LÊ QUANG VINH * CUỘC HÀNH HÌNH CỤ NGHÈ CƠ
VÀ BÀI THƠ "ĐỒNG CHÍ CỦA TÔI"
Lê Quang Vinh
Tôi đọc bài thơ “Đồng chí của tôi” của Cố Thi sĩ Văn Cao và
lời giới thiệu về con đường đến với công chúng của bài thơ đó của Nhà
thơ Nguyễn Trọng Tạo; từ trong tâm khảm tôi, một niềm xúc động dâng trào
và lòng thương cảm sâu xa đối với biết bao con người đã bị CCRĐ đày đọa
đến những cái chết thê thảm. Tôi cứ đọc đi đọc lại bài thơ, trong đầu
cũng cứ nổi lên bao lần câu hỏi: Chẳng lẽ Thi sĩ Văn Cao chứng kiến hoặc
nghe ai đó kể tường tận cho ông biết về cuộc hành hình của Đội CCRĐ xã
Quảng Hòa, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình đối với Thân sĩ yêu nước,
đảng viên Đảng Lao động VN, Lão thành CM tiền khởi nghĩa Cụ Nghè Cơ –
Nguyễn Bá Ky? Nếu không thế, để giờ đây con cháu hậu duệ Cụ Nghè Cơ và
cả chúng ta, làm sao có được bức tranh vô cùng bi thương bằng thơ chi
tiết, điển hình và chính xác đến từng hơi thở của nạn nhân mà Văn Cao
xây dựng nên (vẻ lại) tài tình đến thế? Đích thị nhân vật trong bài thơ
“Đồng chí của tôi” chính là Cụ Nghè Cơ làng Vĩnh Lộc (xã Quảng Hòa) –
Quê hương tôi rồi!
“Cụ Nghè Cơ - Tên thật Nguyễn Bá Ky
(1896 – 1956), Bí danh hoạt động CM là "Vĩnh Khang" – Nhạc phụ của
nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Phó thủ tướng, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên -
bị “Cải cách ruộng đất” quy “địa chủ”, “phản động”, “cường hào gian ác”
và xử bắn ngay nơi chỗ mệ Nội tôi nằm là bãi Hói Nại. Cách đây 2 năm,
Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình đã có Quyết định công nhận "Cán bộ Lão thành
cách mạng tiền khởi nghĩa" cho ông Nghè (Liệt sĩ, Đảng viên Đảng Lao
động – nay là ĐCS). Trường hợp minh oan này là vô cùng hy hữu và đặc
biệt; cả nước vẫn còn đấy biết bao gia đình bị quy kết oan sai, song sự
công bằng chưa thể đến với họ”. (Đám tang mệ Nội tôi – Nghịch lý thời
Cải cách ruộng đất” – LQV).
Ông Nghè vốn là người thân
trong gia đình tôi. Lớn hơn sắp tuổi cha tôi – Cụ lê Duy Tiếu (sinh
1902), lại là họ hàng ruột thịt của thông gia nhà tôi bên Cụ Kiểm Điến
(gọi theo tục danh con cả Đinh Xuân Náo). Ông Nghè là em ruột mệ Kiểm –
Cụ Nguyễn Thị Huồn, nơi chị cả tôi Lê Thị Toán lấy chồng là anh Đinh
Duyệt, nên các cụ qua lại chơi thân với nhau. Mấy năm sau khi cha tôi
mất, Ông vẫn giữ tình thân như cũ.
Tôi nhớ Ông Nghè
là Hội trưởng “Hội Bảo trợ học đường” trong xã (không biết có giống như
“Hội Cha mẹ học sinh” bây giờ không?); mẹ tôi là "chấp hành", là “thủ
quỹ” của hội đó. Thi thoảng Ông Nghè lên nhà tôi theo công việc của Hội
Bảo trợ học đường; những cữ ấy, Mẹ tôi hay làm ram (nem), hoặc chả cuốn
thịt chỉ bé bằng 2 đốt ngón tay xiên vào que tre nướng khói bay mùi thơm
lừng, để mời Ông nhắm rượu. Mẹ sai tôi quạt than hồng nướng chả, bưng
thau (chậu đồng) múc nước cho Ông rửa tay; xong đâu đấy thì đứng sau cột
nhà gần nơi Ông ngồi để sai mọi thứ khác như đưa tăm, khăn lau tay, ống
nhổ, rót nước mời. Tuy còn nhỏ, nhưng tôi cũng ngầm hiểu ý Mẹ muốn dạy
phép tắc cho tôi. Ông Nghè để râu dài dài nhưng hơi thưa và đã bạc. Ông
ăn nói nhỏ nhẹ, kiệm lời. Trong tôi, Ông Nghè rất hiền, cao khiết và nho
nhã vô cùng. Mẹ tôi cùng ngồi hầu chuyện Ông Nghè trên phản gọ giữa
nhà, chỉ ăn trầu liên tục. Nghe nói, hai Cụ có giao ước gả cho nhau đứa
con.
Bi kịch xẩy ra hôm đó, đúng 27/Tết Bính
Thân (27/12/Ất Mùi – 8/2/1956). Trời lạnh, gió thổi mạnh nhưng tạnh ráo.
Mới 8 tuổi, đang đói vàng mắt vẫn đầy sự hiếu kỳ của trẻ con nên tôi mò
ra phía sác bần (vùng đất nhiễm mặn bỏ hoang, không canh tác được bên
bãi Hói Nại của làng Hòa Ninh) để xem xử bắn Ông Nghè và mấy người nữa.
Dầu tôi là con địa chủ, nhưng không ai để ý đến cả. Tôi ra đây từ sáng
sớm, lần đến chỗ Ông Nghè đang bị trói “cánh khuỷu” là đám mả xung quanh
mọc đầy những cơn (cây) dứa dại đầy gây (gai). Ông Nghè vốn đã là người
nhẳng (gầy), nhưng hôm nay nhẳng lắm, thân hình lọt thỏm trong bộ áo
quần màu nâu nhuộm thẫm rách tả tơi nhiều ngày không được tắm rửa giặt
giũ. Nét mặt ông hốc hác tiều tụy, toàn những hốc xương. Ông ngồi đó, cứ
run lên do gió quá mạnh giữa đồng không mông quạnh. Tuy hai tay bị trói
thế, nhưng người ta vẫn khoác chéo theo vai Ông cuộn chiếu bó tròn chả
biết để làm gì ?.
Không hiểu sao, tôi lấy “bình
sinh” đâu ra mà lại chả sợ mình là “con địa chủ” để lách qua mấy ông
“dân quân” tay lăm lăm súng ống đến gần nơi Ông Nghè đang bị giam giữ.
Tôi nhìn rõ Ông mồn một trong khoảng cách mấy bước chân, thế mà đờ đẫn
ngu dại không cất lên lấy một lời chào Ông Nghè như mọi khi. Không biết
Ông có còn để ý rồi coi tôi là quá hỗn không? Trong hoàn cảnh này, tôi
không tin là Ông có nhớ ra tôi – Thằng bé con Ả Chắt Tíu!
Người ta dẫn giải Ông Nghè ra chỗ để xử bắn. Trước đó mấy ngày,
đã đấu tố kịch liệt đủ thứ tội ác do Ông Nghè gây ra từ sự tưởng tượng
diệu kỳ của đội Cải cách ruộng đất (chép ra giấy cho những người đấu tố
học thuộc lòng để đấu theo bài bản hẳn hoi). Nơi để xử bắn ông, đã đào
sẵn 3 hố huyệt và trồng 3 cọc tre để buộc 3 “phạm nhân” khi bắn. Ông
Nghè cùng 2 “phạm nhân” nữa bị bắn bỏ hôm nay là Ông Đoàn Yên tuổi còn
trẻ lắm, con trai Cụ Đoàn Nghé – Trùm Đạo Công giáo (một chức danh thuộc
họ Đạo) có tiếng trong vùng, là em ruột ông Đoàn Dưỡng - Nguyên Chủ
tịch Uỷ ban hành chính kháng chiến xã Ninh Trạch (gồm 3 xã sau này là
Quảng Hòa, Quảng Lộc, Quảng Văn). Ông Đoàn Dưỡng khi còn trong kháng
chiến chống Pháp, đã bị vu oan phản động, Việt Minh bắt giam và sau đó
thủ tiêu mất tích. Một án oan tày liếp dội xuống đầu ông Đoàn Dưỡng và
bao thế hệ con cháu cho đến tận ngày hôm nay. Còn Ông nữa đã cao tuổi
người Vĩnh Phước, xã Quảng Lộc; hình như tên là Hồ Tiêu hoặc Lê Huyến
(một trong hai người này, cả hai đều bị bắn trước và sau có một ngày,
nay tôi không còn nhớ rõ nữa).
Cụ Nghè được cởi dây
trói là liền bị buộc ngay vào cọc tre. Không bịt mắt, Cụ bị hành hình
đầu tiên bằng súng trường của dân quân. Lúc này, tôi sợ nên không theo
gần, chỉ đứng xa xa nên không nghe được lời tuyên án nhưng mấy phát súng
nổ “đoàng đoàng” thì xé rách cả trời đông của ngày Tết cổ truyền đang
sang.
Ngày 29/8/2014 (5/8/Giáp Ngọ) vừa xong, cùng
dự đám giỗ ông Đoàn Khiển - Người bà con cùng quê quá cố cách đây chẵn 2
năm; khi mấy anh em nhắc đến những chuyện trong thời kỳ CCRĐ, ông
Nguyễn Thế Tế - Bạn thân của ông Đoàn Khiển, người anh thân thiết đáng
kính của lớp đàn em như tôi, kể lại tường tận những giây phút cuối cùng
của Ông Nghè trong cuộc hành hình oan nghiệt ấy mà nay tôi thấy sao nó y
trang như mô tả trong bài thơ “Đồng chí của tôi” của Cố Thi sĩ Văn Cao
tôi vừa đọc (do Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo giới thiệu).
Trước khi đọc những gì tôi sắp viết ra, xin được có đôi lời về
Cụ Thân phụ ông Nguyễn Thế Tế, vì giữa Cụ và Ông Nghè Cơ Nguyễn Bá Ky có
mối quan hệ “đồng chí” từ trước những năm 30 của thế kỷ trước. Cha ông
Nguyễn Thế Tế tên là Nguyễn Thư, sinh sau Ông Nghè Cơ Nguyễn Bá Ky 4
tuổi (1900). Hai cụ đều theo học chữ Hán nhưng sự nghiệp lại rẽ đôi
đường. Cụ Nghè theo con đường học vấn quan lộ, thi thố đỗ tới “Ông Nghè”
(học trường “Quốc tử giám” ở Huế, đậu “Tôt nghiệp” loại “khiêu” (giỏi),
được Triều đình nhà Nguyễn giữ lại dạy chữ Hán trong Hoàng tộc). Còn Cụ
Nguyễn Thư dùi mài kinh sử lại theo nghiệp gia truyền làm nghề thuốc
Bắc, về sau trở thành một thầy thuốc giỏi, nổi tiếng khắp vùng quê tôi.
Trước năm 1930, một người tên là Nguyễn Tế (tức Huyên) ở thôn Lũ Phong,
Xã Quảng Phong cùng huyện nhà – Sau này là người đứng ra thành lập Chi
bộ Đảng CS đầu tiên tại huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình trước năm
1945; sang vùng Nam Quảng Trạch vận động Cụ Nguyễn Bá Ky và Cụ Nguyễn
Thư tham gia hoạt động trong phong trào yêu nước chống Pháp. Sau mấy
năm, các hoạt động của hai người bại lộ, nên từ năm 1932 đến năm 1935,
Cụ Nguyễn Bá Ky và Cụ Nguyễn Thư bị thực dân Pháp bắt và bỏ tù giam tại
nhà lao Đồng Hới. Riêng Cụ Nguyễn Bá Ky về sau (năm 1943) tiếp tục tham
gia “Việt Minh” (do chính con rể là ông Đồng Sĩ Nguyên và ông Nguyễn
Trản (em ruột ông Nguyễn Tế) giới thiệu). Cụ là người tự phá câu đối thờ
trong nhà mình để lấy vải may cờ đỏ sao vàng tổ chưc cướp chính quyền ở
phủ Quảng Trạch (Ba Đồn). Một việc “đại tối kỵ” như vậy nhưng vẫn phải
hy sinh vì Cách mạng. Thắng lợi, Cụ Nghè được phân công làm Chủ nhiệm
Việt Minh xã Vĩnh Trạch (tức xã Quảng Lộc bây giờ). Đến năm 1948, Cụ
Nguyễn Bá ky là Chủ tịch Mặt trận Liên Việt huyện Quảng Trạch, tỉnh
Quảng Bình.
Quay lại câu chuyện của ông Nguyễn Thế Tế
trong đám giỗ. Ông Tế nói rằng, vì giữa cha mình với Cụ Nghè Cơ có mối
quan hệ khá đặc biệt như vậy, nên ông đã cố len được lên hàng người đầu
tiên để xem cho thật rõ những gì sắp diễn ra đối với người bạn thâm hậu
của cha mình. Ông Nguyễn Thế Tế sinh năm 1939, thời CCRĐ mới chỉ là một
“thiếu niên” (16 tuổi), nên chen chúc vẫn là thuân lợi. Với trí lực và
trái tim của tuổi 16 đầy nhạy cảm, hình như điều này còn nguyên vẹn
trong đáy sâu tâm khảm dầu nay ông đã trên 70 tuổi; nên ông Nguyễn Thế
Tế nhớ rành rọt để kể lại những chi tiết thật hãi hùng với cảm xúc lớp
lang như trong phim của các đạo diễn có tài mới dàn dựng nổi. Ông Tế kể,
người trực tiếp ôm khẩu súng trường sắp sửa bắn Cụ Nghè tên là Nguyễn
Khuyển (Nghĩa đen là "Nguyễn Chó", sau này làm trưởng Công an xã Quảng
Hòa thì đổi tên thành Nguyễn Khuyến - Cùng tên Nhà thơ lớn VN), nhà ở
cùng thôn và hình như còn có chút họ hàng với Cụ Nghè (đều họ "Nguyễn").
Trước mặt ông Khuyển, Cụ Nghè bị buộc chặt vào chiếc cọc tre da còn
nguyên xanh thẳng đuột, mặt rũ rượi dán xuỗng đất, dường như cụ không
còn biết việc gì đang diễn ra xung quanh mình nữa. Tên Khuyển này cũng
ngắm nghía kỹ càng trước khi bóp cò súng, nhưng viên đạn đầu tiên
“đoàng” một cái lại chạy sượt vào phía ngoài bả vai bên trái Cụ Nghè.
Máu chảy. Bừng tỉnh. Cụ cố dồn hết sức trong người để hất được mặt lên
nhìn thẳng về phía tên bắm mình rồi bất thình lình hô lớn 3 lần rành
rọt, không lẫn bất cứ lời nào: “Hồ Chủ tịch muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn
năm! Hồ Chủ tịch muôn năm!”. Tên Khuyển không chịu thua, hắn cũng dồn
sức bóp cò và những phát đạn tiếp sau đều trúng hồng tâm Cụ Nghè. Mỗi
phát đạn, tên ác ôn này nghiến răng há mồm hô lớn đáp trả theo thế
“thượng phong” trước thân hình nhàu nát của Nhà Cách mạng - Cha chú của
nhiều đảng viên Đảng CS trong họ tộc, trong xã, trong huyện, trong tỉnh
và cả trên Trung ương nữa: “Muôn năm này! Muôn năm này! Muôn năm này!
Muôn năm này!...”. Ông Tế nói nó hô khoảng 5 - 6 lần!
Chép đến
đây, nước mắt lưng tròng. Tôi không thể nào gõ được máy tính nữa. Khổ
thân Ông Nghè quá Ông ạ! (17 giờ 17’ ngày 12/9/2014 – Ngày đang có cuộc
Triển lãm đầy trớ trêu của Bảo tàng lịch sử quốc gia VN đối với nước mắt
Cụ Hồ và hàng trăm nghìn linh hồn oan khiên của CCRĐ: “Cải cách ruộng
đất 1946-1956″).
Hạ sát xong mạng sống của Nhà
Cách mạng tiền bối ĐCS và Nhà nước VNDCCH trên miền Bắc vừa hòa bình,
một đứa trong đội CCRĐ cầm rạ (con dao rựa) đến phía sau xác Cụ Nghè –
Lúc này thân xác Cụ đã khuỵu xuống. Hắn dơ cây rạ định chặt vào dây trói
cho đổ xuống, nhưng láu táu thế nào mà chặt không trúng lạt buộc, lại
trúng ngay hai cẳng tay lẫn bàn tay Cụ. Máu từ hai cẳng tay và bàn tay
lại ròng ròng chảy tiếp nhuộm đỏ cột tre và phần đất phía sau lưng Cụ.
Thêm mấy nhát rạ nữa, xác Cụ Nghè mới đổ sấp xuống. Tên
cầm cuốc xỉa 5 răng, loại cuốc chuyên cuốc đất thịt ruộng khô và vun
vồng khoai lang, đứng chực sẵn đó từ trước liền bổ vào cổ Cụ Nghè rồi
lôi xệch xác xuống hố huyệt gần đó. Cái xác rơi nghe “bịch” xuống đáy
hố, không cần biết sấp hay ngửa, mấy đứa liền cào đất vùi chôn Cụ Nghè
như vùi chôn con súc vật thối tha bệnh hoạn có nguy cơ gây lây lan đại
dịch chết người.
Hành động ghê người này, diễn ra
vào những ngày “năm cùng”, “tháng tận” – 27 Tết Nguyên Đán, chỉ có thể
trong phim ảnh dàn dựng thôi chứ làm sao lại có thể diễn ra thật tự
nhiên và bình thường thời đó trên mảnh đất quê tôi vốn hiền hòa, yên
lành của làng, của xã có tên thật mỹ miều, cao đẹp, đầy nhân văn: “Hòa
Ninh”, “Hợp Hòa”, “Vĩnh phước”, “vĩnh Lộc”, “Quảng Hòa”…? Thật trớ trêu
thay. Nhưng đó là 100% sự thật !
Ông Nguyễn Thế Tế
còn cho biết, về nhà ông liền kể lại từ đầu chí cuối cuộc hành hình Cụ
Nguyễn Bá Ky vừa xẩy ra cho Bọ (cha) mình nghe. Ông cụ đau buồn lắm. Ông
Tế không quên hỏi Bọ: “Sao Bác Nghè lại bừng tỉnh khi trúng đạn rồi đột
nhiên hô to 3 nần: “Hồ Chủ tịch muôn năm”? Cụ Nguyễn Thư trả lời con
trai: “Có khi ôông (ông) ấy hô cho con”(?). Dầu đã nghe cha trả lời rành
rọt thế, nhưng suốt mấy ngày sau đó và nhất là nhiều năm sau này, ông
Nguyễn Thế Tế luôn có ý nghĩ trong lòng: Cụ Nghè đến phút cuối cùng bị
người của chính quyền CS giết vẫn tin vào cuộc Cách mạng của Ông Hồ
chăng?
Mấy năm sau khi người bạn cũng là "đồng chí"
cùng ngục tù của mình bị giết hại ấy, đến thời kỳ xây dựng HTX hóa nông
nghiệp trên miền Bắc XHCN, Cụ Nguyễn Thư (bà con tôn sùng kính trọng
thường gọi là “Thầy Chắt Thư”), vẫn còn khỏe mạnh sung sức nhưng nghề
“thầy thuốc chữa bệnh cứu người” rất tâm huyết bấy lâu của Cụ cũng tức
tưởi bị bức tử. Ông trở thành người cày ruộng cho đến trọn đời (Cụ mất
ngày 26/3/1985 – 6/2/Ất Sửu)...Đúng là tình bằng hữu quê hương cũng như
tình đồng chí, bạn tù gắn bó các cụ ngay cả khi số phận hai người gặp
bước điêu linh nhất của cuộc đời.
Ý nghĩ của riêng
tôi, nay được đọc bài thơ “Đồng chí của tôi” của Cố Thi sĩ Văn Cao; có
lẽ cách hiểu về lời tung hô muôn năm lãnh tụ của Cụ Nghè sẽ như bài thơ
giải bày là đúng nhất…
Xin phép Hương hồn Cố thi sĩ
Văn Cao, được chép nguyên văn bài thơ độc đáo này vào phần cuối bài viết
của tôi để bạn đọc cùng chia sẻ.
ĐỒNG CHÍ CỦA TÔI
Người ta các đồng chí của tôi
Treo tôi lên một cái cây
Đợi một loạt đạn nổ
Tôi sẽ dẫy như một con nai con
Ở đầu sợi dây
Giống như một nữ đồng chí
Một anh hùng của Hà Tĩnh
Tôi sẽ phải kêu lên
Như mọi chiến sĩ bị địch bắn
Đảng Lao động Việt Nam muôn năm
Cho mọi người hiểu khi tôi chết
Vẫn còn là một đảng viên
Cho mọi người hiểu khi tôi chết
Máu của tôi vẫn còn là máu của Việt Nam
Ở dưới gốc cây có các cụ già các bà mẹ
đã nuôi cách mạng
Các em nhỏ từ ba tuổi đứng nhìn tôi
dẫy chết
Có mẹ tôi
Ba lần mang cơm đến nhà tù
Hãy quay mặt đi
Cho các đồng chí bắn tôi
Tôi sợ các cụ già không sống được
Bao năm nữa
Để nhìn thấy xã hội chủ nghĩa
Của chúng ta.
Chết đi mang theo hình đứa con
Bị bắn
Tôi sợ các em còn nhỏ quá
Sẽ nhớ đến bao giờ
Đến bao giờ các em hết nhớ
Hình ảnh tôi bị treo trên cây
Bị bắn
Hãy quay mặt đi
Cho các đồng chí bắn tôi…
Nước mắt lúc này vì Đảng nhỏ xuống
Dòng máu lúc này vì Đảng nhỏ xuống
Đảng Lao động Việt Nam muôn năm
Đảng Lao động…
(1956)
Hà Nội, 21 giờ 20' ngày 12/9/2014
THƠ ĐIẾU ÔNG NGHÈ CƠ CỦA CỤ MINH SƠN HOÀNG BÁ CHUÂN
Cụ Hoàng bá Chuân người Làng Minh Lệ thân sinh Anh Hoàng thúc Tấn,Hoàng quý Thân , Hoàng hữu Cương là bạn học với Sinh, Đình
Kháng chiến cùng nhau quyết một lòng
Suối vàng hởi bạn nhớ hay không ?
Chết rồi mới gọi hồn non nước
Sống lại càng căm nợ núi sông
Hội giữa hoà bình làn sóng bạc
Người trong cải cách nhẹ lông hồng
Thôi tạm đợi toà công lý
Những kẻ tham tàn luật chẳng dung
Năm 1956
Tiểu sử tóm tắt của cụ Nghè cơ Nguyễn Bá Ky
1- Xuất thân và với quê hương
1- Xuất thân và với quê hương
Theo Nguyễn Tộc Đại tôn phổ ký của cụ Nguyễn Tri Ân là trưởng họ (đời
thứ 14) ghi lại thì cụ Nghè Cơ là hậu duệ đời thứ 13 của tả phó tướng
quân Nguyễn Chiêm (chi 2).
Cụ sinh ngày 12 tháng 07 năm Bính Thân tức ngày 20 tháng 08 năm 1896, có
tên là Nguyễn Bá Thâm sau đó đổi là Nguyễn Bá Ky có bút hiệu là Hoài
Trân.
Vốn xuất thân trong một gia đình nhà nho và được gia đình cho đi học chữ
Hán, khi chữ Hán không được trọng dụng thì cụ lại được vào học tại
trường Quốc Tử Giám tại Huế. Cụ tốt nghiệp loại KHIÊU (giỏi) nên được
chọn vào dạy học con em Hoàng tộc trong thành nội và được phong bài ngà “
Hàn Lâm Viện kiểm bộ”. Sau đó cụ được bổ làm thừa phái được 5 năm rồi ,
bị cách chức về quê.
Cụ Nghè về làng, ngoài việc chăm lo đồng áng dạy dỗ con cháu, cụ cùng
với các cụ ở trong làng chăm lo tu sửa xây dựng đình làng, miếu thờ
Thành Hoàng làng Vĩnh Lộc còn lưu lại cho đến ngày nay.
2- Quá trình tham gia hoạt động cách mạng
– Năm 1943 tại nhà ông Giám Vọ (bố đẻ của GS Nguyễn Đinh Cống)
làng Lũ Phong (nay là xã Quảng Phong), phủ ủy Quảng Trạch mời Cụ tham
gia Mặt trận Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Phủ Ủy lúc bấy giờ.
Với tư cách là Việt Minh làng Vĩnh Lộc, Cụ đã mời một số thân hào thân
sỹ tham gia Việt Minh quyên góp tài chính ủng hộ Việt Minh và cùng một
số thanh niên trong làng mua sắm vũ khí thô sơ, may cớ đỏ Sao vàng chuẩn
bị khởi nghĩa.
– Khi thành lập xã Vĩnh Trạch, Cụ được cử làm Chủ nhiệm Việt
Minh đồng thời là thẩm phán tòa án huyện Quảng Trạch (năm 1946)
– Năm 1947, quê nhà bị Pháp chiếm đóng, cụ thóat ly gia đình lên
chiến khu Trung Thuần tham gia Kháng chiến làm trưởng ban Quản lý trại
Trầm Hèo là nơi tập họp những người trong vùng bị chiếm lên chiến khu.
– Cụ là Đảng viên Đảng CS năm 1947.
– Năm 1948 là Chủ tịch mặt trận Liên Việt huyện Quảng Trạch
– Năm 1948-1952 là Ủy ban Kháng Chiến hành chính huyện Quảng Trạch
– Năm 1953-1956 là Ủy viên Ủy Ban Mặt Trận Liên Việt tỉnh
– Năm 1956 bị xử oan trong Cải cách ruộng đất
3- Tác phẩm văn chương:
-Câu đối mừng gia đình Cụ Đinh Kế Nhậm còn lưư lại đến nay.
-Bút tích câu đối tại miếu thờ thành hoang làng Vĩnh Lộc.
-Hoành phi “ THIỆU GIA PHONG “ hiên còn lưu lại bút tích duy nhất của ông Nghè (nguyên bản) tại nhà thờ do ông Nguyễn Lảng lưu giữ sau CCRĐ.
-Câu đối do cụ Nghè sáng tác năm 1940 :
Hiếu nghiĩa tương truyền VĨMH tích dị loại
Thi thư tố giảng LỘC tại kỳ trung
Do các con cháu phục chế tại Hà nội
Cụ có một tập thơ chữ Hán và chữ nôm đã bị thất lạc.Tuy nhiên một số bài thơ hay con cháu còn nhớ và truyền lại
Trong do có bà thơ rất hay :
Nhớ nhà sáng tác năm 1947 tại Trung Thuần
Thơ tặng cụ Trần Thừa ở Làng Lệ Sơn năm 1946
4- Khen thưởng
– Huân chương Kháng chiến Hạng 3 năm 1962
– Cán bộ tham gia Cách mạng trước ngày 01/01/1945 theo QĐ số 680 ngày 14/06/2012 của Tỉnh Ủy Quảng Bình.
–
5- Gia đình:
Đời Cụ Nghè gian truân : 3 lần vợ mất sớm , 4 lần cưới vợ.
*Bà Trần Thị Lê quê ở Huế có 2 con (sinh đôi) cùng mất với bà lúc mới sinh năm 1917.
*Bà Phạm Thị Luyến quê ở Làng Văn Phú mất năm 1925 sinh được 2 người con
*Bà Phạm Thị Yến quê ở làng Văn Phú mất năm 1947 sinh được 6 người con
*Bà Lưu Thị Yêm quê ở Làng Cao Lao Hạ mất năm 1989 không có con nhưng có công nuôi con chồng ăn học thành tài.
Con : Cụ sinh hạ được 8 người con ( 5 trai, 3 gái)
1-Nguyễn thị Toàn (1922-2012) Việt kiều Tại Đức có 4 con nhiều cháu chắt
ở Đức ,Mỹ ,Pháp (có 2 lần các cháu về thăm quê và bà con ở Vĩnh Lộc)
2-Nguyễn Bá Linh (1925-1947) .Có con là Nguyễn Kim Ninh trú tại 49 Võ Thị Sáu , thành phố Phan Rang Tháp Chàm tỉnh Ninh Thuận.
Nguyễn Kim Ninh ,Vơl là ….Nguyệt sinh ha 6 con : Nhân ,Hoà, Hưng ,Thịnh ,Bình, Xuân.
3-Nguyễn thị ngọc Lan sinh năm 1928 có 6 con ,10 cháu,2chắt.
4-Nguyễn thị Kim Cúc sinh năm 1934 có 4 con ,8 cháu, 1 chắt
5-Nguyễn Bá Sinh sinh năm 1938 có 3 con ,6 cháu.
6-Nguyễn Bá Đình sinh năm 1940 có 5 con , 6 cháu.
7-Nguyễn Bá Trinhh sinh năm 1942 có 2 con , 3 cháu.
8-Nguyễn Bá Hinh sinh năm 1947 hy sinh năm 1969
( phân mộ đã được gia đình va địa phương quy tập về nghĩa trang liệt sỹ xã Quảng Hoà).
Tổng số : có 25 cháu và 52 chắt.
Tài liệu tra cứu:
- Gia phả họ Nguyễn, bản viết tay của cụ Nguyễn Tri Ân
- Lý lịch Đảng viên của Nguyễn Bá Sinh, Nguyễn Bá Đình có xác nhận của Đảng Ủy xã Quảng Hòa ký ngày 04-03-1980.
- Hồi ký cách mạng của anh Đồng Sỹ Nguyên do nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân phát hành năm 2007.
- Hồ sơ lưu của Đảng Ủy xã Quảng Hòa về Người có công ngày 01/04/2005
- Hồ sơ lưu của Đảng Ủy xã Quảng Hòa về Người có công ngày 23/03/2010
- Biên bản xét công nhận người hoạt động cách mạng trước ngày 01-01-1945 của huyện ủy Quảng Trạch ngày 22/04/2010.
Nơi đào tạo Cụ Nghè Cơ Nguyễn Bá Ky
Trường Quốc Tử Giám
Tên khác: Đốc Học Đường
Vị trí: trong kinh thành Huế
Xây dựng:1803 (tại An Bình), 1908 (vị trí hiện nay)
Đời vua: Gia Long, Duy Tân
Tình trạng: còn nguyên vẹn
Chức năng: Trường quốc học triều Nguyễn
Quốc Tử Giám 國子監
Quốc Tử Giám (chữ Hán: 國子監) ở Huế, nay là Bảo tàng Lịch sử và Cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, hiện ở số 1 đường 23 tháng 8, thành phố Huế (Việt Nam). Đây là di tích trường đại học duy nhất thời phong kiến còn tồn tại ở Việt Nam[1], và là một di tích lịch sử, văn hóa có giá trị cao. Ngày 11 tháng 12 năm 1993, Quốc Tử Giám cùng với hệ thống di tích cung đình triều Nguyễn đã được ghi tên vào danh mục Di sản thế giới.
Năm 1803, vua Gia Long xây dựng Đốc Học Đường tại địa phận An Ninh Thượng, huyện Hương Trà, cách kinh thành Huế chừng 5 km về phía Tây, trường nằm cạnh Văn Miếu, mặt hướng ra sông Hương. Đây được xem là trường quốc học đầu tiên được xây dựng dưới triều Nguyễn. Đến năm 1908, thời vua Duy Tân, Quốc Tử Giám được dời vào bên trong Kinh thành, bên ngoài, phía Đông Nam Hoàng thành (tức vị trí hiện nay).
Quốc Tử Giám trước đây thuộc địa phận làng An Bình, giáp với làng Long Hồ Hạ, huyện Hương Trà, thành phố Huế là trường Ðại học quốc gia ngày xưa do triều đình mở ra để đào tạo nhân tài. Ở nước ta, Quốc Tử Giám đầu tiên đã được thành lập vào năm 1076 tại Kinh đô Thăng Long dưới thời Lý. Ngay từ đầu nó đã có tên gọi là Quốc Tử Giám và từ đó về sau nó vẫn giữ nguyên vị trí ở kinh đô Thăng Long, trong khuôn viên Văn Miếu Hà Nội ngày nay.
Đến đầu triều Nguyễn, sau khi thống nhất đất nước, vua Gia Long đã quyết định xây dựng kinh đô tại Huế. Năm1803, vua Gia Long xây dựng Đốc Học Đường - đây được xem là trường quốc học đầu tiên được xây dựng dưới triều Nguyễn. Trường được xây tại địa phận An Ninh Thượng, huyện Hương Trà, cách kinh thành Huế chừng 5 km về phía Tây, trường nằm cạnh Văn Miếu, mặt hướng ra sông Hương.
Thời Gia Long, qui mô kiến trúc của trường còn nhỏ, chỉ gồm một tòa chính ở giữa và hai dãy nhà hai bên, dùng làm chỗ để quan Chánh, Phó Đốc Học giảng dạy.
Tháng 3 năm 1820, vua Minh Mạng cho đổi tên thành trường Quốc Tử Giám. Lúc này Quốc Tử Giám được phát triển to lớn hơn. Quốc Tử Giám tiếp tục xây dựng và hoàn thiện tiếp sau đó.
Năm 1821, vua cho dựng tòa Di Luân Đường, một tòa giảng đường và hai dãy nhà học hai bên Di Luân Đường, mỗi dãy 19 gian phòng học, làm chỗ cho sinh viên đọc sách, làm bài.
Bia trước Quốc Tử Giám - Huế
Năm 1803, vua Gia Long xây dựng Đốc Học Đường tại địa phận An Ninh Thượng, huyện Hương Trà, cách kinh thành Huế chừng 5 km về phía Tây, trường nằm cạnh Văn Miếu, mặt hướng ra sông Hương. Đây được xem là trường quốc học đầu tiên được xây dựng dưới triều Nguyễn. Đến năm 1908, thời vua Duy Tân, Quốc Tử Giám được dời vào bên trong Kinh thành, bên ngoài, phía Đông Nam Hoàng thành (tức vị trí hiện nay).
Quốc Tử Giám trước đây thuộc địa phận làng An Bình, giáp với làng Long Hồ Hạ, huyện Hương Trà, thành phố Huế là trường Ðại học quốc gia ngày xưa do triều đình mở ra để đào tạo nhân tài. Ở nước ta, Quốc Tử Giám đầu tiên đã được thành lập vào năm 1076 tại Kinh đô Thăng Long dưới thời Lý. Ngay từ đầu nó đã có tên gọi là Quốc Tử Giám và từ đó về sau nó vẫn giữ nguyên vị trí ở kinh đô Thăng Long, trong khuôn viên Văn Miếu Hà Nội ngày nay.
Đến đầu triều Nguyễn, sau khi thống nhất đất nước, vua Gia Long đã quyết định xây dựng kinh đô tại Huế. Năm1803, vua Gia Long xây dựng Đốc Học Đường - đây được xem là trường quốc học đầu tiên được xây dựng dưới triều Nguyễn. Trường được xây tại địa phận An Ninh Thượng, huyện Hương Trà, cách kinh thành Huế chừng 5 km về phía Tây, trường nằm cạnh Văn Miếu, mặt hướng ra sông Hương.
Thời Gia Long, qui mô kiến trúc của trường còn nhỏ, chỉ gồm một tòa chính ở giữa và hai dãy nhà hai bên, dùng làm chỗ để quan Chánh, Phó Đốc Học giảng dạy.
Tháng 3 năm 1820, vua Minh Mạng cho đổi tên thành trường Quốc Tử Giám. Lúc này Quốc Tử Giám được phát triển to lớn hơn. Quốc Tử Giám tiếp tục xây dựng và hoàn thiện tiếp sau đó.
Năm 1821, vua cho dựng tòa Di Luân Đường, một tòa giảng đường và hai dãy nhà học hai bên Di Luân Đường, mỗi dãy 19 gian phòng học, làm chỗ cho sinh viên đọc sách, làm bài.
Bia trước Quốc Tử Giám - Huế
Đến thời vua Tự Đức, trường được tiếp tục xây dựng và mở mang thêm. Năm 1848,
xây thêm tường bao bọc và dãy cư xá, mỗi bên 2 gian. Trường cũng mở
thêm 2 cửa nhỏ hai bên để sinh viên ra vào. Vì lúc bấy giờ cả nước chỉ
có một trường Quốc Học nên tập trung một lượng sinh viên về học rất
đông. Một lần ghé thăm trường, vua Tự Đức
đã làm một bài văn gồm 14 chương để răn dạy và khuyến khích sinh viên
học hành. Toàn bộ nội dung bài văn này được khắc vào tấm bia dựng trước
sân trường. Do trận bão năm Giáp Thìn (1904), trường bị hư hỏng nặng, nhưng sau đó, trường được phục hồi.
Đến năm 1908, thời vua Duy Tân, Quốc Tử Giám được dời vào bên trong Kinh thành, bên ngoài, phía Đông Nam Hoàng thành (tức vị trí hiện nay). So với kiến trúc cũ, Quốc Tử Giám mới được xây dựng mới thêm nhiều công trình phụ, trong đó, kiến trúc cũ của Di Luân Đường được giữ nguyên. Hai bên là hai dãy phòng học vẫn như cũ và cư xá sinh viên; phía sau trường, ở giữa là tòa Tân Thơ Viện, hai bên là nhà ở của quan Tế Tửu, Tư Nghiệp (hiệu trưởng, hiệu phó) và các viên chức khác của trường. Trong số các công trình kiến trúc này, Di Luân Đường, Tân Thơ Viện và tòa nhà dành cho vị Tế Tửu Quốc Tử Giám ở là những công trình kiến trúc gỗ theo phong cách truyền thống có giá trị nghệ thuật cao (Tân Thơ Viện, Di Luân Đường đều có nguồn gốc từ các công trình kiến trúc của Cung Bảo Định). Năm1923, Tân Thơ Viện trở thành Bảo Tàng Khải Định nên trường Quốc Tử Giám phải lập một thư viện mới mang tên Thư Viện Bảo Đại ở phía sau Di Luân Đường.
Năm 1945, sau khi triều đình nhà Nguyễn chấm dứt vai trò lịch sử của mình, Quốc Tử Giám cũng không thay đổi kiến trúc kể từ đó đến nay.
Dù đã chấm dứt vai trò của mình, thế nhưng trường Quốc Tử Giám đóng góp hết sức to lớn trong việc đào tạo nhân tài cho đất nước, là nơi lưu lại dấu chân của hơn 500 vị tiến sĩ, phó bảng của triều Nguyễn. Cùng với Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Quốc Tử Giám Huế đã đóng góp công sức của mình trong việc đào tạo ra những nhân tài của đất nước và phản ánh một thời kỳ của lịch sử. Kể từ khi Quốc Tử Giám Huế ra đời đến nay, nền giáo dục đại học ở Huế đã có lịch sử gần hai thế kỷ.Tuy nhiên, trong lịch sử, việc dời Quốc Tử Giám vào Phú Xuân (Huế) đồng nghĩa với việc chấm dứt việc thi Hội - Đình tại Thăng Long.
Quốc Tử Giám hiện nay còn khá nguyên vẹn, và khá may mắn so với một số công trình khác trong quần thể di tích cố đô Huế.
Bài viết dựa trên bài Quốc Tử Giám của trung tâm Bảo tàng di tích cố đô Huế http://www.hueworldheritage.org.vn
· Hồ sơ di tích, phòng tư liệu của trung tâm bảo tàng di tích cố đô Huế - sách của Thư Viện Tỉnh Thừa Thiên Huế - Xuất bản năm 2003.
· Quốc Sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, bản dịch Viện Sử học, H.: Nxb. Giáo dục: 48.
· Huế di tích lịch sử văn hoá danh thắng - NXB Thừa Thiên Huế - xuấn bản năm 1995.
Bài viết dựa trên bài Quốc Tử Giám của trung tâm Bảo tàng di tích cố đô Huế http://www.hueworldheritage.org.vn
· Hồ sơ di tích, phòng tư liệu của trung tâm bảo tàng di tích cố đô Huế - sách của Thư Viện Tỉnh Thừa Thiên Huế - Xuất bản năm 2003.
· Quốc Sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, bản dịch Viện Sử học, H.: Nxb. Giáo dục: 48.
· Huế di tích lịch sử văn hoá danh thắng - NXB Thừa Thiên Huế - xuấn bản năm 1995.
SAU CƠN MƯA
1. Thạc sĩ Nguyễn Bá Sinh
2. Tiến sỹ Nguyễn Bá Trinh sinh năm 1944 tại xả Quảng Hoà,huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, con của cụ Nghè Nguyễn Bá Cơ và bà Phạm Thị Yến. Cụ nghè Nguyễn Bá Cơ sinh năm 1896 , ấm sinh trường Quốc tử giám Huế, đậu khiêu, là gia sư trong triều Huế, trực tiếp dạy Bảo Đại hồi còn nhỏ. Thời niên thiếu TS Trinh học ở quê nhà. Trong kỳ hết cấp I (tiểu học) đổ thứ nhất, trong kỳ thi vào cấp II ( lớp 5 , hệ 10 năm ) đổ thứ nhì trong toàn huyện. Năm 1960 đạt giải nhất về toán trong toàn tỉnh Quảng Bình. Học tại khoa Hoá học trường Đại học Tổng hợp (1964 - 1969). Năm 1970-1976 làm việc tại Viện Khoa học kỷ thuật Nông nghiệp Việt Nam. Năm 1977 - 2006 làm việc tại Viện Hoá học, thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Năm 1988 nhận bằng tiến sỹ tại Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Năm 1989 du học: Nga, Bungari, Đức, Ba Lan. Năm 1998 trao đổi khoa học tại Nhật Bản. Lĩnh vực nghiên cứu: Hoá sinh - Tiến hoá phân tử, Hoá học - Công nghệ xử lý nước. Đã có hàng trăm công trình khoa học công bố trong nước và nước ngoài.
GẶP MAY
Hồi
Ký của Ths. Nguyễn Bá Sinh
Năm
1952, khi trường Thiếu sinh quân liên khu 4 giải thể, tôi từ Hà tĩnh trở
về học tiếp lớp 6 ở trường phổ thông cấp 2 Quảng trạch. Quân Pháp đang
đồn trú ở Thanh khê, Ba Đồn, hằng ngày ca nô chở đầy quân lính ngược dòng sông
Gianh lên càn quét, máy bay ban ngày oanh tạc khắp huyện. Quê tôi là vùng du
kích tranh chấp giữa Viêt minh và quân đội Pháp.
Cả
huyện Quảng trạch chỉ có một trường cấp 2 đóng ở vùng núi làng Tùng Chất và
Quảng Châu. Chúng tôi phải mang ngô khoai gạo ở trọ, tự thổi nấu để ăn học, 3
anh em .
Tôi,
Nguyễn thiên Thụ và Đinh Hữu Hồ .chúng tôi đều là bà con họ hàng sống với nhau
từ bé ở quê nên rất hiểu nhau và thương yêu nhau. Hàng ngày phải ra chợ mua
thức ăn : nước mắm,cá mắm và dưa muối ở hàng Bà Khôi (thực ra tôi không biết
tên bà, nhưng bà là mẹ anh Khôi học trên tôi một lớp nên gọi là bà Khôi
(tên con)) cho tiện. Mua nhiều lần hóa ra quen và biết là bạn học của con nên
bà bán rẻ hơn và đôi khi mua chịu.
Lớp
học chúng tôi là một cái lán lợp tranh lụp xụp dưới chân đồi, “ bốn mùa không
liếp che ! gió về ” .Bàn ghế là mấy thanh củi bằng bắp chân kê lên ,trên đặt
mấy tấm ván làm bàn,còn ghế ngồi thì người ta buộc cây tre dài hoặc thanh củi.
Phải
học ban đêm để tránh máy bay (7 giờ tối đên độ 11 giờ đêm) chiếu sáng bằng đèn
dầu lờ mờ. Học sinh có 45-50 người ,lứa tuổi chênh lệch nhau khá nhiều. Có anh
đến 30 tuổi , có vợ và con.
Anh
Pham Quắc làm chủ tich xã vẫn học cùng lớp .Trong lớp có 2 nữ sinh : chị Hiến
đã ngoài 20, Huê Mỹ tuổi 16 cả hai đều ở làng Cảnh Dương. Chúng tôi nhỏ tuổi
nên được thầy bố trí ngồi gần con gái .Bàn trước là chị Hiến, Huê Mỹ và Trinh
(cận thị), phía sau đó là Thụ (ngồi sau chi Hiến) , Hồ ngồi giữa và tôi ngồi
phía ngoài.
Cả
tôi và Thụ đều học giỏi (đứng đầu lớp), Hồ thì thông minh nhưng phải tính hơi
lười, khi làm bài hay quay cóp. Thụ nó ghét có lần nó cho Hồ bớp tai. Nên Hồ
đổi chỗ cho tôi vào ngồi giữa, như vậy là tôi ngồi phía sau lưng Huê Mỹ.
Qua
trò chuyện tôi biết Mỹ là con gái Bác Nhượng cùng công tác với cha tôi ở Uỷ ban
Kháng chiến hành chính huyện năm 1948-1949. Mỹ là một cô gái dáng cao cao, có
nước da trắng hồng, đôi mắt sáng hiền từ , ăn nói nhẹ nhàng và dễ thương.
Tuy
học cùng lớp nhưng ít trò chuyện với Mỹ, tối đến lớp học đến khuya đói bụng và
thì giờ đâu mà nói chuyện.Thỉnh thoảng Mỹ có nhờ tôi làm giúp một số bài toán
khó.
Đầu
năm 1954 , chúng tôi đã lên học lớp 7, máy bay Pháp ném bom xuống làng Pháp Kệ
giết chết thầy Lương duy Khánh dạy văn (hiệu trưởng). Các giáo sư có thầy
Nguyễn Duy Khuyên (dạy sử địa), thầy Hồng dạy toán thì ốm phải đi nằm bệnh
viện. Gia đình tôi lại gặp khó khăn nên bỏ học. Mẹ của Mỹ qua một trận ốm nặng
và qua đời. Mỹ rồi cũng thôi học.
Sau thôi học tôi
trở thành lao động chính trong gia đình : cậu (cha) dì (mẹ kế) đã già yếu,các
em Đình, Trinh, Hinh còn bé. Tôi lo việc đồng áng cày bừa, chặt củi, đắp bờ,
tát nước, đơm nò mợng để kiếm tôm cá . Cuộc sống tạm tạm ổn.
Một buổi
chiều tôi đi chăn bò ngoài đồng, lúc đó một chiếc máy bay màu trắng bay rất
thấp từ biển lao vào , tôi nhìn rõ phi công trong khoang máy, tôi nằm xuống nấp
bên bờ ruộng ...theo phản ứng quen thuộc. Nhưng nó không ném bom... mà cũng
không bắn ... nó rải từng bó giấy ,trắng xoá khắp cánh đồng... truyền
đơn...truyền đơn....Đại ý như sau:
“Hởi quân sỹ
Việt Minh . Hiệp định Genève đã ký kết.Quân đội viễn chinh Pháp sẻ ngưng bắn từ
hôm nay.Yêu cầu phía VM cũng ngừng bắn để tránh đổ máu ...”
Tôi reo lên :
ngừng bắn,ngừng bắn...ngừng bắn ,giặc Pháp sẻ rút hết,nước ta độc lập. Cầm một
nắm truyền đơn chạy về nhà khoe với cậu.Cha tôi mừng lắm.Như câu thơ của Ông đã
viết năm 1947
“Độc Lập rồi đây vui sướng nhỉ
Còn non còn nước ,chúng ta còn ”
Nhưng có ai ngờ ? Mùa đông đến : Cải cách ruộng đất. Cách mạng long
trời lở đất.
Gia đình tôi tan
nát : Cha bị giết một cách dã man. Tôi và Đình bị du kích bắt trói nhiều lần,
nhà cửa ruộng vườn bị tịch thu, em phải đi ăn xin và đi ở thuê mỗi đứa một nơi.
Cuộc đời thế là hết...Tuyệt vọng !!! Thế là hết .Chấm hết.
Lo sao cho ngày kiếm được bữa ăn cả 4 anh em không chết đói. Không, không một
giây phút nào còn nghĩ đến học hành.
Thời gian đã trôi đi. Cuối 1956 nghe nói là Cải cách ruộng đất có sai lầm
nghiêm trọng.Dư luân dân chúng bàn tán nhiều.Tôi có viết đơn kiện lên Tỉnh uỷ
Quảng Bình về viêc giết cha tôi (tỉnh uỷ có trả lời : đang xem xét). Tôi lại
viết thư kêu cứu đến chị tôi và anh rể ở Hà nội, chị tôi có gửi cho tôi thư an
ủi các em và cho 5 đồng (bằng 12 Kg gạo). Anh rể tôi có cho người về tìm anh em
tôi .nhưng không gặp, vì anh em tôi đã li tán.
Tôi lại gửi thư
cho chị một lần nữa :nhờ anh chị xin cho tôi đi làm một việc gì (kiếm ăn), nuôi
em hoặc đi học. Trong đêm tối đã có một tia sáng yếu ớt. Một hy vọng mong manh
!!!
Tôi nhớ đến cái học bạ cấp 2 khi thôi học tôi chưa lấy về (hồi ấy không có bằng
tốt nghiệp chỉ có học bạ là đủ).
Phải đến trường để
nhận học bạ, lúc này trường đã dời về Cảnh Dương gần nhà của Mỹ. Từ làng tôi
đến Cảnh dương khoảng 25 Km, đi bộ mất 5-6 giờ. Và tôi quyết định ra đi.
Dậy sớm,xuống Cửa
Hác, lên đò sang Ba Đồn. Ghé qua nhà Anh Khương để xin hoặc vay thêm vài đồng
để đi đường ,vì trong túi tôi chỉ co 2-3 đ chi đó thôi. Vào nhà,anh Khương nhờ
giúp một vài việc : bổ củi ,dọn dẹp đồ đạc.rồi anh bảo ở lại ăn cơm. Anh còn
bảo tôi ở thuê trong nhà làm viêc cho anh.
Tôi chưa
trả lời, ăn cơm xong đã trưa, tôi chào anh ra đi , quên vay tiền. Đi bộ
theo quốc lộ1, đường sá lam nham các hố đào phá đường trong kháng chiến san lấp
chưa xong. Đường xa, mỏi chân. Qua làng Xuân kiều, Hoà Bình, Mũi Vích rồi đến
làng Di lộc,Di Luân , Cầu Roòn đã quá chiều , phải ngủ lại. Bụng đói, mệt lắm.
Rẽ phải đi xuống làng Cảnh dương, vào chợ đầu làng, chợ đã gần tan.
Như định trước tôi
cố tìm Bà Khôi để bà “bán hay cho” cái gì đó ăn qua bữa, ngủ thì sẵn cái
lều chợ (không tranh chấp) đẹp hơn cái lều mà 4 anh em tôi chui rúc cả
năm nay. Tìm mãi chẳng thấy bà Khôi đâu cả , tôi thấy lo và buồn .
Quay ra đầu chợ,trời đã nhá nhem, thì may quá từ đầu dãy hàng xén. Mỹ đang dọn
hàng . Ôi ! may quá ! tôi gặp lại Mỹ. Cô nàng bây giờ rắn rỏi hơn. Chiếc áo màu
nâu gụ, tôn nước da trắng của nàng. Trên mái tóc còn chiếc vành khăn trắng tang
của Mẹ...Mỹ cười,hỏi thăm tôi tình hình từ lúc nghỉ học,thấm thoắt đã 2 năm.
Tôi cũng kể sơ qua về hoàn cảnh cơ cực của mình.Mỹ an ủi :
-Mọi việc qua rồi ,thôi Sinh cố gắng lên.
-Sinh ra đây để nhận học bạ cấp 2, đang nhờ xin ra Hà
nội đi làm hoăc học.
-Bây giờ đã tối, Sinh theo mình về nhà, ăn cơm tối
nghỉ lại. Mỹ sẽ giúp Sinh gặp thầy Võ Tá Ty hiệu trưởng xin lại học bạ.
Theo sau Mỹ với gánh hàng về nhà. Nhà khá đẹp,
cách biển không xa. Gió chiều lồng lộng.Và ở đây lại gặp bà Khôi, người tôi
đang tìm. Bây giờ tôi mới biết, sau khi mẹ qua đời bố Mỹ đã làm bạn với bà
Khôi.
Mỹ
dọn cơm cho tôi ăn, trong mâm có cá thu, rau và bát nước mắm Cảnh dương.Có bữa
cơm ngon trong lúc đói, thật là sung sướng.
Tối hôm đó Mỹ đưa tôi gặp thầy Ty,
nhà thầy ở sát bên cạnh .Thầy Ty đeo kính cận nặng vui vẻ tiếp tôi.
-Thưa thầy em là
học sinh lớp 7 năm 1954 em đã học xong học kỳ1 thì nghỉ học.Nay xin thầy cho em
nhận học bạ.
-Thầy hỏi họ và
tên tôi rồi mở tủ.Từ trong đó thầy lôi ra một chồng học bạ. Không vất vả lắm ,
quyển học bạ tôi màu nâu đen nhìn thấy ngay. Mừng quá,đó là kết quả 7-8 năm ăn
học của tôi đã tìm thấy.
Thầy giở học bạ ra xem, gật đầu , thầy nói :
-Em là học sinh giỏi của trường.
Đêm hôm đó tôi ngủ trên một sập gụ kê ở gian ngoài,
mùa hè,gió biển man mát, ăn no , đã nhận học bạ, gặp bạn tốt.Tôi thấy phấn
chấn, đỡ buồn.
Nhờ có học bạ tôi đã được nhận thẳng (do anh Nguyên
xin)vào học trường Cao đẳng giao thông công chính Hà nội (khoá 8).
Từ đó 5-6 năm sau tôi không gặp lại Mỹ, tôi có hỏi Anh
Diệp người Cảnh dương cùng học ở Hà nôi, được biết Mỹ đã lấy chồng, anh
ấy tên là Phượng, đang hoc Đai học ở Moskva. Nghe nói Mỹ đã ra HN học ĐH bách
khoa nhưng tôi chưa gặp.
Thời gian cứ trôi
đi, mỗi đứa đã trưởng thành và có gia đình riêng. Sự kiên trì và cố gắng của
mình đã có kết quả : Tốt nghiệp Đại học, cao học thành thạc sỹ.Từ năm 1971 liên
tục được đề bạt tổ trưởng, phó, trưởng phòng, trở thành một cán bộ “hồng thắm
chuyên sâu” là phó giám đốc một CôngTy Thiết Kế lớn ở Hà nội.
Trong một buổi hội
thảo tiếp thị về máy xây dựng của Cộng hoà liên bang Đức, tôi tham dự với tư
cách là khách mời. Các Kỹ sư người Đức giới thiệu nhiều loại máy, công nghệ xây
dựng xong, đến mục thảo luận, phát biểu ý kiến của khách.
Tôi đứng lên
chất vấn : một vài tính năng, công suất, tiêu hao nhiên liệu, tôi hỏi tỷ mỷ
từng loại (mà tôi đã có kinh nghiệm khi nghiên cứu các máy xây dựng do Nga chế
tạo). Không ngờ những câu hỏi được thuyết trình viên và mọi người chú ý.
Giờ nghỉ , một phóng viên báo Đầu tư đến gặp tôi, anh
trao cho tôi danh thiếp , hỏi thêm vài chi tiết để viết bài cho báo và hẹn gặp
laị tôi .
Nghe tôi nói dọng miền Trung. Anh hỏi
-Anh quê ở Hà tĩnh hay Nghệ An ?
-Tôi quê ở Quảng Bình
-Huyện nào ?
-Quảng trạch
-Trước đây anh học trường nào?
-Trường cấp II Quảng trạch
-Anh có biết cô Mỹ không ?
-Mỹ con ông Nhượng à ?
-Đúng
-Tôi là chồng của Mỹ đây.
-Ồ! anh là Phượng
Nhận ra chúng tôi cùng quê và là bạn thân
thiết.
Theo địa chỉ, một
chiều thứ bảy tôi đến nhà Phượng Mỹ ở làng Thanh Nhàn gần cuối phố Lò Đúc.Vợ
chồng Mỹ Phượng rất vui tiếp tôi, bao kỷ niệm tuổi học trò ...thời gian truân
của tôi... tâm sự.
Mỹ Phưọng lại mời
tôi ăn cơm rau.Tôi nhận lời ngay. Bữa cơm có : cá thu, nước mắm tất cả từ Cảnh
dương gửi ra và chim câu rán do anh chị nuôi. Vui, vui quá, bao kỷ niệm xưa ôn
lại. Bước đường thành công
Đùm bọc
Hồi ký gia đình của
Thạc sỹ Nguyễn Bá Sinh
Năm 1955,đã dự tính trước mấy anh em chúng tôi
cày cấy trồng được hơn mẫu ruộng : lúa, khoai, lạc, ngô, đậu. Lúa và hoa màu khá
tốt. Nhưng khi thu hoạch, thì người ta bảo:“Tất cả hoa lợi đó là của nông dân”.
Lúa má thu hoạch xong, đội Giảm tô ra lệnh phải gánh về nhà ông Nguyễn (chú họ
tôi) cho nông dân.
May mà khi gặt hái chúng tôi dấu
đi một ít khoai lúa, nhờ vậy cả nhà có cái ăn.
Sau thu hoạch vụ mùa, đến vụ chiêm
tiếp theo. Đã có kinh nghiệm,anh em tôi làm được nhiều:ruộng sâu trong đập trồng
lúa 8 sào.Ruộng Cá Rô trồng khoai 4 sào.Ruộng nhà thờ trồng lạc và khoai, xung
quanh nhà 4 sào trồng khoai sớm, lạc và ngô và rau màu khác.Tết xong, có thể
thu hoạch khoai sớm, không lo đói. Nhờ chăm bón tốt, nên lúa khoai xanh rờn, tươi
tốt. Thức ăn thì ngoài đồng,dưới sông cả bốn anh em chúng tôi đều mò bắt được tôm
tép cua cá v.v... thừa ăn .Cậu (cha) tôi thấy các con đã khôn lớn , biết tính
toán làm ăn, lại thương yêu nhau, chăm chỉ lao động trong lòng rất yên tâm.
Đến tháng chạp,
đội giảm tô rút, đội cải cách ruộng đất về (đợt 5). Thôn xóm đói nghèo, chiến
tranh vừa dứt, lạnh lẽo, thì nay nổi lên trận cuồng phong, long trời lở đất ác
liệt.
Đêm đêm, trống đánh từng hồi, mõ dục từng
hồi. Du kích vác súng đi tuần suốt đêm. Khắp
xóm thôn ác khí bao trùm:
-“Địa chủ nhất thời
nông dân vạn đại
-Có khổ nói khổ nông
dân vùng lên
-Nông dân đã nói là
làm, đã phát là động, đã vùng là lên”
Đội về là “ mặt trời
mọc dậy ” .Nhất đội nhì trời
quả là không sai.
Những hình ảnh anh cán bộ đội : mặc áo quần ba
ba nâu gụ, đội mũ lá, đi dép cao su, vẽ mặt đầy sát khí, đa số họ biết chữ quá ít.
Họ ít chào hỏi vì sợ chào nhầm địa chủ.
Việc đầu tiên của họ là vô hiệu
hoá chi bộ Đảng và chính quyền địa phương (vì có địa chủ và thành phần có quan
hệ với địa chủ lọt vào).
Xác định thành phần giai cấp,phân rõ địch và ta ,ai là kẻ thù : địa chủ, phú nông, trung nông v.v... Trong đó địa chủ phải là 5-6%.Phương châm là :đánh nhầm hơn bỏ sót, thà chết mười người oan còn hơn bỏ sót một địa chủ, trí phú địa hào “phải đào tận gốc trốc tận rể”.
Khoảng 100 hộ xóm tôi phải có 7 địa chủ :
1-Ông cố Chánh (đã ở
trong tù chưa về).
2- Bà Tơ (mẹ Tơ) : có
2 là vệ quốc đoàn đang tại ngũ.
3-Ông Giáo có 1 con
là liệt sỹ,1 con là vệ quốc đoàn cấp đại đội đang tại ngũ.
4- Bà Ân có chồng công
tác tại toà án tỉnh.
5- Mệ Bộ Khành đã già
yếu.
6- Ông Giang Han ở xóm
dưới.
7- Cha tôi ông Nghè
Cơ (hoạt động CM năm 1943 Đảng viên CS năm 1947)
Sau khi ông cố Chánh chết trong tù còn
6 địa chủ .Vậy là còn thiếu chưa đủ chỉ tiêu.
Đội quy thêm:Thím Ấm
của tôi (trước là trung nông),tai ác thay Chú trợ Pha làm nghề dạy học chỉ có 2
sào ruộng không quy là địa chủ được,lại càng không thể là phú nông,trung nông nên
đội có sáng kiến quy là thành phần bóc
lột khác vì giáo viên không trực tiếp lao động cũng là bóc lột (tạm gọi
là phó địa chủ vậy).Ngoài ra Chú Hạp, Chú Cửu Thầm chí có 3 sào ruộng chi đó là
nông dân cũng được quy thêm là quốc dân đảng, cường hào gian ác phản động để vượt
chỉ tiêu trên giao.
Nhìn thấy cảnh vậy dân làng càng sợ vãi cứ...t ra.Tất cả có 9 gia đình (địa chủ , cường hào phản động) bị nông dân đấu tố.Không khí đấu tố bao trùm xóm làng.Con dâu đấu tố Mẹ chồng, anh em chú bác đấu tố lẫn nhau . Mới ngày hôm qua giỗ chạp ông bà còn là bác cháu, chú cháu, anh em mà hôm nay đã trở mặt : thằng nọ thằng kia.Mà toàn những chuyện vu khống,bịa đặt .Lạ thay đứa trẻ con 9-10 tuổi gọi ông già 60-70 tuổi là thằng nọ thằng kia ? Còn đâu luân thường đạo lý? Trong văn hoá người Việt chưa từng có. Lỡ lời không sửa được. Bát nước đã đổ xuống đất có bao giờ múc lên được nữa không? Đầy uất hận?
Kết quả là:Toàn xóm
có 6 người chết, 6 người đi tù (cả nước lên đến hàng vạn).
- Ông Cố Chánh tù chung thân (đã chết
trong tù).
-
Ông Giáo,bà
Tơ bị đấu tố nhiều lần đến chết đói và tự tử.
-
Cha tôi
bị quy là bí thư quốc dân đảng và bị bắn hôm 27 tháng chạp.
-
Ông
Giang Han cũng bị bắn vài ngày sau cha tôi.
-
Chú Hạp
bị tù 12 năm,quá uất ức mà chết khi vừa đến nhà tù.
-
Chú Trợ
Pha, chú Cửu bị quy là quốc dân đảng,phản động bị xử 12 năm tù.
- Thím Ấm,Bà Ân chỉ bị đấu tố bị tịch thu gia sản không phải đi tù.
Cải cách ruộng đất ở
quê tôi đã “thắng lợi” là thế.
Gia đình tôi cả nội
ngoại bà con gần đều dính địa chủ và phản động, không nhờ cậy được ai !
Cha đã bị giết, bốn
anh em bị đuổi ra một cái lều rách nát với 2 bàn tay trắng : đói, rét.
Không có cách nào khác. “Đói thì trôốc cúi (đầu gối) phải bò”. Anh em
tôi vào rừng gánh củi về bán tại chợ Trường kiếm ăn.
Chập choạng tối ,tôi sang nhà Cu Xờm, Đình xuống nhà chú Thào mỗi đứa mượn 1 cây dao rựa.Trong hoàn cảnh như vậy Cả Ông Thào và Cu Xờm không sợ liên luỵ và cho mượn ngay, quý hoá vô cùng.
Nằm co ro trong lều rách nát, đến gần sáng tôi và Đình dậy luộc
nồi khoai đầy, khoai chín đổ ra rổ, để nguội.Đình chia đôi: một nửa để lại cho
2 em Trinh và Cu Con ăn bữa trưa, phần còn lại gói vào 1 cái túi mang đi. Tôi đánh
thức hai em dặn: “Anh để phần hai em đây.Ở nhà ăn xong, đi hái một rau lang, vào
đồng bắt một ít rạm để chiều ăn.”
Hai em ngoan ngoản vâng
lời.
Với cây dao rựa,1 túi khoai,1 gói muối lên rú. Qua
cánh đồng, băng qua hói Đồng đi một quảng là đến Chợ Mới , qua đò chợ Mới thì mặt
trời mọc, đi tiếp dọc sông đến Thong Thóng băng qua đường tàu hoả, vượt qua cánh
đồng nhỏ, trèo dốc vào rừng , rú Ba u dốc đá cheo leo, lên đến đỉnh Hòn Vắp đã
gần trưa.
Hai anh em dừng lại thở lấy hơi. Đình
treo xéo khoai dấu vào gốc cây. Lại tiếp tục trục xuống bên kia dốc Làng Phù Mỵ.
Sẵn củi khô, hai anh em thu lượm:dẻ, trâm,
nen, lạnh ngạnh, rồi róc cành, chặt từng thanh củi dài bằng sải tay, bó thành bốn
năm bó nhỏ.Xong đó lại phải chuyển ngược lên đĩnh rú Vắp.
Xong chừng ấy việc,
mặt trời đã đứng bóng. Sắp xếp lại gọn gàng đều đặn, những que củi đẹp được đặt
phía ngoài bó lại bốn bó cân đối , đóng nêm chắc chắn thành hai gánh . Ăn trưa
với vài củ khoai gói muối mang đi.
Từ đỉnh cao nhìn xuống cảnh vật
nên thơ.Mặt biển hiền từ xanh rờn,dòng sông Gianh uốn mình ôm ấp xóm làng :Thuận
Bài ,Thổ ngoạ ,Văn Phú quê ngoại, La Hà,Phù trịch,Hoà Ninh và Vĩnh Lộc làng tôi.
Nhìn thấy ngôi nhà tôi đã bị cướp ,và trong túp lều nhỏ hai em nhỏ côi cút, gầy
gò trong đói khát mong hai anh về, lòng quặn đau.
Xóm làng nhoà đi trong lệ ...
Sinh Đình gánh củi trên vai
lao xuống dốc gập ghềnh,cheo leo.Xa xa xóm làng và mặt biển chập chờn rung rinh
.Có câu thơ :
“Chiều chiều mặt biển
rung rinh
Anh em Sinh Đình gánh củi
qua khe ”
Đường xa gánh nặng,mồ hôi ướt đầm,
thở ra cả tai. Cuộc đời sao cơ cực vậy ???
Hình ảnh hai em xanh
xao gầy gò, đôi mắt lờ đờ, đi không vững vì thiếu ăn lâu ngày hiện ra. Tôi gạt
tay xoá đi dòng nước mắt, không muốn cho Đình trông thấy...
Ba U đã vượt qua, dừng lại
bên khe uống nước, rồi lại đi ... , đường còn dài.
Qua một cánh đồng nhỏ dưới khe
núi, lên đường tàu có một cái cống hai anh em dừng chân nghỉ.
Lúc này quá mệt Đình khóc “Em
không thể gánh củi được nữa, sức đã kiệt
rồi” đúng ra cả hai anh em đã kiệt sức lâu rồi.
“Ngộ nạn tăng mưu trí ”. Tôi quyết định: dấu 1 gánh củi xuống dưới cống,
hai anh em đổi nhau chỉ gánh một gánh ra chợ.
Đến bờ rào Nan
chờ đò, được nghỉ ngơi một tý có thêm sức lực, qua chợ Mới thì trời đã xế chiều.
Băng qua cánh đồng Hoà Ninh xuyên qua xóm là đến chợ Trường. Mọi người mua bán
tấp nập cảnh chợ thôn quê. Hai anh em gánh củi ra phía gần bờ sông, có người đến
hỏi mua.
-Gánh củi bán mấy tiền ? một khách hỏi.
-Tám hào,gánh về tận
nhà. Tôi trả lời.
Có đến 7-8 người hỏi
mua hầu hết khách chỉ trả bốn đến năm hào.Một hồi lâu, có một chị khoảng 35-40
tuổi, chị hỏi han (tỏ ra biết gia đình tôi và thông cảm), không nói nhiều chị
trả luôn bảy hào.Tôi đồng ý bán. Chị trả tiền trước, Đình nhận tiền tôi theo chị gánh củi về. Nhà
chị gần phía trong chợ. Chị mời tôi uống nước (đang khát) và có lời an ủi :
-“Thời thế loạn lạc
cóc nhái nhảy lên làm người là vậy, em cố gắng chịu đựng rồi sẻ qua”.
-Tôi lau dòng nước mắt
thầm cám ơn chị, tủi hờn chào chị ra đi.
Đình đã mua được 1 rổ khoai hết 4 hào, số
khoai này bốn anh em ăn dè được gần hai ngày. Mua thêm một ít mắm muối, dư được
hai hào. Thế là tốt lắm rồi, từ nay không lo đói !!!
Đã chiều hai em thấy hai anh về, mừng
lắm. Vâng lời anh, đã hái được một mớ đọt khoai ngon, Trinh cũng lần hồi bắt được
lưng oi rạm bè .Tôi nằm nghỉ Đình và hai em đỏ lửa.Luộc khoai ,kho rạm.
Khoai chín bùi,rạm béo gạch chắc thơm
lừng cả bốn anh em quây quần, được bữa ăn no hiếm có.
Rồi ngày
mai, ngày hôm sau,và hôm sau nữa Sinh Đình lại gánh củi ra chợ Trường đều đặn .
Dân chợ đã quen mặt Sinh Đình.
Lâu ngày anh em đã thạo việc,bó củi đẹp hơn, như củi của dân Thọ Hạ bán.
Mỗi ngày
hai gánh củi bán được 1 đồng bốn hào, bốn anh em ăn rồi để dành được bốn hào. Vốn
tích luỹ đã được 7-8 đồng. Dao rựa mượn
Cu Xờm và chú Thào đã lâu , vì thương tình anh em tôi cả hai người chưa hỏi xin
lại . Chợt nhớ ra. Tôi lên chợ Mới đặt rèn một cây dao rựa. Ông thợ rèn nhận lời,
nhưng rồi cứ hứa đi hứa lại không chịu làm cho tôi. Tôi mới hiểu rằng sợ tôi không
có tiền trả nên ông không muốn làm (vì ông không lạ gì anh em tôi nghèo xác xơ).
Tôi xoè ra cho ông 5 đồng bạc và chiều hôm ấy tôi đã có ngay cây dao rựa mới sáng
quắc. Đặt tiếp một cái nữa, từ đó hai
anh em có hai con dao không phải đi mượn.
Ngày tháng
trôi qua. Bốn anh em đùm bọc nhau qua hoạn nạn.
Từ đó thỉnh thoảng đã có gạo nấu cơm ăn, nhìn hai em đã có đôi
mắt sáng, bước đi vững vàng.
Đàn con dại của Ông
Nghè đang bước đi trên đường đời.
TRUNG CỘNG- VIỆT CỘNG
Trung Quốc muốn ‘nuốt chửng’ Việt Nam sau năm 75?
Người
Việt Nam năm ngoái nhiều lần xuống đường biểu tình phản đối việc Trung
Quốc đưa giàn khoan dầu gây tranh cãi vào khu vực mà Hà Nội tuyên bố là
thềm lục địa của mình.
Tin liên hệ
Đánh dấu ngày 30/4: Kẻ khóc, người cười
Hai ngày trước ngày kết thúc Chiến tranh Việt Nam, cộng đồng người Việt ở Mỹ và ở trong nước đón chờ ngày này với hai tâm trạng trái ngược hẳn nhauBan nhạc ‘Viet Cong’ lên tiếng vì tên gọi gây tranh cãi
Một nhóm nhạc rock gồm 4 thành viên của Canada mới đây đã phải lý giải rằng việc đặt tên ban nhạc là ‘Viet Cong’ không có ý định “kích động” hay “làm tổn thương” bất kỳ ai.Việt Nam triệu Đại sứ Canada, phản đối ‘đạo luật 30/4’
Việt Nam yêu cầu Đại sứ Canada tại Hà Nội tới để phản đối việc nước này thông qua đạo luật S-219, lấy 30/4 là ngày bắt đầu “Hành trình đến tự do”.40 năm sau Chiến tranh Việt Nam: Ai vui, ai buồn?
Sau khi phải hủy bỏ kế hoạch kỷ niệm ngày 30/4 tại một căn cứ thuỷ quân lục chiến ở Nam California, người Mỹ gốc Việt ở bang California đã tìm được một địa điểm mới
29.04.2015
Thưa quý vị, bốn thập kỷ sau cuộc chiến đẫm máu, gây ra cảnh hoang
tàn và làm hàng triệu người thiệt mạng, Việt Nam đã đạt được những thành
quả nào, và đất nước sẽ đi về đâu trong 10 hay 20 năm nữa? VOA Việt Ngữ
đã đi tìm câu trả lời trong cuộc phỏng vấn giáo sư Tương Lai, người có
thời kỳ làm cố vấn cho thủ tướng. Trước hết, nhà nghiên cứu từng có
nhiều bài bình luận đăng trên tờ The New York Times của Mỹ đánh giá Việt
Nam trong khoảng thời gian 40 năm qua.
Giáo sư Tương Lai: Sau 30/4/1975, Việt Nam chấm dứt chiến tranh, đi vào hòa bình xây dựng, nhưng nào có hòa bình xây dựng được đâu. Có một nước ở sát cạnh Việt Nam, không muốn Việt Nam trở thành một nước mạnh, sau khi đã đánh tan những đạo quân chưa hề thua như của Pháp và Mỹ.
Cho nên, 30/4 xong một cái, thì nó đã giục bọn Pol Pot đánh vào phía tây nam, kéo một cuộc chiến tranh biên giới tây nam từ 76 tới 78. Trung Quốc trang bị tận răng cho Pol Pot. Sau khi quân Pol Pot bị Việt Nam giáng cho một đòn chí mạng, giải phóng đất nước Campuchia, thoát khỏi diệt chủng thì Đặng Tiểu Bình mượn cớ ấy để rồi phát động chiến tranh biên giới năm 1979. Như vậy là nó muốn cho Việt Nam đang còn mình đầy thương tích từ chiến tranh thì nó giáng cho một đòn nữa để củng cố quyền lực của Trung Quốc, để Việt Nam không thể ngoi dậy, tiếp tục lớn mạnh bên cạnh một nước láng giềng khổng lồ, luôn luôn đối chọi mà muốn nuốt chửng Việt Nam.
Vậy thì 40 năm qua, khi người ta nói đến xây dựng, thì trước hết phải nói đến xây dựng trong một âm mưu hết sức thâm độc của chủ nghĩa bành trướng đại Hán, mà nó lại nhân danh cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy mà việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ấy nó gặp trở ngại hết sức lớn.
Và trên thực tế, 40 năm vừa qua, nếu Việt Nam so sánh với Việt Nam
thôi thì chuyện so sánh không giải quyết được. Nhưng so sánh Việt Nam
với các nước láng giềng, ví dụ như Singapore hay với một quốc gia châu Á
khác mà xuất phát điểm năm 1975 cũng không khác gì Việt Nam là Hàn Quốc
thì Việt Nam tuột hậu quá xa vì Việt Nam duy trì một mô hình kinh tế
quá lạc hậu, mặc dù có cái tên rất kêu là xã hội chủ nghĩa. Nhưng mà
cũng trong 40 năm ấy, hệ thống xã hội đã sụp đổ. Để cứu vãn, hy vọng chủ
nghĩa xã hội không sụp đổ thì Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã làm một
việc dại dột là sang Thành Đô để cầu cứu, muốn Trung Quốc làm điểm tựa
bảo vệ thành quả xã hội chủ nghĩa. Bắt đầu từ đấy, Việt Nam chui vào
thời kỳ bắc thuộc lần thứ hai, như cảnh báo của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ
Thạch, người mà Trung Quốc rất căm thù.
Khi nhìn lại 40 năm, phải thấy rằng đấy là 40 năm trong những cố gắng tối đa của người nông dân trên đồng ruộng, công nhân trên nhà máy, của người trí thức trong các giảng đường đại học hay trong các phòng thí nghiệm và của các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước có những nỗ lực hết sức lớn, và đưa tới những thay đổi khá cơ bản. Phải nói những công trình xây dựng của Việt Nam trong 40 năm qua là đáng kể, nhưng những sự đáng kể ấy, sức lực của người lao động vắt kiệt ra để làm điều ấy, trong lúc mức sống chưa được cải thiện đáng kể là bao nhiêu vì mô hình chọn sai lầm, và mô hình chọn ấy nó lại chui vào cái thòng lọng của Trung Quốc. Trung Quốc trong 40 năm ấy, đặc biệt là từ năm 90 sau hội nghị Thành Đô, thì bàn tay bẩn thỉu của Trung Quốc thò vào kinh tế Việt Nam, chính trị Việt Nam, xã hội Việt Nam, văn hóa Việt Nam, gây nên một tác động rất xấu.
Việt Nam phải đau đớn mà nói rằng 40 năm qua, thời gian dài, hy sinh lớn, vất vả, gian khổ, thành tựu có nhưng mà quá hạn hẹp, so với khả năng mà đất nước có thể vươn lên.
VOA: Theo ông, người dân Việt Nam hiện nay kỳ vọng gì vào đảng Cộng sản?
Giáo sư Tương Lai: Trên thực tế, uy tín của Đảng Cộng sản đã xuống rất thấp. Đó là một thực tế. Bây giờ, khi nói đến những người cầm quyền hiện nay, người ta nói tới với một giọng khinh miệt, do những thành tích mà họ đã tạo ra.
Trên thực tế phải nói rằng hiện nay chưa có một lực lượng chính trị
nào có thể thay thế lực lượng đang cầm quyền hiện nay. Có nghĩa là chưa
có một đảng chính trị nào, chưa có một tổ chức chính trị nào có thể thay
thế đảng cộng sản Việt Nam, mặc dù đảng này đã mất uy tín trong dân. Uy
tín đó, không phải dân người ta đổ đồng làm một đâu. Người ta biết rõ
trong những người lãnh đạo hiện nay có những kẻ nào ngu Trung, kiên định
con đường Mác – Lênin, nghĩa là kiên định cùng chung ý thức hệ với
những bọn như Tập Cận Bình, Đặng Tiểu Bình, những kẻ vào xâm lược Việt
Nam.
Và nếu kỳ này, ông Nguyễn Phú Trọng đi Mỹ mà thực hiện được ý chí, và nguyện vọng của nhân dân, gia nhập TPP, càng sớm càng tốt để chống lại áp lực của Trung Quốc. Nếu mà làm được như vậy, uy tín sẽ được lấy lại và dần dần người ta sẽ biết người ta ủng hộ ai đem lại lợi ích cho dân tộc, đặt lợi ích dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết, chứ không phải đặt ý thức hệ giáo điều và những lời hứa hẹn viển vông. Những người làm như thế là những người sẽ được dân ủng hộ.
VOA: Đối mặt với những thách thức từ Trung Quốc trên biển Đông, liệu Việt Nam có nên nghiêng hẳn về quốc gia cựu thù Hoa Kỳ?
Giáo sư Tương Lai: Không có kẻ thù vĩnh viễn cũng chẳng có bạn vĩnh viễn mà chỉ có lợi ích của dân tộc là vĩnh viễn mà thôi. Việt Nam biết quá rõ vì Việt Nam từng là con tốt trên bàn cờ của các nước lớn.
Việt Nam không liên minh với một nước để chống lại một nước thứ ba
nhưng Việt Nam không nên từ bỏ quyền liên minh với ai mà giúp Việt Nam
giữ vững chủ quyền lãnh thổ trên biển, và trên đất liền của Việt Nam.
Lúc này đây, theo tôi, cần phải dẹp bỏ những việc khác đi để bỏ bớt những chuyện bên thắng cuộc, ai thắng, ai thua đi mà hãy nhìn vào kẻ thù trước mắt là Trung Quốc xâm lược, là ngăn cản không để Việt Nam thoát ra khỏi cái bóng của Trung Quốc, là những âm mưu thủ đoạn gây áp lực, chia rẽ nội bộ bằng nhiều thủ đoạn, thì phải làm sao vạch ra được những cái đó.
VOA: Theo ông, 10 năm hay 20 năm nữa, khi đánh dấu 50 hay 60 năm ngày kết thúc cuộc chiến thảm khốc, Việt Nam sẽ về đâu?
Giáo sư Tương Lai: Sau 30/4/1975, Việt Nam chấm dứt chiến tranh, đi vào hòa bình xây dựng, nhưng nào có hòa bình xây dựng được đâu. Có một nước ở sát cạnh Việt Nam, không muốn Việt Nam trở thành một nước mạnh, sau khi đã đánh tan những đạo quân chưa hề thua như của Pháp và Mỹ.
Cho nên, 30/4 xong một cái, thì nó đã giục bọn Pol Pot đánh vào phía tây nam, kéo một cuộc chiến tranh biên giới tây nam từ 76 tới 78. Trung Quốc trang bị tận răng cho Pol Pot. Sau khi quân Pol Pot bị Việt Nam giáng cho một đòn chí mạng, giải phóng đất nước Campuchia, thoát khỏi diệt chủng thì Đặng Tiểu Bình mượn cớ ấy để rồi phát động chiến tranh biên giới năm 1979. Như vậy là nó muốn cho Việt Nam đang còn mình đầy thương tích từ chiến tranh thì nó giáng cho một đòn nữa để củng cố quyền lực của Trung Quốc, để Việt Nam không thể ngoi dậy, tiếp tục lớn mạnh bên cạnh một nước láng giềng khổng lồ, luôn luôn đối chọi mà muốn nuốt chửng Việt Nam.
Vậy thì 40 năm qua, khi người ta nói đến xây dựng, thì trước hết phải nói đến xây dựng trong một âm mưu hết sức thâm độc của chủ nghĩa bành trướng đại Hán, mà nó lại nhân danh cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy mà việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ấy nó gặp trở ngại hết sức lớn.
40 năm qua, khi người ta nói đến xây
dựng, thì trước hết phải nói đến xây dựng trong một âm mưu hết sức thâm
độc của chủ nghĩa bành trướng đại hán, mà nó lại nhân danh cùng chung ý
thức hệ xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy mà việc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ấy nó gặp trở ngại hết sức lớn.
Giáo sư Tương Lai nói.
Khi nhìn lại 40 năm, phải thấy rằng đấy là 40 năm trong những cố gắng tối đa của người nông dân trên đồng ruộng, công nhân trên nhà máy, của người trí thức trong các giảng đường đại học hay trong các phòng thí nghiệm và của các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước có những nỗ lực hết sức lớn, và đưa tới những thay đổi khá cơ bản. Phải nói những công trình xây dựng của Việt Nam trong 40 năm qua là đáng kể, nhưng những sự đáng kể ấy, sức lực của người lao động vắt kiệt ra để làm điều ấy, trong lúc mức sống chưa được cải thiện đáng kể là bao nhiêu vì mô hình chọn sai lầm, và mô hình chọn ấy nó lại chui vào cái thòng lọng của Trung Quốc. Trung Quốc trong 40 năm ấy, đặc biệt là từ năm 90 sau hội nghị Thành Đô, thì bàn tay bẩn thỉu của Trung Quốc thò vào kinh tế Việt Nam, chính trị Việt Nam, xã hội Việt Nam, văn hóa Việt Nam, gây nên một tác động rất xấu.
Việt Nam phải đau đớn mà nói rằng 40 năm qua, thời gian dài, hy sinh lớn, vất vả, gian khổ, thành tựu có nhưng mà quá hạn hẹp, so với khả năng mà đất nước có thể vươn lên.
VOA: Theo ông, người dân Việt Nam hiện nay kỳ vọng gì vào đảng Cộng sản?
Giáo sư Tương Lai: Trên thực tế, uy tín của Đảng Cộng sản đã xuống rất thấp. Đó là một thực tế. Bây giờ, khi nói đến những người cầm quyền hiện nay, người ta nói tới với một giọng khinh miệt, do những thành tích mà họ đã tạo ra.
Trên thực tế phải nói rằng hiện nay
chưa có một lực lượng chính trị nào có thể thay thế, lực lượng đang cầm
quyền hiện nay. Có nghĩa là chưa có một đảng chính trị nào, chưa có một
tổ chức chính trị nào có thể thay thế đảng cộng sản Việt Nam, mặc dù
đảng này đã mất uy tín trong dân.
Giáo sư Tương Lai nói.
Và nếu kỳ này, ông Nguyễn Phú Trọng đi Mỹ mà thực hiện được ý chí, và nguyện vọng của nhân dân, gia nhập TPP, càng sớm càng tốt để chống lại áp lực của Trung Quốc. Nếu mà làm được như vậy, uy tín sẽ được lấy lại và dần dần người ta sẽ biết người ta ủng hộ ai đem lại lợi ích cho dân tộc, đặt lợi ích dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết, chứ không phải đặt ý thức hệ giáo điều và những lời hứa hẹn viển vông. Những người làm như thế là những người sẽ được dân ủng hộ.
VOA: Đối mặt với những thách thức từ Trung Quốc trên biển Đông, liệu Việt Nam có nên nghiêng hẳn về quốc gia cựu thù Hoa Kỳ?
Giáo sư Tương Lai: Không có kẻ thù vĩnh viễn cũng chẳng có bạn vĩnh viễn mà chỉ có lợi ích của dân tộc là vĩnh viễn mà thôi. Việt Nam biết quá rõ vì Việt Nam từng là con tốt trên bàn cờ của các nước lớn.
Việt Nam không liên minh với một nước
để chống lại một nước thứ ba nhưng Việt Nam không nên từ bỏ quyền liên
minh với ai mà giúp Việt Nam giữ vững chủ quyền lãnh thổ trên biển, và
trên đất liền của Việt Nam.
Giáo sư Tương Lai nói.
Lúc này đây, theo tôi, cần phải dẹp bỏ những việc khác đi để bỏ bớt những chuyện bên thắng cuộc, ai thắng, ai thua đi mà hãy nhìn vào kẻ thù trước mắt là Trung Quốc xâm lược, là ngăn cản không để Việt Nam thoát ra khỏi cái bóng của Trung Quốc, là những âm mưu thủ đoạn gây áp lực, chia rẽ nội bộ bằng nhiều thủ đoạn, thì phải làm sao vạch ra được những cái đó.
VOA: Theo ông, 10 năm hay 20 năm nữa, khi đánh dấu 50 hay 60 năm ngày kết thúc cuộc chiến thảm khốc, Việt Nam sẽ về đâu?
Giáo sư Tương Lai: Tôi không phải là thầy bói, nên tôi
không bói trước vận mệnh của dân tộc. Nhưng mà tôi khẳng định điều này,
chúng ta đang sống trong thời đại mà kiểu tư duy tuyến tính lạc hậu mất
rồi, vì đây là thời đại của phi tuyến tính. Trong những bước phát triển
thì luôn luôn ấp ủ những bước đột phá và những bước đột phá ấy nó sẽ mở
ra những cục diện mới, và không ai tiên lượng được hết. Không thể vạch
ra kế hoạch 10 – 20 năm một cách chi li đâu, chỉ hướng đi thôi, vì thành
tự như vũ bão của khoa học, công nghệ và diễn biến quá phức tạp của
tình hình thế giới.
Tôi nghĩ Việt Nam nếu dám đi đúng con đường mà thế giới đang đi, có
nghĩa là dựa vào thành tựu của văn minh, khoa học và kỹ thuật, dựa vào
một thể chế dân chủ, nhân quyền và tiến bộ trên cái nền kinh tế, thị
trường tiến bộ thì Việt Nam có thể đạt được nhiều thành tựu hơn nữa.
http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-muon-nuot-chung-viet-nam-sau-nam-75/2741590.html
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 363
QUY MÃ LÀM GÌ?
Bà Sanchez nói về ông Trọng thăm Mỹ
Nguyễn Hùng
BBC tiếng Việt, Washington DC
- 7 tháng 5 2015
Hạ
nghị sỹ Loretta Sanchez nói Hoa Kỳ luôn hoan nghênh mọi người khác
chính kiến nhưng bản thân bà từng bị Việt Nam từ chối visa.
Trong
phỏng vấn với Nguyễn Hùng của BBC tiếng Việt tại văn phòng của bà
tại trụ sở Quốc hội Hoa Kỳ ở Washington DC, bà Sanchez bình luận về
chuyến đi sắp tới Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhưng trước hết bà
nói về hiểu biết của bà về Cuộc chiến Việt Nam 40 năm về trước.
Hạ nghị sỹ Loretta Sanchez:
Anh biết không, tôi vẫn còn là thiếu nữ ở những năm đầu bậc trung học
khi Sài Gòn sụp đổ. Nói chung tôi hiểu đôi chút về những gì xảy ra nhưng
không nhiều lắm. Mọi chuyện xảy ra khi tôi còn rất trẻ.
BBC: Thế còn bây giờ thì sao? Bà nghĩ thế nào về quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam? Bà có hài lòng với quan hệ hiện nay không?
Điều
thú vị là thế hệ của chúng tôi không hiểu nhiều về cuộc chiến và sau
chiến tranh [cuộc chiến] không có trong sách lịch sử. Bởi vậy đối với
tôi đó là quá trình học hỏi khi đại diện cho những người Mỹ gốc Việt ở
Quận Cam [California]. Trong 18 năm tôi làm công việc đó, tôi cho rằng
mặc dù quan hệ [Việt - Mỹ] đã khá lên nhưng nó không thể là quan hệ tốt
nếu chính phủ Việt Nam không cho người dân của họ được tự do hơn.
Chẳng
hạn ở Hoa Kỳ chúng tôi tôn trọng tự do tín ngưỡng, chúng tôi coi đó là
nền tảng và đất nước Hoa Kỳ đã ra đời dựa trên tự do tín ngưỡng, tự do
ngôn luận, quyền để người ta có thể bày tỏ chính kiến, quyền tự do hội
họp. Tất cả những điều này rất quan trọng và chúng tôi thấy chúng không
tồn tại ở Việt Nam. Bởi vậy cho tới khi chính quyền để cho người dân có
những quyền đó, con đường để có quan hệ tốt hơn với Việt Nam sẽ rất khó
khăn.
BBC: Bà nghĩ thế nào về sự hòa giải giữa
cộng đồng người Việt ở đây và chính quyền bên kia? Liệu chúng ta đã đi
được nửa chặng đường chưa?
Tôi nghĩ cộng đồng người Mỹ gốc
Việt có nhiều họ hàng ở Việt Nam. Đây là lý do giải thích tại sao nhân
quyền lại quan trọng đối với họ. Dù Việt Nam đã có xu hướng tư bản chủ
nghĩa hơn, có quan hệ buôn bán với Hoa Kỳ và nhiều nước khác mà nhờ đó
sự khá giả và điều kiện tài chính của người dân được cải thiện, người Mỹ
gốc Việt ở đây vui mừng khi thấy người thân có mức sống cao hơn. Nhưng
không chỉ có vậy mà còn là chuyện có chất lượng cuộc sống tốt hơn và
chất lượng cuộc sống tốt hơn phụ thuộc vào những quyền tự do đó. Cộng
đồng [người Mỹ gốc Việt] muốn có những tiến bộ thêm nữa với Việt Nam
nhưng họ hiểu rằng điều quan trọng nhất đối với con người là phải sửa
chữa các quyền con người.
BBC: Tổng Bí thư Đảng
Cộng sản Việt Nam có nhiều khả năng sẽ sớm tới đây, bà có hoan nghênh
ông không và phản ứng của cộng đồng sẽ ra sao?
Hạ nghị sỹ Loretta Sanchez:
Trước hết tôi phải nói rằng ngay cả khi Hoa Kỳ bất đồng rõ rệt với một
quốc gia hay với những gì một chính quyền đang thực hiện, chúng tôi vẫn
để họ tới đây vì chúng tôi tin rằng đối thoại là cách để vượt qua những
bế tắc. Thảo luận với Việt Nam để cải thiện điều kiện nhân quyền và kinh
tế là điều tốt. Chúng tôi hiếm khi nói với người ta rằng 'ông/bà không
thể đến thăm đất nước chúng tôi'.
Nhưng mặt khác tôi đã từng bị từ
chối visa vào Việt Nam. [Tôi muốn] nhắc lại chuyện đối thoại mở là rất
quan trọng và tôi tin chắc rằng khi Tổng bí thư Đảng cộng sản tới đây,
sẽ có những người muốn gặp và thảo luận các vấn đề với ông. Nếu tôi đối
mặt ông, đương nhiên tôi sẽ nói về các tù chính trị, về chuyện khai
thông các vấn đề quyền con người, tôi sẽ nói về việc tịch thu đất đai
của các nhóm tôn giáo và những gì xảy ra với những người trẻ tuổi ở Việt
Nam, những blogger dùng internet để truyền tải thông tin và đã bị đóng
cửa, bị mất việc, thiếu việc hay bị bỏ tù. Đó là những vấn đề lớn theo
quan điểm của tôi chứ không chỉ có thương mại mà tất cả những vấn đề
liên quan tới chất lượng cuộc sống.
Nhân quyền trong chiến lược xoay trục
BBC: Bà có nghĩ rằng nhân quyền giờ có ưu tiên thấp hơn vì chiến lược xoay trục sang châu Á của Hoa Kỳ?
Tôi
không tin là chính sách xoay trục sang châu Á làm giảm tầm quan trọng
của nhân quyền mà thực tế là nó làm cho nhân quyền quan trọng hơn. Lịch
sử đã chứng minh một đất nước có vị trí cao hơn trên thế giới khi người
dân có nhiều quyền tự do nhất. Đó là thực tế cuộc sống. Người dân muốn
bảo vệ đất nước họ đang sống nếu họ cảm thấy họ có sự tự do và quyền con
người đúng mức.
BBC: Trong dịp 40 năm kết
thúc Cuộc chiến Việt Nam, có rất nhiều những lời hùng biện từ phía Hà
Nội và ở đây [ở Hoa Kỳ] người ta cũng đang đặt ra những câu hỏi về
chuyện liệu cuộc chiến có phải là một tội ác, một sai lầm hay một thất
bại. Theo bà [cuộc chiến] đó là điều gì?
Dĩ nhiên đó là xung
đột xảy ra khi đang có Chiến tranh Lạnh và gần như mỗi nước trên thế
giới đều phải chọn đứng về phía này hay phía kia. Ở góc độ nào đó, nó là
cuộc chiến ủy nhiệm và vì tất cả những lý do đó nó là cuộc chiến đáng
buồn. Nó đáng buồn vì nó là cuộc chiến ủy nhiệm. Nó cũng đáng buồn vì sự
mất mát sinh mạng ở cả hai phía. Tôi muốn nói tới 58.000 lính Hoa Kỳ,
thủy quân lục chiến, lính phòng không, hải quân, phụ nữ, những mạng sống
đã mất đi, rất là thảm khốc cho người Mỹ.
Đối với người Việt, ở
cả phía Bắc và phía Nam, sự mất mát về nhân mạng là rất lớn. Rồi cuộc
sống bị đảo lộn, nào là trại tị nạn, trại cải tạo, mất mát về nhân mạng
trên các thuyền đi biển, tài sản trí tuệ từ những người rời bỏ Việt Nam
để tới giúp Hoa Kỳ để tạo ra mọi thứ từ công ăn việc làm tới công nghệ,
sản phẩm trí tuệ cả ở châu Âu, Úc, Thái Lan và nhiều nơi nữa, Canada
chẳng hạn. Sự chảy máu chất xám đã xảy ra. Bởi vậy nó không chỉ đáng
buồn vì chúng ta đã mất mát mà đáng buồn vào thời điểm hiện tại vì Việt
Nam không có những tài sản đó. Đó là thời gian đáng buồn trên thế giới
khi chúng ta nhìn vào Cuộc chiến Việt Nam.
Quyền năng của Quốc hội
BBC:
Cho tới tận hôm nay người ta vẫn đặt câu hỏi về khả năng của Nghị viện
trong việc kiểm soát quyền lực của các Tổng thống trong Cuộc chiến Việt
Nam và trong các cuộc xung đột khác nhau ngày nay. Bà có nghĩ rằng giờ
Nghị viện đã thực hiện điều đó tốt hơn so với thời Cuộc chiến Việt Nam?
Tôi
nghĩ rằng thời cuộc chiến Việt Nam, đó chính là những người Dân chủ,
tôi còn nhớ đã nói chuyện với George Miller, dân biểu lâu năm nhất ở
đây. Chúng tôi đang đi trên các bậc thang của tòa nhà sau cuộc bỏ phiếu
quan trọng về dự luật y tế cách đây 10 năm và ông nói 'Đây là cuộc bỏ
phiếu quan trọng, tôi có cảm giác như khi chúng tôi chặn Cuộc chiến Việt
Nam' vì họ đã ngưng các ngân khoản cho cuộc chiến. Chính Quốc hội đã
ngưng cuộc chiến Việt Nam.
Quyền lực của Nghị viện là rất lớn lao.
Rồi tôi thấy quyền lực của Nghị viện trong cuộc chiến Iraq, điều tôi đã
bỏ phiếu chống lại và tôi nghĩ đó là [cuộc chiến] sai lầm. Khi tôi thấy
quyền lực của Nghị viện và chuyện họ để Hoa Kỳ đi vào [cuộc chiến] cùng
với Tổng thống, Tổng thống Bush đã cổ súy cho nó rồi Phó Tổng thống
Dick Cheney, Ngoại trưởng Powell... và Quốc hội đi theo. Đã đến lúc Nghị
viện phải dừng lại, xem lại những sai lầm trong quá khứ và thấy rằng
đáng ra chúng ta đã phải chặn cuộc chiến đó. Và đôi khi chúng tôi đã làm
điều đó.
Cách đây khoảng một năm rưỡi, chúng ta đã thấy chuyện
xảy ra với Syria. Tổng thống muốn có quyền ném bom Syria và nhiều người
trong đó có tôi đã đứng lên nói 'Thưa Tổng thống, theo luật quốc tế, ông
không thể làm thế. Ngoại trừ trường hợp ông tìm thấy luật nói ông có
thể, tôi sẽ không bỏ phiếu ủng hộ'. Đó là thông điệp mạnh tới Tổng thống
Obama tới mức ông đã phải lùi bước và không đòi Nghị viện bỏ phiếu. Bởi
vậy những gì Quốc hội làm là rất quan trọng, không chỉ ở tầm quốc gia
mà đôi khi ở tầm thế giới nữa.
BBC: Năm nay
cũng đánh dấu 20 năm tái thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt
Nam và Hoa Kỳ, bà đánh giá quan hệ trong 10 hay 20 năm tới ra sao?
Điều
thú vị là vài năm sau khi quan hệ được lập lại, tôi đi cùng Tổng thống
Clinton [tới Việt Nam] để ký hiệp định thương mại song phương. Tổng
thống Clinton đưa tôi đi cùng vì cùng lúc ông đẩy mạnh quan hệ thương
mại, ông cũng muốn chính phủ Việt Nam hiểu rằng người đấu tranh mạnh mẽ
nhất cho nhân quyền cũng có mặt cạnh ông để gửi thông điệp rằng nhân
quyền là rất quan trọng đối với Hoa Kỳ. Chúng tôi sẽ tiếp tục cuộc đấu
tranh này đối với tất cả những nước hạn chế quyền của công dân nước họ.
Ông Trọng sẽ mang thông điệp gì tới Mỹ?
10 tháng 5 2015 Cập nhật lúc 21:30 ICT
Nhận
định về thông điệp mà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng có thể mang tới Hoa Kỳ trong chuyến thăm được dự kiến
năm nay, Luật sư Vũ Đức Khanh, một nhà quan sát chính trị Việt Nam từ
Canada nêu quan điểm:
"Tôi nghĩ rằng cả ông
Obama và ông Nguyễn Phú Trọng sẽ không nói điều gì quan trọng vì ông
Obama sắp rời khỏi chính trường vào năm 2016, ông Nguyễn Phú Trọng cũng
rời khỏi chính trường vào năm 2016.
"Tôi không nghĩ rằng có gì
quan trọng trong vấn đề đó. Vấn đề là ai sẽ là chủ Nhà Trắng vào năm
2016 và ai sẽ là người lãnh đạo cao nhất và có nhiều quyền lực nhất ở
Việt Nam vào năm 2016.
"Thì lúc đó chúng ta mới biết được hướng
của Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ đi tới đâu và tốc độ thay đổi, cải cách thể
chế ở Việt Nam đi như thế nào.
"Còn ở giai đoạn hiện tại, tôi nghĩ
rằng có những thỏa thuận cao lắm là chỉ tới cấp của ông John Kerry và
ông Phạm Bình Minh mà thôi, chứ ngoài ra không có thông điệp nào hơn
được nữa."
Theo nhà quan sát, vấn đề chính trong chuyến đi này không chỉ nằm ở
'thông điệp' nào mà nhà lãnh đạo Đảng của Việt Nam mang tới Mỹ, mà còn
nằm ở ngay chính việc hai quốc gia nay có thể nói chuyện với nhau qua.
Ông Vũ Đức Khanh nói tiếp:
"Bà
Lauretta Sanchez (dân biểu Mỹ) đã nói (với phóng viên của BBC) rằng
không có lý do gì để ngăn cản ông Trọng tới Hoa Kỳ vì chúng ta là những
người có thể nói chuyện được với nhau, dù chúng ta không có cùng quan
điểm."
Quan điểm người Mỹ
Nhà
quan sát từ Canada nhân dịp này cũng nói về quan điểm của Mỹ trong quan
hệ với Việt Nam, mặc dù mới đây đã có một bản diễn văn của Thủ tướng
Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Dũng, tái đề cập cuộc chiến Hoa Kỳ với nhiều
lời lẽ được cho là 'gây sốc' hay khá 'nặng nề'.
Luật sư Khanh nói:
"Bài
diễn văn của ông Nguyễn Tấn Dũng tuy rằng nó hơi bị sốc, cái đó rất là
nặng trong bối cảnh có một sự gần gũi giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, nhất là
trong dịp kỷ niệm 20 năm ngày thiết lập bang giao giữa hai nước, thì làm
cho có nhiều người hơi bị sốc, hơi bị bỡ ngỡ.
Người Mỹ đang có chính sách tái cân bằng và chuyển chục sang châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam là một trong những đối tác quan trọng của Hoa Kỳ, cho nên người Mỹ sẵn sàng bước qua quá khứ
"Nhưng mà sự sốc và sự bỡ ngỡ đó sau khi chúng ta suy nghĩ lại là một chuyện rất bình thường.
"Cho
nên lời phát biểu của ông Đại sứ (Mỹ tại Việt Nam) Ted Osius với hãng
thông tấn AFP đã nói rất rõ rằng người Mỹ không có quan trọng vấn đề quá
khứ, người Mỹ tôn trọng quá khứ và lúc nào cũng hồi tưởng về quá khứ,
để nhìn những bài học của quá khứ, nhưng người Mỹ quan trọng ở hiện tại
và tương lai.
"Người Mỹ đang có chính sách tái cân bằng và chuyển
chục sang châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam là một trong những đối tác
quan trọng của Hoa Kỳ, cho nên người Mỹ sẵn sàng bước qua quá khứ, giàu
quá khứ đó có đau buồn, có chia rẽ đến bao nhiêu chăng nữa, người Mỹ vẫn
có thể tiến về phía trước.
"Và người Mỹ tin tưởng rằng một nước
Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ và thịnh vượng, tôn trọng nhân quyền và
pháp trị là một đối tác quan trọng của Hoa Kỳ. Đó là quan điểm của
Chính phủ Hoa Kỳ.
"Và quan điểm đó cũng được chia sẻ bởi những nhà lập pháp của Hoa Kỳ," nhà quan sát nói với BBC hôm 09/5/2015.
Mời quý vị theo dõi
phần đầu cuộc trao đổi giữa BBC với Luật sư Vũ Đức Khanh, người cũng là Phó Tổng thư ký Đảng Dân chủ Việt Nam tại Canada,
tại đây.
Sunday, May 10, 2015
NGÀY CỦA MẸ
Mỹ và các nước khắp thế giới mừng Ngày của Mẹ
10.05.2015
Hôm nay, Chủ nhật 10 tháng 5, Hoa Kỳ và nhiều nước khác trên khắp thế giới mừng Ngày của Mẹ.
Ngày của Mẹ được dùng để kỷ niệm và tôn vinh người mẹ và tình mẹ trên khắp thế giới.
Theo đài truyền hình History Channel, Ngày của Mẹ trở thành ngày lễ
chính thức tại Hoa Kỳ vào năm 1914, nhờ vào nỗ lực của bà Anna Javis,
người xem ngày lễ này là một cách để vinh danh sự hy sinh của mẹ hiền
dành cho con cái.
Bà Jarvis thoạt tiên xem Ngày Hiền Mẫu như là một ngày lễ mừng riêng
tư trong các gia đình. Tuy nhiên khi ngày này trở thành ngày lễ chính
thức thì các nhà kinh doanh các loại quà lưu niệm như hoa, thiệp chúc
mừng, và các loại hàng hóa dịch vụ khác đã nhanh chóng thương mại hóa
ngày lễ này.
Bà Jarvis cũng chỉ trích việc lạm dụng và thương mại hóa Ngày của
Mẹ. Bà thậm chí còn vận động chính phủ không ghi ngày này trên lịch
nữa.
Nhưng Ngày Hiền Mẫu vẫn tồn tại, và luôn là một trong những ngày lễ
phổ biến nhất, và là một trong những dịp lễ mà mọi người chi tiêu cho
mua sắm nhiều nhất.
Không phải tất cả các nước trên thế giới mừng Ngày Hiền Mẫu vào Chủ nhật thứ hai của tháng 5.
Tại Thái Lan, Ngày Hiền Mẫu được mừng vào tháng 8, nhân sinh nhật của nữ hoàng hiện nay.
Tại Ethiopia, các gia đình vinh danh mẹ hiền trong mấy ngày vào mùa thu.
Những bà mẹ già không cô đơn
Ngày “Mother Day”, Lễ Mẹ ở Hoa Kỳ là dịp những người con tri ân và
cảm tạ tình mẫu mẫu tử thiêng liêng. Nhân ngày Lễ Mẹ năm nay, mời quý vị
cùng Hòa Ái đến thăm các bà mẹ ở tuổi gần đất xa trời trong viện dưỡng
lão cũng như tìm hiểu về cuộc sống buồn vui của họ qua những tháng ngày
không ở cạnh người thân.
Nhà dưỡng lão mà người Việt ở Mỹ quen gọi là “nhà già” thường gợi lên cảm tưởng đó là một nơi rất cô đơn. Tuy nhiên, ngôi nhà già của gần một trăm cụ bà mà Hòa Ái đến thăm hoàn toàn khác biệt.
Hòa Ái may mắn tiếp xúc được với nhiều cụ bà đang ngồi hàn huyên trong sảnh tiếp tân. Nhiều cụ đang chờ con cháu ghé qua thăm, chia sẻ rằng mỗi chiều đều có người nhà đến vì con cháu đông đúc quá. Có những cụ không có người thân ở gần nhưng không thấy buồn tủi hay chạnh lòng chi cả vì các cụ rôm rả nói cười, bàn luận nhiều đề tài thật đơn giản nhưng vô cùng quan trọng đối với họ như phải uống nhiều nước, ăn nhiều trái cây, bớt ăn cơm lại, giảm đường, giảm mặn và nhớ tập thể dục đều đặn…Bà cụ Hoa Lưu, 92 tuổi, ở trong nhà già được 6 tháng, cho biết cuộc sống mới của bà ra sao:
“Có gì đâu trở ngại, ở một mình thì chịu thôi. Ở đây cũng vui vì có bạn bè nhiều. Ở nhà con cháu đi làm nên có một mình thôi. Còn ở đây có bạn bè, cảm thấy vui hơn. Nói chuyện vui, có khi nói chuyện nấu ăn, đi chợ này kia nọ…”
Câu nói “ở một mình thì chịu thôi” trong âm hưởng của tiếng cười giòn tan không nói lên sự than thân trách phận. Dù 92 tuổi bà cụ Hoa Lưu vẫn có thể chăm sóc bản thân. Bà kể lại chi tiết hằng ngày tự nấu ăn. Một tuần có xe buýt chở đi khắp các chợ. Và nhà già cho thức ăn miễn phí một lần/tuần nên các cụ thường nấu và mang xuống nhà ăn tập thể để ăn chung. Cuối tuần còn được chở đi chơi đây đó, tham quan các viện bảo tàng, thăm những thắng cảnh thiên nhiên cũng như đi đến các công viên quốc gia trong thời tiết ấm áp.
Trả lời câu hỏi của Hòa Ái những chuyến đi cùng các hoạt động ngoài trời có nhiều cụ bà tham gia hay không, cụ Đính Nguyễn, 94 tuổi, cho biết rất thích tham gia nhưng bây giờ lớn tuổi nên muốn dành nhiều thời gian cho con cháu vào cuối tuần. Bà cụ Đính Nguyễn còn chia sẻ là rất vui vì mỗi ngày sáng tối đều có người chăm sóc nói tiếng Việt ở bên cạnh mình, giúp nấu ăn, giặt giũ, lau chùi và trò chuyện. Bà nói:
“Tôi giờ già rồi, chín mươi mấy tuổi, sắp trăm tuổi rồi, không còn nhớ lắm đâu. Các cô tốt với tôi lắm, nhắc nhớ ăn uống suốt. Ở đây trò chuyện, hội đàm vui lắm. Cảm ơn chính phủ Mỹ có lòng tốt với những người già.”
Đề cập đến vấn đề sức khỏe, các cụ cho biết không có gì lo lắng. Khi cần đi khám bệnh thì có nhân viên xã hội người Việt đến đưa đón và thông dịch. Dược sĩ người Việt giao thuốc đến tận nơi ở. Còn trường hợp khẩn cấp thì chỉ cần thực hành một bước đơn giản. Cụ bà Cẩm Vân, 80 tuổi, ở nhà già 20 năm, giải thích:
“Ở đây đầy đủ phương tiện. Ở trong nhà này cho mình đeo cái thẻ ‘emergency’ (thẻ cấp cứu), bất cứ lúc nào có xỉu, có gì thì mình bấm vào cái thẻ thì nhà thương chạy tới. Khỏi cần kêu ai hết, bấm cái thẻ đó thôi.”
Vì thuộc trong nhóm sắc dân đông nhất ở ngôi nhà già Woodland Hill Senior Housing, các cụ còn được ban quản lý ưu ái cho phép sử dụng khoảng đất trống ở sân sau, trồng dăm loại rau, vài bụi hành để nhắc nhớ về quang cảnh cùng hương vị nơi quê nhà xa lắc.
Giải đáp thắc mắc của Hòa Ái tại sao các cụ không chọn ở cùng con cháu để họ được gần gũi báo hiếu, hầu hết các cụ bà cho biết họ chọn một cuộc sống tự do, thoải mái sau khi cả đời đã tận tụy làm tròn bổn phận với người thân. Bà cụ Nguyễn Thị Vân, người cao tuổi nhất ở đây, 102 tuổi, kể lại gia đình bà có 5 đời ở Hoa Kỳ. Khi bà muốn vào nhà già ở, từ con đến chắt đều bịn rịn, níu kéo nhưng không bao lâu sau họ nhận ra quyết định của bà là đúng đắn. Lão bà Nguyễn Thị Vân chia sẻ:
“Ở tuổi này không còn ước ao gì. Chỉ muốn khi chết không có lẫn lộn, không bị bệnh hoạn thôi.”
Thỏa lòng với cuộc sống nơi xứ người ở tuổi đời gần đất xa trời, các cụ bà trong nhà già mà Hòa Ái đến thăm hầu như không ao ước gì hơn ngoài thực tại mỗi ngày đều là một ngày vui. Tuy nhiên, khi nghe đến 2 chữ “Việt Nam”, các cụ bà đều đồng thanh mong muốn một ngày về thăm lại làng quê, bà con, họ hàng thêm một lần trước khi họ vĩnh biệt cho chuyến đi cuối cùng trở về cát bụi.
Chia tay trong lưu luyến người cháu gái phóng viên không quen biết, những lão bà với gương mặt hiền lành như những bà tiên trong truyện cổ tích tươi cười dặn dò ‘nhớ giữ gìn sức khỏe và hẹn ngày gặp lại”. Hòa Ái vẫy tay tạm biệt với lòng thầm mong tất cả những bà mẹ VN trong các nhà dưỡng lão khắp nơi mỗi ngày qua đi đều không cô đơn và hạnh phúc như vậy.
Có bạn bè, cảm thấy vui hơn
Đặt chân đến tòa nhà dưỡng lão Woodland Hill Senior Housing ở thành phố Arlington, bang Virginia vào một buổi chiều xuân trước ngày lễ dành cho các bà mẹ trong tâm trạng ngỡ ngàng. Nhà dưỡng lão nơi đây là một tòa nhà bê tông kiên cố với hàng trăm căn hộ được bao bọc xung quanh bởi nhiều cây xanh rợp bóng mát, tiếng chim thánh thót quyện trong ánh nắng vàng ngọt của buổi chiều tà ánh trên những bông hoa nhiều màu đang khoe sắc. Tiếng cười nói rộn ràng của những cụ bà người Việt trong sảnh tiếp tân vẳng ra đến tận sân đậu xe của nhà dưỡng lão.Nhà dưỡng lão mà người Việt ở Mỹ quen gọi là “nhà già” thường gợi lên cảm tưởng đó là một nơi rất cô đơn. Tuy nhiên, ngôi nhà già của gần một trăm cụ bà mà Hòa Ái đến thăm hoàn toàn khác biệt.
Có gì đâu trở ngại, ở một mình thì chịu thôi. Ở đây cũng vui vì có bạn bè nhiều. Ở nhà con cháu đi làm nên có một mình thôi. Còn ở đây có bạn bè, cảm thấy vui hơn. Nói chuyện vui, có khi nói chuyện nấu ăn, đi chợ này kia nọ…Những bà cụ này đến từ mọi miền trên lãnh thổ rộng lớn Hòa Kỳ. Họ khác nhau về tuổi tác, hoàn cảnh cũng như tình trạng sức khỏe nhưng họ đều có một điểm tương đồng là tận hưởng từng giây phút vui vẻ cùng nhau.
-Bà Hoa Lưu
Hòa Ái may mắn tiếp xúc được với nhiều cụ bà đang ngồi hàn huyên trong sảnh tiếp tân. Nhiều cụ đang chờ con cháu ghé qua thăm, chia sẻ rằng mỗi chiều đều có người nhà đến vì con cháu đông đúc quá. Có những cụ không có người thân ở gần nhưng không thấy buồn tủi hay chạnh lòng chi cả vì các cụ rôm rả nói cười, bàn luận nhiều đề tài thật đơn giản nhưng vô cùng quan trọng đối với họ như phải uống nhiều nước, ăn nhiều trái cây, bớt ăn cơm lại, giảm đường, giảm mặn và nhớ tập thể dục đều đặn…Bà cụ Hoa Lưu, 92 tuổi, ở trong nhà già được 6 tháng, cho biết cuộc sống mới của bà ra sao:
“Có gì đâu trở ngại, ở một mình thì chịu thôi. Ở đây cũng vui vì có bạn bè nhiều. Ở nhà con cháu đi làm nên có một mình thôi. Còn ở đây có bạn bè, cảm thấy vui hơn. Nói chuyện vui, có khi nói chuyện nấu ăn, đi chợ này kia nọ…”
Câu nói “ở một mình thì chịu thôi” trong âm hưởng của tiếng cười giòn tan không nói lên sự than thân trách phận. Dù 92 tuổi bà cụ Hoa Lưu vẫn có thể chăm sóc bản thân. Bà kể lại chi tiết hằng ngày tự nấu ăn. Một tuần có xe buýt chở đi khắp các chợ. Và nhà già cho thức ăn miễn phí một lần/tuần nên các cụ thường nấu và mang xuống nhà ăn tập thể để ăn chung. Cuối tuần còn được chở đi chơi đây đó, tham quan các viện bảo tàng, thăm những thắng cảnh thiên nhiên cũng như đi đến các công viên quốc gia trong thời tiết ấm áp.
Trả lời câu hỏi của Hòa Ái những chuyến đi cùng các hoạt động ngoài trời có nhiều cụ bà tham gia hay không, cụ Đính Nguyễn, 94 tuổi, cho biết rất thích tham gia nhưng bây giờ lớn tuổi nên muốn dành nhiều thời gian cho con cháu vào cuối tuần. Bà cụ Đính Nguyễn còn chia sẻ là rất vui vì mỗi ngày sáng tối đều có người chăm sóc nói tiếng Việt ở bên cạnh mình, giúp nấu ăn, giặt giũ, lau chùi và trò chuyện. Bà nói:
“Tôi giờ già rồi, chín mươi mấy tuổi, sắp trăm tuổi rồi, không còn nhớ lắm đâu. Các cô tốt với tôi lắm, nhắc nhớ ăn uống suốt. Ở đây trò chuyện, hội đàm vui lắm. Cảm ơn chính phủ Mỹ có lòng tốt với những người già.”
Đề cập đến vấn đề sức khỏe, các cụ cho biết không có gì lo lắng. Khi cần đi khám bệnh thì có nhân viên xã hội người Việt đến đưa đón và thông dịch. Dược sĩ người Việt giao thuốc đến tận nơi ở. Còn trường hợp khẩn cấp thì chỉ cần thực hành một bước đơn giản. Cụ bà Cẩm Vân, 80 tuổi, ở nhà già 20 năm, giải thích:
“Ở đây đầy đủ phương tiện. Ở trong nhà này cho mình đeo cái thẻ ‘emergency’ (thẻ cấp cứu), bất cứ lúc nào có xỉu, có gì thì mình bấm vào cái thẻ thì nhà thương chạy tới. Khỏi cần kêu ai hết, bấm cái thẻ đó thôi.”
Mong ước khi chết được bình thản
Ở tuổi này không còn ước ao gì. Chỉ muốn khi chết không có lẫn lộn, không bị bệnh hoạn thôi.Hòa Ái được các cụ nhiệt tình dắt tham quan từng căn hộ, nơi các cụ an dưỡng tuổi già. Tòa nhà được thiết kế một cách có hệ thống và tiện lợi với phòng tập thể dục, phòng giải trí đánh bóng bàn, bi-da… phòng họp mặt và còn có phòng vi tính để các cụ kết nối với xã hội bên ngoài. Mỗi căn hộ của các cụ được bày trí đơn sơ, ngăn nắp. Và những căn hộ yên ắng này luôn nhộn nhịp mỗi dịp lễ lạc như Noel hay Tết cổ truyền. Nhiều hội đoàn đến thăm hỏi với nhiều lời chúc tụng cùng những bữa ăn đầm ấm sum vầy.
-Bà Nguyễn Thị Vân
Vì thuộc trong nhóm sắc dân đông nhất ở ngôi nhà già Woodland Hill Senior Housing, các cụ còn được ban quản lý ưu ái cho phép sử dụng khoảng đất trống ở sân sau, trồng dăm loại rau, vài bụi hành để nhắc nhớ về quang cảnh cùng hương vị nơi quê nhà xa lắc.
Giải đáp thắc mắc của Hòa Ái tại sao các cụ không chọn ở cùng con cháu để họ được gần gũi báo hiếu, hầu hết các cụ bà cho biết họ chọn một cuộc sống tự do, thoải mái sau khi cả đời đã tận tụy làm tròn bổn phận với người thân. Bà cụ Nguyễn Thị Vân, người cao tuổi nhất ở đây, 102 tuổi, kể lại gia đình bà có 5 đời ở Hoa Kỳ. Khi bà muốn vào nhà già ở, từ con đến chắt đều bịn rịn, níu kéo nhưng không bao lâu sau họ nhận ra quyết định của bà là đúng đắn. Lão bà Nguyễn Thị Vân chia sẻ:
“Ở tuổi này không còn ước ao gì. Chỉ muốn khi chết không có lẫn lộn, không bị bệnh hoạn thôi.”
Thỏa lòng với cuộc sống nơi xứ người ở tuổi đời gần đất xa trời, các cụ bà trong nhà già mà Hòa Ái đến thăm hầu như không ao ước gì hơn ngoài thực tại mỗi ngày đều là một ngày vui. Tuy nhiên, khi nghe đến 2 chữ “Việt Nam”, các cụ bà đều đồng thanh mong muốn một ngày về thăm lại làng quê, bà con, họ hàng thêm một lần trước khi họ vĩnh biệt cho chuyến đi cuối cùng trở về cát bụi.
Chia tay trong lưu luyến người cháu gái phóng viên không quen biết, những lão bà với gương mặt hiền lành như những bà tiên trong truyện cổ tích tươi cười dặn dò ‘nhớ giữ gìn sức khỏe và hẹn ngày gặp lại”. Hòa Ái vẫy tay tạm biệt với lòng thầm mong tất cả những bà mẹ VN trong các nhà dưỡng lão khắp nơi mỗi ngày qua đi đều không cô đơn và hạnh phúc như vậy.
Hát ru, con lớn lên từ ngọt ngào môi mẹ
Mỗi năm vào ngày Mother’s Day, những người con lại có cơ hội nhớ về mẹ mình để bày tỏ sự biết ơn, lòng thương nhớ hay những cảm xúc mà mẹ đã mang đến cho họ. Những người mẹ dầu già hay trẻ, dù nghèo nàn hay giàu có cũng đều có một tình yêu với con mình bằng nhau. Sự khác biệt nếu có chỉ nằm trong cách diễn đạt của từng bà mẹ, và lạ thay tạo hóa cũng ban cho con cái những bà mẹ này niềm yêu mến sâu xa và bằng nhau, bất kể họ được sinh ra bởi một người mẹ có giai cấp nào trong xã hội.
Tiếng ru ngọt ngào từ tim mẹ
Người Việt Nam ở lứa tuổi trên dưới 50 là những thế hệ may mắn nhất khi từng thụ hưởng một gia tài đồ sộ từ người mẹ qua giọng hát ru con của bà. Từ Bắc vào Nam trong từng mái gia đình bất kể trong hoàn cảnh chiến tranh hay tạm yên tiếng súng, giọng ru con của mẹ có mãnh lực làm người ta tạm quên những gì đang xảy ra khắp nơi. Khi cả nước lăn xả vào chiến tranh thì những giọng ru con ấy cứ bình thản, nhẹ nhàng như dòng nước mát đem đứa trẻ ra khỏi những thảm cảnh mà chỉ có mẹ mới biết, mới nặng trĩu cho con mình.Ca sĩ có những đẳng cấp khác nhau tùy theo giọng hát, còn bà mẹ Việt Nam thì chỉ có một đẳng cấp như nhau: tất cả đều là Diva, tất cả đều là huyền thoại.
Những tiếng ru mang ngọt ngào từ tim mẹ rót vào giấc ngủ của con ấy không gì có thể so sánh. Một trưa hè êm ả, một đêm đông gió rét hay một sáng tinh mơ giật mình thức giấc khó mà diễn tả được lòng chúng ta khi nghe tiếng ru dịu dàng bên kia hàng rào nhà mình. Tiếng khóc trẻ thơ không còn làm cho ta khó chịu vì nó được đùm bọc, chở che bằng trái tim người mẹ qua giọng ru mà tiếng à ơi đơn giản lại có khả năng thay thế cho hàng trăm nhạc cụ. Cứ thế tiếng ru, tiếng gió bên thềm cộng với tiếng võng tre kẽo kẹt đã đưa những đứa con Việt Nam tới tuổi trưởng thành….
Chúng tôi dạy cho họ nghệ thuật hát ru cho lớp trẻ và những người đã từng sinh con. Nó có nhiều tác dụng trong những lời hát ru mang đậm tính nhân văn, giáo dục con cái ca ngợi quê hương đất nước.Ầu ơ….ví dầu cầu ván long đinh, cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
-Bà Cao Thị Hiền
Khó đi mẹ dắt con đi
Con đi trường học mẹ đi trường đời..
Ầu ơ
Ai về sông nước Cửu Long
Mà nghe chim sáo sổ lồng sang sông
Ai về hát lý cây bong
Mà nghe chim cú ngoài đồng kêu đêm…
Ầu ơ ví dầu câu lý còn thêm
Mong con ghi nhớ những đêm mẹ ví dầu..
Giáo sư Trần Văn Khê một người cống hiến cả đời cho nền âm nhạc dân tộc Việt Nam nhắc lại những kỷ niệm của ông về kỹ thuật hát ru mà từ xa xưa ông có dịp nghe tại quên nhà:
Hồi xưa lúc còn nhỏ thì tất cả trong làng tôi đều ru như thế này: Ầu ơ…ví dầu…con cá nấu canh (hò sang… quảng 4) bỏ tiêu (hò xê… quảng 5) cho ngọt, bỏ hành cho thơm…
À …ơi….Mẹ ru cái lẽ ở đời
Sữa nuôi phần xác…hát nuôi phần hồn
À…ơi…
Bà ru mẹ, mẹ ru con
Liệu mai xa cách con còn nhớ chăng
Ạ ời…Ạ… ơi
Con ơi muốn nên thân người
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ ru…
Lời của những bài hát ru không tự nhiên mà có, chúng được giới bình dân sáng tác và truyền miệng cho nhau đủ mọi đề tài, từ nuôi con, dạy trẻ khi lớn cho tới canh tác và chăm sóc công việc đồng áng. Dĩ nhiên một mảng quan trọng khác luôn thấy trong gia tài thi ca bình dân đó là tình yêu đôi lứa vẫn không thiếu trong hát ru.
Ạ…ư…
Ai về (mà) nhắn với bạn nguồn
Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên
Chột kêu chút chít trong rương
Anh đi cho khéo (chứ) đụng giường mẹ la
Khi xa thì chỗ ngõ cũng xa
Khi gần Vĩnh Điện…La Qua cũng gần
Nỗ lực gìn giữ hát ru
Gia tài hát ru Việt Nam đã mai một thấy rất rõ trong những lúc gần đây. Trước tình hinh này một nhóm các nghệ nhân có lòng đã tụ nhau với mục đích gây dựng lại tiếng hát ru đang mất. Bà Cao Thị Hiền, một nghệ sĩ thành viên thuộc Hội Quán Các Bà Mẹ nơi đang có nỗ lực làm công việc này cho biết:“Nói chung hát ru Việt Nam rất phong phú. Chúng tôi xây dựng những chương trình truyền lại cho lớp trẻ những người đang nuôi dạy con những người làm cha làm mẹ. Chúng tôi dạy cho họ nghệ thuật hát ru cho lớp trẻ và những người đã từng sinh con. Nó có nhiều tác dụng trong những lời hát ru mang đậm tính nhân văn, giáo dục con cái ca ngợi quê hương đất nước. Bây giờ thì nó đã mai một đi một chút vì vậy chúng tôi và tất cả mọi người cũng đang muốn cố gắng khôi phục nó và bảo tồn loại hình nghệ thuật dân tộc này.
Rất nhiều trẻ bây giờ họ cũng say mê, có những người hát rất hay. Nhiều người say mê đến nỗi làm thành cả một tác phẩm riêng cho họ.”
Lắng tai nghe những lời mẹ ru êm ả nồng nàn ấy đứa trẻ là chúng ta không khỏi ảnh hưởng đến lòng từ tâm, âm thanh yêu thương từ mẹ để rồi sau đó bước ra đời với hành trang yêu người, yêu đời ăm ắp trong tim. Bài học đầu tiên của chúng ta, những người được nghe tiếng ru của mẹ từ khi chưa biết nói, nhưng từ cuống rốn chưa khô ấy, chúng ta đã tiếp xúc trực tiếp với mẹ bằng giác quan, bằng cảm nhận và chắc chắn rằng âm thanh từ giọng ru đã hình thành nhân cách cho từng người chúng ta từ tiềm thức.
Khi lớn lên một chút nghe mẹ ru cho em mình, ngồi bên cạnh mấy ai trong chúng ta không khỏi nhìn mẹ và tự hỏi rằng mình yêu mẹ bao nhiêu cho hết đây. Cái miệng mềm mại ấy đã từng ru mình bây giờ ru cho thế hệ nhỏ hơn…lời ru ấy tiếp nối và che chở chúng ta trong cuộc đời này. Lời ru như chiếc khiên, che chắn phong ba bão táp cuộc đời khi chúng ta gặp phiền muộn, bất ngờ hay thất bại trong cuộc sống. Tiếng ru có khả năng hàn lại vết gãy vỡ trong một lúc nào đó khi ta ngồi cô đơn một mình nhớ mẹ…
“Năm 1976 tôi về nước khi trở lại tôi đi khảo sát từ Bắc chí Nam, sau 25 xa vắng tôi giật mình, đi đến đâu tôi cũng thấy tiếng hát ru đã tắt trên môi của các bà mẹ vì hoàn cảnh, vì nếp sống mới, vì chiến tranh mà các bà mẹ không còn ôm con ru nữa. Tôi nghĩ rằng điều này rất tiếc bởi vì bài hát ru là một bài giáo dục âm nhạc đầu tiên người mẹ truyền sang cho đứa con, cùng một lúc với giòng sữa nóng nuôi thân thể trẻ con thì một điệu thi ca dân gian một cái nét nhạc dân tộc được rót vào tiềm thức của em bé.”
Kể từ biến cố 75, tiếng ru của mẹ cũng tắt dần theo với mệnh nước. Người ra đi tiếp cận đời sống mới với vật chất hiện đại tràn đầy từ đó tiếng ru trở thành khan hiếm trong mọi gia đình Việt Nam tại hải ngoại.
Trong nước cũng không hơn gì, xã hội bon chen với lầm than trong một thời gian dài để khi thức giấc thì tiếng ru cũng mất hồi nào không ai hay biết. Trưa hè vẫn nóng, đêm đông vẫn buốt giá nhưng thiếu tiếng ru làm những người từng nghe và may mắn được mẹ ru trước đây cảm thấy họ không còn là người Việt 100% nữa…có một cái gì đấy hụt hẫng, xót xa và thiếu vắng khi chợt nghe lại một giọng hát ru trên radio hay trong một chương trình truyền hình nào đó.
Lời hát thì vẫn vậy nhưng âm hưởng thì không còn yêu thương ngọt ngào như từ giọng ru của mẹ…Ôi giọng ru yêu dấu…không thể nào tìm thấy nữa…
Cái cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa có về
Có về thăm quán cùng quê
Thăm cha thăm mẹ, cò về thăm anh…
À..ời…ạ….ơi…
…………
Hà ư…
Trưa hè bên chiếu võng đưa
Mẹ ru con ngủ..hà ư…mẹ ru con ngủ giữa trưa nắng vàng
Chim trời ai dễ đếm lông chứ nuôi con ai nỡ kể công tháng ngày!
Con ơi con ngủ cho ngoan
Để mẹ xúc nước bồ thang cho đầy.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/sweet-tone-fr-mother-s-lips-ml-05102013170845.html
Mother’s day: Những lời Hát Ru của Mẹ
Nhân ‘Ngày Của Mẹ’, chúng ta hãy cùng quay về với những bài hát ru
con thưở nhỏ và đặc biệt, nghe Giáo sư Trần Văn Khê – cây đại thụ của
nền âm nhạc dân tộc Việt Nam nói về đặc điểm hát ru con 3 miền Nam,
Trung, Bắc.
Lời ru của Mẹ...
Trong những tháng ngày đầu tiên của một đời người, đứa
trẻ không chỉ được ấp ủ bằng hơi ấm từ da thịt của người Mẹ, mà còn được
nuôi dưỡng tâm hồn bằng những bài hát ru ngọt ngào.
Những bài hát ru truyền thống tự nó không có nhạc đệm.
Nhưng với cách ngân nga, luyến láy mộc mạc cộng với tình yêu vô bờ bến
của người mẹ đã thấm sâu vào tiềm thức của đứa bé, trở thành một ký ức
của tuổi thơ không dễ gì xoá bỏ.
GS Trần Văn Khê giải thích:
“Tiếng hát ru là điệu hát đầu tiên mà đứa trẻ nhận
được từ mẹ, bà, chị hay cha, ông, để đưa đứa bé vào giấc ngủ êm đềm.
Tiếng hát ru đó không chỉ đẩy đưa cho đứa trẻ đi vào giấc ngủ mà còn là
bài giáo dục đầu tiên của người mẹ truyền sang cho con mặc dù đứa nhỏ
không thể nhớ nhưng trong tiềm thức đã ghi lại cấu trúc phát âm.”
Không
chỉ thế, Giáo sư Trần Văn Khê còn nói rằng những thang âm “hò, xự,
xang, xế, cống” trong điệu ru con chính là bài học âm nhạc đầu tiên cho
mỗi con người:
“Chúng ta thầy rằng nó có 1 ảnh hưởng với đứa trẻ. Nó
đã ghi trong tiềm thức cấu trúc âm thanh. sau này nó muốn sáng tác thì
chỉ cần dựa vào cái cấu trúc âm thanh đó mà sáng chọn. do đó, tiếng hát
ru là bài giáo dục âm nhạc đầu tiên của đứa trẻ nhận được từ bà mẹ.”
Nuôi dưỡng tâm hồn con
Những bài hát đồng dao mang tính chất tự phát, không có
giai điệu chính là minh chứng cho điều Giáo sư Trần Văn Khê vừa nói.
Chính sự cảm thụ âm nhạc từ trong tiềm thức thuở nhỏ đã giúp cho đứa trẻ
khi lớn lên có thể cảm tác ra những bài đồng dao mang đặc trưng của
từng miền.
Không phải ngẫu nhiên mà mỗi khi nói về Mẹ, người ta hay
dùng hình ảnh cái có lặn lội bờ sông và cả nàng Tô Thị đợi chồng…Những
biểu tượng ấy vô hình trung là một suy tưởng bắc cầu để nói về tình Mẹ.
Vì Người mẹ, qua những bài hát ru, đã truyền hết tình yêu thương của
mình vào tâm hồn của đứa trẻ.
“Mỗi câu hát ru phần nhiều là nói chuyện đời sống
hàng ngày và nói chuyện tình thương của người mẹ đối với con, rồi có khi
vừa ru vừa dạy con như ‘nấu cơm thì phải nấu canh, bỏ tiêu cho ngọt bỏ
hàng cho thơm’ là dạy cách nấu ăn của Việt Nam.”
Hoặc đó cũng là lời tâm sự những nỗi niềm sâu thẳm của người mẹ:
"Trong tiếng hát ru của 3 miền, chúng ta đều thấy
rằng những câu hát ru đều là lục bát hoặc lục bát biến thể. Trước khi
bắt đầu câu lục bát đó là câu mở đầu ‘ầu…ơ…’. Miền Nam, Trung, Bắc khác
nhau do cách phát âm khác nhau, thanh giọng khác nhau và quan điểm nghệ
thuật cũng ít nhiều khác nhau.”
“Tuy khác nhau ở đầu nhưng giống nhau ở chỗ là: 3 loái hát ru đều có 1 thang âm đặc biệt gọi là quãng tư”
Vì sao lại có sự xuất hiện của quãng tư trong những bài hát ru? Giáo sư Trần Văn Khê giải thích rằng:
"Tâm sinh học chứng minh rằng quãng tư và quãng 5 là 2 quãng đem
lại sự bình tĩnh cho tâm hồn của con người. Vì vậy mà trong lời hát ru
không chỉ của Việt Nam mà của toàn thế giới không thể nào tránh được 2
quãng đó.”
Chỉ với hai chữ “ầu…ơ…” mượt mà ở quãng tư, thêm vào làn
gió mát rượi cùng với nhịp đu đưa của chiếc võng sau hè, cũng vừa đủ
ghi khắc vào tâm hồn con người một tình luyến ái ruột thịt thiêng liêng
cho đến ngày cuối đời. Vì những bài hát ru đó chính là kho tàng vô tận
đúc kết từ các câu chuyện dân gian do người đời truyền lại.
Hãy giữ lời Mẹ ru con!
Qua những bài hát ru, người mẹ không những bày tỏ tình mẫu tử, mà còn
dạy cho con mình tình yêu gia đình, quê hương đất nước qua hình ảnh cây
đa, bến chợ, sân đình, yêu thiên nhiên, sông núi. Những làn điệu này đã
hình thành nên nền tảng cho nhân cách của một con người:
“Đứa trẻ nào đã thấm nhuần tiếng hát ru bao nhiêu rồi
thì lớn lên thương mẹ bấy nhiêu. Có rất nhiều trường hợp chứng minh
rằng những người mẹ nào ru con thì đứa con đó thương nước Việt Nam,
thương văn hoá Việt Nam.”
Đúng vậy, lời bộc bạch tinh tế của người mẹ qua những
hình ảnh mộc mạc, chân tình trong bài hát ru đã định hình trong mỗi
chúng ta một nét văn hoá ứng xử truyền thống của người Việt Nam- chịu
thương chịu khó.
Giáo sư Trần Văn Khê cũng bộc bạch về một điều mà ông
cho rằng rất đáng tiếc khi những đứa trẻ ngày nay không còn cơ hội để
được thấm nhuần những bài học đầu đời như thế. Theo ông, đó cũng là một
trong những lý do hình thành “tính cách dễ kích động” của những đứa trẻ
ngày nay:
“Trẻ con bây giờ thích kích động không phải là do lỗi
của nó. Vì trong 1 hoàn cảnh xã hội mà tiếng hát ru đã tắt trên môi của
các bà mẹ thì chừng đó không còn gì để nối liền tình thương cha mẹ và
thi ca, âm nhạc. Tôi rất mong người Việt Nam sớm suy nghĩ lại. Những câu
hát ru không phải là khó học. Nếu xem những bài hát ru là căn bản, là
sự sống của dân tộc Việt Nam thì chúng ta phải gìn giữ nó. Mà chúng ta
là người VN, làm chủ lãnh thổ VN thì phải nên làm chủ nền văn hoá Việt
Nam, là thi ca, âm nhạc của Việt Nam.”
Dù có đi đến đoạn đường nào trong cuộc đời, mỗi khi nghe một khúc hát
ru mượt mà, không ai không thể xao lòng, nhớ về mẹ và những ngày “mẹ
bồng trên tay.”
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/MusicForWeekend/mother-day-vietnamese-lullabies-cl-05092015223815.html
Xin nghe người Mỹ da đen hát về Mẹ
VƯỜN THƠ
MÙA XUÂN NÀO CHO MẸ
Có Mùa Xuân nào cho Mẹ không em?
Dĩ vãng buồn, và ký ức không quên:
Đêm chạy giặc Tháng Tư Đen ngày đó!
Mẹ dắt dìu cả đàn con khốn khó
Vượt trùng dương với thuyền nhỏ mong manh
Trên đại dương bị hải tặc hoành hành
Mẹ tuẫn tiết liệt oanh ngời Gái Việt
Oan khiên đó! Chừ làm sao em biết?
Ba mươi năm rồi, dân Việt chịu đau thương
Ba mươi năm rồi, người Việt sống tha phương
Sống rải rác khắp cùng trên thế giới
Mùa Xuân này, xin em cho anh gởi
Một đóa hồng đến người Mẹ năm xưa
Với lòng thành cầu nguyện sớm trưa
Cho hồn Mẹ ngày mai thanh thoát.
HÀ ĐÌNH HUY
ANY SPRING FOR MOM?
Is there any
Spring for Mom, my dear?
The sad past and memory would never clear:
Fleeing from the enemy that Black April's night,
Mom guided her poor children in a sorry plight
Crossing the ocean in a small fragile boat.
Alas! while at sea the pirates atrociously smote;
She committed suicide proud of being a Viet lady.
Such misfortune, now how could you see, baby?
For thirty years, Vietnamese have endured pain;
Thirty years already, they have suffered in bane
Living scattered every where on this earth.
This Spring, kindly take from me of my life's worth
A rose to the Mom of Boat People that old time.
In all sincerity we pray day and night in chime
For Mom's Soul to be at leisure in Ultimate Bliss.
PHỎNG VẤN STEPHEN YOUNG
Phỏng vấn Giáo Sư Stephen Young
Giáo Sư Stephen Young: Hiện là giám đốc điều hành của tổ chức Caux Round Table và là chủ tịch của Winthrop Consulting and the Minnesota Public Policy Forum. Ông từng là Khoa Trưởng của Hamline University School of Law, và Phó Khoa Trưởng của Harvard Law School. Trước kia, ông từng làm việc trong Ủy Ban Quan Hệ Ngoại Giao và là cố vấn cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Nhân dịp từ Minnesota đến Quận Cam và trả lời cuộc phỏng vấn sau đây.
-Người Việt:
Là một người
nghiên cứu về
Việt Nam, Giáo
Sư nhận định
ra sao về mối
quan hệ hiện
nay giữa Việt
Nam và Trung
Quốc?
-GS Stephen Young:
Từ khi bắt
đầu nghiên cứu
về Việt Nam,
chưa bao giờ
tôi mang tâm
trạng bi quan như bây giờ khi nhìn vào tình hình Việt Nam. Vì trong thời gian Chiến Tranh Quốc-Cộng, ảnh hưởng của Trung Quốc đối với nhà cầm quyền Cộng Sản Miền Bắc không nhiều, so với ảnh hưởng của Liên Xô. Còn trong Nam, chịu ảnh hưởng của Hoa Kỳ nhưng người Mỹ không hề có tham vọng Đế Quốc mà chỉ muốn giúp Dân Chúng Miền Nam thực hiện một xã hội dân chủ, tự do. Nhưng hiện nay, chúng ta thấy Trung Quốc đang muốn bành trướng ảnh hưởng xuống Phía Nam trong tất cả mọi lãnh vực, từ kinh tế, chính trị, văn hóa cho tới quân sự. Nhận định của tôi là Việt Nam đang đối diện nguy cơ lớn từ “Bắc Triều”.
trạng bi quan như bây giờ khi nhìn vào tình hình Việt Nam. Vì trong thời gian Chiến Tranh Quốc-Cộng, ảnh hưởng của Trung Quốc đối với nhà cầm quyền Cộng Sản Miền Bắc không nhiều, so với ảnh hưởng của Liên Xô. Còn trong Nam, chịu ảnh hưởng của Hoa Kỳ nhưng người Mỹ không hề có tham vọng Đế Quốc mà chỉ muốn giúp Dân Chúng Miền Nam thực hiện một xã hội dân chủ, tự do. Nhưng hiện nay, chúng ta thấy Trung Quốc đang muốn bành trướng ảnh hưởng xuống Phía Nam trong tất cả mọi lãnh vực, từ kinh tế, chính trị, văn hóa cho tới quân sự. Nhận định của tôi là Việt Nam đang đối diện nguy cơ lớn từ “Bắc Triều”.
-Người Việt:
Ý Giáo Sư muốn
nói giới lãnh
đạo Bắc Kinh
đang có tham
vọng chiếm
Việt Nam như
thời kỳ một
ngàn năm Bắc
thuộc của lịch
sử Việt Nam?
-GS Stephen Young: Ðúng như vậy.
-Người Việt:
Nhiều người
cho rằng giới
lãnh đạo Hà
Nội hiện nay
đã chọn con
đường đi theo
Bắc Kinh để
bảo vệ chế độ,
xin nghe ý
kiến của của
Giáo Sư về
nhận định này?
-GS Stephen Young:
Tôi thấy rằng
từ nhiều năm
nay, giới lãnh
đạo Hà Nội đã
quyết định đi
hẳn với Bắc
Kinh chỉ nhằm
đổi lại sự ủng
hộ của Trung
Quốc để họ
tiếp tục cai
trị. Chính vì
vậy họ sẵn
sàng dùng Công
An để trấn áp
những hành
động chống đối
Trung Quốc của
Dân Chúng Việt
Nam. Tôi quan
sát thấy rằng,
Quân Đội, Trí
Thức và Dân
Chúng rất bất
mãn với thái
độ của giới
lãnh đạo,
nhưng Bộ Chính
Trị Đảng Cộng
Sản nắm Công
An trong tay,
nắm các lực
lượng an ninh
như Tổng Cục 2
nên họ bất
chấp sự phản
đối. Chúng ta
ai cũng biết
lãnh đạo Đảng
Cộng Sản Việt
Nam bây giờ
giàu kinh khủng
vì tham nhũng.
Họ cứ bảo
rằng họ là
Đảng của giai
cấp công nhân
chứ thực ra họ
là tỷ phú đô
la, và chính vì
vậy họ phải
bảo vệ vị thế
“Ăn Trên Ngồi
Trốc” của họ.
-Người Việt:
Nói cách khác,
thưa Giáo Sư,
toàn bộ giới
lãnh đạo cao
cấp nhất của
Hà Nội, từ Chủ
Tịch Nhà Nước
Nguyễn Minh
Triết, Thủ
Tướng Nguyễn
Tấn Dũng cho
đến Chủ Tịch
Quốc Hội
Nguyễn Phú
Trọng đều phục
tòng Trung
Quốc?
-GS Stephen Young:
Theo tôi, đa
số thành viên
Bộ Chính Trị
Đảng Cộng Sản
Việt Nam đã
chấp nhận đi
với Tầu. Ðúng
ra, nếu họ
khôn ngoan, họ
nên giao du
thân hơn với
Mỹ, thân hơn
với khối
Asean. Nhưng
chúng ta thấy
bất cứ lãnh
đạo nào của Hà
Nội trước khi
thăm Hoa Kỳ
đều phải qua
Trung Quốc để
xin phép “Bắc
Triều”. Cho
nên một số dư
luận ở Hải
Ngoại cho rằng
ông Triết, ông
Dũng muốn đi
với Mỹ, theo
tôi, nhận định
đó là sai.
-Người Việt:
Khi tiếp Thủ
Tướng Nguyễn
Tấn Dũng của
Nhà Nước Cộng
Sản Hà Nội tại
Tòa Bạch Ốc vào
năm 2008, Tổng
Thống Bush nói
rằng Hoa Kỳ
tôn trọng chủ
quyền toàn vẹn
của lãnh thổ
của Việt Nam.
Liệu có thể lý
giải quan điểm
của ông Bush
là Mỹ sẵn sàng
bảo vệ Việt
Nam trước mối
đe dọa của
Trung Quốc?
-GS Stephen Young:
Theo tôi, Hoa
Kỳ có thể bảo
vệ lãnh thổ
của Việt Nam
với điều kiện
chế độ hiện
nay tại Việt
Nam phải dân
chủ hóa, mà
điều kiện này
chắc chắn giới
lãnh đạo Hà
Nội sẽ không
chịu. Việt Nam
có dân chủ thì
Dân Chúng Mỹ
mới chấp nhận
hy sinh nữa để
giúp, mà giúp
Nhân Dân Việt
Nam chứ không
giúp chế độ.
Nếu Hà Nội
muốn đi với
Hoa Thịnh Ðốn
thì 20 năm qua
họ đã có nhiều
cơ hội, nhưng
họ vẫn chưa
dám vì còn lo
sợ áp lực của
Bắc Kinh.
-Người Việt:
Nếu Hà Nội
muốn kết thân
hơn nữa với
Hoa Thịnh Ðốn
thì liệu Hoa
Kỳ có sẵn sàng
không, thưa
Giáo Sư?
-GS Stephen Young:
Tùy theo tình
hình chính trị
tại Việt Nam.
Nghĩa là tùy
tình trạng tôn
giáo, nhân
quyền và những
vấn đề khác
như tham
nhũng, vấn đề
độc tài của
Đảng Cộng Sản.
Theo tôi, Đảng
Cộng Sản Việt
Nam phải lựa
chọn, giữa một
bên là quyền
lợi của Đảng
và một bên là
quyền lợi của
Nhân Dân. Họ
chỉ lo cho
quyền lợi của
Đảng họ hay họ
lo cho quyền
lợi của Dân
Tộc và Đất
Nước. Bây giờ
thì họ vẫn cứ
ưu tiên lo cho
quyền lợi của
Đảng họ. Ðiều
này đã quá rõ
ràng.
-Người Việt:
Nước Mỹ vừa có
tân lãnh đạo
là Tổng Thống
Obama. Theo
Giáo Sư, chính
phủ Obama nhìn
Á Châu và
riêng Việt Nam
ra sao?
-GS Stephen Young:
Nói chung, tôi
thấy chính
sách ngoại
giao của chính
phủ Obama ít
quan tâm tới Á
Châu. Hai
chiến trường
Iraq và
Afganistan là
hai hồ sơ lớn
mà chính phủ
phải đối đầu,
nên với Á
Châu, chính
phủ Obama
không xem là
ưu tiên lớn.
Thí dụ trước
hành động Bắc
Hàn thử nghiệm
hạt nhân, Hoa
Thịnh Ðốn cũng
chỉ phản ứng
chừng mực chứ
không quyết
liệt. Riêng
với Việt Nam,
tôi nghĩ chính
phủ Obama cũng
sẽ không tích
cực.
-Người Việt:
Một số người
cho rằng Tổng
Thống Obama
chủ trương
“xoa dịu dư
luận”, nói
cách khác,
chính sách
ngoại giao của
ông Obama quá
mềm yếu, Giáo
Sư nghĩ sao?
-GS Stephen Young:
(Cười thoải
mái) Tôi hoàn
toàn không
đồng ý với
nhận định đó.
Theo tôi, nhờ
cung cách mềm
dẻo, uyển
chuyển của ông
Obama, cái thế
của Mỹ sẽ mạnh
hơn trên thế
giới. Cái thế
mạnh không
nhất thiết
phải dùng vũ
lực, dùng tiền
bạc. Thế mạnh
có thể đạt
được bằng cách
thuyết phục.
Nhiều người Mỹ
vẫn chủ trương
dùng bạo lực
để tạo thế,
nhưng cũng có
nhiều người Mỹ
muốn dùng cách
thương thuyết
để tạo thế.
Với tôi, cách
dùng thương
thuyết vẫn có
giá trị và đạt
kết quả. Trong
lịch sử Việt
Nam, khi Quân
Nguyên đánh
Việt Nam, Ðức
Trần Hưng Ðạo
từng dạy rằng,
lấy “Cái Ngắn
Chế Cái Dài”,
tức lấy thế
yếu đánh thế
mạnh. Kết quả
là Nhà Nguyên
to lớn bị thua
và Việt Nam bé
xíu đã thắng.
Tôi luôn nghĩ
rằng, cái thế
của cái tâm,
của trí óc, của
lương tâm rất
có giá trị.
-Người Việt:
Giáo Sư đã
từng làm việc
tại Việt Nam
thời chiến
tranh; sau năm
75, Giáo Sư đã
góp tay những
mong chuyển
hóa tình hình
Việt Nam từ
chế độ độc tài
sang dân chủ;
Việt Nam hiện
nay trong mắt
Giáo Sư ra
sao?
-GS Stephen Young:
Tình hình Việt
Nam có nhiều
diễn tiến phức
tạp. Một mặt,
Việt Nam đã có
một số tự do,
hiểu theo
nghĩa nếu
người dân đừng
đụng chạm tới
Đảng Cộng Sản
thì họ có
quyền đọc
sách, đi chơi,
đi học ngoại
quốc, vào
chùa, vào nhà
thờ hành đạo
mà không bị
Công An bắt bớ
như trước kia.
Tóm lại, so
sánh với 20
năm trước, Dân
Chúng sống dễ
thở hơn. Nhưng
nếu người dân
bàn luận chính
trị, thì chắc
chắn bị ngăn
cấm. Nghĩa là
Việt Nam vẫn
không có tự
do, không có
sinh hoạt dân
chủ.
-Người Việt:
Những năm gần
đây, ngày càng
có nhiều người
thoát khỏi nỗi
sợ hãi và nói
lên khát vọng
tự do dân chủ.
Giáo Sư có
nghĩ đây là
diễn biến sẽ
dẫn tới Dân
Chủ Hóa Việt
Nam?
-GS Stephen Young:
Tôi không nghĩ
là Việt Nam
sẽ sớm có dân
chủ. Vì hệ
thống cai trị
của Công An
đang dùng tiền
bạc mua chuộc
và biện pháp
trấn áp để đe
dọa những
người chống
đối. Công An
có thể để cho
một người lên
tiếng, nhưng
tới một giới
hạn nào mà
không nguy
hiểm cho chế
độ. Nếu người
đó đi quá giới
hạn thì Công
An sẵn sàng
trấn áp. Hơn
30 mươi năm
qua, Việt Nam
chưa có một tổ
chức nào đủ
mạnh để đối
đầu với Đảng
Cộng Sản. Công
nhân không có
tổ chức; sinh
viên thanh
niên không có
tổ chức; trí
thức không có
tổ chức … có
chăng là một số
cá nhân can
đảm lên tiếng
chống đối.
-Người Việt:
Phải chăng
Giáo Sư quá bi
quan đối với
tương lai dân
chủ của Việt
Nam?
-GS Stephen Young:
Tôi bi quan.
Vì đa số quần
chúng chán
ghét Đảng Cộng
Sản, nhưng họ
cam chịu cuộc
sống của họ.
Ðó là chưa kể
Đảng Cộng Sản
có “Tiền Rừng
Bạc Biển”
trong tay, có
Công An, có
Quân Đội.
Thành ra tôi
chưa thấy lạc
quan vào tương
lai dân chủ
của Việt Nam.
-Người Việt:
Giáo Sư nói
Việt Nam không
có tổ chức đối
đầu với Cộng
Sản; Giáo Sư
nghĩ gì về
Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam
Thống Nhất với
quan điểm đấu
tranh tới cùng
để Việt Nam có
tự do, dân
chủ?
-GS Stephen Young:
Tôi thấy quý
thầy lãnh đạo
Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam
Thống Nhất có
lập trường rất
đúng đắn,
nhưng phía
Công An của
chế độ đã tìm
đủ mọi cách cô
lập Giáo Hội
với quần chúng
khiến Dân
Chúng không
thể tham gia
cuộc đấu tranh
của Giáo Hội.
Trong lòng Dân
Chúng thì họ
muốn theo Giáo
Hội nhưng họ
không dám công
khai ủng hộ.
-Người Việt:
Kế hoạch của
nhà cầm quyền
muốn khai thác
bauxite tại
Cao nguyên
Trung Phần
đang gây phẫn
uất Dân Chúng
tại Việt Nam.
Liệu đây có
thể là “giọt
nước làm tràn
cái ly” không,
thưa Giáo Sư?
-GS Stephen Young:
Cái ly lớn hay
nhỏ? Tôi sợ
cái ly lớn
lắm. Cho nên
một giọt nước
không đủ mà
cần nhiều giọt
nước thì mới
tràn cái ly.
Chúng ta nên
nhớ Đảng Cộng
Sản đang nắm
quyền, nắm
tiền và có
“Bắc Triều”
đứng sau lưng.
Tôi nghĩ là
phải chờ một
cuộc khủng
hoảng lớn về
kinh tế; hoặc
chờ Thế Hệ
Cộng Sản Hiện
Nay nằm xuống
và Lớp Trẻ lên
thay thế thì
tình hình mới
hy vọng có
chuyển đổi.
-Người Việt:
Câu chót xin
hỏi Giáo Sư,
Cộng Đồng
Người Việt Hải
Ngoại nói
chung, tại Hoa
Kỳ nói riêng,
làm được gì để
góp phần
chuyển đổi
tình hình tại
Việt Nam?
-GS Stephen Young:
Tôi quan sát
thấy Lớp Trẻ
Việt Nam sinh
ra và lớn lên
tại Mỹ nói và
viết tiếng Anh
rất thông thạo
như người bản
xứ nhưng không
nói và viết
được tiếng mẹ
đẻ. Lớp trẻ
này là người
Mỹ gốc Việt.
Câu hỏi của
tôi là họ có
nghĩ tới Việt
Nam không? Họ
có lo cho Việt
Nam không? Ðây
cũng là điều
tự nhiên vì họ
trưởng thành ở
xứ nào thì chỉ
biết văn hóa
xứ đó. Họ
không muốn
tham gia các
sinh hoạt
Chính Trị Đấu
Tranh cho Việt
Nam. Và hình
như lớp người
trẻ này chỉ
thích về Việt
Nam Đi Du
Lịch. Còn lớp
người vẫn còn
lo lắng cho
Việt Nam thì
bây giờ lớn
tuổi lắm rồi.
Thành ra tôi
nghĩ, những
người Việt Nam
còn ý thức
được số phận
của Dân Tộc
phải tổ chức
những Sinh Hoạt
Văn Hóa nhằm
khơi dậy lòng
tự hào Dân Tộc
nơi Lớp Người
Trẻ để (Lớp
Người Trẻ này)
tham gia vào
các Hoạt Động
cho Việt Nam.
PHẬT GIÁO VÀ CỘNG SẢN
Về Phật giáo Việt Nam và hai giáo hội
Nguyễn Văn Huy
Gửi đến BBC từ Paris, Pháp
- 9 tháng 9 2013
Tin
Hòa thượng Thích Quảng Độ từ chức lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất (GHPGVNTN) ngày 01/09/2013 đã là một chấn động lớn đối với
những người mến mộ ông.
Nhưng sau hai ngày theo dõi phản
ứng của Phật tử và tiếp xúc với các chức sắc trong giáo hội, ngày 04/09,
Hòa thượng Thích Quảng Độ cho biết ông chấp nhận tiếp tục lãnh đạo Giáo
hội, sau khi chỉnh đốn lại thành phần nhân sự Văn phòng II Viện Hóa
Đạo.Đây là một tin mừng cho giới tăng ni, Phật tử thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vì, theo Thông cáo báo chí ngày 05/09, "cuộc vận động Giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn chưa thành, lãnh thổ lãnh hải bị ngoại nhân xâm chiếm, nhân tâm ly tán, phân hóa, đồng bào trong nước sống cảnh đói nghèo, thiếu tự do, nhân quyền, chế độ độc tài toàn trị vẫn còn thống trị, để van nài Ngài trở lại lèo lái con thuyền Giáo hội trên phong ba bão táp".
Nhưng rõ ràng đây là một thông điệp chính trị. Thông cáo báo chí này để lộ những khó khăn mà Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đang gặp phải. Người thuyền trưởng không thể rời bỏ con tàu đang giữa phong ba bão táp.
Tất cả những vấn nạn mà Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đang gặp phải là chỗ đó: đạo và đời là hai lãnh vực rất khó tách rời nhau trong sinh hoạt của hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Sự gắn bó của Phật giáo giữa đạo và đời không phải mới đây, quan hệ này đã xuất hiện ngay từ khi Phật giáo được du nhập vào Việt Nam.
Sự phát triển của Đạo Phật ở Việt Nam
Được du nhập vào miền Bắc Việt Nam (vùng Bắc Ninh hiện nay) cách đây hơn 2000 năm, đạo Phật đã được những thương nhân và tăng sĩ Ấn Độ truyền bá rộng rãi trong chốn dân gian.Thời đó dân chúng Việt gọi Đức Phật là Bụt (Buddha), trong khi người Trung Hoa gọi là Phật Đà (Buddha phát âm theo tiếng Hán, đọc ngắn lại là Phật); cách phát âm của hai phụ âm B (Việt) và Ph (Hoa) rất giống nhau. Ngày nay Bụt chỉ còn được nhắc tới trong những truyện kể dân gian, trong khi Phật được phổ biến rộng rãi trong kinh điển và chốn thị thành.
Dưới thời Bắc thuộc, khi Phật giáo Đại thừa được đưa vào miền Bắc, danh xưng Bụt bị biến mất nhường chỗ cho danh xưng Phật. Cùng thời gian đó, hai tín ngưỡng khác cũng được người Hán đưa vào miền Bắc: Khổng giáo và Lão giáo.
Khổng giáo là một triết lý cầm quyền thể hiện qua phương pháp tu thân tề gia, trị quốc và bình thiên hạ của người quân tử, trong khi Lão giáo là một triết lý sống thuận với trời đất qua tu luyện của từng cá nhân. Từ đó, Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo từ đó trở thành ba tôn giáo bám sâu vào sinh hoạt văn hóa dân gian của người Việt.
Mặc dù xuất hiện từ lâu đời, đạo Phật chỉ lưu hành trong giới dân gian trong khi, ngược lại, giai cấp cầm quyền lấy Khổng giáo làm kim chỉ nam hành động. Sự tách biệt này không phải vì giáo lý đạo Phật mà vì triết lý thực dụng của đạo Khổng.
Về Lão giáo, do không nắm vững triết lý Đạo (Con đường), nghĩa là sống thuận với trời đất và thiên nhiên để tìm sự bình an trong tâm hồn, những phương pháp tu luyện trở thành huyền bí dành riêng cho những phái đạo gia khí công, hay biến cải thành những giải thích siêu nhiên (tử vi, phong thủy…) dành cho quần chúng.
Đạo Phật chỉ thực sự phát triển và thịnh vượng dưới thời nhà Lý (1009-1225), trở thành tôn giáo chính của triều đình, giai cấp tăng lữ trở thành công bộc của triều đình và được hưởng bổng lộc như những công thần.
Sang thời nhà Trần (1225-1428), giai cấp tăng lữ tiếp tục đảm nhiệm nhiều vai trò quan trọng trong xã hội, nhà chùa có ruộng đất riêng và nô tì riêng.
Nhưng khi tiếp cận với quyền lợi và cuộc sống xa hoa, giới tăng lữ xa rời đạo lý và xử sự như người trần tục, hai đại thần Lê Quát và Trương Hán Siêu đã nhiều lần phê phán gay gắt giới tăng ni và khi quân Champa tiến công vào Thăng Long, giới sư sãi cũng bị đôn quân đánh giặc như dân thường.
Năm 1396, sau khi khống chế nhà Trần, Hồ Quý Ly áp dụng nhiều chính sách thuận với Khổng giáo nhằm loại bỏ ảnh hưởng của đạo Phật ra khỏi cung đình, những sư sãi bị sa thải lui về ở ẩn trong các chùa chiền làng xã xa xôi để tránh nạn.
Ngược lại, trong dân gian, những sinh hoạt của Phật giáo đã trở thành nếp sống văn hóa chung của người Việt, như tụng kinh, thờ cúng, bố thí, trai đàn (cầu siêu), phóng sinh, ăn chay…
Dưới thời hậu Lê (1427-1789), ảnh hưởng của Phật giáo bị loại hẳn khỏi chốn cung đình và trở thành một tôn giáo dân gian, với những cái hay và cái dở của nó.
Vua Lê Thánh Tông (1460-1497) chính thức lấy Khổng giáo làm quốc học và tình trạng này kéo dài cho đến hết thời Pháp thuộc (1884-1945), nghĩa là trong suốt thời nhà Nguyễn (1802-1883).
Một sự kiện cần được nhắc tới là trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh (1627-1775), đặc biệt là dưới thời các chúa Nguyễn (1558-1777), đạo Phật ở xứ Đàng Trong được tôn vinh trở lại.
Nhiều chùa chiền lớn đã được xây dựng, một số vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay như chùa Linh Mụ, chùa Từ Đàm (Huế), chùa Sùng Hóa (Phú Vang)… Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) còn cho người sang Trung Hoa thỉnh bộ Đại tạng kinh, xây Tàng kinh lâu để bảo quản.
Trong giai đoạn này, nhiều tăng sư Đại thừa đã trực tiếp từ Trung Hoa vào Đàng Trong giảng kinh, nhiều tổ đình được thành lập. Một cách vô tình, Huế trở thành tổ đình, trung tâm sinh hoạt của đạo Phật trong suốt thời nhà Nguyễn.
Dưới thời Pháp thuộc, vì Phật giáo được coi là một tôn giáo dân gian, chính quyền thực dân Pháp đã để dân chúng Việt sống đạo một cách bình thường.
Đạo Phật được xếp vào hạng hội đoàn văn hóa và chỉ bị chi phối bởi Luật hội đoàn 1901.
Thiếu cơ quan lãnh đạo Phật giáo toàn quốc
Từ khi xuất hiện cách đây trên 2000 năm, rất nhiều tông phái Phật giáo Ấn Độ và Trung Hoa đã được du nhập vào Việt Nam.Phái Đại thừa (Mahayana) chiếm đa số với các tông phái Bắc tông, Thiền tông (Zen), Tịnh Độ tông, Mật tông (Vajrayana); phái Tiểu thừa (Theravada) chỉ giới hạn ở miền Nam với các tông phái Nam tông, Phật giáo nguyên thủy, Phật đường Nam tông Minh sư đạo.
Mỗi tông phái có nhiều hệ phái nhỏ, Đại thừa Thiền tông có những chi phái Trúc Lâm, Hoa Nghiêm, Liễu Quán… Ngoài ra có nhiều tông phái chỉ phát sinh tại miền Nam Việt Nam như Phật giáo Hòa hảo, Tứ ân Hiếu nghĩa, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, Bữu sơn Kỳ hương...
Nói chung, cho tới năm 1954, Phật giáo tại Việt Nam chưa bao giờ được tổ chức thành một giáo hội chính quy mà chỉ có những tông phái và chi phái riêng biệt và sinh hoạt độc lập với nhau.
Hơn nữa, do không có một cơ quan Phật học chủ đạo để đào tạo giới tăng lữ, ai cũng có quyền đi tu và có thể trở thành tăng sĩ, tăng sĩ nào có công xây chùa thì được trụ trì tại chùa đó.
Do thiếu sách báo viết về Phật học, trình độ thuyết pháp của những vị sư ở thành thị và thôn quê rất là chênh lệch và nghi thức phụng pháp giữa hai vùng cũng hoàn toàn khác nhau. Tại nhiều nơi, nhất là trong các chùa lớn, những thiền sư trụ trì tự in sách Phật giảng dạy giáo lý cho tín đồ và khách thập phương.
Chính qua những buổi thuyết giảng này mà uy tín của mỗi vị thiền sư tỏa rộng trong khắp dân gian và trở thành cấp lãnh đạo tự nhiên của Phật giáo. Trong nhiều trường hợp, những cấp lãnh đạo này là một đe dọa cho các chính quyền đương thời.
Tại miền Bắc, sinh hoạt của các giáo phái và những cơ sở Phật giáo (chùa chiền, đền thờ, am tự…) đã gần như hoàn toàn nằm trong tay chính quyền cộng sản, những vị sư trụ trì trong các chùa đều do nhà nước bổ nhiệm và sinh hoạt của những cán bộ nhà nước.
Những hình thức cầu siêu, cúng bái đều bị cấm đoán và bị cho là mê tín dị đoan, việc tuyển dụng sư sãi rất là hạn chế và phải được chính quyền chấp nhận.
Tại miền Nam, dưới thời đệ nhất cộng hòa (1954-1963), đạo Phật vẫn phát triển một cách bình thường với sự hội nhập của nhiều nhà sư và Phật tử từ miền Bắc di cư vào.
Năm 1954, toàn miền Nam có 2.206 chùa chiền lớn nhỏ, con số đó đã tăng lên gấp đôi vào năm 1963 với 4.776 cơ sở.
Về tổ chức, Tổng Hội Phật giáo Việt Nam, được thành lập từ năm 1951 và trụ sở đặt tại Sài Gòn, là cơ quan điều hành các hội đoàn Phật giáo Đại thừa trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa; miền Trung và miền Nam cũng có những tổng hội Phật giáo riêng, sinh hoạt độc lập với Tổng hội Sài Gòn, như Giáo Hội Tăng Già Trung Phần, Tổng hội Phật Giáo Thừa Thiên, Tỉnh Hội Phật Giáo Thừa Thiên…
Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì, vụng về hay cố ý, chính quyền Ngô Đình Diệm đã thi hành một số biện pháp phân biệt đối xử đối với Phật giáo.
Lúc đầu, các cấp lãnh đạo Phật giáo phản đối việc áp dụng đạo Dụ số 10 ban hành ngày 6/8/1950 dưới thời cựu vua Bảo Đại, theo đó những tổ chức tôn giáo được xếp ngang hàng với các hội đoàn và những hạn chế của nó, như không được quyền nhận tiền trợ cấp, giới hạn quyền sở hữu bất động sản…
Tiếp theo là Công điện số 5159 ngày 6/5/1963 cấm treo cờ tôn giáo vào dịp lễ Phật Đản hai ngày sau đó gây bất mãn trong giới Phật tử Huế.
Ủy ban liên phái bảo vệ Phật giáo để tranh đấu đòi bình quyền tôn giáo được thành lập, nhiều vị lãnh đạo đã bị bắt giam.
Biểu tình và chống biểu tình đã làm nhiều người thiệt mạng và phong trào chống đối chính quyền Ngô Đình Diệm lan rộng trên khắp miền Nam, mà cao điểm là ngày 11/6/1963 với cái chết của Hòa thượng Thích Quảng Đức. Chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ ngày 1/11, chấm dứt nền Đệ nhất cộng hòa.
Nhắc lại, trong thời gian từ 1960 đến 1963, chính quyền cộng sản miền Bắc tiến hành cuộc tiến chiếm miền Nam bằng võ lực, Hoa Kỳ muốn đưa quân vào can thiệp nhưng gặp sự chống đối của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Cuộc tự thiêu của Hòa thượng Quảng Đức ngày 11/6 và cú đảo chánh ngày 1/11/1963 đều do Hoa Kỳ dàn dựng để lấy cớ bênh vực Phật giáo nhằm thành lập một chính quyền thân Mỹ tại miền Nam.
Về Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
Từ sau khi được tự do hành đạo và tổ chức giáo hội, những cấp lãnh đạo tông phái Phật giáo nhận thấy muốn có tiếng nói mạnh trong và ngoài nước thì phải được kết hợp thành một tổ chức có quy củ như Giáo hội Công giáo La Mã, với những chức vụ và cơ quan chức năng liên hệ.Nhưng khi biến ước muốn thành hiện thực, sự việc đã không dễ dàng: Tổng hội Phật giáo Việt Nam quá yếu, chỉ có danh mà không có thực, còn những tông phái Phật giáo khác thì có rất nhiều và rất phân tán.
Ngày 31/12/1963, đại diện 11 tông phái và hội Phật giáo Bắc tông và Nam tông đã cùng nhau họp tại chùa Xá Lợi, Sài Gòn, để soạn thảo Hiến chương thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Ngày 4/1/1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ra đời và trở thành cơ quan lãnh đạo sinh hoạt Phật giáo trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa.
Cơ quan điều hành giáo hội gồm hai viện: Viện Tăng Thống (giáo luật) và Viện Hóa Đạo (điều hành). Hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm Tăng thống (chủ tịch), Thượng tọa Thích Tâm Châu làm viện trưởng Viện Hóa Đạo và Thượng tọa Thích Trí Quang làm tổng thư ký Viện Tăng Thống. Chùa Ấn Quang tại Sài Gòn được chọn làm trụ sở sinh hoạt của Giáo hội, tức Viện Tăng Thống. Viện Hóa Đạo, trụ sở đặt tại Việt Nam Quốc tự đường Trần Quốc Toản, Sài Gòn.
Do quen với sinh hoạt tự do và tự trị từ lâu đời, những tăng sĩ và cư sĩ của giáo hội mới này chưa quen với sinh hoạt có tổ chức, hơn nữa nhiều tăng sĩ đã bỏ ra nhiều công lao muốn được trao những vai trò quan trọng hơn, nhưng thực tế đã không như mong ước.
Tuy mang danh là một giáo hội tôn giáo, nhưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hoạt động như một tổ chức chính trị năng động. Chính vì thế ngay sau khi vừa ra đời, việc điều hành Giáo hội đã gặp nhiều khó khăn.
- Bất mãn nội bộ giữa hai ViệnVới những thành tích trong cuộc tranh đấu tại Huế, Thượng tọa Thích Trí Quang muốn nắm giữ một vai trò tích cực hơn trong việc biến Phật giáo thành một lực lượng quần chúng đáng kể để đấu tranh chính trị bạo động với chính quyền quân sự miền Nam mà chức vụ tổng thư ký của ông không đủ điều kiện để thực hiện. Trong khi Thượng tọa Tâm Châu thì ngược lại, cổ động đường lối đấu tranh ôn hòa để đạt mục tiêu.
- Khác biệt về khuynh hướng chính trị giữa hai vị lãnh đạo
Sau 1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được chia làm hai khối: khối Ấn Quang và khối Việt Nam Quốc Tự. Khối Ấn Quang, gồm 3 đoàn thể, do Thượng tọa Thích Trí Quang và Đại đức Nhất Hạnh lãnh đạo biểu lộ khuynh hướng thân cộng (Mặt trận Giải phóng Miền Nam) và hoạt động chống lại chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, mà cao điểm là cuộc bạo loạn cướp chính quyền năm 1966 nhưng bị thất bại.
Khối Việt Nam Quốc Tự, với 8 đoàn thể, biểu lộ khuynh hướng thân chính quyền và được công nhận là đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Lực lượng Phật giáo Việt Nam được thành lập dưới quyền lãnh đạo của Viện Hóa Đạo để tranh đấu và đề đạt nguyện vọng như yêu cầu chính quyền quân sự tái lập lại chính quyền dân sự và Mặt trận Giải phóng miền Nam giải giới và rút về vĩ tuyến 17.
Sự phân chia giữa hai khối kéo dài cho đến khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ ngày 30/4/1975. -
Chia rẽ ngay trong phong trào Phật giáoMặc
dầu Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã chính thức thành lập với
sự kết hợp 11 tông phái và hội Phật giáo, một số tăng sĩ khác vẫn tiếp
tục sinh hoạt riêng và lập những hội đoàn khác.
Những tổ chức thân với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là Viện Cao đẳng Phật học, được thành lập ngày 13/3/1964, nhằm đào tạo và cấp bằng cấp Phật học; Giáo hội Thiền tông Việt Nam được thành lập tháng 11/1964; liên phái Phật tự khu vực Sài Gòn Gia Định tách khỏi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất để thành Tổng Giáo hội Phật giáo Việt Nam tháng 12/1964.
Những tổ chức Phật giáo thân với Mặt trận Giải phóng Miền Nam rất nhiều và thường được sử dụng như những cơ sở giao liên, tất cả đều đặt dưới sự điều động của Hội Lục hòa Phật tử do Mặt trận Giải phóng Miền Nam thành lập.
Hóa giải Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
Ngay sau 30/4/1975, chính quyền cộng sản Việt Nam áp dụng chính sách hạn chế hoạt động tín ngưỡng đối với mọi tôn giáo. Toàn bộ những cơ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Viện Hóa Đạo cũng như Ấn Quang, bị chính quyền mới tịch thu, nhiều vị sư lãnh đạo tị nạn sang nước ngoài như Thích Tâm Châu, Thích Nhất Hạnh.Những hình thức lễ lạt lớn của Phật giáo đều bị cấm, kể cả việc treo cờ. Cuối năm 1975, nhiều cuộc đụng độ giữa Phật tử và công an đã xảy ra, 12 người tự thiêu nhưng cũng không làm thay đổi quyết tâm đặt giáo hội Phật giáo dưới quyền kiểm soát của chính quyền cộng sản.
Những cơ sở công ích còn lại của giáo hội Phật giáo cũng lần lượt bị đóng cửa hay quốc hữu hóa, như cô nhi viện Quách Thị Trang, Viện Đại học Vạn Hạnh, nhà xuất bản Lá Bối.
Các cấp lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị coi là phản động, cũng đã lần lượt bị bắt giam: Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ và Thích Thiện Minh.
Những người đã từng ủng hộ Mặt trận Giải phóng Miền Nam trước kia và đang có chân trong Mặt trận Tổ quốc và Quốc hội, như Hòa thượng Thích Đôn Hậu, cũng bị đối xử thô bạo vì dám chống lại chính quyền.
Để hóa giải ảnh hưởng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và nắm Phật giáo trong tay, ngày 7/11/1981 chính quyền cộng sản Việt Nam cho ra đời Hiến chương thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, qui tụ 9 tổ chức giáo hội, hội, và hệ phái trên toàn quốc, trụ sở đặt tại chùa Quán Sứ, Hà Nội.
Sơ đồ tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam không khác gì sơ đồ của một đảng phái hay hội đoàn dân sự, với những cấp trung ương, tỉnh thành, quận huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh.
Quyết tâm biến Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành một công cụ chính trị của chế độ thể hiện rõ rệt trong Điều 7 của Hiến chương:
"Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoạt động theo đúng Giáo pháp, Giáo luật Phật chế và Pháp luật của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Giáo hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam".
Ngoài ra Hội đồng Trị sự, tức cơ quan điều hành, còn có nhiệm vụ giới thiệu tăng ni, cư sĩ Phật tử tham gia các cơ quan dân cử, tổ chức chính trị xã hội.
Từ sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời, mà quần chúng Việt Nam gọi là 'Giáo hội Phật giáo nhà nước' hay 'Giáo hội Phật giáo quốc doanh', tầm hoạt động và ảnh hưởng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất suy giảm hẳn.
Tăng sĩ thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị chính quyền cộng sản Việt Nam gây áp lực gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, nếu muốn tiếp tục trụ trì hay ở lại trong những cơ sở tu hành.
Hiện nay Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất chỉ còn giữ được khoảng 10% tổng số cơ sở đã có trước 1975. Tất cả những cơ sở còn lại được chính quyền cộng sản Việt Nam giao cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam quản lý.
Sự can thiệp của chính quyền trực tiếp vào cách hành đạo đã khiến sinh hoạt của Phật giáo Việt Nam suy đồi. Một số sư sãi được chính quyền đề cử trụ trì đã biến chốn thờ phượng thành nơi giải trí và buôn thần bán thánh.
Nhiều cán bộ cao cấp trong chính quyền bỏ tiền xây chùa và mướn sư sãi trông nom với hy vọng được về cõi Niết Bàn sau khi chết. Có chùa còn tạc tượng bồ tát Hồ Chí Minh, có tượng được dát vàng, để thờ ngang với các chư Phật.
Hiếm thấy một vị sư nào có nước da cháy nắng, gầy ốm còn đi khất thực hay sống trong những ngôi chùa ảm đạm để tu thiền và giảng thuyết.
Ngày nay, nhiều khách thập phương đến chùa để cầu xin trúng số hay thỏa mãn tình duyên nhiều hơn là để cầu nguyện.
Thêm vào đó, sự tuyển chọn người đảm nhiệm nhiều chức vụ tôn giáo do chính quyền quyết định. Sinh hoạt của Giáo hội Phật giáo Việt Nam đang bị chính quyền cộng sản Việt Nam trần tục hóa.
Trước chính sách trần tục hóa của sinh hoạt Phật giáo, sự tồn tại của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là rất cần thiết, vì đó là một đối trọng.
Nhưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hiện nay không còn thống nhất như trước. Tầm vóc hoạt động của giáo hội trong và ngoài nước đã bị thu hẹp nhưng tranh chấp quyền lực vẫn tiếp tục xảy ra ngay trong nội bộ Giáo hội mà vụ Thích Chánh Lạc là một thí dụ.
Thêm vào đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đang đối đầu với nguy cơ lão hóa.
Hòa thượng Thích Quảng Độ năm nay đã 85 tuổi, những người có thể kế tục chắc chắn không còn trẻ và cũng không có tầm vóc uy tín và bản lĩnh như ông.
Nếu không đào tạo được những thế hệ thay thế, sự tồn tại của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đang bị đếm ngược.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả Nguyễn Văn Huy từ Paris. BBC tiếp tục đón nhận các bài và các dòng ý kiến khác nhau về chủ đề này.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/09/130909_vn_phatgiao_hai_giaohoi
"Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoạt động theo đúng Giáo pháp, Giáo luật Phật chế và Pháp luật của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Giáo hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam".
Ngoài ra Hội đồng Trị sự, tức cơ quan điều hành, còn có nhiệm vụ giới thiệu tăng ni, cư sĩ Phật tử tham gia các cơ quan dân cử, tổ chức chính trị xã hội.
Từ sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời, mà quần chúng Việt Nam gọi là 'Giáo hội Phật giáo nhà nước' hay 'Giáo hội Phật giáo quốc doanh', tầm hoạt động và ảnh hưởng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất suy giảm hẳn.
Tăng sĩ thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị chính quyền cộng sản Việt Nam gây áp lực gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, nếu muốn tiếp tục trụ trì hay ở lại trong những cơ sở tu hành.
Hiện nay Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất chỉ còn giữ được khoảng 10% tổng số cơ sở đã có trước 1975. Tất cả những cơ sở còn lại được chính quyền cộng sản Việt Nam giao cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam quản lý.
Sự can thiệp của chính quyền trực tiếp vào cách hành đạo đã khiến sinh hoạt của Phật giáo Việt Nam suy đồi. Một số sư sãi được chính quyền đề cử trụ trì đã biến chốn thờ phượng thành nơi giải trí và buôn thần bán thánh.
Nhiều cán bộ cao cấp trong chính quyền bỏ tiền xây chùa và mướn sư sãi trông nom với hy vọng được về cõi Niết Bàn sau khi chết. Có chùa còn tạc tượng bồ tát Hồ Chí Minh, có tượng được dát vàng, để thờ ngang với các chư Phật.
Hiếm thấy một vị sư nào có nước da cháy nắng, gầy ốm còn đi khất thực hay sống trong những ngôi chùa ảm đạm để tu thiền và giảng thuyết.
Ngày nay, nhiều khách thập phương đến chùa để cầu xin trúng số hay thỏa mãn tình duyên nhiều hơn là để cầu nguyện.
Thêm vào đó, sự tuyển chọn người đảm nhiệm nhiều chức vụ tôn giáo do chính quyền quyết định. Sinh hoạt của Giáo hội Phật giáo Việt Nam đang bị chính quyền cộng sản Việt Nam trần tục hóa.
Trước chính sách trần tục hóa của sinh hoạt Phật giáo, sự tồn tại của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là rất cần thiết, vì đó là một đối trọng.
Nhưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hiện nay không còn thống nhất như trước. Tầm vóc hoạt động của giáo hội trong và ngoài nước đã bị thu hẹp nhưng tranh chấp quyền lực vẫn tiếp tục xảy ra ngay trong nội bộ Giáo hội mà vụ Thích Chánh Lạc là một thí dụ.
Thêm vào đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đang đối đầu với nguy cơ lão hóa.
Hòa thượng Thích Quảng Độ năm nay đã 85 tuổi, những người có thể kế tục chắc chắn không còn trẻ và cũng không có tầm vóc uy tín và bản lĩnh như ông.
Nếu không đào tạo được những thế hệ thay thế, sự tồn tại của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đang bị đếm ngược.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả Nguyễn Văn Huy từ Paris. BBC tiếp tục đón nhận các bài và các dòng ý kiến khác nhau về chủ đề này.
Hai con đường, hai khác biệt'
4 tháng 5 2015 Cập nhật lúc 00:06 ICT
Nhà
nghiên cứu Phật học và vận động cho nhân quyền, tự do tôn giáo Võ Văn
Ái nói về sự khác biệt giữa Hòa thượng Thích Nhất Hạnh và một số hòa
thượng thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong quan hệ với
chính quyền và đảng cộng sản Việt Nam từ sau năm 1975 tới nay.
Theo nhà hoạt động từ
Paris, Hòa thượng Nhất Hạnh đã có con đường đi riêng khác biệt về bản
chất với con đường của một số vị lãnh tụ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất từ sau năm 1975 tới nay, mặc dù dường như điểm chung của hai
con đường ấy tới nay đều có một kết quả là chưa được sự 'chấp nhận' của
chính quyền Việt Nam.
Ông Võ Văn Ái nói:
"Trường hợp Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất dưới quyền lãnh đạo tối cao của ngài Huyền Quang và Quảng Độ có bao giờ mà nhà nước chấp nhận đâu, từ đầu tới cuối.
"Năm 1977, họ kết án hai ngài mấy năm tù, rồi từ đó trở về sau họ giải giới về quản thúc ở miền quê Thái Bình và Quảng Ngãi của hai ngài, chưa bao giờ, không bao giờ có một sự tiếp cận nào hết.
Ông Võ Văn Ái nói:
"Trường hợp Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất dưới quyền lãnh đạo tối cao của ngài Huyền Quang và Quảng Độ có bao giờ mà nhà nước chấp nhận đâu, từ đầu tới cuối.
"Năm 1977, họ kết án hai ngài mấy năm tù, rồi từ đó trở về sau họ giải giới về quản thúc ở miền quê Thái Bình và Quảng Ngãi của hai ngài, chưa bao giờ, không bao giờ có một sự tiếp cận nào hết.
Trường hợp của Hòa thượng Nhất Hạnh (trong ảnh) có thể gọi là sự tiếp cận với nhà nước VN, cái đó đưa tới sự thất bại như chúng ta thấy. Còn trong trường hợp của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất không hề có sự tiếp cận
"Mà chỉ có những kiến nghi bên phía Giáo hội Phật giáo
Việt Nam thống nhất đòi hỏi quyền tự do tôn giáo, quyền sinh hoạt của
Giáo hội Phật Giáo Việt Nam thống nhất, là một Giáo hội dân lập và
truyền thừa có 2.000 năm lịch sử.
"Còn bên phía tiếp cận của Hòa
Thượng Nhất Hạnh thì nó khác, nó không giống, nó không đại biểu cho lập
trường của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
"Đó là chuyện
có tính chất cá nhân của pháp môn Làng Mai, nó không đại biểu cho phật
tử Việt Nam và cũng không đại biểu cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống
nhất.
"Trường hợp của Hòa thượng Nhất Hạnh có thể gọi là sự tiếp
cận với nhà nước Việt Nam, cái đó đưa tới sự thất bại như chúng ta thấy.
"Còn trong trường hợp của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất không hề có sự tiếp cận.
"Gần
đây, khi đức Tăng thống Thích Quảng Độ tiếp bà Tổng lãnh sự Hoa Kỳ,
ngài cũng tuyên bố rằng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là giáo
hội duy nhất đối lập với Đảng Cộng sản và không chấp nhận Đảng Cộng sản.
"Là bởi vì cái đó đi ngược với giáo lý từ bi, trí tuệ của Đạo Phật," nhà hoạt động dẫn lời Hòa thượng Quảng Độ, nói.
'Vắt chanh bỏ vỏ'?
'Được cá thì quên nơm', 'được chim thì quên ná', thành ra khi họ dùng xong rồi, thì họ không xem là gì cả, vì nếu họ tiếp tục, thì pháp môn Làng Mai sẽ phát triển từ từ ở trong nước, và điều đó Đảng Cộng sản không có thích
Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong một lần đồng chủ trì trai đàn bình đẳng chẩn tế ở Sài Gòn khi về thăm Việt Nam.
Nhà
vận động nhân quyền và tự do tôn giáo đề cập vụ việc Hòa thượng Thích
Nhất Hạnh và tăng đoàn Làng Mai đã bị nhà nước Việt Nam phản ứng thông
qua vụ hàng trăm tăng sinh và giáo thọ của Làng bị chính quyền trục xuất
ra khỏi Tu viện Bát Nhã ở tỉnh Lâm Đồng hồi tháng 9/2009, chỉ một năm
sau khi Thiền sư Nhất Hạnh có liền ba chuyến về nước hoằng pháp trong
các năm 2005, 2007 và 2008.
Ông Võ Văn Ái đưa ra bình luận vụ Bát Nhã nguyên nhân gây gián đoạn quan hệ giữa Làng Mai và chính quyền Việt Nam:
"Trong
từ ngữ mà người Việt hay nói gọi là 'vắt chanh bỏ vỏ' đó, thực ra Hòa
thượng Nhất Hạnh đã có đơn xin với Bộ Văn hóa Hà Nội xin về từ năm 2000,
và ông đã đưa tất cả những bài mà ông sẽ thuyết pháp cho Bộ văn hóa
xem, thoạt đầu họ có hứa hẹn gì đó, nhưng đến phút chót, họ không cho
về.
"Nhưng năm 2005 thì họ cho về là bởi vì lúc đó Việt Nam bị đặt
vào trong danh sách CPC (các quốc gia gây lo ngại đặc biệt), thành ra
danh sách đó làm phiền nhà nước cộng sản lắm, thì nhà nước cộng sản mới
dùng chiêu bài để rút tên mình ra khỏi danh sách CPC bằng hai sự kiện".
Và
nhà hoạt động đề cập việc Hòa thượng Nhất Hạnh được cho phép về thăm
Việt Nam và thuyết giảng về phật giáo và giáo lý Làng Mai, cũng như việc
nhà nước cho thả tự do một số ít nhân vật Phật giáo được cho là trực
tiếp hay gián tiếp liện hệ với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
trước 1975.
Trong số đó, theo ông Võ Văn Ái, có hai vị đã bị kết
án tử hình từ năm 1988 là Thượng tọa Tuệ Sỹ và Thượng tọa Trí Siêu (tức
Thiền sư, Giáo sư Lê Mạnh Thát) và chính quyền tổ chức một hội thảo về
Phật giáo Quốc tế tại TP. Hồ Chí Minh.
"Tất cả những cái đó để
chứng minh cho Hoa Kỳ biết rằng không hề có đàn áp Phật giáo, và khi mà
họ làm xong nhiệm vụ, khi mà Tổng thống (George W.) Bush đến Hà Nội cuối
năm 2006, vào tháng 11, để dự Hội nghị APEC, thì món quà mà Tổng thống
Bush đem về là rút Việt Nam ra khỏi danh sách CPC.
"Khi đã làm
xong công tác thành công, thì họ không cần đến người mà họ dùng trước
nữa, 'được cá thì quên nơm', 'được chim thì quên ná', thành ra khi họ
dùng xong rồi, thì họ không xem là gì cả, vì nếu họ tiếp tục, thì pháp
môn Làng Mai sẽ phát triển từ từ ở trong nước, và điều đó Đảng Cộng sản
không có thích.
"Bởi vì họ không tôn trọng tôn giáo, thành ra khi
họ dùng xong việc, thì họ bỏ thôi, có gì đâu, đấy là vấn đề rất dễ
hiểu," nhà nghiên cứu Phật học và hoạt động nhân quyền nêu quan điểm.
Mời quý vị theo dõi
phần đầu cuộc trao đổi gồm hai phần giữa BBC với nhà nghiên cứu Phật học từ Paris, Pháp,
tại đây.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2015/05/150503_vovanai_langmai_part2
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2015/05/150503_vovanai_langmai_part2
TIN VIỆT NAM
Mâu thuẫn phe nhóm trước Đại hội Đảng 12 lại bùng phát?
Các chuyên gia phân tích chính trị nói gì về việc này?
Thông điệp phía sau bài diễn văn bế mạc
Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Ban Chấp hành trung ương Đảng CSVN lần thứ 11 – Khóa XI, với nội dung chủ yếu là bàn về công tác nhân sự, để chuẩn bị cho Đại hội Đảng CSVN lần thứ XII đã kết thúc.
Đáng chú ý, phát biểu bế mạc Hội nghị TW 11, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định "Kiên quyết không để lọt vào BCH TƯ những người có biểu hiện không kiên định đường lối, quan điểm của Đảng, có biểu hiện cơ hội chính trị, nói và làm trái Cương lĩnh, đường lối, nguyên tắc của Đảng, cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, phe cánh, lợi ích nhóm và mị dân".
Điều này đã khiến cho dư luận cho rằng, ông Tổng BT muốn chuyển đi một thông điệp tới một nhân vật lãnh đạo cao cấp nào đó trong Đảng.
Theo VNN online, Tổng BT Nguyễn Phú Trọng cũng thừa nhận đây là việc "vô cùng khó khăn". Từ xưa đến nay, bất kỳ đại hội nào công tác chuẩn bị nhân sự cũng có ý kiến này ý kiến khác. Thậm chí toàn dân bàn nhân sự, trong chưa bàn nhưng dư luận đã có rất nhiều phương án, không chỉ chúng ta quan tâm mà các nước bạn cũng quan tâm.
Nói về tình hình nội bộ Đảng CSVN trong thời gian vừa qua và khả năng có thể sau Đại hội Đảng lần thứ 12, từ Canada LS. Vũ Đức Khanh một chuyên gia về chính trị quốc tế cho biết đánh giá của ông. Ông nói:
“Cái đặc biệt trong vấn đề nội bộ của Đảng CSVN là từ sau Đại hội XI cho thấy rằng Đảng đã không kiểm soát được tình hình, mà Chính phủ đang kiểm soát tình hình. Cho nên tôi thấy từ các nỗ lực của Đảng đã dẫn tới tình trạng Đảng đã hoàn toàn thua bên phía Chính phủ. Cho nên vì những đấu đá đó đã dẫn tới việc sau các Hội nghị TW 10 và 11 chúng ta đã thấy ông Nguyễn Tấn Dũng đã ngày càng mạnh mẽ hơn. Vì vậy tôi nghĩ rằng cái vai trò của ông Dũng sau Đại hội 12 này sẽ là vai trò quyết định, có thể ông Dũng sẽ thay ông Trọng để đảm trách chức vụ Tổng BT. ”
Vì những đấu đá đó đã dẫn tới việc sau các Hội nghị TW 10 và 11 chúng ta đã thấy ông Nguyễn Tấn Dũng đã ngày càng mạnh mẽ hơn. Vì vậy tôi nghĩ rằng cái vai trò của ông Dũng sau Đại hội 12 này sẽ là vai trò quyết định, có thể ông Dũng sẽ thay ông TrọngViệc mâu thuẫn nội bộ trong các đảng hay các tổ chức chính trị là điều hoàn toàn bình thường, không phải chỉ có trong nội bộ Đảng CSVN. TS. Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện phản biện IDS nhận định:
LS. Vũ Đức Khanh
“Tôi thì không nghĩ rằng việc phân thành phe bảo thủ hay phe cải
cách, rồi phe thân TQ hoặc phe cải cách là một cái khuôn khổ hợp lý để
phân tích tình hình chính trị VN. Bởi đôi khi nó không phản ảnh đúng
thực chất. Tuy nhiên cái việc có các phe phái thì tôi đã nói là nó luôn
luôn có, kể cả việc nó gầm ghè với nhau hay thỏa hiệp thì nó là việc
thường xảy ra trong Đảng CSVN hay trong các tổ chức chính trị. Ở nơi nào
nó cũng thế.”
Trả lời câu hỏi, ông có đánh giá gì về phát biểu bế mạc Hội nghị TW11 của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng?
Từ Đà lạt, TS. Hà Sĩ Phu một nhân vật bất đồng chính kiến nhận định:
“Qua cái lời ông (Nguyễn Phú) Trọng về tiêu chuẩn rất nhiều cái
người ta có cảm giác động chạm, có vẻ như nhằm chặn đường vào trung ương
của ông Nguyễn Tấn Dũng. Như về tuổi, về quan hệ và những việc ai cũng
biết nếu mà lôi ra thì sẽ động chạm đến Nguyễn Tấn Dũng.”
Trận chiến giữa phe nhóm
Đó là chỉ dấu cho thấy, trận chiến quyền lực giữa các phe nhóm trong
nội bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng CSVN một lần nữa đã bùng phát trở lại.
LS. Vũ Đức Khanh khẳng định:
“Chúng ta thấy trong bài diễn văn kết thúc Hội nghị TW11 ngày 7/5
vừa qua của ông Nguyễn Phú Trọng có nói về tiêu chuẩn của Ủy viên TW.
Nếu đi vào phần nói về vấn đề đạo đức và điều hành thì thấy rõ diễn văn
đó đang nhắm vào một người, đó là ông Nguyễn Tấn Dũng. Tôi nghĩ rằng đó
là vấn đề dễ hiểu, bởi vì Đảng đã không kiểm soát được tình hình, mà
thực sự Chính phủ đang kiểm soát tình hình. Cho dù những tiêu chuẩn đó
có nhắm vào ông Dũng cũng sẽ không giải quyết được điều gì, vì đó là xu
thế của thời đại.”
Trong bài viết “TBT Trọng đặt 'tiêu chuẩn' nhân sự, chặn đà thâu tóm
của thủ tướng Dũng” trên trang Dân làm báo, tác giả Hoàng Trần đã nhận
định rằng: “Người ta dễ dàng nhận ra sự ám chỉ này dành cho thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng. Thậm chí, TBT Nguyễn Phú Trọng còn công khai chỉ rõ
hơn những điều được gọi là "khuyết điểm" của ông Nguyễn Tấn Dũng thông
qua tuyên bố này. Do vậy, diễn biến hội nghị cho thấy kế hoạch củng cố
quyền lực của ông Nguyễn Tấn Dũng có nguy cơ bị phá hoại bởi cuộc chiến
phe phái do TBT Nguyễn Phú Trọng cầm đầu.”
Khi được hỏi, ông có nhận định gì diễn biến chính trị trong nội bộ Đảng CSVN từ nay đến trước đại hội Đảng lần thứ 12, vào đầu năm 2016?Nhớ lại lời phát biểu của ông Nguyễn Tấn Dũng ngày 30/4, cái mà người ta gọi là diễn văn chửi Mỹ, nhưng vái Tàu thì nó khác hẳn những lời nói đẹp đẽ của ông Dũng nói trước đây. Người ta bảo kiểu này có lẽ là có những áp lực, nếu ông ấy không nói theo quan điểm chính thống thì có khi ông ấy nguyTS. Hà Sĩ Phu
Thời gian gần đây đã có một số chỉ dấu cho thấy ông Nguyễn Tấn Dũng đã chịu một sức ép đáng kể. TS. Hà Sĩ Phu ghi nhận:
“Người ta nhớ lại lời phát biểu của ông Nguyễn Tấn Dũng ngày
30/4, cái mà người ta gọi là diễn văn chửi Mỹ, nhưng vái Tàu thì nó khác
hẳn những lời nói đẹp đẽ của ông Dũng nói trước đây. Người ta bảo kiểu
này có lẽ là có những áp lực, nếu ông ấy không nói theo quan điểm chính
thống thì có khi ông ấy nguy. Vậy như thế chắc là lần này ông Nguyễn
Tấn Dũng không đạt được mong muốn để trở thành Tổng Bí thư.”
TS. Nguyễn Quang A cho chúng tôi biết đánh giá của ông, ông nói:
“Tất nhiên những người suy đoán như vậy thì người ta có lý của
người ta, Nhưng mà tôi nghĩ những cái tiêu chuẩn mà ông Nguyễn Phú Trọng
nêu ra thì là những cái tiêu chuẩn chung chung mà trước kia người ta
cũng nêu như vậy, nó cũng không phải là một cái gì đặc sắc cho lắm. Cũng
có thể có người nghĩ cái đó nhằm ám chỉ đến người này người kia thì cái
đó cũng rất có thể, nhưng chưa chắc đã phải như vậy. Song tất nhiên
trong cái việc này từ trước đến nay nó luôn luôn có các cuộc đấu tranh
trong nội bộ, thì những lời ám chỉ ấy cũng rất có thể là như vậy.”
Tất cả những vấn đề dư luận đang nói đến chỉ là sự đồn đoán, để đánh
giá chính xác tình hình chính trị VN là điều hoàn toàn không đơn giản.
LS. Vũ Đức Khanh khẳng định:
“Cái vấn đề chính theo tôi nghĩ, ở VN hiện tại chúng ta không thể
nói được ai là người quyết định được vận mạng của đất nước. Vì có thể
cái cơ quan quyết định cái đó chưa chắc là Bộ Chính trị, mà là một thế
lực nào đó đang điều hành vấn đề đó còn nằm trong bóng tối.”.
Cần phải nhắc lại, Tổng BT Nguyễn Phú Trọng trong lúc đọc bài diễn
văn bế mạc Hội nghị TW4 - Khóa XI (tháng 10/2012), đã không cầm được
nước mắt khi Ban Chấp hành TW không thông qua nghị quyết kỷ luật đồng
chí X - Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng do Bộ Chính trị đề nghị. Đây được coi
là sự thất bại trong nước cờ nhằm hạ bệ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng của
phe cánh Tổng BT Nguyễn Phú Trọng.
TBT Nguyễn Phú Trọng đang 'yếu thế'?
- 10 tháng 5 2015
Phát
biểu khi tiếp xúc cử tri cuối tuần này của Tổng bí thư Đảng Cộng sản
Việt Nam Nguyễn Phú Trọng cho thấy ông đang yếu thế, theo nhà quan sát
từ Canada.
Hôm 09/5/2015, truyền thông Việt Nam trích dẫn lời của
ông Nguyễn Phú Trọng tại một cuộc tiếp xúc cử tri ở Quận Ba Đình, Hà
Nội, trong đó ông Trọng nói:
"Ngăn kẻ cơ hội vào Trung ương không đơn giản" và "Bí thư kiêm chủ tịch thì to quá, ai kiểm soát ông?".
Một điều nữa chứng minh rằng Đảng cộng sản Việt Nam và phe cánh của Đảng đã bị thua rất là nặng so với phe cánh của Chính phủ do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Bình luận về các phát ngôn này, hôm thứ
Bảy từ Canada, Luật sư Vũ Đức Khanh, Giáo sư Luật học tại Đại học Ottawa
cho rằng đây là cách nói của 'người yếu thế'.
Nhà quan sát cho
rằng tương quan lực lượng trong nội bộ Đảng Cộng sản trước kỳ Đại hội
Đảng lần thứ 12 hiện đang cho thấy ông Tổng Bí thư và 'phe cánh' của ông
'suy yếu' và 'kém thế' so với ông Thủ tướng chính phủ và 'phe quyền
lực' của Thủ tướng.
Ông Khanh nói:
"Một điều nữa chứng minh
rằng Đảng cộng sản Việt Nam và phe cánh của Đảng đã bị thua rất là nặng
so với phe cánh của Chính phủ do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
"Chương
trình cải cách của ông Nguyễn Tấn Dũng theo tôi được biết sẽ không còn
sử dụng cơ chế 'Tam đầu chế', tức là một bên là Chính phủ, một bên là
Đảng, một bên là Quốc hội.
"Tôi nghĩ rằng trong giai đoạn mới sẽ
gom về một mối. Tức là ông Nguyễn Tấn Dũng có tham vọng trở thành Tổng
bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam, kèm thêm một chức vụ có thể nắm luôn
cả Chủ tịch Nước."
'Kẻ thua cuộc'
Luật sư Vũ Đức Khanh tin rằng chỉ những người 'thua cuộc' mới hay 'nói
nhiều' và 'nói lớn lên', đồng thời cho từ sâu xa, các phát biểu nói
trên, mặc dù không tường minh 'nhắm vào đối tượng nào' cho thấy ông
Trọng có thể lo lắng về vị thế đang lên của Thủ tướng đương kim.
Ông Khanh nói:
"Trong
bất cứ một cuộc đấu, cạnh tranh nào cũng có người thắng và kẻ thua,
những phát biểu của ông (Nguyễn Phú Trọng) chỉ thể hiện lên được là nhóm
của ông ta ở trong vị trí đang thua.
"Nên những người thua cuộc thì thường hay la, hay la làng lên, hay la lớn tiếng này kia về những tiêu chuẩn này, tiêu chuẩn nọ.
"Nhưng
chúng ta quan sát kỹ bài diễn văn bế mạc Hội nghị Trung ương 11 vừa
qua, thì chúng ta thấy rằng những tiêu chuẩn đó cũng quá mập mờ, chồng
chéo nhau, cái này dính vào cái kia, rất là phức tạp.
"Nhưng tựu
chung, như thế nào là thì gọi là người cơ hội chủ nghĩa, thì vấn đề đó
ông Trọng và những người theo quan điểm của ông ấy cần phải nêu rõ ra.
Cái khái niệm như thế nào gọi là người cơ hội chủ nghĩa?"
Trở lại Hội nghị Trung ương 9, Hội nghị Trung ương 10, thì chúng ta thấy rằng ngay cả Hội nghị Trung ương 9 cũng không có chỉ rõ là 'đồng chí X' là ai? Nếu như mà thực sự bên phía Đảng đã mạnh, thì chúng ta đã biết rằng 'đồng chí X' là ai rồi
Theo nhà luật học, trong bài diễn
văn này, ông Dũng đã nhắm vào việc lôi kéo những người 'ở phe đảng' và
ra chỉ dấu với họ rằng: "nếu các anh không đi với tôi, thì các anh sẽ
thành người thua cuộc".
Theo ông Vũ Đức Khanh, Tổng bí thư Nguyễn
Phú Trọng chưa bao giờ rõ ràng khi nói về những thành phần được gọi là
"kẻ cơ hội" và nhà quan sát nói nếu phe đảng 'đã mạnh' hơn các phe khác,
thì trong các kỳ Hội nghị trước, các đảng viên, cử tri và quần chúng đã
biết được, chẳng hạn như, "Đồng chí X" là ai.
Luật sư nói thêm:
"Nếu chúng ta trở lại Hội nghị Trung ương 9, Hội nghị Trung ương 10, thì
chúng ta thấy rằng ngay cả Hội nghị Trung ương 9 cũng không có chỉ rõ
là 'đồng chí X' là ai?
"Nếu như mà thực sự bên phía Đảng đã mạnh, thì chúng ta đã biết rằng 'đồng chí X' là ai rồi."
Gần
đây, lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam cũng có những thông điệp nhắm tới
vai trò của quân đội, trong đó ông Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh 'không
được phi chính trị hóa quân đội' và 'quân đội phải trung thành với Đảng
Cộng sản."
Trong khi đó, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 11, những
người chuẩn bị nhân sự cho Đại hội Đảng đã đặt ra vấn đề về "tiêu
chuẩn" nhân sự lãnh đạo Đảng, trong đó nhấn mạnh "chọn lãnh đạo không
tham vọng quyền lực", một khái niệm mà tới nay dường như chưa được rõ
nội hàm và đối tượng nhắm tới lắm, theo giới quan sát.
Bài diễn văn của ông Trọng nhiều hàm ý’
- 11 tháng 5 2015
Một nhà quan sát từ trong nước cho rằng bài diễn văn bế mạc hội nghị
trung ương lần thứ 11 hôm 7/5 của ông Trọng nêu ra một loạt các tiêu
chuẩn để được vào Ban Chấp hành Trung ương khóa tới là ‘có nhiều hàm ý’.
Hội nghị trung ương 11 đã bàn bạc về các tiêu chí lựa chọn những người vào ban lãnh đạo tối cao của Đảng trong khóa tới.Nhiều tiêu chí
Trong diễn văn bế mạc, ông Trọng đã nêu một loạt các ‘khuyết điểm’ mà
theo ông Đảng ‘kiên quyết không để lọt vào Ban Chấp hành trung ương’,
trong đó có: cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt,
vận động cá nhân, tư tưởng cục bộ, phe cánh, lợi ích nhóm, không dám đấu
tranh bảo vệ lẽ phải, mị dân, chuyên quyền, độc đoán, trù dập người
thẳng thắn đấu tranh, để xảy ra tình trạng mất đoàn kết nội bộ nghiêm
trọng, tham nhũng, tiêu cực lớn ở địa phương, đơn vị, không chịu nghiên
cứu học hỏi, bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, kê khai tài sản
không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều
tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc, bản thân và vợ,
chồng, con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi
bất chính...
Trao đổi với BBC, Tiến sỹ Phạm Chí Dũng, một nhà quan sát chính trị từ
Tp HCM, nhận định rằng ông Trọng đề cập đến tiêu chí ‘không tham vọng
quyền lực’ là ‘muốn đề cập đến người vì tham vọng quyền lực mà gom góp
cho cá nhân mình’.
“Tham vọng quyền lực thật ra không xấu nếu nó có thể giúp giải quyết
những vấn đề cho nhân dân,” ông Dũng giải thích, “Còn tham vọng quyền
lực để củng cố địa vị độc tôn cho mình để gom góp lợi ích cho cá nhân,
gia đình mình thì điều đó hoàn toàn xấu.”
“Ở Việt Nam bây giờ có quá nhiều nhóm lợi ích.”
Sắp tới còn có chuyến đi của ông Trọng đến Hoa Kỳ và nếu như ông Trọng được Tổng thống Barack Obama tiếp và thậm chí tiếp đón trọng thị thì lúc đó uy tín của ông Trọng và uy tín của người được ông Trọng đề cử (cho vị trí tổng bí thư) sẽ được nâng lên đáng kể.
Hàm ý nữa mà ông Trọng muốn đề cập tới là ‘cuộc tranh giành đấu đá nội bộ trong Đảng’, theo ông Dũng.
“Những người phe này không chấp nhận những người phe kia tham vọng
quyền lực trong khi những người phe này cũng có tham vọng quyền lực,”
ông nói.
Không còn giằng co?
Theo nhận định của ông Dũng thì bài diễn văn này cho thấy cuộc đấu đá
nội bộ trong Đảng ‘không còn ở thế tương quan giằng co lực lượng như
giữa năm trước nữa’.
“Dường như sau diễn văn kỷ niệm ngày 30/4 của Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng, sau Hội nghị trung ương 11 thì vấn đề tương quan lực lượng khó mà
giằng co được nữa mà bên Đảng đang chiếm ưu thế,” ông Dũng nói.
“Theo nhiều người quen của tôi làm trong Nhà nước thì hiếm khi nào họ
chứng kiến bài diễn văn nêu ra những từ ngữ như cơ hội, xu nịnh, mị dân
của Tổng bí thư Đảng Cộng sản rõ đến như vậy,” ông nói thêm, “Điều đó
làm cho người ta có cảm giác ông Trọng nếu không phải ở thế thượng
phong thì cũng là đang chiếm ưu thế trong nội bộ Đảng.”
“Sắp tới còn có chuyến đi của ông Trọng đến Hoa Kỳ và nếu như ông Trọng
được Tổng thống Barack Obama tiếp và thậm chí tiếp đón trọng thị thì
lúc đó uy tín của ông Trọng và uy tín của người được ông Trọng đề cử
(cho vị trí tổng bí thư) sẽ được nâng lên đáng kể,” ông Dũng nói
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2015/05/150511_plenum_11_observation
Chủ tịch VN dự lễ duyệt binh ở Nga, phương Tây tẩy chay
10.05.2015
Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang hôm nay dự lễ duyệt binh kỷ niệm
70 năm chiến thắng Đức Quốc xã ở Moscow, trong khi nhiều quốc gia phương
Tây tẩy chay sự kiện phô trương sức mạnh quân sự rầm rộ này.
Chuyến thăm Nga của ông Sang kéo dài 3 ngày, theo lời mời của Tổng
thống Vladimir Putin, không lâu sau khi hai quốc gia kỷ niệm 65 ngày
thiết lập quan hệ ngoại giao.
Chủ tịch Việt Nam là một trong số các nhà lãnh đạo của châu Á, trong
đó có cả Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, tới dự lễ duyệt binh quy mô
lớn với sự tham gia của hàng nghìn người.
Đài truyền hình Việt Nam là một trong số ít các cơ quan truyền thông quốc tế tường thuật trực tiếp sự kiện này.
Trước đó, hôm 8/5, Chủ tịch Sang đã hội kiến Chủ tịch Đảng Cộng sản Liên bang Nga.
Theo báo chí trong nước, tại cuộc gặp này, ông Sang nói rằng, “dù
tình hình thế giới có nhiều biến chuyển nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân
Việt Nam luôn ghi nhớ, trân trọng và biết ơn những tình cảm cùng sự
giúp đỡ quý báu mà người cộng sản và nhân dân Nga đã dành cho nhân dân
Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc”.
Hướng Đông
Việc đánh dấu Ngày Chiến thắng với sự tham dự của nhiều quan chức từ
châu Á cho thấy Nga đang hướng về phương Đông trong khi căng thẳng với
phương Tây gia tăng.
Nhiều nhà lãnh đạo phương Tây đã tẩy chay quộc duyệt binh của Nga vì các hành động của nước này ở Ukraine.
Sử gia Nga Andrei Zubov nói với đài VOA rằng việc phương Tây quay
lưng lại với Nga đã khiến Moscow “xoay sang các chế độ cộng sản và phi
dân chủ”.
Trong khi phương Tây thực thi các biện pháp chế tài kinh tế đối với
Nga, Bắc Kinh và Moscow năm ngoái đã ký một thỏa thuận 400 tỷ đôla về
khí đốt thiên nhiên.
Trong lễ duyệt binh hôm nay, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ngồi
ngay sát bên phải Tổng thống Nga Vladimir Putin. Nhiều loại khí tài tối
tân của Nga cũng đã ra mắt dịp này như xe tăng chiến đấu T-14 Armata.
Ngoài ra, lần đầu tiên, quân đội Trung Quốc được mời tham gia diễu hành tại Quảng trường Đỏ với hàng nghìn binh sĩ Nga khác.
Lãnh tụ Bắc Triều Tiên Kim Jong Un dự kiến tới Nga tham dự các lễ kỷ
niệm trong chuyến công du nước ngoài của ông này kể từ khi lên nhậm
chức, nhưng chuyến đi đã bị hủy vì “các vấn đề nội bộ”.
Chủ tịch Cuba Raul Castro cũng có mặt ở Nga trong chuyến thăm “mang
tính biểu tượng” tới quốc gia đồng minh trong Chiến tranh Lạnh.
Thủ tướng Dũng cáo buộc Mỹ gây ra ‘các tội ác dã man’
Ông Nguyễn Tấn Dũng đọc diễn văn khai mạc buổi lễ đánh dấu ngày kết thúc Chiến tranh Việt Nam ở Sài Gòn, ngày 30/4/2015.
"40
năm qua, khi nói đến xây dựng, thì trước hết phải nói đến xây dựng
trong một âm mưu hết sức thâm độc của chủ nghĩa bành trướng đại Hán", GS
Tương Lai nhận định.
30.04.2015
Người đứng đầu chính phủ Việt Nam đã phát biểu như vậy hôm nay tại
buổi lễ đánh dấu ngày kết thúc Chiến tranh Việt Nam ở Sài Gòn.
Trong bài phát biểu, ông Dũng nói rằng, 40 năm trước, “đế quốc Mỹ đã
ngang nhiên áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, biến miền Nam Việt Nam
thành căn cứ quân sự của Mỹ” và “gây ra biết bao tội ác dã man, biết bao
đau thương, mất mát đối với đồng bào ta, đất nước ta”.
Ông cũng cũng ngỏ lời “chân thành cảm ơn các nước xã hội chủ nghĩa
nhất là Liên Xô, Trung Quốc” đã giúp chính quyền Hà Nội trong Chiến
tranh Việt Nam.
Cũng trong bài phát biểu này, Thủ tướng Việt Nam cũng nêu lên cuộc chiến “bảo vệ biên giới phía bắc”, và “biên giới phía tây nam”, nhưng tránh nhắc tới Trung Quốc.
Cũng trong bài phát biểu này, Thủ tướng Việt Nam cũng nêu lên cuộc chiến “bảo vệ biên giới phía bắc”, và “biên giới phía tây nam”, nhưng tránh nhắc tới Trung Quốc.
Trả lời VOA Việt Ngữ hôm 29/4, giáo sư Tương Lai, người từng làm cố
vấn cho thủ tướng của Việt Nam, nhận định rằng Trung Quốc “không muốn
Việt Nam trở thành một nước mạnh”. Giáo sư Tương Lai nói:
“Sau khi quân Pol Pot bị Việt Nam giáng cho một đòn chí mạng, giải
phóng đất nước Campuchia, thoát khỏi diệt chủng thì Đặng Tiểu Bình mượn
cớ ấy để rồi phát động chiến tranh biên giới năm 1979. Như vậy là nó
muốn cho Việt Nam đang còn mình đầy thương tích từ chiến tranh thì nó
giáng cho một đòn nữa để củng cố quyền lực của Trung Quốc, để Việt Nam
không thể ngoi dậy, tiếp tục lớn mạnh bên cạnh một nước láng giềng khổng
lồ, luôn luôn đối chọi mà muốn nuốt chửng Việt Nam”.
Lễ duyệt binh được coi là hoành tráng nhất trong nhiều năm qua, kỷ niệm ngày gọi là 'thống nhất đất nước'.
Hàng nghìn người đã tham gia vào lễ duyệt binh được coi là hoành
tráng nhất trong nhiều năm qua, để kỷ niệm ngày gọi là “thống nhất đất
nước”.
Nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật cũng diễn ra trong dịp này để ăn mừng “ngày giải phóng miền nam”.
Trong khi đó, tại Mỹ, hôm nay, tại thủ đô Washington của Hoa Kỳ sẽ
diễn ra nhiều hoạt động đánh dấu ngày 30/4 mà nhiều người Mỹ gốc Việt
gọi là “Ngày quốc hận”.
Tin cho hay, người Việt dự kiến sẽ biểu tình bên ngoài đại sứ quán Việt Nam ở thủ đô của Mỹ.
Trong bài phát biểu của mình, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã kêu gọi
“đồng bào ta ở trong nước cũng như ở nước ngoài, mỗi người chúng ta hãy
nêu cao tinh thần dân tộc, lòng yêu nước thương nòi, truyền thống nhân
nghĩa, khoan dung, không phân biệt quá khứ, vượt lên trên những khác
biệt, cùng nhau chân thành hòa hợp dân tộc, vun đắp và phát huy sức mạnh
của khối đại đoàn kết toàn dân”.
Trong khi đó, ông Nguyễn Ngọc Bích, Chủ tịch Nghị hội người Việt toàn
quốc ở Hoa Kỳ, nói với VOA Việt Ngữ rằng những hành động “thiếu nhạy
cảm” của chính quyền trong nước, như ăn mừng ngày 30/4, sẽ khiến quá
trình hòa hợp, hòa giải trở nên xa vời.
http://www.voatiengviet.com/content/thu-tuong-vietnam-cao-buoc-my-gay-ra-cac-toi-ac-da-man/2742809.html
Giới trí thức và diễn văn bế mạc của TBT
Giới trí thức cho rằng trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị trung
ương 11 Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khi nhấn mạnh đến phẩm chất của Ủy
viên Ban chấp hành trung ương cần phải hội đủ những tiêu chuẩn vượt quá
những gì mà trên thực tế không một cá nhân nào có thể đạt được là chỉ
dấu của sự cạn kiệt về lý luận cũng như thực tiễn mà vấn đề nhân sự của
Đảng đang đối diện.
Vấn đề nhân sự lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đang là đề tài nóng
bỏng trong nội bộ của Đảng, đặc biệt qua kỳ họp trung ương 11, và nhất
là diễn văn bế mạc trong đó TBT thể hiện đầy đủ các câu hỏi mà dư luận
trong lẫn ngoài Đảng quan tâm.
Lập lại cái cũ bằng xảo thuật ngôn ngữ
Bài diễn văn được lắng nghe trong tâm lý chờ đợi kết quả của những
xung đột ngầm đã xuất hiện từ Hội nghị trung ương 6 khi vai trò của ông
Nguyễn Tấn Dũng có dấu hiệu lung lay, thậm chí có thể dẫn tới sụp đổ.
Mặc dù ông Dũng vẫn ngồi lại cho đến nay qua suy luận của giới quan sát
là ông đang âm thầm vận động chiếc ghế TBT trong khóa tới và người ta
chờ đợi kết quả mà giới cá cược chính trị cho rằng phải có điều gì đó
khác những đại hội lần trước qua bài diễn văn bế mạc đại hội như thường
thấy.
Đặt những nhận định về cuộc chiến quyền lực đang tranh giành chiếc
ghế Tổng bí thư sang một bên, giới trí thức tập trung nhận xét về những
chi tiết mà ông TBT đề cập về mặt phẩm chất của một Ủy viên trong Ban
chấp hành trung ương mà ông Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh trong đó có đoạn:
“Ủy viên Bộ chính trị Ban Bí thư phải là những đồng chí thật tiêu
biểu của Ban Chấp hành Trung ương. Bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức, trí tuệ, ý chí chiến đấu, năng lực lãnh đạo quản lý. Có tầm nhìn và
tư duy chiến lược. Có khả năng phân tích dự báo tổng hợp đề xuất những
vấn đề mới một cách đứng đắn. Có trình độ hiểu biết sâu sắc về lý luận
chinh trị. Biết phát hiện và sử dụng người có đức có tài. Đã tham gia
Ban Chấp hành Trung ương. Hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, còn trong
độ tuổi theo quy định và đủ sức khỏe để đảm đương nhiệm vụ”.
Ngoài ra về phẩm chất cá nhân liên quan đến yếu tố đạo đức ông TBT
đòi hỏi phải “Có phẩm chất đạo đức và lối sống trong sáng, được cán bộ,
đảng viên và nhân dân tín nhiệm; có tinh thần trách nhiệm cao, tận tuỵ
với công việc; dám hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của Đảng,
của đất nước. Bản thân không tham nhũng, quan liêu, cơ hội, vụ lợi, tham
vọng quyền lực và kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực,
quan liêu, tham nhũng; không để vợ, chồng, con, người thân lợi dụng chức
quyền để trục lợi; có ý thức giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng.”
Tôi thấy kinh nghiệm qua những lần đại hội, trừ Đại hội 6 mở đầu cho một tinh thần đổi mới có mức độ, còn tất cả sau đó chẳng qua lập lại cái cũ bằng xảo thuật ngôn ngữ mà thôi
Ông Huỳnh Kim Bá
...Tôi thấy kinh nghiệm qua những lần đại hội, trừ Đại hội 6 mở đầu
cho một tinh thần đổi mới có mức độ, còn tất cả sau đó chẳng qua lập lại
cái cũ bằng xảo thuật ngôn ngữ mà thôi.Ông Huỳnh Kim Báu
Nhận định chung của mọi người đều cho rằng hàng loạt phẩm chất cao
quý đó trong một con người hoạt động chính trị thật không khác gì tấm áo
choàng phù phiếm mà bất cứ chính phủ nào cũng không thể tìm ra, kể cả
chính phủ dưới sự giám sát của một đảng như Việt Nam hiện nay. Phẩm chất
cách mạng từ khi đảng Cộng sản được thành lập qua thời gian đã lộ ra
những mặt trái không trung thực và vì vậy người nghe đã phần nào nghi
ngờ sự lý tưởng hóa phẩm chất này nhằm hướng dẫn quần chúng vào một
hướng khác thay vì vào người thật, việc thật.
Ông Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư ký Hội trí thức TP. HCM cho biết suy nghĩ của ông về những điều mà TBT đưa ra:
-Tôi thấy kinh nghiệm qua những lần đại hội, trừ Đại hội 6 mở đầu cho
một tinh thần đổi mới có mức độ, còn tất cả sau đó chẳng qua lập lại
cái cũ bằng xảo thuật ngôn ngữ mà thôi. Thí dụ bài phát biểu này của
Nguyễn Phú Trọng thì dân chủ là sao? Sao là trong sạch. Dân tin, làm sao
mà tin? Nói là dân bầu nhưng mà ai ứng cử? Đảng đưa lên cho dân bỏ
phiếu!
Chúng tôi thất vọng cho cái bài diễn văn đó nó không mang nội dung gì
mới mới. Chẳng qua là xảo thuật, còn cụ thể cái đó là không rõ ràng.
Thí dụ như liêm khiết thì thế nào là liêm khiết? Phải minh bạch thì thế
nào là minh bạch? Cuối cùng thì nhân dân biến thành nạn nhân mà thôi.
Tiến sĩ Hà Sĩ Phu cùng một nhận xét về cách mà ông Nguyễn Phú Trọng đặt vấn đề về phẩm chất:
-Tiêu chuẩn cao quá chắc là chả có người nào đạt được như thế đâu.
Chả có vị nào liên tiếp yêu dân yêu nước đến như vậy nhưng công thức thì
vẫn cứ nói như vậy.
Nếu là người khôn ngoan thì dù là lập trường của họ có cổ hủ đến đâu
thì cũng cố tìm những lời cho nó hợp thời một chút chứ nói toàn những
câu quá ư cổ hủ rồi, không có không khí của thời kỳ đổi mới tí nào. Có
người bảo ông này ổng khôn ngoan lắm nhưng tôi nghĩ có thể khôn trong
mánh khóe đấu tranh nội bộ gì đó chứ còn về ngôn luận thì rõ ràng không
thể là người khôn ngoan.
Tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin
Trong khi hội nghị tiến hành Trung Quốc vẫn có những hoạt động trái
phép tại Biển Đông nhưng không một chữ nào nhắc tới trong bài diển văn
kết thúc. Phải chăng đã có sự đồng thuận nào đó trước vấn đề này? Phó
Giáo sư Hoàng Dũng nhận định:
-Đây không phải là một sự đồng thuận rồi mà đó là sự nhạy cảm. Khi
nói ra thì có người đồng ý có người không. Tránh sự bất đồng càng nhiều
thì càng tốt cón nếu bày tỏ một ý kiến gì chăng thì họ lại quay sang
khẳng định lập trường hay còn gọi là biểu diễn lập trường. Tôi nghĩ đó
cũng là vấn đề chính trị họ tính toán trong tương quan lực lượng chứ
không phải vì quyền lợi của người dân.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hàng loạt các nước theo chủ nghĩa Mác-Lênin, gần nhất là Ukraina, vừa giật sập bức tượng Lê Nin vào tháng trước nhưng TBT vẫn lấy chủ nghĩa Mác-Lênin là ngôi sao dẫn đầu cho người lãnh đạo cả nước thì có vẻ đi ngược với trào lưu cả nhân loại
PGS Hoàng Dũng
Điều mà PGS Hoàng Dũng cho là biểu diễn lập trường có lẽ từ câu nói khẳng định của ông Nguyễn Phú Trọng: “tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin”.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hàng loạt các nước theo chủ nghĩa
Mác-Lênin, gần nhất là Ukraina, vừa giật sập bức tượng Lê Nin vào tháng
trước nhưng TBT vẫn lấy chủ nghĩa Mác-Lênin là ngôi sao dẫn đầu cho
người lãnh đạo cả nước thì có vẻ đi ngược với trào lưu cả nhân loại.
Nhận xét về chủ nghĩa này, chuyên gia cao cấp Vũ Minh Giang, Phó giám
đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, nguyên Ủy viên Hội đồng lý luận Trung ương
cho biết:
-Chủ nghĩa Mác-Lênin nó không phải ở cái câu chữ nó không phải ở cái
giáo điều, nó không ở trong một mô hình cụ thể mà nó ở những cái có tính
phương pháp luận. Công bằng mà nói thì phép biện chứng rồi chủ nghĩa
duy vật và một loạt những hệ thống lý luận thì tôi cho đấy là thành tựu
triết học của loài người. Cái sai lầm ở chỗ là giáo điều đi theo canh
vào câu vào chữ sùng bái một mô hình nào đó mà chưa chắc mô hình ấy là
đúng, đấy là người ta gán cho nó là mô hình của chủ nghĩa Mác-Lênin chứ
chưa chắc đã phải là như vậy
Theo GS Vũ Minh Giang tâm lý của người Việt gắn bó với chủ nghĩa này
từ khi cuộc kháng chiến dành độc lập mở đầu và ông cho rằng Ông Trọng
theo đuổi nó cũng là điều dễ hiểu, ông nói:
-Chủ nghĩa Mác Lê-nin đối với Việt Nam nó có hai cái cần phải làm cho
nó tường minh. Thứ nhất chủ nghĩa Mác Lênin được Nguyễn Ái Quốc và Đảng
cộng sản tìm được như là một con đường để đấu tranh giải phóng dân tộc.
Sau đó thì công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc này nó dài dằng dặc
không phải một ngày một bữa mà kết thúc được ngay. Người Việt Nam phải
cầm súng vì sự độc lập của dân tộc từ sau năm 1885 tức là khi kinh thành
Huế thất thủ phải đối phó với người Pháp liên tục, rồi sau đó là 9 năm
kháng chiến rồi Geneve ….có hiểu như thế thì mới thấy được tại sao người
Việt Nam nó có cái gắn bó với chủ nghĩa Mác-Lênin nó khác lắm đối với
người không có hoàn cảnh lịch sử ấy.
Tuy nhiên hầu hết những nhà viết sử và hoạt động chính trị đều cho
rằng chiến thắng và dành được ước mơ độc lập không hẳn từ chủ nghĩa này
mà do xương máu của người dân trong các cuộc chiến ấy. Vinh danh một chủ
nghĩa đã tỏ ra lỗi thời, lạc hậu đã bị hầu hết các nước theo nó từ bỏ
không phải là cách làm của một chính phủ do dân bầu ra và từ đó giới trí
thức hầu như thất vọng hoàn toàn khi nghe bài diễn văn quan trọng này.
Saturday, May 9, 2015
MAI THẢO * HAI NHÁNH SÔNG TÂM HỒN TRONG THƠ HỒ DZẾNH
HAI NHÁNH SÔNG TÂM HỒN
TRONG THƠ HỒ DZẾNH
MAI THẢO
Nước Trung Hoa mênh mông, Nước Trung Hoa cổ cũ.
Nước Trung Hoa ngựa hồng nghìn dặm mỏi, đường vào Tây Xuyên Ba Thục khó hơn
đường lên trời, những người con gái thắt bím bó chân sống như hình bóng, những
triền núi lớn thật lớn, những con sông dài thật dài, nước Trung Hoa quê hương
của Lý Bạch phóng túng hình hài, của Đỗ Phủ đau buồn thân thế, nước Trung Hoa đó,
như một thế giới, nội địa cũng đảo hoang, biên giới đã lưu đày, đi suốt một đời
người đi không hết nước, nước nghèo quá đỗi, người triệu triệu thừa, khí trời
thật nhiều mà thở không vào, đất đai muôn dặm mà ở không được, những xum xuê
tươi tốt tràn đầy ở đâu chẳng thấy, chỉ cái khó, cái đói, cái cực, đời đời kiếp
kiếp thắt bó từng vòng rứt buốt, nước Trung Hoa đó của thâm cung bí sử, giặc giã
không dứt, thiên tai, hạn hán tàn phá không ngừng. Và một buổi chiều kia rầu rầu
úa héo trên thiêm thiếp quê cũ chẳng dung người, quê cũ đã phụ rồi, vòm trời mây
trắng bao la của nước Trung Hoa lạ lùng đã in cái hình bóng bé nhỏ li ti di động
của một người Hoa nghèo khổ bỏ một nước Trung Hoa nghèo khổ mà lên đường. Đi qua
Vân Nam. Đi từ Dương Tử đi tới Hông Hà. Đi từ Trung Hoa đi tới Việt Nam. Và từ
cuộc gặp gỡ trong mưu sinh buồn rầu trên đất khách giữa một người Hoa bán thuốc
dạo và một cô lái đò Việt trên một dòng sông Thanh Hóa, đã có một gã làm thơ Hồ
Dzếnh Minh Hương. Nước Trung Hoa, không thấy, không biết, hiện hữu mơ hồ mà ám
ảnh dằng dặc, đã trở thành một thứ hậu trường tâm hồn Hồ Dzếnh:
Tôi nhớ màu quê khát gió quê
Mây ơi ngưng cánh đợi ta về
Cho ta trông lại từng xanh thẳm
Ngâm lại bài thơ Phương Thảo Thê
Liễu Động Đình thơm chuyện hảo cầu
Tóc thề che mướt gái Tô Châu
Bâng khuâng trăng sáng trời Viên Hán
Một giải Giang Nam nước rợn màu
Ai hát mà nay gió vẫn thơm
Ai đau, non nước não âm đờn
Chiêu Quân nếu mãi người cung Hán
Thi tứ tìm đâu nét tủi hờn.
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa. Hai dòng máu
Hoa Việt trộn lẫn trong huyết quản nhà thơ Minh Hương mở thành hai chân trời.
Chế Lan Viên.
Ta nằm ở giữa cân trời đất
Khối ngọc chưa nghiêng một hướng nào
Nhưng Hồ Dzếnh thì khối ngọc đa nghiêng một
hướng nào. Khối ngọc họ Chế là cái khối ngọc của ý thức dành cho nó cái quyền tự
do chưa gia nhập, chưa tả hữu. Khối ngọc Hồ Dzếnh là cái khối ngọc tình cảm, vào
thơ Xuân Diệu thành những dấu chân đam mê chạy theo sức xô đẩy vũ bão của tâm
hồn. Thơ Hồ Dzếnh bởi vậy đã hình thành từ một lựa chọn quê hương. Người Minh
Hương họ Hồ đã lựa chọn quê ngoại Việt Nam. Đến đây và ở lại. Đến đây và thương
yêu. Từ tập truyện ngắn đầu tay Chân Trời Cũ đến tập thơ đầu tay Quê Ngoại, Hồ
Dzếnh đã đi một chặng đường dài từ những hậu trường của kỷ niệm và quá khứ phảng
phất tiềm thức u minh ra những tiền trường là đất nước Việt Nam nhận làm quê
hương mới có. Tôi nghĩ trong cõi thơ tiền chiến, đó là hiện tượng đôn hậu và
ngọt ngào nhất của một lựa chọn trở thành, bắt nguồn từ lựa chọn một ngả đường,
một mảnh đất, một vòm trời. Không phải để truy kích một ngọn suối bản để xem
phát xuất từ mạch đất ngầm nào, mà để theo dòng suôn chảy đi vào những khu vực
đời sống phì nhiêu mà dòng suối băng qua trong tuần tự mở rộng thành sông, lớn
dần thành biển. Có quê hương, Hồ Dzếnh có tất cả. Người cha xưa gánh thuốn dạo
đi lang thang qua những xóm thôn Việt Nam xa lạ, tuổi đã tịch liêu chỉ có thể mơ
về quá khứ. Nhưng người con trẻ trung chừng ấy, như con chim ra ràng mới cất
cánh bay lên, thì ám ảnh tiền thân không thể mãi mãi là giam nhốt siêu hình. Con
chim đã bay lên. Bay vào nắng trong veo. Bay vào Việt Nam đón nhận.Con người
không lựa chọn là con người của những chấp nhận thỏa hiệp. Nhưng con người có
lựa chọn là con người của nhưng khẳng định tuyệt đối.
Tô Châu lớp lớp phù kiều
Trăng đêm Dương Tử mây chiều Giang Nam
Rạc rời vó ngựa quá quan
Cờ treo ý cũ mây dàn mộng xưa
Hồi tưởng về Trung Hoa mịt mùng ngàn dặm, thơ
chỉ đẹp cái đẹp não nùng của những vang vọng cùng thẳm. Lạnh tanh và xa vắng. Đó
là những đường dây ràng buộc nhão mỏi cuối cùng của tâm linh lặn chìm, tưởng
khép. Đóng mà kỳ thực đã mở ra những cửa ngõ mới cho hồn. Tôi yêu tập thơ Quê
Ngoại là vì thế. Ở điểm quá khứ đã bị lùa dạt, quá khứ mang tên Trung Hoa, hiện
tại được xây cất hiện tại mang tên Việt Nam. Ở điểm một đêm đã tàn rụng, đêm
Trung Hoa lung linh ma quái. Cho ngày Việt Nam thay thế, ngày Việt Nam vang vang
những tieng đời nhảy múa quanh mình. Hãy tìm đọc lại Quê Ngoại. Nếu yêu Hồ
Dzếnh. Cái trẻ thơ, cái vụng dại, đầy đặc trong thiên đường ca quê mới Việt Nam
này lại chính là cái lớn lao của Hồ Dzếnh có đời mình bằng đã có Việt Nam. Quê
Ngoại xanh ngắt màu hy vọng, hồng tươi dáng hạnh phúc, thắm thiết những tình ý
đợi chờ, trong suốt một tình yêu vô điều kiện. Quê Ngoại là một tiếng thơ tạ ơn
đời. Quê Ngoại là một chiếc khay vàng hiến dâng Mẹ hiền mot niềm biết ơn trang
trọng. Trong cái thế giới ngột ngạt bít bưng tức thở của những tháp ngà tiền
chiến như những phần mộ lạnh buốt, thơ Hồ Dzếnh, hơn cả Xuân Diệu, và theo tôi,
hơn cả Nguyễn Bính đầu mùa, là những xâu chuỗi lanh lảnh nhạc vàng gõ vui từng
nhịp nắng mênh mông đài trán thanh niên. Tôi nhớ mãi cái cảm giác của tôi, hai
mươi tuổi, tiếp nhận một tập thơ còn trẻ hơn hồn mình phơi phới, một tập thơ cỏ
non lả lả, một tập thơ cốm mới đậm đà, một tập thơ mười tám cái xuân đầy, đọc
mỗi câu tưởng như có mật có đường ngọt ngào trong cổ. Thơ Hồ Dzếnh tiền chiến là
cái trạng thái ngu ngơ trong suốt nhất của một tiếng thơ mà chủ đề là tình yêu
và ánh sáng. Ngó thật kỹ, Quê Ngoại không hằn một nếp nhăn. Nó là một khối lạc
quan và tin tưởng toàn vẹn. Với tôi, một tập thơ đầu tay phải như thế. Phải có
cái khí thế vạm vỡ của sống như một lao vào, cái vóc dáng của yêu như một kín
trùm dào dạt.
Dẫu cho lỡ cả thiên đường
Thì xin một nửa tấc vườn vắng hoa.
Hồ Dzếnh không làm thơ đâu. Thơ đã có, đâu đó,
trên mây trên cành, trong nước chảy dưới chân cầu, trong không khí thơ một
thuyền đầy thơ một chuyến lớn chở Hồ Dzếnh đi vào thênh thang tiếng nói. Một
người không phải là thi sĩ. Tất cả tuổi trẻ là thi sĩ. Mắt ngó mê, tay nâng niu,
hồn đợi chờ, trái tim xao xuyến, mạch máu nhảy đập, chim ngủ trong hoa, hoa nở
trong mặt trời, tứ phía đều trăng sao. Thì xin một nửa tấc vườn vắng hoa.
Thế đâu là xin. Có gì mà xin. Thế là cho. Cho hết cả mùa hồn, gặt hái được nhánh
nào cho luôn nhánh ấy, cuộng quệt thơ ngây và hồn hậu sống. Thế là thơ đầu đời,
thế là sức khỏe của thơ có, thế là thơ không yếu đau. Rồi ý thức tới. Chứ sao.
Nhưng cái gì tạo thành ý thức sinh động hồng hào, cái ý thức chúng ta cần phải
có không phải như một trở lực mà một động lực sống, nếu không là những va chạm
tình cảm bàng hoàng dội dập lại thành những cực điểm hân hoan hay thành những
tán cùng bi đát?
Trời đẹp như trời mới tráng gương
Chim ca ánh sáng rộn ven tường
Có ai bên cửa ngồi hong tóc
Cho chảy lan thành một suối hương
Trời, đất, chim ca, ánh sáng, mái tóc, trở thành
một suối hương. Tạo vật trong thơ Hồ Dzếnh, cuộc đời vào thơ Hồ Dzếnh biến hình
từ một chủ quan không bao giờ chối từ cái quyền uy tỏa chiếu rạng ngời và đổi
thay lộng lẫy của nó. Như thế là chủ động. Như thế là sáng tạo. Như thế là thơ.
Thơ là mặt trời của đời người Hồ Dzếnh.Những năm tháng sau này, tiếng thơ Hồ
Dzếnh không còn gì đáng nói. Tim trú ẩn trong tôn giáo như Hàn Mặc Tử:
Thuở nhỏ tôi run lúc đổ chiều
Gió về trút lá trải cô liêu
Đường xa thấp thoáng hàng mây trắng
Gối lẻ giường đơn lạnh rất nhiều
Đèn chụp chao xanh dọi chữ vàng
Tay lùa tóc biếc, mắt theo trăng
Tôi mơ khi học bài luân lý
Cửa hé nhà ai sáng dịu dàng
Chữ nở ra hoa sách có người
Tay nâng nâng sách ép lên môi
Rùng mình khi thấy hồn thay khác
Ngây cả giang sơn, đấm cả trời
Núi dựng cô đơn buồn xếp hàng
Ngõ chiều mây trắng phất phơ tang
Ái ân khôn lập hồn sa mạc
Vĩnh viễn thê lương lạnh bóng tàn
Chiều buốt linh hồn, tôi đến đây
Nguyện cầu tháng giá chắp hai tay
Run run mắt lệ nhìn xa thẳm
Mơ lửa trời thiêng cháy vạn ngày
Để làm gì sự đổi khác đó, vươn tới đó, hiểu biết
đó? Hồ Dzếnh hóa thân và Hồ Dzếnh đã chết trong cái lớn giả tạo và vô ích lắm.
Nhân gian yêu thi sĩ như một loài chim lạ. Đậu xuống bất cứ một chỗ đậu nào, thi
sĩ chết. Tạo dựng một thế giới bàng hoàng và lộng lẫy. Đó là sự tôi hiểu về ý
thức thi sĩ về sự cần có thơ cho đời sống chúng ta. Khi nhìn thấy Hồ Dzếnh đã
sống và Hồ Dzếnh đã chết.
(Trích Văn, số đặc biệt về Hồ Dzếnh, NXB Nguyễn
Đình Vượng, Sài Gòn, 1973)
THỤY KHUÊ * HỒ DZÊNH
Hồ Dzếnh,
vườn Thanh và nỗi sầu vạn cổ
Đất Thanh Hóa, vườn Thanh, quê ngoại Hồ Dzếnh,
cũng là quê hương mối tình thứ nhất với người yêu Hồng Phúc biệt hiệu "người
em gái", người mà Hồ Dzếnh đã phác họa chân dung bằng những nét:
Em ăn em nói em cười,
Kiếp này không có hai người như em
người mà Hồ Dzếnh nhắn nhủ:
Đừng mong ước cả Thiên Đường
Hãy xin lấy một tấc vườn vắng hoa.
Những câu thơ viết cho Hồng Phúc trong bài
Giản dị, Mai Thảo nhớ lầm, sửa thành:
Dẫu cho lỡ cả Thiên Đường
Thì xin một nửa tấc vườn vắng hoa.
Sự nhớ lầm gây thêm nồng độ tha thiết của mối
tình, và dẫn ngọn bút của Mai Thảo đến một triền vực khác:
"Thì xin một nửa
tấc vườn vắng hoa. Thế đâu là xin. Có gì mà xin. Thế là cho. Cho hết cả mùa hồn,
gặt hái được nhánh nào cho luôn nhánh ấy, cuống quít thơ ngây và hồn hậu sống.
Thế là thơ đầu đời, thế là sức khỏe của thơ có, thế là thơ không yếu đau. Rồi ý
thức tới. Chứ sao. Nhưng cái gì tạo thành ý thức sinh động hồng hào [...] nếu
không là những va chạm tình cảm bàng hoàng dội đập lại thành những cực điểm hân
hoan hay thành những tận cùng bi đát?
Trời đẹp như trời mới tráng gương
Chim ca ánh sáng rộn ven tường
Có ai bên cửa ngồi hong tóc
Cho chảy lan thành một suối hương
Trời, đất, chim ca, ánh sáng, mái tóc trở
thành một suối hương. Tạo vật trong thơ Hồ Dzếnh, cuộc đời vào thơ Hồ Dzếnh biến
hình từ một chủ quan không bao giờ chối từ cái quyền uy tỏa chiếu rạng ngời vả
đổi thay lộng lẫy của nó. Như thế là chủ động. Như thế là sáng tạo. Như thế là
thơ. Thơ là mặt trời và đời người Hồ Dzếnh."
Đó là văn Mai Thảo.
Vẫn Mai Thảo, bừng bừng, xung bút và chủ quan:
"Trong cái thế giới ngột ngạt bít bưng tức thở của những tháp ngà tiền chiến
như những phần mộ lạnh buốt, thơ Hồ Dzếnh, hơn cả Xuân Diệu và theo tôi, hơn cả
Nguyễn Bính đầu mùa, là những xâu chuỗi lanh lảnh nhạc vàng, gõ vui từng nhịp
nắng mênh mông đài trán thanh niên. Tôi nhớ mãi cái cảm giác của tôi, hai mươi
tuổi, tiếp nhận một tập thơ còn trẻ hơn hồn mình phơi phới. [...] Thơ Hồ Dzếnh
tiền chiến là cái trạng thái ngu ngơ trong suốt nhất của một tiếng thơ mà chủ đề
là tình yêu và ánh sáng. Ngó thật kỹ Quê Ngoại không hằn một vết nhăn. Nó là một
khối lạc quan và tin tưởng toàn vẹn."
Lạc quan và tin tưởng toàn vẹn? Có thật thế
không? Hình như Mai Thảo hơi quá tay. Như Mai Thảo quá chén mỗi lần uống rượu.
Như Mai Thảo sa đà mỗi lần được chữ đưa đi. Quê ngoại hẳn là không hằn
một vết nhăn, dù có cộng thêm ba mươi năm nữa. Nhưng niềm lạc quan và tin tưởng
toàn vẹn là của Mai Thảo, chỉ là tâm tư Mai Thảo về Hồ Dzếnh. Còn riêng Hồ
Dzếnh, Hồ Dzếnh mang một tâm tư bi đát, một mối "sầu vạn cổ". Hồ Dzếnh đã
gieo lên tiếng tình tan vỡ như một "thú đau thương" đặc dị, phát sinh
trong giọng reo vui, mời gọi sự lỗi hẹn như một chén rượu nồng, như một trái cấm
không cay:
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân,
Ngó trên tay thuốc lá cháy lụi dần...
Tôi nói khẽ, gớm, làm sao nhớ thế!
...
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Tôi sẽ trách - cố nhiên! - nhưng rất nhẹ;
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về,
Tình mất vui khi đã vẹn câu thề,
Đời chỉ đẹp những khi còn dang dỏ.
Thư viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,
Cho nghìn sau ... lơ lửng ... với nghìn
xưa....
(Ngập ngừng)
Cuộc đời riêng của Hồ Dzếnh ghi đậm dấu ấn trong
thơ. Người yêu đi lấy chồng. Người yêu trở thành trái cấm. Và trái cấm trong đời
trở thành đối tượng thi ca:
Mộng tàn nước chảy mây trôi
Tôi lui hồn lại nhưng đời đã xa.
(Trở
lại)
Trời không nắng cũng không mưa
Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung
Chiều buồn như mối sầu chung
Lòng im nghe thoảng tơ trùng chốn xa
Đâu hình tầu chậm quên ga
Bâng khuâng gió nhớ về qua lá dày
(Mùa thu năm ngoái)
Chất bi đát
nơi Hồ Dzếnh không đến từ ngôn ngữ mà chính nó đã thay ngôn ngữ, làm cái việc mà
chính ra ngôn ngữ phải làm, chính nó là hiện thân của không gian, cảnh vật,
chính nó là chất liệu tạo hình ảnh, tạo dư âm, tạo một thứ âm nhạc mới: nhẹ
nhàng mà tha thiết; một thứ buồn mới: buồn chiều, buồn Hồ Dzếnh, lâng lâng,
nhanh hơn slow, chậm hơn valse, buồn toả khắp không gian trong âm thanh và mầu
sắc, như một thứ sương mây của tiên nâu, một từ trầm không khói mà cay. Sự dịu
nhẹ nơi Hồ Dzếnh ẩn dấu chất buồn mỏng và nhẹ như sương, nhưng khi thấm vào
người thì chẳng mạch huyết nào mà không rạn vỡ:
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngây
Tiếng buồn vang trong mây
Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều nay?
Tôi là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây ...
(Màu cây trong khói)
Dương Thiệu Tước phổ nhạc, đổi nhan thành
Chiều, rồi Dương lại điệp hai lần Tiếng buồn vang trong mây, tiếng
buồn vang trong mây... Chất trong hồn chiều nay, chất trong hồn
chiều nay trong tiếng nhạc, làm dài thêm dư âm, sâu hơn nỗi buồn.
Nhạc của Hồ Dzếnh trong Màu cây trong khói
là nhạc tự chữ, nhạc tượng trưng, Dương Thiệu Tước trong Chiều vẫn giữ
nguyên nhịp điệu Hồ Dzếnh, chỉ nhấn thêm một "ton", gia tốc thêm một
chút, tạo ra một thứ biến điệu đồng điệu, một tiến độ tiệm tiến, như thể Dương
đã không làm vỡ chất buồn nhẹ trĩu xuống nơi Hồ, mà chỉ làm cho nó say sưa hơn,
mờ nhạt hơn, quyến rũ hơn.
*
"Tôi không muốn sống. Không muốn sống, không
có nghĩa là chán sống, là không thể sống được. Không muốn sống, vì tôi thấy cái
hiện tại tầm thường quá. Tôi băn khăn quay đầu về phương trời đã mất, sống lại
cái gì đã qua, khóc ngày xưa không bao giờ về nữa. Tôi nghiệm thấy sống như thế
thú lắm, tuy đau." (Gửi bạn phương
trời, trong tập Chân trời cũ, nxb Nguyễn Hà, 1942, trang 13)
Những dòng trên đây, viết đã hơn nửa thế kỷ, đã
ám ảnh, đã đeo nặng thân phận Hồ Dzếnh suốt đời. Một cuộc đời sống nhờ dĩ vãng.
Một đời văn, đời thơ, đời người luôn luôn băn khoăn tìm về phương trời đã mất.
Một đời từ chối cuộc hiện sinh để truy lùng quá khứ: Một nỗi bất hạnh, như
Kierkegaard đã linh nghiệm và cảm nghiệm: sự tìm về quá khứ là nỗi bất hạnh sâu
xa nhất của con người. Vì ta không thể sống hai lần một giây phút hay một khoảnh
khắc nào đó của đời ta, mà chỉ có thể sống nó trong nghệ thuật, sống nó trong
nguồn bất tận của sáng tác.
Ở Hồ Dzếnh, thú đau thương vừa là lẽ sống của
sáng tác, vừa là thực tại của một cuộc đời nhiều chia ly và bất hạnh. Bất hạnh
đời riêng, lồng trong bất hạnh chung của lịch sử. Hồ Dzếnh là người cầm cờ cho
một thế hệ bị bắt buộc phải làm thinh trước thời cuộc. Ðã từng đấu tranh để rồi
bị kết ám câm lặng. Đó là thế hệ thanh niên đã một thời nâng cao ngọn cờ ái
quốc, nhưng đổi lại, họ bị bắt buộc phải phủ nhận tư tưởng của chính mình: không
thể phát biểu những điều chân thực nhất của lòng mình.
Nỗi đau thương nơi Hồ Dzếnh như một định mệnh,
từ lúc chưa ra đời, khi người cha Giang Tây gặp người mẹ Thanh Hóa trong bối
cảnh nghèo nàn buồn bã. Vẫn định mệnh đó, tiếp tục đeo đuổi nhà thơ, từ thời
trẻ, khi người "em gái" vườn Thanh bỏ đi lấy chồng, qua những gian lao, khốn
cùng vợ con chết đói trong kháng chiến, và khi hoà bình trở lại, vẫn không tha,
nó bắt nhà thơ phải bỏ thơ làm thợ, như bao nhiêu số phận cầm bút khác, từ "đại
họa" Nhân Văn.
Từ Nhân Văn, Hồ Dzếnh ít giao du, gần như ngưng
sáng tác, sống lặng lẽ với nghề thợ đúc thép, thợ cơ khí nhà máy xe lửa Gia Lâm.
Hồ Dzếnh mất đi, ngày 13/8/1991 tại nhà riêng, số 80 phố Hòa Mã, Hà Nội, cũng
trong lặng lẽ âm thầm, để lại ba tác phẩm tiêu biểu: Tập truyện ngắn Chân
trời Cũ, tập thơ Quê ngoại và tập hồi ký Quyển truyện không tên.
*
Hồ Dzếnh tên thật là Hà Triệu Anh, sinh năm
1916. Cha là người Quảng Đông, chạy loạn sang Việt Nam khoảng 1890, gặp mẹ là cô
lái đò bến sông Ghép, Thanh Hóa. Bắt đầu một sự giao tình giữa hai thân phận,
gặp gỡ giữa hai buồn rầu, hai định mệnh khắt khe. Đó là một "duyên phận tối
tăm và buồn rầu", Hồ Dzếnh cảm nhận "ngày gặp gỡ" của họ như vậy.
Người cha "linh hồn Trung Quốc phát lộ trong từng bước đi" và người mẹ
giống như những bà mẹ Việt Nam "đều phải đau khổ từ lúc lọt lòng" với
"những tiếng thở dài mất tăm trong đêm tối, những mái đầu bù rối nghiêng xuống
bổn phận hàng ngày, tầm thường và nhỏ mọn." (trích Ngày gặp gỡ, trong
tập Chân trời cũ, in lại trong Hồ Dzếnh tác phẩm chọn lọc, nxb Văn
Học, Hà Nội, 1988, trang 31)
Sự giao lưu giữa hai khối buồn rầu nẩy
sinh những mầm mống buồn rầu khác, như thể hạt mầm gặp đất tốt cứ thế
vươn lên: Sự buồn rầu, đau khổ, không may mắn trong dòng máu lây lan khắp thân
phận tất cả những người thân yêu của Hồ Dzếnh, từ người cha, người mẹ, hai người
anh, đứa em gái cùng cha khác mẹ, người chú, thậm chí đến cả người chị nuôi,
người chị dâu, người anh rể, người hàng xóm, người cháu, cả con ngựa trắng của
cha ... và bản thân Hồ Dzếnh cũng được hưởng trọn gia tài bất hạnh đem vào văn
học.
Khung cảnh tạo dựng lên toàn bộ tác phẩm của Hồ
Dzếnh như một "nỗi sầu vạn cổ" là "một mái nhà tranh lợp sơ sài, để
chảy xuống mặt khách một dòng ánh trăng hạ tuần, và ngừng lại ở đấy thành những
đồng hào mới long lanh (Ngày gặp gỡ, sđd, trang 37) một thế giới của
những "người đàn bà buồn khổ sàng từng hạt tấm xuống nong, trong khi trời
chiều sàng từng giọt hoàng hôn xuống tóc" (Người chị dâu tôi, trong
tập Chân trời cũ, sđd, trang 42). Không gian ở đây là một không gian giao
cầu Nam Bắc:
"Đêm về trong những bước nhẹ, hắt hiu bốc hơi
lên mặt sông. Nắng tắt dần dần, chỉ còn ánh vàng pha sắc tím. Hoàng hôn ở đây
không như hoàng hôn ở Giang Tây, Hồ Bắc, hoàng hôn ở đây u hoài như một chinh
phụ nhớ chồng." (Ngày gặp gỡ,
sđd, trang 33)
Nền tâm hồn của Hồ Dzếnh dựa trên hai chữ
"buồn bã" như thể trung tâm cuộc đời là buồn bã, và từ chốn đó, mọi sinh thể
quay quanh, tạo nên một không gian buồn bã, và thời gian trôi đi, trôi lại, như
luyến tiếc hồng tâm "buồn bã" không muốn giã từ.
"Trên nền năm tháng cũ, hình ảnh chị dâu tôi
vẫn đứng, buồn bã với manh áo màu chàm cũ, mắt nhìn từ quãng trời xa về, bóng
hoàng hôn mơ hồ ôm trùm lên sự vật."
(Người chị dâu tôi, sđd, trang 45)
Ở đây không còn biên giới giữa văn và thơ: văn
Hồ Dzếnh đầy ắp những hình ảnh buồn bã đã tạo ra một cõi thơ, cõi sầu vạn cổ, mà
lời thơ là những mảnh đời buồn bã, mà mỗi con chữ là một nỗi buồn, chắt gạn lên
từ những sần sùi, thô lậu của cuộc sống giao lưu hai linh hồn Hoa Việt, hai dân
tộc cùng nghèo khổ và buồn bã như nhau.
*
Về cuộc sống riêng tư, ba người phụ nữ đã để lại
dấu ấn sâu đậm trong đời Hồ Dzếnh, Huyền Nhân, Hồng Nhật, là hai người vợ, Hồng
Phúc là người yêu và đối tượng thi ca.
Hồ Dzếnh mất ngày 13/8 năm 1991. Hai năm sau,
1993, phần di cảo của ông được chào đời do sự cố gắng của bốn người thân: bà
Hồng Nhật, nay đã qua đời, anh Hà Chính, con trai nhà thơ, bà Hồng Phúc, người
yêu và ông Nguyễn Khắc Xuyên, người sưu tầm và đề bạt. Nhà xuất bản Thanh Văn,
Hoa Kỳ, in tập thơ Quê ngoại II hay Tiếng hát thiên nga và quyển
hồi ký Quyển truyện không tên.
Quê ngoại II
phần lớn là thơ tặng Hồng Phúc. Một bài tặng Huyền Nhân, tựa đề Tặng
vợ tôi khi còn sống, viết năm 1950, với những câu:
Mùa đời rụng hết vàng xanh
Nỗi đau thương cũ nay thành máu thơ.
Một bài tặng Hồng Nhật, tựa đề Bài thơ tặng
vợ, với những dòng
Mình vừa là chị là em
Tấm lòng người mẹ trái tim bạn đời.
Ngoài ra còn có bản thảo viết tay bài thơ
Giản dị, tặng Hồng Phúc với những hàng:
Em ăn, em nói, em cười
Kiếp này không có hai người như em.
Ba ý thơ gói trọn ba sinh mệnh khác nhau gắn bó
với cuộc đời Hồ Dzếnh. Nhưng có lẽ sinh mệnh ngắn ngủi của người vợ đầu, đã để
lại những dòng đau đớn nhất trong hồi ký Quyển truyện không tên,
tác phẩm tổng kết toàn diện chất bi đát trong đời văn, đời thơ, đời người Hồ
Dzếnh mà có lẽ Hồ Dzếnh không ngờ, bởi ông viết không phải để in mà chỉ "để
lại cho con". Đây không hoàn toàn là một tác phẩm văn chương trau truốt mà
còn có những điều nói thẳng, nói thật của một người trực diện với hoàn cảnh gắt
gao trong cuộc giao tranh tinh thần giữa con người và sự phủ nhận con người.
Quyển truyện không tên
của Hồ Dzếnh là đoạn hồi ký viết về bốn năm bi thảm nhất trong đời nhà thơ, từ
1947 đến 1950, với người vợ thứ nhất, bà Nguyễn thị Huyền Nhân.
Vào Thanh Hóa thời kháng chiến, Hồ Dzếnh gặp lại
Hồng Phúc. Người yêu cũ nay đã có chồng, khuyên ông nên lấy vợ. Hồ Dzếnh cưới
Huyền Nhân, một độc giả mến mộ thi tài và đã thầm yêu ông từ nhiều năm trước.
1947-1948, trong kháng chiến Khu Tư với tướng Nguyễn Sơn, tại Thanh Hóa, Hồ
Dzếnh làm công tác văn nghệ tuyên truyền. Nhưng gia đình nhỏ của ông không sinh
sống nổi, phải kéo nhau lên mạn ngược. Ở đây, nước độc không chịu được lại phải
kéo nhau về đồng bằng. Nghèo quá, lương giáo chức không nuôi nổi gia đình hai vợ
chồng và hai đứa con trai. Hồ Dzếnh bán chiếc xe đạp cũ để tiêu dần, cho nên
phải cuốc bộ mỗi ngày mấy cây số đi dạy học. Rồi người ta không cho Hồ Dzếnh dạy
học nữa, phải xoay ra buôn bán. Vẫn túng. Sau cùng nhà thơ xin được một chỗ dạy
ở xa, hàng tháng mới về thăm gia đình. Huyền Nhân yếu dần, không đủ sữa nuôi
con. Đứa con đầu lòng ba tuổi, chết đột ngột vì không kịp chữa chạy. Người mẹ ốm
không tiền thang thuốc. Ít lâu sau cũng chết theo con. Còn lại đứa bé bốn tháng
rưỡi, Hồ Dzếnh địu con đi khắp Khu Tư xin sữa nuôi thằng bé. Huyền Nhân mất năm
1950 thì hai năm sau, 1952, Hồ Dzếnh mang được con vào thành.
Viết lại giai đoạn bi thảm này, Hồ Dzếnh lấy
giọng người con trai sống sót kể lại chuyện mình nhưng với cái nhìn đặc biệt của
nhà thơ về kháng chiến và chiến tranh. Thay lời con, Hồ Dzếnh viết: "Tôi sinh
ra giữa một kỷ nguyên khác lạ, kỷ nguyên của những con đường thênh thang bị phá
vỡ, cầu đổ xụp, nhà cửa tiêu tan, xe cộ mất lối. Người đô thị tản mạn lên rừng
xanh, những cô gái xinh tươi của cuộc đời nhung lụa biến thành những cô hàng
nước, những bèo bọt phong trần. Cuộc đổi đời đó thật là vĩ đại và kinh khủng,
lay chuyển hết mọi từng lớp, giai cấp, san phẳng hết mọi chênh lệch sang giầu.
Nếu chỉ có một trạng thái biến đổi đó thì chưa đến nỗi gay gắt. Đằng này, buồn
thế hệ gặm nhắm vào từng lòng người, cái phẫn uất, cay chua nhào thành một loại
cảm giác kỳ dị, gán lên cuộc sống một hình thức sượng sần khó tả. Cái gì dở,
trái, đều được văn chương mới mạng danh bằng những tiếng kêu ròn: tiểu tư sản,
phong kiến. Muốn vào trong cái thế giới vừa tân tạo hôm qua, con người bắt buộc
phải qua một lượt lột xác, hay ít nhất, cũng phải có ý thức lột xác [...]
... Cha tôi không còn được dạy học nữa vì lý
do sức khỏe và nhất là vì giáo khoa (của ông) không thực tế. Học trò bây giờ quy
tất cả các môn học về chính trị. [...] Chỉ tội nghiệp cho cô Kiều, cho Nguyệt
Nga, lạc lõng từ mấy thế kỷ xa lại, thốt nhiên được người ta phê bình mổ xẻ
[...]
Văn nghệ biến ra một ý nghĩa khác: ai cũng
làm văn nghệ được [...] và tác phẩm của một cá nhân, tuy được mang tên mình,
phải có xen vào công trình tập thể.
Trong cái biển đại chúng, bản sắc của một cá
nhân bị đánh tan ra thành bọt. Văn nghệ không nhận ai là thiên tài cũng như cõi
đời không biết có người nào là xuất chúng.
Một nhà văn như cha tôi không khác gì cô gái
điếm: Cô gái chiều khách hàng, nhà văn chiều thời đại. [...]
[Nhưng] nghệ thuật không thể lừa được ai, và
cũng không có gì lừa được nghệ thuật. Những tà tâm, lợi dụng nhất thời làm nổi
tiếng, hay đúng hơn, làm xôn xao, sẽ chìm ngập khi con người không còn có mặt để
kêu rộn những ngụy thuyết của mình." (trích Quyển truyện không tên, nxb Thanh Văn, California, 1993, trang
19/20, 30, 31 và 55)
Một Hồ Dzếnh rất khác và cũng rất giống Hồ Dzếnh
ngày xưa. Một Hồ Dzếnh phẫn nộ ôn tồn. Hồ Dzếnh công kích bản chất chế độ. Hồ
Dzếnh viết những điều mà nhà văn đã phải câm nín suốt đời. Viết trong một lúc
không thể "nhịn" viết được nữa. Một Hồ Dzếnh đanh thép trực tiếp tả niềm ô nhục
của người cầm bút như gái điếm bán trôn nuôi miệng, nhưng vẫn không xa một Hồ
Dzếnh điềm đạm ngày xưa, Hồ Dzếnh của Chân trời cũ, mổ xẻ những nỗi đau
của con người, Hồ Dzếnh viết hộ con, viết hộ thế hệ tương lai:
"Có lúc tôi nhai mạnh đầu vú. Ở chỗ thịt nứt,
nước miếng tôi thấm vào, tia sữa bị rút lên, nghe buốt đến tận ruột mẹ. Và sữa
tuôn ra với máu, chảy tràn ra hai mép tôi, chất ngọt dịu pha lẫn mùi vị tanh
hăng làm cổ tôi nuốt vội. Mẹ tôi co người, nghiến chặt răng lại, đôi mắt chớp
chớp trong giòng lệ nóng hổi. [...]
Máu cứ ứa, sữa cứ bật ra, cả một nguồn sống
huyết lệ mẹ tôi cấp cho tôi để tôi đi vào đời với những con người ít khi nghĩ
rằng nhân loại là một tác phẩm nhẹ mỏng như pha lê cần phải nâng niu từng cử
động nhỏ. Giá những người nhắm mắt xô đẩy cả nguồn hy vọng loài người xuống hố
đen thỏa thích, cũng được trời ban cho đôi đầu vú nứt cổ gà như vậy, thì chắc là
đại họa được tránh đi, hòa bình phải được tôn trọng. Than ôi, chỉ vì quyền sinh
sát lại ở những con người không được đẻ, không biết đẻ là gì, lấy lý trí để án
ngữ cảm tình, và mỉm cười cho rằng sống ở đời nhiều khi phải tàn nhẫn [...]
Sao cứ phải lấy máu để dựng một sự nghiệp,
lịch sử cổ kim chưa bao giờ thấy nói đến giòng máu ác đổ ra mà làm nên truyện
được. Nước Trung Hoa không sống vì Vạn Lý Trường Thành mà sống vì Khổng Tử. Dân
tộc Pháp được nhắc đến thiên thu bởi vì nền văn hóa tinh anh mà không phải vì Nã
Phá Luân hiếu thắng. [...]
Cha tôi ghi trong hồi ký: [...] Thời đại bố
sống là một thứ thời đại tác quái, thời đại bít hết nẻo thông và lương tâm nhiều
khi rẫy chết. Lúc con đọc những dòng chữ này, chắc loài người đã nguôi cơn điên
loạn, thế hệ đã chôn cất những khổ đau một thời [...] Bố muốn rằng, đọc lại nó,
con nên có cái tâm niệm này trước hết: đừng bao giờ cổ võ, dầu chỉ bằng một lời
nói vô tình, cái ý thức chém giết hằng rền vang trong mạch máu động vật [...].
Cái thời đại bố sống, anh em thù nhau, Đông Tây ghét nhau, quả đất hừng hực
những căm hờn bất mãn. Lẽ sống dệt bằng khói lửa, người ta không biết gì hơn là
thủ tiêu nhau để hòng thoát ngõ bí.
Trong cuộc xáo trộn Nam Bắc, có cái gì còn
nguyên được giá trị cố hữu đâu. Cái quý nhất là con người lại không còn gì quý
nữa, nếu nó không là thứ xuất phẩm được rèn đúc theo khuôn khổ của thời đại."
(sđd, trích những trang 47, 48, 49, 75 và 87)
Một Hồ Dzếnh đau thương sâu sắc, mỗi chữ là một
giọt máu, mỗi dòng là một rãnh máu đi trở ngược về tim. Di cảo của Hồ Dzếnh tổng
kết cái nhìn nhân bản nhất của nhà văn về chiến tranh, về tất cả các hình thức
chiến tranh, kể cả những thứ chiến tranh được gọi là cao đẹp nhất như kháng
chiến chống ngoại xâm. Bởi vì người ta đã không thật sự muốn tìm kiếm một giải
pháp hoà bình, cho nên, dù cho có được đắp lên hàng vạn tấn huy chương, chiến
tranh nào cũng được chủ trương bằng những người "không được đẻ", không
biết đẻ là gì. Những người không có bầu vú nứt máu, tuôn sữa cho con bú.
Cho nên họ không hiểu được giá trị sinh mạng con người.
Paris tháng 2/2002
© Copyright Thụy Khuê 2002
No comments:
Post a Comment