Hàng nghìn công nhân Việt xuống đường đòi quyền lợi
Hàng nghìn công nhân công ty Pou Yuen ở Sài
Gòn xuống đường tuần hành phản đối chính sách bảo hiểm xã hội mới. (Ảnh:
Thanh Niên Công Giáo)
31.03.2015
Hàng nghìn công nhân công ty Pou Yuen ở Sài Gòn đã tuần hành để phản đối chính sách bảo hiểm xã hội mới suốt nhiều ngày qua.
Vụ đình công bắt đầu từ sáng 26/3 với cuộc diễu hành của hàng nghìn công
nhân trong khu công nghiệp Tân Tạo nhằm bày tỏ sự không đồng tình đối
với Luật Bảo hiểm Xã hội 2015.
Theo các quy định trong luật này, người tham gia Bảo hiểm xã hội không
được hưởng bảo hiểm xã hội một lần, và vì thế, công nhân không được nhận
hỗ trợ một lần ngay sau nghỉ việc như trước đây mà phải đợi đến tuổi
nghỉ hưu.
Sáng 31/3 cuộc đình công và biểu tình vẫn tiếp diễn, làm tắc nghẽn quốc
lộ 1A trên đoạn Bình Chánh ngay Công ty Pou Yuen. Tình trạng rất phức
tạp, có thể diễn tiến kéo dài và lan rộng trên cả nước. Những công ty
khác, công nhân của những nơi khác cũng đang đòi hỏi quyền lợi và yêu
cầu nhà nước Việt Nam phải trả lời cho họ.
Nhà báo tự do Minh Đức, chuyên theo dõi mảng lao động, cho VOA biết những diễn biến mới nhất:
“Sáng nay 31/3 cuộc đình công và biểu tình vẫn tiếp diễn, làm tắc nghẽn
quốc lộ 1A trên đoạn Bình Chánh ngay chỗ Công ty Pou Yuen. Họ bố trí
công an rất là nhiều để ngăn chặn cuộc biểu tình. Công nhân thì vẫn diễu
hành ôn hòa trên đường phố. Tình trạng rất là phức tạp, có thể diễn
tiến kéo dài và lan rộng trên cả nước. Những công ty khác, công nhân
khác của những nơi khác cũng đang đòi hỏi quyền lợi và yêu cầu nhà nước
Việt Nam phải trả lời cho họ”.
Tin tức từ trong nước cho biết các quan chức địa phương đã tới gặp và thương thảo với công nhân nhưng không được chấp nhận.
Cuộc tuần hành rầm rộ này đang khiến dư luận chú ý tới vấn đề chính sách đối với công nhân lao động ở Việt Nam.
Trong khi vấp phải phản đối, quan chức Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội nói rằng các công dân xuống đường vì “chưa hiểu rõ” luật mới đồng
thời kêu gọi họ trở lại làm việc.
Bà Đỗ Thị Minh Hạnh, một nhà hoạt động cho quyền của người lao động từng bị cầm tù nhiều năm, nhận định với VOA Việt Ngữ:
“Việc bùng nổ vụ đình công đã xảy ra cách đây mấy ngày, từ ngày 26/3. Từ
cuộc đình công hai ngày đầu thì bây giờ chuyển thành một cuộc biểu tình
đòi chính sách về bảo hiểm xã hội. Nó cho thấy sự bất mãn của công nhân
trong vấn đề luật pháp tại Việt Nam. Đây là một sai lầm của quốc hội
Việt Nam vì họ ban hành luật pháp họ không trưng cầu ý dân và hỏi ý kiến
của người lao động. Họ đã tự đặt luật và người công nhân nói riêng và
người lao động nói chung đã bị động trong vấn đề luật pháp và phải chấp
nhận một hệ thống luật pháp mà họ không biết đến. Hiện nay giai cấp công
nhân là một đối tượng đang bị bỏ rơi trong xã hội Việt Nam.”
Bà Hạnh nhận định rằng “luật pháp đã ép người công nhân đến bước đường
cùng, buộc họ phải đứng lên để đấu tranh giành quyền lợi của họ”.
Từ cuộc đình công 2 ngày đầu thì bây giờ chuyển thành một cuộc biểu tình
đòi chính sách về bảo hiểm xã hội. Nó cho thấy sự bất mãn của công nhân
trong vấn đề luật pháp tại Việt Nam. Đây là một sai lầm của quốc hội
Việt Nam vì họ ban hành luật pháp họ không trưng cầu ý dân và hỏi ý kiến
của người lao động...Hiện nay giai cấp công nhân là một đối tượng đang
bị bỏ rơi trong xã hội Việt Nam.
Theo bà Hạnh, Việt Nam nói là có công đoàn độc lập, nhưng không phải
vậy. Bà nói các công đoàn ở trong các công ty, xí nghiệp ở Việt Nam “vẫn
chịu sự ảnh hưởng, chi phối của đảng, và nhà nước”.
VOA Việt Ngữ đã liên lạc với Sở Lao động Thương binh Xã hội TP HCM nhưng một quan chức phụ trách từ chối trả lời.
Cuộc đình công xảy ra trong bối cảnh một phái đoàn dân biểu Mỹ do lãnh
đạo phe thiểu số của đảng Dân chủ trong Hạ viện, bà Nancy Pelosi, dẫn
đầu đang thăm Việt Nam.
Hà Nội và Washington đang tăng cường đàm phán để sớm ký kết Hiệp định
Thương mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP) nhưng phía Mỹ từng bày tỏ quan
ngại về sự thiếu vắng công đoàn độc lập tại Việt Nam.
Công ty TNHH Pou Yuen Việt Nam có 100% vốn của Đài Loan, chuyên sản xuất
giày thể thao, may mặc xuất khẩu, với trên 90.000 công nhân.
Năm ngoái, công nhân công ty này cũng đã xuống đường phản đối Trung Quốc
đặt giàn khoan dầu tại vùng biển mà Việt Nam nói là thềm lục địa của
mình.
Cuộc đình công với sự tham gia của hàng nghìn công nhân ở TP.HCM là
'hồi chuông cảnh tỉnh' đối với các nhà làm luật, theo một luật sư trong
nước.
Hôm 31/3, hàng nghìn công nhân tại nhà máy sản xuất giày của công ty Pou
Yuen Vietnam, có 100% vốn nước ngoài của Đài Loan, đã tiếp tục đình
công sang ngày thứ năm để phản đối các quy định tại điều 60, Luật Bảo
hiểm Xã hội sửa đổi, hãng thông tấn Reuters cho biết.
Theo luật này, công nhân sẽ phải đợi đến tuổi nghỉ hưu, tức nam giới là khi 60 tuổi và phụ nữ là 55 tuổi, mới được nhận trợ cấp.
Reuters dẫn lời các nhân chứng cho biết các công nhân đã 'biểu
tình ôn hòa' bên trong và bên ngoài nhà máy - nằm trong khu công nghiệp
Tân Tạo, phường Tân Tạo, quận Bình Tân.
Trước đó, trong cuộc họp báo khẩn chiều 30/3, Thứ trưởng Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội, ông Doãn Mậu Diệp, được tờ VnExpress trích dẫn
nói mục đích việc thay đổi Luật Bảo hiểm xã hội là nhằm khuyến khích
người lao động tích lũy, bảo vệ quyền lợi cho người lao động trước mắt
và lâu dài.
Các công nhân đã chặn nhiều con đường lân cận hôm 30/3, VnExpress cho biết.
Nhiều nhà máy trong gần đó cũng đã đóng cửa vì lý do an toàn.
Trả lời BBC ngày 31/3, Luật sư Hoàng Văn Hướng, trưởng văn phòng luật sư
Hoàng Hưng, cho rằng cuộc đình công là "hồi chuông cảnh tỉnh", nhắc nhở
các nhà làm luật cần đạt được "sự đồng thuận, sâu sắc, thấu đáo" khi
điều chỉnh luật.
"Trước đây thì họ thanh toán luôn, ngay sau khi chấm dứt hợp
đồng, nhưng giờ sửa lại là phải đợi sau một thời gian nữa", ông cho
biết.
"Mục đích nhà làm luật là muốn cộng dồn lại thời gian đóng bảo hiểm để
mục đích cuối cùng là đảm bảo an sinh xã hội, tức là vấn đề hưu trí."
"Họ cho rằng nếu như đã thanh toán một lần ở doanh nghiệp này, thì sau
này đến tuổi nghỉ hưu lại không có lương hưu thì đó là thiệt hại cho
người lao động."
"Tôi nghĩ rằng nên chăng giữa các nhà quản lý về lao động, kể cả Liên
đoàn Lao động ở TP.HCM cầncó đối thoại để giải thích cặn kẽ".
"Nếu đối thoại tận cùng vấn đề mà thấy cần sửa luật thì cũng nên chỉnh sửa luật chứ cũng không cần phải cứng nhắc".
"Các cuộc đình công làm gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cho những người
làm luật là khi ban hành chính sách thì phải đảm bảo tính đồng thuận,
sâu sắc, thấu đáo".
'Phải tôn trọng người dân hơn'
Một ý kiến khác của Luật sư Hà Huy Sơn thì cho rằng cuộc đình công là một "biểu hiện tốt".
"Người lao động đã có ý thức về quyền lợi của mình nên chuyện đình công đó rất tốt cho xã hội", ông nói.
"Phía
nhà nước cần thay đổi tư duy, nhất là đối với luật bảo hiểm xã hội để
người ta có quyền lựa chọn chứ không thể áp đặt như vậy".
So sánh cuộc đình công hiện nay tại TP.HCM với cuộc biểu tình phản đối
chặt cây xanh tại Hà Nội, ông Sơn cho rằng cả hai cuộc biểu tình có
những tính chất khác nhau.
"Việc phản đối chặt cây xanh là cuộc xuống đường biểu thị mối quan tâm đối với vấn đề xã hội"
"Trong khi vấn đề bảo hiểm xã hội là vấn đề mang tính thiết thực hơn".
"Nhưng cả hai có điểm giống là đều là tiếng nói của người dân".
"Trong tương lai, nhà nước cần có cơ chế quản lý tính tới nhu cầu của
người dân và phải tôn trọng người dân hơn trước đây, nếu không muốn xảy
ra các xung đột xã hội như vụ đình công lần này".
Xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam tăng 15,8%, đạt 20,8 tỷ đôla trong
năm ngoái, theo số liệu của Reuters. Trong khi đó, tăng trưởng xuất khẩu
đối với sản phẩm giày dép là 21,6%, đạt 10,2 tỷ đôla.
Một loạt các tờ báo ở trong nước dẫn lời các chuyên gia cho rằng Tập
đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản VN (TKV) đã “sập bẫy” giá rẻ của phía
Trung Quốc trong dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên.
Theo tường thuật của tờ Tuổi Trẻ, Tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn,
nguyên giám đốc Ban quản lý dự án than đồng bằng sông Hồng, nói tại một
cuộc hội thảo rằng TKV bị “sập bẫy” vì đã “bỏ qua việc thuê tư vấn làm
hồ sơ mời thầu, thiết kế kỹ thuật, đánh giá hồ sơ.”
Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam chưa lên tiếng bình luận về nhận định đăng tải trên báo chí Việt Nam.
Từ Bộ Công thương cho tới TKV (Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam) tìm
mọi cách từ năm 2009 cho tới nay nói cho được rằng cái việc đó chỉ lỗ
trong mấy năm thôi và đến những năm 2020 chẳng hạn thì sẽ lãi, còn sau
đó thì bắt đầu sẽ lãi và càng ngày càng lãi to. Thì đấy chỉ là những thứ
ảo tưởng. Bây giờ người ta biết được sự thật đấy thì người ta phải nói.
Giới trí thức ở Việt Nam từng lập một trang web mang tên Bauxite Việt Nam để nêu lên những mối nguy hại của dự án này.
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, người đồng chủ trì trang mạng đó, nói với VOA tiếng Việt về những thông tin trên báo chí Việt Nam:
"Có thể có những nhóm này và nhóm khác được bật đèn xanh để nói thì có
những tờ báo người ta lên tiếng. Đây cũng là một cơ hội để cho toàn dân
nhìn thấy rõ hơn cái thực chất ngành khai thác bauxite làm ăn dấm dúi,
và không có thực chất, nhưng mà vẫn khoe mẽ ra bề ngoài rằng đó là việc
tốt. Việc này, chúng tôi biết từ lâu nhưng mà chúng tôi vẫn lặng lẽ. Cho
tới bây giờ, được nói rõ lên thì tôi nghĩ đó là điều rất là hay. Các
nhà khoa học từ trước tới giờ tôi vẫn thấy người ta nói theo một chỗ
đứng mà chỗ đứng ấy là chỗ mà trang bauxite chủ trương và nhìn thấy sự
thật. Cho nên chúng tôi không bao giờ lùi bước trước việc này”.
Khác với những tiếng nói chỉ trích lẻ tẻ thời điểm dự án bắt đầu được
tiến hành những năm đầu 2000, nay truyền thông trong nước đã nhiều lần
lên tiếng về sự thua lỗ của dự án liên doanh với Trung Quốc.
Theo nhận định của các chuyên gia, nhà máy tại Tân Rai có thể lỗ khoảng
460 tỷ đồng trong 3 năm đầu, trong khi con số ở Nhân Cơ là 3.000 tỷ cho 6
năm.
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi nhận định thêm với VOA Việt Ngữ về những chuyển
biến trong dư luận xã hội về dự án bauxite trong những năm gần đây:
Đây cũng là cơ hội để cho toàn dân nhìn thấy rõ hơn cái thực chất ngành
khai thác bauxite làm ăn dấm dúi, và không có thực chất, nhưng mà vẫn
khoe mẽ ra bề ngoài rằng đó là việc tốt. Việc này, chúng tôi biết từ lâu
nhưng chúng tôi vẫn lặng lẽ. Cho tới bây giờ, được nói rõ lên thì tôi
nghĩ đó là điều rất hay.
“Từ năm 2009 cho tới bây giờ, không khí xã hội Việt Nam có khác đi rồi.
Sự khơi động một phong trào dân sự đã khiến cho người ta mạnh dạn hơn
trong việc nhìn vào thực tế. Không phải ở trên nói gì thì người ta cũng
tin cả. Mà đặc biệt những vấn đề liên quan tới kinh tế và cái chuyện
kinh tế này lại liên quan tới mối quan hệ giữa mình và Trung Quốc thì
người ta rất nhạy bén. Cho nên chuyện bauxite ở Tân Rai ở Tây Nguyên là
một vấn đề vẫn nằm trong trái tim của người ta, người ta thấp thỏm. Đến
bây giờ thì chuyện lỗ không thể giấu đi đâu được nữa. Từ Bộ Công thương
cho tới TKV (Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam) tìm mọi cách từ năm
2009 cho tới nay nói cho được rằng cái việc đó chỉ lỗ trong mấy năm thôi
và đến những năm 2020 chẳng hạn thì sẽ lãi, còn sau đó thì bắt đầu sẽ
lãi và càng ngày càng lãi to. Thì đấy chỉ là những thứ ảo tưởng. Bây giờ
người ta biết được sự thật đấy thì người ta phải nói”.
Truyền thông trong nước đưa tin, ước tính tổng số lỗ của dự án bauxite
Tân Rai (Lâm Đồng) Nhân Cơ (Đăk Nông) trong năm 2015 sẽ vào khoảng 37,4
triệu USD.
Các học giả thuộc trang bauxite Việt Nam từng nhiều lần gửi thư lên
lãnh đạo Đảng và Nhà nước "khẩn thiết yêu cầu" dừng ngay các
dự án bauxite.
Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam khẳng định cam kết làm các dự án được gọi là "chủ trương lớn". http://www.voatiengviet.com/content/vietnam-sap-bay-trung-quoc-trong-vu-bauxite-tay-nguyen/2701068.html
Ban Kinh tế Trung ương có nhân sự mới
30 tháng 3 2015
Ban Kinh tế Trung ương của Đảng Cộng sản có ba phó ban giữa lúc những tranh cãi về đường hướng kinh tế tiếp diễn.
Theo Thời báo Kinh tế Việt nam, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Tô Huy Rứa
đã trao quyết định của Bộ Chính trị Việt Nam về việc bổ nhiệm các ông
Trương Quang Nghĩa, Trần Văn Hiếu và Trần Tuấn Anh hồi cuối tháng Ba.
Ông Nghĩa là Ủy viên Trung ương Đảng từng là Bí thư Tỉnh ủy Sơn La, Phó bí thư Đà Nẵng và Tổng giám đốc Vinaconex.
Ông Hiếu hiện là Thứ trưởng Bộ Tài Chính và ông Anh là Thứ trưởng Bộ Công thương.
Cả hai ông sẽ kiêm nhiệm thêm chức vụ phó ban Kinh tế Trung ương thay
cho hai người đã nghỉ hưu là các ông Nguyễn Công Nghiệp và Lê Dương
Quang.
Thời báo Kinh tế Việt Nam nói ông Trần Văn Hiếu có học vị tiến sỹ và phụ
trách về về tài chính doanh nghiệp, quản lý giá và cũng là Chủ tịch Hội
đồng Thành viên Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước SCIC.
Còn ông Trần Tuấn Anh đang là Bí thư Đảng ủy, Thứ trưởng Bộ Công Thương
phụ trách xuất nhập khẩu và dịch vụ thương mại, phát triển thị trường và
các vấn đề liên quan đến xử lý tranh chấp thương mại và chống bán phá
giá, chống trợ cấp ở nước ngoài đối với hàng hóa Việt Nam tại các nước
châu Mỹ.
Trưởng ban Kinh tế Trung ương hiện là ông Vương Đình Huệ, cựu bộ trưởng
tài chính. Ông từng được đề cử vào Bộ Chính trị nhưng không được Ban
chấp hành trung ương đồng ý.
Bình luận với BBC hôm 30/3 về các thách thức kinh tế hiện nay của Việt
Nam, chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành, một Việt kiều từng có nhiều
năm kinh nghiệm kinh doanh ở Việt Nam nói:
"Nhân sự [cốt cán của] Việt Nam ... chưa được huấn luyện thực sự về quản
lý kinh tế thị trường mà chỉ mới định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành
trong cơ chế kinh tế thị trường thì còn nhiều bất cập lắm.
"Cái định hướng xã hội chủ nghĩa là cái gì thì cũng không thấy rõ ràng.
Còn vận hành trong cơ chế thị trường chưa hẳn đã là kinh tế thị trường.
Hiện nay các nhà lãnh đạo Việt Nam ... đi khắp thế giới qua Mỹ, châu Âu
đều yêu cầu lãnh đạo nước ngoài công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị
trường. Đã như thế rồi thì những gì không phù hợp nhà nước phải từ từ
xóa bỏ nó đi.
"Nếu mà định hướng xã hội chủ nghĩa là theo kinh tế quốc doanh với doanh
nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo thì như thế không phải là kinh tế
thị trường nữa."
"Hai cái đấy nó có sự chống chọi nhau và đến một lúc nào đấy lãnh đạo
Việt Nam cần phải có quyết tâm, quyết liệt nói rõ ra định hướng của mình
như thế nào.
"Hiện nay các nhà lãnh đạo Việt Nam ... đi khắp thế giới qua Mỹ, châu Âu
đều yêu cầu lãnh đạo nước ngoài công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị
trường. Đã như thế rồi thì những gì không phù hợp nhà nước phải từ từ
xóa bỏ nó đi."
'Hệ thống không chịu trách nhiệm'
Khi được hỏi về các quyết sách kinh tế cần có trong thời gian trước mắt, ông Thành bình luận:
"Vấn đề của Việt Nam là làm sao mỗi doanh nghiệp có phương tiện để phát triển ổn định, bền vững.
"Năm nay theo quyết định và thông báo của Chính phủ là năm của doanh nghiệp.
Việt Nam "là nền kinh tế định hướng "công nghiệp - phi công nghệ", không
khuyến khích sản xuất nội địa, không có công nghiệp hỗ trợ.
"Doanh nghiệp Việt Nam rất cần chính sách tiền tệ và tín dụng như thế
nào để doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn với lãi suất hợp lý với sự
giám định tốt về sử dụng nguồn vốn."
Ông cũng nói thêm Việt Nam cần thực hiện những chính sách để thúc đẩy
sáu lĩnh vực ưu tiên trong đó có nông nghiệp, công nghệ cao và xuất
khẩu.
Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên từng nói rằng kinh tế
Việt Nam "là nền kinh tế định hướng "công nghiệp - phi công nghệ", không
khuyến khích sản xuất nội địa, không có công nghiệp hỗ trợ."
Ông Thiên nói có tới 76% máy móc, thiết bị dây chuyền công nghệ ở Việt
Nam thuộc thế hệ 1950-1960 và Việt Nam "quá thiên lệch về khuyến khích
nhập khẩu để gia công lắp ráp và mang tính đầu cơ."
Ông Thiên cho rằng kinh tế Việt Nam phát triển và tái cơ cấu chậm là do
"đang tồn tại một hệ thống không chịu trách nhiệm và không thể chịu
trách nhiệm".
Tình cờ có mặt ở Hà Nội trong tháng 3, tôi có dịp chứng kiến toàn bộ
diễn biến sự kiện tàn sát cây xanh có một không hai ở Hà Nội và diễn
biến cảm xúc của dân chúng, dẫn đến việc người Hà Nội đồng lòng liên
tiếp xuống đường, việc hiếm khi xảy ra ngay cả trong thời kỳ Trung Quốc
gây hấn.
Người Hà Nội nổi giận không chỉ vì sự triệt phá cây xanh quá nhanh chóng
mà như một cụ bà được phỏng vấn đã gọi đó là sự kiện “lâm tặc về thành
phố”, mà còn vì những phát ngôn gây sốc, tiền hậu bất nhất của những
người có trách nhiệm trong chính quyền.
'Lâm tặc' và cấm đoán
Mặc dù Chủ tịch Uỷ ban ND Thành phố Hà nội đã có công văn dừng chặt cây
nhưng lại chỉ là tạm dừng và những động thái tiếp theo như Công ty Công
viên Cây Xanh HN khăng khăng nói cây trồng trên phố Nguyễn Chí Thanh là
cây vàng tâm, trong khi tất cả các nhà khoa học có ý kiến đều đưa ra
những bằng chứng đó là cây mỡ đã làm công luận không tin vào sự thay đổi
quyết định của chính quyền.
Đặc biệt công văn của Trường Đại học Lâm Nghiệp cấm những cán bộ, giảng
viên, sinh viên phát ngôn với báo chí khi chưa được sự cho phép của nhà
trường đã không hề giảm nhiệt tình hình mà còn làm nó tăng lên.
Đó là lý do vì sao trong hai tuần liên tiếp, người Hà Nội bất chấp sự cấm cản của chính quyền, liên tục xuống đường tuần hành.
Dù xa Hà Nội đã lâu nhưng thành phố quê hương vẫn luôn trong trái tim
tôi nên tôi không thể đứng ngoài cuộc. Cuộc tuần hành đầu tiên là của
page “6700 người vì 6700 cây xanh”, do bạn Ngọc Trà, một bà nội trợ bức
xúc với thảm sát cây xanh lập ra và nhanh chóng được cộng đồng hưởng
ứng.
Chỉ từ bức xúc mà mọi người chưa từng quen biết nhau liên kết lại viết thư ngỏ gửi lãnh đạo thành phố.
Chỉ trong 2 ngày, thư ngỏ này đã thu được hơn 15.000 chữ ký và đã gây
sức ép đáng kể để chính quyền phải tạm dừng chặt cây. Nhưng thái độ
loanh quanh của chính quyền đã làm các thành viên phải quyết định xuống
đường.
Buổi tuần hành ngày 22/3/2015 diễn ra trong không khí khá căng thẳng,
khi ngày hôm trước nhóm người trẻ đi thắt nơ cho cây xanh bị dân phòng
đuổi.
Một nữ phóng viên của VTV4 tình cờ chứng kiến cảnh này đã quay phim lại
thì bị một dân phòng mặt mũi rất bặm trợn doạ đưa vào đồn, gần như muốn
hành hung cô ấy.
Chính vì vậy các thành viên đã rất cẩn thận lựa chọn những hình thức
không vi phạm lệnh cấm nào như chọn hồ Thuyền Quang, nơi có không gian
rộng rãi và không quá nhạy cảm, đi bộ chứ không tụ tập để tránh vi phạm
lệnh cấm biểu tình, kết hợp với nhiều hoạt động khác như vẽ tranh, ca
hát, phát tờ rơi… và tự căn dặn nhau hết sức kiềm chế để tránh gây xung
đột.
Nhờ vậy cuộc tuần hành đã diễn ra khá hoà bình, sôi nổi và thu hút đông
đảo sự chú ý của người qua đường cũng như người dân xung quanh.
Thời tiết không thuận lợi, mưa nhỏ và hơi lạnh nên số người tham gia ban
đầu ít hơn dự kiến, chỉ khoảng hơn 100 người so với vài trăm đăng ký
ban đầu nhưng nhiệt tình của nhóm đã thu hút đông đảo người qua đường
nên đến cuối sự kiện đã có chừng 500 người tham gia tuần hành, vừa đi
vừa hô khẩu hiệu bảo vệ cây xanh như “Tôi yêu cây, cây yêu tôi”, “Không
chặt cây”, "Tree save us", "We save tree"…
Những khẩu hiệu ôn hoà đó đã khiến những cảnh sát, dân phòng bao quanh
cũng không có hành động nào quá khích, chỉ phát loa kêu gọi người tham
gia nên giải tán, đã có nhà nước lo…
Tôi
tin là nhiều người trong số họ phải làm theo lệnh chứ cũng ủng hộ người
tuần hành. Đặc biệt, tấm ảnh một nữ sinh viên tặng hoa cho một công an
mà anh này phải ngoảnh mặt đi đã khiến công luận chú ý nhiều vì thể hiện
khoảng cách giữa dân chúng với người thừa hành công vụ.
Chúng tôi vui vẻ ra về, hy vọng khi đã chứng kiến sự đồng lòng của người
dân, chính quyền sẽ có động thái tích cực để chúng tôi được quay về
sống đời sống bình thường.
Một tuần nữa qua đi nhưng ngoài những tin tức như báo chí lề phải bị cấm
đăng tin về phong trào bảo vệ cây xanh, Công ty Cây xanh lén lút thay
cây vào ban đêm và một số người tham gia tuần hành bị cảnh sát “hỏi
thăm”, không có bất kỳ một động thái tích cực nào.
Thời điểm quan trọng
Trang “6700 cây xanh” quyết định tổ chức một cuộc tuần hành nữa vào ngày
chủ nhật, 29/3/2015. Lần này địa điểm được lựa chọn là Hồ Hoàn Kiếm.
Đây là một quyết định dũng cảm vì Hồ Hoàn Kiếm là nơi có nhiều các cơ
quan đầu não của Thành phố, hơn nữa lại đang thời điểm diễn ra Hội nghị
IPU nên rất đông cảnh sát được huy động. Ngay từ thứ sáu, một số trường
Đại học và Trung học đã có thông báo cấm sinh viên tham gia tuần hành;
Tổ dân phố một số khu phố cũng có động thái tương tự, thậm chí một số
thành viên quen mặt trong các cuộc biểu tình bị công an trực tiếp “hỏi
thăm”, khuyên không nên tham gia để đảo bảo an ninh trật tự trong thời
gian diễn ra Hội nghị.
Nực cười! Cứ làm như dân chúng mới là người đứng ra chặt phá cây xanh, làm mất an ninh trật tự của thành phố.
Sáng chủ nhật tôi tà tà mượn xe máy đi lên Bờ Hồ, dù người nhà can ngăn.
Đến nơi mới thấy tình hình còn căng hơn tuần trước. Đầu tiên là không
thể gửi được xe máy quanh Bờ Hồ vì mọi bãi xe đều được lệnh đóng cửa.
Ngay cả khác vào ăn kem Thuỷ Tạ cũng không gửi được xe, phải ra về.
Tôi
phải vòng vèo rất xa mới tìm được chỗ gửi xe rồi đi bộ quay lại điểm
tập kết nên muộn một chút. Đoàn diễu hành khỏi đầu từ khu vực đài phun
nước bên cạnh Hồ Gươm, đối diện phố Cầu Gỗ. Có vẻ do bị ngăn cản nên
đoàn đi không đông như tuần trước, lúc đầu chỉ khoảng vài chục với rất
nhiều gương mặt từ tuần trước.
Trang phục cũng đơn giản, có gì mặc nấy, không lựa chọn màu xanh như lần
trước. Một số người, chắc là thành viên chủ chốt chuẩn bị khá cẩn thận,
có biểu ngữ, khẩu hiệu chủ yếu với nội dung cũ, chỉ một số bác lớn tuổi
cầm biểu ngữ yêu cầu truy cứu trách nhiệm những người ra lệnh chặt phá
cây. Vài bạn trẻ mặc trang phục giả cây xanh khá vui mắt.
Hoạt động cũng đơn giản hơn, chỉ có đi tuần hành quanh hồ, vừa đi vừa giương cao biểu ngữ và hô các khẩu hiệu bảo vệ cây xanh.
Một số người nước ngoài cũng tham gia, vừa đi vừa hô khẩu hiệu bằng cả
tiếng Anh và tiếng Việt. Đoàn càng đi càng đông, rất nhiều người đang đi
dạo trên Bờ Hồ cũng nhập cùng đoàn. Thành phần đoàn rất đa dạng, từ các
em bé còn ngồi xe nôi hay lẫm chẫm bước đi, đến các cụ già chống gậy;
từ những phụ nữ váy áo điệu đà, phấn son thơm phức đến những thanh niên
trang phục bụi bặm, tất cả đều rất hồ hởi, quyết tâm bảo vệ cây xanh.
Tôi hỏi một bác đã khá lớn tuổi, chống gậy là sao bác không ngồi nghỉ đã? Bác bảo:
“Không, tôi còn đi được. Không thể để họ phá hết cây xanh ở Hà Nội”!
Bên cạnh những nhân vật “cộm cán” trong giới biểu tình như bác Nghiêm
Việt Anh, chị Đặng Bích Phượng…. tôi còn thấy khá nhiều các văn nghệ sĩ
như nhà thơ Nguyễn Bảo Chân, nhà văn Thuỳ Linh… và một số người hoạt
động trong xã hội dân sự như anh Đặng Hoàng Giang, TS Nguyễn Quang A…
Cũng như lần trước, người tuần hành rất kiềm chế, chỉ đi trên vỉa hè,
tránh giẫm lên cỏ, không xả rác dưới sự kiểm soát chặt chẽ của xe cảnh
sát và tiếng loa ra rả yêu cầu mọi người giải tán với lý do để bảo đảm
an ninh trật tự cho IPU. Loa cứ loa, mọi người vẫn phớt lờ, vừa hô khẩu
hiệu vừa bảo nhau: “Thành viên IPU thấy dân Việt diễu hành ôn hoà thế
này, Hà nội càng có uy tín chứ sao”.
Cũng như trong cuộc tuần hành vì cây xanh Hà Nội ngày 22/3, cảnh sát cư
xử rất kiềm chế, chỉ gây sức ép từ xa, kiểm soát giao thông, gọi loa chứ
không có bất kỳ hành vi thô bạo nào.
Có thể dưới áp lực cần giữ hình ảnh trong thời gian diễn ra IPU nên họ được lệnh phải cư xử ôn hoà.
Đi hết một vòng hồ nhưng đoàn không dừng lại mà dừng trước Đền Ngọc Sơn
và Uỷ ban Nhân dân Thành phố để một lần nữa giương cao biểu ngữ và hô
khẩu hiệu thể hiện quyết tâm bảo vệ cây xanh của mình.
Trời
cũng chiều người nên có một ngày nắng đẹp, dịu mát, trời trong xanh.
Hình ảnh đoàn người trật tự diễu hành quanh Bờ Hồ, hô khẩu hiệu sôi nổi
bên hàng cảnh sát áo vàng và những luống hoa đủ màu là một hình ảnh đẹp
mắt mà tôi tin những người tham gia sẽ nhớ mãi.
Tuy nhiên, do không có hoạt động gì mới so với tuần trước, đến cuối buổi diễu hành nhiệt tình của nhiều người đã giảm.
Có thể thấy rõ nếu chính quyền không xuống thang, những cuộc tuần hành
lần sau cần nghiên cứu bổ sung những hoạt động mới như “Phản đối lấp
sống Đồng Nai” hay ủng hộ chống chặt cây xanh ở các thành phố khác như
Hải Dương, Huế…
Xã hội dân sự ở Việt Nam còn quá non trẻ, cần những người lãnh đạo không chỉ nhiệt huyết mà phải bài bản và luôn đổi mới.
Mong lắm, một ngày mai tươi sáng cho thành phố quê hương. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả Sveta Nguyen, từ Hà Nội. http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2015/03/150330_dan_su_vi_hanoi_xanh
Ở Mỹ, tôi xin phép được sửa lại 4 cái ngu theo ý của riêng tôi:
“Trên đời có 4 cái ngu
Làm mai, bảo lãnh, co-sign, cho tiền ”
Làm mai, co-sign thì chắc nhiều người biết tại sao ngu rồi, tôi không
bàn thêm nữa. Hôm nay tôi xin được phép góp vài ý kiến cá nhân về chuyện
dài bảo lãnh và cho tiền làm từ thiện ở Việt Nam.
Người Việt Nam ta thường có tình cảm gia đình rất sâu nặng, người đi
trước giúp người đi sau. Sau khi được sang định cư ở nước thứ ba là bắt
đầu lo giấy tờ bảo lãnh người thân. Các văn phòng lo dịch vụ di trú,
đoàn tụ mọc ra như nấm và không bao giờ thiếu khách hàng . Hết lo bảo
lãnh người thân ruột thịt như cha mẹ, vợ chồng, con cái xong, thì đến
bảo lãnh anh chị em, con cháu, họ hàng, bạn bè xa gần. Nhiều người bảo
lãnh thân nhân sang Mỹ xong, chỉ một thời gian ngắn sau đó là gây gỗ,
cha mẹ anh em không thèm nhìn mặt nhau, có khi chính gia đình vợ chồng
người bảo lãnh cũng gãy đổ vì những người thân từ Việt Nam sang đâm
thọc. Người ở Việt Nam bây giờ nếu biết làm ăn buôn bán, tham nhũng, hối
lộ, chạy chọt thì cũng có tiền bạc rủng rỉnh, nên khi có giấy tờ bảo
lãnh của thân nhân về, họ đi Mỹ định cư mà cứ như là đi du lịch dài hạn,
ở được thì ở, không được thì về. Khi qua Mỹ, họ tưởng đâu ở Mỹ là thiên
đàng, việc làm dễ kiếm, đủ loại trợ cấp nhà nước nên khi đụng vào thực
tế phủ phàng sau mấy tháng qua Mỹ ăn ở không chẳng có đồng nào trợ cấp,
người bảo lãnh cũng không khá giả gì hơn, họ bất mãn và tháo lui về lại
Việt Nam, nhưng vẫn không quên để lại con cái ở Mỹ nhờ anh em, bà con
chăm sóc giùm cho mấy đứa nhỏ có tương lai !
Có người Việt Nam mới qua Mỹ có mấy ngày, đi ăn nhà hàng Việt Nam ở khu
Little Saigon, khẩu vị khác với ở Việt Nam, đã không ngần ngại chê bai
“đồ ăn Việt Nam ở Mỹ dở ẹt, thịt cá đều là đông lạnh, ăn không vô !”.
Ban ngày ở nhà khu yên tịnh, chủ nhà đi làm hết, không có xe cộ ở nhà để
xuống phố Bolsa, thì rên rỉ “nhà gì đâu mà ở khu vắng vẻ như chùa Bà
Đanh, ở nhà suốt ngày giống như ở tù bị giam lỏng !”. Có nhiều anh Việt
kiều về Việt Nam lấy vợ, rước nàng về Mỹ, được một, hai tháng, thấy nàng
suốt ngày gọi điện thoại về Việt nam vì nhớ cha nhớ mẹ, bill điện thoại
mỗi tháng không dưới 200 đô. Ban đêm hay cuối tuần thì bắt anh chồng
chở đi shopping, tiêu xài thoải mái, cà thẻ tín dụng không cần biết bao
nhiêu. Anh chồng kêu đi học Anh văn, học nghề thì viện đủ lý do để khỏi
đi, ở nhà để chồng nuôi cho sướng. Không biết một hai năm sau, anh chồng
có còn chịu nổi nữa không ?
Có một cặp vợ chồng đang êm ấm, rước bà mẹ chồng và cô em chồng qua thì
trong nhà bắt đầu lục đục. Bà mẹ chồng thấy con trai mình đi làm về vào
bếp phụ vợ nấu cơm thì khó chịu, chì chiết con dâu là không làm bổn phận
làm vợ, làm dâu đúng tiêu chuẩn Việt Nam của bà. Cô em chồng thì luôn
nói xấu chị dâu với anh mình những khi chị dâu đi làm. Như vậy thì ai mà
chịu đời cho thấu.
Có một gia đình người bạn mà tôi được biết, bảo lãnh cả gia đình người
chị chồng từ Việt Nam qua. Qua Mỹ được vài tháng, bà chị chồng xúi dại
người chồng mượn tiền ngân hàng cho bà ta để mua nhà vườn ở Riverside để
làm rẫy, trồng rau bán cho các chợ Việt Nam. Gia đình người em tan nát
khi chủ nợ ngân hàng, credit card gửi thư đòi nợ ráo riết vì công việc
làm rẫy không được thuận lợi như ý muốn.
Ông bà ta thường nói:
“Cứu vật, vật trả ơn
Cứu nhân, nhân trả oán”
Câu này tôi thấy rất là đúng. Người Việt Nam được thân nhân bảo lãnh
sang Mỹ bao nhiêu năm nay, có mấy ai còn biết nói tiếng cảm ơn người đã
đùm bọc cưu mang gia đình mình từ những ngày đầu mới đến Mỹ. Có mấy ai
còn liên lạc, còn gọi điện thoại hỏi thăm sức khỏe, chúc Tết “khổ chủ”
ngày xưa. Hay đã giận hờn nhau, không thèm nhìn mặt nhau từ lâu lắm rồi ?
Bây giờ, xin được nói qua chuyện cho tiền làm từ thiện ở Việt Nam. Thấy
có nhiều hội đoàn sốt sắng làm các công tác từ thiện giúp đỡ người nghèo
khó ở Việt Nam, tôi rất là cảm phục. Tôi chỉ xin lưu ý các cá nhân đã
và đang đóng góp cho các công tác từ thiện ở Việt Nam, có nhiều người
còn dấn thân về Việt Nam, đem tiền tận tay giao cho các tổ chức cứu trợ ở
Việt Nam. Với kinh nghiệm cá nhân, tôi không còn tin tưởng nhiều các tổ
chức cứu trợ từ thiện ở Việt Nam dưới sự quản lý của nhà nước. Nếu có
cho tiền xin đừng để lại tên tuổi, chỉ gây phiền phức cho mình sau này.
Người đại diện ở Việt Nam, có khi tay mặt nhận tiền, nhưng tay trái bắt
đầu ghi tên Việt kiều vào sổ phong thần, để điều tra lý lịch, công ăn
việc làm của mình ở hải ngoại, để sau này dễ dàng chụp mũ khi cần. Họ
làm báo cáo chi tiết nhưng không bao giờ báo cáo huê hồng ít nhất 10 %
cho người kêu gọi đưọc tiền đóng góp từ hải ngoại, gọi là tiền “bồi
dưỡng”. Nhiều khi các hội đoàn ở hải ngoại biết rất rõ việc này, nhưng
vẫn phải nhắm mắt làm ngơ để quà cứu trợ được đến tận tay đồng bào nghèo
khó.
Muốn qua sông phải lụy đò
Muốn thương dân Việt phải “dò” mới tin
Xin hãy “dò” kỹ nguồn tin trước khi trao tiền, và đừng tin tưởng quá
đáng vào tổ chức từ thiện của nhà nước như Hội Phụ Nữ Từ Thiện chủ
trương giúp phụ nữ nghèo tạo dựng lại cuộc sống. Xin hãy tìm hiểu kỹ
càng hoạt động của họ trước khi bỏ tiền ra giúp họ.
Vài hàng góp nhặt, hy vọng mọi người đọc xong sẽ suy nghĩ và thông cảm với tác giả.
Phong Lan
2007
--
Viết thêm 2015
Đến năm 2015, tôi lại muốn viết thêm về cái ngu CHO TIỀN ở hải ngoại.
Mỗi năm, ở Mỹ, tôi đều cố gắng trích một phần ngân quỹ gia đình để giúp
các tổ chức từ thiện làm công tác xã hội. Nhiều tổ chức gây quỹ mỗi
năm ở nhiều tiểu bang để giúp cho người tị nạn, nạn nhân buôn người,
công nhân lao động xuất khẩu, người tàn tật ở Việt Nam, cô nhi, người
nghèo, nạn nhân bão lụt, xây giếng, cất chùa, v.v… Mỗi người một tay,
của ít lòng nhiều, $50, $100, người Việt Nam ta rất giàu lòng nhân ái.
Nhiều tổ chức đã gây quỹ được mấy trăm ngàn đô la từ đồng hương Việt Nam
với khẩu hiệu :
“Dù xây chín bậc phù đồ
Không bằng làm phước cứu cho một người”
Có điều sau khi thâu tiền mọi người xong, thì ít khi thấy tổ chức đó ra
một báo cáo chi tiết tài chánh chi thu rõ ràng cho mọi người được biết
là số tiền thu được đã được chi như thế nào. Bao nhiêu phần trăm được
trả cho nhân viên hành chánh làm nhiệm vụ sổ sách ? 10 % hay 90 % ? Bao
nhiêu phần trăm được trả cho chi phí di chuyển, đi máy bay, ở khách
sạn, ăn uống cho nhân viên ? Và cuối cùng bao nhiêu phần trăm thật sự
đến với người khốn khổ để giúp đỡ họ ? Có hay không danh sách người nhận
được giúp đỡ ? Làm sao kiểm chứng được ? . Chẳng có ai dám hỏi và ban
tổ chức gây quỹ cũng ít khi công khai tài chánh chi thu. Tiến thu thì
nói gây quỹ thành công lắm, nhưng tiền chi ra thì dấu rất kỹ.
Tiền vô như nước sông Đà
Tiền ra nhỏ giọt như cà phê phin
Ai mà hỏi thì họ cho là người phá đám và tỏ thái độ khó chịu ra mặt. Có
khi họ còn hăm dọa kiện thưa người cho tiền vì thắc mắc việc điều hành
của họ hơi nhiều. Tôi mong rằng các hội đoàn có tổ chức gây quỹ thì cũng
nên báo cáo chi tiết rõ ràng chi thu không cần phải đợi người ta hỏi
mới trả lời. Các báo cáo thành tích thì cũng phải rõ ràng có hình ảnh
chứng minh là nhân viên của tổ chức mình làm, chứ không phải lấy hình
sinh hoạt của tổ chức khác làm rồi nhận vơ là tổ chức mình làm, không ai
kiểm chứng được. Tôi rất hoang mang khi đọc những báo cáo thành tích
chung chung, rất ấn tượng nhưng chỉ có ông chủ tịch hay bà chủ tịch biết
rõ, ngoài ra không ai biết hết. Ban ngân sách, ban giám sát, ban điều
hành chỉ là bù nhìn , không ai biết gì hết.
Nói tóm lại các tổ chức người Việt nên hoạt động dân chủ và rõ ràng minh
bạch về chuyện tiền bạc ngân sách thì mới mong lấy lại được lòng tin
của người Việt Nam cho các công cuộc gây quỹ làm việc xã hội hay chính
trị, giúp đỡ đồng bào mình. Nếu không thì sẽ chẳng ai còn dám tin ai, và
các cuộc gây quỹ sẽ không có kết quả tốt đẹp trong tương lai.
Mỗi ngày tôi tự nhủ Càng sống càng thèm yêu mỗi ngày tôi tự nhủ Tình yêu như cánh diều Tháng ngày những bay bổng Tháng ngày những mông lung Trời càng thêm lộng gió Diều càng thích bay cao Tôi càng thêm đuối sức Tôi đi làm lich sử trở thành kẻ lỡ thời Để yêu em tình cuối với ly đời hớp chót đêm đêm tôi nằm mơ em chập chờn đâu đó giấc mơ nào cũng vậy tỉnh dậy thấy bâng khuâng em là như thế đó luôn chập chờn hư ảo tình ơi tình chót vót như đỉnh núi chơi vơi trong mộng mị tít tắp tôi tới ngọn đỉnh trời ta sẽ làmgì đây emtrong vòng tay ấm giấc mộng bừng tỉnh thức ta bâng khuâng cả đời giấc mộng thành sự thật có khi ta lại buồn đời chỉ vậy thôi sao còn gì để tiếc nuối ôi con diều đứt dây bay mịt mùng tít tắp vương tân
NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM VẬN ĐỘNG HÀNH LANG CHỐNG DỰ LUẬT S-219
Tin
Canada: bằng chứng cho thấy nước CHXHCN Việt Nam đã dùng tiền thuế của
dân để thuê công ty BRUCE HARTLEY vận động hành lang chống lại dự luật
S-219, dự luật "Ngày Hành trình đến tự do" - dự luật nhằm công nhận ngày
30 tháng 4 là ngày quốc lễ Canada, ghi nhớ sự hiện diện của người Việt
tại Canada cũng như ghi ơn đất nước Canada đã cưu mang họ.
Tài
liệu phổ biến trên website của Văn Phòng Ủy Ban Vận Động Hành Lang
(Office of the Commissioner of Lobbying of Canada) cho biết mục tiêu của
các vận động hành lang nhằm thu xếp những cuộc họp để thay mặt cho
khách hàng tiếp xúc với các giới chức hay bất kỳ người nào trong quá
trình chống lại dự luật S-219.
Gần
đây, vài đoàn thể thân cộng đã ra điều trần trước tiểu ban quốc hội
Canada với lập luận dự luật S-219 đã xuyên tạc sự thật lịch sử Việt Nam
và gây chia rẽ cộng đồng người Việt.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne Úc Đại Lợi
Người Việt các anh sẽ muôn đời khổ. .
Một công nhân làm cho một công ty Nhật ở Việt Nam kể lại khi một kỹ sư
Nhật về nước ông ấy không ngại ngần nói với người công nhân Việt Nam:
“Người Việt các anh sẽ
muôn đời khổ. Đấy là vì các anh chỉ biết nghĩ đến những cái lợi lộc nhỏ
của cá nhân mà không biết nghĩ đến cái lợi lớn của chung”.Rồi viên kỹ sư
minh họa: “Một cái vít chúng tôi phải mang
từ Nhật sang giá 40.000đ mà rơi xuống đất thì công nhân Việt Nam các
anh thản nhiên dẫm lên hoặc đá lăn đi mất vì nó không phải của các anh.
Nhưng các anh đánh rơi điếu thuốc lá đang hút dở giá 1.000đ thì các anh
sẵn sàng nhặt lên và hút tiếp cho dù nó bị bẩn chỉ vì nó là của các anh. Hay như cuộn cáp điện chúng tôi nhập về giá 5triệu/m, nhưng các anh cắt trộm bán được có vài trăm nghìn/m.
Tất cả những việc làm đó mang lại chút lợi lộc cho các anh nhưng gây
thiệt hại lớn cho doanh nghiệp vì chúng tôi phải nhập bổ sung hoăc nhập
thừa so với cần thiết”.
Còn
người lái xe của viên kỹ sư đó thì được nghe ông ấy tặng quà có giá trị
và được nghe ông ấy “tâm sự” như sau: “Tôi rất cảm ơn anh lái xe an
toàn cho tôi suốt 5 năm qua. Vì anh là người bảo đảm mạng sống của tôi nên anh làm gì tôi cũng chiều nhưng anh đừng tưởng anh làm gì sai mà tôi không biết.
Anh
đưa đón tôi ra sân bay quãng đường chỉ hơn 30km anh khai là hơn 100km
tôi cũng ký, anh khai tăng việc mua xăng, thay dầu tôi cũng ký là vì tôi
cần anh vui vẻ lái xe để tôi được an toàn. Nhưng anh và các công nhân
Việt Nam đừng tưởng là các anh vặt được người Nhật . Các anh nên biết
rằng lẽ ra chúng tôi có thể trả lương cao hơn hoặc tăng lương nhiều hơn
cho các anh.
Nhưng
đáng phải tăng lương cho các anh 500.000đ thì chúng tôi chỉ tăng
200.000đ. Còn 300.000đ chúng tôi phải giữ lại để chi trả bù đắp cho
những trò vụn vặt hay phá hoại của các anh. Cuối cùng là tự các anh hại
các anh thôi. Còn chúng tôi cũng chỉ là lấy của người Việt cho người
Việt chứ chúng tôi không mất gì cả”.
Có một đường hầm dưới giàn giáo bi sập ở Formosa (Hà Tĩnh)
[23 giờ 16] Thượng
úy Tăng cho biết tai nạn xảy ra khi các công nhân đang thi công giàn
giáo bằng sắt thép cao khoảng 30-40m. Giàn giáo bị sập
đổ vùi lấp các công nhân trong đống đổ nát.
Bên ngoài khu vực sập giàn giáo - Ảnh: Nguyên Dũng
"Phía dưới giàn giáo còn có một đường hầm nên công tác cứu nạn gặp nhiều khó khăn.
Các lực lượng cứu hộ cứu nạn đang huy động tối đa cần cẩu, máy khoan,
máy cắt để cưa cắt sắt thép, tìm kiếm và đưa các công nhân mắc kẹt ra
ngoài", thượng úy Tăng nói.
PV Thanh Niên Online đang
có mặt tại khu vực hiện trường cho biết trời đang mưa nên công tác cứu
hộ cứu nạn gặp nhiều khó khăn. Hiện các lực lượng đã phong tỏa hiện
trường, ưu tiên các phương tiện cứu hộ cứu nạn, xe cứu thương. Các phóng
viên
chưa thể tiếp cận sát khu vực giàn giáo bị sập.
_____________________________________
Tai nạn giàn giáo sập tại khu kinh tế Vũng Áng hôm nay làm tử vong 14 và bị thương 30 Công Nhân Việt Nam.
Chuyện bất ngờ là nhờ sập giàn giáo, làm lộ một đường hầm bí mật ! Công Nhân cho biết ĐƯỜNG HẦM BÍ MẬT rộng gần 2 mét chiều ngang, sâu 2 mét và
dài 50 mét chạy ra cửa biển. (báo DT đã xóa phần tin nầy)
Có
thể đây là đường hầm bí mật để Trung Quốc đổ bộ lính và đưa vũ khí
qua ngã Vũng Áng để cắt đứt Hã Tĩnh và Hà Nội khi có chiến tranh xảy ra ?
Hiện nay nhân công Trung Quốc (có thể là binh lính) ở Vũng Áng là
13.426 người !!!
Bạn nghĩ gì? Âm Mưu Hội Nghị Thành Đô? - Chính quyền CSVN sẽ nói gì về điều nầy?
Những cuộc trở về kỳ bí sau khi bị mất tích cả... trăm năm
Sự trở về của thành viên tàu
Titanic
Ngày 14/4/1912, con
tàu thủy siêu cấp Titanic trong chuyến đi đầu tiên đã gặp nạn do va phải băng,
khiến 1.500 người mất tích. Vậy mà vào giữa năm 1990 và 1991, tại khu vực gần
núi băng Bắc Đại Tây Dương, người ta đã phát hiện và cứu sống hai nhân vật đã
biến mất cùng con tàu Titanic gần 80 năm về trước.
Ngày 24/9/1990, con
tàu Foshogen đang đi trên vùng biển Bắc Đại Tây Dương. Thuyền trưởng Karl đột
nhiên phát hiện một bóng người từ vách núi. Qua kính viễn vọng, ông nhìn rõ một
phụ nữ đang dùng tay ra hiệu cấp cứu. Người phụ nữ này mặc trang phục quý tộc
Anh thời kỳ đầu thế kỷ 20, toàn thân ướt sũng và rét run cầm cập.
Khi được cứu lên
tàu, trả lời câu hỏi của thủy thủ, cô nói: “Tôi tên là Wenni Kate, 29 tuổi, một
hành khách trên con tàu Titanic. Khi tàu đắm, một con sóng lớn đánh giạt tôi lên
núi băng này, thật may mắn là các ngài đã kịp cứu giúp”. Nghe câu trả lời đó,
mọi người đều cảm thấy hết sức kỳ lạ và họ nghĩ rằng có lẽ do sốt cao, cô gái
này đã nói nhảm. Kate được đưa đến bệnh viện để kiểm tra. Sức khỏe của cô không
có gì đáng ngại ngoài việc cô quá sợ hãi do bị lạc nhiều ngày, thần kinh cũng
không có dấu hiệu rối loạn. Các xét nghiệm về máu, tóc, cho thấy cô khoảng chừng
30 tuổi.
Vậy là nảy sinh một
vấn đề khó tin đến kinh người: Chẳng lẽ từ năm 1912 đến nay, trải qua gần 80 năm
mà Kate không hề già đi chút nào? Thẩm tra, đối chiếu với bản danh sách hành
khách trên tàu Titanic, người ta nhận thấy mọi nội dung đều trùng khớp với những
gì Kate nói. Trong khi mọi người đang tranh luận thì sự việc thứ hai xảy
ra.
Ngày 9/8/1991, một
tổ khảo sát khoa học hải dương trong khi khảo sát tại khu vực phía Tây Nam cách
núi băng Bắc Đại Tây Dương chừng 387 km, đã phát hiện và cứu sống một người đàn
ông 60 tuổi. Ông ta mặc bộ quần áo màu trắng, khá gọn gàng, rít sâu điếu thuốc.
Không ai có thể nghĩ rằng đó chính là thuyền trưởng danh tiếng Smith của con tàu
Titanic.
Thuyền trưởng Smit ngày ấy và bây
giờ.
Khó tin hơn nữa là
Smith đến nay đã 140 tuổi nhưng trên thực tế mới chỉ là một ông già 60 tuổi. Khi
được cứu, ông một mực khẳng định rằng hôm đó là ngày 15/9/1912. \
Sau khi được cứu,
ông được đưa đến Viện tâm thần Oslo (Nauy) để chữa trị. Nhà tâm lý học Jale
Halant đã tiến hành hàng loạt thử nghiệm và kết quả là Smith hoàn toàn bình
thường. Ngày 18/9/1991, trong một đoạn tin vắn, Halant khẳng định, người được
cứu đích xác là thuyền trưởng Smith vì ngay việc đối chiếu vân tay cũng đã cho
thấy điều đó.
Trở về nguyên vẹn sau 45 năm mất
tích
Theo hồ sơ của Hải
quân Mỹ, trong chiến dịch Thái Bình Dương thời kỳ Thế chiến II, chiến hạm
Indiana Bolis của Mỹ bị tàu ngầm của Nhật đánh chìm. Khi đó Hải quân Mỹ đã nhận
được tín hiệu cấp cứu của 25 binh lính và sĩ quan rời khỏi chiến hạm bằng thuyền
cứu hộ. Nhưng sau nhiều lần tìm kiếm, vẫn không thể tìm thấy 25 quân nhân kia.
Cuối cùng, quân đội Mỹ đành phải tuyên bố họ đã mất tích.\ \ \
Qua 45 năm mà tất cả binh lính trên con tàu
này đều ngỡ như chỉ mới 1 ngày. \
Tuy nhiên, tháng
7/1991, một đội thuyền đánh cá của Philippines trên hải phận Sibis, phía nam
quần đảo Philippines, đột nhiên phát hiện một chiếc thuyền cứu hộ, trên thuyền
có 25 binh lính đang trong tâm trạng hoảng loạn, mặc dù cơ thể vẫn còn cường
tráng. Phát hiện này làm quân đội Mỹ vô cùng kinh ngạc. Điều khó hiểu hơn cả là
chiến hạm Indiana Bolis bị đánh chìm từ năm 1945 và mãi tới 1991 người ta mới
thấy họ, nhưng họ không hề thay đổi so với trước kia, thậm chí cả râu và tóc...
cũng không dài thêm chút nào. 25 người một mực khẳng định họ chỉ lênh đênh trên
biển một ngày đêm.
Máy bay mất tích 35 năm trở
về
Năm 9/9/1990, trạm
kiểm soát sân bay Venezuela phát hiện một chiếc Douglas (nhãn hiệu thông dụng
thập niên 1930-1940) đột nhiên bay qua. Khi nhân viên sân bay kết nối với họ
“Đây là Venezuela, các bạn từ đâu tới?”, phi công trên máy bay hét lên: “Ôi chúa
ơi, chúng tôi là máy bay 914 Pan American Airways từ Newyork đến Florida. Chúng
tôi phải bay thế nào?”.
Khi xác minh nhật ký
chuyến bay từ Mỹ, mọi người đều hoảng hốt vì tất cả phi hành đoàn cùng 50 hành
khách được cho là đã chết trong chuyến bay số hiệu 914 ngày 2/6/1955. Điều kỳ lạ
là họ trông vẫn y hệt như khi mất tích, trong khi gia đình và những đứa con đều
đã luống tuổi. Khi cảnh sát và các nhà khoa học Mỹ điều tra thẻ căn cước và cơ
thể hành khách chuyến bay thì vô cungkinh ngạc.
Trở về sau 36 năm mà cứ ngỡ 1
ngày\
Năm 1954, trong một
cuộc thi biểu diễn khinh khí cầu tại Bodorigo Saint Juan, chiếc khí cầu của Hary
Rogen và Derick Noidon đột nhiên mất tích. Sau nhiều năm tìm kiếm họ vẫn không
thấy xác chiếc khinh khí cầu bị rơi.
Năm 1990, trong một
cuộc thi khinh khí cầu khác tại Cuba, chiếc khinh khí cầu mất tích 36 năm về
trước đột nhiên xuất hiện tại nơi mà nó đã mất tích năm 1954 trước hàng nghìn
con mắt kinh ngạc của khán giả.
Theo 2 người trên khinh khí cầu thì sau khi
đau buốt toàn thân, tất cả mọi thứ xung quanh đều biến thành màu
đỏ.\
Khi đó người Cuba
cho rằng đây là vũ khí bí mật của Mỹ nên đã cho máy bay bắn hạ khí cầu, còn
Rogen và Derick thì bị đưa đến một căn cứ quân sự.
Tại đây, họ khai
rằng trong cuộc thi khinh khí cầu năm 1954 tại Bodorigo Saint Juan, họ đột nhiên
bị kích thích vào vùng não, toàn thân đau buốt như có một luồng điện chạy qua
người. Tất cả mọi thứ xung quanh từ bầu trời cho đến mặt biển đều biến thành một
màu đỏ. Việc tiếp theo mà họ cảm nhận được là bị một chiếc máy bay chiến đấu tấn
công. Họ không hề biết chỉ trong khoảng khắc màu đỏ ấy mà thời gian đã trôi qua
36 năm.
Bài viết này của
nhà văn Bình Nguyên Lộc đăng lần đầu trên báo Nhân Loại năm 1957, sau
đó được in trong tập truyện Những bước lang thang trên hè phố của gã
Bình Nguyên Lộc, xuất
bản năm 1966. Đây là một tản văn thú vị về tên đường phố Sài Gòn thời
điểm đó, xin mạn phép đăng lại để mọi người cùng nhớ và góp chuyện cho
vui.
(Ảnh minh họa trong bài được sưu tập trên mạng)
Đại lộ Hai Bà Trưng
Đi
trên đại lộ Hai Bà Trưng tôi bỗng sực nhớ lại một điều rồi tủi thân cho
bọn đàn ông của ta. Là hễ đờn ông được danh vọng thì đàn bà cũng thơm
lây, nhưng khi đàn bà nổi danh thì tên tuổi đàn ông chìm sâu thêm.
Đành
rằng ông Thi Sách chỉ có mỗi một cái công nhỏ đối với nước nhà là bị
viên thái thú Tàu giết thôi, nhưng quên mất ông ấy cũng tội.
Vậy
nên tôi đã đi khắp Sàigòn để tìm xem có con phố nào là phố Thi Sách
không ? Có. Hoan hô quí vị đặt tên đường đã nhớ dai hơn nhân dân.
Nhưng
mà tội quá, ông Thi Sách ở mãi bên kia nhà thương Đồn Đất, ở xóm ngoại
nhân, không bao giờ có người Việt bước chân đến. Ông nầy đã chết vì tay
ngoại nhân mà hương hồn ngày nay vẫn lẩn quẩn với ngoại nhân.
Ông
Thi Sách và Hai Bà Trưng chạy song song với nhau cho tới mé nước, và
không bao giờ gặp nhau cả, đó cũng là một điểm đáng buồn cho cặp vợ
chồng ấy.
Ông Nguyễn Thái Học mà còn ngậm cười được vì đã gặp Cô
Giang, Cô Bắc ở hai ngã ba chợ Cầu Muối, đằng nầy ông chồng Bà Trưng chỉ
nghe văng vẳng tiếng bà đâu đó thôi. Bà Sương Nguyệt Ánh cũng không bao giờ đi thăm cha được, vì bà ở xóm Bùi Chu còn cụ đồ lại qui điền mãi tận trên Tân Định.
Vị nữ anh hùng thứ nhì của ta, Bà Triệu cũng bị ta quên mất vì bà cũng ở xóm ngoại nhân, trong Chợ Lớn.
Tuy
nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng đô thành đặt tên rất khéo, Công chúa
Huyền Trân ở một căn phố buồn hiu, sau dinh Độc Lập, buồn như con đường
thiên lý ngàn dặm băng rừng đưa công chúa từ Việt sang Chiêm.
Còn
cái phố có nhiều tiệm mì, tiệm ăn và tửu lâu trong Chợ Lớn mà đặt tên
là phố Tản Đà thì tuyệt diệu bởi vì Tản Đà không phải là thi sĩ mà thôi,
lại còn là thực sĩ nữa.
Chợ Bình Tây
Nếu
đô thành có bất công chút ít, chẳng qua là vì quên đó thôi. Chẳng hạn
như ông Phan Huy Chú được nêu danh trong Chợ Lớn mà ông Phan Huy Vịnh
lại không.
Đô thành lại trọng văn nghệ lắm. Không có nhà văn, nhà
thơ nào ngày xưa mà không được lấy tên đặt tên phố cả, khiến lũ văn
nhân thi sĩ hậu sanh là ta đây cũng nức lòng muốn cố gắng để có thể
được biệt đãi như thế về sau.
Chỉ phiền văn nhân thi sĩ của thế hệ ta đông quá, mà đường phố chỉ có hạn thôi, dễ gì tìm được một chỗ “mần”.
Có
một điều đáng chú ý là họ Nguyễn chiếm đa số trong các phố Sàigòn. Dân
tộc ta họ Nguyễn cũng như dân tộc Pháp họ Dupont vậy mà !
Đại lộ Nguyễn Huệ
Một
người Pháp quen biết kể chuyện rằng thuở Đức chiếm đóng nước Pháp, một
khi kia quân đội Đức bố ráp ở một ngoại ô nhỏ tại Ba Lê để bắt ông
Dupont nào đó. Cuộc bố ráp thi hành xong thì chúng bắt được tất cả tám
trăm mười bảy ông Dupont, vừa già, vừa trẻ, đó là chúng đã loại trừ
những cậu Dupont oắt con ra rồi đó.
Một cựu thông ngôn nhà binh
Pháp ở đây cũng kể rằng một khi kia Pháp ruồng bố ở làng nọ để bắt
Nguyễn Thị Hai nào đó. Chỉ một làng ấy thôi, mà họ đã bắt đến bốn mươi
tám Nguyễn Thị Hai chẳn chòi.
Vậy thì họ Nguyễn chiếm đến 55 con
phố ở Sàigòn – Chợ Lớn không phải là chuyện lạ. Đó là chưa kể những bà
Sương Ngyệt Ánh v.v… cũng là họ Nguyễn mà không nêu họ ra. Bà Đoàn Thị
Điểm cũng có người bảo thật ra là Nguyễn Thị Điểm, và biết đâu cô Giang,
cô Bắc lại không là họ Nguyễn.
Họ Nguyễn được ưu đãi như thế,
còn họ Tô không biết vì sao lại ra rìa. Năm kia trên Hòa – Hưng có một
con phố tên là Tô Hiến Thành. Năm nay không thấy tên phố đó nữa.
Ngoại
nhân có công với dân tộc cũng được nêu danh, cho công bằng. Nhưng không
hiểu ông J.J Rousseau có công trực tiếp gì với dân tộc ta. Còn ba ngoại
nhân khác rất có công là Tích Quang, Nhâm Diên, và Sĩ Nhiếp lại vắng
bóng.
Đường Lê Thánh Tôn
Đường Phạm Ngũ Lão
Sàigòn
có một con phố cong queo một cách rất ngộ nghĩnh, được đặt tên là phố
Cống Quỳnh. Thật là khéo, vì cách lập luận và hành động của ông Cống
Quỳnh cũng cong cong quèo quẹo như con phố kỳ dị ấy.
Tiếc rằng Cống Quỳnh có lẽ chỉ là một nhân vật tưởng tượng thôi.
Sàigòn đặc biệt vì có phố không vỉa hè, thí dụ đoạn phố Đề Thám trước dãy nhà cũ đối diện với hông nhà thờ Tin Lành.
Thật
ra thì có một vỉa hè rộng độ tám tấc, nhưng đã lì xuống bằng với mặt
đường, ô tô tha hồ leo lên và người đi bộ rất lắm khi phải nhảy vào nhà
người ta để thoát chết.
Lại
có vỉa hè mà người đi bộ không được xử dụng, thí dụ vỉa hè Cô Giang tại
chợ Cầu Muối. Người đi bộ ở đoạn nầy hễ xuống đường thì bị xe cán, còn
lên lề thì bị mấy chị bạn hàng đuổi, vì mấy chị mướn vỉa hè ấy có đóng
tiền chỗ đàng hoàng.
Thành ra qua đoạn đường đó y như là qua cầu đoạn trường, lên lề thì đoạn tâm, còn xuống thì đoạn cẳng.
Có
lắm vỉa hè công khai dùng làm ga-ra, nói công khai vì xe để trên ấy nằm
đó năm nầy qua năm khác mà không sao cả. Thế nên chỉ mướn một căn phố
bé nhỏ thôi mà người ta có thể mở ga-ra to là nhờ vậy.
Nói
đến vỉa hè không thể không chú ý đến những vỉa hè mức độ khác nhau,
khách đang đi bỗng sụp chơn suýt ngã. Ấy, nhà bên nầy xây cao một tấc
năm, nhà bên kia chỉ xây một tấc thôi mà. Vì mạnh ai nấy xây vỉa hè nên
vỉa hè lại mang đủ màu sắc, có quãng xanh, quãng vàng, quãng xám, và lại
kiến thiết bằng đủ cả vật liệu : gạch xi-măng, xi-măng trắng, gạch thẻ,
gạch Tàu, nhựa, đá ong. Sợ nhứt là vỉa hè đá ong trên đường Thủ Khoa
Huân. Đá ong lổm chổm khiến bộ hành không lọi chân cũng trặc cẳng.
Nếu đô thành tự làm lấy vỉa hè rồi bắt người ta trả tiền thì tình trạng nầy đã không có.
Bình Nguyên Lộc
Nhân Loại - 1957
*
Bình Nguyên Lộc (7 tháng 3 năm 1914 - 7 tháng 3 năm 1987), tên thật là Tô Văn Tuấn, là một nhà văn lớn, nhà văn hóa hóa Nam Bộ
trong giai đoạn 1945-1975. Ngoài bút danh Bình Nguyên Lộc, ông còn có
các bút danh Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn, Tôn Dzật Huân, Phóng Ngang, Phóng
Dọc, Diên Quỳnh...
Lời nói đầu: Sau
khi viết xong loạt bài “Cây Đa Lối Cũ, Gọi Hồn Người Xưa”, người viết
đã có dịp đọc thêm nhiều bài viết về Tâm Linh của các tác giả Tây Phương
và Ðông Phương. Tôi đọc say mê vì có nhiều khoa học gia và nhà ngoại
cảm Tây Phương đã mô tả một số hiện tượng khá giống với những gì tôi đã
cảm nhận được khi đang thức cũng như khi đang ngủ.
Đây
là một đề tài vừa rộng lớn, vừa mơ hồ vì còn nhiều vấn đề chưa có thể
chứng minh một cách cụ thể được dựa theo nền tảng khoa học hiện tại của
loài người. Tôi có cảm tưởng là mình giống như là một ông thầy bói mù
đang sờ chân một con voi khổng lồ để mà “đoán quẻ” về hình dáng, kích
thước và cuộc đời, số mạng của con voi đó. Vì vậy mà cứ chần chờ trước
khi viết loạt bài này về Tâm Linh
Dựa
theo một số những kinh nghiệm tâm linh của chính bản thân và những gì
mà tôi đã đọc được trong những tài liệu của phương Ðông và phương Tây về
linh hồn, vong linh, cõi vô hình, tái sinh, luân hồi, gọi hồn… tôi mạo
muội viết ra loạt bài này. Bài viết còn có nhiều thiếu sót, nhiều chỗ
chưa hiểu rõ hay hiểu lầm… xin qúy vị rộng lòng thứ lỗi cho. Người viết
sẽ rất hoan hỉ khi nhận được những ý kiến xây dựng của quý vị độc giả
những mong học hỏi thêm được và để cải tiến bài này trong tương lai. Xin
Quý Vị viết email về phandam99@... cho người viết.
Xin
cứ coi như đây là bài viết mở đầu để chúng ta cùng học hỏi thêm trong
tương lai. Trong tinh thần “vạn sự khởi đầu nan”, xin mời quý vị vào
đọc…
PHẦN 1:
TRÍ ÓC VÀ LINH HỒN
Phần
lớn chúng ta thường thắc mắc với câu hỏi: “Linh hồn là gì? Làm sao ta
‘thấy’, ‘sờ mó’ được nó? Sau khi ta chết, ta sẽ ra sao?”
Quan
niệm về “linh hồn”, cái chết rất là trừu tượng, mơ hồ. Vì chúng ta
không “thấy” và “sờ mó” được chúng, không làm thí nghiệm về “linh hồn”
và “cái chết” một cách cụ thể cho nên chúng ta khó có thể tin được những
điều mà sách vở, báo chí viết về chúng vì con người đã được nuôi nấng,
giáo dục… dựa trên nền tảng của khoa học hiện tại. Hay cũng vì khoa học
hiện tại hãy còn thiếu sót nhiều trong sự hiểu biết về những hiện tượng
siêu hình, tâm linh?
Xin
mạn phép bắt đầu bằng một vài định nghĩa căn bản dựa theo tự điển của
vài từ ngữ thông dụng trước khi chúng ta đi vào chi tiết của khoa
Cận-Tâm-Lý-Học (Parapsychology, Para có nghĩa là “gần giống/gần như”).
Tâm-Lý-Học
(Psychology, viết tắt là TLH): Khoa học về trí óc (mind) và phẩm hạnh /
tác phong con người (behaviour). Mục đích là để tìm hiểu về phẩm giá
con người và những diễn biến của trí óc bằng những công cuộc khảo cứu
nghiêm túc để đưa đến những nguyên lý và những trường hợp ngoại lệ.
Các
nhà tâm lý học nghiên cứu về phần nhận thức tri giác (perception),
khiếu nhận thức (cognition), lòng chuyên tâm (sự chuyên chú, tiếng Anh
là attention), tình cảm hay cảm xúc (emotion), hiện tượng học
(phenomenology), sự hứng khởi (motivation), chức năng của óc (brain
functioning), nhân cách (personality), tác phong (behaviour), cách giao
tiếp (interpersonal relationships) của con người.
Người viết xin đóng góp ý kiến thô thiển dưới đây:
Nhờ
sự nghiên cứu sâu rộng và chứng minh dựa theo phương diện thuần lý
(rational) mà các nhà Toán Học đã khám phá ra được nhiều quy luật
(principle, theory), nhiều phương trình thuần lý (rational formulas) thí
dụ như phương trình Toán Học. Tuy nhiên trong lĩnh vực Khoa Học Ứng
Dụng, Khoa Học Kỹ Thuật…. nhiều nhà nghiên cứu đã phải tốn công sức dùng
cả phần lý trí lẫn phần trực giác (cảm nhận) nhậy bén để làm nhiều thí
nghiệm và họ đã thành công kiếm ra được nhiều phương trình phức tạp bao
gồm nhiều yếu tố khác nhau mà thoạt đầu không có thể chứng minh trên
phương diện thuần lý được. Những phương trình này được mệnh danh là
những phương trình thực nghiệm (empirical formulas) - thay vì phương
trình thuần lý (rational formulas) - dựa theo phần hiểu biết qua cảm
xúc. Các phương trình thực nghiệm này đã được xác nhận là “hữu lý, hữu
tình” trên phương diện phần thuần lý (rational, logical) cuả trí tuệ con
người phân tích những hiện tượng thiên nhiên.
Nhiều
hiện tượng tâm linh (như Gọi Hồn,Tìm Mồ Mả …), trên phương diện “thuần
lý”, nghe ra có vẻ “phản khoa học” và khó mà giải thích được. Người viết
cho rằng nền khoa học hiện đại còn thiếu sót nhiều hiểu biết, nhiều
“quy luật” liên quan tới phần trí óc, linh hồn, thế giới tâm linh cho
nên chúng ta đang “sờ chân con voi” để mà “đoán quẻ”, có khi còn phản
bác nữa. Hy vọng rằng chẳng bao lâu nữa, nhân loại sẽ tiến xa trong lĩnh
vực siêu hình này để chúng ta có thể giải thích hay chứng minh được
những hiện tượng tâm linh cho “hợp lý, hợp tình” dựa theo nền tảng khoa
học mới mẻ này.
Khoa
Tâm- Lý- Học đã cải tiến quan niệm về danh từ “Thông Minh” của con
ngưòi. Thoạt đầu, Thông Minh chỉ được “nhìn” hay “hiểu” qua phương diện
“đầu óc / trí khôn” (mind) rồi sau đó “Thông Minh” được bổ túc thêm trên
phương diện “cảm xúc” (emotion) và gần đây, “Thông Minh” con người còn
được nhìn nhận qua phần “Tâm Linh/ Luật Trời” (spirituality) nữa. Tôi
muốn nói đến phần: Thông Minh về Trí Óc thiên về lý luận (Intelligence
Quotient – IQ), Thông Minh về Cảm Xúc (Emotional Intelligence – EQ) và
Thông Minh về Tâm Linh (Spiritual Intelligence – SP) mà tôi đã đề cập
đến trong bài viết “Chữ Tâm Kia Mới Bằng Ba Chữ Tài”:
Nhân
loại đã chứng kiến nhiều hiện tượng bí hiểm (mystic), thần kỳ
(miraculous)…nghe ra rất là “phản khoa học”. Nhiều người không tin vào
những hiện tượng này và cho rằng đó là phần “mê tín dị đoan” trong khi
đó những hiện tượng lạ lùng, khó hiểu này vẫn tiếp tục xẩy ra cho nhiều
người khác nhau khiến cho một số nhà khảo cứu (researchers) trong bộ môn
Tâm Lý Học bắt đầu để ý tới và họ đã học hỏi và nghiên cứu thêm. Vì
những hiện tượng lạ lùng này “chẳng giống ai” trong lĩnh vực
“Tâm-Lý-Học” nên bộ môn Cận-Tâm-Lý-Học (CTLH, Parapsychology) được ra
đời vào thập niên 30. Thuở ban đầu, CTLH bị nhiều người không tin tưởng
(nhất là các khoa học gia trong ngành Vật Lý thiên về thuần lý/pure
logics) cho lắm, một phần cũng là vì nó liên quan tới phần bói toán,
ngồi đồng, phù thủy… có tính cách dị đoan và làm tiền thiên hạ.
Tuy
nhiên bộ môn CTLH, song song với TLH cùng với một số tôn giáo khác
nhau, đã làm sáng tỏ một số vấn đề về linh hồn, chết đi về đâu, giác
quan thứ sáu, tái sinh, luân hồi, thần thức …Theo GS Robert Schoch (1),
trong thập niên 60, cơ quan tình báo CIA đã thúc dục chính phủ Hoa Kỳ
chạy đua với Liên Sô về những nghiên cứu và áp dụng khoa Cận Tâm-Lý-
Học và từ đó, nhiều khoa học gia đã bắt đầu tìm hiểu nhiều hơn về tâm
linh và ngoại cảm (soul, spirit/spirits, psyche, psi, extra sensory
perception hay ESP…).
Theo
quan niệm đương thời của khoa học, phần Tâm Trí/ Đầu Óc (consciousness)
của con người xuất phát từ những chức năng (functioning) của phần vật
thể hữu hình (material) của con người:óc (brain), thân thể (“thân tứ đại” theo quan niệm Phật Gíáo, body) và hệ thống thần kinh (nervous systems) mệnh danh là phần Óc-Thân-Hệ Thống Thần Kinh (tiếng Anh viết tắt là BBNS).
Tâm Trí
(Mind) của con người, mặc dù không ở thể rắn/cứng (solid) như những
phần khác của cơ thể, nhưng nó được tạo ra bởi chức năng điện-hoá
(electrochemical functioning) của BBNS và phần Tâm Trí/ Đầu Óc/ Thức vô hình (Consciousness) này.
Khi
phần “thân xác” (body) “chết” (không tồn tại nữa), phần BBNS cũng bị
hủy diệt và phần Tâm Trí/ Đầu Óc/ Thức (Consciousness) cũng không còn
tồn tại nữa. Tuy nhiên, dựa theo những khảo cứu về những hiện tượng CTLH
trong nhiều quốc gia với các nền văn hóa khác nhau (Tây Phương cũng như
Đông Phương), phần Tâm Trí Vô Hình (Mind) của con người còn có thêm phần siêu hình không thật sự hoàn toàn giống như phần BBNS của thân xác. Có nghĩa là trong phần Tâm Trí Vô Hình này còn có sự hiện hữu của phần “Linh Trí /Vong Hồn” (spirit) nữa.
Phần “Linh Trí/ Vong Hồn” này không phụ thuộc
vào chiều Không Gian (3 chiều: dài, rộng, ngang; theo Toán Học được
mệnh danh là các chiều x, y, z) và chiều Thời Gian (t), vì vậy mà phần “LinhTrí Vô Hình/ Vong Hồn” sẽ vẫn còn tồn tại, sau khi cái “thân tứ đại” đã biến mất trong không gian và thời gian (4 chiều/ dimensions: x,y,z,t ).
Theo nhà văn Rich Anders (2), trong mỗi con người, có hai loại Năng Lượng (Energy):
1. Năng lượng của vật thể (NLVT, Energy of matter)
2. Năng lượng đằng sau vật thể (NLĐSVT, Energy behind matter) mà tôn giáo mệnh danh là Năng Lượng Cõi Không (NLCK, Quantum Vacuum) hay Năng Lượng Tâm Linh (NLTL, Spiritual Energy).
NLVT xoay vòng từng giai đoạn khác nhau giữa trạng thái năng lượng và vật thể.
NLĐSVT/
NLTL rất khác với NLVT; nó hoàn toàn hiện hữu trong trạng thái năng
lượng, và nó không phải lệ thuộc vào chiều (dimensions) không gian và
thời gian.
Trong
phạm vi năng lượng thuần túy này, NLTL có thể điều khiển được phần NLVT
và hai phần Năng Lượng này có thể quyết định những gì sẽ xẩy ra trong
trạng thái vật thể (matter phases) giống như phần phần mềm (nhu liệu,
softwares) điều khiển phần cứng (hard ware) của máy điện toán vậy. (2A)
Ðể làm sáng tỏ khái niệm về danh từ “Năng Lượng”,
xin lấy một thí dụ cụ thể: ta đang đói và mệt mỏi ngồi trong phòng
khách. Một ý tưởng lóe ra trong đầu: ra tủ lạnh lấy đồ ăn, thức uống mà
ăn uống cho đỡ đói. Phần “Ý nghĩ” (NLÐSVT) này ra lệnh cho phần “thân thể”
(NLVT) để mà cái thân xác ta đi tới mở tủ lạnh lấy thức ăn, đồ uống rồi
ta ngồi xuống ăn uống. Ăn xong, ngồi nghỉ một lát, ta thấy khỏe khoắn:
không còn đói nữa và thân thể thấy bớt mệt. Tại sao vậy? Xin thưa: là vì
cơ thể đã được bồi dưỡng thêm sinh lực (năng lượng, energy) từ đồ ăn,
thức uống (physical matter). Ðồ ăn, thức uống đã được đổi dạng từ thể
rắn/cứng (solid matter) sang thể năng lượng vô hình trong 4 chiều
(x,y,z,t) của Cõi Trần.
Phần
năng lượng tâm linh (NLTL, Spiritual Energy/Quantum Vacuum) trong con
người lúc sinh thời luôn luôn ở trong trạng thái “sẵn sàng làm việc” và
nếu không có sự chỉ huy của phần năng lượng tâm linh này, thân thể con
người tự nó chẳng biết quyết định hay làm được gì hết. Từ đó, chúng ta
có thể hợp lý, hợp tình mà cho rằng phần năng lượng tâm linh là cái “cốt lõi siêu hình/ vong linh”(spirit) của con người.
Giáo sư Triết Học Stephen Schiffer (3) cho rằng sự khác biệt giữa phần óc bên trái (phần “Thức”, Conscious) và phần óc bên phải (phần “Vô Thức”, Unconscious) được tạo ra giống như một cái máy điện toán sinh vật học vậy (biological computer).
Chúng ta có thể so sánh phần “Thức” của khối óc tương đương với phần “máy” (processor) và phần “trí nhớ” (memory) của máy điện toán; trong khi đó phần “Vô Thức” của khối óc tương đương với phần “cứng” (hard drive) / phần “chứa” (storage) của máy điện toán. (3A)
Như vậy, mỗi con người có 2 phần khác nhau trong trí óc (mind): Thức và Vô Thức. Hai phần này sẽ tạo ra phần nhân cách (personality)
của con người. Khi đứa trẻ mới sinh ra, đầu óc đứa bé hoàn toàn trong
trắng (blank); dần dà khi nó khôn lớn, phần “Thức” và “Vô Thức” sẽ phát
triển và tạo dựng ra năng khiếu con người (skills).
Phần “Vô Thức” (unsconscious) của Trí Óc (mind) là phần “Vong Hồn /Vong Linh” (spirit) của con người và phần này chứa đựng tất cả những “di sản” (xấu và tốt, data) tích tụ từ các tiền kiếp (previous lifetime).Những“tài
sản/ di sản” này gồm có những năng lượng tâm linh (spiritual energies)
còn được mệnh danh là năng lượng cõi không (quantum vacuum) như tôi đã
đề cập đến.
Mỗi lần phần não bộ “Thức” (não bộ bên trái) suy nghĩ hay dự tính một điều gì, phần não bộ “Vô Thức”
(não bộ bên phải) đi kiếm dữ kiện (information) được chứa trong kho
tàng Năng Lượng Tâm Linh và gửi ngay sang phần não bộ “Thức” bằng những
cảm giác (feelings) và những hình ảnh (images). Câu trả lời được gửi đi
ngay tức thì vì không có yếu tố thời gian (no time dimension) trong cảnh
giới tâm linh (spiritual realm time dimension). Não bộ bên trái (phần
“Thức”) có thể ví như là “Bộ Chỉ Huy” vậy.
Dựa
theo quan niệm trên, trong khoa Cận Tâm-Lý-Học, chúng ta có thể định
nghĩa “linh hồn”, “vong linh” và “ma” một cách giản dị như sau:
- Linh hồn (soul) là phần “hồn” của người đang còn sống, gồm có phần “Thức” và phần “Vô Thức”.
- Vong linh/Vong hồn (spirit):
Khi con người qua đời, phần “Thức” của thân xác bị hủy diệt nhưng phần
“Vô Thức” vẫn còn tồn tại trong Thế Giới Bên Kia / Cõi Vô Hình/ Thế
Giới Cõi Âm/ Âm Phần.
Phần “Vô Thức” này là “Vong Linh/Vong hồn” (spirit) của người quá cố.
- Gọi Hồn/ Cầu Hồn/ Áp Vong/ Lên Ðồng (Mediumship, Channeling, Trance):
Các nhà ngoại cảm (mediums, channelers) có khả năng ngoại cảm (Extra
Sensory Perception, ESP) để “đón mời và đón nhận” vong linh của người
quá cố về đối thoại (communicate) với người trần gian (sitter) đang muốn
giao tiếp với “người” Cõi Âm (spirit).
- Ma (Ghost):
Thường thì các vong linh tồn tại trong thể khí (ether) nhưng khi vong
linh có thể hiện hình (apparition) từ thể khí, người trần có thể nhìn
thấy được mờ mờ, ảo ảo. Nhiều nhà ngoại cảm có khả năng đặc biệt nhìn
thấy vong linh (clairvoyance), nghe được tiếng nói (clairaudience), cảm
nhận được những xúc cảm (clairsentience) của vong linh trong Cõi Vô
Hình.
Tài liệu tham khảo:
(1)
TS Robert Schoch, Giáo sư về Ðịa Chất Học tại Boston University, Hoa
Kỳ. Ông là tác giả và đồng tác giả của nhiều cuốn sách và các bài nghiên
cứu về kim tự tháp, các nền văn minh cổ. Cuốn sách “The Parapsychology
Revolution” của ông đã được nhiều người biết tới.
(2)
Nhà văn Rich Anders sinh quán tại Áo Quốc. Ông theo học tại Rollins
College, Florida, Hoa Kỳ và University of Viennạ, Áo quốc. Ông chuyên
môn viết các đề tài thiên về thế giới hữu hình (physical world) và thế
giới tâm linh (spiritual world). Ông là tác giả của những cuốn sách sau
đây: The end of the world – Then what? ; God’s Ultimate Task; Kennedy
Saga; Terror from Heaven.
(3)
Tiến Sĩ Stephen Schiffer, Giáo Sư Triết Học tại New York University.
Ông thường hay viết về Triết học của Ngôn ngữ, Triết học của Trí óc, Vật
Lý Siêu Hình (Metaphysics)
Tuy
rằng tôi đã đọc được nhiều câu chuyện Phật Giáo liên quan tới linh hồn,
vong linh, ma, quỷ, tái sinh, luân hồi…nhưng tôi chưa thực sự tin vào
những hiện tượng này được. Có lẽ một phần vì trong cuộc đời tôi đã gặp
nhiều cảnh “trông vậy mà không phải vậy”. Có lẽ một phần cũng vì tôi
được đào tạo trong môi trường khoa học kỹ thuật: tôi chỉ tin được những
gì tôi có thể tự kiểm chứng được mà thôi. Thú thực là trước khi gọi hồn
tại Hà Nội vào cuối tháng 12 năm 2005, tôi vẫn “bán tín, bán nghi”. Vợ
chồng tôi đi gọi hồn và tôi tham dự cũng là do phần hiếu kỳ: tôi muốn
được mắt thấy tai nghe cách cúng vái, cuộc đối thoại giữa Cô Đồng
(medium) được vong linh (spirit) của cõi Âm (âm phần) “nhập vào” rồi nói
chuyện trực tiếp với chúng tôi (sitters).
Tôi
tự quay video tất cả những đoạn “hồn về” với vẻ mặt và dáng điệu của Cô
Đồng, nhất là những lúc “người Âm” nói chuyện với “người Dương” qua Cô
Đồng. Rất may mắn là tôi đã thu âm khá rõ ràng những đoạn Cô Đồng nói
chuyện với 6 người trong nhóm chúng tôi đang có mặt lúc đó. Trong số 22
người cõi Âm “về”, vẻ mặt và phần di động hai tay của Cô Đồng đều thay
đổi theo từng vong linh một. Tôi đoán rằng, khi vong linh/ vong hồn
(spirit) của người cõi Âm nhập vào Cô Đồng, phần “personality” (nhân
cách) của vong linh đó đã ít nhiều thể hiện qua nét mặt Cô Đồng và qua
những động tác hai tay của Cô Đồng.
Khi
mẹ tôi và bà tổ cô của tôi “về”, vẻ mặt Cô Đồng rất bình thản, Cô Đồng
ngồi an nhiên tự tại; có lẽ là vì hai vị này đã lìa trần lâu rồi (mẹ tôi
mất năm 1955, lúc sinh thời mẹ tôi thường an nhiên và sẽ sàng. Bà tổ cô
của tôi mất đã khoảng 100 năm) và đã tu lên được nhiều cấp cao? Khi anh
tôi “về” (anh mất năm 1945 khi mới 6 tuổi), vẻ mặt Cô Đồng rất láu lỉnh
nhất là khi Cô Đồng cười và những câu hỏi có tính cách trẻ con. Khi
thân phụ tôi “về”, vẻ mặt Cô Đồng rất ưu tư, giống như khi cụ đang sống
với tôi tại Canada trong thời kỳ 1975-1978. Thời buổi này, cụ đau buồn
nhiều, nhất là mỗi khi nhớ tới gia đình của chị gái tôi và gia đình của
anh trai tôi còn mắc kẹt tại Việt Nam. Khi vong hồn cụ nhắc tới hai con
đứa trai tôi qua lời Cô Đồng, tôi cảm nhận được sự trìu mến của ông nội
đối với hai đứa cháu trai của cụ.
Bốn
vị trong cõi Âm này đã hỏi tôi nhiều điều rất riêng tư, ăn khớp với sắc
mặt của Cô Đồng. Cô Đồng không thể nào đóng kịch được vì cô ta không
thể biết những câu chuyện riêng tư của chúng tôi. Mà cho dù Cô Đồng có
thể “phịa” được một vài câu chuyện hay đọc được những điều trong tâm
thức của tôi, Cô Đồng cũng “không đủ bản lĩnh” để mà “đóng kịch” qua nét
mặt và những cái vung tay, xoa mặt, gãi đầu được.
Từ
đó, tôi suy đoán ra rằng vong linh/vong hồn của người quá vãng đã nhập
vào đầu óc của Cô Đồng để “ăn khớp” (synchronize) với vẻ mặt và điệu bộ
tay chân (Cô Đồng ngồi xếp vòng tròn). Sau nhiều lần suy nghĩ, tôi nghĩ
ra giả thuyết này: Vong linh (hay Âm linh, vong hồn, spirit) của người
cõi Âm có thể ví như là phần Mềm (software) của máy điện toán đã nhập
vào thân xác của Cô Đồng (được ví như “phần cứng” của PC, vì cô ta có
khả năng “mời mọc” vong linh đó). Có lẽ nhờ những khả năng thiên phú
(thân xác và linh hồn; body, soul) của Cô Đồng hoạt động trong một
khoảng tần số (frequency range) gần giống với khoảng tần số của phía Âm
cho nên phần Mềm đã làm cho phần Cứng của máy điện toán chạy được. Nhờ
vậy mà vong hồn (spirit) người Cõi Âm mới “về Cõi Trần” nói chuyện với
người trần (sitter) qua thân xác Cô Đồng/ nhà ngoại cảm (medium) được.
Tôi
cảm thấy vui thú khi đọc quan niệm của giáo sư Stephen Schiffer khi ông
ví von về phần óc bên trái (phần “thức”) và phần óc bên phải (phần “vô
thức”) giống như hai bộ phận phần Mềm (nhu liệu, software) và phần Cứng
(hardware) làm máy điện toán chạy và làm việc như ý muốn của người viết
“software” vậy. Ðiều này tôi đã trình bầy trong Phần 1.
Gần
đây hai danh từ “ngoại cảm” (extra sensory perception, ESP) và “nhà
ngoại cảm” (medium) thường hay được nhắc đến trong khoa Cận-Tâm-Lý-Học.
Như vậy khoa Cận-Tâm-Lý-Học là gì và nó bao quát ra sao?
Cận-Tâm-Lý-Học
là một bộ môn khảo sát về những sự việc bất bình thường
(unusual/paranormal events) xẩy ra trong đời sống người cõi Dương (human
experience).
Những
diễn biến này liên quan tới khả năng tâm linh (psychic abilities), kinh
nghiệm cận tử (do người chết đi, sống lại kể lại những kinh nghiệm khi
đi vào “thế giới bên kia”, near-death experiences), xuất hồn
(out-of-body experience), ma hiện hình (crisis apparition), tái sinh
(reincarnation), trở về tiền kiếp qua thôi miên (regression memories),
hồn ma (ghosts), đời sống sau khi chết (life afterdeath, hereafter).
Vì
bộ môn Cận-Tâm-Lý-Học rất bao quát - liên quan tới Triết học, Toán học,
Vật Lý học, Tâm Lý học, Sinh Vật học,… cho nên người viết xin mạn phép
trình bầy nội dung của CTLH qua 3 khía cạnh chính dưới đây liên quan
tới:
1.0 Khả năng tâm linh của con người (PSI capacities)
2.0 Vong hồn và kiếp sau (spirits, survival)
3.0 Những tiết mục khác (miscellaneous)
Mỗi
đề mục trên lại có những chi tiết khác nhau. Trong phần viết sau đây,
xin mạn phép để người viết trình bầy các danh từ tiếng Anh trước và phần
tiếng Việt ở đằng sau để quý vị dễ phần tham khảo. Người viết đã gặp
nhiều khó khăn trong phần tìm kiếm các danh từ chuyên môn trong Việt Ngữ
tương đương với các danh từ Anh Ngữ trong ngành Cận-Tâm-Lý-Học.
1.0 KHẢ NĂNG TÂM TRÍ/TÂM LINH CON NGƯỜI (PSI capacities)
Khả
năng Tâm Trí/Tâm Linh con người liên qua mật thiết tới phần Ngoại Cảm
(extra sensory perception, ESP) và Thần Lực (Psychokinesis) mà tôi sẽ mô
tả dưới đây:
1.1 Extra sensory perception (ESP, Ngoại Cảm, Giác Quan Thứ Sáu)
Con
người ngoài 5 giác quan chính (nhìn, nghe, ngửi, sờ mó, nếm) còn có
thêm giác quan thứ sáu được mệnh danh là giác quan ngoại cảm (extra
sensory perception, ESP). Giác quan này được cảm nhận qua phần Trí Óc
(mind). Ai cũng có phần ESP này, chỉ khác nhau là nó mạnh hay yếu mà
thôi.
Nhờ khả năng ngoại cảm (ESP) này mà con người có thể có:
- Khả năng thần giao cách cảm (telepathy),
- Khả năng nhìn thấy trong đầu óc những sự việc ở xa và bị cách trở (tiếng Anh là clairvoyance),
- Khả năng mơ ngủ thấy trước những diễn biến trong tương lai (precognition).
1.1.1 Telepathy (Thần Giao Cách Cảm)
Đây
là cách thông tin trực tiếp từ trí óc người gửi thông điệp tới trí óc
người nhận thông điệp đó mà chẳng cần đến thư từ, điện thoại, internet….
Chính bản thân người viết cũng đã có kinh nghiệm về Thần Giao Cách Cảm (TGCC, Telepathy) như sau.
Năm
1977, trong một đêm khuya khi đang ngủ, tôi “nhìn” thấy chị dâu của tôi
(vợ của anh cả chúng tôi) ăn mặc áo đại tang. Trong giấc mơ, tôi có cảm
giác như đó là một bóng ma đang đi tới chỗ tôi đang nằm ngủ. “Bóng ma”
nói với tôi:
- Chú há miệng ra để tôi cho chú ngậm thứ này!
Tôi sợ toát mồ hôi và bỗng đâu, tôi thấy mẹ tôi hiện ra, đứng ngay bên cạnh tôi và nói với “bóng ma”:
-Tôi xin chị ngưng ngay việc này. Em nó sợ quá rồi!
Tôi
giật mình thức giấc và cả đêm hôm đó, tôi không tài nào ngủ tiếp được
nữa. Vài hôm sau, tôi nhận được thư của anh chị tôi gửi từ bên trại
Songkhla, Thái Lan báo tin cho tôi biết là đứa con trai thứ hai của anh
chị (cháu trai của tôi) đã bị chết đuối trong một chuyến vượt biên. Gia
đình anh chị tôi đang mong ngóng được đi định cư tại Bắc Mỹ và muốn nhờ
vợ chồng chúng tôi bảo lãnh. Hóa ra gia đình anh chị cả của chúng tôi
đang để tang cháu trai của tôi!
Năm
2004, khoảng sau 7 giờ tối một hôm Thứ Sáu, vợ chồng chúng tôi lái xe
vào một cái “shopping plaza”. Vợ tôi (BN) vào một hiệu giầy để thăm hỏi
cặp vợ chồng bạn đang bán giầy và tôi đi vào hiệu bán “computer” ngay
bên cạnh. Tôi sẽ sang hiệu giầy để đón BN sau khi đã lấy “computer” mà
tôi đã đặt mua từ buổi sáng hôm đó. Chẳng may khi vào bên trong hiệu bán
PC, tôi “gặp nạn”: kẻ cướp đang ăn cướp tiền bạc và các máy “laptop”.
Chúng trói tay, trói chân tôi và bịt miệng tôi bằng băng keo dán ống
nước. Tôi là nhân vật thứ 6 bị chúng trói và bịt miệng. Khi sự việc mới
xẩy ra, tôi cứ ngỡ rằng mình đang coi TV thấy anh chàng Ninja đang trói
người (mà người đó lại là chính tôi!) Sau khi chúng đã bắt tôi nằm trên
sàn của nhà vệ sinh, tôi mới “tỉnh ngủ” và cảm thấy rất lo âu, sợ hãi:
nếu BN đợi lâu mà không thấy tôi đến đón, BN sẽ “lò dò” vào hiệu PC kiếm
tôi. Dĩ nhiên là kẻ cướp sẽ trói tay vợ tôi cũng như chúng đã trói
chúng tôi vậy. Khi trói tay BN, kẻ cướp sẽ thấy ngay cái nhẫn kim cương
của nàng và chúng sẽ ăn cướp ngay cái nhẫn đắt tiền đó. BN sẽ to tiếng,
phản kháng và đây là điều mà tôi lo sợ nhất. Kẻ cướp sẽ bạo hành với BN
vì chúng đang ở trong thế “panick” (vội vã, lo sợ cảnh sát đến bất ngờ,
tôi đã nghe chúng thúc dục nhau vơ vét cho nhanh trước khi cảnh sát ập
tới). Nếu có điều gì xẩy ra cho BN, tôi sẽ “nhẩy vào vòng chiến” tuy
rằng cả hai tay lẫn hai chân đều bị trói. Hai vợ chồng chúng tôi sẽ là
nạn nhân trước tiên và có thể cả bọn chúng tôi còn lâm nạn nữa. Nghĩ
vậy, tôi bèn thở ra hít vào vài phút (một lối “thiền” nhanh chóng) rồi
nhắm mắt và nói trong đầu: “BN, anh đang bị bọn cướp trói chân tay trong
hiệu bán “computer”. Em không nên sang kiếm anh làm gì, nguy hiểm lắm,
cứ ở lại hiệu bên đó đi”. Tôi tiếp tục gửi tín hiệu này rất nhiều lần.
Rất
may mắn là BN không hề xuất hiện trong hiệu bán PC. Sau này, vợ tôi cho
biết là đã 3 lần nàng định sang kiếm tôi nhưng cả 3 lần đó, đứa con gái
4 tuổi (con của bạn chúng tôi) đều không cho bác đi vì “bác phải ở lại
chơi với con”. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn thắc mắc về điều này. Lý do:
Có phải là “telepathy” đã giúp chúng tôi không? Phải chăng là mẹ tôi đã
“nghe” thấy lời cầu cứu (SOS) của tôi rồi bầy ra cái kế cho bé gái níu
kéo BN ở lại chơi với nó? Tôi chỉ biết cám ơn Trời Phật, Thượng Đế đã
giúp vợ chồng chúng tôi và 5 người bạn “đồng sàn (nhà)” thoát nạn, không
ai bị thương tích gì. Và tôi bắt đầu thực sự để ý tới Thế Giới Tâm Linh
từ sau vụ này.
1.1.2 Clairvoyance (nhìn thấy từ xa qua trí óc)
Nhờ
năng khiếu này (từ giác quan thứ 6) mà con người có thể “nhìn thấy
trong trí óc” những sự việc ở nơi xa, bị dấu kín và quá tầm nhìn của con
mắt người đời.
Trong
thập niên 60, khi tôi còn đang đi học tại Sydney, Úc Ðại Lợi, tôi đã
đọc báo thấy một trường hợp đặc biệt. Cảnh sát Úc không tìm ra thi thể
của nạn nhân trong một vụ án mạng. May nhờ có một “clairvoyant” sau khi
nhìn và sờ mó vài vật dụng của nạn nhân đã cho cảnh sát biết xác của nạn
nhân đã bị buộc vào tảng đá dưới nước tại một địa danh. Nhờ vậy mà cảnh
sát đã tìm thấy xác của nạn nhân.
Ông
Rich Anders (1) kể rằng bà Rosalinde Haller (một “clairvoyant” nổi
tiếng của nước Đức) trong một cuộc phỏng vấn trên TV đã cho biết diễn
biến và hậu qủa của trận bão tuyết ở miền Tây của nước Áo. Bà đã thấy
thảm họa của các “avalanches” (tuyết lăn từ núi xuống thung lũng). Bà
còn cho biết rằng thung lũng Paznaun sẽ bị nguy ngập và dân chúng vùng
đó cần phải được di tản (evacuated) ngay lập tức. Dân chúng đã không di
tản và trận “avalanche” đó đã giết hại 43 người.
Khoa
Cận-Tâm-Lý-Học đã nghiên cứu nhiều về năng khiếu “clairvoyance” và danh
từ “Clairvoyance” bây giờ đã được mệnh danh là “Remote Viewing”
(Nhìn/Ngó thấy từ xa) trong khoa Cận-Tâm-Lý-Học.
1.1.3 Precognition (Mơ thấy trước)
Ai
cũng có thể mơ thấy gì sẽ xẩy ra trong tương lai được, chẳng cần có
năng khiếu gì hết. Chúng ta có thể mơ thấy một sự việc gì đó sắp sửa xẩy
ra cho bạn bè, thân nhân hay cho chính bản thân mình. Bà vợ của tác giả
Rich Anders (3) có một bà bạn tên là Heidi. Bà Heidi thường hay gọi
điện thoại cho vợ chồng ông bà Rich Anders. Bà cho biết trong một giấc
mơ, bà ta rất sợ hãi vì bà đã thấy một chiếc xe điện nghiến nát chân
trái của một người đàn bà. Rồi bà tự nhiên nhận biết người đàn bà đó
chính là mình (bà Heidi). Vài tuần sau, bà Heidi gọi điện thoại cho ông
bà Anders từ nhà thương và bà Heidi cho hay bà đã bị xe cán và bị cưa
chân trái đến tận đầu gối. Hóa ra, trong giấc mơ, bà Heidi đã thực sự
nhìn thấy tai nạn của chính bà từ mấy hôm trước!
Một
số thầy bói có thể “đoán quẻ” cho khách hàng qua lá trà (tea leaf), qua
quả cầu thủy tinh (crystal ball)… vì họ có thể nhìn thấy các diễn biến
trong tương lai của khách hàng. Tiếc rằng nhiều “thầy bói” thường hay
“bói bịp” để moi tiền của thiên hạ, gây ảnh hưởng xấu cho bộ môn
Cận-Tâm-Lý-Học.
1.2 Psychokinesis (Thần lực, sức mạnh phi thường của trí óc)
Có
người có thể chú tâm nhìn vào một cái muỗng bằng kim loại và dùng thần
lực của họ (psychokinesis hay telekinesis) để bẻ cong cái muỗng đó. Họ
cũng có thể dùng Thần lực trong trí óc của họ để mà xê dịch cái muỗng đó
từ chỗ này qua chỗ kia (2)
Thần lực cũng có thể làm tăng hay giảm nhiệt độ và Thần lực cũng có thể làm thay đổi các phản ứng hóa học nữa.
Có
người cho rằng, thuở xưa khi người Ai Cập xây các kim tự tháp, một số
các vị thần (gods) của người Ai Cập đã cùng chung sức dùng thần lực
(spiritual energy trong dạng psychokinesis) để hoán chuyển những tảng đá
nặng hàng ngàn ký lô thành những tảng đá nhẹ như bông gòn (weightless).
Nhờ vậy mà các tảng đá nhẹ như bông gòn có thể trở nên lơ lửng
(levitated) trong không gian rồi được di chuyển dễ dàng vào các vị trí
của chúng trong các kim tự tháp. Sau đó các vị thần này đã chuyển đổi từ
“thể bông gòn” sang thể nặng bình thường hàng ngàn cân của những tảng
đá này.
Dĩ
nhiên, đây chỉ là một giả thuyết mà thôi. Làm sao người Cõi Trần có thể
tìm lại được những vị thần (gods) này để làm thí nghiệm và để mà chứng
minh giả thuyết này? Tuy nhiên, đây cũng là một lối giải thích nghe ra
cũng “vui tai” dựa theo khái niệm về “psychokinesis”!
1.2.1 Psychic Healing (Chữa bệnh bằng thần lực)
Chúa
Jesus đã là một vị lang y tâm linh lỗi lạc (psychic healer). Tục truyền
rằng Ngài chỉ cần sờ tay vào người đang bị bệnh cũng đủ để trị lành
bệnh cho bệnh nhân. Ngài truyền năng lượng (sức lực siêu phàm) của Ngài
đến người bệnh để trị những chứng bệnh nan y. Vì thần lực của người
(realm of energies) không phụ thuộc vào yếu tố thời gian nên bệnh nhân
có thể khỏi bệnh ngay tức thì.
Cầu
nguyện cũng có sức mạnh để trị bệnh. Năng lượng thiêng liêng (spirit
energies) của người cầu nguyện được truyền vào người đang bị bệnh và làm
cho bệnh nhân được thêm năng lượng, thêm sức lực. Nhưng bệnh nhân cần
phải nhận được đủ năng lượng, sức lực để mà lành bệnh. Vì vậy nếu một
người bệnh mà được rất nhiều người cùng cầu nguyện, chúng ta chẳng ngạc
nhiên khi thấy bệnh nhân được chữa lành bệnh. Những người ở thật xa
nhưng cùng cầu nguyện cho bệnh nhân cũng hữu hiệu như những người ở gần
bệnh nhân. Đây là một lối giải thích dựa theo ý niệm của “Psychokinesis
hay Tele-Psycho-Kinesis”.
Tôi
đã từng ngạc nhiên khi nhìn thấy rất nhiều chiếc nạng gỗ (wooden
crutches) đã được bỏ lại tại nhà thờ St Joseph, vùng Montreal, Canada vì
chủ nhân của chúng đã được lành bệnh và đi đứng mà không cần chống nạng
nữa sau khi họ đã thành tâm đến nhà thờ đó cầu nguyện. Xin Quý Vị vào
website dưới đây để biết thêm về phép lạ mầu nhiệm này, được giải thích
theo phần Thần lực (Psychokinesis):
(The Miracle on Mount Royal: 100 Years of St. Joseph's Oratory)
1.2.2 Black magic/ Sorcery (Bùa Chú, Phù Thủy)
Psychokinesis
cũng có phần không tốt của nó. Các phù thủy cũng có thể dùng thần lực
để “ếm”, “bỏ bùa” nạn nhân. Mục đích là để hãm hại nạn nhân. Nạn nhân có
thể bị đau đớn, bị giết, bị mất của, bị xui xẻo…
Nói
tóm lại, tâm trí con người (PSI) ngoài phần thông minh và 5 giác quan
còn có những khả năng đặc biệt mà tôi vừa nêu ra trong bài viết này.
Đàm Trung Phán – MINH CHỨNG VỀ TÁI SINH, NỖI ĐAU TIỀN KIẾP QUA LỐI
THÔI MIÊN CHỮA TRỊ CỦA CÁC BÁC SĨ TÂM THẦN,Bài 1: TRỞ VỀ DĨ VÃNG VÀ
TIỀN KIẾP ĐỂ CHỮA BỆNH
Chúng
tôi xin hân hạnh giới thiệu quý vị phần phóng tác bằng tiếng Việt dựa
theo bài viết bằng Anh Ngữ “Only Love is Real”. Tác giả bài viết này là
Bác Sĩ Tâm Thần Brian Weiss. Ông tốt nghiệp Bác Sĩ Y Khoa tại Đại Học
Columbia và Bác Sĩ Tâm Thần tại Đại Học Yale, Hoa Kỳ. Ông trở thành Bác
Sĩ Trưởng Khoa Tâm Thần của trung tâm Y Tế Mount Sinai, Miami, Florida,
Hoa Kỳ.
Năm 1980 ông đã chữa trị những nỗi sợ hãi, đau đớn trong tâm thức
(traumas) cho bệnh nhân Catherine bằng cách Thôi Miên Chữa Trị (pastlife
regression and future regression). Trước đó ông không hề tin vào Thuyết
Tái Sinh nhưng sau khi chẩn bệnh và trị bệnh cho Catherine,
ông đã kiểm chứng được những gì mà Catherine đã mô tả trong lúc bị thôi
miên bằng cách so sánh chúng với những tài liệu còn được lưu trữ bởi
giới hữu trách (public records), ông bắt đầu tin. Ông cho rằng sau khi
thân thể con người đã chết, phần vong linh/ vong hồn/ linh hồn của con
người vẫn còn tồn tại. Ông đã chữa trị cho hơn 4000 bệnh nhân. Nhân vật
“tôi” trong câu chuyện dưới đây là Bác Sĩ Brian Weiss.
Xin mời đọc:
Bài 1: TRỞ VỀ DĨ VÃNG VÀ TIỀN KIẾP ĐỂ CHỮA BỆNH
Từ lâu lắm rồi, tôi vẫn luôn luôn là Margaret. Trên thế gian
này, chỉ có cơ thể con người mới trở nên già nua. Đời sống trong nhiều
thế kỷ của chúng ta được coi như là một giây lát mà thôi. Sau hàng ngàn
kiếp người đã sống và đã chết trên trần thế, bấy giờ chúng ta mới bắt
đầu mở mắt nhìn đời.
Eugene O’Neill.
Trước khi tôi (Bác Sĩ Brian Weiss) chẩn và trị bệnh cho Catherine,
tôi chưa biết rõ về phương pháp thôi miên đưa bệnh nhân trở về tiền kiếp
để chữa bệnh cho họ. Khi tôi còn đang là một sinh viên Y Khoa tại Đại
Học Yale, các đại học khác chưa hề chỉ dậy cho chúng tôi phương pháp
này. Tôi phải tự học lấy.
Tôi còn nhớ lần đầu tiên khi chỉ dẫn cho Catherine cách trở về trong
tiền kiếp với hy vọng là tôi sẽ tìm ra những vết thương vẫn còn tiềm ẩn,
nhức nhối trong tâm thức (trauma) cuả bệnh nhân tuy rằng chúng đã bị
chôn vùi từ kiếp này qua kiếp khác. Tôi cho rằng đây là đầu mối của các
triệu chứng của những mối lo âu, sợ hãi và đau đớn.
Catherine đã hoàn toàn đi vào trạng thái bị thôi miên bởi lối nói ru
ngủ của tôi. Bà ta chỉ còn biết làm theo cách chỉ dẫn của tôi mà thôi.
Tuần trước, lần đầu tiên khi tôi thôi miên Catherine, bà nhớ được
nhiều chi tiết về đời sống và những nỗi khổ đau thầm kín của bà ta.
Trong khi trị bệnh, nếu bệnh nhân nhớ lại được những
chấn-thương-tinh-thần-trong-tâm-thức (traumas) thường hay quấy rầy họ,
bệnh nhân bắt đầu thấy có kết quả khi được chữa trị. Tuy nhiên còn có
nhiều triệu chứng khác của Catherine còn đau đớn hơn, vì vậy tôi phải
truy kiếm những nguyên nhân trong thời thơ ấu của bà ta và nhất là trong
những kiếp xa xưa khác. Hy vọng là bà ta cảm thấy khá hơn sau khi được
chữa trị.
Tôi đưa Cathrine trở về tuổi thơ ấu khi cô nàng mới hai tuổi, nhưng
cô bé Catherine chẳng nhớ được gì. Tôi nhấn mạnh và nói rành mạch với
Catherine: “Hãy trở về thời kỳ mà triệu chứng bắt đầu”. Tôi hết sức ngạc
nhiên khi Catherine nói: “Tôi thấy lối đi dẫn tới một tòa nhà lớn với
nhiều cây cột, với cửa ngỏ ở phía đằng trước. Tôi đang mặc váy đầm
trắng, đeo ví làm bằng vải thô. Tóc mầu bạch kim được búi lên. Tên nàng là Aronda, nàng là một thiếu nữ đã sống bốn ngàn năm trước
đây. Nàng đã chết bất thần trong một cơn lụt rất lớn. Cơn lụt này đã tàn
phá hết cả cái làng của nàng. “Có những ngọn sóng rất to làm bật cả rễ
cây. Chẳng còn chỗ nào để mà trốn chạy được nữa. Nước lạnh cóng, tôi
phải cứu đứa con nhỏ của tôi, nhưng không thể nào cứu được nó. Tôi ôm nó
thật chặt. Tôi bị nước cuốn chìm, tôi bị ngộp thở, tôi không còn thở
được nữa, tôi không thể nuốt được nước mặn. Con tôi bị nước cuốn đi mất
rồi.” Catherine giật mình và bị khó thở trong lúc hãi hùng này của tiền
kiếp. Thế rồi, cơ thể bà ta bình thường trở lại, hơi thở khá dài và đều
đặn hơn.
“Tôi thấy mây trắng… Con tôi đã trở lại với tôi. Thấy mọi người trong làng và anh trai tôi.”
Catherine nằm yên. Phần đời đó đã chấm dứt. Tuy rằng cả Catherine và
chính tôi chẳng có tin vào những kiếp người trong tiền kiếp, nhưng cả
hai chúng tôi đã được chứng kiến cảnh vật của một thời xa xưa trong
nhiều kiếp người khác nhau.
Sự sợ hãi bị bịt miệng, bị ngạt thở của Catherine hầu như đã bắt đầu
biến đi rất thần tình sau lần chữa trị này. Tôi cho rằng con người không
thể nào có thể tưởng tượng để tự chữa trị những triệu chứng đã nằm sâu
trong tâm thức cuả mình được. Chỉ có phương pháp “Gột rửa tâm thức”
(Cathartia memory) mới có thể chữa trị căn bệnh này mà thôi.
Tuần này qua tuần khác, Catherine còn nhớ thêm được nhiều điều khác
về tiền kiếp của bà ta. Nhiều căn bệnh khác đã biến mất và bà đã khỏi
bệnh mà chẳng cần uống thuốc. Cả hai chúng tôi đã khám phá ra cách chữa
lành bệnh bằng phương pháp thôi miên bệnh nhân để trở về tiền kiếp của
họ (regression therapy).
Thoạt đầu, tôi không hề tin vào thuyết Tiền Kiếp, vì bản chất của tôi
là hoài nghi, vả lại tôi được đào tạo để trở thành một khoa học gia.
Thế rồi phần hoài nghi của tôi đã bị phá hủy bởi hai lối khác nhau. Lối
thứ nhất rất là nhanh chóng và đầy tình cảm, có thể tạm coi như là “mít
ướt” vậy. Lối thứ hai rất từ từ và có phần suy nghĩ chín chắn.
Trong một lần chữa trị khác, Catherine nhớ lại lúc vừa mới qua đời
trong một tiền kiếp xa xưa. Lúc đó đang có một bệnh dịch trong xứ sở của
cô. Catherine vẫn còn ở trong trạng thái bị thôi miên, hồn đang đắm
chìm trong ánh sáng tươi đẹp. Cô bắt đầu nói: “Người ta cho tôi biết có
nhiều vị Thần lắm, và Thượng Đế đang có mặt ở trong ta”.
Catherine cho tôi biết những điều rất riêng tư về đời sống và cái
chết của cha tôi (thân phụ của BS Brian Weiss) và đứa con sơ sinh của
chúng tôi. Cha tôi và con trai của tôi đã qua đời từ lâu lắm rồi, ở rất
xa miền Miami này. Catherine hiện đang làm việc trong một phòng thí
nghiệm của Trung Tâm Mount Sinai, không hề biết gì về cha và con trai
của tôi hết. Chẳng có ai kể cho Catherine biết gì về họ. Cũng chẳng có
nơi nào để Catherine tìm hiểu về gia đình chúng tôi hết. Những chi tiết
về cha tôi và con trai của tôi mà Catherine nói cho tôi biết, đúng không
thể tưởng tượng được. Tôi cảm thấy bàng hoàng đến lạnh cả người khi
nghe Cathrine kể cho tôi biết những chuyện rất riêng tư và bí mật trong
gia đình chúng tôi.
Tôi hỏi Catherine: “Ai đang ở đây với bà? Ai cho bà biết những nguồn tin này?”
Catherine nhỏ nhẹ: “Các Bậc Thầy (Masters)”. Vong hồn (souls) của các
Thầy nói cho tôi biết. Các vị này còn cho biết rằng tôi đã trải qua 86
kiếp sống trần gian, bằng da bằng thịt!
Sau đó Catherine nói cho tôi biết các Thầy là những vong hồn/vong
linh tiến hóa không ngừng, họ không có hình thể bằng da bằng thịt
(non-physical) và chính các Thầy đã nói chuyện với tôi qua lời nói của
Catherine.
Nhờ những bậc Thầy này mà tôi đã có cái may mắn (cái “duyên” trong
Phật giáo) để biết thêm rất nhiều về cha tôi và con tôi đang “sống” ở
trong Cõi Vô Hình .
Catherine hiểu biết mù mờ về môn Vật Lý (Physics) và môn “Siêu Hình”
(Metaphysics). Catherine không tài nào hiểu được những điều mà các Thầy
muốn nói với tôi. Catherine không hề biết gì về các cõi Tâm Linh Đa
Chiều (dimensional planes), cõi Tâm Linh Dao Động (vibrational levels).
Ấy vậy mà trong lúc bị thôi miên, Catherine đã diễn tả rất rành mạch về
những hiện tượng này. Lời nói, ý nghĩ và những tư tưởng triết học trong
lúc này của Catherine hoàn toàn khác xa so với lúc bình thường của bà.
Chưa bao giờ Catherine ăn nói rành mạch mà lại còn trữ tình như trong
lúc đó.
Khi tôi nghe Catherine diễn tả những tư tưởng đầy triết lý của các
Thầy, tôi cảm-nhận được sự khó khăn trong đầu óc và cổ họng của
Catherine đang cố gắng giúp cho bà ta diễn tả được những ý nghĩ qua lời
bà nói, mục đích chính là làm sao cho tôi có thể hiểu được những điều
đó. Trong hầu hết những lần chữa trị sau đó, Catherine lúc nào cũng nói
cho biết những gì mà các Thầy muốn nói với tôi: những lời chỉ dậy về lúc
sống và lúc chết, về Cõi Tâm Linh (spiritual dimensions) và nhất là ý
nghĩa của cuộc sống trần gian. Dần dần tôi thấy mình sáng suốt hơn và
thấu hiểu được nhiều hơn. Những hoài nghi ban đầu trong tôi không còn
nữa.
Một lần tôi đã có ý nghĩ: “Catherine đã cho mình biết rất đúng về cha
và con trai của mình, chắc là Catherine còn có thể biết rõ thế nào là
tiền kiếp, tái sinh và sự trường tồn của linh hồn nữa?”
Tôi bèn hỏi Catherine .
Các bậc Thầy nói thêm về các tiền kiếp: “Chúng ta tự chọn lấy đến khi
nào chúng ta trở về với thế giới hữu hình (bằng da bằng thịt trong Cõi
Trần Gian) và khi nào chúng ta sẽ lìa trần. Chúng ta còn biết khi nào
chúng ta đã hoàn tất những gì đã được giao phó cho sau khi chúng ta được
gửi xuống cõi trần. Chúng ta biết khi nào chúng ta sẽ lìa trần và chính
ông (Bác Sĩ Brian Weiss) sẽ chấp nhận cái chết. Lúc sắp chết, ông cũng
cần phải biết rằng sẽ chẳng còn có ích lợi gì cho ông kéo dài cuộc sống ở
thế gian này nữa. Ở Cõi Vô Hình (non-physical world), ông sẽ có thì giờ
để phục hồi và bổ sung cho phần hồn, sau đó ông sẽ được phép để trở lại
với thế giới hữu hình. Những linh hồn mà còn chần chừ, những ai (linh
hồn) mà còn lưỡng lự chưa muốn trở lại Cõi Trần, họ sẽ mất cơ hội tốt để
được tái sinh, cơ hội để họ có thể làm toại nguyện những điều mà họ
mong muốn sau khi họ đã được tái sinh.
Sau khi tôi đã chữa trị xong cho Catherine, tôi đã thôi miên hơn 1000
bệnh nhân, đưa họ trở về các kiếp người khác nhau trong tiền kiếp của
họ. Rất ít linh hồn có thể đạt tới cấp bậc như các bậc Thầy này được.
Tuy nhiên tôi đã được chứng kiến những kết quả khả quan không lường được
của những bệnh nhân này. Có nhiều bệnh nhân đã nhớ rõ tên của họ trong
kiếp người vừa mới đây của họ và rồi họ còn tìm được những hồ sơ của
người quá cố, minh định được tất cả các chi tiết như đã mô tả qua lối
thôi miên. Còn có một vài bệnh nhân đã tìm được cả mồ mả của chính họ
trong kiếp trước nữa.
Tôi còn được chứng kiến trong lúc đang thôi miên, vài bệnh nhân đã
nói những ngoại ngữ mà họ chưa bao giờ biết đến, chưa bao giờ được dậy
bảo trong kiếp này. Tôi cũng còn thấy vài đứa bé có khả năng bẩm sinh ăn
nói những ngôn ngữ rất xa lạ nữa.
Tôi đã đọc nhiều bài khảo cứu về khoa học của những khoa học gia
chuyên trị về thôi miên đưa bệnh nhân về tiền kiếp. Những điều họ mô tả
cũng giống như những gì mà tôi đã được chứng kiến.
Khoa Thôi Miên trở về tiền kiếp rất hữu dụng để nhận biết và ngăn
chặn những diễn biến có tính cách hủy hoại gây ra bởi ma túy, uống rượu
quá độ và những xung đột trong lúc giao tiếp.
Nhiều bệnh nhân nhớ lại những thói xấu, những vết thương tinh thần
trong tâm thức (traumas), nỗi đau bị ức hiếp không những đã xẩy ra trong
các tiền kiếp mà còn đang xẩy ra trong kiếp hiện tại của họ nữa. Một
bệnh nhân đã nhận diện được người chồng vũ phu trong kiếp trước của bà
ta mà nay còn đang là người chồng vũ phu ngay trong kiếp này của bà!
Một cặp vợ chồng hay xung đột với nhau nay mới biết được chính họ đã
từng sát phạt nhau trong 4 kiếp trước của họ. Đời sống của họ vẫn cứ như
vậy chẳng hề thay đổi .
Khi những diễn biến cứ tiếp tục như vậy từ kiếp này sang kiếp khác và
sau khi những nguyên nhân đã được nhận định rõ ràng, chúng tôi có thể
trị bệnh dễ dàng cho bệnh nhân được. Bệnh nhân sẽ không còn phải sống
khổ sở như xưa nữa.
Người chẩn-trị-bệnh và bệnh nhân không cần phải tin là có tiền kiếp
hay không trước khi chẩn và trị bệnh. Nhưng nếu cả hai bên cùng tin vào
việc chữa trị, họ sẽ chóng đạt được kết quả khả quan hơn.
Tôi đã chữa trị cho một nam bệnh nhân gốc Nam Mỹ. Ông đã nhớ lại được
kiếp trước: ông hối hận đã làm việc với một nhóm làm bom nguyên tử thả
xuống Hiroshima để kết liễu Đệ Nhị Thế Chiến. Kiếp này ông ta là một Bác
sĩ quang tuyến đang dùng quang tuyến và các kỹ thuật tân kỳ trong nhà
thương để trị bệnh thay vì để giết người. Ông ta là một người hiền hậu,
giầu lòng bác ái. Đây là một thí dụ về linh hồn được thăng hoa, biến
chuyển khả quan từ kiếp này sang kiếp khác. Quan trọng nhất là linh hồn
cần phải biết học hỏi thay vì hành xử một cách độc đoán. Ông này đã học
được từ bài học trong Đệ Nhị Thế Chiến, ông ta đang áp dụng kiến thức và
phương cách chữa trị để giúp cho người đời trong kiếp hiện tại này.
Lòng hối hận trong kiếp trước không là quá quan trọng. Điều quan trọng
là mình cần phải học hỏi từ kiếp trước thay vì cứ trầm mình trong suy tư
buồn bực và cả đời chỉ cảm thấy hối hận mà chẳng làm được gì.
Tài liệu của USA Today/CNN/Gallup Poll ngày 18/tháng 8/năm 1994 cho
biết người Mỹ càng ngày càng tin hơn vào thuyết Tái Sinh
(Reincarnation). Hoa Kỳ là một quốc gia coi như là “lạc hậu” nhất trong
Thuyết Tái Sinh. Năm 1994, 27% người Mỹ ở tuổi trưởng thành (adults) tin
vào thuyết Tái Sinh, so với 21% vào năm 1990.
Số người tin rằng tự họ có thể liên lạc được với Thế Giới Bên Kia
(Cõi Vô Hình, thế giới của những người đã qua đời) tăng từ 18% năm 1990
đến 28% tháng 12 năm 1994; 90% tin là có Thiên Đàng và 79% tin là có sự
Mầu Nhiệm.
Dường như văng vẳng đâu đây, tôi nghe thấy tiếng vỗ tay tán thưởng của nhiều vong linh trong Cõi Vô Hình.
Đàm Trung Phán
Viết theo “Only Love is Real” của Bác Sĩ Brian Weiss.
Mississauga
Tháng 12 năm 2014.
Đàm Trung Phán – MINH CHỨNG VỀ TÁI SINH: CÂU CHUYỆN TÁI SINH CỦA CHUEY PUANG PEI / AMPAN PETCHERAT TẠI THÁI LAN – Bài 2
Trong
Bài 1 (Minh Chứng Về Tái Sinh), chúng tôi đã đề cập tới Tái Sinh qua
khía cạnh thôi miên bệnh nhân trở về tiền kiếp để chữa trị những vết
thương còn âm ỉ trong tâm thức từ kiếp này sang kiếp khác. Tác giả của
bài viết này bằng Anh ngữ là BS Tâm Thần Brian Weiss.
Trong Bài 2 dưới đây, chúng tôi đề cập tới Tái Sinh qua khía cạnh
theo dõi nhiều trường hợp của một số người (nhất là con nít) đã nhớ rõ
được tiền kiếp, đặc biệt là rất nhiều các chi tiết của tiền kiếp đã được
kiểm chứng là đúng bởi các nhà nghiên cứu Âu Mỹ.
Tác giả của Bài 2 (bằng Anh Ngữ) này là GS BS Ian Stevenson, chuyên
môn khảo sát về hiện tượng tái sinh trong nhiều trường hợp rất đặc biệt.
Bác Sĩ Ian Stevenson lúc sinh thời là một Giáo Sư Y Khoa tại Đại Học
Virginia. Ông viết văn theo lối văn kiện khoa học, mục đích chính là để
cho các khoa học gia theo dõi, tìm hiểu, kiểm chứng, phân tích để rồi
cùng nhau đưa đến một kết luận rõ ràng và có tính cách khoa học về phần
tâm linh này… Ông đã ghi chép, điều tra và kiểm chứng được 2500 câu
chuyện về tái sinh, đặc biệt chú ý đến thời còn nhỏ của con nít khi
chúng vẫn còn nhớ rõ được kiếp trước.
Ông phân loại các vụ tái sinh ra theo:
– Các vùng, các quốc gia, xã hội … (ông đã từng qua Ấn Độ, Thái Lan,
Miến Điện, Thổ Nhĩ Kỳ, Đan Mạch… để chính ông được chứng kiến và phỏng
vấn từng “case / trường hợp” trước khi ông viết 2500 bài tường trình).
– Phái tính (gender)
– Tôn giáo
QUAN NIỆM TÂY PHƯƠNG VỀ TÂM LINH TRONG KHOA CẬN TÂM-LÝ-HỌC Phần 3
Phần 3
Vong Hồn và Thế Giới Bên Kia. 2.0: GỌI HỒN, MA ÁM, HỒN MA XUẤT HIỆN, TÁI SINH, XUẤT HỒN, CHẾT ÐI RỒI SỐNG LẠI Trong Phần 2, người viết đã đề cập đến những khả năng đặc biệt của
tâm trí: Thần giao cách cảm (telepathy), nhìn thấy qua trí óc chứ không
phải nhìn thấy qua đôi mắt trần gian (clairvoyance), nằm mơ thấy trước
khi sự việc xẩy ra (precognition), thần lực của trí óc (psychokines),
chữa bệnh bằng thần lực (psychic healing), bùa chú / phù thủy (black
magic, sorcery). Trong bài viết Phần 3 này, tôi muốn đề cập đến đề tài
liên quan tới Linh Hồn/Vong Hồn qua những tiết mục dưới đây: • Giao tiếp với vong linh (Mediumship) • Ma ám (Possession) • Ma hiện hình (Apparition) • Tái sinh (Reincarnation) • Xuất hồn (Out- of – body experiences, OBE) • Kinh nghiệm cận tử (Near-death experiences, NDE) 2.1 MEDIUMSHIP (GIAO TIẾP VỚI VONG LINH) Nhà ngoại cảm (medium) có khả năng giao tiếp (contact) với vong
hồn/vong linh của người chết (the dead), với các vị tiên (angels), với
ma quỷ (demons). Nhà ngoại cảm đóng vai trò trung gian: chuyển lời đối
thoại của các vong linh / vong hồn tới người trần tục mà phần lớn không
có khả năng tâm linh giao tiếp được với thế giới bên kia. Nhà ngoại cảm có thể nghe, chuyển lời nhắn, chuyển lời nói chuyện trực
tiếp của các vong linh tới người trần gian. Nhà ngoại cảm cũng có thể
cho vong linh “nhập hồn” (trance) để nói chuyện với người trần gian
(sitters). Ðặc biệt là Cô Ðồng/ Ông Ðồng không biết vong hinh nói những
gì. Nhà ngoại cảm đôi khi phải dùng dụng cụ để viết ra những gì mà vong
linh muốn viết (psychography, automatic writing). Có 2 thể loại “mediumship”: • Thể loại liên quan tới phần trí óc, miệng lưỡi (mental mediumship). • Thể loại liên quan tới phần hiện hình (physical mediumship) 2.1.1 Mental mediumship (Giao tiếp bằng trí óc, miệng lưỡi) Nhà ngoại cảm (medium) và vong linh (spirits) có thể liên lạc với
nhau (communicate) qua thần giao cách cảm (telepathy). Ngoài ra, nhà
ngọai cảm còn có thể “nghe” (clairaudience), “nhìn thấy” (clairvoyance),
“cảm nhận” được (clairsentience) những thông điệp (messages) của các
vong linh. Nhà ngoại cảm kể lại cho người dự gọi hồn (sitter, recipient)
những gì cô đồng/ ông đồng hiểu, nghe, nhìn thấy được từ các vong linh. Trong lúc Gọi hồn, cầu hồn (trance, mediumship), Cô Đồng (trance medium)
rất tỉnh táo khi giao tiếp với vong linh. Vong linh / vong hồn dùng trí
óc, miệng lưỡi của nh à ngoại cảm để nói chuyện bằng cách chuyển các ý
nghĩ (thoughts) của vong linh sang trí óc của nhà ngoại cảm. Cái ngã
(ego) của Cô Đồng, thí dụ như thái độ kênh kiệu, lòng tức tối, giận
hờn…của họ hầu như không còn nữa trong lúc gọi hồn để họ có thể dễ dàng
giúp cho các vong hồn nói chuyện với người trần gian. Tuy nhiên Cô Đồng
đôi lúc cũng có thể nói sai vì không thực sự hiểu đúng ý nghĩa của vong
hồn. Dĩ nhiên là cũng có nhiều nh à ngoại cảm hay nói chuyện phịa để làm
tiền thiên hạ. 2.1.2 Physical Mediumship (Giao tiếp bằng sự hiện hình của của
tay chân, của đồ đạc ở vị trí lơ lửng, của tiếng động, của vật thể di
động) Nhờ khả năng, sức lực của Cô Đồng / Ông Đồng mà những hiện tượng hiện
hình này có thể xẩy ra được. “Physical mediumship” thường được diễn ra
trong một căn phòng khá tối (dimly lit room). Nhà ngoại cảm cần có một
số dụng cụ như “kèn ma” (spirit trumpet), “tủ ma” (spirit cabinets) và
“bàn nổi lơ lửng” (levitation tables). Sự hiện diện của một số đồ vật,
chân tay người, cái bàn nổi lơ lửng là do năng lượng hay do chất
“ectoplasm” tiết ra bởi nhà ngoại cảm. Chất “ectoplasm” này xuất phát từ
cõi “Ether” (etheric plane), cõi vô hình (astral plane), cõi trí tuệ
(mental plane) và cõi nguyên nhân (causal plane). Các vong hồn hút ra (extracting) chất “ectoplasm” của những người đang
có mặt ở trong phòng (không nhất thiết của nhà ngoại cảm) để tạo nên một
cái hộp phát tiếng nói (voice-box). Nhờ cái hộp phát tiếng nói này mà
các vong hồn có thể nói chuyện được. 2.1.3 Channeling (chuyển nhận dòng vong linh) Trong vòng 50 năm của cuối thế kỷ 20 các nhà ngoại cảm tây phương đã tạo ra hai loại “gọi hồn”, “cầu hồn” sau đây: 2.1.3.1 Loại thứ nhất: nhà ngoại cảm có thể nói
chuyện trực tiếp được với các vong hồn rồi họ nói lại cho những người
gọi hồn biết các câu chuyện của người Phía Âm 2.1.3.2 Loại thứ hai: Cô Đồng / Ông Ðồng (channeler)
ngồi gọi hồn / “vào đồng” (go into a trance) / “rời thân xác” (“leave
their body”) trong lúc giao tiếp. Có nghĩa là vong hồn người Cõi Âm thật
sự “nhập” vào nhà ngoại cảm (giống như bị ma ám vậy – spirit
possession) và vong hồn nói chuyện thẳng với thân nhân trên Dương Thế.
Một khi vong hồn đã thưc sự “nhập” vào người đồng cốt (channeler), giọng
nói của người này có thể hoàn toàn thay đổi. Vong hồn có thể trả lời
những câu hỏi của người đang có mặt ở đó, và cho họ biết tin tức về thế
giới bên kia. Ðây là trường hợp “Gọi Hồn” mà chính tôi đã được tham dự
và tôi đã mô tả trong loạt bài viết “Cây Ða Lối Cũ, Gọi Hồn Người Xưa”
dưới đây: http://chimviet.free.fr/truyenky/damphan/caydaloicu/dtpn052.htm Nhà ngoại cảm nổi danh JZ Knight cho biết đã được nói chuyện với một người đã có “30 ngàn năm tuổi đời”. 2.2 MA ÁM (POSSESSION) Trong nhiều nơi trên thế giới, cũng như qua nhiều tôn giáo khác nhau,
hiện tượng ma ám / quỷ ám được coi như là người trần gian bị một hồn ma
/ hồn quỷ xâm nhập và hãm hại. Nạn nhân thường được coi như đang bị
bệnh xáo trộn tâm thần (mental disorder). Người bị ma ám / quỷ ám có
triệu chứng như mất trí (memory loss), mất bản tính (personality loss),
hay dẫy dụa (convulsion), bị ngất xỉu (fainting) giống như sắp chết vậy.
Có người có thể nói một sinh ngữ khác, đổi hẳn giọng nói, mất luôn cả
cá tính của chính mình cho tới khi hồn ma / hồn quỷ bị trừ khử / đuổi đi
(exorcism). Hiện tượng ma ám / quỷ ám được nhắc tới trong đạo Gia Tô (Christianity),
đạo Islam, đạo Phật, Haitian Voodoo, Wicka, và trong vùng Đông Nam Á
cũng như trong nhiều nước tại Phi Châu. 2.3 HỒN MA HIỆN HÌNH (APPARITION) Hiện tượng vong hồn hiện hình thường hay xẩy ra khi người trần gian
vừa mới chợp mắt ngủ (hypnagogic) hay khi sắp sửa ngủ dậy (hypnopompic) Hiện tượng vong hồn hiển linh được phân chia thành 4 trường hợp dưới đây: – Vong hồn / hồn ma xuất hiện lúc người trần gian đang bị nguy cơ (Crisis apparition) – Vong hồn / hồn ma xuất hiện vài năm sau khi chết (Post- mortem apparition) – Người sắp chết thấy bóng ma hiện hình (Experimental / Death- bed apparition) – Hồn ma lảng vảng (Haunting apparition) – Hồn ma hiện hình ở ngay bên cạnh người còn sống (By-standing- type) 2.3.1 Crisis apparition (vong linh / hồn ma xuất hiện lúc người bị nguy cơ) Chứng nhân (witness) của hiện tượng “crisis apparition” nhìn thấy
được hình bóng của một người khác đang ở trong trường hợp nguy kịch
(crisis) như tai nạn, bệnh tật (illness) hay đang gần lúc tử vong
(threat of death). Trong cuốn sách “The Gift” của tác giả Michael Schmicker, BS Sally Rhine Feather kể rằng (1): Một bà mẹ và cô con gái 15 tuổi đã từ Washington D.C. bỏ sang California
sinh sống và để lại ông bố già của bà ta đang đau nặng. Vài ngày sau,
khi hai mẹ con bà ta bước vào phòng ăn, bà ta rất ngạc nhiên thấy ông bố
già đang đứng ở đó: – Ba ơi, làm sao mà ba đến đây được? Ngay lúc bà ta nói, cô con gái rảo mắt nhìn quanh, cô ta cũng nhìn thấy
bóng dáng của ông ngoại. Ông ngoại đang dang tay như thể chào đón và ban
phước (blessing) cho hai mẹ con. Thế rồi, hình bóng ông ta biến mất và
cả hai mẹ con mới chợt nhớ ra rằng ông già thực ra không ở trong nhà của
họ tại California. Ngay sau đó, hai mẹ con bà ta nhận được tin ông cụ
đã mất tại Washington DC . Có 3 diều đặc biệt về câu chuyện này. Chuyện thứ 1: Cả hai mẹ con đều cùng thấy hồn ma xuất hiện Chuyện thứ 2: Hồn ma xuất hiện quá giống người thường làm bà ta đích
thực tưởng rằng bà đã được gặp lại cha già, trái ngược hẳn với truyền
thuyết cho rằng hồn ma chỉ xuất hiện mờ mờ, ảo ảo. Chuyện thứ 3: Hồn ma nhận biết đuợc con gái và cháu ngoại , điều này
chứng tỏ rằng hồn ma có phần nhận thức, phần thông minh (intelligence
awareness) của nó. 2.3.2 Post- mortem apparition (vong linh hiện hình / hồn ma hiện hình sau khi người đã chết) Nhà nghiên cứu (researcher) Dianne Arcangel đã mô tả (2): Một bà mẹ khi dẫn chó đi qua bãi đậu xe, nơi mà Tommy (con trai của bà
ta) đã đậu chiếc xe jeep của anh chàng trước khi bị hãm hại. Con chó bắt
đầu sủa và kéo bà ta đi tiến tới. Ngẩng mặt nhìn lên, bà ta trông thấy
một chàng trai mặc bộ đồ mầu xanh đứng trước mặt bà chừng mười mét. Bà
ta không nhìn thấy rõ cho lắm vì đã không đeo kính lúc đó. Sau khi đã
đeo kính, bà ta nhìn thấy rõ ràng Tommy đang đứng ở vỉa hè (sidewalk),
tươi cười nhìn bà. Anh chàng đang mặc bộ đồ mầu xanh đã mua nhưng chưa
hề có cơ hội để mặc trước khi bị giết chết. Bà ta gọi tên con trai và
con chó (mà chính Tommy đã nuôi nó) lôi kéo bà ta chạy về phía anh chàng
Tommy. Thế rồi hình bóng Tommy bắt đầu rẽ sang lối khác, lướt trên mặt
đất vài phân . Mặc dù cả chủ lẫn chó cùng chạy nhanh nhưng họ không tài
nào bắt kịp được anh chàng Tommy. Chạy được 3 dẫy phố, bà mẹ chẳng còn
nhìn thấy hình bóng con trai của bà nữa vì nó đã bị che mất bởi đám học
trò đang đi bộ trên hè phố. Hình bóng Tommy hoàn toàn biến mất. Câu chuyện này có 2 điểm lý thú. Điểm thứ 1: Cả người lẫn chó đều nhìn thấy hình bóng anh chàng Tommy,
chứng tỏ rằng không phải là bà mẹ tưởng tượng trong đầu óc của bà ta. Điểm thứ 2: Bà mẹ phải đeo kính vào mới nhìn thấy rõ, chứng tỏ rằng hiện
tượng này là một hiện tượng quang học và phải nhìn bằng mắt mới thấy
chứ không phải là hình bóng trong lúc tưởng tượng, hay hình bóng trong
lúc mơ ngủ. 2.3.3 Death- bed / experimental apparition (Người sắp chết thấy bóng ma) Nhiều bệnh nhân khi sắp qua đời kể rằng họ đã nhìn thấy hình bóng của
nhiều người đã quá cố tại nhiều nơi chốn (chắc là liên quan tới đời sau
khi chết – afterlife) của họ. Những câu chuyện này được ghi chép lại
bởi một số bác sĩ và y tá đã chăm sóc cho bệnh nhân tại Hoa Kỳ và Ấn Độ
trong thập niên 70. Xin dẫn chứng một câu chuyện dưới đây (3) do một bà y tá kể lại cho hai
Bác sĩ Kardis Osis và Erlendur Haraldsson ghi lại trong một tập hồ sơ
gồm có 418 câu chuyện về hồn ma. Một bà già 76 tuổi đã bị trụy tim mạch (heart attack) .Trí óc
(consciousness) của bệnh nhân rất sáng suốt, bà ta chẳng uống thuốc mê
(sedation), suốt đời bà ta cũng chẳng có bao giờ bị hôn mê
(hullicinogenic history). Bà ta rất tươi vui và tin chắc rằng bà ấy sẽ
khỏi bệnh rồi trở về nhà với con gái của bà ta vì cô con gái đang rất
cần mẹ. Bỗng nhiên bà ta quơ tay và tươi cười nói với người y tá: – Bà có thấy Charlie (ông chồng quá cố của bà già) đang đứng giơ tay chờ
tôi không? Chẳng biết tại sao tôi lại chưa “về nhà” nhỉ! Bà ta tả lại những gì đã thấy: – Chỗ đó đẹp quá, đầy những hoa và nhạc, coi bộ bà không nghe thấy tiếng
nhạc hay sao? Trời ơi, các bà có nhìn thấy ông chồng Charlie của tôi
không? Câu chuyện của bà già này chứng tỏ rằng bà ta rất tỉnh táo vì không uống
thuốc an thần, và nhất là bà ta không bị hôn mê, bà ta biết là mình
đang ở đâu và bình thản khi kể lại những gì bà ta đã thấy. Rất nhiều các bệnh nhân khác cũng kể lại rằng họ đã nhìn thấy bóng ma
của nhiều người đã chết đến chào hỏi, mời mọc, chỉ đường dẫn lối họ đi
vào thế giới bên kia (afterlife). Tác giả Dianne Arcangel, một mục sư trong nhà thương đã cho biết như sau (4): “Tôi đã thường giúp đỡ rất nhiều người đang trong thời kỳ hấp hối. Họ
thường cho hay họ đã thấy những bóng ma của họ hàng, bạn bè trong những
lúc này. Không ai chết một mình đâu!” 2.3.4 Haunting (hồn ma lảng vảng) Tại nhiều nơi, người ta thường thấy hình bóng lờ mờ, ánh sáng lơ
lửng, đốm mây mờ ảo. Phần lớn có lẽ đây là những hiện tượng liên quan
tới địa chất học (geophysical) và không liên quan tới vong hồn của người
quá cố còn vương vấn với Cõi Trần. Tuy nhiên có nhiều trường hợp, nhiều người đã tiếp tục nhìn thấy hồn ma
hiện về tại nơi mà người chết đã từng sinh sống hay đã từng làm việc.
Xin kể ra câu chuyện dưới đây (5): Sau khi một gia đình dọn vào một căn nhà mới, cô bé Heidi Wyrick đã gặp
một ông tên là “Con” và ông ta đã mời cô bé chơi đánh đu trên cái
“swing”. Khi cô bé xin mẹ ra chơi đánh đu, bà mẹ hỏi về ông “Con”. Cô bé
cho biết người ông ta “dính đầy máu”, bà mẹ rất lo sợ, cho rằng có lẽ
ông ta là người đi bắt cóc con nít, thích hãm hại trẻ con (child
molester). Cha mẹ của Heidi đã đi lùng kiếm ông “Con” nhưng không tìm
thấy ông này. Sau đó ít lâu, cô bé Heidi lại kể chuyện đã gặp một người
đàn ông tên là “Gordy” cũng thích chơi đánh đu (trên cái “swing”). Cha
mẹ cô bé cho rằng con gái của họ thường hay tưởng tượng có nguời thích
đến chơi với con mình. Rồi dần dà, cha mẹ cô bé mới biết rằng hai ông
già “James Gordy” và “Con” cũng đã từng sinh sống trong khu phố đó nhiều
năm về trước. Một cánh tay ông “Con” đã bị cắt đứt trong một tai nạn.
Cô bé Heidi đã mô tả hai ông này khá đúng với hình chụp (photographs)
của họ. Cô bé đã nhận định đúng hình ảnh của họ trong một lô các hình
ảnh cũ. Điều tra viên (investigator), BS William Roll, xác nhận rằng cô bé Heidi
chẳng bao giờ có thể biết tông tích của hai ông già này trước khi cha
mẹ cô ta kiếm ra được tông tích của họ. Trong đề tài “Haunting” (hồn ma lảng vảng), khoa Cân Tâm Lý Học còn đề cập đến: 2.3.5 By-stander-type (hồn ma hiện hình ngay bên cạnh người trần gian). Hồn ma không chỉ xuất hiện tại một địa danh nào đó, mà nó còn có thể xuất hiện gần ngay một người nào đó. Năm 1995, BS Ian Stephenson (nay đã quá vãng) đã phỏng vấn một bác sĩ
khác khi ông bác sĩ này đang trông nom bà mẹ vợ đang hôn mê và sắp qua
đời. Ông ta kể rằng (6): – Tôi đang ở bên cạnh giường bệnh của mẹ vợ tôi, chẳng có ai bên cạnh
hết. Mẹ tôi đang bị khó thở và đang nhìn thấy rõ hình ảnh của ông GC đã
qua đời (cha vợ của tôi) đứng ngay ở bên kia của cái giường. Ông ta đang
giang tay và nói: – Flora, tôi đang chờ bà đây! Rồi bà chết ngay sau đó. Ông bác sĩ cho biết ông bố vợ của ông trông
giống như “người trần mắt thịt” vậy nhưng chỉ nhìn thấy được từ phần
bụng trở lên mà thôi vì phần dưới đã bị cái giường che mất. Vị bác sĩ
còn cho biết là ông ta chỉ có dịp gặp người cha vợ 2, 3 lần trước khi
ông ấy mất nhưng ông bác sĩ đã được xem rất nhiều hình ảnh của người bố
vợ nên đã nhận diện rất dễ dàng. Không ngờ rằng ông ta đã nhìn thấy hình
ông bố vợ trong lúc bà mẹ vợ sắp sửa qua đời. Ông cho biết: – Tuy rất ngạc nhiên nhưng tôi cũng cảm thấy được an ủi trong lúc đó. Điều này cho chúng ta thấy rằng vị bác sĩ đã thấy hồn ma của ông bố
vợ xuất hiện (apparition) ở ngay bên cạnh bà vợ trong lúc bà ta đang hấp
hối. Ông ta đã là một nhân chứng (third- person- bystander) nhìn thấy
bóng ma ở ngay bên cạnh giường bệnh (death- bed) của người đang hấp hối. Trong vụ này có 3 điều đặc biệt: – Thứ nhất, hồn ma hiện hình giống như “bằng da bằng thịt” (solid apparition) – Thứ hai, hồn ma xuất hiện ở ngay bên cạnh giường bệnh lại là hồn ma của người trong gia đình (ông bố vợ). – Thứ ba, ông bác sĩ cho biết ông ta đã nghe thấy hồn ma nói chuyện,
chứng tỏ rằng hồn ma có phần anh linh / thông minh (intelligence) của nó
. 2.4 Reincarnation (tái sinh) Theo cuốn “Glossary of terms – Parapschycology” (danh từ chuyên môn về Cận Tâm Lý Học) của TS Michael Thalbourne: Tái sinh (reincarnation) là một hình thức sống còn của phần hồn (human
soul) hay phần cốt lõi (some aspect of self) sau khi thân xác đã “chết”.
Phần này sẽ được tái sinh vào một thân xác mới và cứ như vậy được tiếp
tục trong nhiều kiếp khác. Hiện tượng Tái Sinh đã được bàn cãi sôi nổi trong nhiều lĩnh vực,
nhất là trong lĩnh vực tôn giáo. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ muốn
nêu ra những phần chính yếu về Tái Sinh và hy vọng rằng trong những bài
viết về sau này, chúng tôi còn có dịp trình bầy đề tài này qua tầm nhìn
của nhiều tác giả Tây Phương khác. Một trong những tác giả đã chứng minh hùng hồn Thuyết Tái Sinh một
cách gián tiếp: đó là Bác Sĩ Tâm Thần Brian Weiss. Ông đã từng điều trị
“bệnh tưởng” của rất nhiều bệnh nhân bằng cách thôi miên họ để đưa họ
trở về nhiều tiền kiếp và từ đó, ông đã tìm ra nguyên nhân của “bệnh
tưởng” trong kiếp hiện tại của bệnh nhân. Ông chỉ cần nhắn nhủ tâm thức
của bệnh nhân trong lúc thôi miên hãy quên đi những cái đau đớn, sợ hãi …
trong những tiền kiếp và hãy sống bình thản trong kiếp hiện tại. Bệnh
nhân đã được “chữa lành bệnh” mà chẳng cần uống thuốc gì hết. Ngoài ra Bác Sĩ Ian Stevenson đã khảo cứu hơn 40 năm về Tái Sinh. Ông đã
viết 2 cuốn sách nổi tiếng: “Twenty Cases Suggestive of Reincarnation”
(20 trường hợp điển hình về tái sinh) và “Reincarnation and Biology”
(Tái Sinh và Sinh Vật Học). Ông cho biết có nhiều trẻ em đã kể lại những kỷ niệm về tiền kiếp của
chúng , đặc biệt chúng cho thấy những tì vết trên thân thể khi sinh ra
đời (birthmarks), bắt nguồn từ tiền kiếp, gây ra hoặc bởi án mạng, hoặc
bởi thân thể của bệnh nhân trước khi chết trong kiếp trước. Ông đã tóm
lược như sau: – 1. Trong nhiều trường hợp đặc biệt, một số người tin tưởng mạnh vào
thuyết tái sinh, luân hồi, đã ước ao và đã được tái sinh vào một gia
đình khá giả nào đó với hy vọng trong kiếp sau, họ sẽ được chăm lo chu
đáo hơn kiếp trước. – 2. Nguời đã chết về báo mộng cho một người đàn bà sắp có thai hay
đã có thai biết rằng người đã chết sẽ được đầu thai làm con của người
đàn bà đó. Đôi khi, họ hàng cũng được báo mộng về đứa bé được đầu thai
rồi chính họ đã nói lại cho bà mẹ tương lai biết về vụ này. Hiện tượng
đầu thai này khá thịnh hành tại Miến Điện và trong sắc tộc Da Đỏ tại
tiểu bang Alaska. – 3. Nhiều bộ lạc của vùng Tây Phi (West Africa) đã khắc những dấu
vết trên thân xác người chết để dễ bề nhận diện khi người chết được tái
sinh. Khi một hài nhi vừa mới ra đời, đứa bé được khám xem có mang tì
vết gì của người đã quá vãng không. Phong tục này rất phổ biến trong
nhóm thổ dân Da Đỏ Tlingit và thổ dân Igbos tại Nigeria. – 4. Con nít trong lứa tuổi từ 2 đến 4 tuổi thường hay nói về tiền kiếp, sau đó hầu như chúng không còn nhớ được nữa. Khi nói về tiền kiếp, con nít thường hay nói chuyện rất say mê và chan
chứa tình thương yêu đến nỗi chúng không biết rõ “đời” nào là “đời” nào
nữa. Có “đứa trẻ” còn nói: “Tôi có chồng và có con sống tại x,y,z”. Đặc
biệt là chúng nhớ rất rõ nguyên nhân đã làm chúng qua đời trong kiếp
trước. Những đứa bé này thường chỉ yêu thương bố mẹ trong kiếp trước của chúng
và chúng thường hay xin bố mẹ trong kiếp này cho phép chúng về sinh sống
với bố mẹ trong kiếp trước của chúng . Một đứa bé sinh ra tại Ấn Độ trong một gia đình hạ lưu mà kiếp trước nó
đã sống trong một gia đình thượng lưu, đứa bé đã thấy rất khổ sở trong
kiếp này vì phải sống trong một gia đình nghèo. Đứa bé đòi người lớn
phải hầu hạ nó và nó không muốn ăn mặc quần áo loại rẻ tiền. Trong 35% của những trường hợp mà BS Stevenson đã theo dõi, ông cho
biết con nít tái sinh sau khi đã chết “bất đắc kỳ tử” (sudden death)
thường hay sợ hãi vu vơ. Thí dụ như nếu kiếp trước chúng đã chết đuối,
kiếp này chúng rất sợ khi ra đến chỗ nước sâu. Nếu kiếp trước chúng bị
bắn chết, kiếp này chúng rất sợ hãi khi nghe tiếng súng nổ hay nghe thấy
một tiếng động chát tai. Nếu kiếp trước chúng chết vì tai nạn trên
đường đi, kiếp này chúng thấy sợ hãi mỗi khi phải đi đâu bằng xe cộ. Nếu kiếp trước đứa bé sinh ra trong một phái tính trái với phái tính
(sex / gender) trong kiếp này, đứa bé khó có thể “hội nhập” với phái
tính trong kiếp này. Những trở ngại khi phải sống trong trạ ng thái “đổi
phái tính” (sex/ gender change) có thể làm cho đứa trẻ dễ trở thành
“đồng tình luyến ái” (homosexual) khi nó lớn lên. Kiếp trước mà là con
gái và kiếp này đứa trẻ sinh ra làm con trai, đứa trẻ có thể đâm ra
thích ăn mặc như con gái và thích chơi với con gái hơn là chơi với con
trai. Tuy nhiên nhiều khoa học gia Tây Phương không tin vào thuyết Tái
Sinh. Khoa học gia Carl Sagan, đã đặt câu hỏi với Đức Đạt Lai Lạt Ma như
sau: – Ngài nghĩ ra sao nếu thuyết Nhân Quả bị khoa học tây phương chứng minh là sai? Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời: – Nếu khoa học chứng minh được rằng thuyết Tái Sinh là không đúng, Phật
Giáo Tây Tạng sẽ hủy bỏ ngay thuyết Tái Sinh… Tuy nhiên sẽ rất là khó
khăn để mà Quý Vị phản bác được thuyết Tái Sinh. (The DaLai Latma answered: “If the science can disprove
reincarnation, Tibetan Buddhism would abandon reincarnation… but it’s
going to be mighty hard to disprove reincarnation”). Xin mời quý vị vào đọc bài viết về tái sinh của vài vị tổng thống Hoa Kỳ trong website dưới đây: http://www.near-death.com/experiences/reincarnation08.html#13 2.5 Out-of-body experiences (xuất hồn) và Near-death-experiences (cận tử/ chết đi rồi sống lại) Kinh nghiệm lúc xuất hồn là kinh nghiệm lúc con người “nhìn/cảm nhận”
thấy cảnh giới trần gian không phải bằng đôi mắt của con người và “nhìn
thấy” từ một vị trí ở ngoài thân xác. Lấy một thí dụ: một thân nhân của tôi, sau khi anh chàng bị xe tông
lúc 11 tuổi đã kể cho tôi nghe cu cậu tự nhiên nhìn từ trên không (chừng
vài thước) thấy thân thể anh chàng đang nằm sõng xoài trên mặt đường,
trước mặt cái xe hơi. Nhiều đêm trong lúc ngồi thiền, chính tôi cũng đã
từng nhìn thấy trong đầu, “nhìn thấy” từ trên cao nhiều cảnh thiên nhiên
với những rừng, núi, sông ngòi. Người đời có thể xuất hồn khi đang ngủ, khi đang ở trong trạng thái
bất tỉnh (unconscious) vì đang uống thuốc hay đang trải qua một cuộc thí
nghiệm của các nhà khoa học. Người này “nhìn” thấy (không bằng mắt) họ
đang rời thân thể của họ và cũng “nhìn” thấy thân xác của họ đang nằm
trên giường. Trong trường hợp lúc cận tử (near-death experiences), phần “linh
thân” (astral body) rời khỏi cái “thân tứ đại” (physical body) và phần
“linh thân” có thể đi chu du trong linh giới (astral plane). Nhiều nhà nghiên cứu tây phương trong khoa Cân-Tâm-Lý-Học đã và đang
bàn cãi sôi nổi về những kinh nghiệm xuất hồn mà họ đã nghiên cứu được
trong phòng thí nghiệm. Nghiên cứu và tranh luận của các khoa học gia thì nhiều nhưng mà họ
chưa đạt được kết quả nào khả quan liên quan tới linh hồn/vong hồn/
thuyết Tái Sinh, Luân Hồi… ngoại trừ trường hợp các kinh nghiệm lúc cận
tử / kinh nghiệm của những người đã chết đi rồi sống lại mà chính họ đã
kể lại cho các bác sĩ và y tá của họ nghe. Phần lớn những bệnh nhân này cho biết linh hồn của họ đã đi qua đường
hầm (tunnel) rất dài. Họ cảm thấy được đẩy đi rất thoải mái, với vận
tốc càng ngày càng nhanh. Chẳng thấy có gió, có rung chuyển hay tiếng
động nào. Chẳng thấy nôn nao mà chỉ thấy như đang trôi nổi trong thinh
không. Rồi họ ra khỏi đường hầm với tốc độ ánh sáng (vận tốc cao nhất
của người trần gian). Thế rồi họ thấy ánh sáng êm dịu mà họ chưa hề bao
giờ được thấy, rất là sáng. Họ cảm thấy tràn ngập tình thương yêu và
tình bạn bè. Thật là tuyệt diệu. Ra khỏi đường hầm, ánh sáng chan hòa cả một bầu trời, đẹp không giấy
bút nào diễn tả được. Họ cảm thấy họ là ánh sáng. Tất cả đều trở thành
ánh sáng. Họ diễn tả ánh sáng đó là Thượng Đế, không có yếu tố thời gian
trong ánh sáng, trong thiên đàng. Diễn biến của một người chết vì tai nạn đã được mô tả như sau: mới
đầu là đen tối, rồi người đó bị hút vào trong đường hầm, ở đầu kia đường
hầm thấy có đốm ánh sáng, rồi họ phải đối diện với ánh sáng. Ánh sáng
làm họ cảm thấy ấm cúng, đầy tình thương yêu và họ cảm thấy vui sướng.
Ánh sáng hiện ngay trước mặt của họ và bắt đầu giao tiếp với họ qua ý
nghĩ theo hiện tượng thần giao cách cảm (telepathy), trao đổi ý kiến với
vận tốc còn nhanh hơn cả vận tốc ánh sáng nữa. Ánh sáng “nói” với họ: “Anh/chị đang ở chỗ nào, điều kiện con người ra
sao? Trước mắt anh/chị là ánh sáng. Anh/chị có thể hỏi bất cứ câu hỏi
nào và sẽ được trả lời theo từng câu hỏi một.” Người mới chết được cho biết họ có thể trở lại Cõi Trần hay ở lại
“Cõi Bên Kia” nhưng trước khi họ chọn lựa, họ phải “xem cuốn phim” của
chính đời họ trên cõi trần gian trước đã. Tất cả các chi tiết đều được phơi bầy rất rõ ràng, tỉ mỉ. Thí dụ như,
trong một quãng đời trần gian, người A đã gặp người B. “Cuốn phim dòng
đời” cho thấy rõ tất cả những diễn biến, những tâm tư không những riêng
của người A mà còn có những tâm tư, suy nghĩ, tình cảm của người B nữa.
Tất cả đều được “lột trần” không sót một chi tiết nào. Nói tóm lại,
người vừa chết được xem lại hết những gì đã xẩy ra, đã có trong đầu của
họ và của tất cả những người mà họ đã quen biết. Người mới chết cảm nhận được hết những tình tiết của chính họ và họ cũng
cảm nhận được tất cả những tình tiết của những người mà họ đã từng giao
tiếp từ lúc còn nhỏ cho đến lúc họ chết. Ánh sáng ban cho người mới
chết tình thương yêu vô điều kiện. Ông Thomas Sawyer, một người đã thực sự chết (clinically dead) được
15 phút rồi sống lại đã trải qua những kinh nghiệm như tôi đã mô và ông
ta có nhận xét như sau (7): Con người có cơ hội để được cải tiến nhân cách/ nhân phẩm / bản chất
con người (personality) qua những kiếp tái sinh, luân hồi. Mục đích là
họ phải tự cải tiến bằng cách cải tiến mình là một linh hồn (soul), là
một phần của Thượng Đế và cũng là phần toàn diện (the whole) của Thượng
Ðế. Chẳng ai có thể thấy được hình bóng của phần cốt lõi toàn diện (the
whole self), và cũng chẳng ai biết phần nhân cách của họ (their
personality) liên quan như thế nào với phần linh hồn của họ. Nhờ thuyết
Tái Sinh, họ có cơ hội để biến đổi phần bản chất, phần nhân cách của họ.
Theo luật Tái Sinh, nhân cách con người thay đổi theo từng kiếp người
một. Kiếp sau, phần nhân cách vẫn còn giữ được những đặc tính của nhiều
kiếp trước. Nhân cách con người trong kiếp này không những bao gồm nhiều
đức tính (xấu hay tốt) trong kiếp khác mà lại còn có phần nhân phẩm của
các linh hồn khác nữa. Khi con người đã đi vào cõi tâm linh (spirit realm) và nhận thấy rằng
mình chưa học được nhiều thứ đáng lẽ họ đã phải học, họ tu bổ thêm phần
nhân phẩm (personality) trong một thân thể khác và linh hồn của họ luôn
luôn sống còn. Khi con người trở thành một người khác (personality)
trong một thân thể khác, phần linh hồn vẫn chẳng hề thay đổi: chẳng lớn
hơn, cũng chẳng bé hơn. Xin quý vị đón đọc Phần 4:
Những tiết mục khác trong khoa Cận-Tâm-Lý-Học và phần Đúc Kết. Tài liệu tham khảo: 1.
(1), (2), (3), (4), (5), (6):
Apparitional Experiences: A Primer on Parapsychological Research and Perspectives: http://publicparapsychology.blogspot.com/2009/11/apparitional-experiences-primer-on.html
2.
Parapsychology and Personal survival after Death: http://www.xs4all.nl/~wichm/paraps.html
Cuối tháng Giêng năm nay (2015), vùng miền đông Canada đang đi
vào thời kỳ lạnh nhất trong năm (deep freeze) từ giữa tháng Giêng cho
đến cuối tháng Hai luôn. Sau đó, trời vẫn còn mùa đông cho tới giữa
tháng Tư. Trong bối cảnh của “ngày lành tháng lạnh” của miền “đất lạnh,
tình … cóng” này (“đất lạnh tình nồng” chỉ là cho mùa xuân, mùa hạ và
mùa thu mà thôi, trời ơi!) nhiều hôm tôi không dám đi ra khỏi nhà vì
những lý do như: dễ bị trượt chân rồi ngã bổ nhào, lạnh teo bắp thịt đã
được trên 7 bó tuổi đời, lạnh thấu xương, lạnh đến nỗi không dám đi bơi
trong các hồ bơi nước ấm luôn … Thế cho nên người viết phải
“cắm-trại-mùa-đông” trong nhà một cách bất đắc dĩ.
Nằm nhà, mùa đông năm nay tôi “đổi món ăn chơi”: chỉ ngồi viết bài về
tâm linh mà thôi. Thế rồi cảm thấy “ấm áp trong lòng” những khi
nằm/ngồi đọc sách, tìm kiếm hình ảnh, video clips, viết bài và “upload”
bài vở về tâm linh lên blog… để rồi quên luôn cái lạnh ngoài trời.
Trong nhiều đêm khuya như đêm nay, tôi tự đặt câu hỏi: “Chính mình đã
thu hình và chứng kiến được 19 vong linh “về” qua miệng- lưỡi của cô
đồng Mến, có nhiều điều phía âm nói ra đúng với sự thật, làm sao mà có
thể như vậy được? Thế giới vô hình ra sao?”
Sau khi được nghe những gì mà Bà Cô Trẻ (Bà Tổ Cô), Bố Mẹ và anh trai
tôi nói chuyện với tôi qua cô đồng, tôi nhận xét thấy những điều mà cô
đồng nói ra đều khá đúng, phù hợp với cuộc đời riêng tư của tôi và đại
gia đình chúng tôi (cô đồng mới 36 tuổi, không hề quen biết với gia đình
tôi; Bà Tổ Cô, mẹ và anh trai của tôi đã mất rất nhiều năm trước khi cô
đồng ra đời). Thêm vào đó: nét mặt khi vui, khi buồn; giọng nói; động
tác tay-chân…của cô đồng khi bốn nhân vật trong gia đình tôi “về” đều
khác nhau và phù hợp với từng nhân vật một.
tôi đã đính kèm một số hình ảnh chụp lại từ video “gọi hồn”.
Vì lý do riêng tư liên quan đến rất nhiều người, chúng tôi xin miễn
việc đưa toàn bộ Video lên youtube. Chúng tôi cũng chỉ dám đính kèm thêm
vài lời viết về bốn nhân vật trong gia đình ĐT Phán vì tôi biết rõ về
cha, mẹ, anh trai tôi và bà cô trẻ tôi chỉ “biết” ít nhiều qua lời kể
chuyện của thân phụ chúng tôi mà thôi. Tuy nhiên, tôi có thể hiểu được
các liên hệ gia tộc để hỏi họ những câu hỏi liên quan đến cá nhân tôi và
anh-chị-em chúng tôi. Đây cũng là một cơ hội để tôi kiểm chứng xem cô
đồng có “nói mò” hay không (cold reading).
Sau khi đã xem đi, xem lại cuốn video về gọi hồn, tôi đi đến kết
luận: cho dù cô đồng Mến đã học thuộc lòng được những chi tiết và câu
chuyện của bốn vị trong đại gia đình chúng tôi nhưng cô đồng phải là một
đại minh tinh màn bạc mới có thể diễn tả được những điệu bộ (body
language), nét mặt, giọng nói… ăn khớp (match) với phần đối thoại của
từng vong linh một. Vì lý do đó mà tôi không còn nghi ngờ gì về phần
“đóng kịch” của cô đồng nữa!
Điều mà tôi thắc mắc:
– Làm sao mà vong linh “nhập” vào cô đồng để mà trò truyện cùng chúng tôi?
– Làm sao mà mẹ tôi và anh tôi biết được nhiều chuyện riêng tư của
gia đình và hai con trai của tôi trong những năm gần đây vì cả hai người
đã khuất bóng khi tôi mới 13 tuổi đời?
– Làm sao mà cha tôi biết được cháu nội đích tôn của tôi (“chắt nội”
của cụ mới sinh tại Canada năm 2005, 6 tháng trước gọi hồn) vì cha tôi
đã nói trong lúc gọi hồn: ”Cụ vẫn thường tới thăm thằng chắt nội!”
Tôi tự kiếm câu trả lời nhưng tìm chưa ra. Cho tới vài năm sau đó,
tôi mới thực sự đi tìm kiếm trong “Google search” các bài viết về gọi
hồn của Việt Nam và tây phương mà đọc với hy vọng sẽ tìm ra được nhiều
câu trả lời cho hợp lý, hợp tình.
Gần đây, tôi đă may mắn đọc được nhiều bài viết về tâm linh của nhiều
khoa học gia lỗi lạc tây phương như BS Ian Stevenson, BS Brian Weiss,
TS Raymond Moody, BS Walter Semkiw … Càng đọc, tôi càng thấy bị lôi cuốn
vì có nhiều khía cạnh được “gãi đúng chỗ ngứa”! Đây cũng là một động
lực đã thôi thúc tôi phải ngồi xuống để viết ra bằng tiếng Việt những
bài viết về tâm linh, tiền kiếp, gọi hồn… mà tôi vừa mới đọc xong. Tuy
nhiên, người viết bị thiệt thòi về phần xác thân: hay bị “nàng lưng sửa
lưng” mỗi khi nàng …lên cơn… đau… lưng!
Đành chỉ biết “dải thờ”, thở dài: “Pain in the back!” -:)))
Trước khi tiếp tục viết về “Gọi hồn” của Việt Nam và Âu Mỹ, người viết xin định nghĩa một vài danh từ cho chính xác.
Cô đồng/Ông đồng/Nhà ngoại cảm hồn-linh
(Medium hay Channeler): người có khả năng dùng linh hồn (soul) của
chính họ để liên lạc trực tiếp với vong linh (spirit) của người chết qua
tính cách thần giao cách cảm (telepathy) như: – nghe thấy rõ (clairaudience), – nhìn thấy rõ (clairvoyance), – cảm-nhận thấy rõ (clairsentience)
những gì mà người chết/ người trong cõi vô hình muốn diễn tả. Người
chết có thể nói chuyện với người cõi trần qua miệng-lưỡi, vẻ mặt, cử
động chân tay của nhà ngoại cảm hồn-linh.
Gọi hồn / Cầu hồn (Trance
Mediumship hay Trance Channeling): cuộc đối thoại giữa người cõi trần
(sitter) với vong linh của người chết (spirit) qua cô đồng/ông đồng/nhà
ngoại cảm hồn-linh trong lúc gọi hồn (mediumship, trance channeling). Cô
đồng/ông đồng/nhà ngoại cảm hồn – linh (viết tắt là NNCHL)
phải ngồi thiền trước khi nhập cuộc (trance) để giúp cho vong linh
người chết (spirit) nhập vào thân xác của họ (NNCHL) để nói chuyện trực
tiếp với người cõi trần (sitter). Trong lúc gọi hồn/cầu hồn (reading
session), tuy rằng NNCHL vẫn còn tỉnh táo (conscious) nhưng tính tình
(personality), bản ngã (ego)… của NNCHL tạm vắng mặt lúc đó. Vẻ mặt, lối
nói, nụ cười, điệu bộ chân tay của NNCHL lúc “hồn về” biểu lộ nhân cách
(personality), bản ngã (ego), điệu bộ… của người quá vãng. Phần lớn
những NNCHL tây phương “thứ thiệt” đều có trình độ học vấn khá cao và
cũng đã từng viết bài, viết sách ….
Các nhà ngoại cảm khác (psychics):
họ là những người có giác quan thứ sáu rất đặc biệt. Họ là những người
coi bói (bói bài tây, bói chỉ tay-tướng số …), người trình diễn ảo
thuật, người coi tử vi, nhà tiên tri, cô đồng/ông đồng, người lên đồng …
Nhiều thầy bói dựa vào tuổi tác, phái tính, cử chỉ (body language), tôn
giáo … của thân chủ để mà đoán mò rồi mớm lời người đi coi bói để xem
phản ứng của khách hàng ra sao (tiếng Anh là “cold reading”, tiếng Việt
là “đoán mò”), mục đích là để “lòe” và kiếm tiền mà thôi. Cũng vì lẽ đó
mà ít ai dám tin vào ngay cả những nhà ngoại cảm có tài (talented
psychics) và chân thực.
Xin mời quý vị theo dõi 3 videos về gọi hồn dưới đây:
- BS Walter Semkiv:
ông hiện là một nghiên cứu gia hàng đầu của Hoa Kỳ với rất nhiều bài
viết về Tái Sinh. Ông còn là chủ tịch của “Viện Khảo Cứu Tâm Linh Phối
hợp giữa Khoa học, Trực giác và Vong hồn” (Institute for the Integration
of Science, Intuition and Spirit).
- Kevin Ryerson:
Ông đồng/nhà ngoại cảm hồn-linh (trance channeler) hàng đầu của Hoa Kỳ,
tác giả của vài cuốn sách và đã từng xuất hiện trên TV qua nhiều “talk
shows”. Đặc biệt là Kevin Ryerson đã tiếp xúc được với sinh linh (Spirit Guide) Ahtun-Re. trong Youtube
Trong vòng hai năm qua, người phóng tác bài viết này (ĐTP) đã đọc trong
Internet thấy có bài viết khá hay: “Tiền kiếp của Tổng Thống Kennedy là
Tổng Thống Abraham Lincoln…” (xin xem Youtube ở phần cuối của bài viết)
và một số bài tương tự như vậy về sự tái sinh của nhiều nhân vật quan
trọng trong lịch sử.
Tuy đọc thấy khá hay nhưng tôi tự hỏi: “Làm sao họ biết được như vậy?”
cho nên tôi không tin. Thế rồi cách đây 3 tuần, tôi đã đọc được bài viết
về tiền kiếp của Bác Sĩ Walter Semkiw là Tổng Thống John Adams của Hoa
Kỳ do chính Bác Sĩ Walter Semkiw kể lại qua vụ gọi hồn (trance
mediumship). Nhà ngoại cảm hồn-linh là Kevin Ryerson, “hồn” về là Ahtun
Re (một vị quan đại thần của Ai Cập và trong 3300 năm vừa qua chưa trở
lại trần gian mà tôi đã mô tả trong bài trước) và người ngồi đồng
(sitter) là Bác Sĩ Semkiw.
Bác
Sĩ Semkiw đậu tối ưu văn bằng Bác sĩ Y Khoa tại đại học Illinois,
chuyên khoa về tai nạn trong công xưởng. Ông là một môn đệ của Bác Sĩ
Ian Stevenson chuyên môn khảo cứu về những trường hợp tái sinh.
Xin mời đọc:
CÂU CHUYỆN TÁI SINH CỦA TỔNG THỐNG JOHN ADAMS CỦA HOA KỲ
Một ngày mùa đông ảm đạm năm 1984, trong khi tôi (BS Walter Semkiw tự
thuật) đang thực tập Y Khoa tại Chicago, bạn tôi điện thoại cho biết một
nhà ngoại cảm đang có mặt tại một hiệu sách chuyên bán sách về siêu
hình (metaphysics).
Bản tính tôi hay hoài nghi những việc không có vẻ khoa học cho lắm nên
chưa có ý định gặp nhà ngoại cảm này. Nhưng rồi trời mùa đông lạnh lẽo,
buồn thảm lại chẳng có việc gì làm hơn là ngồi học, tôi quyết định “thì
cứ đi gặp xem sao, mất mát gì đâu. Cứ cho như là đi giải trí vậy!”
Trong buổi “gọi hồn” này (mediumship session), nhà ngoại cảm hồn-linh
(medium) ngồi thiền để mời các vong linh hướng dẫn viên (spirit guide)
“về” nói chuyện với tôi qua miệng lưỡi của nhà ngoại cảm. Những vong hồn
này nói cho tôi biết nhiều chuyện trong gia đình tôi rất đúng.
Họ cho tôi biết một trong hai kiếp trước của tôi: một kiếp đã xẩy ra
trong thời Cách Mạng Hoa Kỳ. Họ nói tiền kiếp của tôi là ông John Adams,
một nhà cách mạng Hoa Kỳ, sau đó ông ta đã trở thành Phó Tổng Thống
dưới thời Tổng Thống George Washington, rồi trở thành Tổng Thống thứ hai
của Hoa Kỳ. Tôi đã thường nghe các thầy/cô bói toán nói với khách hàng
rằng họ đã từng là những nhân vật quan trọng trong các kiếp trước, chỉ
là để chiều lòng khách hàng mà thôi. Tôi nghe nhưng chẳng tin gì hết,
rồi bỏ ngoài tai, cho nên trong 12 năm sau đó chẳng có ý định tìm hiểu
gì về ông Adams này hết.
TIẾNG VANG THẦN GIAO CÁCH CẢM TRONG TAI
Cuối năm 1995 tôi đi công tác y tế bên Hawaii cho Công Ty dầu lửa Unocal
76. Công ty này có khẩu hiệu “The Spirit of 1776″, có nghĩa là tinh
thần năm 1776 của cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ. (Spirit cũng còn có nghĩa là
vong hồn, hồn ma nữa). Khoảng giữa trưa, khi đang đứng đợi vài đồng
nghiệp ở công ty Unocal, bỗng dưng tôi nghe thấy một mệnh lệnh mà từ xưa
tới nay tôi chưa bao giờ nghe thấy. Mệnh lệnh là:
“HÃY TÌM HIỂU VỀ CUỘC ĐỜI CỦA ADAMS!”
Thú thực là từ xưa đến nay, tôi chưa hề bao giờ nghe thấy ai ra lệnh cho tôi hùng dũng đến như vậy.
Mệnh lệnh truyền qua lời nói rất rõ ràng, đích thực và oai nghiêm đến
nỗi tôi phải phải đi ngay đến một hiệu sách ở Honolulu tối hôm đó. Tôi
mua vài cuốn sách về cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ và John Adams. Nhớ lại hồi
gọi hồn vào năm 1984, các Vong Hồn Hướng Dẫn Viên đã cho biết nếu tôi
tìm hiểu kỹ càng về ông John Adams, tôi sẽ thấy ngay phần diện mạo, tính
nết và các thói quen của cả ông Adams và tôi nữa. Trong năm 1996, sau
khi tôi đã đọc hết các cuốn sách viết về ông Adams, tôi nhận thấy ông ta
và tôi rất giống nhau về tính nết, và cũng có những ưu và khuyết điểm
giống nhau nữa. Đặc biệt là hình ảnh của chúng tôi rất giống nhau trong
những bức hình ông ấy chụp trong Hội Nghị Hòa Đàm tại Paris sau khi
chiến tranh đã kết liễu.
MỐI TƯƠNG QUAN TIỀN KIẾP
Dần dần trong vài năm, tôi nhận diện được 60 nhân vật đã quen biết với
ông Adams. Dường như họ đều tái sinh trong kiếp này, cùng thời với tôi.
Giả dụ như em trai George của tôi là hậu thân của Peter Adams – người em
trai của John Adams. Nét mặt và tính nết cũng giống nhau.
Tôi còn cho rằng anh trai Leo của tôi – một Bác Sĩ chuyên khoa về xương –
là hiện thân của Bác Sĩ Cotton Tufts mà trong kiếp trước đã từng là bạn
của gia đình ông Adams. Bác Sĩ Tufts đã từng cai quản dịch vụ về tài
chính cho gia đình ông Adams khi họ phải đi xa. Leo – anh trai của tôi –
cũng đã trông nom về tiền bạc cho thân mẫu của chúng tôi nữa (trước khi
bà qua đời). Mãi trong vòng 2 năm sau đó, tôi vẫn trù trừ về vụ mình là
“hậu bối” của ông John Adams. Có nhiều diễn biến ăn khớp rất lạ lùng đã
xẩy đến cho tôi liên quan tới ông Adams.
Một trong những diễn biến kỳ lạ này liên quan đến trường hợp người nói
tiếng ngoại quốc mà chưa bao giờ học tiếng đó (xenoglossy).
Câu chuyện như sau:
Tôi có một người bạn gốc Nga tên là Igor sinh sống tại San Francisco.
Khi tôi đọc sách để tìm hiểu về ông Adams, tôi linh cảm thấy anh chàng
Igor này kiếp trước đã là một người Pháp bạn thân của ông John Adams khi
ông ta là Đại Sứ Hoa Kỳ ở Pháp. Khi tôi mới gặp Igor lần đầu tiên,
chúng tôi đã khá thân thiết với nhau. Igor có bộ dạng, cách ăn nói giống
như người Pháp vậy. Igor và người Pháp này đều thích nhạc và chơi nhạc.
Igor đã học dương cầm tại Nga và sau khi di dân sang Hoa Kỳ, ông ta
chơi Piano cho một công ty chuyên môn về các dịch vụ ballet tại New
York. Cả Igor lẫn người Pháp đều giỏi về các dịch vụ tài chính. Mà thực
ra, Igor rất thành công về mua bán cổ phần thương mại (chơi “stocks”).
LỜI NHẮN QUA THẦN GIAO CÁCH CẢM ĐÃ DẪN LỐI ĐẾN VỤ NÓI TIẾNG NGOẠI QUỐC MÀ CHƯA HỀ HỌC HỎI (XENOGLOSSY)
Mặc dù chúng tôi thân nhau, nhưng tôi không hề cho Igor biết giả thuyết
của tôi về kiếp trước của ông ta, bởi vì ông ta là một người vô thần
(atheist) và tôi cũng thừa biết rằng ông ta không hề tin có kiếp sau.
Một đêm tôi gặp người bạn gái của Igor tên là Holly trong bếp của căn hộ
của Igor. Holly sinh sống tại Seattle, họ quen nhau mới có sáu tháng và
đây là lần đầu tiên tôi gặp Holly. Tự dưng tôi linh cảm thấy tôi đang
nhận được một lời nhắn thần giao cách cảm (telepathic message), có thể
nói rằng đó là một lời-nhắn- không-qua-lời-nói (Voiceless voice) – một
từ ngữ đã do tác giả Neale Donald Walsh đặt ra trong những bài viết dưới
chủ đề “Đàm Thoại với Thượng Đế”. Tuy rằng tôi không hề hay biết lời
dặn này từ đâu tới, tôi chỉ biết lời nhắn đó như sau: “Hãy nói cho họ
biết, nói ngay bây giờ!” Tôi biết ngay là tôi phải nói cho Igor và Holly
biết kiếp trước Igor là người Pháp, mặc dù tôi cũng chẳng hiểu tại sao
tôi lại phải nói cho Igor biết ngay trong lúc đó. Tôi do dự và tự nghĩ:
“Tại sao lại phải nói cho Igor biết ngay bây giờ? Tôi đã có cơ hội nói
cho Igor biết trong năm ngoái cơ mà. Vả lại hắn cũng chẳng bao giờ tin
như vậy đâu!” Tuy nhiên tôi miễn cưỡng nói với Igor và Holly biết rằng
tôi cảm nhận thấy rằng Igor đã là một người Pháp trong hồi Cách Mạng Hoa
Kỳ.
NÓI TIẾNG NGOẠI NGỮ MÀ CHẲNG HỀ HỌC – IGOR NÓI TIẾNG PHÁP KHI ĐANG NGỦ
Holly trả lời:” Trời đất ơi! Thật là lạ lùng. Igor nói tiếng Pháp trong
giấc ngủ”. Điều này Igor cũng công nhận là đúng. Igor còn cho biết rất
nhiều người khác cũng đã nghe ông ta nói tiếng Pháp khi đang ngủ. Igor
còn cho biết ông ta chưa bao giờ học tiếng Pháp nữa.
Khi còn thức, Igor không thể nói tiếng Pháp được. Dĩ nhiên là Igor chẳng
hề tin vào tâm linh gì hết nên chẳng chút quan tâm gì về vụ nói tiếng
Pháp. Riêng tôi (BS Walter Semkiw), tôi cảm thấy như bị sét đánh. Đây
đúng là hiện tượng “xenoglossy”: tự dưng con người nói một ngôn ngữ mà
chưa bao giờ học tới. Hiện tượng này phù hợp với giả thuyết của tôi về
Igor có liên hệ với gia đình ông Adams trong kiếp trước.
Dường như trước sự hiện diện của Holly, lời-
nhắn-không-do-người-nói-trong-đầu-óc của tôi đã thôi thúc tôi phải nói
cho Igor biết về tiền kiếp trong thời kỳ nói tiếng Pháp của ông ta. Đây
cũng là cơ hội để Holly xác nhận những lần Igor nói tiếng Pháp ban đêm
trong khi đang ngủ. Nếu không tôi chẳng có thể biết thêm gì về vụ
“xenoglossy” này được.
ĐI THĂM CÁC NHÀ NGOẠI CẢM: GIỚI THIỆU KEVIN RYERSON VÀ SIÊU LINH / HƯỚNG DẪN LINH AHTUN RE.
Trong lúc rảnh rỗi, tôi đi gặp vài nhà ngoại cảm (psychics) trong vùng
San Francisco (khu tôi ở). Họ đều khá nổi tiếng và tôi cũng muốn xem cho
biết.
Tôi đến thăm nhà ngoại cảm Michael Tamura, người quản lý Trung Tâm Ngoại
Cảm Berkely (The Berkely Psychic Center) đã 20 năm. Ông ta có khả năng
thần nhãn (nhìn thấy những điều mà con mắt trần gian không nhìn thấy
được, clairvoyance), điều này cũng tốt cho tôi mà thôi. Ông nói: “Đúng
rồi, kiếp trước ông là John Adams và bây giờ ông đang trở về cùng với
một số những Vị Lập Quốc của Hoa Kỳ đó”. Nghe rất bùi tai nhưng tôi
không tin. Tôi đến gặp vài nhà ngoại cảm khác, họ cũng nói tôi là hậu
thân của cố Tổng Thống John Adams. Tôi vẫn hoài nghi và tôi cho rằng họ
chỉ nói những gì tôi muốn nghe mà thôi. Thế rồi một người giới thiệu tôi
đến gặp nhà ngoại cảm hồn-linh/ ông đồng Kevin Ryerson đã từng làm việc
với Shirley MacLaine trong vòng 30 năm và bà này đã giới thiệu ông ta
qua mấy cuốn sách của bà ta.
SINH LINH (the Spirit Guide) / VONG HỒN THƯỢNG ĐẲNG AHTUN RE (Spirit Being)
Xin nhắc lại trong Youtube trên: người gọi hồn là BS Walter Semkiw, qua
“ông đồng” Kevin Ryerson. “Hồn về” mang tên Ahtun Re, gốc tích Ai Cập.
Ahtun Re cho biết “Hồn” đã trải qua nhiều kiếp người trần gian thế rồi
được “thăng quan, tiến chức” như Đức Phật, Jesus, Mohammed và rất nhiều
các vị Thầy/ Siêu Linh khác (Masters).
Khi nói chuyện với một “Vong linh Đại Thần Ai Cập” đã khuất núi hơn 3300
năm về trước và tuổi đời đã khoảng 7000 năm, tôi (BS Walter Selkiw) có
cảm giác như mình đang có mặt ở trong một chuyện thần kỳ vậy. Tuy nhiên,
tôi không bác bỏ nhưng cũng không tin cho lắm. Lúc ban đầu trong khi
gọi hồn này, tôi không tin là Ahtun Re đã nói đúng. Giống như nhiều
người khác và nhất là tôi là dân khoa học, tôi cần có bằng chứng đáng
tin cậy để chứng tỏ rằng Ahtun Re đã cho biết những tin tức xác thực.
DUYỆT QUA VÀI TRƯỜNG HỢP XẨY RA TRONG CUỘC CÁCH MẠNG HOA KỲ
Trước tiên chính Ahtun Re cũng xác nhận tôi là hậu kiếp của Tổng Thống
John Adams. Tôi đã duyệt xét cái danh sách gồm có 60 nhân vật của một
nhóm người trong thời Cách Mạng Hoa Kỳ. Tôi đã so sánh họ trong tiền
kiếp (hồi Cách Mạng Hoa Kỳ) và hậu kiếp (thời buổi bây giờ) mà tôi đã có
giả thuyết cho rằng họ đều trở lại trần gian trong thời kỳ cận đại này.
Tôi hỏi Ahtun Re từng trường hợp một để biết mình đúng hay sai. Tựu
chung “Hồn” cho biết tôi đã đúng được khoảng 80% trong việc so sánh theo
giả thuyết của tôi.
PHẦN MẬP MỜ TRONG LÚC SO
SÁNH ĐÃ KHẲNG ĐỊNH AHTUN RE LÀ MỘT VONG HỒN THƯỢNG ĐẲNG (Spirit Being)
HOÀN TOÀN KHÁC BIỆT VỚI KEVIN RYERSON.
Tuy nhiên tôi vẫn chưa có lý do thật chắc chắn nào để mà hoàn toàn tin
vào Ahtun Re được. Làm sao mà tôi kiểm chứng được những gì ông ta nói ra
là đúng?
Tôi vặn hỏi Ahtun Re về trường hợp so sánh giữa người A trong kiếp này
với người B trong kiếp trước hay ngược lại, không hề theo giả thuyết nào
của tôi hết. Sau khi hỏi như vậy, tôi mới thấy Ahtun Re đã nói ra ngay
tại chỗ về tiền kiếp của những người mà tôi đã hỏi, để rồi sau đó, khi
tôi đi tìm tài liệu để kiểm chứng, tôi mới thấy ông ta đã nói rất đúng.
Tôi khảo sát về những điều ông ta so sánh về khuôn mặt, tính nết, tài
năng của những nhân vật ông ta đã mô tả cho tôi, tôi nhận thấy ông ta
nói rất đúng.
Đôi khi có nhiều nhân vật trong lịch sử, khi so sánh người kiếp trước và
người kiếp sau có nhiều điều mù mờ và khó có thể có được hồ sơ rõ ràng,
có nghĩa là Ahtun Re (hay Kevin Ryerson) cũng không thể so sánh họ được
trừ khi họ đã kiếm được tài liệu từ trung tâm Tâm Linh. Người ta gọi đó
Trung Tâm Tâm Linh, hay Trung Tâm Tài Liệu Akashic (mà
ĐTP đã nhắc tới trong loạt bài viết về “Người Nhớ Được Tiền Kiếp”). Có
người còn gọi nó là “Đầu Não Vũ Trụ” (Universal Mind) nữa.
( Muốn biết thêm chi tiết, xin mời Quý Vị vào đọc lại “Người Nhớ Được Tiền Kiếp” trong Link dưới đây:
SIÊU LINH (Spirit Guide/Spirit Being) AHTUN RE LÀ MỘT CUỐN TỰ VỊ KHỔNG LỒ TRƯỚC KHI CHÚNG TA CÓ DỊCH VỤ “GOOGLE SEARCH”
Trong năm 2001, phương tiện tìm tài liệu (search engines) như Google hãy
còn đơn sơ lắm và cũng ít ai dùng đến nó. Sau khi Ahtun Re cho tôi (BS
Walter Semkiw) biết nhiều mẩu tin để tìm kiếm và đọc thêm cho biết, tôi
đã phải đi ra thư viện theo lối ngày xưa để kiếm sách mà đọc. Tuy nhiên,
các thư viện thường ít có tài liệu để tra khảo. Điều này đã làm tôi suy
nghĩ: sự hiểu biết của Ahtun Re thật quá lớn lao so với Kevin Ryerson.
Tuy nhiên, Kevin Ryerson còn hiểu biết hơn người thường rất nhiều.
SIÊU LINH MACPHERSON NHẬN XÉT VỀ SHIRLEY MACLAINE VÀ WALTER SEMKIW QUA LỐI NHÌN TỪ CÕI VONG LINH (Spirit Realm)
Tiện đây tôi (Walter Semkiw) muốn kể cho quý vị nghe về các vong linh
bậc Thầy/Siêu Linh nhập vào Kevin cho biết họ vẫn thường theo dõi các
diễn biến trần gian. Theo cuốn sách “Các Nhà Cách Mạng Đã Trở Về”,
Shirley MacLaine đã được tái sinh: trong kiếp trước bà là một nhà Cách
Mạng Hoa Kỳ đã từng ký tên vào tờ Tuyên Ngôn Độc Lập (Declaration of
Independence). Cả tiền thân lẫn hậu thân (của Shirley MacLaine) đã được
Siêu Linh Ahtun Re xác nhận. Bà MacLaine đồng ý cho tôi viết về bà mặc
dù bà chưa hề biết tôi trước khi tôi gặp bà trong ngày bà ra mắt sách.
Vài tháng sau khi ra mắt cuốn “Các Nhà Cách Mạng Đã Trở Về”, bà MacLaine
tổ chức các cuộc hội thảo tại Trường Mỹ Thuật ở San Fransico vào tháng
10 năm 2003. Đây là dịp đầu tiên mà tôi gặp bà ta. Vài tháng trước đó,
tôi được Kevin cho biết Shirley MacLaine đã ngồi đồng cùng với Kevin và
Ahtun Re.
SINH LINH AHTUN RE GÓP Ý KIẾN VỚI TÔI NÊN TẶNG QUÀ NHƯ THẾ NÀO CHO SHIRLEY MACLAINE
Qua cuộc nói chuyện bằng phôn với Kevin Ryerson trước hôm họp
mặt, Kevin sẽ ngồi đồng tại Portland, Oregan, nơi ông ta cư ngụ. Trong
buổi gọi hồn này, tôi hỏi Ahtun Re tôi có nên mang quà tặng cho Shirley
không? Ahtun Re nói qua giọng rất trầm, dặn tôi nên tặng bà ấy một cái
áo T Shirt có hình Shirley là một nhà Cách Mạng ở phía trước, với giòng
chữ: “Kiếp sau, tôi trở thành Shirley MacLaine”.
Đằng sau áo T Shirt, Ahtun Re dặn tôi nên đề giòng chữ nổi như sau:
“Đã cả trăm lần tái sinh để rồi cuối cùng chỉ nhận được một cái T Shirt cà chớn này sao?”
Ahtun Re không những biết được ai là ai trong kiếp này, kiếp khác, mà
siêu linh còn thích nói dỡn chơi nữa. May quá, thật không ngờ được: ngay
ngày hôm sau, họ đã làm xong cho tôi một cái áo T Shirt y như vậy.
Sau phần họp buổi sáng, tôi đến gặp Shirley MacLaine và tự giới thiệu
trong buổi ăn trưa. Thật không ngờ, trong buổi họp ban chiều, MacLaine
đã mời tôi lên sân khấu cùng với bà ta.
WALTER LUỐNG CUỐNG TRÊN SÂN KHẤU VỚI SHIRLEY MACLAINE VÀ THẨY MICROPHONE NHƯ TRÁI BANH TỪ TAY NÀY SANG TAY KIA
Trong vòng 2 tiếng đồng hồ, MacLaine nói chuyện với tôi trước khán giả
khoảng 300 người về những câu chuyện tái sinh, cuốn sách của tôi và
trường hợp tái sinh của bà ta. Mặc dù tôi đã quen nói chuyện trước công
chúng rồi, nhưng tôi cảm thấy rụt rè khi nói chuyện với một đại minh
tinh màn bạc. Tôi bối rối đến nỗi bàn tay phải của tôi bóp chặt cái
microphone, chặt đến nỗi tay tôi tê luôn, phải chuyền nó qua tay trái.
Rồi tay trái cũng tê luôn và chuyền lại qua tay phải. Cứ như thế mà tiếp
tục chuyền từ tay này sang tay kia trong suốt hai tiếng đồng hồ!
SIÊU LINH MACPHERSON QUAN SÁT SHIRLEY VÀ WALTER TỪ CÕI LINH ĐÀNG (Spirit Realm)
Điều không thể tưởng tượng được: các siêu linh “về” qua ngả nhà ngoại
cảm Kevin Ryerson đã quan sát mọi điều trong lúc “gọi hồn” này.
Vong linh hướng dẫn viên mang tên Tom Macpherson đã nhập vào Kevin
Ryerson để nói chuyện với Shirley MacLaine. MacPherson và MacLaine đã
nói chuyện với nhau rất nhiều về kịch nghệ. Kiếp trước, MacPherson đã
từng là một diễn viên trong nhóm kịch của Shakespeare và MacLaine ngày
nay là một diễn viên màn bạc rất nổi tiếng. Qua miệng lưỡi Kevin, Tom
MacPherson đã nói với tôi trên sân khấu, trước mặt các khán giả: “Này,
‘Cậu’ (dịch từ chữ “Laddy”, danh từ mà dân đàn ông Irish hay gọi nhau),
đã gặp và nói chuyện vui vẻ với nàng tóc đỏ chứ?”
Nàng tóc đỏ mà Tom nói đến là tài tử màn bạc Shirley MacLaine. Tôi trả
lời Tom M là tôi vui mừng được đứng trên sân khấu với Shirley M. Tom nói
liền: “Thế nhưng ‘Tớ’ thấy ‘Cậu’ khá ‘nẹc vơ’ đấy, cứ lâu lâu ‘Cậu’ lại
phải chuyển cái Microphone từ tay này sang tay khác đấy!”
Về sau, khi tôi hỏi nhà ngoại cảm hồn-linh Kevin R về vụ này. Kevin R
cho biết không hề biết gì về vụ “microphone” của tôi hết khi tôi đang ở
trên sân khấu với Shirley. Hóa ra các siêu linh, khi nhập vào Kevin để
đối thoại với khách “ngồi đồng” còn có thể nhìn thấy những gì đang xẩy
ra trong khi Kevin đang “gọi hồn” ở bất cứ nơi nào.
HAI NGƯỜI BẠN THÂN CỦA TÔI: KEVIN RYERSON VÀ SIÊU LINH AHTUN RE
Sau nhiều lần cùng làm việc với nhau kể từ tháng 10 năm 2001, Kevin và
tôi trở thành đôi bạn thân. Từ năm 2001, cứ mỗi tháng tôi lại “ngồi
đồng” với “ông đồng” Kevin R và tôi cũng cảm nhận được tình bạn với siêu
linh Ahtun Re. Mỗi lần “gọi hồn” như vậy, Ahtun Re rất ân cần và thân
thiết với tôi giống như những khi người trần mắt thịt gọi điện thoại cho
nhau vậy. Chỉ có sự khác biệt là tôi nói chuyện với Ahtun Re qua cái
“điện thoại” tên là Kevin Ryerson mà thôi! Mac Pherson lâu lâu cũng “ghé
thăm”. Ahtun Re luôn luôn là nhân vật chính yếu để tôi học hỏi. Ahtun
Re và MacPherson có “cá tính” rất khác biệt, khác hẳn với tính nết của
Kevin.
Xin mời Quý Vị vào xem hình ảnh và đọc lời viết dưới đây về sự liên hệ giữa hai cố Tổng Thống Abraham Lincoln và John F. Kennedy
Thêm một điều nên biết về Hồ: khiếu âm nhạc Tàu như đấm vào tai...
Tôi đã có bài “Hơn 20 điều nên biết về Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh”
để phân biệt rõ Hồ Tàu với Nguyễn Sinh Coong. Rồi gần đây có tài liệu
có tài liệu của Cục lưu trữ của chính CSVN khẳng định Hồ Chí Minh là
thiếu tá tình báo tàu khựa Hồ Quang sinh 1901 - một người Tàu biết tiếng
Việt (quốc ngữ), chả dính lứu gì đến con ông Nguyễn Sinh Sắc ở xứ Nghệ
đã chết khoảng 1932 ở Hong Kong cả. Có vẻ như CSVN bắt đầu thấy không
“giấu phân” được nữa thì “bới phân ra ngửi”, chơi bài ngửa-bài cùn của
bọn hủi nhưng có hội có dao có súng: “Ừ, ‘cha già dân tộc’ của đảng
chúng tao là người Tàu đấy! Chúng mày làm gì được đảng Tàu chúng tao
nào?!...”
Hôm nay, đọc bài “Tư tưởng Hồ qua hòn đá” trên DLB của tác giả Nguyễn Bá Chổi và bài “Hồ Chí Minh! Ông là ai?” trên CXN của tác giả Không Nói Được, thấy tức cười cho Hồ và cho cả cái đất nước “nâng bi Hồ” vì sợ cộng sản VN này quá.
Về bài “tư tưởng hòn đá” của bác Chổi, tất nhiên là tôi cũng đã bị nhồi
phải thuộc bài thơ “tuyệt tác” này của Hồ từ nhỏ, thậm chí bị nghe người
ta phổ nhạc và hét nó ra rả nữa. Một cô giáo chủ nhiệm lớp 5 của tôi
ngày xưa còn dàn dựng và bắt bọn tôi đóng vở kịch “khiêng đá” nữa kia!
May mà tôi nhận luôn là mình diễn xuất kém nên không được vinh dự
“khiêng đá”. Tóm lại, bé tí như tôi hồi đó còn thấy và chê “bài thơ dở
ẹc mà cũng ca với kịch, con làm thơ hay hơn nhiều!”, ba tôi chỉ cười,
chị tôi trợn mắt; “thơ bác đó em...” Nhưng hồi đó tôi chưa nghĩ là Hồ đã
cuỗm ý cho bài thơ từ một câu châm ngôn ngạn ngữ nào đó của dân tộc Hẹ
hay một vùng dân nào đó của Tàu mà từ đó hồi nhỏ Hồ được dạy, khi đóng
vai “cha già dân tộc” rồi Hồ cố tận dụng nó để bịp bợm dân Việt (nhưng
đã làm cho nó tệ hơn vì ngạn ngữ - wisdoms phải ngắn gọn súc tích như
viên kim cương mà bị Hồ vì ngu dốt lại đập vỡ cấu trúc của nó ra rồi dán
keo lại cho dài hơn, thành “bài thơ hòn đá” của Hồ chứa “tư tưởng
lớn”... sic!)… Và CSVN có đại tác phẩm... hòn đá to!
Bài viết của bác Chổi còn làm tôi nhớ đến một bài hát yêu thích duy nhất
của Hồ nữa, cũng kiểu “tư tưởng hòn đá”, rất hiển nhiên và ai cũng biết
đó, cái cũng từng làm khổ tai (đau tai, nhức óc) chúng tôi rất nhiều,
vì nó rất lủng củng và cục súc, nghe như ai đấm vào tai vậy (cả nhạc và
lời). Đó là bài hát “Kết đoàn” của Tàu cộng mà lẽ ra tôi nên cho vào
thêm trong “Hơn 20 điều nên biết về Hồ...” – điều này là về khiếu âm nhạc Tàu “như đấm vào tai” của Hồ, mà lúc đó lại chưa nghĩ đến…
Phải nói, kẻ có khiếu âm nhạc rất kém như tôi cũng rất khó chịu với bài
“kết đoàn” của Tàu, hay âm nhạc Tàu nói chung, nhất là âm nhạc CS Tàu,
thì Hồ phải có khiếu âm nhạc “củ chuối” thế nào mới lấy bài này làm “tủ
một ngăn” đi đâu cũng chỉ một bài đó khoe ra, để mị dân. Lẽ ra, là “cha
già dân tộc Việt”, dù “cha dổm” đi nữa, thì bài hát tủ của “cha già”
khoe ra cũng phải là bài hát Việt chứ, hà Hồ hán gian?! Nhưng không, áo
Tàu vẫn lộ đuôi Tàu.
Nói chung, tôi chưa thấy một nhạc sĩ VN nào mê nhạc Tàu nói chung, chứ
chưa nói đến thứ nhạc luôn “như đấm vào tai” của CS Tàu. Âm nhạc của
CSVN, phải công nhận, với những Văn Cao, Phạm Tuyên, Văn Tý, Phan Huỳnh
Điểu... lại rất hay, vì họ được đào tạo bởi văn hóa và âm nhạc Pháp, sau
này là Nga (còn đỡ hơn Tàu). Vì thế mà bài “kết đoàn” của Hồ Tàu không
có chỗ đứng ỏ VN sau thời 50-60 của Hồ. Thế mà, gần đây Hội Âm nhạc-Nhạc
sĩ VN lại muốn chọn bài đấm vào tai là “Kết đoàn” làm bài hát chính
thức của Hội mình, thì là họ muốn công khai thừa nhận ba điều: Cha già
dân tộc của họ là Tàu, Hội Âm nhạc VN chỉ là chi nhánh của Hội Tàu mà
thôi, và độ trơ âm nhạc của họ đã vượt qua trình độ “đấm vào tai” của Hồ
tàu, họ không còn xứng với các bậc tiền bối.
Còn bài viết “Hồ Chí Minh! Ông là ai?” của bác Không Nói Được thì có ý này tôi không đồng ý được, nhưng vẫn nói được ra, là:
“Do vậy, việc tìm hiểu ông Hồ Chí Minh có phải là một ủy viên tình
báo Trung Quốc cài đặt hay không, không còn quan trọng trong tình thế
hiện nay. Vì nếu thật sự ông là người Trung Quốc đi nữa và nếu ông có
sống lại đi nữa, ông cũng không thể làm hơn những gì đảng cộng sản Việt
Nam đã và đang thực hiện trong công cuộc đưa nước Việt Nam vào sự lệ
thuộc về mọi mặt đối với chính quyền Bắc Kinh như mọi người đã thấy.” (ht)
Tuy nhiên, tác giả vẫn tự mâu thuẫn với điều trên khi nói: “Tuy vậy,
chúng ta cũng nên biết ông Hồ Chí Minh là ai?” Và :“Vì nếu ông Hồ Chí
Minh mà họ tôn thờ như một thánh tổ là người của tình báo Trung Quốc thì
đảng Cộng sản Việt Nam sẽ bị huỷ diệt trong giây phút.” (ht)
Đúng vậy. Tôi xin nhắc lại quan điểm đã nói rõ nhiều lần, rằng chúng ta
cần biết rõ ngay (càng sớm càng tốt) HCM là ai, bởi vì nếu HCM là Tàu
(điều hôm nay ngày càng có khả năng cao hơn, đã đến trên 90% số trí thức
bắt đầu nghi ngờ Hồ là Tàu rồi, không còn 50/50 nữa) thì đảng CSVN sẽ
tan rã trong mắt dân VN trong phút chốc - và đó là điều chúng ta cần
nhất cho phong trào đấu tranh Dân chủ cho VN hôm nay: CSVN sụp đổ. Còn
gì tốt hơn cho Dân chủ, cho nước Việt và dân tộc Việt là CSVN tự sụp đổ
trong phút chốc khi thần tượng của số đông những kẻ bị mê muội - những
đảng viên cấp thấp và dân ngu thôi - sụp đổ?
Tại sao điều đó quan trọng thế? Là vì nếu Hồ đã trần truồng là người Tàu
trước cả 93 triệu người Việt trên khắp thế giới thì người Việt cũng sẽ
nhìn ra ngay cả một hệ thống mạng lưới tình báo gián điệp Tàu đông đảo
và chằng chịt với gốc rễ nhiều đời đan chéo nhau trong đảng CSVN và
chính quyền, trong xã hội của CSVN hiện nay - và cái mạng lưới gián điệp
Tàu đó cũng phải bị lột ra và cuốn xéo về Tàu! Từ đó, dân tộc Việt Nam
mới có thể có Độc lập, từ Độc lập mới có Tự do của Con người, và chỉ
những Con người VN Tự do đó mới có thể vươn lên Thành công Hạnh phúc, xã
hội Thịnh vượng.
Vì thế, bài viết này của tôi chỉ là thêm một hòn sỏi nhỏ cần thiết đặt
lên phía chứng minh Hồ là Hán gian trên đất Việt, việc mà tôi đang và sẽ
còn làm cho đến cùng, ngã ngũ, dù tôi vẫn có thể sai.
Về bài “Kết đoàn” của Tàu
Trên trang cá nhân của Nguyễn Phúc Kỳ, tôi “lượm” được (cảm ơn bác/bạn NPK!):
"Đoàn kết là sức mạnh" Mục Hồng viết lời, Lư Túc phổ nhạc, ra đời tại
một ngôi làng nhỏ thuộc Khu Hoàng Nê, huyện Bình Sơn, Biên khu Tấn Sát
Kí vào 6.1943. Để phản đối giặc Nhật tới Biên khu cướp lương thực, thực
hành chính sách điên cuồng "cướp sạch, giết sạch, đốt sạch", Đoàn phục
vụ mặt trận Tây Bắc thâm nhập vào Bình Sơn, Hà Bắc cùng tham gia đấu
tranh với đông đảo quần chúng ở Phần Trĩ, Sơn Tây. Để phối hợp với cuộc
đấu tranh này, các đồng chí Mục Hồng và Lư Túc đã cùng nhau cấp tập sáng
tác trong khoảng 3-4 ngày vở ca kịch nhỏ "Đoàn kết là sức mạnh". Trong
quá trình tập vở ca kịch này, mọi người cảm thấy tình tiết kịch vẫn còn,
tức cảm thấy cần thêm chút bất ngờ ở phần kết thúc, để làm mất cảm giác
là đã chấm dứt. Họ tổng hợp ý kiến của mọi người lại và quyết định để
Mục Hồng viết lời, Lư Túc phổ nhạc, làm thêm một màn kết thúc cho vở ca
kịch, thế là bài hát kinh điển nổi tiếng "Đoàn kết là sức mạnh" đã được
ra đời như vậy đấy.
*) Nguyên văn lời bài hát:
团结就是力量,
团结就是力量,
这力量是铁,
这力量是钢,
比铁还硬,
比钢还强,
向着法西斯帝开火,
让一切不民主的制度死亡!
向着太阳,
向着自由,
向着新中国
发出万丈光芒!
Dịch nguyên văn:
Đoàn kết là sức mạnh,
Đoàn kết là sức mạnh,
Sức mạnh này là sắt,
Sức mạnh này là gang,
Còn cứng hơn cả sắt,
Còn mạnh hơn cả gang,
Bắn vào đế quốc phát xít,
Cho tất cả chế độ bất dân chủ chết hết!
Hướng tới mặt trời,
Hướng tới tự do,
Hướng tới Trung Quốc mới
Phát ra hào quang muôn trượng!
*) Lời bài hát Kết đoàn tiếng Việt:
Kết đoàn chúng ta là sức mạnh
Kết đoàn chúng ta là sắt gang.
Đoàn kết ta bền vững.
Dù sắt hay là gang, mà sắt với gang còn kém bền vững.
Chúng ta thề đánh tan quân thù, thực dân,
Đế quốc, sài lang với phe phản động, ta đập tan hoang.
Tiến tiến mau mau cờ tự do đang reo hò trong ánh dương,
Xây đời mới trong dân chủ mới!
*) Mời nghe đại hợp xướng "Kết đoàn là sức mạnh" của TQ:
Và chúng ta cũng không khó khăn gì để tìm thấy vài tài liệu về “sự kiện
âm nhạc VN” tối ngày 3/9/1960 Hồ đã ngẫu hứng trước mặt cả khách quốc tế
(tôi đoán là học sinh sinh viên quốc tế thôi, hoặc một đoàn cán bộ CS
Tàu, các đồng chí của Hồ?) khi nhảy lên trước dàn nhạc công và hợp xướng
của sinh viên các trường đại học HN bắt nhịp bài “Kết đoàn” của Tàu:
“Hôm đó là tối 3/9/1960 tại công viên Bách Thảo, Hà Nội, Bộ Văn hóa
cùng thành phố Hà Nội tổ chức dạ hội chào mừng thành công của Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ III. Tham gia biểu diễn trong dạ hội gồm nhiều
đoàn nghệ thuật, nhiều đơn vị, mỗi đoàn được bố trí vào một sân khấu
biểu diễn riêng.
Sân khấu mà tôi tham gia biểu diễn gồm Dàn nhạc giao hưởng Việt Nam
với biên chế “4 quản”, gồm 114 nhạc công, có thể nói đây là dàn nhạc
giao hưởng lớn nhất từ trước tới nay của Việt Nam; cùng với dàn đại hợp
xướng (800 người), đây là hợp xướng tập hợp bởi sinh viên của các trường
cao đẳng, đại học tại Hà Nội.
Bác đến hoàn toàn bất ngờ, chúng tôi không ai biết trước cả. Lúc đó
tôi là trưởng dàn nhạc, khoảng gần 20h, sắp sửa biểu diễn, hợp xướng và
dàn nhạc đã tập kết vào vị trí. Tôi đang chuẩn bị soạn tổng phổ, đũa chỉ
huy để lên giá nhạc cho chỉ huy Nguyễn Hữu Hiếu.
Bất ngờ, tôi nhìn thấy Bác Hồ đi cùng nhiều vị khách quốc tế. Tôi và
mọi người rất vui mừng, nhưng cũng rất lúng túng chưa biết xử trí ra sao
thì Bác và các vị khách nước ngoài đã đến trước dàn nhạc. Bác bảo tôi
ngồi xuống, rồi hỏi lớn mọi người: “Các cháu có biết bài Kết đoàn
không?”. Nhiều người đồng thanh: Thưa Bác có ạ! Sau đó Bác đứng lên bục
chỉ huy và cầm chiếc đũa mà tôi đã để sẵn trước đó.
Tôi vội đứng lên và nói lớn với dàn nhạc: Chúng ta cùng chơi “ton” đô.
Rồi dưới đũa chỉ huy của Bác, bài Kết đoàn vang lên, dàn đại hợp xướng
800 người hòa cùng dàn nhạc giao hưởng 114 người nhịp nhàng, hùng hồn...” - NS Phan Phúc kể. (ht)
Vài câu hỏi và suy luận
Về xuất xứ và “nghệ thuật” của bài hát thì rõ rồi: của Tàu khựa, và
không ngửi được. Nó sặc máu bắn giết kiểu Tàu, và sặc mùi Tàu trong từng
từ, từng câu, từng nhịp hồng hộc... Nào là “bắn vào đế quốc, phát xít”,
“cho tất cả... chết hết’, nào là “hướng tới mặt trời, hướng tới Trung quốc mới”, nào là “phát ra hào quang muôn trượng!” (sic!)
Tại sao bài hát đó không được phổ biến lắm ở VN mà Hồ vẫn ngẫu hứng nhảy
ra đòi làm nhạc trưởng cho dàn nhạc “chơi”, mà cả dàn nhạc (chuyên
nghiệp) thì lúng túng chơi không được? Vì không mấy ai biết bài “kết
đoàn” đó của Tàu (và vì nó dở ẹc nữa) nên Phan Phúc phải nhảy ra hướng
dẫn mọi người chơi mỗi tôn “đô” thôi, còn 800 sinh viên thì may mà biết
hát bài đó vì được các cán bộ “Việt- Tàu” nhồi nhét rồi trong sinh hoạt
đoàn đội rồi. Là vì nó rất phổ biến ở Tàu (nên Hồ biết), và Hồ muốn khoe
nó ở cả VN cho các đồng chí Tàu thấy, hay đơn giản là lấy le với khách
quốc tế? Một bài hát mà người hát tự hát, nhạc công chỉ chơi tôn đô
trưởng để đệm thì “nhạc trưởng” làm gì? Hắn chỉ lấy le vung tay khua đũa
loạn lên theo lời hát (mà hắn cũng biết) cho oai thôi... để chụp ảnh
thôi.
Nhưng câu hỏi chính của tôi ở đây là: Bài hát ra đời tháng 6/1943 bên Tàu, trong vùng chiến tranh du kích của Tàu cộng, thì Hồ nghe được và thuộc nó ở đâu và khi nào? Tại sao nó lại là bài hát duy nhất mà “cha già dân tộc” biết và mang ra khoe tài trước thiên hạ?
Thứ nhất, từ 1943 đến 1960, trên danh nghĩa thì Hồ ở VN, đã là “lãnh tụ
tối cao” CSVN rồi “cha già dân tộc VN” thì việc nếu Hồ tiếp xúc và biết
bài Kết đoàn ở VN sẽ được CSVN ghi lại chi tiết để nâng bi Hồ (như các
vụ Hồ đi rửa chân, vệ sinh ven đường thì các nơi đó cũng được dựng bia
kỷ niệm vậy...) - nhưng chúng ta tuyệt nhiên không thấy tài liệu nào nói
về Hồ và “âm nhạc cách mạng” nào, trừ lần Hồ chọn bài quốc ca trong
hang Pác Bó - lần đầu. Như vậy, khả năng Hồ học công khai bài này ở Việt
Nam rất ít.
Khả năng thứ hai là Hồ vẫn học ở VN nhưng chỉ nghe qua đài (radio) Bắc
Kinh (lén lút và không ai biết?). Điều này rất có thể, vì Hồ là một gián
điệp siêu hạng. Và thứ ba là Hồ phải tiếp xúc và học bài hát đó bên Tàu
và không có người Việt nào chứng kiến để “ca ngợi” sự kiện đó cả.
Như vậy, về địa điểm Hồ tiếp xúc và học được bài “Kết đoàn” là ở bên Tàu
và trong bối cảnh 100% của CS Tàu (không có người Việt nào biết), có
khả năng khá cao - nếu không, kẻ nào biết Hồ học hát “Kết đoàn” ở VN đã
rất tự hào phun ra rồi.
Về thời gian thì cũng có nhiều khả năng. Nếu Hồ biết bài “Kết đoàn”
trong 6 năm đầu của bài hát, tức trong chiến tranh của Tàu cộng, trước
1949, thì lúc đó chắc chắn Hồ chưa được vào vai “cha già dân tộc” ở VN,
vẫn chỉ là một cán bộ tuyên truyền và tình báo của Tàu cộng thôi. Trong
trường hợp này, Hồ “kết đoàn” chỉ là nhân viên tình báo Hoa Nam thứ hai
hoặc thứ ba sau này được cho vào vai “cha già dân tộc VN” từ trước 1960
mà thôi. Nếu nhìn kỹ ảnh Hồ đang “làm nhạc trưởng” năm 1960 chúng ta
thấy Hồ “kết đoàn” thấp hơn hẳn Hồ đọc Tuyên ngôn năm 1945 và Hồ đi Pháp
năm 1946 khoảng mươi phân.
Nếu Hồ tiếp xúc và học được bài “Kết đoàn” sau 1950 đến 1960 thì đó chỉ
có thể là trong các chuyến đi bí mật của Hồ về Tàu mà CSVN không có
người theo Hồ và không nắm rõ được, nên đã không “ghi vào lịch sử đảng”
CSVN được. Nhưng tôi tin khả năng này ít có hơn vì: khí đó Hồ già rồi -
gần 60, là kẻ quan trọng lắm rồi (ngang thành viên Bộ CT của CS Tàu),
những khi trốn về Tàu Hồ chỉ lo báo cáo cho Hoa Nam và Mao/Chu xong rồi
đi ăn chơi hưởng thụ gái gú chứ học các bài hát cách mạng để tuyên
truyền làm gì nữa - cái đó Hồ (Quang) đã phải học khi còn trẻ, là sĩ
quan tình báo tuyên truyền thôi - cùng với nữ đồng chí Lâm Y Lan chả
hạn. Vì đó cũng là thời gian bài hát đó thịnh hành bên Tàu (kháng Nhật).
Tôi nghiêng về khả năng thứ nhất, rằng Hồ “kết đoàn” đã học được bài hát
“Kết đoàn” ở bên Tàu khi còn trẻ và chưa là “cha già dân tộc Việt”, khi
còn đang là sĩ quan tuyên truyền - tình báo của Tàu cộng thôi, trong
khi đó đã có một Hồ Quang Tàu khác (người cao hơn) đang vào vai “cha già
dân tộc” ở VN rồi.
Đồng thời và như vậy chúng ta cũng đã trả lời câu hỏi tại sao Hồ chỉ có
một bài hát “tủ một ngăn” đó thôi? Là vì nó là kỷ niệm từ thời trẻ của
Hồ, có nhiều kỷ niệm Hồ gắn bó với nó trước khi sang VN vào vai HCM -
“cha già dân tộc”.
Kết
Chúng ta nhớ, lần thứ ba và là lần cuối cùng CSVN ghi nhận về nhu cầu và
khiếu âm nhạc của Hồ là đúng 9 năm sau, mấy ngày trước 3/9/1969, trong
khi hấp hối Hồ đã yêu cầu các y tá Tàu hát bài hát Tàu cho Hồ nghe, và
Hồ mãn nguyện... chết, kiểu Tàu!?
Điều đó không chỉ nói về khiếu âm nhạc Tàu của Hồ nữa, mà nói là về sự
gắn kết cội nguồn cá nhân với Tàu của Hồ rồi. Nói cách khác, đam mê âm
nhạc Tàu đã làm lộ đuôi cáo tàu của Hồ.
No comments:
Post a Comment