuyện mà người Mỹ quan tâm là cuộc chiến
của người Mỹ. Họ muốn biết điều gì đã xảy ra với những người lính của
họ. Họ không quan tâm lắm điều gì xảy ra với người Việt Nam. Họ không
quan tâm lắm đến kết cục cuối cùng. Đến lúc đó người Mỹ chỉ bực tức khó
chịu, và không tin là cuộc chiến mang lại cái gì. Cho nên mối quan tâm
của người Mỹ giảm đi rất nhiều và báo chí phản ảnh điếu đó….Tôi nghĩ là
những tin đưa về cuộc chiến trên báo chí Mỹ cũng giảm. Báo mà tôi làm
việc vốn có phóng viên chiến trường ở Việt Nam nhưng chuyện về cuộc
chiến cũng không nằm ở trang đầu mà nằm ở trang 16. Và cũng không có
nhiều thảo luận tại Washington. Cho nên không có nhiều tin để đưa. Các
tranh luận toàn quốc cũng hết. Và công chúng Mỹ dường như chấm dứt nói
chuyện về cuộc chiến ngay sau khi quân Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam
theo hiệp định. Họ không còn muốn nói về cuộc chiến nữa. Việt Hà:Đến lúc nào thì ông thực sự có suy nghĩ là kết cục đang đến gần? Arnold Issacs: Sau khi quân miền Nam đã đi đến hạn mức của mình
trong phản công sau ngưng bắn và quân miền Bắc tấn công lại, dường như
không có ai nói đến tình hình kinh tế miền Nam lúc đó, nó cũng giống như
khủng hoảng kinh tế vào năm 1930. Nó bắt đầu với vụ mùa kém vào năm
1972, giá gạo lên cao. Mỹ rút và hàng trăm ngàn người Việt Nam mất việc.
Kinh tế miền Nam Việt nam lúc đó không có nhiều hoạt động.
Phóng viên Arnold Issacs chụp với một dân làng Việt Nam tháng 11/1972
Tôi nhớ một Bộ trưởng chính quyền miền Nam có nói về chúng tôi, những
người Mỹ như là một ngành kinh doanh du lịch và đó là sự thực. Nhiều
người Việt làm cho các căn cứ quân sự của Mỹ. Những việc làm đó bị mất.
Vào năm 1973 chúng ta có cấm vận dầu mỏ đầu tiên sau cuộc chiến ở trung
đông, giá dầu tăng gấp đôi trong vòng 2 tháng. Nó khiến giá cả hàng hóa
tăng. Nhiều hàng hóa của miền Nam là nhập khẩu và bị ảnh hưởng. Cho nên
người dân miền Nam phải trải qua một sự khó khăn về kinh tế thực sự.
Lương người lính không đủ đáp ứng nhu cầu gia đình họ…. đó là khoảng năm
1973 và 1974. Lính bỏ ngũ trong quân đội miền Nam cao và trong các năm
đó thì con số bỏ ngũ lên rất cao, đến con số 200,000 người bỏ ngũ, tức
là 1/5 sức mạnh quân đội. Thật khó để miêu tả cảm giác của tôi lúc đó trước khi mà tôi biết được
điều gì sẽ xảy ra như bây giờ tôi biết…. Một mặt, vào khoảng giữa năm
1974, tôi có cảm giác cơn sóng đang đi ngược lại miền Nam nhưng tôi
không thể tưởng tượng được một hình ảnh rõ ràng là một bên thắng và bên
kia hoàn toàn sẽ không còn tồn tại. Tôi không thể tưởng tượng được điều
đó cho đến khi cuộc tổng tấn công cuối cùng bắt đầu và quân miền Nam
rút. Nó bắt đầu vào giữa tháng 3 năm 1975 và chỉ khoảng 6 đến 7 tuần sau
đó Sài gòn sụp đổ. Việt Hà:Ông rời Việt Nam vào ngày 29 tháng 4, ngay trước ngày
Sài gòn sụp đổ. Ông có bao giờ nghĩ là ông đã có thể ở lại để đưa tin
ngày cuối của cuộc chiến không? Arnold Issacs: Tôi không sợ mình sẽ ở lại. Tôi không nghĩ là mình
sẽ gặp nguy hiểm cực kỳ nếu tôi nhỡ mất chuyến di tản. Quyết định của
tôi lúc đó là tôi làm những gì an toàn hơn cả và tôi đưa ra quyết định
nhanh. Tôi không ở cùng một vị trí như những người Việt Nam lúc đó,
những người phục vụ quân đội miền Nam hay chính quyền miền Nam hay làm
việc cho Mỹ. Họ lo sợ rằng họ sẽ bị truy tố, bị mất cuộc sống, hoặc bị
giết hại. Nhưng đó không phải là tình huống của tôi. Nếu tôi vẫn ở đó
khi quân cộng sản vào, tôi không nghĩ là tôi sẽ vẫn có thể gửi tin về
cuộc chiến. Lúc đó rất khó để đến được căn cứ không quân. Tôi đã nghĩ
mình sẽ bị kẹt ở khách sạn và bị giữ ở đó cho đến khi họ tống chúng tôi
ra khỏi Việt Nam. Nhưng tôi không nghĩ là mình sẽ bị giết hay giam giữ
trong tù nhiều năm. Tôi là người Mỹ và gia đình tôi không ở đó. Tôi biết
điều đó. Việt Hà: Tin cuối cùng ông viết về cuộc chiến Việt Nam ông còn nhớ là tin gì không? Arnold Issacs: Tin cuối mà tôi nhớ là Tổng thống Thiệu từ
chức vào ngày 21 tháng 4, 9 ngày trước khi kết thúc cuộc chiến. Vài ngày
sau, ông rời nước. Ông bàn giao chính phủ cho Phó Tổng Thống. Ông Hương
giữ chức thêm một tuần, trong khi đó quân miền Bắc tiến gần hơn vào Sài
gòn. Cuối cùng vào ngày 28 ông Hương từ chức và giao quyền cho Dương
Văn Minh, người được coi là lực lượng thứ 3, không đại diện cho chính
quyền Sài Gòn hay cộng sản.
Tôi theo dõi những diễn biến đó. Tôi vào dinh và không có quân lính canh
gác. Chúng tôi chứng kiến ông Hương đọc diễn văn và từ chức và theo dõi
ông Minh đọc lời thề. Tôi viết tin và gửi tin đi. Ngay khi đó tôi nghe
thấy có tiếng nổ lớn. Quân cộng sản đã lấy được máy bay chiến đấu vào
đầu cuộc phản công, và có thể là một số phi công phía Nam đã ném bom Tân
Sơn Nhất. Đó là mở đầu của cuộc tổng tấn công cuối và Tân Sơn Nhất bị
ném bom, điều chưa từng xảy ra trước đó. Tôi không biết ngay điều gì xảy
ra vào lúc đó, nhưng sau đó bom tiếp tục ném xuống. Mặc dù căn cứ không
quân cách trung tâm thành phố 4 miles nhưng tôi nghe như rất gần. Tôi
có cảm giác được những rung chuyển do bom. Quân lính trong Sài Gòn bắt
đầu bắn súng lên trời. Chúng tôi không nhìn rõ mọi thứ vì nhiều khói.
Vào sáng sớm hôm sau, họ bắn vào sân bay. Cho nên tôi nghĩ tin cuối về
chiến tranh Việt nam mà tôi viết là tướng Minh nhậm chức.
Tôi có thể viết thêm một tin sau đó mà tôi không nhớ. Vào sáng hôm sau,
di tản bắt đầu. Cuối ngày hôm đó tôi ở trên tàu và tôi viết về cuộc di
tản. Nhưng chúng tôi không thể gửi tin đi. Không điện thoại di động hay
internet. Những phóng viên trên tàu đều giống tôi. Chúng tôi viết tin
trên tàu và giữ ở đó. Thuyền trưởng tàu hứa sẽ chuyển tin của chúng tôi
lên ban chỉ huy khi có thể và chuyển tin về Mỹ ngay lúc nào có thể được.
Cuối cùng thì tin mà tôi viết về cuộc di tản về đến Baltimore khoảng 4
hay 5 ngày sau. Cho nên câu chuyện cuối cùng mà tôi viết từ trên tàu và
không được xuất bản cho đến vài ngày sau đó.
Việt Hà:Xin cảm ơn ông đã dành cho chúng tôi buổi phỏng vấn.\
Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ tại Thanh Minh Thiền Viện Sài Gòn
AFP photo
Trong loạt bài Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ký ức 40 năm, thông tín viên Ỷ
Lan phỏng vấn Phỏng vấn Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ từ Thanh Minh
Thiền Viện Sài Gòn.
Ỷ Lan: Ngưỡng bạch Đức Tăng Thống, Đài Á châu Tự do mở mục Ký
ức 40 Năm đánh dấu ngày chiến tranh chấm dứt 30 tháng Tư năm 75. Kính
xin Đức Tăng Thống một lời tổng kết về tình hình Phật giáo nói chung và
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất nói riêng tại Việt Nam 40 năm
qua?
ĐTT Thích Quảng Độ : Ba mươi tháng Tư 1975 Cộng sản đã cưỡng
chiếm Miền Nam Việt Nam. Toàn dân Việt Nam bị nô lệ hoá về một chính
sách phi nhân, tàn bạo, hận thù và bất bao dung tôn giáo. Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất chúng tôi cũng bị tước đoạt pháp lý 2000 năm,
các vị lãnh đạo Giáo hội bị đàn áp khốc liệt, 12 Tăng Ni chùa Dược Sư đã
tự thiêu. Hoà thượng Thiện Minh bị đánh chết trong nhà tù.
Bản thân tôi và Đệ tứ Tăng Thống cũng bị lưu đày về quê quán. Lý tưởng
của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vẫn tồn tại trong quần chúng
Phật tử.
Do đó năm 1981 Cộng sản phải lập ra “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”, một
Giáo hội thừa sai của Đảng, công cụ của Nhà nước do sự chỉ đạo của Ban
Tôn giáo Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất chúng tôi không những bị tước
đoạt pháp lý, mà tất cả cơ sở của Giáo hội đều bị Nhà nước cướp đoạt,
giao cho Giáo hội thừa sai này. Nhiều Phật tử đã tự thiêu phản đối để
bảo vệ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, phản đối việc bán đứng
lãnh thổ lãnh hải, tài nguyên của cha ông cho Trung Cộng, như Phật tử
Hạnh Minh Hồ Tấn Anh, Nguyên Lạc Phạm Gia Bình, Đồng Xuân Lê Thị Tuyết
Mai, v.v…
Nhưng Nhà nước đã thất bại, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất chúng
tôi vẫn uy dũng tồn tại trước sự đàn áp khốc liệt này. Phật tử khắp nơi
bị Công an mời “làm việc”, buộc cam kết từ bỏ Giáo hội, nếu không con
cái sẽ không được đi học, vợ chồng không được làm ăn, gây khốn đốn cho
nhiều gia đình Phật tử. Nhưng họ vẫn kiên cường bám sát đường lối của
Giáo hội, duy trì pháp lý 2000 năm của Phật giáo Việt Nam.
Dưới sự đàn áp đó, bốn mươi năm qua Giáo hội và Phật tử đã chịu đựng,
kiên trì đòi lại pháp lý cũng như đòi tự do, dân chủ và hạnh phúc cho 90
triệu dân Việt Nam. Cương quyết chống nội xâm và ngoại xâm để bảo vệ
đạo pháp, dân tộc, đất nước của cha ông.
Ỷ Lan :Kính xin Đức Tăng Thống cho biết cảm xúc hay cảm giác
về ngày 30.4.1975, khi bộ đội Bắc Việt tiến chiếm Saigon ? Có nguồn tin
nói rằng chư Tăng Ni đại biểu GHPGVNTN đã xuống đường đón rước bộ đội
Bắc Việt, hoặc tin chùa Ấn Quang tổ chức lễ Sinh nhật ông Hồ Chí Minh
với hàng chục nghìn Phật tử tham dự, sự kiện này đúng không, bạch Đức
Tăng Thống?
ĐTT Thích Quảng Độ : Thưa hoàn toàn là sai. Đó chỉ là luận điệu
tuyên truyền của những kẻ phá hoại nhằm đánh lừa quần chúng trong và
ngoài nước mà thôi.
Thứ nhất là vào tháng 5 năm 1975, sau khi Cộng sản cưỡng chiếm Miền Nam,
Viện Hoá Đạo đã họp tại chùa Ấn Quang để bàn việc tổ chức Đại lễ Phật
Đản và thảo luận về đường hướng sinh hoạt của Giáo hội trong tình hình
mới.
Bên ngoài chùa Ấn Quang lúc ấy đồng bào tụ tập rất đông. Lợi dụng cơ hội
này những kẻ thủ đoạn đã sách động quần chúng biều tình, hoan hô Hồ Chí
Minh, hoan hô Cách mạng thành công.
Nên nhớ bản thân Viện Hoá Đạo không có một thông tư, thông cáo nào kêu
gọi xuống đường biẻu tình. Đồng thới tất cả thành viên lãnh đạo Viện Hoá
Đạo không một ai tham dự cuộc biểu tình này cả. Như vậy làm gì có cái
chuyện Viện Hoá Đạo tổ chức xuống đường biểu tình, hoan hô như họ đã
tuyên truyền?
Thứ hai, là việc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã tổ chức lễ
sinh nhậtt của ông Hồ Chó Minh, cũng là một sự xuyên tạc trắng trợn,
cũng là sự bịa đặt. Hoàn toan không có chuyện đó. Họ làm như thế là để
giảm uy tín của Giáo hội.
Trước hết là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tổ chức Đại lễ Phật
Đản hằng năm, chứ không có tổ chức bất cứ sinh nhật của một nhân vật
nào, kể cả các vị Tăng Thống.
Thứ nữa, là khuôn viên chùa Ấn Quang không chứa nổi 500 người. Vậy thì
làm sao có cả hàng chục nghìn người tham dự được ? Bây giờ chùa Ấn Quang
vẫn còn đó, khuôn viên chùa vẫn thế thôi. Bởi vì nó không còn đất mở
rộng nữa. Hoàn toàn là chuyện bịa đặt thôi.
Viện Hoá Đạo không hề làm cử chỉ gì, tán thán nào, hay là bày tỏ ý kiến
của mình trong cái việc lễ này cả. Từ trước nay vẫn thế. Như vậy làm sao
mà nói Giáo hội đứng ra tổ chức hay tham dự ? Hoàn toàn một sự đặt
chuyện bịa đặt, xuyên tạc mà thôi, chụp mũ…
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bác bỏ tất cả các lập luận này.
Khi đó tôi là Tổng Thư Ký Viện Hoá Đạo, tôi xác nhận một lần nữa, là
không bao giờ Giáo hội từ trước nay, không bao giờ Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống nhất tổ chức bất cứ một lễ lớn hay nhỏ vào cái dịp kỷ
niệm ngày sinh nhật ông Hồ Chí Minh cả. Có thể đây là lần cuối cùng tôi
xin xác nhận như thế để cho dư luận trong và ngoài nước biết.
Ỷ Lan :Ngưỡng bạch Đức Tăng Thống, bốn chục năm trước lập
trường của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là như vậy. Nhưng bốn
chục năm sau thì lập trường của Giáo hội như thế nào?
ĐTT Thích Quảng Độ : Phật tử cũng như dư luận trong và ngoài nước
đều biết hết lập trường của Giáo hội từ trước đến giờ không bao giờ
thay đổi. Trước sao thì nay vậy, nhất định không bao giờ thay đổi. Trừ
khi mà đất nước có chuyển biến rất lớn, thay đổi. Trong hoàn cảnh đó
Giáo hội cũng phải thay đổi.
Bây giờ đất nước chưa có cái gì chuyển biến lớn cả, thì Giáo hội vẫn cứ
cái lập trường của mình. Giáo hội sống chung với dân tộc đây. Từ ngàn
xưa chứ không phải bây giờ. Dân tộc thế nào thì Giáo hội vẫn chịu thế.
Dân tộc sướng thì Giáo hội sướng, mà dân tộc khổ thì Giáo hội cũng chịu
khổ với dân tộc.
Nói nôm na khi nào dân tộc Việt Nam hiện giờ mà có được nền dân chủ, tự
do như các quốc gia tiến bộ trong thế giới, thì Giáo hội sẽ phải hoạt
động theo đúng. Nhưng mà hiện giờ thì bao nhiêu chục năm nay, kể từ 75
đến giờ, dân tộc Việt Nam chưa có một nền dân chủ thực sự mà người ta
mong muốn.
Toàn dân vẫn còn sống dưới một chế độ độc tài toàn trị. Như vậy Giáo hội
không thê tách rời cuộc sống của nhân dân. Chừng nào mà dân tộc được
dân chủ tự do thì Giáo hội sẽ… chưa có thì Giáo hội vẫn phải vận động
làm thế nào cho có dân chủ tự do như các nước tự do tiến bộ trên thế
giới. Chừng nào cái đó chưa đạt được, thì lập trường Giáo hội, từ sau 75
vẫn trước sau như một không thay đổi.
Nhơn mùa Quốc Hận, Tháng Tư Đen của người Việt tỵ nạn CS, do vận động
của một người Canada gốc Việt hiện làm thượng nghị sĩ của Quốc Hội nước
Canada, TNS Ngô thanh Hải, được lưỡng viện Quốc Hội Canada thông qua,
lãnh đạo quốc gia Canada ban hành đạo luật với số S-219, danh xưng
“"Journey to Freedom Day" (Ngày Hành trình Đến tự do).
Đây là một
đạo luật từ hình thức đến nội dung, có tính cưỡng hành của luật pháp,
chớ không phải một quyết nghị (resolution) hay tuyên ngôn (proclamation)
chí có giá trị khuyến nghị. Trong quá trình đấu tranh cho tự do, dân
chủ, nhân quyền VN, trong những bằng chứng tội ác của CSVN làm cho dân
chúng VN đi tỵ nạn CS hai triệu người, chết cả nửa triệu người trên biển
cả, có thể nói đây là một văn kiện pháp luật cao nhứt, do một siêu
cường như Canada lần đầu tiên thực hiện và công bố.
Nên Đảng và
Nhà Nước CSVN chống đối quyết liệt. Khi luật này còn là dự luật, hồi
tháng 12 năm ngoái, Thủ tướng VNCS Nguyễn Tấn Dũng viết thư trực tiếp
cho Thủ tướng Canada Stephen Harper để bày tỏ quan ngại. Ngay sau khi
Canada ban hành đạo luật, ngày 24/4/2015 Bô Ngoại Giao VNCS ở Hà nội
triệu Đại sứ Canada tại Hà nội đến Bộ để phản đối, nói đây là đạo luật
“hoàn toàn sai trái, chứa đựng nhiều nội dung xuyên tạc lịch sử”. Còn
phát ngôn viên Lê Hải Bình của CSVN lồng lộng lên nói “Việt Nam [CS]
cương quyết phản đối việc Canada thông qua đạo luật này “Đây là bước lùi
trong bang gao giữa hai nước,v.v...”
Như đã biết dự luật tiên
khởi do TNS Hải nạp có tên “Ngày tháng Tư đen”, đánh dấu ngày miền Nam
Việt Nam “rơi vào tay chế độ cộng sản độc tài và áp bức.” Ý hướng của
tác giả và những đồng viện đồng tác giả là dùng luật này để ghi nhớ, cám
ơn nhân dân và chánh quyền Canada đã dang tay ra cứu khổn phò nguy,
tiếp nhận, giúp người Việt ty nạn CS tìm tự do, đón nhận hàng ngàn
thuyền nhân Việt Nam sau 1975 đến Canada an cư lạc nghiệp.
Nhưng
như mọi đạo luật qua tiến trình lập pháp, luôn có sửa đổi tên luật, chữ
dùng, nội dung khi thảo luận biểu quyết. Quốc Hội lưỡng viện Canada đổi
tên dự luật “Ngày tháng Tư đen”, thành “ Ngày Hành trình đến tự do” và
cho số trước tịch là S-219. Bộ trưởng Quốc phòng Canada Jason Kenney nói
luật ngày 30/4 “sẽ mang đến cho người dân Canada một cơ hội để nghĩ lại
cuộc hành trình của hơn 60,000 người tị nạn Việt Nam đến Canada.”
Nhưng
trong chánh trị xứ tự do, dân chủ như Mỹ, Canada việc gì lớn liên quan
đến nhiều người đều có thể thành vấn đề tranh luận. Vì đa số người Việt
ty nạn CS trong đó có người Canada gốc Việt coi ngày 30 tháng Tư là ngày
Quốc Hận, Tháng Tư là tháng Tư Đen, mà Thượng Viện biểu quyết dưới cái
tên 30/4 là “Ngày Hành Trình Đến Tự do”, nên có một số người gốc Việt tỵ
nạn CS dị ứng.
Nhưng dù TNS Ngô thanh Hải lấy tên dự luật là
“Ngày tháng Tư đen”, nhưng Quốc Hội Canada chính là cơ quan làm luật
này, dùng chữ trong luật này, sấp xếp nội dung, hình thức của đạo luật
là của Quốc Hội Canada. TNS Ngô thanh Hải chỉ là một thượng nghị sĩ
thôi, chỉ một lá phiếu thôi, một tiếng nói thôi không thể ngăn cản Quốc
Hội trong biểu quyết đổi tên dự luật được.
Nhưng khi luật được
biểu quyết thông qua, ban hành rồi và thấy CSVN phản ứng quyết liệt mới
thấy cái khéo của những thương nghị sĩ có lập trường chống Cộng sản
trong Thượng Viện Canada, trong đó có TNS Ngô thanh Hải. Cái khéo lập
pháp ấy giống cái khéo léo của anh chị em dân cử Mỹ gốc Việt trước đây
đã tương kế tựu kế để né tập tục ngoai giao của liên bang Mỹ, để chánh
quyền tiểu bang, chánh quyền địa phương quận hạt, thành phố Mỹ nay lên
một trăm mấy chục đơn vị đã thực chất thừa nhận quốc kỳ VNCH nhưng với
danh nghĩa là di sản văn hoá, là biểu tưọng tự do, dân chủ của người Mỹ
gốc Việt, trong khi chánh quyền liên bang Mỹ bang giao với VNCS, thừa
nhận cờ của VNCS.
Nếu cứ giáo điều nghe Khổng Tử dạy rằng, chánh
danh mới thành đạo thì chúng ta chưa có quốc kỳ VNCH phất phới tung bay ở
Mỹ như bây giờ. Và nếu TNS Ngô thanh Hải không uyển chuyển, theo một
cách nói khác (une autre facon de parler) của đa số đồng viện, thì tội
ác của CS làm cho dân Việt bỏ nước ra đi chết hơn nửa triệu người không
vào được nền luật pháp của nước Canada.
Chớ nếu những dân cử gốc
Việt và những đồng viện người Mỹ không uyển chuyển, không tương kế tựu
kế, không khéo léo tránh né tập tực ngoại giao của liên bang Mỹ thì quốc
kỳ VNCH nền vàng ba sọc đỏ không được chánh quyền của phân nửa dân số
Mỹ thừa nhận và thực tế lùa cờ của VNCS vào trong khuông viên bên trong 2
toà tổng lãnh sự và toà đại sứ như con dán ngày đâu.
Nếu đòi hỏi
những vi đại diện dân cử cấp quốc gia như Canada, trong đó có một số vị
nguồn gốc sắc tộc khác của một nước biếu quyết một luật hận thù đối với
một nước mà nước ấy có bang giao, giao thương là một điều không tưởng.
Trái lại uyển chuyển, tương kế tựu kế, như quí anh chị em dân biểu, nghị
viên, ở Little Saigon tạo thành phong trào cờ vàng ở Mỹ, như TNS Ngô
thanh Hải vận động Thưọng Viện ra luật nhớ ngày 30/4 là Ngày Hành trình
Đến Tư do "Journey to Freedom Day" là ngày Canada tiếp nhận 60.000 người
Việt tỵ nạn CSVN, làm cho người dân Việt phải liều mình bỏ nước, bỏ nhà
ra đi tìm tữ do, chết cả nửa triệu người là một chứng tích tôi ác của
CSVN, một tội ác của CSVN đi vào luật pháp của Canada, vào chánh quyền
Canada, vào văn khố quốc gia Canada.
CSVN luôn tuyên truyền quốc
nội, lẫn quốc ngoại, 30/4 là ngày “giải phóng Miền Nam, Thống Nhứt đất
nước” trong khi nhân dân và chánh quyền Canada nói bằng luật pháp đó là
ngày nhân dân VN bỏ đất nước ra đi tìm tự do được Canada tiếp nhận. Đó
là Canada tạt nước lạnh buốt vào CSVN. Ý nghĩa chống Cộng, tố Cộng của
đạo luật S-219, gọi là “"Journey to Freedom Day" (Ngày Hành trình Đến tự
do) rất rõ ràng. Nó diễn đạt theo kiểu “ tích cực” như những nhà đấu
tranh chánh trị thức thời trên thế giới trong đó có người Mỹ, Việt ít
dùng chữ “chống Công” mà gọi là đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền
VN. Cách nói sau này tích cực hơn, xây dựng hơn, thuyết phục hơn. Nhưng
thực tế rất chống Cộng vì ở đâu có tự do, dân chủ, nhân quyền là không
có CS, vì tự do, dân chủ, nhân quyền là khắc tinh, là huỷ thể của dộc
tài dười mọi hình thức trong đó có độc tài CS./. (VA)
Khi sự thật là chân lý của mọi chân lý thì dù là người cộng sản nhưng
cách nói liên quan đến chủ nghĩa CS của họ khiến các quan tuyên giáo và
lãnh đạo của đảng CSVN cũng phải cúi mặt không muốn nghe nhắc lại, đó
là 2 người phụ nữ nổi tiếng từng là đảng viên tuyên thệ dưới bóng cờ búa
liềm của đảng cộng sản VN: Dương Quỳnh Hoa, Dương Thu Hương.
- Bác sĩ chính qui tốt nghiệp tại Pháp, Dương Quỳnh Hoa nguyên thứ
trưởng Bộ Y tế CHXHCNVN sau khi từ bỏ đảng CS nhận xét về các “đồng chí”
cũ bà đã thốt lên rằng: “Đó là những kẻ ngu si đần độn, bởi vì họ là cộng sản” và khi bức tường Berlin do CS Đông Đức xây dựng ngăn chặn ảnh hưởng của phương Tây bị sụp đổ, bà nói: “Đây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại” (1)
- Nhà văn CS Dương Thu Hương từng rơi nước mắt giữa đường phố Sài Gòn ngày 30/4/1975, bà nói: “Vào
Nam rồi tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc
mù mắt, bịt tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể tự
do nghe bất cứ đài phát thanh nào, Pháp, Anh, Mỹ... nếu người ta muốn.
Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã
thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử, là bài
học đắt giá, nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải...” (2)
Ngày nay thế giới chứng kiến một nước Đức bị chia đôi nhưng người dân 2
miền Đông Tây tự đập bỏ bức tường ngăn cách, thống nhất trong hòa bình
rồi trong điêu tàn đổ nát của chiến tranh, sự trợ giúp rộng lượng của kế
hoạch Marshall từ Chính Phủ Mỹ và đồng minh, một nước Đức bại trận
trong thân phận “tù binh” đã phát triển vươn lên là quốc gia giàu mạnh
nằm trong tốp hàng đầu thế giới.
Một Nam Hàn bị chia cắt nhưng dứt khoát không thống nhất bằng máu xương
mà lấy mục tiêu dân giàu nước mạnh làm ưu tiên tối thượng, đưa quốc gia
từ con số không về mọi mặt, còn nghèo khó hơn Việt Nam (thập niên 60)
chỉ trong 30 năm dưới sự bảo trợ của Mỹ đã phát triển thần kỳ thành một
con rồng bức phá về kinh tế khoa học kỹ thuật hàng đầu châu Á, thế giới
phải ngã nón cúi chào.
Một Nhật Bản bại trận “ăn bom nguyên tử Mỹ” là quốc gia tù binh của Mỹ
nhưng ngày nay Thống Tướng Douglas MacArthur Tư Lệnh quân Mỹ tại châu Á,
người đánh bại và chiếm đóng nước Nhật lại được toàn dân xứ hoa anh đào
tri ân tôn vinh là một trong 12 người có công làm nên nước Nhật hùng
mạnh, một Thụy Sĩ phương Đông ngày nay (3).
Và cả 3 quốc gia này hiện tại quân Mỹ và đồng minh hơn nửa thế kỷ vẫn
còn ăn ngủ tại đó chẳng những được đài thọ quân phí mà còn không có bất
cứ người dân nào của 3 nước nói trên muốn “kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược”.
Phải nhắc lại như vậy mới thấy nỗi bất hạnh trầm luân đau thương của
Việt Nam một đất nước có nhiều ưu thế về vị trí địa dư, tài nguyên thiên
nhiên hơn hẳn nhiều quốc gia Đông Nam Á kể cả CHLB Đức, Nhật Bản và Hàn
Quốc mà ngay lúc sinh thời cựu Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu cũng
nhận xét rằng: "Nếu có vị trí số một ở Đông Nam Á thì đó phải là Việt
Nam. Bởi so sánh về địa chính trị, tài nguyên, con người, Việt Nam
không thể xếp sau nước nào khác trong khu vực", vậy mà 70 năm sau
thế chiến 2 và 85 năm (miền Bắc) 40 năm thống nhất dưới ách cai trị của
chế độ CS, hiện nay Việt Nam lại là quốc gia có số người nhiều nhất
(khoảng nữa triệu) đang bán sức lao động, làm thuê, làm vợ hờ, làm osin,
tại hầu hết các nước tư bản này để nhặt nhạnh từng đồng ngoại tệ mang
về cho “nhà nước, đảng ta” tiếp tục xây dựng thiên đàng XHCN/CS (mà hết
thế kỷ này cũng không biết có thấy nó chưa!? - Lời TBT/CSVN Nguyễn Phú
Trọng).
Không xa lắm, đã từng có một Việt Nam Thống Nhất
(Ngược dòng lịch sử để tuổi trẻ Việt Nam rộng đường suy diễn hoài niệm)
Ngày 9 tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chính Pháp trên toàn Đông Dương. Tại
kinh thành Huế, được ủy nhiệm của Đại sứ Nhật Bản Yokoyama Masayuki -
Đại úy quân đội Nhật Kanebo Noburu vào triều kiến trình báo lên Hoàng đế
Bảo Đại rằng quyền lực của thực dân Pháp đã chấm dứt. Cùng chiều hướng
đó Đế quốc Nhật Bản thỏa thuận trao trả độc lập cho Việt Nam.
Ngày 11 tháng 3 năm 1945 Hoàng đế Bảo Đại ban bố Tuyên cáo Việt Nam độc lập,
đây là tên gọi một đạo dụ nội dung có ý nghĩa hủy bỏ mọi ràng buộc
chính trị giữa An Nam (Việt Nam) và Đế quốc thực dân Pháp đồng thời tiên
khởi cho một nước Việt Nam hiện đại độc lập và có chủ quyền.
Ngày 12 tháng 3-1945, lần thứ 2 Hoàng Đế Bảo Đại lại triệu tập Đại sứ
Nhật Bản Yokoyama Masayuki và trao cho ông này bản tuyên cáo Độc lập của
Việt Nam. Ngày hôm sau 13 tháng 3 năm 1945, báo giới khắp từ Nam ra Bắc
đồng loạt loan tin Việt Nam Độc lập hoàn toàn.
Nhật báo Điện Tín phổ biến Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Đế Quốc Việt Nam (Nguồn tư liệu: MSS).
Ngày 17 tháng 3 Hoàng Đế Bảo Đại nêu lên khẩu hiệu "Dân vi quý" (lấy dân làm gốc)
làm phương châm trị quốc. Ông giải tán nội các cũ, Nhà sử học Trần
Trọng Kim được Hoàng Đế triệu vời ra Huế trao nhiệm vụ thành lập tân nội
các trở thành Thủ tướng đầu tiên của nước Việt Nam Quân chủ lập Hiến
ngày 18 tháng 8 năm 1945, trước quốc dân Hoàng Đế Bảo Đại tái xác nhận
khẳng định nền độc lập của Việt Nam thêm một lần nữa. (Wikipedia).
Báo Trung Bắc Chủ nhật, số ra ngày 20
tháng 5 năm 1945 chạy tít về việc thành lập Nội các Trần Trọng Kim, sự
kiện có ý nghĩa đưa Việt Nam từ chính thể quân chủ chuyên chế thành quân
chủ lập hiến.
Hoàng đế Bảo Đại và Nội các CP/Trần Trọng Kim trình diện quốc dân ngày 19/4/1945.
Nhưng cùng thời điểm này ở miền Bắc, lợi dụng chính phủ Trần Trọng Kim
mới thành lập tại Kinh Đô Huế còn non trẻ, guồng máy chưa kiện toàn cơ
cấu vì còn sự hiện diện của quân đội Nhật (bị Mỹ đánh bại khắp Châu Á,
Thái Bình Dương chờ ngày chính thức cáo chung) Hồ chí Minh và đảng Cộng
sản VN cũng nhận biết quân Nhật đang đại bại tạo khoảng trống trên
chính trường Việt Nam nên đã tổ chức cướp chính quyền bằng bạo lực tại
Hà Nội ngấm ngầm áp đặt một cuộc “cách mạng” ý thức hệ XHCN riêng của
họ, một cuộc cách mạng theo chủ thuyết CS Nga, Tàu mà Hồ Chí Minh du
nhập vào nước ta.
Cho đến nay, sự kiện này vẫn được đảng CSVN gọi là ngày tổng khởi nghĩa
CM tháng 8 mùa thu cướp chính quyền từ tay Pháp và Nhật, nhưng thực tế
nhân chứng vật chứng và tàng thư lịch sử đã chỉ ra khẳng định chứng minh
rằng Nhật đảo chính Pháp từ ngày 9 tháng 3, rồi Nhật đầu hàng Đồng Minh
ngày 2 tháng 9 cùng năm, thì cách nói “cướp chính quyền từ tay Pháp và
Nhật” là lố bịch láo khoét không “logic” chút nào vì lẽ thực dân Pháp và
phát xít Nhật trước đó đã là 2 kẻ bại trận ở hải ngoại và tại cố quốc
thì làm gì còn chính quyền bảo hộ đâu nữa để mà cướp? (Chính xác là CS
cướp chính quyền CP Trần Trọng Kim).
Cũng tuyên truyền bịp bợm giống như vậy trong sách giáo khoa dạy học
sinh, CSVN vu cáo nói chính phủ Trần Trọng Kim là chính phủ bù nhìn là
tay sai của quân Nhật!? thật buồn cười - Không ai mù quáng đi làm tay
sai bù nhìn cho một thế lực bại trận, đầu hàng vô điều kiện không còn
chủ quyền quốc gia (Mỹ giải giới chiếm đóng toàn bộ nước Nhật).
Còn theo tư liệu gần nhất của giáo sư đại học Nga, Iouri Afanassiev
trong bộ sử “hậu cộng sản” ấn hành năm 1991 tại Nga đã đưa ra trước ánh
sáng những hành vi của Đảng Cộng sản Việt Nam trong ý đồ làm lạc hướng
dư luận và ngụy tạo lịch sử cuộc chính biến CS cướp chính quyền non trẻ
của nhân dân Việt nam vào mùa thu tháng 8/1945 tại Hà Nội (4).
Từ quá khứ và thời điểm diễn ra các sự kiện ấy, khách quan cho chúng ta
thấy - Nếu định mệnh và lịch sử không để cho Hồ Chí Minh cuồng tín cõng
trên lưng cái chủ nghĩa CS ngoại lai xuất hiện tại Việt Nam cùng thời
khắc với Chính Phủ Trần Trọng Kim vừa thành lập thì Tổ Quốc Việt Nam có
thể đã khởi đầu hình thành và kiện toàn trọn vẹn từ Nam chí Bắc một nền
độc lập “quân chủ lập hiến” (quân chủ đại nghị) văn minh tiên tiến như
các hoàng gia hiện nay của Thái Lan, Malaysia, Nhật bản, Anh, Thụy Điển,
Tây Ban Nha, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Na Uy, Canada v.v... mà Vương triều
nhà Nguyễn là Hoàng Gia Việt Nam có đầy đủ thẩm quyền chính danh đại
diện duy nhất cho dân tộc và Đất Nước VN... Dù sau đó thực dân Pháp có
tham vọng muốn tái đô hộ Đông Dương lần thứ 2 nhưng không thể, vì sau đệ
nhị thế chiến chủ nghĩa phát xít và thuộc địa đã thật sự cáo chung cùng
với sự ra đời LHQ với chủ trương "Quyền dân tộc tự quyết", khắp thế
giới phong trào lấy lại độc lập tự do như sóng triều dâng và xu thế tất
yếu này như ánh bình minh vươn lên không thế lực nào ngăn cản lại được
mà thực tế nó diễn ra đã chứng minh (ở Châu Á có đến 14 nước đều được
lần lượt trao trả độc lập mà không cần phải đỗ máu với “mẫu quốc” thực
dân cũ).
Bất hạnh thay, đất nước Việt Nam đã lỡ hẹn với nền độc lập tự do thống
nhất trong hòa bình khi bị Hồ Chí Minh và đồng bọn CS cuồng tín âm mưu
ngăn cản phá hoại cướp chính quyền bằng thủ đoạn bạo lực côn đồ để áp
đặt chủ nghĩa CS đưa đẩy đất nước VN vào 2 cuộc chiến đẫm máu với Pháp,
Mỹ tiếp theo là xâm lược miền Nam từ đó dẫn đến tình hình nan giải trên
biển Đông như hiện nay mà suy cho cùng là không cần thiết, hoàn toàn tổ
quốc chúng ta có thể tránh được.
Sau Hiệp Định Geneve 1954 do CS Nga-Tàu chủ động “dàn xếp”, giang sơn VN
bị chia đôi coi như hợp thức hóa cho HCM và đảng CSVN cai trị miền Bắc
(Chính phủ Ngô Đình Diệm ở miền Nam bác bỏ không ký vào văn kiện này).
1954 - Trong khi nhân loại toàn thế giới thở phào trút gánh nặng chiến
tranh, trên điêu tàn đổ nát hầu hết các quốc gia tranh thủ giành mọi
tiềm lực đoàn kết nhân dân hàn gắn đau thương xây dựng lại quê hương
mình.
Cùng thời điểm ấy, Hồ Chí Minh lãnh đạo đảng CSVN và cũng là Chủ Tịch
một quốc gia (VNDCCH) nhưng tính cách hoàn toàn không giống với các lãnh
đạo (tổng thống) của những quốc gia láng giềng đương thời trong khu vực
như Tưởng Giới Thạch Tổng Thống lãnh đạo Quốc Dân đảng Đài Loan hay Lý
Thừa Vãn Tổng thống đầu tiên (chống cộng sắt thép) của Hàn Quốc hoặc
Sukarno Tổng Thống lãnh đạo đảng Dân tộc (Partai Nasional) Indonesia
v.v... tất cả các nguyên thủ này đều cố tránh chiến tranh lấy chủ nghĩa
dân tộc, độc lập hòa bình, hạnh phúc của người dân đặt lên hàng ưu tiên
tối thượng.
Duy nhất trên thế giới, chỉ riêng tại Việt Nam, trên xương cốt hàng
triệu đồng bào miền Bắc chưa kịp ruỗng mục do chết vì đói khát (nạn đói
năm Ất Dậu) Ngân khố trống rỗng thay vì “vỗ yên thiên hạ” khoan sức
dân để xây dựng lại Miền Bắc thì Hồ Chí Minh cuồng tín man dại khuấy
động binh đao tuyên bố: “Đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam, đồng bào ta
đang bị bóc lột, đày đọa. Tôi không có tư tưởng nào ngoài tư tưởng chủ
nghĩa Mác Lê Nin - Để cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất
nước ta và trên toàn thế giới, tôi sẵn sàng mua chiến thắng đó dẫu phải
đốt sạch cả dãy Trường Sơn hay phải đánh Mỹ đến người VN cuối cùng”.
85 năm - Xương trắng Trường Sơn máu đỏ nội đồng gần 4 triệu người VN,
một thế hệ thanh niên hai miền Bắc Nam như những viên gạch cho CSVN xây
dựng “thống nhất” XHCN.
Chi tiết 20 năm đau thương tàn bạo do HCM và CSVN gây ra như thế nào thì
không cần phải nhắc lại, mà biểu tượng nổi bật của nó đó là sự “hiếu
sát” đặc trưng của chủ nghĩa khủng bố CS:
Đấu tố giết hàng trăm ngàn đồng bào vô tội ở miền Bắc
Đặc chất nổ giết hàng loạt đồng bào vô tội ở miền Nam
Ngày nay, thông qua mạng Internet một người biết gõ bàn phím cũng có
thể truy cập để am hiểu chi tiết toàn bộ sự thật của cuộc chiến tranh
gây chảy máu nhiều nhất cho dân tộc, trong lịch sử Việt Nam, do HCM và
CSVN phát động, những sự thật mà chế độ CSVN không thể nào tẩy xóa nổi.
Có điều, di lụy của sự “thống nhất” ấy nó còn dẫn chứng một cách rõ ràng
cụ thể để toàn dân Việt Nam hiểu rằng HCM và CSVN tạo nên sự thống nhất
này: “Đó là những kẻ ngu si đần độn" (Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa) bởi vì cái lập luận tuyên truyền láo khoét: “Đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam, đồng bào ta đang bị bóc lột, đày đọa”.
Tự nó nói lên HCM và CSVN không chỉ cuồng tín đần độn không thôi mà còn
xuẩn ngốc mù lòa thế giới quan khi thực tế chứng minh ngược lại như đập
vào mặt họ bởi các chóp bu CSVN kế thừa ngày hôm nay thay nhau mang
thân đi thăm viếng các quốc gia tư bản để “ăn mày viện trợ” đã chứng kiến các quốc gia bị “đế quốc Mỹ xâm lược” ở Châu Á và Châu Âu như thế này...
.
Phát xít HitLer bại trận - Đóng quân tại Ramstein nước Đức là căn cứ không quân Mỹ (lớn nhất châu Âu) hiện diện hoạt động liên tục từ năm 1942 đến nay.
Hơn 70 năm “đế quốc Mỹ và đồng minh xâm lược”!? biến một nước Đức “tù binh” bị chia đôi, thống nhất trong hòa bình và thành nền kinh tế lớn thứ 4 thế giới - GDP quốc gia: 3.900 tỷ USD/năm - GDP đầu người: 39.500 USD/năm.
1945 Nhật Bản đầu hàng - 70 năm “đế quốc Mỹ xâm lược”!?
chiếm đóng Nhật Bản - căn cứ hải và không quân Mỹ
tại Okinawa, Nhật Bản ngày nay
“Quân xâm lược Mỹ” biến “tù binh nô lệ” Nhật Bản thành nền kinh tế hùng mạnh thứ 3 thế giới GDP quốc gia: 4.800 tỷ USD - GDP người dân: 37.100 USD
Bảo vệ Nam Hàn trước CS Bắc Triều Tiên - 65 năm “đế quốc Mỹ xâm lược”!? Hàn Quốc - Bộ binh và Không quân Mỹ đồn trú ở căn cứ Kunsan, Hàn Quốc ngày nay.
“Quân xâm lược Mỹ”!? Biến Hàn Quốc nghèo đói thành một quốc gia tiên tiến vê khoa học kỹ thuật là nền kinh tế lớn thứ 12/thế giới – GDP quốc gia 1.736 tỷ USD - GDP người dân: 22.600 USD.
Trong khi đó nền kinh tế “kháng chiến chống Mỹ xâm lược” thống nhất đất
nước do đảng CS lãnh đạo tại Việt Nam hiện nay có GDP quốc gia: 176 tỷ
USD, GDP thu nhập đầu người khoảng 1.960 USD/người/năm (VietNamNet).
Thật hài hước, Nhật Bản, Hàn Quốc và CHLB Đức “bị” đế quốc Mỹ xâm lược
đến tận ngày nay chưa rút quân về nhưng nước CHXHCN/VN mà đảng CS lãnh
đạo “chống Mỹ xâm lược” bằng chủ nghĩa Mac-Lenin có thu nhập lại không
bằng con số lẻ GDP của 3 nước dưới mắt CSVN là những nước bị nô lệ này!?
và cũng sẽ chẳng bao giờ bắt kịp họ (những kẻ nô lệ ấy) vì bởi một
lãnh đạo Bộ Công Thương VN mới đây than thở với báo chí rằng các doanh
nghiệp Việt Nam không thể sản xuất nổi con ốc vít, cái sạc pin, mà công
ty SamSung Hàn Quốc đầu tư nhà máy tại Việt Nam đặt hàng? (5)
Vì vậy không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tấn Dũng mới đây phải thú nhận: “Bây giờ chúng ta đứng chót ASEAN, thậm chí có lĩnh vực còn thấp hơn Lào, Campuchia, Myanmar." (6)
Thống Nhất, để con em Việt Nam đi xây dựng XHCN ở Hàn Quốc một Nước bị chia cắt nhưng “đếch cần thống nhất” bằng máu xương.
Và cũng chua chát mai mỉa, trước cảnh ngược đời, Hàn Quốc, Nhật Bản và
nước Đức đang bị quân “đế quốc Mỹ xâm lược” nhưng người dân họ tự do làm
giàu rất hiệu quả cho gia đình cho đất nước, không thấy ai, cũng như
không ai bắt họ phải làm nô lệ cho Mỹ, ngược lại CSVN tự hào là “chống
Mỹ xâm lược” thống nhất đất nước, “đảng ta” xây dựng XHCN đấu tranh
chống áp bức nô lệ, người bóc lột người, nhưng hàng trăm ngàn thanh niên
nam nữ Việt Nam lũ lượt xếp hàng xin được bóc lột để bán sức lao động
như “nô lệ” cho người dân Hàn-Nhật-Đức mà “nhà nước đảng ta” lại chính
là người đứng ra tổ chức và khuyến khích!? (7) - “Đó là những kẻ ngu si đần độn, bởi vì họ là cộng sản” (Lời: Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa).
CSVN - Hồ Chí Minh thì nói “...Tôi sẵn sàng mua chiến thắng dẫu phải
đốt sạch cả dãy Trường Sơn hay phải đánh Mỹ đến người VN cuối cùng để
cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn
thế giới..”
Còn Singapore thì ngược lại, Ông Lý Quang Diệu nói: “Chỉ có kẻ ngu mới chống Hoa Kỳ”(8).
Vì Mỹ là một cường quốc quân sự có mặt trên khắp thế giới đã từng bảo
vệ lấy lại độc lập cho nhiều quốc gia nhưng không xâm lược bất cứ của ai
1m2 vuông đất nào…
Mà suy cho cùng lời vị cố nguyên thủ Singapore ấy nói thật là chí lý.
Cuồng tín, hoang tưởng độc tài sắt máu như một bạo chúa, Hồ Chí Minh
cũng là một con người nhưng hoàn toàn không giống một chút nào với những
lãnh tụ của các đảng phái chính trị nguyên thủ của nhân dân Hàn, Nhật,
Đài Loan, Singapore, Indonesia v.v... cùng thời trong khu vực, các
nguyên thủ ấy như những minh tinh soi đường cho dân tộc họ trân trọng
hòa bình đặt nền móng vững chắc làm bệ phóng đưa đất nước giàu mạnh cất
cánh bay lên như ngày nay…
Còn tại Việt Nam hơn 2/3 thế kỷ (85 năm) HCM và đảng CSVN lấy xương máu 4
triệu đồng bào mình biến thành năng lượng cho cỗ xe khát máu cộng sản
lăn bánh làm tiền đồn cho quốc tế CS đến hôm nay XHCN “hoàn toàn thắng
lợi” sờ sờ trước mắt họ là 90% những chế độ XHCN/CS một thời trên thế
giới thì nay đã nguyền rủa từ bỏ nó, Liên Hiệp Quốc có 193 quốc gia chỉ
còn sót lại 5 nước thiểu số độc tài CS trong đó chế độ CSVN là một mà
chủ nghĩa Cộng Sản thì thế giới đã khẳng định là chủ nghĩa tội ác chống
loài người với hàng trăm triệu nạn nhân (còn nhiều hơn số người chết của
thế chiến 2) trong đó là hàng triệu người VN. Tang chứng quá khứ rành
rành chưa xa lắm, ai cũng có thể chỉ ra được, vậy mà qua đó “nhà nước
và đảng ta” vẫn cứ nhắm mắt tuyền truyền là đảng CSVN có công “Thống
Nhất đất nước XHCN/VN” trong quang vinh!? Một thứ quang vinh tanh mùi
máu, đẫm nước mắt, nghèo nàn lạc hậu như con trâu chậm uống nước đục lẻo
đẽo xếp hàng sau lưng thiên hạ hiện nay!?
Thật nực cười - Chỉ có một hệ thần kinh vĩ cuồng đần độn hay bịp bợm mới làm và nói như thế.
Đánh Mỹ đến người VN cuối cùng cho cờ TQ tung bay trên đảo Hoàng Sa?
Vẫn chưa hết, nó lại càng quang vinh “vĩ đại” hơn thế nữa trong một đại
bi kịch của thời đại mà toàn dân Việt Nam cũng như cộng đồng thế giới
đang chứng kiến - Khi HCM và CSVN là diễn viên chính trung thành ngoan
ngoãn làm tay sai, lấy vũ khí của Tàu cộng dùng xương máu Việt đuổi Mỹ
đi để thay đổi diện mạo địa chính trị trên biển Đông, trong khu vực, cho
hôm nay không còn căn cứ thế lực Mỹ trú đóng trực tiếp răn đe đối
trọng, Tàu cộng một mình một cõi công khai uy hiếp ăn cướp trắng trợn
đất đai biên giới biển đảo của ngay “đồng chí” Việt Nam mà CSVN lại
chính là kẻ làm tay sai lấy máu xương đồng bào mình đuổi Mỹ đi giùm,
thay cho nó trước đó!? Thật lạ lùng, trên thế giới không có một đảng
phái quốc gia nào lãnh đạo nhân dân một cách mù quáng thiển cận và ấu
trĩ tương tự.
Tổng kết lại thì HCM và CSVN tước đoạt ám sát một nền “Quân chủ đại
nghị, lập hiến” độc lập thống nhất của Việt Nam thay vào một CNXH/CS
ngoại lai khát máu lạc hậu, đồng thời lấy xương máu 4 triệu đồng bào,
một thế hệ thanh niên nằm xuống để trải đường rước con voi Tàu cộng về
dày lên mả tổ nhà mình hôm nay?.
Quả thật không có sự thống nhất cuồng tín đần độn bi hài nào hơn...
“...Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử, là bài học đắt giá, nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải...” (Nhà văn giã từ đảng CSVN - Dương Thu Hương)
Cao-Đắc Tuấn (Danlambao)
- Nhạc sĩ Nguyệt Ánh viết ca khúc "Cái Cò" nói về sự hy sinh
và nỗi cực nhọc của những người vợ chiến sĩ Việt Nam Cộng
Hòa (VNCH) sau khi chồng bị bắt đi tù cải tạo hoặc khi chồng
tuẫn tiết trong trận chiến khi quân cộng sản Bắc Việt xâm chiếm
miền Nam Việt Nam vào năm 1975. "Cái Cò" là một tác phẩm có
giá trị văn chương và lịch sử cao. Là một tác phẩm văn chương,
"Cái Cò" gói ghém những tinh hoa của các kỹ thuật thi ca và
văn học truyền thống Việt Nam như ca dao và thành ngữ, nói lên
những đức tính hy sinh, cần cù, can đảm, tháo vát, và chịu
đựng của phụ nữ Việt Nam. Là một tác phẩm lịch sử, "Cái Cò"
ghi nhận cuộc sống đen tối của dân miền Nam sau năm 1975, nhất
là vào cuối thập niên 1970 cho tới suốt thập niên 1980, và sự
tàn bạo của cộng sản Bắc Việt đối với quân cán chính VNCH và
thân nhân họ sau ngày cộng sản chiếm đóng miền Nam Việt Nam
vào năm 1975.
Nguyệt Ánh biểu lộ một tài năng khác thường trong "Cái Cò" qua
kỹ thuật xếp đặt giai điệu nhẹ nhàng với những thay đổi lên
xuống thích hợp cho những hành động hy sinh và cần cù của
người vợ, và cách dùng các kỹ thuật mô tả dung hòa việc tạo
sống động và gây cảm xúc cho người nghe. Ngoài việc dùng những
ẩn dụ tuyệt vời, Nguyệt Ánh phối hợp cách dùng từ ngữ theo
kiểu thành ngữ truyền thống Việt Nam với những từ ngữ mô tả
mạnh mẽ rất hiệu quả. Qua những kỹ thuật tinh vi, câu chuyện
của những người vợ chiến sĩ VNCH được kể trung thực rất cảm
động và tạo tác dụng mạnh trên người nghe.
Tôi có dịp nói chuyện với nhạc sĩ Nguyệt Ánh qua điện thoại
vào ngày 27-4-2015. Cô chia sẻ với tôi về ca khúc "Cái Cò" và
trả lời vài câu hỏi của tôi về bài hát. Cô cho biết cô viết
"Cái Cò" trong 4 năm, từ khoảng năm 1995 cho tới năm 1999, và đó
là bài hát cô bỏ nhiều thì giờ nhất. So với những bài cô chỉ
mất 5, 10 phút để viết, 4 năm quả thật là một thời gian dài.
Nhưng ta phải hiểu điều đó không có nghĩa Nguyệt Ánh suy nghĩ
viết "Cái Cò" liên tục trong 4 năm. Những người viết nhạc, làm
thơ, viết văn, vẽ, hoặc làm những công trình sáng tạo đều biết
tầm quan trọng của cảm hứng. Không có cảm hứng, một nhạc sĩ,
thi sĩ, hoặc văn sĩ khó lòng mà tiếp tục. Nguyệt Ánh cho tôi
biết quá trình viết "Cái Cò" thường bị gián đoạn vì cô thấy
vài chỗ "không ổn" và do đó phải sửa đổi. Cô tiếp tục thâu
lượm những mẩu chuyện có thật do những người trong cuộc, những
người vợ chiến sĩ VNCH hoặc con cháu họ, kể lại. Chính những
câu chuyện có thật rất thương tâm và cảm động này cho Nguyệt
Ánh cảm hứng để viết lời cho bản nhạc. Ngoài ra, vì "Cái Cò"
ghi nhận những mẩu chuyện có thật này, nó còn là tài liệu
ghi nhận của lịch sử truyền khẩu (oral history).
Sau đây là tiểu sử vắn tắt của tác giả.
Nhạc
sĩ và ca sĩ Nguyệt Ánh tên thật là Nguyễn Thị Nguyệt Ánh. Cô
là con của Đại Tá Nguyễn Văn Y, người chỉ huy cơ quan tình báo
VNCH đầu tiên. Năm 1975 khi cộng sản chiếm đóng miền Nam Việt Nam,
cô cùng cha mẹ và anh chị em di tản bằng đường biển, sau đó qua Mỹ
và định cư tại tiểu bang Virginia (Việt Báo 2012). Cùng với Việt
Dzũng và các ca/nhạc sĩ khác, Nguyệt Ánh tổ chức phong trào
Hưng Ca tại hải ngoại, hiện có các chi nhánh Đoàn Hưng Ca tại
Âu Châu, Úc Châu, và Hoa Kỳ. Qua những hoạt động văn nghệ trên
khắp thế giới, nhạc sĩ Nguyệt Ánh tích cực tham gia nhiều
hoạt động xã hội và tranh đấu cho tự do dân chủ tại Việt Nam
trong suốt mấy chục năm qua.
Nguyệt Ánh là tác giả nhiều ca khúc đấu tranh (Xem, Phong trào
Hưng ca Việt Nam), thí dụ như: Anh Vẫn Mơ Một Ngày Về (Em Vẫn Mơ Một
Ngày Về), Cái Cò, Bài Ca Hội Ngộ, Bài Ca Nhân Bản, Bài Hát Chống
Xâm Lăng, Biển Đông Dâng Sóng Tự Do, Chào Little Sài Gòn, Coi
Chừng Cái Lũ Công An, Dậy Mà Đi, Đêm Thương Nhớ Người, Mơ Tự Do,
Không Ai Ngăn Được Lời Ca, Một Góc Quê Nhà, Mưa Trên Quê Hương Tôi
(thơ: Đào Trường Phúc), Nước Cuốn Hoa Rơi, Nước Mắt Biển Đông,
Tình Ca Cho Nhau, Hát Cho Ngày Sài Gòn Quật Khởi, Một Lần Đi, Mưa Sài
Gòn Còn Buồn Không Em, Mưa Sài Gòn Nắng Cali, Nắng Quê Hương, Nước Trôi
Mồ Mẹ (thơ: Võ Đại Tôn), Sao Đành Xa Em (Sao Đành Xa Anh, Xin Đừng Bỏ
Anh), Tiến Quân, Trả Ta Sông Núi, Việt Nam Muôn Năm, Xuống Đường,
v.v...
Nguyên văn lời bài hát "Cái Cò" như sau, theo lời hát của chính tác giả Nguyệt Ánh (Nguyệt Ánh):
A. Bối cảnh lịch sử và văn chương của ca khúc "Cái Cò" về vợ người tù cải tạo và ý nghĩa con cò:
Ca khúc "Cái Cò" kể nỗi đau khổ và sự hy sinh của người vợ
tù nhân trong các trại tù cải tạo tại Việt Nam sau ngày cộng
sản chiếm đóng miền Nam năm 1975. Ngoài khía cạnh lịch sử về
trại tù cải tạo, bài hát còn dựa vào hình ảnh con cò để mô
tả người vợ tù nhân cải tạo. Hai khía cạnh lịch sử và văn
chương này đem những sắc thái đặc biệt cho "Cái Cò" ít thấy
trong những ca khúc khác.
1. Tù nhân trong tù cải tạo bị đối xử dã man và vợ con họ sinh sống cực khổ vì bị kỳ thị:
Sau sự xụp đổ miền Nam Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, cộng sản
Bắc Việt bắt đầu chiến dịch đàn áp có hệ thống và tàn bạo trên những
người Việt Nam, đặc biệt là những người thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH) cũ. Hàng trăm ngàn nhân viên quân sự miền Nam và công chức dân
sự chính phủ VNCH bị đưa đến các trại cải tạo, một danh từ ngụy
trang cho ngục tù, nơi từ hàng chục ngàn tới hàng trăm ngàn
người chết vì đói, lạm dụng, bệnh, và hành quyết (Courtois 1999, 572;
Duiker 1995, 110; Duiker 1996, 363; Freeman 1995, 23; Sorley 1999, 383;
Võ 2004, 32). Cải tạo thực hiện bởi cộng sản Việt Nam vừa là
một phương tiện trả thù vừa là một phương pháp áp bức và
nhồi sọ (Sagan và Denney 1982).
Theo Lewis Sorley (1999), một sử gia Hoa Kỳ có uy tín, có lẽ
"65.000 người bị xử tử bởi những người giải phóng họ" và "có
đến 250.000 người bỏ mạng trong những trại cải tạo tàn bạo"
(Sorley 1999, 383). Có hàng trăm trại tù cải tạo, rải trên khắp
toàn thể Việt Nam cả ba miền Nam, Trung, Bắc (Nguyen 1983,
201-203). Những ước tính khác cho thấy 1 triệu nạn nhân đã bị giam
giữ không bị chính thức kết tội hay xét xử, 165.000 nạn nhân chết tại
các trại tù cải tạo, và có ít nhất 150 trại tù cải tạo sau khi Sàigòn
xụp đổ (Đỗ Ngọc Uyển; Đỗ 2010). Trong các trại tù cải tạo, tù nhân
bị đối xử vô nhân đạo qua những kỹ thuật như bỏ đói, thiếu
thốn chăm sóc y khoa, khủng bố, tra tấn, và xử tử tức khắc
(Nguyen 1983, 210-217; Vo 2004, 121-126; 133-142; 151-158). "Bị thường
xuyên bỏ đói và khổ sai, những tù nhân VNCH trong các trại cải
tạo chịu đựng đủ loại bệnh hoạn, đưa đến hàng ngàn cái chết
không ghi sổ" (Wiest 2008, 284). Hành quyết tù nhân trong tù cải
tạo thường xảy ra tại chỗ và không theo thể lệ thích đáng
hoặc chỉ là hình thức đại khái (Vo 2004, 139; Hồ 2008). Việc
không chôn cấ̉t người chết cũng dùng để nhục mạ gia đình nạn
nhân (Vo 2004, 141). Rất nhiều vụ hành quyết xảy ra bất hợp
pháp và luôn được che giấu. Do đó, rất nhiều tù nhân mất tích,
không rõ sống chết thế nào. Xác họ không bao giờ được trả về
cho gia đình, và khiến cho biết bao nhiều gia đình đau khổ vì
nạn nhân không được chôn cất tử tế để được cúng kiến cho siêu
thoát (sđd., 142). "Và bằng lối hành xử dã man, rừng rú này,
cộng sản đã phạm 5 trong số 11 Tội Ác chống Nhân Loại (Crimes against
Humanity) theo luật pháp quốc tế" (Đỗ Ngọc Uyển).
Thành viên gia đình của những người phục vụ cho Việt Nam Cộng Hòa hoặc
QLVNCH bị đối xử như là chia tội họ (Denney 1990). Con cháu các viên
chức chính phủ và sĩ quan quân đội chế độ cũ bị kỳ thị trầm trọng (sđd.).
Các thành viên gia đình bị từ chối việc làm và con cái họ không được
phép hoàn thành cấp độ giáo dục cao hơn (Freeman 1995, 93; Nguyễn
2012, 529).
Thăm nuôi tù cải tạo rất quan trọng cho tù nhân. Ngoài chuyện
được người thân yêu "thăm," người tù còn được thực sự "nuôi" vì
người đến thăm mang theo thực phẩm (Sagan và Denney 1982). Vợ
của những người tù cải tạo thường là những người đàn bà
không có nghề nghiệp chuyên môn và là nội trợ thuần túy. Khi
chồng bị đi tù cải tạo, họ và con cái phải làm việc cực
nhọc, nhiều khi phải xin xỏ, từ thức ăn tới quần áo. Con cái
họ phải lo thân như bán báo, xin ăn, hoặc mò thùng rác. Họ làm
việc cực khổ đêm ngày tại vùng kinh tế mới cho hai bát cơm
mỗi ngày (Vo 2004, 126). Với những người có khả năng ̣đi thăm
nuôi, chuyến đi tới trại tù thường nguy hiểm vì trại tù ở xa
xôi, thiếu thốn đường xá và an ninh ở vùng quê (sđd., 127).
Vùng kinh tế mới là sáng kiến của đảng cộng sản để cô lập
và kiểm soát dân. Trên lý thuyết, các vùng kinh tế mới gia tăng
sản xuất thực phẩm; nhưng trên thực tế chỉ là các trại tập
trung nằm tại các nơi núi rừng sốt rét, đất đai khó trồng
trọt, và chỉ là các dự án lao động cưỡng bách (Sagan và
Denney 1982; Nguyen 1983, 222). Gia đình những người tù cải tạo
bị ép buộc phải tới vùng kinh tế mới (Sagan và Denney 1982).
"Để bắt buộc dân đến vùng kinh tế mới, đảng cộng sản Việt Nam
dùng những thủ đoạn như hăm dọa tống họ đến trại tù cải
tạo, thu hồi thẻ khẩu phần để họ không còn có thể mua nhu yếu
phẩm hàng ngày như gạo và quần áo ở giá chính thức, vả
không cho phép con cái họ đi học" (Nguyen 1983, 219).
Ngoài những tài liệu nghiên cứu khách quan do các học giả lịch
sử có tên tuổi, có rất nhiều hồi ký, lời tường thuật, của
các tù nhân cải tạo và những người vợ của các tù nhân cải
tạo (Xem, thí dụ như, Chúc Thuần, Hồ 2008, Kale 2002, Nguyễn 2003,
Thanh Minh, Trần 2015) nói về cách đối xử tàn nhẫn vô nhân đạo
của cộng sản với tù nhân trong các trại tù và cuộc sống nhọc
nhằn của những người vợ tù cải tạo. Sự ngược đãi và chính
sách tàn bạo của nhóm cầm quyền cộng sản với các tù nhân
cải tạo và thân nhân họ là một sự thật không thể chối cãi
được. Tuy nhiên, vào tháng tư năm 2015, giáo sư Vũ Quang Hiển của
Đại học Quốc gia Hà Nội tuyên bố rằng không có ngược đãi các quân
cán chính VNCH sau 1975 và không có tù đày tại các trại tập
trung cải tạo (BBC 2015). Sự chối bỏ một sự thật hiển nhiên qua
một sử gia quốc doanh cộng sản cho thấy tâm địa gian manh và
đầu óc ngu xuẩn của nhóm cầm quyền cộng sản tại Việt Nam
hiện nay. Gian manh vì chúng muốn ếm nhẹm và bao che tội ác
chúng. Ngu xuẩn vì việc ếm nhẹm và bao che đó có phản tác
dụng mạnh mẽ, vì người dân sẽ tự hỏi, "Với những việc hiển
nhiên rõ ràng như vậy mà chúng còn chối bỏ, thì với những
việc chưa được phanh phui, chúng còn bao che và lấp liếm như thế
nào?"
2. Con cò được dùng để ám chỉ người đàn bà Việt Nam cho sự cần cù làm việc và lòng dạ trong sạch:
Văn chương Việt Nam, nhất là ca dao tục ngữ, thường dùng thú
vật làm biểu tượng hoặc ẩn dụ cho nhân vật hoặc khái niệm
nào đó. Có những hình ảnh thông thường được nhiều dân tộc
khác trên thế giới dùng. Thí dụ như chim bồ câu tiêu biểu cho
hòa bình, ong bướm cho chuyện ái tình liên hệ tình dục trai
gái, chó cho lòng trung thành. Có những con vật đặc biệt dùng
trong văn chương Việt Nam cho các biểu tượng đặc thù. Thí dụ,
con cá cho con cái trong nhà ("Cá không ăn muối cá ươn/ Con cãi cha mẹ trăm đường con hư"), con chim cho con gái ("Chim khôn lót ổ lựa nhành/ Gái khôn lựa chốn trai lành gửi thân").
Tuy nhiên, một biểu tượng đặc sắc nhất trong văn chương Việt Nam
là con cò dùng làm biểu tượng cho phụ nữ Việt Nam dưới vai
trò người mẹ hoặc người vợ (Wikipedia 2015). Biểu tượng con cò
cho phụ nữ Việt rất có ý nghĩa vì nhiều lý do như sau.
Trước hết, con cò là một sinh vật thường thấy trong vùng đồng
quê Việt Nam. Do đó, con cò mang nặng hình ảnh đất nước Việt
Nam và liên hệ đến cuộc sống hàng ngày của dân Việt vì đồng
quê là phần quan trọng của đời sống dân Việt.
Thứ ba, con cò đi kiếm ăn hoặc lấy mồi nuôi con với một mức độ
kiên trì, cần cù, và nhẫn nại thật đáng kể (Sue 2014). Cò săn
mồi theo cơ hội, dò dẫm qua các vũng nước cạn nơi đồng ruộng
ao hồ, ngoặm mồi bằng mỏ nhọn. Bản chất cần cù, kiên trì
thường có với người phụ nữ Việt Nam qua việc nuôi con, tần tảo,
làm lụng, trong việc quán xuyến mọi việc trong gia đình. Người
mẹ, người vợ Việt Nam hy sinh cho con, cho chồ̀ng, cặm cụi kiếm
sống, chịu đựng mọi muôn ngàn đắng cay cho con, cho chồng như
được thể hiện qua câu ca dao sau (Wikipedia 2015):
Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
Thứ tư và đặc biệt nhất, con cò có lông màu trắng, tượng trưng
cho sự tinh khiết và trong sạch, một đặc điểm của phụ nữ
Việt Nam. Ý nghĩa này được nổi bật trong câu ca dao sau (Huy
2014; Wikipedia 2015):
Ca khúc "Cái Cò" kể những nỗi khổ đau và cực nhọc của những
người vợ chiến sĩ VNCH và tù nhân tại các trại cải tạo sau
năm 1975. Bài hát không nói về câu chuyện của một người vợ
nào, mà là câu chuyện tổng quát về cuộc đời những người vợ
của quân cán chính VNCH sống trong chuỗi ngày lầm than dưới sự
áp bức của nhóm cầm quyền cộng sản sau 1975.
Bài hát mở đầu bằng cuộc gặp gỡ ngắn giữa người chồng trong
tù cải tạo và người vợ đi thăm nuôi chồng. Người vợ trèo non
lội suối đi thăm nuôi chồ̀ng là tù cải tạo trong trại tù xa
xôi. Nàng thương nhớ chồng và khóc cho thân phận bị ngược đãi ("Cái cò lặn lội bờ sông, gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non"). Câu mở đầu này lấy từ câu ca dao, tạo nên nền tảng của câu chuyện về người vợ tần tảo nuôi chồng.
Gặp nhau trong giây phút ngắn ngủi, người chồng thương xót cho
vợ mình kiên tâm trì chí, chung thủy với chồng. Chỉ có một
thân một mình, nàng tận tụy nuôi con và thăm viếng chồng bị tù
đày xa xôi ("Thương em dạ sắt lòng son, một thân đơn chiếc nuôi con thăm chồng").
Trong khi tay những người đàn bà khác đẹp đẽ tươi tốt như vàng
bạc, tay của nàng nứt nẻ khô cằn rướm máu vì làm lụng cực
khổ ("Bàn tay ai tốt vàng ròng, bàn tay em nứt máu hồng tuôn rơi").
Hai người nhìn nhau trong cuộc hội ngộ ngắn ngủi, muốn nói
với nhau biết bao nhiêu lời kể lể tâm sự, nhưng nỗi tái tê và
hỗn loạn tâm hồn khiến họ không nói nên lời ("Nhìn nhau muốn nói vạn lời, mà tim se thắt rối bời tâm can").
Người vợ bây giờ không còn gánh gạo nữa vì lúa gạo không có,
là thứ xa xỉ phẩm, và thuộc về quá khứ. Nàng bòn thức ăn
từng chút một, như ngô sắn khoai sùng, để ăn sống qua ngày trong
nỗi khổ đau buồn thảm ("Cái cò ngày nay không còn gánh gạo/ Gạo
đã thành một quá khứ xa xôi/ Cái cò ngày nay xuống biển tìm mồi/ Ngô sắn
khoai sùng ăn cầm chừng nước mắt tuôn rơi"). Cảnh thiếu ăn,
thiếu gạo là thực trạng xảy ra tại Việt Nam sau ngày cộng sản
Bắc Việt chiếm đóng miền Nam. Sau khi thu chiếm miền Nam, nhóm
cầm quyền cộng sản Bắc Việt phá hoại kinh tế đất nước và đem
mức sản xuất nông nghiệp của miền Nam có thời cao nhất Đông
Nam Á xuống thấp nhất, đến độ phải vay mượn thực phẩm từ các
quốc gia khác. Trong cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980,
dân Việt không còn được ăn gạo thường xuyên nữa. Tại Sài Gòn,
"đô thị lớn nhất miền Nam từ thừa mứa gạo trong suốt 300 năm qua, lần
đầu phải ăn độn khoai mì, khoai lang, kể cả bo bo, thứ hạt cứng ngắc mà
Liên Xô viện trợ" (Quốc 2015a). "Loại bo bo mà dân Việt một thời phải
trệu trạo nhai để sinh tồn còn gọi lúa miến (sorghum)" (Quốc 2015b).
Khoai sùng là loại khoai lang bị sùng ăn và phá hoại. Sùng,
còn gọi là sùng đất hoặc bọ dím, hà, là ấu trùng của bọ
hung. Chúng ăn và phá ruột củ khoai khiến củ khoai thay đổi mùi
vị, trở thành đắng và không thể ăn được, ngay cả cho gia súc.
Người vợ không quản khó nhọc, vẫn ráng làm lụng cực khổ để
nuôi đàn con nheo nhóc. Tài sản đã mất hết, không còn gì để
bán nữa, nàng chỉ còn những giọt máu đào trong cơ thể phải
bán đi để có tiền hoặc tem phiếu cho thực phẩm mang về nuôi
con. Nàng bị ép buộc phải lội suối trèo non đi tới vùng kinh
tế mới xa xôi, cố gây dựng cuộc sống nơi đất đai cằn cỗi, làm
lụng thay chồng nuôi đàn con ("Cái cò lặn lội bờ ao, bán giọt máu đào nuôi dưỡng đàn con/ Thương em lội suối trèo non vùng kinh tế mới nuôi con thay chồng").
Hình ảnh người dân bán máu để sinh sống không xa lạ gì với
dân Việt Nam, ngay cả hiện nay. Trong cuối thập niên 1970 và đầu
thập niên 1980, dưới thời bao cấp, cuộc sống người dân rất cực
khổ, thức ăn thiếu thốn. Do đó, dân nảy ra nhiều kế sinh nhai.
Một trong những kế sinh nhai đó là "nghề" bán máu. "Những
người bán máu là những người dân nghèo nhất; họ không còn gì
khác để bán nữa" (Thành 2002). Ngoài ra, như trình bày ở trên,
các vùng kinh tế mới chỉ là biện pháp nhóm cầm quyền cộng
sản phân tán và kiểm soát dân. Người dân, nhất là thân nhân của
những tù nhân cải tạo, bị ép buộc phải đi tới những nơi đất
đai cằn cỗi, rất khó trồng trọt. Nhiều người phải bỏ vùng
kinh tế mới, trở về thành phố đô thị, sống lây lất với người
quen.
Cuộc đời dâu bể bây giờ biến thành cuộc đời sống còn. Đất
nước đã bị cộng phỉ chiếm đóng, nhà cửa, tài sản bị chúng
cướp đoạt, vợ chồng ly tán. Chồng bị bắt đi tù cải tạo biết
bao nhiêu năm không thấy về. Vợ bị ép buộc đi vùng kinh tế xa
xôi hẻo lánh, cày sâu cuốc bẫm đất đai cằn cỗi hoang vu, cố
gắng trồng trọt ("Biển dâu đã hóa ruộng đồng, nhà tan nước mất vợ chồng chia ly/ Chồng đi cải tạo không về, vợ đi tay cuốc tay cày đất hoang").
Nàng bây giờ chỉ ước mơ có được chén cơm bát gạo để nuôi con
và sống qua ngày. Nàng phải lấy sức, để dành giọt máu đào
để bán khi cần phải nuôi con. Nhưmg cuộc sống quá gian nan, nàng
kiệt lực vì làm lụng vất vả, bây giờ đầu gối chân và gót
chân mòn mỏi vì phải lê bước khắp nơi. Thêm vào đó, nàng phải
gồng gánh gói kiện thức ăn mang đến thăm nuôi chồng đi qua những
nơi xa xôi hiểm trở, núi non ngăn trở ("Cái cò ngày nay mơ tìm
chén gạo/ Giọt máu đào dành để bán nuôi con/ Cái cò ngày nay gối mỏi
chân mòn/ Vai gánh vai gồng đi thăm chồng cách núi ngăn non").
Nàng kéo lê cuộc đời cực khổ đói khát với nỗi đau buổn tức
tưởi. Nàng còn quá trẻ, chỉ mới đôi mươi mà phải trải qua
biết bao nhiêu đau thương trong cuộc đời vì biến cố quốc gia
khiến cuộc đời nàng trôi nổi lầm than, nhan sắc phai tàn ("Cái cò lặn lội bờ đê, đói khổ trăm bề nước mắt đầy vơi/ Thương em tuổi mới đôi mươi, vì cơn quốc biến hoa trôi hương tàn").
Nàng tiêu biểu cho những người vợ của chiến sĩ VNCH đã anh
dũng hy sinh cho tổ quốc hoặc bị cộng sản bắt giam trong những
trại tù cải tạo tàn bạo sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Chồng nàng là người chiến sĩ tuẫn tiết trên quốc lộ khi chống
trả quân thù, không chịu đầu hàng trước lũ giặc xâm lăng. Máu
anh tuôn ra lai láng như nước sông lan tràn. Anh ngã gục chết
cùng với hàng ngàn người dân mà anh cố bảo vệ ("Chiều trên
quốc lộ kinh hoàng, chồng em tuẫn tiết máu tràn như sông/ Chồng em chiến
sĩ anh hùng, vì dân chiến đấu thác cùng muôn dân"). Hình ảnh
người lính VNCH tuẫn tiết không đầu hàng giặc cộng sản là
hình ảnh oai hùng nhất trong cuộc chiến, vì họ bảo tồn Danh
Dự họ, theo đúng ba điều Trách Nhiệm, Danh Dự, và Tổ Quốc của
QLVNCH. Trong cuộc chiến, có rất nhiều trường hợp lính VNCH
tuẫn tiết trong trận. Bài hát "Anh không chết đâu anh"của Trần
Thiện Thanh nói đến viên đạn cuối cùng mà trung úy Nhảy Dù
Nguyễn Văn Đương dùng để tuẫn tiết năm 1971. Vào những ngày cuối
cùng của miền Nam Việt Nam, biết bao nhiêu chiến sĩ VNCH đã
tuẫn tiết, từ binh sĩ tới năm vị tướng (Nguyễn 2015a; Nguyễn
2015b).
Chồng chết, nàng trở thành góa phụ, nhưng nàng vẫn không quên
bổn phận làm dâu và người mẹ. Nàng dắt díu mẹ chồng và các
con đi về quê. Nhưng quê nàng đã tan hoang. Nhà cửa tài sản đã
bị lũ cộng sản chiếm đoạt. Nàng bị ép buộc đi lên nơi rừng
sâu nước độc vùng kinh tế mới ("Cái cò ngày nay đã thành góa
phụ/ Tay dắt mẹ chồng tay dắt đàn con/ Muốn về làng quê, quê cũ không
còn/ Giặc bắt lên rừng đi vào vùng chướng khí lam sơn").
Nàng là thiếu phụ lặn lội kiếm ăn, vét cống đào đường làm
lụng cực nhọc, trong cơn gió lạnh rét căm căm. Chồng nàng bị
giặc cộng sản bắt đi tù cải tạo, thay đổi trại tù từ Nam ra
Bắc biệt tăm tin tức, khiến nàng không biết anh ở đâu để đi thăm
nuôi ("Cái cò lặn lội bờ mương, vét cống đào đường cái rét lạnh căm/ Chồng em giặc bắt biệt tăm, tù Nam tù Bắc biết thăm nơi nào").
Thế rồi, vào một đêm mưa giông bão tố, có người đến báo cho
nàng một hung tin. Chổng nàng bị giặc cộng giết trong trại tù
khi anh bị đói rét lao động cực hình ("Một đêm gió lộng mưa gào, được tin anh đã đi vào thiên thu/ Chồng em chết giữa ngục tù, khổ sai đói rét cộng thù giết anh").
Chuyện tù cải tạo bị giết trong tù được biết rõ. Những vụ
giết người có đủ mọi lý do: tù nhân trốn thoát, tù nhân làm
loạn, theo dự tính trước với những tù nhân không có hành động
phản kháng, bắn giết khơi khơi không có lý do (Vo 2004, 139-140).
Đau đớn cùng cực, nàng đi tới trại tù xa xôi, nơi vùng đất xa
lạ. Đầu quấn khăn tang, nàng cố tìm mộ chồng. Nàng đi qua từng
ngôi mộ hoang, hy vọng tìm được mộ bia khắc tên chồng, nhưng
không tìm được mộ anh. Nước mắt dầm dề, nàng thương xót cho
người chồng bất hạnh, chết đi mà không được chôn cất mộ phần
để được khói nhang thờ phụng ("Cái cò một thân lên vùng đất lạ/
Đến trại tù tóc quấn vành tang/ Đếm từng mồ hoang máu lệ hai hàng/ Đau
xót cho chồng không mộ phần không khói không nhang"). Đối với
truyền thống văn hóa Việt Nam, không có mộ phần, nhang khói cho
người chết là một nỗi đau đớn tủi nhục nhất cho thân nhân
người quá cố. Như đã trình bày trên, có rất nhiều vụ hành
quyết xảy ra tại trại tù và xác nạn nhân thường không được
trả về cho thân nhân. Đây là một hành động tàn ác nhất của
cộng sản, tạo đau thương cho gia đình nạn nhân cho biết bao năm.
Tóm lại, "Cái Cò" không phải là một câu chuyện đặc biệt về
một người vợ lính VNCH nào đó, mà là các câu chuyện tiêu biểu
cho những người vợ chiến sĩ VNCH. Những người vợ này phải
làm việc cần cù, thăm nuôi chồng nơi tù cải tạo xa xôi, đi tới
các vùng kinh tế mới với đất đai hoang dã, nuôi đàn con và săn
sóc cha mẹ chồng, làm tròn bổn phận của người con dâu, người
vợ, và người mẹ. Họ phải chịu đựng nhọc nhằn, đói lạnh, và
nỗi thống khổ khi người chồng chết trong chiến trận hoặc bị
cộng sản giết trong ngục tù cải tạo.
C. Bài hát có
giai điệu chậm buồn nhưng thay đổi, và lời ca có cấu trúc thăng
bằng với cách dùng chữ có hiệu quả:
Courtois, Stéphane et al. 1999. The Black Book of Communism, Crimes, Terror, Repression, translated by Jonathan Murphy and Mark Kramer, Harvard University Press, Massachusetts, U.S.A.
Denney, Stephen. 1990. Human Rights and Daily Life in Vietnam.
No comments:
Post a Comment